
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2024. ISBN: 978-604-82-8175-5
496
KHẢO SÁT QUÁ TRÌNH VẬN TẢI ẨM VÀO MÙA LŨ
TRÊN LƯU VỰC SÔNG ĐÀ GIAI ĐOẠN 1981-1990
Nguyễn Tiến Thành, Trần Khắc Thạc
Trường Đại học Thủy lợi, email: thanhnt@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Vận tải ẩm trong khí quyển là quá trình
quan trọng của hệ thống thời tiết khí hậu và
thường mang theo lượng lớn hơi nước từ các
vùng biển nhiệt đới, gây ra mưa lớn và lũ lụt
khi đổ bộ vào các khu vực đất liền. Khi có sự
tương tác của dòng ẩm này với dạng hình thế
thời tiết khác nhau như bão, địa hình thì có
thể gây ra một số hệ quả như (1) tăng lượng
mưa và kéo dài thời gian mưa; (2) tăng cường
độ gió; (3) nguy cơ sạt lở và trượt lở liên quan
tới lượng ẩm; (4) ảnh hưởng tới hoạt động
kinh tế, xã hội.
Cho tới nay, một số nghiên cứu điển hình
trên thế giới cũng như khu vực về mối quan hệ
này phải kể tới như ở Ấn Độ (Dhana Laskhmi
and Satyanarayana, 2020), Bắc Mỹ (Vallejo-
Bernal và cs, 2023), khu vực Đông Bắc vùng
Biển Ả Rập trong thời kỳ tiền gió mùa và thời
kỳ bắt đầu gió mùa (Howland và cs, 1980).
Simonds và cộng sự (1999) đã nghiên cứu quá
trình vận tải ẩm trong khí quyển và mối quan
hệ của nó với lượng mưa mùa hè ở Trung
Quốc cho thấy rằng cho thấy có 3 dòng vận tải
chính đến 2 khu vực nghiên cứu bao gồm: (1)
Dòng ẩm khí quyển do gió mùa Ấn Độ, hoàn
lưu gió Tây Nam rất mạnh mang hơi ẩm dồi
dào từ vùng biển Ả Rập vịnh Bengal vào phía
Nam tới Đông Nam Trung Quốc; (2) Dòng ẩm
do gió mùa Đông Nam Á qua rìa phía Tây của
Áp cao Tây Thái Bình Dương mang ẩm từ
vùng nhiệt đới Thái Bình Dương và Biển
Đông tới khu vực Đông Nam của Trung Quốc;
(3) Dòng ẩm bởi dòng gió tây vĩ độ trung bình.
Ở Việt Nam, một số nghiên cứu như Thuận
(2008) đã nghiên cứu quá trình dòng ẩm cho
khu vực Nam Bộ. Nghiên cứu đã cho thấy
lượng ẩm gây gây mưa trong mùa hè ở khu
vực Nam Bộ phần lớn có nguồn gốc từ vùng
vịnh Bengal và vùng Bắc Ấn Độ Dương,
thành phần khác yếu hơn là từ gió Đông Nam.
Thêm vào đó, Thăng và cs (2011) đã nghiên
cứu và tính toán phân bố hơi ẩm trong các lớp
khí quyển trên khu vực Bắc Bộ Việt Nam sử
dụng số liệu tái phân tích NCEP/NCAR cũng
chỉ ra, phần lớn lượng ẩm gây mưa trong mùa
hè ở khu vực Bắc Bộ chủ yếu do hoàn lưu gió
mùa Tây Nam có nguồn gốc từ vịnh Bengal
và Bắc Ấn Độ Dương.
Trong khi đó, sông Đà là sông lớn nhất
trong hệ thống sông Hồng. Sông chảy qua địa
phận của ba quốc gia là Trung Quốc, Lào và
Việt Nam. Với tổng diện tích lưu vực là 52,900
km2, phần lãnh thổ phía Trung Quốc chiếm
khoảng 47%, Lào chiếm khoảng 2% còn lại là
Việt Nam khoảng 51%. Lưu vực sông Đà có
dạng hình thuôn dài chạy dài từ 2040 đến
2500 độ vĩ Bắc và từ 10022 đến 10524 độ
kinh Đông với chiều dài lưu vực 690 km (phần
thuộc lãnh thổ Việt Nam là 380 km) và chiều
rộng bình quân lưu vực 76 km (phần trong
nước là 80 km). Mùa lũ trên dòng sông chính
thường kéo dài 5 tháng từ tháng 6-10 và trong
bối cảnh dị thường thời tiết, các trận mưa lũ
cực đoan thường xảy ra bất thường và khó dự
đoán. Đây cũng là nguyên nhân gây ảnh hưởng
bất lợi tới các vấn đề liên quan công tác vận
hành hệ thống hồ chứa hiệu quả, sinh kế, ổn
định xã hội và sức khỏe cộng đồng trên lưu
vực. Nhằm hướng tới phục vụ tốt hơn trong
công tác dự báo và cảnh báo mưa lũ, vận hành
hồ chứa đạt hiệu quả trong mùa lũ, nghiên cứu
này tập trung khảo sát quá trình vận tải ẩm vào
mùa lũ trên lưu vực sông Đà giai đoạn 1981-
1990, trong đó có các trận mưa lũ lớn trong các
năm 1983, 1985 và 1986.