TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN

KHOA TRIẾT HỌC

-----------------------

TRẦN THỊ THU HƢƠNG

TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ

NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH

QUYỀN” VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ

NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2016-X

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS Nguyễn Thúy Vân

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận “Tư tưởng của John Locke về phân chia

quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”và ý

nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay”

là công trình nghiên cứu của tôi và được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của

Giảng viên – PGS. TS Nguyễn Thúy Vân

Hà Nội, ngày tháng năm 2020

Sinh viên

Trần Thị Thu Hương

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS Nguyễn

Thúy Vân, người trực tiếp tận tình hướng dẫn và động viên tinh thần trong suốt

quá trình giúp em hoàn thành khóa luận. Em cũng xin cảm ơn các thầy, cô giáo

giảng dạy trong Khoa Triết học cũng như các thầy cô trong chuyên ban Logic

học và các thầy cô trong trường đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức bổ ích để

thực hiện khóa luận và trang bị cho mình hành trang vững chắc cho sự nghiệp

sau này.

Mặc dù đã nỗ lực hết sức để hoàn thành khóa luận này, tuy nhiên với khả

năng có hạn nên khóa luận tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, em mong nhận

được sự góp ý từ phía thầy cô và các bạn để em tiến bộ hơn nữa trong học tập và

nghiên cứu.

Bên cạnh đó, dù đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu cũng như sự giúp

đỡ nhiệt tình từ các thầy cô và anh chị, nhưng do giới hạn kiến thức và khả năng

lý luận của bản thân còn nhiều hạn chế, kính mong nhận được sự góp ý và chỉ

dẫn của các thầy cô để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 23 tháng 06 năm 2020

Sinh viên

Trần Thị Thu Hương

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 3

1.Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 3

2.Tình hình nghiên cứu ......................................................................................... 4

3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 9

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................ 9

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 10

6. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................ 10

7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................ 10

CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ

TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ

NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH

QUYỀN” ............................................................................................................. 12

1.1.Những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành tƣ tƣởng của John

Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc ......................................................... 12

1.2. Tiền đề lí luận cho sự hình thành tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà

nƣớc của John Locke ........................................................................................ 18

1.2.1. Tiền đề tư tưởng .................................................................................. 18

1.1.2.Quan niệm của John Locke về bản tính con người và quyền con người25

1.3. Khát quát về cuộc đời, sự nghiệp của John Locke và tác phẩm “Khảo

luận thứ hai về chính quyền” ........................................................................... 31

1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp của John Locke .............................................. 31

1.3.2.Tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” ................................... 33

Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................. 36

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ

PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO

LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” .......................................................... 38

1

2.1. Quan niệm của John Locke về nguồn gốc và đặc điểm của quyền lực nhà

nƣớc ................................................................................................................................... 38

2.1.1. Về nguồn gốc hình thành quyền lực nhà nước ................................... 38

2.1.2. Về đặc điểm của quyền lực nhà nước ................................................. 42

2.2. Tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke ................ 46

2.2.1. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước ......................................... 47

2.2.2. Quan niệm của John Locke về vai trò cụ thể của các bộ phận quyền

lực nhà nước .................................................................................................. 51

2.2.3. Mối quan hệ giữa các bộ phận quyền lực trong bộ máy nhà nước ..... 60

Kết luận chƣơng 2 ............................................................................................. 69

CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA TƢ TƢỞNG CỦA JOHN

LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM

“KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG

NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................................... 72

3.1. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền nhà

nƣớc ................................................................................................................................... 72

3.1.1. Những giá trị cơ bản trong tư tưởng của John Locke về phân chia

quyền lực nhà nước ....................................................................................... 72

3.1.2.Một số hạn chế chủ yếu trong tư tưởng của John Locke về phân chia

quyền lực nhà nước ....................................................................................... 76

3.2.Ý nghĩa tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc đối

với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay .................... 77

3.2.1. Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

hiện nay ......................................................................................................... 77

3.2.2. Ý nghĩa tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của John Locke đối

với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay ................... 83

Kết luận chƣơng 3 ............................................................................................. 93

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 97

2

MỞ ĐẦU

1.Lý do chọn đề tài

“Mọi quyền lực đều hướng tới tha hóa. Quyền lực tuyệt đối thì tha hóa

tuyệt đối”. Câu nói trên của sử gia người Anh – Baron Acton đã trở thành một

kết luận đanh thép về bản chất quyền lực. Quyền lực luôn có xu hướng mở rộng

và tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực thì ở đó xuất hiện

xu hướng lạm quyền, chuyên quyền, dù quyền lực ấy thuộc về bất cứ ai . Nhà

nước là một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt của xã hội, từ khi ra đời đến nay

có rất nhiều nhà tư tưởng đã luôn suy tư, trăn trở tìm hiểu bản chất, quy luật vận

động của nhà nước trong lịch sử phát triển của nhân loại để nhằm mục đích tìm

cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước sao cho có hiệu quả nhất và

ngăn ngừa những mặt hạn chế của nó, hướng đến một mô hình nhà nước lí

tưởng, đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Chính bởi lẽ ấy mà ngay

từ thời cổ đại, các triết gia đã không ngừng trăn trở và suy tư về cách thức xây

dựng một mô hình nhà nước lý tưởng, đem lại hạnh phúc cho con người.

Trong dòng chảy lịch sử tư tưởng ấy, John Locke (1632 - 1704) là một

trong những tên tuổi nổi bật nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây cận đại thế

kỷ XVII. Locke để lại rất nhiều tác phẩm cho hậu thế sau này, trong đó “Khảo

luận thứ hai về chính quyền” được coi là một trong những danh tác chính trị thế

giới, có giá trị lí luận về khoa học chính trị cũng như triết học và nhiều ngành

khoa học xã hội khác, đưa tên tuổi của ông trở thành một nhà tư tưởng chính trị

sắc xuất thời kì cận đại ở Tây Âu nói riêng và nhân loại nói chung. Trong tác

phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, Locke đã đưa ra kiến giải sâu sắc về

nhà nước, trong đó quan niệm của ông về quyền lực nhà nước và sự phân chia

quyền lực nhà nước. Mặc dù, chưa đưa ra được khái niệm nhà nước pháp quyền

nhưng ở trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” Locke đã trình bày

những tư tưởng tiến bộ và cách mạng về phân chia quyền lực nhà nước là cơ sở

3

nền tảng của nhà nước pháp quyền. Cho tới nay, gần 4 thế kỉ trôi qua, nhưng sức

hấp dẫn và lôi cuốn của tác phẩm không bị phai mờ. Những quan niệm của John

Locke về sự phân chia quyền lực nhà nước không chỉ có giá trị về mặt lý luận

mà còn ở giá trị hiện thời sâu sắc đối với quá trình xây dựng nhà nước pháp

quyền ở Việt Nam hiện nay.

Việt Nam đang đi trên con đường thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước

pháp quyền với nhiều thách thức lớn trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế, làn sóng cuộc cách mạng công nghệ 4.0,… có nhiều những vấn đề thực

tiễn đặt ra cần phải giải quyết. Trong những năm qua, Đảng ta lãnh đạo xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân cho dân và vì dân, quyền

lực nhà nước tập trung thống nhất không phân chia, mà chỉ có sự phân công,

phối hợp hoạt động giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, với mục

đích đảm bảo hiệu quả hoạt động nhà nước và ngăn ngừa sự lạm quyền. Vì vậy,

việc trở lại nghiên cứu những tư tưởng của phương Tây thời kì cận đại với

những quan điểm về nhà nước, quyền lực, xã hội công dân, về con người,

…trong đó có tư tưởng của John Locke có ý nghĩa lý luận quan trọng trong quá

trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Do vậy, với tất cả những lý do trên, tôi chọn “Tư tưởng của John Locke

về phân chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về

chính quyền”và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở

Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.

2.Tình hình nghiên cứu

Tư tưởng về phân chia quyền lực nhà nước là nội dung thu hút nhiều sự

quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau. Liên quan đến đề

tài khóa luận có thể khái quát công trình nghiên cứu thành hai hướng chính như

sau:

4

Hướng nghiên cứu thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu đề cập đến

tư tưởng triết học của John Locke nói chung và tác phẩm “Khảo luận thứ hai về

chính quyền” nói riêng

Đối với hướng nghiên cứu tập trung vào tư tưởng triết học của John

Locke nói chung gồm có nhiều công trình như:

+ Cuốn Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên. Trong cuốn sách,

tác giả đã trình bày các quan niệm triết học của John Locke nhưng chủ yếu tập

trung vào phương diện nhận thức luận, chưa đề cập đến triết học chính trị của

Locke.

+ Giáo trình Lịch sử các học thuyết chính trị do Nguyễn Đăng Dung chủ

biên đã trình bày một cách khái quát triết học chính trị của John Locke với

những nội dung chủ yếu được khảo sát từ tác phẩm “Khảo luận thứ hai về

chính quyền”. Các quan niệm của John Locke về pháp quyền tự nhiên, và nhà

nước đã được trình bày còn sơ lược và chưa mang tính hệ thống.

+ Cuốn Đại cương lịch sử triết học phương Tây của TS. Đỗ Minh Hợp,

TS. Nguyễn Thanh, TS. Nguyễn Anh Tuấn phân tích khá toàn diện về các quan

niệm triết học của John Locke. Tuy nhiên, những quan niệm chính trị - xã hội

của J. Locke cũng được các tác giả trình bày và phân tích mang tính hệ thống.

Ngoài ra, tư tưởng triết học của Locke nói chung và tư tưởng về nhà nước

nói riêng còn được đề cập đến trong các giáo trình như: cuốn Lịch sử triết học

phương Tây từ triết học Hy Lạp cổ đại đến triết học cổ điển Đức của Nguyễn

Tấn Hùng, Đại cương các tư tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới do

Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên, cuốn Lịch sử triết học phương Tây của Nguyễn

Tiến Dũng, cuốn Lịch sử các học thuyết chính trị của Lưu Kiểm Thanh và Phạm

Hồng Thái, cuốn Lịch sử tư tưởng chính trị của Học viện hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, cuốn Lịch sử triết học phương Tây của Trần Văn Phòng và

5

Dương Minh Đức...Nhìn chung các công trình trên chủ yếu bàn về quan điểm

chính trị, xã hội của John Locke như một phần không thể thiếu trong tư tưởng

chính trị cận đại ở phương Tây.

Bên cạnh đó, còn rất nhiều công trình nước ngoài viết về John Locke đã

được dịch và xuất bản. Trước hết phải kể đến cuốn sách 106 nhà thông thái của

P.S.Taranop biên soạn, do TS. Đỗ Minh Hợp dịch, hiệu đính và cho xuất bản

năm 2000. Tiếp đến, tác phẩm 100 cuốn sách ảnh hưởng khắp thế giới do Đặng

Thục Sinh (chủ biên) xuất bản năm 2002. Trong đó, tác giả đã trình bày khái

quát những nội dung chủ yếu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính

quyền” của John Locke và cũng đã khẳng định giá trị to lớn của những tư tưởng

về quyền con người và nhà nước trong tiến trình phát triển của nhân loại. Tác

phẩm Các triết thuyết lớn, của tác giả Folscheid Dominique do Huyền Giang

dịch và được xuất bản năm 2003. Trong cuốn sách này, tác giả đã giới thiệu cho

bạn đọc sơ lược về tiểu sử cùng học thuyết chính trị của John Locke với hai nội

dung chính là trạng thái tự nhiên và khế ước xã hội. Hay như công trình Lịch sử

triết học và các luận đề của Samuel Enoch Stumpf, Đỗ Văn Thuấn và Lưu Văn

Huy biên dịch xuất bản năm 2004, đã giới thiệu khái quát về cuộc đời, các tác

phẩm tiêu biểu và các quan niệm triết học cơ bản là học thuyết về nhận thức và

lý thuyết về đạo đức và chính trị của John Locke nhưng mới chỉ dừng ở mức

giới thiệu sơ lược, các vấn đề đưa ra còn thiếu sự phân tích.

Đối với hướng nghiên cứu tập trung về tác phẩm “Khảo luận thứ hai về

chính quyền” và tư tưởng của John Locke được thể hiện trong tác phẩm. Ở

hướng nghiên cứu này tập trung ở các luận văn, tạp chí, bài báo nghiên cứu gồm

có:

+ Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Dịu (2009) với đề tài “Quan niệm

chính trị xã hội của John Locke” với hai nội dung chính quan niệm chính trị và

xã hội. Tác giả nghiên cứu làm rõ quan niệm của ông về con người và quyền con

6

người, cũng như về quyền lực nhà nước và quan niệm của ông về sự giải thể của

chính quyền. Tuy nhiên, tác giả chưa đưa ra những kiến giải cụ thể về nguồn

gốc, bản chất, chức năng của nhà nước, cũng chưa chỉ ra được cơ sở hình thành

quan niệm về nhà nước.

+ Luận văn Thạc sỹ của Đinh Thị Hồng Vững (2013) với đề tài, “Quan

niệm của John Locke về nhà nước trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính

quyền”. Trong tác phẩm tác giả đã trình bày chi tiết cụ thể quan niệm về nhà

nước từ nguồn gốc hình thành, mục đích, giới hạn, cũng như sự phân chia quyền

lực và giải thể chính quyền.

+ Luận văn Thạc sỹ của Đặng Thị Loan (2017) với đề tài “Quan niệm của

John Locke về sở hữu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”” và

giá trị hiện thời của nó”. Trong luận văn, tác giả đưa ra kiến giải về quan niệm

nguồn gốc, bản chất của sở hữu và phương thức bảo đảm quyền tư hữu.

Khi nghiên cứu về John Locke chúng ta không thể không nhắc đến nỗ lực

của dịch giả Lê Tuấn Huy, đã dịch một cách thành công tác phẩm “Khảo luận

thứ hai về chính quyền” và được xuất bản vào năm 2007 và tái bản năm 2013.

Trong suốt quyển sách này, tác giả đã giới thiệu một cách chi tiết về John

Locke, khái quát nội dung tác phẩm và dịch toàn bộ tác phẩm này sang tiếng

Việt.

Bên cạnh đó, cũng có nhiều tạp chí, bài báo khoa học có liên quan như:

Quan niệm của John Locke về quyền sở hữu trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai

về chính quyền” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền (2012), Một số tư tưởng

triết học chính trị của John Locke: Thực chất và ý nghĩa lịch sử của Đinh Ngọc

Thạch (2007), John Locke -Nhà tư tưởng lớn của phong trào khai sáng của

Phạm Văn Đức (2008), Quan niệm của John Locke về sự hình thành và bản chất

quyền lực nhà nước trên Tạp chí Thông tin chính trị và Locke và Triết lí về con

người của Lê Công Sự trên tạp chí con người….

7

Hướng nghiên cứu thứ hai là những công trình nghiên cứu sâu về tư tưởng

phân chia quyền lực của John Locke, bao gồm:

+ Cuốn Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy

nhà nước ở một số nước của tác giả Nguyễn Thị Hồi được Nxb Tư pháp Hà Nội

xuất bản năm 2005. Trong cuốn sách này tác giả đã nghiên cứu tư tưởng phân

chia quyền lực trong lịch sử triết học từ Aristotle, Locke, Montesqieu,

Rousseau…và việc áp dụng tư tưởng phân quyền ở một số nước tiêu biểu trên

thế giới.

+ Cuốn Nhà nước pháp quyền của tác giả Đào Trí Úc được Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2015. Cuốn giáo trình này có đi sâu nghiên cứu

hệ thống về Nhà nước pháp quyền, phân tích, lý giải khoa học về tính phổ quát

và tính quốc gia, dân tộc đặc thù của Nhà nước pháp quyền, khẳng định Nhà

nước pháp quyền là phương thức tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước phù hợp

với điều kiện và đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ta dưới

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, khái quát những đặc trưng cơ bản của

Nhà nước pháp quyền, coi đó là yếu tố hợp thành Nhà nước pháp quyền với tính

cách là những yêu cầu, đòi hỏi, là hệ thống các nguyên tắc tổ chức thực hiện

quyền lực Nhà nước; phân tích và khái quát quá trình phát triển của các yếu tố

cần và đủ cho việc xác lập và củng cố Nhà nước pháp quyền, từ đó chỉ ra nhu

cầu bổ sung, hoàn thiện trong việc đổi mới tổ chức, cơ chế, phương thức hoạt

động, cơ sở pháp lý,… cho các thiết chế quyền lực Nhà nước và các thiết chế xã

hội nhằm đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước

ta trong giai đoạn hiện nay. Trong cuốn sách tác giả cũng phân tích hệ thống quá

hình thành và phát triển của tư tưởng Nhà nước pháp quyền từ cổ đại đến hiện

đại cơ bản và hệ thống, trong đó phân tích hệ thống tư tưởng phân quyền của

John Locke.

8

Các tài liệu đã đưa ra những luận giải rất logic và rõ ràng khái quát về

toàn bộ tư tưởng của John Locke nói chung, cũng như quan điểm chính trị nói

riêng, trong đó có quan niệm sự hình thành xã hội công dân, về quyền lực nhà

nước, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước. Tuy vậy, có thể nói, việc đi sâu

nghiên cứu quan niệm của John Locke về sự phân chia quyền quyền lực nhà

nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” vẫn cần phải nghiên

cứu sâu hơn để làm rõ những nội dung tư tưởng căn bản cũng như ý nghĩa của tư

tưởng đó đối với xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu: Đề tài làm rõ một số tư tưởng cơ bản về phân chia

quyền lực nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về

chính quyền”, từ đó làm rõ ý nghĩa của những tư tưởng đó đối với việc xây dựng

nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.

- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên, khóa luận tập

trung giải quyết những nhiệm vụ sau:

+ Phân tích những điều kiện, tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng

về phân chia quyền lực nhà nước của John Locke và giới thiệu khái quát về tác

phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”.

+ Phân tích một số quan điểm cơ bản của John Locke về phân chia quyền

lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”.

+ Đánh giá những giá trị và hạn chế trong quan niệm của ông về phân

chia quyền lực nhà nước trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” và

chỉ ra ý nghĩa của nó trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

9

- Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa

Mác – Lênin và dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin trong nghiên

cứu lịch sử triết học; đồng thời kế thừa, tham khảo có chọn lọc các công trình

của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài.

- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp của phép biện

chứng duy vật trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng. Cụ thể là, phương pháp

lôgíc kết hợp với phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và

so sánh…

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của J. Locke về phân chia quyền lực

nhà nước và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam hiện nay

- Phạm vi nghiên cứu: Với những mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu trên,

nên khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của quan niệm về sự

phân quyền nhà nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về

chính quyền” và những nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam từ đổi

mới đến nay.

6. Ý nghĩa của đề tài

Đề tài góp phần vào việc làm sáng tỏ quan niệm về sự phân quyền nhà

nước của John Locke trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, trên

cơ sở đó giúp người nghiên cứu và học tập có những đánh giá khách quan hơn

về công lao của John Locke đối với lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại và ý

nghĩa của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

7. Kết cấu của đề tài

10

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

gồm 3 chương, 7 tiết.

11

CHƢƠNG I: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG

CỦA JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC

TRONG TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN”

1.1.Những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành tƣ tƣởng của John

Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc

Tây Âu từ thế kỉ XV – XVII có những chuyển biến phức tạp và sâu sắc

trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện một loạt các công

trường thủ công, các thành thị và trung tâm thương mại lớn ở khắp các nước ven

Địa Trung Hải, nhất là Ý, sau đó là Anh, Pháp. Bằng việc một loạt các phát

minh kỹ thuật mới như máy kéo sợi, máy in, công nghiệp dệt, luyện kim, thuốc

súng,… đã thay thế nền kinh tế tự nhiên kém phát triển bằng một nền sản xuất

công trường thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn gắn với việc nhiều

công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện.

Các cuộc phát kiến địa lý như tìm ra châu Mỹ và các con đường đến vùng

đất mới cùng với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp đã tạo nên những

tiền đề trực tiếp cho một thời kỳ mới… tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất

theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhờ đó thị trường trao đổi hàng hóa giữa các

nước ngày càng mở rộng, các cuộc giao lưu Đông – Tây được tăng cường.

Những mầm mống tư bản chủ nghĩa đầu tiên đã xuất hiện và phát triển trong

lòng xã hội phong kiến. Đồng thời, sự phân hóa giai cấp ở Tây Âu thời kì này

càng rõ rệt, đó sự nảy sinh hai giai cấp mới: tư sản và vô sản. Tầng lớp tư sản

xuất hiện gồm chủ xưởng công trường, xưởng thợ, chủ thuyền buôn…có vai trò

và vị trí trong nền kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân di cư từ

nông thôn ra thành phố, trở thành người làm thuê cho các công xưởng, họ là giai

cấp vô sản phải bán sức lao động cho nhà tư bản. Các tầng lớp xã hội trên đại

diện cho nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong

kiến.

12

Nền kinh tế tư bản thay thế cho sản xuất phong kiến, nhưng kiến trúc

thượng tầng của xã hội châu Âu lúc này vẫn là chế độ phong kiến lạc hậu kìm

hãm sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Mặc dù nắm trong tay tiềm lực

kinh tế nhưng giai cấp tư sản không có chút địa vị chính trị nào, không có điều

kiện tự do phát triển sản xuất, vẫn phải phụ thuộc vào chế độ phong kiến, vào

giai cấp quý tộc, địa chủ lúc này đã trở nên lạc hậu. Do đó, để có thể tự do phát

triển sản xuất, tự do buôn bán giai cấp tư sản cần phải lật đổ chế độ phong kiến,

giành quyền lực chính trị. Chính vì thế, Tây Âu thời kì này đánh dấu hàng loạt

những cuộc cách mạng tư sản nổ ra, tiêu biểu như cách mạng tư sản năm 1566 ở

Hà Lan, cách mạng tư sản Anh năm 1642, cách mạng tư sản Pháp năm 1789…

Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành phương thức sản xuất thống trị

trở thành một xu thế của lịch sử mà không gì có thể ngăn cản nổi.

Đồng thời, giai đoạn này là giai đoạn phong trào văn hoá Phục hưng và

cận đại phát triển lên đến đỉnh cao vào thế kỷ XVI và lan mạnh ra khắp các nước

tạo thành một cao trào rộng lớn làm biến đổi sâu sắc xã hội, tư tưởng khôi phục

lại những giá trị văn hóa tinh hoa của thời kỳ cổ đại ở Tây Âu, vừa đã thổi bùng

lên những khát vọng giải phóng con người và quyền con người, cụ thể là thoát

khỏi sự kìm kẹp của nhà thờ với những điều luật khắt khe.

Những biến đổi sâu sắc và phức tạp ở Tây Âu trên tất cả các lĩnh vực của

toàn bộ đời sống xã hội thời kì này đã tác động mạnh mẽ đến điều kiện kinh tế,

xã hội và chính trị nước Anh thế kỉ XVII. Chính những biến chuyển mạnh mẽ

của nước Anh nói riêng và cả Tây Âu nói chung trong cuộc đấu tranh gay gắt

giữa tư bản và phong kiến đã làm xuất hiện những tiền đề trực tiếp cho sự ra đời

của quan niệm triết học chính trị của John Locke.

Về kinh tế, nước Anh thế kỉ XVII là một trong những cường quốc ở châu

Âu với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và thương nghiệp. Từ cuối thế kỷ

XVI, các ngành công nghiệp ở Anh đã phát triển rất mạnh. Những phát minh

13

mới về kỹ thuật, nhất là những hình thức mới trong lao động đã tạo ra năng suất

lao động ngày một cao, thay đổi căn bản cách thức sản xuất chủ yếu bằng lao

động thủ công sang sử dụng máy móc và từng bước hình thành cơ cấu công

nghiệp hoàn chỉnh, từ sản xuất quy mô nhỏ lên quy mô lớn với sự xuất hiện các

khu công nghiệp. Đặc biệt là ngành nghiệp sản xuất len dạ cung cấp một lương

hàng xuất khẩu chiếm 80% toàn bộ hàng xuất khẩu ở Anh. Đây là thời kỳ các

phường hội trung cổ ở Anh đến thế kỷ XVII đã đi đến chỗ tan rã. Công trường

thủ công với nền sản xuất quy mô lớn xuất hiện thay thế cho các phường hội

trung cổ. Các chủ thủ công nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong

nền kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư

sản, thợ thủ công trở thành lao động làm thuê trong các công trường thủ công,

phải lệ thuộc vào nhà tư sản. Thương nghiệp của Anh trong thời kỳ này cũng có

bước phát triển vượt bậc trên thị trường thế giới. Thương nhân mở rộng buôn

bán trên khắp châu Âu, thông qua những con đường hàng hải mới tìm được

trong các cuộc phát kiến địa lý mở rộng thị trường buôn bán từ biển Ban Tích

sang tận châu Phi, châu Á và cả châu Mỹ. Các công ty buôn bán lớn lần lượt

xuất hiện như công ty Đông Ấn của Anh thành lập năm 1600…

Đầu thế kỉ XVII, nước Anh mặc dù đạt được một số thành tựu về công

thương nghiêp nhưng vẫn là một nước nông nghiệp. Để có được lợi nhuận, giai

cấp tư sản không từ một thủ đoạn nào để tước đoạt ruộng đất của nông dân . Do

sự phát triển của ngành công nghiệp len dạ ngày càng lớn mạnh nên nghề nuôi

cừu càng phát triển. Địa chủ lúc này không thỏa mãn với thu nhập từ địa tô nông

dân nộp cho, muốn chuyển hướng kinh doanh sang trồng cỏ nuôi cừu. Do đó,

giới địa chủ Anh đã tước đoạt ruộng đất của nông dân đang cày cấy và đất đai

công xã thành của mình. Biến ruộng đất thành những cánh đồng trồng cỏ hoặc

tự mình kinh doanh nuôi cừu hoặc nuôi cừu thuê. Nông dân mất ruộng đất, nhà

cửa. Họ trở thành những người không có bất cứ cái gì cả, không có một tài sản

nào khác ngoài chính thân thể của mình và đem bán chính sức lao động của

14

mình để kiếm sống, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người nông dân ra khỏi

tư liệu sản xuất từ đây trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới đó là giai cấp vô

sản. Đó là thảm cảnh cừu ăn thịt người mà Thomas More đã đặc tả trong tác

phẩm Utopia. Tất cả đó nói lên sự xâm nhập mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản vào

nông thôn và làm chuyển biến kinh tế nông nghiệp phong kiến ở Anh thành kinh

tế nông nghiệp tư bản chủ nghĩa.

Những chuyển biến về kinh tế tất yếu kéo theo những biến đổi sâu sắc

trong lòng xã hội nước Anh. Các tầng lớp trong xã hội nước Anh có sự phân hóa

và mâu thuẫn sâu sắc. Bên cạnh mâu thuẫn cũ tồn tại lâu đời giữa nông dân với

giai cấp phong kiến, trong lòng xã hội nước Anh còn xuất hiện nhiều mâu thuẫn

mới.

