KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:

THỰC TRẠNG VỐN CHỦ SỞ HỮU CỦA CÁC NGÂN HÀNG

THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ SỨC ÉP TĂNG VỐN TRONG THỜI

GIAN TỚI NHẰM PHÙ HỢP VỚI BỐI CẢNH HỘI NHẬP

Họ và tên sinh viên : Dƣơng Hoàng Kim Ngân

: A19

Lớp

Khóa

: 42

Giáo viên hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Hiền

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG

MỤC LỤC Hà Nội, tháng 11 năm 2007

Trang

Mục: Lời mở đầu

1

Chƣơng I: Lý‎ luận chung v‎ề Vốn Chủ Sở Hữu và Hệ số an toàn vốn của các

Ngân hàng thƣơng mại 3

I. Tổng quan về Ngân hàng thƣơng mại 3

1. Khái niệm 3

2. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại 4

3. Ngân hàng _ ngành kinh doanh có độ rủi ro cao 5

II. Vốn chủ sở hữu và Hệ số an toàn vốn (CAR) của ngân hàng thƣơng mại 5

1. VCSH đối với NHTM 5

1.1. Khái niệm 5

1.2. Các thành phần của VCSH tại các NHTM 7

1.2.1. Phân loại theo sự hình thành nguồn vốn 7

1.2.2. Phân loại theo Hiệp ước Basel 10

1.3. Vai trò của VCSH đối với NHTM 12

1.3.1. Tấm đệm chống đỡ rủi ro, bảo vệ người gửi tiền/k‎ý thác, và các quỹ

bảo hiểm tiền gửi 13

1.3.2. Tạo điều kiện cho sự thành lập và hoạt động ban đầu của NHTM 14

1.3.3. Tạo niềm tin cho người gửi tiền và thu hút tiền gửi 15

1.3.4. Cung cấp nguồn lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển 15

1.3.5. Phương tiện điều chỉnh hoạt động và điều tiết sự tăng trưởng 15

2. Hệ số an toàn vốn CAR (Capital Adequacy Ratio) 16

2.1. Hệ số an toàn vốn CAR 16

2.1.1. Hệ số CAR theo Hiệp ước Basel I 16

2.1.2. Hệ số CAR theo Hiệp ước Basel II 19

2.2. Vai trò của hệ số CAR trong việc xác định một quy mô VCSH thích

hợp đối với NHTM 21

III. Kinh nghiệm tăng VCSH của NHTM tại một số nƣớc và bài học cho

Việt Nam 21

1. Trung Quốc 22

2. Thái Lan 26

3. Hàn Quốc 28

4. Ba Lan 29

5. Hình thức liên kết vốn “Tập đoàn tài chính” tại một số nước phát triển 30

2

6. Bài học cho Việt Nam 32

Chƣơng II: Thực trạng Vốn chủ sở hữu của các NHTM Việt Nam 33

I. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam 34

1. Lịch sử hình thành và phát triển 34

2. Khái quát những thành tựu của hệ thống NHTM Việt Nam thời gian qua 36

3. Phân tích SWOT của các NHTM Việt Nam 38

II. Thực trạng VCSH và Hệ số an toàn vốn của các NHTM Việt Nam 40

1. Thực trạng 40

1.1. Bộ phận NHTMNN 40

1.2. Bộ phận NHTMCP 40

1.3. Bộ phận NHTM Liên doanh 44

2. Đánh giá thực trạng VCSH và hệ số an toàn vốn của các NHTM

Việt Nam 49

2.1. Những thành tựu 49

2.2. Những hạn chế 52

3. Nguyên nhân của thực trạng VCSH và hệ số an toàn vốn của các

NHTM Việt Nam 58

3.1. Nguyên nhân của những tiến bộ 58

3.2. Nguyên nhân của những tồn tại 60

Chƣơng III. Một số giải pháp tăngvốn chủ sở hữu cho các NHTM

Việt Nam nhằm phù hợp với sức ép tăng vốn của bối cảnh hội nhập 64

I. NHTM Việt Nam trƣớc sức ép tăng vốn trong bối cảnh hội nhập

1. Xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế 64

2. Hội nhập trong lĩnh vực Ngân hàng ở Việt Nam 64

3. Sức ép tăng vốn trong bối cảnh hội nhập 65

3.1. Sức ép cạnh tranh từ phía các định chế tài chính nước ngoài 66

3.1.1. Hội nhập theo Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ 67

3.1.2. Hội nhập theo các hiệp định của ASEAN và WTO 68

3.1.3. Yêu cầu quy mô VCSH lớn 68

3.2. Phạm vi và chất lượng hoạt động được mở rộng đòi hỏi VCSH lớn 72

3.2.1. Số lượng và quy mô nhu cầu về dịch vụ NH tăng đòi hỏi VCSH lớn 73

3

3.2.2. Quy mô hoạt động mở rộng để tận dụng lợi ích kinh tế theo quy mô 74

3.2.3. VCSH lớn để vượt qua những giới hạn kinh doanh đặt ra từ phía

các nhà quản lý 75

3.3. Sự gia tăng các yếu tố rủi ro trong hoạt động tài chính - ngân hàng

của bối cảnh hội nhập 77

III. Một số giải pháp tăng VCSH và Hệ số an toàn vốn cho các NHTM

Việt Nam 79

1. Đẩy mạnh triển khai cổ phần hóa đối với bộ phận NHTMNN 79

1.1.Tính cấp thiết và triển vọng

8079

1.2. Những vấn đề đối với việc CPH bộ phận NHTMNN 81

2. Đối với bộ phận NHTMCP và Liên doanh 85

2.1. Phát hành cổ phiếu, và trái phiếu có khả năng chuyển đổi 85

2.2. Thu hút đối tác chiến lược 87

3.Hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tài chính 89

3.1. Hợp nhất, sáp nhập để cải thiện năng lực tài chính 89

3.2. Hợp nhất, sáp nhập để thành lập tập đoàn tài chính mạnh 89

3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động, từ đó tăng lợi nhuận tích lũy 91

4. Tăng cường hệ số an toàn vốn 92

III. Một số kiến nghị nhằm góp phần tăng VCSH và hệ số an toàn vốn

đối với các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập 92

Kết luận 94

Danh mục tài liệu tham khảo 95

Danh mục bảng biểu 102

Phụ lục 1: Danh mục các bảng biểu phụ 103

Phụ lục 2: Cách phân loại vốn và “tài sản có” (nội và ngoại bảng) điều

chỉnh theo tỷ lệ rủi ro theo luật Việt Nam 106

4

Danh mục các chữ viết tắt

CPH : Cổ phần hóa

GT : Giá trị

NH : Ngân hàng

NHTM : Ngân hàng thương mại

NHTMQD : Ngân hàng thương mại quốc doanh

NHTMNN : Ngân hàng thương mại Nhà nước

NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần

NHTW : Ngân hàng Trung Ương

TCTD : Tổ chức tín dụng

TS : Tài sản

VCSH : Vốn chủ sở hữu

5

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đối với những khởi sắc

của nền kinh tế trong suốt thời gian qua là không thể phủ nhận. Như huyết mạch

của thị trường tài chính - tiền tệ nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung, các ngân

hàng thương mại đã luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc tận dụng và phát huy các

nguồn lực tài chính trong nước, đáp ứng nhu cầu tín dụng của đông đảo đối tượng

và thành phần kinh tế, phục vụ đắc lực cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy

nhiên, vị trí ấy đang bị lung lay, vì cùng với sự hội nhập quốc tế ngày càng chủ

động và tích cực hơn của Việt Nam trong thời gian gần đây, thị trường tài chính -

ngân hàng sẽ mở rộng cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc cạnh tranh là không

thể tránh khỏi, do đó năng lực cạnh tranh là vấn đề then chốt.

