ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TRẦN TRUNG HIẾU

SÁNG KIẾN ĐỐI TÁC CHÍNH PHỦ MỞ (OGP): NỘI DUNG

VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-L

HÀ NỘI, 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TRẦN TRUNG HIẾU

SÁNG KIẾN ĐỐI TÁC CHÍNH PHỦ MỞ (OGP): NỘI DUNG

VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. NGUYỄN MINH TUẤN

HÀ NỘI, 2019

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ....................................................................... 2

3. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 3

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 3

6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 4

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH PHỦ MỞ VÀ

ĐỐI TÁC CHÍNH PHỦ MỞ (OGP) ............................................................. 5

1.1. Khái quát chung về chính phủ mở ............................................................. 5

1.2. Đối tác chính phủ mở (OGP) ..................................................................... 7

1.2.1. Khái niệm đối tác chính phủ mở ............................................................. 7

1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của đối tác chính phủ mở .................... 8

1.2.3. Các điều kiện, thủ tục để tham gia vào OGP ........................................ 10

1.2.4. Cơ cấu, cách thức hoạt động của OGP ................................................. 13

1.3. Bối cảnh chính trị, xã hội, thể chế pháp lý ở Việt Nam khi tham gia vào

Đối tác Chính phủ mở ( OGP) ........................................................................ 16

1.3.1. Bối cảnh của Việt Nam hiện nay trong mối quan hệ với OGP ............. 16

1.3.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tham gia Sáng kiến đối tác Chính phủ

mở với Việt Nam ............................................................................................. 19

1.3.3. Cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam khi tham gia Sáng kiến đối

tác chính phủ mở ( OGP) ................................................................................ 25

1.4. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về áp dụng sáng kiến đối tác

Chính phủ mở .................................................................................................. 28

1.4.1. Theo dõi Chi tiêu công và Chiến dịch Thông tin .................................. 28

1.4.2. Thúc đẩy sự tham gia của công dân trong việc thiết kế và cung cấp dịch

vụ công ............................................................................................................ 30

1.4.3. Kinh nghiệm đạt được sự đồng thuận cao ............................................ 32

1.5. Tiểu kết chương 1 ................................................................................... 33

CHƯƠNG 2: KHẢ NĂNG VẬN DỤNG SÁNG KIẾN ĐỐI TÁC CHÍNH

PHỦ MỞ TẠI VIỆT NAM ........................................................................... 35

2.1. Việt Nam trong bối cảnh OGP ................................................................. 35

2.2.1.Minh bạch tài khóa (Fiscal Transparency) ............................................. 35

2.2.2. Sự tham gia của người dân ( Citizen Engagement) .............................. 38

2.2.3. Công khai tài sản ( Public Officials Asset Disclosure) ......................... 44

2.2.4. Tiếp cận thông tin (Acess to information) ............................................ 47

2.2.5. Kiểm tra giá trị (Values check ) ............................................................ 51

2.2. Giải pháp và lộ trình hoàn thiện cho Việt Nam tham gia Sáng kiến đối tác

Chính phủ mở .................................................................................................. 55

2.2.1. Giải pháp, đề xuất cho khó khăn, thách thức ........................................ 55

2.2.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý gia tăng quyền dân sự của người dân ...... 55

2.2.1.2. Áp dụng công nghệ Blockchain và phát triển nền tảng kỹ thuật ....... 59

2.2.1.3. Thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của

Liên Hợp Quốc ( Sustainable Development Goals – SDGs) .......................... 61

2.2.1.4. Xây dựng cổng thông tin minh bạch tài chính ................................... 65

2.2.1.5. Tuyên truyền, vận động nhằm thu hút sự tham gia của cộng đồng ... 68

2.2.2. Lộ trình thực hiện kế hoạch tham gia vào OGP .................................... 69

2.3. Tiểu kết chương 2 ................................................................................... 71

KẾT LUẬN .................................................................................................... 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam đang trong tiến trình phát triển, hội nhập sâu vào nền kinh tế

toàn cầu. Bên cạnh việc mở cửa góp phần thúc đẩy đưa nền kinh tế phát triển

thì hội nhập quốc tế còn là thách thức đối với mọi nền kinh tế, thách thức này

càng khắc nghiệt hơn khi Việt Nam là một nước đang phát triển đồng thời là

nhà nước đang trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế. Vì thế các chủ thể

trong xã hội Việt Nam phải không ngừng thay đổi, chuyển biến để nâng cao

khả năng, cạnh tranh, phát triển về con người, quản trị, công nghệ. Nhu cầu

thiết yếu khi một nền kinh tế phát triển mà xã hội, thể chế pháp lý không theo

kịp đang là tình huống khó khăn đối với Việt Nam hiện nay khi mà việc đổi

mới quản trị nhà nước, thể chế từ những năm 1986 vẫn đang diễn ra nhưng lại

được đánh giá là quá chậm so với tốc độ tăng trưởng ở thời điểm hiện tại.

Vấn đề đặt ra là càng ngày quyền con người, quyền công dân càng

được đề cao, năng lực của các cá nhân trong xã hội càng ngày càng lớn mạnh

trong khi Chính phủ lại không thể hiện hết được chức năng của mình. Người

dân muốn chính phủ của đất nước biết lắng nghe và hành động, phục vụ

người dân tốt hơn, thực hiện được nhiều việc hơn và bằng các cách nhanh

chóng hơn, xóa bỏ tình trạng tham nhũng và lãng phí. Người dân cảm thấy

bức bối vì không biết được điều gì đang xảy ra bên trong, dường như không

có cách nào để những người ở bên trong nghe được ý kiến của mình. Làm sao

để thay đổi văn hóa làm việc của chính phủ để họ mở cách cửa đón nhận

những ý tưởng mới và đồng minh bên ngoài chính phủ để cùng tìm ra giải

pháp và tiếp tục tạo áp lực cùng tiến bộ.

Trong điều kiện đó, Sáng kiến đối tác Chính phủ mở( OGP) xuất hiện

như là một cơ hội cho công cuộc cải cách thể chế ở Việt Nam. OGP là một

trong những sáng kiến quốc tế nổi bật nhất hiện nay trong lĩnh vực thúc đẩy

quản trị minh bạch. Các nguyên tắc nền tảng của OGP cũng chính là những

1

định hướng phát triển chiến lược của Việt Nam, bao gồm: phòng, chống tham

nhũng, tăng cường sự tham gia của người dân, áp dụng các tiêu chuẩn cao

nhất về tính liêm chính cho hệ thống quản trị nhà nước, công khai thông tin về

các hoạt động của chính phủ và tăng cường khả năng tiếp cận với các công

nghệ hiện đại để thực hiện công khai và trách nhiệm giải trình hiệu quả.

Tất cả những điều trên cho thấy OGP là một thiết chế quốc tế rất gần

gũi, cần thiết và có tính hiện thực rõ ràng với Việt Nam. Trong bối cảnh Việt

Nam đã và đang hội nhập quốc tế rất nhanh chóng, sâu rộng, cũng như quyết

tâm chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân đang rất cao, chúng

ta có thể hy vọng trong thời gian không xa, Việt Nam sẽ trở thành thành viên

của OGP. Đó chính là lý do để thôi thúc em lựa chọn đề tài “ SÁNG KIẾN

ĐỐI TÁC CHÍNH PHỦ MỞ (OGP): NỘI DUNG VÀ KHẢ NĂNG VẬN

DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY “ để tìm hiểu làm rõ hơn về OGP và khả

năng tham gia của Việt Nam vào OGP như một cơ hội mang tới hướng đi mới

thúc đẩy quản trị nhà nước hiệu quả, cải cách thể chế nhà nước. Từ đó, nghiên

cứu đề xuất những giải pháp, lộ trình cho Việt Nam đủ điều kiện tham gia vào

Sáng kiến đối tác chính phủ mở trong thời gian tới.

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Nghiên cứu được thực hiện nhằm hướng đến những ý nghĩa khoa học

và thực tiễn sau đây:

Về ý nghĩa khoa học:

- Là một nghiên cứu mới có tính mới về một trong những vấn đề đang được

quan tâm hiện nay, đi vào tổng hợp và phân tích những vấn đề lý luận về

Sáng kiến đối tác Chính phủ mở, tìm hiểu về những quy định pháp lý quốc tế

đấu tranh về nạn cướp biển.

- Nghiên cứu mang giá trị tham khảo khi muốn tìm hiểu về Sáng kiến đối tác

Chính phủ mở, tạo tài liệu tổng hợp cho những bài nghiên cứu tiếp về đề tài này.

- Nghiên cứu mang tính định hướng, tham khảo khi mạnh dạn đề xuất một số

kiến nghị về các nâng cao khả năng tham gia vào Sáng kiến đối tác Chính phủ

2

mở cho Việt Nam.

Về giá trị thực tiễn:

- Là một bản tổng hợp lý luận, số liệu về Sáng kiến đối tác Chính phủ mở,

những tiêu chuẩn để gia nhập và bối cảnh Việt Nam.

- Là một nghiên cứu mang tính tham khảo cho việc đưa ra những giải pháp

nhằm gia tăng khả năng tham gia vào Sáng kiến đối tác Chính phủ mở cho

Việt Nam.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Em nghiên cứu đề tài này với mục đích tìm hiểu quá trình hình thành

và phát triển của Sáng kiến đối tác chính phủ mở (OGP), phân tích khả năng

của sáng kiến đối tác chính phủ mở song song với việc đề cập thực trạng, thực

tiễn tình hình xã hội, chính trị, thể chế pháp lý liên quan với các tiêu chí của

OGP tại Việt Nam, từ đó rút ra được bài học kinh nghiệm để đề xuất phương

hướng, giải pháp đồng thời nghiên cứu một vài lộ trình khả thi cho việc Việt

Nam có thể tham gia vào sáng kiến quốc tế đối tác Chính phủ mở.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Khóa luận sẽ tập trung làm rõ những vấn đề về Sáng kiến đối tác chính

phủ mở. Phân tích các đặc điểm, tiêu chí tham gia vào Sáng kiến đối tác

Chính phủ mở, thông qua việc phân tích đó làm rõ khả năng cũng như trình

bày ra những vấn đề, đánh giá thực trạng về các lĩnh vực chính trị, xã hội, thể

chế pháp lý,.. để chỉ ra những hạn chế còn tồn đọng, từ đó đề xuất hướng

nhằm thay đổi, hoàn thiện để Việt Nam có hi vọng tham gia vào OGP.

Phạm vi khóa luận chủ yếu tập trung vào khả năng Việt Nam đủ tiêu

chuẩn tham gia vào OGP; các phương hướng, lộ trình trong tương lai để giúp

Việt Nam hiện thức hóa việc phù hợp với các tiêu chuẩn mà OGP yêu cầu.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được mục đích nêu trên,

người viết có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:

- Phương pháp tổng hợp thông tin từ sách, báo, trang thông tin điện tử làm tài

3

liệu nghiên cứu cho đề tài.

- Phương pháp tổng hợp, liệt kê, phân tích các tình huống, số liệu nhằm đưa ra

đánh giá về cơ sở cho việc tham gia OGP của Việt.

- Phương pháp phân tích nhằm đưa ra những giải pháp, lộ trình hướng hoàn

thiện cho Việt Nam có cơ sở tham gia OGP.

6. Bố cục của khóa luận

Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa

luận bao gồm 02 chương được bố cục như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính phủ mở và đối tác chính phủ mở

(OGP)

Chương 2: Khả năng vận dụng Sáng kiến đối tác Chính phủ mở tại Việt Nam

Đề tài “ SÁNG KIẾN ĐỐI TÁC CHÍNH PHỦ MỞ (OGP): NỘI

DUNG VÀ KHẢ NĂNG VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY “ là một

vấn đề mới mẻ, nó đòi hỏi người nghiên cứu đề tài cần tìm hiểu và có kiến

thức về lý luận, thực tiễn đối với bối cảnh Việt Nam hiện nay nhằm đưa ra

được đánh giá chính xác về thực trạng, ưu điểm cũng như khó khăn của Việt

Nam với mong muốn gia nhập OGP. Ngoài ra, nó còn đòi hỏi người viết phải

nắm bắt được vấn đề cốt lõi, những tồn tại, vướng mắc còn tồn động để đưa ra

được phương hướng, đề xuất cũng như lộ trình khả thi cho những đề xuất đó

để hoàn thiện các tiêu chí phù hợp với OGP. Là sinh viên và đang làm quen

với một đề tài nghiên cứu khoa học mà vốn kiến thức hiểu biết còn giới hạn

cũng như thời gian tìm hiểu, nghiên cứu còn hạn chế. Vì vậy, trong quá trình

nghiên cứu đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết. Người

viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến, đánh giá, phê bình của quý thầy cô,

khoa, nhà trường để hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp.

4

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH

PHỦ MỞ VÀ ĐỐI TÁC CHÍNH PHỦ MỞ (OGP)

1.1. Khái quát chung về chính phủ mở

Quốc gia đầu tiên nêu về tính mở của chính phủ là Thụy Điển ( Luật tự

do báo chí 1766) và Phần Lan ( Luật mở các Tài liệu Nhà nước năm 1951)

trước nhiều năm so với Luật tự do thông tin của nước Mỹ năm 1966. Các

Luật này có tác dụng như là nền tảng để các quốc gia Châu Âu thông qua các

luật tương tự vào những năm 1970 ( Pháp và Hà Lan vào năm 1978, Úc,

Canada và New Zealand vào năm 1982, Hungary vào năm 1992, Ireland và

Thailand vào năm 1997, Hàn QUốc năm 1998, Vương quốc Anh năm 2000,

Nhật và Mexico năm 2002, Ấn Độ và Đức năm 2005)

Ngày 21/01/2009, Chính quyền của cựu Tổng thống Barack Obama đã

ban hành bản ghi nhớ điều hành đầu tiên mang tên “ Minh bạch và Chính phủ

mở” trong đó ông đưa ra 3 nguyên tắc chỉ dẫn để tiến hành các hoạt động của

chính phủ:

1. Chính phủ nên minh bạch

2. Chính phủ nên có sự tham gia

3. Chính phủ nên cộng tác

Ngày 08/12/2009, Văn phòng Quản lý và Ngân sách ( Office of

Management and Budget – OMB) đã công bố “ Chỉ thị Chính phủ mở” (

Open Government Directive) đã chỉ thị cho các cơ quan liên bang Mỹ hành

động dựa trên 3 nguyên tắc trên.

Từ đó, các định nghĩa Chính phủ mở vẫn đang được mở rộng, tiến hóa dù đều

dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản với những cách lý giải, biến thể khác nhau.

Ở Liên minh châu Âu, họ tiếp cận Chính phủ mở ở hai điểm là Chính

phủ mở và hiện đại hóa khu vực nhà nước nhờ sự hỗ trợ của Công nghệ thông

tin. Họ cho rằng đây là cách tốt nhất cho hành chính công khi phải đối mặt

với những thách thức đang nổi lên đặc biệt như sức ép ngân sách sau những

5

cuộc khủng hoảng kin htế và sự thiếu lòng tin của người dân vào hành chính

nhà nước.

Tháng 12/2017, OECD trong tài liệu của mình “ Khuyến cáo của Hội

đồng về Chính phủ mở” ( Recommendation of the Council on Open

Gorvenment) đã đưa ra định nghĩa về Chính phủ mở:

“Chính phủ mở là văn hóa điều hành để thúc đẩy các nguyên tắc minh

bạch, liêm chính, trách nhiệm giải trình và sự tham gia của nhiều bên để hỗ

trợ cho dân chủ và tăng trưởng bao hàm toàn diện.”

Định nghĩa cho thấy được nguyên tắc liêm chính và trách nhiệm giải

trình được nhấn mạnh và mục tiêu của nó là để ủng hộ dân chủ và tăng trưởng

toàn diện.

Rõ ràng Chính phủ mở không phải là khái niệm mới mà nó đã được đề

cập tới từ Thời kỳ khai sáng ở Châu Âu. Tuy nhiên, nếu trước đây chính phủ

mở mang nội hàm truyền thống chỉ là đề cập tới khía cạnh công khai trong

hoạt động của bộ máy chính phủ thì giờ đây thuật ngữ này đã mở rộng ra hơn

nhiều ngoài việc “ tiếp cận thông tin” đó là còn sự chia sẻ thông tin, tính cởi

mở, sự tham gia của các chủ thể khác trong quá trình xây dựng và phát triển

chính sách xã hội.

Tựu chung lại, có thể thấy rằng, đặc điểm chính của Chính phủ mở bao

gồm:

- Tính minh bạch: Công chúng biết là hiểu được các hoạt động của Chính

phủ. Đặc điểm này đồng nghĩa với việc các thông tin liên quan đến hoạt động

và các quyết định của chính phủ ban hành cần được cung cấp cho công chúng

một cách công khai, đầy đủ, thuận lợi, đúng thời gian và miễn phí.

- Sự tham gia của người dân: Chính phủ khuyến khích và có thể có các cơ chế

cụ thể nhằm thu hút sự tham gia của người dân vào quá trình hoạt động, quyết

định chính sách của mình để họ có thể đóng góp tiếng nói giúp củng cố xây

dựng chính quyền vững mạnh, đáp ứng được các nhu cầu của người dân.

Những phản ánh của người dân sẽ đem lại tác động tích cực đến một số hoạt

6

động của chính phủ thông qua việc tạo điều kiện để người dân tham gia vào

quá trình xây dựng và thực thi các chính sách, chương trình như y tế, giáo

dục, pháp luật,.. là những lĩnh vực mà luôn có sự liên quan mật thiết, ảnh

hưởng trực tiếp tới người dân.

- Trách nhiệm giải trình: Chính phủ có trách nhiệm cung cấp kết quả thực

hiện các hoạt động của mình cho công chúng và công chúng cũng có quyền

yêu cầu chính phủ giải trình cho mình. Sẽ có những cơ chế để cơ quan công

quyền thực hiện điều này để tiếp thu các phản ánh, ý kiến hoặc những yêu cầu

khác của người dân, đồng thời dám nhận trách nhiệm về việc thực thi các hoạt

động chính sách hay quyết định của chính quyền.

- Công nghệ thông tin: Chính phủ coi trọng việc cung cấp thông tin cho người

dân thông qua việc tiếp cận có sự hỗ trợ của các phương tiện công nghệ thông

tin tiến tiến, hiện đại.

1.2. Đối tác chính phủ mở (OGP)

1.2.1. Khái niệm đối tác chính phủ mở

OGP ( Open Gorvenment Partnership) là một sáng kiến quốc tế nổi bật

nhất trong thời gian gần đây nhằm tăng cường tính minh bạch của chính phủ,

thay đổi văn hóa hoạt động của chính phủ. Chính phủ giờ đây không còn là

cánh cửa đóng, những thông tin, hoạt động không phải chỉ là riêng của chính

phủ nữa trong khi ở bên ngoài, người dân cảm thấy bức bối vì không biết

được điều gì đang xảy ra bên trong bốn bức tường kia. Dường như không có

cách nào để những người ở bên trong nghe được ý kiến của công chúng mà

Chính phủ hoàn toàn mở cửa để người dân hiểu biết hơn về hoạt động của

chính phủ. Chỉ khi như vậy có sự tiếp xúc đối thoại giữa bên trong và ngoài

của “ bức tường” thì những mâu thuẫn, xung đột trong xã hội mới có thể được

giải quyết.

OGP không phải là tổ chức quốc tế hay điều ước quốc tế đa phương mà

nó giống như một mạng lưới cho phép các thành viên trong đó có cách thức

tiếp cận mới trong việc cải cách bộ máy nhà nước theo mô hình Chính phủ

7

mở đó chính là quan hệ đối tác ngang bằng giữa chính phủ và tổ chức xã hội,

có cơ chế báo cáo, tự báo cáo độc lập. Hơn hết, là cơ hội để làm việc với

nhiều nhóm đa dạng, không chỉ là các nước có thành tích tốt nhất, có thể trao

đổi học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để cùng xây dựng những kế hoạch hành

động quốc gia vì mục tiêu phát triển.

OGP hoạt động dựa trên các nguyên tắc cơ bản đó là:

- Sự hợp tác gắn kết giữa chính phủ và xã hội dân sự: nó đòi sự kết hợp cùng

làm việc giữa chính phủ và tổ chức xã hội trong suốt quá trình OGP, đó là

xuyên suốt quá trình từ công việc xây dựng kế hoạch hành động đến triển

khai, đo lường, đánh giá kết quả làm việc đó. Chính phủ và tổ chức xã hội có

tiếng nói ngang nhau trong quá trình hoạt động đó.

- Gia tăng tính sẵn có của thông tin các hoạt động của chính phủ : Giúp người

dân tiếp cận được thông tin trước hết là việc tăng cường cung cấp thông tin

tới công chúng về hoạt động của chính phủ. Tiếp theo đó là tăng cường khả

năng tiếp cận với các công nghệ hiện đại nhằm nâng cao được tính công khai

và trách nhiệm giải trình của bộ máy nhà nước.

- Thúc đẩy, hỗ trợ sự tham gia của người dân vào hoạt động quản lý nhà

nước: Sự tham gia của người dân thể hiện ở 3 cấp độ, trước hết người dân

được tham vấn hơn đó là gắn kết trong các hoạt động quản lý và đến cấp cuối

cùng người dân được trao quyền để thực hiện một số nhiệm vụ của chính phủ.

- Thực thi các tiêu chuẩn cao nhất về tính liêm chính trong hoạt động chuyên

môn của các cơ quan chính phủ

Mục đích của OGP là hỗ trợ các chính phủ đảm bảo các cam kết cụ thể

nhằm thúc đẩy các chính phủ đưa ra những cam kết cụ thể nhằm thúc đẩy

minh bạch, trao quyền cho công dân, đấu tranh phòng chống tham nhũng và

phát huy công nghệ thông tin hiện đại nhằm cải thiện hoạt động của nhà nước.

1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của đối tác chính phủ mở

Để hiện thực hóa các mục tiêu đã đặt ra, OGP đã tạo ra một mạng lưới,

diễn đàn quốc tế và quốc gia nhằm tăng cường trao đổi, đối thoại, chia sẻ ý

tưởng cũng như kinh nghiệm giữa chính phủ, tổ chức xã hội.

