BỘ NỘI VỤ TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

Ở THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

Khóa luận tốt nghiệp ngành : CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn : THS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA

Sinh viên thực hiện : ĐOÀN QUỲNH TRANG

Mã số sinh viên : 1705CTHB061

Khóa : 2017-2021

Lớp : 1705CTHB

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, Khóa luận tốt nghiệp: “Thực hiện chính sách an sinh xã

hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dựa

trên những kiến thức chuyên ngành, quá trình thu thập tài liệu, số liệu thống kê của

Uỷ ban nhân dân Thành phố Phủ Lý và dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Thị

Phương Hoa.

Các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu trong Khóa luận là trung thực và

chưa từng công bố tại trong bất kì khóa luận nào trước đây. Các số liệu tại bảng

biểu phục vụ việc phân tích, nhận xét và đánh giá được chính tôi thu thập và có ghi

trong danh mục tài liệu tham khảo.

Ngoài ra, trong Khóa luận có sử dụng một số quan điểm nhận xét, đánh giá

của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và trong một số văn kiện của Đảng đều có

trích dẫn và chú thích nguồn gốc.

Sinh viên thực hiện

Đoàn Quỳnh Trang

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được Khóa luận này, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi

còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo tại Trường Đại học Nội

vụ Hà Nội đã tạo mọi điều kiện trong quá trình học tập, nghiên cứu và làm Khóa

luận tốt nghiệp.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ThS. Nguyễn Thị Phương Hoa - người

hướng dẫn khoa học đã rất nhiệt tình với tinh thần trách nhiệm cao giúp tôi hoàn thành

Khóa luận.

Tôi cũng xin cảm ơn lãnh đạo, các cán bộ, công chức của Uỷ ban nhân dân

Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã giúp đỡ trong thời gian tôi tìm hiểu tình hình

thực tế, cung cấp tài liệu và số liệu để tôi có thể hoàn thành Khóa luận.

Do còn hạn chế về mặt thời gian và năng lực cá nhân nên trong quá trình

thực hiện Khóa luận còn nhiều thiếu xót chưa được khắc phục và hoàn thiện.

Tôi rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của quý thầy cô.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2021

Sinh viên thực hiện

Đoàn Quỳnh Trang

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ

1 ASXH An sinh xã hội

2 BHXH Bảo hiểm xã hội

3 BHYT Bảo hiểm y tế

4 UBND Uỷ ban nhân dân

5 XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Số liệu các đối tượng thụ hưởng chính sách Bảo trợ xã hội ..................... 28

Bảng 2.2: Kết quả thực hiện chính sách Ưu đãi xã hội giai đoạn 2016 - 2020 ........ 29

Bảng 2.3: Số đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội theo loại hình quản lý ............... 31

Bảng 2.4: Tỷ lệ các nhóm đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế................................... 35

Bảng 2.5: Hộ nghèo, hộ cận nghèo từ năm 2016 đến năm 2020 .............................. 35

Bảng 2.6: Tín dụng cho hộ nghèo ở thành phố Phủ Lý giai đoạn 2016 - 2020. ....... 36

Bảng 2.7: Số lao động nông thôn được đào tạo nghề trong giai đoạn 2016 - 2020 .. 37

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4

5. Giả thuyết khoa học ........................................................................................ 5

6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 5

7. Ý nghĩa của khóa luận ..................................................................................... 5

8. Bố cục của khóa luận ...................................................................................... 6

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 7

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH

XÃ HỘI ...................................................................................................................... 7 1.1. Các khái niệm cơ bản ................................................................................... 7

1.1.1. Chính sách ................................................................................................. 7

1.1.2. An sinh xã hội ........................................................................................... 7

1.1.3. Chính sách an sinh xã hội ....................................................................... 10

1.1.4. Thực hiện chính sách an sinh xã hội ....................................................... 11

1.2. Các chính sách an sinh xã hội cơ bản ở Việt Nam ..................................... 14

1.2.1. Chính sách bảo trợ xã hội ........................................................................ 14

1.2.2. Chính sách ưu đãi xã hội ......................................................................... 15 1.2.3. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ............................................ 16

1.2.4. Chính sách xóa đói giảm nghèo .............................................................. 18

1.3. Vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam ........................................................................................................... 19 1.3.1. Vai trò của thực hiện chính sách an sinh xã hội ...................................... 19

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách an sinh xã hội ............. 20 Tiểu kết chương 1 ............................................................................................. 21

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM .................................................... 23 2.1. Khái quát về thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ........................................... 23

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân số, hành chính ................................................... 23

2.1.2. Kinh tế - xã hội ........................................................................................ 24

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ............................................................................................................. 26

2.2.1. Chính sách bảo trợ xã hội ........................................................................ 27

2.2.2. Chính sách ưu đãi xã hội ......................................................................... 28

2.2.3. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ............................................ 30 2.2.4. Chính sách xóa đói giảm nghèo .............................................................. 35 2.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ...................................................................................................... 38

2.3.1. Những kết quả đạt được .......................................................................... 38

2.3.2. Những hạn chế tồn tại ............................................................................. 39

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế ....................................................................... 41

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 42

Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

AN SINH XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM ....................... 44

3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành

phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ................................................................................. 44

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở

thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ....................................................................... 46

3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cấp ủy Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ về

vai trò của chính sách an sinh xã hội ................................................................ 46

3.2.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác an sinh xã hội ............................... 47

3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính

sách an sinh xã hội. ........................................................................................... 49

3.2.4. Phát triển kinh tế gắn với thực hiện chính sách an sinh xã hội ............... 51 3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách an

sinh xã hội. ........................................................................................................ 54

3.2.6. Tăng cường khả năng “tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng. ................ 56 Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 59

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 60

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 61 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 64

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

An sinh xã hội (ASXH) là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhằm

góp phần thực hiện mục tiêu phát triển con người, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã

hội. Thực hiện chính sách ASXH là sự thể hiện rõ tính ưu việt định hướng xã hội

chủ nghĩa (XHCN) của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Những năm qua, Đảng

và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH,

coi đây vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị -

xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định:

“Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội;

thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe

nhân dân, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động,

việc làm, thu nhập” [16, tr.76-78].

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu lên một

trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, đó là “Quản lý

phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con

người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo

đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế,

chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo

đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an

sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân” [17].

Nhờ thực hiện tốt các chính sách ASXH trong thời gian qua đã góp phần

giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp

người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đời sống vật chất và tinh thần của người có

công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố lòng

tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội; nước ta được Liên hợp quốc công

nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục tiêu Thiên

niên kỷ [6, tr.70-71].

Thành phố Phủ Lý là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của tỉnh Hà Nam.

1

Từ khi được thành lập cho đến nay, thành phố Phủ Lý đã có bước chuyển mình

mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, hội tụ đầy

đủ những điều kiện phát triển theo định hướng của quốc gia. Những năm qua với

chủ trương, chính sách phù hợp, thành phố Phủ Lý đã từng bước thực hiện tốt chính

sách ASXH, đời sống của người dân được đảm bảo, kinh tế, chính trị, xã hội ngày

càng phát triển ổn định. Tuy vậy, việc thực hiện chính sách ASXH vẫn còn một số

hạn chế: Tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, thực hiện trợ cấp xã hội chưa

thật sự hiệu quả, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ người dân nhất là với người

nghèo còn hạn chế, tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế

(BHYT) còn thấp…

Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, đánh giá thực trạng việc thực

hiện chính sách xã hội, đề xuất những giải pháp khả thi nhằm thực hiện có hiệu quả

hơn về chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý vừa có ý nghĩa lý luận, vừa

mang tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những lý do đó, tác giả

lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh

Hà Nam” với mong muốn được mang những kiến thức học tập của mình góp phần

nhỏ trong việc thực hiện nhiệm vụ đảm bảo ASXH trên địa bàn thành phố trong thời

gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu

ASXH là vấn đề của toàn xã hội, mang ý nghĩa nhân đạo và cộng đồng sâu

sắc đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Do đó, nhiều

công trình đã được công bố, đề cập những khía cạnh khác nhau, với nội dung và

cách tiếp cận phong phú, đa dạng. Trong đó có những công trình tiêu biểu về vấn đề

này mà tác giả tìm đọc, phân tích và có thể lựa chọn những bài học phù hợp với nội

dung nghiên cứu của đề tài:

“Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách An sinh xã hội ở Việt Nam”

của Mai Ngọc Cường là công trình nghiên cứu có hệ thống về chính sách ASXH ở

Việt Nam hiện nay khi làm rõ được những vấn đề cốt yếu của chính sách, rút ra

được những điểm c n vướng mắc.

“Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện

chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Chiểu đã đề cập đến một

2

số vấn đề lý luận cơ bản chính sách ASXH và kinh nghiệm một số nước, thực trạng

thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam trong gần 30 năm thực hiện đường lối đổi

mới, vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam hiện

nay, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò của Nhà nước

trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam. Với tư liệu này, Khoá luận đã

kế thừa nội dung tính tất yếu, vai trò và yêu cầu đặt ra đối với Nhà nước trong việc

thực hiện chính sách ASXH.

“An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới năm 2020” của Vũ Văn Phúc đã đề

cập đến những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm của thế giới về ASXH: Quan

điểm và cách tiếp cận về ASXH, xây dựng và thực hiện hệ thống về ASXH ở nước

ta trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN; những vấn đề thực tiễn về

ASXH ở nước ta là xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam, BHXH và

BHYT; ASXH cho cư dân vùng nông thôn, vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng dân

tộc và miền núi, đào tạo nghề. Cuốn sách đã phác họa bức tranh tổng thể về cơ sở lý

luận và những vấn đề thực tiễn về ASXH ở nước ta. Tuy nhiên, các chuyên đề, bài

viết của chuyên gia chưa được tổng quan hóa nên tính logich của các nội dung vẫn

còn bất cập.

Đề tài “Phát triển hệ thống An sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020” của

Nguyễn Thị Lan Hương, thuộc Viện khoa học Lao động và xã hội đã đưa ra những

vấn đề chung của ASXH, nguyên tắc xây dựng hệ thống ASXH, nhìn nhận đánh giá

tình hình thực hiện chính sách ASXH ở nước ta. Đặc biệt đề tài đã đưa ra các mô

hình hệ thống ASXH của một số nước trên thế giới để từ đó người đọc có thể so

sánh đối với mô hình ASXH ở Việt Nam. Qua đó có thể nhận thấy những nét đặc

thù riêng biệt trong hệ thống ASXH ở nước ta. Ngoài ra, đề tài c n đưa ra những

nhận định, mục tiêu phương hướng thực hiện các chính sách ASXH ở nước ta đến

năm 2020, để người đọc có thể “hình dung” quá trình thực hiện ASXH trong thời

gian tới, có thêm thế giới quan sinh động về ASXH nói chung và ASXH ở Việt

Nam nói riêng.

Luận án Tiến sỹ “Đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội”

của Đông Thị Hồng, có những đặc điểm riêng biệt khi có sự đánh giá mối quan hệ

giữa đảm bảo ASXH với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội.

3

Đồng thời Luận án cũng đã đánh giá khá chi tiết những điều kiện và kinh tế ảnh

hưởng đến đảm bảo ASXH và đưa ra những giải pháp rất thiết thực, phù hợp để

nâng cao hiệu quả chính sách ASXH trong giai đoạn 2010 - 2015.

Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào nghiên cứu tình

hình thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Các

nghiên cứu nêu trên đã cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn cơ bản cho đề tài

Khoá luận khi nghiên cứu về thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh

Hà Nam. Đây là những tài liệu tham khảo rất có ý nghĩa để tác giả làm rõ cơ sở lý

luận về chính sách ASXH; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp

nâng cao hiệu quả của việc thực thi chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý trong

nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách ASXH;

phân tích thực trạng thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam;

đồng thời đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực

hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nói trên, Khoá luận tập trung vào các nhiệm vụ nghiên

cứu sau:

- Làm rõ cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ASXH ở nước ta hiện nay.

- Phân tích thực trạng thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh

Hà Nam thời gian qua; chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó.

- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Khoá luận tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách ASXH ở thành

phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam trên các lĩnh vực bảo trợ xã hội, ưu đãi xã hội, BHXH,

BHYT, xoá đói giảm nghèo... được thể hiện trong các chương trình ASXH có tính

“đặc thù” của thành phố Phủ Lý.

4

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian: Khoá luận giới hạn phạm vi nghiên cứu các

chính sách quản lý Nhà nước về ASXH, từ đó nghiên cứu việc thực hiện

chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam gắn với phát triển kinh

tế - xã hội địa phương.

- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách ASXH ở thành

phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giai đoạn 2016 - 2020.

5. Giả thuyết khoa học

Chính sách ASXH là một trong những chính sách xã hội quan trọng không

chỉ ở thành phố Phủ Lý mà còn trên bình diện chung của cả đất nước. Việc xác định

hướng đi đúng đắn trong thực hiện ASXH ở thành phố Phủ Lý sẽ góp phần nâng

cao hiệu quả trong việc phát triển con người, đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội ở

thành phố Phủ Lý. Nếu công tác thực hiện ASXH được quan tâm đúng mức, phù

hợp, đồng bộ, khả thi thì đội ngũ công chức thực hiện ASXH tại thành phố Phủ Lý

sẽ đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới, những đ i hỏi mới của chính sách ASXH

trong giai đoạn hiện nay và thời gian sắp tới.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời cũng xuất phát từ chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước, các Nghị định, Quyết định của Chính phủ và của Ủy ban nhân

dân (UBND) thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam về ASXH.

Các phương pháp được sử dụng cụ thể là:

- Phương pháp tổng hợp: Liên kết, sắp xếp các tài liệu, thông tin lý thuyết đã thu

thập được để tạo thành hệ thống đầy đủ, toàn diện phục vụ có hiệu quả cho đề tài.

- Phương pháp so sánh và xử lý số liệu: Thực hiện so sánh và phân tích các

số liệu thu thập được trên cơ sở đó tổng hợp khái quát hóa rút ra các kết luận, các

nhận định, phục vụ mục đích nghiên cứu.

- Phương pháp khảo sát thực tế: Thực hiện tại các phòng ban, cơ quan thành

phố Phủ Lý nhằm thu thập bổ sung các tư liệu thực tế.

7. Ý nghĩa của khóa luận

Khoá luận có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những tổ chức, cá nhân

5

quan tâm đến vấn đề chính sách ASXH. Tác giả cũng mong muốn những kết quả

nghiên cứu của Khoá luận góp phần vào việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính

sách ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

8. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Khoá luận được

kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách an sinh xã hội.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ

Lý, tỉnh Hà Nam.

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở

thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

6

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Chính sách

Chính sách (Policy) là những hướng dẫn, phương pháp, thủ tục, luật lệ, biểu

mẫu cụ thể và những công việc hành chính được thiết lập để hỗ trợ và thúc đẩy công

việc hướng tới các mục tiêu đề ra. Theo Từ điển tiếng Việt, chính sách được hiểu là

“sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối

chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…” [35]. Có thể hiểu, chính

sách là những quy định, quyết định được thể chế hóa bởi các cơ quan, tổ chức có

thẩm quyền nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của

con người và giải quyết những vấn đề xã hội nhằm thực hiện những mục tiêu đã được

xác định. Chính sách điều chỉnh những quan hệ ít mang tính ổn định, mềm dẻo, linh

hoạt và có tác động nhanh, kịp thời, mạnh mẽ, toàn diện đến cả nhận thức, thái độ và

hành vi của các chủ thể bị tác động.

Chính sách có vai tr định hướng cho các hoạt động kinh tế - xã hội; phát

huy những mặt tốt của nền kinh tế thị trường và hạn chế những tiêu cực của nó;

tạo lập sự cân đối trong phát triển; kiểm soát và phân phối nguồn lực cho quá trình

phát triển; tạo lập môi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội, giúp

cho các thực thể vận động phát triển theo đúng quy luật; phối hợp hoạt động giữa

các cấp độ, các bộ phận để tạo nên tính hệ thống chặt chẽ trong quá trình vận động

của thực thể [18].

1.1.2. An sinh xã hội

ASXH luôn được coi là một trong những vấn đề cốt lõi của sự phát triển xã

hội. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể có quan niệm

khác nhau đối với sự phát triển hệ thống ASXH. ASXH theo quan niệm của một số

tổ chức quốc tế cũng có mức độ rộng, hẹp và đối tượng đích tới khác nhau, cụ thể

như sau:

- Theo Ngân hàng Thế giới (WB): ASXH là những biện pháp công cộng

7

nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng đương đầu và kiềm chế được

nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh

thu nhập. Quan niệm này nhấn mạnh đến các giải pháp nhằm kiềm chế nguy cơ làm

giảm thu nhập của các cá nhân, gia đình và cộng đồng.

- Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): ASXH là sự cung cấp phúc lợi cho

các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của Nhà nước hoặc tập thể nhằm ngăn

chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp. Quan niệm này nhấn

mạnh khía cạnh phân phối phúc lợi, bảo hiểm và mở rộng việc làm cho những đối

tượng ở khu vực kinh tế không chính thức.

- Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB): ASXH là một hệ thống chính

sách công nhằm giảm nhẹ tác động bất lợi của những biến động đối với các hộ gia

đình và cá nhân. Quan niệm này nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc đảm

bảo ASXH, giảm nhẹ những tác động bất lợi đến các cá nhân và hộ gia đình.

- Hiệp hội An sinh quốc tế (ISSA) coi ASXH là thành tố của hệ thống chính

sách công liên quan đến sự bảo đảm an toàn cho tất cả các thành viên xã hội chứ

không chỉ có công nhân. Những vấn đề mà Hiệp hội An sinh quốc tế quan tâm

nhiều trong hệ thống ASXH là chăm sóc sức khoẻ thông qua BHYT; hệ thống

BHXH, chăm sóc tuổi già, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ

giúp xã hội.

- Bách khoa toàn thư của Đại học Columbia (Mỹ) cho rằng: ASXH là

chương trình Chính phủ nhằm cung cấp sự an toàn kinh tế và phúc lợi cho cá nhân

và những người phụ thuộc vào họ. Chương trình được xây dựng khác nhau ở mỗi

quốc gia do những quan niệm về ASXH khác nhau của những nước đó, nhưng tất cả

đều do luật pháp Chính phủ quy định và đều được thiết kế nhằm cung cấp một số

khoản tiền để chi trả cho việc mất hoặc suy giảm thu nhập.

- Trong cuốn: Giáo trình Nhập môn an sinh xã hội của Nguyễn Hải Hữu

quan niệm: “An sinh xã hội là một hệ thống cơ chế chính sách, biện pháp của Nhà

nước và xã hội nhằm đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế - xã hội làm cho

họ có nguy cơ bị sút giảm nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề

nghiệp, già cả không có sức lao động hoặc vì những nguyên nhân khách quan rơi

vào hoàn cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa ..., thông qua hệ thống mạng lưới về bảo

8

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và hỗ trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo và hỗ trợ đặc biệt"

[19, tr.16-17].

- Trong cuốn An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020, tác giả Vũ Văn

Phúc quan niệm: Theo nghĩa rộng, ASXH là sự bảo đảm thực hiện các quyền để con

người được an bình, bảo đảm an ninh, an toàn trong xã hội. Theo nghĩa hẹp, ASXH

là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và

cộng đồng trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập vì lý do bị giảm hoặc mất

khả năng lao động hay mất việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi,

người tàn tật, người yếu thế, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai, địch họa. Bản chất

của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho tất cả các thành viên

trong xã hội trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay gặp phải những rủi ro

khác [23, tr.14].

Ở nước ta, cụm từ “ASXH” được chính thức sử dụng tại Đại hội IX của

Đảng Cộng sản Việt Nam và được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản

lý nghiên cứu về vấn đề này.

- Theo GS. Hoàng Chí Bảo - Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng lý luận

Trung ương nhận định: ASXH là sự an toàn của cuộc sống con người, từ cá nhân

đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho phát triển con người và xã hội.

- GS.TS Mai Ngọc Cường lại cho rằng, để thấy hết được bản chất, phải tiếp

cận ASXH theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của khái niệm này. Theo nghĩa rộng,

ASXH là sự bảo đảm thực hiện các quyền để con người được an bình, hạnh phúc,

xã hội ổn định, phát triển. Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự bảo đảm thu nhập và một số

nhu cầu thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trong trường hợp bị giảm

hoặc mất thu nhập vì lý do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm

cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế,

người bị ảnh hưởng bởi thiên tai địch họa... [5, tr.21-22].

- Trong bài “Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là

một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 -

2020” Nguyên Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho rằng: "An sinh xã hội

là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của

người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi

9

trường, vừa góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

nhân dân" [12].

Qua các tài liệu nghiên cứu nêu trên, có thể hiểu, ASXH là sự đảm bảo thu

nhập và một số điều kiện khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng để trợ giúp các

thành viên trong xã hội trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội

và môi trường, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, cho tự

do của dân tộc, đó là tính đặc thù trong ASXH ở nước ta.

Mục đích của ASXH là tạo ra mạng lưới bảo vệ an toàn cho mọi thành viên

trong cộng đồng xã hội trước những rủi ro trong cuộc sống. Bản chất của ASXH là

bảo đảm thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội, vì thế nó mang tính xã

hội và nhân văn sâu sắc. Đối tượng của ASXH là những thành viên trong cộng đồng

trước những rủi ro trong cuộc sống do những tác động bất thường về kinh tế, xã hội

và môi trường - đặc biệt những nhóm dễ bị tổn thương, người nghèo, vùng nghèo,

vùng dân tộc miền núi và nông thôn. Phương thức hoạt động của ASXH thông qua

các biện pháp, chính sách của Nhà nước và cộng đồng xã hội, trong đó Nhà nước

giữ vai trò chỉ đạo và trụ cột.

ASXH là trách nhiệm của xã hội trong việc bảo vệ đối với các thành viên của

mình, đồng thời đối với Việt Nam trong ASXH có thêm chính sách ưu đãi người có

công với cách mạng, là sự tri ân những người hy sinh cho độc lập, tự do của dân

tộc, đó là tính đặc thù trong ASXH ở nước ta.

1.1.3. Chính sách an sinh xã hội

Chính sách ASXH là những chính sách bảo vệ của Nhà nước nhằm phòng

ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro cho các thành viên của mình khi họ bị mất

hoặc giảm thu nhập do các nguyên nhân ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh

nghề nghiệp, thất nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì các nguyên

nhân khách quan khác thông qua các chính sách BHXH, BHYT, ưu đãi xã hội và

trợ giúp xã hội.

Chức năng cơ bản của mọi chính sách ASXH là bảo vệ sự an toàn của các

thành viên trong xã hội thông qua các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và khắc

phục rủi ro. Bản chất của chính sách ASXH được thể hiện đầy đủ ở tính chính

trị, tính kinh tế, tính xã hội và tính nhân đạo của nó. Nghị quyết Hội nghị lần thứ

10

5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI khẳng định: “Chính sách xã hội

có vai tr đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền

vững trong mọi giai đoạn phát triển. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm

với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với

trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ... Không ngừng cải

thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công, bảo đảm an

sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng và Nhà nước, của cả

hệ thống chính trị và toàn xã hội” [15, tr.73].

1.1.4. Thực hiện chính sách an sinh xã hội

Thực hiện chính sách ASXH là quá trình biến các chủ trương, phương

hướng, biện pháp liên quan đến hệ thống ASXH thành những kết quả trên thực tế

thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy Nhà nước và sự tham gia rộng rãi

của các tổ chức, đơn vị, gia đình, cá nhân và toàn xã hội nhằm hiện thực hoá những

mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Đó chính là quá trình triển khai hệ thống các chính

sách ASXH (trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, BHYT, BHXH, giải quyết việc làm…)

vào thực tiễn bằng các công cụ của bộ máy Nhà nước.

* Chủ thể thực hiện

Chính sách xã hội nói chung và chính sách ASXH nói riêng luôn gắn với một

chế độ chính trị - xã hội nhất định. Chủ thể thực hiện ban hành chính sách ASXH

chủ yếu là các cơ quan của Nhà nước. Ngoài ra còn có các tổ chức tư nhân, các

đoàn thể chính trị - xã hội, cũng như các cơ quan trong bộ máy Nhà nước để tổ chức

thực hiện. Chính sách ASXH do Nhà nước ban hành nên có thể coi chính sách

ASXH là chính sách của Nhà nước [13].