Bàn về năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, có

rất nhiều điều để trăn trở: trình độ phát triển thị trường và trình độ quản lý thấp, chất

lượng tài sản không cao, công nghệ ngân hàng lạc hậu, dịch vụ còn giới hạn,

v.v…Song, một trong những hạn chế lớn nhất, ảnh hưởng cơ bản nhất đến khả năng

cạnh tranh của các định chế tài chính này tại Việt Nam chính là tiềm lực tài chính

còn hết sức yếu kém, mà Vốn chủ sở hữu là thước đo cho tiềm lực ấy.

Nếu ngân hàng có thể hoạt động và lớn mạnh như một cây cổ thụ, thì vốn chủ sở

hữu chính là rễ của cái cây đó. Không chỉ tạo cơ sở hình thành và điều kiện mở rộng

cho ngân hàng, trong suốt quá trình hoạt động, nguồn vốn ấy luôn đóng vai trò là

tấm đệm chống đỡ mọi tổn thất đến từ lĩnh vực kinh doanh chứa đựng đầy rủi ro này.

Có thể nói, vốn chủ sở hữu là xuất phát điểm đầu tiên, và cũng là cứu cánh cuối

cùng cho mọi ngân hàng duy trì được sự tồn tại và phát triển của mình. Một mức

vốn chủ sở hữu đủ lớn sẽ giúp tránh được những vụ phá sản ngân hàng _ một tai họa

đem lại ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế có lẽ là hơn bất cứ loại hình doanh

nghiệp nào khác. Vì vậy, tìm hiểu sâu về thực trạng vốn chủ sở hữu của các ngân

hàng thương mại Việt Nam hiện nay, và những sức ép tăng nguồn vốn này trong

thời gian tới là một việc làm rất thiết thực và cấp bách, đặc biệt khi mà tài chính -

6

ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh nhất sau khi Việt Nam

gia nhập Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO) vào cuối năm 2006 vừa qua.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Thứ nhất, làm rõ những căn cứ l‎ý luận và thực tiễn để khẳng định vai trò thiết

yếu của vốn chủ sở hữu và hệ số an toàn vốn đối với các ngân hàng thương mại;

đồng thời nghiên cứu một số kinh nghiệm tăng vốn chủ sở hữu của các nước trên

thế giới, từ đó rút ra bài học cho Việt Nam.

Thứ hai, tìm hiểu và đánh giá thực trạng vốn chủ sở hữu và hệ số an toàn vốn

của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua, những kết quả,

tồn tại và nguyên nhân.

Thứ ba, phân tích sức ép tăng vốn chủ sở hữu đối với các ngân hàng thương mại

Việt Nam trong tương lai gần; từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị phù hợp

với điều kiện và tình hình của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.

3. Phạm vi nghiên cứu

Với thực tế là sức ép sẽ đến chủ yếu với bộ phận các ngân hàng thương mại bản

địa, cũng như mong muốn rằng các ngân hàng được thành lập bởi những nguồn lực

nước nhà không dần mất đi vị thế của mình trên thị trường, khóa luận chỉ xin tập

trung vào các ngân hàng thương mại do phía Việt Nam nắm quyền chi phối, bao

gồm các ngân hàng thương mại: Nhà nước, Cổ phần và Liên doanh, trong khoảng

thời gian từ năm 2000-2007.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Ngoài các phương pháp biện chứng trong nghiên cứu khoa học, Khóa luận chú

trọng sử dụng các phương pháp nghiên cứu: thống kê, tổng kết thực tiễn, phân tích

và khái quát.

5. Bố cục của Khóa luận

Chương I: Lý‎ luận chung v‎ề Vốn Chủ Sở Hữu và Hệ số an toàn vốn của các

ngân hàng thương mại.

Chương II: Thực trạng Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Chương III: Một số giải pháp tăng vốn chủ sở hữu cho các ngân hàng thương

mại Việt Nam nhằm phù hợp với sức ép tăng vốn của bối cảnh hội nhập.

7

Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Hiền, giảng viên khoa Tài Chính

Ngân Hàng của trường Đại học Ngoại Thương, đã hết sức tận tình chỉ bảo và giúp

đỡ em hoàn thành Khóa Luận này.

8

CHƢƠNG I

LÝ‎ LUẬN CHUNG V‎Ề VỐN CHỦ SỞ HỮU VÀ HỆ SỐ AN TOÀN VỐN

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI

I. Tổng quan về Ngân hàng thƣơng mại

1. Khái niệm

Ngân hàng (NH) là một trong các định chế tài chính quan trọng nhất của nền

kinh tế. Có thể định nghĩa NH qua các chức năng, dịch vụ, hoặc vai trò mà chúng

thực hiện, nhưng những yếu tố trên đang không ngừng thay đổi: Rất nhiều tổ chức

tài chính_bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, môi giới chứng khoán,

quỹ tương hỗ hay công ty bảo hiểm…đang nỗ lực cung cấp các dịch vụ ngân hàng;

Ngược lại, NH cũng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính

phi NH) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới

chứng khoán, đầu tư vào quỹ tương hỗ, v.v...Do đó, cách tiếp cận thận trọng nhất có

lẽ là xem xét NH trên phương diện những loại hình dịch vụ mà nó cung cấp. Theo

cách này:“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ

tài chính đa dạng nhất _ đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực

hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong

nền kinh tế” [10]. Cũng có một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu của

NH, ví dụ tại Việt Nam theo Điều 1_Khoản 3 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của

Luật các TCTD (số 20/2004/QH11): “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được

thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên

quan”, trong đó: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ

ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để

cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.

Có nhiều cách phân loại NH: Theo chức năng, có NHTW và NHTM; Theo mục

đích và phạm vi hoạt động có: NHTM, NH phát triển, NH đầu tư, NH chính sách,

NH hợp tác và các loại hình NH khác. Theo cách nào thì trong hầu hết mọi nền kinh

tế, NHTM vẫn thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số

lượng NH. Về cơ bản, có thể nói điểm phân biệt NHTM với các loại hình NH khác

là: NHTM hoạt động vì mục đích lợi nhuận (trong khi NHTW làm nhiệm vụ chính

9

là quản l‎ý, thực thi và giám sát chính sách tiền tệ, đóng vai trò điều tiết, là NH của

các NH trong nền kinh tế; còn các NH chính sách, phát triển hay đầu tư lại ưu tiên

thực hiện những chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, trợ giúp người nghèo,

đầu tư dự án, v.v…). Do đó khi nói đến NH, nhìn chung có thể hiểu đó là NHTM, vì

chúng thực hiện được tất cả những chức năng, nhiệm vụ và hướng tới cung cấp tất

cả những dịch vụ ngân hàng mà không bị giới hạn bởi các mục đích khác. NHTM

cũng được phân loại theo nhiều cách. Theo hình thức sở hữu: NHTM Nhà nước, tư

nhân, cổ phần, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài; Theo tổ chức hoạt động:

Bán lẻ và Bán buôn; Chuyên doanh và Đa năng; Theo cơ cấu tổ chức: Sở hữu công

ty và Thuộc sở hữu công ty; Đơn nhất và Có chi nhánh.

