ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TĂNG THÚY VY

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG TRONG SÁP NHẬP

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH : LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2014-LKD

HÀ NỘI - 2018

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ 1

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 2

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG

TRONG SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ

PHÁP LUẬT BẢO VỆ CỔ ĐÔNG TRONG SÁP NHẬP NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ............................................................................ 6

1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại ngân hàng thương mại cổ phần ..... 6

1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại cổ phần .......................................... 6

1.1.2. Đặc điểm của ngân hàng thương mại cổ phần .................................... 6

1.1.3. Phân loại ngân hàng thương mại cổ phần ........................................... 7

1.2. Khái niệm, phương thức sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần 7

1.2.1. Khái niệm sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần........................... 7

1.2.2. Các phương thức sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần ............... 9

1.3. Khái niệm cổ đông ngân hàng thương mại cổ phần và quyền của cổ

đông ngân hàng thương mại cổ phần .......................................................... 10

1.3.1. Khái niệm cổ đông ngân hàng thương mại cổ phần .......................... 10

1.3.2. Quyền của cổ đông của ngân hàng thương mại cổ phần ................... 11

1.4. Yêu cầu bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương mại cổ

phần ................................................................................................................ 11

1.5. Các cơ chế bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương mại cổ

phần ................................................................................................................ 13

1.5.1. Cơ chế tự bảo vệ ................................................................................. 14

1.5.2. Các thiết chế nội bộ ............................................................................ 14

1.5.3. Các thiết chế bên ngoài ...................................................................... 15

1.6. Pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương mại

cổ phần ........................................................................................................... 16

1.6.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần ......................................................................................... 16

1.6.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần ......................................................................................... 16

1.6.3. Nội dung pháp luật bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương

mại cổ phần ..................................................................................................... 17

Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 19

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG TRONG SÁP NHẬP NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM ................................... 20

2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần ở Việt Nam .................................................................. 20

2.1.1. Về điều kiện, trình tự, thủ tục sáp nhập ngân hàng thương mại cổ

phần ............................................................................................................ 20

2.1.2. Về các quyền của cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương mại cổ

phần ............................................................................................................ 22

2.1.3. Về thiết chế nội bộ bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương

mại cổ phần ..................................................................................................... 33

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân

hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam ........................................................ 36

2.2.1. Về thủ tục sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần ......................... 36

2.2.2. Về thực hiện các quyền của cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần ......................................................................................... 38

2.2.3. Về các thiết chế nội bộ bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần ......................................................................................... 47

Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 50

Chương 3: CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

BẢO VỆ CỔ ĐÔNG TRONG SÁP NHẬP CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM................................................. 51

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp

nhập ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam ..................................... 51

3.2. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập

ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam ................................................... 52

3.2.1. Về nguyên tắc định giá tài sản của ngân hàng thương mại cổ phần

trong quá trình sáp nhập ................................................................................. 52

3.2.2. Về thủ tục sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần ......................... 54

3.2.3. Về quyền tiếp cận thông tin của cổ đông liên quan đến sáp nhập ngân

hàng thương mại cổ phần ................................................................................ 54

3.2.4. Về các thiết chế nội bộ bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần ......................................................................................... 56

Tiểu kết Chương 3 ......................................................................................... 57

KẾT LUẬN .................................................................................................... 58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 59

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 63

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BKS Ban kiểm soát

ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông

HĐQT Hội đồng quản trị

LDN 2014 Luật doanh nghiệp năm 2014

Luật TCTD 2010 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010

NHNN Ngân hàng nhà nước

NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo tốc độ phát triển của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng đóng một

vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh tế diễn ra hằng ngày xung quanh

chúng ta và cũng trở thành nguồn thu hút lớn đối với các nhà đầu tư. Như một

quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, hoạt động mua bán và sáp nhập

ngân hàng đã xuất hiện trên thế giới từ những năm 1990 tại Mỹ và các nước

phát triển khác, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính kéo theo sự đổ vỡ của

một hoạt ngân hàng.

Tại Việt Nam, một số vụ sáp nhập ngân hàng đã diễn ra từ những năm

90 của thế kỉ XX nhằm mở rộng quy mô hoạt động cho các ngân hàng tham

gia sáp nhập. Tuy nhiên, giai đoạn này tại Việt Nam chưa xuất hiện một vụ

khủng hoảng tài chính thực sự nào. Những thương vụ sáp nhập ngân hàng đầu

tiên chưa lộ ra nhiều vấn đề pháp lý đáng chú ý. Đến cuối năm 2011, trước

những khó khăn của nền kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu năm 2008, hệ thống ngân hàng bộc lộ hàng loạt yếu kém. Vào

khoảng thời gian này, tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng cao và một loạt khoản

vay đổ vào bất động sản và chứng khoán. Hậu quả là thanh khoản của hệ

thống tổ chức tín dụng thiếu hụt nghiêm trọng, lãi suất liên ngân hàng tăng

cao, có thời điểm lên đến trên 30%/năm, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống, các

tỷ lệ an toàn vốn của từng ngân hàng và toàn hệ thống sụt giảm.... Trước

những bất ổn của hệ thống ngân hàng, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định

254/QĐ-TTg ngày 1-3-2012 thông qua Đề án 254 về “Cơ cấu lại hệ thống

các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Theo nội dung của Đề án, giải

pháp cơ cấu lại NHTMCP là khuyến khích sáp nhập các ngân hàng yếu kém

vào các ngân hàng có năng lực tài chính lành mạnh với mục tiêu tập trung

lành mạnh hóa tình trạng tài chính và củng cố năng lực hoạt động của các tổ

chức tín dụng; cải thiện mức độ an toàn và hiệu quả hoạt động của các tổ chức

2

tín dụng; nâng cao trật tự, kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động

ngân hàng. Đây cũng là lúc thị trường chứng kiến một loạt thương vụ sáp

nhập NHTMCP. Nối tiếp những kết quả thu được sau Đề án 254, tại Quyết

định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề

án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-

2020”. Theo đó, định hướng tái cơ cấu đối với NHTMCP là tiếp tục thúc đẩy

việc mua bán, sáp nhập trên cơ sở tự nguyện các tổ chức tín dụng thành các

định chế có quy mô lớn và quản trị tốt hơn, khuyến khích các định chế tài

chính nước ngoài sáp nhập NHTMCP yếu kém của Việt Nam.

Việc sáp nhập giữa các ngân hàng đồng nghĩa với việc chuyển giao các

quyền và nghĩa vụ trong hoạt động của ngân hàng bị sáp nhập ( bao gồm tài

sản, các khoản nợ cùng với quyền và nghĩa vụ đối với các chủ thể khác) sang

ngân hàng nhận sáp nhập. Các quyền và nghĩa vụ của cổ đông cả ngân hàng

bị sáp nhập và ngân hàng nhận sáp nhập sẽ bị ảnh hưởng bởi sự kế thừa giữa

hai chủ thể sáp nhập này. Từ đó, các vấn đề pháp lý cần đặt ra xung quanh

việc đảm bảo quyền lợi của các cổ đông trong quá trình sáp nhập giữa các

ngân hàng khi mà khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sáp nhập ngân hàng ở

Việt Nam vẫn còn chưa được hoàn thiện.

Bởi những lý do trên, em chọn đề tài “Pháp luật về bảo vệ cổ đông

trong sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam” làm đề tài khóa

luận tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của Khóa luận là đề xuất những kiến nghị nhằm

nâng cao hiệu quả bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP ở Việt Nam. Để

đạt được mục đích nghiên cứu đó, Khóa luận tập trung nghiên cứu với mục

tiêu như sau:

(1) Nghiên cứu những vấn đề lý luận về sáp nhập NHTMCP, quyền

của cổ đông, làm rõ yêu cầu bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP,

các cơ chế bảo vệ cổ đông và nội dung pháp luật bảo vệ cổ đông trong

sáp nhập NHTMCP.

3

(2) Nghiên cứu về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành quy

định pháp luật nhằm bảo vệ cổ đông trong hoạt động sáp nhập

NHTMCP.

(3) Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ cổ đông

trong hoạt động sáp nhập NHTMCP.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

(1) Sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho quá trình học tập và

nghiên cứu đối với lĩnh vực pháp lý có liên quan.

(2) Góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ cổ đông trong hoạt động sáp

nhập NHTMCP.

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật hiện hành nhằm đảm bảo lợi ích của

cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam và thực

trạng việc bảo vệ lợi ích của cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương mại cổ

phần tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận này tập trung nghiên cứu các vấn đề

pháp lý về bảo vệ cổ đông trong hoạt động sáp nhập ngân hàng tại Việt Nam,

với hình thức pháp lý của ngân hàng là NHTMCP và thông qua cơ chế tự bảo

vệ và thiết chế nội bộ. Trong phạm vi nghiên cứu, khóa luận tiếp cận pháp

luật bảo vệ cổ đông dựa vào các quy định của LDN 2014, Luật TCTD 2010,

Luật chứng khoán 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2010), Thông tư 04/2010/TT-

NHNN quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng, Thông tư

36/2015/TT-NHNN quy định việc tổ chức lại tổ chức tín dụng và các Luật,

nghị định, thông tư khác có liên quan.

5. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu nhằm làm sáng

tỏ những nội dung của đề tài bao gồm: phương pháp phân tích, phương pháp

tổng hợp, phương pháp luật học so sánh.

4

6. Kết cấu của Khóa luận

Kết cấu của khóa luận bao gồm ba chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần và pháp luật bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ cổ

đông trong sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam

Chương 3: Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông

trong quá trình sáp nhập các ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam

5

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG

TRONG SÁP NHẬP NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ

PHÁP LUẬT BẢO VỆ CỔ ĐÔNG TRONG SÁP NHẬP NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN

1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại ngân hàng thương mại cổ phần

1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại cổ phần

Ngân hàng thương mại ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển

của nền kinh tế và giao lưu hàng hóa, đóng vai trò quan trọng đối với nền

kinh tế. Các nhà kinh tế học định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những

trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền

và mở tài khoản trên tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi mà dựa vào đó có thế

sử dụng được những tờ séc”[13].

Dưới góc độ pháp lý, ngân hàng thương mại là một trong những loại

hình TCTD được thực hiện tất cả các hoạt động kinh doanh ngân hàng như

cho vay, tiết kiệm, kinh doanh các loại giấy tờ có giá, các dịch vụ khác liên

quan đến hoạt động ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận.

Về bản chất, ngân hàng thương mại cũng là một doanh nghiệp vì vậy

hình thức pháp lý của ngân hàng thương mại sẽ là một trong những hình thức

pháp lý của một doanh nghiệp thông thường.

Như vậy NHTMCP là loại hình tổ chức tín dụng được được thành lập,

tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần được thực hiện toàn bộ các nghiệp vụ

ngân hàng bao gồm nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán

và các hoạt động nghiệp vụ có liên quan.

1.1.2. Đặc điểm của ngân hàng thương mại cổ phần

Thứ nhất, vốn góp của NHTMCP được chia thành các phần bằng nhau

gọi là cổ phần và được phát hành dưới hình thức cổ phiếu. Cổ phiếu xác nhận

quyền sở hữu của cổ đông đối với phần tài sản tương ứng với tỉ lệ cổ phiếu họ

6

nắm giữa. Đồng thời, cổ phiếu xác nhận phần lợi nhuân được hưởng và quyền

chi phối điều hành của cổ đông.

Thứ hai, NHTMCP là loại hình tổ chức tín dụng kinh doanh nhằm mục

đích lợi nhuận, song vốn tự có thường không ổn định. Hoạt động kinh doanh

chủ yếu dựa trên vốn huy động từ xã hội, nhưng nguồn huy động này lại chịu

tác động từ nhiều yếu tố biến động như ổn định chính trị, tăng trưởng kinh

tế… hoặc đôi khi chỉ là hoạt động của một ngành, một lĩnh vực lớn như bất

động sản, chứng khoán… Chính vì vậy, hoạt động của NHTMCP thường

chứa đựng tính rủi ro cao. Do nhiều khoản nợ ngắn hạn nên rủi ro trong hoạt

động thường cao và dẫn đến hậu quả là ngân hàng đứng trước bờ vực phá sản.

1.1.3. Phân loại ngân hàng thương mại cổ phần

Các NHTMCP được phân loại theo hình thức sở hữu như sau:

Thứ nhất, loại hình NHTMCP tư nhân thành lập dưới sự góp vốn của

cá nhân hoặc pháp nhân trong đó một cá nhân hay pháp nhân chỉ được sở hữu

một số cổ phần nhất định

Thứ hai, loại hình NHTMCP có sự tham gia của cổ đông nhà nước.

Trong đó, nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần phát hành

Thứ ba, loại hình NHTMCP có vốn góp nước ngoài. Trong đó, cổ đông

nước ngoài nắm giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định theo quy định của pháp luật.

1.2. Khái niệm, phương thức sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần

1.2.1. Khái niệm sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần

Trên thế giới hiện nay, có nhiều khái niệm về sáp nhập được đưa ra

trong các tài liệu báo cáo, nghiên cứu, với những quan điểm khác nhau.

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia thì: “Sáp nhập là sự kết

hợp của hai hay nhiều công ty để tạo ra một công ty mới duy nhất có quy mô

lớn hơn. Sáp nhập thường do tự nguyện của các bên tham gia” [35].

Gaughan (2011) đưa ra định nghĩa “việc sáp nhập là một sự kết hợp

của hai công ty trong đó chỉ có một công ty tồn tại và các công ty còn lại

chấm dứt sự tồn tại” [22].

7

Andrew J. Sherman thì coi “sáp nhập là sự kết hợp của hai tổ chức có

sự tương đồng với nhau” [20].

Tác giả David L.Scott đưa ra định nghĩa về sáp nhập” “Sáp nhập hay

hợp nhất công ty là khái niệm để chỉ hai hoặc nhiều công ty thỏa thuận chia

sẻ tài sản, thị phần, thương hiệu với nhau để hình thành một công ty hoàn

toàn mới, với tên gọi mới, trong khi đó chấm dứt sự tồn tại của các công ty

cũ” [20].

Các quan điểm về sáp nhập trên thế giới vẫn có những sự khác biệt

nhưng nhìn chung sáp nhập là sự kết hợp của hai hay nhiều tổ chức để mở

rộng quy mô và hậu quả của sáp nhập là sự tồn tại duy nhất của một tổ chức.

Tại Việt Nam, định nghĩa về sáp nhập được đưa ra ở nhiều văn bản

Luật, cụ thể như sau:

Luật doanh nghiệp năm 2014 (LDN 2014) định nghĩa sáp nhập doanh

nghiệp là “Một hoặc một số công ty (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có

thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập)

bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang

công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp

nhập” (Khoản 1 Điều 195).

Luật cạnh tranh năm 2004 đưa ra khái niệm: “Sáp nhập doanh nghiệp

là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ

và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm

dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập” (Khoản 1 Điều 17).

Thông tư số 36/2015/TT-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2015 quy định

việc tổ chức lại tổ chức tín dụng (Thông tư 36/2015/TT-NHNN) có cách định

nghĩa “Sáp nhập tổ chức tín dụng là việc một hoặc một số tổ chức tín dụng

(sau đây gọi là tổ chức tín dụng bị sáp nhập) chuyển toàn bộ tài sản, quyền,

nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang một tổ chức tín dụng khác (sau đây gọi là

tổ chức tín dụng nhận sáp nhập), đồng thời chấm dứt sự tồn tại của tổ chức

tín dụng bị sáp nhập.”

8

Như vậy, sáp nhập NHTMCP được hiểu là sự chuyển giao toàn bộ tài

sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của ngân hàng bị sáp nhập sang ngân

hàng nhận sáp nhập và chấm dứt sự tồn tại của ngân hàng bị sáp nhập. Ngân

hàng nhận sáp nhập sẽ kế thừa các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của

ngân hàng bị sáp nhập, đồng thời chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ và cam kết

với ngân hàng bị sáp nhập.

1.2.2. Các phương thức sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần

Một là, sáp nhập thông qua thương lượng

Đây là phương thức sáp nhập thông qua quá trình đàm phán, thương

lượng và đi đến ký kết hợp đồng sáp nhập giữa các bên tham gia sáp nhập.

Thông thường, quá trình đàm phán sẽ kéo dài do các bên cần phải cần phải

trao đổi, cân bằng lợi ích của tất cả các bên để tất các bên đều đạt được mục

tiêu khi thống nhất về phương án sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải bao gồm

các điều khoản về các loại tài sản và giá trị tài sản, các khoản nợ trước thời

điểm sáp nhập, các nghĩa vụ và cam kết của bên nhận sáp nhập, tỷ lệ hoán đổi

cổ phần…

Sau khi sáp nhập, ngân hàng bị sáp nhập sẽ chấm dứt tồn tại. Vì vậy, cổ

đông của ngân hàng bị sáp nhập sẽ trở thành cổ đông của ngân hàng nhận sáp

nhập thông qua việc nhận cổ phiếu phát hành mới của ngân hàng nhận sáp

nhập theo tỷ lệ hoán đổi đã thỏa thuận hoặc nhận tiền mặt khi ngân hàng nhận

sáp nhập không phát hành cổ phần.

Hai là, sáp nhập thông qua chào mua cổ phần công khai

Phương thức này chỉ áp dụng cho hoạt động sáp nhập của ngân hàng đã

niêm yết trên thị trường chứng khoán. Theo phương thức này, ngân hàng nhận

sáp nhập có thể thực hiện việc chào mua công khai số lượng cổ phiếu nhất

định của ngân hàng mục tiêu thuộc đối tượng chào mua công khai theo quy

định của Luật chứng khoán, theo điều kiện và thời gian cụ thể. Một ngân hàng

có thể mua toàn bộ cổ phần từ các cổ đông của ngân hàng mục tiêu, sau đó ra

quyết định sáp nhập ngân hàng mục tiêu.