8

Từ tháng 9 năm 2011, sáng kiến chính thức trở thành hiện thực sau khi

8 nhà lãnh đạo quốc gia gồm Anh, Mỹ, Brazil, Indonesia, Mexico, Na uy,

Philipines và Nam Phi và 9 nhà lãnh đạo của các tổ chức xã hội lớn của các

quốc gia này thông qua bản Tuyên bố chung về chính phủ mở. Như một xu

hướng của thời đại, sức lan tỏa của sáng kiến ngày càng mạnh mẽ, Chỉ sáu

tháng sau khi bắt đầu, OGP đã phát triển từ tám kế hoạch hành động và 46

quốc gia tham gia lên 50 kế hoạch hành động và 54 quốc gia tham gia Cuộc

họp tại Brasilia đã tập hợp các quốc gia và tổ chức thống nhất niềm tin vào

sức mạnh của sự minh bạch, với sự tham gia của các nhà vận động chống

kiểm duyệt ở Yemen đến các nhà cải cách sử dụng dữ liệu về các trường tiểu

học để cải thiện giáo dục ở Ấn Độ.

Trong năm 2013, các mục tiêu theo chủ đề của OGP tập trung vào

Hành động của Công dân và Chính phủ đáp ứng. Trong thời đại siêu kết nối,

sự cởi mở và minh bạch, cũng như sự tham gia và hợp tác của công dân, ngày

càng được xem là thành phần thiết yếu của quản trị tốt.

Với việc thông qua và thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát

triển bền vững của các nhà lãnh đạo thế giới tại Hội nghị thượng đỉnh Liên

hợp quốc lịch sử, bao gồm các mục tiêu phát triển bền vững (SDG) 16 cho

"thúc đẩy xã hội hòa bình và hòa nhập", năm 2015 đã đánh dấu một mốc quan

trọng cho tương lai phát triển kết quả và chính phủ mở. Đầu năm 2016, OGP

đã đưa ra một chương trình thí điểm mới được thiết kế để thu hút các chính

phủ địa phương chủ động hơn trong sáng kiến này. Cuối tháng 12 năm 2016,

Chính phủ Pháp, hợp tác với Viện Tài nguyên Thế giới (WRI), đã tổ chức Hội

nghị thượng đỉnh toàn cầu OGP lần thứ tư tại thủ đô Paris của quốc gia, quy

tụ 3000 đại diện từ 70 quốc gia. Tính đến nay chỉ hơn 8 năm, OGP đã tạo nên

một mạng lưới toàn cầu với sự tham gia của hơn 79 quốc gia là thành viên và

hơn 20 chính quyền cấp địa phương trên toàn thế giới cùng với đó đã thực

hiện được hơn 3.100 cam kết. Nhiều quốc gia ở Châu Á đã nhận thấy tầm

quan trọng của OGP và thể hiện được sự quan tâm đặc biệt của mình như Hàn

9

Quốc, Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Papua New Guinea.

Điểm sáng của sáng kiến này chính là OGP không phải nơi mà một quốc

gia giàu áp đặt, định hướng cho các quốc gia khác mà nó là một cơ hội cho các

Chính phủ, các quốc gia có thể thực hiện, tổ chức diễn đạt theo phương thức “

win – win” cùng có lợi, không phải các quốc gia phồn thịnh về kinh tế nói với

các nước kém phát triển hơn rằng họ cần phải làm gì để cải tổ. Ngược lại, tùy

điều kiện hoàn cảnh và mục đích riêng, mỗi quốc gia tham gia và sử dụng OGP

như một công cụ để đạt được mục đích riêng của mình.; Nó có sự đồng thuận

cao giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển bởi vì ở OGP không có

hướng tới cạnh tranh lợi ích, đấu tranh kinh tế, chính trị mà mục tiêu nó bằng

cách thức đặt ra những cam kết cụ thể cho từng quốc gia, tổ chức để họ hướng

tới; Nó là sự chia sẻ tầm nhìn giữa chính quyền và các tổ chức xã hội, hay nói

một cách rộng hơn là giữa chính quyền với người dân.

1.2.3. Các điều kiện, thủ tục để tham gia vào OGP

OGP là một cơ chế ngoại giao quốc tế mang tính mở, có nghĩa là việc

tham gia OGP hoàn toàn là tự nguyện nếu có sự quan tâm với điều kiện đó là

cam kết phát huy các nguyên tắc của Chính phủ mở bằng cách thông qua thực

hiện Tuyên bố về Chính phủ mở ( Open Government Declaration) và đạt

được tối thiểu 75% của tổng số 16 điểm theo 4 tiêu chí hợp lệ tối thiểu (

minimun eligibility criteria) mà OGP đề ra, bao gồm:

- Minh bạch ngân sách ( Fiscal Transparency): Tiêu chuẩn này đòi hỏi

quốc gia phải công khai tài liệu chủ yếu là dự toán ngân sách của chính phủ (

Executive’s Budget Proposal) và Báo cáo kiểm toán của nhà nước ( Audit

Report). Đối với mỗi tài liệu công bố sẽ được tính 2 điểm với mục đích tăng

cường trách nhiệm giải trình của nhà nước trong việc quản lý ngân sách.

- Tiếp cận thông tin ( Access to Information) : Tiêu chuẩn này đòi hỏi

quốc gia phải ghi nhận quyền tự do/ quyền tiếp cận thông tin trong pháp luật.

Mục đích là để đảm bảo quyền công chúng được thông tin và được tiếp cận

với những tài liệu do nhà nước nắm giữ. Theo cách tính của OGP, nếu quốc

10

gia có đạo luật riêng về vấn đề này thì sẽ được tính cả 4 điểm; trong trường

hợp chưa có luật này nưng có một điều khoản trong hiến pháp quy địn quyền

tiếp cận thông tin được tính 3 điểm.

- Công khai tài sản ( Public Offcials Asset Disclosure): Tiêu chuẩn này

đòi hỏi quốc gia phải có quy định pháp luật về công khai tài sản và thu nhập

của quan chức nhà nước, đặc biệt là các quan chức dân cử và quan chức cao

cấp. Mục đích để giám sát, phát hiện hành vi tham nhũng của các quan chức

nhà nước. Nếu quốc gia có văn bản pháp luật yêu cầu công khai tài sản và thu

nhập của quân chức nhà nước sẽ nhận được cả 4 điểm; nếu pháp luật chỉ yêu

cầu kê khai nhưng chưa công khai rộng rãi thì chỉ được 2 điểm và 0 điểm nếu

không có pháp luật liên quan tới công khai tài sản.

- Sự tham gia của người dân ( Citizen Engagement): Tiêu chuẩn này đòi

hỏi quốc gia phải có cơ chế pháp lý bảo đảm người dân được tham gia vào hoạt

động xây dựng chính sách và quản lý nhà nước. Mục đích là tăng cường tín dân

chủ trong quản lý nhà nước dựa trên bộ chỉ số về dân chủ của EIU ( EIU

Democracy Index), theo đó quốc gia nào đạt mức từ 7,5/10 điểm về tự do dân sự

sẽ được 4 điểm; quốc gia nào đạt mức từ 5,2/10 được 3 điểm; quốc gia nào đạt

mức 2,5/10 được 2 điểm, còn quốc gia nào được dưới mức 2,5 được 0 điểm.

Ngoài 4 tiêu chuẩn cơ bản, OGP còn đề ra một tiêu chí phụ là kiểm tra

giá trị ( Values check Assessment) do Ban chỉ đạo OGP phê duyệt vào tháng

9 năm 2017. Kể từ thời điểm đó, bất kì một quốc gia nào có mong muốn tham

gia vào OGP thì cần phải đạt tối thiểu 75% số điểm từ 4 tiêu chuẩn cốt lõi

trước đó và đồng thời phải vượt qua được bài kiểm tra giá trị trước khi được

phê duyệt tham gia OGP. Đây được coi là nỗ lực nhằm bảo đảm những quốc

gia tham gia vào OGP sẽ tuân thủ về vấn đề quản trị dân chủ và những vấn đề

được đặt ra ở Tuyên bố Chính phủ mở.

11

Kiểm tra giá trị ( Values check assessment ):

Thứ nhất, tiêu chí này sẽ đánh giá các điều kiện cho việc hình thành và

đăng ký của các tổ chức xã hội dân sự ( Civil Society Organizations) trên các

cấp độ tương ứng với số điểm:

4. Không ràng buộc ( Unconstrained): Cho dù Chính phủ có cấp phép

cho các tổ chức xã hội hoạt động hay không thì Chính phủ cũng không được

cản trở sự hình thành và hoạt động của họ trừ khi các tổ chức này tham gia

vào các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền.

3. Kiểm soát tối thiểu ( Minimal control): Cho dù Chính phủ có cấp

phép cho các tổ chức xã hội hay không thì vẫn có thể tồn tại các điều khoản

Hiến định cho phép Chính phủ cấm các tổ chức hoặc phong trào mà đã từng

có hành động chống dân chủ trong quá khứ.

2.Kiểm soát tương đối ( Moderate control): Việc kiểm soát thể hiện cho

dù Chính phủ cấm việc tự do của các tổ chức xã hội dù là một phần hay toàn

bộ nhưng vẫn có những tổ chức bị cấm đóng vai trò tích cực trong lĩnh vực

chính trị thì Chính phủ không hay không thể đàn áp họ bởi sự yếu kém của

mình hay liên quan đến kinh nghiệm hoạt động chính trị.

1.Kiểm soát đáng kể ( Sustaintial control ): Việc kiểm soát này thể hiện

ở Chính phủ cho phép các tổ chức xã hội hoạt động nhưng sử dụng các biện

pháp chính trị nhằm giới hạn các tổ chức mà có xu hướng đối kháng lại chính

phủ. Chính phủ tích cực đàn áp những người, tổ chức mà cố gắng thoát ra

khỏi những tiêu chí do chính phủ đặt ra và sẽ cấm đoán họ tham gia vào bất

kỳ hoạt động chính trị nào.

0. Kiểm soát độc quyền ( Monopolistic control): Việc kiểm soát này thể

hiện Chính phủ sẽ độc quyền rõ ràng với các tổ chức xã hội. Chỉ có đơn lẻ các

tổ chức được tham gia vào các hoạt động chính trị nếu như họ thuộc về các

đảng phái hay chính trị gia, tài trợ cho các diễn đàn về vấn đề công cộng, tổ

chức các cuộc biểu tình, tham gia đình công, bình luận công khai về quan

chức hay chính sách công mà Chính phủ sẽ đàn áp mạnh mẽ những tổ chức

như vậy.

12

Thứ hai, tiêu chí này sẽ đánh giá về độ mở cho việc hoạt động của các

tổ chức xã hội ở một quốc gia. Nếu các tổ chức xã hội tại quốc gia đó được tự

do tổ chức, liên kết, thể hiện bản thân, phê bình, đình cộng thì đạt tối đa 4

điểm. Nếu Chính phủ tại quốc gia có sử dụng các biện pháp trừng phạt vật

chất ( phạt tiền, sa thải, từ chối các dịch vụ xã hội) để ngăn chặn các tổ chức

xã hội có hành động đối ngịch hoặc thể hiện bản thân hoặc sử dụng các thủ

tục đăng ký, thành lập phức tạp làm chậm trễ quá trình hình thành và ngăn

cản họ tham gia thì đạt được 3 điểm. Ngoài những biện pháp trừng phạt vật

chất, chính phủ nếu tham gia vào hành vi quấy rối nhỏ về phương diện pháp

lý như giam giữ, tống giam ngắn hạn để can thiệp tổ chức xã hội hành động

hay hạn chế việc các tổ chức xã hội liên kết với nhau thì sẽ chỉ đạt được 2

điểm. Sẽ được 1 điểm nếu như thêm vào đó, Chính phủ thể hiện ra rằng Chính

phủ cũng bắt giữ, xét xử và bỏ tù các nhà lãnh đạo và những người tham gia

vào các tổ chức xã hội đối nghịch với mình nhưng có hành vi hợp pháp, các

biện pháp trừng phạt bao gồm giải tán tụ họp công cộng hay de dọa gia đình,

phá hủy tài sản có giá trị. Và sẽ không đạt được điểm nào nếu Chính phủ quốc

gia đó không chỉ ngăn chặn hoạt động của các nhóm mà có xu hướng thanh lý

họ theo cách bạo lực.

Quốc qia được coi là thành viên của OGP khi đã thỏa mãn được các

điều kiện hợp lý đồng thời gửi ý nguyện thư xin gia nhập và tiến hành xây

dựng kế hoạch hành động quốc gia ( National Action Plan) của nước mình.

Việc được công nhận là thành viên sẽ được thể hiện ở việc được nêu tên trên

trang web chính thức của OGP.

1.2.4. Cơ cấu, cách thức hoạt động của OGP

1.2.4.1. Cơ cấu của OGP

Cấu trúc OGP ở cấp độ toàn cầu bao gồm:

- Ban chỉ đạo ( Ủy ban thường trực quốc tế ) gồm đại diện của 11 chính phủ

và 11 tổ chức xã hội lớn. Các thành viên trong Ban chỉ đạo được lựa chọn

theo cách thức bầu ra trong các kỳ hội nghị OGP.

13

- Bộ phận hỗ trợ OGP ( OGP support unit) đóng vai trò là văn phòng thường

trực của OGP. Ngoài việc cung cấp dịch vụ hành chính, bộ phận hỗ trợ có

chức năng liên lạc, phối hợp và tổ chức các bên liên quan để thực hiện các

quyết sách nhằm thúc đẩy các mục tiêu của OGP bao gồm:

a.Đóng vai trò là bên thứ ba trung lập giữa các chính phủ và tổ chức xã hội

dân sự;

b.Hỗ trợ chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự ở các quốc gia thành viên;

c.Hỗ trợ kết nối với các dối tác quốc tế, các nhóm đồng đẳng, các nhóm công

tác OGP;

d.Thúc đẩy hoạt động trao đổi học hỏi lẫn nhau.

- Cơ chế báo cáo độc lập đánh giá các chính phủ về kết quả xây dựng và thực

hiện các kế hoạch hành động OGP và sự hỗ trợ của các nhà nghiên cứu quốc

gia

- Các đối tác của OGP: Các đối tác theo chuyên đề từ các tổ chức xã hội dân

sự/ chuyên gia trao đổi và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau

1.2.4.2. Cơ chế hoạt động của OGP

OGP yêu cầu các quốc gia thành viên tham gia hai hình thức báo cáo và

đánh giá để bảo đảm việc thực thi các cam kết về Chính phủ mở. Thứ nhất là

Báo cáo tự đánh giá hàng năm ( Annual Self – Assessment Report) trong đó

chỉ ra thực trạng và những tiến bộ trong việc thực thi các cam kết của chính

phủ mở. Thứ hai là quy trình đánh giá theo cơ chế báo cáo độc lập (

Independent Reporting Mechanism – IRM), để đánh giá tình trạng xây dựng

và thực thi các kế hoạch hành động, những tiến bộ trong việc thực hiện

nguyên tắc Chính phủ mở ở mỗi quốc gia. Ngoài ra, các quốc gia thàn viên

OGP cũng có nghĩa vụ đóng góp vào sự tiến triển của Chính phủ mở ở các

quốc gia thành viên khác thông qua hoạt động chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng,

trợ giúp kỹ thuật, công nghệ cũng như các nguồn lực cần thiết khác.

Một chu trình hoạt động OGP sẽ diễn ra trong vòng 2 năm theo các

bước :

14

- Cùng với việc nộp ý nguyện thư lên OGP thì quốc gia đó sẽ phát triển kế

hoạch hành động quốc gia cùng với các tổ chức xã hội dân sự. Các kế hoạch

hành động quốc gia tập trung ưu tiên về chính phủ mở với những cải cách đầy

tham vọng thường là sẽ liên quan đến giá trị về minh bạch, trách nhiệm giải

trình, sự tham gia của người dân và những kế hoạch đó phải chứa đựng những

cam kết cụ thể, có thời hạn rõ ràng cũng như là có thể theo dõi, đánh giá

được.

- Bước tiếp theo trong chu trình này, đó là các quốc gia sẽ triển khai các hành

động nhằm thực hiện các cam kết hướng tới đạt được mục tiêu của Kế hoạch

hành động quốc gia. Trong chu trình 2 năm, chính phủ sẽ phải thực hiện việc

báo cáo tự đánh giá hàng năm với sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội dân sự.

Báo cáo năm thứ nhất (First year Self – assessment) thường sẽ tập trung vào

tiến độ phát triển của kế hoạch hành động quốc gia, quá trình thực hiện tham

vấn, mức độ tham vọng thực hiện cam kết. Báo cáo năm thứ hai ( đánh giá

cuối kỳ) sẽ tập trung vào kết quả cuối cùng đạt được của việc triển khai kế

hoạch hành động quốc gia và bài học kinh nghiệm. Các báo cáo này sẽ là yếu

tố quan trọng cho bước tiếp theo là thực hiện cơ chế báo cáo độc lập. Cơ chế

báo cáo độc lập ( IRM) là một phương tiện mà tất cả các bên liên quan trong

OGP có thể theo dõi tiến trình thực hiện kế hoạch ở các nước thực hiện báo

cáo. Báo cáo tiến độ ( Assess progress) sẽ đánh giá các chính phủ về việc phát

triển và thực hiện các kế hoạch hành động OGP, tiến độ thực hiện các nguyên

tắc của chính phủ mở và đưa ra các khuyến nghị để cải thiện. Và đến cuối kì

sẽ tiếp tục thực hiện báo cáo năm hai, báo cáo IRM cuối kỳ song song với

việc chuẩn bị phát triển kế hoạch hành động tiếp theo.

15

Hình 1: Chu trình OGP

1.3. Bối cảnh chính trị, xã hội, thể chế pháp lý ở Việt Nam khi tham gia

vào Đối tác Chính phủ mở ( OGP)

1.3.1. Bối cảnh của Việt Nam hiện nay trong mối quan hệ với OGP

Việt Nam chưa tham gia vào OGP, lần đánh giá gần nhất tại thời điểm

tháng 11 năm 2017, chúng ta đạt 8/12 số điểm tối thiểu cần thiết.

Tiêu chí Điểm tối đa Việt Nam

Minh bạch tài khóa 4 0

Tiếp cận thông tin 4 4

Công khai tài sản 4 2

Sự tham gia của người dân 4 2

Tổng điểm 16 8

Việt Nam đang trong bối cảnh thể hiện sự quyết tâm cao và nỗ lực

mạnh mẽ trong cải cách thể chế để xây dựng nền quản trị nhà nước và phòng,

chống tham nhũng, hướng tới minh bạch và xây dựng chính phủ liêm khiết,

hành động, kiến tạo và phát triển.

Về chính trị, Việt nam trong quá trình hoàn thiện và xây dựng nhà nước

16

pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ xã hội chủ đã và đang hoàn

thiện cơ sở chính trị - pháp lý để tăng cường và mở rộng dân chủ trong nhà

nước; thể chế và thiết chế nhà nước tiếp tục được cải thiện. Trong đó như việc

ban hành pháp lệnh thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã phường năm 2007

cùng với các cẩm nang về thực hiện dân chủ ở cơ sở; Luật trưng cầu dân ý

năm 2015; Luật tiếp cận thông tin năm 2016..

Thực tế trong những năm qua, Chính phủ Việt nam đã xây dựng các

kênh để tạo sự đối thoại với người dân và doanh nghiệp, đảm bảo công khai,

minh bạch. Vừa qua, Việt Nam đã cắt giảm, loại bỏ trên 5.000 thủ tục hành

chín và cắt giảm nhiều thủ tục có thể coi là giấy phép con, là rào cản cho tăng

trưởng. Mới đây nhất nhằm hướng tới mục tiêu cải cách năm 2020, bộ máy

hành chính đã thực hiện việc nhất thể hóa, tinh chỉnh gộp nhiều cơ quan ban

ngành nhằm giảm bớt độ cồng kềnh, lãng phí nguồn nhân lực, chi phí. Chính

phủ Việt Nam luôn sẵn sàng để công khai, minh bạch những gì có thể công

khai theo quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Về xã hội, đời sống người dân ngày một đảm bảo và nâng lên cả về đời

sống vật chất và tin thần; ý thức chín trị và ý thức pháp luật của người dân

ngày một cải thiện tích cực; truyền thống ngày một phát triển mạn mẽ và phát

huy tốt vai trò của mình trong xã hội; tinh thần dân tộc đang lên cao trong

công cuộc phòng chống tham nhũng thể hiện rõ ở sự quan tâm sát sao của

cộng đồng, báo chí về những bê bối tham nhũng trong thời gian vừa qua.

Trước những yêu cầu phát triển đất nước và hiện đại hóa nền hành

chính, Việt Nam đã từng bước xây dựng chính phủ điện tử. Với sự chỉ đạo

quyết liệt, xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam đã đạt được những kết quả

quan trọng, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành

chính được triển khai. Nổi bật như hệ thống xác thực hồ sơ điện tư của công

dân, cán bộ, công chức trong việc thực hiện các giao dịch hành chính. Mặc dù

có những chuyển biến nhất định trong thời gian qua, nhưng về chất lượng ứng

dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của co quan hành chính còn hạn

17

chế. Thực tế, theo báo cáo thế giới về chỉ số phát triển chính phủ điện tử, từ

năm 2010 đến 2018 chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam dao

động từ 0.44.54(2010) - 0.5931(2018) ( năm 2012: 0.5217; năm 2014: 0.4705;

năm 2016: 0.5143) không chệnh quá nhiều so với mức trung bình của thế giới

(0.5491) và ở khu vực (0.5779).

Bên cạnh đó, Việt nam đang phải đối mặt với những rào cản nhất định

về mặt thể chế pháp lý. Nhiều đạo luật được ban hành trong những năm qua

nhưng chất lượng và khả năng thực thi chúng còn yếu, “ tuổi thọ” của những

văn bản pháp luật ở nước ta quá ngắn, thời gian phải sửa đổi, bổ sung từ thời

điểm ban hành quá ngắn như thế luật còn chưa được áp dụng ổn định đã phải

thay thế. Đối với tình hình này, theo chỉ số chất lượng xây dựng Luật pháp

của Việt Nam của World Bank, điểm số của Việt Nam chưa từng vượt được

ngưỡng trung bình về mức độ tin cậy và đang có xu hướng xuống kể từ năm

2007”.