NHTM thực hiện những chức năng vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế:

- Trung gian tín dụng: Trong hầu hết mọi nền kinh tế, NH là tổ chức thu hút tiền

tiết kiệm lớn nhất: Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và các tổ chức

kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại NH, vì thế NH đóng vai trò thủ quỹ cho toàn xã hội;

Ngược lại, NH cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân,

hộ gia đình và một phần với Nhà nước (tỉnh, thành phố,...); Các khoản tín dụng của

NH cho Chính phủ (thông qua việc mua các chứng khoán của Chính phủ) là nguồn

tài chính quan trọng để đầu tư phát triển; Đối với các doanh nghiệp, NH thường là

tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ mua hàng hóa dự trữ, xây dựng nhà máy, mua

sắm trang thiết bị, v.v...

- Trung gian thanh toán: thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua

hàng hóa và dịch vụ bằng cách phát hành séc, thẻ, ủy nhiệm chi,…cung cấp mạng

lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy, tiền đúc.

- Tạo tiền: xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng và than toán mà NH có

khả năng “tạo tiền”. Từ một khoản tiền gửi ban đầu vào NH, thông qua cho vay

bằng chuyển khoản (vì không phải mọi khoản vay đều được rút ra bằng tiền mặt để

đưa vào lưu thông), các NH nhân số tiền đó lên rất nhiều lần.

2. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại

Các NHTM có những nghiệp vụ là: Nghiệp vụ tài sản nợ _ là nghiệp vụ huy

động, tạo nguồn vốn (với các dịch vụ như nhận tiền gửi, đi vay, phát hành kỳ phiếu,

trái phiếu, v.v.); Nghiệp vụ tài sản có _ là việc sử dụng những nguồn vốn tạo dựng

10

được vào các hoạt động kinh doanh (cho vay, thuê mua, tài trợ dự án, đầu tư chứng

khoán. v.v..) ; Nghiệp vụ trung gian (hoạt động ngoại bảng) _ là các nghiệp vụ mà

NHTM thực hiện căn cứ theo yêu cầu của khách hàng, thay mặt khách hàng thanh

toán, làm ủy thác,v.v.. để thu phí (bảo lãnh, đại l‎ý, quản l‎ý ngân quỹ, v.v..). Cùng

với sự phát triển của nền kinh tế cũng như ngành ngân hàng nói riêng, số dịch vụ mà

NHTM cung cấp cho ba nghiệp vụ nói trên hiện nay đã lên tới con số 6.000.

Với những chức năng và nghiệp vụ nói trên, NHTM có vai trò bôi trơn sự lưu

thông của tiền tệ, chuyển dịch vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, huy động và tạo

nguồn lực phát triển kinh tế, thực hiện các chính sách của Chính phủ (đặc biệt là

chính sách tiền tệ), góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục

tiêu xã hội.

3. Ngân hàng _ ngành kinh doanh có độ rủi ro cao

Lĩnh vực kinh doanh nào cũng luôn hàm chứa rủi ro, song đối với NH _ với tư

cách là một định chế tài chính đặc biệt _ nhân tố này lại càng là một yếu tố thường

trực và đa dạng hơn nữa. Các nhà quản trị NH liên tục phải đối mặt với vô số rủi ro

đến từ: sự thay đổi lãi suất (Rủi ro lãi suất), khả năng không thể chi trả đúng hạn của

khách hàng (Rủi ro tín dụng), nhu cầu rút vốn ồ ạt của khách hàng (Rủi ro thanh

khoản), những bất lợi trong tỷ giá (Rủi ro ngoại hối), Rủi ro công nghệ , Rủi ro hoạt

động ngoại bảng, Rủi ro quốc gia, chiến tranh, thay đổi chính sách thuế, v.v…

* Góp phần tạo nguồn lực làm nên những chức năng, vai trò đó của NHTM,

đồng thời hạn chế ảnh hưởng của vô số những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh

doanh ngân hàng nêu trên chính là yếu tố Vốn chủ sở hữu.

II. Vốn chủ sở hữu và Hệ số an toàn vốn (CAR) của ngân hàng thƣơng mại

1.Vốn chủ sở hữu đối với ngân hàng thương mại

1.1. Khái niệm

VCSH của NHTM có thể được hiểu là nguồn tiền thuộc sở hữu hợp pháp của

chủ NH trong một thời gian dài, chủ yếu bao gồm các khoản vốn NH được cấp,

hoặc được đóng góp bởi những người chủ ngân hàng khi mới thành lập, cộng với

những khoản được trích lập, giữ lại từ lợi nhuận hoạt động. Về cơ bản, cũng như các

11

loại hình doanh nghiệp khác, VCSH không phải hoàn trả, chủ NH có thể tăng, giảm

(với sự đồng ‎ý ‎của cơ quan chức năng), thay đổi cơ cấu của VCSH, hoặc quyết định

các chính sách phân phối lợi nhuận vốn dĩ có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn

này. Song, là một định chế tài chính đặc biệt, VCSH của NHTM mang một số điểm

riêng có như về thành phần của vốn, vai trò của vốn, v.v... Với chức năng là trung

gian tín dụng, NHTM chỉ lấy VCSH làm bàn đạp ban đầu; Còn lại, họ không ngừng

huy động tiền của các chủ thể khác trong xã hội và nền kinh tế để tài trợ cho các

hoạt động của mình. Do đó, ngay cả khi gia tăng về số lượng tuyệt đối theo đà phát

triển của NH, VCSH vẫn chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ, đôi khi là rất nhỏ (như trường

hợp các NHTM Việt Nam) trong tổng nguồn vốn của NH. ví dụ: tại Deutsche Bank

(một trong những NH hàng đầu Châu Âu và thế giới, có lịch sử từ năm 1876), đến

31/12/2006: Tổng nguồn vốn là 1.126 tỷ Euro, trong khi VCSH chỉ là 32,8 tỷ Euro

[43xxviii]. Tuy nhiên, chiếc bánh xe nhỏ ấy lại là khớp nối cho cả guồng máy ngân

hàng, đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm

bảo khả năng phát triển lâu dài của NHTM, đồng thời các thành phần của VCSH

cũng được phân loại một cách chi tiết để đáp ứng các công tác đánh giá vốn của NH

(sẽ đề cập ở các phần sau).

Năm 1988, Uỷ ban giám sát ngân hàng Basel (Basel Committee on Banking

Supervision) đã đưa ra văn bản: “Sự thống nhất quốc tế về đo lường vốn và các tiêu

chuẩn vốn” (International Convergence of Capital Measurement and Capital Standards ), trong đó đưa ra định nghĩa dựa trên các thành phần của vốn tại NHTM (Capital*)_ mà bản chất là VCSH. Từ đó đến nay, đặc biệt là trong thời gian gần đây

khi thị trường tài chính phát triển hết sức sôi động, hầu hết các NH trên thế giới đều

áp dụng những chuẩn mực phân loại đó. Các nhà kinh tế và học giả Việt Nam cũng

đi theo tinh thần của văn bản trên, song lại thiếu sự thống nhất về tên gọi. Điều này

khiến cho việc tìm hiểu bản chất của phạm trù VCSH sao cho đúng với thông lệ

quốc tế và pháp luật Việt Nam có phần phức tạp. Trong những tài liệu thuộc lĩnh

vực NH (của Việt Nam hoặc được dịch sang tiếng Việt), các tác giả đưa ra nhiều

cách gọi tên khác nhau khi đề cập đến VCSH của NHTM: “Vốn tự có”[7][11][13];

* Với các doanh nghiệp phi tài chính, VCSH tiếng Anh được gọi là: Shareholders’ equity, Stockholders’ equity, Ownership’s equity.