Thứ nhất, đó là mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc mới với tầng lớp cũ tộc

cũ. Tầng lớp quý tộc cũ là tầng lớp có địa vị cao trong xã hội, có nhiều đặc

quyền đặc lợi hơn, ra sức bảo vệ và ủng hộ chế độ quân chủ chuyên chế. Trong

khi đó, tầng lớp quý tộc mới, tức quý tộc đã tư sản hóa, có quyền lợi gắn chặt

giai cấp tư sản không chỉ thu địa tô mà phần lớn lợi nhuận là từ sản xuất công

thương nghiệp. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của phương thức sản xuất tư

bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã vươn lên trở thành một lực lượng có tiềm lực

kinh tế mạnh trong xã hội ở Anh, nhưng họ lại không có chút quyền lực và địa

vị chính trị nào. Nền quân chủ chuyên chế với những thể chế bảo thủ, can thiệp

quan liêu vào toàn bộ đời sống, trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của

của lực lượng sản xuất mới, đại diện là giai cấp tư sản. Chính bởi vậy, một tất

yếu là dẫn đến những xung đột về mặt chính trị, giai cấp tư sản luôn không

khoan nhượng, luôn muốn đấu tranh để giành lấy địa vị chính trị từ tay giai cấp

phong kiến.

Thứ hai, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với nhân dân lao động. Họ là

những người lao động nghèo bị cướp hết ruộng đất, biến họ trở thành người vô

15

sản. Họ buộc phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản và các nhà quý tộc

mới để nhận lấy tiền công rẻ mạt. Bị bóc lột nặng nề với 2 tầng xiềng xích nên

họ luôn mang trong mình mâu thuẫn với giai cấp tư sản và phong kiến.

Ở thế kỉ XVII, tình hình chính trị nước Anh có nhiều biến động. Đến giữa

thế kỷ XVII, nước Anh vẫn là một quốc gia phong kiến quân chủ chuyên chế.

Vua nắm trong tay mọi cơ quan quyền lực của đất nước.

Giữa thế kỷ XVII, chuyển biến sâu sắc trong cơ cấu nghị viện, khi các

quý tộc mới dần chiếm vị trí của các quý tộc cũ trong Viện thứ dân, dẫn đến

xung đột ngày một trầm trọng giữa nhà vua và nghị viện trong việc tranh giành

quyền lực.

Trong lúc đó, Charles I âm mưu phục hồi chế độ phong kiến và lợi dụng

những tranh chấp trong Nghị viện để tiến hành cuộc phản kích, dẫn đến cuộc nội

chiến lần thứ hai bùng nổ năm 1648. Cromwell tập hợp quần chúng nhân dân và

giai cấp tư sản, quý tộc mới chống lại chế độ phong kiến nhằm thủ tiêu vương

quyền, xóa bỏ hình thức cha truyền con nối những năm 50 của thế kỷ XVII.

Cuộc cách mạng thành công, phe cách mạng thắng lợi và việc xử tử Charles I

đánh dấu một bước tiến mới của cách mạng và thiết lập nền bảo hộ của Oliver

Cromwell.

Sau khi Cromwell mất, chế độ bảo hộ cũng bị sụp đổ theo và được thay

thế bằng sự phục hồi của vương triều Charles II với việc quay trở về với nền

quân chủ, viện quý tộc và giáo hội. Điều này đe dọa số phận của tầng lớp tư sản

và quý tộc mới. Nước Anh lúc này lại tiếp tục có những xung đột gay gắt giữa

nhà vua và nghị viện, những tranh cãi kéo dài về vấn đề tôn giáo và chính trị,

khiến nghị viện cứ được triệu tập lại giải tán rất nhiều lần trong những năm 1660

- 1688.

Sau khi Charles II mất, James II lên nắm quyền từ 1685 - 1688 với ý đồ

xác lậpvương quyền phong kiến, thi hành nhiều chính sách như cho các quý tộc

16

lớn theo Thiên Chúa giáo quay trở lại tham gia chính quyền để củng cố thế lực

phong kiến, ra lệnh thu thuế mà không đợi triệu tập nghị viện, bãi bỏ luật “Bảo

đảm thân thể”… Do đó giai cấp tư sản và tầng lớp quý tộc mới tìm cách lật đổ

bằng việc dựa vào William III là quốc trưởng Hà Lan và là chồng của công

nương Marry II. Vua James II bị trục xuất khỏi nước Anh và ngôi vị được trao

cho William III và vợ, cùng với đó là việc chuyển từ chế độ quân chủ chuyên

chế sang chế độ quân chủ lập hiến. Quyền lực tối cao được chuyển từ tay nhà

vua sang quý tộc mới và tư sản, làm thay đổi căn bản thể chế chính trị nước

Anh. Lịch sử gọi cuộc chính biến 1688 - 1689 là cuộc “Cách mạng vinh quang”.

Bên cạnh những mâu thuẫn về mặt chính trị, những cuộc xung đột tôn

giáo giữa người Anh giáo, người Tin lành và người Công giáo đã đẩy nước Anh

vào những cuộc nội chiến kéo dài. Những điều kiện kinh tế, xã hội nước Anh đã

ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của John Locke và đó là lí do trong tác phẩm

Khảo luận thứ hai về chính quyền ông sử dụng nhiều điển tích tôn giáo trong

quan niệm của mình.

Cuộc cách mạng tư sản Anh là một sự kiện lịch sử quan trọng không chỉ

trong lịch sử nước Anh mà cả lịch sử thế giới. Nó đã đập tan nền quân chủ

phong kiến, thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa mở đường cho sức sản xuất phát

triển. Cuộc Cách mạng vinh quang đã thay đổi chính thể nước Anh một cách hòa

bình, đem lại tự do cho giai cấp tư sản, quý tộc và toàn thể nhân dân Anh. Tuy

nhiên, cuộc cách mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng không triệt để, bởi thực

chất của cuộc cách mạng này là sự thỏa hiệp giai cấp giữa tư sản, quý tộc mới

với giai cấp phong kiến để bảo vệ quyền lợi và địa vị của mình. Sau khi cách

mạng giành thắng lợi, vấn đề ruộng đất cho nông dân vẫn không được giải

quyết. Liên minh giữa giai cấp tư sản và quý tộc mới vừa chống lại chế độ

phong kiến vừa chống lại quần chúng nhân dân. Sở dĩ có sự thỏa hiệp như vậy là

vì giai cấp tư sản trong thời kỳ này chưa đủ lớn mạnh để lấn át hoàn toàn giai

17

cấp phong kiến dẫn đến tư tưởng đấu tranh không triệt để. Thực tiễn này ảnh

hưởng rất nhiều đến tư tưởng của Locke khi đề cao nhà nước dân chủ nhưng ông

lại cho rằng nhà nước lý tưởng nhất phải là nhà nước quân chủ lập hiến.

Trước bối cảnh nước Anh nói trên, không chỉ là một nhân chứng lịch sử,

hơn nữa còn tham dự vào các sự kiện chính trị đó, đặc biệt là cuộc cách mạng

vinh quang 1689, lịch sử nước Anh thế kỉ XVII đã ảnh hưởng trực tiếp tới quan

niệm chính trị của John Locke. Quan niệm đó được phản ánh đậm nét trong tác

phẩm tiêu biểu của ông, đó là tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”.

1.2. Tiền đề lí luận cho sự hình thành tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà

nƣớc của John Locke

Tư tưởng của Locke về phân chia quyền lực nhà nước không chỉ xuất phát

trực tiếp từ bối cảnh lịch sử nước Anh thế kỉ XVII, mà còn ra đời dựa trên sự kế

thừa tư tưởng phương Tây từ thời cổ đại, tư tưởng về bản tính con người và

quyền tự nhiên cơ bản của con người của chính bản thân Locke.

1.2.1. Tiền đề tƣ tƣởng

Tư tưởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nước ra đời không

chỉ xuất phát trực tiếp từ bối cảnh xã hội mà còn ra đời dựa trên kế thừa những

tư tưởng của các nhà triết học Tây Âu trước đó. Đó là lí tưởng về mô hình nhà

nước lí tưởng, trong đó đề cao vai trò tối thượng của luật pháp. Luật pháp chính

là quyền lực nhà nước cao nhất mà bất kì nhà nước lí tưởng nào muốn hướng

đến, bởi pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ của con người trong xã hội. Luật

pháp thể hiện quyền lực hợp pháp buộc mọi người phải tuân theo. Đó là ý tưởng

về việc phải phân chia quyền lực nhà nước thành các bộ phận để thực thi nhiệm

vụ và hoạt động có hiệu quả.

Ở phương Tây cổ đại, tư tưởng phân chia quyền lực lần đầu tiên được

xuất hiện trong tác phẩm “Chính trị luận” của Aristotle (384 – 322 TCN) .

Aristotle cho rằng để đảm bảo sự công bằng trong dân chúng, và có được những

18

đạo luật công bằng thì nhà nước phải được tổ chức có quy củ, để có sự quy củ

này thì mọi nhà nước đều phải có 3 bộ phận. Trong tác phẩm “ Chính trị luận”,

ông viết “Phần thứ nhất, chịu trách nhiệm nghiên cứu, thảo luận và quyết nghị

về những vấn đề công cộng. Phần thứ hai, là phần tử chịu trách nhiệm về hệ

thống viên chức chính quyền - những ai đủ tiêu chuẩn, những giới hạn của thẩm

quyền chính trị, và cách thức bổ nhiệm viên chức chính quyền, cuối cùng là bộ

phận chịu trách nhiệm về quyền tư pháp” [1, 240]

Về bộ phận thứ nhất, cơ quan nghị quyết hay còn gọi là Hội đồng nhân

dân được ông chỉ rõ các chức năng là: “phần tử hay cơ quan bình nghị có thẩm

quyền trên những vấn đề chiến tranh hay hòa bình, liên kết đồng minh, thông

qua luật pháp, ấn định tội tử hình hay lưu đày biệt xứ, tịch thu tài sản, bầu cử

quan chức, và kiểm soát của quan lại” [1, 247]. Nói như ngôn ngữ hiện nay thì

cơ quan nghị quyết nắm quyền lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng

của một quốc gia. Số lượng, cách thức lựa chọn các thành viên và quyền hạn của

Hội nghị công dân có liên quan tới hình thức nhà nước: ở chế độ dân chủ mọi

công dân đều được tham gia Hội nghị nhân dân và có quyền quyết định mọi vấn

đề trọng yếu của đất nước; chế độ đầu sỏ chính trị thì chỉ một số công dân đặc

biệt mới được tham gia quyết định các vấn đề nhà nước; còn trong chế độ quý

tộc thì một bộ phận quyết định vấn đề này, trong khi một bộ phận khác quyết

định những vấn đề khác

Về bộ phận thứ hai, ông gọi là cơ quan chính quyền để chỉ những bộ phận

thực thi pháp luật trong nhà nước, ngày nay chúng ta gọi đó là cơ quan hành

pháp. Aristotle cho rằng cần có cơ quan để chăm lo cho từng việc cụ thể trong

nhà nước: quản lý kinh tế, lao động, quản lý đường xá, nhà cửa, quản lý đất đai,

quân đội ... Nhưng cần có một cơ quan cao nhất, có quyền chỉ huy toàn bộ nhân

dân với tư cách như là người đứng đầu nhà nước. Theo ông, trong chế độ dân

chủ, các pháp quan được chọn ra từ trong toàn thể nhân dân, trong chế độ đầu sỏ

19

chính trị thì được chọn ra từ một đẳng cấp đặc biệt, còn trong chế độ quý tộc thì

một số pháp quan được chọn ra từ nhân dân, và một số khác được chọn ra từ

những đẳng cấp trên trong xã hội.

Về cơ quan tư pháp, Aristotle chia ra rất nhiều loại, có 8 loại tòa án khác

nhau, tuỳ theo tính chất và đặc điểm các vụ việc mà toà án đó chuyên giải quyết.

Về cách thức lựa chọn các thẩm phán, ông cũng chỉ ra nhiều dạng tuỳ theo hình

thức nhà nước. Việc mọi công dân đều có thể trở thành thẩm phán là đặc điểm

của nhà nước dân chủ. Còn nếu chỉ có một số công dân thuộc những đẳng cấp

nhất định mới có thể trở thành thẩm phán thì đó là cách thức của chế độ đầu sỏ

chính trị. Còn nếu tuỳ theo từng vụ việc cụ thể mà chọn thẩm phán trong nhân

dân hay trong những người đặc biệt là biểu hiện của chế độ quý tộc. Aristotle

nhấn mạnh đến tính tối cao của pháp luật trong một nhà nước được tổ chức theo

đúng nghĩa của nó. Ông cho rằng nhà nước có công bằng hay không đều phải

gắn với pháp luật, chỉ có pháp luật mới là tiêu chuẩn để điều chỉnh cho mọi hoạt

động trong xã hội.

Dù là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập tới vấn đề phân chia

quyền lực, nhưng tư tưởng này của Aristotle vẫn chưa chứa đựng quan điểm

phân chia quyền lực theo tinh thần của thuyết phân chia quyền lực hiện đại, tuy

nhiên ông mới chỉ dừng lại ở mô tả bộ máy nhà nước mà chưa đi sâu, chỉ ra mối

liên hệ giữa các cơ quan nhà nước, cũng như chưa chỉ được ra nguyên nhân phải

chia quyền lực nhà nước thành các nhánh quyền lực như vậy. Tuy nhiên, đây là

những tiền đề tư tưởng rất quan trọng để John Locke kế thừa và phát triển cho

cho tư tưởng về phân chia quyền lực trong nhà nước của mình sau này.

Sau Aristotle, Polybe và Ciceron cũng thể hiện tư tưởng về phân chia

quyền lực. Theo Polybe (200 -120 TCN), một nhà nước được tổ chức một cách

hợp lí là nhà nước hỗn hợp của ba chính quyền – ba thế lực chính trị: chính

quyền của nhà vua, chính quyền của quý tộc và chính quyền nhân dân. Theo đó,

20

tương ứng với ba quyền: quyền hành pháp thuộc về tay nhà vua, quyền lập pháp

thuộc về viện nguyên lão của giới quý tộc và quyền tư pháp thuộc về sự phán

xét của nhân dân. Ông cũng chỉ ra cách thức thực hiện quyền lực, mối quan hệ,

sự tác động giữa các chính quyền với nhau.

Còn đối với Cicero (106 – 43TCN), trong tác phẩm “Đối thoại” ông cho

rằng một phần quyền lực nhà nước phải được phân chia và trao cho quyền uy

của những người chiếm hàng đầu, còn một số công việc khác phải dành cho

nhân dân giải quyết và phán xét.

Như vậy, tư tưởng phân chia quyền lực của các nhà triết học Hy Lạp và

La Mã cổ đại chủ yếu tập trung thể hiện: Một là mô tả các cơ quan của bộ máy

nhà nước mà chưa đi sâu vào mối liên hệ giữa chúng và chưa chỉ được ra

nguyên nhân phải chia quyền lực nhà nước thành các cơ quan như vây. Hai là sự

phân biệt hay kết hợp giữa các phương thức cai trị mà chưa phải là sự phân chia

các nhánh quyền lực nhà nước.

Tiếp theo thời kì Hy Lạp – Lã Mã cổ đại, thời kì Trung cổ kéo dài hằng

trăm năm dưới sự thống trị của vương quyền và thần quyền. Trong đó, chế độ

thần quyền luôn chiếm ưu thế, tòa án giáo hội là cơ quan xét xử cao nhất và giáo

lý tôn giáo luôn ngự trị trong đời sống người dân. Đây là thời kì nổi bật sự thống

trị của nhà thờ và tôn giáo. Nhà thờ vừa chiếm hữu tài sản, vừa nắm toàn bộ

quyền lực chính trị và pháp luật. Nhà nước đồng nhất với nhà thờ, bởi nhà thờ là

một tổ chứ tập quyền hùng mạnh, thống trị về tinh thần và chính trị. Vì vậy, tư

tưởng phân chia quyền lực nhà nước thời kì này bị hạn chế và không được đề

cao.

Sang đến thời kì Phục hưng, châu Âu tràn ngập những biến cố lịch sử.

Trong thời kỳ này, không chỉ phục hồi giá trị văn hóa của thời kỳ cổ đại mà còn

gạt bỏ những giáo lý của nhà thờ ra khỏi đời sống của con người, đề cập quyền

cơ bản của con người, quyền tự do, quyền công dân, đòi tách nhà nước ra khỏi 21

nhà thờ. Tư tưởng chống lại tư tưởng chuyên chế và thần quyền, xã hội xuất

hiện nhu cầu cần phải tăng cường quyền lực nhà nước đảm bảo quyền tự nhiên

của con người. Vì thế, đây là thời kì mà thuyết pháp quyền tự nhiên trở nên rộng

rãi. Lý thuyết pháp quyền tự nhiên thời kì Phục hưng và cận đại có ảnh hưởng

sâu sắc đến tư tưởng về tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của John Locke.

Những người theo thuyết pháp quyền tự nhiên, một mặt cho rằng sự điều hành

xã hội phải dựa trên tự nhiên và pháp luật, phải tôn trọng quyền tự do, bình đẳng

của con người. Mặt khác, họ đưa ra nguyên tắc tất cả mọi người kể cả vua chúa

cho đến thần dân đều phải tuân theo pháp luật. Nói chung, đó là tư tưởng về

quyền tư nhiên của con người cần được pháp luật bảo vệ. Đó là ý tưởng đề cao

một nhánh quyền lực quan trọng của nhà nước, và các cơ quan trong nhà nước

trong việc đề ra và thực thi pháp luật.

Lý thuyết pháp quyền tự nhiên ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Locke về

tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước. Bởi trên cơ sở kế thừa và tiếp thu và

phát triển quan điểm những nhà triết học đó quyền tự nhiên của con người là

quyền chính đáng, vốn có, không ai có thể xâm phạm đến đã đưa Locke đến với

suy tư và trăn trở về mô hình tổ chức nhà nước với luật pháp như thế nào để bảo

vệ cho quyền tự nhiên của con người không bị xâm phạm.

Đầu tiên, phải kể đến Hugo Grotius (1583 - 1645), nhà luật học nổi tiếng

người Hà Lan có vai trò to lớn trong việc giải thoát lý luận nhà nước và pháp

luật khỏi sự bảo hộ của thần học và chủ nghĩa kinh viện trung đại, trong tác

phẩm xuất sắc nhất của mình, được viết khi ông đang phải sống lưu vong ở Pháp

- “Bàn về pháp luật của chiến tranh và hoà bình” (1625), đã đưa ra các luận

điểm nổi tiếng của pháp luật tự nhiên. Theo Grotius, pháp luật cũng như nhà

nước, bắt nguồn từ trần gian chứ không phải bắt nguồn từ Thượng Đế, pháp luật

tự nhiên và pháp luật thực định cùng tồn tại song song. Pháp luật tự nhiên là thứ

pháp luật ra đời trước, có nguồn gốc từ bản chất của con người, là kết tinh trí tuệ

22

của con người. Theo ông, sự giữ mình trước tài sản của người khác, trách nhiệm

thực hiện lời hứa, sự bồi thường thiệt hại do mình gây ra, sự trừng trị thích đáng

kẻ phạm tội ... là những chỉ định của pháp luật tự nhiên. Thứ pháp luật thực định

được xác lập theo ý chí con người do nhà nước ban hành phải hoàn toàn phù hợp

với những nguyên tắc của pháp luật tự nhiên. Grotius chỉ ra rằng pháp luật

phong kiến hiện hành là thứ pháp luật trái với bản chất và lý trí của con người,

nên ông nêu cao đòi hỏi phải có một thứ pháp luật mới phù hợp với các luật của

tự nhiên đảm bảo cho các quyền tự nhiên của con người.

Tiếp đến, lý thuyết pháp quyền tự nhiên của nhà triết học Hà Lan Baruch

Spinoza (1632 - 1677) cũng ảnh hưởng tới tư tưởng phân quyền của Locke.

Spinoza tuy không đi sâu nghiên cứu về pháp luật mà chỉ chú trọng tới vấn đề

nhà nước, nhưng những quan điểm về nhà nước của ông lại biểu hiện tính chất

pháp quyền tự nhiên một cách sâu sắc. Theo ông, một nhà nước hoàn hảo là một

nhà nước dân chủ mà pháp luật bảo đảm cho quyền lợi và sự tự do thực sự của

con người: con người không những được quyền sống, quyền tồn tại mà còn

được hưởng những quyền tất yếu nhằm thoả mãn lợi ích của họ. Hơn thế, pháp

luật còn phải đảm bảo ngăn ngừa những nhà lãnh đạo không thể xâm phạm đến

sở hữu, an toàn và tự do của những người dân. Spinoza đã chỉ ra những quyền

cơ bản và tự nhiên của con người, cũng như mối liên hệ phụ thuộc của pháp luật

thực định với các quyền ấy.

Một triết gia có tầm quan trọng ảnh hưởng lớn đến Lock mà chúng ta

không thể không nhắc đến, đó chính là Thomas Hobbes. Ông là nhà triết học

duy vật người Anh và là người ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của John Locke

về trạng thái tự nhiên, trạng thái dân sự kế ước xã hội và các quyền cơ bản của

con người.

Theo Hobbes thì nhà nước, con người và quyền con người hoàn toàn

không phải là sản phẩm của Thượng đế mà nó là kết quả của chính hoạt động

23

thực tiễn của con người. Hobbes khẳng định rằng tự do, bình đẳng, sở hữu là các

quyền tự nhiên cơ bản của con người Hobbes có những phân tích khá sâu sắc xã

hội con người thành hai trạng thái, đó là trạng thái tự nhiên và trạng thái xã hội

công dân.

Hobbes cho rằng trong trạng thái tự nhiên con người có tự do ý chí, có thể

làm bất cứ điều gì họ muốn trong khuôn khổ và sức lực của họ cho phép, đồng

thời con người có tài sản riêng của mình. Trong trạng thái tự nhiên, mọi cái đều

là tuyệt đối như tự do tuyệt đối, ham thích tuyệt đối… song do bản tính con

người là độc ác “con người là động vật ranh ma hơn cả chó sói, gấu và rắn”,

cùng với bản tính ích kỷ, ai cũng có nhu cầu, mong muốn riêng có lợi cho bản

thân mình nên đã dẫn con người đến chỗ xâm phạm tới các quyền của người

khác, tranh giành quyền lợi của người khác. Trong xã hội, ai có sức mạnh là

những người có quyền. Trong trạng thái tự nhiên, xã hội không có đạo đức,

không có luật lệ chung, chỉ có luật lệ của kẻ mạnh. Chính vì điều này đã đẩy loài

người vào cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả, cuộc đấu tranh ấy không

giải quyết được nhu cầu của mỗi bản thân con người mà còn đẩy con người vào

nguy cơ huỷ diệt.

Hobbes cho rằng, trong trạng thái tự nhiên, con người càng tự do, bình

đẳng bao nhiêu thì con người càng bất hạnh bấy nhiêu. Vì khi đó, tự do của con

người không bị giới hạn, con người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn kể cả

xâm phạm đến tự do của người khác. Bên cạnh bản tính là ích kỷ, con người còn

lo sợ về cái chết của mình nên họ ước mong trạng thái hòa bình và ổn định. Họ

nhận thấy rằng nếu cứ tiếp tục trạng thái chiến tranh chống lại nhau thì những

các quyền cơ bản sẽ mất đi và bị đe dọa đến mạng sống. Chính những điều trên

đã giúp cho những con người cùng bắt tay chung nhau, thoả thuận với nhau và

lập thành khế ước xã hội, và cũng chính từ khế ước xã hội này mà nhà nước hay

công cụ để bảo vệ quyền con ra đời người ra đời. Một bản khế ước xã hội được

24

xây dựng trên cơ sở đồng thuận chung của mọi người để đảm bảo sinh mạng và

các quyền tự nhiên của con người. Với khế ước xã hội, con người đã chuyển hẳn

từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái xã hội công dân, ở đó con người được sống

yên ổn hơn và các quyền cơ bản của con người được đảm bảo hơn. Trạng thái xã

hội công dân thay thế trạng thái tự nhiên, xuất phát từ ý thức về sự tồn vong của

con người. Nhà nước ra đời như kết quả sự thỏa thuận giữa người với người,

trên cơ sở tin cậy nhau. Nhà nước là sự thỏa thuận chung theo khế ước do nhân

dân lập ra, không phải từ do thượng đế sáng tạo nên. Khi đi đến một khế ước xã

hội, mọi người đã tự chủ và tự nguyện trao quyền của mình cho người cầm

quyền và đặt hết ý chí vào người đại diện đó. Do vậy, người cầm quyền sẽ là

hiện thân đại diện cho ý chí thống nhất giữa chúa tể và nhân dân, buộc người

dân phải thận trọng hơn trong những hành động của mình, kiểm soát hành động

đó không để đi quá xa so với trong trạng thái tự nhiên. Nhà nước quản lý xã hội

bằng pháp luật và tất cả mọi người phải phục tùng nhà nước một cách tuyệt đối,

thông qua tuân thủ pháp luật, quyền lực của nhà nước là bất biến. Các tư tưởng

về quyền tự nhiên và khế ước xã hội của Hobbes ảnh hưởng tới John Lcke về

quyền tự nhiên và tư tưởng về tổ chức quyền lực đảm bảo quyền con người.

1.1.2.Quan niệm của John Locke về bản tính con ngƣời và quyền con ngƣời

Quan niệm của Locke về phân chia quyền lực nhà nước không những kế

thừa tư tưởng của những người đi trước mà còn xuất phát từ chính quan niệm về

bản tính con người và quyền con người của ông.

Quan niệm về con người được Locke tập trung trình bày trong tác phẩm

“Kinh nghiệm về nhận thức của con người” được ông viết năm 1689. Các triết

gia trước đưa ra những quan niệm khác nhau về con người. Aristotle đưa ra quan

niệm “Bẩm sinh, con người là đông vật chính trị”, Protagore lại cho rằng “con

người là thước đo của vạn vật”. Thomas Hobbes quan niệm con người sinh ra

vốn tự do nhưng bản tính con người là ích kỷ, ai cũng có nhu cầu, khát vọng

25

riêng nên đẩy họ vào trạng thái chiến tranh và hỗn loạn. Trên cơ sở tiếp thu quan

điểm của những nhà triết học trước đó, Locke khẳng định một trong các tính quy

định bản tính con người là lý tính. Lý tính hay lý trí là bản tính vốn có của con

người, là một trong các tính quy định bản tính người. Locke lại cho rằng lý tính

là một trong các tính quan trọng quy định bản tính người của con người. Trong

tác phẩm “Kinh nghiệm nhận thức của con người” ông viết: “Lý tính đặt con

người lên cao hơn mọi thực thể có cảm tính còn lại và đem lại cho con người

mọi ưu thế và sự thống trị của nó đối với chúng” [trích theo 39, 31]. Như vậy,

chính lý tính là cái phân biệt con người với các thực thể khác.

Mặc dù khẳng định lý tính là bản tính của con người song John Locke cho

rằng năng lực lý tính của con người không phải ngay từ khi sinh ra đã có, mà đó

là kết quả của một quá trình nhận thức lâu dài. Ông phê phán học thuyết “ý niệm

bẩm sinh” của Descartes khi thừa nhận sự tồn tại của những tư tưởng bẩm sinh

của con người và nguồn gốc của những tư tưởng đó là do Thượng đế ban tặng.