9

Để thực hiện phương thức này, ngân hàng nhận sáp nhập sẽ chào mua

công khai với tất cả các cổ đông của ngân hàng mục tiêu, công bố thông tin về

nhu cầu mua với một mức giá nhất định trong khoảng thời gian nhất định.

Nếu tất cả các cổ đông của ngân hàng mục tiêu chấp nhận chào mua thì ngân

hàng nhận sáp nhập đã sở hữu toàn bộ cổ phần của ngân hàng mục tiêu và có

thể đưa ra quyết định sáp nhập [18].

Ba là, sáp nhập thông qua thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán

Thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán là phương thức ngân

hàng chủ động có ý định thâu tóm sẽ tiến hành mua dần cổ phiếu của ngân

hàng mục tiêu thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán hoặc mua lại

từ các cổ đông chiến lược hiện hữu. Phương thức này đòi hỏi thời gian và tính

bảo mật vì nếu ý đồ thôn tính được tiết lộ sẽ làm giá cổ phiếu của ngân hàng

mục tiêu dao động mạnh trên thị trường. Sau khi thâu tóm cổ phiếu của ngân

hàng mục tiêu, ngân hàng mua lại cổ phần sẽ tiến hành sáp nhập với ngân

hàng mục tiêu.

1.3. Khái niệm cổ đông ngân hàng thương mại cổ phần và quyền của cổ

đông ngân hàng thương mại cổ phần

1.3.1. Khái niệm cổ đông ngân hàng thương mại cổ phần

Cổ đông là cá nhân hay tổ chức tham gia góp vốn vào công ty dưới

hình thức mua cổ phần. Khi đưa tài sản vào công ty, quyền sở hữu tài sản của

cổ đông được chuyển sang cho công ty và cổ đông nhận được cổ phần như

một chứng thư để ghi nhận cổ đông trở thành một trong những chủ sở hữu của

công ty. Bản chất NHTMCP cũng là một công ty cổ phần có ngành nghề kinh

doanh đặc thù, có quyền thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng. Bởi

vậy, có thể hiểu cổ đông của NHTMCP là cá nhân, tổ chức sở hữu cổ phần đã

phát hành và được ghi tên vào sổ cổ đông của NHTMCP. Về bản chất, cổ

đông là chủ sở hữu của NHTMCP. Lợi ích của cổ đông phụ thuộc vào kết quả

kinh doanh của NHTMCP. Về mặt pháp lý, tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu

10

cổ phần khi trả tiền cổ phần, nhận cổ phần phát hành và ghi tên vào sổ cổ

đông của NHTMCP.

Cổ đông của NHTMCP có thể phân biệt dựa vào tỷ lệ cổ phần mà họ

đang năm giữa gồm cổ đông chiến lược và cổ đông nhỏ. Nếu xét về quốc tịch

thì cổ đông NHTMCP bao gồm cổ đông trong nước và cổ đông nước ngoài.

Dựa vào loại cổ phần mà họ nắm giữ thì cổ đông NHTMCP bao gồm cổ đông

phổ thông, cổ đông ưu đãi và cổ đông sáng lập.

1.3.2. Quyền của cổ đông của ngân hàng thương mại cổ phần

Quyền của cổ đông trong NHTMCP là các quyền về tài sản và quyền

về quản lý đối với hoạt động ngân hàng. Tương ứng với mỗi loại cổ phần và

tỷ lệ cổ phần nắm giữ, cổ đông sẽ có những quyền tương ứng. Quyền của của

cổ đông NHTMCP có thể chia thành hai nhóm:

Một là, nhóm quyền về tài sản của cổ đông sẽ bao gồm: Quyền nhận cổ

tức với tỷ lệ sở hữu, với định mức theo quyết định của ĐHĐCĐ, quyền ưu

tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của

từng cổ đông trong công ty; quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình

cho người khác, trừ trường hợp quy định của pháp luật, Khi ngân hàng giải

thể hoặc phá sản, được nhận một phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ sở

hữu cổ phần tại ngân hàng.

Hai là, nhóm quyền về quản lý của cổ đông bao gồm: Quyền biểu

quyết tại ĐHĐCĐ, quyền tham dự và phát biểu ý kiến trong các cuộc họp

ĐHĐCĐ, được ứng cử, đề cử người vào HĐQT, BKS, quyền tiếp cận thông

tin, quyền khởi kiện.

Căn cứ vào tỷ lệ sở hữu cổ phần trong NHTMCP, cổ đông và nhóm cổ

đông sẽ có những quyền đặc biệt như quyền quyết định đối với những vấn đề

quan trọng trong hoạt động của NHTMCP, quyền triệu tập ĐHĐCĐ.

1.4. Yêu cầu bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần

Ở góc độ kinh tế, sáp nhập là sự chuyển giao, hợp nhất khối tài sản của

11

NHTMCP bị sáp nhập và NHTMCP nhận sáp nhập tạo nên tiềm lực kinh tế

lớn hơn cho ngân hàng sau sáp nhập. Ở góc độ pháp lý, sáp nhập là sự kế thừa

toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của ngân hàng bị sáp nhập sang

ngân hàng sáp nhập, cùng với đó là sự chấm dứt tồn tại của ngân hàng bị sáp

nhập. Từ đây, các quyền là lợi ích của các cổ đông, tức chủ sở hữu của ngân

hàng chấm dứt tồn tại sẽ bị ảnh hưởng.

Đối với các cổ đông có tỷ lệ cổ phần sở hữu thấp, không đủ lớn để tác

động đến quyết định sáp nhập ngân hàng. Trong quá trình thâu tóm và sáp

nhập ngân hàng, các quyền lợi và ý kiến của cổ đông thiểu số có thể bị bỏ qua

trong cuộc họp đại hội đồng cổ đông để thông qua việc sáp nhập bởi vì số

phiếu của họ không đủ để phủ quyết Nghị quyết đại hội đồng cổ đông. Lúc

này cổ đông có thể lựa chọn theo ba hướng: Bán cổ phần của mình tại ngân

hàng, đề nghị ngân hàng mua lại cổ phần của mình hoặc chấp nhận việc sáp

nhập. Nếu các cổ đông thiểu số không hài lòng với phương án sáp nhập thì họ

có thể bán cổ phiếu của mình đi. Tuy nhiên họ sẽ bị thiệt thòi do khi họ bán

cổ phiếu là thời điểm thương vụ sáp nhập sắp hoàn tất cho nên giá của cổ

phiếu lúc này không còn được cao như thời điểm mới có thông tin của thương

vụ thâu tóm và sáp nhập.

Về phần các cổ đông của ngân hàng nhận sáp nhập, quyền và lợi ích

của họ cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi thông thường các thương vụ sáp nhập diễn ra

đã cho thấy ngân hàng nhận sáp nhập sẽ phải “kế thừa” những khoản nợ xấu

vô cùng lớn và kế hoạch kinh doanh của những người quản lý không chắc

chắn rằng sẽ đem lại hiệu quả và lợi ích cho cổ đông của ngân hàng như đã đề

ra. Việc sáp nhập mang lại lợi ích trong việc mở rộng quy mô kinh doanh,

phát triển hệ thống giao dịch trên toàn quốc nhưng đánh đổi lại là sự thiệt hại

về lợi nhuận của các ngân hàng sau khi sáp nhập. Một khi lợi nhuận bị giảm

sút, thậm chí các ngân hàng phải chấp nhận chịu lỗ trong khoảng thời gian

đầu sau sáp nhập, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông.

12

Bên cạnh đó, các vấn đề khác liên quan đến việc định giá tài sản của

ngân hàng bị sáp nhập, xác định tỷ lệ hoán đổi cổ phần và những thỏa thuận

về quyền và nghĩa vụ mỗi bên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cổ

đông từ cả hai phía ngân hàng bị sáp nhập và ngân hàng nhận sáp nhập. Trên

thực tế, không phải thương vụ sáp nhập nào cũng có thể hài hòa được lợi ích

của cổ đông, nhất là với các cổ đông nhỏ. Vì thế, việc quy định các quyền của

cổ đông và các thiết chế bảo vệ là cơ sở pháp lý cần thiết để bảo vệ cổ đông

trong sáp nhập NHTMCP.

1.5. Các cơ chế bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương

mại cổ phần

Công ty cổ phần nói chung, NHTMCP nói riêng không phải là sự tập

hợp đơn thuần của cổ đông mà là của một thực thể thống nhất có tổ chức chặt

chẽ. Bản thân công ty không thể quyết định được ý chí của mình hay tự mình

hành động như một thể nhân. Ý chí và hành vi của thể nhân giữ cương vị nhất

định trong công ty được xem là ý chí và hành vi của công ty. Theo lý thuyết đại

diện, sự tách bạch giữa sở hữu và quản lý làm nảy sinh xung đột giữa người đại

diện (các nhà quản lý) và người ủy quyền (các cổ đông) [24]. Trên thực tế,

quyết định và phương án sáp nhập được thông qua bởi nhóm cổ đông chiếm đa

số và có quyền chi phối hoạt động của công ty. Bên cạnh đó, những thỏa thuận

sáp nhập hoàn toàn phụ thuộc vào sự sắp đặt của các lãnh đạo, những người

nắm quyền điều hành quản lý của ngân hàng cả hai bên bị sáp nhập và nhận sáp

nhập. Do vậy, quyền lợi của một số nhóm cổ đông trong công ty sẽ bị tổn hại,

dẫn đến mẫu thuẫn và mất cân bằng về mặt về lợi ích trong trong quá trình sáp

nhập NHTMCP. Điều này đặt ra yêu cầu cần có những cơ chế bảo vệ cổ đông

của NHTMCP, đặc biệt là trong quá trình sáp nhập.

Để ngăn chặn và khắc phục những nguy cơ xâm hại đến quyền và lợi ích

hợp pháp của cổ đông trong quá trình trước, trong và sau sáp nhập NHTMCP, các

cơ chế được xây dựng bao gồm cơ chế tự bảo vệ, các thiết chế nội bộ và các thiết

13

chế bảo vệ bên ngoài giúp cho cổ đông có vận dụng được các quyền hợp pháp, có

ý thức tự bảo vệ quyền lợi của mình và được bảo vệ từ các cơ quan khác.

1.5.1. Cơ chế tự bảo vệ

Pháp luật trao cho cổ đông NHTMCP các quyền để cổ đông có thể tự

bảo vệ mình trong trường hợp các lợi ích của cổ đông có nguy cơ bị xâm hại

do hệ quả của quá trình sáp nhập NHTMCP. Những quyền này xuất phát từ

việc xây dựng pháp luật doanh nghiệp theo nguyên tắc đảm bảo đối xử công

bằng giữa các cổ đông. Để bảo vệ cổ đông một cách hiệu quả thì bản thân mỗi

cổ đông cần có ý thức tự bảo vệ quyền lợi của mình, tận dụng được những

quyền hợp pháp để đưa ra phương án hành động thích hợp bên cạnh sự tác

động từ thiết chế bên trong và bảo vệ từ các cơ quan bên ngoài.

1.5.2. Các thiết chế nội bộ

Bảo vệ cổ đông thông qua các thiết chế nội bộ được hiểu là cơ chế mà

cổ đông được bảo vệ thông qua các chủ thể bên trong NHTMCP như

ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS.

ĐHĐCĐ là cơ quan đại diện có quyền quyết định cao nhất trong

NHTMCP. Thông qua ĐHĐCĐ, cổ đông có thể thực hiện được quyền quyết

định của mình đối với những vấn đề quan trọng trong hoạt động của

NHTMCP. Mỗi cổ đông dù chỉ sở hữu một cổ phần phổ thông cũng có thể

tham gia biểu quyết, góp phần vào việc thông qua những quyết định quan

trọng. Việc sáp nhập NHTMCP cũng là một trong những vấn đề cần có sự

thông qua của một số phần trăm biểu quyết nhất định của ĐHĐCĐ. Bằng việc

bỏ phiếu biểu quyết, cổ đông có thể thực hiện quyền quyết định trực tiếp liên

quan đến lợi ích của mình được ghi nhận trong phương án sáp nhập, hợp đồng

sáp nhập. Ngoài ra, trong quá trình sáp nhập, cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường

có thể được tiến hành khi có sự yêu cầu từ cổ đông hoặc nhóm cổ có tỷ lệ sở

hữu có quyền biểu quyết nhất định.

14

HĐQT là cơ quan quản trị của NHTMCP, có quyền đưa ra các quyết

định không thuốc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Những quyết định và việc thực

hiện quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐQT có thể ảnh hưởng đến quyền

của cổ đông NHTMCP. Thành viên HĐQT được đề cử bởi cổ đông, là những

người thay mặt cổ đông quản lý ngân hàng. Trong quá trình sáp nhập, HĐQT

của ngân hàng hai phía sáp nhập và bị sáp nhập sẽ đàm phán và đưa ra nội

dung về phương án sáp nhập, tỷ lệ hoán đổi cổ phần, quyền và nghĩa vụ của

các bên trong sáp nhập. Về nguyên tắc, thành viên HĐQT phải hành động vì

lợi ích của cổ đông và lợi ích của công ty. Thông qua HĐQT, cổ đông sẽ được

bảo vệ thông qua việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐQT khi

cân nhắc đến lợi ích của cổ đông.

Mặc dù về nguyên tắc, thành viên HĐQT phải hành động vì lợi ích của

cổ đông và công ty. Tuy nhiên, không thể tránh được trường hợp những người

có đứng đầu này thực hiện những giao dịch tư lợi, đặt lợi ích cá nhân lên trên

lợi ích của cổ đông. Để khắc phục điều này, BKS là một thiết chế để giám sát

hoạt động của những người quản lý, đảm bảo HĐQT hoạt động đúng với mục

tiêu vì lợi ích của công ty và cổ đông. Thành viên BKS được trực tiếp bầu ra

và chịu sự giám sát của ĐHĐCĐ. Trong cơ cấu tổ chức của NHTMCP, BKS

độc lập với HĐQT và thành viên BKS được trao các quyền giám sát hoạt

động của HĐQT và quyền quyết định các quyết sách của công ty.

1.5.3. Các thiết chế bên ngoài

Cơ chế bảo vệ bên ngoài được hiểu là cổ đông được các chủ thể bên

ngoài NHTMCP bảo vệ. Khi các cổ đông đã tự bảo vệ mình bằng cách sử

dụng các quyền mà pháp luật cho phép nhưng quyền và lợi ích của họ vẫn bị

xâm phạm và các thiết chế bên trong không thực hiện được chức năng bảo vệ

cổ đông thì cơ chế bảo vệ cổ đông từ bên ngoài là cần thiết. Các cơ quan bảo

vệ từ bên ngoài sẽ bao gồm cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tư pháp.

15

1.6. Pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương

mại cổ phần

1.6.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần

Bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP phải dựa trên các căn cứ về

pháp luật quy định quyền của cổ đông trong NHTMCP và pháp luật quy định

về sáp nhập NHTMCP.

Từ đó, ta có thể đưa ra khái niệm: Pháp luật về bảo vệ cổ đông trong

sáp nhập NHTMCP là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban

hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sáp nhập

NHTMCP nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông.

1.6.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân

hàng thương mại cổ phần

NHTMCP về bản chất là một doanh nghiệp hoạt động trên đối tượng

kinh doanh là tiền tệ. Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc

thù, tính đặc thù thể hiện ở chỗ rủi ro cao, khó quản lý, khó giảm sát. Bởi vậy,

hoạt động ngân hàng không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật về các loại hình

tổ chức kinh doanh mà còn chịu sự điều chỉnh của các Luật chuyên ngành

trong lĩnh vực ngân hàng và các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan quản

lý nhà nước về ngân hàng ban hành.

So với pháp luật về bảo vệ cổ đông trong các hoạt động của CTCP

thông thường, pháp luật về bảo vệ cổ đông trong hoạt động của NHTMCP sẽ

hàm chứa những quy định đặc thù để đảm bảo, kiểm soát an toàn cho hoạt

động kinh doanh của ngân hàng. Cụ thể, do NHTMCP cũng là một pháp nhân

kinh doanh nên hoạt động sáp nhập NHTMCP được điều chỉnh bằng cả hệ

thống pháp luật chung về sáp nhập doanh nghiệp và hệ thống pháp luật

chuyên ngành về tín dụng. Xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động ngân hàng,

pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP sẽ chịu ảnh hưởng bởi

16

những quy định riêng về cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị của ngân hàng. Cùng

với đó là sự kiểm soát của NHNN, các quy định riêng đối với hoạt động tái cơ

cấu các tổ chức tín dụng thông qua hình thức sáp nhập so việc sáp nhập các loại

hình doanh nghiệp khác nhằm đảm bảo tính an toàn của cả hệ thống ngân hàng.

1.6.3. Nội dung pháp luật bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần

Nội dung pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP bao

gồm các quy định điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể nhằm đảm

bảo các lợi ích của cổ đông trong mối quan hệ sở hữu của cổ đông với ngân

hàng, mối quan hệ giữa cổ đông và những người điều hành, quản lý của ngân

hàng và mối quan hệ giữa các chủ thể khác liên quan trực tiếp đến hoạt động

sáp nhập NHTMCP, cụ thể, như sau:

Một là, pháp luật bảo vệ cổ đông thông qua các quy định về sáp nhập

NHTMCP, bao gồm các quy định về điều kiện, nguyên tắc, trình tự thủ tục

sáp nhập NHTMCP

Hai là, pháp luật bảo vệ cổ đông thông qua các quy phạm quy định

quyền của cổ đông trong sáp nhập NHTMCP bao gồm các nhóm quyền về tài

sản như quyền nhận cổ tức, quyền chuyển nhượng cổ phần, quyền mua lại cổ

phần và nhóm quyền quản lý như quyền biểu quyết, quyền tiếp cận thông tin,

quyền yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ, quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ, quyền giám

sát, quyền khởi kiện.

