BỘ NỘI VỤ TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
Ở THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM
Khóa luận tốt nghiệp ngành : CHÍNH TRỊ HỌC
Người hướng dẫn : THS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA
Sinh viên thực hiện : ĐOÀN QUỲNH TRANG
Mã số sinh viên : 1705CTHB061
Khóa : 2017-2021
Lớp : 1705CTHB
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Khóa luận tốt nghiệp: “Thực hiện chính sách an sinh xã
hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dựa
trên những kiến thức chuyên ngành, quá trình thu thập tài liệu, số liệu thống kê của
Uỷ ban nhân dân Thành phố Phủ Lý và dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Thị
Phương Hoa.
Các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu trong Khóa luận là trung thực và
chưa từng công bố tại trong bất kì khóa luận nào trước đây. Các số liệu tại bảng
biểu phục vụ việc phân tích, nhận xét và đánh giá được chính tôi thu thập và có ghi
trong danh mục tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong Khóa luận có sử dụng một số quan điểm nhận xét, đánh giá
của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và trong một số văn kiện của Đảng đều có
trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Sinh viên thực hiện
Đoàn Quỳnh Trang
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được Khóa luận này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi
còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo tại Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội đã tạo mọi điều kiện trong quá trình học tập, nghiên cứu và làm Khóa
luận tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Nguyễn Thị Phương Hoa - người
hướng dẫn khoa học đã rất nhiệt tình với tinh thần trách nhiệm cao giúp tôi hoàn thành
Khóa luận.
Tôi cũng xin cảm ơn lãnh đạo, các cán bộ, công chức của Uỷ ban nhân dân
Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã giúp đỡ trong thời gian tôi tìm hiểu tình hình
thực tế, cung cấp tài liệu và số liệu để tôi có thể hoàn thành Khóa luận.
Do còn hạn chế về mặt thời gian và năng lực cá nhân nên trong quá trình
thực hiện Khóa luận còn nhiều thiếu xót chưa được khắc phục và hoàn thiện.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của quý thầy cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2021
Sinh viên thực hiện
Đoàn Quỳnh Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ
1 ASXH An sinh xã hội
2 BHXH Bảo hiểm xã hội
3 BHYT Bảo hiểm y tế
4 UBND Uỷ ban nhân dân
5 XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số liệu các đối tượng thụ hưởng chính sách Bảo trợ xã hội ..................... 28
Bảng 2.2: Kết quả thực hiện chính sách Ưu đãi xã hội giai đoạn 2016 - 2020 ........ 29
Bảng 2.3: Số đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội theo loại hình quản lý ............... 31
Bảng 2.4: Tỷ lệ các nhóm đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế................................... 35
Bảng 2.5: Hộ nghèo, hộ cận nghèo từ năm 2016 đến năm 2020 .............................. 35
Bảng 2.6: Tín dụng cho hộ nghèo ở thành phố Phủ Lý giai đoạn 2016 - 2020. ....... 36
Bảng 2.7: Số lao động nông thôn được đào tạo nghề trong giai đoạn 2016 - 2020 .. 37
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4
5. Giả thuyết khoa học ........................................................................................ 5
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5
7. Ý nghĩa của khóa luận ..................................................................................... 5
8. Bố cục của khóa luận ...................................................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 7
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH
XÃ HỘI ...................................................................................................................... 7 1.1. Các khái niệm cơ bản ................................................................................... 7
1.1.1. Chính sách ................................................................................................. 7
1.1.2. An sinh xã hội ........................................................................................... 7
1.1.3. Chính sách an sinh xã hội ....................................................................... 10
1.1.4. Thực hiện chính sách an sinh xã hội ....................................................... 11
1.2. Các chính sách an sinh xã hội cơ bản ở Việt Nam ..................................... 14
1.2.1. Chính sách bảo trợ xã hội ........................................................................ 14
1.2.2. Chính sách ưu đãi xã hội ......................................................................... 15 1.2.3. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ............................................ 16
1.2.4. Chính sách xóa đói giảm nghèo .............................................................. 18
1.3. Vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam ........................................................................................................... 19 1.3.1. Vai trò của thực hiện chính sách an sinh xã hội ...................................... 19
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách an sinh xã hội ............. 20 Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 21
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM .................................................... 23 2.1. Khái quát về thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ........................................... 23
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân số, hành chính ................................................... 23
2.1.2. Kinh tế - xã hội ........................................................................................ 24
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ............................................................................................................. 26
2.2.1. Chính sách bảo trợ xã hội ........................................................................ 27
2.2.2. Chính sách ưu đãi xã hội ......................................................................... 28
2.2.3. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ............................................ 30 2.2.4. Chính sách xóa đói giảm nghèo .............................................................. 35 2.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ...................................................................................................... 38
2.3.1. Những kết quả đạt được .......................................................................... 38
2.3.2. Những hạn chế tồn tại ............................................................................. 39
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế ....................................................................... 41
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 42
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM ....................... 44
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành
phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ................................................................................. 44
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ....................................................................... 46
3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cấp ủy Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ về
vai trò của chính sách an sinh xã hội ................................................................ 46
3.2.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác an sinh xã hội ............................... 47
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính
sách an sinh xã hội. ........................................................................................... 49
3.2.4. Phát triển kinh tế gắn với thực hiện chính sách an sinh xã hội ............... 51 3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách an
sinh xã hội. ........................................................................................................ 54
3.2.6. Tăng cường khả năng “tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng. ................ 56 Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 59
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 61 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 64
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
An sinh xã hội (ASXH) là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhằm
góp phần thực hiện mục tiêu phát triển con người, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã
hội. Thực hiện chính sách ASXH là sự thể hiện rõ tính ưu việt định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN) của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Những năm qua, Đảng
và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH,
coi đây vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị -
xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định:
“Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội;
thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
nhân dân, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động,
việc làm, thu nhập” [16, tr.76-78].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu lên một
trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, đó là “Quản lý
phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con
người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo
đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế,
chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo
đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an
sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân” [17].
Nhờ thực hiện tốt các chính sách ASXH trong thời gian qua đã góp phần
giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp
người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đời sống vật chất và tinh thần của người có
công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố lòng
tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội; nước ta được Liên hợp quốc công
nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục tiêu Thiên
niên kỷ [6, tr.70-71].
Thành phố Phủ Lý là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh Hà Nam.
1
Từ khi được thành lập cho đến nay, thành phố Phủ Lý đã có bước chuyển mình
mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, hội tụ đầy
đủ những điều kiện phát triển theo định hướng của quốc gia. Những năm qua với
chủ trương, chính sách phù hợp, thành phố Phủ Lý đã từng bước thực hiện tốt chính
sách ASXH, đời sống của người dân được đảm bảo, kinh tế, chính trị, xã hội ngày
càng phát triển ổn định. Tuy vậy, việc thực hiện chính sách ASXH vẫn còn một số
hạn chế: Tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, thực hiện trợ cấp xã hội chưa
thật sự hiệu quả, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người dân nhất là với người
nghèo còn hạn chế, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế
(BHYT) còn thấp…
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, đánh giá thực trạng việc thực
hiện chính sách xã hội, đề xuất những giải pháp khả thi nhằm thực hiện có hiệu quả
hơn về chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý vừa có ý nghĩa lý luận, vừa
mang tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những lý do đó, tác giả
lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh
Hà Nam” với mong muốn được mang những kiến thức học tập của mình góp phần
nhỏ trong việc thực hiện nhiệm vụ đảm bảo ASXH trên địa bàn thành phố trong thời
gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
ASXH là vấn đề của toàn xã hội, mang ý nghĩa nhân đạo và cộng đồng sâu
sắc đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Do đó, nhiều
công trình đã được công bố, đề cập những khía cạnh khác nhau, với nội dung và
cách tiếp cận phong phú, đa dạng. Trong đó có những công trình tiêu biểu về vấn đề
này mà tác giả tìm đọc, phân tích và có thể lựa chọn những bài học phù hợp với nội
dung nghiên cứu của đề tài:
“Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách An sinh xã hội ở Việt Nam”
của Mai Ngọc Cường là công trình nghiên cứu có hệ thống về chính sách ASXH ở
Việt Nam hiện nay khi làm rõ được những vấn đề cốt yếu của chính sách, rút ra
được những điểm c n vướng mắc.
“Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện
chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Chiểu đã đề cập đến một
2
số vấn đề lý luận cơ bản chính sách ASXH và kinh nghiệm một số nước, thực trạng
thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam trong gần 30 năm thực hiện đường lối đổi
mới, vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam hiện
nay, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò của Nhà nước
trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam. Với tư liệu này, Khoá luận đã
kế thừa nội dung tính tất yếu, vai trò và yêu cầu đặt ra đối với Nhà nước trong việc
thực hiện chính sách ASXH.
“An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới năm 2020” của Vũ Văn Phúc đã đề
cập đến những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm của thế giới về ASXH: Quan
điểm và cách tiếp cận về ASXH, xây dựng và thực hiện hệ thống về ASXH ở nước
ta trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN; những vấn đề thực tiễn về
ASXH ở nước ta là xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam, BHXH và
BHYT; ASXH cho cư dân vùng nông thôn, vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng dân
tộc và miền núi, đào tạo nghề. Cuốn sách đã phác họa bức tranh tổng thể về cơ sở lý
luận và những vấn đề thực tiễn về ASXH ở nước ta. Tuy nhiên, các chuyên đề, bài
viết của chuyên gia chưa được tổng quan hóa nên tính logich của các nội dung vẫn
còn bất cập.
Đề tài “Phát triển hệ thống An sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020” của
Nguyễn Thị Lan Hương, thuộc Viện khoa học Lao động và xã hội đã đưa ra những
vấn đề chung của ASXH, nguyên tắc xây dựng hệ thống ASXH, nhìn nhận đánh giá
tình hình thực hiện chính sách ASXH ở nước ta. Đặc biệt đề tài đã đưa ra các mô
hình hệ thống ASXH của một số nước trên thế giới để từ đó người đọc có thể so
sánh đối với mô hình ASXH ở Việt Nam. Qua đó có thể nhận thấy những nét đặc
thù riêng biệt trong hệ thống ASXH ở nước ta. Ngoài ra, đề tài c n đưa ra những
nhận định, mục tiêu phương hướng thực hiện các chính sách ASXH ở nước ta đến
năm 2020, để người đọc có thể “hình dung” quá trình thực hiện ASXH trong thời
gian tới, có thêm thế giới quan sinh động về ASXH nói chung và ASXH ở Việt
Nam nói riêng.
Luận án Tiến sỹ “Đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội”
của Đông Thị Hồng, có những đặc điểm riêng biệt khi có sự đánh giá mối quan hệ
giữa đảm bảo ASXH với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3
Đồng thời Luận án cũng đã đánh giá khá chi tiết những điều kiện và kinh tế ảnh
hưởng đến đảm bảo ASXH và đưa ra những giải pháp rất thiết thực, phù hợp để
nâng cao hiệu quả chính sách ASXH trong giai đoạn 2010 - 2015.
Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu tình
hình thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Các
nghiên cứu nêu trên đã cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn cơ bản cho đề tài
Khoá luận khi nghiên cứu về thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh
Hà Nam. Đây là những tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa để tác giả làm rõ cơ sở lý
luận về chính sách ASXH; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả của việc thực thi chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ASXH;
phân tích thực trạng thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam;
đồng thời đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, Khoá luận tập trung vào các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ASXH ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh
Hà Nam thời gian qua; chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách ASXH ở thành
phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trên các lĩnh vực bảo trợ xã hội, ưu đãi xã hội, BHXH,
BHYT, xoá đói giảm nghèo... được thể hiện trong các chương trình ASXH có tính
“đặc thù” của thành phố Phủ Lý.
4
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Khoá luận giới hạn phạm vi nghiên cứu các
chính sách quản lý Nhà nước về ASXH, từ đó nghiên cứu việc thực hiện
chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam gắn với phát triển kinh
tế - xã hội địa phương.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách ASXH ở thành
phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giai đoạn 2016 - 2020.
5. Giả thuyết khoa học
Chính sách ASXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng không
chỉ ở thành phố Phủ Lý mà còn trên bình diện chung của cả đất nước. Việc xác định
hướng đi đúng đắn trong thực hiện ASXH ở thành phố Phủ Lý sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả trong việc phát triển con người, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội ở
thành phố Phủ Lý. Nếu công tác thực hiện ASXH được quan tâm đúng mức, phù
hợp, đồng bộ, khả thi thì đội ngũ công chức thực hiện ASXH tại thành phố Phủ Lý
sẽ đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới, những đ i hỏi mới của chính sách ASXH
trong giai đoạn hiện nay và thời gian sắp tới.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời cũng xuất phát từ chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, các Nghị định, Quyết định của Chính phủ và của Ủy ban nhân
dân (UBND) thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam về ASXH.
Các phương pháp được sử dụng cụ thể là:
- Phương pháp tổng hợp: Liên kết, sắp xếp các tài liệu, thông tin lý thuyết đã thu
thập được để tạo thành hệ thống đầy đủ, toàn diện phục vụ có hiệu quả cho đề tài.
- Phương pháp so sánh và xử lý số liệu: Thực hiện so sánh và phân tích các
số liệu thu thập được trên cơ sở đó tổng hợp khái quát hóa rút ra các kết luận, các
nhận định, phục vụ mục đích nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Thực hiện tại các phòng ban, cơ quan thành
phố Phủ Lý nhằm thu thập bổ sung các tư liệu thực tế.
7. Ý nghĩa của khóa luận
Khoá luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những tổ chức, cá nhân
5
quan tâm đến vấn đề chính sách ASXH. Tác giả cũng mong muốn những kết quả
nghiên cứu của Khoá luận góp phần vào việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Khoá luận được
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ
Lý, tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
6
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Chính sách
Chính sách (Policy) là những hướng dẫn, phương pháp, thủ tục, luật lệ, biểu
mẫu cụ thể và những công việc hành chính được thiết lập để hỗ trợ và thúc đẩy công
việc hướng tới các mục tiêu đề ra. Theo Từ điển tiếng Việt, chính sách được hiểu là
“sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối
chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…” [35]. Có thể hiểu, chính
sách là những quy định, quyết định được thể chế hóa bởi các cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của
con người và giải quyết những vấn đề xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu đã được
xác định. Chính sách điều chỉnh những quan hệ ít mang tính ổn định, mềm dẻo, linh
hoạt và có tác động nhanh, kịp thời, mạnh mẽ, toàn diện đến cả nhận thức, thái độ và
hành vi của các chủ thể bị tác động.
Chính sách có vai tr định hướng cho các hoạt động kinh tế - xã hội; phát
huy những mặt tốt của nền kinh tế thị trường và hạn chế những tiêu cực của nó;
tạo lập sự cân đối trong phát triển; kiểm soát và phân phối nguồn lực cho quá trình
phát triển; tạo lập môi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội, giúp
cho các thực thể vận động phát triển theo đúng quy luật; phối hợp hoạt động giữa
các cấp độ, các bộ phận để tạo nên tính hệ thống chặt chẽ trong quá trình vận động
của thực thể [18].
1.1.2. An sinh xã hội
ASXH luôn được coi là một trong những vấn đề cốt lõi của sự phát triển xã
hội. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể có quan niệm
khác nhau đối với sự phát triển hệ thống ASXH. ASXH theo quan niệm của một số
tổ chức quốc tế cũng có mức độ rộng, hẹp và đối tượng đích tới khác nhau, cụ thể
như sau:
- Theo Ngân hàng Thế giới (WB): ASXH là những biện pháp công cộng
7
nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng đương đầu và kiềm chế được
nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh
thu nhập. Quan niệm này nhấn mạnh đến các giải pháp nhằm kiềm chế nguy cơ làm
giảm thu nhập của các cá nhân, gia đình và cộng đồng.
- Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): ASXH là sự cung cấp phúc lợi cho
các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của Nhà nước hoặc tập thể nhằm ngăn
chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp. Quan niệm này nhấn
mạnh khía cạnh phân phối phúc lợi, bảo hiểm và mở rộng việc làm cho những đối
tượng ở khu vực kinh tế không chính thức.
- Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB): ASXH là một hệ thống chính
sách công nhằm giảm nhẹ tác động bất lợi của những biến động đối với các hộ gia
đình và cá nhân. Quan niệm này nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc đảm
bảo ASXH, giảm nhẹ những tác động bất lợi đến các cá nhân và hộ gia đình.
- Hiệp hội An sinh quốc tế (ISSA) coi ASXH là thành tố của hệ thống chính
sách công liên quan đến sự bảo đảm an toàn cho tất cả các thành viên xã hội chứ
không chỉ có công nhân. Những vấn đề mà Hiệp hội An sinh quốc tế quan tâm
nhiều trong hệ thống ASXH là chăm sóc sức khoẻ thông qua BHYT; hệ thống
BHXH, chăm sóc tuổi già, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ
giúp xã hội.
- Bách khoa toàn thư của Đại học Columbia (Mỹ) cho rằng: ASXH là
chương trình Chính phủ nhằm cung cấp sự an toàn kinh tế và phúc lợi cho cá nhân
và những người phụ thuộc vào họ. Chương trình được xây dựng khác nhau ở mỗi
quốc gia do những quan niệm về ASXH khác nhau của những nước đó, nhưng tất cả
đều do luật pháp Chính phủ quy định và đều được thiết kế nhằm cung cấp một số
khoản tiền để chi trả cho việc mất hoặc suy giảm thu nhập.
- Trong cuốn: Giáo trình Nhập môn an sinh xã hội của Nguyễn Hải Hữu
quan niệm: “An sinh xã hội là một hệ thống cơ chế chính sách, biện pháp của Nhà
nước và xã hội nhằm đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho
họ có nguy cơ bị sút giảm nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề
nghiệp, già cả không có sức lao động hoặc vì những nguyên nhân khách quan rơi
vào hoàn cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa ..., thông qua hệ thống mạng lưới về bảo
8
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và hỗ trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ đặc biệt"
[19, tr.16-17].
- Trong cuốn An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020, tác giả Vũ Văn
Phúc quan niệm: Theo nghĩa rộng, ASXH là sự bảo đảm thực hiện các quyền để con
người được an bình, bảo đảm an ninh, an toàn trong xã hội. Theo nghĩa hẹp, ASXH
là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và
cộng đồng trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập vì lý do bị giảm hoặc mất
khả năng lao động hay mất việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi,
người tàn tật, người yếu thế, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai, địch họa. Bản chất
của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên
trong xã hội trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay gặp phải những rủi ro
khác [23, tr.14].
Ở nước ta, cụm từ “ASXH” được chính thức sử dụng tại Đại hội IX của
Đảng Cộng sản Việt Nam và được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản
lý nghiên cứu về vấn đề này.
- Theo GS. Hoàng Chí Bảo - Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng lý luận
Trung ương nhận định: ASXH là sự an toàn của cuộc sống con người, từ cá nhân
đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho phát triển con người và xã hội.
- GS.TS Mai Ngọc Cường lại cho rằng, để thấy hết được bản chất, phải tiếp
cận ASXH theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của khái niệm này. Theo nghĩa rộng,
ASXH là sự bảo đảm thực hiện các quyền để con người được an bình, hạnh phúc,
xã hội ổn định, phát triển. Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự bảo đảm thu nhập và một số
nhu cầu thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trong trường hợp bị giảm
hoặc mất thu nhập vì lý do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm
cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế,
người bị ảnh hưởng bởi thiên tai địch họa... [5, tr.21-22].
- Trong bài “Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là
một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 -
2020” Nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho rằng: "An sinh xã hội
là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của
người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi
9
trường, vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân" [12].
Qua các tài liệu nghiên cứu nêu trên, có thể hiểu, ASXH là sự đảm bảo thu
nhập và một số điều kiện khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng để trợ giúp các
thành viên trong xã hội trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội
và môi trường, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cho tự
do của dân tộc, đó là tính đặc thù trong ASXH ở nước ta.
Mục đích của ASXH là tạo ra mạng lưới bảo vệ an toàn cho mọi thành viên
trong cộng đồng xã hội trước những rủi ro trong cuộc sống. Bản chất của ASXH là
bảo đảm thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội, vì thế nó mang tính xã
hội và nhân văn sâu sắc. Đối tượng của ASXH là những thành viên trong cộng đồng
trước những rủi ro trong cuộc sống do những tác động bất thường về kinh tế, xã hội
và môi trường - đặc biệt những nhóm dễ bị tổn thương, người nghèo, vùng nghèo,
vùng dân tộc miền núi và nông thôn. Phương thức hoạt động của ASXH thông qua
các biện pháp, chính sách của Nhà nước và cộng đồng xã hội, trong đó Nhà nước
giữ vai trò chỉ đạo và trụ cột.
ASXH là trách nhiệm của xã hội trong việc bảo vệ đối với các thành viên của
mình, đồng thời đối với Việt Nam trong ASXH có thêm chính sách ưu đãi người có
công với cách mạng, là sự tri ân những người hy sinh cho độc lập, tự do của dân
tộc, đó là tính đặc thù trong ASXH ở nước ta.
1.1.3. Chính sách an sinh xã hội
Chính sách ASXH là những chính sách bảo vệ của Nhà nước nhằm phòng
ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro cho các thành viên của mình khi họ bị mất
hoặc giảm thu nhập do các nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, thất nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì các nguyên
nhân khách quan khác thông qua các chính sách BHXH, BHYT, ưu đãi xã hội và
trợ giúp xã hội.
Chức năng cơ bản của mọi chính sách ASXH là bảo vệ sự an toàn của các
thành viên trong xã hội thông qua các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và khắc
phục rủi ro. Bản chất của chính sách ASXH được thể hiện đầy đủ ở tính chính
trị, tính kinh tế, tính xã hội và tính nhân đạo của nó. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
10
5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI khẳng định: “Chính sách xã hội
có vai tr đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền
vững trong mọi giai đoạn phát triển. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm
với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với
trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ... Không ngừng cải
thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công, bảo đảm an
sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng và Nhà nước, của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội” [15, tr.73].
1.1.4. Thực hiện chính sách an sinh xã hội
Thực hiện chính sách ASXH là quá trình biến các chủ trương, phương
hướng, biện pháp liên quan đến hệ thống ASXH thành những kết quả trên thực tế
thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy Nhà nước và sự tham gia rộng rãi
của các tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và toàn xã hội nhằm hiện thực hoá những
mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Đó chính là quá trình triển khai hệ thống các chính
sách ASXH (trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, BHYT, BHXH, giải quyết việc làm…)
vào thực tiễn bằng các công cụ của bộ máy Nhà nước.
* Chủ thể thực hiện
Chính sách xã hội nói chung và chính sách ASXH nói riêng luôn gắn với một
chế độ chính trị - xã hội nhất định. Chủ thể thực hiện ban hành chính sách ASXH
chủ yếu là các cơ quan của Nhà nước. Ngoài ra còn có các tổ chức tư nhân, các
đoàn thể chính trị - xã hội, cũng như các cơ quan trong bộ máy Nhà nước để tổ chức
thực hiện. Chính sách ASXH do Nhà nước ban hành nên có thể coi chính sách
ASXH là chính sách của Nhà nước [13].
Ở nước ta, trên sách báo, chúng ta thường gặp cụm từ “chính sách ASXH
của Đảng và Nhà nước”, như vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban
hành chính sách, điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của nước ta. Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước quản lý thông qua việc vạch ra Cương lĩnh,
chiến lược, các định hướng chính sách, đó chính là những căn cứ chỉ đạo để Nhà
nước ban hành các chính sách ASXH nói riêng và chính sách nói chung.