12

hoặc “VCSH”[4][5][6][10]; hoặc đồng nhất các khái niệm “Vốn”, “Vốn tự có”,

“VCSH” [12]. Trong các văn bản luật có liên quan, như Luật các tổ chức tín dụng

(Số 02/1997/QH10) Chương I_Điều 20_khoản 13 và bản sửa đổi bổ sung (Số

20/2004/QH11) Điều 1_khoản 3, hay trong một văn bản quan trọng có đề cập trực

tiếp những vấn đề về vốn của NH là Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong

hoạt động của TCTD (Số 457/2005/QĐ-NHNN) Phần II_Mục I_Điều 3, cũng chỉ

đưa ra khái niệm “Vốn tự có”. Tuy nhiên, như đã nói, xét về mặt bản chất, sau khi

tổng kết nội dung các cuốn sách, nghiên cứu khoa học, và báo chí của Việt Nam bàn

về vốn chủ tại NHTM, thì có thể thấy gốc rễ quan điểm của các tác giả đều thống

nhất; tuy cách gọi khác nhau nhưng nội hàm và ngoại diên đều tương tự và đi theo tinh thần lý luận của Hiệp ước Basel *. Vì vậy, để phù hợp với tính chất của VCSH

trong tương quan với các khoản Nợ, nhằm thấy rõ những nguồn lực thực sự thuộc

về chủ ngân hàng, trong khuôn khổ Khóa luận này, người viết xin sử dụng thuật ngữ

Vốn chủ sở hữu.

1.2. Các thành phần của VCSH tại các NHTM **

Có thể phân loại VCSH của NHTM theo một số tiêu chí khác nhau:

1.2.1. Phân loại theo sự hình thành nguồn vốn

a) VCSH ban đầu

Đây là nguồn vốn hình thành khi NH được thành lập. Tại Việt Nam, nó còn

được gọi là Vốn điều lệ _ ghi rõ trong điều lệ hoạt động của tổ chức. Vốn này có thể

được tạo ra bằng nhiều cách, tùy thuộc vào tính chất sở hữu của NH: Vốn của

NHTMNN do Nhà nước cấp từ ngân sách bằng tiền hoặc trái phiếu chính phủ; của

NHTM tư nhân do cá nhân tự ứng ra; của NHTM Liên doanh do các bên tham gia

liên doanh đóng góp; của NHTMCP do các cổ đông góp thông qua việc mua cổ

phiếu, và được tính theo mệnh giá cổ phiếu. Vốn điều lệ của NHTMCP bao gồm các

loại:

* Xem chi tiết ở mục 1.2.2 của phần này. ** Tham khảo ví dụ ở Bảng phụ1 và Bảng phụ 2 phần Phụ lục.

13

Vốn cổ phần phổ thông: được tính bằng mệnh giá của tất cả các cổ phiếu phổ

thông (cổ phiếu thường) đã phát hành, nghĩa là tổng số cổ phần chưa thanh toán

nhân với mệnh giá cổ phần.

Vốn cổ phần ưu đãi: được tính bằng mệnh giá của tất cả các cổ phiếu ưu đãi đã

phát hành. Cổ phiếu ưu đãi có thể là vĩnh viễn hoặc chỉ tồn tại trong một thời gian

nhất định, đảm bảo một tỉ lệ thu nhập cố định hoặc số phiếu biểu quyết nhiều hơn so

với cổ phiếu thường. Theo quyết định ngày 4/9/2001 của Thống đốc NHNN Việt

Nam quy định về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn điều lệ của NHTMCP của Nhà

nước và Nhân đân (Số 1122/2001/QĐ-NHNN) Chương II_Mục 1_Điều 7:

“NHTMCP có thể có cổ phần ưu đãi biểu quyết; Loại cổ phần này chỉ có giá trị

trong 3 năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng k‎‎ý kinh doanh. Sau thời hạn

đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết chuyển đổi thành cổ phần phổ thông”.

Trong nhiều trường hợp, mức vốn điều lệ của mỗi NH phải tuân thủ theo định

mức của các cơ quan quản lý Nhà nước _ mức vốn tối thiểu cần đáp ứng đó được

gọi là Vốn pháp định. Vốn điều lệ chủ yếu được dùng để mua sắm bất động sản,

động sản, trang thiết bị …phục vụ cho hoạt động của NH, bên cạnh đó còn dùng để

góp vốn liên doanh, cho vay, mua cổ phần của các công ty khác, chứ không được

dùng để chia lợi tức hay lập quỹ. Có nghĩa là, khi NH đi vào hoạt động, nguồn vốn

này có thể đã nằm dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, dự trữ hay k‎ý quỹ tại

NHTW, hoặc đã được đưa vào một vụ cho vay hay đầu tư nào đó. Ngoài ra, vốn

điều lệ có thể được tăng thêm, và ngược lại, cũng có thể bị buộc phải điều chỉnh

giảm. Tại Việt Nam điều này được quy định tại Điều 1_Khoản 1, Quyết định

797/2002/QĐ-NHNN ngày 29/7/2002 về sửa đổi bổ sung quyết định

1122/2001/QĐ-NHNN, trong đó nêu một số chi tiết như: “Vốn điều lệ của Ngân

hàng thương mại cổ phần có thể được tăng bằng cách phát hành cổ phiếu mới hoặc

được bổ sung từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, đánh giá lại tài sản cố định và các

quỹ khác…nhưng phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua và phải được Ngân

hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản trước khi thực hiện.”; “buộc phải giảm vốn

điều lệ: Lỗ trong 03 năm liên tiếp; Các khoản vốn đầu tư đã được cơ quan nhà nước

có thẩm quyền xác định hoặc quyết định là tổn thất trong hoạt động sau khi đã xử lý

trích lập dự phòng rủi ro;. Số vốn góp có nguồn gốc không hợp pháp hoặc người

14

góp vốn không đảm bảo tư cách cổ đông theo kết luận của Thanh tra; Giảm giá tài

sản cố định khi đánh giá lại tài sản theo quy định của pháp luật.”

b)VCSH hình thành trong quá trình hoạt động

Trong quá trình hoạt động, NH có thể được cấp bổ sung vốn, phát hành thêm cổ

phần, hưởng thặng dư vốn, để lại những khỏan lợi nhuận tích lũy, các quỹ…:

i. Vốn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước hoặc thông qua phát hành cổ phần

Để mở rộng quy mô hoạt động hoặc tăng cường khả năng chống đỡ với rủi ro,

NH có thể xin (hoặc được) cấp thêm vốn ngân sách (còn gọi là tái cấp vốn), hay

phát hành thêm cổ phần. Những nguồn này đều tính vào cho VCSH của NH.

ii. Thặng dư vốn

Nguồn vốn này cũng có thể được hình thành ngay từ khi NH mới thành lập,

hoặc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO), và tiếp tục có khả năng tăng

lên khi NH phát hành cổ phiếu mới ở những lần tiếp theo, hay trong quá trình

chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi thành cổ phiếu thường. Đây là phần giá trị thị trường

của các cổ phiếu vượt quá mệnh giá mà các cổ đông sẵn sàng trả cho NH.