Ba là, pháp luật bảo vệ cổ đông thông qua các quy định các thiết chế

bên trong NHTMCP bao gồm các quy định về quyền hạn, nghĩa vụ, trách

nhiệm của các thiết chế nội bộ như ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS.

Bốn là, pháp luật bảo vệ cổ đông bằng các thiết chế bên ngoài bao gồm

các quy định về thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước

trong sáp nhập NHTMCP.

17

Về tổng thể, các nội dung pháp luật bảo vệ cổ đông trong sáp nhập

NHTMCP được quy định trong các luật, nghị định, thông tư và các văn bản

hướng dẫn thi hành của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến

sáp nhập NHTMCP.

18

Tiểu kết Chương 1

Trong nội dung của Chương 1, khóa luận tiếp cận những vấn đề chung

về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP, đưa ra các khái niệm cơ bản về

NHTMCP, đặc điểm và phân loại NHTMCP; khái niệm sáp nhập NHTMCP

và các phương thức sáp nhập NHTMCP. Tiếp đó, khóa luận đưa khái niệm về

cổ đông của NHTMCP và các quyền của cổ đông NHTMCP, chỉ ra yêu cầu

bảo vệ cổ đông trong quá trình sáp nhập NHTMCP. Phần cuối của chương,

khóa luận đưa ra các đặc điểm, nội dung của pháp luật bảo vệ cổ đông trong

sáp nhập NHTMCP. Trên cơ sở các vấn đề lý luận về bảo vệ cổ đông trong

sáp nhập NHTMCP, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về

bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP sẽ được trình bày ở Chương 2.

19

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG TRONG SÁP NHẬP NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần ở Việt Nam

2.1.1. Về điều kiện, trình tự, thủ tục sáp nhập ngân hàng thương

mại cổ phần

 Điều kiện sáp nhập

Luật quy định điều kiện để NHTMCP thực hiện hoạt động sáp nhập là

không thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định của Luật cạnh

tranh 2004. Điều kiện sáp nhập sẽ tạo ra những hạn chế nhằm giảm thiểu rủi

ro do hoạt động sáp nhập mang lại đối với quá trình thực hiện các nghiệp vụ

kinh doanh của ngân hàng. Theo đó, những điều kiện được đặt ra để một

thương vụ sáp nhập ngân hàng được tiến hành cũng nhằm đảm bảo an toàn

cho cả hệ thống tài chính nói chung. Các tổ chức tín dụng tham gia các hoạt

động này phải phối hợp xây dựng đề án thực hiện sáp nhập không trái với nội

dung của hợp đồng đã ký. Ngoài ra, tổ chức tín dụng còn lại sau khi tiến hành

sáp nhập phải đảm bảo đáp ứng điều kiện về vốn pháp định theo quy định của

pháp luật. (Điều 10 Thông tư 36/2015/TT-NHNN)

 Trình tự, thủ tục sáp nhập

Tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập phối hợp xây dựng đề án sáp nhập,

hợp đồng sáp nhập và điều lệ tổ chức tín dụng nhận sáp nhập. Nội dung điều

lệ ngân hàng nhận sáp nhập sau khi sáp nhập, đề án sáp nhập và hợp đồng sáp

nhập phải được cơ quan có thẩm quyền quyết định của ngân hàng tham gia

sáp nhập thông qua. Ngân hàng tham gia sáp nhập có văn bản thông báo cho

cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc đề nghị được hưởng miễn trừ đối với trường

hợp sáp nhập bị cấm theo quy định của Luật cạnh tranh.

20

Sau đó, ngân hàng tham gia sáp nhập chuẩn bị hồ sơ đề nghị chấp thuận

sáp nhập Ngân hàng Nhà nước sẽ lấy ý kiến tham gia của chi nhánh Ngân

hàng Nhà nước tại địa phương, Uỷ ban nhân dân địa phương nơi tổ chức tín

dụng tham gia mua lại đặt trụ sở chính và nếu thấy cần thiết sẽ lấy ý kiến của

các Vụ, Cục thuộc Ngân hàng Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ liên quan

đến một hoặc một số nội dung trong hồ sơ đề nghị mua lại và quan điểm về

việc mua lại để ra quyết định chấp thuận hoặc từ chối chấp thuận.

Nếu được chấp thuận nguyên tắc, các tổ chức tín dụng tham gia phải

lấy ý kiến của cơ quan có thẩm quyền của tổ chức tín dụng để thông qua lại

các nội dung thay đổi tại đề án trước khi lập hồ sơ chính thức gửi lại cho

Ngân hàng Nhà nước để được chấp thuận chính thức. Sau đó, các tổ chức

chấm dứt hoạt động cần phải hoàn tất thủ tục rút giấy phép kinh doanh, tổ

chức mới phải hoàn thành thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng bố cáo hợp nhất

v.v... Thông tư 36/2015/TT-NHNN nghiêm cấm việc phân tán tài sản của tổ

chức tín dụng dưới mọi hình thức trong quá trình xin chấp thuận (Điều 9).

Để thực hiện theo các trình tự, thủ tục như trên, thẩm quyền quyết định

sáp nhập NHTMCP được pháp luật quy định đối với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền và trong nội bộ NHTMCP. Luật NHNN quy định thẩm quyền quyết định

việc sáp nhập TCTD là NHNN (Khoản 9, Điều 4). Đối với thẩm quyền quyết

định tại nội bộ ngân hàng, theo Luật TCTD thì ĐHĐCĐ là cơ quan sẽ thông

qua phương án sáp nhập, quyết định việc sáp nhập NHTMCP. Luật các TCTD

quy định ĐHĐCĐ thông qua thông qua các quyết định nêu trên phải được số

cổ đông đại diện trên 65% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự

họp chấp thuận hoặc tỷ lệ khác cao hơn do điều lệ của TCTD quy định (điểm c,

Khoản 2, Điều 59). Với các quy định của pháp luật hiện hành, có thể hiểu trình

tự, thủ tục mua lại, sáp nhập TCTD chỉ được áp dụng trong trường hợp thực

hiện tự nguyện, không có văn bản pháp luật nào quy định trình tự, thủ tục sáp

nhập bắt buộc.

21

Có thể thấy quá trình sáp nhập NHTMCP phải tuân theo trình tự, thủ

tục nhất định theo quy định pháp luật. Việc sáp nhập cũng phải được thông

qua và nằm trong sự kiểm soát của các cơ quan nhà nước ngay từ những bước

đầu tiên. Các NHTMCP muốn thực hiện sáp nhập cũng phải đảm bảo các điều

kiện nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của các ngân hàng tham gia sáp

nhập nói riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung. Từ đó, cổ đông cũng đã

được bảo vệ khỏi những rủi ro phát sinh khi tiến hành sáp nhập NHTMCP.

2.1.2. Về các quyền của cổ đông trong sáp nhập ngân hàng thương

mại cổ phần

 Quyền biểu quyết

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 114 LDN 2014 thì cổ đông phổ

thông có quyền được tham dự biểu quyết tại các cuộc họp của ĐHĐCĐ. Cổ

đông, là người nắm giữ ít nhất một cổ phần phổ thông đã phát hành của

NHTMCP, với tư cách là chủ sở hữu của ngân hàng nên họ phải có quyền

tham gia biểu quyết các vấn đề lớn trong hoạt động ngân hàng. Đặc biệt, vấn

đề sáp nhập của ngân hàng là một vấn đề lớn, ảnh hưởng đến quyền sở hữu và

các quyền khác của cổ đông đối với ngân hàng và liên quan trực tiếp đến lợi

ích của họ khi bỏ vốn đầu tư vào ngân hàng. Đối với cả cổ đông của bên ngân

hàng sáp nhập và bị sáp nhập, hậu quả pháp lý từ việc tiến hành sáp nhập giữa

các ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ sở hữu, các quyền và lợi ích được

hưởng từ việc đầu tư vào ngân hàng nên quyền biểu quyết là một thiết chế bảo

vệ cổ đông cơ bản nhất trong quá trình sáp nhập các ngân hàng.

Bằng cách quy định trong giấy mời ĐHĐCĐ về điều kiện để cổ đông

được tham gia cuộc họp ĐHĐCĐ là phải có lượng vốn tối thiểu như quy định.

Điều này đã tạo ra sự phân biệt giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ. Nếu những

cổ đông nhỏ không sở hữu đủ lượng vốn theo quy định thì sẽ bị mất đi quyền

tham dự cuộc họp ĐHĐCĐ. Điều này sẽ tước đi quyền lợi quan trọng của các

cổ đông bởi lẽ, với tư cách là chủ sở hữu của ngân hàng, tất cả các cổ đông

22

đều có quyền theo dõi, giám sát hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là đối với

một quyết định lớn ảnh hưởng đến sự tồn tại của ngân hàng (đối với ngân

hàng bị sáp nhập) như quyết định sáp nhập. Quy định nếu cổ đông không

tham gia đại hội và thực hiện quyền biểu quyết của mình thì đương nhiên ủy

quyền cho HĐQT số phiếu có quyền biểu quyết của mình. Quyền biểu quyết

là một trong những quyền cơ bản quan trọng của mỗi cổ đông phổ thông.

Trên thực tế việc tham gia cuộc họp ĐHĐCĐ của các cổ đông thiểu số do số

cổ phần của họ không đủ để tạo ra sự thay đổi và ảnh hưởng trong mỗi quyết

định. Tuy nhiên, dù với tỷ lệ sở hữu cổ phần không lớn trong cơ cấu vốn của

ngân hàng, cổ đông tham gia cuộc họp có thể chất vấn và đề nghị Ban lãnh

đạo ngân hàng làm rõ các vấn đề liên quan đến đề án sáp nhập để có cở sở

biểu quyết về vấn đề này.

Hiện nay, cổ đông có thể thực hiện quyền biểu quyết thông qua hệ

thống điện tử. Theo LDN 2014, cổ đông có thể tham gia biểu quyết dưới

hình thức khác tham dự cuộc họp và biểu quyết thông qua hội nghị trực

tuyến, bỏ phiếu điện tử; gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp thông qua gửi

thư, fax, thư điện tử (khoản 2 Điều 140). Quy định này có thể giúp các cổ

đông không cần ủy quyền hoặc di chuyển trực tiếp đến nơi tổ chức cuộc họp

để thực hiện quyền của mình mà vẫn có thể tham gia biểu quyết. Hình thức

này sẽ đảm bảo được sự dân chủ, công bằng, hiểu quả khi thông qua các

quyết định của ĐHĐCĐ và khắc phục được những yếu tố cản trở về mặt địa

lý. Tuy nhiên, tại khoản 4 Điều 59 Luật TCTD 2010 thì quyết định việc sáp

nhập các tổ chức tín dụng sẽ phải được thông qua bằng hình thức biểu quyết

tại cuộc họp ĐHĐCĐ. Như vậy, quy định này đã phần nào tạo nên bất lợi

cho các cổ đông nếu họ không có điều kiện có mặt tại cuộc họp ĐHĐCĐ vì

nhiều lý do khác nhau.

Thông thường, ĐHĐCĐ luôn quyết định các vấn đề căn cứ vào ý chí

của những cổ đông lớn, chiếm đa số cổ phần của ngân hàng. Nguyên tắc biểu

23

quyết theo đa số của NHTMCP dẫn đến việc một nhóm cổ đông có số cổ phần

mang tính quyết định sẽ đưa ra phương án sáp nhập nhằm phục vụ mục đích

riêng của họ để trục lợi, họ cũng là những người nắm bắt thông tin và thao

túng hoạt động của ngân hàng ngay từ đầu kế hoạch sáp nhập. Mặc dù cơ chế

biểu quyết được tạo ra nhằm tạo ra sự dân chủ, công bằng trong hoạt động của

NHTMCP song, với một tỷ lệ sở hữu áp đảo, cổ đông lớn và Ban điều hành

của ngân hàng sẽ có cơ hội để áp đặt ý chí của mình và coi nhẹ ý kiến của các

cổ đông thiểu số.

Quyền chi phối trong việc biểu quyết của các cổ đông ưu đãi biểu quyết

trong thời gian đầu sẽ ảnh hưởng đến quyền biểu quyết của các cổ đông khác.

Luật TCTD 2010 cho phép các các tổ chức được Chính phủ ủy quyền và cổ

đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Quyền ưu đãi

biểu quyết sẽ có hiệu lực trong vòng 3 năm, kể từ ngày ngân hàng được cấp

Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu

quyết của cổ đông sáng lập sẽ chuyển thành cổ phần phổ thông. Như vậy, bên

cạnh việc nắm giữ quyền biểu quyết vượt trội từ cổ phần ưu đãi, nếu các cổ

đông sáng lập sở hữu thêm cổ phần phổ thông khác thì sẽ có khả năng vô hiệu

hóa quyền sự biểu quyết của các cổ đông nhỏ.

 Quyền yêu cầu triệu tập và triệu tập họp ĐHĐCĐ

Quá trình từ thương lượng, đàm phán đến khi thông qua quyết định sáp

nhập NHTMCP thường diễn ra trong một thời gian dài. Để giúp cho các cổ

đông có cơ sở thực hiện quyền theo dõi, giám sát hoạt động của ngân hàng,

đặc biệt là quá trình sáp nhập ngân hàng, pháp luật đã có những quy định về

quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ. Đặc biệt, LDN 2014 còn đưa ra quy định nhằm

bảo vệ lợi ích của các cổ đông thiểu số khi cho phép nhóm cổ đông sở hữu từ

10% tổng số cổ phần phổ thông yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ (khoản 3 Điều

114) và quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ (khoản 6 Điều 136).

24

Để thực hiện quyền triệu tập ĐHĐCĐ căn cứ vào việc HĐQT vi phạm

nghiêm trọng quyền của cổ đông, vi phạm nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra

quyết định vượt quá thẩm quyền được giao thì cổ đông phải cung cấp được tài

liệu chứng cứ về việc vi phạm, mức độ vi phạm của HĐQT, những người điều

hành quản lý của ngân hàng trong quá trình triển khai sáp nhập NHTMCP.

Tuy nhiên, không có quy chuẩn nào cho việc xác định mức độ vi phạm thế

nào là nghiêm trọng quyền của cổ đông.

Việc cho phép các nhỏ lẻ liên kết thành nhóm cổ đông có tỷ lệ sở hữu

10% để thực hiện quyền triệu tập ĐHĐCĐ đã là một bước tiến bộ trong nỗ

lực bảo vệ các cổ đông thiểu số. LDN 2014 tại điểm đ, khoản 1 Điều 114

cũng đã quy định cổ đông có quyền xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp

Điều lệ công ty, biên bản họp ĐHĐCĐ và các nghị quyết của ĐHĐCĐ nhằm

tạo điều kiện để các cổ đông có thể liên lạc và liên kết với nhau, tận dụng

quyền lợi của mình.

 Quyền yêu cầu ngân hàng mua lại cổ phần

Theo quy định pháp luật, các nghị quyết của ĐHĐCĐ liên quan đến

những hoạt động quan trọng của ngân hàng cần phải có sự thông qua của các

cổ đông, điển hình như nghị quyết về sáp nhập NHTMCP cần có sự thông qua

của cổ đông sở hữu trên 65% vốn điều lệ hoặc cổ phần có quyền biểu quyết

của ngân hàng bị sáp nhập. Trong trường hợp phản đối nghị quyết sáp nhập

cổ đông có thể yêu cầu ngân hàng mua lại cổ phần của mình theo quy định tại

Điều 129 LDN 2014, cụ thể là:

“1. Cổ đông biểu quyết phản đối nghị quyết về việc tổ chức lại

công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại Điều lệ

công ty có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Yêu cầu

phải bằng văn bản, trong đó nêu rõ tên, địa chỉ của cổ đông, số lượng

cổ phần từng loại, giá dự định bán, lý do yêu cầu công ty mua lại. Yêu

cầu phải được gửi đến công ty trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Đại

25

hội đồng cổ đông thông qua nghị quyết về các vấn đề quy định tại

khoản này.

2. Công ty phải mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông quy

định tại khoản 1 Điều này với giá thị trường hoặc giá được tính theo

nguyên tắc quy định tại Điều lệ công ty trong thời hạn 90 ngày, kể từ

ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì

các bên có thể yêu cầu một tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định

giá. Công ty giới thiệu ít nhất 03 tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp

để cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là quyết định cuối cùng”.

Với cổ đông của NHTMCP, quyền yêu cầu ngân hàng mua lại cổ phần

của mình được quy định chặt chẽ hơn tại Điều 57 Luật TCTD 2010: “Tổ chức

tín dụng chỉ được mua lại cổ phần của cổ đông nếu sau khi thanh toán hết số

cổ phần được mua lại mà vẫn bảo đảm các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân

hàng, giá trị thực của vốn điều lệ không giảm thấp hơn mức vốn pháp định;

trường hợp mua lại cổ phần dẫn đến việc giảm vốn điều lệ của tổ chức tín

dụng thì phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước bằng văn bản.”

Quy định này bảo vệ lợi ích của cổ đông trong trường hợp cổ đông hay

nhóm cổ đông lớn lạm dụng vị thế chi phối đưa ra những quyết định làm tổn

hại đến lợi ích chính đáng của nhóm cổ đông thiểu số

Như vậy, nếu ĐHĐCĐ của NHTMCP thông qua nghị quyết về việc tổ

chức lại ngân hàng hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại

Điều lệ ngân hàng và cổ đông biểu quyết phản đối nghị quyết đó thì có thể

yêu cầu ngân hàng mua lại cổ phần.