Các chính sách được ban hành là việc cụ thể hóa đường lối, chiến lược và
các định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu cải thiện và
11
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các đối tượng được thụ hưởng các chế
độ ASXH.
* Đối tượng của chính sách ASXH là mọi người dân kể cả những người trong
đối tượng lao động, người chưa đến tuổi lao động, người hết tuổi lao động, trong đó
gồm cả các đối tượng của chính sách xã hội là người nghèo thành thị và nông thôn,
phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người tàn tật và người dân tộc thiểu số… Nhìn chung ở
tất cả các nước đều có hai loại đối tượng tham gia vào chương trình ASXH: Thứ
nhất, các đối tượng tham gia vào các chính sách ASXH theo nguyên tắc đóng -
hưởng; thứ hai, những đối tượng tham gia vào chương trình ASXH theo nguyên tắc
trợ giúp.
* Các bước thực hiện chính sách an sinh xã hội
(1) Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách ASXH
Để thực hiện một cách hiệu quả chính sách ASXH, cần phải tiến hành xây
dựng kế hoạch thực hiện một cách chi tiết, cụ thể và rõ ràng từ kế hoạch tổ chức
điều hành, kế hoạch chuẩn bị các nguồn lực để thực hiện, kế hoạch kiểm tra, đôn
đốc thực thi chính sách phù hợp với tình hình thực tế của địa phương nhưng phải
đảm bảo tuân thủ theo đúng quan điểm, mục tiêu và yêu cầu của chủ thể ban
hành [13, tr.42].
(2) Phổ biến, tuyên truyền chính sách ASXH
Phổ biến, tuyên truyền chính sách ASXH là hoạt động mang tính thông tin,
là hình thức công khai chính thống chính sách cho các cơ quan có thẩm quyền, các
đối tượng chính sách và các bên tham gia hiểu rõ về mục đích, yêu cầu, về tính đầy
đủ, tính đúng đắn của chính sách để các bên có liên quan tự giác tham gia thực hiện.
Công tác phổ biến, tuyên truyền đóng vai tr rất quan trọng trong việc tổ chức thực
hiện chính sách [13, tr.43].
(3) Phân công, phối hợp thực hiện chính sách ASXH
Phân công, phối hợp thực hiện chính sách ASXH là việc cơ quan tổ chức
thực hiện chính sách xem xét chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cá nhân có liên
quan để phân công, phân nhiệm một cách cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ, khoa học và hợp
lý. Xác định cơ quan nào đóng vai tr chủ trì, cơ quan nào có chức năng phối hợp,
tránh trường hợp nêu chung chung, nhằm đảm bảo trong suốt quá trình thực hiện
12
chính sách diễn ra suôn sẻ, thuận lợi, không bị chồng chéo, thiếu sót hoặc bị tắc
nghẽn. Tuy nhiên, chịu trách nhiệm chính và chủ công trong việc triển khai thực
hiện là ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, và UBND các cấp [13, tr.43].
(4) Duy trì chính sách ASXH
Duy trì chính sách ASXH là hoạt động nhằm bảo đảm cho chính sách tồn tại
được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Triển khai chính sách ASXH
cần được duy trì thường xuyên nhằm tạo ra các giá trị cốt lõi và tối thiểu cho những
người lao động nghèo, những người già, trẻ mồ côi... để họ dễ dàng hơn, có cơ hội
tiếp cận các dịch vụ tối thiểu mà Nhà nước và cộng đồng tạo ra [13, tr.44].
(5) Điều chỉnh, bổ sung chính sách ASXH
Sự biến động của hoàn cảnh, sự thay đổi của nhu cầu cuộc sống cũng như
các giá trị tối thiểu ngày càng được nâng lên để phù hợp với mức sống chung của
toàn xã hội thì các chính sách ASXH cần phải được điều chỉnh. Công tác điều
chỉnh, bổ sung chính sách ASXH là hoạt động được thực hiện bởi cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền theo hướng điều chỉnh chính sách ngày càng phù hợp với
yêu cầu quản lý và tình hình thực tiễn phát triển của xã hội. Trong quá trình xây
dựng chính sách, khi triển khai áp dụng thực hiện trong thực tiễn sẽ có những
vấn đề bất cập, thiếu sót, chưa phù hợp hoặc phát sinh mới mà chủ thể chưa
lường trước được [13, tr.44].
(6) Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách ASXH
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách ASXH là hoạt động
diễn ra thường xuyên, liên tục của hệ thống các cơ quan Nhà nước từ cơ quan có
thẩm quyền ban hành chính sách, đến các cơ quan và cán bộ, công chức được phân
công thực hiện chính sách; kể cả đối tượng chính sách nhằm xem xét chính sách đã
được triển khai tổ chức thực hiện chưa, tiến độ thực hiện đến đâu, việc tổ chức thực
hiện có đảm bảo đúng nguyên tắc, đúng theo quy trình, kế hoạch đã ban hành hoặc
đã đến tận được với các đối tượng chính sách không [13, tr.45].
(7) Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách ASXH
Đối với việc thực hiện chính sách ASXH được xác định là chính sách thường
xuyên và lâu dài. Việc đánh giá, tổng kết được thực hiện theo trình tự từ cơ sở đến
Trung ương. Thậm chí, một số kiến nghị, đề xuất ở cơ sở mang tính thực tiễn cao,
13
bức xúc cần được sửa đổi, bổ sung vẫn không được ghi nhận. Thước đo đánh giá
kết quả thực hiện chính sách là: Tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách; ý
thức chấp hành các quy định về cơ chế, biện pháp thực hiện các mục tiêu chính sách
và hiệu quả chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian [6, tr.38].
1.2. Các chính sách an sinh xã hội cơ bản ở Việt Nam
1.2.1. Chính sách bảo trợ xã hội
Trong hệ thống các chính sách về ASXH của Việt Nam thì chính sách bảo trợ
xã hội được coi là sự trợ giúp của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện
sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp
bất hạnh rủi ro không may xảy ra, nghèo đói không đủ khả năng để tự lo cho cuộc
sống tối thiểu của bản thân và gia đình, cần đến sự trợ giúp của xã hội. Nguồn tài
chính đảm bảo việc cứu trợ xã hội được hình thành chủ yếu từ Nhà nước, sự hảo tâm,
từ thiện của các tổ chức, cộng đồng dân cư mà đối tượng hưởng không phải đóng góp
trực tiếp. Bảo trợ xã hội được chia ra thành hai nhóm là trợ giúp xã hội thường xuyên
và trợ giúp xã hội đột xuất.
- Trợ giúp xã hội thường xuyên:
+ Hiện nay việc thực hiện trợ giúp thường xuyên được áp dụng Nghị định số
136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về quy định chính sách đối với
đối tượng bảo trợ xã hội, đối tượng tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc nhà xã
hội tại cộng đồng là những trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng (bị bỏ
rơi không ai nhận nuôi, mồ côi cả cha lẫn mẹ...), trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ
nghèo... không tự lo được cuộc sống (được quy định cụ thể tại Điều 5 của Nghị định
này). Hiện nay, theo quy định của Nhà nước thì mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng
thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội từ
270.000đ (hệ số 1,0) đến 810.000đ (hệ số 3,0). Bên cạnh đó, Nhà nước khuyến
khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia giúp đỡ
đối tượng bảo trợ xã hội [9].
- Trợ giúp xã hội đột xuất:
Trợ giúp xã hội đột xuất là hình thức hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng
giúp đỡ những người không may bị thiên tai, mất mùa hoặc những biến cố khác nhằm
hỗ trợ kịp thời, giúp khắc phục và vượt qua khó khăn, sớm ổn định sản xuất và đời
14
sống, đảm bảo thu nhập, không bị rơi xuống nghèo khổ. Hiện nay, chính sách trợ
giúp đột xuất đang thực hiện theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 về
quy định chính sách đối với đối tượng bảo trợ xã hội thì việc trợ giúp xã hội đột xuất
đối với các trường hợp gồm: Những người, hộ gia đình thiếu đói trong các trường
hợp cụ thể hoặc người bị thương nặng do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn giao thông, tai
nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hoặc các lý do bất khả kháng khác; hộ nghèo, hộ
cận nghèo, hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn có nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy hoàn
toàn do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà không c n nơi ở...
(Được quy định rõ từ Điều 12 đến Điều 17 của Nghị định này) [9].
1.2.2. Chính sách ưu đãi xã hội
Ưu đãi xã hội là một bộ phận đặc thù trong hệ thống ASXH Việt Nam, được
đánh giá là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nên chính sách ASXH và
thể hiện rất rõ chính sách nhân đạo, bình đẳng của xã hội. Chính sách ưu đãi xã hội
là sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với những người có công với nước với
dân, với cách mạng nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy sinh cao cả của họ.
Điều này chẳng những thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng và toàn xã
hội, mà nói lên đạo lý của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người
trồng cây”.
Hiện thực hóa chủ trương của Đảng, đồng thời tiếp tục hoàn thiện chính sách
ưu đãi người có công, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung chính sách ưu đãi người có công lần thứ ba, ngày 9 tháng 4 năm 2013 Chính
phủ ban hành Nghị định số 31/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh ưu đãi Người có công với cách mạng và Nghị định này đang
được tổ chức thực hiện trong cả nước; Nghị định 70/2017/NĐ-CP của Chính phủ về
Quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng [11].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X một lần nữa chỉ rõ: “Chú trọng các chính
sách ưu đãi xã hội. Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa,
uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với
nước, người hưởng chính sách xã hội” [14]. Hầu hết người có công và thân nhân của
họ đã được hưởng các chế độ ưu đãi của Nhà nước, đời sống ổn định và từng bước
được cải thiện, góp phần ổn định chính trị, xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân với
15
Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng xã, phường làm tốt công tác thương
binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng đã trở thành phong trào thi đua và được
cấp ủy, chính quyền các cấp, các đoàn thể đưa vào kế hoạch phấn đấu hằng năm, tạo
không khí lành mạnh ở cơ sở.
1.2.3. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
- Bảo hiểm xã hội:
BHXH là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH, BHXH là sự đảm bảo thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến
cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm, bằng cách hình
thành và sử dụng quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao động
và người lao động từ hoạt động nghề nghiệp của họ bị giảm hoặc mất khả năng lao
động [29, tr.40].
Chính sách BHXH tốt đóng vai tr tích cực cho sự phát triển ổn định kinh tế
- xã hội, mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự lo âu trước rủi ro, bất
trắc cho người được bảo hiểm; giảm sức ép đối với hệ thống phúc lợi xã hội; chính
sách BHXH bao gồm các chế độ hưu trí, mất sức lao động, ốm đau, thai sản, tại nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp và tử tuất. Tuy nhiên, chế độ ốm đau lại được giải quyết
chủ yếu thông qua chính sách BHYT bắt buộc và số lượng tham gia không lớn, do
vậy vẫn có trụ cột thứ ba là BHYT với phạm vi rộng hơn so với BHYT bắt buộc.
Cấu phần BHXH bao gồm: BHYT, BHXH tự nguyện; BHXH bắt buộc; bảo hiểm
thất nghiệp [29, tr.35].
BHXH có các đặc điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi
ro giữa những người tham gia; đ i hỏi tất cả mọi người tham gia phải đóng góp tạo
nên một quỹ chung, các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp các “sự cố” và đủ
điều kiện để hưởng, chi phí cho các chế độ được chi trả bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ
được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia, thường là sự chia sẻ giữa
chủ sử dụng lao động và người lao động, với một phần tham gia của Nhà nước; đ i
hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng
của quỹ được đầu tư tăng trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ
BHXH; các chế độ được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không liên quan
đến tài sản của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ lệ với thu
16
nhập trước khi hưởng BHXH.
Ở nước ta, BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà
người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia. BHXH tự nguyện là loại
hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng,
phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ
tiền đóng BHXH để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất [29].
Nguyên tắc BHXH: Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH; mức đóng
BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của người lao động; mức
đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng do người lao động
lựa chọn. Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc, vừa có thời gian
đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời
gian đã đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì
không tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH... [29].
- Bảo hiểm y tế:
BHYT là loại bảo hiểm do Nhà nước, hoặc do các công ty Bảo hiểm cung
cấp, được tổ chức quản lý chặt chẽ, nhằm huy động sự đóng góp của các cá nhân,
tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân
trong những trường hợp cần đến y tế khi gặp các vấn đề sức khỏe. BHYT là một
chính sách ASXH quan trọng do Nhà nước tổ chức thực hiện không nhằm mục đích
lợi nhuận. BHYT là một trong các hoạt động nhân đạo nhất của Nhà nước, cộng
đồng với mục đích chia sẻ rủi ro về mặt sức khỏe, thể hiện sự hỗ trợ tương thân,
tương ái “lá lành đùm lá rách” trong chăm sóc sức khỏe giữa người giàu với người
nghèo, giữa người đang thuận lợi về sức khỏe với người ốm đau và rủi ro về sức
khỏe, giữa người đang độ tuổi lao động với người già và trẻ trong xã hội.
Nguyên tắc BHYT là bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia
BHYT. Mức đóng BHYT được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền
công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành chính.
Mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi
của người tham gia BHYT. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT do quỹ BHYT và
người tham gia BHYT cùng chi trả. Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất,
17
công khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu chi và được Nhà nước bảo hộ [29].
Chính sách của Nhà nước về BHYT: Nhà nước đóng hoặc hỗ trợ tiền đóng
BHYT cho người có công với cách mạng và một số nhóm đối tượng xã hội. Nhà
nước có chính sách ưu đãi đối với hoạt động đầu tư từ quỹ BHYT để bảo toàn và
tăng trưởng quỹ. Nguồn thu của quỹ và số tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư từ quỹ
BHYT được miễn thuế. Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia BHYT
hoặc đóng BHYT cho các nhóm đối tượng. Nhà nước khuyến khích đầu tư phát
triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến trong quản lý BHYT.
Nằm trong hệ thống ASXH nên BHYT cũng mang một mục đích sâu xa là
một nhân tố ổn định kinh tế vĩ mô vừa là nhân tố động lực cho sự phát triển kinh tế -
xã hội. BHYT là chính sách đóng góp ba bên (do Nhà nước, người sử dụng lao động
và người lao động cùng đóng góp). Với bất cứ đối tượng tham gia vào một tổ chức,
cơ quan sử dụng lao động nào thì đơn vị đó cũng phải có nghĩa vụ chi trả một phần
BHYT của người lao động, đó là quyền lợi đã được Nhà nước quy định rõ ràng. Hiện
nay, việc thực hiện chế độ BHYT được thực hiện theo Luật số 46/2014 về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật BHYT đã được Quốc hội khóa 13 thông qua.
1.2.4. Chính sách xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm hỗ
trợ những vùng khó khăn vươn lên xóa đói giảm nghèo nhất là vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là
mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị xã hội, thể hiện
bản chất tốt đẹp của chế độ ta [13].
Chính sách xóa đói giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư đói nghèo nâng
cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần
trăm và số lượng người đói nghèo giảm xuống. Nói một cách khác, xóa đói giảm
nghèo là một quá trình chuyển một bộ phận dân cư đói nghèo lên một mức sống
cao hơn. Giảm nghèo bền vững là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có
khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất. Trên cơ sở
đó họ có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Xóa
đói, giảm nghèo luôn là mục tiêu xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội
18
của đất nước.
Các chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay như
sau: Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo; chính sách hỗ trợ sản xuất, cung
cấp dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chính sách dạy nghề, giải quyết
việc làm và xuất khẩu lao động cho người nghèo; chính sách hỗ trợ về nhà ở, đất
sản xuất và nước sinh hoạt cho hộ nghèo; chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế, về
giáo dục - đào tạo; chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo; chính sách trợ giúp
các đối tượng bảo trợ xã hội; chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù [8].
1.3. Vai trò và các yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện chính sách an sinh xã
hội ở Việt Nam
1.3.1. Vai trò của thực hiện chính sách an sinh xã hội
Vai trò của thực hiện chính sách ASXH thể hiện rõ qua hai khía cạnh:
Thứ nhất, vai trò đối với Nhà nước và cộng đồng: Chính sách ASXH là một
trong những hợp phần quan trọng trong chương trình xã hội của một quốc gia và là
một công cụ quản lý của Nhà nước. Qua đó giữ gìn sự ổn định về chính trị - kinh tế
- xã hội, giảm bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội và tạo sự đồng
thuận giữa các giai tầng, các nhóm xã hội trong quá trình phát triển. Thông qua cách
thức thiết kế và thực hiện chính sách ASXH còn cho thấy mô hình phát triển xã hội,
quan điểm lựa chọn đầu tư cho con người của mỗi Nhà nước.
Thứ hai, vai trò đối với các cá nhân và hộ gia đình: Chính sách ASXH cung
cấp cho những người bất hạnh, những người kém may mắn điều kiện và lực đẩy cần
thiết để khắc phục những “rủi ro”, nhanh chóng h a nhập vào cộng đồng. Đồng
thời, nó kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, kể cả những người giàu
và người nghèo, người may mắn và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những
giá trị Chân -Thiện - Mỹ. Ngoài ra, nó c n được xem như là một giá đỡ đảm bảo thu
nhập, đảm bảo mức sống tối thiểu, bảo vệ giá trị cơ bản và là thước đo trình độ phát
triển của một quốc gia trong quá trình phát triển.
Chính sách ASXH có thể hỗ trợ cho các hộ gia đình “quản lý” được rủi ro và
có đủ năng lực vật chất để đương đầu được trong những giai đoạn khó khăn. Đồng
thời, chính sách ASXH còn hỗ trợ các hộ gia đình có điều kiện đầu tư tốt hơn cho
tương lai.
19
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách an sinh xã hội
- Thể chế chính sách về ASXH: Thể chế chính sách là trụ cột quan trọng của
hệ thống ASXH. Nội dung cơ bản của thể chế chính sách ASXH là xác định đối
tượng tham gia, đối tượng điều chỉnh với những tiêu chí, điều kiện cụ thể và cơ chế
xác định đối tượng theo một quy trình thống nhất; xác định các chính sách, các chế
độ đóng góp, thụ hưởng và những điều kiện ràng buộc nhất định về trách nhiệm
đóng góp, trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện chính sách,
chế độ đề ra. Cơ chế để tham gia các loại hình ASXH mà các quốc gia thường áp
dụng là bắt buộc hoặc tự nguyện nhưng có sự hỗ trợ của Nhà nước. Mỗi một cơ chế
cụ thể đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, việc vận dụng cơ chế nào là phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của từng quốc gia. Nếu chính
sách ASXH phù hợp với đ i hỏi của thực tiễn cuộc sống thì việc thực thi chính sách
ASXH sẽ thuận lợi, khả thi; ngược lại chính sách ASXH không phù hợp với đ i hỏi
của thực tiễn cuộc sống thì việc thực thi chính sách ASXH sẽ khó khăn, thậm chí
không khả thi, thiếu hiệu quả. Biểu hiện của sự không khả thi đó là chính sách xây
dựng có mức độ bao phủ hẹp, không đáp ứng đ i hỏi ngày càng cao của nhóm các
đối tượng yếu thế cần trợ giúp trong xã hội, không đảm bảo tính hệ thống, toàn
diện, cân đối giữa các bộ phận trong cấu trúc ASXH; không đồng bộ với kế hoạch
triển khai và địa bàn áp dụng thiếu các điều khoản giám sát và chế tài xử phạt;
không đảm bảo tính bền vững về tài chính [7, tr.48-56].
- Thể chế tổ chức bộ máy và cán bộ: Nhân tố này có vai trò quyết định trong
việc tổ chức các chính sách ASXH. Cho dù chính sách có tốt đến mấy đi chăng nữa
nhưng tổ chức thực hiện không tốt thì chính sách sẽ không đi vào cuộc sống. Do
vậy, việc thiết lập hệ thống tổ chức quản lý với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp (từ
nhận thức, cơ cấu tổ chức, năng lực, phẩm chất, phương thức phối hợp) để thực hiện
có hiệu quả việc thực thi chính sách ASXH. Về nguyên tắc, có thể thiết lập hệ thống
tổ chức độc lập cho từng hợp phần, nhưng cũng có thể sử dụng bộ máy chính quyền
hiện có để thực hiện, tùy điều kiện cụ thể. Thể chế chính sách mang tính phổ cập thì
chi phí quản lý ít và bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ và ngược lại, thể chế phức tạp
thì chi phí quản lý tốn kém hơn. Nếu chủ thể thực thi chính sách (tổ chức, cơ quan,
cán bộ) triển khai không đúng kế hoạch, thiếu đồng bộ, không đúng đối tượng và
20
định mức, vụ lợi... sẽ làm giảm hiệu quả việc thực thi chính sách và giảm lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
- Nhận thức của xã hội và người dân: Sự phát triển của hệ thống ASXH phụ
thuộc vào nhận thức chung về ASXH của xã hội. Khi người lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước hiểu được tầm quan trọng của chính sách ASXH, từ đó
tự nguyện và tích cực tham gia thì hệ thống này mới có cơ hội phát triển và ngược
lại. Người dân là đối tượng thụ hưởng chính sách ASXH, nếu họ tự giác, tích cực,
chủ động, tự nguyện tham gia thì việc thực thi chính sách ASXH sẽ có hiệu quả,
bền vững; ngược lại nếu họ thờ ơ, thụ động, ỷ lại và thậm chí vụ lợi thì việc thực thi
chính sách ASXH sẽ không hiệu quả.
- Môi trường thực thi chính sách ASXH: Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên,
xã hội của mỗi địa phương, vùng, miền: Những địa phương, vùng, miền có vị trí,
điều kiện tự nhiên thuận lợi, người dân có hiểu biết và nhận thức về chính sách
ASXH thì việc thực thi chính sách ASXH thuận lợi, ngược lại nơi nào có vị trí, điều
kiện tự nhiên khó khăn, phong tục tập quán lạc hậu, người dân ít hiểu biết về chính
sách ASXH thì việc thực thi chính sách ASXH khó khăn. Trình độ phát triển kinh tế
của các địa phương, vùng, miền: Nếu địa phương nào có trình độ phát triển kinh tế
cao, nguồn lực tài chính mạnh, thu nhập của người lao động ổn định, mức độ thất
nghiệp thấp thì việc thực thi chính sách ASXH thuận lợi và ngược lại. Môi trường
chính trị: Nơi nào đảm bảo giữ vững ổn định xã hội trong quá trình phát triển thì
việc thực thi chính sách ASXH thuận lợi và nơi nào không giữ vững ổn định xã hội
thì việc thực thi chính sách ASXH khó khăn.