Locke cho rằng con người có lý tính và tự do tích cực tự hình thành mình. Nếu

như Descartes thừa nhận tư tưởng bẩm sinh, lý trí của con người là do thượng đế

ban tặng, con người thụ động có được lý trí, thì Locke đưa ra “nguyên lý

Tabularasa” – tấm bảng sạch. Theo quan niệm của Locke, linh hồn con người

lúc mới sinh ra giống như một tờ giấy trắng, một tấm bảng sạch, chưa có tri

thức, nhưng nhờ quá trình con người tự do tích cực hoạt động, thông qua những

kinh nghiệm thu được từ cuộc sống, con người ghi lại những ký hiệu, ý niệm

trên đó và hình thành lý trí, tức là đã hình thành lý tính của bản thân. Như vậy,

lý tính của con người có được xuất phát từ kinh nghiệm. Kinh nghiệm là cơ sở

của tri thức chúng ta, “ mọi tri thức đều dựa trên kinh nghiệm” [ trích theo 38,

289]. Kinh nghiệm từng người là cơ sở hình thành nhân cách của mỗi người, vì

quá trình tham gia hoạt động xã hội với vị trí vai trò khác nhau và mỗi người có

mức độ tích cực khác nhau trong các hoạt động, trong quá trình đúc rút kinh

nghiệm nên lý tính của mỗi người là khác nhau. Như vậy, theo Locke chính lý

26

tính là cái làm nên bản chất người của từng người, là cái phân biệt giữa mọi

người với nhau, phân biệt con người với thực thể khác.

Không chỉ đưa ra quan niệm về bản tính con người, Locke còn đi đến

khẳng định quyền tự nhiên cơ bản và thiêng liêng nhất của con người. Theo ông,

trong trạng thái tự nhiên, con người có được đầy đủ các quyền tự nhiên như:

quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền sở hữu. Trong đó, bình đẳng được coi là

quyền cơ bản đầu tiên của con người “Không có gì hiển nhiên hơn là những sinh

vật của cùng một loài và một hạng, được sinh ra một cách ngẫu nhiên với cùng

những thuận lợi tự nhiên, sử dụng cùng những năng lực, cũng phải là những

sinh vật bình đẳng với nhau mà không có sự lệ thuộc hay khuất phục” [20, 33].

Quyền tự nhiên thứ hai của con người mà Locke khẳng đinh là quyền tự do hoàn

hảo “là sự tự do trước bất kỳ quyền lực cao hơn nào nơi trần thế và không chịu

sự chi phối của ý chí hay thẩm quyền lập pháp, mà chỉ có luật tự nhiên dùng làm

quy tắc cho họ” [20, 57]. Con người có quyền tự do vô hạn do đó có thể làm bất

cứ điều gì mình muốn trong khuôn khổ giới hạn của luật tự nhiên mà không phải

xin phép hay phụ thuộc vào bất kỳ ý chí của một ai khác. Quyền tự do của con

người, là tự do trước bất kỳ quyền lực cao hơn nào nơi trần thế mà chỉ chịu sự

chi phối luật tự nhiên, luật tự nhiên dùng làm quy tắc cho họ.

Con người có quyền tự do lựa chọn hành động của mình, nhưng dưới quy

tắc của luật tự nhiên và lí trí con người nhận ra rằng họ không có quyền cướp

bóc, giết hại hay xâm hại đến tự do của những người khác và chính bản thân anh

ta. Chính lý trí đã đặt ra giới hạn cho con người trong việc sử dụng quyền tự do

của mình làm sao vẫn thỏa mãn được bản thân nhưng không xâm hại đến quyền

tự do của những người khác. Mọi người sinh ra đều bình đẳng do vậy muốn

người khác tôn trọng bản thân mình thì ta cũng phải tôn trọng người khác bởi

“Mỗi người, do ràng buộc với sự bảo toàn của chính mình…người ta còn cần

phải bảo toàn cho toàn thể phần loài người còn lại, ở mức độ tối đa có thể, và

27

không thể lấy đi hay làm suy yếu đi sinh mạng hay những khuynh hướng nhằm

bảo toàn sự sống, quyền tự do, thân thể hay tài sản của người khác” [20, 36].

Ngoài quyền tự do và bình đẳng, con người còn có quyền sở hữu. Trong

các quyền tự nhiên đó, Locke cho rằng quyền sở hữu là quyền cơ bản nhất. Theo

Locke, ngay từ khi con người được sinh ra trên trái đất, thì con người đã có

quyền sở hữu. “Tất cả cây trái mà nó tạo ra, thú vật mà nó nuôi ăn, một cách tự

nhiên là thuộc chung của cả loài người” [20, 62]. Quyền sở hữu đó là quyền sở

hữu chung của tất cả mọi người, không ai có quyền lực riêng với nó. Tất cả

những sản vật đó đều được tạo ra từ bàn tay của tự nhiên, do đó theo Locke con

người có quyền sở hữu đối với những sản phẩm mà tự nhiên ban tặng khi con

người sinh ra. Quyền sở hữu đó là quyền sở hữu chung cho toàn thể mọi người,

không một ai có quyền lực riêng đối với nó bởi vì trong trạng thái tự nhiên tất cả

mọi người đều bình đẳng, mọi thứ đều là của chung của xã hội, không ai có

quyền hạn gì hơn người khác.

Ngoài quyền sở hữu chung này, Locke cho rằng mỗi người ngay từ khi

sinh ra đã có quyền sở hữu đối với chính thân thể, sức lao động của mình và vì

vậy con người có quyền sở hữu đối với những sản phẩm do chính lao động của

mình làm ra và không ai có bất kỳ quyền gì đối với sở hữu này ngoài chính anh

ta, “lao động của cơ thể anh ta, sản phẩm của đôi tay anh ta - hoàn toàn có

thể nói - đích thị là của anh ta” [20, 63]. Bất kể thứ gì trong tự nhiên mà con

người dùng sức lao động của mình làm ra nó thì sẽ trở thành sở hữu riêng của cá

nhân, mà bất kì ai cũng không được phép xâm phạm tới. Theo Locke, chính lao

động đã tách biệt những thứ mà con người lấy từ tự nhiên với cái chung của tự

nhiên, lao động đã thêm vào những thứ đó một “cái gì đó hơn là cái mà tự nhiên

– người mẹ chung của tất cả - đã làm, và vì thế, chúng trở thành cái thuộc về tư

quyền của anh ta” [20, 64]. Như vậy, lao động đã tách quyền sở hữu chung của

mọi người với tự nhiên thành quyền sở hữu riêng của cá nhân như Locke khẳng

28

định “…dù mọi vật được trao tặng chung, nhưng con người, bằng việc là chủ

nhân của bản thân và chủ sở hữu của cá nhân mình và của hành động hay lao

động của nó, trong tự thân mỗi người vẫn có một nền tảng cao cả cho sở hữu”

[20, 82].

Trong quan niệm của Locke, quyền sở hữu chính là quyền tự nhiên của

con người, đó là sở hữu mà người ta có đối với cá nhân con người họ và tài sản

của họ. Quyền sở hữu của con người có được thông qua lao động tuy nhiên

không vì thế anh ta có sự sở hữu một cách vô độ mà phải có hạn mức. Theo

Locke, mọi người đều có quyền sở hữu cho bản thân nhưng quyền sở hữu đó

phải nằm trong giới hạn cho phép của luật tự nhiên. Con người có quyền chiếm

giữ của cải cho riêng mình nhưng những gì anh ta chiếm giữ phải phục vụ cho

nhu cầu sử dụng của anh ta, ở mức anh ta có thể sử dụng hết, chứ không phải

chiếm giữ vô độ mà không dùng đến để nó bị hư thối. Nếu điều này xảy ra tức là

anh ta đã xâm phạm đến phần sở hữu của người khác cũng tức là vi phạm vào

luật tự nhiên. Bởi theo Locke, tự nhiên không tạo ra cho con người bất cứ một

thứ gì có thể dư thừa, bỏ đi một cách vô ích, “tự nhiên đã sắp đặt hợp lý từ

phạm vi của hoạt động lao động của con người và tiện nghi của cuộc sống.

Không có sự lao động của một ai là có thể khai khẩn và chiếm giữ tất cả, mà thụ

hưởng của anh ta cũng không thể dùng đến hơn một phần nhỏ” [20, 71], sự dư

thừa của người này sẽ gây ra sự thiếu thốn cho những người khác như vậy sẽ tạo

ra sự bất bình đẳng. Từ đó Locke đưa ra giới hạn của sự chiếm hữu: “Hạn mức

này đã được hạn chế sự chiếm hữu của mỗi người đến một tỷ lệ vừa phải, là

những gì một người có thể chiếm giữ cho riêng mình mà không gây thiệt hại cho

người khác” [20, 71 – 72].

Như vậy, theo Locke tự do, bình đẳng, sở hữu là các quyền tự nhiên cơ

bản và thiêng liêng của con người, tồn tại sẵn có trong mỗi cá nhân, bất khả xâ,

phạm. Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” Locke đã chứng

29

minh các quyền đó là các quyền tự nhiên thiêng liêng bất khả xâm phạm của con

người, do mẹ tự nhiên ban tặng cho mỗi người. Tuy nhiên, Locke cho rằng, dù

con người có quyền tự do và bình đẳng hoàn hảo trong trạng thái tự nhiên nhưng

những quyền đó đều xuất phát từ quyền bảo toàn sinh mạng của con người. Do

đó, dù có tự do muốn làm gì theo ý muốn của bản thân nhưng con người không

được phép lấy đi sự sống hay xâm phạm tính mạng, thân thể của chính bản thân

và của người khác. Bởi ngay trong trạng thái tự nhiên, con người đã có luật tự

nhiên, tức luật của lý trí bảo vệ. Và để đảm bảo những quyền đó, con người đã

có luật tự nhiên làm cơ sở để điều chỉnh hành vi, mọi người không vượt quá luật

tự nhiên làm ảnh hưởng và xâm phạm tới quyền của người khác.

Trong quan điểm của Locke thì mọi người sinh ra đều có quyền bảo toàn

thân thể, quyền bình đẳng, tự do và quyền sở hữu tài sản mà bất kì ai cũng

không được xâm phạm. Đó là những quyền bất biến tự nhiên của con người từ

khi sinh ra đã có chứ không phải là từ sự ban phát của nhà nước hay một thế lực

chính trị nào khác.

Tóm lại, có thể nói rằng, tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của các

triết gia cổ đại và tư tưởng thuyết pháp quyền tự nhiên thời Phục hưng cận đại

có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng về phân chia quyền lực của John Locke, đặc biệt,

sự kế thừa và tiếp tục phát triển quan điểm pháp quyền tự nhiên, với sự khẳng

định giá trị cơ bản của quyền con người: quyền bảo toàn tính mạng, tự do, bình

đẳng và sở hữu của John Locke.Chính từ quan niệm về bản tính và quyền tư

nhiên của con người là tự nhiên vốn có, không thể bị xâm phạm, Locke đi đến

quan niệm về sự phân chia quyền lực nhà nhằm đảm bảo các quyền tự nhiên

thiêng liêng và cơ bản của người dân và cuộc sống an toàn và ổn định.

30

1.3. Khát quát về cuộc đời, sự nghiệp của John Locke và tác phẩm “Khảo

luận thứ hai về chính quyền”

1.3.1. Cuộc đời và sự nghiệp của John Locke

John Locke là một trong những nhà triết học vĩ đại thế kỉ thứ XVII. Ông

sinh ngày 29 tháng 8 năm 1632 trong một gia đình Thanh giáo tại ngôi làng nhỏ

Wrington ở Somerset phía tây nam nước Anh. Cha ông là John - một luật sư và

giữ chức vụ Trung úy trong quân đội nghị viện trong giai đoạn đầu thời kì nội

chiến nước Anh, ủng hộ Quốc hội Anh chống lại vua Charles đệ nhất. Mẹ ông là

bà Agnes, bà sinh Locke khi bước vào tuổi 35.

Năm 1647, Locke đã được gửi đến học tại Westminster ở London, là

trường trung học hàng đầu nước Anh lúc bấy giờ, tại đây ông theo học chuyên

ngành ngôn ngữ cổ điển, học tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Ông là một học sinh

chăm chỉ và chịu khó. Năm 1650, ông nhận được suất học bổng của nhà Vua

giúp ông có được hai suất học bổng tại hai trường đại học danh tiếng nước Anh

là Oxford và Cambridge.

Năm 1652, John Locke học ở trường đại học Oxford nổi tiếng của Anh

quốc và đậu thạc sĩ năm 1658. Tại đây, ông say mê nghiên cứu nhiều lĩnh vực

khác nhau như ngôn ngữ, toán học, triết học. Năm 1661 tốt nghiệp thạc sĩ và

được bổ nhiệm chức danh giảng viên tiếng Hy Lạp, tiếng La Tinh. Không chỉ

dừng lại ở địa vị hiện tại mà khát vọng tri thức, lòng say mê. Không dừng lại ở

địa vị hiện tại với khát vọng tri thức, lòng say mê khoa học và sự quan tâm đến

sức khỏe, trạng thái tâm sinh lý của con người đã dẫn ông đến nghiên cứu y

khoa. Locke đã được giới thiệu đến y học và triết lý thực nghiệm đang được theo

đuổi tại các trường đại học khác và trong Hội Hoàng gia sau này ông đã trở

thành một thành viên trong hiệp hội này. Chính quyết định nghiên cứu y học đã

tạo cơ hội cho Locke có cơ hội kết bạn với bác sỹ David Thomas và qua đó ông

đã có dịp tiếp xúc với Lord Anthony Ashley Cooper - Huân tước toàn quyền

31

Carolinas tức Bá tước Shaftesbury, một trong những người giàu nhất nước Anh

và giữ vị trí quan trọng trong chính quyền Anh. Có thể nói, Ashley là người có

ảnh hưởng mạnh mẽ đến những ý tưởng chính trị của Locke. Huân tước Ashley

là một trong những người ủng hộ quan điểm rằng nước Anh sẽ thịnh vượng

thông qua thương mại và thuộc địa có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc

thúc đẩy thương mại. Ashley thuyết phục Charles II thành lập Hội đồng Thương

mại và đồn điền để thu thập thông tin về thương mại và thuộc địa, và Locke trở

thành thư ký của ban này. Trong thời gian sống và làm việc bên cạnh Ashley,

Locke đã bị lôi cuốn bởi những vấn đề chính trị của nước Anh lúc bấy giờ và

ông đã nhanh chóng hòa nhập vào những tư tưởng cùng những kế hoạch cấp tiến

của Ashley. Với vai trò là một thư ký của Ashley, Locke đã được tham gia góp ý

xây dựng các văn bản của hiến pháp cơ bản của Carolinas. Ngoài các vấn đề về

thương mại và thuộc địa, Locke đã hỗ trợ đắc lực Ashley trong các cuộc tranh

luận về chính sách công cộng khác.

Trong giai đoạn từ 1674 – 1688, cuộc đời của John Locke gắn liền với

nhiều biến cố thậm chí hiểm nguy đến tính mạng. Cụ thể, trong thời gian từ

1675 - 1679 ông sang Pháp nghiên cứu triết học Descartes và thiết lập mối quan

hệ với một số nhà tư tưởng lớn châu Âu lúc bấy giờ. Năm 1681, Bá tước Ashley

- người đứng đầu Đảng Quê Hương, lãnh tụ của phe nghị viện chống laị nhà vua

Charles II bị kết tội phản quốc. Là bạn thân và thư ký trung thành của Ashley

nên Locke tất yếu bị liên lụy. Sợ bị nghi ngờ dính líu đến âm mưu chống lại nhà

vua nên ông trốn sang Hà Lan vào năm 1683. Tại đây ông đã viết 2 tác phẩm

“Lá thư về lòng khoan dung” và “Kinh nghiệm về nhận thức của con người”,

nhanh chóng được độc giả đón nhận và xuất bản năm 1689. Ở Hà Lan ông vẫn

tiếp tục hoạt động chính trị và trở thành người lưu vong chính trị. Locke là

người cố vấn trực tiếp cho William III và vạch kế hoạch đưa William III lên làm

hoàng đế thành công. Sau khi cuộc “Cách mạng vinh quang” năm 1688 giành

thắng lợi, Locke đã trở lại Anh trên tàu cùng công nương Mary II và quốc

32

trưởng William. Năm 1690, John Locke xuất bản cuốn “Hai khảo luận về chính

quyền dân sự”.Cuốn sách làm ông nổi tiếng với tư cách là nhà triết học và là một

nhà lý thuyết chính trị. Mặc dù trước Locke có nhiều nhà triết học viết về lĩnh

vực chính trị nhưng tác phẩm của ông vẫn gây được tiếng vang lớn trong đời

sống chính trị nước Anh đương thời, vì tác phẩm này được xuất bản đúng lúc

diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng ở nước Anh.

Năm 1696, Uỷ ban thương mại được phục hồi và Locke đóng một vai trò

quan trọng trong sự hồi sinh của nó và đã cống hiến những năm tháng cuối cuộc

đời mình cho công việc tại đây. Sau khi nghỉ hưu từ Ban Thương mại năm 1700,

Locke về sống tại Oates cho đến khi ông qua đời vào ngày 28- 10 – 1704 do căn

bệnh hen suyễn mãn tính ở tuổi 72.

Nghiên cứu nhiều lĩnh vực, nhưng thành công lớn ở lĩnh vực chính trị và

pháp luật, Locke được xem là một trong những cội nguồn của tri thức của phong

trào Khai sáng châu Âu. J. Locke đã để lại nhiều tác phẩm, nhiều công trình

nghiên cứu khoa học có giá trị như: Luận về nhận thức con người, (An Essay

Concerning Human Understanding, 1689); Thư bàn về sự khoan dung (A Letter

Concerning Toleration, 1689); Hai khảo luận về chính quyền (Two Treatises of

Government,1689); Một số suy nghĩ về hậu quả của việc hạ thấp tỷ giá và tăng

giá trị của tiền tệ (1691); Một số suy nghĩ về giáo dục (Some Thoughts

Concerning Education, 1693), Tính hợp lý của Thiên chúa giáo (The

Reasonableness of Christianity, 1695); Biện hộ cho tính hợp lý của Kito giáo

(1695); Thuyết trình về phép màu của Chúa (xuất bản sau khi J. Locke đã mất);

Xem xét ý kiến của Cha Malebranche nhìn thấy tất cả mọi việc nhân danh Chúa

(xuất bản sau khi J. Locke đã mất).

1.3.2.Tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”

“Khảo luận thứ hai về chính quyền” là tác phẩm nằm trong “Hai khảo

luận về chính quyền” (Two Treatises of The Government) của John Locke.

33

“Khảo luận thứ nhất về chính quyền” hiện chưa được dịch sang tiếng

Việt. Trong khảo luận thứ nhất, Locke nhắm đến việc biện bác cách nhìn gia

trưởng về thánh quyền của vua chúa được Sir Robert Filmer truyền bá. Locke đã

phê phán luận điểm của Filmer khi cho rằng con người tự do mặc nhiên, và mọi

chính quyền chân chính đều là nền quân chủ chuyên chế, vua chúa là những

người được truyền tiếp từ con người đầu tiên là Adam.

“Khảo luận thứ hai về chính quyền” của Locke được cho là viết vào thời

điểm xảy ra sự khủng hoảng của dự luật tống xuất anh em quốc vương Jame II.

Sự thất bại của bộ luật này đã đưa Locke và những người bạn của mình đến với

quan điểm vũ trang. Có thể nói, tác phẩm chính là một sự biện luận chân chính

hợp lí về cuộc các mạng tư sản năm 1689.

Khảo luận thứ hai về chính quyền được xem là một trong những tác phẩm

vĩ đại nhất của chính trị học nhân loại, thể hiện rõ nhất quan điểm của J. Locke

về nhà nước, về quyền tự nhiên, về khế ước xã hội và trong đó quan điểm về

quyền lực nhà nước là một trong những giá trị cốt lõi của tư tưởng chính trị

mang tinh thần Khai sáng.

“Khảo luận thứ hai về chính quyền” với tựa phụ là “Luận về nguồn gốc,

phạm vi và mục đích chân chính của chính quyền dân sự” được xem là một

trong những tác phẩm vĩ đại nhất của chính trị học nhân loại. Tác phẩm là sự

tiếp tục dòng chảy của tư tưởng nhân loại về nhà nước và quyền lực nhà nước

bắt đầu từ thời Hy Lạp - La Mã cổ đại đến thời Phục hưng, là tiền đề trực tiếp

ảnh hưởng đến tư tưởng của trào lưu Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và được thể

hiện rõ nét trong tư duy và hoạt động của các nhà lập pháp hiện đại sau này.

Tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” được John Locke chia

làm 19 chương tập trung luận giải các luận điểm là nền tảng cơ bản để thiết lập

một nhà nước dân sự toàn hảo với một văn phong sáng sủa, đơn giản nhưng rất

logic và chặt chẽ. Trong đó, chương 1, Locke đưa ra định nghĩa của mình về 34

quyền lực chính trị. Ở chương 2 của tác phẩm Locke đưa ra một trạng thái xã

hội giả định là trạng thái tự nhiên, một trạng thái giống với xã hội sơ khai

nguyên thủy không có nhà nước, chính quyền và cả quan tòa. Từ đó, Locke cho

rằng trong một xã hội như vậy, mỗi cá nhân sinh ra đã tự bình đẳng như nhau,

đều có quyền thụ hưởng những gì của tự nhiên cũng như quyền tự bảo toàn tính

mạng, tự do và những gì là sở hữu của mình, con người sống và hành động tuân

theo các quy tắc của luật tự nhiên.

Ở chương 3 và 4, Locke xác định trạng thái chiến tranh và trạng thái nô

lệ. Trạng thái chiến tranh hình thành khi có người có ý định xâm phạm đến

quyền sống của người khác. Khi đó, người này đã tự đặt mình vào trạng thái

chiến tranh với người mà cuộc sống bị nhắm lấy đi. Tình trạng nô lệ là trạng thái

người ta sống dưới quyền lực độc đoán của người khác, là sự tiếp tục của trạng

thái chiến tranh giữa người đi chinh phạt và người thất trận, hoặc có thể là sự

cưỡng ép bằng sức mạnh đưa người khác vào vòng lô nệ của mình.

Chương 5, bàn về sở hữu là một trong những chương nổi tiếng nhất và

quan trọng nhất. Tại đây, Locke đã đưa ra nguồn gốc để xác lập quyền sở hữu và

tư hữu, đó là từ lao động, khi mỗi cá nhân hòa trộn sức lao động của mình vào

sản phẩm thô của tự nhiên, tức là anh ta đã đánh dấu quyền sở hữu của mình lên

nó, như việc ta đi khai hoang một mảnh đất vậy sẽ không có ai xứng đáng hơn ta

để trồng trọt trên đó.

Từ chương 7 đến chương 15, Locke tập trung vào luận giải về sự khởi đầu

cho một xã hội chính trị và xã hội dân sự cùng với mục đích chân chính nhất của

nó. Theo đó, mỗi người tự rời bỏ quyền lực tự nhiên của mình để trao vào tay

cộng đồng, cộng đồng này có được sự ổn định và bảo đảm dựa trên những luật

lệ được cơ quan lập pháp tối cao làm ra, và đây chính là cơ quan quyền lực cao

nhất của xã hội công dân. Mục đích chính nhất của chính quyền dân sự là bảo

toàn quyền sống, quyền tự do, sức khỏe và sở hữu của nhân dân. Trừng phạt bất

kì ai xâm phạm vào luật pháp của cộng đồng đã định ra.

35

Trong những phần cuối của khảo luận, Locke đưa ra những kiến giải về

quyền lực bạo chính và sự biến thể của một chính quyền dân sự chân chính

thành quyền chuyên chế tàn bạo. Điều đó dẫn đến giải pháp rằng trong tình cảnh

như thế nổi loạn là một hành động công chính. Người dân có quyền hành động

với tư cách quyền lực tối cao và tự mình tiếp tục công việc lập pháp hoặc dựng

lên một hình thức chính quyền mới.

Có thể nói, vấn đề quyền con người và học thuyết về nhà nước là 2 tư

tưởng cơ bản của tác phẩm, trong đó tư tưởng của Locke về sự quyền nhà nước

là một trong những nội dung mang giá trị cốt lõi. Ta thấy tư tưởng chính trị của

Locke thể hiện tinh thần chung xuyên suốt mạch chảy của triết học chính trị thời

kỳ XVII - XVIII, đó là quan niệm về các quyền tự nhiên và khế ước xã hội.

Kết luận chƣơng 1

Ở thế kỷ XVII ở nước Anh, bối cảnh kinh tế, xã hội và chính trị nước Anh

thế kỉ XVII đã có những chuyển biến đáng kể. Trong đó, nổi bật là sự hình thành

và phát triển của chủ nghĩa tư bản xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống

kinh tế tạo điều kiện cho cuộc cách mạng tư sản Anh diễn ra và dành thắng lợi

năm 1689 lật đổ chế độ phong kiến và sự thiết lập chế độ quân chủ lập hiến, tất

cả đó ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm chính trị của Locke. Bởi ông không chỉ

đóng vai trò như một nhân chứng lịch sử mà còn là người trực tiếp tham gia vào

các sự kiện chính trị lúc đó.

John Locke là một trong những triết gia, chính trị gia có ảnh hưởng lớn

không chỉ đối với riêng nước Anh mà còn đối với lịch sử tư tưởng nhân loại nói

chung. Cả đời ông sống, làm việc và cống hiến cho nhân loại những tư tưởng

lớn về triết học, giáo dục,.. đặc biệt là chính trị với tác phẩm nổi tiếng “Khảo

luận thứ hai về chính quyền”. Tư tưởng của Locke về sự phân quyền nhà nước

trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” cùng toàn bộ tư tưởng triết

học của ông chính là sản phẩm của bối cảnh lịch sử nước Anh lúc bấy giờ, là sự

36

phản ánh yêu cầu của giai cấp tư sản muốn vươn lên chống lại chế độ phong

kiến giành địa vị thống trị, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển. Quan

niệm về quyền lực và sự phân chia quyền nhà nước của John Locke còn là sự

tiếp nối dòng chảy chung của lịch sử tư tưởng nhân loại về nhà nước và quyền

lực.

37

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG CỦA JOHN LOCKE VỀ

PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG TÁC PHẨM “KHẢO

LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN”

2.1. Quan niệm của John Locke về nguồn gốc và đặc điểm của quyền lực

nhà nƣớc

Để hiểu rõ ràng và chặt chẽ bản chất và mục đích trong tư tưởng phân

chia quyền lực của Locke, rằng tại sao Locke lại phân chia quyền lực thành ba

quyền với nguyên tắc gì, thì chúng ta cần phải tìm hiểu và nghiên cứu quan niệm

của ông về nguồn gốc quyền lực nhà nước cũng như đặc điểm của nó.