Ở nước ta, trên sách báo, chúng ta thường gặp cụm từ “chính sách ASXH

của Đảng và Nhà nước”, như vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban

hành chính sách, điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của nước ta. Đảng

Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước quản lý thông qua việc vạch ra Cương lĩnh,

chiến lược, các định hướng chính sách, đó chính là những căn cứ chỉ đạo để Nhà

nước ban hành các chính sách ASXH nói riêng và chính sách nói chung.

Các chính sách được ban hành là việc cụ thể hóa đường lối, chiến lược và

các định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu cải thiện và

11

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các đối tượng được thụ hưởng các chế

độ ASXH.

* Đối tượng của chính sách ASXH là mọi người dân kể cả những người trong

đối tượng lao động, người chưa đến tuổi lao động, người hết tuổi lao động, trong đó

gồm cả các đối tượng của chính sách xã hội là người nghèo thành thị và nông thôn,

phụ nữ, trẻ em, thanh niên, người tàn tật và người dân tộc thiểu số… Nhìn chung ở

tất cả các nước đều có hai loại đối tượng tham gia vào chương trình ASXH: Thứ

nhất, các đối tượng tham gia vào các chính sách ASXH theo nguyên tắc đóng -

hưởng; thứ hai, những đối tượng tham gia vào chương trình ASXH theo nguyên tắc

trợ giúp.

* Các bước thực hiện chính sách an sinh xã hội

(1) Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách ASXH

Để thực hiện một cách hiệu quả chính sách ASXH, cần phải tiến hành xây

dựng kế hoạch thực hiện một cách chi tiết, cụ thể và rõ ràng từ kế hoạch tổ chức

điều hành, kế hoạch chuẩn bị các nguồn lực để thực hiện, kế hoạch kiểm tra, đôn

đốc thực thi chính sách phù hợp với tình hình thực tế của địa phương nhưng phải

đảm bảo tuân thủ theo đúng quan điểm, mục tiêu và yêu cầu của chủ thể ban

hành [13, tr.42].

(2) Phổ biến, tuyên truyền chính sách ASXH

Phổ biến, tuyên truyền chính sách ASXH là hoạt động mang tính thông tin,

là hình thức công khai chính thống chính sách cho các cơ quan có thẩm quyền, các

đối tượng chính sách và các bên tham gia hiểu rõ về mục đích, yêu cầu, về tính đầy

đủ, tính đúng đắn của chính sách để các bên có liên quan tự giác tham gia thực hiện.

Công tác phổ biến, tuyên truyền đóng vai tr rất quan trọng trong việc tổ chức thực

hiện chính sách [13, tr.43].

(3) Phân công, phối hợp thực hiện chính sách ASXH

Phân công, phối hợp thực hiện chính sách ASXH là việc cơ quan tổ chức

thực hiện chính sách xem xét chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cá nhân có liên

quan để phân công, phân nhiệm một cách cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ, khoa học và hợp

lý. Xác định cơ quan nào đóng vai tr chủ trì, cơ quan nào có chức năng phối hợp,

tránh trường hợp nêu chung chung, nhằm đảm bảo trong suốt quá trình thực hiện

12

chính sách diễn ra suôn sẻ, thuận lợi, không bị chồng chéo, thiếu sót hoặc bị tắc

nghẽn. Tuy nhiên, chịu trách nhiệm chính và chủ công trong việc triển khai thực

hiện là ngành Lao động - Thương binh và Xã hội, và UBND các cấp [13, tr.43].

(4) Duy trì chính sách ASXH

Duy trì chính sách ASXH là hoạt động nhằm bảo đảm cho chính sách tồn tại

được và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Triển khai chính sách ASXH

cần được duy trì thường xuyên nhằm tạo ra các giá trị cốt lõi và tối thiểu cho những

người lao động nghèo, những người già, trẻ mồ côi... để họ dễ dàng hơn, có cơ hội

tiếp cận các dịch vụ tối thiểu mà Nhà nước và cộng đồng tạo ra [13, tr.44].

(5) Điều chỉnh, bổ sung chính sách ASXH

Sự biến động của hoàn cảnh, sự thay đổi của nhu cầu cuộc sống cũng như

các giá trị tối thiểu ngày càng được nâng lên để phù hợp với mức sống chung của

toàn xã hội thì các chính sách ASXH cần phải được điều chỉnh. Công tác điều

chỉnh, bổ sung chính sách ASXH là hoạt động được thực hiện bởi cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền theo hướng điều chỉnh chính sách ngày càng phù hợp với

yêu cầu quản lý và tình hình thực tiễn phát triển của xã hội. Trong quá trình xây

dựng chính sách, khi triển khai áp dụng thực hiện trong thực tiễn sẽ có những

vấn đề bất cập, thiếu sót, chưa phù hợp hoặc phát sinh mới mà chủ thể chưa

lường trước được [13, tr.44].

(6) Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách ASXH

Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách ASXH là hoạt động

diễn ra thường xuyên, liên tục của hệ thống các cơ quan Nhà nước từ cơ quan có

thẩm quyền ban hành chính sách, đến các cơ quan và cán bộ, công chức được phân

công thực hiện chính sách; kể cả đối tượng chính sách nhằm xem xét chính sách đã

được triển khai tổ chức thực hiện chưa, tiến độ thực hiện đến đâu, việc tổ chức thực

hiện có đảm bảo đúng nguyên tắc, đúng theo quy trình, kế hoạch đã ban hành hoặc

đã đến tận được với các đối tượng chính sách không [13, tr.45].

(7) Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách ASXH

Đối với việc thực hiện chính sách ASXH được xác định là chính sách thường

xuyên và lâu dài. Việc đánh giá, tổng kết được thực hiện theo trình tự từ cơ sở đến

Trung ương. Thậm chí, một số kiến nghị, đề xuất ở cơ sở mang tính thực tiễn cao,

13

bức xúc cần được sửa đổi, bổ sung vẫn không được ghi nhận. Thước đo đánh giá

kết quả thực hiện chính sách là: Tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách; ý

thức chấp hành các quy định về cơ chế, biện pháp thực hiện các mục tiêu chính sách

và hiệu quả chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian [6, tr.38].

1.2. Các chính sách an sinh xã hội cơ bản ở Việt Nam

1.2.1. Chính sách bảo trợ xã hội

Trong hệ thống các chính sách về ASXH của Việt Nam thì chính sách bảo trợ

xã hội được coi là sự trợ giúp của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện

sinh sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp

bất hạnh rủi ro không may xảy ra, nghèo đói không đủ khả năng để tự lo cho cuộc

sống tối thiểu của bản thân và gia đình, cần đến sự trợ giúp của xã hội. Nguồn tài

chính đảm bảo việc cứu trợ xã hội được hình thành chủ yếu từ Nhà nước, sự hảo tâm,

từ thiện của các tổ chức, cộng đồng dân cư mà đối tượng hưởng không phải đóng góp

trực tiếp. Bảo trợ xã hội được chia ra thành hai nhóm là trợ giúp xã hội thường xuyên

và trợ giúp xã hội đột xuất.

- Trợ giúp xã hội thường xuyên:

+ Hiện nay việc thực hiện trợ giúp thường xuyên được áp dụng Nghị định số

136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về quy định chính sách đối với

đối tượng bảo trợ xã hội, đối tượng tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc nhà xã

hội tại cộng đồng là những trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng (bị bỏ

rơi không ai nhận nuôi, mồ côi cả cha lẫn mẹ...), trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ

nghèo... không tự lo được cuộc sống (được quy định cụ thể tại Điều 5 của Nghị định

này). Hiện nay, theo quy định của Nhà nước thì mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng

thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội từ

270.000đ (hệ số 1,0) đến 810.000đ (hệ số 3,0). Bên cạnh đó, Nhà nước khuyến

khích và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia giúp đỡ

đối tượng bảo trợ xã hội [9].

- Trợ giúp xã hội đột xuất:

Trợ giúp xã hội đột xuất là hình thức hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng

giúp đỡ những người không may bị thiên tai, mất mùa hoặc những biến cố khác nhằm

hỗ trợ kịp thời, giúp khắc phục và vượt qua khó khăn, sớm ổn định sản xuất và đời

14

sống, đảm bảo thu nhập, không bị rơi xuống nghèo khổ. Hiện nay, chính sách trợ

giúp đột xuất đang thực hiện theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 về

quy định chính sách đối với đối tượng bảo trợ xã hội thì việc trợ giúp xã hội đột xuất

đối với các trường hợp gồm: Những người, hộ gia đình thiếu đói trong các trường

hợp cụ thể hoặc người bị thương nặng do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn giao thông, tai

nạn lao động đặc biệt nghiêm trọng hoặc các lý do bất khả kháng khác; hộ nghèo, hộ

cận nghèo, hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn có nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy hoàn

toàn do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà không c n nơi ở...

(Được quy định rõ từ Điều 12 đến Điều 17 của Nghị định này) [9].

1.2.2. Chính sách ưu đãi xã hội

Ưu đãi xã hội là một bộ phận đặc thù trong hệ thống ASXH Việt Nam, được

đánh giá là một trong những yếu tố quan trọng cấu thành nên chính sách ASXH và

thể hiện rất rõ chính sách nhân đạo, bình đẳng của xã hội. Chính sách ưu đãi xã hội

là sự đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với những người có công với nước với

dân, với cách mạng nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy sinh cao cả của họ.

Điều này chẳng những thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, cộng đồng và toàn xã

hội, mà nói lên đạo lý của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người

trồng cây”.

Hiện thực hóa chủ trương của Đảng, đồng thời tiếp tục hoàn thiện chính sách

ưu đãi người có công, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ

sung chính sách ưu đãi người có công lần thứ ba, ngày 9 tháng 4 năm 2013 Chính

phủ ban hành Nghị định số 31/NĐ-CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số

điều của Pháp lệnh ưu đãi Người có công với cách mạng và Nghị định này đang

được tổ chức thực hiện trong cả nước; Nghị định 70/2017/NĐ-CP của Chính phủ về

Quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng [11].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X một lần nữa chỉ rõ: “Chú trọng các chính

sách ưu đãi xã hội. Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa,

uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với

nước, người hưởng chính sách xã hội” [14]. Hầu hết người có công và thân nhân của

họ đã được hưởng các chế độ ưu đãi của Nhà nước, đời sống ổn định và từng bước

được cải thiện, góp phần ổn định chính trị, xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân với

15

Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng xã, phường làm tốt công tác thương

binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng đã trở thành phong trào thi đua và được

cấp ủy, chính quyền các cấp, các đoàn thể đưa vào kế hoạch phấn đấu hằng năm, tạo

không khí lành mạnh ở cơ sở.

1.2.3. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế

- Bảo hiểm xã hội:

BHXH là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH, BHXH là sự đảm bảo thay

thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến

cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm, bằng cách hình

thành và sử dụng quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao động

và người lao động từ hoạt động nghề nghiệp của họ bị giảm hoặc mất khả năng lao

động [29, tr.40].

Chính sách BHXH tốt đóng vai tr tích cực cho sự phát triển ổn định kinh tế

- xã hội, mang đến trạng thái an toàn về tinh thần, giảm bớt sự lo âu trước rủi ro, bất

trắc cho người được bảo hiểm; giảm sức ép đối với hệ thống phúc lợi xã hội; chính

sách BHXH bao gồm các chế độ hưu trí, mất sức lao động, ốm đau, thai sản, tại nạn

lao động, bệnh nghề nghiệp và tử tuất. Tuy nhiên, chế độ ốm đau lại được giải quyết

chủ yếu thông qua chính sách BHYT bắt buộc và số lượng tham gia không lớn, do

vậy vẫn có trụ cột thứ ba là BHYT với phạm vi rộng hơn so với BHYT bắt buộc.

Cấu phần BHXH bao gồm: BHYT, BHXH tự nguyện; BHXH bắt buộc; bảo hiểm

thất nghiệp [29, tr.35].

BHXH có các đặc điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi

ro giữa những người tham gia; đ i hỏi tất cả mọi người tham gia phải đóng góp tạo

nên một quỹ chung, các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp các “sự cố” và đủ

điều kiện để hưởng, chi phí cho các chế độ được chi trả bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ

được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia, thường là sự chia sẻ giữa

chủ sử dụng lao động và người lao động, với một phần tham gia của Nhà nước; đ i

hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng

của quỹ được đầu tư tăng trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ

BHXH; các chế độ được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không liên quan

đến tài sản của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ lệ với thu

16

nhập trước khi hưởng BHXH.

Ở nước ta, BHXH bắt buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà

người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia. BHXH tự nguyện là loại

hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng,

phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ

tiền đóng BHXH để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất [29].

Nguyên tắc BHXH: Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời

gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH; mức đóng

BHXH bắt buộc được tính trên cơ sở tiền lương tháng của người lao động; mức

đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập tháng do người lao động

lựa chọn. Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc, vừa có thời gian

đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thời

gian đã đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH đã được tính hưởng BHXH một lần thì

không tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ BHXH... [29].

- Bảo hiểm y tế:

BHYT là loại bảo hiểm do Nhà nước, hoặc do các công ty Bảo hiểm cung

cấp, được tổ chức quản lý chặt chẽ, nhằm huy động sự đóng góp của các cá nhân,

tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân

trong những trường hợp cần đến y tế khi gặp các vấn đề sức khỏe. BHYT là một

chính sách ASXH quan trọng do Nhà nước tổ chức thực hiện không nhằm mục đích

lợi nhuận. BHYT là một trong các hoạt động nhân đạo nhất của Nhà nước, cộng

đồng với mục đích chia sẻ rủi ro về mặt sức khỏe, thể hiện sự hỗ trợ tương thân,

tương ái “lá lành đùm lá rách” trong chăm sóc sức khỏe giữa người giàu với người

nghèo, giữa người đang thuận lợi về sức khỏe với người ốm đau và rủi ro về sức

khỏe, giữa người đang độ tuổi lao động với người già và trẻ trong xã hội.

Nguyên tắc BHYT là bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia

BHYT. Mức đóng BHYT được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền

công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành chính.

Mức hưởng BHYT theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi

của người tham gia BHYT. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT do quỹ BHYT và

người tham gia BHYT cùng chi trả. Quỹ BHYT được quản lý tập trung, thống nhất,

17

công khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu chi và được Nhà nước bảo hộ [29].

Chính sách của Nhà nước về BHYT: Nhà nước đóng hoặc hỗ trợ tiền đóng

BHYT cho người có công với cách mạng và một số nhóm đối tượng xã hội. Nhà

nước có chính sách ưu đãi đối với hoạt động đầu tư từ quỹ BHYT để bảo toàn và

tăng trưởng quỹ. Nguồn thu của quỹ và số tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư từ quỹ

BHYT được miễn thuế. Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia BHYT

hoặc đóng BHYT cho các nhóm đối tượng. Nhà nước khuyến khích đầu tư phát

triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến trong quản lý BHYT.

Nằm trong hệ thống ASXH nên BHYT cũng mang một mục đích sâu xa là

một nhân tố ổn định kinh tế vĩ mô vừa là nhân tố động lực cho sự phát triển kinh tế -

xã hội. BHYT là chính sách đóng góp ba bên (do Nhà nước, người sử dụng lao động

và người lao động cùng đóng góp). Với bất cứ đối tượng tham gia vào một tổ chức,

cơ quan sử dụng lao động nào thì đơn vị đó cũng phải có nghĩa vụ chi trả một phần

BHYT của người lao động, đó là quyền lợi đã được Nhà nước quy định rõ ràng. Hiện

nay, việc thực hiện chế độ BHYT được thực hiện theo Luật số 46/2014 về sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật BHYT đã được Quốc hội khóa 13 thông qua.

1.2.4. Chính sách xóa đói giảm nghèo

Xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm hỗ

trợ những vùng khó khăn vươn lên xóa đói giảm nghèo nhất là vùng sâu, vùng xa,

vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta

luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là

mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị xã hội, thể hiện

bản chất tốt đẹp của chế độ ta [13].

Chính sách xóa đói giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư đói nghèo nâng

cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần

trăm và số lượng người đói nghèo giảm xuống. Nói một cách khác, xóa đói giảm

nghèo là một quá trình chuyển một bộ phận dân cư đói nghèo lên một mức sống

cao hơn. Giảm nghèo bền vững là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có

khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất. Trên cơ sở

đó họ có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Xóa

đói, giảm nghèo luôn là mục tiêu xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội

18

của đất nước.

Các chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay như

sau: Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo; chính sách hỗ trợ sản xuất, cung

cấp dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chính sách dạy nghề, giải quyết

việc làm và xuất khẩu lao động cho người nghèo; chính sách hỗ trợ về nhà ở, đất

sản xuất và nước sinh hoạt cho hộ nghèo; chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế, về

giáo dục - đào tạo; chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo; chính sách trợ giúp

các đối tượng bảo trợ xã hội; chính sách hỗ trợ giảm nghèo đặc thù [8].

1.3. Vai trò và các yếu tố ảnh hƣởng đến thực hiện chính sách an sinh xã

hội ở Việt Nam

1.3.1. Vai trò của thực hiện chính sách an sinh xã hội

Vai trò của thực hiện chính sách ASXH thể hiện rõ qua hai khía cạnh:

Thứ nhất, vai trò đối với Nhà nước và cộng đồng: Chính sách ASXH là một

trong những hợp phần quan trọng trong chương trình xã hội của một quốc gia và là

một công cụ quản lý của Nhà nước. Qua đó giữ gìn sự ổn định về chính trị - kinh tế

- xã hội, giảm bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội và tạo sự đồng

thuận giữa các giai tầng, các nhóm xã hội trong quá trình phát triển. Thông qua cách

thức thiết kế và thực hiện chính sách ASXH còn cho thấy mô hình phát triển xã hội,

quan điểm lựa chọn đầu tư cho con người của mỗi Nhà nước.

Thứ hai, vai trò đối với các cá nhân và hộ gia đình: Chính sách ASXH cung

cấp cho những người bất hạnh, những người kém may mắn điều kiện và lực đẩy cần

thiết để khắc phục những “rủi ro”, nhanh chóng h a nhập vào cộng đồng. Đồng

thời, nó kích thích tính tích cực xã hội trong mỗi con người, kể cả những người giàu

và người nghèo, người may mắn và người kém may mắn, giúp họ hướng tới những

giá trị Chân -Thiện - Mỹ. Ngoài ra, nó c n được xem như là một giá đỡ đảm bảo thu

nhập, đảm bảo mức sống tối thiểu, bảo vệ giá trị cơ bản và là thước đo trình độ phát

triển của một quốc gia trong quá trình phát triển.

Chính sách ASXH có thể hỗ trợ cho các hộ gia đình “quản lý” được rủi ro và

có đủ năng lực vật chất để đương đầu được trong những giai đoạn khó khăn. Đồng

thời, chính sách ASXH còn hỗ trợ các hộ gia đình có điều kiện đầu tư tốt hơn cho

tương lai.

19

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách an sinh xã hội

- Thể chế chính sách về ASXH: Thể chế chính sách là trụ cột quan trọng của

hệ thống ASXH. Nội dung cơ bản của thể chế chính sách ASXH là xác định đối

tượng tham gia, đối tượng điều chỉnh với những tiêu chí, điều kiện cụ thể và cơ chế

xác định đối tượng theo một quy trình thống nhất; xác định các chính sách, các chế

độ đóng góp, thụ hưởng và những điều kiện ràng buộc nhất định về trách nhiệm

đóng góp, trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện chính sách,

chế độ đề ra. Cơ chế để tham gia các loại hình ASXH mà các quốc gia thường áp

dụng là bắt buộc hoặc tự nguyện nhưng có sự hỗ trợ của Nhà nước. Mỗi một cơ chế

cụ thể đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, việc vận dụng cơ chế nào là phụ thuộc

vào điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của từng quốc gia. Nếu chính

sách ASXH phù hợp với đ i hỏi của thực tiễn cuộc sống thì việc thực thi chính sách

ASXH sẽ thuận lợi, khả thi; ngược lại chính sách ASXH không phù hợp với đ i hỏi

của thực tiễn cuộc sống thì việc thực thi chính sách ASXH sẽ khó khăn, thậm chí

không khả thi, thiếu hiệu quả. Biểu hiện của sự không khả thi đó là chính sách xây

dựng có mức độ bao phủ hẹp, không đáp ứng đ i hỏi ngày càng cao của nhóm các

đối tượng yếu thế cần trợ giúp trong xã hội, không đảm bảo tính hệ thống, toàn

diện, cân đối giữa các bộ phận trong cấu trúc ASXH; không đồng bộ với kế hoạch

triển khai và địa bàn áp dụng thiếu các điều khoản giám sát và chế tài xử phạt;

không đảm bảo tính bền vững về tài chính [7, tr.48-56].

- Thể chế tổ chức bộ máy và cán bộ: Nhân tố này có vai trò quyết định trong

việc tổ chức các chính sách ASXH. Cho dù chính sách có tốt đến mấy đi chăng nữa

nhưng tổ chức thực hiện không tốt thì chính sách sẽ không đi vào cuộc sống. Do

vậy, việc thiết lập hệ thống tổ chức quản lý với đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp (từ

nhận thức, cơ cấu tổ chức, năng lực, phẩm chất, phương thức phối hợp) để thực hiện

có hiệu quả việc thực thi chính sách ASXH. Về nguyên tắc, có thể thiết lập hệ thống

tổ chức độc lập cho từng hợp phần, nhưng cũng có thể sử dụng bộ máy chính quyền

hiện có để thực hiện, tùy điều kiện cụ thể. Thể chế chính sách mang tính phổ cập thì

chi phí quản lý ít và bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ và ngược lại, thể chế phức tạp

thì chi phí quản lý tốn kém hơn. Nếu chủ thể thực thi chính sách (tổ chức, cơ quan,

cán bộ) triển khai không đúng kế hoạch, thiếu đồng bộ, không đúng đối tượng và

20

định mức, vụ lợi... sẽ làm giảm hiệu quả việc thực thi chính sách và giảm lòng tin

của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

- Nhận thức của xã hội và người dân: Sự phát triển của hệ thống ASXH phụ

thuộc vào nhận thức chung về ASXH của xã hội. Khi người lao động, người sử

dụng lao động và Nhà nước hiểu được tầm quan trọng của chính sách ASXH, từ đó

tự nguyện và tích cực tham gia thì hệ thống này mới có cơ hội phát triển và ngược

lại. Người dân là đối tượng thụ hưởng chính sách ASXH, nếu họ tự giác, tích cực,

chủ động, tự nguyện tham gia thì việc thực thi chính sách ASXH sẽ có hiệu quả,

bền vững; ngược lại nếu họ thờ ơ, thụ động, ỷ lại và thậm chí vụ lợi thì việc thực thi

chính sách ASXH sẽ không hiệu quả.

- Môi trường thực thi chính sách ASXH: Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên,

xã hội của mỗi địa phương, vùng, miền: Những địa phương, vùng, miền có vị trí,

điều kiện tự nhiên thuận lợi, người dân có hiểu biết và nhận thức về chính sách

ASXH thì việc thực thi chính sách ASXH thuận lợi, ngược lại nơi nào có vị trí, điều

kiện tự nhiên khó khăn, phong tục tập quán lạc hậu, người dân ít hiểu biết về chính

sách ASXH thì việc thực thi chính sách ASXH khó khăn. Trình độ phát triển kinh tế

của các địa phương, vùng, miền: Nếu địa phương nào có trình độ phát triển kinh tế

cao, nguồn lực tài chính mạnh, thu nhập của người lao động ổn định, mức độ thất

nghiệp thấp thì việc thực thi chính sách ASXH thuận lợi và ngược lại. Môi trường

chính trị: Nơi nào đảm bảo giữ vững ổn định xã hội trong quá trình phát triển thì

việc thực thi chính sách ASXH thuận lợi và nơi nào không giữ vững ổn định xã hội

thì việc thực thi chính sách ASXH khó khăn.