Tiểu kết chƣơng 1
ASXH là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá
nhân, gia đình và cộng đồng để trợ giúp các thành viên trong xã hội trước những rủi
ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mục đích của ASXH là tạo ra một
mạng lưới bảo vệ an toàn cho cộng đồng xã hội. Vì vậy, ASXH mang tính xã hội và
nhân văn sâu sắc. Trong chương 1, Khóa luận đã đi sâu vào tìm hiểu cơ sở lý luận
về thực hiện chính sách ASXH một cách toàn diện nhất. Ngoài cơ sở lý luận, nội
21
dung chương cũng đã nghiên cứu cơ sở thực tiễn ảnh hưởng đến việc thực hiện
chính sách ASXH. Việc hệ thống hóa và làm rõ các lý luận và cơ sở thực tiễn về
chính sách ASXH cũng như thực hiện các bước thực hiện chính sách ASXH có ý
nghĩa quan trọng, làm phong phú thêm cơ sở lý luận về vấn đề này. Đồng thời các
lý luận này là cơ sở để phân tích thực trạng thực hiện chính sách ASXH ở thành phố
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
22
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
TẠI THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM
2.1. Khái quát về thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân số, hành chính
Vị trí địa lý
Thành phố Phủ Lý nằm trên quốc lộ 1A, bên 2 bờ sông Đáy, có diện tích tự
nhiên là 87,87 km². Địa giới thành phố tiếp giáp: Đông giáp huyện Bình Lục, Tây
giáp huyện Kim Bảng, Nam giáp huyện Thanh Liêm, Bắc giáp thị xã Duy Tiên. Phủ
Lý cách Hà Nội 60 km về phía Nam, cách thành phố Nam Định 30 km về Phía Tây
Bắc và thành phố Ninh Bình 33 km về phía Bắc. Phủ Lý nằm trên quốc lộ 1A có
tuyến đường sắt Bắc Nam đi qua, là nơi gặp gỡ của ba con sông: Sông Đáy, sông
Châu Giang và sông Nhuệ, thuận tiện về giao thông thủy bộ.
Quá trình hình thành
Dưới thời Hậu Lê, vào khoảng năm 1624, Thượng thư Nguyễn Khải đã cho
chuyển thủ phủ Trấn Sơn Nam đến đóng ở thôn Châu Cầu thuộc Tổng Phù Đạm,
huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, Trấn Sơn Nam Thượng. Đến năm 1832, vua Minh
Mạng quyết định bỏ đơn vị trấn thành lập đơn vị hành chính Tỉnh, phủ Lỵ Nhân
được đổi là phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nội.
Đến tháng 10 năm 1890 (đời vua Thành Thái năm thứ 2), tỉnh Hà Nam được
thành lập trên cơ sở phủ Lý Nhân của tỉnh Hà Nội, tỉnh lị đặt tại thôn Châu Cầu,
huyện Kim Bảng (sau được chuyển thành thị xã Hà Nam).
Giai đoạn (1965 - 1966) tỉnh Nam Định sát nhập với Hà Nam thành tỉnh
Nam Hà sau đó sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Ngày 9 tháng
4 năm 1981, thị xã Hà Nam được tái lập. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1997, thực hiện
Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI, tỉnh Hà Nam được tái lập. Thị xã Phủ
Lý (đổi tên từ thị xã Hà Nam cũ) được xác định là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh.
Ngày 1 tháng 1 năm 2007, thị xã đã chính thức trở thành đô thị loại III và trở
thành thành phố trực thuộc tỉnh Hà Nam vào ngày 9 tháng 6 năm 2008 theo nghị định
72/2008/NĐ-CP của Chính phủ. Đây là sự kiện rất quan trọng, đánh dấu sự trưởng
thành của một thành phố trẻ đã từng chịu sự phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ
(1065-1972).
23
Ngày 4 tháng 12 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1678/QĐ-
TTg công nhận Thành phố Phủ Lý là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Hà Nam.
Dân số
Thành phố Phủ Lý có 193.762 nhân khẩu. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là
0,8%. Trên địa bàn Thành phố Phủ Lý có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên
chúa giáo, trong đó 8,8% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Hành chính
Thành phố Phủ Lý có 21 đơn vị hành chính cấp phường trực thuộc, bao gồm
11 phường: Châu Sơn, Hai Bà Trưng, Lam Hạ, Lê Hồng Phong, Liêm Chính,
Lương Khánh Thiện, Minh Khai, Quang Trung, Thanh Châu, Thanh Tuyền, Trần
Hưng Đạo và 10 xã: Đinh Xá, Kim Bình, Liêm Chung, Liêm Tiết, Liêm Tuyền, Phù
Vân, Tiên Hải, Tiên Hiệp, Tiên Tân, Trịnh Xá.
2.1.2. Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Về công nghiệp, thành phố có hai cụm công nghiệp bắc Thanh Châu và Châu
Sơn. Nền sản xuất nông nghiệp ở Phủ Lý theo hướng nông nghiệp sạch, nông
nghiệp sinh thái có hiệu quả cao và bảo vệ môi trường. Phát triển kinh tế trang trại
và các mô hình sản xuất VAC, nhất là trong chăn nuôi, coi đây là khâu đột phá để
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa.
Về thương mại - dịch vụ - du lịch, Phủ Lý có lợi thế là đầu mối giao thông,
gần thủ đô Hà Nội - vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đủ điều kiện để phát triển tổng
hợp ngành kinh tế dịch vụ theo hướng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ sản
xuất và đời sống, đưa ngành dịch vụ thành ngành kinh tế quan trọng của Phủ Lý.
Cho tới năm 2010, có nhiều dự án làm thay đổi đáng kể bộ mặt thành phố,
trong đó có dự án khu thương mại dịch vụ một bên là bờ sông Đáy một bên là Quốc
lộ 1A. Khu thương mai dịch vụ này với nhiều tòa nhà cao tầng hiện đại (cao nhất là
dự án chung cư và văn ph ng cho thuê 25 tầng). Khu thương mại này là một điểm
nhấn về tính hội nhập và hiện đại của thành phố.
Cơ sở hạ tầng của Thành phố Phủ Lý được xây dựng đồng bộ và ngày càng
hoàn chỉnh nhất là về giao thông đô thị, cấp thoát nước, xử lý nước thải, rác thải,
xây dựng công viên cây xanh và các công trình phúc lợi công cộng.
Trên địa bàn thành phố có tổng số 122 dự án, công trình đã được đầu tư xây
dựng với tổng số vốn đầu tư trên 2.046,8 tỷ đồng. Đẩy mạnh tiến độ thực hiện các
24
dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị mới như: Khu đô thị mới Nam Lê Chân (diện
tích 68,7 ha, quy mô dân số 8000 người); khu đô thị Nam Trần Hưng Đạo (diện tích
21,3 ha, quy mô dân số 5.000 người); khu đô thị Đông sông Đáy (từ cầu Phú Hồng
đến cầu Đọ Xá, diện tích 75 ha); khu đô thị Liêm Chung dọc hai bên đường 21A
(diện tích 100 ha); khu đô thị Bắc Thanh Châu (diện tích 19,8 ha, quy mô dân số
3.500 người); khu đô thị Liêm Chính (diện tích 89,7 ha); khu đô thị Bắc Châu
Giang - Lam Hạ (diện tích 652 ha); khu đô thị Quang Trung - Lam Hạ (diện tích
252 ha); khu đô thị Châu Sơn (diện tích 41 ha); khu đô thị River Silk City Lam Hạ
(diện tích 126 ha).
Một số dự án lớn góp phần xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng đô thị như: Dự
án sân vận động trung tâm, Hành lang quốc lộ 1A và Đông, Tây sông Đáy, dự án hệ
thống thoát nước và xử lý nước thải, dự án nâng cấp hè đường, điện chiếu sáng và
cây xanh trong khu đô thị cũ, dự án kè hồ Chùa Bầu, dự án cải tạo hệ thống cáp
quang, cải tạo hệ thống lưới điện... đã và đang được thực hiện theo quy hoạch đầu
tư, làm chuyển biến bộ mặt đô thị, khang trang hiện đại hơn, trật tự đô thị có những
bước chuyển biến tích cực.
Xã hội
Các chính sách xã hội: Chế độ đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã
hội, BHXH được quan tâm đầy đủ, chu đáo; chương trình mục tiêu xoá đói giảm
nghèo, giải quyết việc làm thực sự được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể
quan tâm đầu tư, chỉ đạo, tạo ra hiệu quả lớn trong ổn định tình hình. Hàng năm,
thành phố đã giải quyết việc làm cho 3.500 - 4.000 lao động, trong đó có 60% lao
động được đào tạo nghề. Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện cả vật
chất lẫn tinh thần.
Lĩnh vực giáo dục đào tạo: Được duy trì cả về số lượng và chất lượng. Với
phương châm 3 hoá (chuẩn hoá - xã hội hoá - hiện đại hoá), thành phố đã tập trung
đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất trường lớp, nâng cao chất lượng của các ngành
học, cấp học. Ngành giáo dục đào tạo của thành phố luôn là lá cờ đầu của ngành
giáo dục tỉnh Hà Nam. Hiện tại thành phố đã được công nhận phổ cập giáo dục tiểu
học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Thành phố đã có 16/32
trường chuẩn Quốc gia, cuối năm 2006 đã công nhận tiếp 02 trường chuẩn giai đoạn
1 và 01 trường chuẩn giai đoạn 2. Trên địa bàn thành phố đã có các trường Đại học
và Cao đẳng với chất lượng đội ngũ giảng viên được đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.
25
Sự nghiệp y tế: Mạng lưới y tế cơ sở được đầu tư thích đáng. Cùng với hệ
thống các bệnh viện lớn của tỉnh, thành phố đã tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang
thiết bị, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ y tế cơ sở. Đến nay đã có 02 trạm y tế
xã, phường được công nhận chuẩn quốc gia; 7/12 trạm y tế xã phường có bác sỹ để
chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Công tác kế hoạch hóa gia đình được
quan tâm, nhiều chiến dịch truyền thông dân số được tổ chức. Tỷ lệ phát triển dân
số tự nhiên của thành phố chỉ còn là 0,87% (mỗi năm giảm 4%o).
Công tác văn hóa thông tin - thể dục thể thao - đài truyền thanh: Thành phố
đã xây dựng trạm thu phát sóng FM, phủ sóng 100% các phường, xã. Phong trào
xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư đã đi sâu vào đời sống của nhân dân; 87%
gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, 51% phố thôn, xóm văn hoá, 90% cơ quan
đơn vị trên địa bàn đạt cơ quan văn hoá. Công tác ph ng chống tệ nạn xã hội, quản
lý nhà nước về văn hoá được tăng cường.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện của Tỉnh uỷ,
Hội đồng nhân dân, UBND, các sở, ban, ngành của tỉnh và các ngành của Trung
ương, Đảng bộ và nhân dân thành phố Phủ Lý đã nỗ lực vượt qua thử thách, phấn
đấu giành nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực: Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mang
tính chất đô thị, tập trung cho thương mại, dịch vụ, công nghệ - thông tin; cơ sở hạ
tầng được đầu tư theo quy hoạch, đáp ứng các tiêu chuẩn đô thị và phù hợp với điều
kiện phát triển của địa phương; công tác quản lý hành chính, quản lý nhà nước trên
các lĩnh vực được cải tiến theo hướng pháp quyền, tinh gọn, nâng cao hiệu lực quản
lý và điều hành. Năm 2018, thành phố Phủ Lý được Thủ tướng Chính phủ công
nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và được Chủ tịch nước tặng
thưởng Huân chương lao động hạng Ba.
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý,
tỉnh Hà Nam
Thực hiện các chính sách ASXH, thành phố Phủ Lý đã kịp thời phổ biến,
quán triệt và áp dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà trực
tiếp nhất là của tỉnh Hà Nam: Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ
Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020; Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày 29/3/2013 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn
dân; Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 26/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
26
cường thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp phát triển đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội; Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Tỉnh uỷ về “tăng
cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế giai đoạn 2012 - 2020”; Chương trình hành động số 62-CTr/TU của tỉnh ủy Hà
Nam về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội; Kế hoạch 96/KH-UBND về thu thập
thông tin hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có người đang hưởng trợ cấp hàng tháng tại
cộng đồng; Quyết định 1549/QĐ-UBND về việc giao chi tiết kế hoạch đầu tư vốn
ngân sách trung ương hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở; Kế hoạch số
36/KH-UBND ngày 03 tháng 3 năm 2020 về tuyên truyền phát triển đối tượng tham
gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; Quyết định số 04/2020/QĐ-UBND của UBND
tỉnh Hà Nam về chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; Nghị quyết số
04/NQ-TW của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố về “Công tác đào tạo dạy nghề
cho lao động nông thôn giai đoạn 2016-2020”.
Trong phạm vi Khoá luận, tác giả tập trung phân tích thực trạng thực hiện 04
chính sách ASXH cơ bản: Chính sách bảo trợ xã hội, chính sách ưu đãi xã hội,
chính sách BHXH, BHYT, chính sách xóa đói giảm nghèo.
2.2.1. Chính sách bảo trợ xã hội
Công tác bảo trợ xã hội trong giai đoạn 2016 - 2020 đã có nhiều chuyển biến
tích cực. Đối tượng Bảo trợ xã hội thuộc diện trợ cấp hàng tháng trên địa bàn thành
phố quản lý gồm các nhóm đối tượng sau:
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mồ côi cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi,
mất nguồn nuôi dưỡng, trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ, hoặc cha mẹ không đủ năng
lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ đang
trong thời gian chấp hành phạt tù tại trại giam, không c n người nuôi dưỡng;
Người có công là những người đã có công với đất nước như thương binh,
bệnh binh, thân nhân của liệt sĩ…;
Người đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp BHXH; người
khuyết tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ,
thuộc gia đình hộ nghèo. Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo, người
cao tuổi có vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con cháu, người thân thích để
nương tựa, thuộc gia đình hộ nghèo theo chuẩn quy định;
Người thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, có mức thu nhập sống thấp hơn mức
thu nhập bình quân của thành phố.
27
Số lượng đối tượng hưởng chính sách bảo trợ xã hội được cụ thể trong
bảng sau:
Bảng 2.1: Số liệu các đối tượng thụ hưởng chính sách Bảo trợ xã hội
Số lƣợng STT Nhóm đối tƣợng thụ hƣởng (ngƣời)
1 Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn 2.976
2 Người có công 2.331
3 Người thuộc hộ nghèo, cận nghèo 5.368
4 Người cao tuổi dủ từ 80 tuổi trở lên 2.446
5 Người khuyết tật 173
(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)
Thành phố đã giải quyết trợ cấp xã hội hàng tháng cho hơn 13.000 đối tượng,
duyệt cấp 2.809 thẻ BHYT cho các đối tượng thuộc diện người có công, cấp 2.475
thẻ BHYT cho đối tượng thuộc hộ nghèo, 2.893 thẻ BHYT cho đối tượng thuộc hộ
cận nghèo. Tổ chức chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi nhân dịp Tết nguyên đán
cho 2.446 cụ với tổng kinh phí là 321.800.000 đồng. Trợ cấp khó khăn cho 1.400
xuất với kinh phí 420.000.000 đồng. Tổ chức cấp quà địa phương cho người thuộc
diện hộ nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhân dịp Tết nguyên đán cho
2.976 xuất với tổng kinh phí là 447.900.000 đồng. Phân bổ và cấp 23,140 tấn gạo
hỗ trợ dịp Tết nguyên đán và trong thời gian hạn hán cho các đối tượng nghèo, cận
nghèo, khó khăn đột xuất, đối tượng bảo trợ xã hội được nuôi dưỡng tại cộng đồng
và các đối tượng đang được các nhà thờ nuôi dưỡng.
Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý đã triển khai
thực hiện Nghị định 136/2013/NĐ-CP ra quyết định giải quyết trợ giúp xã hội cho
275 người từ đủ 80 tuổi, đơn thân nuôi con…; 173 đối tượng người khuyết tật; hỗ
trợ cho 30 gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng. Điều chỉnh trợ cấp cho 900
đối tượng bảo trợ xã hội theo đúng Nghị định. Thường xuyên xây dựng phương án
cứu trợ đột xuất trong mùa mưa bão, lũ lụt. Tổ chức Hội nghị phát động Tháng hành
động vì trẻ em, vận động quần chúng nhân dân trên địa bàn thành phố ủng hộ Quỹ
bảo trợ trẻ em.
2.2.2. Chính sách ưu đãi xã hội
Trong những năm gần đây, UBND thành phố, các ngành, đoàn thể trên địa
bàn thành phố Phủ Lý đã thường xuyên thăm hỏi, tặng quà động viên các gia đình
thương binh liệt sỹ, người có công với cách mạng. Hàng năm, nhân dịp các ngày lễ
28
tết, thành phố đã tổ chức các đoàn trao tặng 21.957 suất quà của Chủ tịch nước, quà
của UBND tỉnh, của UBND thành phố với tổng số tiền hơn 8,2 tỷ đồng; hàng tháng
việc chi trả trợ cấp cho các đối tượng luôn được đảm bảo nhanh, gọn, kịp thời; thực
hiện chế độ điều dưỡng, 3.419 người có công và 5.171 thân nhân người có công
được điều dưỡng tập trung và điều dưỡng tại nhà.
Về công tác vận động các đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân đóng góp xây dựng
Quỹ đền ơn đáp nghĩa thành phố được tăng dần từ năm 2016 đến năm 2020 để tổ
chức đi thăm hỏi, động viên, tặng quà. Kết quả như sau:
Bảng 2.2: Kết quả thực hiện chính sách Ưu đãi xã hội giai đoạn 2016 - 2020
Đơn vị STT Nội dung 2016 2017 2018 2019 2020 tính
Triệu Vận động quỹ 206 220 230 310 215 1 đền ơn đáp nghĩa đồng
Kinh phí sửa nhà Triệu
2 cho người có đồng 4.290 1.001 2.853 1.820 556
công
Trợ cấp mai tang Người 3 168 58 96 73 144
Quà tặng nhân Triệu 4 251.9 2.316 2.165 4.105 2.999 các dịp lễ đồng
Điều dưỡng đối Triệu 5 1.126 1.035 1.184 1.015 978 với người có công đồng
(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)
Dựa vào bảng kết quả trên, có thể thấy chính sách ưu đãi xã hội được thực
hiện rất triệt để trên địa bàn thành phố Phủ Lý.Vào dịp tháng 7 hàng năm và các dịp
Lễ tết, UBND thành phố Phủ Lý đã tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày thương
binh liệt sỹ với nhiều hoạt động có ý nghĩa như dâng hương tưởng niệm tri ân mộ
các anh hùng liệt sỹ; thăm hỏi tặng quà các gia đình chính sách, người có công, phối
hợp với các trường trung học phổ thông trên địa bàn luân phiên đến chăm sóc cây
cảnh và vệ sinh Nghĩa trang liệt sĩ được khang trang, sạch sẽ... Đây cũng là dịp để
nhân dân trong toàn thành phố bằng những hoạt động thiết thực thể hiện đạo lý
“Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.
Thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg về việc hỗ trợ nhà ở cho đối
tượng người có công với cách mạng, trong giai đoạn 2016 - 2020, UBND thành phố
đã chỉ đạo tổ chức rà soát các hộ chính sách trên địa bàn và có tổng 3.253 hộ gia
đình có công với cách mạng bị hư hỏng nhà ở. Bằng nguồn vốn Ngân sách cấp và
29
nguồn Quỹ đền ơn đáp nghĩa, thành phố đã xây mới 352 nhà, sửa chữa 934 nhà.
Mỗi năm đều sẽ tổ chức điều dưỡng dã ngoại và điều dưỡng tại nhà cho đối tượng
người có công, kinh phí mỗi năm lên đến cả tỷ đồng. Tuy nhiên năm 2020, do ảnh
hưởng của dịch COVID-19 nên mọi nguồn kinh phí đều bị giảm so với năm trước.
Nhờ sự quan tâm thiết thực đó, nhiều gia đình thương binh, bệnh binh, gia
đình liệt sỹ và người có công với cách mạng, đã sống gương mẫu, tận tâm, tận lực
cống hiến phần sức lực còn lại cho công cuộc đổi mới của thành phố, đồng thời góp
phần vào việc làm rạng rỡ thêm lời dạy của Bác Hồ “tàn nhưng không phế”, tiếp tục
phát huy truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.
2.2.3. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
BHXH và BHYT là hai chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là trụ cột
chính của hệ thống ASXH, góp phần ổn định đời sống của nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Xác định tầm
quan trọng của chính sách BHXH, BHYT, thời gian qua, UBND thành phố đã quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân triển khai thực
hiện công tác BHXH, BHYT trên địa bàn.
Ngay sau khi Luật BHXH số 58/2014/QH13 được ban hành, Thành uỷ, Hội
đồng nhân dân, UBND thành phố Phủ Lý đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực
hiện tốt công tác phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương, Chỉ thị Nghị quyết
của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước và các văn bản chỉ đạo triển khai của
Tỉnh ủy, UBND tỉnh. Cụ thể là triển khai Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22 tháng
11 năm 2012 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22 tháng 4 năm 2013 của
Tỉnh uỷ về “tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác BHXH,
BHYT giai đoạn 2012 - 2020”. Công tác triển khai quán triệt được tổ chức bằng
nhiều hình thức như được học tập tại hội trường của UBND thành phố, truyền hình
trực tiếp các lãnh đạo thường trực Thành ủy giảng các chuyên đề của các Chỉ thị,
Nghị quyết.
Trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch của UBND tỉnh giao, UBND thành phố đã xây
dựng Chương trình công tác trọng tâm, tuyên truyền chính sách BHXH, kế hoạch
kiểm tra công tác thực hiện Luật BHXH, BHYT của các đơn vị sử dụng lao động
trên địa bàn. Xây dựng kế hoạch tuyên truyền trọng tâm về BHYT hộ gia đình để
mở rộng đối tượng theo Kế hoạch của tỉnh giao cho giai đoạn 2016 - 2020. UBND
thành phố ban hành quyết định giao chỉ tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH,
BHYT cho các phường, xã trên địa bàn thành phố. Đặc biệt, ngày 23 tháng 11 năm
30
2018, đã ban hành Kế hoạch số 157/KH-UBND về thực hiện Nghị quyết số
125/NQ-CP; Chương trình hành động số 62-CTr/TU của tỉnh ủy Hà Nam về cải
cách chính sách BHXH; Kế hoạch số 36/KH-UBND ngày 03 tháng 3 năm 2020 về
tuyên truyền phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT năm 2020.
* Bảo hiểm xã hội
UBND thành phố chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về BHXH, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận
thức và hành động của các cơ quan, tổ chức, công dân về BHXH, BHYT; đặc biệt
giao Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội và BHXH thành phố phối hợp Đài
truyền thanh thành phố tuyên truyền và triển khai thực hiện tốt hoạt động tuyên
truyền về Luật BHXH bằng nhiều hình thức, đa dạng, phong phú đạt hiệu quả cao.
Hàng năm, UBND thành phố giao cho Ph ng Lao động - Thương binh và Xã
hội và BHXH thành phố đẩy mạnh công tác phối, kết hợp với các ban, ngành, đoàn
thể, các cấp chính quyền trên địa bàn trong công tác tuyên truyền chính sách
BHXH, thực hiện Luật BHXH, phối hợp liên ngành thực hiện kiểm tra các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trong việc chấp hành Luật BHXH.
Bảng 2.3: Số đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội theo loại hình quản lý
STT Loại hình quản lý Năm 2016 (ngƣời) Năm 2017 (ngƣời) Năm 2018 (ngƣời) Năm 2019 (ngƣời) Năm 2020 (ngƣời)
1 Doanh nghiệp nhà nước 227 213 196 170 172
2 2737 3108 3494 3478 3288
3 7189 8295 10128 11566 10800
4 3343 3239 3334 3328 3330
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Đảng, đoàn thể, lực lượng vũ trang 5 Ngoài công lập 9 6 5 0 2
6 0 0 0 0 0
Lao động có thời hạn ở nước ngoài 7 Người nước ngoài 0 0 0 22 63
(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)
Tỷ lệ số người tham gia BHXH trong cùng một loại hình quản lý qua các
năm có sự biến đổi nhẹ. Loại hình có tỷ lệ số người tham gia BHXH nhiều nhất là
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, có tỷ lệ người tham gia tăng đều. Đặc biệt từ ngày
31
01/01/2018 mở rộng thêm đối tượng công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt
Nam và lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng đã đảm bảo quyền
lợi, tạo sự công bằng giữa những người tham gia BHXH.