2.1.1. Về nguồn gốc hình thành quyền lực nhà nƣớc

John Locke đã giải thích sự hình thành quyền lực nhà nước trên quan

điểm về quyền tự nhiên và khế ước xã hội. Theo đó, cần phải có một khế ước xã

hội khi con người đã thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên để trở thành con người

trong xã hội dân sự. Locke viết: “bằng sự đồng thuận với những người khác để

cùng liên kết và hợp nhất trong một cộng đồng vì cuộc sống tiện lợi, an toàn và

thanh bình trong sự thụ hưởng một cách đảm bảo đối với sở hữu của họ…” [20,

137].

Quyền lực nhà nước được xác lập từ ý chí chung, trên cở sở sự thỏa thuận

tự nguyện. Nguồn gốc hình thành quyền lực nhà nước theo John Locke được xác

lập từ ý chí chung. Sự luận giải đó được ông phân tích khá sâu sắc và độc đáo

trong quá trình phát triển lịch sử xã hội con người trải qua từ trạng thái tự nhiên

tiến đến trạng thái xã hội công dân.

Trạng thái tự nhiên theo Locke quan niệm đó là “trạng thái hoàn hảo” bởi

trong xã hội, mọi người đều bình đẳng như nhau, chưa có sự khác biệt rõ rệt

giữa mọi người về kinh tế, địa vị xã hội và giai cấp, con người đã được hưởng

38

một cuộc sống bình yên và hạnh phúc trong một thời gian dài, phù hợp với luật

tự nhiên.

Locke khẳng định bản tính con người là lí tính hay lí trí, và nhờ có lí trí

mà con người nhận thức được mình có nghĩa vụ như thế nào trong cộng đồng:

“Sự thôi thúc tự nhiên giống nhau đã đưa người ta đến với nhận thức rằng sự

yêu thương người khác hơn cả bản thân mình là bổn phận của mình” [20, 34].

Nếu những gì làm cho người khác bị xâm phạm thì cũng giống như chính bản

thân họ bị như vậy. Locke đã chỉ ra động lực thúc đẩy hành vi con người là bổn

phận và nghĩa vụ của cá nhân.

Locke quan niệm trong trạng thái tự nhiên con người đều bình đẳng tuyệt

đối và tự do làm bất kì điều mình muốn, nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ chịu

sự kiểm soát và chi phối bởi luật tự nhiên cùng với bổn phận và trách nhiệm.

Chính luật tự nhiên đã có tác dụng kiểm soát hành động của con người không đi

quá giới hạn tự do cho phép, không xâm hại đến tính mạng, tài sản của người

khác. Điều này khiến cho trạng thái tự nhiên dù là rất tự do nhưng vẫn có quy

tắc và trật tự nhất định chứ không phải là trạng thái hỗn loạn và lộn xộn, bởi nó

luôn được luật tự nhiên và nghĩa vụ tự nhiên điều chỉnh.

Tuy nhiên, Locke thấy rằng, trạng thái tự nhiên của con người không thể

tồn tại lâu dài, sở dĩ vậy là do trong trạng thái tự nhiên cũng là trạng thái chứa

nhiều bất cập, đe dọa đến các quyền cơ bản của con người. Locke cho rằng trạng

thái tự nhiên còn những bất cập :Thứ nhất, ở đó thiếu vắng luật pháp, là công cụ

chung giải quyết tranh chấp giữa mọi người với nhau. Trạng thái tự nhiên vẫn có

luật tự nhiên cai quản, nhưng con người hành động tuân theo luật tự nhiên tùy

theo cảm nhận, do đó, con người dễ dàng bị thiên lệch vì lợi ích, vì cảm xúc của

riêng mình.Thứ hai, trong trạng thái tự nhiên, mỗi người là quan tòa của chính

bản thân mình “Mỗi người đều có quyền trừng phạt người vi phạm, và đều là

người chấp pháp của luật tự nhiên" [20, 38]. Thứ ba, trong trạng thái tự nhiên

39

thường thiếu quyền lực để hậu thuẫn và ủng hộ cho bản án đúng đắn đem lại cho

nó sự thi hành chính đáng [xem 20, 174 - 175]. Với những bất cập căn bản này

nên trong trạng thái tự nhiên trở nên không an toàn và không đảm bảo được các

quyền cơ bản “việc thụ hưởng nó rất không chắc chắn và luôn trong tình thế bị

xâm lấn từ người khác…mọi người đều bình đẳng với anh ta, và bộ phận người

nhiều hơn còn lại đó không là những người quan sát nghiêm khắc của bình đẳng

và công lý, quyền sở hữu mà anh ta thụ hưởng trong tình trạng này rất không an

toàn, rất không đảm bảo” [20, 173]. Điều này đã đẩy loài người vào trạng thái

chiến tranh và thù địch, cuộc đấu tranh ấy không những không giải quyết được

nhu cầu của mỗi bản thân con người mà còn đẩy con người vào nguy cơ huỷ

diệt. Thế nhưng, sự khôn khéo cũng như lý trí của con người đã được thức tỉnh

và thể hiện. Dù rằng, trạng thái tự nhiên là một trạng thái hoàn hảo, con người

có mọi đặc quyền nhưng không thể kéo dài trạng thái này. Và con người sẵn

sàng từ bỏ trạng thái tự nhiên dù tự do nhưng nhiều sự lo sợ và nguy hiểm, để

chuyển sang một trạng thái an toàn, thanh bình hơn, các quyền cơ bản của con

người được đảm bảo an toàn hơn. Đó chính là xã hội dân sự. "Với tính cách là

mỗi người rút khỏi quyền thực thi luật tự nhiên của mình và trao quyền lực đó

cho cộng đồng, thì khi đó - và chỉ khi đó, nó là một xã hội chính trị, tức là một

xã hội dân sự". [20, 127]. Khi tham gia vào xã hội dân sự, mỗi người sẽ phải từ

bỏ hai quyền cơ bản trong trạng thái tự nhiên: đó là quyền thực hiện bất kỳ điều

gì mà anh ta muốn sao cho hành động của anh ta không đi quá giới hạn cho phép

của luật tự nhiên và thứ hai đó là quyền đi trừng phạt người khác khi họ xâm

phạm vào luật này.

Sự chuyển giao quyền lực từ trạng thái tự nhiên sang xã hội dân sự là việc

trao quyền lực từ quyền lực thực thi luật tự nhiên của mỗi cá nhân thành quyền

lực chung của cộng đồng, nói cách khác là ủy quyền và diễn ra trong sự tự

nguyện và hòa bình. Locke đòi hỏi sự thỏa thuận này phải đạt được sự thống

nhất của đa số nhân dân. Và cơ quan quyền lực mới phải đảm bảo đầy đủ quyền

40

của con người: "Sự chấp thuận này là điều nhất thiết có để một cơ quan chung

vận động thuận chiều, nên nhất thiết là cơ quan đó cần phải vận động trên con

đường đi đến nơi có sức mạnh lớn hơn, là nơi của sự chấp thuận của đa số...

hành động của đa số được coi là hành động của toàn thể, và tất nhiên nó được

quyết định, như đã có, bằng luật tự nhiên và lí trí - quyền lực của toàn thể" [20,

138]. Trong xã hội công dân, những quyền mà mỗi con người góp lại gọi là

quyền lực tối cao, tức là ý chí chung mà cơ quan đại diện cho quyền lực tối cao

ấy là nhà nước. Quyền lực thực thi luật tư nhiên của cá nhân này cùng quyền lực

thực thi luật tự nhiên cá nhân khác và quyền lực của nhiều cá nhân trong xã hội

đó gộp lại thành quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước không phải tự nhiên

mà có, là tổng hợp của sự ủy quyền của mỗi thành viên xã hội, của công dân.

Theo ông, quyền lực nhà nước xuất hiện trên cơ sở thỏa thuận bằng một

bản khế ước. Khế ước xã hội chính là một giao kèo, thỏa thuận của những cá

nhân, con người trong xã hội để cùng tham gia vào một cộng đồng. Khế ước này

quy định mọi thành viên trao lại quyền tự nhiên của mình cho cộng đồng, mà

hiện thân của nó là nhà nước, để nhận lấy sự bảo vệ của chính nhà nước đó trong

vòng trật tự và có tổ chức. Sau khi được ký kết, sức mạnh tập thể, tức là ý chí

chung đã được xác lập và chính nhờ có ý chí chung này mà bản ký kết đã lan tỏa

ra một sức mạnh phi thường, sức mạnh đó có thể bảo vệ tất cả những ai tham

gia ký kết vào bản khế ước đó.

Khi lý giải mục đích của việc thiết lập quyền lực nhà nước, Locke khẳng

định “bằng sự đồng thuận với những người khác để cùng liên kết và hợp nhất

trong một cộng đồng , vì cuộc sống tiện lợi, an toàn và thanh bình, trong sự thụ

hưởng một cách đảm bảo đối với sở hữu của họ” [20, 137]. Mục đích con người

chuyển sang xã hội dân sự là để tránh những phiền phức mà trạng thái tự nhiên

gây ra cho con người và vì cuộc sống tiện lợi, an toàn và thanh bình và đảm bảo

quyền sở hữu. Như vậy, theo Locke, mục đích của việc thiết lập quyền lực nhà

nước đó là hướng tới đảm bảo quyền và hạnh phúc của nhân dân. Đó cũng chính

41

là mục tiêu cao nhất và bất biến của mọi chính quyền chân chính. Mục đích

hướng tới của việc thiết lập chính quyền không là gì khác ngoài việc bảo đảm

cho mọi người dân quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu.

Như vậy, Locke khẳng định quyền cá nhân con người trong mối quan hệ

hài hòa giữa cá nhân và xã hội, nhà nước. Điều đó cho thấy Locke không hi sinh

lợi ích của cá nhân cho lợi ích nhà nước mà ông muốn tạo ra một cơ sở chắc

chắn hơn cho cá nhân đảm bảo các quyền của mình trong một xã hội có trật tự

và tổ chức. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng một khối quyền

lực chung đại diện cho quyền lực của toàn thể nhân dân là quyền lực nhà nước

chân chính. Trong xã hội dân sự, con người phục tùng một quyền lực chung

vượt lên trên tất cả mọi cá nhân nên nó mang tính công bằng hơn.

2.1.2. Về đặc điểm của quyền lực nhà nƣớc

Thứ nhất, quyền lực nhà nước mang tính thống nhất

Quyền lực nhà nước với tính cách là quyền lực tối cao là sự thể hiện ý chí

chung, ý chí toàn thể nên nguyên tắc là thống nhất, không thể bị phân chia, vì

hướng tới lợi ích công, mục tiêu cao nhất bảo toàn hạnh phúc, an toàn, và các

quyền cơ bản của toàn thể công dân. Mặc dù, trong cơ chế vận hành và tổ chức

quyền lực nhà nước, Locke phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền: lập

pháp, hành pháp, tư pháp. Đây chỉ là sự phân chia về mặt hình thức và phương

thức hoạt động, đảm bảo cho nhà nước hoạt động một cách hiệu quả và tích cực

đảm bảo vai trò của mình trong quản lí và duy trì trật tự xã hội. Cả ba quyền lập

pháp, hành pháp,và tư pháp đều hướng tới lợi ích chung của cộng đồng, đều bị

chịu sự chi phối của ý chí toàn thể. Do đó, bản chất quyền lực nhà nước vẫn là

thống nhất, không bị phân chia.

Quyền lực nhà nước được xác lập từ ý chí chung, ra đời trên cơ sở thỏa

thuận tự nguyện chuyển giao quyền lực riêng của mỗi cá nhân cho cộng đồng.

Khi ra đã nhập vào xã hội dân sự, con người không có quyền từ bỏ, vì nếu từ bỏ,

42

ý chí tập thể sẽ không tồn tại nữa, nó sẽ trở về với ý chí của mỗi cá nhân, đưa

con người trở lại trạng thái tự nhiên.

Thứ hai, quyền lực nhà nước mang bản chất phi giai cấp

Theo, Locke quyền lực nhà nước được thành lập dựa trên ý chí chung của

nhân dân, được kí kết tự nguyện của toàn thể mọi người trên bản một bản kế

ước, vì vậy tất yếu nó sẽ bảo vệ lợi ích của tất cả mọi người. Khi tham gia khế

ước xã hội, mọi người đã trao cả sự an toàn tính mạng, tự do và tài sản của mình

cho xã hội công dân, lúc này nhà nước có trách nhiệm bảo đảm sự ổn định và

phát triển xã hội đó. Do vậy, trong quan niệm của Locke, quyền lực nhà nước

thuộc về toàn thể nhân dân, không và càng không thể thuộc về bất kì một ai hay

một tập đoàn giai cấp thống trị nào . Với Locke, chủ thể tối cao của quyền lực

nhà nước nhất quyết chỉ có thể là nhân dân. Locke luận giải rằng nhà nước là do

con người thỏa thuận lập nên bằng khế ước xã hội, bởi vậy quyền lực của nhà

nước là quyền lực được người dân ủy thác và phải chịu sự kiểm soát từ nhân

dân. Mục đích hoạt động của nhà nước chính là việc bảo đảm một cách tốt nhất

quyền lợi của người dân. Locke viết: “Mục đích cao quý và chủ yếu trong việc

hợp nhất của con người thành cộng đồng quốc gia và đặt chính họ dưới một

chính quyền, là sự bảo toàn đối với sở hữu của họ” [20, 174]. Chính vì vậy,

hoạt động của nhà nước không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ một ai, một tầng

lớp, giai cấp nào trong xã hội, mà nhà nước chính là sự đảm bảo cho chủ quyền

của nhân dân, trong đó đảm bảo các quyền tự do, bình đẳng và sở hữu.

Locke có một cái nhìn rất khác biệt với quan điểm của Mác – Ăngghen về

bản chất của quyền lực nhà nước. Mác – Ăngghen quan niệm nhà nước là một tổ

chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm mục đích bảo vệ

trật tự và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác… Nhà nước mang bản

chất giai cấp và bản chất nhà nước cũng chính là công cụ bạo lực để bảo vệ

43

quyền lợi và địa vị của giai cấp thống trị. Như vậy, quyền lực nhà nước theo

Mác và Ăngghen là quyền lực của giai cấp thống trị

Với Locke, nhà nước mang bản chất phi giai cấp, quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân. Sự khác nhau giữa Locke và chủ nghĩa Mác – Lênin về bản

chất quyền lực nhà nước xuất phát từ nguồn gốc hình thành. Một bên quyền lực

nhà nước đại diện cho ý chí chung của toàn thể nhân dân, một bên đại diện cho ý

chí của giai cấp thống trị.

Thứ ba, quyền lực nhà nước là quyền lực được ủy quyền từ dân

John Locke khẳng định quyền lực nhà nước xuất phát từ ý chí của toàn

thể nhân dân. Quyền lực của nhân dân là cơ sở nền tảng cho quyền lực nhà

nước. Trong quan hệ với dân, về bản chất nhà nước không có quyền mà thực

chất chỉ là thực hiện sự ủy quyền của người dân để đảm bảo lợi ích và các

“quyền tự nhiên” của mình khi gia nhập vào xã hội công dân. Người dân ủy

quyền cho những người đại diện của mình tham dự vào bộ máy nhà nước thay

mặt cho họ giải quyết các tranh chấp, cũng như đảm bảo sự an toàn cũng như

tính mạng và tài sản của người dân. Do vậy, người được ủy quyền đại diện cho

người dân phải chịu sự chế ước từ người ủy quyền, nhân dân có quyền kiểm tra

và giám sát hoạt động của nhà nước.

Hơn nữa, Locke khẳng định dân chúng không chuyển giao tất cả quyền tự

nhiên của mình cho quyền lực tuyệt đối của nhà nước, họ luôn giữ lại phần cho

mình, là cái được đặt ở trong toàn thể cộng đồng, “Cộng đồng vĩnh viễn lưu giữ

một quyền lực tối cao để cứu lấy chính mình trước những cố gắng hay mưu đồ

của bất kỳ ai” [20, 204].

Trong quá trình hoạt động quyền lực nhà nước có khả năng bị tha hóa,

nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực cho những mục đích cá nhân, điều này làm

thay đổi mục đích ban đầu của việc thiết lập xã hội công dân, đi ngược lại với ý

44

chí chung và sự ủy quyền của dân chúng. Từ chỗ nhân dân lập ra nhà nước

nhằm đảm bảo quyền lợi cho mọi người thì giờ đây, nhà nước lại trở thành công

cụ để đàn áp nhân dân, không bảo đảm quyền cơ bản của người dân dẫn đến bất

công xã hội. Chính khi đó, người dân có quyền xóa bỏ đi khế ước xã hội cũ và

lập nên một khế ước xã hội mới phù hợp với ý chí chung, ủy quyền cho một nhà

nước mới tốt hơn, đảm bảo quyền của người dân. Do vậy, nhân dân mới là chủ

thể cao nhất nắm mọi quyền lực trong xã hội “quyền lực tối cao được nhân dân

đặt vào, nó luôn ở trong họ, và họ có thể thực hiện quyền lực đó khi họ muốn"

[20, 208].

Thứ tư, pháp luật là nền tảng của quyền lực nhà nước

Sự thỏa thuận tự nguyện đi đến kí kết một bản khế ước xã hội là cơ sở

hình thành nhà nước và để nó có thể thực hiện được vai trò quản lí xã hội trật tự

và có tổ chức thì phải có pháp luật.

Trong xã hội công dân, luật pháp không chỉ đóng vai trò bảo vệ quyền lợi

và nghĩa vụ của công dân mà còn là cơ sở làm cho xã hội cộng đồng tồn tại

trong vòng trật tự bởi “Nơi nào có luật pháp chấm dứt, nơi đó sự chuyên chế bắt

đầu” [20, 264]. Pháp luật chính là công cụ để nhà nước đảm bảo các quyền tự

nhiên căn bản của con người và nó cũng chính là công cụ để chống lại sự lạm

dụng quyền lực của các nhà quản lý xã hội. Một quốc gia mà thiếu vắng luật

pháp thì sẽ chìm trong sự chuyên chế, nhân dân sẽ sống trong trạng thái còn tệ

hơn cả trong trạng thái tự nhiên. Lock viết: “Nếu phải từ bỏ trạng thái tự nhiên

cho chủ nghĩa độc tài thì tốt hơn là nếp sống theo trạng thái nguyên thủy” [14,

59].

Sở dĩ đó, Locke đã đưa ra một kết luận đầy đanh thép về tính tối thượng

của luật pháp trong xã hội dân sự: “Không một ai trong xã hội dân sự có thể

được miễn trước pháp luật của nó” [20, 136]. Mọi công dân và thiết chế quyền

lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, 45

không ai có thể đứng lên trên pháp luật. Luật pháp là tối cao, đại diện cho sức

mạnh ý chí chung của tất cả thành viên trong xã hội, bởi mỗi người đã từ bỏ

quyền trở thành quan tòa của chính mình chuyển giao quyền lực phán xét cho

cộng đồng. Lợi ích chung là cơ sở của luật pháp nền tảng, mang tính tổng quát

cho tất cả mọi người. Trong xã hội dân sự, mọi người đều bình đẳng trước sự

phán xét của luật pháp.

Mục đích của luật pháp theo Locke nhấn mạnh bảo toàn sở hữu ở mức cao

nhất và làm cho con người càng trở nên tự do trong trật tự khuôn khổ của luật

pháp “mục đích của luật pháp không phải thủ tiêu hay kiềm tỏa tự do, mà là bảo

toàn và khuyếch trương nó….[20, 93 – 94]. Locke thấy được rằng, cần phải

vạch ra giới hạn giữa quyền lực nhà nước và quyền tự do của công dân. Đối với

người dân thì cho phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn đối với

cơ quan nhà nước chỉ được phép làm những gì mà pháp luật quy định. Pháp luật

của nhà nước phải hướng đến mục tiêu vì con người, vì quyền con người.

Như vậy, trong toàn bộ tác phẩm của mình, Locke khẳng định mạnh mẽ

rằng nhân dân mới là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà

nước thuộc về nhân dân. Bởi theo sự luận giải của Locke, nhà nước là do con

người thỏa thuận lập nên, do đó, quyền lực của nhà nước không phải là quyền

lực tự thân mà là quyền lực được ủy thác và phải chịu sự kiểm soát từ nhân dân.

Quyền lực nhà nước ra đời với mục đích vì quyền con người được bảo vệ bởi

pháp luật, bảo đảm con người sống trong xã hội an toàn và ổn định. Tổ chức và

mọi phương thức hoạt động của quyền lực nhà nước cũng đều phải đảm bảo

được mục đích đó.

2.2. Tƣ tƣởng về phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke

Con người từ bỏ trạng thái tự nhiên để chuyển sang xã hội có nhà nước là

bởi vì quyền con người ở trong nhà nước có luật pháp điều chỉnh được đảm bảo

hơn so với ở trong trạng thái tự nhiên. Chính vì thế, nhà nước phải tổ chức và 46

vận hành quyền lực theo cách thức nào để hoạt động hiệu quả nhất, để nhân dân

ủy quyền nhưng không mất quyền, ủy quyền nhưng không bị lạm quyền? Câu

trả lời được John Locke trình bày chi tiết và chặt chẽ trong tác phẩm “Khảo luận

thứ hai về chính quyền”.

2.2.1. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nƣớc

Kế thừa quan điểm về tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của các bậc

tiền bối, John Locke đã có những quan điểm rõ ràng và chặt chẽ về sự phân chia

quyền lực nhà nước, đồng thời xác định rõ vị trí và vai trò của mỗi quyền trong

xã hội.

Với Locke, quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân, mang tính thống

nhất và không thể phân chia. Tuy nhiên sự thống nhất theo Locke là thống nhất

về ý chí chung. Locke phân chia các bộ phận của quyền lực nhà nước thành các

cơ quan quyền lực: lập pháp, hành pháp và liên hiệp. Ba cơ quan này có chức

năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều nhằm mục đích phục vụ ý chí chung và lợi

ích công. Quyền lực nhà nước với tính cách là quyền lực tối cao đại diện cho ý

chí chung, mà ý chí chung được tạo nên do mỗi cá nhân rút khỏi quyền thực thi

luật tự nhiên chuyển giao cho cộng đồng. Bởi vậy chức năng của quyền lực tối

cao là phải đảm bảo cho quyền và lợi ích của mỗi công dân trong xã hội ấy. Vì

thế quyền lực tối cao là thống nhất, không thể phân chia. Nếu phân chia quyền

lực tối cao trở thành những quyền riêng, do vậy bản chất quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân không còn nữa. Trong quyền lực nhà nước, quyền lực lập

pháp được ông coi trọng nhất, các quyền hành pháp, quyền liên hiệp là những bộ

phận thi hành, theo như cách nói của ông là chúng chỉ là thuộc cấp của lập pháp.

Quan niệm về phân quyền của Locke đã làm sáng tỏ được bản chất dân chủ của

nhà nước.

Về sự phân chia quyền lực, ông khẳng định: “Cơ quan lập pháp….vì các

luật này – vốn luôn được thực hiện trong một thời gian ngắn, nên không cần

47

thiết là cơ quan lập pháp cần phải luôn luôn hiện diện,..Và do có thể có một sự

cám dỗ quá lớn trước sự yếu đuối của con người, ở cùng những người có quyền

làm luật đó có xu hướng thâu tóm quyền lực…nhờ đó có thể miễn trừ cho chính

họ khỏi việc tuân thủ đối với luật mà họ làm nên, và rồi đồng bộ hóa pháp luật,

cho lợi thế tư riêng của chính họ; từ đó đi đến chỗ có sự tách biệt quyền lợi khỏi

phần công cộng còn lại, đối lập với mục đích của chính quyền và xã hội”[20,

199], “vì các luật được làm nên vào một lần và trong một thời gian ngắn mà lại

có sức mạnh bất biến và dài lâu, cùng với nhu cầu thực thi trường cửu, tức là

thêm vào đó một sự tham dự nữa, do đó, nó nhất thiết phải là một quyền lực

luôn hiện diện để quan sát việc thực thi pháp luật đã được làm nên…Cơ quan

hành pháp và quyền lực lập pháp thường được tách rời nhau”[20, 200].

Locke luận giải quyền lực nhà nước không thể tập trung trong tay bất kỳ

một cá nhân nào mà phải có sự tách biệt giữa quyền lập pháp và hành pháp. Bởi

vì một khi quyền lập pháp và hành pháp cùng nằm trong tay một người hay một

nhóm người thì có thể họ sẽ miễn cho bản thân việc chấp hành luật, thậm chí

còn biến luật pháp trở thành công cụ nhằm đạt được mục đích và lợi ích của bản

thân mình. Điều đó khiến cho quá trình làm luật và thực thi pháp luật chỉ vì lợi

ích của riêng họ mà gạt bỏ lợi ích chung của cộng đồng, lúc này luật pháp không

còn đại diện cho toàn thể ý chí của quốc gia mà là công cụ để bảo vệ lợi ích của

người nắm quyền. Như vậy, nếu quyền lập pháp và hành pháp đều cùng thuộc

về một chủ thể thì sẽ biến quyền lực nhà nước thành sân chơi của riêng họ với tư

cách “vừa đá bóng, vừa thổi còi” .Vì thế hai quyền lực này cần được trao cho

những bàn tay khác nhau. Đồng thời, Locke cũng nhận thấy một nguyên nhân

khác cho việc cần có sự phân chia giữa lập pháp và hành pháp. Cần phải có một

cơ quan khác đảm nhiệm quyền thực thi luật pháp vì cơ quan lập pháp là cơ

quan không trường trực, không tồn tại thường xuyên, do việc luật làm ra trong

thời gian ngắn mà được sử dụng lâu dài vì việc thi hành luật trong đời sống luôn

luôn hiện hữu. Luật pháp là công cụ để nhà nước điều tiết các mối quan hệ xã

48

hội và duy trì, bảo đảm trât tự xã hội, bảo vệ quyền của con người và định

hướng phát triển xã hội, vậy nên cần phải có một cơ quan thường trực khác đảm

nhiệm việc thi hành pháp luật trong đời sống. Chính vì thế, việc làm luật và thực

thi nó trong thực tế phải được giao cho hai cơ quan quyền lực chuyên trách khác

nhau đảm nhiệm: Cơ quan lập pháp thực hiện quyền làm luật. Cơ quan hành

pháp là thực hiện cũng như giám sát sự thực hiện các đạo luật đã được cơ quan

hành pháp ban hành.

Về cơ quan hành pháp và quyền liên hiệp, Locke cũng khẳng định quyền

lực hành pháp và liên hiệp mặc dù thống nhất với nhau, nhưng thực sự khác biệt

về vai trò, chức năng của mỗi quyền. Một quyền đảm bảo quyền thực thi luật

bên trong xã hội đó, còn một quyền quản lí đảm bảo an ninh và sự liên quan đến

người dân, những lợi ích hay nguy hiểm mà xã hội có thể nhận.