Tiểu kết chƣơng 1

ASXH là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện thiết yếu khác cho cá

nhân, gia đình và cộng đồng để trợ giúp các thành viên trong xã hội trước những rủi

ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm không ngừng nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mục đích của ASXH là tạo ra một

mạng lưới bảo vệ an toàn cho cộng đồng xã hội. Vì vậy, ASXH mang tính xã hội và

nhân văn sâu sắc. Trong chương 1, Khóa luận đã đi sâu vào tìm hiểu cơ sở lý luận

về thực hiện chính sách ASXH một cách toàn diện nhất. Ngoài cơ sở lý luận, nội

21

dung chương cũng đã nghiên cứu cơ sở thực tiễn ảnh hưởng đến việc thực hiện

chính sách ASXH. Việc hệ thống hóa và làm rõ các lý luận và cơ sở thực tiễn về

chính sách ASXH cũng như thực hiện các bước thực hiện chính sách ASXH có ý

nghĩa quan trọng, làm phong phú thêm cơ sở lý luận về vấn đề này. Đồng thời các

lý luận này là cơ sở để phân tích thực trạng thực hiện chính sách ASXH ở thành phố

Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.

22

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI

TẠI THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

2.1. Khái quát về thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

2.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân số, hành chính

Vị trí địa lý

Thành phố Phủ Lý nằm trên quốc lộ 1A, bên 2 bờ sông Đáy, có diện tích tự

nhiên là 87,87 km². Địa giới thành phố tiếp giáp: Đông giáp huyện Bình Lục, Tây

giáp huyện Kim Bảng, Nam giáp huyện Thanh Liêm, Bắc giáp thị xã Duy Tiên. Phủ

Lý cách Hà Nội 60 km về phía Nam, cách thành phố Nam Định 30 km về Phía Tây

Bắc và thành phố Ninh Bình 33 km về phía Bắc. Phủ Lý nằm trên quốc lộ 1A có

tuyến đường sắt Bắc Nam đi qua, là nơi gặp gỡ của ba con sông: Sông Đáy, sông

Châu Giang và sông Nhuệ, thuận tiện về giao thông thủy bộ.

Quá trình hình thành

Dưới thời Hậu Lê, vào khoảng năm 1624, Thượng thư Nguyễn Khải đã cho

chuyển thủ phủ Trấn Sơn Nam đến đóng ở thôn Châu Cầu thuộc Tổng Phù Đạm,

huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, Trấn Sơn Nam Thượng. Đến năm 1832, vua Minh

Mạng quyết định bỏ đơn vị trấn thành lập đơn vị hành chính Tỉnh, phủ Lỵ Nhân

được đổi là phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nội.

Đến tháng 10 năm 1890 (đời vua Thành Thái năm thứ 2), tỉnh Hà Nam được

thành lập trên cơ sở phủ Lý Nhân của tỉnh Hà Nội, tỉnh lị đặt tại thôn Châu Cầu,

huyện Kim Bảng (sau được chuyển thành thị xã Hà Nam).

Giai đoạn (1965 - 1966) tỉnh Nam Định sát nhập với Hà Nam thành tỉnh

Nam Hà sau đó sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Ngày 9 tháng

4 năm 1981, thị xã Hà Nam được tái lập. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1997, thực hiện

Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI, tỉnh Hà Nam được tái lập. Thị xã Phủ

Lý (đổi tên từ thị xã Hà Nam cũ) được xác định là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh.

Ngày 1 tháng 1 năm 2007, thị xã đã chính thức trở thành đô thị loại III và trở

thành thành phố trực thuộc tỉnh Hà Nam vào ngày 9 tháng 6 năm 2008 theo nghị định

72/2008/NĐ-CP của Chính phủ. Đây là sự kiện rất quan trọng, đánh dấu sự trưởng

thành của một thành phố trẻ đã từng chịu sự phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ

(1065-1972).

23

Ngày 4 tháng 12 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1678/QĐ-

TTg công nhận Thành phố Phủ Lý là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Hà Nam.

Dân số

Thành phố Phủ Lý có 193.762 nhân khẩu. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là

0,8%. Trên địa bàn Thành phố Phủ Lý có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên

chúa giáo, trong đó 8,8% dân số theo đạo Thiên Chúa.

Hành chính

Thành phố Phủ Lý có 21 đơn vị hành chính cấp phường trực thuộc, bao gồm

11 phường: Châu Sơn, Hai Bà Trưng, Lam Hạ, Lê Hồng Phong, Liêm Chính,

Lương Khánh Thiện, Minh Khai, Quang Trung, Thanh Châu, Thanh Tuyền, Trần

Hưng Đạo và 10 xã: Đinh Xá, Kim Bình, Liêm Chung, Liêm Tiết, Liêm Tuyền, Phù

Vân, Tiên Hải, Tiên Hiệp, Tiên Tân, Trịnh Xá.

2.1.2. Kinh tế - xã hội

Kinh tế

Về công nghiệp, thành phố có hai cụm công nghiệp bắc Thanh Châu và Châu

Sơn. Nền sản xuất nông nghiệp ở Phủ Lý theo hướng nông nghiệp sạch, nông

nghiệp sinh thái có hiệu quả cao và bảo vệ môi trường. Phát triển kinh tế trang trại

và các mô hình sản xuất VAC, nhất là trong chăn nuôi, coi đây là khâu đột phá để

thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa.

Về thương mại - dịch vụ - du lịch, Phủ Lý có lợi thế là đầu mối giao thông,

gần thủ đô Hà Nội - vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đủ điều kiện để phát triển tổng

hợp ngành kinh tế dịch vụ theo hướng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ sản

xuất và đời sống, đưa ngành dịch vụ thành ngành kinh tế quan trọng của Phủ Lý.

Cho tới năm 2010, có nhiều dự án làm thay đổi đáng kể bộ mặt thành phố,

trong đó có dự án khu thương mại dịch vụ một bên là bờ sông Đáy một bên là Quốc

lộ 1A. Khu thương mai dịch vụ này với nhiều tòa nhà cao tầng hiện đại (cao nhất là

dự án chung cư và văn ph ng cho thuê 25 tầng). Khu thương mại này là một điểm

nhấn về tính hội nhập và hiện đại của thành phố.

Cơ sở hạ tầng của Thành phố Phủ Lý được xây dựng đồng bộ và ngày càng

hoàn chỉnh nhất là về giao thông đô thị, cấp thoát nước, xử lý nước thải, rác thải,

xây dựng công viên cây xanh và các công trình phúc lợi công cộng.

Trên địa bàn thành phố có tổng số 122 dự án, công trình đã được đầu tư xây

dựng với tổng số vốn đầu tư trên 2.046,8 tỷ đồng. Đẩy mạnh tiến độ thực hiện các

24

dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị mới như: Khu đô thị mới Nam Lê Chân (diện

tích 68,7 ha, quy mô dân số 8000 người); khu đô thị Nam Trần Hưng Đạo (diện tích

21,3 ha, quy mô dân số 5.000 người); khu đô thị Đông sông Đáy (từ cầu Phú Hồng

đến cầu Đọ Xá, diện tích 75 ha); khu đô thị Liêm Chung dọc hai bên đường 21A

(diện tích 100 ha); khu đô thị Bắc Thanh Châu (diện tích 19,8 ha, quy mô dân số

3.500 người); khu đô thị Liêm Chính (diện tích 89,7 ha); khu đô thị Bắc Châu

Giang - Lam Hạ (diện tích 652 ha); khu đô thị Quang Trung - Lam Hạ (diện tích

252 ha); khu đô thị Châu Sơn (diện tích 41 ha); khu đô thị River Silk City Lam Hạ

(diện tích 126 ha).

Một số dự án lớn góp phần xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng đô thị như: Dự

án sân vận động trung tâm, Hành lang quốc lộ 1A và Đông, Tây sông Đáy, dự án hệ

thống thoát nước và xử lý nước thải, dự án nâng cấp hè đường, điện chiếu sáng và

cây xanh trong khu đô thị cũ, dự án kè hồ Chùa Bầu, dự án cải tạo hệ thống cáp

quang, cải tạo hệ thống lưới điện... đã và đang được thực hiện theo quy hoạch đầu

tư, làm chuyển biến bộ mặt đô thị, khang trang hiện đại hơn, trật tự đô thị có những

bước chuyển biến tích cực.

Xã hội

Các chính sách xã hội: Chế độ đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã

hội, BHXH được quan tâm đầy đủ, chu đáo; chương trình mục tiêu xoá đói giảm

nghèo, giải quyết việc làm thực sự được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể

quan tâm đầu tư, chỉ đạo, tạo ra hiệu quả lớn trong ổn định tình hình. Hàng năm,

thành phố đã giải quyết việc làm cho 3.500 - 4.000 lao động, trong đó có 60% lao

động được đào tạo nghề. Đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện cả vật

chất lẫn tinh thần.

Lĩnh vực giáo dục đào tạo: Được duy trì cả về số lượng và chất lượng. Với

phương châm 3 hoá (chuẩn hoá - xã hội hoá - hiện đại hoá), thành phố đã tập trung

đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất trường lớp, nâng cao chất lượng của các ngành

học, cấp học. Ngành giáo dục đào tạo của thành phố luôn là lá cờ đầu của ngành

giáo dục tỉnh Hà Nam. Hiện tại thành phố đã được công nhận phổ cập giáo dục tiểu

học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Thành phố đã có 16/32

trường chuẩn Quốc gia, cuối năm 2006 đã công nhận tiếp 02 trường chuẩn giai đoạn

1 và 01 trường chuẩn giai đoạn 2. Trên địa bàn thành phố đã có các trường Đại học

và Cao đẳng với chất lượng đội ngũ giảng viên được đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.

25

Sự nghiệp y tế: Mạng lưới y tế cơ sở được đầu tư thích đáng. Cùng với hệ

thống các bệnh viện lớn của tỉnh, thành phố đã tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang

thiết bị, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ y tế cơ sở. Đến nay đã có 02 trạm y tế

xã, phường được công nhận chuẩn quốc gia; 7/12 trạm y tế xã phường có bác sỹ để

chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Công tác kế hoạch hóa gia đình được

quan tâm, nhiều chiến dịch truyền thông dân số được tổ chức. Tỷ lệ phát triển dân

số tự nhiên của thành phố chỉ còn là 0,87% (mỗi năm giảm 4%o).

Công tác văn hóa thông tin - thể dục thể thao - đài truyền thanh: Thành phố

đã xây dựng trạm thu phát sóng FM, phủ sóng 100% các phường, xã. Phong trào

xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư đã đi sâu vào đời sống của nhân dân; 87%

gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hoá, 51% phố thôn, xóm văn hoá, 90% cơ quan

đơn vị trên địa bàn đạt cơ quan văn hoá. Công tác ph ng chống tệ nạn xã hội, quản

lý nhà nước về văn hoá được tăng cường.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện của Tỉnh uỷ,

Hội đồng nhân dân, UBND, các sở, ban, ngành của tỉnh và các ngành của Trung

ương, Đảng bộ và nhân dân thành phố Phủ Lý đã nỗ lực vượt qua thử thách, phấn

đấu giành nhiều thắng lợi trên các lĩnh vực: Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mang

tính chất đô thị, tập trung cho thương mại, dịch vụ, công nghệ - thông tin; cơ sở hạ

tầng được đầu tư theo quy hoạch, đáp ứng các tiêu chuẩn đô thị và phù hợp với điều

kiện phát triển của địa phương; công tác quản lý hành chính, quản lý nhà nước trên

các lĩnh vực được cải tiến theo hướng pháp quyền, tinh gọn, nâng cao hiệu lực quản

lý và điều hành. Năm 2018, thành phố Phủ Lý được Thủ tướng Chính phủ công

nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và được Chủ tịch nước tặng

thưởng Huân chương lao động hạng Ba.

2.2. Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý,

tỉnh Hà Nam

Thực hiện các chính sách ASXH, thành phố Phủ Lý đã kịp thời phổ biến,

quán triệt và áp dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà trực

tiếp nhất là của tỉnh Hà Nam: Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ

Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020; Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày 29/3/2013 của

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới bảo hiểm y tế toàn

dân; Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 26/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng

26

cường thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp phát triển đối tượng tham gia bảo

hiểm xã hội; Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Tỉnh uỷ về “tăng

cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế giai đoạn 2012 - 2020”; Chương trình hành động số 62-CTr/TU của tỉnh ủy Hà

Nam về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội; Kế hoạch 96/KH-UBND về thu thập

thông tin hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có người đang hưởng trợ cấp hàng tháng tại

cộng đồng; Quyết định 1549/QĐ-UBND về việc giao chi tiết kế hoạch đầu tư vốn

ngân sách trung ương hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở; Kế hoạch số

36/KH-UBND ngày 03 tháng 3 năm 2020 về tuyên truyền phát triển đối tượng tham

gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; Quyết định số 04/2020/QĐ-UBND của UBND

tỉnh Hà Nam về chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; Nghị quyết số

04/NQ-TW của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố về “Công tác đào tạo dạy nghề

cho lao động nông thôn giai đoạn 2016-2020”.

Trong phạm vi Khoá luận, tác giả tập trung phân tích thực trạng thực hiện 04

chính sách ASXH cơ bản: Chính sách bảo trợ xã hội, chính sách ưu đãi xã hội,

chính sách BHXH, BHYT, chính sách xóa đói giảm nghèo.

2.2.1. Chính sách bảo trợ xã hội

Công tác bảo trợ xã hội trong giai đoạn 2016 - 2020 đã có nhiều chuyển biến

tích cực. Đối tượng Bảo trợ xã hội thuộc diện trợ cấp hàng tháng trên địa bàn thành

phố quản lý gồm các nhóm đối tượng sau:

Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mồ côi cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi,

mất nguồn nuôi dưỡng, trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ, hoặc cha mẹ không đủ năng

lực, khả năng để nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật; trẻ em có cha và mẹ đang

trong thời gian chấp hành phạt tù tại trại giam, không c n người nuôi dưỡng;

Người có công là những người đã có công với đất nước như thương binh,

bệnh binh, thân nhân của liệt sĩ…;

Người đủ 80 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp BHXH; người

khuyết tật nặng không có khả năng lao động hoặc không có khả năng tự phục vụ,

thuộc gia đình hộ nghèo. Người cao tuổi cô đơn, thuộc hộ gia đình nghèo, người

cao tuổi có vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con cháu, người thân thích để

nương tựa, thuộc gia đình hộ nghèo theo chuẩn quy định;

Người thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, có mức thu nhập sống thấp hơn mức

thu nhập bình quân của thành phố.

27

Số lượng đối tượng hưởng chính sách bảo trợ xã hội được cụ thể trong

bảng sau:

Bảng 2.1: Số liệu các đối tượng thụ hưởng chính sách Bảo trợ xã hội

Số lƣợng STT Nhóm đối tƣợng thụ hƣởng (ngƣời)

1 Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn 2.976

2 Người có công 2.331

3 Người thuộc hộ nghèo, cận nghèo 5.368

4 Người cao tuổi dủ từ 80 tuổi trở lên 2.446

5 Người khuyết tật 173

(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)

Thành phố đã giải quyết trợ cấp xã hội hàng tháng cho hơn 13.000 đối tượng,

duyệt cấp 2.809 thẻ BHYT cho các đối tượng thuộc diện người có công, cấp 2.475

thẻ BHYT cho đối tượng thuộc hộ nghèo, 2.893 thẻ BHYT cho đối tượng thuộc hộ

cận nghèo. Tổ chức chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi nhân dịp Tết nguyên đán

cho 2.446 cụ với tổng kinh phí là 321.800.000 đồng. Trợ cấp khó khăn cho 1.400

xuất với kinh phí 420.000.000 đồng. Tổ chức cấp quà địa phương cho người thuộc

diện hộ nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhân dịp Tết nguyên đán cho

2.976 xuất với tổng kinh phí là 447.900.000 đồng. Phân bổ và cấp 23,140 tấn gạo

hỗ trợ dịp Tết nguyên đán và trong thời gian hạn hán cho các đối tượng nghèo, cận

nghèo, khó khăn đột xuất, đối tượng bảo trợ xã hội được nuôi dưỡng tại cộng đồng

và các đối tượng đang được các nhà thờ nuôi dưỡng.

Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý đã triển khai

thực hiện Nghị định 136/2013/NĐ-CP ra quyết định giải quyết trợ giúp xã hội cho

275 người từ đủ 80 tuổi, đơn thân nuôi con…; 173 đối tượng người khuyết tật; hỗ

trợ cho 30 gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng. Điều chỉnh trợ cấp cho 900

đối tượng bảo trợ xã hội theo đúng Nghị định. Thường xuyên xây dựng phương án

cứu trợ đột xuất trong mùa mưa bão, lũ lụt. Tổ chức Hội nghị phát động Tháng hành

động vì trẻ em, vận động quần chúng nhân dân trên địa bàn thành phố ủng hộ Quỹ

bảo trợ trẻ em.

2.2.2. Chính sách ưu đãi xã hội

Trong những năm gần đây, UBND thành phố, các ngành, đoàn thể trên địa

bàn thành phố Phủ Lý đã thường xuyên thăm hỏi, tặng quà động viên các gia đình

thương binh liệt sỹ, người có công với cách mạng. Hàng năm, nhân dịp các ngày lễ

28

tết, thành phố đã tổ chức các đoàn trao tặng 21.957 suất quà của Chủ tịch nước, quà

của UBND tỉnh, của UBND thành phố với tổng số tiền hơn 8,2 tỷ đồng; hàng tháng

việc chi trả trợ cấp cho các đối tượng luôn được đảm bảo nhanh, gọn, kịp thời; thực

hiện chế độ điều dưỡng, 3.419 người có công và 5.171 thân nhân người có công

được điều dưỡng tập trung và điều dưỡng tại nhà.

Về công tác vận động các đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân đóng góp xây dựng

Quỹ đền ơn đáp nghĩa thành phố được tăng dần từ năm 2016 đến năm 2020 để tổ

chức đi thăm hỏi, động viên, tặng quà. Kết quả như sau:

Bảng 2.2: Kết quả thực hiện chính sách Ưu đãi xã hội giai đoạn 2016 - 2020

Đơn vị STT Nội dung 2016 2017 2018 2019 2020 tính

Triệu Vận động quỹ 206 220 230 310 215 1 đền ơn đáp nghĩa đồng

Kinh phí sửa nhà Triệu

2 cho người có đồng 4.290 1.001 2.853 1.820 556

công

Trợ cấp mai tang Người 3 168 58 96 73 144

Quà tặng nhân Triệu 4 251.9 2.316 2.165 4.105 2.999 các dịp lễ đồng

Điều dưỡng đối Triệu 5 1.126 1.035 1.184 1.015 978 với người có công đồng

(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)

Dựa vào bảng kết quả trên, có thể thấy chính sách ưu đãi xã hội được thực

hiện rất triệt để trên địa bàn thành phố Phủ Lý.Vào dịp tháng 7 hàng năm và các dịp

Lễ tết, UBND thành phố Phủ Lý đã tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày thương

binh liệt sỹ với nhiều hoạt động có ý nghĩa như dâng hương tưởng niệm tri ân mộ

các anh hùng liệt sỹ; thăm hỏi tặng quà các gia đình chính sách, người có công, phối

hợp với các trường trung học phổ thông trên địa bàn luân phiên đến chăm sóc cây

cảnh và vệ sinh Nghĩa trang liệt sĩ được khang trang, sạch sẽ... Đây cũng là dịp để

nhân dân trong toàn thành phố bằng những hoạt động thiết thực thể hiện đạo lý

“Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.

Thực hiện Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg về việc hỗ trợ nhà ở cho đối

tượng người có công với cách mạng, trong giai đoạn 2016 - 2020, UBND thành phố

đã chỉ đạo tổ chức rà soát các hộ chính sách trên địa bàn và có tổng 3.253 hộ gia

đình có công với cách mạng bị hư hỏng nhà ở. Bằng nguồn vốn Ngân sách cấp và

29

nguồn Quỹ đền ơn đáp nghĩa, thành phố đã xây mới 352 nhà, sửa chữa 934 nhà.

Mỗi năm đều sẽ tổ chức điều dưỡng dã ngoại và điều dưỡng tại nhà cho đối tượng

người có công, kinh phí mỗi năm lên đến cả tỷ đồng. Tuy nhiên năm 2020, do ảnh

hưởng của dịch COVID-19 nên mọi nguồn kinh phí đều bị giảm so với năm trước.

Nhờ sự quan tâm thiết thực đó, nhiều gia đình thương binh, bệnh binh, gia

đình liệt sỹ và người có công với cách mạng, đã sống gương mẫu, tận tâm, tận lực

cống hiến phần sức lực còn lại cho công cuộc đổi mới của thành phố, đồng thời góp

phần vào việc làm rạng rỡ thêm lời dạy của Bác Hồ “tàn nhưng không phế”, tiếp tục

phát huy truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.

2.2.3. Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế

BHXH và BHYT là hai chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là trụ cột

chính của hệ thống ASXH, góp phần ổn định đời sống của nhân dân, thực hiện tiến

bộ và công bằng xã hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Xác định tầm

quan trọng của chính sách BHXH, BHYT, thời gian qua, UBND thành phố đã quan

tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân triển khai thực

hiện công tác BHXH, BHYT trên địa bàn.

Ngay sau khi Luật BHXH số 58/2014/QH13 được ban hành, Thành uỷ, Hội

đồng nhân dân, UBND thành phố Phủ Lý đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực

hiện tốt công tác phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương, Chỉ thị Nghị quyết

của Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước và các văn bản chỉ đạo triển khai của

Tỉnh ủy, UBND tỉnh. Cụ thể là triển khai Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22 tháng

11 năm 2012 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22 tháng 4 năm 2013 của

Tỉnh uỷ về “tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác BHXH,

BHYT giai đoạn 2012 - 2020”. Công tác triển khai quán triệt được tổ chức bằng

nhiều hình thức như được học tập tại hội trường của UBND thành phố, truyền hình

trực tiếp các lãnh đạo thường trực Thành ủy giảng các chuyên đề của các Chỉ thị,

Nghị quyết.

Trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch của UBND tỉnh giao, UBND thành phố đã xây

dựng Chương trình công tác trọng tâm, tuyên truyền chính sách BHXH, kế hoạch

kiểm tra công tác thực hiện Luật BHXH, BHYT của các đơn vị sử dụng lao động

trên địa bàn. Xây dựng kế hoạch tuyên truyền trọng tâm về BHYT hộ gia đình để

mở rộng đối tượng theo Kế hoạch của tỉnh giao cho giai đoạn 2016 - 2020. UBND

thành phố ban hành quyết định giao chỉ tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH,

BHYT cho các phường, xã trên địa bàn thành phố. Đặc biệt, ngày 23 tháng 11 năm

30

2018, đã ban hành Kế hoạch số 157/KH-UBND về thực hiện Nghị quyết số

125/NQ-CP; Chương trình hành động số 62-CTr/TU của tỉnh ủy Hà Nam về cải

cách chính sách BHXH; Kế hoạch số 36/KH-UBND ngày 03 tháng 3 năm 2020 về

tuyên truyền phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT năm 2020.

* Bảo hiểm xã hội

UBND thành phố chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về BHXH, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận

thức và hành động của các cơ quan, tổ chức, công dân về BHXH, BHYT; đặc biệt

giao Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội và BHXH thành phố phối hợp Đài

truyền thanh thành phố tuyên truyền và triển khai thực hiện tốt hoạt động tuyên

truyền về Luật BHXH bằng nhiều hình thức, đa dạng, phong phú đạt hiệu quả cao.

Hàng năm, UBND thành phố giao cho Ph ng Lao động - Thương binh và Xã

hội và BHXH thành phố đẩy mạnh công tác phối, kết hợp với các ban, ngành, đoàn

thể, các cấp chính quyền trên địa bàn trong công tác tuyên truyền chính sách

BHXH, thực hiện Luật BHXH, phối hợp liên ngành thực hiện kiểm tra các doanh

nghiệp ngoài quốc doanh trong việc chấp hành Luật BHXH.