Kết quả thực hiện chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH hằng năm:
Từ năm 2016 đến nay, UBND thành phố đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn
thực hiện có hiệu quả Luật BHXH đặc biệt là một số chế độ, quy định mới được bổ
sung từ Luật năm 2014. Cụ thể: Người bị bệnh cần chữa trị dài ngày hưởng tối đa
180 ngày, sau đó nếu tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức
thấp hơn (không được bù đủ tiền lương cơ sở); thời gian hưởng tối đa bằng thời
gian đã đóng BHXH; mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày tăng lên; đối với chế độ
nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản được quy định một mức
hưởng chung cho một ngày bằng 30% mức lương cơ sở.
Về chế độ thai sản có nhiều điểm mới theo hướng có lợi cho người lao động:
Quy định lao động nam có đóng BHXH được nghỉ thai sản khi vợ sinh con với thời
gian từ 5 đến 14 ngày làm việc tùy theo số con được sinh và cách thức sinh con; có
quy định hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ
mang thai hộ; nếu người vợ không tham gia đóng BHXH hoặc đóng BHXH chưa đủ
điều kiện khi nghỉ thai sản thì người chồng mà có tham gia BHXH được hưởng trợ
cấp một lần bằng hai tháng lương cơ sở; chế độ hưu trí cũng được sửa đổi, bổ sung
nhiều nhất hướng đến đảm bảo công bằng (trong đó có bình đẳng giới).
Về chế độ tử tuất: Nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi cho thân nhân của người
lao động, Luật bổ sung quy định cho phép thân nhân người lao động đủ điều kiện
hưởng trợ cấp tử tuất hàng tháng được lựa chọn hưởng trợ cấp tử tuất một lần, trừ
trường hợp có thân nhân là con dưới 6 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà bị suy giảm
khả năng lao động từ 81% trở lên. Ngoài ra, mức trợ cấp tử tuất một lần cũng được
tăng từ 1,5 tháng lên 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH mỗi
năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi. Đặc biệt đối với người tham gia BHXH tự
nguyện từ ngày 01/01/2018 được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng theo tỷ lệ phần trăm
trên mức đóng BHXH hằng tháng theo mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn.
Cụ thể: Bằng 30% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ nghèo; bằng
25% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ cận nghèo; bằng 10% đối
với các đối tượng khác, thời gian hỗ trợ tùy thuộc vào thời gian tham gia BHXH tự
nguyện thực tế của mỗi người nhưng không quá 10 năm (120 tháng)… Việc Nhà
nước hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện, dù mức hỗ trợ này còn khiêm tốn nhưng
32
cũng đã tạo sức hút để người dân tham gia BHXH tự nguyện.
Về quy trình, thủ tục hồ sơ: Được thực hiện nghiêm túc, đơn giản, tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho đơn vị sử dụng lao động và người dân. Quá trình tiếp nhận
hồ sơ và giải quyết thủ tục hành chính về BHXH không yêu cầu phát sinh thêm thủ
tục. Từ 01/01/2017 các tổ chức, cá nhân đến giao dịch với cơ quan BHXH hoàn
toàn không phải trả bất cứ loại phí, lệ phí nào. Các tổ chức, cá nhân chỉ cần giao
dịch tại một đầu mối là bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan BHXH để
được hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và nhận kết quả.
Các trung tâm hành chính giải quyết tại BHXH thành phố hay liên thông đều
đảm bảo giải quyết nhanh chóng, thuận tiện và đúng thời gian quy định. Một số thủ
tục giải quyết chế độ chính sách đã giảm từ 30% đến 50% thời gian so với trước
đây, đối với thủ tục cấp lại thẻ BHYT do mất, hỏng thì thực hiện ngay trong ngày,
đối với hồ sơ giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất, chế độ ngắn hạn, giải quyết trợ cấp
BHXH một lần, cấp sổ BHXH đảm bảo giải quyết và trả kết quả đúng hoặc trước
thời gian quy định.
Tình trạng hưởng BHXH một lần:
Từ năm 2016 đến 30/9/2019, trên địa bàn thành phố có 2.121 người hưởng
BHXH một lần - một con số tương đối lớn. Thực trạng này không có xu hướng
giảm mà ngày càng gia tăng trong số đó có rất nhiều lao động hơn 35 tuổi trong các
doanh nghiệp do bị mất việc nên hưởng BHXH một lần. Để hạn chế tình trạng này,
BHXH thành phố Phủ Lý đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn cho người dân
và người lao động, giúp họ nắm bắt được quyền lợi khi tham gia BHXH để hưởng
lương hưu là vượt trội, thể hiện đúng bản chất nhân văn của chính sách, tự nhận
thức thấy việc hưởng BHXH một lần là không nên, bảo lưu thời gian đóng sau khi
có điều kiện tiếp tục tham gia BHXH để được đảm bảo ASXH khi về già.
Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH thường xuyên: Hiện nay, BHXH
thành phố đang quản lý, chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH thường xuyên cho 12.600
người. Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng được thực hiện an
toàn qua hệ thống Bưu điện và qua tài khoản ngân hàng. Thủ tục hành chính trong
lĩnh vực chi trả đơn giản, tạo thuận lợi cho người thụ hưởng, đảm bảo an toàn về
tiền mặt.
- Năm 2016: Chi trả cho 12.322 người với số tiền là 473,95 tỷ đồng. Chi đối
tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 715.631.457 đồng.
- Năm 2017: Chi trả cho 12.437 người với số tiền là 482,46 tỷ đồng. Chi đối
33
tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,41 tỷ đồng.
- Năm 2018: Chi trả cho 12.596 người với số tiền là 531 tỷ đồng. Chi đối
tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,8 tỷ đồng.
- Năm 2019: Chi trả cho 12.712 người với số tiền là 432,48 tỷ đồng. Chi đối
tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,78 tỷ đồng.
- Năm 2020: Chi trả cho 12.299 người với số tiền là 450,28 tỷ đồng. Chi đối
tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,22 tỷ đồng.
Công tác chi trả các chế độ BHXH: BHXH đang thực hiện chi trả các chế độ
BHXH bằng các hình thức: Chi trả trực tiếp, chi trả qua bưu điện và chi trả qua tài
khoản ngân hàng. Trong đó, hình thức chi trả qua bưu điện đóng vai tr chủ đạo.
Trong những năm qua, công tác phối hợp giữa hai ngành đã có những bước phát
triển đáng kể, đã xây dựng những giải pháp nâng cao hiệu quả trong tổ chức thực
hiện, đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH, BHYT.
* Bảo hiểm y tế
BHYT là một trong những trụ cột chính của hệ thống ASXH, góp phần ổn
định đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ổn định chính trị,
phát triển kinh tế - xã hội. Xác định tầm quan trọng của BHYT nói chung và BHYT
dành cho đối tượng chính sách nói riêng. Thời gian qua UBND thành phố đã luôn
quan tâm, chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân triển khai thực hiện
trên địa bàn thành phố.
UBND thành phố chỉ đạo ngành Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp
với ngành BHXH tham mưu để ban hành văn bản hướng dẫn việc rà soát, lập danh
sách và cấp thẻ BHYT theo hướng dẫn quy định tại Thông tư 30/2019/TT-
BLĐTBXH. Phối hợp với ngành BHXH tổ chức tập huấn cho các phòng nghiệp vụ
của BHXH và cán bộ phụ trách công tác BHYT cấp thành phố và cấp xã phường.
UBND thành phố Phủ Lý đã đề nghị ngành BHXH cấp thẻ BHYT không quá
5 ngày kể từ ngày nhận đủ danh sách cấp thẻ BHYT theo đúng quy định; cấp lại và
đổi thẻ ngay trong ngày khi nhận đủ hồ sơ theo quy định; chuyển trả thẻ BHYT kèm
theo danh sách về UBND các phường, xã thông qua dịch vụ Bưu chính công ích để
chuyển thẻ BHYT đến tận tay người tham gia BHYT kịp thời. Thực hiện nghiêm túc
quy chế phối hợp số 1726/QCPH/BHXH-STP ngày 13/11/2020 của BHXH tỉnh Hà
Nam và Sở Tư pháp tỉnh Hà Nam thực hiện kết nối liên thông dữ liệu đăng kí khai
sinh để cấp BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi, giáo dục pháp luật về BHXH, BHYT. Trên
địa bàn thành phố Phủ Lý đã triển khai cấp BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi thông qua
34
hình thức liên thông đạt được hiệu quả cao, thẻ BHYT luôn được cấp kịp thời, nhanh
chóng và thuận tiện.
Bảng 2.4: Tỷ lệ các nhóm đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế
STT Tên nhóm Tỷ lệ (%)
1 Cán bộ, công chức, viên chức 100
2 Hưu trí, người có công 100
3 Học sinh 100
4 Hộ nghèo, cận nghèo 56
5 Trẻ em dưới 6 tuổi 100
6 Đối tượng tự nguyện tham gia 25
(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)
Qua kết quả ở bảng 2.4, nhóm đối tượng cán bộ, công chức, viên chức; hưu
trí, người có công; học sinh; trẻ em dưới 6 tuổi tham gia BHYT 100%, cho thấy
công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách BHYT đã được triển khai thực hiện
một cách hiệu quả. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế nên nhóm đối tượng hộ nghèo,
cận nghèo và nhóm đối tượng tự nguyện tham gia chưa tham gia đầy đủ.
2.2.4. Chính sách xóa đói giảm nghèo
UBND thành phố Phủ Lý tiếp tục thực hiện đồng bộ, toàn diện và hiệu quả
các chương trình xóa đói giảm nghèo nhằm tạo cơ hội để hộ nghèo, hộ cận nghèo
tự lực vượt nghèo thông qua chính sách trợ giúp tín dụng ưu đãi, dạy nghề. Đây
là nhiệm vụ lâu dài, là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng
bền vững.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, các chính sách xóa đói giảm nghèo được
triển khai đồng bộ ở tất cả các xã, phường đã cải thiện đáng kể tình trạng nghèo đói
ở thành phố. Những nỗ lực trên đã góp phần làm giảm nhanh tỷ lệ nghèo đói của
thành phố.
Bảng 2.5: Hộ nghèo, hộ cận nghèo từ năm 2016 đến năm 2020
Năm
2016 2017 2018 2019 2020 Tổng số hộ nghèo 1494 1095 755 680 814 Tỷ lệ hộ nghèo (%) 3,4 2,66 1,5 0,9 1,73 Tổng số hộ cận nghèo 1554 1266 1280 925 1147 Tỷ lệ hộ cận nghèo (%) 2,85 2,2 2,31 1,63 2,43
(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)
35
Trong giai đoạn từ năm 2016 - 2020, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 3,4% (năm
2016) xuống c n 1,73% (năm 2020); tỷ lệ hộ cận nghèo cũng giảm từ 2,85% (năm
2016) xuống 2,43% (năm 2020) theo đúng tiêu chí. Năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo và tỷ
lệ hộ cận nghèo giảm xuống thấp nhất trong cả giai đoạn. Tuy nhiên, do đại dịch
COVID-19 nên tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo năm 2020 đã tăng 0,83% (hộ nghèo) và
tăng 0,8% (hộ cận nghèo). Tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo hàng năm giảm khá
mạnh, tuy nhiên lại chưa bền vững, tốc độ giảm nghèo chưa đồng đều.
ASXH của thành phố đã có sự thay đổi đáng kể, chất lượng cuộc sống của
người dân được nâng lên, nhất là các hộ nghèo, cận nghèo. Nhiều chính sách tạo cơ
hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội cơ bản được thực
hiện như lập quỹ vì người nghèo, huy động nguồn lực xóa nhà ở tạm bợ... Đặc biệt,
thành phố duy trì quản lý quỹ “Quốc gia hỗ trợ việc làm” để hỗ trợ người dân trong
vấn đề việc làm. Xây dựng Kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa
bàn thành phố, phối hợp với Trung tâm đào tạo nghề của Hội Nông dân tỉnh triển
khai 6 lớp đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn tại các phường, xã trực
thuộc thành phố: Tiên Tân (2 lớp), Quang Trung, Liêm Chính, Liêm Tiết, Liêm
Chung với tổng số 280 học viên.
Để xóa đói giảm nghèo, thành phố cũng áp dụng nhiều chính sách hỗ trợ như
chính sách tín dụng, hỗ trợ giáo dục dạy nghề, hỗ trợ giải quyết việc làm…
- Về chính sách tín dụng (vay vốn sản xuất kinh doanh ở Ngân hàng chính
sách): Doanh số cho vay trong 5 năm (2016-2020) là: 549.682 triệu đồng với
27.118 hộ, bình quân mỗi hộ vay khoảng 20 triệu đồng:
Bảng 2.6: Tín dụng cho hộ nghèo ở thành phố Phủ Lý giai đoạn 2016 - 2020.
Đơn vị Năm Năm Năm Năm Năm Chỉ tiêu Tổng tính 2016 2017 2018 2019 2020
Doanh số cho Triệu 167.635 128.990 98.460 81.886 72.891 549.682 vay đồng
Số lượt hộ vay Lượt 8.237 6.192 4.928 4.119 3.642 27.118 vốn hộ
Triệu Mức cho vay 20,35 20,83 19,98 19,88 20,01 20,21 đồng
(Nguồn: Ngân hàng chính sách thành phố Phủ Lý)
36
- Về hỗ trợ giáo dục dạy nghề, giải quyết việc làm: Số lượng lao động qua
đào tạo nghề tăng đều hàng năm, chỉ tiêu đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên
địa bàn thành phố đều thực hiện đạt và vượt kế hoạch đề ra. Các ngành, nghề đào
tạo từng bước thay đổi để phù hợp với nhu cầu của người lao động, nhiều lao động
sau khi được đào tạo đã phát huy, vận dụng kiến thức lao động sản xuất, tăng thu
nhập và cải thiện cuộc sống, góp phần giảm nghèo bền vững. Cụ thể:
Bảng 2.7: Số lao động nông thôn được đào tạo nghề trong giai đoạn 2016 - 2020
Nghề học và địa điểm của lớp học Năm Số lớp Số học viên
2016 08 224
2017 08 205
2018 07 245
2019 11 355
2020 06 205
- 07 lớp may tại: + Phường: Liêm Chính, Lê Hồng Phong, Quang Trung. + Xã: Kim Bình, Đinh Xá, Tiên Hải, Liêm Chung. - 01 lớp trồng rau an toàn tại xã Đinh Xá. - 06 lớp may tại: + Phường: Quang Trung, Liêm Chính. + Xã Liêm tiết, Liêm Chung, Tiên Tân (02 lớp). - 01 lớp trồng rau, 01 lớp nuôi gà an toàn tại xã Đinh Xá. - 04 lớp may công nghiệp tại: + Phường: Liêm Chính (02 lớp). + Xã: Tiên Tân (01 lớp), Liêm Chung (01 lớp). - 03 lớp chăn nuôi lợn tại xã Tiên Tân, Tiên Hải, Liêm Chung - 03 lớp kỹ thuật chế biến món ăn tại phường Liêm Chính và xã Tiên Tân (02 lớp). - 01 lớp trồng lúa năng suất cao tại xã Kim Bình. - 01 lớp trồng rau an toàn tại xã Tiên Tân. - 01 lớp chăn nuôi gà tại xã Tiên Tân. - 04 lớp kỹ thuật chăn nuôi và ph ng bệnh cho lợn tại xã: Kim Bình, Tiên Tân, Đinh Xá, Trịnh Xá. - 01 lớp may công nghiệp tại phường Liêm Chính. - 01 lớp trồng rau an toàn tại phường Thanh Tuyền. - 01 lớp nuôi và trị bệnh cho lợn tại phường Lam Hạ. - 01 lớp kỹ thuật chế biến món ăn tại xã Liêm Chung. - 02 lớp trồng rau an toàn tại xã Tiên Tân.
(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)
37
Số lao động được giải quyết việc làm sau học nghề đạt 90%. Tỷ lệ lao động
qua đào tạo nghề đến năm 2020 đạt 77%. Trong 5 năm, tổng số người có việc làm
mới là 19.503 người, cụ thể: Năm 2016 có 3.673 người, năm 2017 có 4.100 người,
năm 2018 có 4.565 người, năm 2019 có 5.300 người, năm 2020 có 5.538 người. Tổng
số người có việc làm thêm trong 5 năm là 28.458 người. Cụ thể: Năm 2016 có 4.487
người, năm 2017 có 4.950 người, năm 2018 có 5.621 người, năm 2019 có 6.495
người, năm 2020 có 6.905 người.
Qua đó có thể thấy việc hỗ trợ giáo dục, hỗ trợ việc làm rất hiệu quả, đã giải
quyết được vấn đề việc làm cho rất nhiều người dân lao động trên địa bàn thành
phố. Điều đó góp phần làm giảm nghèo bền vững, tăng thu nhập, cải thiện đời sống
vật chất phù hợp với nhu cầu của người lao động.
2.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được
Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Hội đồng nhân dân,
UBND thành phố, Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý
trong thực hiện chính sách ASXH đã thể hiện tính thường xuyên, nghiêm túc và
hiệu quả. Các chính sách ASXH cơ bản thực hiện tốt đảm bảo đầy đủ, kịp thời,
đúng đối tượng, không có đơn khiếu nại vượt cấp trong giải quyết chính sách góp
phần làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội địa phương.
Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu cho UBND thành
phố Phủ Lý thực hiện thăm hỏi tặng quà các đối tượng chính sách hưởng ưu đãi xã
hội, chủ động và tích cực trong việc thực hiện kế hoạch tổ chức điều dưỡng dã
ngoại và tập trung mỗi năm. Từng hộ gia đình người có công sau khi kiểm tra, xem
xét hoàn cảnh sẽ được thực hiện việc sửa chữa nhà ở. Các hộ gia đình được hỗ trợ
đã ý thức được ý nghĩa của nguồn hỗ trợ, đã chủ động huy động thêm vốn từ gia
đình và có những ý tưởng hay trong việc sửa chữa nhà ở, qua đó đáp ứng được yêu
cầu về chất lượng nhà ở. Kết quả sửa chữa, xây mới nhà ở cho gia đình người có
công đều hoàn thành trước thời gian và vượt so với kế hoạch đề ra. Để có được kết
quả này, các cấp, các ngành toàn thành phố đã vào cuộc một cách khẩn trương hoặc
có những cách làm sáng tạo để có nguồn tiền thực hiện các công trình. Cụ thể là các
phường xã đã nắm chắc từng hộ gia đình, hướng dẫn cụ thể, theo dõi sát tiến độ sửa
chữa, xây dựng và ứng kinh phí kịp thời. Nguồn kinh phí thực hiện từ thành phố
38
đến địa phương đã chủ động vận dụng ứng ngân sách, đáp ứng kịp thời cho các hộ
gia đình triển khai trong lúc các đơn vị chưa vận động kịp.
Việc trợ giúp thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và trợ cấp
đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước như mất mùa, thiên tai,
đói nghèo… thông qua các khoản tiền mặt hoặc hiện vật từ ngân sách Nhà nước
được đặc biệt quan tâm và thực hiện kịp thời. Thường xuyên tổ chức cấp gạo cứu
trợ người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo mỗi người 15 kg gạo. Cứu trợ những
đối tượng lang thang đưa vào trung tâm công tác xã hội tỉnh.
Từ năm 2016 đến nay, về thực hiện chính sách BHXH, BHYT, UBND thành
phố đã triển khai nhiều biện pháp tuyên truyền phát triển đối tượng tham gia BHXH,
BHYT, do đó số người tham gia BHXH bắt buộc hàng năm đều hoàn thành đạt và vượt
mức chỉ tiêu được giao. Luật BHXH số 58/2018/QH13 ngày 20/11/2014 ban hành đã
mở rộng thêm nhiều đối tượng làm tăng độ bao phủ tham gia BHXH. Các cơ quan
quản lý Nhà nước về BHYT đã chủ động tham mưu thực hiện hiệu quả và có những
giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực có thể gây thất thoát quỹ.
Mạng lưới đại lý thu BHYT trên địa bàn thành phố phát triển rộng khắp. Công tác cải
cách thủ tục hành chính góp phần làm giảm thời gian làm các thủ tục, hồ sơ về thẻ
BHYT và khám chữa bệnh bằng thẻ.
Công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn thành phố đã thực sự đi vào đời
sống và huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các
tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, sự tham gia của các tầng lớp nhân dân
và của chính người nghèo, người lao động. Các lớp học nghề được mở ra góp phần
mở rộng ngành nghề cho người lao động, giảm bớt được tình trạng thất nghiệp, tăng
thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động.
Các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực thi các chính sách trên địa bàn đã
tiến hành thường xuyên, các cơ quan có thẩm quyền đã giám sát chặt chẽ việc thực
hiện các chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý.
2.3.2. Những hạn chế tồn tại
Việc thực hiện ASXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã đạt
được nhiều kết quả tốt đáng khích lệ, góp phần thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Tuy
nhiên, công tác thực hiện vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế, khuyết điểm cần được
nhìn nhận và khắc phục trong thời gian tới. Những hạn chế đó là:
- Trong chính sách ưu đãi xã hội, bảo trợ xã hội thể hiện ở:
Nguồn kinh phí còn hạn chế chưa đáp ứng đủ để thực hiện một số nhiệm vụ
39
chuyên môn. Nguồn lực thực hiện chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước, chưa thu hút
được nhiều sự tham gia của xã hội và khuyến khích người được thụ hưởng chính sách
tự vươn lên.
Việc giải quyết chính sách cho đối tượng thụ hưởng có nơi, có lúc chưa kịp
thời. Hồ sơ giải quyết mai táng phí của đối tượng người có công, có thể sai lệch về
năm sinh, tên tuổi giữa hồ sơ kê khai khen thưởng huân, huy chương với chứng
minh nhân dân và hộ khẩu.
Công tác chăm lo đời sống người có công vẫn còn một số khó khăn, tồn tại
như: Việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đối
với người có công chưa thực sự hiệu quả; việc hướng dẫn và xác lập hồ sơ đề nghị
hưởng chế độ ưu đãi ở một số phường, xã còn chậm; trên địa bàn thành phố vẫn còn
nhiều gia đình chính sách, người có công có cuộc sống khó khăn khi ốm đau, bệnh
tật, nhà ở xuống cấp, cá biệt còn một số trường hợp chưa được hưởng đầy đủ các
chính sách ưu đãi theo quy định.
Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chế độ chính sách và công tác chi trả
trợ cấp cho đối tượng chưa thường xuyên.
- Trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT nhận thấy các vấn đề sau:
Vẫn còn tình trạng lợi dụng chính sách, giấy tờ để trục lợi quỹ BHXH, bảo
hiểm thất nghiệp.
Một số doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ các quy định của luật BHXH
như không đóng, đóng không đúng thời gian quy định, đóng không đủ số người
thuộc diện tham gia BHXH; có những đơn vị còn tình trạng nợ BHXH kéo dài; thực
hiện việc đóng BHXH cho người lao động không đúng với mức tiền lương trong
hợp đồng lao động; việc nâng lương theo thời hạn cho người lao động không đúng
thời gian quy định đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người lao động.