iii. Lợi nhuận không chia

Kết thúc mỗi kỳ kinh doanh của NH, lợi nhuận sau thuế, sau khi đã bù đắp các

khoản chi phí đặc biệt, thường được chia làm hai phần: một phần để chi trả cổ tức

cho các cổ đông nắm giữ cổ phiếu của NH, phần còn lại được bổ sung vào nguồn

VCSH dưới tên gọi “Lợi nhuận giữ lại”. Thực chất, đây vẫn là vốn của các cổ đông,

chủ sở hữu NH, nhưng đã được vốn hóa để mở rộng quy mô cho VCSH, tái đầu tư,

và trích lập các quỹ. Trên thực tế, đối với các NH nước ngoài, đây l‎à nguồn quan

trọng nhất để tăng quy mô VCSH nói riêng và vốn NH nói chung: giai đoạn cuối

thập niên 80 - đầu thập niên 90, khoảng 70% số gia tăng về vốn là xuất phát từ lợi

nhuận giữ lại [7].

iv. Các quỹ/ khoản dự trữ

Trong quá trình hoạt động, các NH hoặc do tuân theo quy định của nhà nước,

hoặc do tự nhận thấy cần thiết để đảm bảo hoạt động và đề phòng rủi ro, đều tiến

hành trích lập các quỹ dự trữ. Có nhiều loại quỹ khác nhau:

- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: được trích lập hàng năm theo tỷ lệ phần trăm trên

tổng lợi nhuận sau thuế, với một mức tối đa do nhà nước quy định.

15

- Quỹ bảo toàn vốn: tính theo tỉ lệ lạm phát, nhằm bảo toàn giá trị của VCSH trong

môi trường lạm phát của nền kinh tế.

- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Kinh doanh NH luôn gắn liền với rủi ro. Vì vậy, để

dự phòng nguy cơ các tài sản bị tổn thất, vốn bị ăn mòn, các NH đều trích lập các

khoản dự trữ nhằm bù đắp những thiệt hại khi xảy ra tình huống bất thường. Do

quỹ này được trích từ lợi nhuận trước thuế _ tính chất như một khoản chi phí, nên

một số NH không hạch toán nó vào VCSH mà vào các khỏan nợ. Nếu được liệt

kê vào VCSH, khi tổn thất thực của NH nhỏ hơn số trích lập, vốn chủ của NH sẽ

gia tăng, và ngược lại. Như vậy, quy mô của quỹ này phụ thuộc vào tổn thất ròng,

thu nhập của NH, và tỉ lệ trích lập quỹ.

Ngoài ra, NH còn có các quỹ khác như Quỹ đánh giá lại tài sản (Do giá trị các tài

sản và nợ của NH thường xuyên thay đổi theo giá thị trường, đặc biệt là các chứng

khoán, bất động sản, nên mặc dù vẫn đang nắm giữ các tài sản này, NH thường

xuyên đánh giá lại chúng theo giá thị trường. Quỹ này biến động gắn liền với sự

thay đổi của thị giá, do đó cho phép các nhà quản l‎ý đánh giá được giá trị thị trường

của VCSH), Quỹ chênh lệch tỷ giá do chuyển đổi báo cáo tài chính, và NH cũng

trích lập các quỹ khác từ lợi nhuận sau thuế như: quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ

NH, quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ đào tạo…Các quỹ này thường được sử dụng

ngay trong kỳ.

v. Cổ phần ưu đãi có thời hạn và Giấy nợ có khả năng chuyển đổi

Một số công cụ nợ mang tính chất lưỡng tính như cổ phần ưu đãi có thời hạn,

giấy nợ thứ cấp có khả năng chuyển đổi, tín phiếu vốn (khoản chứng khoán nợ chỉ có

thể được thanh toán khi phát hành được cổ phiếu mới). Những công cụ nợ bổ sung

này có chung một số đặc điểm với của các công cụ nợ thuộc loại tiết kiệm với kỳ hạn

dài, đồng thời lại mang một số đặc điểm của cổ phiếu thường, như: những người nắm

giữ các chứng khoán nợ này chỉ có quyền hưởng thu nhập từ NH sau người gửi tiền

(có nghĩa là xếp hạng ưu tiên “thứ yếu”); nhưng, các chứng khoán đó lại có tính chất

dài hạn (ở Việt Nam là 5 năm theo II_Mục I_Điều 3_Khỏan 1.2 quyết định

457/2005/QĐ-NHNN), và thực tế là đến khi chúng đáo hạn, đợt phát hành khác có

thể được thực hiện để thay thế, hoặc bản thân chúng có thể được chuyển đổi thành cổ

phiếu thường. Việc gia tăng loại vốn này có nhiều ưu điểm đối với quản l‎ý NH như

16

không làm thay đổi quyền kiểm soát, hạn chế giảm cổ tức, v.v… Chính vì vậy,

những công cụ này cũng đem lại một nguồn vốn ổn định trong một khoản thời gian

dài cho các NH, và do đó, được một số NH liệt kê vào thành phần của VCSH.

1.2.2. Phân loại theo Hiệp ước Basel

Ý muốn xây dựng những tiêu chuẩn dùng để kiểm tra mức độ hợp l‎‎‎ý của vốn tại

một NH riêng lẻ hay cả một hệ thống NH đã được nung nấu từ rất lâu và là nguyện

vọng của nhiều đối tượng khác nhau trong thị trường tài chính. Điều này đã được

hiện thực hóa kể từ sự ra đời của Hiệp ước Basel I vào năm 1988 do Uỷ ban giám

sát ngân

hàng Basel đề xuất.

Uỷ ban giám sát ngân hàng Basel (Basel Committee on Banking Supervision

_BCBS) được thành lập bởi thống đốc các NHTW thuộc nhóm nước G10 vào năm

1975, bao gồm đại diện cấp cao từ các cơ quan chức năng về giám sát ngân hàng và

từ NHTW của nhóm G-10 (Hiện nay gồm 13 quốc gia: Bỉ, Canađa, Pháp, Đức, ‎‎Ý,

Nhật Bản, Lúcxembua, Hà Lan, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Thụy Điển,

Thụy Sỹ, và Vương quốc Anh), với mục tiêu là đảm bảo sự giám sát hiệu quả các

NH trên toàn cầu thông qua việc xây dựng và phát triển các tiêu chuẩn quốc tế. Các

cuộc họp của ủy ban thường diễn ra tại Ngân hàng thanh toán quốc tế Basel (Bank

for international settlements), thuộc Thụy Sỹ _ nơi ban thư k‎‎‎ý thường trực đặt trụ sở.

Uỷ ban không có thẩm quyền cưỡng chế thực hiện những đề xuất của mình, dù các

nước thành viên (và cả nhiều nước khác) có khuynh hướng chủ động thi hành những

chính sách của ủy ban thông qua luật quốc gia (chính vì thế, thường mất một khoảng

thời gian kể từ khi các đề xuất, khuyến nghị ra đời đến khi nó được đưa vào cấp độ

luật và điều lệ quốc gia).

Năm 1987, BCBS đã soạn thảo những đề xuất cho tiêu chuẩn mới về vốn, áp

dụng cho các NH, tổ chức tài chính nhằm khuyến khích các NH lớn củng cố trạng

thái vốn, hạn chế sự không bình đẳng trong quy định giữa các quốc gia khác nhau và

xem xét những rủi ro đối với hoạt động ngoài bảng cân đối kế toán mà các NH thực

hiện trong thời gian gần đó. Năm 1988, đề xuất này chính thức được thông qua dưới

cái tên Hiệp ước Basel 1988 _ hiện nay được biết đến như là Basel I, nhằm phân biệt

17

với bản sửa đổi bổ sung Basel II năm 1999. Hiệp ước này được cưỡng chế thi hành

theo luật quốc gia của các nước G-10 từ năm 1992 và đến nay, hơn 100 nước trên thế

giới cũng đã áp dụng những nguyên tắc cơ bản của các đề xuất này [41iii].