Theo Locke, mỗi cơ quan nên giữ đúng vai trò của mình, cơ quan lập

pháp thông qua nghị viện ban hành luật pháp, cơ quan hành pháp thi hành những

điều khoản của luật vào trong đời sống xã hội, quyền liên hiệp giữ gìn an ninh

và lợi ích của các cá nhân cũng như toàn thể cộng đồng trong mối quan hệ bên

ngoài với các cá nhân và cộng đồng khác. Cả ba quyền đều hoạt động nhằm mục

đích đảm bảo quyền lợi của công dân, đảm bảo sự phát triển của cộng đồng

trong an toàn và ổn định phát triển trong hòa bình. Như vậy, ông không chỉ đề

cao vai trò của pháp luật mà ông còn đặt nhiệm vụ đó vào từng bộ phận trong hệ

thống chính trị.

Việc Locke đưa ra quan điểm phân chia quyền lực nhà nước nhằm phản

ánh một thực tế trong xã hội nước Anh quyền con người bị xâm phạm nghiêm

trọng, và nhu cầu bức thiết phải xóa bỏ quyền lực chuyên chế của nhà vua để đi

đến xây dựng một quyền lực chính trị mới mang tính dân chủ và đảm bảo tốt

hơn những quyền lợi chính đáng của người dân, có sự kiểm soát. Phân chia

49

quyền lực cũng tức là nhà nước bị chế ước quyền lực, khi đó quyền lực của nhà

nước không còn vô hạn, không còn thuộc về một người.

Cơ sở cho việc cần phân chia quyền lực nhà nước không chỉ nằm ở chỗ

chống lại sự lạm dụng và giới hạn quyền lực nhà nước mà còn ở chỗ chống lại

hành động tùy tiện của các quan chức trong tổ chức bộ máy nhà nước để đảm

bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Locke thấy một thực tế là con người

có lòng ham muốn quyền lực tuyệt đối, bởi vì khi có quyền lực con người dễ có

khả năng buộc người khác phải làm theo những ý muốn đam mê của mình, con

người cũng có lúc vì lợi ích cá nhân mà hành động gây tổn hại đến lợi ích của

người khác và cộng đồng. Vì thế, theo Locke nếu quyền lực nhà nước không bị

hạn chế, không bị kiểm soát thì hậu quả rõ ràng nhất là sự vi phạm các quyền

của con người, vì lòng đam mê quyền lực là vô hạn độ với ai nắm nó trong tay.

Do vậy, mục đích của việc phân chia quyền lực nhà nước theo Locke là

đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân nhằm bảo vệ quyền tư nhiên con người.

Locke đưa ra lý thuyết này bởi ông đứng trên quan điểm chủ quyền của nhà

nước thuộc về nhân dân. Nhân dân chính thông quá thoản thuận lập ra nhà nước

và cũng ấn định rằng nhà nước đều phải hướng đến mục đích cao nhất là đảm

bảo quyền lợi của người dân sống trong đó. Nhưng người dân không có khả

năng và điều kiện giải quyết mọi vấn đề của nhà nước nên buộc phải ủy quyền

cho những người đại diện tham dự vào bộ máy nhà nước thay mặt cho họ giải

quyết các tranh chấp, cũng như đảm bảo sự an toàn, tính mạng và tài sản của

người dân. Do vậy, người được ủy quyền đại diện cho người dân phải chịu sự

chế ước từ người ủy quyền, tức nhân dân có quyền kiểm tra và giám sát hoạt

động của nhà nước. Khi những người được ủy quyền hành động không đúng với

mục đích ban đầu được giao thì người dân có quyền phế truất họ và lựa chọn

những người đại diện khác xứng đáng hơn.Bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá

nhân con người trong nhà nước đó là mục đích và cũng là tiêu chí căn bản xác

50

định giới hạn và phạm vi của nhà nước. Đi quá giới hạn này, chính quyền dễ trở

thành chuyên chế, kẻ thù của tự do và là đối tượng của cách mạng.

Như vậy, theo Locke tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực là

nhằm giới hạn quyền lực nhà nước, hạn chế sự lộng quyền, tham luyến quyền

lực và biến chất của nhà nước để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, thuộc

về lợi ích chung của cộng đồng, mà trên hết là quyền tư nhiên cơ bản và thiêng

liêng của con người: bảo toàn tính mạng, tự do, bình đẳng và sở hữu của con

người. Quyền lực thuộc về nhân dân vừa là nguyên tắc vừa là mục đích của phân

chia quyền lực nhà nước.

2.2.2. Quan niệm của John Locke về vai trò cụ thể của các bộ phận quyền lực nhà nƣớc

Trong tư tưởng của John locke về phân chia quyền lực nhà nước, ông đề

cập đến vai trò và mối quan hệ của các bộ phận quyền lực nhà nước. Locke chưa

đưa ra mô hình tam quyền phân lập giữa ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư

pháp như ở các nhà tư tưởng sau này, mà ở trong “Khảo luận thứ hai về chính

quyền quyền”, Locke phân chia quyền lực thành: quyền lập pháp, quyền hành

pháp và quyền liên hiệp tương ứng với các cơ quan chuyên trách khác nhau.

Về cơ quan lập pháp

Theo Locke, một cộng đồng quốc gia thành lập thì việc tiên quyết và nhất

quyết cần phải làm là thiết lập cơ quan lập pháp. Locke cho rằng “Luật xác thực

đầu tiên và là nền tảng của mọi cộng đồng quốc gia, là việc thiết lập quyền lực

của cơ quan lập pháp, cũng như là luật tự nhiên đầu tiên và làm nền tảng để cai

quản ngay cả chính cơ quan lập pháp, là sự bảo toàn của xã hội và của mỗi cá

thể trong đó” [20, 183]. Cơ quan lập pháp có quyền lực tối cao và được xem là

linh hồn trong toàn bộ hệ thống chính trị, là cơ sở để mọi công dân có thể xác

định được giới hạn, phạm vi quyền lực của mình. Hơn thế, theo ông “Tùy việc

quyền lực lập pháp đặt ở cương vị nào mà hình thức của cộng đồng quốc gia đó

51

như thế đó” [20, 180]. Trong tư tưởng phân chia quyền lực của Locke, có thể

nhận thấy ông đã đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp. Cơ quan

lập pháp là cơ quan duy nhất có quyền ban hành pháp luật.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ quan lập pháp, Locke khẳng định: "Cơ

quan lập pháp này không những là quyền lực tối cao của cộng đồng quốc gia,

mà còn là quyền lực thiêng liêng và không thể hoán đổi một khi cộng đồng đã

đặt nó vào cương vị đó; mà cũng không thể có bất kỳ sắc lệnh nào - của bất kỳ

cơ quan nào... có được sức mạnh và nghĩa vụ của một luật định, khi mà sắc lệnh

đó vốn không có sự phê chuẩn của cơ quan lập pháp mà công chúng đã chọn và

chỉ định" [20, 199]. Theo Locke, cơ quan lập pháp là cơ quan quyền lực cao

nhất, hơn nữa còn là quyền lực thiêng liêng và không thể bị hoán đổi một khi

cộng đồng đã đặt nó vào vị trí đó. Bởi cơ quan này chính là quyền lực của nhân

dân, do nhân dân chuyển nhượng thông qua khế ước xã hội. Cơ quan quyền lực

lập pháp được tạo thành từ những đại biểu do nhân dân lựa chọn và là cơ quan

duy nhất có quyền làm ra luật, “cơ quan lập pháp định nên luật pháp của xã hội

không bằng gì khác ngoài cái quyền nó có để làm luật cho mọi thành phần…”

[20, 205]. Thông qua luật pháp bất kỳ một công dân nào cũng phải thực hiện

theo những luật mà cơ quan lập pháp ban hành. Chức năng của cơ quan quyền

lực lập pháp, theo Locke “là cơ quan vạch nên đường hướng và sức mạnh của

cộng đồng quốc gia” [20, 199]. Điều này thể hiện ở việc làm ra luật và giám sát

việc thực thi pháp luật do mình làm ra.

Để cơ quan lập pháp trở thành đại diện cho chủ thể quyền lực tối cao thì

nó phải đứng trên lập trường ý chí chung của tất cả các thành viên trong xã hội.

Bởi sức mạnh mà cơ quan này có được chính là từ sự ủy quyền do nhân dân

chuyển giao bằng khế ước xã hội, vậy nên nó bị hạn chế bởi khế ước đó. Vì thế,

nó không được vượt qua giới hạn và đi ngược lại lợi ích của nhân dân và nhất

quyết không thể là linh hồn của ý chí tùy tiện. Nhân dân thông qua quyền lực

52

của cơ quan lập pháp để xây dựng lên hệ thống pháp luật, đó là những quy tắc

chung cho xã hội, đại diện cho ý chí chung của cộng đồng. Luật pháp do nó ban

hành phải hướng đến sự bảo toàn của xã hội và mỗi cá nhân trong đó. Như vậy,

cơ quan lập pháp có quyền lực tối cao nhưng bản thân nó cũng bị giới hạn bởi

luật pháp. Luận giải cho điều này, Locke viết: “Bởi tất cả quyền lực mà chính

quyền có chỉ phục vụ cho lợi ích của xã hội, nên việc nó không được mang tính

chuyên quyền và tùy thích cũng ngang với việc nó phải được thực thi bằng các

luật được thiết định và ban hành chính thức” [20, 191]. Cũng giống như bất kỳ

cơ quan nào khác trong xã hội, cơ quan lập pháp cũng phải chấp hành luật chính

mình ban hành, không thể đứng lên trên luật pháp.

Nếu Thomas Hobbes đề cao quyền cai trị độc tôn của vị chúa tể Leviathan

nắm trong tay quyền lực tối cao, thì với John Locke, quyền lực tối cao được đặt

vào cơ quan lập pháp và thuộc về Nghị viện. Nghị viện phải họp định kỳ để

thông qua các đạo luật. Tuy nhiên, cơ quan lập pháp có quyền lực tối cao không

phải vô hạn mà nó bị giới hạn trong những điều kiện nhất định. Nói về phạm vi

của quyền lực cơ quan lập pháp, John Locke đã giải thích cặn kẽ những nguyên

tắc giới hạn nhất định.

Thứ nhất, cơ quan lập pháp “ không phải mà cũng không thể là quyền lực

độc đoán, chuyên chế đặt trên cuộc sống, vận mệnh của nhân dân, vì sự tồn tại

của nó chỉ là một quyền lực liên kết các thành viên trong xã hội đã nhường lại

cho cá nhân hay một nghị hội đóng vai trò là nhà lập pháp” [20, 185]. Nhân dân

trao quyền cho cơ quan lập pháp vì lợi ích chung của xã hội bảo toàn sở hữu và

cộng đồng nên mục đích cao nhất của cơ quan này không ngoài mục đích nào

khác là phải bảo vệ lợi ích của nhân dân. Chính vì thế, cơ quan này không được

chuyên quyền độc đoán, đứng trên nhân dân hay có ý định nô dịch nhân dân. và

luật pháp được xây dựng lên không ngoài mục đích gì khác chính là lợi ích của

nhân dân. Như vậy, Locke đã đặt ra giới hạn của quyền lực lập pháp đó không gì

53

khác hơn là hướng đến lợi ích chung của cộng đồng nhằm đem lại ổn định, lợi

ích chung của cộng đồng.

Thứ hai, cơ quan lập pháp cơ quan lập pháp, hay thẩm quyền tối cao này

không thể nắm lấy cho mình quyền lực cai trị bằng những sắc lệnh chuyên

quyền và tùy tiện, mà bị ràng buộc với việc phân phát sự công bằng, việc đưa ra

những quyết định về các quyền của thần dân, bằng các đạo luật thường trực đã

ban hành, và từ những quan tòa được trao quyền [xem 20, 187-190]. Đây là

nguyên tắc để ngăn chặn sự độc đoán, chuyên chế của cơ quan lập pháp thể hiện

trong việc ban hành các đạo luật. Cơ quan lập pháp phải thể hiện quyền lực của

mình thông qua các luật đã được ban hành chứ không phải cai trị bằng những

quyền lực một cách tùy tiện. Mục đích của nhân dân khi gia nhập vào xã hội dân

sự là trao quyền lập pháp cho những người mà nó cho là phù hợp, đồng thời

luôn hy vọng phải có hệ thống luật pháp phù hợp, thường trực và ổn định. Nếu

cơ quan lập pháp làm ra nhiều đạo luật mà con người trong xã hội đó không

được bảo vệ thì chẳng khác nào họ vẫn sống trong trạng thái tự nhiên hỗn loạn.

Ở đây, chúng ta thấy được một tư tưởng tiến bộ của Locke đó là luật pháp phải

nghiêm minh, công bằng. Luật pháp dành cho tất cả mọi người và không miễn

trừ một ai kể cả nhà lập pháp. Có như vậy, luật pháp phải đảm bảo được sự công

bằng, bình đẳng đối với mọi cá nhân trong xã hội.

Thứ ba, cơ quan lập pháp với “ quyền lực tối cao đó không được lấy của

bất kỳ ai bất kỳ phần sở hữu nào mà không có sự chấp thuận của anh ta, vì bảo toàn sở hữu là mục đích của chính quyền” [20, 191]. Nếu vi phạm vào nguyên

tắc này nghĩa là nhà nước đã vi phạm vào khế ước, ý chí chung của cộng đồng.

Nếu không có nguyên tắc này thì cũng có nghĩa là không ai trong xã hội có sở

hữu, bởi tài sản của anh ta có thể bị ai đó, thậm chí là bị chính quyền tước mất.

Locke cho rằng chính quyền có quyền điều chỉnh quan hệ tài sản giữa mọi người

trong xã hội nhưng không có quyền lấy đi phần sở hữu về cho mình mà không

54

được sự đồng ý của người dân. Sở dĩ như vậy là vì con người có quyền hạn đối

với tài sản của mình bởi để có được tài sản đó con người phải bỏ sức lao động

của mình vào trong đó và không một ai có quyền lấy đi nếu không được sự cho

phép của chính người chủ sở hữu đó. Locke cho rằng nhà nước không được tùy

tiện tăng thuế của người dân mà không được sự chấp thuận của họ: "nếu một

người bất kỳ nào đòi hỏi một quyền lực để đặt ra và thu thuế đối với nhân dân

bằng thẩm quyền riêng của ông ta mà không có sự chấp thuận của nhân dân, thì

ông ta đã xâm lấn vào luật căn bản của sở hữu và làm biến chất mục đích của

chính quyền"[20, 195]. Việc tăng thuế một cách vô độ sẽ gây tổn hại đến sở hữu

riêng của người dân, điều này sẽ vi phạm đến nguyên tắc cơ bản của nhà nước là

phải bảo toàn sở hữu của nhân dân.

Thứ tư, “cơ quan lập pháp không được, mà cũng không thể chuyển giao

quyền lực làm luật vào cho bất kỳ cơ quan nào khác hoặc đặt nó vào một nơi

nào khác ngoài nơi mà nhân dân đã đặt ” [20, 197]. Vì quyền lực mà cơ quan

lập pháp có được là từ sự ủy nhiệm tự nguyện, tồn tại như là một quyền lực đại

diện cho nhân dân nên những người có nó không thể chuyển sang cho những

người khác. Chỉ nhân dân mới có quyền lựa chọn hình thức nhà nước bằng việc

thiết lập quyền lập pháp và trao quyền đó cho những người thích hợp. Locke lý

giả rất chi tiết: “Quyền lực của cơ quan lập pháp xuất pháp từ nhân dân - từ một

sự chuyển nhượng tự nguyện, xác thực và cùng với một sự chế định - không thể

là gì khác hơn là sự chuyển nhượng xác thực đó đã truyền đạt, là điều vốn chỉ

để làm luật mà không phải là để làm nên các nhà lập pháp, do vậy cơ quan lập

pháp không có quyền gì để chuyển giao thẩm quyền làm luật của họ và đặt nó

vào tay người khác” [20, 195-196]. Locke nhấn mạnh rằng cơ quan lập pháp dù

là cơ quan quyền lực tối cao, tuy nhiên cơ quan lập pháp phải ý thức được quyền

lực của mình có cũng chỉ là sự ủy quyền từ nhân dân, đại diện ý chí và lợi ích

của nhân dân để làm luật pháp bảo đảm cho xã hội trong vòng trật tự. Vì thế,

quyền lực của cơ quan lập pháp không phải là quyền làm nên nhà lập pháp. Các 55

nhà lập pháp cũng chỉ người đại diện cho nhân dân, thực hiện sự ủy quyền, vì

thế cơ quan lập pháp không có quyền chuyển giao quyền làm luật vào bất kì

người nào. Nhân dân là người đã trao quyền lực của mình cho cơ quan lập pháp

do vậy luật pháp khi đã được ban hành thì người dân phải có nghĩa vụ tuân thủ

không loại trừ một ai và ngay cả chính những nhà lập pháp cũng phải tuân thủ.

Ngoài những luật được cơ quan lập pháp ban hành thì người dân sẽ không tuân

thủ bởi những luật nào khác ngoài luật do cơ quan lập pháp mình ủy nhiệm làm

ra.

Từ bốn nguyên tắc giới hạn quyền lực của cơ quan lập pháp đặt ra ở trên

cho thấy, Locke đã rất sáng suốt khi đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết và

đứng trên quan điểm quyền lực thuộc về nhân dân.

Về cơ quan hành pháp

Cơ quan lập pháp là cơ quan đại diện cho ý chí chung của cộng đồng còn

cơ quan hành pháp chính là sức mạnh của thể chế chính trị ấy. Locke kiến giải

về quyền hành pháp là “quyền lực luôn hiện diện để quan sát việc thực thi các

luật đã được làm và duy trì bằng vũ lực” [20, 200]. Cơ quan hành pháp bao gồm

cả nhiệm vụ thi hành và giám sát pháp luật, nó được duy trì và củng cố bởi sức

mạnh cưỡng chế của pháp luật trong xã hội. Nó là cơ quan thường trực giải

quyết những vấn đề của xã hội và duy trì ổn định xã hội bằng sức mạnh cưỡng

chế. Locke cho rằng cơ quan hành pháp giữ vai trò không thể thay thế trong việc

đảm bảo luật pháp được thực thi trong xã hội. Bởi vì, cơ quan lập pháp không

phải lúc nào cũng hiện diện do “không phải lúc nào cũng cần luật mới để làm,

mà chỉ luôn cần thi hành các điều luật đã được làm ra” [20, 207]. Cơ quan hành

pháp nắm trong tay quyền thực thi và giám sát pháp luật, tuy nhiên nó cũng phải

tuân thủ theo quy tắc hiến định.

56

Nếu như quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, thì quyền hành pháp được

trao cho một người là nhà vua, người đại diện cho chính phủ và là biểu tượng

hình ảnh của quốc gia. Nhà vua là người có sự ủy thác kép, vừa là thành viên

trong cơ quan lập pháp đồng thời là người đứng đầu hành pháp “quyền hành

pháp được trao cho một người duy nhất và người này cũng dự phần trong cơ

quan lập pháp”, “không có một cấp trên lập pháp nào đối với ông và cũng

không có một luật nào được làm ra mà không có sự chấp thuận của ông” [20,

205]. Như vậy, nhà vua là nhà hành pháp tối cao, bởi thứ nhất nắm trong tay vũ

lực, ngân sách quốc gia và các quan chức chính phủ và thứ hai ông cũng là một

thành viên của cơ quan lập pháp, có quyền chuẩn y luật pháp trong quá trình làm

luật. Nếu không có sự chuẩn y của nhà vua thì luật pháp cũng không được thông

qua và ban hành thành luật chính thức trong xã hội.

Nhà vua có quyền hành pháp tối cao, tuy nhiên, theo Locke nhà vua

không được đặt ý chí độc đoán của riêng mình vào những công việc của đất

nước, điều đó dẫn đến lạm quyền, mà nhà vua vẫn phải tuân theo luật pháp, vì

“sự trung thành không là gì khác ngoài sự tuân thủ pháp luật” [20, 206]. Tuy

nắm quyền thực thi luật pháp nhưng nhà hành pháp cũng không được miễn trừ

sự phụ thuộc vào lập pháp, vẫn phải tuân thủ pháp luật như người dân bình

thường. Theo Locke, một nhà hành pháp muốn nhân dân tuân thủ luật pháp thì

trước tiên bản thân người hành pháp phải tuân thủ luật pháp một cách tự giác để

đảm bảo lợi ích chung của xã hội. Điều đó có nghĩa là hành động của nhà hành

pháp là dựa theo ý chí xã hội, thứ đã được minh định trong pháp luật, bởi vậy,

ông ta không có ý chí nào khác, quyền lực nào khác ngoài ý chí và quyền lực

của luật pháp. Nếu ông ta không thực hiện, hoặc thực hiện trái lại nhiệm vụ mà

cơ quan lập pháp đã uỷ nhiệm cho, nghĩa là ông ta đã tự giáng chức mình, trở

thành một thành viên của cộng đồng như mọi thành viên khác, và không còn bất

cứ một quyền lực nào hơn những thành viên còn lại để buộc họ phải tuân thủ

57

theo ý chí của mình, khi mà bản thân họ chỉ duy nhất phải tuân thủ theo ý chí

chung của pháp luật [xem 20, 206].

Cơ quan hành pháp khi nắm được quyền hành xử tối cao có khả năng lạm

dụng quyền lực đang có vì lợi ích riêng, vì thế, Locke cho rằng, quyền thực thi

luật pháp này không được vượt quá phạm vi của luật pháp và chống lại lợi ích

của nhân dân vì việc sử dụng vũ lực không có thẩm quyền tức là đã đặt họ vào

trạng thái chiến tranh với nhân dân. Những cá nhân nắm quyền hành pháp phải

luôn nhớ rằng quyền lực của mình là do cơ quan lập pháp uỷ thác, để thực hiện

cũng như giám sát sự thực hiện các đạo luật đã được ban hành. Và do quyền lực

đó được cơ quan lập pháp trao cho, nên cơ quan lập pháp cũng có quyền thu hồi

nó lại khi nhận thấy sự yếu kém hay sự đi ngược lại luật pháp của quyền hành

pháp, và trao lại cho một cá nhân hay tập thể khác thích hợp hơn nắm giữ.

Mục đích của nhà nước không có gì khác ngoài đảm bảo quyền lực cho

nhân dân. Chỉ nhân dân mới là chủ thể tối cao trong xã hội có thể cách chức

hoặc thay đổi chính quyền lập pháp, khi các cơ quan này hoạt động trái với lợi

ích của họ. Khi đó nhân dân lấy lại quyền lực để trao vào tay những nhà lập

pháp để đảm bảo tốt hơn cho sự an toàn của họ. Trong quá trình tồn tại, cơ quan

hành pháp không những chịu sự chi phối của cơ quan lập pháp mà còn chịu sự

kiểm soát của dân chúng. Nhân dân chính là chủ thể đích thực giám sát chặt chẽ

việc thực thi pháp luật của nhà hành pháp.

Về quyền liên hiệp (quyền đối ngoại)

Ngoài quyền lập pháp và quyền hành pháp, theo Locke còn có một quyền

lực khác trong mỗi cộng đồng quốc gia mà người ta có thể xem là tự nhiên, vì nó

là điều đáp ứng cho quyền lực mà mỗi người đương nhiên có trước khi gia nhập

vào xã hội, đó là quyền liên hiệp. Locke cho rằng quyền liên hiệp là một phần

quan trọng của quyền lực nhà nước. Sỡ dĩ vậy là do, trong trạng thái tự nhiên,

58

con người không tồn tại đơn lẻ mà tồn tại trong những mối liên hệ với các cá

nhân khác, bởi vậy khi đã liên kết lại với nhau thành cộng đồng quốc gia, cũng

phải có những mối liên hệ với các cá nhân hoặc với cộng đồng quốc gia khác.

Do vậy, quyền của mỗi cá nhân trong một cộng đồng quốc gia còn phụ thuộc

vào mối liên hệ giữa cộng đồng ấy với các cộng đồng quốc gia khác. Chính từ

đó, Locke cho rằng cần phải có thêm quyền liên hiệp tức là “quyền lực về chiến

tranh và hòa bình, tạo liên minh và lập đồng minh, cũng như tất cả các giao kết

khác, với mọi cá nhân và cộng đồng bên ngoài quốc gia”[20, 201] . Khi con

người ra nhập vào xã hội dân sự thì cần phải có giao kết giữa cộng đồng này với

cộng đồng khác bên ngoài quốc gia để bảo toàn hòa bình cho mọi người. Theo

đó, quyền liên hiệp chính là việc thành lập các tổ chức chính trị - xã hội để thực

hiện chức năng đoàn kết dân tộc, đồng thời liên minh giữa các quốc gia với nhau

để thực hiện các cam kết quốc tế và luật pháp. Locke đưa ra quan niệm về quyền

liên hiệp này là xuất phát từ chính cuộc đời và những bước thăng trầm trên con

đường chính trị của ông. Ông là cố vấn chính trị cho Ashley và đứng về phe

nghị viện chống lại chế độ chuyên quyền của Charles II. Vì vậy, ông nhận thấy

cần thiết phải có sự liên kết giữa chính quyền nhà nước với các tổ chức chính trị

- xã hội khác để củng cố quyền lực. Không thể có một nhà nước tồn tại một cách

cô lập với các cộng đồng bên ngoài quốc gia. Locke khẳng định vai trò quan

trọng của quyền liên hiệp nhưng không thể tách rời mối quan hệ với quyền lực

lập pháp và hành pháp.

Hơn nữa, theo Locke, quyền liên hiệp có tầm quan trọng to lớn đối với

cộng đồng quốc gia, hơn thế, lại rất khó để có thể điều chỉnh hoạt động của nó

theo những luật xác thực đã được cơ quan lập pháp thông qua, do những biến

đổi thường xuyên trong hành động, ý đồ và quyền lợi của những người nước

ngoài, nên cần phải trao nó vào tay một cá nhân cụ thể thông thái và cẩn trọng

[20, 200]. Locke cho rằng quyền liên hiệp phải được trao cho người thông thái

và cẩn trọng trong từng hành động, nó thuộc về cơ quan hành pháp mà cụ thể 59

được trao cho nhà vua. Nhà vua có quyền thay mặt đất nước thực hiện quyền

liên hiệp, giải quyết các vấn đề chiến tranh và hòa bình, bang giao với quốc gia

khác. Thực hiện quyền lực đó nhằm ngăn chặn nguy cơ xâm lấn vũ lực của các

nước bên ngoài đối với cộng đồng quốc gia. Khi mà vấn đề liên quan đến chiến

tranh và an ninh của quốc gia không được đảm bảo không đảm bảo cho quyền

lợi và đời sống ổn định của người dân, vì thế nó cũng là một nguyên nhân dẫn

đến sự giải thể của chính quyền.

2.2.3. Mối quan hệ giữa các bộ phận quyền lực trong bộ máy nhà nƣớc

Locke phân chia quyền lực nhà nước thành các nhánh quyền lực: quyền

lập pháp, hành pháp và liên hiệp. Locke cho rằng mỗi một bộ phận có vai trò,

nhiệm vụ khác nhau không thể thay thế trong hệ thống chính trị, nhưng lại có

quan hệ mật thiết, ràng buộc và kiếm soát lẫn nhau.