Xếp hạng Chỉ số Công khai ngân sách (OBI) Việt Nam năm 2017 chỉ

đạt 15/100 và thuộc vào nhóm Ít công khai nhất (0-20/100 điểm). Số điểm

này giảm nhẹ so với kết quả năm 2015, và tiếp tục xu hướng giảm sau giai

đoạn (2006-2012) liên tiếp tăng điểm. Về sự tham gia của công chúng trong

quy trình ngân sách liên quan đến các cơ quan hành pháp, Việt Nam chỉ đạt

7/100 điểm, giảm mạnh so với năm 2015 (42/100 điểm). Phía IBP cho rằng,

Việt Nam thiếu cơ chế và ít cơ hội để người dân tham gia vào quá trình xây

dựng, thực hiện, kiểm toán việc thực hiện ngân sách. Nguyên nhân được giải

thích là Việt Nam chỉ có hai kỳ họp Quốc hội vào tháng 5 và tháng 10. Kỳ

họp tháng 5 mới xem xét báo cáo kết quả thực hiện ngân sách 4 tháng đầu

năm. Báo cáo ngân sách giữa kỳ được Quốc hội thảo luận vào tháng 10 nhưng

thời điểm này đã chậm so với tiêu chuẩn quốc tế. Điều này khiến Việt Nam

luôn thiếu báo cáo ngân sách giữa kỳ trong nhiều kỳ khảo sát.

18

Hình 2.Chỉ số công khai ngân sách theo OBI của Việt Nam năm 2017

1.3.2. Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc tham gia Sáng kiến đối tác Chính

phủ mở với Việt Nam

OGP đưa ra một tầm nhìn rõ ràng “ Ngày càng có nhiều chính phủ tăng

cường công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình; đồng thời đáp ứng tốt

hơn các yêu cầu của người dân. Mục tiêu cuối cùng của những nỗ lực trên là

nhằm nâng cao chất lượng quản trị cũng như chất lượng các dịch vụ cung cấp

cho người dân. Để đạt được điều này, cần có những thay đổi trong các quy

chuẩn về chính sach và tập quán văn hóa xã hội nhằm đảm bảo giữa chính

quyền và người dân có được cơ chế đối thoại và hợp tác một cách thực sự”.

Tất cả các nước thành viên OGP đều sử dụng OGP như một công cụ

tăng cường hiệu quả quản trị nhà nước, củng cố niềm tin của người dân vào

bộ máy nhà nước và nâng cao hình ảnh, vị thế quốc tế của quốc gia trên

trường quốc tế. Việc tham gia vào OGP giống như đưa ra một thông điệp cho

người dân trong nước và cộng đồng quốc tế rằng họ tình nguyện cam kết tăng

cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình với mục đích đem lại

19

sự phồn vinh, phát triển cho đất nước. Hơn nữa, tham gia vào OGP còn mở ra

một cơ hội mới cho việc cải cách quản trị nhà nước theo xu thế chung của thế

giới lấy người dân là trung tâm khác với những mô hình nhà nước trước đây

như nhà nước kế hoạch hóa tập trung, nhà nước kiến tạo phát triển ( Hàn

Quốc, Nhật Bản ) đã lỗi thời không còn phù hợp, khó có thể tạo ra sự phát

triển xã hội trong bối cảnh thế kỷ 21. OGP là biểu hiện cho mô hình quản trị

nhà nước mới mà trong đó lấy người dân là trung tâm. Trong mô hình này,

các nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng nhưng cách thức quản trị, sử dụng

quyền lực không còn mang tính chất chuyên chế, mệnh lệnh, hành chính một

chiều như trước mà thay vào đó các chủ thể khác như người dân, tổ chức xã

hội có thể tham gia, hợp tác với nhà nước trong việc xây dựng, triển khai,

thực thi các chính sách công. Bằng cách đó, quản trị nhà nước mới mang tính

dân chủ cao và tạo ra được sự đồng thuận xã hội lớn.

Đối với Việt Nam, OGP mang đến con đường mới mang tính bước

ngoặt, bởi công cuộc đổi mới ở Việt Nam bắt đầu từ lâu mà phải đến gần đây

với sáng kiến này sẽ tạo ra bước ngoặt cải cách mới. Giúp Việt Nam hòa nhập

quốc tế sâu hơn nữa, nâng cao uy tín, tranh thủ nguồn lực, sự trợ giúp của

quốc tế cho Việt Nam trong việc cải cách quản trị nhà nước và nâng cao hiệu

quả chống tham nhũng. Cụ thể:

Thứ nhất, OGP giúp gia tăng niềm tin của người dân với sự lãnh

đạo của Đảng và Nhà nước.

Niềm tin của người dân với nhà nước được nhìn nhận từ hai khía cạnh:

Hiệu quả bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ quốc gia trước sự xâm phạm của thế lực

bên ngoài; Hiệu quả quản trị đất nước, phòng chống tham nhũng. Bởi hai lĩnh

vực này được người dân chú ý, quan tâm mạnh mẽ nhất. Từ khi thực hiện cải

cách đất nước năm 1986, Đảng và nhà nước Việt Nam đã từng bước thực hiện

cải cách thể chế, tăng cường quản trị nhà nước, bộ máy hành chính tuy nhiên

hiệu quả còn thấp, chưa rõ rệt tình trạgn tham nhũng vẫn còn phổ biến và xu

hướng ngày càng trở nên tinh vi. Thực trạng này sẽ làm suy giảm niềm tin của

người dân vào Nhà nước.

20

Trong bối cảnh như vậy, tham gia vào OGP sẽ là công cụ nhằm thúc

đẩy quản trị tốt và phòng chống tham nhũng, từ đó sẽ gia tăng niềm tin của

người dân vào Nhà nước, Đảng Cộng sản.

Thứ hai, OGP giúp đẩy mạnh quá trình cải cách thể chế quản lý

nhà nước ở Việt Nam

Cải cách thể chế được hiểu là việc sửa đổi, bổ sung các cơ chế, quy tắc

nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước, trong đó bao gồm việc cải

thiện mối quan hệ giữa nhà nước, người dân và doanh nghiệp.

Cải cách thể chế là khâu quan trọng, mang tính đột phá cho sự phát

triển của Việt Nam bởi nhiều nguyên nhân trong đó bao gồm thực tế là “ thể

chế hiện hành còn những điểm dung dưỡng tham nhũng”. Nguyên tắc “ công

khai”,” minh bạch” trong quản trị không được tuân thủ. Quan hệ “ xin – cho”

vẫn tồn tại, chạy chức, chạy tội … còn tiếp diễn. Tham nhũng đã trở nên tinh

vi, khó phanh phui”.

Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 cũng nhắc tới “

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc,

chưa tạo được đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”, “ Quản lý nhà

nước chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế. Cải cách hành chính và năng lực tạo dựng thể chế để đảm bảo cho

doanh nghiệp, người dân tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong kinh

tế thị trường còn nhiều hạn chế”.

Việc tham gia OGP sẽ tạo ra bước ngoặt trong cải cách thể chế quản trị

nhà nước ở Việt Nam. Với việc thực thi các nguyên tắc cơ bản của nó, OGP

sẽ góp phần trực tiếp giải quyết những điểm yếu nhất trong thể chế quản trị

của nhà nước ở Việt Nam hiện nay, thường thấy như thiếu cơ chế kiểm soát

quyền lực hữu hiệu ở bộ máy chính quyền hay sự tham gia rất hạn chế của

người dân vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách.

Thứ ba, OGP giúp nâng cao hình ảnh và uy tín của Việt Nam trước

cộng đồng quốc tế và khối doanh nghiệp

21

Tham nhũng là hệ quả tất yếu của một nền quản trị kém và nó dẫn tới

việc làm ảnh hưởng tiêu cực tới hình ảnh và uy tín của Việt Nam với cộng

đồng quốc tế, giới doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trực quan nhất là vụ

việc hối lộ quan chức Việt Nam của PCI ( Pacific Consultants International )

năm 2008 đã khiến cho Nhật Bản phải tạm dừng các dự án ODA dự kiến

trong nửa đầu năm tài khoá 2008 của Nhật Bản dành cho Việt Nam, đồng thời

Nhật Bản cũng chưa thể công bố viện trợ mới cho tới khi Ủy ban hỗn hợp

phòng chống tham nhũng giữa hai nước xem xét lại việc thực hiện vốn ODA

của Nhật tại Việt Nam.

Đối với khối doanh nghiệp, tham nhũng sẽ cản trở những nhà đầu tư

nước ngoài và tạo bất công giữa các doanh nghiệp trong nước trong việc tiếp

cận các dự án đầu tư công. Qua khảo sát chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

năm 2014, tỷ lệ doanh nghiệp FDI trả chi phí không chính thức (còn gọi là chi

phí bôi trơn) để giải quyết các việc là 58,2%. Hầu như tất cả các hoạt động

đều cần phí bôi trơn mới giải quyết được việc, khoảng 17,2% doanh nghiệp

FDI phải trả chi phí không chính thức để có được giấy phép đầu tư. 31,4%

doanh nghiệp đã phải trả hoa hồng khi cạnh tranh giành các hợp đồng của cơ

quan nhà nước, thu tục xuất nhập khẩu 66,2%. Ngân hàng thế giới, Bộ phát

triển quốc tế vương quốc Anh (DFID) và Thanh tra Chính phủ đã công bố báo

cáo Tham nhũng: “Hầu hết các doanh nghiệp đều tin rằng tham nhũng bôi

trơn là thực tiễn thông thường và đã trở thành luật chơi ở Việt Nam. Doanh

nghiệp bị cuốn vào vòng xoắn ốc đi xuống – họ hối lộ vì sợ rằng nhiều doanh

nghiệp cũng đang làm điều đó để có được dịch vụ như mong muốn, và đồng

thời cũng bởi vì các cán bộ nhà nước cũng đang chờ đợi điều đó”.

Trong bối cảnh như vậy, việc cải thiện hình ảnh và uy tín của nhà nước

với các doanh nghiệp và đối tác nước ngoài là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Tham gia vào OGP sẽ giúp giải quyết các yêu cầu cấp thiết về hiệu quả quản

trị công và phòng chống tham nhũng, từ đó nâng cao uy tín của Nhà nước với

người dân và khối doanh nghiệp.

22

Thứ tư, OGP giúp Nhà nước Việt Nam tận dụng sự ủng hộ và trợ giúp

của cộng đồng quốc tế và người dân để nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước.

Một trong những điểm mạnh của OGP đó là việc các quốc gia thành

viên có nghĩa vụ đóng góp vào sự tiến triển của Chính phủ mở ở các quốc gia

thành viên khác thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm, trợ giúp kỹ thuật, công

nghệ cũng như nguồn lực.

Như vậy, tham gia vào OGP sẽ trao cho các quốc gia đang phát triển cơ

hội trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và tiếp nhận được những sự trợ giúp vật

chất, kỹ thuật để nâng cao hiệu quả quản trị đất nước. Đối với người dân, một

trong những nguyên tắc của OGP là tăng cường sự tham gia của người dân

vào quan trị nhà nước. Trong khuôn khổ OGP, sự ủng hộ, giúp đỡ của người

dân với nhà nước thể hiện rõ nhất trong việc kiểm soát sự lạm quyền của các

cơ quan và công chức nhà nước, thông qua việc phát hiện, tố cáo những hành

vi tham nhũng. Không chỉ vậy, OGP còn thúc đẩy tiến trình mà trong đó

người dân cũng được tham gia một cách thực chất và hiệu quả vào quá trìn ra

quyết định và hoạch địn chính sách của cơ quan nhà nước cũng hư việc giám

sát thực hiện các quyết định, chính sách đó. “ Việt Nam rất có triển vọng phát

triển nền quản trị nhà nước hiện đại thông qua việc thực hiện quy trình tham

gia của mọi công dân. Một khi người dân thấy được quyền lợi thích đáng của

mình trong việc tham gia xây dựng, thực thi và giám sát thực thi chính sách,

họ sẽ sẵn sàng và chủ động tham gia vào toàn bộ quy trình chính sách và cùng

hướng tới mục tiêu chung của đất nước. Người dân sẽ chủ động học hỏi, tìm

kiếm tri thức để đóng góp thông tin đầu vào cso ý nghĩa nhằm cải thiện và đổi

mới chính sách. Từ góc độ của người dân, một khi tham gia tích cực hơn vào

các quy trình chính sách, tính chính danh à phù hợp của chính sách sẽ được

đảm bảo và việc tuân thủ pháp luật sẽ được cải thiện.”

Thứ năm, OGP giúp nhà nước Việt Nam thực thi hiệu quả các điều ước

quốc tế và văn bản pháp luật quốc gia về phòng chống tham nhũng

Tính đến nay Việt Nam đã tham gia vào rất nhiều Hiệp định thương

23

mại tự do ( Free Trade Agreements – FTA), trong số đó có Hiệp định hình

thành cộng đồng kinh tế ASEAN ( AEC), Hiệp định thương mại với các nước

như Hàn Quốc, Liên minh Châu Âu. Đặc biệt gần đây là Hiệp định Đối tác

Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTTPP). Những hiệp định

này mở ra cho Việt Nam cơ hội mới để hội nhập và phát triển nhưng đồng

thời cũng gây sức ép về vấn đề đổi mới thể chế, quản trị nhà nước để phù hợp

với các yêu cầu như WTO hay CTTPP đều đặt ra những yêu cầu rất cụ thể

theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch.

OGP gắn liền với chiến lược quốc gia về phòng chống tham nhũng đến

năm 2020 của Việt Nam, mục tiêu của chiến lược là ngăn chặn, từng bước

đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ dần những cơ hội, điều kiện phát sinh tham

nhũng, góp thần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt

động hiệu quả, đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính; lành mạn hóa các quan

hệ xã hội thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, phát

hiện và xử lý tham nhũng; củng cố lòng tin của nhân dân và cộng đồng quốc

tế, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Tham gia vào OGP đồng nghĩa với

việc đồng ý thực hiện các cam kết ở Công ước Liên Hợp Quốc về Chống

tham nhũng ( UNCAC) mà chúng ta đã thông qua năm 2009, trong đó có một

số quy địn hmang tính cốt lõi về thực hiện công khai minh bạch cả cải cách

hành chính ( Điều 10 UNCAC) hay các quy định về sự tham gia của người

dân và xã hội trong phòng, chống tham nhũng ( Điều 13 UNCAC).

Thứ sáu, việc tham gia OGP sẽ thúc đẩy sự họp tác mang tính xây dựng

giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội trong việc cải thiện chất lượng quản trị

nhà nước

Việc ngày càng nhiều các tổ chức xã hội tham gia vào quản trị nhàn

ước là một xu thế tất yếu ở trên thế giới và Việt Nam cũng vậy. Ở Việt Nam,

ngay từ khi bắt đầu đổi mới năm 1986, sự tham gia mới chỉ bắt đầu ở các tổ

chức chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thì nay xu hướng đó

càng phải được mở rộng lên mức tối đa để các tổ chức, hiệp hội, tổ chức phi

24

chính phủ đều có những đóng góp của mình trong việc nâng cao chất lượng

chính sách công . OGP với nguyên tắc là Nhà nước cùng với tổ chức xã hội

hợp tắc xây dựng và thực hiện kế hoạch hành động quốc gia, sẽ nâng cao vai

trò và sự hợp tác giữa các tổ chức xã hội và các ở quan nhà nước trong quản

lý nhà nước ở Việt Nam. Theo đó, OGP sẽ góp phần giải quyết hạn chế là tín

hình thức trong sự bảo đảm sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội

vào quan trị nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

Thứ bảy, Tham gia OGP sẽ giúp Việt Nam định vị tốt hơn trong cuộc

cạnh tranh trong ASEAN và toàn cầu để thu hút FDI chất lượng cao

Việt Nam vẫn được coi là khu vực có giá nhân công rẻ và chi phí bảo

vệ môi trường thấp thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng điều này

chỉ có giá trị mang tính tạm thời bởi theo thời gian việc thắt chặt các tiêu

chuẩn về bảo vệ môi trường phù hợp với các chỉ tiêu của quốc tế và sự gia

tăng về thu nhập của người dân thì sức hút này sẽ không còn tồn tại được nữa.

Vì vậy, thu hút đầu tư chất lượng cao với hàm lượng tri thức và giá trị gia

tăng lớn là phương án được đề ra nhằm thay thế. Tuy nhiên, việc đầu tư vào

nghiên cứu phát triển đòi hỏi một môi trường minh bạch với những thiết chế

mạnh để thực thi những quy định pháp luật, tính hiệu quả của chính phủ, kiểm

soát tham nhũng là những yếu tố quan trọng sau tính tiềm năng của thị trường

trong việc quyết định lựa chọn của các nhà đầu tư. Tham gia vào OGP sẽ đẩy

mạnh quá trình cải cách thể chế minh bạch, cải thiện môi trường đầu tư, tăng

tính hấp dân của khu vực với những nhà đầu tư chất lượng cao.

1.3.3. Cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam khi tham gia Sáng kiến đối

tác chính phủ mở ( OGP)

Chính phủ mở đã có sẵn gốc rễ ở Việt Nam, từ những gì đã phân tích,

OGP là một thiết chế quốc tế rất gần gũi với điều kiện, hoàn cảnh của Việt

Nam hiện nay. Về bản chất, OGP không hề xa lạ và không có xung đột về bất

kỳ khía cạnh nào với đường lối, chính sách, pháp luật hiện hành về quản trị

quốc gia của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Trong thực tế, tuy chưa

được đề cập chính thức, song hầu hết các yếu tố của mô hình Chính phủ mở

25

từ lâu đã và đang được Nhà nước Việt Nam triển khai, ví dụ như thông qua

việc xây dựng Chính phủ điện tử, cải cách hành chính, xây dựng Luật tiếp cận

thông tin, Luật phòng, chống tham nhũng, tham gia UNCAC…Bên cạnh đó,

với sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế, trong mấy thập kỷ qua, Việt Nam đã

triển khai một loạt sáng kiến, chương trình hành động nhằm nâng cao hiệu

quả quản trị nhà nước và phát triển bền vững, tiêu biểu trong số đó là các

chương trình mục tiêu quốc gia nhằm thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên

niên kỷ (MDG), sáng kiến Chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp

tỉnh ở Việt Nam (PAPI), Chiến lược Phát triển thống kê của Việt Nam.

Mở cửa và hội nhập hiện nay là xu thế chính của thế giới cũng như Việt

Nam. Đây là cơ hội hoàn toàn mới để giúp Việt Nam đẩy mạnh việc cải cách

mà vẫn còn đang có những bước tiến chậm chạp, đặc biệt là ở Việt Nam,

Chính phủ có quyết tâm cải cách quản trị và chống tham nhũng mà muốn làm

được điều này cần phải có minh bạch giải trình. Đây là điều kiện để đưa OGP

vào chiến dịch hành động này.

Việt Nam khi có cơ hội tham gia vào OGP sẽ là nước đi sau, là nước

mà sẽ có thể học hỏi được các kinh nghiệm trong việc thực hiện các cam kết

OGP về Chính phủ mở từ các quốc gia thành viên khác. Điều này sẽ giảm bớt

quá trình đạt được mục tiêu chung bởi vì khi có kinh nghiệm thì chúng ta sẽ

bớt phạm phải những sai lầm không đáng có, tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng

là nước đi sau không phải là theo đuổi người khác, học tập một cách dập

khuôn theo mà phải biết kết hợp với tình hình, bối cảnh chung của đất nước là

đề ra những kế hoạch hành động quốc gia phù hợp.

Ở Việt Nam, người dân có cơ hội góp ý luật – chính sách. Thực tế hiện

nay, trước khi ban hành, công bố luật, chính sách thì ở các cổng thông tin của

chính phủ sẽ đăng dự thảo luật, chính sách để người dân có thể xem, tham

vấn, đưa ra những đề xuất, góp ý của bản thân. Đây rõ ràng là một cơ sở tốt

cho việc hợp thức hóa tiến trình để người dân tham gia vào xây dựng, hoạch

định chính sách của OGP.

OGP với phương châm là sự hợp tác giữa nhà nước và tổ chức xã hội

26

nhằm xây dựng các kế hoạch hành động quốc gia. Khi tham gia vào OGP thì

cần phải có đối tác mà ở Việt Nam đã có sẵn các tổ chức xã hội là đối tượng

phù hợp. Các tổ chức xã hội hiện nay vẫn luôn không ngừng cải thiện về mặt

năng lực cũng như kỹ năng, điều thiết yếu bây giờ là cần một không gian để

cho họ có thể phát huy hết những năng lực, thế mạnh của bản thân mình.

Cùng với những cơ hội, triển vọng như vậy, Việt Nam cũng sẽ phải

đương đầu với những thách thức, khó khăn như OGP quan trọng ở tính “ mở”

mà Việt Nam dù ít hay nhiều vẫn bị ảnh hưởng nặng nề bởi văn hóa Á Đông

đặc biệt là từ Trung Quốc nên có tính “ đóng”, khép kín mà để chuyển đổi cả

một xã hội, văn hóa từ khép kín sang mở thì cần phải mất rất nhiều thời gian

và công sức.

Việt Nam hội nhập, tham gia vào các sân chơi lớn mang đến lợi ích to

lớn đồng thời chúng ta cũng sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều áp lực quốc tế như về

vấn đề nhân quyền hãy phải tuân thủ các yêu cầu khi tham gia vào các hiệp

định thương mại, công ước quốc tế. Điển hình như câu chuyện doanh nghiệp

nước ngoài mong muốn tham gia vào Việt Nam nhưng không phải buộc mình

theo cơ chế “ xin – cho” mà họ mong muốn sự minh bạch và lo lắng về vấn đề

tham nhũng tại Việt Nam.

Một thách thức lớn đối với việc tham gia OGP là lợi ích nhóm, nhóm

những người đang được hưởng lợi từ văn hoá bí mật trong bộ máy nhà nước

(chủ yếu trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong hệ thống cơ quan hành

pháp). Họ có thể lo ngại rằng OGP sẽ không chỉ tước bỏ những đặc quyền,

đặc lợi mà họ có được từ bưng bít thông tin, mà còn đặt ra cho họ những

nghĩa vụ và khả năng bị lên án, thậm chí bị rơi vào vòng tố tụng, vì những

hành vi lạm quyền, tham nhũng của họ sẽ dễ dàng bị phát hiện trong bối cảnh

các tiêu chí về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của OGP được

thực thi đầy đủ. Theo tư duy của nhóm này, tất cả các tiêu chí của OGP đều

tiềm ẩn những rủi ro.