 Quyền chuyển nhượng cổ phần

Cổ đông có thể chuyển nhượng cổ phần cho đối tượng khác theo quy

định tại khoản 1, khoản 2 Điều 126 LDN 2014, đó là:

“1. Cổ phần được tự do chuyển nhượng, trừ trường hợp quy định

tại khoản 3 Điều 119 của Luật này và Điều lệ công ty có quy định hạn

26

chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định

hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực

khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.

2. Việc chuyển nhượng được thực hiện bằng hợp đồng theo cách

thông thường hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán.

Trường hợp chuyển nhượng bằng hợp đồng thì giấy tờ chuyển nhượng

phải được bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng hoặc đại

diện ủy quyền của họ ký. Trường hợp chuyển nhượng thông qua giao

dịch trên thị trường chứng khoán, trình tự, thủ tục và việc ghi nhận sở

hữu thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng khoán…”.

Như vậy, trong trường hợp không tán thành với nghị quyết sáp nhập

NHTMCP, cổ đông có thể lựa chọn giải pháp chuyển nhượng cổ phần bên

cạnh giải pháp yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Nếu Điều lệ ngân

hàng không có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần phổ thông thì cổ

đông có quyền tự do bán cổ phần của mình cho người khác. Việc bán cổ phần

được thực hiện bằng hợp đồng hoặc thông qua giao dịch trên thị trường chứng

khoán. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ

phần phổ thông và các quy định này được nêu rõ trong cổ phiếu thì việc

chuyển nhượng của cổ đông thực hiện theo các quy định đó.

 Quyền tiếp cận thông tin

Đối với mỗi thương vụ sáp nhập, việc tiếp cận thông tin sớm hay muộn

và nội dung những thông tin được tiếp cận là một yếu tố vô cùng quan trọng

ảnh hưởng đến lợi ích của các bên, bao gồm cả các cổ đông của NHTMCP.

Quyền tiếp cận thông tin ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của cổ đông.

Trong mỗi hoạt động của NHTMCP, không chỉ riêng hoạt động sáp nhập, cổ

đông đều mong muốn được tiếp cận với những thông tin chính xác, đáng tin

cậy một cách kịp thời. Đối với NHTMCP, việc công khai thông tin một cách

minh bạch là cách để gây dựng lòng tin vào kêu gọi được sự ủng hộ của các

cổ đông trong việc thông qua và tiến hành sáp nhập NHTMCP.

27

Cổ đông NHTMCP có thể tiếp cận thông tin thông qua các hình thức:

(i) cổ đông chủ động tiếp cận, thu thập thông tin; (ii) cổ đông được các chủ

thể khác cung cấp thông tin.

Quyền tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của cổ đông NHTMCP. Tuy

nhiên quyền này cũng phụ thuộc vào loại cổ phần, tỷ lệ sở hữu và thời hạn sở

hữu cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Theo điểm đ,e Khoản 1 Điều 114 LDN

2014 và Khoản 5,6 Điều 53 Luật TCTD 2010, cổ đông phổ thông có quyền;

(i) xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong Danh sách cổ đông có

quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác; (ii) xem

xét, tra cứu, trích lục và sao chụp Điều lệ ngân hàng, biên bản họp ĐHĐCĐ

và các nghị quyết của ĐHĐCĐ

Theo Điều 170 LDN 2014, cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục

ít nhất một năm có quyền tự mình hoặc cùng với luật sư hoặc kế toán và kiểm

toán viên có chứng chỉ hành nghề trực tiếp xem xét các báo cáo theo quy định

trong thời gian hợp lý như: (i) Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty; (ii)

Báo cáo tài chính; (iii) Báo cáo công tác quản lý, điều hành công ty

Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông

trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn

theo quy định tại Điều lệ của công ty có quyền xem xét và trích lục sổ biên

bản và các nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và

hằng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban

kiểm soát;

Trên phương diện công ty cổ phần phải có nghĩa vụ công bố thông

tin đối với mỗi loại hình NHTMCP thì sẽ có nghĩa vụ công bố thông tin

khác nhau

Đối với hình thức NHTMCP đại chúng, chế độ công bố thông tin được

quy định rõ ràng trong Luật chứng khoán năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2010).

Đối với NHTMCP chưa đại chúng, LDN 2014 quy định việc công bố thông tin

28

liên quan đến báo cáo tài chính, một số tài liệu quan trọng để phản ánh tình

hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Về cơ bản pháp luật Việt

Nam đã có hành lang pháp lý cụ thể nhằm bảo vệ nhà đầu tư, trong đó nhất

là cổ đông thiểu số.

Quyền xem xét, trích lục sổ sách tài liệu của cổ đông cho phép các cổ

đông có được danh sách cổ đông của toàn công ty để từ đó các cổ đông nhỏ lẻ

có thể tập hợp lại, trao đổi thông tin và gom cổ phiếu để cùng đưa ra các

quyết định.

 Quyền được ưu tiên mua cổ phần

Khi một NHTMCP sáp nhập vào một NHTMCP khác, tỷ lệ sở hữu của

các cổ đông sẽ bị giảm đi do việc tăng lên của vốn điều lệ. Cổ đông có thể từ

vị thế của một cổ đông lớn của ngân hàng bị sáp nhập chuyển thành cổ đông

nhỏ của ngân hàng sau sáp nhập. Việc tỷ lệ sở hữu dẫn đến việc mất đi một số

quyền nhất định của cổ đông. Vậy để khắc phục được điều này, cổ đông có

thể sử dụng quyền được ưu tiên mua lại cổ phần mới phát hành của ngân

hàng để gia tăng tỷ lệ sở hữu của mình. Luật TCTD 2010 quy định cổ đông

được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ

thông của từng cổ đông trong tổ chức tín dụng (khoản 3 Điều 53).

 Quyền giám sát

 Quyền kiểm soát những giao dịch lớn, tư lợi, nội gián

Bản thân người làm ở những vị trí quản lý điều hành NHTMCP thường

là những người trực tiếp thực hiện những giao dịch lớn và quan trọng trong

ngân hàng. Họ đồng thời là những người nắm rõ được những thông tin nội bộ

trực tiếp có lợi cho họ do đó có thể dễ dàng tiến hành những giao dịch nội

gián. Thực tế quy định về nội dung và cách thức công khai hóa giao dịch có

liên quan chưa hợp lý và đầy đủ. Bảo vệ cổ đông chính là giảm thiểu rủi ro tài

sản của ngân hàng bị chiếm đoạt bởi các giao dịch nội gián của công ty.

Khoản 2 Điều 162 LDN 2014 quy định: “HĐQT chấp thuận các hợp

29

đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 35% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp ghi

trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại

Điều lệ công ty”. So với Luật doanh nghiệp 2005, giá trị giao dịch mà HĐQT

có quyền thông qua đã giảm xuống từ mức nhỏ hơn 50% tổng giá trị tài sản

doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất đến 35%. Quy định này đã

tạo thêm cơ hội cho cổ đông thiểu số thông qua các giao dịch có giá trị lớn

của công ty.

Đối với hợp đồng có liên quan đến cổ đông lớn hoặc ban điều hành,

theo Khoản 1 Điều 162 LDN 2014 thì cổ đông, người đại diện ủy quyền của

cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những

người có liên quan của họ; hoặc thành viên HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng

giám đốc và người có liên quan của họ phải được ĐHĐCĐ hoặc HĐQT chấp

thuận. Những hợp đồng này tiềm ẩn nguy cơ trục lợi của những cổ đông chiến

lược hoặc Ban điều hành có thể lợi dụng vị trí, địa vị của mình để tạo điều

kiện thuận lợi cho mình hoặc những người có liên quan. Để cổ đông thực sự

kiểm soát được những giao dịch này đòi hỏi phải có một cơ chế giám sát nội

bộ hoạt động hiệu quả, những quy tắc đạo đức áp dụng cho người quản lý

công ty phải được tuân thủ. Do đó, quyền kiểm soát những giao dịch này của

cổ đông không hề dễ dàng. Một môi trường pháp lý vững chắc và việc thực

thi kiên quyết là điều quan trọng để kiềm chế các hành vi trục lợi, đảm bảo

đối xử công bằng với tất cả các cổ đông và tạo dựng độ tin cậy cho các nhà

đầu tư.

 Quyền yêu cầu thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động của

ngân hàng

Quyền được yêu thanh tra, kiểm tra tình hình của NHTMCP phụ thuộc

vào số lượng cổ phần và thời gian nắm giữ cổ phần. Theo đó có 2 nhóm đối

tượng như sau:

(1) Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ

30

thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ

hơn quy định tại Điều lệ ngân hàng có quyền: Yêu cầu BKS kiểm tra từng

vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của ngân hàng khi

xét thấy cần thiết.

(2) Cổ đông sở hữu cổ phần của ngân hàng liên tục trong thời hạn ít

nhất một năm có quyền yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện quyết định của

HĐQT thông qua trái với quy định pháp luật hoặc Điều lệ công ty gây thiệt

hại cho ngân hàng thì các thành viên chấp thuận thông qua quyết định đó phải

cùng liên đới chịu trách nhiệm về quyết định đó và phải bồi thường thiệt hại

cho công ty; thành viên phản đối trách nhiệm nói trên được miễn trừ trách

nhiệm theo quy định tại khoản 4 Điều 149 LDN 2014.

Tuy nhiên quyền thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động ngân hàng của

các cổ đông không phải là quyền chủ động, họ hoàn toàn bị động do chỉ có

quyền yêu cầu BKS thực hiện. Nếu BKS không thực hiện hoặc thực hiện qua

loa thiếu trách nhiệm thì cổ đông sẽ khó có thể có được những thông tin trung

thực. Việc yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện quyết định của HĐQT trái luật

hoặc Điều lệ ngân hàng cũng khó khả thi do HĐQT không có trách nhiệm

thông báo phiên họp và cổ đông thiểu số cũng không có quyền dự họp

ĐHĐCĐ do vậy nếu ngân hàng không cung cấp quyết định của HĐQT thì cổ

đông thiểu số cũng không thể biết để yêu cầu HĐQT ngừng thực hiện.

 Quyền khởi kiện

Để bảo vệ quyền lợi của mình, cổ đông có thể thực hiện khởi kiện được

quy định tại Điều 161 LDN 2014. Theo đó, cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít

nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 6 tháng có quyền tự

mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên

HĐQT, giám đốc hoặc tổng giám đốc trong các trường hợp sau: vi phạm

nghĩa vụ người quản lý công ty theo quy định tại Điều 160 của Luật này;

không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ được giao, không thực hiện,

31

thực hiện không đầy đủ, không kịp thời nghị quyết của HĐQT; thực hiện các

quyền và nghĩa vụ được giao trái với quy định của pháp luật, điều lệ công ty

hoặc nghị quyết của ĐHCĐ; sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh

của công ty để tư lợi riêng hoặc phục vụ cho lợi ích của tổ chức, cá nhân

khác; sử dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lợi riêng

hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác; các trường hợp khác theo quy

định của pháp luật và điều lệ công ty.

Trình tự, thủ tục khởi kiện thực hiện tương ứng theo quy định của pháp

luật về tố tụng dân sự.

Khi phát hiện các sai phạm của Ban lãnh đạo công ty, cổ đông có thể

nhân danh công ty khởi kiện đối với những cá nhân này ra tòa. Đáng chú ý,

chi phí khởi kiện khi cổ đông nhân danh công ty khởi kiện sẽ được tính vào

chi phí của công ty. Đây là một quy định mới được bổ sung trong LDN 2014,

tạo khung pháp lý cho phép cổ đông có thể khởi kiện đối với những người

quản lý công ty.

Mặc dù quy định cho phép cổ đông khởi kiện những người điều hành,

quản lý của ngân hàng khi phát hiện họ có những vi phạm trong quyền hạn và

thực hiện nghĩa vụ của mình, pháp luật vẫn chưa quy định rõ ràng về tư cách

khởi kiện của cổ đông. Điều 161 LDN 2014 không nói rõ đối tượng có quyền

khởi kiện có cần thiết phải nắm giữ cổ phần một cách liên tục từ thời điểm

được cho là xảy ra hành vi vi phạm đến thời điểm khởi kiện hay không; liệu

cổ đông nắm giữ 1% cổ phần khởi kiện là người nắm giữ cổ phần tại thời

điểm xảy ra hành vi vi phạm hay tại thời điểm khởi kiện? Mặt khác trong suốt

quá trình diễn vụ kiện thì cổ đông khởi kiện có bắt buộc vẫn là cổ đông của

công ty hay không và nếu trường hợp công ty tăng vốn và cổ đông hoặc nhóm

cổ đông không duy trì tỷ lệ tăng theo tương ứng, dẫn tới hệ quả là chỉ sở hữu

dưới 1% tỷ lệ cổ phần thì lúc đó tư cách nguyên đơn của bên khởi kiện có còn

được giữ hay không?

32

Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có những quy định tương thích với

khái niệm mới trong luật doanh nghiệp về quyền khởi kiện phái sinh và vai

trò đại diện tố tụng. Theo tư tưởng về quyền khởi kiện trách nhiệm dân sự thì

người bị thiệt hại trực tiếp sẽ là người khởi kiện. Tuy nhiên trong NHTMCP

không phải lúc nào hành vi vi phạm của người quản lý cũng gây hại trực tiếp

tới ngân hàng đầu tiên, sau đó thiệt hại của cổ đông mới là gián tiếp.

2.1.3. Về thiết chế nội bộ bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần

 Đại hội đồng cổ đông

ĐHĐCĐ gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết

định cao nhất của NHTMCP. Thông qua ĐHĐCĐ, các cổ đông của ngân hàng

có thể thực hiện quyền quyết định của mình đối với phương án sáp nhập, cũng

như thông qua các quyết định có liên quan và ảnh hưởng đến quyền lợi của

mình trong quá trình tiến hành sáp nhập NHTMCP. Các quyền và nghĩa vụ cụ

thể của ĐHĐCĐ được quy định tại Điều 135 LDN 2014.

ĐHĐCĐ là cơ chế quan trọng bởi thông qua ĐHĐCĐ, các cổ đông

thực hiện quyền của mình trong hoạt động quản lý, điều hành công ty. Cuộc

họp của ĐHĐCĐ là cơ hội quan trọng để các cổ đông có thể đối thoại, chất

vấn các thành viên HĐQT, Giám đốc/Tổng Giám Đốc và các thành viên quản

lý công ty. Mặt khác, cuộc họp của ĐHĐCĐ cũng là dịp để các thành viên

HĐQT, Giám đốc/Tổng Giám Đốc và các thành viên quản lý thể hiện trách

nhiệm đối với các cổ đông thông qua việc công bố thông tin, thông báo về

tình hình hoạt động của công ty, đưa ra khuyến nghị đối với tổ chức, cổ đông

về việc chấp nhận báo cáo tài chính, kế hoạch phân chia lợi nhuận, các thay

đổi căn bản (nếu có) về vốn và cơ cấu tổ chức của công ty, thù lao cho thành

viên HĐQT.. Vì vậy có thể thấy, để bảo vệ quyền của cổ đông, tăng tính hiệu

quả trong hoạt động của ĐHĐCĐ, LDN 2014 đã quy định rất cụ thể về thủ

tục, trình tự tiến hành họp ĐHĐCĐ, trách nhiệm thông báo, báo cáo công bố

33

thông tin cho các tổ chức trước cuộc họp, quyền của các cổ đông đưa ra các

vấn đề bàn bạc tại cuộc họp, thủ tục bỏ phiếu… Đối với quá trình sáp nhập

NHTMCP, ĐHĐCĐ là cơ quan mà thông qua đó các cổ đông thể hiện quan

điểm, quyền giám sát, biểu quyết của mình đối với phương án sáp nhập cũng

như nội dung cam kết giữa các bên tham gia sáp nhập về việc đảm bảo quyền

và lợi ích của cổ đông. Sau khi sáp nhập, cổ đông của ngân hàng bị sáp nhập

cũng có thể trở thành cổ đông của ngân hàng nhận sáp nhập. Lúc này, họ cũng

có tư cách để tham gia vào ĐHĐCĐ và thông qua cơ quan này, họ có thể thực

hiện quyền giám sát, biểu quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động ngân

hàng, những quyết định trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của họ với tư cách

là chủ sở hữu mới của ngân hàng nhận sáp nhập.

 Hội đồng quản trị

Theo Điều 149 LDN 2014, HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn

quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của

công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Khi thực hiện chức năng,

quyền và nghĩa vụ của mình, HĐQT tuân thủ đúng quy định của pháp luật,

Điều lệ công ty và nghị quyết của ĐHĐCĐ. Trong trường hợp nghị quyết do

HĐQT thông qua trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty gây

thiệt hại cho công ty thì các thành viên tán thành thông qua nghị quyết đó

cũng phải liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về nghị quyết đó và phải đền bù

thiệt hại cho công ty, thành viên phản đối nghị quyết nói trên được miễn trừ

trách nhiệm.

Theo quy định tại Điều 62 Luật TCTD 2010, cơ cấu của HĐQT trong

NHTMCP như sau: (i) phải có không ít hơn 05 thành viên và không quá 11

thành viên, trong đó có ít nhất 01 thành viên độc lập. Hội đồng quản trị phải

có ít nhất một phần hai tổng số thành viên là thành viên độc lập và thành viên

không phải là người điều hành tổ chức tín dụng; (ii) cá nhân và người có liên

quan của cá nhân đó hoặc những người đại diện vốn góp của một cổ đông là

34

tổ chức và người có liên quan của những người này được tham gia Hội đồng

quản trị, nhưng không được vượt quá một phần ba tổng số thành viên Hội

đồng quản trị của một tổ chức tín dụng là công ty cổ phần, trừ trường hợp là

người đại diện phần vốn góp của Nhà nước.