Thứ nhất, cơ quan hành pháp và quyền liên hiệp là thuộc cấp và phụ

thuộc vào cơ quan lập pháp

Trong bộ máy nhà nước, cơ quan lập pháp có quyền lực tối cao, tất cả các

quyền lực còn lại đều phải xuất phát từ nó và phụ thuộc vào nó. Theo đó thì cơ

quan hành pháp và quyền lực liên hiệp đều là thuộc cấp và phụ thuộc vào cơ

quan lập pháp. Trong tác phẩm, Locke luận giải quyền lực tối cao của cơ quan

lập pháp và sự phụ thuộc của các quyền lực còn lại vào lập pháp: “cơ quan lập

pháp định nên luật pháp của xã hội không bằng gì khác ngoài cái quyền nó có

đề làm ra luật cho mọi thành phần và mọi thành viên xã hội, quy định các quy

tắc cho hành động của họ, và trao cho quyền lực hành pháp, là nơi vượt quá

phạm vi của lập pháp, nên cơ quan lập pháp phải là cơ quan tối cao và mọi

quyền lực khác, ở bất kỳ thành viên hay bộ phận nào của xã hội, đều xuất phát

từ nó và phụ thuộc vào nó” [20, 204 – 205]. Vai trò tối cao của cơ quan luật

pháp được thể hiện ở chỗ cơ quan lập pháp có quyền làm ra luật pháp và giám

60

sát việc thực thi luật pháp, mà không một cơ quan nào có thể thay thế nó và có

đủ sức mạnh xây dựng lên một hệ thống luật pháp.

Cơ quan lập pháp là cơ quan quyền lưc tối cao, đại diện cho ý chí của toàn

thể công dân. Tính tối cao của cơ quan lập pháp thể hiện ở việc nó có quyền làm

ra luật và giao luật đó cho mọi thành phần, mọi thành viên khác trong xã hội

thực hiện. Nó làm ra luật đến đâu thì các thành viên trong xã hội thực hiện đến

đó, mọi hoạt động của xã hội đều phải xuất phát từ nó, phụ thuộc vào nó, lấy nó

làm chuẩn mực, làm quy tắc hoạt động, bởi luật pháp đại diện cho ý chí của toàn

thể nhân dân. Cả quyền lực hành pháp và liên hiệp cũng vậy, trong hoạt động

của mình đều phải tuân thủ theo quy định pháp luật đã ban hành, nếu không sẽ

đi ngược lại với ý chí của toàn dân. Locke cho rằng, quyền lực hành pháp có

trách nhiệm giải trình trước cơ quan lập pháp, đồng thời cơ quan lập pháp có

thẩm quyền thay đổi cơ quan hành pháp nếu nó đi ngược lại với lợi ích chung

của toàn dân “phụ thuộc một cách hiển nhiên vào nó, có trách nhiệm giải trình

với nó, và nếu muốn, nó có thể thay đổi hoặc cách chức. Vì thế quyền hành pháp tối cao không phải nơi miễn trừ sự phụ thuộc vào lập pháp” [20, 206] . Hơn

nữa, Locke cũng luận giải, những người nắm quyền hành pháp phải luôn nhớ

rằng quyền lực của mình là do cơ quan lập pháp uỷ thác để thực hiện cũng như

giám sát sự thực hiện các đạo luật đã được ban hành trong xã hội. Và do quyền

lực đó được cơ quan lập pháp trao cho, nên cơ quan lập pháp cũng có quyền thu

hồi nó lại khi nhận thấy sự yếu kém hay sự đi ngược lại luật pháp của quyền

hành pháp, và trao lại cho một cá nhân hay tập thể khác thích hợp hơn nắm giữ

[xem 20, 207 -208]. Cơ quan lập pháp có quyền làm luật và giám sát công việc

thực thi pháp luật trong xã hội của cơ quan hành pháp.

Về quyền lực của các quan chức và các quyền lực thuộc cấp khác, Locke

cho rằng, nó vẫn phải thực hiện sự ủy thác do nhân dân ủy nhiệm và có trách

61

nhiệm giải trình mọi hoạt động của mình trước các cơ quan quyền lực cấp trên,

tức cơ quan lập pháp và hành pháp.

Thứ hai, tính chủ động tích cực của cơ quan hành pháp đối với cơ

quan lập pháp

Một là quyền triệu tập và giải tán của nhà vua đối cơ quan lập pháp

Tuy là thuộc cấp của cơ quan lập pháp nhưng theo Locke, cơ quan hành

pháp có quyền triệu tập và quy định thời gian nhóm họp của cơ quan lập pháp

trong hai trường hợp sau:

Trường hợp một: Thời điểm hội họp của cơ quan lập pháp được ấn định

rõ ràng trong hiến pháp, cơ quan hành pháp đưa ra những phương hướng điều

hành cụ thể cho việc bầu chọn và hội họp của cơ quan lập pháp theo đúng quy

định.

Trường hơp hai: Cơ quan hành pháp, bằng sự cân nhắc thận trọng của

mình tiến hành tuyển cử hay triệu tập cơ quan lập pháp, khi nhận thấy đòi hỏi

phải tu chỉnh, sửa đổi những luật cũ không còn phù hợp với lợi ích của cộng

đồng hay ra những luật mới, hoặc khi nhận thấy những nguy hiểm đang đe dọa

nhân dân [xem 20, 209].

Cơ quan hành pháp phải thực hiện quyền triệu tập và giải tán cơ quan lập

pháp để ngăn ngừa hai nguy cơ mà cơ quan lập pháp mắc phải. Thứ nhất, sự

xoay chuyển nhanh chóng các sự kiện tức thời cần đến sự giúp đỡ của cơ quan

lập pháp, mà cứ trì hoãn hội họp có thể gây nguy hiểm cho cộng đồng. Đồng

thời, lượng công việc của họ thì quá nhiều trong khi thời gian họp quá ngắn dẫn

đến họ không thảo luận được kĩ càng và chuyên sâu làm mất đi lợi ích chính

đáng của người dân. Thứ hai, cơ quan lập pháp cứ họp thường xuyên và liên tục

với thời gian quá dài vào những dịp không cần thiết gây bất tiện cho đại biểu, cơ

quan hành pháp không chuyên tâm vào việc điều hành, mà nhân dân cũng bị 62

phiền toái nếu các cuộc họp cứ thay đổi liên tục mà không giải quyết được vấn

đề gì. Do đó, quyền triệu tập và thời gian họp đối với nghị viện thuộc về cơ quan

hành pháp.

Trao quyền triệu tập và giải tán cơ quan lập pháp cho cơ hành hành pháp,

theo Locke, đơn giản vì lợi ích cao nhất của người dân khi cần ban hành ngay

một điều luật mới hoặc cần sửa đổi hay bãi bỏ điều luật cũ không phù hợp, có

thể cần giải quyết vấn đề khẩn cấp của cộng đồng ngoài lịch trình của các phiên

họp định kì đã quy định. Mặt khác, quyền trên của cơ quan hành pháp có thể

thực hiện khi thấy các điều luật hay quyết định của cơ quan hành pháp không

còn đại diện cho ý chí của toàn thể và lợi ích công, khi đó nó có quyền triệu tập

và giải tán cơ quan lập pháp là phương cách tốt nhất giải quyết mâu thuẫn trên.

Tuy vậy, hành động trên chỉ thừa nhận là chính đáng nếu nó xuất phát từ lợi ích

chung của cộng đồng

Locke khẳng định rằng cơ quan hành pháp dù khi đã nắm giữ quyền liên

hiệp, và có quyền triệu tập hay giải tán cơ quan lập pháp nhưng không có nghĩa

là nó có vị thế cao hơn cơ quan lập pháp, “Quyền lực hành pháp có đặc quyền

để triệu tập và giải tán các hội nghi như thế của cơ quan lập pháp, thì cũng

không vì đó mà nó có vị thế cao hơn cơ quan này” [20, 212]. Cơ quan hành

pháp không được phép dùng vũ lực để cản trở việc hội họp và hoạt động của cơ

quan lập pháp khi mà hiến pháp cần sửa đổi hoặc trong những tình trạng khẩn

cấp cần đến hoạt động của cơ quan lập pháp. Locke cho rằng hành động đó của

cơ quan hành pháp là trái với thẩm quyền và nhiệm vụ đã được uỷ thác cho nó,

và hơn thế, khi dùng sức mạnh để chống lại nhân dân thì đây đã là trạng thái

chiến tranh với nhân dân, đe dọa an ninh và lợi ích của nhân dân khi đó người

dân có quyền lật đổ cơ quan hành pháp bằng vũ lực.

Locke cũng đưa ra sự cảnh báo, quyền thực thi luật pháp này không được

vượt quá phạm vi của luật pháp và chống lại lợi ích nhân dân vì việc sử dụng vũ

63

lực không có thẩm quyền khi đã đặt các nhà hành pháp vào trạng thái chiến

tranh và nhân dân không thể lấy lại quyền lập pháp khi thực thi quyền lực của

họ. Khi cơ quan lập pháp đặt việc thực thi pháp luật vào nhà hành pháp nào đó

mà bản thân họ không đủ khả năng để thực hiện nhiệm vụ của cơ quan lập pháp

giao cho thì cơ quan lập pháp có lí do để tước bỏ quyền lực của cơ quan hành

pháp. Nhà hành pháp có quyền hành pháp tối cao nhưng vẫn không được vượt

khỏi phạm vi quyền hạn của mình và phải tuân thủ những quy định phụ thuộc

vào cơ quan lập pháp.

Hai là “đặc quyền hành động” của cơ quan hành pháp

Locke quan niệm đặc quyền hành động chính là quyền lực đem lại cho

nhà hành pháp sự chủ động và quyết đoán khi thực thi luật pháp nhằm đem lại

lợi ích chung cho cộng đồng, dù nó chưa được luật pháp quy định, thậm chí

quyết định của nhà lập pháp còn tương phản và mâu thuẫn với những quy định

của luật pháp, “đặc quyền hành động không là gì khác ngoài quyền lực của việc

thực hiện lợi ích công không theo một quy tắc” [20, 224]. Quyền lực này thuộc

về nhà vua nhằm đem lại lợi ích chung cho cộng đồng.

Đặc quyền hành động được dùng trong những trường hợp khẩn cấp nhằm

đảm bảo quyền lợi của nhân dân mà không cần nhất nhất tuân thủ pháp luật hay

chờ đến khi pháp luật được sửa đổi cho phù hợp, mà có thể tự giải quyết theo ý

chí riêng vì lợi ích chung của nhân dân. Locke luận giải “Vì các nhà lập pháp

không thể thấy trước và quy định bằng luật về tất cả những điều hữu ích đối với

cộng đồng, nên cơ quan thi hành luật pháp, vốn có quyền lực trong tay, theo

thông luật tự nhiên có một quyền để sử dụng cho lợi ích của xã hội trong nhiều

trường hợp, khi mà luật quốc gia không cho trước một phương hướng nào, cho

đến khi cơ quan lập pháp có thể nhóm họp lại một cách thuận tiện để quy định

về những việc như vậy. Có nhiều điều mà luật pháp không có biện pháp nào quy

định và những điều này nhất thiết phải để lại cho chủ ý hành động của người có

trong tay quyền thực thi pháp luật” [20, 217]. Cơ quan hành pháp không chỉ

64

dừng ở việc thi hành pháp luật, điều hành các hoạt động của xã hội mà tính tích

cực chủ động của cơ quan này còn được thể hiện ở chỗ trong quá trình thực thi

luật pháp trong cuộc sống, không phải lúc nào cơ quan hành pháp cũng phải

nhất nhất tuân thủ theo quyết định và luật pháp của cơ quan lập pháp, mà trong

một số trường hợp nhất đinh có thể giải quyết tự do theo ý chí riêng của nó. Cơ

quan hành pháp có đặc quyền này bởi không phải lúc nào cơ quan lập pháp cũng

có thể nhìn nhận thấy trước những vấn đề xã hội cần phải điều chỉnh trong tương

lai để có luật thích ứng, nên khi ấy cơ quan hành pháp phải hành động theo ý

mình, nhưng mục đích cuối cùng cần đạt được là lợi ích cao nhất của nhân dân.

Trong quan niệm của Locke, lợi ích của nhân dân luôn được ông đặt trước nhất,

do vậy dù là luật pháp chỉ do cơ quan lập pháp thiết lập nên, một khi đã được

ban bố thì bắt buộc mọi người dân và nhà hành pháp phải chấp hành nhưng

trong một số trường hợp khẩn cấp, nhà hành pháp có thể điều chỉnh những điều

luật đó theo chủ ý của mình sao cho đem lại lợi ích cao nhất cho cộng đồng “vì

không thể thấy trước mà quy định bằng luật cho tất cả những ngẫu nhiên và tất

yếu có thể liên quan đến công chúng… có một phạm vi quyền hạn rộng rãi dành

cho cơ quan lập pháp để lựa chọn những gì mà luật pháp không quy định”[20,

219].

Đặc quyền hành động được Locke đưa ra là một trong những biện pháp

khắc phục tính cứng rắn, cứng nhắc và quá nghiêm khắc làm mất sự linh hoạt,

uyển chuyển của luật pháp khi được thi hành trong xã hội trong một số trường

hợp “…chính luật pháp cần phải nhường đường cho cơ quan quyền lực hành

pháp… vì từ những việc ngẫu nhiên có thể xảy ra, mà cách nhìn nghiêm khắc và

cứng rắn của luật pháp có thể gây hại…thích hợp cho nhà cai trị, trong nhiều

trường hợp, có được quyền để làm giảm tính khắc nghiệt của luật pháp và tha

thứ cho một số người phạm tội; vì mục đích của chính quyền là bảo toàn cho tất

cả, ở mức cao nhất mà nó có thể” [20, 217 – 218]. Luật pháp không thể bao quát

hết tất cả mọi lĩnh vực mà trong một số trường hợp cần đến quyết định chủ động

65

của nhà hành pháp thì mới giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng và đem lại

quyền lợi và quyền lợi chính đáng của người dân. Theo ông, đó là những việc

ngẫu nhiên có thể xảy ra mà luật pháp không thể bao quát hết được, mà cách

nhìn nghiêm khắc và cứng rắn của luật pháp có thể gây hại, trong những trường

hợp đó nhà cai trị có được quyền làm giảm tính hà khắc và cứng rắn của luật

pháp. Bởi theo Locke “mục đích của chính quyền là bảo toàn cho tất cả, ở mức

cao nhất mà nó có thể, nên ngay cả điều sai trái cũng được dung thứ nếu có thể

chứng minh là không có thành kiến gì đối với người vô tội” [20, 218]. Đây là

quan điểm hình thành nên tư tưởng về sự khoan dung của pháp luật sau này và

nó chứa đựng tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.

Trong hoạt động lập pháp, Locke thấy rằng các điều luật không thể xây

dựng một lần là xong mà nó phải luôn được bổ sung sửa đổi cho phù hợp với

thực tiễn luôn biến động. Tư tưởng này thể hiện tinh thần nhân văn cao cả của

Locke, ông đòi hỏi luật pháp phải có tính linh hoạt hay nói đúng hơn luật pháp

do con người làm ra nên nó không phải bất biến, không thể thay đổi mà có thể

linh hoạt thay đổi tùy theo hoàn cảnh nhằm đem lại lợi ích tối cao cho con

người. Như vậy, ông thấy rằng, mọi sự vật, hiện tượng luôn biến chuyển không

ngừng đòi hỏi các nhà quản lý xã hội cần linh hoạt ứng biến nhằm đem lại lợi

ích cho nhân dân.

Dưới góc nhìn xuất phát lợi ích của người dân, Locke khẳng định đặc

quyền hành động của cơ quan hành pháp là một quyền chính đáng, chân chính

và không hề gây nguy hại cho xã hội. Locke khẳng định “khi được sử dụng vì

lợi ích của cộng đồng và thích hợp với sự ủy thác và mục đích của chính quyền,

là một đặc quyền hành động chân chính” [20, 219].

Theo Locke, đặc quyền hành động của cơ quan hành pháp có giới hạn,

chứ không phải sự thực hiện tùy tiện. Nhân dân phải giới hạn đặc quyền hành

động lại trong khuôn khổ vì lợi ích công và không có mục đích tư riêng gì trong

66

hành động. Lợi ích của nhân dân vừa là mục đích, vừa là giới hạn của đặc quyền

hành động mà nhà vua nắm trong tay. Locke nhận ra rằng đặc quyền hành động

có thể bị lạm dụng vì những mục đích và lợi ích riêng của nhà vua, tách biệt với

lợi ích chúng của cộng đồng, và khi đó nó trở thành quyền lực độc đoán gây hại

cho nhân dân, là gốc rễ và xuất phát của những điều tệ hai và gây nên rối loạn.

Lúc đó, đi quá giới hạn, nhân dân có quyền thu lại đặc quyền hành động này của

nhà hành pháp.

Thứ ba, cơ quan hành pháp và quyền liệp hiệp cùng nằm trong tay

nhà vua

Theo Locke, dù quyền lập pháp và hành pháp có điểm khác nhau vì một

thứ là sự thực thi các đạo luật đã có ở bên trong cộng đồng quốc gia đối với

những thành viên của nó, một thứ là theo cách gọi ngày nay là quan hệ quốc tế -

sự bảo toàn an ninh và lợi ích của các cá nhân và toàn thể cộng đồng trong mối

quan hệ bên ngoài với cộng đồng khác, nhưng thực chất chúng luôn thống nhất

với nhau. Ông viết: “… có sự phân biệt với nhau, nhưng chúng khó bị chia cắt

và cùng lúc đặt vào tay những cá nhân khác nhau. Vì cả hai đều cần đến vũ lực

của xã hội cho việc thực thi chúng, nên hầu như phi thực tế nếu đặt vũ lực của

cộng đồng quốc gia vào những bàn tay riêng biệt và không phụ thuộc nhau, hay

đối với việc cơ quan hành pháp và quyền lực liên hiệp phải được đặt vào những

cá nhân có thể hành động tách rời nhau, và theo đó sức mạnh cưỡng bức của

dân chúng sẽ được đặt dưới những mệnh lệnh khác nhau, là điều có khuynh

hướng gây ra sự hỗn loạn và phá hoại, vào lúc này hay lúc khác" [20, 202].

Chúng thống nhất với nhau không chỉ ở mục đích vì lợi ích chung, xuất phát từ

ý chí của toàn thể công dân, mà còn ở phương thức thực hiện là sử dụng sức

mạnh quyền lực, sức mạnh cưỡng chế bằng vũ lực để quản lí và đảm bảo trật tự

ổn định xã hội. Locke khẳng định sự phân chia giữa hành pháp và liên hiệp,

nhưng mặt khác ông yêu cầu hai quyền này không được đặt vào các cá nhân

67

khác nhau vì họ sẽ không thống nhất với nhau trong chỉ đạo hành động, vì vậy

sẽ gây ra sự hỗn loạn, gây mất trật tự trong xã hội. Do đó, Locke cho rằng quyền

hành pháp và quyền liên hiệp đều phải nằm trong tay một người, đó là nhà vua.

Tuy nhiên trong hai quyền này, Locke nhấn mạnh quyền lực hành pháp định

hướng cho những luật xác thực của xã hội.

Như vậy, theo Locke, trong quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước để

có đảm bảo một cách tốt nhất lợi ích của nhân dân thì cần phải có sự phân chia

quyền lực giữa cơ quan lập pháp và hành pháp, liên hiệp. Locke cho rằng, chúng

cần độc lập nhau về vai trò và chức năng, nhưng lại có mối quan hệ ràng buộc,

phối hợp với nhau trong giải quyết những vấn đề của xã hội. Nếu quyền lực của

cơ quan hành pháp và cơ quan lập pháp cùng thuộc vào tay một người, khi đó

người dân sẽ không còn tự do, vì luật sẽ được đặt ra và thi hành một cách độc

đoán và chuyên chế. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp hai cơ quan này vẫn cần

có sự hỗ trợ lẫn nhau, kiểm soát và ràng buộc nhau vì lợi ích cao nhất, đảm bảo

quyền tự nhiên của người dân. Qua phân tích quan niệm của Locke về tổ chức

quyền lực của nhà nước như trên có thể thấy trong quan niệm của ông, các cơ

quan quyền lực dù độc lập nhưng lại ràng buộc và kiểm soát lẫn nhau, tạo nên sự

vận động chung của toàn bộ hệ thống nhà nước.

Tổ chức bộ máy nhà nước phải được thực hiện theo thể thức phân quyền

bởi có như thế mới có thể ngăn chặn, hạn chế lạm quyền và biến chất của nhà

nước. Để đảm bảo bảo tính công bằng, tránh sự chuyên quyền độc đoán thì

quyền lực nhà nước phân chia thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền

liên hiệp không thể tập trung trong tay bất kỳ một cá nhân nào mà các quyền đó

phải được giao cho các cơ quan chuyên trách khác nhau. Việc tách rời giữa

quyền lập pháp và hành pháp của Locke là một tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ đó

và có ảnh hướng lớn đến các nhà pháp quyền sau này như Montesquieu,

68

Rousseau... Nó như cây búa lớn giáng một đòn mạnh vào chế độ phong kiến ở

Anh và chế độ phong kiến nói chung.

Có thế thấy, nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân trong quá trình tổ

chức quyền lực nhà nước luôn được ông thể hiện xuyên xuốt trong toàn bộ tác

phẩm, mặc dù ông ủng hộ mô hình nhà nước lí tưởng quân chủ lập hiến, đó là

chế độ dân chủ đại diện, toàn thể dân chúng thông qua các đại biểu của mình

được bầu vào nghị viện sẽ nắm quyền lập pháp. Tất cả các cơ quan trong bộ máy

nhà nước đều phải chịu trách nhiệm và chịu sự quản lí và kiểm soát trước nhân

dân. Để quyền lực không bị tha hóa, theo Locke không chỉ thiết lập hệ thống

kiểm soát quyền lực từ phía nhà nước, mà còn nhấn mạnh vấn đề kiểm soát

quyền lực từ phía nhân dân và không bao giờ cho phép quyền lực tách rời khỏi

nhân dân. Nhân dân chính là người giám sát chặt chẽ hoạt động chính quyền.

Mọi hành động của chính quyền đều phải hướng đến mục đích bảo toàn lợi ích

của người dân, mọi hành vi gây hại đến nhân dân đều dẫn đến việc nhân dân có

quyền phản hồi lại thậm chí phế truất chính quyền và thay thế một chính quyền

mới có đủ đức hạnh và năng lực điều hành pháp luật.

Kết luận chƣơng 2

Quan niệm của John về sự phân quyền nhà nước xuất phát từ giới hạn và

hạn chế sự lạm quyền của quyền lực nhà nước, đảm bảo nguyên tắc quyền lực

thuộc về nhân dân. Mục đích cao nhất của nhà nước đảm bảo quyền lợi của

người dân và không gì khác hơn là bảo vệ các quyền cơ bản nhất, đó là quyền

sống, tự do, bình đẳng và sở hữu hướng đến cuộc sống ổn định, an toàn và hòa

bình. Con người thỏa thuận với nhau lập nên nhà nước, nhà nước với tư cách là

ý chí chung đại diện cho quyền lực cao nhất của người dân, phải xây dựng một

hệ thống pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, minh bạch, giữ vị trí tối thượng trong

nhà nước. Quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân, bởi do nhân dân ủy

69

quyền. Lợi ích của nhân dân vừa là mục đích, vừa là giới hạn quyền lực nhà

nước.

Để bảo về quyền và lợi ích chính đánh của người dân, đồng thời hạn chế,

ngăn ngừa sự lạm quyền của quyền lực nhà nước khi ở trong tay nhà vua, Locke

phân chia quyền lực nhà nước ra thành 3 quyền: lập pháp, hành pháp, và liên

hiệp với tương ứng với cơ quan chuyên trách phụ trách khác nhau. Cơ quan lập

pháp thông qua nghị viện ban hành luật pháp, cơ quan hành pháp thi hành những

điều khoản của luật vào trong đời sống xã hội, quyền liên hiệp giữ gìn an ninh

và lợi ích của các cá nhân cũng như toàn thể cộng đồng trong mối quan hệ bên

ngoài với các cá nhân và cộng đồng khác hay nguy hiểm cho xã hội. Cả ba

quyền đều hoạt động nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi của công dân, đảm bảo

sự phát triển của cộng đồng trong an toàn và ổn định phát triển trong hòa bình.

Ba cơ quan có vai trò chức năng riêng, nhưng chúng có mối quan hệ với nhau,

chứ không độc lập và tách biệt mà có sự phối hợp trong giải quyết công việc của

xã hội.

Những tư tưởng của Locke còn góp phần đề cao trong việc đảm bảo

quyền con người và xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự dân chủ. Có thể

nói, trong tư tưởng chính trị, đóng góp có ý nghĩa lớn của Locke là tư tưởng

phân chia quyền lực đến sự ra đời của ý tưởng về nhà nước dân chủ “của dân, do

dân và vì dân” mà được kế thừa trước hết và tốt nhất trong hoạt động, tổ chức và

thực thi quyền lực của các nhà nước tư sản hiện đại đang tiến hành xây dựng,

trong đó có Việt Nam.

Những tư tưởng của John Locke về quyền con người, khế ước xã hội,

quyền lực nhà nước, sự phân chia quyền lực nhà nước…trở thành tiền đề tư

tưởng của các nhà triết học và chính trị sau này khi nhằm hướng tới một mô

hình nhà nước pháp quyền thực sự dân chủ, đem lại tự do, bình đẳng và hạnh

70

phúc cho nhân dân…, trong đó phải kể đến các nhà triết học Khai sáng Pháp sau

này đều chịu ảnh hưởng sâu sắc như Voltaire, Montesquieu, Rousseau…

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Đảng và Nhà nước cùng nhân dân đã tiếp thu và kế thừa chọn lọc những

yếu tố phù hợp với điều kiện bối cảnh của Việt Nam và vận dụng tư tưởng về

nhà nước pháp quyền trong lịch sử nói chung cũng như quan niệm của Jocke nói

riêng, đặc biệt là tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân, thống nhất có sự phân

định vai trò, chức năng giữa các cơ quan quyền lực nhà nước, sự tối thượng của

pháp luật của ông làm tiền đề lí luận vững chắc cho một chặng đường đầy thử

thách trong việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền ở nước ta.

71

CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ Ý NGHĨA TƢ TƢỞNG CỦA

JOHN LOCKE VỀ PHÂN CHIA QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC TRONG

TÁC PHẨM “KHẢO LUẬN THỨ HAI VỀ CHÍNH QUYỀN” ĐỐI VỚI

VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc

3.1.1. Những giá trị cơ bản trong tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền nhà nƣớc

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong triết học Tây Âu thế kỷ XVII -

XVIII phát triển liên tục như một dòng chảy nối tiếp nhau không ngừng nghỉ.

Trong tác phẩm này, John Locke là người tiếp tục dòng chảy liên tục của lịch sử

tư tưởng chính trị nhân loại về phạm trù nhà nước và quyền lực, là người đánh

một dấu mốc quan trọng - khởi thảo ra lý thuyết về sự phân quyền. Quan niệm

của J. Locke về phân chia quyền lực nhà nước là sự cống hiến quan trọng có ảnh

hưởng lớn đến nhiều nhà triết học, chính trị gia sau này, đặc biệt là các nhà triết

học khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và ghi dấu ấn đậm nét trong tư tưởng của nhà

lập pháp Mĩ sau này.

