
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
108
BÀI BÁO KHOA HỌC
MÔ PHỎNG DÀI HẠN DIỄN BIẾN ĐƯỜNG BỜ BIỂN QUẢNG HÙNG -
QUẢNG ĐẠI, SẦM SƠN SAU KHI TÔN TẠO
Lê Hải Trung1, Nguyễn Quang Đức Anh2, Nguyễn Trường Duy2
Tóm tắt: Ở phía Nam thành phố Sầm Sơn, đoạn bờ 900 m thuộc xã Quảng Hùng và Quảng Đại, tương
đối thẳng và ổn định mặc dù có hiện tượng bồi - xói đan xen theo mùa. Để tăng cường phát triển du
lịch, bài báo đề xuất giải pháp nuôi bãi nhân tạo kết hợp đê giảm sóng. GenCade được sử dụng để mô
phỏng dài hạn diễn biến đường bờ cho 4 phương án quy mô tôn tạo với chiều rộng bãi nổi PA1, 2 là 65
– 100m, PA3 là 40 – 60m và PA4 là 30 – 50m. Sau 10 năm, dù không bổ sung vật liệu nhưng các bãi bồi
vẫn được duy trì phía sau 4 đê giảm sóng tuy có xu hướng bị xói lở và thu hẹp dần. Với cùng lượng vật
liệu nuôi bãi như PA1 là 230.000 m3, PA2 bố trí 4 đê cách xa bờ nhất, 220 – 270m, nhưng đường bờ ổn
định trong suốt 10 năm và mức độ xói lở nhỏ hơn 3 PA còn lại. Kết quả nghiên cứu là cơ sở cần thiết
cho việc lựa chọn quy mô tôn tạo sao cho bãi biển được mở rộng, duy trì ổn định lâu dài đồng thời hạn
chế gây tác động tiêu cực như xói lở các khu vực lân cận.
Từ khoá: Diễn biến, đê giảm sóng, đường bờ, GenCade, nuôi bãi, xói lở.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ *
Là thành phố thuộc Thanh Hóa, Sầm Sơn là
một địa điểm du lịch văn hóa ngày càng phát triển.
Hiện tại, khoảng 3/5 chiều dài bãi biển mới được
khai thác trên tổng số 9 km đường bờ từ cửa sông
Mã tới Vụng Ngọc với nhiều bãi tắm đẹp. Địa
hình có sự phân hóa dọc theo đường bờ, góp phần
ảnh hưởng tới các quá trình xói lở - bồi tụ tương
đối phức tạp ở vùng biển Sầm Sơn. Đáng chú ý là
sau năm 2005, hiện tượng xói lở thường xảy ra do
triều cường kết hợp gió mùa lớn trong khoảng thời
gian từ tháng 8 năm trước tới tháng 2 năm sau
(Cường & Hùng, 2013).
Việc nghiên cứu các giải pháp tôn tạo, mở rộng
bãi biển luôn mang ý nghĩa thiết thực góp phần khai
thác tiềm năng và thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ
du lịch cho Sầm Sơn nói riêng và Thanh Hóa nói
chung. Đoạn bờ thuộc hai xã Quảng Hùng - Quảng
Đại tương đối thẳng và ổn định với mức độ bồi - xói
đan xen theo mùa khoảng 3-5m/ năm (Quân &
Hùng, 2016). Tuy nhiên, với mục tiêu phát triển các
khu du lịch giải trí, bãi biển hiện trạng hoàn toàn có
thể được tôn tạo, mở rộng bằng phương pháp nuôi
1 Khoa Công trình, Trường Đại học Thủy lợi
2 Viện Kỹ thuật công trình, Trường Đại học Thủy lợi
bãi nhân tạo kết hợp các đê giảm sóng, giữ cát (Linh
& nnk 2020). Trung và nnk (2022) khai thác mô
hình MIKE21 cùng các công thức thực nghiệm (Hsu
& Evans, 1989) để mô phỏng và dự đoán hiệu quả
của hệ thống đê giảm sóng. Để nối tiếp, bài báo này
sử dụng mô hình GenCade để tính toán diễn thế
đường bờ trong một thời gian dài sau khi tiến hành
tôn tạo, mở rộng bãi biển với 4 phương án quy mô
khác nhau.