Việc pháp luật đưa ra giới hạn đối với số lượng thành viên độc lập,

thành viên không điều hành trong HĐQT và tỷ lệ cá nhân và người có liên

quan của cá nhân đó hoặc những người đại diện vốn góp của một cổ đông là

tổ chức và người có liên quan của những người này tham gia vào HĐQT đã

tạo nên cơ chế để bảo vệ cổ đông trong quá trình hoạt động của NHTMCP nói

chung và quá trình sáp nhập NHTMCP. Đôi khi, những người lãnh đạo ngân

hàng đưa ra đề án sáp nhập với những điều kiện nhằm phục vụ mục đích riêng

của họ chứ không phải vì sự phát triển của ngân hàng cũng như lợi ích của tất

cả các cổ đông. Vì vậy, những thành viên HĐQT độc lập, không quản lý điều

hành hay những thành viên đại diện cho nhiều nhóm cổ đông khác nhau sẽ có

trách nhiệm đảm bảo lợi ích cho những cổ đông khác ngoài cổ đông lớn và cổ

đông chiến lược của NHTMCP. Sự có mặt của họ phần nào tạo nên sự khách

quan trong những quyết định của HĐQT và cân bằng lợi ích giữa các nhóm

cổ đông trong ngân hàng.

Trong mỗi thương vụ sáp nhập, HĐQT là những người trực tiếp tiến

hành đề xuất phương án sáp nhập, thương lượng đàm phán các vấn đề liên

quan đến sáp nhập như định giá tài sản của ngân hàng bị sáp nhập, tỷ lệ hoán

đổi cổ phần, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình sáp nhập,…

Những quyết định và nội dung thỏa thuận của những người lãnh đạo đứng đầu

các NHTMCP có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng, hay cũng

chính là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các cổ đông – chủ sở hữu của

NHTMCP. Chính vì thế, những người lãnh đạo ngân hàng, những đại diện đã

được cổ đông bầu chọn vào HĐQT phải có trách nhiệm hành động vì quyền

và lợi ích của cổ đông khi thực hiện những công việc thuộc thẩm quyền của

mình trong quá trình sáp nhập NHTMCP.

35

 Ban kiểm soát

BKS là một cơ quan thuộc cơ cấu quản trị nội bộ của NHTMCP.

Chức năng của BKS là giám sát HĐQT, Giám đốc/Tổng giám đốc trong

việc quản lý và điều hành công ty, vì lợi ích của cổ đông và ngân hàng

nhằm ngăn chặn, phát hiện trường hợp sai phạm, thiếu sót, xung đột lợi

ích; đồng thời đề xuất các biện pháp, giải pháp khắc phục, cải tiến để hoạt

động quản lý, điều hành công ty đạt hiệu quả cao nhất. Trong khi HĐQT

chủ yếu phục vụ lợi ích của các cổ đông lớn, BKS được xem như được

bầu ra nhằm bảo vệ lợi ích cho nhóm cổ đông yếu thế

Về cơ cấu, BKS của tổ chức tín dụng có ít nhất 03 thành viên, số lượng

cụ thể do Điều lệ của tổ chức tín dụng quy định, trong đó phải có ít nhất một

phần hai tổng số thành viên là thành viên chuyên trách, không đồng thời đảm

nhiệm chức vụ, công việc khác tại tổ chức tín dụng hoặc doanh nghiệp khác.

(Khoản 2 Điều 44 Luật TCTD 2010).

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân

hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam

2.2.1. Về thủ tục sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần

Định giá tài sản ngân hàng bị sáp nhập là một bước quan trọng trong

việc đàm phán đi đến quyết định sáp nhập NHTMCP. Đây cũng là một nội

dung được ghi nhận trong hợp đồng sáp nhập dưới sự thỏa thuận của các bên

tham gia sáp nhập. Giá trị tài sản ngân hàng bị sáp nhập sẽ ảnh hưởng trực

tiếp và quyết định tỷ lệ hoán đổi cổ phần, quyền và nghĩa vụ của các bên

trong thương vụ sáp nhập. Tại Việt Nam hiện nay, tình trạng thiếu thông tin

và các dữ liệu thống kê không đầy đủ, thiếu tính chính xác và không được cập

nhật một cách đầy đủ đã làm cho vấn đề định giá doanh nghiệp rất khó khăn,

nhất là với loại hình doanh nghiệp đặc biệt như ngân hàng. Việc định giá tài

sản của ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn vì phần lớn các tài sản của ngân

hàng là các khoản cho vay, mỗi khoản cho vay đều có những rủi ro và thu

36

nhập khác nhau. Nếu chỉ định giá dựa trên các khoản mục bảng cân đối kế

toán thì hoàn toàn không phù hợp vì giá trị trên bảng cân đối kế toán chỉ là giá

trị sổ sách, không phản ánh thực chất giá trị thị trường của tài sản. Đồng thời,

một số tài sản vô hình của ngân hàng như giá trị thương hiệu, thị phần của

ngân hàng, các mối quan hệ... cũng rất khó để xác định. Thêm nữa, các số liệu

thống kê và kế toán thường không thống nhất với nhau và sự không thống

nhất với nhau về phương pháp thực hiện lại càng gây khó khăn cho định giá

trị của một ngân hàng. Chính vì vậy, các ngân hàng nên sử dụng kết hợp các

phương pháp khác nhau để có thể định giá tương đối chính xác giá trị của

ngân hàng để không gây thiệt thòi cho cả người bán lẫn người mua.

Thực trạng pháp luật hiện nay chưa có khung pháp lý chung về định giá

tài sản trong hoạt động ngân hàng; nhất là trong hoạt động sáp nhập, chủ yếu

là các ngân hàng tự thỏa thuận thống nhất với nhau theo mỗi cách định giá

ngân hàng khác nhau.

Cho đến nay, pháp luật nước ta vẫn chưa hướng dẫn cụ thể các thủ tục

sau sáp nhập để bảo vệ quyền lợi của cổ đông bên bị sáp nhập, bên nhận sáp

nhập. Trong hoạt động sáp nhập, sau sáp nhập, vốn cổ phần của ngân hàng

nhận sáp nhập tăng lên và tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông ngân hàng bị

sáp nhập giảm xuống dẫn đến tiếng nói của họ tại các kỳ họp Ðại hội đồng cổ

đông không còn được coi trọng, có tính chất quyết định như trước đây nữa.

Ðể tiếp tục duy trì vai trò và bảo vệ lợi ích của mình tại ngân hàng mới (ngân

hàng nhận sáp nhập), cổ đông của ngân hàng bị sáp nhập có thể phải chấp

nhận các điều kiện, yêu cầu của ngân hàng nhận sáp nhập. Ðiển hình là vụ

HabuBank sáp nhập vào SHB, từ chỗ là cổ đông chiến lược sở hữu 10% vốn

cổ phần của HabuBank, sau sáp nhập tỷ lệ sở hữu cổ phần của Deutsche Bank

bị pha loãng giảm xuống còn khoản hơn 3% vốn điều lệ của ngân hàng nhận

sáp nhập. Với tỷ lệ sở hữu cổ phần này, Deutsche Bank có thể phải chấp nhận

một trong hai phương án theo đề xuất của ngân hàng nhận sáp nhập: bán lại

37

cổ phần sở hữu cho các cổ đông hiện hữu hoặc được mua thêm cổ phần, tăng

tỷ lệ sở hữu lên 10% vốn điều lệ để duy trì tư cách cổ đông chiến lược tại

ngân hàng nhận sáp nhập, kèm theo điều kiện phải cam kết gắn bó lâu dài với

ngân hàng nhận sáp nhập, hỗ trợ chiến lược phát triển, công nghệ, đào tạo

nhân sự… Rõ ràng cả hai phương án này đều khó xử đối với Deutsche Bank

vì nếu bán hết phần vốn góp thì Deutsche Bank phải chịu khoản lỗ lớn (khi

sáp nhập, 1 cổ phần HabuBank hoán đổi bằng 0,75 cổ phần SHB mới), trong

khi tiếp tục góp thêm vốn thì Deutsche Bank cũng khó thực hiện [27].

2.2.2. Về thực hiện các quyền của cổ đông trong sáp nhập ngân hàng

thương mại cổ phần

 Quyền biểu quyết

Sử dụng quyền biểu quyết để thông qua phương án sáp nhập NHTMCP

là cách thức cơ bản nhất để cổ đông bảo vệ quyền lợi của mình. Nhưng trên

thực tế quyền biểu quyết của cổ đông đôi khi sẽ không được đảm bảo do sự

can thiệp của những người quản lý điều hành hoặc những cổ đông lớn có tỷ lệ

sở hữu cao trong mỗi ngân hàng.

Bằng cách quy định trong giấy mời ĐHĐCĐ về điều kiện để cổ đông

được tham gia cuộc họp ĐHĐCĐ là phải có lượng vốn tối thiểu như quy định.

Điều này đã tạo ra sự phân biệt giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ. Nếu những

cổ đông nhỏ không sở hữu đủ lượng vốn theo quy định thì sẽ bị mất đi quyền

tham dự cuộc họp ĐHĐCĐ. Điều này sẽ tước đi quyền lợi quan trọng của các

cổ đông bởi lẽ, với tư cách là chủ sở hữu của ngân hàng, tất cả các cổ đông

đều có quyền theo dõi, giám sát hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là đối với

một quyết định lớn ảnh hưởng đến sự tồn tại của ngân hàng (đối với ngân

hàng bị sáp nhập) như quyết định sáp nhập. Quy định nếu cổ đông không

tham gia đại hội và thực hiện quyền biểu quyết của mình thì đương nhiên ủy

quyền cho HĐQT số phiếu có quyền biểu quyết của mình. Quyền biểu quyết

là một trong những quyền cơ bản quan trọng của mỗi cổ đông phổ thông.

38

Trên thực tế việc tham gia cuộc họp ĐHĐCĐ của các cổ đông thiểu số do số

cổ phần của họ không đủ để tạo ra sự thay đổi và ảnh hưởng trong mỗi quyết

định. Tuy nhiên, dù với tỷ lệ sở hữu cổ phần không lớn trong cơ cấu vốn của

ngân hàng, cổ đông tham gia cuộc họp có thể chất vấn và đề nghị Ban lãnh

đạo ngân hàng làm rõ các vấn đề liên quan đến đề án sáp nhập để có cở sở

biểu quyết về vấn đề này. HĐQT và Ban điều hành có thể tạo ra những khó

khăn cho cổ đông trong việc tham dự cuộc họp ĐHĐCĐ bằng việc tổ chức

cuộc họp ở những địa điểm kém thuận lợi hay việc bố trí chỗ ngồi cho các cổ

đông tham dự, gây khó dễ cho việc theo dõi, chất vấn trong quá trình cuộc

họp diễn ra.

 Quyền tiếp cận thông tin

Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của cổ đông là yếu tố quan trọng

để cổ đông có thể bảo vệ quyền lợi của mình thông qua cơ chế tự vệ. Tuy

nhiên, việc tiếp cận thông tin xoay quanh việc sáp nhập NHTMCP đối với

các cổ đông, nhất là các cổ đông nhỏ bị hạn chế khiến cho nhiều quyền

khác của cổ đông bị ảnh hưởng.

Trước khi cuộc họp ĐHĐCĐ diễn ra, một số cổ đông, đặc biệt là các

cổ đông nhỏ có thể không được cung cấp đầy đủ thông tin và tài liệu xoay

quanh vấn đề sáp nhập một cách kịp thời trước khi diễn ra cuộc họp. Điều

này cản trở cổ đông nắm bắt thông tin kịp thời trước khi đưa ra ý kiến biểu

quyết của mình.

Việc không được tiếp cận thông tin một cách đầy đủ gây khó khăn cho

cổ đông trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ để chỉ ra những vi phạm hoặc

những quyết định vượt quá thẩm quyền của thành viên HĐQT, những người

quản lý, điều hành của ngân hàng. Nhiều khi các cổ đông liên kết lại thành

nhóm để có quyền tiếp cận các thông tin của công ty. Tuy nhiên cổ đông

không thể có được những chứng từ, hóa đơn được lưu giữ ở phòng Tài chính

– kế toán vì bộ phận này từ chối cung cấp thông tin. Thông thường, Ban lãnh

39

đạo công ty hay lấy cớ trì hoãn hoặc không cung cấp danh sách cổ đông này

để hạn chế các cổ đông liên kết với nhau. Pháp luật Việt Nam vẫn còn quá

nhiều chỗ chưa quy định chưa rõ ràng, cụ thể do vậy cổ đông khó có thể tập

hợp những chứng cứ vi phạm của Ban điều hành, gây khó khăn trong quá

trình tiến hành khởi kiện.

Pháp luật đã có những quy định về công bố thông tin liên quan đến báo

cáo tài chính và các tài liệu phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của ngân

hàng. Theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính, các công ty đại chúng phải

công bố thông tin tài chính định kỳ hàng quý, bán niên và hàng năm. Thông

tin tài chính được thể hiện trong báo cáo tài chính hàng quý, bán niên và báo

cáo tài chính năm. Báo cáo tài chính bán niên phải được soát xét bởi công ty

kiểm toán độc lập và báo cáo tài chính năm phải được kiểm toán. Các báo cáo

công bố thông tin định kỳ nêu trên phải được đăng tải trên website của từng

ngân hàng và gửi cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch chứng

khoán nơi niêm yết cổ phiếu để công bố ra công chúng. Việc công khai, minh

bạch thông tin tài chính nêu trên của các công ty đại chúng tạo điều kiện cho

các cổ đông giám sát hoạt động quản trị, điều hành của HĐQT, Ban điều hành

và giúp các nhà đầu tư có được thông tin, số liệu chính xác, kịp thời để đánh

giá cổ phiếu của công ty đó trước khi quyết định đầu tư/không đầu tư; đồng

thời tạo áp lực để Hội đồng quản trị, Ban điều hành không ngừng nâng cao

năng lực quản trị, điều hành, tuân thủ nghị quyết của ĐHĐCĐ và quy định

của pháp luật, tăng tính cạnh tranh trên thị trường nhằm mang lại lợi ích, cổ

tức ngày càng tốt hơn cho các cổ đông. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có 9 trong

tổng số 84 ngân hàng thương mại có cổ phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch

chứng khoán phải thực hiện công bố thông tin tài chính theo quy định nêu trên

của Bộ Tài chính. Do đó, việc nhà đầu tư tìm kiếm thông tin, tìm hiểu tình

hình tài chính của phần đông các ngân hàng thương mại còn lại (các ngân

hàng chưa niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán) là rất khó khăn

40

hoặc thông tin không được công bố đầy đủ, kịp thời dẫn đến việc đánh giá

tình hình tài chính của các ngân hàng này không toàn diện, đầy đủ, chính xác.

Thực tiễn mức độ công khai và minh bạch hóa chưa đáp ứng được yêu

cầu. Trên thực tế có rất nhiều vụ việc xảy ra ở các công ty do cố tình làm sai

lệch số liệu trong báo cáo tài chính. Có đôi lúc tình hình kinh tế khó khăn, các

doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, tê liệt, ít giao dịch thành công và để có

được những con số đẹp trên báo cáo tài chính, họ đã dùng nhiều thủ đoạn để

làm đẹp số liệu. Bên cạnh đó, rất ít doanh nghiệp tự nguyện kiểm toán báo

cáo tài chính của mình, do tâm lý sợ liên quan đến nhiều hoạt động nội bộ

không minh bạch.

Đối với cổ đông trong các NHTMCP, việc cổ đông không được tiếp

cận với thông tin của công ty hoặc tiếp cận không đầy đủ, chính xác và trung

thực là hiện tượng phổ biến, cổ đông không được nhận thông báo về các

quyết định của ĐHĐCĐ, không nhận được tóm tắt báo cáo tài chính hàng

năm, không được nhận thông báo về trả cổ tức, về cổ phiếu thưởng, các thông

tin về mua bán sáp nhập ngân hàng. Mặt khác, việc tiếp nhận thông tin cũng

bị mất cân đối giữa các chủ sở hữu công ty và người trực tiếp điều hành công

ty, do vậy đa số cổ đông phổ thông – những người không nắm giữ quyền điều

hành trong công ty thường bị bất lợi về quyền được tiếp cận thông tin.