Bên cạnh đó, người dân và doanh nghiệp thường chỉ quan tâm và gây

27

sức ép khi quyền lợi của họ bị ảnh hưởng. Nói cách khác, những sức ép và đòi

hỏi về sự minh bạch từ người dân và doanh nghiệp hiện mới chỉ mang tính

chất “vụ việc”, gắn với lợi ích của từng nhóm xã hội và doanh nghiệp, thiếu

tính hệ thống và sự liên kết.

OGP là sáng kiến mới, nổi bật nhưng cũng chính vì thế nó chưa nhận

được sự quan tâm cần thiết từ chính phủ, người dân. Việt Nam có nhóm thúc

đẩy OGP, hầu như các thành viên tham gia làm việc hoàn toàn là tự nguyện,

kinh phí rất ít, chủ yếu tập trung vào thông tin về OGP. Ngoài ra văn hóa

tham gia của người Việt có điểm xấu là không tham gia, không có niềm tin về

việc thực hiện các chính sách công luôn chỉ nói, bàn luận còn việc mong

muốn để tham gia hoạch định thì lại không có và hơn nữa là khi tham gia

nhưng lại thiếu năng lực, không có tầm nhìn rộng. Về các tổ chức xã hội,

Chính phủ mặc dù không có sự đàn áp, thực hiện các hành động mang tính

trừng phạt vật chất nhưng vẫn coi nhau là đối kháng hơn là đối tác để phát

triển.

1.4. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về áp dụng sáng kiến đối

tác Chính phủ mở

1.4.1. Theo dõi Chi tiêu công và Chiến dịch Thông tin

Ngân sách và chi tiêu công là phương tiện để chuyển hóa chính sách

công thành những dịch vụ hữu hình dành cho công dân. Do đó, những quyết

định của chính phủ về phân bổ và chi tiêu các nguồn lực tài chính sẽ có tác

động trực tiếp tới phúc lợi của công dân.

Việc công bố thông tin về ngân sách công và những nguồn lực được

phân bổ cho các ngành dịch vụ công nhằm mục đích thông báo cho công dân

về nguồn thu và ngân sách của chính phủ cũng như cách thức chính phủ quản

lý và sử dụng ngân sách. Việc công bố những thông tin này giúp công dân và

các tổ chức xã hội dân sự nắm được quy mô nguồn lực tài chính khả dụng của

chính phủ và phối hợp cùng chính phủ để giải quyết các vấn đề ưu tiên về tài

chính công.

28

Công khai thông tin cũng cho phép luồng tài nguyên công dùng cho

việc cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ công được truy nguyên từ gốc đến đích.

Điều này có thể giúp phát hiện những nút thắt, yếu kém và/hoặc tham nhũng

trong quá trình chuyển giao hàng hóa và tài nguyên công, và thúc đẩy sự phân

bổ nguồn lực hợp lý, công bằng và có trách nhiệm. Như vậy, công khai thông

tin ngân sách là một công cụ quan trọng giúp chính phủ và các tổ chức xã hội

dân sự chống tham nhũng và làm việc theo hướng đảm bảo quản lý tài chính

công minh bạch, hiệu quả và có trách nhiệm.

Năm 1996, nghi ngờ chính quyền địa phương biển thủ ngân sách dành

cho trường học, chính phủ Uganda đã thực hiện cuộc Điều tra Theo dõi Chi

tiêu Công (PETS) đầu tiên. Điều tra cho thấy chỉ 26% khoản trợ cấp tính trên

đầu người dành cho các trường tiểu học được trao đúng đối tượng, nhiều

trường không nhận được khoản trợ cấp nào và thậm chí còn không biết rằng

đó là quyền lợi của họ. Vì vậy, chính phủ đã tiến hành một chiến dịch công bố

thông tin, bao gồm công bố dữ liệu về các chương trình trợ cấp tính trên đầu

người trên báo chí quốc gia và địa phương, đồng thời yêu cầu các trụ sở chính

quyền địa phương và trường học phải đăng thông báo công khai khi nhận

được ngân sách từ chính quyền trung ương. Cuộc điều tra PETS tiếp theo cho

thấy một sự tiến bộ đáng kể, với hơn 80% nguồn ngân sách từ chính quyền

địa phương được trao đúng đối tượng thụ hưởng tại các trường học.

Sau những kết quả này, phương pháp PETS đã thu hút được sự hoan

nghênh trên toàn thế giới như là một cơ chế chống tham nhũng hiệu quả cao.

Tuy nhiên, việc triển khai PETS sau đó ở các quốc gia khác đã không lặp lại

thành tựu của Uganda. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu bắt đầu đặt câu hỏi về

kinh nghiệm của PETS ở chính Uganda và đề xuất những giải thích thay thế.

Ví dụ, Hubbard đã chỉ ra rằng một số lượng lớn các cải cách hệ thống đã được

thực hiện ở Uganda giữa PETS đầu tiên và cuối cùng. Những cải cách này

bao gồm các biện pháp cải thiện đáng kể tính minh bạch của phân bổ quỹ

công cho các trường tiểu học và tăng cường kiểm soát của chính phủ và nhà

29

tài trợ đối với các chi tiêu này (Hubbard 2007, Sundet 2008). Do đó, việc

giảm đáng kể các rò rỉ được ghi nhận bởi PETS vào năm 2002 có thể là dấu

hiệu cho sự thành công của cải cách quản lý tài chính công và không chỉ hiệu

quả của chính sách phổ biến thông tin.

1.4.2. Thúc đẩy sự tham gia của công dân trong việc thiết kế và cung cấp

dịch vụ công

Công dân và các tổ chức xã hội dân sự địa phương (bao gồm cả những

nhóm kinh doanh và tín ngưỡng) là đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất và

cũng hiểu biết nhiều nhất về thực trạng, rào cản và cơ hội liên quan đến cung

cấp dịch vụ công, nhưng họ lại được tham vấn ít nhất hoặc ít có cơ hội tham

gia giải quyết những thách thức dai dẳng về cung cấp dịch vụ.

Một cách tiếp cận để tận dụng những kiến thức và kinh nghiệm này là

khuyến khích công dân tham gia đồng kiến tạo dịch vụ công. Đây là một

phương thức hợp tác trong đó công dân/người sử dụng dịch vụ phối hợp với

các chuyên gia để thiết kế và cung cấp dịch vụ công theo cách mới. Với cách

tiếp cận này, người sử dụng dịch vụ không phải chỉ tiếp nhận dịch vụ một

cách bị động mà còn là một nguồn lực tiềm tàng: họ là những cá nhân có kỹ

năng và có thể chia sẻ trách nhiệm giải quyết các thách thức về cung cấp dịch

vụ. Người dân cũng có thể đảm nhận một số vai trò mà trước kia thuộc về các

chuyên gia và/hoặc phối hợp với họ.

Ở Vương quốc Anh, Chính phủ tạo ra chương trình Bệnh nhân

Chuyên gia (Expert Patient), đây là chương trình đào tạo dành cho bệnh

nhân có bệnh mãn tính để họ kiểm soát tốt hơn việc chăm sóc sức khỏe của

chính mình bằng cách hiểu và tự theo dõi tình trạng bệnh. Được đào tạo

làm Bệnh nhân Chuyên gia, họ trở thành nguồn thông tin và hỗ trợ cho

những người có tình trạng sức khỏe tương tự. Sáng kiến này không chỉ

giúp xây dựng những mạng lưới hỗ trợ bên trong cộng đồng, mà còn giúp

giảm bớt gánh nặng cho các dịch vụ y tế chuyên nghiệp mà không tác động

tiêu cực lên sức khỏe bệnh nhân.

30

Ở Colombia, bộ luật 850 của năm 2003 cho phép các Ủy ban Giám sát

của Công dân được giám sát toàn bộ quá trình ủy nhiệm cung cấp dịch vụ

công, từ việc phân bổ nguồn lực cho tới giám sát việc thực hiện hợp đồng,

đảm bảo chất lượng kỹ thuật của hàng hóa và dịch vụ được cung cấp.

Bộ luật này quy định rằng công dân có quyền thành lập các “veedurias

ciudadanas” nghĩa là các Ủy ban Giám sát của Công dân – một cơ chế tạm

thời để các tổ chức xã hội dân sự kiểm soát các hoạt động trong khu vực công.

Veedurias cho phép công dân và/hoặc các tổ chức xã hội dân sự giám sát hệ

thống quản trị công và hoạt động của các cơ quan hành chính, tư pháp, bầu cử

và chính trị, các đơn vị công và tư, hoặc các tổ chức phi chính phủ chịu trách

nhiệm thực hiện các chương trình, hợp đồng công và cung cấp dịch vụ.

Một trong những mục tiêu của “veedurias ciudadanas” là củng cố cơ

chế kiểm soát tham nhũng trong mua sắm và quản trị công. Bộ luật 489 của

năm 1998 quy định rằng các cơ quan quản lý công có nghĩa vụ hỗ trợ công

dân khi họ thành lập veedurias. Luật này cũng quy định rằng các cơ quan có

thẩm quyền và bộ máy tư pháp cần hỗ trợ veedurias bằng cách điều tra và giải

quyết các kiến nghị của họ.

Ở Hà Lan, Mức độ hài lòng của công dân với việc thực hiện các thủ tục

chính thức, hợp pháp và thường được thực hiện bằng văn bản để xử lý khiếu

nại hoặc phản đối là rất thấp. Do chỉ có khoảng 20% tổng số thủ tục xem xét

và khiếu nại hành chính đối với các quyết định của chính phủ được ban hành,

mức độ cải thiện tình tình hình bị hạn chế. Vì thề Chính phủ Hà Lan đề ra

chương trình Fair Tracks là một cách tiếp cận mới để đưa ra quyết định và xử

lý xung đột do Bộ Nội vụ điều hành. Chương trình này tập trung vào việc làm

thế nào người dân có thể trở nên tin tưởng chính phủ của họ và chấp nhận các

quyết định, bằng cách sử dụng cách tiếp cận công bằng về quy trình thủ tục.

Chương trình đã được thử nghiệm với hơn 20 cơ quan chính phủ liên quan

đến 16 lĩnh vực hành chính.

- Tương tác không chính thức: Không giống như các cách thức truyền

31

thống, chính thức, và chủ yếu được thực hiện bằng văn bản khi đưa ra các

quyết định hành chính và xử lý khiếu nại hoặc phản đối, trong chương trình

Fair Tracks, viên chức chính phủ có những cuộc trò chuyện thân mật và mang

tính cá nhân với công dân sắp nhận quyết định tiêu cực hoặc đã nộp đơn khiếu

nại hoặc phản đối.

- Cởi mở và trung thực: Viên chức chính phủ thường tiếp cận bằng điện

thoại, tốt nhất là trong vòng 2-10 ngày sau khi nhận được phản đối hoặc khi

quyết định tiêu cực sắp được đưa ra. Cuộc trò chuyện cởi mở cho phép thảo

luận về các sự kiện, cảm xúc và sở thích có liên quan, và đưa ra các lựa chọn

khác nhau về cách thức giải quyết vấn đề của công dân một cách tốt nhất.

Kết quả là hơn 90% công dân đã đánh giá sự tương tác với công chức

là công bằng và trung thực. Mức độ cảm nhận công bằng về hình thức cao

hơn đồng nghĩa với mức độ tin tưởng cao hơn đối với chính phủ, sự đồng

thuận lớn hơn với các quyết định hành chính không có lợi cho công dân và

quy trình giải quyết vấn đề nhanh hơn. Nghiên cứu cho thấy rằng mặc dù các

kết quả (về các quyết định hành chính) đóng vai trò quan trọng, công bằng về

hình thức đóng vai trò quan trọng gấp đôi trong việc làm gia tăng mức độ hài

lòng của công dân.

1.4.3. Kinh nghiệm đạt được sự đồng thuận cao

Ở Chile có sự thay đổi về chính phủ trong quá trình soạn thảo Kế hoạch

thứ hai năm 2014. Ủy ban Bảo vệ Công dân và Minh bạch (CDC), tổ chức

lãnh đạo OGP tại quốc gia, đã tổ chức các cuộc hội thảo tham vấn với các tổ

chức công dân và cộng đồng ở bốn khu vực, với sự hỗ trợ của Hội đồng Văn

phòng Kiểm soát chung về minh bạch và các chính quyền khu vực. Các hội

thảo này đã đưa ra 200 đề xuất và sau đó đã được giảm xuống còn 86 đề xuất

sau khi tham vấn với nhóm công tác OGP. Cân nhắc thay đổi của chính phủ,

Kế hoạch dự thảo đã được xem xét và bao gồm một số sáng kiến hiện đang

được thực hiện. Chính phủ mới đã giảm đáng kể số lượng cam kết, yêu cầu

một vòng tham vấn mới với nhóm công tác, nhóm này được mở rộng và

32

chuyển đổi thành ủy ban kỹ thuật thường trực. Quyết định về danh sách cam

kết cuối cùng được thực hiện trên cơ sở đồng thuận. Việc áp dụng các tiêu chí

bổ sung đưa số lượng cam kết lên 12. Sự minh bạch và cách tiếp cận dựa trên

thảo luận để điều chỉnh tốt hơn nội dung của Kế hoạch cho chương trình nghị

sự của chính phủ mới đã làm cho tất cả các bên liên quan đều hài lòng hơn.

Đối thoại giữa chính phủ và các bên liên quan khác nhau đại diện trong

Diễn đàn không phải lúc nào cũng đạt được sự đồng thuận. Điều này có thể dễ

dàng trở thành một vòng luẩn quẩn nếu các vấn đề cứ được nhắc đi nhắc lại

mà không đi đến quyết định hoặc kết luận thỏa đáng, làm mất đi động lực của

những người tham gia. Một bài học kinh nghiệm có giá trị từ Croatia là cần

tiếp tục đối thoại khi chưa đạt được đồng thuận. Nếu một tình huống nảy sinh

khi các bên không thể đi đến thỏa thuận, vấn đề này sẽ được đặt sang một bên

để thảo luận tại một cuộc họp khác. Cả phía chính phủ và XHDS sẽ cung cấp

các tài liệu chính sách liên quan đến vấn đề để làm rõ các quan điểm.

Những tài liệu này là cơ sở cho thảo luận tiếp theo nhằm đảm bảo các

bên đều xem xét cẩn thận tất cả các dữ liệu được cung cấp và luận điểm trình

bày. Phương pháp này đã giúp cho Hội đồng OGP trở thành một cơ chế thành

công và đã xây dựng được mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn giữa chính phủ

và XHDS. Theo lời của một người tham gia từ tổ chức XHDS, kết quả của tất

cả những điều này là “một bên là các cán bộ nhà nước nhiệt tình và chủ động,

một bên là đại diện các tổ chức XHDS có chuyên môn và hiểu biết, cả hai đã

cùng nhìn về một hướng.”

1.5. Tiểu kết chương 1

Qua những trình bày ở trên, thấy được OGP mặc dù chỉ xuất hiện gần

đây ( 2011) nhưng lại là Sáng kiến tiềm năng, nổi bật nhất bởi từ chính ý

nghĩa hoạt động của nó. Chương đầu tiên đã đưa ra những vấn đề lý luận cơ

bản nhất gồm khái niệm, nguyên tắc hoạt động, các tiêu chuẩn, cơ cấu tổ chức

của OGP. Chỉ ra được ý nghĩa và tầm quan trọng của OGP đối với các quốc

gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đồng thời cũng liên hệ tới

33

bối cảnh của Việt Nam từ đó chỉ ra được những triển vọng và thách thức đặt

ra cho Việt Nam khi muốn tham gia mạng lưới quốc tế này. Ngoài ra Chương

1 còn đề cập tới kinh nghiệm của một số nước đã là thành viên của OGP trong

việc thực hiện một số cam kết nhằm cải thiện quản trị nhà nước, tăng cường

sự tham gia của người dân hướng tới công khai, minh bạch.

Để từ đó là cơ sở cho phục vụ việc đánh giá khả năng vận dụng OGP ở

Việt Nam trong từng tiêu chuẩn mà OGP đặt ra để tiến tới tìm kiếm những

giải pháp khả thi cho Việt Nam trong thời gian tới.

34

CHƯƠNG 2: KHẢ NĂNG VẬN DỤNG SÁNG KIẾN

ĐỐI TÁC CHÍNH PHỦ MỞ TẠI VIỆT NAM

2.1. Việt Nam trong bối cảnh OGP

2.2.1.Minh bạch tài khóa (Fiscal Transparency)

Công khai minh bạch tài khóa là một trong những yếu tố quan trọng góp

phần nâng cao hiệu quả các chính sách tài khóa cũng như việc huy động, quản lý

và sử dụng ngân sách nhà nước. Thông qua công khai minh bạch tài khóa sẽ

không chỉ nâng cao trách nhiệm của Chính phủ trước các lựa chọn chính sách tài

khóa, trong quản lý và điều hành ngân sách, mà còn tạo điều kiện cho công tác

giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, các cơ quan chính phủ, các tổ

chức xã hội, và người dân. Qua đó, thấy được những rủi ro tiềm ẩn đối với triển

vọng tài khóa để có các đề xuất chính sách ứng phó, các phương án quản lý tài

chính ngân sách phù hợp và hiệu quả. Công khai minh bạch tài khóa còn đòi hỏi

phải nâng cao trách nhiệm giải trình, giảm thiểu tình trạng phân bổ và sử dụng

ngân sách lãng phí, chống tham nhũng…

OGP yêu cầu tiêu chuẩn minh bạch tài khóa tại hai khía cạnh, đó là

quốc gia phải công khai hai tài liệu liên quan là Dự toán ngân sách của Chính

phủ ( Executive’s Budge Proposal) và Báo cáo kiểm toán của nhà nước (

Audit Report) với mục đích tăng cường trách nhiệm giải trình của nhà nước

trong hoạt động quản lý ngân sách. Thật không may, Việt Nam không đạt

được điểm nào ở tiêu chuẩn này.

Báo cáo về chỉ số công khai ngân sách ( OBI) Việt Nam năm 2017 chỉ

đạt 15/100 điểm về mức độ minh bạch, thuộc vào nhóm ít công khai nhất.

Theo Tổ chức Đối tác Ngân sách Quốc tế (IBP), có 5 nguyên nhân chính:

Thứ nhất, chưa công bố cho công chúng Dự thảo dự toán ngân sách

trình Quốc hội đúng thời gian của OBI.

Thứ hai, chưa công bố cho công chúng Báo cáo kiểm toán đúng thời

gian yêu cầu của OBI.

35

Thứ ba, thông tin trong báo cáo thực hiện ngân sách tháng/quý chưa

đảm bảo đủ như các tiêu chí về nội dung của báo cáo thực hiện ngân sách.

Thứ tư, không công bố Báo cáo ngân sách dành cho công dân đúng thời

gian yêu cầu trên cổng thông tin (đồng thời với thời hạn công bố Dự toán

ngân sách 2017).

Thứ năm, chưa công bố Báo cáo thực hiện ngân sách giữa năm tài

chính đúng hạn. Nội dung đưa ra sau đó không được IBP coi là công khai vì

chưa đúng thông lệ quốc tế về báo cáo giữa kỳ.

Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội thông qua năm 2015 chính

thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2017, trong đó bổ sung quy định yêu cầu Chính

phủ và Ủy ban nhân dân các cấp công khai bản dự thảo dự toán ngân sách

trước trước khi Quốc hội và Hội đồng nhân dân phê duyệt. Đây là tài liệu rất

chủ chốt trong 8 tài liệu ngân sách cần phải công bố, theo quy định tại Điều

15, Luật Ngân sách nhà nước 2015.

Hình 3. Chỉ số đánh giá 8 loại tài liệu công bố OBI 2017 của Việt Nam

Nếu thực hiện được đúng theo tinh thần của Luật Ngân sách nhà nước

2015, nhất là quy định trên sẽ là bước tiến rất lớn của Việt Nam để tiệm cận

ngày càng gần hơn với những tiêu chuẩn, tiêu chí quốc tế của các tổ chức tài

36

chính lớn trên thế giới như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức Phát triển và

Hợp tác Kinh tế (OECD), Tổ chức Kiểm toán Quốc tế (INTOSAI)… Cùng

với đó, Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 đã bổ sung quy định Ngân sách

nhà nước được giám sát bởi cộng đồng và giao cho Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam các cấp chủ trì, phối hợp với thành viên của mặt trận để tổ chức giám sát

Ngân sách nhà nước, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm chế

độ quản lý tài chính.( Điều 16).

Đối tác Ngân sách Quốc tế (International Budget Partnership) coi báo

cáo kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nước của Việt Nam là công bố chậm

so với thời hạn sau 18 tháng kể từ khi năm ngân sách kết thúc. Vì vậy, cùng

với việc không công khai dự toán ngân sách nhà nước, OGP chấm 0 điểm cho

tiêu chí minh bạch ngân sách của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu báo cáo này được

công bố trong vòng 18 tháng kể từ khi năm ngân sách kết thúc, Việt Nam sẽ

được thêm 2 điểm trong OGP. Việc này là khả thi vì đó cũng là thời hạn mà

Luật Ngân sách nhà nước 2015 quy định. Cụ thể, Khoản 7, Điều 70 của Luật

ghi rõ: “Quốc hội xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước chậm

nhất là 18 tháng sau khi kết thúc năm ngân sách.” Đồng thời, Khoản 1, Điều

71 quy định: “Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán

ngân sách nhà nước trước khi trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn.”

Quá trình phân cấp thẩm quyền chi tiêu diễn ra quá nhanh. Việc cung

cấp các dịch vụ công trực tiếp cho nhân dân chủ yếu là trách nhiệm của địa

phương, nhưng các chính sách về dịch vụ công, như giáo dục và y tế lại được

hoạch định bởi các cơ quan quản lý ngành ở Trung ương. Phần nào sẽ hạn chế

tính minh bạch, trách nhiệm giải trình ở cấp ngành và địa phương.