Thứ nhất, sự luận giải về nguồn gốc của quyền lực nhà nước là khách

quan, do nhu cầu được an toàn và đảm bảo quyền tự nhiên nên con người đã tự

nguyện thống nhất với nhau đi đến ký kết một bản khế ước xã hội là một điểm

rất tiến bộ và có ý nghĩa lớn trong sự phát triển của tư tưởng chính trị. Điều này

đã mở ra một trang mới trong lịch sử tư tưởng chính trị, từ việc đương nhiên

thừa nhận quyền lực nhà nước là do Chúa giao cho nhà vua cai quản và mọi

người dân phải có nghĩa vụ bắt buộc tuân thủ một cách tuyệt đối mọi quy định

mà nhà vua ban mà không được phép phản kháng và lật đổ, thì với Locke đã

phản bác lại và đập tan thuyết thần quyền tồn tại suốt thời Trung cổ với quan

niệm thần thánh về ngôi vua, về quyền lực tuyệt đối, không tranh cãi của nhà

72

nước và nhà thờ. Nhà nước không phải tự có mà nó có quá trình phát sinh phát

triển, nó xuất hiện từ chính trong lòng xã hội, nhà nước không phải sản phẩm

của Chúa tạo ra mà do con người xây dựng nên.

Thứ hai, đóng góp quan trọng trong tư tưởng phân chia quyền lực của

John Locke, việc trao quyền lực của nhân dân cho các nhánh quyền lực nhà

nước khác nhau, đó quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền liên hiệp tương

ứng với các cơ quan phụ trách khác nhau và mỗi quan hệ giữa chúng. Locke

cũng phác họa những nét cơ bản về phương thức tổ chức và hoạt động của cơ

quan lập pháp và hành pháp, đặt ra vấn đề về cơ chế kiểm soát và cân bằng

quyền lực chính trị trong giải quyết công việc của nhân dân. Tư tưởng phân chia

quyền lực của Locke góp phần cần phải hình thành quá trình phân công lao động

quyền lực nhằm tạo sự chuyên môn hoá vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ

quan quyền lực với cơ chế ngăn ngừa sự lạm quyền và lồng quyền và mỗi cơ

quan thực hiện tốt nhất chức năng của mình, nhằm hướng đến việc xây dựng

một bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phục vụ và bảo vệ tối đa

lợi ích của nhân dân. Học thuyết phân quyền nhà nước của ông chính là tư liệu

quý giá có sức mạnh lan tỏa ảnh hưởng không chỉ về mặt lý luận chính trị mà cả

trong thực tiễn các mô hình nhà nước pháp quyền tư sản của nhiều nước. Đây

chính là điểm sáng đưa tên tuổi của Locke vượt xa thời đại ông sống và ảnh

hưởng sâu đậm đến nhiều thế hệ các nhà triết học, nhà chính trị và nhà lập pháp

trên thế giới.

Thứ ba, cống hiến suất sắc trong tư tưởng phân chia quyền lực của John

Locke chính là nguyên tắc “quyền lực thuộc về nhân dân” thể hiện rất rõ trong

toàn bộ tác phẩm. Phân quyền nhằm bảo vệ quyền con người, phân quyền nhưng

không mất quyền. Quyền lực thuộc về nhân dân vừa là nguyên tắc, vừa là mục

đích để Locke phân chia quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo quyền con người.

John Locke khẳng định quyền lực nhà nước là do nhân dân ủy thác, nhân dân

trao quyền nhưng không mất quyền. Nhân dân chính là người nắm quyền lực tối

73

cao và nhà nước phải giữ vai trò đảm bảo các quyền lợi cơ bản nhất của nhân

dân đó là quyền sống, quyền tự do, bình đẳng và quyền sở hữu tài sản, được bảo

vệ thông qua pháp luật. Nó đặc sắc ở chỗ, sau hàng mấy thế kỷ thống trị của tư

tưởng chuyên chế, đề cao vai trò thần thánh của vua, hạ thấp vai trò của nhân

nhân thì tư tưởng phân quyền của Locke là sự phủ định về tập quyền chuyên

chế, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ quân chủ chuyên chế, độc tài và đặt nền

móng cho sự hình thành các thể chế tự do và dân chủ. Từ ông, đã mở ra một

cuộc cách mạng tư tưởng, hướng đến việc khẳng định, đề cao vai trò của nhân

dân trong quan hệ với chính quyền nhà nước. Nó là cuộc đấu tranh không khoan

nhượng với chủ nghĩa chuyên chế phong kiến, với các chế độ độc tài, hủy hoại

tự do, nhân phẩm con người. Sau hàng ngàn năm mất tự do trong thời Trung cổ,

tư tưởng tiến bộ của Locke là động lực to lớn để nhân dân các nước đứng lên

làm cách mạng xóa bỏ gông xiềng của Giáo hội và các nền quân chủ chuyên chế

đang trói buộc con người. Ngày nay, tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị, nhất

là đối với các quốc gia dân chủ, xây dựng mô hình nhà nước theo hướng nhà

nước pháp quyền.

Thứ tư, trong tư tưởng phân chia quyền lực của John Locke, Locke phân

chia quyền lực nhà nước thành các nhánh lực để đề cao tính tối thượng của luật

pháp. Locke đề cao vai trò tối cao của luật pháp trong quản lý xã hội. Locke

nhấn mạnh luận điểm: “Không một ai trong xã hội dân sự có thể miễn trừ trước

luật pháp của nó”. Ông cho rằng pháp luật chính là công cụ để nhà nước đảm

bảo các quyền tự nhiên căn bản của con người và nó cũng chính là công cụ để

chống lại sự lạm dụng quyền lực của các nhà quản lý xã hội, một đất nước mà

thiếu vắng luật pháp thì sẽ chìm trong sự chuyên chế, nhân dân sẽ sống trong

trạng thái còn tệ hơn cả trong trạng thái tự nhiên. Theo Locke, nhà nước quản lý

xã hội bằng pháp luật và pháp luật phải giữ vị trí tối thượng trong mọi hoạt động

của nhà nước. Nhà nước không thể tồn tại nếu đứng ngoài hoặc đứng trên pháp

luật, các cơ quan quyền lực nhà nước, trong đó cả cơ quan lập pháp lập pháp có

74

quyền làm ra luật cũng đều phải chịu chị chế ước, chi phối bởi luật pháp. Bởi

vậy, pháp luật có mặt trong mọi mặt đời sống xã hội và là công cụ để chế ước

kiểm tra và giám sát hoạt động của nhà nước. Do tầm quan trọng của luật pháp

như vậy cho nên theo Locke luật pháp phải mang tính công bằng, nghiêm minh

và trước hết vì quyền lợi của người dân. Ông cho rằng quyền lập pháp phải

thuộc về nghị viện chứ không thể nằm trong tay một cá nhân nào, và các đại

biểu trong nghị viện phải là những con người do nhân dân bầu ra và đại diện cho

ý chí chung của toàn thể nhân dân. Đây là tư tưởng đúng đắn và rất tiến bộ là

điều mà các nhà nước trên thế giới, trong đó có nhà nước Việt Nam có thể tiếp

thu.

Thứ năm, quyền liên hiệp mà Locke đưa ra có ý nghĩa rất quan trọng đối

với giai đoạn hiện nay. Xét trong hoàn cảnh thế giới hiện nay: bối cảnh cuộc

cách mạng 4.0 bùng nổ mạnh mẽ, xu thế thế toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế

ngày càng mở rộng, những vấn đề bệnh dịch, ô nhiễm môi trường, về chiến

tranh và chủ nghĩa khủng bố, ranh giới chủ quyền giữa các quốc gia ngày trên

thế giới càng trở nên bất định…Việc quan tâm đến quyền liên hiệp mà Locke đề

ra đang là một yêu cầu quan trọng và cần thiết của tổ chức bộ máy nhà nước

trong thời đại hiện nay.

Tất cả những gì mà Locke đã luận giải về phân chia quyền lực nhà nước

trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền” thì mong muốn của ông là

hướng đến xây dựng một nhà nước pháp quyền. Với mô hình nhà nước này thì

luật pháp là ý chí chung của nhân dân, để bảo vệ, duy trì các quyền cơ bản và

thiêng liêng nhất cho mọi thành viên trong xã hội. Mọi cơ quan tổ chức của nhà

nước luôn nằm trong sự kiểm soát và quản lý của người dân, họ có quyền ủy

nhiệm hoặc bãi nhiệm các cơ quan này bất cứ lúc nào nếu như nó hoạt động mà

không đảm bảo được quyền lợi của mình. Chính vì thế, tư tưởng chính trị của

John Locke không chỉ ảnh hưởng lớn đến tinh thần của cuộc cách mạng tư sản

75

Anh mà còn đến những trào lưu tư tưởng chính trị sau này, nhất là chủ nghĩa lập

hiến hiện đại. Những dấu ấn quan trọng trong tư tưởng phân quyền của John

Locke đã khiến ông được tôn vinh là một trong những nhà tư tưởng lớn trong

dòng chảy của lịch sử tư tưởng chính trị thế giới.

3.1.2.Một số hạn chế chủ yếu trong tƣ tƣởng của John Locke về phân chia

quyền lực nhà nƣớc

Ngoài những tư tưởng giá trị trên, John Locke cũng không thể vượt khỏi

lịch sử thời đại ông đang sống nên tư tưởng của J. Locke nói chung về phân chia

quyền lực nhà nước vẫn còn một số hạn chế nhất định.

Thứ nhất, Locke cho rằng, nguyên nhân hình thành chính quyền là do

những bất cập trong trạng thái tự nhiên nên mọi người thỏa thuận với nhau theo

một bản khế ước, xuất phát và đại diện cho ý chí chung của mọi người khi tham

gia vào xã hội dân sự. Đó là sản phẩm của ý muốn, nguyện vọng chủ quan của

con người dựa trên sự thỏa thuận giữa các cá nhân với nhau. Bởi vậy, ông chưa

nhận thấy được nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là do mâu

thuẫn giai cấp không thể điều hòa.

Thứ hai, là một đóng góp tư tưởng mang giá trị thời đại, tuy nhiên nó

cũng là một hạn chế trong tư tưởng phân chia quyền lực chưa triệt để của Locke

khi mới chỉ dừng ở sự phân chia giữa quyền lập pháp và hành pháp, trong đó

quyền liên hiệp cũng vốn thuộc công việc của hành pháp. Locke chưa thấy được

một cơ quan quyền lực độc lập khác trong hệ thống các cơ quan nhà nước, đó là

cơ quan tư pháp và yêu cầu sự độc lập của nó. Đồng thời, ông mới chỉ đặt ra

khởi thảo ra tư tưởng giải quyết kiểm soát lẫn nhau giữa 2 cơ quan quyền lực

nhà nước lập pháp và hành pháp. Sự phân chia cơ cấu quyền lực như Locke thì

khó có thể thực hiện việc kiểm soát và chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan quyền

lực một cách có hiệu quả, chúng sẽ dễ nhập lại làm một, hoặc sẽ có những xung

đột không thể giải quyết được. Tuy nhiên, tư tưởng phân chia quyền lực của

76

Locke là tiền đề để sau này Montesqieu kế thừa và phát triển thành lý thuyết tam

quyền phân lập. Montesquieu đã lần đầu tiên đưa ra chính thức và đầy đủ nhất

các thành phần cơ bản nhất của một bộ máy nhà nước, là cơ quan lập pháp, hành

pháp, và tư pháp.

Thứ ba, Locke chưa thấy được phân chia quyền lực nhà nước có nguyên

nhân kinh tế - xã hội. Nhà nước bao giờ cũng là nhà nước của giai cấp thống trị,

cho nên bao giờ cũng đặt lợi ích của giai cấp thống trị lên trên hết. Trong nhà

nước tư sản, mọi lợi ích đều thuộc về giai cấp tư sản. Sư phân chia quyền lực

trong nhà nước tư sản cũng chỉ nhằm mục đích bảo vệ và phục vụ cho giai cấp

tư sản, bởi vậy tư tưởng về quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là

chủ thể quyền lực nhà nước sẽ không hiện hữu trong nhà nước tư sản, đó vẫn

mãi là lí tưởng cao đẹp và nhân văn của Locke và nhiều nhà tư tưởng dân chủ

trong lịch sử mà thôi.

3.2.Ý nghĩa tƣ tƣởng của John Locke về phân chia quyền lực nhà nƣớc đối

với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

3.2.1. Quá trình nhận thức và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam

hiện nay

Xây dựng nhà nước pháp quyền là tất yếu và phù hợp với sự phát triển

lịch sử chung của xã hội loài người, bởi nhà nước pháp quyền là một giá trị

chung của nhân loại trên con đường phát triển tiến bộ.

Ở Việt Nam, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được thể hiện rõ trong

quan điểm của Hồ Chí Minh, khi Người lãnh đạo nhân dân ta xây dựng nhà

nước cách mạng. Đó là tư tưởng về xây dựng một nhà nước dân chủ, một chế độ

dân chủ thực sự theo phương châm “bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu

quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử

ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[30].

77

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ II năm 1951, Đảng ta đã xác định rõ: “chính

quyền là của dân, do dân và vì dân”. Đó là Nhà nước thể hiện ý chí, quyền lực,

lợi ích của nhân dân. Văn kiện đại hội II cũng xác định: “Nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa căn bản là một nước cộng hòa nhân dân” [trích theo 30]. Vì lẽ

đó, chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân phải thể hiện: “một chính quyền,

Nhà nước cách mạng do giai cấp công nhân và chính Đảng của nó lãnh

đạo”[trích theo 30]. Những ý tưởng về Nhà nước pháp quyền của Đảng ta đã

được khẳng định rõ trong Hiến pháp năm 1946. Mặc dù không đề cập đến khái

niệm nhà nước pháp quyền, Hiến pháp 1946 vẫn thể hiện đảm bảo các quyền

của con người, các quyền của công dân và xây dựng nhà nước với tính cách là

công cụ hay thiết chế thực hiện các quyền của công dân, các quy định về tổ chức

bộ máy nhà nước thể hiện tư tưởng phân quyền tương đối rõ ràng.

Tuy nhiên, bởi ảnh hưởng của mô hình nhà nước của Liên Xô và các nước

xã hội chủ nghĩa, những yếu tố phân quyền như trong Hiến pháp 1946 đã bị xóa

bỏ, xóa bỏ nguyên tắc kiềm chế đối trọng lẫn nhau giữa các cơ quan quyền lực

tối cao của nhà nước. Kể từ hiến pháp 1959 đến hiến pháp 1980, trong nhiều văn

kiện Đảng và Nhà nước xuất hiện chủ yếu quan điểm Nhà nước chuyên chính vô

sản, nguyên tắc tập trung dân chủ với tư cách là nguyên tắc nền tảng nhằm xây

dựng mô hình quyền lực tập trung và đảm bảo sự thống nhất quyền lực nhà

nước, các yếu tố phân quyền thể hiện trong mối quan hệ giữa các cơ quan lập

pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp vẫn không sâu sắc so với Hiến

pháp 1946.

Khi đất nước ta thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã xác định đi lên chủ

nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Nhưng lúc đó chúng ta còn nhận

thức về chủ nghĩa xã hội một cách rất giản đơn, chủ quan duy ý chí và có phần

cực đoan khi đối lập nhà nước tư sản với nhà nước xã hội chủ nghĩa, phải xóa bó

tất cả những gì liên quan đến tư bản. Chúng ta xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu

sản xuất nên đã thiết lập nên một nền kinh tế mà chỉ có sở hữu toàn dân và sở

78

hữu tập thể. Chúng ta có nhận thức sai lầm khi đồng nhất nhà nước pháp quyền

với nhà nước tư sản, coi mô hình nhà nước pháp quyền là mang tính tư sản, thừa

nhận nhà nước pháp quyền là chối bỏ xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu và vận

dụng một cách có ý thức, chủ động và tự giác mô hình nhà nước pháp quyền có

nhiều hạn chế, có thời kỳ bị xem nhẹ. Đó là một trong những nguyên nhân khiến

dân chủ ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa trở thành có vấn đề. Dân chủ ở

nước ta mang nặng tính hình thức, tình trạng độc đoán, chuyên quyền, quan liêu

có xu hướng phát triển đã làm suy yếu nhà nước. Tổ chức bộ máy cồng kềnh,

hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả bởi cơ chế tập quyền và thiếu sự phân công

rạch ròi các chức năng, nhiệm vụ và của các cơ quan quyền lực nhà nước dẫn

đến các cơ quan này hoạt động chồng chéo thiếu hiệu quả. Nhà nước quản lý,

điều hành xã hội chủ yếu bằng mệnh lệnh, chỉ thị và nghị quyết, trong khi pháp

luật thì bị coi nhẹ. Và hệ quả tất yếu là đất nước bị khủng hoảng, đời sống nhân

dân không được đảm bảo.

Chính vì vậy, vấn đề dân chủ đã được đặt ra một cách bức bách ở các

nước xã hội chủ nghĩa nói chung, ở nước ta nói riêng. Trong quá trình đổi mới

tư duy về chính trị, về chủ nghĩa xã hội, nhận thức về nhà nước pháp quyền của

Đảng ta ngày càng đầy đủ hơn, rõ ràng và cụ thể hơn, quyết tâm chính trị là xây

dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới hình thức nhà nước pháp quyền cũng ngày

càng cao hơn.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng Cộng sản Việt

Nam đã đưa ra đường lối Đổi mới toàn diện, trước hết về kinh tế, xóa bỏ cơ chế

bao cấp, cơ chế tập trung quan liêu, chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều

thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội khẳng định: “Trong toàn

bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây

dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động” [trích theo 30]. Quan

điểm chủ trương đổi mới Nhà nước đã manh nha một số nội dung về Nhà nước

pháp quyền. Đó là sự khẳng định quản lý nhà nước bằng pháp luật, phải quan

79

tâm xây dựng pháp luật, từng bước bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để

bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật. Sau sự

sụp đổ mô hình nhà nước chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, để khắc phục

những hạn chế, sự cồng kềnh, kém hiệu lực, kém năng động của bộ máy nhà

nước, đến Đại hội VII năm 1991, quan điểm đổi mới Nhà nước đã được bổ sung

thêm nội dung: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp

và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”.

Qua hai kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, tư duy về đổi mới Nhà nước theo

hướng xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng đã có những bước tiến quan

trọng. Tuy nhiên, chỉ đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII

năm 1994, lần đầu tiên tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa được chính thức Đảng ta khẳng định, trong đó thể hiện các quan điểm,

nguyên tắc và nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền. Đồng thời, thuật ngữ

“Nhà nước pháp quyền” cũng chính thức lần đầu tiên được sử dụng trong văn

kiện của Đảng.

Như vậy, việc thừa nhận những giá trị phổ quát của của Nhà nước pháp

quyền mà mọi nhà nước đều phải hướng đến, không phân biệt chế độ chính trị

và đưa ra quan điểm xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa theo mô hình nhà

nước pháp quyền là sự tiến bộ trong tư duy và hành động của Đảng ta.

Tại Đại hội VIII năm 1996, văn kiện chính thức của Đại hội vẫn tiếp tục

khẳng định nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền là một trong năm quan

điểm cần quán triệt trong quá trình tiếp tục cải cách, đổi mới Nhà nước, xây

dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội IX năm

2001, nhận thức về nhà nước pháp quyền có sự phát triển mới với tư tưởng nhà

nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Sự xác định mục tiêu xây dưng Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đại hội IX không chỉ là khẳng định quyết

tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của

Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn là sự đánh dấu một

80

giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng một Nhà nước pháp quyền của

dân, do dân và vì dân: “Quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công phối

hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp, tư pháp [xem 33]. Trong Văn kiện Đại hội X năm 2006, khi tổng kết lý

luận và thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta không những tiếp tục khẳng định chủ

trương xây dựng Nhà nước pháp quyền, mà còn khẳng định Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo

của Đảng Cộng sản là một đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang

xây dựng. Tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,

do dân, vì dân vẫn tiếp tục được khẳng định và phát triển tại Đại hội XI, XII và

ghi nhận Hiến pháp 2013.

Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta vừa phải kế thừa được các

giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực

tiễn, vừa phải khẳng định được bản sắc riêng, vừa phù hợp với hoàn cảnh bối

cảnh và đặc thù của nước ta: Một là, cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một nền

kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường với nhiều

hình thức sở hữu, nhiều hình thức tổ chức quản lí và nhiều hình thức phân phối

sản phẩm. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện nền kinh tế thị

trường cần phải có điều tiết thông qua pháp luật. Hai là, cơ sở chính trị của nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chế độ nhất nguyên chính trị. Chúng ta

không chấp nhận “tam quyền phân lập” gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa

đảng như ở các nước tư sản trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Ở

nước ta, dưới sự lãnh đạo của một chính Đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt

Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các

cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp. Đây là nét đặc trưng khác biệt giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản. Ba là, cơ sở xã hội của Nhà

81

nước pháp quyền xã hội của nghĩa là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với khối

đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn

và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành

và phát huy dân chủ [xem 35].

Hơn nữa, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, chúng ta cần

nhận thức sâu sắc và thấu hiểu được vô vàn những khó khăn bất cập của Việt

Nam hiện nay. Nhiều vấn đề có liên quan chặt chẽ cơ cấu tổ chức và kiểm soát

đối với các quyền lực nhà nước, vấn đề Biển Đông, những nguy cơ tệ tham

nhũng và quan, nguy cơ lạm quyền của các nhóm lợi ích, sự suy thoái đạo đức

lối sống của một bộ phận cán bộ lãnh đạo và trong xã hội, sự xuống cấp của chất

lượng giáo dục các cấp và y tế, sự nghiêm trọng của tai nạn giao thông, của tệ

nạn xã hội, sự hủy hoại và ô nhiễm môi trường, vấn đề vệ sinh an toàn thực

phẩm, dịch bệnh, những xung đột gay gắt liên quan đến đất đai giữa nhà nước và

nhân dân, đến lợi ích của người dân trong bối cảnh hiện nay, nhất là các vấn đề

có liên quan đến các quyền tự do cơ bản của con người….

Thừa nhận những giá trị phổ quát của Nhà nước pháp quyền và xây dựng

Nhà nước xã hội theo mô hình nhà nước pháp quyền là bước đi đột phá trong tư

duy và hành động tự giác của Đảng ta. Đó là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy

mạnh nghiên cứu về nhà nước pháp quyền, đổi mới một cách căn bản, có hệ

thống tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước ở nước ta hiện nay. Nói

như vậy không có nghĩa là ngày một, ngày hai chúng ta có thể xác lập dễ ràng

ngay được Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bởi việc xây dựng Nhà nước

pháp quyền ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề phức tạp cần phải giải quyết.

Chính vì thế, trong quá trình tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, rút ra

những bài học cả về thành công lẫn thất bại, kịp thời bổ sung và điều chỉnh

trước yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn xây dựng và phát triển Nhà nước pháp

82

quyền ở nước ta. Đồng thời, tìm hiểu và nghiên cứu nhằm chọn lọc, tiếp thu, và

học hỏi kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền ở những quốc gia hiện đại

và những tư tưởng tiến bộ trong lí luận về nhà nước pháp quyền trong lịch sử

nhân loại.

3.2.2. Ý nghĩa tƣ tƣởng phân chia quyền lực nhà nƣớc của John Locke đối

với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quá

trình lâu dài, gắn với việc thực hiện những đường lối đổi mới toàn diện của

Đảng và Nhà nước xuất phát từ tiền đề về kinh tế, chính trị và xã hội và những

ảnh hưởng của nhiều tác động của bối cảnh hiện nay. Sau hơn 30 năm đổi mới,

từ đổi mới tư duy, chính sách, pháp luật, đến tổ chức bộ máy nhà nước tạo nền

tảng vững chắc cho sự phát triển ổn định. Căn cứ vào hoàn cảnh và đặc thù của

đất nước, việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam không thể áp dụng

máy móc các mô hình nhà nước pháp quyền đang áp dụng ở nhiều quốc gia trên

thế giới. Tuy nhiên, chúng ta phải kế thừa và học hỏi kinh nghiệm xây dựng nhà

nước pháp quyền ở những quốc gia hiện đại, vừa tìm hiểu và nghiên cứu những

tư tưởng tiến bộ trong lí luận về nhà nước pháp quyền cả hiện tại và quá khứ.

Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng phân quyền của Locke, có những tư tưởng giá

trị về mặt lí luận và ý nghĩa quan trọng đối với quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền ở nước ta.

Thứ nhất, ý nghĩa tư tưởng của John phân chia quyền lực nhà nước với

mục đích đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân với đối với xây dựng nhà nước

pháp quyền ở Việt Nam hiện nay

Trong “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, Locke khẳng định xuyên suốt

trong tác phẩm tư tưởng tiến bộ và cách mạng, đó là quyền lực thuộc về nhân

dân, không thuộc về sức mạnh quyền lực siêu trần thế hay một người, nhân dân

là chủ thể của quyền lực tối cao và nhà nước phải giữ vai trò đảm bảo các quyền

83

lợi cơ bản nhất của nhân dân. Mục đích của phân chia quyền lực nhà nước để

đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân. Tư tưởng này của Locke có giá trị

phù hợp đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Kế thừa tư tưởng của Jocke trong tư tưởng phân chia quyền lực với mục

đích đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân nhằm đảm bảo quyền con người,

trong quá tình xây dựng nhà nước pháp quyền, qua các kì Đại hội, Đảng ta xác

định rõ chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân,

đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Điều đó ghi nhận trong Hiến pháp năm

2013, tại khoản 2 Điều 2 khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân,

vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm

chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa

giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Tại Điều 3: Nhà

nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng,

bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no,

tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” [xem 12]. Hiến pháp năm

2013 đã thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao quyền

làm chủ của nhân dân trong Hiến pháp là nhà nước của dân, do dân và vì dân,

đồng thời thể hiện đất nước Việt Nam là do chính nhân dân làm chủ, nhân dân là

chủ thể quan trọng trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Đặc biệt, Hiếp pháp năm

2013 thể hiện điểm mới về hình thức thực hiện quyền lực nhân dân ở Điều 6:

“Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các biện pháp dân chủ trực tiếp

và dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan

nhà nước khác”[ trích theo 12].

Trong quan điểm của Locke cho rằng, nhân dân có quyền thay đổi chính

quyền, nếu chính quyền không tuân thủ ý chí chung và khế ước xã hội của nhân

84

dân, Việt Nam vận dụng thông qua các hình thức việc lấy phiếu tín nhiệm trong

quốc hội từ những năm 2013 đến 2018 đã được tiến hành và bước đầu có được

kết quả.