Trong quá trình sáp nhập NHTMCP, cổ đông sẽ phải đưa ra những

quyết định quan trọng để bảo vệ lợi ích của mình như quyết định rút lui khỏi

ngân hàng khi không đồng ý với Nghị quyết của ĐHĐCĐ về phương án sáp

nhập hay đồng ý với phương án sáp nhập và trở thành cổ đông của ngân hàng

nhận sáp nhập. Để đưa ra những quyết định quan trọng, liên quan trực tiếp

đến quyền lợi của mình, cổ đông cần phải được cung cấp và tiếp cận với

những thông tin về việc sáp nhập một cách kịp thời. Giá trị cổ phiếu là một

đại lượng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những luồng thông tin xung quanh hoạt

động của ngân hàng thương mại cổ phần và cũng quyết định lợi ích thu được

41

của cổ đông khi bỏ vốn đầu tư vào ngân hàng. Nếu được tiếp cận với những

thông tin công khai và đúng thời điểm, cổ đông sẽ có thể tận dụng và bảo toàn

được các lợi ích của mình. Hiện nay mới chỉ có cổ phiếu của 7 ngân hàng

được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán tập trung, đó là NHTMCP Sài

Gòn Thương Tín (Mã chứng khoán STB), NHTMCP Ngoại thương Việt Nam

(Mã chứng khoán VCB), NHTMCP Công thương Việt Nam (Mã chứng

khoán CTG) niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán TPHCM, NHTMCP Á

Châu (Mã chứng khoán ACB) và NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội (Mã chứng

khoán SHB) niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, Ngân

hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Mã chứng khoán EIB), NHTMCP

Nhà Hà Nội (mã chứng khoán HBB). Còn lại cổ phiếu của hơn 30 ngân hàng

khác vẫn chủ yếu được giao dịch trên thị trường tự do (OTC). Do không phải

chịu áp lực công bố thông tin như khi niêm yết trên sàn giao dịch chứng

khoán tập trung, phần lớn các ngân hàng có cổ phiếu chưa niêm yết đều chưa

thực hiện đầy đủ việc công bố thông tin định kỳ về hoạt động của mình và

mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các số liệu về doanh thu, lợi nhuận, dư nợ,

huy động vốn... Còn phần lớn những thông tin biến động khác về hoạt động

kinh doanh trong kỳ lại ít được công bố. Ngay cả cổ đông của công ty cũng

không nắm bắt hết được những thông tin về tình hình hoạt động của ngân

hàng cho đến khi họ biết được về đề án sáp nhập ngân hàng. Vì vậy họ sẽ rơi

vào trạng thái hoang mang và nghi ngờ hiệu quả của việc quyết định sáp

nhập, khó khăn trong việc đưa ra quyết định của mình. Có thể lấy ví dụ như

trường hợp cổ đông của ngân hàng Habubank cảm thấy hụt hẫng tột độ khi

tiếp nhận thông tin vốn chủ sở hữu của Habubank đang từ hơn 4.390 tỷ đồng

bỗng giảm xuống chỉ còn 195,3 tỷ đồng, theo báo cáo soát xét đặc biệt của

Ngân hàng Nhà nước vào trời điểm trước khi sáp nhập vào ngân hàng SHB

vào năm 2012. Chỉ mấy tháng trước trước khi cổ đông biết được thông tin

này, báo cáo tài chính năm có kiểm toán của Ngân hàng được kiểm toán bởi

42

Ernst & Young đã đưa ra một bức tranh Habubank, dù không hoành tráng như

nhiều NHTMCP lớn khác, nhưng cũng không đến mức u ám. Cuối năm 2011,

vốn chủ sở hữu của Habubank là hơn 4.390 tỷ đồng, với tỷ lệ nợ xấu trên tổng

dư nợ là 4,42%. Với số liệu này, nhiều cổ đông không thể hiểu nổi tại sao đã

có lúc giá cổ phiếu HBB giảm về mức gần 4.000 đồng/cổ phiếu. Khi đó, cổ

đông cũng chỉ có thể trách Ban lãnh đạo Habubank khi cho rằng, lẽ ra Ngân

hàng nên công bố thực trạng tài chính này từ trước, chứ không phải trong

hoàn cảnh chuẩn bị sáp nhập vào Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) mới

“nói trắng” ra như hiện nay [34].

Điều 9 Thông tư 36/2015/TT-NHNN ghi nhận nguyên tắc bảo mật

thông tin trong sáp nhập các tổ chức tín dụng như sau: Bảo mật thông tin

nhằm đảm bảo hoạt động ổn định của tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập, hợp

nhất trước khi Đề án sáp nhập, hợp nhất được cơ quan có thẩm quyền quyết

định của tổ chức tín dụng thông qua. Các hồ sơ tài liệu liên quan đến việc sáp

nhập, hợp nhất tổ chức tín dụng phải đảm bảo nguyên tắc thận trọng, trung

thực, chính xác, không gây hiểu nhầm. Trong giai đoạn đầu của quá trình sáp

nhập. Thế nhưng có trường hợp có người đã tiếp cận được thông tin và vi

phạm nguyên tắc bảo mật thông tin. Các thông tin bị lộ ra ngoài có thể ảnh

hưởng lớn đến giá trị cổ phiếu của các NHTMCP. Thông qua đó sẽ có những

cá nhân được hưởng lợi từ việc làm rò rỉ thông tin mật một cách có mục đích

nhưng cũng sẽ có nhiều người bị thua thiệt. Sự thiếu cẩn trọng và minh bạch

trong việc công bố các thông tin khiến cho các cổ đông hoang mang và mất

tiềm tin vào ban quản trị điều hành của ngân hàng. Quyền lợi của họ đã không

được bảo vệ trong quá trình sáp nhập ngân hàng.

 Quyền triệu tập ĐHĐCĐ

Pháp luật cho phép các cổ đông nhỏ lẻ liên kết với nhau thành nhóm cổ

đông có tỷ lệ sở hữu cổ phần từ 10% trở lên được triệu tập ĐHĐCĐ trong một

số trường hợp nhất định. Tuy nhiên việc liên kết này là không dễ dàng thực

43

hiện, nhất là với các NHTMCP đã niêm yết trên sàn chứng khoán. Đặc điểm

của các NHTMCP đã niêm yết là số lượng cổ đông luôn biến động không

ngừng qua từng ngày, nhất là đối với nhóm cổ đông thiểu số sở hữu một tỷ lệ

cổ phần rất nhỏ. Mỗi ngày, sàn giao dịch chứng khoán ghi nhận hàng chục

giao dịch, mua bán cổ phần của các nhà đầu tư vào các NHTMCP. Bởi vậy

nên thành phần và loại cổ đông trong công ty thay đổi liên tục. Các cổ đông

muốn liên kết với nhau phải thông qua Trung tâm lưu ký chứng khoán để có

danh sách và thông tin của cổ đông ngân hàng.

 Quyền tự do chuyển nhượng cổ phần và yêu cầu ngân hàng

mua lại cổ phần

Trước khi quá trình thực hiện việc sáp nhập NHTMCP, nghị quyết của

ĐHĐCĐ về phương án sáp nhập phải được thông qua bởi các cổ đông của cả

ngân hàng bị sáp nhập và ngân hàng nhận sáp nhập. Với trường hợp nghị

quyết về phương án sáp nhập đã được thông qua bởi số cổ đông đại diện trên

65% số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp hoặc công ty nhận sáp

nhập là thành viên, cổ đông sở hữu trên 65% vốn điều lệ hoặc cổ phần có

quyền biểu quyết của công ty bị sáp nhập thì việc biểu quyết không tán thành

với đề án sáp nhập của các cổ đông còn lại sẽ không còn ý nghĩa và không thể

làm thay đổi việc sáp nhập diễn ra. Lúc này cổ đông có quyền lựa chọn bán cổ

phần của mình cho người khác hoặc yêu cầu công ty mua lại cổ phần của

mình. Tuy nhiên, dù rút lui khỏi ngân hàng bằng cách nào, cổ đông cũng sẽ có

thể gặp những khó khăn trong việc thực hiện các quyền trên.

Trường hợp thứ nhất, cổ đông rút lui bằng cách chuyển nhượng cổ

phần. Nếu phản đối việc sáp nhập NHTMCP, cổ đông có thể bán cổ phần của

mình cho người khác nhưng quyền chuyển nhượng của họ có thể bị hạn chế

trong một số trường hợp được quy định trong Luật TCTD 2010:

i. Đối với việc chuyển nhượng cổ phần của cổ đông lớn, chuyển

nhượng cổ phần dẫn đến việc cổ đông lớn trở thành cổ đông thường và ngược

44

lại, TCTD phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi

thực hiện thủ tục thay đổi (Điều 29 Luật TCTD 2010)

ii. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được tự do

chuyển nhượng cổ phần.

iii. Trong thời gian đang xử lý hậu quả theo nghị quyết của Đại hội

đồng cổ đông hoặc theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước do trách nhiệm

cá nhân, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám

đốc (Giám đốc) không được chuyển nhượng cổ phần, trừ một trong các

trường hợp sau đây:

a) Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng

giám đốc (Giám đốc) là đại diện theo ủy quyền của cổ đông tổ chức bị sáp

nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật;

b) Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng

giám đốc (Giám đốc) bị buộc chuyển nhượng cổ phần theo quyết định của

Tòa án;

c) Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng

giám đốc (Giám đốc) chuyển nhượng cổ phần cho các nhà đầu tư khác nhằm

thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất bắt buộc quy định tại khoản 2 Điều 149 của

Luật này.

iv. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày được cấp Giấy phép, cổ

đông sáng lập chỉ được phép chuyển nhượng cổ phần cho các cổ đông sáng

lập khác với điều kiện bảo đảm các tỷ lệ sở hữu cổ phần quy định tại Điều

55 của Luật này.

Bên cạnh những hạn chế về chuyển nhượng được quy định trong luật,

cổ đông có thể phải chịu thiệt hại khi họ không được tiếp cận kịp thời với các

thông tin về sáp nhập ngân hàng. Giá trị cổ phiếu của các NHTMCP là một

đại lượng thay đổi khó lường và luôn chịu tác động của các luồng thông tin rò

rỉ ra ngoài thị trường. Trong một số thương vụ sáp nhập, khi thông tin sáp

45

nhập được hé lộ ra ngoài, ban đầu giá trị cổ phiếu của ngân hàng bị sáp nhập

có thể tăng lên cao nhưng sau đó sẽ giảm xuống. Nếu không nắm bắt được

thông tin kịp thời cho đến khi phải đưa ra quyết định về việc sáp nhập của

ngân hàng, cổ đông sẽ phải chịu thiệt thòi vì có chuyển nhượng cổ phần thì

cũng sẽ phải bán với giá thấp.

Trường hợp thứ hai, cổ đông có thể yêu cầu ngân hàng mua lại cổ phần

của mình nếu không đồng ý với phương án sáp nhập. Giá mua lại cổ phần của

cổ đông sẽ là giá thị trường hoặc giá được tính theo nguyên tắc quy định tại

Điều lệ công ty trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Trường hợp không thỏa thuận được về giá thì các bên có thể yêu cầu một tổ

chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá. Công ty giới thiệu ít nhất 03 tổ

chức thẩm định giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa chọn và lựa chọn đó là

quyết định cuối cùng [3]. Có thể thấy pháp luật quy định khá phức tạp về việc

xác định giá mua lại cổ phần và không có quy định riêng về xác định giá mua

lại đối với trường hợp sáp nhập NHTMCP, khiến cho cổ đông luôn ở thế bị

động trong việc rút lui. Trong trường hợp giá được xác định thông qua tổ

chức thẩm định giá, việc ai sẽ là bên trả chi phí thuê tổ chức thẩm định và

biện pháp xử lý khi các bên đều không chọn một trong ba tổ chức thẩm định

chuyên nghiệp thì lại chưa được quy định.

Việc mua lại cổ phần của cổ đông đồng nghĩa với việc một phần vốn của

NHTMCP sẽ trở thành cổ phiếu quỹ và ảnh hưởng đến việc định giá tài sản của

NHTMCP trong thỏa thuận sáp nhập. Từ đó việc quyết định tỷ lệ hoán đổi cổ

phần cũng sẽ bị tác động bởi sự định giá của ngân hàng, dẫn đến sự ảnh hưởng

đến quyền lợi của các nhóm cổ đông khác. Đặc biệt, do ngân hàng là một ngân

hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt nên việc mua lại cổ phần của cổ đông

sẽ phải chịu những hạn chế về đảm bảo vốn pháp định, tỷ lệ an toàn trong hoạt

động ngân hàng. Như vậy, việc mua lại cổ phần từ cổ đông của những ngân hàng

đang hoạt động trong tình trạng yếu kém sẽ rất khó khăn để có thể thực hiện.

46

 Quyền kiểm soát những giao dịch lớn, tư lợi nội gián

Hậu quả để lại từ những giao dịch tư lợi của Ban lãnh đạo các

NHTMCP trước tiên chính là các cổ đông phải là người gánh chịu, vì đối với

khách hàng, dù ít hay nhiều họ vẫn sẽ được hỗ trợ đảm bảo quyền lợi từ phía

NHNN. Nguyên nhân của những vụ việc này xuất phát từ quy định pháp luật

và cơ chế đảm bảo quyền giám sát của cả cổ đông, nhất là nhóm cổ đông

thiểu số còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ; đồng thời quyền tiếp cận thông tin,

chất vấn của cổ đông không được đảm bảo. Vậy nên họ không thể nắm bắt

được tình hình và kiểm soát được hoạt động của Ban quản trị.

2.2.3. Về các thiết chế nội bộ bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân

hàng thương mại cổ phần

Bên cạnh việc thực hiện các quyền được pháp luật quy định, cổ đông

còn được bảo vệ thông qua việc đưa đại diện của mình vào HĐQT, Ban lãnh

đão của NHTMCP. Tuy nhiên, việc phát huy hiệu quả của cơ chế này bộc lộ

những bất cập trong quá trình sáp nhập NHTMCP. Sau khi quá trình sáp nhập

được hoàn tất, cổ đông của ngân hàng bị sáp nhập sẽ trở thành cổ đông của

ngân hàng hàng nhận sáp nhập. Cổ phần của họ trong ngân hàng bị sáp nhập

sẽ được hoán đổi thành cổ phần của ngân hàng nhận sáp nhập theo tỷ lệ đã

được thông qua. Với tư cách là chủ sở hữu của ngân hàng nhận sáp nhập, các

cổ đông mới sẽ có thể sử dụng các quyền cổ đông để đạt được những lợi ích

và tham gia giám sát hoạt động của ngân hàng nhận sáp nhập. Tuy nhiên, với

quy định của pháp luật hiện hành, một số quyền của cổ đông mới ở ngân hàng

nhập sáp nhập sẽ bị vô hiệu hóa bởi thời gian nắm giữ cổ phiếu không đủ theo

quy định của luật. Theo quy định của LDN 2014 và Luật TCTD 2010, cổ

đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên

trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định

tại Điều lệ công ty có một số quyền quan trọng như Đề cử người vào Hội

đồng quản trị và Ban kiểm soát; Triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường trong

47

một số trường hợp; Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của

Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ

thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát. Về cơ bản, một

phần tài sản nhập vào khối tài sản của ngân hàng nhận sáp nhập là tài sản của

ngân hàng bị sáp nhập, trong đó có cả phần vốn góp của cổ đông ngân hàng bị

sáp nhập. Trước sáp nhập, họ có đầy đủ các quyền tương ứng với tỷ lệ sở hữu

cổ phần của mình và đã đáp ứng đủ thời hạn 6 tháng liên tục. Tuy nhiên sau

sáp nhập, cổ phiếu của ngân hàng bị sáp nhập được hoán đổi sang cổ phiếu

ngân hàng nhận sáp nhập. Thời hạn sở hữu cổ phần được tính lại từ đầu và

trong thời hạn chưa đủ 6 tháng liên tục, một số quyền của cổ đông sẽ không

thể thực hiện. Điều này tạo nên sự thiệt thòi cho các cổ đông mặc dù về bản

chất, thời hạn cổ đông góp vốn vào ngân hàng đã vượt qua 6 tháng liên tục.

Như vậy, cổ đông dù sở hữu tỷ lệ cổ phần đủ lớn vẫn không thể cử đại diện

của mình tham gia vào HĐQT của ngân hàng.

Sau sáp nhập, tỷ lệ sở hữu của các cổ đông trong ngân hàng bị sáp nhập

sẽ giảm đi. Lúc này, các cổ đông có thể gia tăng ảnh hưởng của mình nhờ

quyền được ưu tiên mua cổ phần. Việc phát hành thêm cổ phần phải đảm bảo

quyền lợi cho các cổ đông đang sở hữu loại cổ phần đó và trước tiên họ phải

được mua tương ứng với tỷ lệ loại cổ phần mà họ đang sở hữu. Đồng thời

phải đảm bảo tỷ lệ cổ phần do họ nắm giữ trong công ty trước và sau khi phát

hành thêm phải như nhau [15]. Nhưng thực tế, cổ đông chiến lược và Ban

điều hành có thể tạo ra những sự bất bình đẳng trong việc mua cổ phiếu mới

phát hành giữa các cổ đông. Cổ đông lớn lại được mua cổ phiếu với giá thấp,

thậm chí thấp hơn nhiều so với giá thị trường, cổ đông nhỏ phải mua với giá

cao. Cũng có trường hợp cổ đông được mua cổ phần phát hành với giá như

nhau nhưng tỷ lệ mua khác nhau. Ví dụ như cổ đông sáng lập sẽ được mua

nhiều hơn một cổ phần mới trên một phần cũ còn cổ đông nhỏ chỉ được mua

với tỷ lệ một cổ phần mới trên một cổ phần cũ.

48

BKS là cơ quan đại diện cho cổ đông giám sát hoạt động của thành

viên HĐQT. Pháp luật đã trao cho BKS các quyền để thực hiện chức năng

giám sát nhưng trên thực tế cơ quan này chưa phát huy vai trò bảo vệ cổ đông,

nhất là cổ đông thiểu số. Những hành vi vi phạm có thể xảy ra nhưng không

có tiếng cảnh báo từ BKS. Báo cáo của BKS thường không có giá trị đối với

cổ đông vì chủ yếu những báo cáo này đã được HĐQT chuẩn bị sẵn. BKS

được trao quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ bất thường khi phát hiện những quyết

định vượt quá thẩm quyền. Trong khi việc thực hiện quyền này đối với các cổ

đông nhỏ là rất khó, lẽ ra Ban kiểm soát cần phải tận dụng quyền hạn của

mình để ngăn chặn việc những người quản lý, điều hành thao túng, trục lợi

trong những quyết định liên quan đến quá trình sáp nhập. Tuy nhiên, thực tế

việc BKS thực hiện quyền này rất hiếm khi xảy ra.