Sở dĩ việc công khai, minh bạch ngân sách càng trở nên cấp thiết và

cần thực hiện nghiêm theo quy định, bởi trong chi tiêu ngân sách ở đâu đó

vẫn còn có hiện tượng chi sai quy định, vượt tiêu chuẩn, định mức. Các cấp

quản lý ngân sách đều phải chịu trách nhiệm với quyết định của mình, trên cơ

sở giám sát của cộng đồng. việc công khai ngân sách ở một số địa phương

37

chưa được thực hiện nghiêm, có nơi không công khai, hoặc có công khai

nhưng chậm công bố thông tin. Đây chính là kết quả được chỉ ra bởi Quỹ Tiền

tệ quốc tế, Tổ chức Phát triển và Hợp tác kinh tế và Tổ chức Kiểm toán quốc

tế. Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật Ngân sách nhà nước ở một số địa phương

còn lỏng lẻo. Do đó, trong bối cảnh ngân sách còn khó khăn như hiện nay thì

việc thắt chặt chi tiêu, tăng cường kỷ cương cũng như công khai, minh bạch

ngân sách cần phải đặt lên hàng đầu.

2.2.2. Sự tham gia của người dân ( Citizen Engagement)

Theo Tuyên ngôn phổ quát về dân chủ, do Liên minh nghị viện thế giới

thông qua năm 1997, dân chủ vừa là một lý tưởng, vừa là một phương thức

quản trị. Dân chủ bảo vệ phẩm giá và quyền cơ bản của cá nhân, giúp đạt

được công bằng xã hội, tăng cường sự gắn kết của xã hội. Nó cũng là hệ

thống chính trị duy nhất có khả năng tự chỉnh sửa những sai lầm. Trong các

cấu thành của dân chủ, quyền tham gia có vai trò thiết yếu bởi sự tham gia

của người dân vào các hoạt động của nhà nước chính là sự biện minh cho sự

tồn tại của chính nhà nước đó. Việc thiếu hụt tiếng nói, sự đóng góp của

người dân làm cho nhà nước mất tính chính đáng, chính danh.

Sáng kiến Đối tác Chính phủ mở mang đến một tầm nhìn chiến lược

mới nhưng cũng đòi hỏi về sự tham gia của người dân. Tổng điểm tiêu chuẩn

cho sự tham gia của người dân là 4, dựa trên điểm số được đánh giá ở chỉ số

dân chủ của EIU chủ yếu tập trung vào các nhóm tiêu chí : Tiến trình bầu cử

và sự đa dạng; các tự do dân sự; hoạt động điều hành của nhà nước; sự tham

gia vào hoạt động chính trị của người dân; văn hóa chính trị. Ở lần đánh giá

gần nhất vào năm 2017, Việt Nam đạt chỉ số dân chủ 3.08 trong Chỉ số dân

chủ của EIU tương đương với 2 điểm trên tổng 4 điểm cho tiêu chí “ sự tham

gia của người dân”

38

Hình 3.Bảng chỉ số dân chủ của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2017

● Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện

Nền kinh tế thị trường, các phương tiện truyền thông hiện đại với

những luồng thông tin đa chiều, thúc đẩy các nhu cầu và năng lực tham gia

chính trị của người dân, đồng thời nó cũng sẽ tạo áp lực lớn hơn với bộ máy

nhà nước trong vấn đề công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Các nguyên tắc bầu cử được Hiến pháp 2013 xác định bao gồm nguyên

tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín ( Điều 7). Hiến pháp bảo

đảm quyền của công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở

lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân ( Điều 27). Luật Bầu

cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được thông qua năm

39

2015 thay thế cho Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 ( sửa đổi, bổ sung

năm 2001 và 2010) và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 2003( sửa đổi,

bổ sung 2010), trong đó có một số quy định mới liên quan đến việc phân bổ

số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; đơn vị bầu cử, khu

vực bỏ phiếu; Hội đồng bầu cử quốc gia và tổ chức phụ trách bầu cử tại địa

phương; ứng cử, hiệp thương, giới thiệu người ứng cử; tuyên truyền; vận

động bầu cử; bỏ phiếu, xác định kết quả bầu cử..

Những quy định nêu trên góp phần thúc đẩy quyền tham gia của nhân

dân, song khung pháp luật về bầu cử vẫn còn biểu hiện của tình trạng dân chủ

hình thức. Bầu cử là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ của một

quốc gia, nhiều khía cạnh của bầu cử bẫn không được người dân và nhà nước

nhận thức đầy đủ. Tại cuộc bầu cử gần đây nhất ( bầu cử đại biêu Quốc hội

khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021), ghi

nhận có 154 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội. Luật bầu cử không đưa ra

khái niệm “ tự ứng cử” và “ người tự ứng cử” nhưng theo quy định tại Luật

này có thể hiểu người tự ứng cử là những người không được tổ chức chính trị,

tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, cơ

quan nhà nước ở trung ương hoặc địa phương giới thiệu ra ứng cử. Việc tự

ứng cử là thực thi một cách thực chất quyền ứng cử của công dân. Tuy nhiên,

nói đến ứng cử gần dây, các cơ quan nhà nước chủ yếu quan tâm tới những

người được cơ quan, tổ chức đề cử, giới thiệu. Nhưng kể cả đối với những

người này, sự đề cử, giới thiệu chỉ có hiệu lực khi có sự mong muốn của chín

họ ra ứng cử. Mặc dù là tự ứng cử, nhưng tên của những người tự ứng cử (

ứng cử viên độc lập) cũng phải đưa vào danh sách hiệp thương do hệ thống

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam triệu tập và chủ trì. Do nhiều nguyên nhân, trong

số 154 người tự ứng cử đại biểu Quốc hội ( được lập danh sách sau hội nghị

hiệp thương lần 2) chỉ có 11 người qua được vòng hiệp thương thứ ba để có

tên trong danh sách bầu cử đại biểu Quốc hội. Kết quả cuối cùng có 2 người

tự ứng cử đạt số phiếu trở thành đại biểu Quốc hội khóa XIV.

40

Điểm hạn chế của hệ thống bầu cử đó là việc quá trình hiệp thương trở

thành quá trình” tiền bỏ phiếu”, điều này là trái với nguyên tắc bầu cử trực

tiếp quy địn trong Hiến pháp. Nhìn về quy chế của hiệp thương, dường như từ

Đổi mới 1986 không có quá nhiều sự thay đổi từ quy chế tiến hành và thủ tục

hiệp trương, người ta dùng hiệp thương để thay cho tranh cử. Bên cạnh đó

cũng nhiều vấn đề như: thông tin mà cử tri có được về các ứng cử viên tại đơn

vi bầu cử của mình chưa đầy đủ; thủ tục đối với những công dân ứng cử tự do

chưa công bằng bình đẳng; mức độ cạnh tranh giữa các ứng viên trong danh

sách chính thức thấp. Dân chủ đại diện nhưng lại phần nào chưa đáp ứng

được “ đại diện” của mình bởi rõ ràng thiếu đi sự tương tác hai chiều giữa đại

biểu và các cử tri. Chúng ta coi việc bầu ra đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân

dân như là vấn đề đương nhiên phải có mà không coi đó phải là chức năng

của những cơ quan này. Về bãi nhiệm đại biểu, Khoản 2 Điều 7 Hiến pháp

2013 có quy định “ Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri

hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với

sự tín nhiệm của nhân dân”, tuy nhiên trên thực tế vẫn chưa có cơ chế nào để

để cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân.

Về hình thức dân chủ trực tiếp, Việt Nam thông qua Luật trưng cầu ý

dân 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016, theo đó Ủy ban thường vụ

Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu

Quốc hội có thẩm quyền đề nghị trưng cầu ý dân ( Điều 14). Quyết định trưng

cầu ý dân sẽ được đưa vào chương tình làm việc của Quốc hội tại kỳ họp gần

nhất để xem xét và quy định. Việc thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở cũng

mang lại nhiều kết quả tốt, phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực ở cơ sở. Cơ chế “Đảng lãnh

đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” tiếp tục được thực hiện đồng bộ,

cụ thể hơn và đạt hiệu quả.

● Các quyền dân sự của công dân

Luật tiếp cận thông tin năm 2016 là một bước tiến trong việc bảo đảm

41

tính dân chủ. Tuy nhiên, đạo luật này vẫn còn hạn chế trong việc xác định

phạm vi quyền tiếp cận của người nước ngoài và trẻ em; chưa có quy định cụ

thể về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của những người không biết đọc hay

những người đang bị tước một số quyền tự do. Việc yêu cầu thông tin đòi hỏi

các thủ tục phức tạp :

“2. Đối với thông tin phức tạp, không có sẵn mà cần tập hợp từ các bộ

phận của cơ quan đó hoặc thông tin cần thiết phải có ý kiến của cơ quan, tổ

chức, đơn vị khác thì chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được

yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải thông báo cho người yêu cầu đến

trụ sở để đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu hoặc nhận bản sao,

bản chụp tài liệu hoặc có văn bản thông báo về việc từ chối cung cấp thông

tin.

Trường hợp cơ quan được yêu cầu cần thêm thời gian để xem xét, tìm kiếm,

tập hợp, sao chép, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn

nhưng tối đa không quá 10 ngày làm việc và phải có văn bản thông báo về

việc gia hạn trong thời hạn cung cấp thông tin.”

Đồng thời, lần đầu tiên ở Việt Nam, một chế tài hình sự được áp dụng

cho tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin

được quy định trong Bộ Luật Hình sự 2015 (đang tạm hoãn hiệu lực thực thi),

theo đó: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản

trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông

tin, quyền biểu tình của công dân, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm

hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo

không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Tuy nhiên, Luật Tiếp cận thông tin 2016 cũng quy định những thông

tin thuộc bí mật nhà nước là những thông tin công dân không được tiếp cận

(Điều 6). Như vậy, mức độ “mở” của Luật Tiếp cận thông tin thực chất phụ

thuộc vào nội dung của Luật về Bí mật nhà nước. Hiện tại, quy định về việc

xây dựng danh mục bí mật nhà nước mà nằm gọn trong khối hành pháp, cụ

42

thể là sự thống nhất giữa người đứng đầu các cơ quan trung ương với Bộ trưởng

Bộ Công an, đang tạo ra trở ngại lớn với quyền tiếp cận thông tin của người dân.

Nếu như quy định này không được sửa đổi trong Luật về Bí mật nhà nước, khả

năng nó sẽ là lực cản chính trong việc thực hiện ba tiêu chí đầu tiên của OGP, đó

là Tiếp cận thông tin, Minh bạch ngân sách và Công khai tài sản

Quyền tự do ngôn luận hiện được điều chinh bởi Luật Báo chí, Luật

xuất bản gần đây nhất là Luật an ninh mạng được thông qua năm 2018. Điểm

mới của Luật Báo chí 2016 đó là đã cho phép các tổ chức tôn giáo được xuất

bản một tờ báo và các trường đại học và bệnh viên tư nhân ở cấp tỉnh có thể

thành lập tạp chí chuyên ngành ( Điều 14). Việt Nam trong chừng mực nào đó

đã từng có quy định kiểm soát internet bằng một văn bản pháp luật được

thông qua hồi 2015, Luật An toàn thông tin mạng. Nhưng đã có những lời kêu

gọi trong chính phủ, theo đó muốn có luật mới, trực tiếp kiểm soát an ninh

mạng, sau khi nước này bị xếp thứ 101 trên tổng số 195 quốc gia trong chỉ số

an ninh mạng toàn cầu 2017 của Liên hiệp quốc công bố. Có nhiều ý kiến trái

chiều tại thời điểm Dự thảo luật an ninh mạng được công bố, nhiều người thì

coi đây là sự bóp nghẹt tự do ngôn luận, nhiều người thì lại cho rằng không

phải vậy. Rõ ràng là, khi thời điểm cách mạng công nghệ 4.0 tới ngoài không

gian cuộc sống thực tế, chúng ta đang phát triển tới một không gian “ ảo” mà

Việt Nam chỉ có những quy định nằm rải rác các nơi, điều cần thiết là tập

trung lại luật hóa các quy định đó để nó trở thành khung pháp luật chung thì

Luật an ninh mạng là điều tất yếu của quá trình này.

Quyền tự do hiệp hội đã được hiến định nhưng chưa có luật thực thi.

Việc xây dựng Luật về Hội để thay thế Nghị định 45/2010/NĐ-CP về vấn đề

này dù đã được tiến hành nhưng tới thới điểm hiện tại vẫn chưa hoàn thành,

mà như thế nó lại tạo thành rào cản cực lớn cho hoạt động của các tổ chức,

hiệp hội trong thực tế. Tương tự, quyền tự do hội họp, biểu tình cũng chưa

được luật cụ thể hóa; biểu tình ở Việt Nam vẫn mang hình ảnh của một hành

động mang tính tiêu cực, việc thực hiện những quyền này gặp trở ngại rất lớn.

43

Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực thi sự tham gia của người dân

trong thực tế.

2.2.3. Công khai tài sản ( Public Officials Asset Disclosure)

Mỗi quốc gia - bao gồm cả chính phủ và xã hội dân sự của nó – và cộng

đồng quốc tế nên xác định được những vấn đề cụ thể mà mình cần giải quyết

thông qua một hệ thống kê khai tài sản. Các quốc gia cần tổ chức thảo luận

một cách toàn diện và có sự tham gia của mọi thành phần trước khi đưa ra

hoặc sửa đổi cơ bản hệ thống kê khai tài sản đối với công chức, nhằm xác

định những mục đích mà mình muốn đạt được. Những mục đích chính của hệ

thống kê khai tài sản có thể bao gồm:

- Nâng cao tính minh bạch và niềm tin của người dân vào nền hành

chính công, thông qua việc công khai thông tin về tài sản của các chính trị gia

và công chức mà trong đó thể hiện một điều rằng họ không có gì để che giấu;

- Giúp những người đứng đầu của các cơ quan công quyền ngăn ngừa

xung đột lợi ích giữa các nhân viên của mình và giải quyết những tình huống

như vậy khi chúng phát sinh, nhằm mục đích tăng cường liêm chính trong tổ

chức;

- Giám sát sự biến động về tài sản của các chính trị gia và công chức,

nhằm mục đích ngăn chặn họ thực hiện các hành vi sai trái và bảo vệ họ khỏi

việc bị tố cáo sai sự thật, và giúp làm rõ phạm vi đầy đủ của hành vi làm giàu

bất hợp pháp hoặc các hành vi phi pháp khác thông qua việc cung cấp chứng

cứ bổ sung.

Điều 34 Luật phòng, chống tham nhũng 2015 đưa ra 4 nhóm đối tượng

phải công khai tài sản bao gồm: Cán bộ, công chức ; Sĩ quan Công an nhân

dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp; Người giữ chức

vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp

công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà

nước tại doanh nghiệp; Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại

biểu Hội đồng nhân dân. Đây là nhóm các đối tượng cần được kiểm soát

mạnh mẽ, tuy nhiên, thực tế trong những năm gần đây cho thấy, quy định này

44

vẫn chưa đủ để xác định được đối tượng trung tâm của tham nhũng. Bởi lẽ:

Một là, nhóm đối tượng này rất rộng và chưa có cơ chế để xác định hành vi

tham nhũng nếu việc tham nhũng diễn ra thường xuyên nhưng không lớn,

không gây ra biến động đột xuất về tài sản thì rất khó để xác định; hai là, đối

với nhóm đối tượng là những cán bộ giữ các chức vụ chủ chốt trong các cơ

quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp thì vấn đề này lại càng vướng mắc hơn khi

tài sản kê khai hàng năm của họ có thể kiểm soát được nhưng nếu họ có hành

vi tham nhũng và đưa tài sản tham nhũng cho người thân đứng tên thì sẽ rất

khó kiểm soát; ba là, tham nhũng là vấn đề đa dạng, có rất nhiều cách thức để

tham nhũng, nạn tham nhũng vặt rất phổ biến, đó là những khoản bôi trơn

trong các giao dịch với cán bộ nhà nước trong các lĩnh vực dịch vụ công như

y tế, giáo dục, đất đai, giao thông, thuế, hải quan, xây dựng…

Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transperancy International) công bố

Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2018, xếp hạng 180 quốc gia và vùng

lãnh thổ dựa trên cảm nhận của các doanh nhân và chuyên gia về tham nhũng

trong khu vực công. Năm nay, Việt Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng 117/180

toàn cầu, giảm nhẹ 2 điểm so với năm 2017. Mặc dù, đánh giá của Tổ chức

Minh bạch Quốc tế về Chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam “chỉ để

tham khảo là chính” bởi kết quả đó không phản ánh một cách toàn diện được

tình hình tham nhũng tại Việt Nam.

Hình 5. Chỉ số cảm nhận tham nhũng Việt Nam năm 2018 Theo TI

45

Trong báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng

(PCTN) số 330/BC-CP ngày 22/9/2016 của Chính phủ trình Quốc hội khóa

XIV, kỳ họp thứ 4 có kết luận về việc công khai, minh bạch bản kê khai tài

sản, thu nhập (TS,TN) như sau: “Tình trạng lạm dụng bảo mật thông tin, thiếu

công khai, minh bạch với nhân dân và trong nội bộ vẫn diễn ra ở nhiều nơi.

Trong một số cơ quan, đơn vị, các quy định về dân chủ, giám sát chưa được

quan tâm đúng mức, có nơi thậm chí cản trở, vô hiệu hóa, dẫn đến tình trạng

vi phạm kéo dài, sai phạm nghiêm trọng nhưng không được kịp thời phát

hiện, xử lý”. Năm 2018, số người đã kê khai tài sản, thu nhập là 1.136.902

người, đạt tỷ lệ 99,8% số người phải kê khai. Số bản kê khai đã công khai là

1.134.685 bản. Tuy nhiên, mới chỉ xác minh đối với 44 người/1.136.902

người đã kê khai. Bên cạnh đó, mặc dù Luật phòng, chống tham nhũng đã quy

định người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu không được tham gia

thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp, không được để người thân thích

kinh doanh trong các ngành nghề thuộc lĩnh vực mình trực tiếp phụ trách...

nhưng qua giám sát, phản ánh của dư luận, cử tri và báo chí cho thấy, việc

thực hiện các quy định này còn chưa nghiêm, có biểu hiện “nhóm lợi ích”,

móc ngoặc giữa khu vực nhà nước và doanh nghiệp tạo “sân sau”, “công ty

gia đình”, dùng ảnh hưởng của mình để đấu thầu cho các dự án, thâu tóm đất

công, cho vay sai nguyên tắc, rút tiền của nhà nước…

Nguyên nhân chủ yếu được nhận định xuất phát từ quy định về công

khai, minh bạch tài sản còn thiếu bao quát, chưa giúp kiểm soát biến động về

thu nhập; còn vướng mắc về trình tự, thủ tục công khai bản kê khai, giải trình,

xác minh tài sản, thu nhập khi có yêu cầu; chưa quy định rõ việc sử dụng bản

kê khai tài sản vào mục đích phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng. Trong

khi hầu hết các vụ án được phát hiện và đưa ra xét xử đều liên quan đến

những đối tượng giữ các chức vụ lớn trong cơ quan nhà nước hay doanh

nghiệp nhà nước thì các hành vi tham nhũng nhỏ lẻ như lót tay, nhũng nhiễu

hoàn toàn vắng bóng và làm mai một lòng tin người dân vào chính quyền.

46

Theo nhiều khảo sát xã hội học cũng như nghiên cứu, các quốc gia

Scăng-đi-na-vi, bao gồm cả Ai-xơ-len, nằm trong số những nước có tỉ lệ báo

cáo/cảm nhận về tham nhũng thấp nhất. Tính minh bạch và niềm tin của

người dân đối với dịch vụ công nằm ở mức cao, và các hệ thống kê khai tài

sản phụ thuộc vào những giá trị và văn hóa đã được hình thành. Tất cả những

công chức ở cấp cao nhất do bầu cử hoặc làm việc trong các cơ quan công vụ

ở tất cả những nước này đều có nghĩa vụ phải kê khai theo một mẫu nào đó

(Ai-xơ-len là nước cuối cùng quy định về nghĩa vụ này của các bộ trưởng và

nghị sĩ vào mùa xuân năm 2009 (OECD, 2009a), và những người này sẽ phải

kê khai khi bắt đầu làm việc trong khu vực công và bất kỳ khi nào có sự thay

đổi về vị trí. Trọng tâm chính ở đây được đặt vào trách nhiệm giải trình của

những cán bộ được bầu trong ngành lập pháp và những công chức được bổ

nhiệm, điều này phản ánh những lo ngại về vấn đề đạo đức chính trị được đặt

ra ở những quốc gia này. Thông tin công khai về tài sản của đa số các cán bộ

được bầu và những công chức cấp cao được công bố công khai qua hình thức

phổ biến nhất là trên Internet. Những thông tin thu thập được thông qua các

chính sách về công khai ở những tổ chức được lựa chọn – những tổ chức được

xác định là dễ xảy ra tham nhũng nhất – được sử dụng trong phạm vi nội bộ

và không được công bố công khai. Cách tiếp cận như thế này có thể hiệu quả

ở những quốc gia mà mong muốn hình thành được một nền văn hóa liêm

chính, một lịch sử lâu dài về tự do tiếp cận thông tin và lòng tin, sự tín nhiệm

của người dân đối với dịch vụ công đạt đến mức cao.

2.2.4. Tiếp cận thông tin (Acess to information)

Công khai thông tin làm gia tăng mạnh mẽ niềm tin của người dân vào

các cơ quan công quyền, còn che giấu sẽ tạo ra hiệu ứng ngược lại. Niềm tin

của nhân dân là yếu tố then chốt tạo ra sự ổn định chính trị, nên công khai

thông tin cần phải được coi là một ưu tiên của các cơ quan công quyền. Tuy

nhiên, trên thực tế thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân còn chưa

đạt được như quy định của pháp luật, việc công bố, công khai thông tin còn

47

chậm, mang tính hình thức, thiếu hiệu quả. Trong nhiều trường hợp, việc khai

thác, tìm kiếm thông tin từ các cơ quan nhà nước thường bị gây phiền hà.

Quyền làm chủ, quyền được thông tin của người dân có lúc, có nơi bị hạn chế,

thậm chí bị vi phạm nghiêm trọng. Những ví dụ có thể nêu ra như: người dân

cần thông tin về quy hoạch để mua đất, nhưng bị cơ chức năng từ chối và cho

rằng đó là thông tin nội bộ; một địa phương đóng chữ “mật” cả lên danh bạ

đại biểu hội đồng nhân dân, trong khi những đại biểu đó là do dân bầu lên để

đại diện cho mình; thiếu minh bạch trong đền bù, giải tỏa của các dự án; các

văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công việc làm ăn, sinh sống của

doanh nghiệp, đến người dân không được đầy đủ, đồng bộ và không gắn liền

với việc tuyên truyền rộng rãi...