Đối tượng thụ hưởng chính sách bảo hiểm đông, có đối tượng được hưởng một
mã thẻ, có đối tượng được hưởng hai, ba mã thẻ nên rất khó khăn trong việc quản lý
cấp thẻ.
Đối với việc tăng đối tượng tham gia BHYT tại một số đơn vị chưa thực hiện
cung cấp đầy đủ các thông tin tra cứu mã bảo hiểm hoặc cung cấp thông tin nhưng
còn thiếu nên dẫn đến tình trạng cấp trùng thẻ BHYT, thời gian phát hành thẻ
BHYT cho một số đối tượng chưa kịp thời.
- Công tác giải quyết việc làm ở thành phố Phủ Lý trong thời gian qua còn
40
nhiều bất cập, cụ thể: Số lượng người được học nghề, đào tạo nghề cho lao động
nông thôn nhiều song cơ hội tìm kiếm việc làm còn rất khó khăn; một số lao động
không chịu khó, không có ý thức trong lao động, muốn làm việc nhẹ, lương cao
nhưng bản thân không đảm bảo về điều kiện bằng cấp và tay nghề, đồng thời ý thức
về kỷ luật lao động còn kém. Bên cạnh đó, do đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo
dạy nghề, lao động - việc làm các cấp còn thiếu về số lượng, chất lượng chuyên môn.
Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể trong triển khai thực hiện nhiệm
vụ đào tạo dạy nghề còn thiếu chặt chẽ đồng bộ, chưa thực sự tạo được sức mạnh
tổng hợp trong công tác đào tạo dạy nghề. Nhận thức của nhân dân chưa thực sự hiểu
được tầm quan trọng của việc học nghề.
- Về trình độ chuyên môn, năng lực thực hiện chính sách của cán bộ:
Năng lực thực hiện chính sách ASXH của đội ngũ cán bộ các cấp là rất quan
trọng. Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ đi ngược lại với chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, chậm chi trả hoặc trả không đúng đối tượng được hưởng; không
bám địa bàn để tìm hiểu đời sống của nhân dân; đùn đẩy trách nhiệm trong giải
quyết các chế độ thụ hưởng của người dân.
Công tác tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ phường, xã về chế
độ chính sách còn hạn chế. Trình độ chuyên môn của cán bộ cấp cơ sở còn yếu nên
gặp nhiều khó khăn trong giải quyết, tiếp nhận hồ sơ, giải thích về chế độ chính
sách cho đối tượng. Mặt khác, việc bố trí cán bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
tại các đơn vị phường, xã không ổn định, mất nhiều thời gian hướng dẫn về chuyên
môn nghiệp vụ.
2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
Những hạn chế của công tác ASXH tại thành phố Phủ Lý xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó xuất phát từ một số nguyên nhân chính như sau:
Một là, chủ trương, chính sách của Đảng bộ, chính quyền thành phố Phủ Lý
về thực hiện ASXH cho người dân (nhất là người dân thuộc hộ nghèo, hộ cận
nghèo...) trong xã hội chưa được triển khai đồng bộ, kịp thời ở một số địa bàn.
Nguyên nhân là do một số cán bộ còn hạn chế về năng lực chuyên môn, kiến thức
trong việc triển khai các biện pháp của các lĩnh vực thuộc ASXH chưa cao; trong
quá trình triển khai một số địa phương có biểu hiện tiêu cực, thiếu thống nhất trong
nhận thức và hành động; năng lực của cán bộ làm công tác lao động việc làm còn
hạn chế, vẫn xảy ra tình trạng “hành chính quan liêu” làm giảm hiệu quả của công
tác lao động việc làm và không đảm bảo tính công bằng cho người lao động. Mặt
41
khác, do địa bàn của thành phố rộng, trình độ nhận thức, dân trí của một số hộ dân ý
thức kém, nhận thức chưa sâu sắc về tầm quan trọng của ASXH nên đã ỷ lại, trông
chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức xã hội.
Hai là, do nguồn lực thực hiện ASXH cho người dân trên địa bàn thành phố
Phủ Lý còn nhiều hạn chế đặc biệt là nguồn lực thực hiện cho các xã mới được sát
nhập vào địa phận thành phố như Tiên Tân, Tiên Hiệp, Tiên Hải… Nguồn lực thực
hiện chính sách ASXH chủ yếu được cấp từ ngân sách Nhà nước. Các kinh phí từ tổ
chức, đoàn thể, cá nhân, doanh nghiệp có tấm lòng hảo tâm chiếm một phần nhỏ. Bên
cạnh đó, chất lượng dịch vụ cho việc đảm bảo ASXH còn thấp, các nguyên tắc của hệ
thống ASXH như mọi người dân có quyền an sinh, tạo sự đoàn kết, gắn bó, tương trợ
giữa các cá nhân, nhóm xã hội, gắn trách nhiệm và quyền lợi... chưa được nhận thức
một cách đầy đủ.
Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung và yêu cầu của chính sách
ASXH của thành phố chưa đầy đủ, kịp thời và rõ ràng đối với những đối tượng liên
quan. Các văn bản hướng dẫn, thực thi nhiều khi không minh bạch và công khai.
Công tác tuyên truyền còn mang tính chất “đánh trống, bỏ dùi”, hình thức, câu lệ.
Thông tin về nhà ở cho người có công chủ yếu được tuyên truyền, thông báo qua
báo chí địa phương song vẫn chưa có mối thống nhất trong việc tiếp nhận, xét duyệt
hồ sơ xin hỗ trợ xây dựng nhà ở xã hội. Việc tiếp cận các thông tin còn hạn chế,
thiếu minh bạch, phải trải qua nhiều cửa mới tiếp cận được nhà thu nhập thấp.
Bốn là, hoạt động trợ cấp, bảo trợ xã hội của thành phố chưa toàn diện, có
biểu hiện tiêu cực trong thực thi. Nguyên nhân là do tác động tiêu cực của nền kinh
tế thị trường đã làm cho các nhóm thụ hưởng trợ cấp càng trở nên khó khăn hơn.
Mặt khác, trong thực thi các chính sách ASXH còn nhiều biểu hiện tiêu cực.
Năm là, tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra ở nhiều nơi, công tác hỗ trợ giáo dục
dạy nghề, giải quyết việc làm cho người lao động nhằm đảm bảo ASXH cho người dân
được mở rộng song không đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
Tiểu kết chƣơng 2
Trong thời gian qua, việc thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố
Phủ Lý luôn được Đảng bộ, chính quyền thành phố xác định là nhiệm vụ chính trị
quan trọng hàng đầu và đó là sự nghiệp của toàn hệ thống chính trị và trách nhiệm
của mỗi người dân trên địa bàn. Thành phố Phủ Lý đã tập trung triển khai những
giải pháp quan trọng trên những trụ cột khác nhau của ASXH, qua đó đã thu được
42
một số thành tựu quan trọng. Việc thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý
đã tạo động lực cho sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội trên địa bàn, tạo sự ổn
định về chính trị trật tự an toàn xã hội. Việc huy động nguồn lực tài chính cho việc
đảm bảo ASXH cho người dân ngày càng được mở rộng, phát huy nội lực trong
thực hiện chính sách xã hội, công tác trợ giúp cho đối tượng thụ hưởng trên địa bàn
cũng đưa lại những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện ASXH cho
người dân còn bộc lộ một số hạn chế: Chủ trương, chính sách của Đảng bộ, chính
quyền thành phố Phủ Lý còn chậm được triển khai đồng bộ, kịp thời; nguồn lực
thực hiện ASXH còn hạn chế về mặt năng lực, trình độ chuyên môn; công tác tuyên
truyền về thực hiện ASXH chưa đầy đủ, kịp thời, tinh thần phục vụ nhân dân của
một số cán bộ, công chức trong thi hành công vụ chưa cao.
Tìm hiểu được nguyên nhân chính là cơ sở để tác giả đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý trong các
giai đoạn tiếp theo.
43
Chƣơng 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH
XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM
3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
Các chính sách xã hội nói chung và ASXH nói riêng trong giai đoạn hiện nay
bao hàm trong cương lĩnh, nghị quyết chuyên đề, các nghị quyết phát triển kinh tế - xã
hội ngắn hạn, dài hạn của Đảng, Nhà nước và các chương trình mục tiêu quốc gia của
Chính phủ:
- Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 khóa XI “Một số vấn đề về chính
sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn
2021 - 2020; Nghị quyết số 21-NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2015 - 2020” của Bộ Chính
trị; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2021 - 2030”;
- Bám sát và triển khai có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra
tại các văn bản của Tỉnh ủy, UBND tỉnh triển khai Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày
22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020; Quyết định số 538/QĐ-TTg
ngày 29/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến
tới bảo hiểm y tế toàn dân giai đoạn 2015 - 2020; Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày
26/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện đồng bộ các nhóm
giải pháp phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội;
- Trên cơ sở những đặc thù về kinh tế - xã hội của thành phố Phủ Lý.
Việc thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý trong thời gian tới dựa
trên một số quan điểm sau:
- Thực hiện chính sách ASXH phải gắn với tăng trưởng, phát triển kinh tế.
Cần phải chú trọng thu hút vốn (tài chính, khoa học công nghệ...) đầu tư từ các
doanh nghiệp trong và ngoài nước; phát triển có hiệu quả các thành phần kinh tế,
đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân; chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng
44
nông thôn mới, đầu tư khai thác có hiệu quả lợi thế vốn có của địa phương;
- Thực hiện chính sách ASXH phải bao phủ cho mọi đối tượng được thụ
hưởng trên toàn địa bàn thành phố. Trong thời gian tới, để tạo dựng sự ổn định, phát
triển cho thành phố Phủ Lý, việc thực hiện ASXH cho người dân trên địa bàn cần
bao phủ diện rộng cho mọi đối tượng trong xã hội thuộc diện được hưởng thụ;
- Chính sách ASXH cho người dân trên địa bàn thành phố Phủ Lý phải phù
hợp với điều kiện, khả năng thực tế sau khi sát nhập thêm nhiều xã lân cận, đồng
thời phải có lộ trình, bước đi phù hợp. Cuộc khủng hoảng kinh tế do dịch bệnh thời
gian qua đã tác động không nhỏ đến nguồn tài chính của thành phố cho nên nguồn
lực tài chính cho việc thực hiện chính sách ASXH gặp nhiều khó khăn. Đời sống kinh
tế của người dân gặp nhiều khó khăn, phải đối mặt với sự tăng giá cả sinh hoạt trong
cuộc sống hàng ngày, sự phá sản của một số doanh nghiệp vừa và nhỏ đã dẫn đến sự
thất nghiệp và tiền công của người lao động, ngân sách chi cho lĩnh vực ASXH bị cắt
giảm... Trong khi đó, đối tượng được thụ hưởng ngày càng tăng điều này đ i hỏi
thành phố phải có lộ trình phát triển hệ thống ASXH khoa học, rõ ràng, tránh lãng
phí, thất thoát sử dụng không hiệu quả các nguồn lực trong lĩnh vực ASXH;
- Để đảm bảo thực hiện chính sách ASXH hiệu quả cho người dân trên địa
bàn, phải chú trọng vào công tác xây dựng, hoàn thiện đội ngũ cán bộ chính sách xã
hội. Đội ngũ cán bộ ASXH của thành phố cần được kiện toàn, hoàn thiện đầy đủ về
số lượng, chất lượng. Trình độ chuyên môn phải được đào tạo bài bản, khoa học.
Phù hợp với quan điểm đã nêu, trong thời gian tới công tác ASXH trên địa
bàn thành phố Phủ Lý được định hướng như sau:
- Tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chính sách ASXH đang triển
khai, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân;
- Hỗ trợ, tạo điều kiện cho hộ gia đình chính sách, hộ nghèo có phương tiện
sinh kế để sản xuất, trợ giúp việc học tập, học nghề, chuyển đổi nghề, giải quyết
việc làm, nhất là các hộ trong diện thu hồi đất sản xuất;
- Tập trung nguồn lực thực hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng Đề án giảm
nghèo theo chuẩn mới sau khi hoàn thành mục tiêu xóa hộ nghèo hiện nay;
- Tiếp tục thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi Người có công với cách mạng, duy
trì 100% xã, phường làm tốt công tác thương binh - liệt sĩ, 100% gia đình chính
45
sách của thành phố có nhà ở ổn định, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của
dân cư địa phương nơi cư trú;
- Tạo môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được
bảo vệ, chăm sóc, ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em;
- Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, giải
quyết thêm nhiều việc làm cho người lao động và sinh viên tốt nghiệp ra trường;
- Phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, nhất là thị trường có
thu nhập cao, an toàn cho người lao động. Phấn đấu đến năm 2025 giảm tỷ lệ thất
nghiệp khu vực thành thị;
- Huy động nhiều nguồn lực xây dựng nhà ở chung cư để bố trí cho các hộ
chính sách, hộ nghèo chưa có chỗ ở ổn định, các hộ tái định cư, các đối tượng
hưởng lương từ ngân sách. Tiếp tục khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở cho công
nhân tại các khu công nghiệp.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã
hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cấp ủy Đảng, chính quyền và đội ngũ cán
bộ về vai trò của chính sách an sinh xã hội
Thực tiễn đổi mới đất nước để lại cho Đảng Cộng sản Việt Nam bài học kinh
nghiệm về giữ vững tính định hướng XHCN. Ở đó, các chính sách xã hội thể hiện
cả tầng nổi lẫn tầng sâu giá trị về bản chất của chế độ xã hội mới mà chúng ta đang
xây dựng. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của chính sách ASXH đối với
thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn quán triệt, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí
Minh để tiếp tục ban hành nhiều chính sách đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặt con người vào vị trí trung tâm chiến
lược của mọi sự phát triển kinh tế - xã hội.
Từ nhận thức đó càng thấy rõ chính sách ASXH có vai tr đặc biệt quan
trọng trong quản lý phát triển xã hội, trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức
bách qua từng thời kỳ cách mạng. Hiệu quả việc giải quyết các vấn đề xã hội không
chỉ góp phần tạo nên sự ổn định, phát triển lành mạnh các quan hệ xã hội mà còn
thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng và phát triển kinh tế đảm bảo tính bền
vững, lâu dài. Chính sách ASXH chỉ trở thành động lực của sự phát triển nếu đó là
46
những chính sách đúng đắn, thể hiện được nguyên tắc công bằng, dân chủ, hợp lý
và nhân văn. Ngược lại, chính sách ASXH sai lầm hoặc lạc hậu so với thực tiễn vận
động của đất nước có thể kìm hãm sự phát triển của xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến
việc phát huy nhân tố con người.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả những việc Đảng và
Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì mà không nhằm
mục đích ấy là không đúng” [22, tr.310], Đảng ta đã chỉ rõ: Khắc phục thái độ coi
nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng
XHCN. Đội ngũ cán bộ chính là lực lượng trực tiếp thực hiện chính sách ASXH, là
nhân tố quyết định khả năng giải quyết triệt để, hiệu quả và hài hòa các mối quan hệ
giữa chủ thể ban hành chính sách và đối tượng thụ hưởng trong quá trình thực thi.
Nâng cao nhận thức về vai trò của chính sách ASXH cho đội ngũ cán bộ các cấp
cần được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Do vậy, các cấp uỷ Đảng và chính quyền, đặc biệt là đội ngũ cán bộ thực
hiện chính sách ASXH cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò của chính sách
ASXH trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ theo nguyên tắc công bằng, dân
chủ và nhân đạo. Đảng và Nhà nước phải luôn phấn đấu thực hiện mục tiêu hết sức
chăm nom đến đời sống của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
toàn xã hội.
3.2.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác an sinh xã hội
Tính khả thi của chính sách ASXH phụ thuộc rất lớn vào vai trò của đội ngũ
cán bộ làm công tác hoạch định và thực thi chính sách. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [21,
tr.260]. Thông qua đào tạo và bồi dưỡng cán bộ mới tạo ra đội ngũ thực hiện chính
sách ASXH vừa có đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, vừa
giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có tác phong sâu sát thực tiễn, liên hệ mật thiết với
quần chúng nhân dân.
Những năm qua, trên địa bàn thành phố Phủ Lý, một trong những nguyên
nhân làm cho chính sách ASXH thiếu tính khả thi, nhiều bất cập chính là do nhận
thức, trách nhiệm và trình độ công tác của một bộ phận cán bộ thực thi chính sách
vẫn còn hạn chế. Bởi lẽ, muốn triển khai có hiệu quả chính sách, cán bộ phải “đọc”
47
được chính sách và hiểu đúng về chính sách, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong cả hệ
thống chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả chính
sách. Do đó, nâng cao trình độ công tác, kỹ năng, đạo đức cho đội ngũ cán bộ thực
thi chính sách ASXH là việc làm hết sức cần thiết. Để làm tốt giải pháp này, cần có
chiến lược vừa mang tính thường xuyên, vừa lâu dài và chú trọng những vấn đề sau:
Thứ nhất, UBND thành phố Phủ Lý cần xác định mục tiêu, nội dung, phương
thức đào tạo nguồn nhân lực làm công tác ASXH. Trong đó, nội dung đào tạo cần
chú trọng cả kiến thức và kỹ năng triển khai chính sách ASXH, đặc biệt là những
kiến thức về các đối tượng thụ hưởng, kỹ năng tổ chức, kỹ năng tuyên truyền chính
sách. Từ đó, lựa chọn cán bộ tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng thực thi chính sách
ASXH phải bảo đảm tính khách quan, công bằng, phù hợp với đặc thù công việc.
Thứ hai, thường xuyên mở các lớp tập huấn nhằm nâng cao tinh thần, trách
nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác chính sách ASXH. Thông qua
các lớp tập huấn góp phần nâng cao tinh thần và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ
làm công tác ASXH. Tại các buổi tập huấn, chú trọng trang bị các kỹ năng thực thi,
kỹ năng tuyên truyền, hướng dẫn người dân về chính sách và động viên người dân
tham gia chính sách. Chỉ như vậy, đội ngũ cán bộ mới nhận thức đầy đủ, đúng đắn
về mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện, mới có thể
triển khai thành công chính sách trong cuộc sống và xử lý những vướng mắc phát
sinh trong quá trình triển khai.
Thú ba, tăng cường bố trí cán bộ, công chức thực hiện chính sách ASXH đi
khảo sát, nắm bắt tình hình thực tế.
Nắm bắt được thực tế sinh động của đời sống xã hội, nhận thức rõ được
những khó khăn, thuận lợi, những nhu cầu, mong muốn của người dân và doanh
nghiệp… là việc làm cần thiết, đặc biệt đối với những cán bộ, công chức trẻ. Để
việc đi trải nghiệm thực tế thật sự đạt hiệu quả trong việc rèn luyện cán bộ, công
chức, mỗi cơ quan, đơn vị cần đánh giá đúng vai tr của công tác này, có quy chế,
quy định và cơ chế cụ thể để triển khai thực hiện. Đồng thời, cần xây dựng kế hoạch
rõ ràng, cụ thể cho từng năm, từng giai đoạn.
Thứ tư, cần xây dựng ý thức tự học tập, tự rèn luyện cho cán bộ, công chức.
Cần có biện pháp phù hợp và đủ sức thuyết phục để công chức ý thức rằng việc tự
48
giác học tập không chỉ là sự khát khao, thôi thúc tự bản thân, mà c n là động lực để
có thể thực hiện nhiệm vụ một cách bài bản và chuyên nghiệp. V.I.Lênin từng nói:
“Học, học nữa, học mãi”, không học thì không có tri thức.
Thứ năm, kết hợp thực hiện quyết liệt chủ trương tinh giảm biên chế mà
Chính phủ đã chỉ đạo, có phương án vận động những công chức không đáp ứng
điều kiện, năng lực yếu chuyển công tác hoặc có chính sách giải quyết chế độ
hưởng một lần. Hạn chế tình trạng “có con người” mà không những không giải
quyết được nhiệm vụ mà còn làm cản trở quá trình thực thi chính sách.
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện
chính sách an sinh xã hội.
Để đưa chính sách ASXH vào cuộc sống, cần giúp cho đối tượng của chính
sách ASXH hiểu biết về chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến nghĩa vụ
và quyền lợi của họ, khuyến khích, động viên họ đóng góp ý kiến xây dựng và tham
gia thực hiện chính sách ASXH. Đây là nhiệm vụ quan trọng cần đến vai trò của
chủ thể quản lý để giải thích cổ động, giúp đỡ quần chúng, làm cho mọi người hiểu
thấu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi thi đua thực
hiện đầy đủ chính sách ấy. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và
Nhà nước luôn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia thực
hiện chính sách ASXH, góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá
nhân, các nhóm xã hội và cả cộng động tham gia chính sách trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công tác tuyên truyền chính sách
ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là một hoạt động quan trọng góp phần đưa
chính sách đi vào cuộc sống. Đồng thời làm cho người dân và các tổ chức kinh tế -
xã hội nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích mà
mình có được khi tham gia chính sách ASXH.
Để công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia thực hiện chính sách
ASXH phát huy tính hiệu quả, trước tiên cần phải xác định đối tượng cần phổ biến,
truyền thông về chính sách ASXH. Cung cấp tài liệu, hướng dẫn quy trình thực thi
các chính sách ASXH. Chẳng hạn, để đạt được mục tiêu BHYT toàn dân, cần triển
khai thường xuyên, đồng bộ công tác truyền thông về BHYT và Luật BHYT để
người dân hiểu rõ hơn về lợi ích khi tham gia BHYT đối với bản thân, gia đình và
49
cộng đồng.
Thực hiện đa dạng hoá nội dung và hình thức tuyên truyền. Một trong những
trở ngại lớn khiến người dân không thể hoặc không muốn tham gia chính sách
ASXH xuất phát từ nhận thức không đầy đủ của họ về chính sách. Vì vậy, thành
phố Phủ Lý cần lựa chọn mô hình, biện pháp tuyên truyền phù hợp với từng đối
tượng. Kênh tuyên truyền phải đa chiều tiếp nhận và phản hồi ý kiến, có sự trao đổi
qua lại liên quan đến ASXH, đảm bảo ASXH và khả năng tự ASXH.
Việc thực hiện công tác tuyên truyền hướng đến tăng cường khả năng “tự an
sinh” của người dân, giúp cho đối tượng thụ hưởng thấy được tầm quan trọng của
việc “tự an sinh”. Qua đó, làm cho họ tự tin hơn về bản thân, thúc đẩy tinh thần ham
học hỏi cầu tiến bộ, ý thức vươn lên khẳng định mình trong cuộc sống hiện tại.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với nhân
dân để giải đáp những thắc mắc về chính sách ASXH, giúp người dân hiểu hơn về
chính sách. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực
hiện chính sách ASXH.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách ASXH phải đặc biệt
quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống báo chí, nhất là hệ thống báo chí
chuyên ngành về chính sách ASXH, để lực lượng này đảm bảo trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cung cấp thông tin chính thống, chủ động định hướng và làm chủ
thông tin, tăng cường hiệu quả truyền thông. Thông qua vai tr báo chí, năng lực
nhận thức người dân và toàn xã hội về chính sách ASXH, về thực hiện quy định
pháp luật chính sách ASXH được nâng cao. Để các cơ quan báo chí làm tốt vai trò,
trách nhiệm của mình, cơ quan quản lý, chỉ đạo báo chí cần kịp thời định hướng, chỉ
đạo thông tin, tuyên truyền về các vấn đề xã hội để đạt được mục tiêu chiến lược
truyền thông. Đồng thời, có những chương trình tập huấn ngắn hạn, dài hạn cho
lãnh đạo và phóng viên các cơ quan báo chí về chính sách ASXH để sáng tạo, đăng
tải các tác phẩm có giá trị, xứng đáng là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn
hóa, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì con người, vì ASXH và sự phát triển bền vững
của quốc gia, dân tộc.