49

Tiểu kết Chương 2

Trong nội dung của chương 2, khóa luận tập trung phân tích thực trạng

quy định pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP thông qua các

quy định pháp luật về quyền của của cổ đông với tư cách là chủ sở hữu của

ngân hàng như quyền biểu quyết, quyền chuyển nhượng cổ phần, quyền yêu

cầu mua lại cổ phần, quyền giám sát, quyền khởi kiện… và các thiết chế bên

trong ngân hàng như ĐHĐCĐ, HĐQT, BKS. Mặc dù pháp luật đã tạo ra cơ

chế bảo vệ cổ đông bằng cách trao cho cổ đông các quyền để bảo vệ lợi ích

của mình và thông qua các cơ quan đại diện trong ngân hàng nhưng vẫn còn

bộc lộ nhiều bất cập trong việc thực hiện các quyền đó.

Từ việc tìm hiểu thực trạng pháp luật, khóa luận trình bày thực tiễn thi

hành pháp luật bảo vệ quyền của cổ đông trong sáp nhập NHTMCP. Thực tế

đã chỉ ra một số điểm bất cập trong bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông

trong quá trình thực hiện sáp nhập các NHTMCP bao gồm các bất cập trong

trình tự, thủ tục trong sáp nhập NHTMCP, các khó khăn trong việc áp dụng

các quyền của cổ đông để bảo vệ chính họ và các điểm yếu kém trong cơ chế

bảo vệ cổ đông bằng các thiết chế bên trong ngân hàng. Kết quả nghiên cứu

của chương 2 chỉ ra sự cần thiết phải có những thay đổi phù hợp để đảm bảo

quyền và lợi ích của cổ đông NHTMCP nói chung và đặc biệt là trong quá

trình sáp nhập NHTMCP nói riêng.

50

Chương 3: CÁC KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

BẢO VỆ CỔ ĐÔNG TRONG SÁP NHẬP CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp

nhập ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam

Thực trạng pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP hiện

nay còn bộc lộ nhiều điểm bất cập. Pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp

nhập NHTMCP cần được hoàn thiện theo định hướng bảo vệ công bằng lợi

ích của các cổ đông, đảm bảo quyền tự do kinh doanh được ghi nhận trong

Hiến pháp 2013. Từ đó tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch,

tạo động lực khuyến khích nguồn đầu tư của xã hội vào các NHTMCP để nền

kinh tế phát triển một cách bền vững.

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP bao

gồm hoàn thiện những quy định của pháp luật doanh nghiệp, pháp luật về các

tổ chức tín dụng và hệ thống nghị định, thông tư gắn với việc bảo vệ cổ đông

trong quá trình sáp nhập NHTMCP. Hệ thống pháp luật cần có những quy

định cụ thể, chi tiết hơn để khắc phục những vấn đề bất cập phát sinh trong

thực tiễn bảo vệ cổ đông nói chung và đặc biệt là khi gắn liền với hoạt động

sáp nhập NHTMCP. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông

trong quá trình sáp nhập NHTMCP dựa trên những nguyên tắc sau:

Thứ nhất, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả

trong hệ thống pháp luật, phù hợp với các cam kết đối với các tổ chức quốc tế

mà Việt Nam là thành viên. Để đáp ứng yêu cầu về tính thống nhất, đồng bộ

của hệ thống pháp luật, các quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới ban hành

phải phù hợp với quy phạm do cơ quan cấp trên ban hành, các quy định do

cùng một cơ quan ban hành phải phù hợp với văn bản, quy phạm do chính cơ

quan mình đã ban hành trước đó, các quy phạm pháp luật trong một văn bản

quy phạm pháp luật phải thống nhất với nhau, văn bản quy phạm pháp luật và

các quy phạm pháp luật phải phù hợp với các điều ước quốc tế, thỏa thuận

quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

51

Thứ hai, cần đối xử công bằng, hài hòa lợi ích giữa các cổ đông của

NHTMCP. Các cổ đông của NHTMCP dù là đa số hay thiểu số, cổ đông

trong nước hay cổ đông nước ngoài đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, được

đối xử bình đẳng trong những tình huống khác nhau. Trong đó, việc bảo vệ cổ

đông phải chú ý đến việc bảo vệ nhóm cổ đông yếu thế là cổ đông thiểu số.

Tuy nhiên cũng cân đối với quyền tự nhiên, hợp lý của cổ đông chiến lược,

tránh việc thiên vị, gây khó dễ đối với các cổ đông lớn trong công ty. Hoàn

thiện pháp luật cần phải hài hòa lợi ích giữa các nhóm cổ đông để đảm bảo sự

phát triển và lợi ích của NHTMCP.

Thứ ba, cần phải tạo môi trường đầu tư thuận lợi, ổn định thông qua

hoạt động sáp nhập NHTMCP. Pháp luật cần tạo ra hành lang pháp lý minh

bạch hóa các giao dịch của các bên liên quan, thu hút vốn đầu tư từ xã hội,

đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài nhằm khắc phục sự yếu kém và phát triển

hệ thống ngân hàng thông qua hoạt động sáp nhập. Điều đó cũng hướng đến

việc ổn định kinh tế, xã hội, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, phát huy

tính cạnh tranh của các thành phần kinh tế.

3.2. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông trong sáp

nhập ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam

3.2.1. Về nguyên tắc định giá tài sản của ngân hàng thương mại cổ

phần trong quá trình sáp nhập

Hệ thống pháp luật cần có như quy định cụ thể hơn về nguyên tắc định

giá tài sản của ngân hàng bị sáp nhập. Các văn bản pháp luật cần nghiên cứu

và xây dựng quy định giá tài sản khi thực hiện sáp nhập các ngân hàng. Đặc

biệt, các văn bản này cần phản ánh được đầy đủ cách thức xác định giá trị vô

hình và hữu hình của ngân hàng. Việc định giá một ngân hàng không nhất

thiết phải sử dụng một phương pháp cụ thể, mà có thể áp dụng nhiều phương

pháp tùy theo điều kiện của từng ngân hàng. Các ngân hàng có thể tham khảo

một số phương pháp định giá như:

52

- Phương pháp chiết khấu theo dòng tiền, phương pháp này chỉ chính

xác khi áp dụng với các doanh nghiệp và ngân hàng đã có sự tăng trưởng ổn

định và dễ dự đoán như ở các nền kinh tế phát triển, tuy nhiên lại không phù

hợp với tình hình và bối cảnh của nước ta hiện nay. Phương pháp này phụ

thuộc rất nhiều vào các yếu tố giả định về thị trường cũng như khả năng tăng

trưởng trong tương lai. Mặt khác, các số liệu kế toán trong quá khứ của doanh

nghiệp và ngân hàng cũng chưa đủ độ tin cậy và chi tiết để có thể thực hiện

việc phân tích một cách chính xác [27].

- Phương pháp hệ số nhân doanh thu/lợi nhuận, phương pháp này

thường được nhà đầu tư lựa chọn thay thế, hoặc sử dụng cùng với phương

pháp chiết khấu dòng tiền. Với phương pháp này, nhà đầu tư sử dụng các số

liệu về doanh thu hay lợi nhuận, hoặc EPS của ngân hàng nhân với một hệ số

nhân mà có thể chấp nhận được trên thị trường. Tuy nhiên, phương pháp này

cũng có những hạn chế nhất định khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam

đang phát triển thì hệ số nhân này thường được nhà đầu tư trên thị trường

chấp nhận ở mức cao. Ngoài ra, phương pháp này chỉ sử dụng các số liệu về

lợi nhuận hiện tại cho các chỉ số P/E hiện tại, còn với các chỉ số P/E tương lai

thì cũng phải dùng phương pháp dự đoán tài chính như phương pháp chiết

khấu dòng tiền [27].

Các phương pháp định giá trên đôi khi sẽ những điểm hạn chế, khó áp

dụng vào tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay, tuy nhiên việc tham khảo

và nghiên cứu các phương pháp định giá như trên sẽ tạo tiền đề cho hoạt động

sáp nhập và mua lại trong tương lai của các ngân hàng.

Do trong quá trình sáp nhập, luôn tồn tại hai lợi ích trái ngược nhau của

bên sáp nhập và bên nhận sáp nhập. Chính vì vậy, việc định giá tài sản của

ngân hàng khi thực hiện sáp nhập có thể được quy định giao cho một chủ thể

gián tiếp thực hiện như là công ty kiểm toán hoặc tổ chức định giá chuyên

nghiệp, nhằm đảm bảo tính khách quan và đưa ra được một mức giá phù hợp.

53

3.2.2. Về thủ tục sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần

Về trình tự, thủ tục sáp nhập, Luật doanh nghiệp và Thông tư

36/2015/TT-NHNN mới chỉ xác lập nguyên tắc sáp nhập và hình thức pháp lý

cho các hoạt động sáp nhập. Tuy nhiên, cần có những hướng dẫn chi tiết riêng

về thủ tục sáp nhập NHTMCP, bao gồm các nội dung quy định về trình tự,

thủ tục liên quan đến hợp đồng sáp nhập; cách thức thông qua hợp đồng sáp

nhập; điều lệ công ty nhận sáp nhập; tiến hành đăng ký doanh nghiệp đối với

công ty bị sáp nhập; cách thức để công ty nhận sáp nhập được hưởng các

quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán;

hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập… Đặc

biệt là việc quy định riêng việc thực hiện quyền của cổ đông ngân hàng nhận

sáp nhập sau khi cổ phiếu của họ đã được hoán đổi thay vì áp dụng những quy

định chung về quyền của cổ đông trong LDN 2014. Những thỏa thuận nhằm

đảm bảo các quyền của cổ đông ngân hàng bị sáp nhập sau khi hoán đổi cổ

phiếu có thể được ghi nhận trong hợp đồng sáp nhập để các cổ đông đó vẫn

được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần

của mình.

Về hệ quả pháp lý khi sáp nhập, cần có các quy định chỉ rõ tư cách

pháp lý của ngân hàng sau khi sáp nhập, xác định trách nhiệm pháp lý về tài

sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của các bên thực hiện sáp nhập. Bên

cạnh đó, trong quá trình sáp nhập, giữa các bên có thể xảy ra tranh chấp. Các

tranh chấp tiềm ẩn trong khi quá trình thực hiện sáp nhập NHTMCP có thể rất

đa dạng, khó để có thể quy định chi tiết. Tuy nhiên pháp luật cũng cần xây

dựng các nguyên tắc cơ bản, cơ chế giải quyết tranh chấp có thể phát sinh để

làm cơ sở áp dụng trong việc giải quyết các tranh chấp đó.

3.2.3. Về quyền tiếp cận thông tin của cổ đông liên quan đến sáp

nhập ngân hàng thương mại cổ phần

Quyền tiếp cận thông tin của cổ đông cần được đảm bảo thông qua việc

54

bổ sung có các quy định về công khai thông tin liên quan đến quá trình sáp

nhập NHTMCP. NHNN cần xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp

luật quy định về công bố thông tin (trong đó có các chế tài thích hợp nếu

không tuân thủ) áp dụng đối với tất cả các ngân hàng thương mại nhằm bảo

đảm tính công khai, minh bạch về thông tin tài chính như các ngân hàng có cổ

phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán.

Ngoài ra, các thông tin liên quan đến hoạt động sáp nhập NHTMCP là

những thông tin quan trọng, có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của

ngân hàng bị sáp nhập. Vì vậy, cần phải quy định chặt chẽ về trách nhiệm của

các bên trong việc bảo mật thông tin trong quá trình đàm phán thương lượng

cho đến khi các nguyên tắc sáp nhập, quyết định sáp nhập được Ngân hàng

nhà nước thông qua. Ngoài ra, các quy định về công khai minh bạch báo cáo

tài chính trước khi tiến hành định giá ngân hàng cũng phải cụ thể hơn và chi

tiết hóa riêng trong trường hợp sáp nhập NHTMCP. Cần có những quy định

về trách nhiệm của bên bị sáp nhập cung cấp đầy đủ các thông tin, tình trạng

pháp lý và hoạt động một cách chính xác và trung thực của bên mình để bên

nhận sáp nhập xem xét tiến tới thực hiện giao dịch. Cụ thể là bên NHTMCP

bị sáp nhập có nghĩa vụ tạo điều kiện cho bên nhận sáp nhập khảo sát, tiếp

cận tài liệu, nghiên cứu hồ sơ, báo cáo tài chính, bảng kê tài sản, các giấy

chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, đất đai, các hợp đồng liên

quan đến ngân hàng. Qua đó, cổ đông mới có thể nắm bắt và nhận định một

cách đầy đủ về tình hình của ngân hàng, về thông tin của ngân hàng bị sáp

nhập và ngân hàng nhận sáp nhập để có cơ sở thông qua việc sáp nhập hay rút

lui khỏi ngân hàng để đảm bảo lợi ích của mình khi đầu tư. Giá trị ngân hàng,

tiến độ và chất lượng công tác định giá phụ thuộc rất nhiều vào sự trung thực,

đầy đủ, chính xác của thông tin số liệu, hợp lý của báo cáo tài chính ngân

hàng được định giá. Nhà nước cần có những quy định bắt buộc kế toán báo

cáo tài chính của ngân hàng phải xây dựng theo một số tiêu chuẩn quốc tế cơ

bản được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận cho tham gia thị trường

chứng khoán.

55

3.2.4. Về các thiết chế nội bộ bảo vệ cổ đông trong sáp nhập ngân

hàng thương mại cổ phần

Pháp luật cần quy định một cách chặt chẽ trách nhiệm, nghĩa vụ của

người quản lý, ban lãnh đạo của NHTMCP trong sáp nhập NHTMCP. Trong

suốt quá trình biểu quyết thông qua Đề án sáp nhập, cần phải quy định rõ

trách nhiệm trả lời chất vấn của lãnh đạo ngân hàng trước ĐHĐCĐ nhằm bảo

vệ quyền lợi của cổ đông trong việc tiếp nhận thông tin kịp thời và có căn cứ

để đưa ra quyết định. Hạn chế trường hợp cổ đông muốn chất vấn những

người quản lý, lãnh đạo ngân hàng những vấn đề xung quanh sáp nhập trực

tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông mà người có trách nhiệm lại trốn

tránh bằng cách giới hạn thời gian trả lời tại cuộc họp ĐHĐCĐ, khiến cho cổ

đông không nhận được lời giải thích thỏa đáng. Cần phải có các quy định cho

phép các cơ quan kiểm soát khác như BKS có quyền yêu cầu lãnh đạo ngân

hàng giải trình và thông báo cho cổ đông bằng hình thức khác như thông báo

và trả lời bằng văn bản. Bên cạnh đó, cần có những quy định cụ thể để gia

tăng trách nhiệm của những lãnh đạo ngân hàng khi đề kế hoạch kinh doanh

và phương hướng xử lý các khoản nợ sau khi sáp nhập. Điều này không chỉ

cần thiết đối với việc bảo vệ lợi ích của cổ đông mà còn đảm bảo lợi ích của

xã hội bởi việc định hướng hoạt động của ngân hàng sau sáp nhập có tính chất

quyết đến việc thành công của quy trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu đối với hệ

thống ngân hàng tại Việt Nam.

56

Tiểu kết Chương 3

Trong Chương 3, khóa luận đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp

luật bảo vệ cổ đông NHTMCP trước, trong và sau sáp nhập NHTMCP. Các

giải pháp được đưa ra dựa trên nguyên tắc thống nhất, đảm bảo sự đồng bộ và

phù hợp với đặc điểm của pháp luật Việt Nam.

Dựa trên những quan điểm, định hướng hoàn thiện pháp luật, khóa luận

đưa ra các giải pháp định giá ngân hàng trước khi sáp nhập, các kiến nghị

nhằm khắc phục những bất cập về thủ tục sáp nhập ngân hàng, đảm bảo

quyền được tiếp cận thông tin của cổ đông và nâng cao hiệu quả của các thiết

chế nội bộ bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP nhằm bảo vệ các lợi ích

của cổ đông cả hai phía ngân hàng tham gia sáp nhập.

57

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu đề tài Khóa luận “Pháp luật về bảo vệ cổ đông trong

sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam”, có thể rút ra một số kết

luận sau:

Thứ nhất, sáp nhập các NHTMCP dẫn đến việc chuyển giao tài sản,

quyền và nghĩa vụ hợp pháp của ngân hàng bị sáp nhập sang ngân hàng nhận

sáp nhập. Cổ đông ngân hàng sẽ có thể bị thiệt hại do sự suy giảm lợi nhuận.

Cổ đông phải lựa chọn giữa việc rút lui khỏi ngân hàng trước khi việc sáp

nhập diễn ra hoặc quyết định trở thành cổ đông của ngân hàng nhận sáp nhập.

Đối với cả hai bên ngân hàng sáp nhập và nhận sáp nhập, vấn đề bảo vệ cổ

đông luôn được đặt ra.

Thứ hai, để bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP, cần kết hợp các

cơ chế tự bảo vệ, cơ chế bảo vệ thông qua các thiết chế nội bộ bên trong và

các thiết chế bên ngoài.

Thứ ba, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ cổ

đông trong sáp nhập NHTMCP đã bộc lộ những bất cập trong thủ tục sáp

nhập, cụ thể là về việc định giá ngân hàng trước khi quyết định phương án sáp

nhập, quy trình hậu nhập. Một số quyền của cổ đông khi thực hiện gặp nhiều

khó khăn. Các thiết chế nội bộ chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong

việc bảo vệ cổ đông.

Thứ tư, khóa luận đưa ra một số giải pháp đề ra nhằm hoàn thiện pháp

luật bảo vệ cổ đông trong sáp nhập NHTMCP, khắc phục những bất cập còn

tồn tại qua thực tiễn thi hành pháp luật.

58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Quốc hội (2010), Luật các tổ chức tín dụng 1.

Quốc hội (2014), Luật doanh nghiệp 2.

Quốc hội (2014), Luật cạnh tranh 3.

Quốc hội (2006), Luật chứng khoán 4.

5. Quốc hội (2010), Luật chứng khoán sửa đổi, bổ sung

6. Chính phủ (2007), Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20/04/2007

về nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của Ngân hàng thương mại

Việt Nam, Hà Nội.