Theo các tài liệu của OGP về tiếp cận thông tin, tiêu chuẩn để một quốc

gia được coi là có tính “ mở” về tiếp cận thông tin đó là phải có một đạo luật

riêng về vấn đề này hoặc ít nhất có một điều khoản trong hiến pháp quy định

quyền tiếp cận thông tin. Hiến pháp 2013 của Việt Nam tại điều 25 quy định “

Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội

họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”,

hơn nữa năm 2016, chúng ta thông qua Luật tiếp cận thông tin đây là cơ sở

lớn nhất cho việc triển khai các thành tố khác của chính phủ mở như dữ liệu

mở, chính phủ điện tử,… Lợi ích của tiếp cận thông tin là tạo nên một sự bảo

vệ cho cả công dân và chính phủ. Đối với người dân, đó là bảo đảm tránh

khỏi những thông tin bị khuếch tán bởi những ý đồ chính trị - để họ có thể

tiếp xúc với các thông tin chính xác, nguyên gốc. Đối với chính phủ, tiếp cận

thông tin cho phép tránh đi những lo ngại về các vấn đề tế nhị liên quan đến

an ninh quốc gia.

Theo Điều 11 Luật Phòng, chống tham nhũng 2015, cơ quan, tổ chức,

đơn vị phải công khai hoạt động của mình theo một hoặc một số hình thức

như: (a) Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (b) Niêm yết tại

trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (c) Thông báo bằng văn bản đến

48

cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; (d) Phát hành ấn phẩm; (đ)

Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; (e) Đưa lên trang thông

tin điện tử; (g) Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Ở cấp độ cơ sở, Điều 6 Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn

quy định các hình thức công khai bao gồm: (a) Niêm yết công khai tại trụ sở

HĐND, UBND cấp xã; (b) Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã;

(c) Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến

nhân dân.

Trên thực tế, ngoài các hình thức nêu trên, còn có một số hình thức

khác đang được sử dụng để chuyển tải thông tin về hoạt động của các cơ quan

nhà nước tới công chúng, cụ thể là qua việc đăng trên Công báo ;tư vấn, trợ

giúp pháp lý; công tác dân vận; các sinh hoạt tập thể (hội họp, mít tinh, văn

hóa văn nghệ…) hoặc qua hoạt động tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

“Nếu chính phủ không có khả năng cung cấp thông tin thì ít nhất nó cần

đảm bảo người dân được miễn phí truy cập thông tin”. Câu nói này nhắc tới

đặc điểm chính của Chính phủ mở đó là nền tảng thể chế công nghệ qua đó

cho phép đưa dữ liệu chính phủ thành dữ liệu mở để cho phép người dân sử

dụng, bảo vệ và cộng tác với chính phủ trong các quá trình ra quyết định công

cộng, cũng như trong việc giải trình và cải tiến dịch vụ công cộng. Cho nên

công nghệ là yếu tố thiết yếu, thành tố kỹ thuật để tạo nên quyèn tiếp cận

thông tin trong bối cảnh hiện đại. Các công cụ công nghệ ở đây không chỉ bao

gồm Internet, trang web điện tử mà còn bao gồm tại mạng xã hội như

Facebook, Twitter và sử dụng công nghệ di động để phổ biến thông tin và

tương tác.

Theo khảo sát của tổ chức We are social vào tháng 1 năm 2018, ở Việt

Nam có 64 triệu người dùng Internet, chiếm 67% dân số cả nước. Điều này

nói lên Việt Nam có cơ cấu dân số thích ứng nhanh nhẹn với Internet, đại đa

số người ở đô thị có khả năng sử dụng Internet kể cả các dịch vụ công trực

49

tuyến. Về cơ sở hạ tầng thông tin viễn thông, mạng cáp quang FTTH ( Fiber

to the home) hiện đang phủ sóng 97%, sóng 4G phủ sóng 95% Việt Nam. Đây

là những nền tàng thuận lợi cho việc hình thành hệ thống thông tin mở cũng

như việc dễ dàng tiếp cận được thông tin của người dân. Tuy nhiên cũng có

nguy cơ lớn đối với việc thông tin bị lợi dụng , sử dụng như một công cụ cho

các mục đích riêng, sự ảnh hưởng và thao túng bởi nhóm quyền lực bên ngoài

khi tác động đến những vấn đề quản trị đất nước mà người ta hay liên tưởng

về khả năng can thiệp của Nga trong bầu cử ở Mỹ.

Những mâu thuẫn có thể có giữa một bên là sự công khai của các dữ

liệu mà mọi người dân có quyền tiếp cận và bên kia là bí mật nhà nước không

dễ dàng được dung hòa. Ngay trong các quốc gia phát triển cũng có những bài

học sâu sắc như vụ án Watergate hay rò rỉ hồ sơ tài liệu của Lầu Năm Góc đã

cho thấy khó khăn khi đưa ra phán quyết giữa bí mật nhà nước và quyền được

biết của công dân. Ở Việt Nam cũng đã cho thấy dấu hiệu của vấn đề tương

tự. Điển hình là thông tin về Luật đặc khu, do quá trình soạn thảo cũng như

lên kế hoạch không thể không công khai, chính vì như vậy khiến cho việc khi

bị những người “ đánh hơi” được ý định của nhà nước đã đưa ra những thông

tin khiến cho người dân hoang mang, khuếch đại tin tức làm thông tin mất đi

chính xác chỉ để phục vụ lợi ích cá nhân họ. Nguồn vốn chủ yếu để phát triển

ở các đặc khu là đất, thông qua chín sách đổi đất lấy hạ tầng. Nhưng các địa

điẻm đó đều không còn quỹ đất trống do giới đầu cơ biết được thông tin đổ xô

đến gom đất, và như được dự báo trước, thiếu vốn là vấn đề chắc chắn xảy ra.

Khi đánh giá về thành công cũng như chế trong xây dựng chính phủ

điện tử cho đến năm 2018, trong Báo cáo chỉ ra bất cập lớn đó là “ Thiếu thể

chế về xác thực, định danh điện tử, chưa số hóa được các dữ liệu, nền tàng kết

nối chậm các công việc dù có chính phủ điện tử nhưng vẫn phải làm bằng

giấy”. Phải biết rằng, khi truy xuất thông tin, tìm kiếm thông tin việc tra tìm

từ văn bản bằng giấy gây ra khó khăn lớn đối với người dân đặc biệt nếu đó là

những thông tin có thời gian dài, nội dung phức tạp.

50

Thông tin là yếu tố quyết định cơ hội phát triển của mỗi quốc gia. Tự

do thông tin là nền tảng cho dân chủ. Nhất là trong quá trình hội nhập và hợp

tác quốc tế ngày một sâu và rộng như nước ta hiện nay, thông tin vừa đóng

vai trò nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, vừa là phương tiện hợp tác và

cạnh tranh với các nền kinh tế khác. Mặt khác, tiếp cận thông tin là một trong

những công cụ hữu hiệu đảm bảo phòng chống tham nhũng, điều kiện để đẩy

mạnh công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

2.2.5. Kiểm tra giá trị (Values check )

Ngoài việc đạt đủ điểm cho các tiêu chí cốt lõi của OGP, quốc gia

muốn tham gia vào OGP đồng thời cũng phải vượt qua được bài kiểm tra giá

trị ( values check assessment). Có 2 khía cạnh đánh giá trong bài kiểm tra, đó

là về độ mở trong việc bảo đảm các điều kiện cho việc hình thành và đăng ký

của các tổ chức xã hội dân sự và độ mở trong hoạt động của các tổ chức này.

Để vượt qua được bài kiểm tra, các nước phải đạt ít nhất 3 điểm cho 1 trong 2

tiêu chí nêu trên. Việt Nam đạt 1 điểm và 2 điểm lần lượt cho tiêu chí thứ nhất

và thứ hai.

Quá trình phát triển của xã hội hiện đại cho thấy một thực tế hiển nhiên

là các cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức nhà nước, dù hết sức tận tụy

cống hiến hay có tinh thần vì công chúng như thế nào đi chăng nữa, thì cũng

không thể dự kiến trước được tất cả các hàng hoá công cộng và dịch vụ mà

các công dân muốn có. Việc xuất hiện những biện pháp thay thế của các tổ

chức quần chúng, tổ chức phi chính phủ và tư nhân có thể giúp lấp đi những

khoảng trống trong việc cung cấp hàng hoá công cộng, cũng như cung cấp

những hàng hoá và dịch vụ công nào mà các cá nhân muốn trả bằng tiền của

riêng họ. Các đoàn thể nhân dân, các hội có thể vừa là những cộng sự, vừa là

những đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ công.

Ở mức cao nhất, tại Hiến pháp 2013, Điều 25 quy định: “Công dân có

quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu

tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”. Trong thực tiễn

51

hiện nay, tiếp cận từ tiêu chí phi lợi nhuận, bảy hình thức tổ chức xã hội dân

sự (phi lợi nhuận) phổ biến nhất là:

- Hội

- Quỹ xã hội, quỹ từ thiện

- Cơ sở bảo trợ xã hội

- Tổ chức Khoa học và công nghệ

- Hội có tính chất đặc thù

- Các tổ chức chính trị xã hội (thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

gồm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ

Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên

hiệp Phụ nữ Việt Nam).

- Tổ chức phi chính phủ quốc tế.

Văn bản có hiệu lực trực tiếp điều chỉnh việc thành lập và hoạt động

của các hội là Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động

và quản lý hội (thay thế cho Nghị định 88/2003). Nghị định này được sửa đổi,

bổ sung một số điều bởi Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của

Chính phủ. Điều 5 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định 5 điều kiện thành

lập hội, bao gồm: 1. Có mục đích hoạt động không trái với pháp luật; không

trùng lặp về tên gọi và lĩnh vực hoạt động chính với hội đã được thành lập

hợp pháp trước đó trên cùng địa bàn lãnh thổ. 2. Có điều lệ. 3. Có trụ sở. 4.

Có số lượng công dân, tổ chức Việt Nam đăng ký tham gia thành lập hội.Số

lượng tối thiểu thành viên của hội được xác định theo phạm vi hoạt động, cụ

thể: cả nước hoặc liên tỉnh là 100, trong tỉnh là 50, trong huyện là 20, trong xã

là 10.

Điều 23 Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định các quyền của hội bao

gồm: 1. Tổ chức, hoạt động theo điều lệ hội đã được phê duyệt; 2. Tuyên

truyền mục đích của hội; 3. Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ đối nội,

đối ngoại có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của hội; 4. Bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của hội, hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích của hội; 5. Tổ

52

chức, phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của hội; hoà giải

tranh chấp trong nội bộ hội; 6. Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên;

cung cấp thông tin cần thiết cho hội viên theo quy định của pháp luật; 7.

Tham gia chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn, phản biện và giám

định xã hội theo đề nghị của cơ quan nhà nước; cung cấp dịch vụ công về các

vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của hội, tổ chức dạy nghề, truyền nghề theo

quy định của pháp luật; 8. Thành lập pháp nhân thuộc hội theo quy định của

pháp luật; 9. Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên

quan đến nội dung hoạt động của hội theo quy định của pháp luật. Kiến nghị

với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát

triển hội và lĩnh vực hội hoạt động. Được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức

các hoạt động dịch vụ khác theo quy định của pháp luật và được cấp chứng

chỉ hành nghề khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; 10. Phối hợp

với cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ của hội; 11. Được

gây quỹ hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động

kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí

hoạt động; 12. Được nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá

nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Được nhà nước hỗ trợ

kinh phí đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của nhà nước giao; 13.

Cơ quan Trung ương hội có phạm vi hoạt động trong toàn quốc được gia

nhập các tổ chức quốc tế tương ứng và ký kết, thực hiện thoả thuận quốc tế

theo quy định của pháp luật và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về ngành,

lĩnh vực hội hoạt động, cơ quan quyết định cho phép thành lập hội về việc gia

nhập tổ chức quốc tế tương ứng, ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế.

Trong những năm vừa qua, nhiều nhóm, câu lạc bộ, mạng lưới, diễn

đàn... đã được thành lập, quyền tự do hiệp hội được thực thi khá sôi động

trong thực tiễn. Tuy nhiên, địa vị pháp lý của nhiều nhóm, hội thiếu rõ ràng

hoặc gặp khó khăn khi thực thi các thủ tục theo luật định. Một số hội công bố

thành lập gồm Hội Phụ nữ nhân quyền, Hội Cựu tù nhân lương tâm, Văn đoàn

53

độc lập ... Những “hội” này không hoặc chưa thực hiện các thủ tục luật định

về thành lập. Nói cách khác, những hội này thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng hoặc

“chưa được nhà nước thừa nhận”. Trong khi việc thành lập các hội đoàn là xu

hướng tất yếu của phát triển xã hội, khuôn khổ pháp luật tiếp tục duy trì cứng

nhắc như cũ đang tạo ra nhiều vấn đề mâu thuẫn với nguyên tắc của nhà nước

pháp quyền và dân chủ.

Quyền tự do hiệp hội không chỉ liên quan đến việc thành lập hội mà

còn bao gồm cả quyền tự do hoạt động của các hội. Tại Việt Nam, các hoạt

động chủ yếu của các hội như gây quỹ, triển khai các dự án, chương trình...

chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy định hành chính tương đối khắt khe.

Đặc biệt, trong khi giao lưu, quan hệ quốc tế ngày càng rộng mở, việc nhận

tài trợ hoặc tổ chức các hội nghị, hội thảo có yếu tố nước ngoài hiện nay tiếp

tục gặp những khó khăn đáng kể khi triển khai. Liên quan đến việc gây quỹ,

hiện nay có nhiều loại quy định khác nhau với các loại tổ chức. Văn bản quan

trọng nhất điều chỉnh việc nhận tài trợ nước ngoài hiện là Quy chế quản lý và

sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài được ban hành theo Nghị định số

93/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009, được hướng dẫn bởi Thông tư

07/2010/TTBKH ngày 30/3/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư. Tại nhiều địa

phương, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ

phi Chính phủ nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Liên quan đến việc triển khai các

hoạt động hội thảo, tập huấn chịu sự điều chỉnh của các quy định về hội họp,

tổ chức hội nghị, hội thảo, có những quy định riêng nếu những hoạt động này

có “yếu tố nước ngoài”. Cụ thể, lĩnh vực này hiện được điều chỉnh bởi Quyết

định số 76/2010/QĐ-TTg ngày 30/11/ 2010 của Thủ tướng về việc tổ chức,

quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam. Quyết định này thay thế cho

một quyết định ra đời 10 năm trước đó (Quyết định số 122/2001/QĐ-TTg

ngày 21/08/2001), tuy nhiên, mức độ chặt chẽ không hề giảm, có lĩnh vực còn

chặt chẽ hơn so với văn bản trước đó. Theo điểm b, Khoản 1, Điều 3 Quyết

định số 122/2001/QĐ-TTg thì Thủ tướng có thẩm quyền cho phép tổ chức hội

54

nghị, hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các vấn đề chính trị, dân tộc,

tôn giáo, an ninh, quốc phòng và phạm vi bí mật nhà nước. Kế thừa quy định

này, điểm b, Khoản 1, Điều 3 Quyết định số 76/2010/QĐTTg quy định “Hội

nghị, hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các vấn đề chính trị, an ninh,

quốc phòng, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, biên giới lãnh thổ hoặc thuộc

phạm vi bí mật nhà nước”. Nhìn chung những quy định như vậy rất phiền hà,

phức tạp và khắt khe hơn nhiều so với các quốc gia khác.

Để bảo vệ quyền tự do hiệp hội, hiện nay có các cơ chế khiếu nại, khiếu

kiện theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, một số vụ việc đã cho thấy khiếu nại

về quyền lập hội của người dân không được cơ quan hành chính giải quyết

thấu đáo, kịp thời.

2.2. Giải pháp và lộ trình hoàn thiện cho Việt Nam tham gia Sáng kiến

đối tác Chính phủ mở

2.2.1. Giải pháp, đề xuất cho khó khăn, thách thức

2.2.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý gia tăng quyền dân sự của người dân

Việc nghiên cứu tham gia vào sáng kiến Đối tác Chính phủ mở có thể

là một động lực tốt để thúc đẩy việc cải thiện thể chế và quyền tham gia của

người dân ở Việt Nam. Trước mắt để bảo đảm tốt hơn quyền tham gia của

người dân, cần phải hoàn thiện pháp luật và thể chế:

- Nghiên cứu, sửa đổi Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội

đồng nhân dân theo hướng đảm bảo các nguyên tắc bầu cử dân chủ, công

bằng, đặc biệt là bảo đảm quyền của các ứng viên, quyền của cử tri đề cử ứng

viên; tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động bầu cử, đặc biệt

là trong việc kiểm phiếu và công bố kết quả sau khi kiểm phiếu.

- Sửa đổi Luật trưng cầu dân ý 2015 theo hướng mở rộng phạm vi chủ

thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân, bao gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các tổ chức thành viên.

- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, hành chính, tài chính nhằm hỗ trợ việc

thành lập, phát triển và hoạt động của các hội, hiệp hội, trong đó bao gồm

55

việc xây dựng Luật về hội với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Xem việc tăng cường tự do hiệp hội như là một trong những ưu tiên trong

chính sách tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân hiện

nay. Tự do hiệp hội nên được quan niệm là một quyền dân sự, một dạng tự do

hợp đồng của các cá nhân, chủ yếu do luật dân sự điều chỉnh. Cách tiếp cận

này sẽ giúp tối thiểu hoá các thủ tục hành chính cho việc cấp phép thành lập

các hội. Ðể hoạt động của các hội được thuận tiện, cũng là để tôn trọng quyền

tự do hiệp hội, các quy định về gây quỹ, nhận tài trợ, về triển khai các hoạt

động (nhất là hội thảo, tập huấn), có hoặc không liên quan đến nước ngoài,

nên được điều chỉnh theo hướng tôn trọng quyền tự chủ của các hội.

Cụ thể dự thảo Luật về hội vốn mục đích luật hóa Sắc lệnh số 102 năm

1957, cách đây đã 60 năm, dự thảo lần đầu tiên được đưa ra Quốc hội bàn

năm 2006 nhưng đã phải rút về. Từ đó đến nay, 15-16 lần sửa, dự thảo luật về

Hội vẫn còn quá nhiều vấn đề tranh cãi, không được thông qua. Dưới dây là

một số kiến nghị nhằm sửa chữa một số vướng mắc tồn đọng ở dự luật:

Theo dự thảo, khái niệm “hội” được hiểu là “tổ chức tự nguyện của công

dân, pháp nhân Việt Nam hoạt động không vì mục đích lợi nhuận”.Qua đó cho

thấy, so với Khoản 1 Điều 22 của ICCPR, Dự thảo Luật của Việt Nam không coi

đây là quyền dành cho tất cả mọi người không phân biệt địa vị pháp lý (có tư

cách công dân hay không). Việc đưa ra yêu cầu việc lập hội phải nhằm “ bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng theo quy định của

pháp luật, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động; được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp

Giấy chứng nhận đăng ký thành lập, công nhận điều lệ và người đứng đầu hội.”

đã giới hạn khá nhiều nội hàm của hội theo cách hiểu của Liên hợp quốc. Quy

định này có thể sẽ tạo ra những rào cản trong việc xét duyệt cấp phép thành lập

hội hay kiểm tra, giám sát hoạt động của hội.

Dự thảo hầu như không đề cập tới hội không đăng ký với Nhà nước

hoặc hội không có tư cách pháp nhân nói chung, trong khi dự thảo do Bộ Nội

56

vụ công bố để lấy ý kiến nhân dân trong tháng 6/2015 xác định có sự hiện

diện của “hội không có tư cách pháp nhân”. Điều này khiến cho tính pháp lý

của rất nhiều hội không đăng ký với Nhà nước (không cần tư cách pháp nhân)

như Hội đồng hương, nhóm từ thiện, câu lạc bộ đọc sách... thiếu rõ ràng,

không được pháp luật điều chỉnh, gây khó khăn cho việc thực thi quyền lập

hội, hoạt động hội của người dân. Hội không đăng ký tư cách pháp nhân hiện

là một hình thức phổ biến và linh hoạt trong thực tế, Nhà nước cần thừa nhận

tính hợp pháp của các hội này, cho dù không cần đăng ký

Dự thảo đã xác định chủ thể của quyền tự do lập hội công dân Việt

Nam, vô hình chung đã giới hạn quyền lập hội đi rất nhiều. Điều cần thiết đó

là mở rộng quyền lập hội cho mọi người phù hợp với quy định của Công ước

ICCPR. Việc mở rộng trao quyền nhiều hơn cho công dân so với quy định của

Hiến pháp không thể được coi là vi phạm Hiến pháp. Bởi vì, Hiến pháp chỉ

quy định tiêu chuẩn tối thiểu về quyền con người quyền công dân, luật hoàn

toàn có thể quy định đảm bảo tốt hơn các quyền con người, quyền công dân.

Dự thảo cho thấy sự can thiệp sâu vào tổ chức hoạt động của hội như

dành một chương cho quy định cơ cấu tổ chức hội, quyền và nghĩa vụ của hội.

Đối với hội mang tính đa dạng và gần như phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa

các thành viên, việc đưa ra các trường hợp cho việc tổ chức lại hội như quy

định tổ chức lại doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp là không hợp lý, mất

đi bản chất của quyền lập hội. Nhà nước chỉ nên và chỉ có thể quản lý về hình

thức tổ chức của hội thông qua ban lãnh đạo, còn việc yêu cầu đối với các

thành viên như thế nào là do thỏa thuận giữa các thành viên mà miễn là không

vi phạm pháp luật.