Bảng 2.3: Số đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội theo loại hình quản lý

STT Loại hình quản lý Năm 2016 (ngƣời) Năm 2017 (ngƣời) Năm 2018 (ngƣời) Năm 2019 (ngƣời) Năm 2020 (ngƣời)

1 Doanh nghiệp nhà nước 227 213 196 170 172

2 2737 3108 3494 3478 3288

3 7189 8295 10128 11566 10800

4 3343 3239 3334 3328 3330

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Đảng, đoàn thể, lực lượng vũ trang 5 Ngoài công lập 9 6 5 0 2

6 0 0 0 0 0

Lao động có thời hạn ở nước ngoài 7 Người nước ngoài 0 0 0 22 63

(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)

Tỷ lệ số người tham gia BHXH trong cùng một loại hình quản lý qua các

năm có sự biến đổi nhẹ. Loại hình có tỷ lệ số người tham gia BHXH nhiều nhất là

doanh nghiệp ngoài quốc doanh, có tỷ lệ người tham gia tăng đều. Đặc biệt từ ngày

31

01/01/2018 mở rộng thêm đối tượng công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt

Nam và lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng đã đảm bảo quyền

lợi, tạo sự công bằng giữa những người tham gia BHXH.

Kết quả thực hiện chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH hằng năm:

Từ năm 2016 đến nay, UBND thành phố đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn

thực hiện có hiệu quả Luật BHXH đặc biệt là một số chế độ, quy định mới được bổ

sung từ Luật năm 2014. Cụ thể: Người bị bệnh cần chữa trị dài ngày hưởng tối đa

180 ngày, sau đó nếu tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức

thấp hơn (không được bù đủ tiền lương cơ sở); thời gian hưởng tối đa bằng thời

gian đã đóng BHXH; mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày tăng lên; đối với chế độ

nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản được quy định một mức

hưởng chung cho một ngày bằng 30% mức lương cơ sở.

Về chế độ thai sản có nhiều điểm mới theo hướng có lợi cho người lao động:

Quy định lao động nam có đóng BHXH được nghỉ thai sản khi vợ sinh con với thời

gian từ 5 đến 14 ngày làm việc tùy theo số con được sinh và cách thức sinh con; có

quy định hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ

mang thai hộ; nếu người vợ không tham gia đóng BHXH hoặc đóng BHXH chưa đủ

điều kiện khi nghỉ thai sản thì người chồng mà có tham gia BHXH được hưởng trợ

cấp một lần bằng hai tháng lương cơ sở; chế độ hưu trí cũng được sửa đổi, bổ sung

nhiều nhất hướng đến đảm bảo công bằng (trong đó có bình đẳng giới).

Về chế độ tử tuất: Nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi cho thân nhân của người

lao động, Luật bổ sung quy định cho phép thân nhân người lao động đủ điều kiện

hưởng trợ cấp tử tuất hàng tháng được lựa chọn hưởng trợ cấp tử tuất một lần, trừ

trường hợp có thân nhân là con dưới 6 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà bị suy giảm

khả năng lao động từ 81% trở lên. Ngoài ra, mức trợ cấp tử tuất một lần cũng được

tăng từ 1,5 tháng lên 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH mỗi

năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi. Đặc biệt đối với người tham gia BHXH tự

nguyện từ ngày 01/01/2018 được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng theo tỷ lệ phần trăm

trên mức đóng BHXH hằng tháng theo mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn.

Cụ thể: Bằng 30% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ nghèo; bằng

25% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ cận nghèo; bằng 10% đối

với các đối tượng khác, thời gian hỗ trợ tùy thuộc vào thời gian tham gia BHXH tự

nguyện thực tế của mỗi người nhưng không quá 10 năm (120 tháng)… Việc Nhà

nước hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện, dù mức hỗ trợ này còn khiêm tốn nhưng

32

cũng đã tạo sức hút để người dân tham gia BHXH tự nguyện.

Về quy trình, thủ tục hồ sơ: Được thực hiện nghiêm túc, đơn giản, tạo điều

kiện thuận lợi nhất cho đơn vị sử dụng lao động và người dân. Quá trình tiếp nhận

hồ sơ và giải quyết thủ tục hành chính về BHXH không yêu cầu phát sinh thêm thủ

tục. Từ 01/01/2017 các tổ chức, cá nhân đến giao dịch với cơ quan BHXH hoàn

toàn không phải trả bất cứ loại phí, lệ phí nào. Các tổ chức, cá nhân chỉ cần giao

dịch tại một đầu mối là bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan BHXH để

được hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và nhận kết quả.

Các trung tâm hành chính giải quyết tại BHXH thành phố hay liên thông đều

đảm bảo giải quyết nhanh chóng, thuận tiện và đúng thời gian quy định. Một số thủ

tục giải quyết chế độ chính sách đã giảm từ 30% đến 50% thời gian so với trước

đây, đối với thủ tục cấp lại thẻ BHYT do mất, hỏng thì thực hiện ngay trong ngày,

đối với hồ sơ giải quyết chế độ hưu trí, tử tuất, chế độ ngắn hạn, giải quyết trợ cấp

BHXH một lần, cấp sổ BHXH đảm bảo giải quyết và trả kết quả đúng hoặc trước

thời gian quy định.

Tình trạng hưởng BHXH một lần:

Từ năm 2016 đến 30/9/2019, trên địa bàn thành phố có 2.121 người hưởng

BHXH một lần - một con số tương đối lớn. Thực trạng này không có xu hướng

giảm mà ngày càng gia tăng trong số đó có rất nhiều lao động hơn 35 tuổi trong các

doanh nghiệp do bị mất việc nên hưởng BHXH một lần. Để hạn chế tình trạng này,

BHXH thành phố Phủ Lý đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn cho người dân

và người lao động, giúp họ nắm bắt được quyền lợi khi tham gia BHXH để hưởng

lương hưu là vượt trội, thể hiện đúng bản chất nhân văn của chính sách, tự nhận

thức thấy việc hưởng BHXH một lần là không nên, bảo lưu thời gian đóng sau khi

có điều kiện tiếp tục tham gia BHXH để được đảm bảo ASXH khi về già.

Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH thường xuyên: Hiện nay, BHXH

thành phố đang quản lý, chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH thường xuyên cho 12.600

người. Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng được thực hiện an

toàn qua hệ thống Bưu điện và qua tài khoản ngân hàng. Thủ tục hành chính trong

lĩnh vực chi trả đơn giản, tạo thuận lợi cho người thụ hưởng, đảm bảo an toàn về

tiền mặt.

- Năm 2016: Chi trả cho 12.322 người với số tiền là 473,95 tỷ đồng. Chi đối

tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 715.631.457 đồng.

- Năm 2017: Chi trả cho 12.437 người với số tiền là 482,46 tỷ đồng. Chi đối

33

tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,41 tỷ đồng.

- Năm 2018: Chi trả cho 12.596 người với số tiền là 531 tỷ đồng. Chi đối

tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,8 tỷ đồng.

- Năm 2019: Chi trả cho 12.712 người với số tiền là 432,48 tỷ đồng. Chi đối

tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,78 tỷ đồng.

- Năm 2020: Chi trả cho 12.299 người với số tiền là 450,28 tỷ đồng. Chi đối

tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,22 tỷ đồng.

Công tác chi trả các chế độ BHXH: BHXH đang thực hiện chi trả các chế độ

BHXH bằng các hình thức: Chi trả trực tiếp, chi trả qua bưu điện và chi trả qua tài

khoản ngân hàng. Trong đó, hình thức chi trả qua bưu điện đóng vai tr chủ đạo.

Trong những năm qua, công tác phối hợp giữa hai ngành đã có những bước phát

triển đáng kể, đã xây dựng những giải pháp nâng cao hiệu quả trong tổ chức thực

hiện, đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH, BHYT.

* Bảo hiểm y tế

BHYT là một trong những trụ cột chính của hệ thống ASXH, góp phần ổn

định đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ổn định chính trị,

phát triển kinh tế - xã hội. Xác định tầm quan trọng của BHYT nói chung và BHYT

dành cho đối tượng chính sách nói riêng. Thời gian qua UBND thành phố đã luôn

quan tâm, chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và nhân dân triển khai thực hiện

trên địa bàn thành phố.

UBND thành phố chỉ đạo ngành Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp

với ngành BHXH tham mưu để ban hành văn bản hướng dẫn việc rà soát, lập danh

sách và cấp thẻ BHYT theo hướng dẫn quy định tại Thông tư 30/2019/TT-

BLĐTBXH. Phối hợp với ngành BHXH tổ chức tập huấn cho các phòng nghiệp vụ

của BHXH và cán bộ phụ trách công tác BHYT cấp thành phố và cấp xã phường.

UBND thành phố Phủ Lý đã đề nghị ngành BHXH cấp thẻ BHYT không quá

5 ngày kể từ ngày nhận đủ danh sách cấp thẻ BHYT theo đúng quy định; cấp lại và

đổi thẻ ngay trong ngày khi nhận đủ hồ sơ theo quy định; chuyển trả thẻ BHYT kèm

theo danh sách về UBND các phường, xã thông qua dịch vụ Bưu chính công ích để

chuyển thẻ BHYT đến tận tay người tham gia BHYT kịp thời. Thực hiện nghiêm túc

quy chế phối hợp số 1726/QCPH/BHXH-STP ngày 13/11/2020 của BHXH tỉnh Hà

Nam và Sở Tư pháp tỉnh Hà Nam thực hiện kết nối liên thông dữ liệu đăng kí khai

sinh để cấp BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi, giáo dục pháp luật về BHXH, BHYT. Trên

địa bàn thành phố Phủ Lý đã triển khai cấp BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi thông qua

34

hình thức liên thông đạt được hiệu quả cao, thẻ BHYT luôn được cấp kịp thời, nhanh

chóng và thuận tiện.

Bảng 2.4: Tỷ lệ các nhóm đối tượng tham gia Bảo hiểm y tế

STT Tên nhóm Tỷ lệ (%)

1 Cán bộ, công chức, viên chức 100

2 Hưu trí, người có công 100

3 Học sinh 100

4 Hộ nghèo, cận nghèo 56

5 Trẻ em dưới 6 tuổi 100

6 Đối tượng tự nguyện tham gia 25

(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)

Qua kết quả ở bảng 2.4, nhóm đối tượng cán bộ, công chức, viên chức; hưu

trí, người có công; học sinh; trẻ em dưới 6 tuổi tham gia BHYT 100%, cho thấy

công tác tuyên truyền, phổ biến về chính sách BHYT đã được triển khai thực hiện

một cách hiệu quả. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế nên nhóm đối tượng hộ nghèo,

cận nghèo và nhóm đối tượng tự nguyện tham gia chưa tham gia đầy đủ.

2.2.4. Chính sách xóa đói giảm nghèo

UBND thành phố Phủ Lý tiếp tục thực hiện đồng bộ, toàn diện và hiệu quả

các chương trình xóa đói giảm nghèo nhằm tạo cơ hội để hộ nghèo, hộ cận nghèo

tự lực vượt nghèo thông qua chính sách trợ giúp tín dụng ưu đãi, dạy nghề. Đây

là nhiệm vụ lâu dài, là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng

bền vững.

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, các chính sách xóa đói giảm nghèo được

triển khai đồng bộ ở tất cả các xã, phường đã cải thiện đáng kể tình trạng nghèo đói

ở thành phố. Những nỗ lực trên đã góp phần làm giảm nhanh tỷ lệ nghèo đói của

thành phố.

Bảng 2.5: Hộ nghèo, hộ cận nghèo từ năm 2016 đến năm 2020

Năm

2016 2017 2018 2019 2020 Tổng số hộ nghèo 1494 1095 755 680 814 Tỷ lệ hộ nghèo (%) 3,4 2,66 1,5 0,9 1,73 Tổng số hộ cận nghèo 1554 1266 1280 925 1147 Tỷ lệ hộ cận nghèo (%) 2,85 2,2 2,31 1,63 2,43

(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)

35

Trong giai đoạn từ năm 2016 - 2020, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 3,4% (năm

2016) xuống c n 1,73% (năm 2020); tỷ lệ hộ cận nghèo cũng giảm từ 2,85% (năm

2016) xuống 2,43% (năm 2020) theo đúng tiêu chí. Năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo và tỷ

lệ hộ cận nghèo giảm xuống thấp nhất trong cả giai đoạn. Tuy nhiên, do đại dịch

COVID-19 nên tỉ lệ hộ nghèo và cận nghèo năm 2020 đã tăng 0,83% (hộ nghèo) và

tăng 0,8% (hộ cận nghèo). Tỷ lệ hộ nghèo và hộ cận nghèo hàng năm giảm khá

mạnh, tuy nhiên lại chưa bền vững, tốc độ giảm nghèo chưa đồng đều.

ASXH của thành phố đã có sự thay đổi đáng kể, chất lượng cuộc sống của

người dân được nâng lên, nhất là các hộ nghèo, cận nghèo. Nhiều chính sách tạo cơ

hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội cơ bản được thực

hiện như lập quỹ vì người nghèo, huy động nguồn lực xóa nhà ở tạm bợ... Đặc biệt,

thành phố duy trì quản lý quỹ “Quốc gia hỗ trợ việc làm” để hỗ trợ người dân trong

vấn đề việc làm. Xây dựng Kế hoạch đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa

bàn thành phố, phối hợp với Trung tâm đào tạo nghề của Hội Nông dân tỉnh triển

khai 6 lớp đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn tại các phường, xã trực

thuộc thành phố: Tiên Tân (2 lớp), Quang Trung, Liêm Chính, Liêm Tiết, Liêm

Chung với tổng số 280 học viên.

Để xóa đói giảm nghèo, thành phố cũng áp dụng nhiều chính sách hỗ trợ như

chính sách tín dụng, hỗ trợ giáo dục dạy nghề, hỗ trợ giải quyết việc làm…

- Về chính sách tín dụng (vay vốn sản xuất kinh doanh ở Ngân hàng chính

sách): Doanh số cho vay trong 5 năm (2016-2020) là: 549.682 triệu đồng với

27.118 hộ, bình quân mỗi hộ vay khoảng 20 triệu đồng:

Bảng 2.6: Tín dụng cho hộ nghèo ở thành phố Phủ Lý giai đoạn 2016 - 2020.

Đơn vị Năm Năm Năm Năm Năm Chỉ tiêu Tổng tính 2016 2017 2018 2019 2020

Doanh số cho Triệu 167.635 128.990 98.460 81.886 72.891 549.682 vay đồng

Số lượt hộ vay Lượt 8.237 6.192 4.928 4.119 3.642 27.118 vốn hộ

Triệu Mức cho vay 20,35 20,83 19,98 19,88 20,01 20,21 đồng

(Nguồn: Ngân hàng chính sách thành phố Phủ Lý)

36

- Về hỗ trợ giáo dục dạy nghề, giải quyết việc làm: Số lượng lao động qua

đào tạo nghề tăng đều hàng năm, chỉ tiêu đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên

địa bàn thành phố đều thực hiện đạt và vượt kế hoạch đề ra. Các ngành, nghề đào

tạo từng bước thay đổi để phù hợp với nhu cầu của người lao động, nhiều lao động

sau khi được đào tạo đã phát huy, vận dụng kiến thức lao động sản xuất, tăng thu

nhập và cải thiện cuộc sống, góp phần giảm nghèo bền vững. Cụ thể:

Bảng 2.7: Số lao động nông thôn được đào tạo nghề trong giai đoạn 2016 - 2020

Nghề học và địa điểm của lớp học Năm Số lớp Số học viên

2016 08 224

2017 08 205

2018 07 245

2019 11 355

2020 06 205

- 07 lớp may tại: + Phường: Liêm Chính, Lê Hồng Phong, Quang Trung. + Xã: Kim Bình, Đinh Xá, Tiên Hải, Liêm Chung. - 01 lớp trồng rau an toàn tại xã Đinh Xá. - 06 lớp may tại: + Phường: Quang Trung, Liêm Chính. + Xã Liêm tiết, Liêm Chung, Tiên Tân (02 lớp). - 01 lớp trồng rau, 01 lớp nuôi gà an toàn tại xã Đinh Xá. - 04 lớp may công nghiệp tại: + Phường: Liêm Chính (02 lớp). + Xã: Tiên Tân (01 lớp), Liêm Chung (01 lớp). - 03 lớp chăn nuôi lợn tại xã Tiên Tân, Tiên Hải, Liêm Chung - 03 lớp kỹ thuật chế biến món ăn tại phường Liêm Chính và xã Tiên Tân (02 lớp). - 01 lớp trồng lúa năng suất cao tại xã Kim Bình. - 01 lớp trồng rau an toàn tại xã Tiên Tân. - 01 lớp chăn nuôi gà tại xã Tiên Tân. - 04 lớp kỹ thuật chăn nuôi và ph ng bệnh cho lợn tại xã: Kim Bình, Tiên Tân, Đinh Xá, Trịnh Xá. - 01 lớp may công nghiệp tại phường Liêm Chính. - 01 lớp trồng rau an toàn tại phường Thanh Tuyền. - 01 lớp nuôi và trị bệnh cho lợn tại phường Lam Hạ. - 01 lớp kỹ thuật chế biến món ăn tại xã Liêm Chung. - 02 lớp trồng rau an toàn tại xã Tiên Tân.

(Nguồn: Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý)

37

Số lao động được giải quyết việc làm sau học nghề đạt 90%. Tỷ lệ lao động

qua đào tạo nghề đến năm 2020 đạt 77%. Trong 5 năm, tổng số người có việc làm

mới là 19.503 người, cụ thể: Năm 2016 có 3.673 người, năm 2017 có 4.100 người,

năm 2018 có 4.565 người, năm 2019 có 5.300 người, năm 2020 có 5.538 người. Tổng

số người có việc làm thêm trong 5 năm là 28.458 người. Cụ thể: Năm 2016 có 4.487

người, năm 2017 có 4.950 người, năm 2018 có 5.621 người, năm 2019 có 6.495

người, năm 2020 có 6.905 người.

Qua đó có thể thấy việc hỗ trợ giáo dục, hỗ trợ việc làm rất hiệu quả, đã giải

quyết được vấn đề việc làm cho rất nhiều người dân lao động trên địa bàn thành

phố. Điều đó góp phần làm giảm nghèo bền vững, tăng thu nhập, cải thiện đời sống

vật chất phù hợp với nhu cầu của người lao động.

2.3. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở thành phố

Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

2.3.1. Những kết quả đạt được

Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Hội đồng nhân dân,

UBND thành phố, Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý

trong thực hiện chính sách ASXH đã thể hiện tính thường xuyên, nghiêm túc và

hiệu quả. Các chính sách ASXH cơ bản thực hiện tốt đảm bảo đầy đủ, kịp thời,

đúng đối tượng, không có đơn khiếu nại vượt cấp trong giải quyết chính sách góp

phần làm ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội địa phương.

Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu cho UBND thành

phố Phủ Lý thực hiện thăm hỏi tặng quà các đối tượng chính sách hưởng ưu đãi xã

hội, chủ động và tích cực trong việc thực hiện kế hoạch tổ chức điều dưỡng dã

ngoại và tập trung mỗi năm. Từng hộ gia đình người có công sau khi kiểm tra, xem

xét hoàn cảnh sẽ được thực hiện việc sửa chữa nhà ở. Các hộ gia đình được hỗ trợ

đã ý thức được ý nghĩa của nguồn hỗ trợ, đã chủ động huy động thêm vốn từ gia

đình và có những ý tưởng hay trong việc sửa chữa nhà ở, qua đó đáp ứng được yêu

cầu về chất lượng nhà ở. Kết quả sửa chữa, xây mới nhà ở cho gia đình người có

công đều hoàn thành trước thời gian và vượt so với kế hoạch đề ra. Để có được kết

quả này, các cấp, các ngành toàn thành phố đã vào cuộc một cách khẩn trương hoặc

có những cách làm sáng tạo để có nguồn tiền thực hiện các công trình. Cụ thể là các

phường xã đã nắm chắc từng hộ gia đình, hướng dẫn cụ thể, theo dõi sát tiến độ sửa

chữa, xây dựng và ứng kinh phí kịp thời. Nguồn kinh phí thực hiện từ thành phố

38

đến địa phương đã chủ động vận dụng ứng ngân sách, đáp ứng kịp thời cho các hộ

gia đình triển khai trong lúc các đơn vị chưa vận động kịp.

Việc trợ giúp thường xuyên đối với người có hoàn cảnh đặc thù và trợ cấp

đột xuất cho người dân khi gặp các rủi ro không lường trước như mất mùa, thiên tai,

đói nghèo… thông qua các khoản tiền mặt hoặc hiện vật từ ngân sách Nhà nước

được đặc biệt quan tâm và thực hiện kịp thời. Thường xuyên tổ chức cấp gạo cứu

trợ người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo mỗi người 15 kg gạo. Cứu trợ những

đối tượng lang thang đưa vào trung tâm công tác xã hội tỉnh.

Từ năm 2016 đến nay, về thực hiện chính sách BHXH, BHYT, UBND thành

phố đã triển khai nhiều biện pháp tuyên truyền phát triển đối tượng tham gia BHXH,

BHYT, do đó số người tham gia BHXH bắt buộc hàng năm đều hoàn thành đạt và vượt

mức chỉ tiêu được giao. Luật BHXH số 58/2018/QH13 ngày 20/11/2014 ban hành đã

mở rộng thêm nhiều đối tượng làm tăng độ bao phủ tham gia BHXH. Các cơ quan

quản lý Nhà nước về BHYT đã chủ động tham mưu thực hiện hiệu quả và có những

giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực có thể gây thất thoát quỹ.

Mạng lưới đại lý thu BHYT trên địa bàn thành phố phát triển rộng khắp. Công tác cải

cách thủ tục hành chính góp phần làm giảm thời gian làm các thủ tục, hồ sơ về thẻ

BHYT và khám chữa bệnh bằng thẻ.

Công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn thành phố đã thực sự đi vào đời

sống và huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các

tổ chức chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, sự tham gia của các tầng lớp nhân dân

và của chính người nghèo, người lao động. Các lớp học nghề được mở ra góp phần

mở rộng ngành nghề cho người lao động, giảm bớt được tình trạng thất nghiệp, tăng

thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động.

Các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực thi các chính sách trên địa bàn đã

tiến hành thường xuyên, các cơ quan có thẩm quyền đã giám sát chặt chẽ việc thực

hiện các chính sách ASXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý.

2.3.2. Những hạn chế tồn tại

Việc thực hiện ASXH trên địa bàn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã đạt

được nhiều kết quả tốt đáng khích lệ, góp phần thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Tuy

nhiên, công tác thực hiện vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế, khuyết điểm cần được

nhìn nhận và khắc phục trong thời gian tới. Những hạn chế đó là:

- Trong chính sách ưu đãi xã hội, bảo trợ xã hội thể hiện ở:

Nguồn kinh phí còn hạn chế chưa đáp ứng đủ để thực hiện một số nhiệm vụ

39

chuyên môn. Nguồn lực thực hiện chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước, chưa thu hút

được nhiều sự tham gia của xã hội và khuyến khích người được thụ hưởng chính sách

tự vươn lên.

Việc giải quyết chính sách cho đối tượng thụ hưởng có nơi, có lúc chưa kịp

thời. Hồ sơ giải quyết mai táng phí của đối tượng người có công, có thể sai lệch về

năm sinh, tên tuổi giữa hồ sơ kê khai khen thưởng huân, huy chương với chứng

minh nhân dân và hộ khẩu.

Công tác chăm lo đời sống người có công vẫn còn một số khó khăn, tồn tại

như: Việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đối

với người có công chưa thực sự hiệu quả; việc hướng dẫn và xác lập hồ sơ đề nghị

hưởng chế độ ưu đãi ở một số phường, xã còn chậm; trên địa bàn thành phố vẫn còn

nhiều gia đình chính sách, người có công có cuộc sống khó khăn khi ốm đau, bệnh

tật, nhà ở xuống cấp, cá biệt còn một số trường hợp chưa được hưởng đầy đủ các

chính sách ưu đãi theo quy định.

Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chế độ chính sách và công tác chi trả

trợ cấp cho đối tượng chưa thường xuyên.

- Trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT nhận thấy các vấn đề sau:

Vẫn còn tình trạng lợi dụng chính sách, giấy tờ để trục lợi quỹ BHXH, bảo

hiểm thất nghiệp.

Một số doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ các quy định của luật BHXH

như không đóng, đóng không đúng thời gian quy định, đóng không đủ số người

thuộc diện tham gia BHXH; có những đơn vị còn tình trạng nợ BHXH kéo dài; thực

hiện việc đóng BHXH cho người lao động không đúng với mức tiền lương trong

hợp đồng lao động; việc nâng lương theo thời hạn cho người lao động không đúng

thời gian quy định đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người lao động.