Cũng với những thành phần tương tự như trên, nhưng Hiệp ước Basel I phân

loại VCSH của NHTM thành hai lớp phù hợp cho việc đánh giá được tính ổn định và

an toàn của nguòn vốn này tại NHTM. Theo đó, VCSH của NHTM gồm:

- Vốn cơ sở _ hay Vốn cơ bản, Vốn loại 1 _ (Core Capital, hay Tier 1 Capital): là

chỉ tiêu cơ bản để đo lường sức mạnh tài chính của NH nhìn nhận dưới góc độ của

các nhà quản l‎ý. Nó bao gồm những loại vốn tài chính được xem là đáng tin cậy

nhất và có tính lỏng cao nhất, thực sự tồn tại, và tương đối ổn định trong suốt quá

trình hoạt động của NH, đảm bảo cho NH vận hành bình thường. Trọng tâm của

phần vốn

này bao gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và lợi nhuận giữ lại.

- Vốn bổ sung _ hay Vốn loại 2 _ (Supplemental Capital, hay Tier 2 Capital): là

bộ phận VCSH tăng thêm trong quá trình hoạt động nhằm mở rộng hay đảm bảo an

toàn cho các hoạt động của NH trong quá trình kinh doanh, nhưng chúng ít ổn định

hơn Vốn cơ sở. Lớp vốn này gồm các khoản có thể được sử dụng như Vốn cơ sở

trong thời gian tương đối dài và có thể bị loại khỏi VCSH khi đáo hạn hay bị đem ra

sử dụng hết (trường hợp các quỹ dự phòng). Theo Basel I, Vốn bổ sung được phân

loại thành [41vi]:

 Các quỹ đánh giá lại tài sản (Revaluation Reserves)

 Các quỹ dự phòng (General Provisions)

 Các công cụ nợ lưỡng tính (Hybrid instruments)

 Các khoản nợ dài hạn không được hoàn trả trong một khoảng thời gian nhất

định (thường là dài) và có thứ tự ưu tiên thanh toán sau những người gửi tiền

(Subordinated term debt)

 Các khoản dự trữ không được tiết lộ (Undisclosed Reserves): những khoản này

tuy không phổ biến, nhưng vẫn được chấp nhận bởi một số nhà quản l‎ý khi một

ngân hàng kinh doanh có lãi nhưng điều này không được thể hiện rõ trong các

khoản lợi nhuận giữ lại hoặc các quỹ dự trữ thông thường.

18

Những khoản này ở các nước không thống nhất với nhau phụ thuộc vào quy định

của mỗi quốc gia. Khi tính toán, phải loại từ vốn cơ sở và bổ sung một số khoản như:

lợi thế thương mại (chênh lệch giá mua lớn hơn so với giá trị ghi sổ của tài sản khi

NH mua tài sản tài chính), vốn góp vào các công ty con, tổ chức tín dụng khác, một

phần của quỹ đánh giá lại tài sản, v.v…

1.3. Vai trò của VCSH đối với NHTM

So với các loại hình kinh tế khác, NHTM sử dụng một khối lượng tài chính cao

gấp nhiều lần. Một hãng sản xuất tiêu biểu thường chỉ có khoảng 1/3 tích sản (tài sản

có) là được tài trợ bằng vốn vay; trong khi đó, nếu tổng kết bảng cân đối kế toán của

các NHTM sẽ thấy thông thường, khoảng 90 - 92% nguồn tài chính cho các NH hoạt

động là các khoản nợ (vốn của người k‎ý thác và các chủ nợ khác) _ có nghĩa là số

vốn của các chủ NH chỉ chiếm khoảng 8 - 10 % tổng tài sản mà thôi. Tuy nhiên,

VCSH của NH lại là ‎yếu tố chịu sự giám sát hết sức chặt chẽ của cả các nhà quản trị

NHTM cũng như các nhà quản l‎ý Trung ương , bởi lẽ nó có những chức năng và

vai trò vô cùng quan trọng như sau:

1.3.1. Tấm đệm chống đỡ rủi ro, bảo vệ người gửi tiền/k‎ý thác và các quỹ bảo

hiểm tiền gửi

Đây là chức năng quan trọng hàng đầu của VCSH tại các NHTM. Như đã trình

bày ở phần đầu, kinh doanh ngân hàng thường xuyên phải đối mặt với rất nhiều rủi

ro khiến các NH đứng trước nguy cơ đổ vỡ. Thực tế, NH có nhiều biện pháp để

phòng chống rủi ro, bảo vệ tình trạng tài chính của mình như: nâng cao chất lượng

quản lý, đa dạng hóa danh mục đầu tư và địa bàn hoạt động, bảo hiểm tiền

gửi,v.v…Song, khi tất cả những phương pháp ngăn chặn này đều không còn hiệu quả,

thì VCSH sẽ là cứu cánh cuối cùng. ‎Nhờ VCSH _trước tiên là quỹ dự phòng rủi ro,

kế đến là lợi nhuận tích lũy, và cuối cùng là vốn cổ phần_ các khỏan tổn thất của NH

sẽ được bù đắp, cho phép NH tiếp tục tồn tại. Chỉ khi các khoản thua lỗ của NH lớn

tới mức tất cả các biện pháp nói trên, kể cả VCSH, đều không thể khắc phục nổi thì

nó sẽ buộc phải đóng cửa. Trường hợp NH phá sản hoặc ngừng hoạt động, các khoản

tiền gửi đã huy động sẽ được ưu tiên hoàn trả trước, sau đó đến nghĩa vụ với chính

phủ và người lao động, các khoản vay, cuối cùng mới đến chủ giấy nợ có khả năng

chuyển đổi, cổ phần ưu đãi, cổ phần thường. Vì vậy, trong môi trường kinh tế tài

19

chính nói chung vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro như hiện nay, các NH càng phải nắm giữ

nhiều VCSH hơn, đặc biệt là những NH chọn kinh doanh trên một số mảng có mức

độ rủi ro cao nhằm tăng sức cạnh tranh so với đối thủ.