Dự thảo Luật về Hội chưa có cơ chế hiệu quả bảo vệ quyền tự do hiệp

hội của cá nhân và của các hội. Dự luật chỉ quy định chung chung về việc xử

lý vi phạm (Điều 31) và trao quyền quy định chi tiết cho Chính phủ. Điều này

tạo ra nguy cơ lớn đối với việc giới hạn tùy tiện quyền tự do hiệp hội của

người dân. Luật cần qui định rõ ràng và cụ thể cơ chế và biện pháp bảo vệ

57

quyền tự do hiệp hội khỏi các can thiệp phi lý, tùy tiện của cơ quan, cán bộ

Nhà nước ở bất kỳ cấp nào. Cần quy định rõ thẩm quyền tài phán của cơ quan

thụ lý, giải quyết khiếu nại, khiếu kiện độc lập với cơ quan quản lý hành

chính để đảm bảo tính khách quan, độc lập và hiệu quả trong việc bảo vệ

quyền hiệp hội của người dân. Quyết định đình chỉ, chấm dứt hay giải tán

không tự nguyện một hội phải được đưa ra từ một tòa án vô tư và độc lập.

- Sửa đổi pháp luật về quyền hội họp của người dân, bao gồm các Nghị

định và văn bản quy phạm pháp luật không còn tương thích với Hiến pháp

2013 ( về giới hạn quyền con người, quyền công dân). Hiện nay, các cơ quan

nhà nước thường viện dẫn Nghị định 38/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 3 năm

2005 quy định về một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng để điều chỉnh,

quản lý các cuộc biểu tình. Nghị định này không hề nhắc đến “biểu tình”, mà

chỉ có các quy định về “tập trung đông người ở nơi công cộng”. Cụ thể, việc

tập trung đông người ở nơi công cộng phải đăng ký trước với Uỷ ban nhân

dân có thẩm quyền nơi diễn ra các hoạt động đó và phải thực hiện đúng nội

dung đã đăng ký. Tuy nhiên, Nghị định này dường như có sự phân biệt đối xử

khi không áp dụng đối với các hoạt động do các cơ quan Đảng, Nhà nước,

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức. Việc tổ

chức các hội nghị, hội thảo có yếu tố nước ngoài, hiện nay tiếp tục có nhiều

khó khăn về thủ tục. Lĩnh vực này hiện được điều chỉnh bởi Quyết định số

76/2010/QĐ-TTg ngày 30/11/ 2010 của Thủ tướng về việc tổ chức, quản lý

hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam. điểm b, Khoản 1, Điều 3 Quyết định

này quy định “Hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các vấn

đề chính trị, an ninh, quốc phòng, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, biên giới

lãnh thổ hoặc thuộc phạm vi bí mật nhà nước”. Như vậy, các cuộc hội nghị,

hội thảo phải được Thủ tướng phê duyệt có phạm vi rất rộng. Điều đó cũng có

nghĩa là nhiều hội nghị, hội thảo – một hình thức quan trọng của hội họp –

đang phải trải qua nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian mới có thể tổ chức.

58

2.2.1.2. Áp dụng công nghệ Blockchain và phát triển nền tảng kỹ thuật

Blockchain là công nghệ mới được nhắc nhiều trong thời gian gần đây.

Nếu được bình chọn cho công nghệ mới nổi bật nhất trong năm 2017, thì chắc

chắn blockchain và ứng dụng vào tiền ảo, tiêu biểu như Bitcoin sẽ được

xướng tên.

Blockchain được thiết kế để chống lại sự thay đổi dữ liệu. Thông tin

trong blockchain không thể bị thay đổi và chỉ được bổ sung thêm khi có sự

đồng thuận của tất cả các nút trong hệ thống. Ngay cả khi nếu một phần của

hệ thống blockchain đổ, những máy tính và nút khác sẽ tiếp tục hoạt động để

bảo vệ thông tin.

Đặc biệt blockchain có khả năng truyền tải dữ liệu mà không đòi hỏi

trung gian để xác nhận thông tin. Hệ thống blockchain bao gồm nhiều nút độc

lập có khả năng xác thực thông tin.

Với những đặc thù như vậy, công nghệ blockchain được áp dụng rất

nhiều trong các lĩnh vực kinh tế, viễn thông, logistics. Ở bầu cử, West

Virginia (Hoa Kỳ) trở thành tiểu bang đầu tiên áp dụng blockchain trong bầu

cử. Mặc dù số lượng cử tri tham gia bầu cử qua nền tảng này vẫn là một con

số nhỏ như một cuộc thử nghiệm nhưng với những kết quả tích cực mà nó

mang lại, dự kiến công nghệ này sẽ được áp dụng ở quy mô lớn hơn.

Theo công nghệ blockchain được sử dụng trong cuộc bầu cử tại West

Virginia, danh tính của cử tri được xác minh bằng các công cụ sinh trắc học

như quét vân tay trước khi bỏ phiếu bằng thiết bị di động. Mỗi phiếu bầu là

một phần của chuỗi các phiếu bầu. Khi sử dụng blockchain, tất cả dữ liệu của

quá trình bầu cử sẽ được lưu lại trực tuyến và có thể kiểm chứng một cách

công khai mặc dù vẫn duy trì được tính ẩn danh của cử tri.

Hệ thống bầu cử hiện nay đã bộc lộ rất nhiều hạn chế: Lãng phí tài

nguyên giấy, Việc triển khai mất nhiều thời gian và chi phí, Không đảm bảo

tính công khai và minh bạch khi các cử tri không được trực tiếp theo dõi quá

trình kiểm đếm. Việc vận dụng công nghệ blockchain trong bầu cử có thể

59

được triển khai bằng việc sử dụng các nền tảng bỏ phiếu blockchain mã

nguồn mở. Nền tảng nguồn mở không có bất cứ yếu tố độc quyền nào nên tất

cả cử tri đều có thể trực tiếp xem xét khiến cho tính minh bạch trong bầu cử

luôn được đảm bảo.

Công nghệ blockchain không chỉ dừng lại ở suy nghĩ trong vấn đề bầu

cử mà nó có thể tiếp tục nhìn nhận ở việc tiếp cận thông tin của người dân,

trong việc minh bạch, công khai ngân sách, tài sản. Ứng dụng công nghệ

blockchain trong việc xây dựng chính phủ số là xu hướng được nhiều quốc

gia trên thế giới quan tâm. Nền tảng này có thể cung cấp môi trường an toàn

để lưu trữ, xử lý và truyền tải dữ liệu. Việc sử dụng các công cụ của sổ cái

phân tán, hợp đồng thông minh và tiền điện tử sẽ làm giảm đáng kể sự quan

liêu, xóa bỏ các thủ tục giấy tờ, giảm chi phí giao dịch, kiểm soát và chống

tham nhũng, tăng lòng tin của công dân với Chính phủ.

Tuy nhiên, hệ thống này cũng tồn tại nhược điểm, bởi vì là hệ thống

điện tử nên nó có thể bị tấn công bởi các mã độc hay những người cố tình cài

phần mềm gian lận vào hệ thống. Chính vì như vậy lại đòi hỏi phải có một

nền tảng kỹ thuật hiện đại tương ứng nhằm hạn chế nhược điểm của công

nghệ này.

Nền tảng đầu tiên đó là về cơ sở dữ liệu, chỉ một khi tồn tại một kho dữ

liệu đủ lớn thì việc triển khai thông tin, liên thông, chia sẻ giữa cơ quan với

nhau, với người dùng mới hiệu quả được. Hiệu quả hệ sinh thái kỹ thuật số áp

dụng công nghệ Blockchain trước hết phụ thuộc vào cơ sở dữ liệu đầu vào.

Trong khi đó, việc xây dựng triển khai các cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng

công nghệ thông tin làm nền tảng phục vụ phát triển Chính phủ điện tử rất

chậm so với tiến độ cần cóTheo số liệu thống kê gửi lên Văn phòng chính

phủ, Cơ sở dữ liệu quốc gia về công dân Việt Nam mới chỉ được cấp hơn 8

triệu mã số định danh và hơn 1 triệu mã số cho trẻ em mới sinh. Việc triển

khai xây dựng cơ sở dữ liệu được đánh giá là “ châm” vì chương trình bắt đầu

từ năm 2013. Thế nên điều cấp thiết hiện tại là Chính phủ cần phải hoàn tất cơ

sở dữ liệu về công dân, đất đai, tài chính ..

60

Hiện nay, Việt Nam đang thiếu khung pháp lý đồng bộ về xây dựng

Chính phủ điện tử, thiếu quy định cụ thể về xác thực cá nhân, tổ chức trong

các giao dịch điện tử cũng như các quy định pháp lý về văn thư, lưu trữ điện

tử, giá trị pháp lý của văn bản điện tử trong giao dịch hành chính và thanh

toán. Cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử chưa đủ

mạnh cũng là nguyên nhân của việc thực hiện còn thiếu hiệu quả và mang

nặng tính hình thức. Giải pháp trước mắt đó là cần phải có những quy định

mới hoặc cụ thể hơn về chữ ký điện tử, chữ ký số, chứng thư số, đây là những

vấn đề quan trọng nhằm định danh cá nhân trên mạng dữ liệu số.

Nền tảng thứ hai đó là về nguồn nhân lực, nếu có nhân sự đáp ứng

được yêu cầu, công nghệ có thể xóa nhòa khoảng cách và giúp người dân ở

những vùng khó khăn tiếp cận được dịch vụ công. Về phía chính quyền, việc

đào tạo cho công chức phải được tính tới, cần phải có những nhóm chuyên

viên liên quan tới lĩnh vực công nghệ trong cán bộ, công chức. Về phía người

dân, cần phải tuyên truyền, phổ biến hỗ trợ cho các nhóm người trong xã hội

tiếp cận với dữ liệu công, dịch vụ công trực tuyến. Nên xây dựng các lớp bồi

dưỡng kiến thức cho người dân biết cách sử dụng công nghệ trong tương tác

với chính quyền. Ở một số quốc gia trên thế giới, đi cùng với dịch vụ công

trực tuyến là có các tổ chức hỗ trợ người dùng trong việc sử dụng các dịch vụ

đó. Nhìn vào bối cảnh Việt Nam, giải pháp tốt hơn hết là việc Đoàn Thanh

niên kết hợp cùng các tổ chức, đoàn tình nguyện hỗ trợ người dân trong công

việc này.

2.2.1.3. Thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững

của Liên Hợp Quốc ( Sustainable Development Goals – SDGs)

Các Mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development Goals –

SDGs) là một bộ mục tiêu kèm chỉ dẫn mới và phổ quát mà các nước thành

viên Liên Hợp Quốc được trông đợi sẽ áp dụng vào chương trình nghị sự và

các chính sách chính trị của mình trong 15 năm tiếp theo.

Bộ mục tiêu SDGs tiếp nối và mở rộng dựa trên Các mục tiêu phát triển Thiên

61

niên kỷ (Millennium Development Goals – MDGs) được chính phủ các nước

thống nhất vào năm 2001 và hết hạn vào cuối 2019. “CHỦ ĐỘNG THAY

ĐỔI THẾ GIỚI TRONG 17 BƯỚC – Đó là điều mà Liên Hợp Quốc cũng

như chương trình nghị sự 2030 nhắm tới.”

Việc thực hiện SDGs sẽ mang tới những thuận lợi cực lớn cho việc

phát triển các điều kiện tham gia OGP của Việt Nam, đặc biệt là mục tiêu số

16 : Xã hội hòa bình, công bằng và thể chế vững chắc. Mục tiêu chính của

SDG#16 bao gồm tất cả các mục tiêu quan trọng của OGP , các yếu tố chung

giữa OGP và SDG#16 là tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, khả năng đáp

ứng và sự tham gia vào các hoạt động của chính phủ.

Bảng 1: So sánh các mục tiêu chính của SDG#16 và OGP

Mục

tiêu

chính

của

Tầm nhìn của OGP

SDG#16

Thúc đẩy xã hội hòa bình và

có tính bao trùm vì phát

Xây dựng chính phủ minh bạch, trách nhiệm giải trình và đáp

triển bền vững, tạo khả năng

ứng tốt hơn với mục tiêu cuối cùng nhằm nâng cao các chính

tiếp cận công lý cho tất cả

sách và các dịch vụ công cũng như mức độ và phạm vi tham gia

mọi người và xây dựng các

của người dân. Để đạt được điều này cần có những thay đổi

thể chế hiệu quả, có trách

trong các quy chuẩn và tập quán văn hóa nhằm đảm bảo sự đối

nhiệm và toàn diện ở mọi

thoại cởi mở và chân thành giữa chính phủ và XHDS.

cấp độ

Mục

tiêu

cụ

thể

của

Bằng việc ký vào Tuyên bố chung về Đối tác Chính phủ Mở,

SDG#16

chính phủ các quốc gia thành viên cam kết:

16.3: Thúc đẩy pháp quyền

ở cấp quốc gia và quốc tế và

bảo đảm sự tiếp cận công lý

Tạo ra các cộng đồng an toàn hơn.

bình đẳng cho tất cả mọi

người

Bảng 2: So sánh mục tiêu hướng tới của OGP và SDG

62

Xây dựng các chính sách, cơ chế và thực tiễn đẩy mạnh phòng

chống tham nhũng, bao gồm: khung pháp lý và chính sách nhằm

16.5: Giảm đáng kể tham

ban hành và thực thi các tiêu chuẩn đạo đức và quy tắc ứng xử;

nhũng và hối lộ dưới mọi

công khai thu nhập và tài sản của các quan chức cấp cao trong

hình thức.

chính phủ; bảo vệ những người tố cáo tham nhũng; và ngăn chặn

mạnh mẽ nạn hối lộ và các hình thức tham nhũng khác.

Tăng cường tiếp cận thông tin về các hoạt động của chính phủ

16.6: Xây dựng các thể chế

bằng cách: tăng cường tiếp cận thông tin và công khai ở tất cả

minh bạch, hiệu quả và có

các cấp trong chính phủ; xây dựng các biện pháp khắc phục hiệu

trách nhiệm giải trình ở tất

quả các thông tin bị che giấu; và tìm kiếm phản hồi từ công

cả các cấp

chúng để xác định những thông tin có giá trị nhất.

Các mục tiêu của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững

đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua và ban hành Kế hoạch hành động

quốc gia thực hiện vào tháng 5 năm 2017 ( Quyết địn hsố 622/QĐ –TTg

ngày 10/05/2017). Chương trình Nghị sự 2030 cũng đã được đưa vào các

nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội và Chính

phủ với 115 mục tiêu cụ thể phù hợp với bối cảnh và những ưu tiên phát

triển của quốc gia được phân kỳ giai đoạn 2017 – 2020 và 2020 – 2030. Các

nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2017 – 2020 là hoàn thiện hệ thống thể chế phát

triển bền vững, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về phát triển quốc gia;

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách theo hướng điều

chỉnh, bổ sung, ban hành mới nhằm bảo đảm khung pháp lý đầu đủ; Thực

hiện các hoạt động truyền thông, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của

toàn xã hội. Đây là bước đi cực kì đúng đắn của Việt Nam vì thực hiện cam

kết với cộng đồng quốc tế, đóng góp có trách nhiệm vào các nỗ lực chung

của thế giới, đồng thời cũng là sự bảo đảm cho tương lai được tham gia và

thụ hưởng các thành quả của sự phát triển, xây dựng được một VIệt Nam

dân chủ, công bằng, văn minh.

Có thể thấy Chính phủ Việt Nam tích cực, cố gắng trong việc thực hiện

kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì mục

63

tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình này lại khuyết thiếu đi sự

tham gia của doanh nghiệp, tổ chức trong nước, khu vực tư nhân. Đây rõ ràng

là một nguồn lực có thể đóng góp một phần quan trọng trong việc thực hiện

Chương trình nghị sự của Liên Hợp Quốc. Ở hầu hết các quốc gia, các tổ

chức xã hội đã xây dựng được các liên minh và mạng lưới của mình trong quá

trình thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và vận động cho

SDG và OGP. Bên cạnh đó, các liên minh toàn quốc cũng nằm trong các lĩnh

vực mục tiêu cụ thể chủ chốt của SDG#16 như quyền tiếp cận thông tin, minh

bạch ngân sách, sự tham gia của người dân,... Vì vậy việc gia nhập hay xây

dựng ra liên minh các tổ chức xã hội, doanh nghiệp là giải pháp cần thiết để

thúc đẩy chương trình nghị sự.

Các mạng lưới quốc gia và quốc tế đã phải nỗ lực rất nhiều để có thể

lồng ghép các mục tiêu SDG vào ưu tiên của các chính sách phát triển. Tuy

nhiên, rất nhiều thử thách còn đang ở phía trước vì thiết lập và thực hiện công

cuộc cải cách quản lý là cực kỳ khó khăn. Điều quan trọng hơn là không chỉ

duy trì những mạng lưới thúc đẩy phối hợp, hợp tác giữa các bên trong thực

hiện SDG mà còn phải nâng chúng lên tầm cao mới. Rất nhiều diễn đàn, đối

thoại được tổ chức hàng năm như Hội nghị quốc gia về phát triển bền vững,

Diễn đàn Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững và Diễn đàn cải cách và

phát triển Việt Nam (VRDF). các đối tác phát triển sẽ giúp Chính phủ mời các

chuyên gia quốc tế về các lĩnh vực mà Việt Nam đang ưu tiên quan tâm, tới

Diễn đàn để chia sẻ kinh nghiệm, trình bày các nghiên cứu và những ý kiến

gợi mở với Chính phủ. Chúng ta cần gia nhập hay tạo ra nhiều hơn những

mạng lưới như vậy để có thể học hỏi, chia sẻ kiến thức.

Gia nhập và/hoặc thúc đẩy các cơ chế đối thoại giữa chính phủ và tổ

chức xã hội dân sự trong việc lập kế hoạch và thực hiện SDG. Mối quan hệ

giữa chính phủ và xã hội dân sự không như nhau giữa các nước, có thể khác

nhau từ chào đón đến không tồn tại hoặc thậm chí đối nghịch. Việc đánh giá

tình hình kinh tế chính trị là cần thiết để thiết lập nên một chiến lược hợp tác

64

khả thi giữa chính quyền và tổ chức xã hội dân sự. Ngoài việc thúc đẩy

chương trình nghị sự 2030, việc có các cơ chế đối thoại giữa chính phủ và tổ

chức xã hội sẽ góp phần là cơ sở cho việc thực hiện các tiêu chuẩn của OGP.

2.2.1.4. Xây dựng cổng thông tin minh bạch tài chính

Tính minh bạch tài khóa cho phép cuộc tranh luận được thông tin tốt

hơn bởi cả các nhà hoạch định chính sách và công chúng về thiết kế và kết

quả của chính sách tài khóa, và thiết lập trách nhiệm cho việc thực hiện. Để

củng cố uy tín và sự hiểu biết của công chúng về các chính sách và lựa chọn

kinh tế vĩ mô, sự minh bạch tài khóa thúc đẩy tiếp cận thuận lợi hơn với thị

trường vốn trong nước và quốc tế. Nó cũng giúp làm nổi bật các rủi ro tiềm ẩn

đối với triển vọng tài chính, dẫn đến phản ứng chính sách tài khóa sớm hơn và

suôn sẻ hơn với các điều kiện kinh tế thay đổi và do đó làm giảm tỷ lệ mắc và

mức độ nghiêm trọng của các cuộc khủng hoảng

Ở hầu hết các tài liệu, nghiên cứu và tiêu chuẩn đề xuất, bước đầu tiên

để minh bạch tài chính là sự cởi mở của dữ liệu và thông tin liên quan. Tuy

nhiên, tính sẵn có của thông tin không phải là mục tiêu của chính nó. Chìa

khóa để đạt được mục tiêu cuối cùng, đó là trách nhiệm công khai, minh bạch

và quản lý tài nguyên công hiệu quả hơn, làm cho dữ liệu có sẵn theo cách

cho phép: phân tích xu hướng tài chính theo cách thân thiện hoặc theo cách

cho phép dễ dàng sử dụng lại các dữ liệu và thông tin liên quan.

Cổng thông tin sẽ là một trang web chuyên đề cung cấp thông tin có thể

sử dụng lại về ngân sách công, các ưu tiên và chính sách được thúc đẩy và

thực hiện bởi chính phủ quốc gia và kết quả của họ. Một kênh mà thông qua

đó công dân có thể theo dõi việc thực hiện tài chính của các chương trình của

chính phủ. Mục tiêu là nâng cao tính minh bạch của quản lý công, cho phép

công dân theo dõi và giám sát cách sử dụng tiền công.

Cổng thông tin này sẽ là được xây dựng dưới nền tảng nguồn mở, có

nghĩa là những người có quyền hạn sẽ có thể xem, sử dụng và chia sẻ cho bất

kỳ ai. Điều này sẽ đảm bảo mức độ tin cậy của thông tin ngân sách được công

65

bố. Cổng thông tin không phải nơi tập hợp lại các tài liệu về ngân sách được

công bố mà nó phải được cấu trúc lại dưới dạng mô hình trực quan một cách

đơn giản nhất tập trung những số liệu trọng tâm nhất sẽ được thể hiện ra ở

trên đó. Bởi vì, theo khảo sát của Ngân hàng thế giới, người dân ít tiếp cận

với các báo cáo liên quan ngân sách, dự toán ngân sách một phần nguyên do

các tài liệu này được trình bày theo một dạng phức tạp mang tính chuyên môn

cao chỉ những người có hiểu biết cụ thể có thể giải đọc được. Đồng nghĩa với

việc ngân sách nhà nước được công khai nhưng vẫn bị thiếu sự minh bạch.

Cổng thông tin này có thể giống như các trang điện tử chính phủ ở các

miền như gov.vn với tên địa chỉ tiếng anh hoặc tiếng việt phù hợp tương tự

như cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà Chính phủ mới xây

dựng https://dangkykinhdoanh.gov.vn.

Các số liệu dự kiến ban đầu có thể được mô tả ở cổng thông tin: dữ liệu

về chuyển giao trung ương cho và địa phương, thanh toán cho chính phủ,

thông tin về công chức. Sau đó có thể thêm nhiều thông tin hơn tập trung vào

các dạng dữ liệu:

1) Chi tiêu trực tiếp của các cơ quan chính phủ thông qua các hợp đồng và

quy trình đấu thầu, mua sắm công

2) Tất cả các điều chuyển tài sản cho các địa phương

3) chuyển giao vốn cho các nhà từ thiện; các chương trình viện trợ

4) Chi tiêu hành chính, bao gồm lương nhân viên, chi phí đi lại của nhân viên

và chi phí đi lại và chi tiêu văn phòng

5) Thông tin về tất cả chi tiêu thẻ tín dụng chính thức của chính phủ

66

Hình 6. dữ liệu mua sắm công ở Slovak

Để làm được điều này thì Chính phủ cần phải đảm bảo dữ liệu tài chính

có sẵn theo các tiêu chuẩn hiện tại: dữ liệu phải được cung cấp ở định dạng

mở (ví dụ CSV, XLS hoặc XML), được cấp phép công khai, được cung cấp

kịp thời và trong bộ dữ liệu hoàn chỉnh.