Đối tượng thụ hưởng chính sách bảo hiểm đông, có đối tượng được hưởng một

mã thẻ, có đối tượng được hưởng hai, ba mã thẻ nên rất khó khăn trong việc quản lý

cấp thẻ.

Đối với việc tăng đối tượng tham gia BHYT tại một số đơn vị chưa thực hiện

cung cấp đầy đủ các thông tin tra cứu mã bảo hiểm hoặc cung cấp thông tin nhưng

còn thiếu nên dẫn đến tình trạng cấp trùng thẻ BHYT, thời gian phát hành thẻ

BHYT cho một số đối tượng chưa kịp thời.

- Công tác giải quyết việc làm ở thành phố Phủ Lý trong thời gian qua còn

40

nhiều bất cập, cụ thể: Số lượng người được học nghề, đào tạo nghề cho lao động

nông thôn nhiều song cơ hội tìm kiếm việc làm còn rất khó khăn; một số lao động

không chịu khó, không có ý thức trong lao động, muốn làm việc nhẹ, lương cao

nhưng bản thân không đảm bảo về điều kiện bằng cấp và tay nghề, đồng thời ý thức

về kỷ luật lao động còn kém. Bên cạnh đó, do đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo

dạy nghề, lao động - việc làm các cấp còn thiếu về số lượng, chất lượng chuyên môn.

Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể trong triển khai thực hiện nhiệm

vụ đào tạo dạy nghề còn thiếu chặt chẽ đồng bộ, chưa thực sự tạo được sức mạnh

tổng hợp trong công tác đào tạo dạy nghề. Nhận thức của nhân dân chưa thực sự hiểu

được tầm quan trọng của việc học nghề.

- Về trình độ chuyên môn, năng lực thực hiện chính sách của cán bộ:

Năng lực thực hiện chính sách ASXH của đội ngũ cán bộ các cấp là rất quan

trọng. Tuy nhiên, vẫn còn một số cán bộ đi ngược lại với chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước, chậm chi trả hoặc trả không đúng đối tượng được hưởng; không

bám địa bàn để tìm hiểu đời sống của nhân dân; đùn đẩy trách nhiệm trong giải

quyết các chế độ thụ hưởng của người dân.

Công tác tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ phường, xã về chế

độ chính sách còn hạn chế. Trình độ chuyên môn của cán bộ cấp cơ sở còn yếu nên

gặp nhiều khó khăn trong giải quyết, tiếp nhận hồ sơ, giải thích về chế độ chính

sách cho đối tượng. Mặt khác, việc bố trí cán bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

tại các đơn vị phường, xã không ổn định, mất nhiều thời gian hướng dẫn về chuyên

môn nghiệp vụ.

2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế

Những hạn chế của công tác ASXH tại thành phố Phủ Lý xuất phát từ nhiều

nguyên nhân khác nhau, trong đó xuất phát từ một số nguyên nhân chính như sau:

Một là, chủ trương, chính sách của Đảng bộ, chính quyền thành phố Phủ Lý

về thực hiện ASXH cho người dân (nhất là người dân thuộc hộ nghèo, hộ cận

nghèo...) trong xã hội chưa được triển khai đồng bộ, kịp thời ở một số địa bàn.

Nguyên nhân là do một số cán bộ còn hạn chế về năng lực chuyên môn, kiến thức

trong việc triển khai các biện pháp của các lĩnh vực thuộc ASXH chưa cao; trong

quá trình triển khai một số địa phương có biểu hiện tiêu cực, thiếu thống nhất trong

nhận thức và hành động; năng lực của cán bộ làm công tác lao động việc làm còn

hạn chế, vẫn xảy ra tình trạng “hành chính quan liêu” làm giảm hiệu quả của công

tác lao động việc làm và không đảm bảo tính công bằng cho người lao động. Mặt

41

khác, do địa bàn của thành phố rộng, trình độ nhận thức, dân trí của một số hộ dân ý

thức kém, nhận thức chưa sâu sắc về tầm quan trọng của ASXH nên đã ỷ lại, trông

chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức xã hội.

Hai là, do nguồn lực thực hiện ASXH cho người dân trên địa bàn thành phố

Phủ Lý còn nhiều hạn chế đặc biệt là nguồn lực thực hiện cho các xã mới được sát

nhập vào địa phận thành phố như Tiên Tân, Tiên Hiệp, Tiên Hải… Nguồn lực thực

hiện chính sách ASXH chủ yếu được cấp từ ngân sách Nhà nước. Các kinh phí từ tổ

chức, đoàn thể, cá nhân, doanh nghiệp có tấm lòng hảo tâm chiếm một phần nhỏ. Bên

cạnh đó, chất lượng dịch vụ cho việc đảm bảo ASXH còn thấp, các nguyên tắc của hệ

thống ASXH như mọi người dân có quyền an sinh, tạo sự đoàn kết, gắn bó, tương trợ

giữa các cá nhân, nhóm xã hội, gắn trách nhiệm và quyền lợi... chưa được nhận thức

một cách đầy đủ.

Ba là, công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung và yêu cầu của chính sách

ASXH của thành phố chưa đầy đủ, kịp thời và rõ ràng đối với những đối tượng liên

quan. Các văn bản hướng dẫn, thực thi nhiều khi không minh bạch và công khai.

Công tác tuyên truyền còn mang tính chất “đánh trống, bỏ dùi”, hình thức, câu lệ.

Thông tin về nhà ở cho người có công chủ yếu được tuyên truyền, thông báo qua

báo chí địa phương song vẫn chưa có mối thống nhất trong việc tiếp nhận, xét duyệt

hồ sơ xin hỗ trợ xây dựng nhà ở xã hội. Việc tiếp cận các thông tin còn hạn chế,

thiếu minh bạch, phải trải qua nhiều cửa mới tiếp cận được nhà thu nhập thấp.

Bốn là, hoạt động trợ cấp, bảo trợ xã hội của thành phố chưa toàn diện, có

biểu hiện tiêu cực trong thực thi. Nguyên nhân là do tác động tiêu cực của nền kinh

tế thị trường đã làm cho các nhóm thụ hưởng trợ cấp càng trở nên khó khăn hơn.

Mặt khác, trong thực thi các chính sách ASXH còn nhiều biểu hiện tiêu cực.

Năm là, tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra ở nhiều nơi, công tác hỗ trợ giáo dục

dạy nghề, giải quyết việc làm cho người lao động nhằm đảm bảo ASXH cho người dân

được mở rộng song không đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động.

Tiểu kết chƣơng 2

Trong thời gian qua, việc thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn thành phố

Phủ Lý luôn được Đảng bộ, chính quyền thành phố xác định là nhiệm vụ chính trị

quan trọng hàng đầu và đó là sự nghiệp của toàn hệ thống chính trị và trách nhiệm

của mỗi người dân trên địa bàn. Thành phố Phủ Lý đã tập trung triển khai những

giải pháp quan trọng trên những trụ cột khác nhau của ASXH, qua đó đã thu được

42

một số thành tựu quan trọng. Việc thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý

đã tạo động lực cho sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội trên địa bàn, tạo sự ổn

định về chính trị trật tự an toàn xã hội. Việc huy động nguồn lực tài chính cho việc

đảm bảo ASXH cho người dân ngày càng được mở rộng, phát huy nội lực trong

thực hiện chính sách xã hội, công tác trợ giúp cho đối tượng thụ hưởng trên địa bàn

cũng đưa lại những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện ASXH cho

người dân còn bộc lộ một số hạn chế: Chủ trương, chính sách của Đảng bộ, chính

quyền thành phố Phủ Lý còn chậm được triển khai đồng bộ, kịp thời; nguồn lực

thực hiện ASXH còn hạn chế về mặt năng lực, trình độ chuyên môn; công tác tuyên

truyền về thực hiện ASXH chưa đầy đủ, kịp thời, tinh thần phục vụ nhân dân của

một số cán bộ, công chức trong thi hành công vụ chưa cao.

Tìm hiểu được nguyên nhân chính là cơ sở để tác giả đưa ra một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý trong các

giai đoạn tiếp theo.

43

Chƣơng 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH

XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở

thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Các chính sách xã hội nói chung và ASXH nói riêng trong giai đoạn hiện nay

bao hàm trong cương lĩnh, nghị quyết chuyên đề, các nghị quyết phát triển kinh tế - xã

hội ngắn hạn, dài hạn của Đảng, Nhà nước và các chương trình mục tiêu quốc gia của

Chính phủ:

- Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 khóa XI “Một số vấn đề về chính

sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”, Chiến lược an sinh xã hội Việt Nam giai đoạn

2021 - 2020; Nghị quyết số 21-NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2015 - 2020” của Bộ Chính

trị; Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

2021 - 2030”;

- Bám sát và triển khai có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra

tại các văn bản của Tỉnh ủy, UBND tỉnh triển khai Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày

22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020; Quyết định số 538/QĐ-TTg

ngày 29/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến

tới bảo hiểm y tế toàn dân giai đoạn 2015 - 2020; Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày

26/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện đồng bộ các nhóm

giải pháp phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội;

- Trên cơ sở những đặc thù về kinh tế - xã hội của thành phố Phủ Lý.

Việc thực hiện chính sách ASXH ở thành phố Phủ Lý trong thời gian tới dựa

trên một số quan điểm sau:

- Thực hiện chính sách ASXH phải gắn với tăng trưởng, phát triển kinh tế.

Cần phải chú trọng thu hút vốn (tài chính, khoa học công nghệ...) đầu tư từ các

doanh nghiệp trong và ngoài nước; phát triển có hiệu quả các thành phần kinh tế,

đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân; chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng

44

nông thôn mới, đầu tư khai thác có hiệu quả lợi thế vốn có của địa phương;

- Thực hiện chính sách ASXH phải bao phủ cho mọi đối tượng được thụ

hưởng trên toàn địa bàn thành phố. Trong thời gian tới, để tạo dựng sự ổn định, phát

triển cho thành phố Phủ Lý, việc thực hiện ASXH cho người dân trên địa bàn cần

bao phủ diện rộng cho mọi đối tượng trong xã hội thuộc diện được hưởng thụ;

- Chính sách ASXH cho người dân trên địa bàn thành phố Phủ Lý phải phù

hợp với điều kiện, khả năng thực tế sau khi sát nhập thêm nhiều xã lân cận, đồng

thời phải có lộ trình, bước đi phù hợp. Cuộc khủng hoảng kinh tế do dịch bệnh thời

gian qua đã tác động không nhỏ đến nguồn tài chính của thành phố cho nên nguồn

lực tài chính cho việc thực hiện chính sách ASXH gặp nhiều khó khăn. Đời sống kinh

tế của người dân gặp nhiều khó khăn, phải đối mặt với sự tăng giá cả sinh hoạt trong

cuộc sống hàng ngày, sự phá sản của một số doanh nghiệp vừa và nhỏ đã dẫn đến sự

thất nghiệp và tiền công của người lao động, ngân sách chi cho lĩnh vực ASXH bị cắt

giảm... Trong khi đó, đối tượng được thụ hưởng ngày càng tăng điều này đ i hỏi

thành phố phải có lộ trình phát triển hệ thống ASXH khoa học, rõ ràng, tránh lãng

phí, thất thoát sử dụng không hiệu quả các nguồn lực trong lĩnh vực ASXH;

- Để đảm bảo thực hiện chính sách ASXH hiệu quả cho người dân trên địa

bàn, phải chú trọng vào công tác xây dựng, hoàn thiện đội ngũ cán bộ chính sách xã

hội. Đội ngũ cán bộ ASXH của thành phố cần được kiện toàn, hoàn thiện đầy đủ về

số lượng, chất lượng. Trình độ chuyên môn phải được đào tạo bài bản, khoa học.

Phù hợp với quan điểm đã nêu, trong thời gian tới công tác ASXH trên địa

bàn thành phố Phủ Lý được định hướng như sau:

- Tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chính sách ASXH đang triển

khai, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân;

- Hỗ trợ, tạo điều kiện cho hộ gia đình chính sách, hộ nghèo có phương tiện

sinh kế để sản xuất, trợ giúp việc học tập, học nghề, chuyển đổi nghề, giải quyết

việc làm, nhất là các hộ trong diện thu hồi đất sản xuất;

- Tập trung nguồn lực thực hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng Đề án giảm

nghèo theo chuẩn mới sau khi hoàn thành mục tiêu xóa hộ nghèo hiện nay;

- Tiếp tục thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi Người có công với cách mạng, duy

trì 100% xã, phường làm tốt công tác thương binh - liệt sĩ, 100% gia đình chính

45

sách của thành phố có nhà ở ổn định, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của

dân cư địa phương nơi cư trú;

- Tạo môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được

bảo vệ, chăm sóc, ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em;

- Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, giải

quyết thêm nhiều việc làm cho người lao động và sinh viên tốt nghiệp ra trường;

- Phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, nhất là thị trường có

thu nhập cao, an toàn cho người lao động. Phấn đấu đến năm 2025 giảm tỷ lệ thất

nghiệp khu vực thành thị;

- Huy động nhiều nguồn lực xây dựng nhà ở chung cư để bố trí cho các hộ

chính sách, hộ nghèo chưa có chỗ ở ổn định, các hộ tái định cư, các đối tượng

hưởng lương từ ngân sách. Tiếp tục khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở cho công

nhân tại các khu công nghiệp.

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã

hội ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

3.2.1. Nâng cao nhận thức cho cấp ủy Đảng, chính quyền và đội ngũ cán

bộ về vai trò của chính sách an sinh xã hội

Thực tiễn đổi mới đất nước để lại cho Đảng Cộng sản Việt Nam bài học kinh

nghiệm về giữ vững tính định hướng XHCN. Ở đó, các chính sách xã hội thể hiện

cả tầng nổi lẫn tầng sâu giá trị về bản chất của chế độ xã hội mới mà chúng ta đang

xây dựng. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của chính sách ASXH đối với

thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn quán triệt, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí

Minh để tiếp tục ban hành nhiều chính sách đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặt con người vào vị trí trung tâm chiến

lược của mọi sự phát triển kinh tế - xã hội.

Từ nhận thức đó càng thấy rõ chính sách ASXH có vai tr đặc biệt quan

trọng trong quản lý phát triển xã hội, trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức

bách qua từng thời kỳ cách mạng. Hiệu quả việc giải quyết các vấn đề xã hội không

chỉ góp phần tạo nên sự ổn định, phát triển lành mạnh các quan hệ xã hội mà còn

thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng và phát triển kinh tế đảm bảo tính bền

vững, lâu dài. Chính sách ASXH chỉ trở thành động lực của sự phát triển nếu đó là

46

những chính sách đúng đắn, thể hiện được nguyên tắc công bằng, dân chủ, hợp lý

và nhân văn. Ngược lại, chính sách ASXH sai lầm hoặc lạc hậu so với thực tiễn vận

động của đất nước có thể kìm hãm sự phát triển của xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến

việc phát huy nhân tố con người.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả những việc Đảng và

Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì mà không nhằm

mục đích ấy là không đúng” [22, tr.310], Đảng ta đã chỉ rõ: Khắc phục thái độ coi

nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng

XHCN. Đội ngũ cán bộ chính là lực lượng trực tiếp thực hiện chính sách ASXH, là

nhân tố quyết định khả năng giải quyết triệt để, hiệu quả và hài hòa các mối quan hệ

giữa chủ thể ban hành chính sách và đối tượng thụ hưởng trong quá trình thực thi.

Nâng cao nhận thức về vai trò của chính sách ASXH cho đội ngũ cán bộ các cấp

cần được tiến hành thường xuyên, liên tục.

Do vậy, các cấp uỷ Đảng và chính quyền, đặc biệt là đội ngũ cán bộ thực

hiện chính sách ASXH cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò của chính sách

ASXH trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ theo nguyên tắc công bằng, dân

chủ và nhân đạo. Đảng và Nhà nước phải luôn phấn đấu thực hiện mục tiêu hết sức

chăm nom đến đời sống của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của

toàn xã hội.

3.2.2. Đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác an sinh xã hội

Tính khả thi của chính sách ASXH phụ thuộc rất lớn vào vai trò của đội ngũ

cán bộ làm công tác hoạch định và thực thi chính sách. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng

khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [21,

tr.260]. Thông qua đào tạo và bồi dưỡng cán bộ mới tạo ra đội ngũ thực hiện chính

sách ASXH vừa có đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, vừa

giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có tác phong sâu sát thực tiễn, liên hệ mật thiết với

quần chúng nhân dân.

Những năm qua, trên địa bàn thành phố Phủ Lý, một trong những nguyên

nhân làm cho chính sách ASXH thiếu tính khả thi, nhiều bất cập chính là do nhận

thức, trách nhiệm và trình độ công tác của một bộ phận cán bộ thực thi chính sách

vẫn còn hạn chế. Bởi lẽ, muốn triển khai có hiệu quả chính sách, cán bộ phải “đọc”

47

được chính sách và hiểu đúng về chính sách, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong cả hệ

thống chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả chính

sách. Do đó, nâng cao trình độ công tác, kỹ năng, đạo đức cho đội ngũ cán bộ thực

thi chính sách ASXH là việc làm hết sức cần thiết. Để làm tốt giải pháp này, cần có

chiến lược vừa mang tính thường xuyên, vừa lâu dài và chú trọng những vấn đề sau:

Thứ nhất, UBND thành phố Phủ Lý cần xác định mục tiêu, nội dung, phương

thức đào tạo nguồn nhân lực làm công tác ASXH. Trong đó, nội dung đào tạo cần

chú trọng cả kiến thức và kỹ năng triển khai chính sách ASXH, đặc biệt là những

kiến thức về các đối tượng thụ hưởng, kỹ năng tổ chức, kỹ năng tuyên truyền chính

sách. Từ đó, lựa chọn cán bộ tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng thực thi chính sách

ASXH phải bảo đảm tính khách quan, công bằng, phù hợp với đặc thù công việc.

Thứ hai, thường xuyên mở các lớp tập huấn nhằm nâng cao tinh thần, trách

nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác chính sách ASXH. Thông qua

các lớp tập huấn góp phần nâng cao tinh thần và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ

làm công tác ASXH. Tại các buổi tập huấn, chú trọng trang bị các kỹ năng thực thi,

kỹ năng tuyên truyền, hướng dẫn người dân về chính sách và động viên người dân

tham gia chính sách. Chỉ như vậy, đội ngũ cán bộ mới nhận thức đầy đủ, đúng đắn

về mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện, mới có thể

triển khai thành công chính sách trong cuộc sống và xử lý những vướng mắc phát

sinh trong quá trình triển khai.

Thú ba, tăng cường bố trí cán bộ, công chức thực hiện chính sách ASXH đi

khảo sát, nắm bắt tình hình thực tế.

Nắm bắt được thực tế sinh động của đời sống xã hội, nhận thức rõ được

những khó khăn, thuận lợi, những nhu cầu, mong muốn của người dân và doanh

nghiệp… là việc làm cần thiết, đặc biệt đối với những cán bộ, công chức trẻ. Để

việc đi trải nghiệm thực tế thật sự đạt hiệu quả trong việc rèn luyện cán bộ, công

chức, mỗi cơ quan, đơn vị cần đánh giá đúng vai tr của công tác này, có quy chế,

quy định và cơ chế cụ thể để triển khai thực hiện. Đồng thời, cần xây dựng kế hoạch

rõ ràng, cụ thể cho từng năm, từng giai đoạn.

Thứ tư, cần xây dựng ý thức tự học tập, tự rèn luyện cho cán bộ, công chức.

Cần có biện pháp phù hợp và đủ sức thuyết phục để công chức ý thức rằng việc tự

48

giác học tập không chỉ là sự khát khao, thôi thúc tự bản thân, mà c n là động lực để

có thể thực hiện nhiệm vụ một cách bài bản và chuyên nghiệp. V.I.Lênin từng nói:

“Học, học nữa, học mãi”, không học thì không có tri thức.

Thứ năm, kết hợp thực hiện quyết liệt chủ trương tinh giảm biên chế mà

Chính phủ đã chỉ đạo, có phương án vận động những công chức không đáp ứng

điều kiện, năng lực yếu chuyển công tác hoặc có chính sách giải quyết chế độ

hưởng một lần. Hạn chế tình trạng “có con người” mà không những không giải

quyết được nhiệm vụ mà còn làm cản trở quá trình thực thi chính sách.

3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện

chính sách an sinh xã hội.

Để đưa chính sách ASXH vào cuộc sống, cần giúp cho đối tượng của chính

sách ASXH hiểu biết về chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến nghĩa vụ

và quyền lợi của họ, khuyến khích, động viên họ đóng góp ý kiến xây dựng và tham

gia thực hiện chính sách ASXH. Đây là nhiệm vụ quan trọng cần đến vai trò của

chủ thể quản lý để giải thích cổ động, giúp đỡ quần chúng, làm cho mọi người hiểu

thấu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi thi đua thực

hiện đầy đủ chính sách ấy. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và

Nhà nước luôn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia thực

hiện chính sách ASXH, góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá

nhân, các nhóm xã hội và cả cộng động tham gia chính sách trong sự nghiệp đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công tác tuyên truyền chính sách

ASXH ở thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là một hoạt động quan trọng góp phần đưa

chính sách đi vào cuộc sống. Đồng thời làm cho người dân và các tổ chức kinh tế -

xã hội nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích mà

mình có được khi tham gia chính sách ASXH.

Để công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia thực hiện chính sách

ASXH phát huy tính hiệu quả, trước tiên cần phải xác định đối tượng cần phổ biến,

truyền thông về chính sách ASXH. Cung cấp tài liệu, hướng dẫn quy trình thực thi

các chính sách ASXH. Chẳng hạn, để đạt được mục tiêu BHYT toàn dân, cần triển

khai thường xuyên, đồng bộ công tác truyền thông về BHYT và Luật BHYT để

người dân hiểu rõ hơn về lợi ích khi tham gia BHYT đối với bản thân, gia đình và

49

cộng đồng.

Thực hiện đa dạng hoá nội dung và hình thức tuyên truyền. Một trong những

trở ngại lớn khiến người dân không thể hoặc không muốn tham gia chính sách

ASXH xuất phát từ nhận thức không đầy đủ của họ về chính sách. Vì vậy, thành

phố Phủ Lý cần lựa chọn mô hình, biện pháp tuyên truyền phù hợp với từng đối

tượng. Kênh tuyên truyền phải đa chiều tiếp nhận và phản hồi ý kiến, có sự trao đổi

qua lại liên quan đến ASXH, đảm bảo ASXH và khả năng tự ASXH.

Việc thực hiện công tác tuyên truyền hướng đến tăng cường khả năng “tự an

sinh” của người dân, giúp cho đối tượng thụ hưởng thấy được tầm quan trọng của

việc “tự an sinh”. Qua đó, làm cho họ tự tin hơn về bản thân, thúc đẩy tinh thần ham

học hỏi cầu tiến bộ, ý thức vươn lên khẳng định mình trong cuộc sống hiện tại.

Bên cạnh đó, cần thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với nhân

dân để giải đáp những thắc mắc về chính sách ASXH, giúp người dân hiểu hơn về

chính sách. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ

quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực

hiện chính sách ASXH.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách ASXH phải đặc biệt

quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống báo chí, nhất là hệ thống báo chí

chuyên ngành về chính sách ASXH, để lực lượng này đảm bảo trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ cung cấp thông tin chính thống, chủ động định hướng và làm chủ

thông tin, tăng cường hiệu quả truyền thông. Thông qua vai tr báo chí, năng lực

nhận thức người dân và toàn xã hội về chính sách ASXH, về thực hiện quy định

pháp luật chính sách ASXH được nâng cao. Để các cơ quan báo chí làm tốt vai trò,

trách nhiệm của mình, cơ quan quản lý, chỉ đạo báo chí cần kịp thời định hướng, chỉ

đạo thông tin, tuyên truyền về các vấn đề xã hội để đạt được mục tiêu chiến lược

truyền thông. Đồng thời, có những chương trình tập huấn ngắn hạn, dài hạn cho

lãnh đạo và phóng viên các cơ quan báo chí về chính sách ASXH để sáng tạo, đăng

tải các tác phẩm có giá trị, xứng đáng là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn

hóa, đi đầu trong cuộc đấu tranh vì con người, vì ASXH và sự phát triển bền vững

của quốc gia, dân tộc.