Nhờ khả năng hấp thụ những khoản thua lỗ lớn phát sinh không dự tính trước

được, VCSH góp phần bảo vệ những người k‎ý thác tài sản tại NH. Cơ chế này có thể

l‎ý giải một cách hết sức đơn giản và ngắn gọn như sau: Trong trường hợp rủi ro tín

dụng (các rủi ro khác cũng tương tự), giả sử ban đầu NH có Bảng cân đối tài sản giản

lược theo thị giá là:

Tài sản có Tài sản nợ

Chứng khoán dài hạn: $80 Vốn huy động : $90

Tín dụng dài hạn : $20 (*) Thị giá VCSH : $10

Tổng 1 : $100 Tổng 2 : $100

Khi nền kinh tế suy thoái, một số khách hàng vay nợ gặp khó khăn và không thể

hoàn trả nợ vay đúng hạn. Khi đó, luồng tiền hoàn trả tín dụng hiện hành và dự tính

trong tương lai đều giảm. Giả sử (*) giảm còn $12, có Bảng cân đối theo thị giá khi

giá trị của tín dụng giảm như sau:

Tài sản có Tài sản nợ

Chứng khoán dài hạn: $80 Vốn huy động : $90

Tín dụng dài hạn : $12 Thị giá VCSH : $2

Tổng 1 : $92 Tổng 2 : $92

Sự giảm giá trị của Tài sản có sẽ được cân đối bằng sự giảm giá trị của VCSH, do

đó những người gửi tiền được bảo vệ một cách toần vẹn vì giá trị của khỏan tiền gửi

không thay đổi . Đó là vì những người gửi tiền bao giờ cũng được ưu tiên thanh toán

trước cổ đông, hay nói cách khác: Cổ đông là những người phải chịu thua lỗ đầu tiên

từ sự giảm giá của Tài sản có. Chỉ đến khi (*) giảm xuống dưới mức thị giá của

VCSH _ ví dụ còn $8, khi đó thị giá VCSH là -$2_ những người gửi tiền mới bắt đầu

phải gánh chịu tổn thất; Nếu giả sử VCSH là $15, thì lại có thể tránh cho người gửi

tiền sự mất mát tài sản. Từ đó có thể thấy nếu tỷ lệ “VCSH/Tổng tài sản” càng lớn thì

NH càng an toàn. Đây cũng là căn cứ xác định khả năng thanh toán cuối cùng, tức là

khả năng đáp ứng toàn bộ các cam kết của NH. Chính vì vậy, các nhà quản l‎ý coi đây

20

là thước đo mức độ bộc lộ rủi ro của NH, và Hệ số an toàn vốn (CAR)* đã được xây

dựng trên cơ sở tỷ lệ này nhằm giúp các NHTM xác định mức VCSH cần thiết để

đảm bảo tính an toàn trong hoạt động của họ.

Bên cạnh đó, vì hầu hết các NHTM hiện nay đều tham gia Bảo hiểm tiền gửi,

nên khi có thể tự chi trả cho những chủ nợ của mình tức là các NH đã bảo vệ cho nhà

bảo hiểm thông qua việc tránh cho họ phải chi những khoản bồi thường.

1.3.2. Tạo điều kiện cho sự thành lập và hoạt động ban đầu của NHTM

Điều kiện bắt buộc để NH có giấy phép tổ chức và hoạt động trước khi tính đến

việc huy động những khoản tiền gửi đầu tiên là phải đáp ứng yêu cầu về vốn pháp

định. Mỗi NH mới đều cần vốn ban đầu để xây dựng, mua sắm hoặc thuê mướn cơ

sở hạ tầng, trang thiết bị, thuê nhân viên…,phần còn lại tham gia vào quá trình kinh

doanh của NH như cho vay hoặc mua chứng khoán.

1.3.3. Tạo niềm tin cho người gửi tiền và thu hút tiền gửi

Bên cạnh nguồn vốn điều lệ ban đầu, các NHTM đều phải dựa chủ yếu vào các

khỏan tiền huy động được từ các chủ thể khác trong xã hội để tiến hành các hoạt

động. Những người k‎ý thác tài sản của mình vào các NHTM _ hoặc do ít có điều

kiện và thời gian, hoặc cảm thấy không cần thiết phải phân tích chi tiết thêm các yếu

tố khác_ có xu hướng đánh giá độ đảm bảo và năng lực của NH thông qua quy mô

vốn của các tổ chức này. Trong trường hợp những điều kiện khác tương tự nhau,

những NH có vốn lớn thường hấp dẫn người gửi tiền hơn NH có vốn nhỏ hơn. Tiềm

lực tài chính của NH mạnh sẽ tạo được sự tin tưởng ở công chúng, và quy mô vốn

chính là một yếu tố thiết thực nói lên điều đó. Trong điều kiện thông tin mở và các

phương tiện thông tin phát triển như hiện nay, khách hàng có thể dễ dàng tiếp cận các

Bảng cân đối kế toán, các thông số tài chính để so sánh các NH trước khi đưa ra

quyết định k‎ý thác vốn của mình cho họ; vì thế, quy mô VCSH của các NHTM càng

cần được chú ‎ý hơn.

1.3.4. Cung cấp nguồn lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển

* Xem chi tiết ở mục 2.2 của phần II này.

21

Để cạnh tranh tốt, các NHTM luôn phải không ngừng đưa ra những dịch vụ mới,

những chương trình mới, đổi mới công nghệ NH, nâng cao năng suất lao động; và

khi phát triển, NH cũng cần bổ sung vốn để thúc đẩy tăng trưởng, mở thêm chi nhánh

hoặc quầy giao dịch, văn phòng đại diện,v.v…VCSH được bổ sung và tăng về quy

mô sẽ tài trợ cho các hoạt động này để theo kịp với sự phát triển của thị trường và

tăng khả năng phục vụ khách hàng.

1.3.5. Phương tiện điều chỉnh hoạt động và điều tiết sự tăng trưởng

Vốn cho vay của NH sẽ tham gia vào quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh của

các chủ thể kinh tế, và khi doanh nghiệp gặp rủi ro thì NH khó thu hồi vốn. Nhằm

đảm bảo NHTM kinh doanh an toàn, có rất nhiều quy định cho hoạt động của các

trung gian tài chính này liên quan chặt chẽ và trực tiếp đến VCSH. Đó là những giới

hạn về: quy mô nguồn tiền gửi được phép huy động (vì nếu vay nhiều sẽ có nguy cơ

mất khả năng thanh toán), quy mô cho vay tối đa đối với một hoặc một nhóm khách

hàng, nắm giữ cổ phiếu của công ty khác, thành lập công ty con, hay mở chi nhánh,

v.v…(để hạn chế việc dồn vốn vào một số ít khách hàng và lĩnh vực kinh doanh,

giúp NH đa dạng hóa các đối tượng này). Do đó, nếu quy mô VCSH quá nhỏ, NH sẽ

thực sự rơi vào trạng thái ngột ngạt và khó có khả năng xoay sở khi bị trói buộc trong

những định mức, giới hạn ấy. Đồng thời, để sự tăng trưởng của một NH có thể được

duy trì ổn định và lâu dài, các cơ quan quản l‎‎ý NH và thị trường tài chính thường yêu

cầu VCSH của NH cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh

mục cho vay và các tài sản rủi ro khác, sao cho tương xứng với quy mô rủi ro của

NH. Khi NH mở rộng quá nhanh hoạt động huy động vốn hoặc cho vay, họ sẽ sớm

nhận được những dấu hiệu của thị trường và các cơ quan quản l‎‎ý yêu cầu kìm hãm

tốc độ tăng trưởng, hoặc buộc phải bổ sung thêm VCSH để duy trì mức độ an toàn.

2. Hệ số an toàn vốn (Capital Adequacy Ratio_CAR)

‎‎‎ Những vụ phá sản NH đem lại ảnh hưởng bất lợi đối với nền kinh tế có lẽ là

hơn bất cứ loại hình doanh nghiệp nào khác. Với vai trò là một trung gian tài chính,

các NH khi bị thiệt hại nghiêm trọng có thể làm các cổ đông mất đi nguồn tài sản mà

trong nhiều trường hợp, người ta phải dành dụm cả đời hoặc doanh nghiệp phải tích

22

lũy vốn qua nhiều thế hệ mới có được. Rộng hơn, những thua lỗ này ảnh hưởng tiêu

cực đến niềm tin của công chúng và có thể lan sang các thành phần kinh tế khác một

cách dây chuyền. Vì thế, sự an toàn của các NHTM vẫn luôn luôn là mối quan tâm

đối với các cổ đông, những người k‎‎ý thác, cũng như giới chức điều hành.