Kịp thời phát hiện, khen thưởng, động viên các địa phương, cơ quan, đơn vị,
50
doanh nghiệp, cá nhân thực hiện tốt công tác truyền thông về chính sách ASXH.
Đồng thời, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật và các hiện tượng
tiêu cực xã hội khác trong thực hiện chính sách ASXH.
3.2.4. Phát triển kinh tế gắn với thực hiện chính sách an sinh xã hội
Phát triển kinh tế và ASXH có mối quan hệ biện chứng gắn bó chặt chẽ với
nhau. Nếu quá chú trọng phát triển kinh tế, không quan tâm giải quyết vấn đề
ASXH sẽ để lại nhiều hậu quả về mặt xã hội. Ngược lại, chỉ chú trọng tới việc giải
quyết các vấn đề ASXH sẽ triệt tiêu các động lực phát triển kinh tế. Vì thế, việc đẩy
mạnh phát triển kinh tế gắn với việc thực hiện chính sách ASXH cho người dân trên
địa bàn thành phố Phủ Lý là một trong những giải pháp để đáp ứng sự phát triển bền
vững. Việc đẩy mạnh mối quan hệ này nhằm thực hiện tốt các chính sách ASXH
cho người dân vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài. Song giải quyết vấn
đề này đ i hỏi thành phố Phủ Lý chú trọng vào một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Một là, phát triển kinh tế phải có kế hoạch, lộ trình rõ ràng phù hợp.
Là một thành phố trẻ, lại vừa mới được sát nhập mở rộng thêm một số xã
ngoại vi, điều kiện kinh tế, tiềm năng để phát triển kinh tế mỗi địa phương có sự
khác nhau, không đồng đều, mức độ chênh lệch giữa các phường, xã rất lớn. Vì vậy,
phát triển kinh tế gắn với chính sách ASXH phải có kế hoạch, lộ trình rõ ràng phù
hợp, phải kịp thời nghiên cứu, rút kinh nghiệm, từng bước tổng kết đánh giá, xây
dựng và triển khai những mô hình phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa
phương. Mỗi địa phương của thành phố cũng cần phải đề ra những kế hoạch phát
triển cho riêng mình, tránh đốt cháy giai đoạn, tránh ỷ lại trông chờ vào sự giúp đỡ
của Trung ương, thành phố. Việc xác định lộ trình, kế hoạch trước hết phải căn cứ
vào điều kiện cụ thể của địa phương (nguồn nhân lực, thế mạnh của địa phương,
tiềm lực vật chất...).
Hai là, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền thành phố
trong việc chỉ đạo và thực hiện việc phát triển kinh tế gắn với thực hiện ASXH cho
người dân.
Các tổ chức Đảng cần phải đổi mới tư duy, xóa bỏ tư tưởng lạc hậu, trì trệ,
lỗi thời, tạo nhận thức mới về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và các vấn đề
xã hội.
51
Trong quá trình quản lý việc thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng và phát triển
kinh tế bằng nhiều biện phù hợp nhằm phát huy mọi khả năng, trách nhiệm của các
cấp, ngành, toàn thể xã hội vào phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề ASXH.
Chính quyền địa phương phải có những chính sách cụ thể, thiết thực nhằm
khuyến khích người dân làm giàu chính đáng, tạo điều kiện cho mọi đối tượng có
cơ hội ngang nhau trong lao động, trong tổ chức sản xuất và kinh doanh.
Ba là, phát triển kinh tế phải đi đôi với việc xoá đói giảm nghèo, nâng cao
năng lực, khả năng cho người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo thoát nghèo
bền vững.
Để giải quyết tốt việc giảm nghèo và thoát nghèo bền vững tại thành phố Phủ
Lý, việc kết hợp các nguồn lực là rất cần thiết bảo đảm sự chỉ đạo điều hành một cách
tập trung, đầu tư có chiều sâu và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Đồng thời
phải thực hiện tốt các giải pháp nâng cao năng lực, khả năng cho người nghèo thoát
nghèo bền vững bởi họ là một trong những đối tượng chính của chính sách ASXH.
Phối hợp với các trường, các trung tâm đào tạo nghề, trung tâm giới thiệu
việc làm của Tỉnh, thành phố UBND các phường xã tổ chức lớp dạy nghề lao động
tại khu công nghiệp và nông thôn nhằm giải quyết triệt để vấn đề thiếu việc làm cho
người lao động.
Bốn là, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế gắn với đảm bảo ASXH
thông qua nhiều chính sách, hình thức và phương pháp phù hợp với ý Đảng, lòng dân.
Đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, duy
trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững. Đây là biện pháp quan trọng
nhằm nâng cao nguồn thu ngân sách của thành phố để đầu tư hỗ trợ cho ASXH trên
địa bàn. Đồng thời tạo ra nguồn việc làm cho người lao động có thu nhập ổn định,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tập trung phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tạo động lực phát
triển chung cho nền kinh tế địa phương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh
phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, khuyến khích các thành phần kinh tế,
các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực có tiềm năng, thế mạnh như: Sản xuất vật liệu
xây dựng, cơ khí phục vụ nông nghiệp, may mặc, lưu niệm phục vụ du lịch... Tăng
cường kêu gọi, xúc tiến đầu tư vào Khu công nghiệp Châu Sơn và các khu công
52
nghiệp đã và đang hoàn thành đưa vào khai thác để có thể mở rộng sản xuất kinh
doanh, tăng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp góp phần giải quyết việc làm
cho người dân trên địa bàn, nâng cao dần thu nhập cho người lao động.
Từ những hạn chế trong việc cung cấp các dịch vụ công trên địa bàn, thành
phố cần quan tâm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, đi đôi với nâng cao
năng lực quản lý đô thị, bảo vệ môi trường. Trước hết là sử dụng tài nguyên đất có
hiệu quả nguồn quỹ đất, khuyến khích thực hiện chính sách “đổi đất lấy cơ sở hạ
tầng” phục vụ cho phát triển kinh tế (chợ, siêu thị), phát triển văn hóa (khu vui chơi,
khu thể thao công cộng), phát triển cơ sở hạ tầng (đường, cơ sở y tế khám chữa
bệnh) góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của người dân trên
địa bàn.
Tập trung phát triển các làng nghề, thu hút được nhiều nhân công lao động,
nhất là đối tượng hộ nghèo, đối tượng khuyết tật. Tạo điều kiện thuận lợi để các
doanh nghiệp đầu tư phát triển lâu dài trên địa bàn. Từng bước xây dựng các thương
hiệu sản phẩm hàng hóa có thế mạnh của thành phố, góp phần nâng cao đời sống
cho người dân.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, chủ yếu là đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ, tay nghề đáp ứng với nhu cầu của thị trường. Tăng đầu tư cho thực hiện các
chương trình mục tiêu về ASXH như việc làm, dạy nghề, phát triển nguồn nhân lực,
giảm nghèo, chương trình trợ giúp xã hội, bảo trợ xã hội. Đẩy mạnh phát triển các
loại hình dịch vụ, du lịch để từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tổ chức
quảng bá và khai thác có hiệu quả các điểm du lịch lịch sử, văn hóa và du lịch tâm
linh trên địa bàn như chùa H a Lạc nhằm nâng nguồn thu trên địa bàn, đồng thời
góp phần “tạo ra” nhu cầu lao động phục vụ cho du lịch, góp phần hạn chế số lao
động đã được đào tạo các ngành nghề như du lịch, tiếng anh… nhưng đến nay chưa
có việc làm.
Năm là, phát triển hài hòa, bền vững giữa các địa phương, xây dựng đô thị,
nông thôn mới gắn với việc thực hiện ASXH cho người dân.
Trong thời gian qua, thành phố Phủ Lý đã chú trọng việc phát huy lợi thế của
từng địa phương và tạo ra sự liên kết giữa các địa phương với nhau. Phát triển các
khu kinh tế trọng điểm, tạo động lực và tác động lan tỏa đến các địa phương khác,
53
đồng thời tạo điều kiện để phát triển nhanh hơn ở những địa phương c n nhiều khó
khăn nhất là những địa phương có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội còn nhiều khó
khăn tại những xã mới được sát nhập vào thành phố Phủ Lý. Để thực hiện được giải
pháp quan trọng này, các cấp cơ quan chính quyền thành phố cần:
- Nghiên cứu, đánh giá thế mạnh của từng địa phương trên địa bàn thành phố
để tìm ra biện pháp phát huy thế mạnh, đồng thời khắc phục những yếu tố trở ngại
đến quá trình phát triển kinh tế;
- Gắn chặt mục tiêu phát triển đô thị, nông thôn mới với thực hiện ASXH
trong mọi chủ trương, chính sách của địa phương;
- Các địa phương phải trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình
phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề thuộc chính sách ASXH;
- Một số địa phương c n khó khăn về kinh tế phải tập trung cho phát triển
kinh tế, tăng thu nhập cho người dân, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, từng bước vươn lên
ngang bằng so với các địa phương khác trong thành phố. Ngược lại, một số địa
phương có điều kiện kinh tế xã hội phát triển, cần tránh phát triển nóng vội, phải
chú trọng thực hiện ASXH cho người dân tốt hơn.
Sáu là, tiếp tục phát huy có hiệu quả các nguồn tín dụng ưu đãi dành cho hộ
nghèo, tạo điều kiện cho hộ nghèo có nguồn lực đầu tư vào phát triển kinh tế hộ gia
đình. Định hướng cho hộ nghèo phương thức sản xuất, kế hoạch chỉ tiêu cụ thể để
sử dụng nguồn vốn vay qua kênh ủy thác của các tổ chức đoàn thể nhất là Hội Liên
hiệp phụ nữ, Hội Nông dân. Quản lý tốt hoạt động các tổ vay vốn, hạn chế đến mức
thấp nhất nợ quá hạn, tránh tình trạng nợ đọng vốn.
Thành phố cần huy động nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau (cho vay
không lãi, cho vay lãi suất thấp hoặc hỗ trợ hoàn toàn một phần nào đó về vốn...) để
giúp họ đầu tư cơ sở vật chất ban đầu. Giúp cho bản thân họ không còn mặc cảm,
họ góp phần làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách
an sinh xã hội.
Thực hiện chính sách ASXH, công tác kiểm tra, giám sát giữ vai trò quan
trọng và phải được tiến hành thường xuyên, triệt để. Công tác kiểm tra, kiểm soát
đối với quá trình thực thi chính sách ASXH không chỉ là trách nhiệm của chủ thể
54
quản lý xã hội mà còn ở vai trò là chủ và làm chủ của người dân. Phát huy dân chủ
trong quản lý phát triển xã hội thông qua việc kiểm tra, kiểm soát tức là làm cho dân
có quyền nêu sáng kiến cải tiến quản lý của mình, đồng thời, còn phát hiện những
yếu kém trong thực hiện chính sách ASXH có liên quan đến năng lực, phẩm chất
của đội ngũ cán bộ quản lý. Nhờ tăng cường cơ chế tham gia của người dân vào
kiểm tra, kiểm soát mà năng lực, chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý Nhà
nước trong việc thực hiện chính sách ASXH được cải thiện và chuyển biến tích cực,
đáp ứng được yêu cầu xây dựng xã hội mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường gắn
với tính định hướng XHCN.
Đối với người dân, thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát góp phần tăng
cường vai trò phản biện xã hội trong việc hoạch định và thực thi chính sách ASXH.
Phản biện xã hội giữ vai trò quan trọng giúp chủ thể hoạch định chính sách có cách
nhìn khách quan, toàn diện, khoa học về vấn đề cần triển khai, tránh những thiếu
sót, sai lầm trong ban hành chính sách gây ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, uy tín
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhân dân tham gia phản biện xã hội
thể hiện quyền và nghĩa vụ người chủ đất nước tham gia hoạch định, thi hành các chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Do vậy, để phát huy dân chủ
XHCN, thu hút và động viên quần chúng nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản
lý xã hội bằng công tác kiểm tra, kiểm soát, cần tạo điều kiện để nhân dân thực hiện
tốt quyền và trách nhiệm phản biện xã hội. Thông qua kiểm tra, kiểm soát, phản biện
xã hội để thấy được giá trị tiếng nói của nhân dân về hoạt động của Nhà nước và là
phương thức để Nhà nước gần dân hơn, thân dân hơn. Qua đó, hạn chế sự lạm dụng
quyền lực, sự độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy
quản lý và chủ thể hoạch định, tổ chức thực thi chính sách ASXH.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách ASXH
cũng chính là tăng cường quản lý cơ chế chính sách ASXH. Thành ủy, Hội đồng
nhân dân, UBND thành phố cần tập trung nghiên cứu các chính sách ASXH của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh Hà Nam để đề ra các chính sách ASXH cho phù hợp
với điều kiện thực tiễn của thành phố Phủ Lý, tham khảo kinh nghiệm của các đơn
vị bạn có điều kiện tương tự để rút ra bài học trong quá trình tổ chức thực hiện:
Một là, chỉ đạo các cơ quan phụ trách tập trung theo dõi việc thực hiện các
55
chính sách ASXH ở thành phố để phát hiện kịp thời về những bất cập và yêu cầu
sửa đổi, bổ sung trên cơ sở phân tích, đánh giá chính sách.
Hai là, thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát và giải quyết các vướng
mắc trong việc khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT và việc thực hiện các quy
định của pháp luật về BHYT trên địa bàn.
Ba là, chỉ đạo và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các chế độ chính sách từ
nguồn hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân kịp thời, đúng đối tượng và hiệu
quả, không để thất thoát, lãng phí. Áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động điều
hành của hệ thống ASXH như quản lý các đối tượng, chi trả các chế độ trợ cấp, cấp
và phát thẻ BHYT, BHXH kịp thời, chính xác cho đối tượng thụ hưởng.
Bốn là, tăng cường phối hợp kiểm tra công tác quản lý và chi trả trợ cấp ưu
đãi đối với người có công nhằm ngăn ngừa và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân,
đặc biệt là thế hệ trẻ nhận thức đầy đủ ý nghĩa của phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”
là đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Cùng Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể, các ngành, các cấp đẩy mạnh phong trào vận động đóng góp quỹ “Đền ơn
đáp nghĩa” để chăm lo cho gia đình chính sách. Thực hiện tốt phương châm xã hội
hóa công tác chăm sóc đời sống đối tượng chính sách.
3.2.6. Tăng cường khả năng “tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng.
Đối tượng thụ hưởng trong chính sách ASXH chia ra làm nhiều nhóm khác
nhau. Cùng với việc tăng cường vai trò của Nhà nước, thành phố, cộng đồng xã hội
thì bản thân các đối tượng thụ hưởng cũng cần phải nâng cao trách nhiệm và năng
lực “tự an sinh” của mình. Đây là biện pháp mang tính chất bền vững để đối tượng
thụ hưởng (nhất là đối tượng đói nghèo, tàn tật, trẻ mồ côi...) vươn lên khẳng định
vị thế, vai trò của bản thân trong xã hội. Quá trình “tự an sinh” cần phải có sự hỗ trợ
đắc lực của Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội để có điều kiện tự lo cho bản
thân, gia đình về đời sống vật chất và tinh thần. Việc tăng cường khả năng “tự an
sinh” của đối tượng thụ hưởng là một hướng đi đúng đắn cần phải nghiên cứu triển
khai nhanh chóng hiệu quả. Tuy nhiên, thực hiện được khả năng “tự an sinh” là một
bài toán không hề đơn giản cần phải nghiên cứu triển khai đồng bộ một số giải pháp
cơ bản sau:
56
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân về khả năng “tự
an sinh” của bản thân.
Thành phố Phủ Lý cần nghiên cứu nhiều mô hình, biện pháp tuyên truyền
cho đối tượng thụ hưởng thấy được tầm quan trọng của việc “tự an sinh”. Cho họ
thấy được sự nỗ lực vươn lên của họ, thành quả của họ khi họ “tự an sinh” thành
công. Biện pháp tuyên truyền phải phù hợp với từng đối tượng. Kênh tuyên truyền
phải đa chiều tiếp nhận và phản hồi ý kiến, có sự trao đổi qua lại liên quan đến
ASXH, đảm bảo ASXH và khả năng tự “ASXH”. Hình thức tuyên truyền phải da
dạng, dễ hiểu, có minh họa và phải phổ biến trên báo đài, thông tin đại chúng...
Khả năng “tự an sinh” với từng đối tượng khác nhau, trong quá trình tuyên
truyền phải hết sức chú ý tránh làm tổn hại đến tinh thần, gây ra sự mặc cảm của họ
với cộng đồng. Điều này dẫn đến sự tự ti, lảng tránh với các biện pháp được hướng
dẫn qua các hình thức tuyên truyền. Qua các nội dung tuyên truyền phải làm cho
các đối tượng thụ hưởng tự tin hơn về bản thân, từ đó thúc đẩy tinh thần ham học
hỏi cầu tiến bộ, ý thức vươn lên khẳng định mình trong cuộc sống hiện tại.
Hai là, giúp đối tượng thụ hưởng “tự an sinh” thông qua hoạt động giáo dục
và đào tạo, hỗ trợ vốn.
Tuy thành phố đã mở nhiều lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho những đối
tượng thụ hưởng “an sinh” trên địa bàn nhưng chưa phát triển mở rộng đào tạo
nhiều ngành nghề. Những lớp học này cần liên kết với các đơn vị giáo dục nhằm
chuyển giao kỹ thuật, công nghệ và những nghề phù hợp với từng đối tượng, địa
phương. Việc mở các lớp giáo dục sẽ giúp họ hòa nhập với cộng đồng, tránh tự ti
mặc cảm, thông qua việc học tập có điều kiện tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm nghề
nghiệp, kỹ năng “tự an sinh” lẫn nhau.
Bài học phải ngắn gọn, đơn giản phù hợp với trình độ nhận thức và kỹ năng
của từng đối tượng. Bởi lẽ, những đối tượng được thụ hưởng ASXH đều là những
người không may mắn hoặc thiếu khuyết trên một phương diện nào đó: Đối tượng
tàn tật, đối tượng không có trình độ học vấn... Những lớp học này cũng đ i hỏi
người giảng viên, kỹ thuật viên phải kiên trì, nhẫn nại, phải có sự am hiểu, thông
cảm và chia sẻ với những đối tượng thụ hưởng.
Bước đầu triển khai, họ luôn gặp khó khăn về nguồn vốn. Thành phố cần huy
57
động nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau (cho vay không lãi, cho vay lãi suất thấp
hoặc hỗ trợ hoàn toàn một phần nào đó về vốn...) để giúp họ đầu tư cơ sở vật chất ban
đầu. Giúp cho bản thân họ không còn mặc cảm, họ góp phần làm giàu cho bản thân, gia
đình và xã hội.
Ba là, đối tượng hưởng thụ phải luôn có ý thức vươn lên, vượt khó khăn trở
ngại để khẳng định vị trí, vai trò của mình trong xã hội.
Do những hoàn cảnh khác nhau, điều kiện và tâm lý khác nhau nên đối tượng
được thụ hưởng “an sinh” có khác nhau song bản thân mỗi đối tượng thụ hưởng
không bao giờ được trông chờ, ỷ lại hoàn toàn vào xã hội. Đối tượng hưởng thụ
phải có ý chí, sự quyết tâm vươn lên khẳng định vị trí, vai trò của mình trước mọi
người. Phải xóa bỏ tâm lý tự ti, mặc cảm, kiên trì, nhẫn nại học tập chuyên môn,
nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp để hình thành cho mình một nghề có thể tự nuôi
sống bản thân và làm giàu cho quê hương, gia đình và xã hội. Biết huy động và sử
dụng hợp lý các nguồn vốn mà mình đang được Nhà nước và các tổ chức xã hội, cá
nhân giúp đỡ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phải tự tìm ra lối thoát cho mình
trong sản xuất. Hoàn cảnh, mức độ của các đối tượng thụ hưởng khác nhau, song
các đối tượng này cần phải chia sẻ, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Không
ngại khó, ngại khổ, không chán nản suy nghĩ tiêu cực. Phải đi lên từ chính nghị lực,
khả năng dù nhỏ nhất của mình.
Bốn là, phải có chính sách và biện pháp hợp lý, cụ thể để phát huy khả năng
“tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng ở vùng nông thôn, vùng khó khăn thuộc thành
phố Phủ Lý.
Do đối tượng thụ hưởng thuộc khu vực nông thôn ở thành phố Phủ Lý còn
chiếm tỷ lệ khá lớn sau khi sát nhập các xã lân cận thành phố. Đối tượng thụ hưởng
ở vùng nông thôn gặp rất nhiều khó khăn trong việc “tự an sinh” do trình độ nhận
thức và năng lực thực tiễn thấp. Nguồn lực cho việc phát triển sản xuất gặp nhiều
khó khăn, điều kiện hỗ trợ của chính quyền những xã, phường nghèo còn gặp nhiều
bất cập, nhiều chính sách khi thực hiện cho người dân chưa hiệu quả, thất thoát
nhiều. Phương pháp và cách thức tiếp cận với khoa học công nghệ, quy trình sản
xuất hiện đại rất hạn chế. Quá trình giải quyết việc làm cho người lao động gặp rất
nhiều khó khăn. Vì thế, để phát huy khả năng “tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng
58
ở vùng nông thôn, vùng khó khăn thuộc thành phố Phủ Lý là vô cùng cần thiết,
quan trọng hiện nay. Thành phố Phủ Lý phải nghiên cứu, triển khai các chương
trình, dự án hợp và các biện pháp cụ thể để giúp đối tượng thụ hưởng “tự an sinh”
hiệu quả bền vững.
Tiểu kết chƣơng 3
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện chính sách ASXH của thành phố Phủ
Lý, việc đưa ra những quan điểm, phương hướng cho việc phát huy các điều kiện
đảm bảo ASXH ở thành phố Phủ Lý là hết sức quan trọng. Chương 3 của Khóa luận
đã đưa ra các đề xuất, giải pháp cơ bản tập trung vào giải quyết một số hạn chế và
phát huy hiệu quả việc thực hiện các chính sách ASXH trong thời gian tới.
Giải pháp quan trọng hàng đầu là nâng cao nhận thức cho cấp ủy Đảng,
chính quyền về vai trò của chính sách ASXH và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công
tác ASXH. Đối tượng ban hành và thực hiện chính sách có nhận thức đúng đắn về
ASXH thì chính sách ASXH mới thực sự hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế
tại địa phương. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách
ASXH để tránh những mặt tiêu cực trong quá trình thực hiện. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, vận động nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, nhóm
cộng đồng, mọi người dân trong việc mở rộng hệ thống ASXH gắn với cộng đồng.
Để thực hiện các chính sách ASXH đều cần đến ngân sách, vì vậy cần phải phát
triển kinh tế gắn với thực hiện chính sách ASXH. Từ đó, tăng cường khả năng “tự
an sinh” của đối tượng thụ hưởng. Cần thực hiện các giải pháp trong chương 3 một
cách thống nhất, đồng bộ, hiệu quả.