Như vậy, chúng ta đã kế thừa tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch

sử, trong đó có tư tưởng về phân chia quyền lực của John Locke, và vận dụng nó

vào xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Sự kế thừa có chọn lọc là một

sự vận dụng sáng tạo và linh hoạt của Đảng đáp ứng được yêu cầu đổi mới đất

nước trong xu thế phát triển chung của thế giới.

Thứ hai, ý nghĩa tư tưởng của John Locke về vai trò cụ thể của các bộ

quyền lực nhà nước và mối quan hệ giữa chúng đối với việc phân công chức

năng giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt

Nam hiện nay

Dù có hạn chế nhưng sự khởi thảo tư tưởng phân chia quyền lực thành ba

quyền: lập pháp, hành pháp và liên hiệp của John Locke là một trong những tư

tưởng quan trọng và mang tầm thời đại, đánh dấu những nét chấm phá tư tưởng

về một nhà nước pháp quyền.Vì thế, sự kế thừa tư tưởng phân chia quyền lực

nhà nước của John Locke đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta,

trước hết là sự phân công vai trò, chức năng của quyền lực ba nhánh lập pháp,

hành pháp và tư pháp.

Trước đổi mới năm 1986, ở Việt Nam quyền lực nhà nước tổ chức theo

nguyên tắc tập quyền. Cơ chế tập quyền và thiếu sự phân công rạch ròi các chức

năng, nhiệm vụ của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp dẫn đến các cơ

quan này hoạt động chồng chéo thiếu hiệu quả và hệ quả tất yếu là đất nước bị

khủng hoảng, đời sống nhân dân không được đảm bảo. Đứng trên tinh thần đổi

mới và trên cơ sở nhận thức sâu sắc những thiếu sót và tồn tại của bộ máy nhà

nước trung ương tập quyền, qua các kỳ Đại hội Đảng lý luận về nhà nước pháp

quyền được hình thành và từng bước đưa vào xây dựng trong thực tiễn.

85

Tại Đại hội VII năm 1995, Đảng khẳng định “Quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Quan điểm về sự

thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa ba quyền là một

quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô hình tổ chức Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có thể nói, việc thừa nhận phân công

vai trò và chức năng của các cơ quan quyền lực tổ chức trong quyền lực nhà

nước là đổi mới nhận thức của Đảng ta.

Đặc biệt, trong Hiến pháp 2013 chỉ rõ: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao

nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của đất nước, thực

hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất

nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước ở Điều 69. Chính phủ

là thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội, chịu trách

nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ

Quốc hội, Chủ tịch nước ở Điều 94. Tòa án nhân dân cơ quan xét xử, thực hiện

quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân ở Điều 102 [xem 12].

Sự tiếp thu quan điểm phân chia quyền lực thành các cơ quan quyền lực

khác nhau của Locke, Đảng và nhà nước ta có sự kế thừa những yếu tố tích cực

sự phân công quyền lực ba nhánh là lập pháp, hành pháp và tư pháp phù hợp vào

những đặc thù của Việt Nam. Đảng và nhà nước ta đã chủ trương phân công và

phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền với

nhau. Điều đó có nghĩa là trong quá trình đổi mới và xây dựng bộ máy nhà nước

phải coi trọng việc xác định rõ chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của các cơ

quan trong việc thực hiện ba quyền này để hạn chế sự lạm quyền, lộng quyền,

chồng chéo và cản trở công việc của nhau, đảm bảo nguyên tắc quyền lực thuộc

86

về nhân dân. Sự phân công rạch ròi, rõ ràng giữa vị trí, chức năng và nhiệm vụ

giữa các cơ quan không có nghĩa là chúng không có sự phối hợp với nhau trong

giải quyết những vấn đề của xã hội đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước

thuộc về nhân dân. Chính nhờ vào quan điểm này mà bộ máy nhà nước ta qua

cải cách và đổi mới ngày càng được củng cố và hoàn thiện hơn về tổ chức và

hoạt động quyền lực, tránh được sự nhập nhằng giữa ba quyền lập pháp, hành

pháp và tư pháp, ỷ lại nhau trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.

Thứ ba, ý nghĩa tư tưởng phân chia quyền lực của John Locke với mục

đích cao nhất bảo đảm quyền tự nhiên con người đối với đảm bảo quyền con

người, quyền công dân trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam

hiện nay

Locke khẳng định rằng các quyền thiêng liêng của con người là bất khả

xâm phạm, nó là quyền tự nhiên có sẵn, không do ai ban tặng cho con người. Tư

tưởng của Jocke về phân chia quyền lực nhà nước tránh sự lạm quyền, tham

luyến quyền lực vì mục đích riêng của người nắm quyền sẽ dẫn đến xâm phạm

quyền con người. Với Locke, mục đích cao nhất của tư tưởng phân chia quyền

lực nhà nước để đảm bảo lợi ích của nhân dân, mà trên hết là quyền con người.

Tiếp thu và kế thừa tư tưởng này của Locke có ý nghĩa trong việc xây dựng Nhà

nước pháp quyền ở Việt Nam để đảm bảo tối đa quyền con người và quyền công

dân.

Không phải chỉ đến Hiến pháp năm 2013 Nhà nước ta mới coi trọng vấn

đề quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, mà trong các bản

Hiến pháp trước, từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận

các quyền cơ bản và thiêng liêng của con người. Tuy nhiên chỉ đến Hiến pháp

năm 1992 thì khái niệm “quyền con người” mới được đề cập một cách chính

thức và đến Hiến pháp năm 2013 thì chế định quyền con người được ưu tiên

trình bày trong trọn chương II mang tên “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ

87

cơ bản của công dân”. Hiến pháp đã thay đổi cách thức hiến định về các quyền

con người, chuyển từ việc quy định các quyền con người sang công nhận các

quyền con người là tự nhiên, vốn có, mà luật pháp phải ghi nhận. Nhà nước phải

bảo vệ và đảm bảo cho quyền con người được thực hiện, không phân biệt đối

xử. Hiến pháp 2013 đã cũng quy định quyền và nghĩa vụ công dân. Nhân dân

được bảo đảm các quyền cơ bản như quyền sống, tự do ngôn luận và tự do hội

họp theo quy định pháp luật, quyền được lựa chọn việc làm, quyền được bảo

đảm an sinh, có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử

dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh,

khám bệnh, chữa bệnh, quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham

gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa, quyền bầu cử, bãi miễn đại

biểu của mình nếu họ không hoàn thành nhiệm vụ,…đồng thời công dân cũng có

nghĩa vụ phải tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật Việt Nam [xem 12]. Việc đưa

nội dung về quyền con người, quyền công dân vào các chương Hiến pháp 2013

đã tạo ra cơ chế đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Điều này cho quan

điểm tiến bộ của Đảng ta, quyền con người, quyền công dân chỉ được đảm bảo

có hiệu quả khi ngăn ngừa, kiểm soát được chuyên quyền, lộng quyền, lạm

quyền, tham nhũng quan liêu.

Thứ tư, ý nghĩa tư tưởng về phân chia quyền lực nhà nước để đảm bảo

tính tối thượng của luật pháp của John Locke đối với việc hoàn thiện hệ thống

pháp luật và đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật trong xây dựng nhà nước

pháp quyền ở Việt Nam.

Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của Locke đã đề cao tính tối

thượng của luật phát. Luật pháp thể hiện ý chí chung của nhân dân, bởi theo

Locke mỗi người đã từ bỏ quyền trở thành quan tòa của chính mình để chuyển

giao cho cộng đồng, đại diện là nhà nước. Nhà nước nhận sư ủy quyền từ dân

làm nên pháp luật. Luật pháp là công cụ để nhà nước quản lí xã hội, đảm bảo

88

quyền con người. Phân chia quyền lực nhà nước thành 3 quyền để đảm bảo rằng

vị trí tối thượng của pháp luật, đại diện cho ý chí chung của xã hội sẽ công bằng.

Locke đã khẳng định tính tối thượng của luật pháp khi không một ai trong xã hội

dân sự có thể được miễn trừ trước luật pháp.

Kế thừa tư tưởng đó của John Locke, trong quá trình xây dựng nhà nước

pháp quyền, Đảng và Nhà nước và các nhà lập pháp, hành pháp, tư pháp ở nước

ta phải luôn luôn xem thượng tôn pháp luật là nguyên tắc đầu tiên trong mọi

nhận thức và hành động. Bởi điều kiện tiên quyết để có nhà nước pháp quyền là

chất lượng của hệ thống pháp luật. Chúng ta cần xây dựng một hệ thống pháp

luật đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, tính phù hợp và phải được xây dựng ở

trình độ kỹ thuật pháp lý đúng đắn, logic chặt chẽ, trong đó Hiến pháp giữ vị trí

cao nhất, chi phối toàn bộ hệ thống pháp luật.

Những bất cập liên quan đến việc xây dựng luật, những vấn đề trong

những năm vừa qua ở Việt Nam có liên quan đến việc thực thi luật được đưa ra

như luật đất đai, luật phòng chống tham nhũng, luật báo chí, luật doanh nghiệp...

là minh chứng cho sự cần thiết phải xây dựng các luật công bằng và có tính

chính đáng thực sự của dân, do dân và vì dân. Để xây dựng và hoàn thiện nhà

nước pháp quyền ở nước ta, chúng ta phải xây dựng một hệ thống pháp luật hơp

lí và công bằng, không chủ quan duy ý chí, phản ánh đúng quy luật khách quan,

phản ánh được lợi ích chung và nhu cầu của xã hội. Tiếp đến, cần phải chú trọng

đổi mới phương pháp làm luật làm sao cho nhân dân, nhất là những người có

hiểu biết về pháp luật, có kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực tham gia vào quá

trình soạn thảo, thông qua luật. Pháp luật luôn luôn phải đổi mới, phù hợp với

quá trình đổi mới các lĩnh vực của đời sống. Việc thực thi phải gắn liên với việc

kiểm tra và giám sát chấp hành pháp luật. Mọi người dân phải là đối tượng kiểm

tra, giám sát việc thực thi pháp luật, có như vậy mọi người mới thực sự bình

đẳng trước pháp luật và chính đó thể hiện tính dân chủ sâu sắc trong nhà nước

89

pháp quyền. Hơn nữa, phải tăng cường đội ngũ cán bộ bảo đảm việc thực thi

nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước. Phải nâng cao trình độ, rèn luyện đạo đức cho

cán bộ trong bối cảnh nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ sang nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều mặt trái của nền kinh tế thị

trường. Đồng thời, tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích, nâng cao hiệu

quả giáo dục pháp luật để nhân dân hiểu và tự giác chấp hành. Tổ chức thực hiện

và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đấu tranh chống các biểu hiện coi thường

pháp để từng bước đảm bảo vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội

Thứ năm, ý nghĩa tư tưởng của John Locke về quyền liên hiệp đối với hoạt

động đối ngoại trong quan hệ quốc tế của Việt Nam hiện nay

Trong tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước của John Locke, có nhánh

quyền lực từng được các nhà nghiên cứu không đánh giá cao là quyền liên hiệp.

Tuy nhiên, khi nhìn vào bối cảnh thế giới nói chung và Việt Nam hiện nay nói

riêng thì quyền liên hiệp, theo cách gọi hiện đại quyền đối ngoại lại đang đóng

một vai trò to lớn và quan trọng đối với sự phát triển ổn định và hòa bình của thế

giới và Việt Nam khi bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động, phức tạp

và khó lường, các vấn đề mang tính toàn cầu: khủng hoảng kinh tế toàn cầu,

xung đột văn hóa, xung đột tôn giáo, biến đổi khí hậu, khủng bố quốc tế, tội

phạm xuyên quốc gia, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vấn đề liên quan đến sự lan

truyền bệnh dịch có xu hướng trầm trọng hơn, một số vấn đề khu vực như tranh

chấp lãnh thổ, biển đảo căng thẳng hơn giai đoạn trước, vấn đề cạnh tranh và tập

hợp lực lượng giữa các nước lớn diễn biến nhanh chóng và phức tạp….

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng ta

nhận thức được vai trò quan trọng của đường lối đối ngoại trong quá trình xây

dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đảng luôn đặt mục tiêu lấy việc giữ vững

môi trường hòa bình , ổn định, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi

mới để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Tại Đại hội VI

90

năm 1986, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Trong đó trên lĩnh vực đối

ngoại, Đảng ta chủ trương mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu

tư nước ngoài. Hai năm sau đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 13, đánh dấu sự

đổi mới tư duy về công tác đối ngoại. Đây là cơ sở hình thành đường lối đối

ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế của

Việt Nam. Nghị quyết khẳng định nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình

hình mới, khẳng định mục tiêu chiến lược và lợi ích cao nhất của Việt Nam

là giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế, đồng thời nêu rõ quyết tâm, chủ động

chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong

cùng tồn tại hòa bình. Đổi mới tư duy cho kịp với sự phát triển nhanh chóng của

tình hình thế giới, kết hợp sức mạnh của thời Đại trong điều kiện mới của tình

hình thế giới.

Đại hội VII của Đảng năm 1991 tiếp tục chủ trương mở rộng quan hệ đối

ngoại. Đại hội khẳng định mạnh mẽ: “Hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi với tất

cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở

nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, với phương châm “Việt Nam muốn là bạn

với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và

phát triển” [xem 9]. Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là giữ vững hòa bình, mở

rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc

xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào

cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ

và tiến bộ. Mở rộng đối ngoại và hội nhập quốc tế tạo nên nguồn lực đáp ứng

nhu cầu phát triển của đất nước, kết hợp với những nhân tố nội lực cùng với

nhân tố ngoại lực tạo thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh sự phát triển đất

nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, nâng cao vị thế trong quan

hệ quốc tế, và góp phần tích cực vào công việc chung của toàn nhân loại vì hòa

bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

91

Trong các kì Đại hội tiếp theo, Đảng tiếp tục chủ trương đề cao hoạt động

đối ngoại với phương châm: Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy và là

thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc

lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ, tôn trọng và thực hiện các cam kết quốc tế. Qua

30 năm thực hiện đường lối đổi mới, với những thành tựu đạt được trong hoạt

động đối ngoại, chúng ta đã giành những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử,

quan hệ quốc tế có những thay đổi sâu sắc. Chúng ta đã thiết lập quan hệ với

185 nước trong tổng số 193 nước của Liên hợp quốc, tham gia vào 70 tổ chức

quốc tế, khu vực: là thành viên của các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế

quan trọng, như Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu

(ASEM)...,lần thứ hai đảm nhiệm vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng

bảo an Liên hợp quốc và là nước ASEAN duy nhất có quan hệ đối tác chiến

lược và đối tác toàn diện với toàn bộ Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng

đầu thế giới G7, là nước thuộc Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi G20,

Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 15 đối tác trên thế

giới, 10 đối tác toàn diện, hợp tác nhiều mặt với bạn bè khác tạo ra sự tin cậy

gắn bó chặt chẽ tranh thủ được nguồn lực để phát triển đất nước, đồng thời cũng

tranh thủ được sự ủng hộ, hỗ trợ của bạn bè quốc tế trong cuộc đấu tranh bảo vệ

chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước…Những thành tựu này đã cho thấy

tư duy của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại đã từng bước đổi mới đáp ứng yêu cầu

trong nước và xu thế quốc tế góp phần tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ đất nước.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của

hoạt động đối ngoại trong quan hệ quốc tế ngày càng trở nên quan trọng, đóng

góp hiệu quả vào quá trình xây dựng quan hệ hợp tác, hòa bình, hữu nghị giữa

các quốc gia, cũng như nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhằm giải quyết các

92

vấn đề toàn cầu. Do đó, việc vận dụng tư tưởng của Locke về quyền liên hiệp sẽ

giúp chúng ta nắm rõ đúng bản chất, vai trò và áp dụng tốt và đưa ra những

đường hướng trong công tác đối ngoại, toàn diện, bền vững, hiệu quả, thích ứng

tốt đối với môi trường quốc tế trong thế kỷ XXI trong quá trình xây dưng Nhà

nước pháp quyền ở nước ta: Một là bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là giữ

vững độc lập tự chủ, tự cường, giữa vững chế độ chính trị, kinh tế - xã hội, giữ

gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh,… đồng thời thực hiện

nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của Việt Nam. Hai là bảo đảm sự lãnh đạo thống

nhất của Đảng, sự tập trung hoạt động quản lí nhà nước đối với hoạt động đối

ngoại. Phối hợp và thống nhất chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà

nước với đối ngoại về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và quốc phòng an

ninh trong quan hệ quốc tế.

Kết luận chƣơng 3

John Locke là một trong những triết gia vĩ đại người Anh, người đã để lại

dấu ấn quan trọng trong lịch sử tư tưởng triết học chính trị phương Tây và trong

các mô hình nhà nước pháp quyền phương Tây kể từ thế kỷ XVII đến nay.

Locke đã phác thảo ra cơ bản mô hình nhà nước pháp quyền, tập trung

vào việc xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước một cách dân chủ trên cơ sở của

khế ước xã hội nhằm bảo vệ ý chí chung và quyền lực tối cao của toàn thể nhân

dân, nhằm thực thi các quyền tự nhiên thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các

công dân trong xã hội và đảm bảo nhân dân có một đời sống hạnh phúc.

Thứ nhất, giá trị tư tưởng phân chia quyền lực của Locke thể hiện ở chỗ

hạn chế quyền lực thuộc về tay nhà vua, đảm bảo nguyên tắc quyền lực thuộc về

nhân dân, khẳng định tính tối thượng của pháp luật trong kiểm soát trong đời

sống nhà nước và xã hội, phân chia chức năng và nhiệm vụ của từng nhánh

quyền lực tương ứng với các cơ quan khác nhau để nhà nước hoạt động một

93

cách hiệu quả, tránh lạm quyền, đồng thời đưa ra những nét cơ bản mối quan hệ

và kiểm soát giữa hai cơ quan lập pháp và hành pháp.

Thứ hai, hạn chế của tư tưởng phân chia quyền lực không triệt để của

Locke liên quan chủ yếu đến hạn chế thời đại. Ông chưa nhận ra thành phần đầy

đủ của cả ba cơ quan quyền lực trong nhà nước, đó là cơ quan quyền lực tư pháp

và yêu cầu sự độc lập của nó. Tư tưởng phân quyền Locke khởi xướng nhằm

mục đích đảm bảo tính dân chủ, tuy nhiên trong nhà nước tư sản lợi ích giai cấp

tư sản được ưu tiên hàng đầu, do đó lí tưởng dân chủ của ông chỉ là khát vọng và

mong muốn.

Tư tưởng phân chia quyền lực cũng như tư tưởng chính trị có ảnh hưởng

quan trọng không chỉ đến cách mạng tư sản ở Pháp, ở Mỹ, đến Tuyên ngôn

Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791, Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ

năm1776, mà còn đến các tư tưởng triết học, chính trị và các nhà lập hiến sau

này

Việc nghiên cứu tư tưởng phân chia quyền lực của Locke và ý nghĩa của

nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay là hoàn

toàn phù hợp với mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay: đó là xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân. Tư

tưởng phân quyền ở Locke có giá trị gợi mở cho việc giải quyết các vấn đề đặt

ra trong lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nướcpháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay.

94

KẾT LUẬN

Có thể nói, quan niệm của Locke về sự phân chia quyền lực nhà nước

trong “Khảo luận thứ hai về chính quyền” là tư tưởng có giá trị lớn không chỉ

đối với các chính trị gia, các nhà lập pháp mà còn đối với thực tiễn ở nước ta

hiện nay. Tư tưởng của ông về quyền lực nhà nước xuất phát từ ý chí chung trên

cơ sở của khế ước xã hội đưa con người từ trạng thái tự nhiên tiến đến trạng thái

xã hội công dân. Với Locke, nhà nước của dân khi quyền lực nhà nước đều

thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ nhân chân chính của đất nước, mà không

phải thuộc về một số người đứng đầu nhà nước. Locke khẳng định một nhà nước

phải đảm bảo và đặt quyền và lợi ích của người dân lên trên hết. Đảm bảo cho

nhân dân quyền cơ bản và lợi ích, có cuộc sống an toàn, ổn định và thanh bình

vừa là mục tiêu và phương châm hoạt động của nhà nước. Để đi đến một mô

hình nhà nước với cách thức tổ chức đạt được hiệu quả, hạn chế quyền lực tập

trung và tay một người vì lòng đam mê quyền lực, tránh lạm quyền, đảm bảo

quyền con người không bị xâm phạm, Locke đã đi đến mô hình phân quyền nhà

nước thành 3 quyền cơ bản: lập pháp, hành pháp và liên hiệp với vai trò và chức

năng khác nhau tương ứng với các quan phụ trách và mối quan hệ ràng buộc

giữa chúng trong giải quyết những công việc chung của cộng đồng.

Locke đã dự kiến khá đầy đủ và đúng đắn cách thức tổ chức và hoạt động

của hai cơ quan hành pháp và lập pháp và những dự kiến của ông đã trở thành

hiện thực trong tổ chức và hoạt động của nhiều nhà nước trên thế giới hiện nay.

Chính bởi vậy, Locke hoàn toàn xứng đáng với lời đánh giá của Marcel Prelot

và Goerges Lescuyer: “Locke đã đem lại những cơ sở kỹ thuật cho các thể chế

tự do. Ở ông, chúng ta sẽ thấy bức phác họa những nền quân chủ hạn chế, cả

bức phác họa của chế độ Nghị viện và cả chế độ Tổng thống Mỹ, nghĩa là của

các chế độ chính trị hiện đại”.

95

Locke sống cách chúng ta gần 4 thế kỷ nhưng quan niệm của ông về sự

phân chia quyền lực nhà nước vẫn còn giữ nguyên giá trị. Vì vậy, trong quá

trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hiện nay,

chúng ta cần phải nghiên cứu một cách sâu sắc hơn nữa tư tưởng của John

Locke trong “Khảo luận thứ hai về chính quyền” để có những định hướng đúng

đắn trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để

nhà nước ta thật sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chúng ta đã kế thừa

những ưu điểm nhất để vận dụng chúng hợp quy luật vào xây dựng nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quyền lực nhà nước là thống nhất do một đảng

lãnh đạo, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước nhằm

thực hiện tốt nhất ý chí chung – ý chí của nhân dân.

96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Arixtốt (2013), “Chính trị luận”, “Nông Duy Trường dịch, Nxb Thế giới

2.Nguyễn Đăng Dung chủ biên (2009), Lịch sử các học thuyết chính trị, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội

3.Nguyễn Đăng Dung (2014), “Nhà nước pháp quyền là tinh thần pháp luật hay

là đúng quy trình?”,Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, số 1(2014).

4.Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb Đại học

quốc gia Hà Nội

5.Nguyễn Tiến Dũng (2006), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Thành phố Hồ

Chí Minh

6.Nguyễn Thị Dịu (2009), Luận văn Thạc sĩ “Quan niệm trị xã hội của John

Locke”

7.Nguyễn Minh Đoan (2007), “Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có

sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2.

8.Phạm Văn Đức (2008), “John Locke – Nhà tư tưởng lớn của phong trào Khai

sáng”, tạp chí Triết học số 2.

9.Nguyễn Thị Thùy Giao, Những thành tựu đường lối đối ngoại của Việt Nam

sau 30 năm đổi mới đất nước, tại website

http://www.truongchinhtribentre.edu.vn/noi-dung/nhung-thanh-tuu-duong-loi-

doi-ngoai-cua-viet-nam-sau-30-nam-doi-moi-dat-nuoc-0

10.Lương Đình Hải (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ

hóa xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học, số 1

11.Hoàng Thị Hạnh (2008), Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử

triết học trước Mác, Tạp chí thông tin Khoa học Xã hội, số 11

97

12.Hiến pháp 2013, tại website: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-

hanh-chinh/Hien-phap-nam-2013-215627.aspx

13.Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và tuyên

truyền, Khoa Chính trị học (2001), Lịch sử các tư tưởng chính trị, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

14.Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Chính trị học (2004), Tập

bài giảng Chính trị học, Nxb Lý luận chính trị.

15.Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ

chức bộ máy nhà nước ở một số nước, NXB Tư pháp, Hà Nội.

16.Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh (2006), Đại cương lịch sử

triết học phương Tây, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

17.Nguyễn Tấn Hùng (2012), Lịch sử triết học phương Tây từ triết học Hy Lạp

cổ đại đến triết học cổ điển Đức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

18.Lê Tuấn Huy (2006), Triết học chính trị của Mongtesquieu với việc xây dựng

nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

19.Nguyễn Thị Thanh Huyền (2012), Quan niệm của J. Locke về quyền sở hữu

trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về chính quyền”, Tạp chí Khoa

học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, số 3

20.John Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền, Lê Tuấn Huy dịch,

Nxb Tri thức

21.Phạm Thế Lực (2006), Tư tưởng chủ quyền nhân dân trong tác phẩm "Bàn

về khế ước xã hội" củaRousseau, Khoa học xã hội, số 6

22.Phạm Thế Lực (2007), “Vấn đề tập trung và phân quyền trong tổ chức và

thực thi quyền lực nhà nước”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 7

23.C. Mác và P. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

98

24.Nguyễn Đức Minh (2018), “Một số quan niệm về pháp quyền trên thế

giới”, Nhà nước và Pháp luật, số 10

25.Nguyễn Quang Minh (2003), “Vai trò của nhân dân trong xây dựng pháp

luật”, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 42.

26.Thomas More (2007), Utopia – Địa đàng trần gian, Nxb Hội Nhà văn.

27.Bùi Ngọc Sơn (2005), Góp phần tìm nghiên cứu Hiến pháp và nhà nước

pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà nội.

28.Lê Công Sự (2009), “Locke và triết lý về con người”, tạp chí Nghiên cứu

Con người, số 3.

29.Lê Minh Tâm (2002), Về tư tưởng nhà nước pháp quyền và khái niệm nhà

nước pháp quyền, Tạp chí Luật học

30.Trần Thành (2008), Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, số 4

31.Cao Huy Thuần (2007), “Nhà nước pháp quyền”, Tia Sáng Online, tại

website http://tiasang.com.vn/-dien-dan/nha-nuoc-phap-quyen-89.

32. Nguyễn Đình Tường (2005), Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

nhà nước pháp quyền và những vấn đề đặt ra ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết

học số 11 (174)

33.Lê Tuấn Phong (2015), Quan điểm lí luận của Đảng Cộng sản VN về xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN qua 30 năm đổi mới, tại websiste

https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thong-tin-khac.aspx?ItemID=2257

34.Trần Văn Phòng (2019) , Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, tại website

http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-

chu-nghia-trong-boi-canh-phat-trien-kinh-te-thi-truong-hoi-nhap-quoc-te.html

99

35. Nguyễn Duy Quý (2005), Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam -

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản, số 95

36. Nguyễn Duy Quý (2002), “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện nước ta hiện

nay”, Tạp chí Triết học

37.Đào Trí Úc (2015), Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội

38.Nguyễn Hữu Vui,(2004), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị Quốc gia

39.Định Thị Hồng Vững (2013), luận văn Thạc sĩ “Quan niệm của John Locke

về nhà nước trong tác phẩm Khảo luận thứ hai về chính quyền”

40.Nguyễn Văn Yểu (2005), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí

Cộng sản

100