Hình 1. Hiện trạng bờ biển xã Quảng Hùng –
Quảng Đại, thành phố Sầm Sơn
2. ĐỀ XUẤT QUY MÔ MỞ RỘNG BÃI BIỂN
Trung và nnk (2022) đề xuất và phân tích 3

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
109
phương án tôn tạo, bảo vệ 900 m bờ biển xã
Quảng Hùng và Quảng Đại. Với 8/11 tiêu chí
tích cực, phương án cụm 4 đê giảm sóng thể hiện
sự phù hợp hơn cả và đã được mô phỏng đánh
giá tác động tới thủy động lực (sóng, dòng chảy)
và địa hình đáy biển. Các đê được tính toán bố trí
không gian theo lý thuyết đường bờ cân bằng
tĩnh dựa trên hiện tượng nhiễu xạ giữa các đê
(Hsu & Evans, 1989). Mỗi đoạn đê có chiều dài
100 m, hai đoạn liên tiếp cách nhau 200 m,
khoảng cách giữa tuyến đê và đường bờ hiện tại
là 170 tới 200 m.
Hình 2. Bốn phương án mở rộng bãi biển Quảng Hùng – Quảng Đại, thành phố Sầm Sơn
Để chủ động mở rộng bãi, chúng tôi đề xuất bổ
sung vật liệu trực tiếp lên bãi biển hiện có, trong
vùng bảo vệ của đê giảm sóng. Hình 2 minh họa
bốn phương án quy mô tôn tạo, mở rộng với độ
dốc bãi trung bình 1/30, phù hợp và an toàn cho
hoạt động tắm biển, nghỉ dưỡng.
3. THIẾT LẬP MÔ HÌNH VÀ HIỆU
CHỈNH, KIỂM ĐỊNH
Mô hình GenCade (Hanson et al., 2011) có khả
năng mô phỏng diễn biến đường bờ và vận chuyển
bùn cát 1 chiều (1D). Mô hình tính toán được
dòng vận chuyển dọc bờ do sóng và hình thái
chuyển cát tự nhiên tại cửa sông thông qua một
phiên bản giản lược của mô hình Hồ chứa Cửa
sông (IRM) (Kraus, 2002); và diễn biến đường bờ
trong vài năm cho đến vài thập kỷ. GenCade mô
tả những công trình như mỏ hàn, tường biển, đê
chắn sóng, cùng những hoạt động như nuôi bãi,
nạo vét và những đặc điểm về cửa sông và sóng.
GenCade đã được ứng dụng để nghiên cứu diễn
biến đường bờ và vận chuyển bùn cát trong các dự
án nuôi bãi, điển hình như bãi biển Delaware
(Ding et al, 2021), Matagorda (Frey et al, 2012),
cửa sông St. Augustine ở Hoa Kỳ (Schrader et al,
2016) và đảo Saadiyat ở Ả Rập (Hamza et al,
2019). Chính vì vậy, bài báo sẽ sử dụng GenCade
để mô hình hóa chế độ vận chuyển bùn cát ở khu
vực Quảng Hùng – Quảng Đại trong thời gian dài.
Theo đó, diễn biến đường bờ sẽ được mô phỏng
cho 4 phương án mở rộng bãi biển.
3.1. Thiết lập mô hình
Mô hình GenCade yêu cầu tối thiểu các số liệu
cơ bản về đường bờ, bùn cát cũng như các yếu tố
thủy động lực trong khu vực, bao gồm: đường bờ
ban đầu; số liệu sóng; các thông tin về bước lưới;
bùn cát (Munger & Frey, 2015). Đối với cung bờ

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
110
tương đối thẳng như Quảng Hùng – Quảng Đại và
dòng bùn cát từ sông Đơ tương đối nhỏ, động lực
sóng chính là yếu tố ảnh hưởng chủ đạo đến diễn
biến đường bờ khu vực. Số liệu đường bờ gồm kết
quả các đợt khảo sát địa hình bổ sung các ảnh vệ
tinh Landsat, Sentinel. Ảnh vệ tinh Landsat-08 bờ
biển Quảng Hùng – Quảng Đại ngày 18/06/2013
được sử dụng để thiết lập mô hình (Hình 3 trái).
1/1/2005 1/1/2009 1/1/2013 1/1/2017 1/1/2021
0
2
4
6
8 Hs
Hs (m)
Chiều cao sóng biên mô hình GenCade
Hs (m)
1/1/2005 1/1/2009 1/1/2013 1/1/2017 1/1/2021
0
5
10
15
20
25 Tp
Chu kỳ sóng biên mô hình GenCade
Tp (m)
1/1/2005 1/1/2009 1/1/2013 1/1/2017 1/1/2021
0
80
160
240
320
400 Dir
Hướng sóng biên mô hình GenCade
Dir (m)
Hình 3. Ảnh Landsat-8 khu vực bờ biển Quảng Hùng – Quảng Đại (trái)
và số liệu sóng đặc trưng tại biên mô hình GenCade (phải)
Sóng nước sâu sử dụng bộ số liệu tái phân tích
từ gió NCEP bằng mô hình MIKE 21 trong thời
gian 12 năm từ 2005 đến 2017, tần suất 3 giờ/1 số
liệu (Hình 3 phải). Các tham số sóng nước sâu
được trích xuất tại độ sâu 20 m theo hệ tọa độ
UTM khu vực 48 (591107°N và 2178875°E). Kết
quả thí nghiệm xác định được đường kính trung
bình hạt bùn cát tại khu vực là D50 = 0,2 mm.