Kịp thời phát hiện, khen thưởng, động viên các địa phương, cơ quan, đơn vị,

50

doanh nghiệp, cá nhân thực hiện tốt công tác truyền thông về chính sách ASXH.

Đồng thời, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật và các hiện tượng

tiêu cực xã hội khác trong thực hiện chính sách ASXH.

3.2.4. Phát triển kinh tế gắn với thực hiện chính sách an sinh xã hội

Phát triển kinh tế và ASXH có mối quan hệ biện chứng gắn bó chặt chẽ với

nhau. Nếu quá chú trọng phát triển kinh tế, không quan tâm giải quyết vấn đề

ASXH sẽ để lại nhiều hậu quả về mặt xã hội. Ngược lại, chỉ chú trọng tới việc giải

quyết các vấn đề ASXH sẽ triệt tiêu các động lực phát triển kinh tế. Vì thế, việc đẩy

mạnh phát triển kinh tế gắn với việc thực hiện chính sách ASXH cho người dân trên

địa bàn thành phố Phủ Lý là một trong những giải pháp để đáp ứng sự phát triển bền

vững. Việc đẩy mạnh mối quan hệ này nhằm thực hiện tốt các chính sách ASXH

cho người dân vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài. Song giải quyết vấn

đề này đ i hỏi thành phố Phủ Lý chú trọng vào một số giải pháp chủ yếu sau đây:

Một là, phát triển kinh tế phải có kế hoạch, lộ trình rõ ràng phù hợp.

Là một thành phố trẻ, lại vừa mới được sát nhập mở rộng thêm một số xã

ngoại vi, điều kiện kinh tế, tiềm năng để phát triển kinh tế mỗi địa phương có sự

khác nhau, không đồng đều, mức độ chênh lệch giữa các phường, xã rất lớn. Vì vậy,

phát triển kinh tế gắn với chính sách ASXH phải có kế hoạch, lộ trình rõ ràng phù

hợp, phải kịp thời nghiên cứu, rút kinh nghiệm, từng bước tổng kết đánh giá, xây

dựng và triển khai những mô hình phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa

phương. Mỗi địa phương của thành phố cũng cần phải đề ra những kế hoạch phát

triển cho riêng mình, tránh đốt cháy giai đoạn, tránh ỷ lại trông chờ vào sự giúp đỡ

của Trung ương, thành phố. Việc xác định lộ trình, kế hoạch trước hết phải căn cứ

vào điều kiện cụ thể của địa phương (nguồn nhân lực, thế mạnh của địa phương,

tiềm lực vật chất...).

Hai là, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền thành phố

trong việc chỉ đạo và thực hiện việc phát triển kinh tế gắn với thực hiện ASXH cho

người dân.

Các tổ chức Đảng cần phải đổi mới tư duy, xóa bỏ tư tưởng lạc hậu, trì trệ,

lỗi thời, tạo nhận thức mới về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và các vấn đề

xã hội.

51

Trong quá trình quản lý việc thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng và phát triển

kinh tế bằng nhiều biện phù hợp nhằm phát huy mọi khả năng, trách nhiệm của các

cấp, ngành, toàn thể xã hội vào phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề ASXH.

Chính quyền địa phương phải có những chính sách cụ thể, thiết thực nhằm

khuyến khích người dân làm giàu chính đáng, tạo điều kiện cho mọi đối tượng có

cơ hội ngang nhau trong lao động, trong tổ chức sản xuất và kinh doanh.

Ba là, phát triển kinh tế phải đi đôi với việc xoá đói giảm nghèo, nâng cao

năng lực, khả năng cho người thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo thoát nghèo

bền vững.

Để giải quyết tốt việc giảm nghèo và thoát nghèo bền vững tại thành phố Phủ

Lý, việc kết hợp các nguồn lực là rất cần thiết bảo đảm sự chỉ đạo điều hành một cách

tập trung, đầu tư có chiều sâu và mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Đồng thời

phải thực hiện tốt các giải pháp nâng cao năng lực, khả năng cho người nghèo thoát

nghèo bền vững bởi họ là một trong những đối tượng chính của chính sách ASXH.

Phối hợp với các trường, các trung tâm đào tạo nghề, trung tâm giới thiệu

việc làm của Tỉnh, thành phố UBND các phường xã tổ chức lớp dạy nghề lao động

tại khu công nghiệp và nông thôn nhằm giải quyết triệt để vấn đề thiếu việc làm cho

người lao động.

Bốn là, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế gắn với đảm bảo ASXH

thông qua nhiều chính sách, hình thức và phương pháp phù hợp với ý Đảng, lòng dân.

Đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, duy

trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững. Đây là biện pháp quan trọng

nhằm nâng cao nguồn thu ngân sách của thành phố để đầu tư hỗ trợ cho ASXH trên

địa bàn. Đồng thời tạo ra nguồn việc làm cho người lao động có thu nhập ổn định,

nâng cao chất lượng cuộc sống.

Tập trung phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tạo động lực phát

triển chung cho nền kinh tế địa phương. Thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh

phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, khuyến khích các thành phần kinh tế,

các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực có tiềm năng, thế mạnh như: Sản xuất vật liệu

xây dựng, cơ khí phục vụ nông nghiệp, may mặc, lưu niệm phục vụ du lịch... Tăng

cường kêu gọi, xúc tiến đầu tư vào Khu công nghiệp Châu Sơn và các khu công

52

nghiệp đã và đang hoàn thành đưa vào khai thác để có thể mở rộng sản xuất kinh

doanh, tăng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp góp phần giải quyết việc làm

cho người dân trên địa bàn, nâng cao dần thu nhập cho người lao động.

Từ những hạn chế trong việc cung cấp các dịch vụ công trên địa bàn, thành

phố cần quan tâm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, đi đôi với nâng cao

năng lực quản lý đô thị, bảo vệ môi trường. Trước hết là sử dụng tài nguyên đất có

hiệu quả nguồn quỹ đất, khuyến khích thực hiện chính sách “đổi đất lấy cơ sở hạ

tầng” phục vụ cho phát triển kinh tế (chợ, siêu thị), phát triển văn hóa (khu vui chơi,

khu thể thao công cộng), phát triển cơ sở hạ tầng (đường, cơ sở y tế khám chữa

bệnh) góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của người dân trên

địa bàn.

Tập trung phát triển các làng nghề, thu hút được nhiều nhân công lao động,

nhất là đối tượng hộ nghèo, đối tượng khuyết tật. Tạo điều kiện thuận lợi để các

doanh nghiệp đầu tư phát triển lâu dài trên địa bàn. Từng bước xây dựng các thương

hiệu sản phẩm hàng hóa có thế mạnh của thành phố, góp phần nâng cao đời sống

cho người dân.

Đầu tư phát triển nguồn nhân lực, chủ yếu là đào tạo nguồn nhân lực có trình

độ, tay nghề đáp ứng với nhu cầu của thị trường. Tăng đầu tư cho thực hiện các

chương trình mục tiêu về ASXH như việc làm, dạy nghề, phát triển nguồn nhân lực,

giảm nghèo, chương trình trợ giúp xã hội, bảo trợ xã hội. Đẩy mạnh phát triển các

loại hình dịch vụ, du lịch để từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tổ chức

quảng bá và khai thác có hiệu quả các điểm du lịch lịch sử, văn hóa và du lịch tâm

linh trên địa bàn như chùa H a Lạc nhằm nâng nguồn thu trên địa bàn, đồng thời

góp phần “tạo ra” nhu cầu lao động phục vụ cho du lịch, góp phần hạn chế số lao

động đã được đào tạo các ngành nghề như du lịch, tiếng anh… nhưng đến nay chưa

có việc làm.

Năm là, phát triển hài hòa, bền vững giữa các địa phương, xây dựng đô thị,

nông thôn mới gắn với việc thực hiện ASXH cho người dân.

Trong thời gian qua, thành phố Phủ Lý đã chú trọng việc phát huy lợi thế của

từng địa phương và tạo ra sự liên kết giữa các địa phương với nhau. Phát triển các

khu kinh tế trọng điểm, tạo động lực và tác động lan tỏa đến các địa phương khác,

53

đồng thời tạo điều kiện để phát triển nhanh hơn ở những địa phương c n nhiều khó

khăn nhất là những địa phương có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội còn nhiều khó

khăn tại những xã mới được sát nhập vào thành phố Phủ Lý. Để thực hiện được giải

pháp quan trọng này, các cấp cơ quan chính quyền thành phố cần:

- Nghiên cứu, đánh giá thế mạnh của từng địa phương trên địa bàn thành phố

để tìm ra biện pháp phát huy thế mạnh, đồng thời khắc phục những yếu tố trở ngại

đến quá trình phát triển kinh tế;

- Gắn chặt mục tiêu phát triển đô thị, nông thôn mới với thực hiện ASXH

trong mọi chủ trương, chính sách của địa phương;

- Các địa phương phải trao đổi, học tập kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình

phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề thuộc chính sách ASXH;

- Một số địa phương c n khó khăn về kinh tế phải tập trung cho phát triển

kinh tế, tăng thu nhập cho người dân, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, từng bước vươn lên

ngang bằng so với các địa phương khác trong thành phố. Ngược lại, một số địa

phương có điều kiện kinh tế xã hội phát triển, cần tránh phát triển nóng vội, phải

chú trọng thực hiện ASXH cho người dân tốt hơn.

Sáu là, tiếp tục phát huy có hiệu quả các nguồn tín dụng ưu đãi dành cho hộ

nghèo, tạo điều kiện cho hộ nghèo có nguồn lực đầu tư vào phát triển kinh tế hộ gia

đình. Định hướng cho hộ nghèo phương thức sản xuất, kế hoạch chỉ tiêu cụ thể để

sử dụng nguồn vốn vay qua kênh ủy thác của các tổ chức đoàn thể nhất là Hội Liên

hiệp phụ nữ, Hội Nông dân. Quản lý tốt hoạt động các tổ vay vốn, hạn chế đến mức

thấp nhất nợ quá hạn, tránh tình trạng nợ đọng vốn.

Thành phố cần huy động nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau (cho vay

không lãi, cho vay lãi suất thấp hoặc hỗ trợ hoàn toàn một phần nào đó về vốn...) để

giúp họ đầu tư cơ sở vật chất ban đầu. Giúp cho bản thân họ không còn mặc cảm,

họ góp phần làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.

3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách

an sinh xã hội.

Thực hiện chính sách ASXH, công tác kiểm tra, giám sát giữ vai trò quan

trọng và phải được tiến hành thường xuyên, triệt để. Công tác kiểm tra, kiểm soát

đối với quá trình thực thi chính sách ASXH không chỉ là trách nhiệm của chủ thể

54

quản lý xã hội mà còn ở vai trò là chủ và làm chủ của người dân. Phát huy dân chủ

trong quản lý phát triển xã hội thông qua việc kiểm tra, kiểm soát tức là làm cho dân

có quyền nêu sáng kiến cải tiến quản lý của mình, đồng thời, còn phát hiện những

yếu kém trong thực hiện chính sách ASXH có liên quan đến năng lực, phẩm chất

của đội ngũ cán bộ quản lý. Nhờ tăng cường cơ chế tham gia của người dân vào

kiểm tra, kiểm soát mà năng lực, chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý Nhà

nước trong việc thực hiện chính sách ASXH được cải thiện và chuyển biến tích cực,

đáp ứng được yêu cầu xây dựng xã hội mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường gắn

với tính định hướng XHCN.

Đối với người dân, thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát góp phần tăng

cường vai trò phản biện xã hội trong việc hoạch định và thực thi chính sách ASXH.

Phản biện xã hội giữ vai trò quan trọng giúp chủ thể hoạch định chính sách có cách

nhìn khách quan, toàn diện, khoa học về vấn đề cần triển khai, tránh những thiếu

sót, sai lầm trong ban hành chính sách gây ảnh hưởng đến đời sống nhân dân, uy tín

lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhân dân tham gia phản biện xã hội

thể hiện quyền và nghĩa vụ người chủ đất nước tham gia hoạch định, thi hành các chủ

trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Do vậy, để phát huy dân chủ

XHCN, thu hút và động viên quần chúng nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản

lý xã hội bằng công tác kiểm tra, kiểm soát, cần tạo điều kiện để nhân dân thực hiện

tốt quyền và trách nhiệm phản biện xã hội. Thông qua kiểm tra, kiểm soát, phản biện

xã hội để thấy được giá trị tiếng nói của nhân dân về hoạt động của Nhà nước và là

phương thức để Nhà nước gần dân hơn, thân dân hơn. Qua đó, hạn chế sự lạm dụng

quyền lực, sự độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy

quản lý và chủ thể hoạch định, tổ chức thực thi chính sách ASXH.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách ASXH

cũng chính là tăng cường quản lý cơ chế chính sách ASXH. Thành ủy, Hội đồng

nhân dân, UBND thành phố cần tập trung nghiên cứu các chính sách ASXH của

Đảng, Nhà nước và của tỉnh Hà Nam để đề ra các chính sách ASXH cho phù hợp

với điều kiện thực tiễn của thành phố Phủ Lý, tham khảo kinh nghiệm của các đơn

vị bạn có điều kiện tương tự để rút ra bài học trong quá trình tổ chức thực hiện:

Một là, chỉ đạo các cơ quan phụ trách tập trung theo dõi việc thực hiện các

55

chính sách ASXH ở thành phố để phát hiện kịp thời về những bất cập và yêu cầu

sửa đổi, bổ sung trên cơ sở phân tích, đánh giá chính sách.

Hai là, thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát và giải quyết các vướng

mắc trong việc khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT và việc thực hiện các quy

định của pháp luật về BHYT trên địa bàn.

Ba là, chỉ đạo và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các chế độ chính sách từ

nguồn hỗ trợ của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân kịp thời, đúng đối tượng và hiệu

quả, không để thất thoát, lãng phí. Áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động điều

hành của hệ thống ASXH như quản lý các đối tượng, chi trả các chế độ trợ cấp, cấp

và phát thẻ BHYT, BHXH kịp thời, chính xác cho đối tượng thụ hưởng.

Bốn là, tăng cường phối hợp kiểm tra công tác quản lý và chi trả trợ cấp ưu

đãi đối với người có công nhằm ngăn ngừa và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân,

đặc biệt là thế hệ trẻ nhận thức đầy đủ ý nghĩa của phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”

là đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Cùng Mặt trận Tổ quốc, các

đoàn thể, các ngành, các cấp đẩy mạnh phong trào vận động đóng góp quỹ “Đền ơn

đáp nghĩa” để chăm lo cho gia đình chính sách. Thực hiện tốt phương châm xã hội

hóa công tác chăm sóc đời sống đối tượng chính sách.

3.2.6. Tăng cường khả năng “tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng.

Đối tượng thụ hưởng trong chính sách ASXH chia ra làm nhiều nhóm khác

nhau. Cùng với việc tăng cường vai trò của Nhà nước, thành phố, cộng đồng xã hội

thì bản thân các đối tượng thụ hưởng cũng cần phải nâng cao trách nhiệm và năng

lực “tự an sinh” của mình. Đây là biện pháp mang tính chất bền vững để đối tượng

thụ hưởng (nhất là đối tượng đói nghèo, tàn tật, trẻ mồ côi...) vươn lên khẳng định

vị thế, vai trò của bản thân trong xã hội. Quá trình “tự an sinh” cần phải có sự hỗ trợ

đắc lực của Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội để có điều kiện tự lo cho bản

thân, gia đình về đời sống vật chất và tinh thần. Việc tăng cường khả năng “tự an

sinh” của đối tượng thụ hưởng là một hướng đi đúng đắn cần phải nghiên cứu triển

khai nhanh chóng hiệu quả. Tuy nhiên, thực hiện được khả năng “tự an sinh” là một

bài toán không hề đơn giản cần phải nghiên cứu triển khai đồng bộ một số giải pháp

cơ bản sau:

56

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân về khả năng “tự

an sinh” của bản thân.

Thành phố Phủ Lý cần nghiên cứu nhiều mô hình, biện pháp tuyên truyền

cho đối tượng thụ hưởng thấy được tầm quan trọng của việc “tự an sinh”. Cho họ

thấy được sự nỗ lực vươn lên của họ, thành quả của họ khi họ “tự an sinh” thành

công. Biện pháp tuyên truyền phải phù hợp với từng đối tượng. Kênh tuyên truyền

phải đa chiều tiếp nhận và phản hồi ý kiến, có sự trao đổi qua lại liên quan đến

ASXH, đảm bảo ASXH và khả năng tự “ASXH”. Hình thức tuyên truyền phải da

dạng, dễ hiểu, có minh họa và phải phổ biến trên báo đài, thông tin đại chúng...

Khả năng “tự an sinh” với từng đối tượng khác nhau, trong quá trình tuyên

truyền phải hết sức chú ý tránh làm tổn hại đến tinh thần, gây ra sự mặc cảm của họ

với cộng đồng. Điều này dẫn đến sự tự ti, lảng tránh với các biện pháp được hướng

dẫn qua các hình thức tuyên truyền. Qua các nội dung tuyên truyền phải làm cho

các đối tượng thụ hưởng tự tin hơn về bản thân, từ đó thúc đẩy tinh thần ham học

hỏi cầu tiến bộ, ý thức vươn lên khẳng định mình trong cuộc sống hiện tại.

Hai là, giúp đối tượng thụ hưởng “tự an sinh” thông qua hoạt động giáo dục

và đào tạo, hỗ trợ vốn.

Tuy thành phố đã mở nhiều lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho những đối

tượng thụ hưởng “an sinh” trên địa bàn nhưng chưa phát triển mở rộng đào tạo

nhiều ngành nghề. Những lớp học này cần liên kết với các đơn vị giáo dục nhằm

chuyển giao kỹ thuật, công nghệ và những nghề phù hợp với từng đối tượng, địa

phương. Việc mở các lớp giáo dục sẽ giúp họ hòa nhập với cộng đồng, tránh tự ti

mặc cảm, thông qua việc học tập có điều kiện tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm nghề

nghiệp, kỹ năng “tự an sinh” lẫn nhau.

Bài học phải ngắn gọn, đơn giản phù hợp với trình độ nhận thức và kỹ năng

của từng đối tượng. Bởi lẽ, những đối tượng được thụ hưởng ASXH đều là những

người không may mắn hoặc thiếu khuyết trên một phương diện nào đó: Đối tượng

tàn tật, đối tượng không có trình độ học vấn... Những lớp học này cũng đ i hỏi

người giảng viên, kỹ thuật viên phải kiên trì, nhẫn nại, phải có sự am hiểu, thông

cảm và chia sẻ với những đối tượng thụ hưởng.

Bước đầu triển khai, họ luôn gặp khó khăn về nguồn vốn. Thành phố cần huy

57

động nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau (cho vay không lãi, cho vay lãi suất thấp

hoặc hỗ trợ hoàn toàn một phần nào đó về vốn...) để giúp họ đầu tư cơ sở vật chất ban

đầu. Giúp cho bản thân họ không còn mặc cảm, họ góp phần làm giàu cho bản thân, gia

đình và xã hội.

Ba là, đối tượng hưởng thụ phải luôn có ý thức vươn lên, vượt khó khăn trở

ngại để khẳng định vị trí, vai trò của mình trong xã hội.

Do những hoàn cảnh khác nhau, điều kiện và tâm lý khác nhau nên đối tượng

được thụ hưởng “an sinh” có khác nhau song bản thân mỗi đối tượng thụ hưởng

không bao giờ được trông chờ, ỷ lại hoàn toàn vào xã hội. Đối tượng hưởng thụ

phải có ý chí, sự quyết tâm vươn lên khẳng định vị trí, vai trò của mình trước mọi

người. Phải xóa bỏ tâm lý tự ti, mặc cảm, kiên trì, nhẫn nại học tập chuyên môn,

nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp để hình thành cho mình một nghề có thể tự nuôi

sống bản thân và làm giàu cho quê hương, gia đình và xã hội. Biết huy động và sử

dụng hợp lý các nguồn vốn mà mình đang được Nhà nước và các tổ chức xã hội, cá

nhân giúp đỡ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phải tự tìm ra lối thoát cho mình

trong sản xuất. Hoàn cảnh, mức độ của các đối tượng thụ hưởng khác nhau, song

các đối tượng này cần phải chia sẻ, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Không

ngại khó, ngại khổ, không chán nản suy nghĩ tiêu cực. Phải đi lên từ chính nghị lực,

khả năng dù nhỏ nhất của mình.

Bốn là, phải có chính sách và biện pháp hợp lý, cụ thể để phát huy khả năng

“tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng ở vùng nông thôn, vùng khó khăn thuộc thành

phố Phủ Lý.

Do đối tượng thụ hưởng thuộc khu vực nông thôn ở thành phố Phủ Lý còn

chiếm tỷ lệ khá lớn sau khi sát nhập các xã lân cận thành phố. Đối tượng thụ hưởng

ở vùng nông thôn gặp rất nhiều khó khăn trong việc “tự an sinh” do trình độ nhận

thức và năng lực thực tiễn thấp. Nguồn lực cho việc phát triển sản xuất gặp nhiều

khó khăn, điều kiện hỗ trợ của chính quyền những xã, phường nghèo còn gặp nhiều

bất cập, nhiều chính sách khi thực hiện cho người dân chưa hiệu quả, thất thoát

nhiều. Phương pháp và cách thức tiếp cận với khoa học công nghệ, quy trình sản

xuất hiện đại rất hạn chế. Quá trình giải quyết việc làm cho người lao động gặp rất

nhiều khó khăn. Vì thế, để phát huy khả năng “tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng

58

ở vùng nông thôn, vùng khó khăn thuộc thành phố Phủ Lý là vô cùng cần thiết,

quan trọng hiện nay. Thành phố Phủ Lý phải nghiên cứu, triển khai các chương

trình, dự án hợp và các biện pháp cụ thể để giúp đối tượng thụ hưởng “tự an sinh”

hiệu quả bền vững.

Tiểu kết chƣơng 3

Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện chính sách ASXH của thành phố Phủ

Lý, việc đưa ra những quan điểm, phương hướng cho việc phát huy các điều kiện

đảm bảo ASXH ở thành phố Phủ Lý là hết sức quan trọng. Chương 3 của Khóa luận

đã đưa ra các đề xuất, giải pháp cơ bản tập trung vào giải quyết một số hạn chế và

phát huy hiệu quả việc thực hiện các chính sách ASXH trong thời gian tới.

Giải pháp quan trọng hàng đầu là nâng cao nhận thức cho cấp ủy Đảng,

chính quyền về vai trò của chính sách ASXH và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công

tác ASXH. Đối tượng ban hành và thực hiện chính sách có nhận thức đúng đắn về

ASXH thì chính sách ASXH mới thực sự hiệu quả và phù hợp với tình hình thực tế

tại địa phương. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách

ASXH để tránh những mặt tiêu cực trong quá trình thực hiện. Đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, vận động nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, nhóm

cộng đồng, mọi người dân trong việc mở rộng hệ thống ASXH gắn với cộng đồng.

Để thực hiện các chính sách ASXH đều cần đến ngân sách, vì vậy cần phải phát

triển kinh tế gắn với thực hiện chính sách ASXH. Từ đó, tăng cường khả năng “tự

an sinh” của đối tượng thụ hưởng. Cần thực hiện các giải pháp trong chương 3 một

cách thống nhất, đồng bộ, hiệu quả.

59

KẾT LUẬN

Nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bản

chất của nó là nền kinh tế ngày càng phồn vinh, xã hội ngày càng bình đẳng, công

bằng và văn minh. Vì thế những giá trị mục tiêu mà hệ thống chính sách ASXH

hướng tới là phù hợp với mục tiêu đó. Chính sách ASXH là hệ thống chủ trương,

phương hướng, biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết yếu cho cá

nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến động về kinh tế - xã hội và tự nhiên

làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, ốm đau, bệnh tật hoặc

tử vong; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, yếu thế, những

nạn nhân chiến tranh, những người bị thiên tai địch hoạ. Các chính sách ASXH cơ

bản hiện nay được Khoá luận nghiên cứu gồm: Chính sách bảo trợ xã hội, chính sách

ưu đãi xã hội, chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách BHXH và BHYT. Thực

hiện chính sách ASXH có vai trò to lớn đối với cá nhân, gia đình, Nhà nước và cộng

đồng. Qua 35 năm đổi mới đất nước, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta đã mang lại

những thành tự to lớn, đã được Liên hiệp quốc công nhận là một trong những quốc

gia đi đầu trong việc thực hiện mục tiêu “Thiên niên kỷ".

Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam là một thành phố trẻ. Trong những năm

qua, chính quyền và nhân dân thành phố Phủ Lý đã có nhiều nỗ lực, nhiều quyết

sách đúng đắn để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Các chính

sách ASXH cơ bản thực hiện tốt đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng đã góp

phần đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, đồng thời tạo động lực cho sự phát triển

kinh tế giai đoạn 2016 - 2020. Tuy nhiên so với mục tiêu chung được thành phố Phủ

Lý đề ra cho từng chính sách ASXH cụ thể vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần sớm

được khắc phục. Để tiếp tục thực hiện chính sách ASXH có hiệu quả hơn, cần thực

hiện đồng bộ các giải pháp: Nâng cao nhận thức cho cấp ủy Đảng, chính quyền và

đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách ASXH; đào tạo đội ngũ cán bộ làm công

tác ASXH; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính

sách ASXH; phát triển kinh tế gắn với thực hiện chính sách ASXH; tăng cường

công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách ASXH; tăng cường khả năng

“tự an sinh” của đối tượng thụ hưởng. Đây chính là tiền đề góp phần thực hiện

thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng bộ thành phố đề ra 2020 - 2025

với phương châm xây dựng phủ Lý trở thành một thành phố toàn diện.

60

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bảo hiểm xã hội Thành phố Phủ Lý (2020), Báo cáo tổng kết tình hình

thực hiện nhiệm vụ công tác giai đoạn 2016 - 2020.

2. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai

đoạn 2012 - 2020.

3. Bộ Chính trị (2015), Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng

cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai

đoạn 2015 - 2020.

4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), Chiến lược an sinh xã hội

giai đoạn 2011 - 2020.

5. Mai Ngọc Cường (2009), Xây dựng và hoàn thiện chính sách An sinh xã

hội ở Việt Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Chiểu (2004), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà

nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

7. Nguyễn Đức Chiện (2012), Thành công và bất cập trong chính sách trợ

giúp xã hội thường xuyên, Viện Nghiên cứu lập pháp.

8. Chính phủ (2008), Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình hỗ trợ

giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo nhất cả nước.

9. Chính phủ (2013), Nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách

trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.

10. Chính phủ (2013), 6 đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.

11. Chính phủ (2017), Nghị định 70/2017/NĐ-CP của Chính phủ về Quy

định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng.

12. Nguyễn Tấn Dũng (2010), Đảm bảo ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và

phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

giai đoạn 2011 - 2020, Trang báo điện tử Chính phủ.

61

13. Nguyễn Văn Định (2014), Giáo trình An sinh xã hội, Nxb Đại học kinh

tế Quốc dân, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu

nghiên cứu của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp Hành Trung ương khóa

XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

18. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn H a - Đồng chủ biên (2012), Đại cương về

Chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nguyễn Hải Hữu (2012), Giáo trình Nhập môn an sinh xã hội, Nxb Lao

động - Xã hội, Hà Nội.

20. Nguyễn Thị Lan Hương (2012), Phát triển hệ thống An sinh xã hội ở

Việt Nam đến năm 2020, Nxb Viện khoa học Lao động và xã hội, Hà Nội.

21. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Vũ Văn Phúc (2012), An sinh xã hội ở Việt Nam hướng tới 2020, Nxb

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

24. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2016),

Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2016, phương hướng nhiệm vụ trọng

tâm 2017.

25. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2017),

Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2017, phương hướng nhiệm vụ trọng

tâm 2018.

26. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2018),

Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2018, phương hướng nhiệm vụ trọng

tâm 2019.

62

27. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2019),

Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2019, phương hướng nhiệm vụ trọng

tâm 2020.

28. Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Phủ Lý (2020),

Báo cáo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2020, phương hướng nhiệm vụ trọng

tâm 2021.

29. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2004), Giáo trình Bảo hiểm xã hội,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

30. Trường Đại học Lao động (2004), Giáo trình Ưu đãi xã hội, Nxb Lao

động - Xã hội, Hà Nội.

31. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam (2013), Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22

tháng 4 năm 2013 của Tỉnh uỷ về “tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối

với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020”.

32. Ủy ban nhân dân Thành phố Phủ Lý (2020), Báo cáo về công tác đào

tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2016 - 2020.

33. Ủy ban nhân dân Thành phố Phủ Lý (2020), Báo cáo kết quả thi hành

Luật bảo hiểm xã hội giai đoạn 2016 - 2020.

34. Ủy ban nhân dân Thành phố Phủ Lý (2020), Báo cáo kết quả Xóa đói

giảm nghèo giai đoạn 2016 - 2020.

35. Viện Ngôn ngữ học (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

36. Website: https://phuly.hanam.gov.vn/Pages/default.aspx

37. Website: https://hanam.gov.vn/

63

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ Số: /BC - LĐTB&XH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Phủ Lý, ngày tháng năm 2020

BÁO CÁO Tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 125-NQ-CP của Chính Phủ và Nghị quyết 102/NQ-CP của Chính phủ

Căn cứ Công văn 1116/LĐTBXH- LĐTLBHXH ngày 07 tháng 10 năm 2020 của

Sở Lao động về việc báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 125/NQ- CP của Chính

phủ ngày 08 tháng 10 năm 2018 và Nghị quyết số 102/NQ-CP của Chính phủ ngày 03

tháng 8 năm 2018;

Ủy ban nhân dân thành phố Phủ Lý báo cáo như sau:

I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 28-NQ/TW, NGHỊ

QUYẾT 125/NQ-CP.

1. Công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chính sách bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp.

1.1. Công tác phổ biến, quán triệt Nghị quyết.

Bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm y tế (BHYT) là hai chính sách lớn

của Đảng và Nhà nước, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần

ổn định đời sống của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ổn định chính

trị, phát triển kinh tế - xã hội. Xác định tầm quan trọng của chính sách BHXH,

BHYT, thời gian qua, UBND thành phố đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cấp

ủy, chính quyền, đoàn thể, nhân dân triển khai thực hiện công tác BHXH,

BHYT trên địa bàn.

1.2. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, các ban nghành,

Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội trong triển khai thực hiện nghị quyết.

Ngay sau khi Luật BHXH số 58/2014/QH13 được ban hành Thành uỷ,

HĐND, UBND thành phố Phủ Lý đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt

công tác phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương, Chỉ thị Nghị quyết của

64

Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước và các văn bản chỉ đạo triển khai của

Tỉnh ủy, UBND tỉnh.

Triển khai Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Bộ

Chính trị, Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Tỉnh uỷ về “tăng cường

sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai

đoạn 2012 - 2020”, Công tác triển khai quán triệt được tổ chức bằng nhiều hình thức

như được học tập tại hội trường của UBND thành phố truyền hình trực tiếp các lãnh

đạo thường trực thành ủy giảng các chuyên đề của các Chỉ thị Nghị quyết.

Ủy ban nhân dân thành phố ban hành một số văn bản triển khai thực hiện

Luật kịp thời, đảm bảo việc triển khai thực hiện có hiệu quả trên tất cả các mặt.

Đặc biệt, ban hành kế hoạch số 157/KH-UBND ngày 23 tháng 11 năm 2018

về thực hiện Nghị quyết số 125/NQ-CP, chương trình hành động số 62-CTr/TU của

tỉnh ủy Hà Nam về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội; Kế hoạch số:36/KH-

UBND ngày 03 tháng 3 năm 2020 về tuyên truyền phát triển đối tượng tham gia bảo

hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp năm 2020 .

1.3. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết, Chỉ thị

Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội được

tiến hành thường xuyên, định kỳ, đột xuất. Hàng năm UBND thành phố đã chỉ đạo

Thanh tra thành phố, Ph ng Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức các đoàn thanh

tra liên ngành, chuyên ngành về việc chấp hành pháp luật bảo hiểm xã hội trong các

doanh nghiệp.

2. Kết quả thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW và Chỉ thị 14-CT/TU

2.1. Kết quả lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với

công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách, chế độ về BHXH, BHYT

- Chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính

sách, chế độ về BHXH, BHYT, trọng tâm là Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ

Chính trị; Chương trình hành động của Thành ủy và Kế hoạch của UBND

thành phố để cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ vai tr , ý nghĩa của BHXH,

BHYT; từ đó tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức trách nhiệm, tự

giác tham gia BHXH, BHYT.

- Cấp phát tờ rơi tuyên truyền những chính sách mới Bảo hiểm xã hội.

65

- Tăng cường phối hợp tuyên truyền giữa cơ quan BHXH với các cơ quan,

đơn vị trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách về BHXH, BHYT và vận

động nhân dân tham gia BHXH, BHYT

2.2. Kết quả thực hiện mục tiêu Nghị quyết 21-NQ/TW và Chỉ thị 14-CT/TU

Công tác bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) trong những năm

qua trên địa bàn thành phố đã đạt được những kết quả quan trọng: Nhận thức của

các cấp ủy, chính quyền và nhân dân về chính sách BHXH, BHYT được nâng cao;

số người tham gia BHXH, BHYT hàng năm đều tăng; quyền lợi của người tham gia

BHXH, BHYT được đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời và từng bước được mở

rộng; quỹ BHXH tăng hàng năm; quỹ BHYT bước đầu đã cân đối được và có kết

dư; hệ thống tổ chức BHXH tỉnh ngày càng phát triển, cơ bản đáp ứng yêu cầu việc

thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT.

Tính đến tháng 6/2020, số người tham gia BHXH: 35.500 người, chiếm 36,2%

người lao động trong độ tuổi, tăng 4.800 người so với năm 2015; Số người tham gia

BH thất nghiệp là 32.840 người, tăng 2.600 người so với năm 2015; Số người tham

gia BHYT là 146.700 người, tỷ lệ bao phủ là 91,2%, tăng 7,4% so với năm 2015.

Cấp 22.150 thẻ BHYT cho người có công; 37.726 thẻ BHYT cho hộ nghèo,

cận nghèo, và đối tượng bảo trợ xã hội. Tỷ lệ người dân tham gia BHYT đến năm

2020 đạt 34,5% (tăng 10% so với năm 2015), tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2016-

2020 là 7,09%. Thực hiện chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất

nghiệp theo quy định.

2.3. Kết quả việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về

BHXh, BHYT

- Thường xuyên, tích cực xây dựng, đóng góp vào các dự thảo văn bản xin ý

kiến đóng góp để xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật do BHXH

tỉnh, BHXH Việt Nam hoặc Bộ LĐTBXH ...chủ trì.

2.4. Kết quả Quản lý nhà nƣớc về BHXH, BHYT

- Tổ chức hướng dẫn kịp thời các địa phương, đơn vị triển khai thực hiện các

quy định của của Nhà nước về bảo hiểm xã hội, đặc biệt là khi có những thay đổi

liên quan đến chính sách bảo hiểm, các nghị định, thông tư của Chính phủ, của các

Bộ, Ngành có liên quan và các văn bản hướng dẫn của Bộ Lao động TB và XH,

BHXH Việt Nam.

66

- UBND thành phố phối hợp với Bảo hiểm xã hội tỉnh ký 02 chương trình phối

hợp trong việc tổ chức thực hiện Luật bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố để cụ

thể hóa vào các nhiệm vụ nhằm trao đổi kịp thời những thông tin; cùng kịp thời tháo

gỡ những khó khăn trong việc thực hiện nhằm đảm bảo quyền lợi người sử dụng

cũng như người lao động trên địa bản thành phố:

+ Chương trình phối hợp tổ chức, triển khai thực hiện Luật bảo hiểm xã hội.

+ Chương trình phối hợp tổ chức, thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

- Lực lượng lao động tham gia BHXH (theo các loại hình doanh nghiệp, cơ sở

lao động tại các địa bàn, địa phương; theo loại hình lao động).

- Duy trì chế độ thanh kiểm tra nhằm phát hiện và xử lý kịp thời đối với

doanh nghiệp vi phạm, đồng thời cũng giúp doanh nghiệp tháo gỡ những khó

khăn, vướng mắc để việc tổ chức triển khai thực hiện Luật bảo hiểm xã hội được

tốt hơn.

3. Đánh giá chung

3.1 Ƣu điểm

Việc tổ chức triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội thường xuyên

nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Thành ủy, UBND thành phố, của các ngành, các

cấp; công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật BHXH được

thực hiện thường xuyên liên tục. Nhận thức của cán bộ công chức, viên chức và

người lao động trong các cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp trong toàn tỉnh được

nâng lên, việc chấp hành các quy định của Luật BHXH được thực hiện nghiêm.

- Đối với chủ sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp

nhận thức về quyền và trách nhiệm theo quy định của Luật BHXH đã có nhiều

chuyển biến tích cực. Phần lớn các đơn vị sử dụng lao động đã thực hiện các quy

định của pháp luật về việc ký kết hợp đồng lao động đăng ký sử dụng thang, bảng

lương, kê khai, lập hồ sơ đăng ký tham gia BHXH cho người lao động, số người

tham gia BHXH trong các doanh nghiệp tăng lên hàng năm.

3.2. Hạn chế và nguyên nhân:

* Những hạn chế:

- Vẫn c n tình trạng lợi dụng chính sách, giấy tờ để trục lợi quỹ BHXH, BHTN.

- Một số doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật

67

BHXH như không đóng, đóng không đúng thời gian quy định; đóng không đủ số

người thuộc diện tham gia BHXH, có những đơn vị c n tình trạng nợ BHXH kéo

dài; thực hiện việc đóng BHXH cho người lao động không đúng với mức tiền lương

trong hợp đồng lao động; việc nâng lương theo thời hạn cho người lao động đã

không đúng thời gian qui định đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp

pháp của người lao động.

* Nguyên nhân:

- Cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về BHXH c n thiếu chủ yếu là kiêm

nhiệm, năng lực c n hạn chế; công tác thanh kiểm tra việc chấp hành pháp luật

BHXH chưa được thường xuyên.

- Một số chủ sử dụng lao động vẫn cố tình không thực hiện đầy đủ các quy

định của pháp luật BHXH.

- Thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp c n thấp đặc biệt là lao

động phổ thông, tiền lương chưa đáp ứng được sinh hoạt hàng tháng vì vậy họ

không muốn tham gia BHXH để tăng thêm thu nhập.

- Nhận thức của người dân về chính sách bảo hiểm tự nguyện chưa đầy đủ do

đó tỷ lệ tham gia c n thấp.

- Chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật BHXH chưa đủ mạnh.

II. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CÔNG

TÁC BHXH, BHYT GIAI ĐOẠN 2021-2030

1. Bối cảnh, yêu cầu

Hiện nay tình hình dịch bệnh bùng phát làm ảnh hưởng rất lớn tới tình hình

kinh tế nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp có sử dụng nhiều lao động và

người dân lao động tự do. Vì vậy công tác triển khai thực hiện Nghị quyết số 21-

NQ/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 14-CT/TU của Ban thường vụ Tỉnh ủy gặp

rất nhiều khó khăn.Đây là một thách thức lớn đối với cả hệ thống chính trị nói

chung và các ngành BHXH, LĐTBXH nói riêng

2. Quan điểm, mục tiêu

2.1. Quan điểm

- BHXH, BHYT là hai chính sách xã hội quan trọng, giữ vai tr trụ cột

trong hệ thống an sinh xã hội, góp phần ổn định đời sống, bảo vệ sức khỏe cho

68

nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, ổn định chính trị, phát triển

kinh tế - xã hội;

- Thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH, BHYT là trách nhiệm và là

nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức

xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.

- Phát triển hệ thống BHXH, BHYT đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã

hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân; từng bước xã hội hóa

dịch vụ BHXH, BHYT; tạo điều kiện thuận lợi để mọi người được tham gia và

thụ hưởng các chế độ, chính sách BHXH, BHYT.

2.2. Mục tiêu

Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền,

cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc triển khai thực hiện hiệu quả các chế

độ, chính sách BHXH, BHYT; tăng nhanh diện bao phủ đối tượng tham gia

BHXH, nhất là BHXH tự nguyện; thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân, trong đó

chú ý đối tượng tham gia thuộc hộ gia đình nghèo, gia đình cận nghèo, gia đình

chính sách. Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho người tham gia BHYT.

Xây dựng hệ thống BHXH, BHYT hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp

ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

3. Nhiệm vụ, giải pháp

3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chính sách

về BHXH, BHYT

Tuyên truyền việc mở rộng chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với người

tham gia các loại hình BHXH, BHYT, nhất là BHXH tự nguyện cho nông dân

và BHYT cho các đối tượng chính sách, người thuộc hộ gia đình cận nghèo,

nông dân, học sinh, sinh viên.

3.2. Tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp

trong việc triển khai thực hiện các chƣơng trình, mục tiêu về BHXH, BHYT

Hàng năm, chỉ đạo xây dựng mục tiêu, kế hoạch cụ thể để thực hiện chính

sách BHXH, BHYT. Đưa các chỉ tiêu về BHXH, BHYT vào kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội của thành phố và coi đây là một trong những tiêu chí quan

trọng để đảm bảo an sinh xã hội.

69

4. Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về BHXH, BHYT

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và

BHXH ở các cấp trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT.

Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật,

chính sách về BHXH, BHYT; kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm,

nhất là tình trạng trốn đóng, nợ tiền BHXH, BHYT và các hành vi tiêu cực

khác liên quan đến BHXH, BHYT.

5. Nâng cao chất lƣợng dịch vụ và công tác thực hiện các chế độ,

chính sách BHXH, BHYT

Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý và

cải cách thủ tục hành chính trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT, tạo

thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia và thụ hưởng đầy đủ, kịp thời

các chế độ, chính sách BHXH, BHYT.

III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

Hàng năm UBND tỉnh ban hành chỉ đạo chung, cụ thể tới từng ngành, từng

cấp trong việc thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW và Chỉ thị 14-CT/TU; tổ chức

các lớp tập huấn cho cán bộ làm công tác chuyên môn về lĩnh vực BHXH tỉnh,

thành phố

Bổ sung nguồn lực để đảm bảo thực hiện được đúng theo các chương trình, kế

hoạch đã đặt ra

Trên đây là báo cáo tổng kết của Ủy ban nhân dân thành phố Phủ Lý về việc

thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chỉ thị số 14-CT/TU của

Ban thường vụ Tỉnh ủy./.

Nơi nhận: - Sở LĐTB&XH tỉnh ;( để b/c) - BHXH tỉnh; - Lưu VP, LĐTBXH.

TM. UỶ BAN NHÂN DÂN KT CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH Lê Văn Quân

70

Phụ lục 2:

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ Số: /BC-UBND CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Phủ Lý, ngày 15 tháng 10 năm 2020

BÁO CÁO Tổng kết thi hành Luật BHXH giai đoạn 2016 – 2020 I.Tình hình chung:

1. Đặc điểm tình hình:

Thành phố Phủ Lý là trung tâm văn hóa chính trị của tỉnh Hà Nam gồm 21

phường, xã với trên 158 nghìn người, trên địa bàn có 02 khu công nghiệp là Châu

Sơn và Kim Bình người dân có việc làm ổn định là điều kiện thuận lợi để triển khai

thực hiện Luật BHXH.

2. Thuận lợi, khó khăn:

a. Thuận lợi:

Việc triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội được quán triệt ở tất cả các

cấp ủy đảng từ thành phố xuống cơ sở, đến các Đảng viên, các chi bộ thôn, tổ, xóm.

Ủy ban nhân dân thành phố và BHXH tỉnh Hà Nam đã ký quy chế phối hợp

triển khai thực hiện BHXH, BHYT trên địa bàn giúp cho việc triển khai thực hiện

chính sách BHXH có nhiều thuận lợi và hiệu quả hơn.

b. Khó khăn:

Trên địa bàn thành phố có trên 900 doanh nghiệp đăng ký tham gia BHXH

thì hầu hết là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên khó khăn trong việc tổ chức và triển

khai thu BHXH, BHYT. Một số chủ sử dụng lao động chấp hành chưa nghiêm Luật

BHXH, BHYT, c n tình trạng trốn đóng, chậm đóng ảnh hưởng đến quyền lợi của

người lao động .

3. Những vấn đề lớn đặt ra

- Quản lý tốt nguồn thu đảm bảo nguyên tắc thu đúng, thu đủ, kịp thời đáp

ứng yêu cầu trong công tác thu BHXH cũng như nâng cao hiệu quả công tác thu

BHXH.

- Tăng cường công tác tuyên truyền Luật để chủ Doanh nghiệp và người

Lao động nhận thức rõ trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia BHXH.

- Đảm bảo phát triển đối tượng tham gia BHXH theo lộ trình. Phấn đấu

71

đến năm 2020 toàn thành phố đạt khoảng 33% lực lượng lao động trong độ tuổi

tham gia BHXH.

II. Đánh giá tình hình thực hiện luật BHXH 2014

1. Công tác chỉ đạo thực hiện

a.Công tác chỉ đạo cấp ủy Đảng các cấp

Ngay sau khi Luật BHXH số 58/2014/QH13 được ban hành Thành uỷ,

HĐND, UBND thành phố Phủ Lý đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt

công tác phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương, Chỉ thị Nghị quyết của

Đảng, chính sách Pháp luật của Nhà nước và các văn bản chỉ đạo triển khai của

Tỉnh ủy, UBND tỉnh.

Triển khai Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Bộ

Chính trị, Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 22 tháng 4 năm 2013 của Tỉnh uỷ về “tăng

cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

y tế giai đoạn 2012 - 2020”, Công tác triển khai quán triệt được tổ chức bằng nhiều

hình thức như được học tập tại hội trường của UBND thành phố truyền hình trực

tiếp do giảng viên là các Giáo sư tiến sỹ truyền đạt hoặc các lãnh đạo thường trực

thành ủy giảng các chuyên đề của các Chỉ thị Nghị quyết.

b.Công tác quản lý điều hành của chính quyền các cấp

Ủy ban nhân dân thành phố ban hành một số văn bản triển khai thực hiện

Luật kịp thời, đảm bảo việc triển khai thực hiện có hiệu quả trên tất cả các mặt.

Trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch của UBND tỉnh giao, UBND thành phố đã xây

dựng Chương trình công tác trọng tâm, tuyên truyền chính sách BHXH, kế hoạch

kiểm tra công tác thực hiện Luật BHXH,BHYT của các đơn vị sử dụng lao động

trên địa bàn. Xây dựng kế hoạch tuyên truyền trọng tâm về BHYT hộ gia đình để

mở rộng đối tượng theo Kế hoạch của tỉnh giao cho giai đoạn 2016 – 2020. UBND

thành phố ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách BHXH

trên địa bàn. Đặc biệt ban hành Kế hoạch thực hiện độ bao phủ BHYT giai đoạn

2016-2020 theo Quyết định 1167 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định giao chỉ

tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT,BHTN cho các phường, xã trên địa

bàn thành phố. Đặc biệt, ngày 23 tháng 11 năm 2018, đã ban hành kế hoạch số

157/KH-UBND về thực hiện Nghị quyết số 125/NQ-CP, chương trình hành động số

62-CTr/TU của tỉnh ủy Hà Nam về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội.

72

c. Công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp

Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo các cấp, các ngành tăng cường công tác

tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ

trong nhận thức và hành động của các cơ quan, tổ chức, công dân về BHXH,

BHYT; đặc biệt giao Ph ng Lao động - TB&XH và Bảo hiểm xã hội thành phố

phối hợp Đài truyền thanh thành phố tuyên truyền và triển khai thực hiện tốt hoạt

động tuyên truyền về Luật BHXH bằng nhiều hình thức, đa dạng, phong phú đạt

hiệu quả cao.

Hàng năm, UBND thành phố giao cho Ph ng Lao động – TB&XH và Bảo

hiểm xã hội thành phố đẩy mạnh công tác phối, kết hợp với các ban, ngành, đoàn

thể, các cấp chính quyền trên địa bàn trong công tác tuyên truyền chính sách

BHXH, thực hiện Luật BHXH, phối hợp liên ngành thực hiện kiểm tra các doanh

nghiệp ngoài quốc doanh trong việc chấp hành Luật BHXH.