59
KẾT LUẬN
Nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bản
chất của nó là nền kinh tế ngày càng phồn vinh, xã hội ngày càng bình đẳng, công
bằng và văn minh. Vì thế những giá trị mục tiêu mà hệ thống chính sách ASXH
hướng tới là phù hợp với mục tiêu đó. Chính sách ASXH là hệ thống chủ trương,
phương hướng, biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu cho cá
nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về kinh tế - xã hội và tự nhiên
làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, ốm đau, bệnh tật hoặc
tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, yếu thế, những
nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai địch hoạ. Các chính sách ASXH cơ
bản hiện nay được Khoá luận nghiên cứu gồm: Chính sách bảo trợ xã hội, chính sách
ưu đãi xã hội, chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách BHXH và BHYT. Thực
hiện chính sách ASXH có vai trò to lớn đối với cá nhân, gia đình, Nhà nước và cộng
đồng. Qua 35 năm đổi mới đất nước, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta đã mang lại
những thành tự to lớn, đã được Liên hiệp quốc công nhận là một trong những quốc
gia đi đầu trong việc thực hiện mục tiêu “Thiên niên kỷ".
Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là một thành phố trẻ. Trong những năm
qua, chính quyền và nhân dân thành phố Phủ Lý đã có nhiều nỗ lực, nhiều quyết
sách đúng đắn để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Các chính
sách ASXH cơ bản thực hiện tốt đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng đã góp
phần đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, đồng thời tạo động lực cho sự phát triển
kinh tế giai đoạn 2016 - 2020. Tuy nhiên so với mục tiêu chung được thành phố Phủ
Lý đề ra cho từng chính sách ASXH cụ thể vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần sớm
được khắc phục. Để tiếp tục thực hiện chính sách ASXH có hiệu quả hơn, cần thực
hiện đồng bộ các giải pháp: Nâng cao nhận thức cho cấp ủy Đảng, chính quyền và
đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách ASXH; đào tạo đội ngũ cán bộ làm công
tác ASXH; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính
sách ASXH; phát triển kinh tế gắn với thực hiện chính sách ASXH; tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách ASXH; tăng cường khả năng
“tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng. Đây chính là tiền đề góp phần thực hiện
thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng bộ thành phố đề ra 2020 - 2025
với phương châm xây dựng phủ Lý trở thành một thành phố toàn diện.
60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo hiểm xã hội Thành phố Phủ Lý (2020), Báo cáo tổng kết tình hình
thực hiện nhiệm vụ công tác giai đoạn 2016 - 2020.
2. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai
đoạn 2012 - 2020.
3. Bộ Chính trị (2015), Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai
đoạn 2015 - 2020.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), Chiến lược an sinh xã hội
giai đoạn 2011 - 2020.
5. Mai Ngọc Cường (2009), Xây dựng và hoàn thiện chính sách An sinh xã
hội ở Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Chiểu (2004), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà
nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Đức Chiện (2012), Thành công và bất cập trong chính sách trợ
giúp xã hội thường xuyên, Viện Nghiên cứu lập pháp.
8. Chính phủ (2008), Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình hỗ trợ
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo nhất cả nước.
9. Chính phủ (2013), Nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách
trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.
10. Chính phủ (2013), 6 đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.
11. Chính phủ (2017), Nghị định 70/2017/NĐ-CP của Chính phủ về Quy
định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng.
12. Nguyễn Tấn Dũng (2010), Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
giai đoạn 2011 - 2020, Trang báo điện tử Chính phủ.
61
13. Nguyễn Văn Định (2014), Giáo trình An sinh xã hội, Nxb Đại học kinh
tế Quốc dân, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu
nghiên cứu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp Hành Trung ương khóa
XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
18. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn H a - Đồng chủ biên (2012), Đại cương về
Chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Hải Hữu (2012), Giáo trình Nhập môn an sinh xã hội, Nxb Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Phát triển hệ thống An sinh xã hội ở
Việt Nam đến năm 2020, Nxb Viện khoa học Lao động và xã hội, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Vũ Văn Phúc (2012), An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
24. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2016),
Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2016, phương hướng nhiệm vụ trọng
tâm 2017.
25. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2017),
Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2017, phương hướng nhiệm vụ trọng
tâm 2018.
26. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2018),
Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2018, phương hướng nhiệm vụ trọng
tâm 2019.
62
27. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2019),
Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2019, phương hướng nhiệm vụ trọng
tâm 2020.
28. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2020),
Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2020, phương hướng nhiệm vụ trọng
tâm 2021.
29. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2004), Giáo trình Bảo hiểm xã hội,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
30. Trường Đại học Lao động (2004), Giáo trình Ưu đãi xã hội, Nxb Lao
động - Xã hội, Hà Nội.
31. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2013), Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22
tháng 4 năm 2013 của Tỉnh uỷ về “tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối
với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020”.
32. Ủy ban nhân dân Thành phố Phủ Lý (2020), Báo cáo về công tác đào
tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2016 - 2020.
33. Ủy ban nhân dân Thành phố Phủ Lý (2020), Báo cáo kết quả thi hành
Luật bảo hiểm xã hội giai đoạn 2016 - 2020.
34. Ủy ban nhân dân Thành phố Phủ Lý (2020), Báo cáo kết quả Xóa đói
giảm nghèo giai đoạn 2016 - 2020.
35. Viện Ngôn ngữ học (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
36. Website: https://phuly.hanam.gov.vn/Pages/default.aspx
37. Website: https://hanam.gov.vn/
63
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ Số: /BC - LĐTB&XH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Phủ Lý, ngày tháng năm 2020
BÁO CÁO Tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 125-NQ-CP của Chính Phủ và Nghị quyết 102/NQ-CP của Chính phủ
Căn cứ Công văn 1116/LĐTBXH- LĐTLBHXH ngày 07 tháng 10 năm 2020 của
Sở Lao động về việc báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 125/NQ- CP của Chính
phủ ngày 08 tháng 10 năm 2018 và Nghị quyết số 102/NQ-CP của Chính phủ ngày 03
tháng 8 năm 2018;
Ủy ban nhân dân thành phố Phủ Lý báo cáo như sau:
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 28-NQ/TW, NGHỊ
QUYẾT 125/NQ-CP.
1. Công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.
1.1. Công tác phổ biến, quán triệt Nghị quyết.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm y tế (BHYT) là hai chính sách lớn
của Đảng và Nhà nước, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần
ổn định đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ổn định chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội. Xác định tầm quan trọng của chính sách BHXH,
BHYT, thời gian qua, UBND thành phố đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cấp
ủy, chính quyền, đoàn thể, nhân dân triển khai thực hiện công tác BHXH,
BHYT trên địa bàn.
1.2. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, các ban nghành,
Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội trong triển khai thực hiện nghị quyết.
Ngay sau khi Luật BHXH số 58/2014/QH13 được ban hành Thành uỷ,
HĐND, UBND thành phố Phủ Lý đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt
công tác phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương, Chỉ thị Nghị quyết của
64
Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước và các văn bản chỉ đạo triển khai của
Tỉnh ủy, UBND tỉnh.
Triển khai Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Bộ
Chính trị, Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Tỉnh uỷ về “tăng cường
sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai
đoạn 2012 - 2020”, Công tác triển khai quán triệt được tổ chức bằng nhiều hình thức
như được học tập tại hội trường của UBND thành phố truyền hình trực tiếp các lãnh
đạo thường trực thành ủy giảng các chuyên đề của các Chỉ thị Nghị quyết.
Ủy ban nhân dân thành phố ban hành một số văn bản triển khai thực hiện
Luật kịp thời, đảm bảo việc triển khai thực hiện có hiệu quả trên tất cả các mặt.
Đặc biệt, ban hành kế hoạch số 157/KH-UBND ngày 23 tháng 11 năm 2018
về thực hiện Nghị quyết số 125/NQ-CP, chương trình hành động số 62-CTr/TU của
tỉnh ủy Hà Nam về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội; Kế hoạch số:36/KH-
UBND ngày 03 tháng 3 năm 2020 về tuyên truyền phát triển đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp năm 2020 .
1.3. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị
Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội được
tiến hành thường xuyên, định kỳ, đột xuất. Hàng năm UBND thành phố đã chỉ đạo
Thanh tra thành phố, Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức các đoàn thanh
tra liên ngành, chuyên ngành về việc chấp hành pháp luật bảo hiểm xã hội trong các
doanh nghiệp.
2. Kết quả thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW và Chỉ thị 14-CT/TU
2.1. Kết quả lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với
công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về BHXH, BHYT
- Chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính
sách, chế độ về BHXH, BHYT, trọng tâm là Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ
Chính trị; Chương trình hành động của Thành ủy và Kế hoạch của UBND
thành phố để cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ vai tr , ý nghĩa của BHXH,
BHYT; từ đó tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức trách nhiệm, tự
giác tham gia BHXH, BHYT.
- Cấp phát tờ rơi tuyên truyền những chính sách mới Bảo hiểm xã hội.
65
- Tăng cường phối hợp tuyên truyền giữa cơ quan BHXH với các cơ quan,
đơn vị trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách về BHXH, BHYT và vận
động nhân dân tham gia BHXH, BHYT
2.2. Kết quả thực hiện mục tiêu Nghị quyết 21-NQ/TW và Chỉ thị 14-CT/TU
Công tác bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) trong những năm
qua trên địa bàn thành phố đã đạt được những kết quả quan trọng: Nhận thức của
các cấp ủy, chính quyền và nhân dân về chính sách BHXH, BHYT được nâng cao;
số người tham gia BHXH, BHYT hàng năm đều tăng; quyền lợi của người tham gia
BHXH, BHYT được đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời và từng bước được mở
rộng; quỹ BHXH tăng hàng năm; quỹ BHYT bước đầu đã cân đối được và có kết
dư; hệ thống tổ chức BHXH tỉnh ngày càng phát triển, cơ bản đáp ứng yêu cầu việc
thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT.
Tính đến tháng 6/2020, số người tham gia BHXH: 35.500 người, chiếm 36,2%
người lao động trong độ tuổi, tăng 4.800 người so với năm 2015; Số người tham gia
BH thất nghiệp là 32.840 người, tăng 2.600 người so với năm 2015; Số người tham
gia BHYT là 146.700 người, tỷ lệ bao phủ là 91,2%, tăng 7,4% so với năm 2015.
Cấp 22.150 thẻ BHYT cho người có công; 37.726 thẻ BHYT cho hộ nghèo,
cận nghèo, và đối tượng bảo trợ xã hội. Tỷ lệ người dân tham gia BHYT đến năm
2020 đạt 34,5% (tăng 10% so với năm 2015), tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016-
2020 là 7,09%. Thực hiện chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp theo quy định.
2.3. Kết quả việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về
BHXh, BHYT
- Thường xuyên, tích cực xây dựng, đóng góp vào các dự thảo văn bản xin ý
kiến đóng góp để xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật do BHXH
tỉnh, BHXH Việt Nam hoặc Bộ LĐTBXH ...chủ trì.
2.4. Kết quả Quản lý nhà nƣớc về BHXH, BHYT
- Tổ chức hướng dẫn kịp thời các địa phương, đơn vị triển khai thực hiện các
quy định của của Nhà nước về bảo hiểm xã hội, đặc biệt là khi có những thay đổi
liên quan đến chính sách bảo hiểm, các nghị định, thông tư của Chính phủ, của các
Bộ, Ngành có liên quan và các văn bản hướng dẫn của Bộ Lao động TB và XH,
BHXH Việt Nam.
66
- UBND thành phố phối hợp với Bảo hiểm xã hội tỉnh ký 02 chương trình phối
hợp trong việc tổ chức thực hiện Luật bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố để cụ
thể hóa vào các nhiệm vụ nhằm trao đổi kịp thời những thông tin; cùng kịp thời tháo
gỡ những khó khăn trong việc thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi người sử dụng
cũng như người lao động trên địa bản thành phố:
+ Chương trình phối hợp tổ chức, triển khai thực hiện Luật bảo hiểm xã hội.
+ Chương trình phối hợp tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
- Lực lượng lao động tham gia BHXH (theo các loại hình doanh nghiệp, cơ sở
lao động tại các địa bàn, địa phương; theo loại hình lao động).
- Duy trì chế độ thanh kiểm tra nhằm phát hiện và xử lý kịp thời đối với
doanh nghiệp vi phạm, đồng thời cũng giúp doanh nghiệp tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc để việc tổ chức triển khai thực hiện Luật bảo hiểm xã hội được
tốt hơn.
3. Đánh giá chung
3.1 Ƣu điểm
Việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội thường xuyên
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Thành ủy, UBND thành phố, của các ngành, các
cấp; công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật BHXH được
thực hiện thường xuyên liên tục. Nhận thức của cán bộ công chức, viên chức và
người lao động trong các cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp trong toàn tỉnh được
nâng lên, việc chấp hành các quy định của Luật BHXH được thực hiện nghiêm.
- Đối với chủ sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp
nhận thức về quyền và trách nhiệm theo quy định của Luật BHXH đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Phần lớn các đơn vị sử dụng lao động đã thực hiện các quy
định của pháp luật về việc ký kết hợp đồng lao động đăng ký sử dụng thang, bảng
lương, kê khai, lập hồ sơ đăng ký tham gia BHXH cho người lao động, số người
tham gia BHXH trong các doanh nghiệp tăng lên hàng năm.
3.2. Hạn chế và nguyên nhân:
* Những hạn chế:
- Vẫn c n tình trạng lợi dụng chính sách, giấy tờ để trục lợi quỹ BHXH, BHTN.
- Một số doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật
67
BHXH như không đóng, đóng không đúng thời gian quy định; đóng không đủ số
người thuộc diện tham gia BHXH, có những đơn vị c n tình trạng nợ BHXH kéo
dài; thực hiện việc đóng BHXH cho người lao động không đúng với mức tiền lương
trong hợp đồng lao động; việc nâng lương theo thời hạn cho người lao động đã
không đúng thời gian qui định đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động.
* Nguyên nhân:
- Cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về BHXH c n thiếu chủ yếu là kiêm
nhiệm, năng lực c n hạn chế; công tác thanh kiểm tra việc chấp hành pháp luật
BHXH chưa được thường xuyên.
- Một số chủ sử dụng lao động vẫn cố tình không thực hiện đầy đủ các quy
định của pháp luật BHXH.
- Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp c n thấp đặc biệt là lao
động phổ thông, tiền lương chưa đáp ứng được sinh hoạt hàng tháng vì vậy họ
không muốn tham gia BHXH để tăng thêm thu nhập.
- Nhận thức của người dân về chính sách bảo hiểm tự nguyện chưa đầy đủ do
đó tỷ lệ tham gia c n thấp.
- Chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật BHXH chưa đủ mạnh.
II. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CÔNG
TÁC BHXH, BHYT GIAI ĐOẠN 2021-2030
1. Bối cảnh, yêu cầu
Hiện nay tình hình dịch bệnh bùng phát làm ảnh hưởng rất lớn tới tình hình
kinh tế nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động và
người dân lao động tự do. Vì vậy công tác triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-
NQ/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 14-CT/TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy gặp
rất nhiều khó khăn.Đây là một thách thức lớn đối với cả hệ thống chính trị nói
chung và các ngành BHXH, LĐTBXH nói riêng
2. Quan điểm, mục tiêu
2.1. Quan điểm
- BHXH, BHYT là hai chính sách xã hội quan trọng, giữ vai tr trụ cột
trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần ổn định đời sống, bảo vệ sức khỏe cho
68
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ổn định chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội;
- Thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH, BHYT là trách nhiệm và là
nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức
xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.
- Phát triển hệ thống BHXH, BHYT đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã
hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân; từng bước xã hội hóa
dịch vụ BHXH, BHYT; tạo điều kiện thuận lợi để mọi người được tham gia và
thụ hưởng các chế độ, chính sách BHXH, BHYT.
2.2. Mục tiêu
Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền,
cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc triển khai thực hiện hiệu quả các chế
độ, chính sách BHXH, BHYT; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia
BHXH, nhất là BHXH tự nguyện; thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân, trong đó
chú ý đối tượng tham gia thuộc hộ gia đình nghèo, gia đình cận nghèo, gia đình
chính sách. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho người tham gia BHYT.
Xây dựng hệ thống BHXH, BHYT hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
3. Nhiệm vụ, giải pháp
3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách
về BHXH, BHYT
Tuyên truyền việc mở rộng chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với người
tham gia các loại hình BHXH, BHYT, nhất là BHXH tự nguyện cho nông dân
và BHYT cho các đối tượng chính sách, người thuộc hộ gia đình cận nghèo,
nông dân, học sinh, sinh viên.
3.2. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp
trong việc triển khai thực hiện các chƣơng trình, mục tiêu về BHXH, BHYT
Hàng năm, chỉ đạo xây dựng mục tiêu, kế hoạch cụ thể để thực hiện chính
sách BHXH, BHYT. Đưa các chỉ tiêu về BHXH, BHYT vào kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố và coi đây là một trong những tiêu chí quan
trọng để đảm bảo an sinh xã hội.
69
4. Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về BHXH, BHYT
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và
BHXH ở các cấp trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật,
chính sách về BHXH, BHYT; kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm,
nhất là tình trạng trốn đóng, nợ tiền BHXH, BHYT và các hành vi tiêu cực
khác liên quan đến BHXH, BHYT.
5. Nâng cao chất lƣợng dịch vụ và công tác thực hiện các chế độ,
chính sách BHXH, BHYT
Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và
cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT, tạo
thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia và thụ hưởng đầy đủ, kịp thời
các chế độ, chính sách BHXH, BHYT.
III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Hàng năm UBND tỉnh ban hành chỉ đạo chung, cụ thể tới từng ngành, từng
cấp trong việc thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW và Chỉ thị 14-CT/TU; tổ chức
các lớp tập huấn cho cán bộ làm công tác chuyên môn về lĩnh vực BHXH tỉnh,
thành phố
Bổ sung nguồn lực để đảm bảo thực hiện được đúng theo các chương trình, kế
hoạch đã đặt ra
Trên đây là báo cáo tổng kết của Ủy ban nhân dân thành phố Phủ Lý về việc
thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 14-CT/TU của
Ban thường vụ Tỉnh ủy./.
Nơi nhận: - Sở LĐTB&XH tỉnh ;( để b/c) - BHXH tỉnh; - Lưu VP, LĐTBXH.
TM. UỶ BAN NHÂN DÂN KT CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH Lê Văn Quân
70
Phụ lục 2:
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ Số: /BC-UBND CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Phủ Lý, ngày 15 tháng 10 năm 2020
BÁO CÁO Tổng kết thi hành Luật BHXH giai đoạn 2016 – 2020 I.Tình hình chung:
1. Đặc điểm tình hình:
Thành phố Phủ Lý là trung tâm văn hóa chính trị của tỉnh Hà Nam gồm 21
phường, xã với trên 158 nghìn người, trên địa bàn có 02 khu công nghiệp là Châu
Sơn và Kim Bình người dân có việc làm ổn định là điều kiện thuận lợi để triển khai
thực hiện Luật BHXH.
2. Thuận lợi, khó khăn:
a. Thuận lợi:
Việc triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội được quán triệt ở tất cả các
cấp ủy đảng từ thành phố xuống cơ sở, đến các Đảng viên, các chi bộ thôn, tổ, xóm.
Ủy ban nhân dân thành phố và BHXH tỉnh Hà Nam đã ký quy chế phối hợp
triển khai thực hiện BHXH, BHYT trên địa bàn giúp cho việc triển khai thực hiện
chính sách BHXH có nhiều thuận lợi và hiệu quả hơn.
b. Khó khăn:
Trên địa bàn thành phố có trên 900 doanh nghiệp đăng ký tham gia BHXH
thì hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên khó khăn trong việc tổ chức và triển
khai thu BHXH, BHYT. Một số chủ sử dụng lao động chấp hành chưa nghiêm Luật
BHXH, BHYT, c n tình trạng trốn đóng, chậm đóng ảnh hưởng đến quyền lợi của
người lao động .
3. Những vấn đề lớn đặt ra
- Quản lý tốt nguồn thu đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ, kịp thời đáp
ứng yêu cầu trong công tác thu BHXH cũng như nâng cao hiệu quả công tác thu
BHXH.
- Tăng cường công tác tuyên truyền Luật để chủ Doanh nghiệp và người
Lao động nhận thức rõ trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia BHXH.
- Đảm bảo phát triển đối tượng tham gia BHXH theo lộ trình. Phấn đấu
71
đến năm 2020 toàn thành phố đạt khoảng 33% lực lượng lao động trong độ tuổi
tham gia BHXH.
II. Đánh giá tình hình thực hiện luật BHXH 2014
1. Công tác chỉ đạo thực hiện
a.Công tác chỉ đạo cấp ủy Đảng các cấp
Ngay sau khi Luật BHXH số 58/2014/QH13 được ban hành Thành uỷ,
HĐND, UBND thành phố Phủ Lý đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt
công tác phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương, Chỉ thị Nghị quyết của
Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước và các văn bản chỉ đạo triển khai của
Tỉnh ủy, UBND tỉnh.
Triển khai Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Bộ
Chính trị, Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Tỉnh uỷ về “tăng
cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế giai đoạn 2012 - 2020”, Công tác triển khai quán triệt được tổ chức bằng nhiều
hình thức như được học tập tại hội trường của UBND thành phố truyền hình trực
tiếp do giảng viên là các Giáo sư tiến sỹ truyền đạt hoặc các lãnh đạo thường trực
thành ủy giảng các chuyên đề của các Chỉ thị Nghị quyết.
b.Công tác quản lý điều hành của chính quyền các cấp
Ủy ban nhân dân thành phố ban hành một số văn bản triển khai thực hiện
Luật kịp thời, đảm bảo việc triển khai thực hiện có hiệu quả trên tất cả các mặt.
Trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch của UBND tỉnh giao, UBND thành phố đã xây
dựng Chương trình công tác trọng tâm, tuyên truyền chính sách BHXH, kế hoạch
kiểm tra công tác thực hiện Luật BHXH,BHYT của các đơn vị sử dụng lao động
trên địa bàn. Xây dựng kế hoạch tuyên truyền trọng tâm về BHYT hộ gia đình để
mở rộng đối tượng theo Kế hoạch của tỉnh giao cho giai đoạn 2016 – 2020. UBND
thành phố ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách BHXH
trên địa bàn. Đặc biệt ban hành Kế hoạch thực hiện độ bao phủ BHYT giai đoạn
2016-2020 theo Quyết định 1167 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định giao chỉ
tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT,BHTN cho các phường, xã trên địa
bàn thành phố. Đặc biệt, ngày 23 tháng 11 năm 2018, đã ban hành kế hoạch số
157/KH-UBND về thực hiện Nghị quyết số 125/NQ-CP, chương trình hành động số
62-CTr/TU của tỉnh ủy Hà Nam về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội.
72
c. Công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp
Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
trong nhận thức và hành động của các cơ quan, tổ chức, công dân về BHXH,
BHYT; đặc biệt giao Ph ng Lao động - TB&XH và Bảo hiểm xã hội thành phố
phối hợp Đài truyền thanh thành phố tuyên truyền và triển khai thực hiện tốt hoạt
động tuyên truyền về Luật BHXH bằng nhiều hình thức, đa dạng, phong phú đạt
hiệu quả cao.
Hàng năm, UBND thành phố giao cho Ph ng Lao động – TB&XH và Bảo
hiểm xã hội thành phố đẩy mạnh công tác phối, kết hợp với các ban, ngành, đoàn
thể, các cấp chính quyền trên địa bàn trong công tác tuyên truyền chính sách
BHXH, thực hiện Luật BHXH, phối hợp liên ngành thực hiện kiểm tra các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trong việc chấp hành Luật BHXH.