Thường các chính phủ thường thiếu tài nguyên và năng lực để trình bày

thêm các chính sách và thông tin tài khóa theo cách thân thiện với người

dùng. Điều quan trọng là các chính phủ hợp tác với các bên liên quan khác và

tiết kiệm tài nguyên bằng cách xây dựng liên hệ với các nhà thông tin, tổ chức

phi chính phủ và xã hội dân sự để làm việc và phân tích dữ liệu tài chính.

Điều này có thể được thực hiện bằng cách tổ chức các cuộc hội thảo, cung cấp

các bản hướng dẫn. Điển hình như các hướng dẫn OECD’s Best Practice

Guidelines on Budget Transparency , International Budget Partnership: A

Government Guide to Developing Citizens Budgets, Procurement open data

guidelines by the Sunlight Foundation.

Sự tham gia hơn nữa của các tổ chức phi chính phủ, tuyên truyền và xã

hội dân sự là rất quan trọng. Chính phủ nên chủ động tìm cách đưa lên và tận

dụng các bộ dữ liệu thông tin tài chính mới và cho phép người khác sử dụng

lại dữ liệu và tái tạo lại nó. Tạo mối quan hệ đối tác với truyền thông, xã hội

67

dân sự và công dân bình thường có thể giúp tiết kiệm tài nguyên và cũng tạo

dựng niềm tin. Quan trọng nhất, cộng đồng quốc tế và địa phương phải thúc

đẩy hơn nữa sự thay đổi trong tư duy của chính phủ. Công dân đóng vai trò

trung tâm trong việc định hình các chính sách tài khóa và chính phủ càng sớm

nhận ra những gì công dân tiềm năng mang lại, chính phủ sẽ càng sớm nhận

được niềm tin, ca ngợi từ người dân

2.2.1.5. Tuyên truyền, vận động nhằm thu hút sự tham gia của cộng đồng

Trong kế hoạch tham gia vào OGP này cần có sự vận động nhằm tác

động đến mọi đối tượng liên quan nhằm giải bỏ những nghi ngờ, cho họ thấy

được lợi ích của việc tham gia OGP để họ có nhận thức đúng đắn, có hành

động thích đáng, chủ động, tích cực trong việc đóng góp vào công cuộc đổi

mới đất nước.

Việc tác động này đến từ nhiều bên, nhiều cách như thông qua báo chí,

tuyên truyền hay thực hiện các buổi nghiên cứu, hộ thảo chuyên sâu, tập trung

vào các cá nhân, tổ chức cần tác động:

- Các cơ quan của Đảng Cộng Sản: Đảng Cộng Sản Việt Nam là nơi đưa ra

những chủ trương, đường lối cho các hoạt động về chính trị, kinh tế, văn hóa

giáo dục,… Vì vậy cần phải tiếp cận, vận động họ có cái nhìn tích cực về khả

năng tham gia OGP của Việt Nam đặc biệt là các cơ quan như Ban Nội

Chính, Ban Tuyên giáo Trung ương.

- Các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ : Đây là các cơ quan trực tiếp chỉ đạo

thực thi đường lối, chính sách từ trung ương tới địa phương.

- Các tổ chức xã hội: các tổ chức này sẽ là đối tác quan trọng nhất của Chính

phủ trong việc thực hiện các cam kết nếu như Việt Nam tham gia OGP. Đặc

biệt ở Việt Nam hiện nay, Mặt trận tổ quốc Việt Nam là đầu mối liên minh

các tổ chức khác của hệ thống chính trị, nó có chức năng tư vấn, phản biện

chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước. Chức năng này rất gần gũi với

tiêu chí về sự tham gia của người dân của OGP. Bên cạnh đó, chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của Mặt trận tổ quốc Việt Nam cũng tạo điều kiện thuận

68

lợi cho nó thực hiện các hoạt động liên quan đến những tiêu chí khác của

OGP, bao gồm tiếp cận thông tin, minh bạch ngân sách và công khai tài sản

của quan chức nhà nước.

- Các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ : hầu hết tổ chức quốc tế, đối tác

phát triển và tổ chức phi chính phủ quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam đều

ủng hộ OGP. Việc tiếp cận họ sẽ dễ dàng hơn và khi có được sự ủng hộ từ

những tổ chức này thì việc tuyên truyền, giáo dục cho những đối tượng khác

sẽ thuận lợi hơn rất niều.

- Báo chí: báo chí đóng vai trò cực kì quan trọng nếu muốn triển khai việc

tuyên truyền hiểu biết rộng rãi tới toàn bộ người dân.

- Người dân nói chung: Họ là khâu quan trọng cho việc hiện thực hóa được

OGP tại Việt Nam bởi họ là những đối tượng trực tiếp nhất mà OGP hướng

tới. Phổ biến kiến thức giúp người dân hiểu được tầm quan trọng của OGP,

quan tâm tới Sáng kiến này.

2.2.2. Lộ trình thực hiện kế hoạch tham gia vào OGP

Xét về xu hướng phát triển, có thể thấy việc Việt Nam tham gia cơ chế

này là điều tất yếu. Theo đó, lộ trình cho OGP ở Việt Nam có thể phác thảo

như sau:

 Mục tiêu trước mắt: Đạt đủ tiêu chuẩn tham gia vào OGP

- Bổ sung, hoàn thiện khung pháp luật bảo đảm sự tham gia của người dân

nhằm gia tăng thêm số điểm cho tiêu chuẩn này. Luật về hội, họp, biểu tình cần

phải có chậm nhất là kết thúc năm 2020, đây cũng là thời điểm chúng ta kết

thúc chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị cũng là thời

điểm hoàn tất giai đoạn 1 của kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương

trình nghị sự 2030 vì mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc.

- Xây dựng mạng lưới và lựa chọn các đối tác trong và ngoài hệ thống chính

trị để thúc đẩy các hoạt động chuẩn bị cho OGP. Việc này có thể kết hợp thực

hiện trong quá trình tuyên truyền nâng cao nhận thức ở trên, tuy nhiên có thể

kéo dài thêm 6 tháng đến một năm nữa. Kết quả của việc này bao gồm việc

69

cải thiện khuôn khổ pháp lý để có Việt Nam đạt được thêm điểm để đủ điều

kiện tham gia OGP.

- Tuyên truyền nâng cao nhận thức về OGP: Hoạt động này nhằm làm cho hệ

thống chính trị và người dân hiểu rõ về OGP, những lợi ích mà nó mang lại,

xu hướng trên thế giới và sự cần thiết tham gia OGP của Việt Nam. Tuỳ theo

cách thức và khả năng vận động, việc này có thể kéo dài từ 6 tháng đến 01

năm. Trong ngắn hạn, việc tăng cường sự tham gia của người dân và quá trình

ra quyết định có chủ ý có thể gây ra hỗn loạn và không hiệu quả. Tuy nhiên,

đây lại là điều cần thiết để đạt được sự đồng thuận dựa trên thảo luận hợp lý

trên cơ sở thực tế hơn là tập trung vào thành kiến và đối lập... Nếu được áp

dụng phù hợp thì có thể xây dựng được mối quan hệ hợp tác dựa trên sự tin

cậy giữa chính phủ và công dân trong dài hạn.

- Thực hiện kế hoạch đào tạo đôi ngũ cán bộ, công chức chuyên môn, chuyên

nghiệp như cử đi học tập hoặc mở các lớp mời các kĩ thuật viên, chuyên viên

về giảng giải. Thực hiện việc hướng dẫn cho người dân có thể tham gia vào

các dịch vụ công, đưa lên nhiều dịch vụ công trực tuyến như đăng ký doanh

nghiệp, y tế, viễn thông, internet, báo chí… đồng thời đơn giản hóa những thủ

tục, trình tự về các dịch vụ này để người dân có thể tiếp cận một cách dễ

dàng, hiệu quả.

 Mục tiêu dài hạn:

- Xây dựng nền tảng công nghệ thông tin, kỹ thuật đồng thời nghiên cứu về

khả năng thực hiện các công nghệ mới như blockchain ( khối chuỗi). Về thực

hiện chiến lược này không phải là biện pháp nhanh chóng mà cần thời gian

dài để chuẩn bị và triển khai. Mục tiêu của giai đoạn đầu là ít nhất trong vòng

5 năm thiết lập được cơ sở kỹ thuật hoàn chỉnh và có những bước đầu về đưa

kỹ thuật blockchain vào thí điểm ở một số lĩnh vực như logistics, viễn thông,

tài chính, ..

- Về lâu dài của xây dựng thành công nền tảng công nghệ thông tin, đó là việc

phát triển chính phủ điện tử lên tầm cao hơn là chính phủ số. Đây là bước tiến

70

chung cũng như phù hợp với Việt Nam khi tiến tới cách mạng công nghệ 4.0,

số hóa.

- Xã hội hóa các dịch vụ công tăng cường sự tham gia, giám sát của người

dân vào quá trình thực hiện các dịch vụ công cộng một mặt gia tăng hiệu quả

thực thi, một mặt giảm đi áp lực cho nhà nước.

- Tiếp tục thực hiện kế hoạch quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030

vì phát triển bền vững. Việt Nam đã triển khai và thực hiện được 2 năm còn 1

năm cuối trong giai đoạn đầu tiên 2017-2020.

- Hỗ trợ Nhà nước thực thi các cam kết về OGP. Việc này cần thực hiện sau

khi Việt Nam đã trở thành thành viên OGP. Hỗ trợ cũng chủ yếu về kỹ thuật

(tuyên truyền, phổ biến về OGP, giải quyết những tranh chấp...)

- Cải tổ lại bộ máy hành chính công hiện nay đang ghồ ghề và phức tạp gây

khó khăn trong việc thực hiện các công việc, chính sách công đồng thời

không bảo đảm được trách nhiệm giải trình.

- Tăng cường, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế sâu rộng. Tích cực tìm kiếm

sự ủng hộ từ các quốc gia khác, các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp nước

ngoài, tạo được các vốn đầu tư giúp Chính phủ thực hiện được các chiến lược

quốc gia.

2.3. Tiểu kết chương 2

Chương 2 là những đánh giá về thực trạng, thực tiễn thực thi các chính

sách, pháp luật liên quan tới các tiêu chuẩn cốt yếu của OGP về minh bạch tài

khóa, sự tham gia của người dân, công khai tài sản, tiếp cận thông tin và kiểm

tra giá trị của Việt Nam. Từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục,

hoàn thiện và củng cố những khó khăn, khiếm khuyết tồn đọng và đặt ra một

lộ trình chung cho việc tiến vào ngưỡng cửa OGP cho Việt Nam.

71

KẾT LUẬN

Các nhà nước trên thế giới đang chuyển đổi. Nhận thức và những biểu hiện

thực tế về vị trí, vai trò, chức năng, cách thức quản trị của các nhà nước đã và

đang thay đổi rất nhiều so với trước đây. Sự chuyển đổi đó do nhiều yếu tố

khách quan chi phối, và dựa trên cơ sở lý luận về quản trị công mới mà được

thể hiện một cách rõ rệt nhất qua mô hình Chính phủ mở. Mặc dù vẫn còn

một số nội dung chưa cụ thể, song các lý thuyết về quản trị công mới và

Chính phủ mở đang được hoàn thiện và đã chứng minh tính chất hợp lý, hiện

thực của nó trong thực tế. Quản trị công mới và biểu hiện của nó là Chính phủ

mở là xu thế mang tính quy luật trên thế giới trong thế kỷ 21. Xét tổng quát,

không quốc gia nào có thể đứng ngoài hay đi ngược quy luật đó. Đặc biệt

trong bối cảnh quốc tế chung, từ phản ứng dữ dội của người dân chống lại

toàn cầu hóa, bất bình đẳng ngày càng gia tăng, và tình trạng thao túng của

giới tinh hoa cầm quyền đang thúc đẩy chủ nghĩa dân túy và hệ tư tưởng

chính trị phản động. Niềm tin vào chính phủ đang ở mức thấp nhất trong lịch

sử. Các chính phủ đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng về tính pháp

lý, và họ cần phải hoạt động một cách đáng tin cậy để giải quyết các mối quan

ngại của người dân.

Mặc dù còn có những bất cập, hạn chế, song kể từ Đổi mới (1986) đến

nay, Việt Nam đã và đang có những nỗ lực lớn nhằm thúc đẩy quản trị tốt

trong tất cả các lĩnh vực, trong đó đặc biệt là cải cách hành chính và đấu tranh

phòng, chống tham nhũng. Việc tham gia OGP không chỉ thúc đẩy công cuộc

chống tham nhũng, mà quan trọng hơn sẽ mở ra một triển vọng mới cho việc

cải cách quản trị nhà nước ở Việt Nam theo hướng hiện đại, phù hợp với xu

thế chung trên thế giới hiện nay cũng như đáp ứng các yêu cầu của toàn cầu

hoá, hội nhập quốc tế.

Với lần đánh giá gần nhất ( 2017), Việt Nam còn thiếu 4 điểm so với số

điểm tối thiểu của OGP, với tình hình hiện nay ở Việt Nam, khả năng đạt

72

thêm điểm nữa để đủ điều kiện (12 điểm) gia nhập OGP là khả quan khi mà

Luật Ngân sách nhà nước 2015 sẽ được tính tới, Luật phòng, chống tham

nhũng mới được sửa đổi, bổ sung cùng với tiềm năng về Luật về Hội; Luật

Tín ngưỡng, Tôn giáo; Luật biểu tình, và đang nghiên cứu ý kiến đề xuất xây

dựng Luật phản biện, giám sát xã hội. Việt Nam hoàn toàn có khả năng tham

gia và hoà nhập tốt trong thiết chế OGP nếu có quyết tâm chính trị đủ mạnh

và sự tích cực, chủ động trong công tác tổ chức. Khóa luận đã đưa ra những

đề xuất trong đó cần sửa đổi, bổ sung hoàn thiện khung pháp lý phù hợp tới

các tiêu chuẩn của OGP, đề ra những giải pháp cụ thể mang tính thực tiễn

cao. Bên cạnh đó, nhà nước cũng cần phải có sự liên kết, hợp tác trong khuôn

khổ song phương, khu vực hay các diễn đàn quốc tế. Cần phải đặt nhẹ các lợi

ích riêng, cá nhân sang một bên mà nhìn về sự phát triển chung của cả đất

nước như cải thiện mối quan hệ giữa Chính phủ với các tổ chức xã hội, giữa

Nhà nước với người dân. Đồng thời đề ra lộ trình trước mắt cũng như tầm

trung, dài hạn cho việc tham gia OGP cũng như việc cải thiện, duy trì những

nguyên tắc chung của Sáng kiến đối tác Chính phủ mở.

Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân em đã cố gắng tìm hiểu,

nghiên cứu ở nhiều nguồn tài liệu khác nhau, nhưng do những hạn chế về

trình độ hiểu biết đồng thời do tính chất mới mẻ của OGP nên không tránh

khỏi những thiếu sót, khiếm khuyết nhất định. Rất mong nhận được sự bỏ qua

của các thầy cô. Em xin trân trọng cảm ơn.

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. CECODES, VFF-CRT & UNDP (2016). Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành

chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) 2015, tr. xxii

2. Chính phủ, Quyết định số 622/QĐ- TTQ 10/05/2017 Quyết định về việc

ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030

vì sự phát triển bền vững

http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_

id=2&mode=detail&document_id=189713&category_id=0

3. Chính phủ(2009), Nghị quyết số 21/NQ-CP, Nghị quyết ban hành chiến

lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020.

4. Chí Kiên (2018), Xây dựng chính phủ điện tử 2018: một số kết quả tích

cực, truy cập vào ngày 04/04/2019 tại

http://egov.chinhphu.vn/xay-dung-chinh-phu-dien-tu-2018-mot-so-ket-qua-

tich-cuc-a-NewsDetails-37624-14-186.html

5. Đổi mới sáng tạo (2018), Thực trạng xây dựng chính phủ điện tử ở Việt

Nam, truy cập vào ngày 04/04/2019 tại

https://doimoisangtao.vn/news/2018/8/15/chnh-ph-in-t-phn-3-thc-trng-xy-

dng-chnh-ph-in-t-vit-nam

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện đại hội Đảng lần thứ 12, Báo

cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2011

– 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2016-

2020, tr. 28,29

7. Hoàng Mẫn (2018), Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ngày càng đi vào

chiều sâu, truy câp vào ngày 04/04/2019 tại http://dangcongsan.vn/thoi-

su/viec-thuc-hien-quy-che-dan-chu-co-so-ngay-cang-di-vao-chieu-sau-

490541.html

8. Khoa Luật và Hướng tới Minh bạch (2019), Hội thảo Chính phủ mở, Chính

phủ điện thử và quản trị nhà nước hiện đại, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội.

74

9. Jonathan Pincus (2015), Báo cáo đầu vào cho Báo cáo Việt Nam 2035

cập vào ngày 05/04/2019 tại https://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/tieudiem/bi-

10. Khắc Giang(2019), Bí mật nhà nước – vùng cấm và quyền được biết, truy

mat-nha-nuoc-vung-cam-va-quyen-duoc-biet-497406.html

11. Lê Trung Nghĩa (2018), Hiểu đúng về chính phủ mở, truy cập vào ngày

03/04/2019 tại http://tiasang.com.vn/-dien-dan/Hieu-dung-ve-chinh-phu-Mo-

14077

12. Nguyễn Minh Phương (2015), Vai trò của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện

nay, truy cập vào ngày 03/04/2019 tại

http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Chinh-tri-Xa-

hoi/Vai-tro-cua-xa-hoi-dan-su-o-Viet-Nam-hien-nay-265.html

13. Nguyễn Thị Kiều Viễn(2015), “ Chính phủ mở - con đường phía trước”,

truy cập vào ngày 28/03/2019 tại https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-phu-

mo-con-duong-phia-truoc-215384.html

14. Sáng kiến Minh bạch và Trách nhiệm giải trình (2015) ,Số phát hành đặc

biệt Hướng dẫn về Chính phủ Mở: Thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì

sự phát triển bền vững.

15. Trung tâm Nghiên cứu Quản trị Xã hội (CENSOGOR), tổ chức Hướng tới

Minh bạch (TT) với Nhóm làm việc thúc đẩy OGP tại Việt Nam(2016), Báo

cáo Nghiên cứu về khả năng tham gia Sáng kiến Đối tác Chính phủ mở

(OGP) của Việt Nam, tr. 54-55

16. Tổ chức Minh bạch Quốc tế (2018), Chỉ số cảm nhận tham nhũng của

Việt Nam năm 2018

17. Tuyên bố phổ quát về dân chủ ( Universal Declaration on Democracy)

được thông qua, không cần bỏ phiếu, bởi Hội đồng Liên Nghị viện tại kỳ họp

61, Cairo, Ai Cập ngày 16 tháng 9 năm 1997.

18. Thời báo tài chính, Hơn 1,136 triệu người kê khai tài sản, mới xác minh

được 44 người, 17/09/2018, truy cập vào ngày 02/04/2019

http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/thoi-su/2018-09-17/hon-1136-trieu-

75

nguoi-ke-khai-tai-san-moi-xac-minh-44-nguoi-62061.aspx

19. Vì sao chỉ số công khai ngân sách của Việt Nam đạt thấp nhưng vẫn là “

đỉnh cao về minh bạch”?, 02/06/2018 truy cập vào ngày 03/04/2019 tại

http://cafef.vn/vi-sao-chi-so-cong-khai-ngan-sach-cua-viet-nam-dat-thap-

nhung-van-la-dinh-cao-ve-minh-bach-20180602135229064.chn

20. Opengovguide, In colombia citizens oversight organizatións can supervise

the entire public contracting process

http://www.opengovguide.com/country-examples/in-colombia-citizens-

oversight-organizations-can-supervise-the-entire-public-contracting-process/

21. Open gorvenment partnership, Values check assessment, 06/2018, truy

cập vào ngày 29/03/2019

ạihttps://www.opengovpartnership.org/resources/eligibility-criteria

22. Open gorvenment partnership (2018), The skeptic’s Guide to Open

Government.

23. OECD(2017), Recommendation of the Council on Open Government, pp. 3.

24. OECD(2011), Asset Declarations for Public Officials: A Tool to Prevent

Corruption, Fighting Corruption in Eastern Europe and Central Asia, pp.19

25. Guillán Montero, Aránzazu (2015) OGP and transparency in Chile:

Balancing leadership, implementation capacity and ambition, Bergen, U4

Anti-Corruption Resource Centre. And Schneider, Jordan, 10/2015.

26. Puhovski, Tamara (2015), "Permanent Dialogue Mechanisms in

Romania", được trình bày tại Ngày Kết nối, Hội nghị Toàn cầu OGP, ngày

27/3/2015 và Francoli, Mary, Alina Ostling và Fabro Steibel (2015) "From

Informing to Empowering: Improving Government-Civil Society Interactions

within OGP", Hivos-IDRC, Ottawa:

https://www.opengovpartnership.org/countries/case-study/informing-

empowering-improving-government-civil-society-%20interactions-within-

ogp-0

27. The Economist Intelligence Unit(2018), Economist Intelligence Unit’s

76

Democracy Index, truy cập vào https://www.eiu.com/topic/democracy-index

28. Tim Hughes (Involve), Kaela Scott (Involve), và Paul Maassen (Open

Government Partnership) (2017), OGP guidance : Improving public services.

29. Vinay Bhargava và Sarah Littlei(2015), Sáng kiến Đối tác Chính phủ Mở

và Mục tiêu Phát triển Bền vững Số 16 : Những điểm tương đồng và khác

biệt, tr.1-2

30. World Bank(2018), Xử lý số liệu từ World Governance Indiators, truy cập

vào ngày 02/04/2019 tại https://datacatalog.worldbank.org/dataset/worldwide-

governance-indicators

31. WorldBank, Public Expenditure Tracking System (PETS), truy cập vào

ngày 29/03/2019 tại

http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/TOPICS/EXTPUBLICSEC

TORANDGOVERNANCE/0,,contentMDK:23265534~pagePK:148956~piP

K:216618~theSitePK:286305,00.html

77