Để mô phỏng được chính xác diễn biến đường
bờ Quảng Hùng – Quảng Đại và đồng thời làm
giảm sai số ở 2 đầu cung bờ, nghiên cứu lựa chọn
thiết lập mô hình cho khu vực từ hạ lưu sông Đơ
đến hết địa phận xã Quảng Hải, huyện Quảng
Xương, Thanh Hóa. Mặt khác, cung bờ trên không
chịu ảnh hưởng của hệ thống đảo chắn ngoài khơi
cũng như hiện trạng chưa có công trình gây gián
đoạn dòng chảy dọc bờ. Do vậy, cả vùng mô
phỏng dùng hệ lưới với bước lưới mặc định 10 m
(Hình 4).
Hình 4. Giao diện GenCade mô phỏng diễn biến
đường bờ xã Quảng Hùng – Quảng Đại
Bảng 1 tổng hợp các thông số thiết lập điều
kiện mô hình gồm thời gian mô phỏng, thông số
bãi biển, điều kiện biên hướng biển (Seaward BC)
và điều kiện biên giữa (Lateral BC). Độ sâu giới
hạn vận chuyển bùn cát được tính dựa trên chiều
cao, chu kỳ sóng khu vực với công thức kinh
nghiệm của Birkemeier (1985).
CHÚ THÍCH:
Khu vực nghiên cứu
Điểm trích xuất sóng
Đường bờ ban đầu
N
a.
b.

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
111
Bảng 1. Bảng tổng hợp các thông số thiết lập mô hình
Điều kiện thiết lập Thông số Giá trị
Kích thước hạt bùn cát D50 (mm) 0,5
Chiều cao thềm trung bình BC (m) 2
Điều kiện bãi biển
Độ sâu giới hạn VCBC DC (m) 6
Bước thời gian Δt (h) 1
K1 0,3÷0,5
Hệ số hiệu chỉnh vận chuyển bùn cát dọc bờ K2 0,1÷0,4
Điều kiện biên hướng biển ISMOOTH 11
Điều kiện biên giữa Lateral BC Pinned
3.2. Hiệu chỉnh và kiểm định
GenCade được hiệu chỉnh bằng cách mô phỏng
trong một khoảng thời gian mà điều kiện ban đầu
và điều kiện cuối cùng của đường bờ được xác
định (đã xảy ra, có số liệu). Tiếp đó, diễn biến
đường bờ mô phỏng được so sánh với các phép đo
và các thông số hiệu chuẩn được điều chỉnh để cải
thiện sự thống nhất giữa mô hình và thực tế.
Tương tự, mô hình sẽ được kiểm định bằng cách
giữ các thông số hiệu chuẩn cuối cùng không đổi
để mô phỏng một giai đoạn khác mà điều kiện
cuối cùng đã được xác định.
Các hệ số thực nghiệm K1 và K2 trong
GenCade đóng vai trò quan trọng trong việc
đánh giá và dự đoán sự biến đổi đường bờ trong
thời gian dài (Frey et al, 2012). Dựa trên kinh
nghiệm lập mô hình, giá trị này được khuyến
nghị với 0 < K1 < 1 và 0,5K1 < K2 < 1,5K1
(Hanson, 1989). Để hiệu chỉnh, chúng tôi mô
phỏng diễn biến của đường bờ ban đầu năm
2013 (màu xanh lá, Hình 5) trong giai đoạn
2013 - 2014 với 20 cặp hệ số K1 và K2 rồi so
sánh với đường bờ thực tế trích xuất từ ảnh
Landsat 8 ngày 23/07/2014. Hình 6 cho thấy hệ
số K1 = 0,77 và K2 = 1,16 là phù hợp nhất đối
với Quảng Hùng – Quảng Đại với hệ số hiệu
quả của mô hình Nash là NSE = 0,996 và sai số
trung bình quân phương là RMSE = 6,99 m.