7. Chính phủ (2012), Quyết định số 254/2012/QĐ-TTg ngày

01/03/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ

thống các tổ chức tín dụng giai đoạn (2011-2015).

8. Ngân hàng Nhà nước (2010), Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày

11/02/2010 về quy định sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng.

9. Ngân hàng Nhà nước (2010), Thông tư số 36/2015/TT-NHNN ngày

31/12/2015 quy định việc tổ chức lại tổ chức tín dụng.

10. Ngân hàng Nhà nước (2010), Thông tư số 07/2007/TT-NHNN ngày

29/11/2007 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số

69/2007/NĐ-CP ngày 20/04/2007 về nhà đầu tư nước ngoài mua cổ

phần của Ngân hàng thương mại Việt Nam.

11. Nguyễn Thị Thu Hiền (2015), Hoàn thiện pháp luật về mua lại và

sáp nhập, hợp nhất ngân hàng ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật

kinh tế, Khoa Luật (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Dung (2013), Pháp luật về sáp nhập Ngân hàng Thương

mại Cổ phần ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Khoa Luật

(ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.

13. Nguyễn Thanh Huyền (2012), Xây dựng pháp luật về mua bán, sáp

59

nhập của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật

kinh tế, Khoa Luật (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.

14. Đỗ Thái Hán (2012), Bảo vệ Cổ đông thiểu số trong Công ty Cổ

phần ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế, Khoa Luật

(ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.

15. Trịnh Thị Lành (2016), Sự phát triển của pháp luật về bảo vệ cổ

đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ

Luật kinh tế, Khoa Luật (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.

16. Phạm Minh Sơn (2016), Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng

thương mại ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học

viện khoa học xã hội (Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam),

Hà Nội.

17. Nguyễn Phương Linh (2016), Hoạt động mua bán sáp nhập các ngân

hàng thương mại Việt Nam: Nghiên cứu thương vụ Ngân hàng

TMCP Phương Nam và Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín,

Luật văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng, Trường Đại Học Kinh Tế

(ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.

18. Nguyễn Thị Lan Hương (2017), “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ

đông trong sáp nhập công ty cổ phần”, Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp, 339 (11), tr.51-58.

19. Phan Ngọc Hà (2016), “Pháp luật về sáp nhập ngân hàng thương

mại cổ phần ở Việt Nam – Từ quy định đến thực tiễn”, Tạp chí

Khoa học ĐHQGHN, 32 (3/2016), tr.81-88.

20. Andrew J.Sherman, Milledge A.Hart, Mua lại và sáp nhập từ A đến

Z, NXB Tri thức, Hà Nội, 2009.

21. Nguyễn Thị Hải Hà (2010), Tìm hiểu vai trò của các chủ thể tham

gia trong một giao dịch M&A, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế

và Kinh doanh 26 (2010) tr.239-244.

60

22. Partrick A.Gaughan (2011), Mergers, Acquisisions, and Corporate

Restructurings.

23. Phan Ngọc Hà, Pháp luật về sáp nhập ngân hàng thương mại cổ

phần ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, 32 (3),

tr.81-88

24. Bùi Xuân Hải (2007), Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của

pháp luật công ty Việt Nam, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4.

25. Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội (2012), Tóm tắt

dự thảo đề án, hợp đồng sáp nhập ngân hàng HBB vào ngân hàng

SHB, Trang thông tin điện tử của ngân hàng SHB.

26. Trang tin điện tử của Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội

(http://cbbank.vn)

27. LS., ThS. Phan Diên Vỹ, Định giá tài sản trong hoạt động ngân hàng

– thực trạng và giải pháp, www.sbv.gov.vn, cập nhật lúc 10:21 ngày

18/3/2018.

28. Nguyễn Thị Hoài Thương (2017), “Bảo vệ quyền lợi của cổ đông

thiểu số, một số điểm cần lưu ý”, http://luatviet.co/bao-ve-quyen-

loi-cua-co-dong-thieu-so-mot-so-diem-can-luu-

y/n20170524045758629.html, cập nhật lúc 8:00 ngày 4/4/2018.

29. Ngọc Toàn (2017), “Nỗi lòng cổ đông ngân hàng mỏi mòn chờ sáp

nhập”, http://cafef.vn/noi-long-co-dong-ngan-hang-moi-mon-cho-

sap-nhap-20170423150702767.chn, cập nhật lúc 21:33 ngày

17/3/2018

30. Góc khuất của những cuộc sáp nhập ngân hàng,

https://baomoi.com/goc-khuat-cua-nhung-cuoc-sap-nhap-ngan-

hang/c/17062568.epi, cập nhật lúc 10:01 ngày 4/4/2018.

31. Thùy Vinh (2015), “Cổ đông lo bị thiệt khi sáp nhập ngân hàng”,

http://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/co-dong-lo-bi-thiet-khi-sap-

61

nhap-ngan-hang-119240.html, cập nhật lúc 17:49 ngày 11/3/2018.

32. Kim Tiền (2016), “5 cặp ngân hàng sau sáp nhập bây giờ ra sao?”,

http://cafef.vn/5-cap-ngan-hang-sau-sap-nhap-bay-gio-ra-sao-

20161212154305455.chn, cập nhật lúc 21:45 ngày 11/3/2018.

33. Nguyễn Đức Phương, “Bản chất pháp lý của mua bán, sáp nhập

doanh nghiệp”, Tạp chí dân chủ và pháp luật,

http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/phap-luat-kinh-

te.aspx?ItemID=175, cập nhật lúc 22:04 ngày 6/3/2018.

34. “M&A ngân hàng: Quyền lợi cổ đông nhỏ bị ảnh hưởng nặng nề”,

http://kinhdoanhnet.vn/ngan-hang/manda-ngan-hang-quyen-loi-co-

dong-nho-bi-anh-huong-nang-ne_t114c9n19016, cập nhật lúc 8:30

ngày 14/3/2018.

35. Từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia

https://vi.wikipedia.org/wiki/Mua_b%C3%A1n_v%C3%A0_s%C3

%A1p_nh%E1%BA%ADp, cập nhật lúc 14:45 ngày 3/4/2018.

62

PHỤ LỤC

Một số vụ sáp nhập ngân hàng thương mại cổ phần

 Vụ sáp nhập giữa NHTMCP Nhà Hà Nội (HBB) và NHTMCP Sài

Gòn – Hà Nội (SHB) [25], [26], [32]

Năm 2012, NHTMCP Nhà Hà Nội (HBB) gặp khó khăn trong vấn đề

tài chính từ việc tập trung dư nợ cho vay các công ty thuộc Tập đoàn Vinashin

trước đây. Do các cổ đông hiện hữu chưa sẵn sàng để bổ sung vốn góp trong

giai đoạn đó, ban lãnh đạo HBB đã quyết định lựa chọn giải pháp sáp nhập

HBB vào SHB. Thương vụ này là hình thức sáp nhập được cho phép giữa hai

NHTMCP trong nước với nhau, thực hiện sự tự nguyện giữa các bên tham gia

sáp nhập, không thuộc trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo quy định của

Luật cạnh tranh năm 2005. Hai bên đã phối hợp xây dựng đề án sáp nhập theo

quy định tại Thông tư 04/2010/TT-NHNN của NHNN. Đề án sáp nhập giữa

hai ngân hàng SHB và HBB xác định vốn điều lệ mới của ngân hàng sau sáp

nhập là vốn điều lệ cộng ngang của hai ngân hàng, được phân chia cho các cổ

đông của SHB và HBB theo tỷ lệ thỏa thuận hợp tác được ký kết giữa hai

ngân hàng. Ngân hàng sau khi sáp nhập đăng ký vốn điều lệ mới là

8.865.795.470.000 đồng.

Theo đề án sáp nhập hai ngân hàng, báo cáo kết quả hoạt động kinh

doanh của HBB đã được kiểm toán soát xét đặc biệt theo yêu cầu của NHNN

và tạo ra một khoản lỗ 4.066 tỷ đồng so với vốn điều lệ là 4.050 tỷ đồng. Tuy

nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông cũng như tạo thuận lợi cho sự

pháp triển của ngân hàng sau sáp nhập, SHB sau sáp nhập đã đề nghị xin cổ

đông thông qua phương án trích dự phòng rủi ro cho các khoản cho vay và

đầu tư trái phiếu của Vinashin trong vòng 5 năm, mỗi năm khoảng 372 tỷ

đồng dự phòng cho vay và 75,2 tỷ đồng dự phòng trái phiếu Vinashin. Theo

đó, số lũy kế HBB tại thời điểm 29/02/2012 sẽ là 1.829 tỷ đồng. Nếu không

63

xử lý trích lập dự phòng như vậy, trường hợp HBB có khoản lỗ lớn hơn vốn

điều lệ sẽ bị mua lại bắt buộc theo quy đinh hiện hành chứ không thể thực

hiện tự nguyện giữa các bên. Đây là một hành động kịp thời nhằm đảm bảo cổ

đông hai ngân hàng có thể tự quyết định phương án sáp nhập.

Để triển khai sáp nhập, hai ngân hàng đã phối hợp xây dựng đề án, hợp

đồng sáp nhập và điều lệ của SHB – ngân hàng nhận sáp nhập theo quy định

của Thông tư 04/2010/NHNN. Dự thảo đề án sáp nhập HBB và SHB được

HĐQT của HBB trình ĐHĐCĐ xem xét (ngày 28/4/2012). Đối với các ngân

hàng HBB và SHB, do các ngân hàng niêm yết nên phải có quyết định ở ba

cấp thẩm quyền là ĐCĐCĐ, NHNN và Ủy ban chứng khoán nhà nước mới

được tiến hành sáp nhập. Phương án sáp nhập đã được hơn 85% cổ đông

HBB thông qua tại cuộc họp ĐHĐCĐ, cao hơn quy định tại điều lệ của HBB

ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết thông qua. Vấn đề đặt ra là

việc bảo vệ quyền lợi của số cổ đông không tán thành với đề án, hợp đồng sáp

nhập. Họ sẽ phải dựa vào những quy định về quyền của cổ đông để lựa chọn

phương án rút khỏi ngân hàng.

ĐHĐCĐ của ngân hàng SHB (ngày 5/5/2012) được 99,4% biểu quyết

thông qua giao dịch sáp nhập HBB vào SHB, bao gồm cả việc thông qua đề

án sáp nhập, hợp đồng sáp nhập, điều lệ ngân hàng sau sáp nhập. Theo đó,

giao dịch sáp nhập sẽ được thực hiện thông qua việc hoán đổi các cổ phần

của HBB và SHB. SHB sẽ phát hành 405 triệu cổ phần cho đối tượng là cổ

đông của các bên theo danh sách cổ đông tại thời điểm chốt danh sách có

xác nhận của Trung tâm Lưu ký Chứng Khoán Việt Nam. Việc hoán đổi cổ

phần được phân bổ như sau: 303.750.000 cổ phần được phân bổ cho các cổ

đông của HBB (01 cổ phiếu của HBB được quyền nhận 0,75 cổ phiếu của

SHB); 101.250.000 cổ phần được phân bổ cho các cổ đông của SHB (cổ

đông hiện hữu của SHB tại thời điểm sáp nhập được quyền nhận thêm 0,25

cổ phiếu của SHB).

64

Hợp đồng sáp nhập quy định, tại thời điểm có hiệu lực của việc sáp

nhập, giấy chứng nhận sở hữu cổ phần do HBB phát hành và đang tồn tại

được chuyển đổi thành quyền nhận số cổ phần của SHB theo tỷ lệ hoán đổi đã

được thống nhất. Không một cổ đông hưởng quyền nào được quyền giữ lại

và/yêu cầu SHB hoán đổi một phần hoặc toàn bộ cổ phần của HBB thuộc sở

hữu của mình lấy tiền mặt, tài sản hoặc bất kỳ giá trị nào khác mà không phải

là cổ phần của SHB.

Một nội dung nữa đáng chú ý trong hợp đồng sáp nhập giữa SHB và

HBB là kể từ ngày hợp đồng sáp nhập được ký kết cho đến Ngày sáp nhập

(ngày có hiệu lực của Chấp thuận sáp nhập ghi trên Chấp nhận sáp nhập do

NHNN cấp), các bên tham gia sáp nhập cam kết không thực hiện việc chia,

tách cổ phiếu, chia cổ tức bằng cổ phiếu hay làm tăng giảm số cổ phiếu đang

hiện hữu, pha loãng cổ phiếu dưới bất kì hình thức nào. Quy định này đặt ra

để tránh sự thay đổi về giá trị tài sản của ngân hàng và tính hợp lý của tỷ lệ

hoán đổi đã được thống nhất. Sự thay đổi này có thể làm ảnh hưởng đến lợi

ích của cổ đông cả hai ngân hàng sáp nhập và bị sáp nhập khi cổ phiếu của họ

được hoán đổi.

Về hoạt động của ngân hàng sau sáp nhập, trong trường hợp cổ đông là

thành viên HĐQT của HBB có nguyện vọng tham gia HĐQT mới sau sáp

nhập thì sẽ xin ý kiến ĐHĐCĐ và bầu bổ sung. Bằng cơ chế này, cổ đông của

HBB có thể bảo vệ quyền tham gia quản lý của mình sau khi ngân hàng bị sáp

nhập vào ngân hàng SHB bằng cách gửi đại diện của mình trong Ban điều

hành của ngân hàng mới.

Sau sáp nhập, lợi ích của cổ đông sẽ phụ thuộc vào giá trị tài sản và khả

năng sinh lời sau khi có sự kết hợp của hai ngân hàng. Sau thương vụ sáp

nhập, tỷ lệ nợ xấu của SHB tăng cao do phải tiếp nhận nhiều khoản nợ xấu

của HBB. Trước sáp nhập, nợ xấu SHB chỉ 2,67%, đón nhận HBB, nợ xấu

đột biến tới 8,52%. Trong thời gian này, cổ đông của SHB bị thiệt hại do giá

65

cổ phiếu xuống thấp và có thời điểm, cổ tức được trả với mức thấp hoặc

không được trả.

 Vụ sáp nhập giữa NHTMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và

NHTMCP Phương Nam (Southern Bank) [31]

Mặc dù đã được NHNN chấp thuận chủ trương sáp nhập năm 2012,

nhưng đến năm 2014, việc sáp nhập giữa Southern Bank và Sacombank vẫn

chưa chính thức được thông qua. Việc SouthernBank phải sáp nhập vào

Sacombank là điều có thể dự đoán được, nhưng vấn đề quan tâm của cổ đông

Sacombank là tỷ lệ chuyển đổi cổ phiếu khi sáp nhập được quyết định ở mức

nào.

Tại kỳ ĐHĐCĐ thường niên SouthernBank diễn ra vào ngày

20/4/2015, cố vấn HĐQT SouthernBank là ông Trầm Bê cho biết, tỷ lệ

chuyển đổi cổ phiếu khi sáp nhập là 1:0,75 (tức một cổ phiếu của

SouthernBank sẽ được chuyển đổi thành 0,75 cổ phiếu của Sacombank). Với

tỷ lệ chuyển đổi này, cổ đông SouthernBank tỏ ra bằng lòng, vì giá cổ phiếu

SouthernBank hiện giao dịch trên thị trường OTC chỉ khoảng 5.000 đồng/cổ

phiếu, trong khi giá cổ phiếu STB của Sacombank đang giao dịch trên sàn

HOSE ở mức khoảng 18.000 đồng/cổ phiếu. Như vậy, sau sáp nhập, cổ đông

SouthernBank sẽ được hưởng lợi.

Nhưng điều này cũng chính là yếu tố khiến cổ đông của Sacombank

không khỏi bức xúc khi đặt ra nhiều câu hỏi chất vấn HĐQT Sacombank tại

kỳ ĐHCĐ thường niên diễn ra ngày 21/4/2015. Cổ đông Sacombank cho

rằng, với năng lực của SouthernBank hiện tại, lợi nhuận sụt giảm trong 3 năm

liền, nợ xấu tăng mạnh…, thì sáp nhập vào sẽ kéo lùi hoạt động của

Sacombank ít nhất là 3 năm đầu.

Đồng thời, với tỷ lệ chuyển đổi cổ phiếu như thông tin trên sẽ có phần

thiệt cho cổ đông của Sacombank, bởi sau sáp nhập, nếu cổ phiếu Sacombank

giảm, ai sẽ là người bảo vệ quyền lợi cho cổ đông của Ngân hàng? Thêm vào

66

đó, sáp nhập vào Sacombank, cổ đông của SouthernBank không chỉ được

hưởng lợi về giá cổ phiếu, mà sẽ được nhận cổ tức nếu Sacombank được

NHNN chấp thuận cho chia cổ tức ở mức đưa ra cho năm 2013 (8,5% bằng cổ

phiếu) và năm 2014 (12% bằng cổ phiếu).

Trong quá trình chuẩn bị cho việc sáp nhập này, có thể thấy được sự

xung đột lợi ích giữa cổ đông của hai ngân hàng. Với tình hình tài chính yếu

kém của Southern Bank vào thời điểm chuẩn bị sáp nhập, việc sáp nhập vào

Sacombank mang tính chất cứu cánh cho tình hình kinh doanh của Southern

Bank. Việc Sacombank sẽ bị sụt giảm lợi nhuận ngay sau khi sáp nhập là điều

khó tránh khỏi. Lúc này, quyền của cổ đông ngân hàng Sacombank sẽ bị ảnh

hưởng nghiêm trọng khi kết quả kinh doanh của ngân hàng bị sụt giảm và giá

trị cổ phiếu giảm xuống. Tỷ lệ hoán đổi cổ phần cũng ảnh hưởng đến quyền

lợi của cổ đông cả hai ngân hàng.

67