2. Tình hình thực hiện:
a. Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH
- Kết quả thực hiện:
STT Hình thức Số lƣợng Nội dung/ Đối tƣợng
1 Băng zôn, khẩu hiệu, 125
Pa no, áp phích, bảng 2 15 tuyên truyền
(người thuộc hộ gia đình; người lao 3 Tờ rơi, tờ gấp 260.000 động; học sinh, sinh viên)
9.000 người Hội nghị tuyên truyền đối 4 75 (người lao động tại các doanh nghiệp, hội thoại viên các hội, đoàn thể)
5 Phát thanh 185
- Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi:
Công tác tuyên truyền, truyền thông chế độ, chính sách Bảo hiểm xã hội
(BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) đã được UBND thành phố thực sự quan tâm và
chú trọng. Trên cơ sở các quy định của Luật BHXH; tranh thủ sự quan tâm, lãnh
73
đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh; sự phối hợp
chặt chẽ, tạo điều kiện của các sở, ban, ngành liên quan cùng với hình thức, nội
dung tuyên truyền, truyền thông chính sách BHXH, BHYT đã từng bước thay đổi
phù hợp với từng nhóm đối tượng vì vậy đã từng bước đưa chính sách BHXH,
BHYT đến gần hơn đến các tầng lớp nhân dân, thay đổi nhận thức của người dân,
thúc đẩy nhân dân tham gia BHXH, BHYT hướng tới mục tiêu BHXH cho mọi
người lao động, BHYT toàn dân.
* Khó khăn:
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH, BHYT tuy có nhiều đổi
mới nhưng chưa thường xuyên liên tục và sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, nhất
là người lao động tự do, người lao động trong các gia đình hộ nông nghiệp.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác truyền thông tại các cơ quan chuyên môn của
thành phố phải kiêm nhiệm thêm công tác tuyên truyền, chưa được đào tạo chuyên
sâu các kỹ năng truyền thông nên vẫn c n nhiều hạn chế trong việc triển khai công
tác tuyên truyền tại cơ sở.
- Một số xã, phường chưa quan tâm đúng mức trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện chính sách pháp luật BHXH, BHYT, BHTN; chưa phối hợp chặt chẽ cùng
cơ quan BHXH thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách BHXH, BHYT nên
công tác mở rộng và phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT, đặc biệt BHXH tự
nguyện, BHYT hộ gia đình c n gặp nhiều khó khăn.
- Đội ngũ cán bộ đại lý thu chưa nắm chắc về chế độ, chính sách BHXH,
BHYT vì vậy công tác tuyên truyền, khai thác đối tượng tham gia thông qua hệ thống
đại lý thu vẫn c n nhiều hạn chế.
b. Công tác phát triển đối tƣợng tham gia BHXH
- Công tác xây dựng chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH:
Hàng năm, trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch được UBND tỉnh Hà Nam giao,
UBND thành phố xây dựng chỉ tiêu kế hoạch phát triển đối tượng tham gia BHXH
giao phường, xã thực hiện và kịp thời điều chỉnh khi UBND tỉnh điều chỉnh chỉ tiêu
kế hoạch.
74
- Công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc:
Số đối tượng tham gia BHXH theo loại hình Quản lý cụ thể như sau:
Năm Năm Năm Năm Năm
2016 2017 2018 2019 2020 STT Loại hình quản lý (ngƣời) (ngƣời) (ngƣời) (ngƣời) (ngƣời)
1 Doanh nghiệp nhà nước 227 213 196 170 172
Doanh nghiệp có vốn đầu tư 2737 3108 3494 3478 3288 2 nước ngoài
Doanh nghiệp ngoài quốc 7189 8295 10128 11566 10800 3 doanh
Đảng, đoàn thể, lực lượng 3343 3239 3334 3328 3330 4 vũ trang
5 Ngoài công lập 9 6 5 0 2
Lao động có thời hạn ở 0 0 0 0 0 6 nước ngoài
7 Người nước ngoài 0 0 0 22 63
Tỷ lệ số người tham gia BHXH so với lực lượng lao động (LLLĐ) trong độ
tuổi tăng dần qua các năm, cụ thể:
- Năm 2016: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 25% so với LLLĐ trong độ tuổi.
- Năm 2017: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 27,5% so với LLLĐ trong độ tuổi;
- Năm 2018: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 29,7% so với LLLĐ trong độ tuổi;
- Năm 2019: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 31,5% so với LLLĐ trong độ tuổi;
- Năm 2020: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 30,6% so với LLLĐ trong độ tuổi.
- Đánh giá tình hình thực hiệnđối với công tác thu và phát triển đối tượng
tham gia BHXH:
* Thuận lợi
Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn cơ bản đầy đủ và kịp thời, thực chất
và đi vào chiều sâu, tạo thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện.
Bộ luật Hình sự có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Tùy mức độ phạm tội,
người phạm tội có thể bị phạt tù đến tới 7 năm. Với quy định mới này tình trạng
trốn đóng BHXH cơ bản đã giảm một cách đáng kể.
75
UBND thành phố thường xuyên nhận được sự chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh uỷ,
UBND tỉnh, sự phối kết hợp giữa các Sở, Ban, Ngành, UBND các cấp trong việc tổ
chức, triển khai thực hiện Luật BHXH.
Nhận thức của chủ sử dụng lao động, người lao động và nhân dân về quyền và
trách nhiệm khi tham gia BHXH được nâng lên; phần lớn các doanh nghiệp đã chủ động
tham gia BHXH cho người lao động.
Công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin được tập
trung đẩy mạnh theo hướng đơn giản thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho việc giải
quyết chế độ BHXH, BHYT, BHTN được kịp thời, đúng quy định tạo niềm tin cho
người lao động và nhân dân trong tỉnh về chính sách BHXH, BHYT của Đảng và
Nhà nước.
* Khó khăn
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn là doanh nghiệp nhỏ, siêu
nhỏ nên việc tổ chức đôn đốc thu nợ, khai thác phát triển đối tượng gặp khó khăn
trong việc quản lý và tổ chức thực hiện do đầu mối đơn vị nhiều nhưng số lao động
và số thu ít;
- Nhận thức về chính sách BHXH, BHYT, BHTN của chủ sử dụng lao động,
người lao động (đặc biệt là người lao động thuộc khu vực phi chính thức) c n hạn chế.
- Việc tổ chức thực hiện chính sách BHTN c n gặp nhiều khó khăn, quy định
về khai báo tình trạng việc làm hàng tháng đối với người lao động đang hưởng chế
độ trợ cấp BHTN chưa có cơ chế kiểm tra, kiểm soát.
* Nguyên nhân
+ Số doanh nghiệp phần lớn là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ (chỉ từ 1-2
lao động) hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực thương mại và dịch vụ nên không sử
dụng nhiều lao động, số lao động làm việc tại đơn vị lại không thường xuyên hoặc
chủ yếu là sử dụng nguồn lao động mang tính chất gia đình hay thành lập doanh
nghiệp với mục đích hợp thức hóa việc xuất hóa đơn, đấu thầu nên không có nguồn
lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc;
+ Việc tuân thủ pháp luật về lao động, BHXH, BHYT, BHTN của một bộ
phận người sử dụng lao động và người lao động chưa cao đặc biệt là khu vực doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Có tình trạng khi doanh nghiệp tham gia BHXH cho
người lao động thì lập tức họ nghỉ việc chuyển làm việc khác với lý do không muốn
bỏ số tiền ra cho nhiều năm về sau trong khi cuộc sống hằng ngày vẫn c n khó khăn
76
vì thế doanh nghiệp lại khó khăn trong việc tuyển dụng lao động dẫn đến chủ sử
dụng lao động không tham gia BHXH để giữ chân người lao động;
+ Một số đơn vị không ký HĐLĐ cho người lao động, hoặc hợp đồng miệng
(lao động trong ngành xây dựng, lao động gia công tại nhà..) nên không có căn cứ
yêu cầu đơn vị đăng ký tham gia BHXH cho người lao động;
+ Một số doanh nghiệp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh do
mới kinh doanh, đang trong giai đoạn vừa làm, vừa học hỏi, năng lực tài chính c n
hạn chế …;
+ Một số doanh nghiệp tìm mọi cách lách luật để trốn đóng BHXH, BHYT
bằng cách ký HĐLĐ không liên tục dưới 1 tháng, chấm công, thanh toán tiền lương,
tiền công dưới 14 ngày công;
+ Nhiều doanh nghiệp không tiếp cận được vì đơn vị không c n tại địa chỉ
kinh doanh hoặc không hợp tác với cơ quan BHXH.
* Đánh giá kết quả thực hiện chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH
hằng năm.
Từ năm 2016 đến nay, UBND thành phố đã triển khai nhiều biện pháp tuyên
truyền phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN, do đó số người tham gia
BHXH bắt buộc hàng năm đều hoàn thành đạt và vượt mức chỉ tiêu được giao.
Luật BHXH số 58/2018/QH13 ngày 20/11/2014 ra đời đã mở rộng thêm
nhiều đối tượng làm tăng độ bao phủ tham gia BHXH. Đặc biệt từ ngày 01/01/2018
mở rộng thêm đối tượng công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam và lao
động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng đã đảm bảo quyền lợi, tạo sự
công bằng giữa những người tham gia quan hệ lao động. Qua triển khai thực hiện
cho thấy:
+ Đối tượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã: quy định này giúp
cho cán bộ không chuyên trách ở cấp xã được tiếp cận và thụ hưởng chính sách
BHXH góp phần tăng diện bao phủ BHXH, đây là mong muốn của đối tượng, đồng
thời trong quá trình thực hiện thuận lợi.
+ Đối tượng người lao động có hợp đồng lao động từ 01 đến dưới 03 tháng: theo quy
định đối tượng này thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc từ ngày 01/01/2018, tuy
nhiên qua triển khai cho thấy các tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động, đặc biệt là
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần vốn góp tư nhân tiếp tục trốn đóng BHXH cho
người lao động, thông thường các hình thức trốn đóng không ký hợp đồng lao động
77
hoặc hợp đồng lao động nhưng kéo dài thời gian thử việc, học việc, thuê lao động,
hoặc lập riêng 01 bảng thanh toán tiền lương cho số lao động này... dẫn đến đối tượng
này không tăng như sự kỳ vọng.
* Các giải pháp đã thực hiện nhằm mở rộng đối tượng tham gia.
Hàng năm, UBND thành phố triển khai các giải pháp nhằm mở rộng đối
tượng tham gia:
+ Bám sát và triển khai có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại
các văn bản của Tỉnh ủy, UBND tỉnh triển khai Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày
22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020; Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày 29/3/2013
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân
giai đoạn 2012-2015 và 2020; Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 26/12/2016 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp phát triển đối tượng
tham gia BHXH.
+ Bám sát kế hoạch UBND tỉnh giao và tình hình thực tế của thành phố,
ngay từ đầu năm UBND thành phố đã xây dựng, giao chỉ tiêu kế hoạch cho các
phường, xã để triển khai thực hiện.
+ Đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin, phối hợp với hệ thống Bưu điện tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp
trong đăng ký tham gia và thu nộp BHXH, BHYT, BHTN….
- Đánh giá tình hình thực một số chế độ BHXH:
Từ năm 2016 đến nay, UBND thành phố đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn
thực hiện có hiệu quả Luật BHXH đặc biệt là một số chế độ, quy định mới được bổ
sung từ Luật năm 2014, cụ thể: Người bị bệnh cần chữa trị dài ngày hưởng tối đa
180 ngày, sau đó nếu tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức
thấp hơn (không được bù đủ tiền lương cơ sở); thời gian hưởng tối đa bằng thời
gian đã đóng BHXH; mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày tăng lên; đối với chế độ
nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản: Quy định một mức hưởng
chung cho một ngày bằng 30% mức lương cơ sở. Về chế độ thai sản có nhiều điểm
mới theo hướng có lợi cho người lao đông: Quy định lao động nam có đóng BHXH
được nghỉ thai sản khi vợ sinh con với thời gian từ 5 đến 14 ngày làm việc tùy theo
số con được sinh và cách thức sinh con; có quy định hưởng chế độ thai sản đối với
lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; Nếu người vợ không
tham gia đóng BHXH hoặc đóng BHXH chưa đủ điều kiện khi nghỉ thai sản thì
78
người chồng mà có tham gia BHXH được hưởng trợ cấp một lần bằng hai tháng
lương cơ sở; Chế độ hưu trí cũng được sửa đổi, bổ sung nhiều nhất hướng đến đảm
bảo công bằng (trong đó có bình đẳng giới). Về chế độ tử tuất: Nhằm đảm bảo tốt
hơn quyền lợi cho thân nhân của NLĐ, Luật bổ sung quy định cho phép thân nhân
NLĐ đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất
một lần, trừ trường hợp có thân nhân là con dưới 6 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà
bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Ngoài ra, mức trợ cấp tuất một lần
cũng được tăng từ 1,5 tháng lên 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng
BHXH mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi.Đặc biệt đối với người tham gia
BHXH tự nguyện từ ngày 01/01/2018 được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng theo tỷ lệ
phần trăm trên mức đóng BHXH hằng tháng theo mức chuẩn hộ nghèo của khu vực
nông thôn. Cụ thể: Bằng 30% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ
nghèo; Bằng 25% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ cận nghèo;
Bằng 10% đối với các đối tượng khác, thời gian hỗ trợ tùy thuộc vào thời gian tham
gia BHXH tự nguyện thực tế của mỗi người nhưng không quá 10 năm (120
tháng)…. Việc Nhà nước hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện, dù mức hỗ trợ này c n
khiêm tốn nhưng cũng đã tạo sức hút để người dân tham gia BHXH tự nguyện.
Về quy trình, thủ tục hồ sơ: được thực hiện nghiêm túc, đơn giản, tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho đơn vị sử dụng lao động và người dân. Quá trình tiếp nhận hồ sơ
và giải quyết thủ tục hành chính về BHXH không yêu cầu phát sinh thêm thủ tục,
Từ 01/01/2017 các tổ chức, cá nhân đến giao dịch với cơ quan BHXH hoàn toàn
không phải trả bất cứ loại phí, lệ phí nào. Các tổ chức, cá nhân chỉ cần giao dịch tại
một đầu mối là Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan BHXH để được
hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và nhận kết quả.
Các TTHC giải quyết tại BHXH thành phố hay liên thông đều đảm bảo giải quyết
nhanh chóng, thuận tiện và đúng thời gian quy định. Một số thủ tục giải quyết chế
độ chính sách đã giảm từ 30% đến 50% thời gian so với trước đây, đối với thủ tục
cấp lại thẻ BHYT do mất, hỏng thì thực hiện ngay trong ngày, đối với hồ sơ giải
quyết chế độ hưu trí, tử tuất, chế độ ngắn hạn, giải quyết trợ cấp BHXH một lần,
cấp sổ BHXH đảm bảo giải quyết và trả kết quả đúng hoặc trước thời gian quy định.
Vấn đề trục lợi hưởng các chế độ BHXH: Hiện nay tình trạng trục lợi quỹ
BHXH vẫn diễn ra tại một số đơn vị sử dụng lao động đặc biệt là giải quyết các chế
độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản. Điều này
không chỉ tạo sự bất bình đẳng trong tầng lớp dân cư mà c n ảnh hưởng đến quỹ
79
bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội. Để đảm bảo quyền lợi của người lao động, hạn chế tối
đa tình trạng lạm dụng quỹ BHXH, BHYT, BHXH thành phố thực hiện rà soát hồ sơ
trước khi giải quyết; thực hiện có hiệu quả chuyên đề tăng cường công tác ngăn chặn tình
trạng lạm dụng gây thất thoát quỹ ốm đau, thai sản quỹ BHTN.
Để đảm bảo quyền lợi của người lao động, hạn chế tối đa tình trạng lạm dụng quỹ
BHXH, BHYT, Bảo hiểm xã hội thành phố thực hiện rà soát hồ sơ trước khi giải quyết;
Thực hiện công tác hậu kiểm theo quy định hạn chế tình trạng trốn đóng, gửi đóng
BHXH; thực hiện có hiệu quả chuyên đề tăng cường công tác ngăn chặn tình trạng lạm
dụng gây thất thoát quỹ ốm đau, thai sản quỹ BHTN.
Năm 2017: Qua kiÓm tra, hậu kiểm ®· thu hồi 49,8 triệu đồng chi ốm đau thai
sản do phát hiện đơn vị có sai phạm, cắt giảm 04 đối tượng báo giảm chậm.
Năm 2018. Qua kiÓm tra, hậu kiểm ®· thu hồi 109,4 triệu đồng chi ốm đau
thai sản tại 25 đơn vị do phát hiện có sai phạm.
Tình trạng hưởng BHXH một lần:
Từ năm 2016 đến 30/9/2019, trên địa bàn thành phố có 2.121 người hưởng
BHXH một lần - một con số tương đối lớn. Thực trạng này không có xu hướng
giảm mà ngày càng gia tăng trong số đó có rất nhiều lao động hơn 35 tuổi trong các
doanh nghiệp do bị mất việc nên hưởng BHXH một lần. Để hạn chế tình trạng này,
Bảo hiểm xã hội thành phố Phủ Lý đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn cho
người dân và người lao động. giúp họ nắm bắt được quyền lợi khi tham gia BHXH để
hưởng lương hưu là vượt trội, thể hiện đúng bản chất nhân văn của chính sách.tự
nhận thức thấy việc hưởng BHXH một lần là không nên, bảo lưu thời gian đóng sau
khi có điều kiện tiếp tục tham gia BHXH để được đảm bảo an sinh xã hội khi về già.
Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH thường xuyên: Hiện nay, BHXH
thành phố đang quản lý, chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH thường xuyên cho 12.600
người. Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng được thực hiện an toàn
qua hệ thống Bưu điện và qua tài khoản ATM; thủ tục hành chính trong lĩnh vực chi
trả đơn giản, tạo thuận lợi cho người thụ hưởng, đảm bảo an toàn về tiền mặt.
- Năm 2016: Chi trả cho 12.322 người với số tiền là.473,95 tỷ đồng.
+ Chi đối tượng hưởng BHXH tự nguyện ;à 715.631.457 đồng.
- Năm 2017: chi trả cho 12.437 người với số tiền là 482,46 tỷ đồng.
+ Chi đối tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,41 tỷ đồng.
- Năm 2018: Chi trả cho12.596 người với số tiền chi: 531 tỷ đồng.
+ Chi đối tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,8 tỷ đồng.
80
- Năm 2019 chi trả cho12.712 người với số tiền 432,48 tỷ đồng.
Công tác chi trả các chế độ BHXH: Bảo hiểm xã hội đang thực hiện chi trả các
chế độ BHXH bằng các hình thức: Chi trực tiếp, chi trả qua bưu điện và chi trả qua
tài khoản cá nhân. Trong đó, hình thức chi trả qua bưu điện đóng vai tr chủ
đạo.Trong những năm qua, công tác phối hợp giữa hai ngành đã có những bước
phát triển đáng kể, đã xây dựng những giải pháp nâng cao hiệu quả trong tổ chức
thực hiện, đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH,
BHYT. Tuy nhiên vẫn c n một số tồn tại, hạn chế như vẫn c n tình trạng ký thay,
nhận hộ các chế độ BHXH hàng tháng, đối với đối tượng nhận tiền qua thẻ ATM,
Bưu điện thành phố chưa có giải pháp hữu hiệu để quản lý, việc quản lý đối tượng,
báo tăng, báo giảm đôi khi vẫn chưa kịp thời. Để khắc phục tình trạng này, Bảo
hiểm xã hội thành phố phối hợp với Bưu điện Thành phố tăng cường kiểm tra, kiểm
soát; tập huấn cho nhân viên bưu điện để kịp thời cập nhật kiến thức về các quy
định mới về chính sách BHXH, BHYT.
đ. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về BHXH
- Công tác thanh tra kiểm tra của ngành LĐTBXH: Trong thời gian vừa qua,
Thanh tra thành phố cùng với Ph ng LĐTBXH và BHXH thành phố thực hiện
kiểm tra tại 16 đơn vị qua công tác kiểm tra đã đôn đốc và tuyên truyền cho các đơn
vị thực hiện đúng các quy định của luật BHXH.
- Công tác thanh tra, kiểm tra của ngành BHXH: Cơ quan BHXH cấp huyện
không có chức năng thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đóng về BHXH. Tuy nhiên
trong thời gian vừa qua đã kiến nghị đề xuất với BHXH tỉnh thực hiện thanh tra,
kiểm tra đối với 210 đơn vị, xử phạt 17 đơn vị vi phạm, thu về quỹ số tiền
334.864.947 đồng.
- Công tác khởi kiện khởi tố trong lĩnh vực BHXH: Bảo hiểm xã hội
(BHXH) là chính sách xã hội đặc biệt quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an
sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính
trị và phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Tuy nhiên, thời gian qua, tình trạng doanh
nghiệp nợ và trốn đóng BHXH cho người lao động (NLĐ) diễn ra phổ biến với số
tiền nợ BHXH của doanh nghiệp đối với NLĐ đã lên tới chục tỷ đồng.Theo quy
định của Luật Bảo hiểm xã hội thì tổ chức công đoàn (CĐ) có quyền khởi kiện
doanh doanh nợ, trốn đóng BHXH. Tuy nhiên, đến thời điểm này, công tác khởi
kiện c n nhiều vướng mắc do quy định của luật đang có sự chồng chéo và bất cập
trong việc khởi kiện các doanh nghiệp nợ, trốn đóng BHXH. Chính vì vậy trong
81
thời gian qua trên địa bàn thành phố mới chỉ khởi kiện được doanh nghiệp 01 doanh
nghiệp ra t a ( năm 2014).
e.Giải quyết khiếu nại và tố cáo về BHXH.
Do làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến chính sách về BHXH nên trong
thời gian qua toàn thành phố không xảy ra khiếu nại, tố cáo về BHXH.
III. Kiến nghị và đề xuất:
- Đề nghị sửa đổi đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cả chủ hộ
kinh doanh cá thể.
- Có chính sách hỗ trợ đối tượng tham gia BHXH tự nguyện từ ngân sách của tỉnh.
- Thường xuyên kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của nhân viên
đại lý thu. Theo dõi, đánh giá hiệu quả từng Đại lý thu để kịp thời chấn chỉnh đưa
vào nề nếp.
- Tăng cường tổ chức các buổi tập huấn về kỹ năng, phương pháp truyền
thông về BHXH, BHYT cho nhân viên Đại lý thu và cán bộ chủ chốt ở cơ sở thuộc
Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, cán bộ dân số, cán bộ trạm y tế.
Trên đây là báo cáo tổng kết thi hành luật BHXH giai đoạn 2016 - 2020.
UBND thành phố Phủ Lý trân trọng báo cáo./.
Nơi nhận: - UBND tỉnh; - Sở LĐTB&XH tỉnh ;( để b/c) - Chủ tich UBND TP; - Lưu VP, LĐTBXH.
TM. UỶ BAN NHÂN DÂN KT CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH Lê Văn Dũng
82
Phụ lục 3: Một số hình ảnh hoạt động trong thực hiện an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý
Thăm và tặng quà nhân dịp 73 năm ngày thương binh liệt sĩ.
Lễ dâng hương và tri ân các anh hùng liệt sĩ.
83
Tặng quà cho các gia đình chính sách.
Thăm và tặng quà gia đình chính sách, hộ nghèo.
84
Tư vấn, khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí.
Hỗ trợ vay vốn lãi suất thấp cho hộ nghèo, hộ cận nghèo.
85