2. Tình hình thực hiện:

a. Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH

- Kết quả thực hiện:

STT Hình thức Số lƣợng Nội dung/ Đối tƣợng

1 Băng zôn, khẩu hiệu, 125

Pa no, áp phích, bảng 2 15 tuyên truyền

(người thuộc hộ gia đình; người lao 3 Tờ rơi, tờ gấp 260.000 động; học sinh, sinh viên)

9.000 người Hội nghị tuyên truyền đối 4 75 (người lao động tại các doanh nghiệp, hội thoại viên các hội, đoàn thể)

5 Phát thanh 185

- Thuận lợi, khó khăn

* Thuận lợi:

Công tác tuyên truyền, truyền thông chế độ, chính sách Bảo hiểm xã hội

(BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) đã được UBND thành phố thực sự quan tâm và

chú trọng. Trên cơ sở các quy định của Luật BHXH; tranh thủ sự quan tâm, lãnh

73

đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh; sự phối hợp

chặt chẽ, tạo điều kiện của các sở, ban, ngành liên quan cùng với hình thức, nội

dung tuyên truyền, truyền thông chính sách BHXH, BHYT đã từng bước thay đổi

phù hợp với từng nhóm đối tượng vì vậy đã từng bước đưa chính sách BHXH,

BHYT đến gần hơn đến các tầng lớp nhân dân, thay đổi nhận thức của người dân,

thúc đẩy nhân dân tham gia BHXH, BHYT hướng tới mục tiêu BHXH cho mọi

người lao động, BHYT toàn dân.

* Khó khăn:

- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH, BHYT tuy có nhiều đổi

mới nhưng chưa thường xuyên liên tục và sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, nhất

là người lao động tự do, người lao động trong các gia đình hộ nông nghiệp.

- Đội ngũ cán bộ làm công tác truyền thông tại các cơ quan chuyên môn của

thành phố phải kiêm nhiệm thêm công tác tuyên truyền, chưa được đào tạo chuyên

sâu các kỹ năng truyền thông nên vẫn c n nhiều hạn chế trong việc triển khai công

tác tuyên truyền tại cơ sở.

- Một số xã, phường chưa quan tâm đúng mức trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo

thực hiện chính sách pháp luật BHXH, BHYT, BHTN; chưa phối hợp chặt chẽ cùng

cơ quan BHXH thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách BHXH, BHYT nên

công tác mở rộng và phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT, đặc biệt BHXH tự

nguyện, BHYT hộ gia đình c n gặp nhiều khó khăn.

- Đội ngũ cán bộ đại lý thu chưa nắm chắc về chế độ, chính sách BHXH,

BHYT vì vậy công tác tuyên truyền, khai thác đối tượng tham gia thông qua hệ thống

đại lý thu vẫn c n nhiều hạn chế.

b. Công tác phát triển đối tƣợng tham gia BHXH

- Công tác xây dựng chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH:

Hàng năm, trên cơ sở chỉ tiêu kế hoạch được UBND tỉnh Hà Nam giao,

UBND thành phố xây dựng chỉ tiêu kế hoạch phát triển đối tượng tham gia BHXH

giao phường, xã thực hiện và kịp thời điều chỉnh khi UBND tỉnh điều chỉnh chỉ tiêu

kế hoạch.

74

- Công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc:

Số đối tượng tham gia BHXH theo loại hình Quản lý cụ thể như sau:

Năm Năm Năm Năm Năm

2016 2017 2018 2019 2020 STT Loại hình quản lý (ngƣời) (ngƣời) (ngƣời) (ngƣời) (ngƣời)

1 Doanh nghiệp nhà nước 227 213 196 170 172

Doanh nghiệp có vốn đầu tư 2737 3108 3494 3478 3288 2 nước ngoài

Doanh nghiệp ngoài quốc 7189 8295 10128 11566 10800 3 doanh

Đảng, đoàn thể, lực lượng 3343 3239 3334 3328 3330 4 vũ trang

5 Ngoài công lập 9 6 5 0 2

Lao động có thời hạn ở 0 0 0 0 0 6 nước ngoài

7 Người nước ngoài 0 0 0 22 63

Tỷ lệ số người tham gia BHXH so với lực lượng lao động (LLLĐ) trong độ

tuổi tăng dần qua các năm, cụ thể:

- Năm 2016: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 25% so với LLLĐ trong độ tuổi.

- Năm 2017: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 27,5% so với LLLĐ trong độ tuổi;

- Năm 2018: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 29,7% so với LLLĐ trong độ tuổi;

- Năm 2019: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 31,5% so với LLLĐ trong độ tuổi;

- Năm 2020: tỷ lệ lao động tham gia BHXH đạt 30,6% so với LLLĐ trong độ tuổi.

- Đánh giá tình hình thực hiệnđối với công tác thu và phát triển đối tượng

tham gia BHXH:

* Thuận lợi

Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn cơ bản đầy đủ và kịp thời, thực chất

và đi vào chiều sâu, tạo thuận lợi trong quá trình tổ chức thực hiện.

Bộ luật Hình sự có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Tùy mức độ phạm tội,

người phạm tội có thể bị phạt tù đến tới 7 năm. Với quy định mới này tình trạng

trốn đóng BHXH cơ bản đã giảm một cách đáng kể.

75

UBND thành phố thường xuyên nhận được sự chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh uỷ,

UBND tỉnh, sự phối kết hợp giữa các Sở, Ban, Ngành, UBND các cấp trong việc tổ

chức, triển khai thực hiện Luật BHXH.

Nhận thức của chủ sử dụng lao động, người lao động và nhân dân về quyền và

trách nhiệm khi tham gia BHXH được nâng lên; phần lớn các doanh nghiệp đã chủ động

tham gia BHXH cho người lao động.

Công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin được tập

trung đẩy mạnh theo hướng đơn giản thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho việc giải

quyết chế độ BHXH, BHYT, BHTN được kịp thời, đúng quy định tạo niềm tin cho

người lao động và nhân dân trong tỉnh về chính sách BHXH, BHYT của Đảng và

Nhà nước.

* Khó khăn

- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn là doanh nghiệp nhỏ, siêu

nhỏ nên việc tổ chức đôn đốc thu nợ, khai thác phát triển đối tượng gặp khó khăn

trong việc quản lý và tổ chức thực hiện do đầu mối đơn vị nhiều nhưng số lao động

và số thu ít;

- Nhận thức về chính sách BHXH, BHYT, BHTN của chủ sử dụng lao động,

người lao động (đặc biệt là người lao động thuộc khu vực phi chính thức) c n hạn chế.

- Việc tổ chức thực hiện chính sách BHTN c n gặp nhiều khó khăn, quy định

về khai báo tình trạng việc làm hàng tháng đối với người lao động đang hưởng chế

độ trợ cấp BHTN chưa có cơ chế kiểm tra, kiểm soát.

* Nguyên nhân

+ Số doanh nghiệp phần lớn là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ (chỉ từ 1-2

lao động) hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực thương mại và dịch vụ nên không sử

dụng nhiều lao động, số lao động làm việc tại đơn vị lại không thường xuyên hoặc

chủ yếu là sử dụng nguồn lao động mang tính chất gia đình hay thành lập doanh

nghiệp với mục đích hợp thức hóa việc xuất hóa đơn, đấu thầu nên không có nguồn

lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc;

+ Việc tuân thủ pháp luật về lao động, BHXH, BHYT, BHTN của một bộ

phận người sử dụng lao động và người lao động chưa cao đặc biệt là khu vực doanh

nghiệp ngoài quốc doanh. Có tình trạng khi doanh nghiệp tham gia BHXH cho

người lao động thì lập tức họ nghỉ việc chuyển làm việc khác với lý do không muốn

bỏ số tiền ra cho nhiều năm về sau trong khi cuộc sống hằng ngày vẫn c n khó khăn

76

vì thế doanh nghiệp lại khó khăn trong việc tuyển dụng lao động dẫn đến chủ sử

dụng lao động không tham gia BHXH để giữ chân người lao động;

+ Một số đơn vị không ký HĐLĐ cho người lao động, hoặc hợp đồng miệng

(lao động trong ngành xây dựng, lao động gia công tại nhà..) nên không có căn cứ

yêu cầu đơn vị đăng ký tham gia BHXH cho người lao động;

+ Một số doanh nghiệp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh do

mới kinh doanh, đang trong giai đoạn vừa làm, vừa học hỏi, năng lực tài chính c n

hạn chế …;

+ Một số doanh nghiệp tìm mọi cách lách luật để trốn đóng BHXH, BHYT

bằng cách ký HĐLĐ không liên tục dưới 1 tháng, chấm công, thanh toán tiền lương,

tiền công dưới 14 ngày công;

+ Nhiều doanh nghiệp không tiếp cận được vì đơn vị không c n tại địa chỉ

kinh doanh hoặc không hợp tác với cơ quan BHXH.

* Đánh giá kết quả thực hiện chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH

hằng năm.

Từ năm 2016 đến nay, UBND thành phố đã triển khai nhiều biện pháp tuyên

truyền phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN, do đó số người tham gia

BHXH bắt buộc hàng năm đều hoàn thành đạt và vượt mức chỉ tiêu được giao.

Luật BHXH số 58/2018/QH13 ngày 20/11/2014 ra đời đã mở rộng thêm

nhiều đối tượng làm tăng độ bao phủ tham gia BHXH. Đặc biệt từ ngày 01/01/2018

mở rộng thêm đối tượng công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam và lao

động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng đã đảm bảo quyền lợi, tạo sự

công bằng giữa những người tham gia quan hệ lao động. Qua triển khai thực hiện

cho thấy:

+ Đối tượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã: quy định này giúp

cho cán bộ không chuyên trách ở cấp xã được tiếp cận và thụ hưởng chính sách

BHXH góp phần tăng diện bao phủ BHXH, đây là mong muốn của đối tượng, đồng

thời trong quá trình thực hiện thuận lợi.

+ Đối tượng người lao động có hợp đồng lao động từ 01 đến dưới 03 tháng: theo quy

định đối tượng này thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc từ ngày 01/01/2018, tuy

nhiên qua triển khai cho thấy các tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động, đặc biệt là

doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần vốn góp tư nhân tiếp tục trốn đóng BHXH cho

người lao động, thông thường các hình thức trốn đóng không ký hợp đồng lao động

77

hoặc hợp đồng lao động nhưng kéo dài thời gian thử việc, học việc, thuê lao động,

hoặc lập riêng 01 bảng thanh toán tiền lương cho số lao động này... dẫn đến đối tượng

này không tăng như sự kỳ vọng.

* Các giải pháp đã thực hiện nhằm mở rộng đối tượng tham gia.

Hàng năm, UBND thành phố triển khai các giải pháp nhằm mở rộng đối

tượng tham gia:

+ Bám sát và triển khai có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại

các văn bản của Tỉnh ủy, UBND tỉnh triển khai Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày

22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác

BHXH, BHYT giai đoạn 2012 - 2020; Quyết định số 538/QĐ-TTg ngày 29/3/2013

của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân

giai đoạn 2012-2015 và 2020; Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 26/12/2016 của Thủ tướng

Chính phủ về tăng cường thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp phát triển đối tượng

tham gia BHXH.

+ Bám sát kế hoạch UBND tỉnh giao và tình hình thực tế của thành phố,

ngay từ đầu năm UBND thành phố đã xây dựng, giao chỉ tiêu kế hoạch cho các

phường, xã để triển khai thực hiện.

+ Đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông

tin, phối hợp với hệ thống Bưu điện tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp

trong đăng ký tham gia và thu nộp BHXH, BHYT, BHTN….

- Đánh giá tình hình thực một số chế độ BHXH:

Từ năm 2016 đến nay, UBND thành phố đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn

thực hiện có hiệu quả Luật BHXH đặc biệt là một số chế độ, quy định mới được bổ

sung từ Luật năm 2014, cụ thể: Người bị bệnh cần chữa trị dài ngày hưởng tối đa

180 ngày, sau đó nếu tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức

thấp hơn (không được bù đủ tiền lương cơ sở); thời gian hưởng tối đa bằng thời

gian đã đóng BHXH; mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày tăng lên; đối với chế độ

nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản: Quy định một mức hưởng

chung cho một ngày bằng 30% mức lương cơ sở. Về chế độ thai sản có nhiều điểm

mới theo hướng có lợi cho người lao đông: Quy định lao động nam có đóng BHXH

được nghỉ thai sản khi vợ sinh con với thời gian từ 5 đến 14 ngày làm việc tùy theo

số con được sinh và cách thức sinh con; có quy định hưởng chế độ thai sản đối với

lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; Nếu người vợ không

tham gia đóng BHXH hoặc đóng BHXH chưa đủ điều kiện khi nghỉ thai sản thì

78

người chồng mà có tham gia BHXH được hưởng trợ cấp một lần bằng hai tháng

lương cơ sở; Chế độ hưu trí cũng được sửa đổi, bổ sung nhiều nhất hướng đến đảm

bảo công bằng (trong đó có bình đẳng giới). Về chế độ tử tuất: Nhằm đảm bảo tốt

hơn quyền lợi cho thân nhân của NLĐ, Luật bổ sung quy định cho phép thân nhân

NLĐ đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất

một lần, trừ trường hợp có thân nhân là con dưới 6 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà

bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Ngoài ra, mức trợ cấp tuất một lần

cũng được tăng từ 1,5 tháng lên 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng

BHXH mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi.Đặc biệt đối với người tham gia

BHXH tự nguyện từ ngày 01/01/2018 được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng theo tỷ lệ

phần trăm trên mức đóng BHXH hằng tháng theo mức chuẩn hộ nghèo của khu vực

nông thôn. Cụ thể: Bằng 30% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ

nghèo; Bằng 25% đối với người tham gia BHXH tự nguyện thuộc hộ cận nghèo;

Bằng 10% đối với các đối tượng khác, thời gian hỗ trợ tùy thuộc vào thời gian tham

gia BHXH tự nguyện thực tế của mỗi người nhưng không quá 10 năm (120

tháng)…. Việc Nhà nước hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện, dù mức hỗ trợ này c n

khiêm tốn nhưng cũng đã tạo sức hút để người dân tham gia BHXH tự nguyện.

Về quy trình, thủ tục hồ sơ: được thực hiện nghiêm túc, đơn giản, tạo điều kiện

thuận lợi nhất cho đơn vị sử dụng lao động và người dân. Quá trình tiếp nhận hồ sơ

và giải quyết thủ tục hành chính về BHXH không yêu cầu phát sinh thêm thủ tục,

Từ 01/01/2017 các tổ chức, cá nhân đến giao dịch với cơ quan BHXH hoàn toàn

không phải trả bất cứ loại phí, lệ phí nào. Các tổ chức, cá nhân chỉ cần giao dịch tại

một đầu mối là Bộ phận Tiếp nhận và trả kết quả của cơ quan BHXH để được

hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ, giải quyết và nhận kết quả.

Các TTHC giải quyết tại BHXH thành phố hay liên thông đều đảm bảo giải quyết

nhanh chóng, thuận tiện và đúng thời gian quy định. Một số thủ tục giải quyết chế

độ chính sách đã giảm từ 30% đến 50% thời gian so với trước đây, đối với thủ tục

cấp lại thẻ BHYT do mất, hỏng thì thực hiện ngay trong ngày, đối với hồ sơ giải

quyết chế độ hưu trí, tử tuất, chế độ ngắn hạn, giải quyết trợ cấp BHXH một lần,

cấp sổ BHXH đảm bảo giải quyết và trả kết quả đúng hoặc trước thời gian quy định.

Vấn đề trục lợi hưởng các chế độ BHXH: Hiện nay tình trạng trục lợi quỹ

BHXH vẫn diễn ra tại một số đơn vị sử dụng lao động đặc biệt là giải quyết các chế

độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản. Điều này

không chỉ tạo sự bất bình đẳng trong tầng lớp dân cư mà c n ảnh hưởng đến quỹ

79

bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội. Để đảm bảo quyền lợi của người lao động, hạn chế tối

đa tình trạng lạm dụng quỹ BHXH, BHYT, BHXH thành phố thực hiện rà soát hồ sơ

trước khi giải quyết; thực hiện có hiệu quả chuyên đề tăng cường công tác ngăn chặn tình

trạng lạm dụng gây thất thoát quỹ ốm đau, thai sản quỹ BHTN.

Để đảm bảo quyền lợi của người lao động, hạn chế tối đa tình trạng lạm dụng quỹ

BHXH, BHYT, Bảo hiểm xã hội thành phố thực hiện rà soát hồ sơ trước khi giải quyết;

Thực hiện công tác hậu kiểm theo quy định hạn chế tình trạng trốn đóng, gửi đóng

BHXH; thực hiện có hiệu quả chuyên đề tăng cường công tác ngăn chặn tình trạng lạm

dụng gây thất thoát quỹ ốm đau, thai sản quỹ BHTN.

Năm 2017: Qua kiÓm tra, hậu kiểm ®· thu hồi 49,8 triệu đồng chi ốm đau thai

sản do phát hiện đơn vị có sai phạm, cắt giảm 04 đối tượng báo giảm chậm.

Năm 2018. Qua kiÓm tra, hậu kiểm ®· thu hồi 109,4 triệu đồng chi ốm đau

thai sản tại 25 đơn vị do phát hiện có sai phạm.

Tình trạng hưởng BHXH một lần:

Từ năm 2016 đến 30/9/2019, trên địa bàn thành phố có 2.121 người hưởng

BHXH một lần - một con số tương đối lớn. Thực trạng này không có xu hướng

giảm mà ngày càng gia tăng trong số đó có rất nhiều lao động hơn 35 tuổi trong các

doanh nghiệp do bị mất việc nên hưởng BHXH một lần. Để hạn chế tình trạng này,

Bảo hiểm xã hội thành phố Phủ Lý đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn cho

người dân và người lao động. giúp họ nắm bắt được quyền lợi khi tham gia BHXH để

hưởng lương hưu là vượt trội, thể hiện đúng bản chất nhân văn của chính sách.tự

nhận thức thấy việc hưởng BHXH một lần là không nên, bảo lưu thời gian đóng sau

khi có điều kiện tiếp tục tham gia BHXH để được đảm bảo an sinh xã hội khi về già.

Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH thường xuyên: Hiện nay, BHXH

thành phố đang quản lý, chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH thường xuyên cho 12.600

người. Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng được thực hiện an toàn

qua hệ thống Bưu điện và qua tài khoản ATM; thủ tục hành chính trong lĩnh vực chi

trả đơn giản, tạo thuận lợi cho người thụ hưởng, đảm bảo an toàn về tiền mặt.

- Năm 2016: Chi trả cho 12.322 người với số tiền là.473,95 tỷ đồng.

+ Chi đối tượng hưởng BHXH tự nguyện ;à 715.631.457 đồng.

- Năm 2017: chi trả cho 12.437 người với số tiền là 482,46 tỷ đồng.

+ Chi đối tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,41 tỷ đồng.

- Năm 2018: Chi trả cho12.596 người với số tiền chi: 531 tỷ đồng.

+ Chi đối tượng hưởng hưu BHXH tự nguyện là 1,8 tỷ đồng.

80

- Năm 2019 chi trả cho12.712 người với số tiền 432,48 tỷ đồng.

Công tác chi trả các chế độ BHXH: Bảo hiểm xã hội đang thực hiện chi trả các

chế độ BHXH bằng các hình thức: Chi trực tiếp, chi trả qua bưu điện và chi trả qua

tài khoản cá nhân. Trong đó, hình thức chi trả qua bưu điện đóng vai tr chủ

đạo.Trong những năm qua, công tác phối hợp giữa hai ngành đã có những bước

phát triển đáng kể, đã xây dựng những giải pháp nâng cao hiệu quả trong tổ chức

thực hiện, đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH,

BHYT. Tuy nhiên vẫn c n một số tồn tại, hạn chế như vẫn c n tình trạng ký thay,

nhận hộ các chế độ BHXH hàng tháng, đối với đối tượng nhận tiền qua thẻ ATM,

Bưu điện thành phố chưa có giải pháp hữu hiệu để quản lý, việc quản lý đối tượng,

báo tăng, báo giảm đôi khi vẫn chưa kịp thời. Để khắc phục tình trạng này, Bảo

hiểm xã hội thành phố phối hợp với Bưu điện Thành phố tăng cường kiểm tra, kiểm

soát; tập huấn cho nhân viên bưu điện để kịp thời cập nhật kiến thức về các quy

định mới về chính sách BHXH, BHYT.

đ. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về BHXH

- Công tác thanh tra kiểm tra của ngành LĐTBXH: Trong thời gian vừa qua,

Thanh tra thành phố cùng với Ph ng LĐTBXH và BHXH thành phố thực hiện

kiểm tra tại 16 đơn vị qua công tác kiểm tra đã đôn đốc và tuyên truyền cho các đơn

vị thực hiện đúng các quy định của luật BHXH.

- Công tác thanh tra, kiểm tra của ngành BHXH: Cơ quan BHXH cấp huyện

không có chức năng thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đóng về BHXH. Tuy nhiên

trong thời gian vừa qua đã kiến nghị đề xuất với BHXH tỉnh thực hiện thanh tra,

kiểm tra đối với 210 đơn vị, xử phạt 17 đơn vị vi phạm, thu về quỹ số tiền

334.864.947 đồng.

- Công tác khởi kiện khởi tố trong lĩnh vực BHXH: Bảo hiểm xã hội

(BHXH) là chính sách xã hội đặc biệt quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an

sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính

trị và phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Tuy nhiên, thời gian qua, tình trạng doanh

nghiệp nợ và trốn đóng BHXH cho người lao động (NLĐ) diễn ra phổ biến với số

tiền nợ BHXH của doanh nghiệp đối với NLĐ đã lên tới chục tỷ đồng.Theo quy

định của Luật Bảo hiểm xã hội thì tổ chức công đoàn (CĐ) có quyền khởi kiện

doanh doanh nợ, trốn đóng BHXH. Tuy nhiên, đến thời điểm này, công tác khởi

kiện c n nhiều vướng mắc do quy định của luật đang có sự chồng chéo và bất cập

trong việc khởi kiện các doanh nghiệp nợ, trốn đóng BHXH. Chính vì vậy trong

81

thời gian qua trên địa bàn thành phố mới chỉ khởi kiện được doanh nghiệp 01 doanh

nghiệp ra t a ( năm 2014).

e.Giải quyết khiếu nại và tố cáo về BHXH.

Do làm tốt công tác tuyên truyền phổ biến chính sách về BHXH nên trong

thời gian qua toàn thành phố không xảy ra khiếu nại, tố cáo về BHXH.

III. Kiến nghị và đề xuất:

- Đề nghị sửa đổi đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cả chủ hộ

kinh doanh cá thể.

- Có chính sách hỗ trợ đối tượng tham gia BHXH tự nguyện từ ngân sách của tỉnh.

- Thường xuyên kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của nhân viên

đại lý thu. Theo dõi, đánh giá hiệu quả từng Đại lý thu để kịp thời chấn chỉnh đưa

vào nề nếp.

- Tăng cường tổ chức các buổi tập huấn về kỹ năng, phương pháp truyền

thông về BHXH, BHYT cho nhân viên Đại lý thu và cán bộ chủ chốt ở cơ sở thuộc

Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên cộng

sản Hồ Chí Minh, cán bộ dân số, cán bộ trạm y tế.

Trên đây là báo cáo tổng kết thi hành luật BHXH giai đoạn 2016 - 2020.

UBND thành phố Phủ Lý trân trọng báo cáo./.

Nơi nhận: - UBND tỉnh; - Sở LĐTB&XH tỉnh ;( để b/c) - Chủ tich UBND TP; - Lưu VP, LĐTBXH.

TM. UỶ BAN NHÂN DÂN KT CHỦ TỊCH PHÓ CHỦ TỊCH Lê Văn Dũng

82

Phụ lục 3: Một số hình ảnh hoạt động trong thực hiện an sinh xã hội ở thành phố Phủ Lý

Thăm và tặng quà nhân dịp 73 năm ngày thương binh liệt sĩ.

Lễ dâng hương và tri ân các anh hùng liệt sĩ.

83

Tặng quà cho các gia đình chính sách.

Thăm và tặng quà gia đình chính sách, hộ nghèo.

84

Tư vấn, khám bệnh, cấp phát thuốc miễn phí.

Hỗ trợ vay vốn lãi suất thấp cho hộ nghèo, hộ cận nghèo.

85