0 1000 2000 3000 4000 5000 6000
0
100
200
300
400
500
Vị trí đường bờ (m)
Khoảng cách (m)
Đường bờ 2013 (HT)
Đường bờ 2014 (MP)
Đường bờ 2014 (TĐ)
Diễn biến đường bờ hiện trạng sau 1 năm 2013 - 2014
2200 2400 2600 2800 3000
-20
-10
0
10
20
Biến đổi đường bờ (m)
Khoảng cách (m)
Biến đổi 2013-2014 (MP)
Biến đổi 2013-2014 (TĐ)
Xã Quảng Hùng - Quảng Đại
Hình 5. Kết quả hiệu chỉnh diễn biến đường bờ Quảng Hùng – Quảng Đại 2013 - 2014
Hình 6. Giá trị RMSE và NSE tương ứng 20 cặp hệ số K1, K2 của mô hình GenCade
N
S
Khu v
ực nghi
ên c
ứu

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
112
0 1000 2000 3000 4000 5000 6000
0
100
200
300
400
500
Vị trí đường bờ (m)
Khoảng cách (m)
Đường bờ 2020 (HT)
Đường bờ 2021 (MP)
Đường bờ 2021 (TĐ)
Diễn biến đường bờ hiện trạng sau 1 năm 2020 - 2021
2200 2400 2600 2800 3000
-20
-10
0
10
20
Biến đổi đường bờ (m)
Khoảng cách (m)
Biến đổi 2020-2021 (MP)
Biến đổi 2020-2021 (TĐ)
Xã Quảng Hùng - Quảng Đại
Hình 7. Kết quả kiểm định diễn biến đường bờ Quảng Hùng – Quảng Đại 2020 – 2021
Để kiểm định, chúng tôi mô phỏng giai đoạn
2020-2021 với các thông số được áp dụng chính xác
như với hiệu chỉnh. Sai số RMSE là 5,29m và hệ số
hiệu quả NSE đạt 0,998; đều thể hiện tốt hơn kết quả
hiệu chỉnh. Hình 7 thể hiện xu hướng hình thái khu
vực được duy trì trên toàn bộ chiều dài của bờ biển
sau 1 năm mô phỏng. Mặc dù sai số lớn nhất xảy ra
tại vị trí cửa biển (inlet) nhưng mô hình đủ độ tin
cậy để tiếp tục mô phỏng các kịch bản.
4. DIỄN BIẾN ĐƯỜNG BỜ SAU KHI TÔN
TẠO, MỞ RỘNG
4.1. Diễn biến đường bờ sau 1 năm
Hình 8 thể hiện kết quả mô phỏng đường bờ
Quảng Hùng – Quảng Đại sau 1 năm với 4
phương án tôn tạo, mở rộng bãi biển và không bổ
sung vật liệu. Do ảnh hưởng của 4 đê giảm sóng,
các bãi bồi dạng mũi đất hướng ra biển (tombolo/
salient) được hình thành trong cả 4 phương án.
Với bãi rộng 65 – 100 m (PA1 và PA2) thì đỉnh
vùng bồi có xu hướng phát triển ra xa bờ hơn là
trường hợp bãi rộng 40 – 60 m (PA3) và 30 – 50
m (PA4). Phương án PA2 có vị trí tuyến đê cách
bờ xa hơn khiến cho mức độ xói lở ở phía Nam
cũng hạn chế hơn so với PA3 và PA4.
0 1000 2000 3000 4000 5000 6000
0
100
200
300
400
500
Vị trí đường bờ (m)
Khoảng cách (m)
Diễn biến đường bờ hiện trạng/ tôn tạo bãi sau 1 năm (2021)
2000 2400 2800 3200
0
50
100
150
200
250
300
Vị trí đường bờ (m)
Khoảng cách (m)
Xã Quảng Hùng - Quảng Đại
CHÚ THÍCH
Đường bờ hiện
trạng
Đường bờ
PA1
Đường bờ
PA2
Đường bờ
PA3
Đường bờ
PA4
Đê giảm sóng
Hình 8. Kết quả mô phỏng diễn biến đường bờ Quảng Hùng – Quảng Đại trong 1 năm,
từ 2020 tới 2021 cho 4 phương án mở rộng bãi biển
Ở điều kiện hiện trạng, dòng bùn cát chủ yếu đi
từ Bắc xuống Nam gây xói lở khu vực phía Bắc.
Khi có đê kết hợp nuôi bãi, hiện tượng xói sau đê
vẫn xảy ra nhưng đường bờ mới vẫn cách đường
bờ biển hiện trạng 10 – 15 m ở PA2 và 10 – 30 m
với 3 phương án còn lại. Bề rộng đỉnh vùng bồi
vào khoảng 30 m và tiến ra phía biển 150 m ở
PA1 và PA2; với PA3 và PA4, do lượng cát nuôi
bãi nhỏ hơn nên vùng bồi chỉ phát triển 50 – 70 m
ra phía biển.
N
S
Khu v
ực nghi
ên c
ứu
N
S
1
2
3
4
1