Hiệp ước Basel đặt ra những yêu cầu về vốn tối thiểu cho các NH. Văn bản này

đã đưa ra một chỉ số đo lường sự an toàn vốn của các NHTM, gọi là Hệ số an toàn

vốn, hay: Hệ số CAR (Capital Adequacy Ratio). Để đánh giá mức an toàn về vốn,

người ta còn dùng Tỷ số đòn bẩy tài chính (Leverage Ratio) tính bằng tỷ lệ “Vốn cơ

bản/ Tổng tài sản”. Song, cách tính này chưa nhìn nhận được ảnh hưởng của các

yếu tố rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh NH, và khe hở này đã được hệ số CAR bổ

sung.

2.1. Hệ số CAR

2.1.1. Hệ số CAR theo Hiệp ước Basel 1

Hệ số được xác định như sau:

∑ VCSH

CARBasel 1 = ———————————————— x 100%

∑ Giá trị quy đổi của tài sản có rủi ro

Trong đó:

(i). VCSH : bao gồm các thành phần như đã trình bày trong phần 1.2.2 trên.

(ii). Tài sản được điều chỉnh theo tỷ lệ rủi ro (Risk-weighted assets):

Trong danh mục Tài Sản Có của NHTM, ngoại trừ một số được xem như không

có rủi ro như: tiền mặt, tiền gửi NHTW, v.v…thì hầu hết các thành phần khác đều đi

kèm với những rủi ro nhất định: cho vay không thu hồi được, chứng khoán đầu tư bị

giảm giá, vốn góp liên doanh bị thua lỗ, v.v…Do vậy, theo tinh thần Hiệp ước Basel,

nhằm đánh giá một cách công bằng và thực tế ảnh hưởng của từng tài sản đến sự an

toàn của NH, khi tính toán tổng tích sản của NH, không thể đồng nhất các tài sản mà

cần quy đổi chúng theo những tỷ lệ rủi ro nhất định xét theo tính chất và mức độ rủi

ro tiềm ẩn trong chúng. Đồng thời, mỗi loại tài sản có những nguy cơ gặp rủi ro

khác nhau, nên các tỷ lệ gán cho chúng cũng không thể giống nhau _ Basel chia ra

các mức: 0%, 20%, 50%, 100%. Không chỉ phân loại các tài sản nội bảng, Basel 1

còn áp dụng cách tính toán này với các khoản mục ngoại bảng. Sở dĩ cần tính toán

cả các cam kết ngoại bảng vì càng ngày, những hoạt động này càng phong phú đa

23

dạng hơn, đem lại nhiều lợi nhuận hơn nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn, khiến

NH có thể phải chịu nguy cơ thua lỗ nặng nề. Song, đối với danh mục ngoại bảng,

cần qua một bước chuyển đổi nữa nhằm quy đổi chúng về cho tương đương với một

cam kết nội bảng, sau đó mới tính tiếp đến những rủi ro đi liền với chúng. Luật Việt

Nam cũng có cách phân loại tương tự như Basel trong Quy định về các tỷ lệ bảo

đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, ban hành kèm theo Quyết định

số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc NHNN Việt

Nam) tại Phần 2: Mục I _ Điều 3 về phân loại vốn, và Mục II _ Điều 5,6 về cách

phân loại tài sản nội bảng và hoạt động ngoại bảng (Tham khảo Phụ lục 2).

Khi đã có các hệ số rủi ro và chuyển đổi cụ thể, việc tính toán rất đơn giản:

Tổng TS theo = TS theo tỷ lệ rủi ro + Các khoản mục nằm ngoài

tỷ lệ rủi ro trong Bảng CĐKT Bảng CĐKT theo tỷ lệ rủi ro

(1) (2) (3)

Trong đó:

(2) = Giá trị sổ sách của TS x Hệ số rủi ro

(3) = Giá trị sổ sách khoản mục ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro.

Theo yêu cầu của Basel 1, để đảm bảo an toàn, các NH cần duy trì:

- Tỷ lệ :

- Tỷ lệ :

Trong đó Vốn loại 2 ≤ 100% Vốn loại 1.

Ví dụ: Giả sử một NHTM có quy mô và cấu trúc TS như sau:

GT TS GT Hệ số chuyển Hệ sổ đã điều Phân loại TS ghi sổ đổi thành nội rủi ro chỉnh ($) bảng (%) (%) ($)

24

1. TS nội bảng

- Tiền mặt và tiền gửi NHNN 100 0 0 0

- Trái phiếu dài hạn của Chính phủ 400 0 0 0

- Tiền gửi NHTM khác trong nước 100 0 20% 20

- Cho vay thế chấp nhà 100 0 50% 50

- Cho vay kinh doanh 1300 0 100% 1300

Tổng 2000 1370

2. Các cam kết ngoại bảng:

- Thư bảo lãnh tín dụng đối với 200 100% 20% 40

chứng khoán nợ của chính quyền

địa phương

- Hợp đồng cho vay dài hạn với 400 5% 100% 20

doanh nghiệp chưa thực hiện

Tổng: 600 60

Tổng TS mà NH nắm giữ: 2600 1430

100

CAR = ——— x 100% ≈ 7% 1430 Giả sử NH này có lượng VCSH (gồm Vốn cơ sở + Vốn bổ sung) là 100. Khi đó:

Như vậy, theo tiêu chuẩn của Hiệp ước Basel, NH này chưa đảm bảo đủ điều kiện

an toàn về vốn và cần có những điều chỉnh thích hợp _ hoặc là tăng VCSH, hoặc là

hạn chế các hoạt động kinh doanh có tỷ lệ rủi ro cao.

2.1.2. Hệ số CAR theo Hiệp ước Basel II

Sau mười năm áp dụng, cùng với những thay đổi vô cùng nhanh chóng về công

nghệ, tài chính, và cơ chế pháp lý, bản Basel 1 đã bộc lộ rất nhiều yếu điểm. Với

một mức quy định CAR sàn là 8%, các NH có xu hướng chuyển những tài sản chất

lượng cao ra ngoài bảng CĐKT dẫn đến sự giảm giá trị trung bình về chất của danh

mục cho vay; đồng thời NH duy trì những hoạt động ít rủi ro hơn (vì một khoản nợ

cho một NH Thổ Nhĩ Kỳ chỉ cần một lượng vốn bằng 1/5 so với một khoản nợ cho

General Electric [33]) mà rủi ro thấp thì lợi suất cũng thường không cao, kết quả là

25

chỉ làm cho hoạt động của NH kém đi. Bên cạnh đó, nó không đánh giá được sự đa

dạng hóa danh mục đầu tư (không có sự khác biệt giữa một khoản vay $100 và 100

khoản vay $1; một khoản nợ riêng lẻ cũng giống một danh mục đầu tư đa dạng nếu

chúng cùng quy mô giá trị), cũng như loại rủi ro (cùng là cho doanh nghiệp vay kinh

doanh nhưng doanh nghiệp uy tín cao hay thấp đều được coi là như nhau). Ngoài ra,

hiệp ước năm 1988 không tính đến rủi ro vận hành của các NH (ví dụ như sự hỏng

hóc của hệ thống máy tính tại NH) _ yếu tố ngày càng trở nên quan trọng cùng với

sự phức tạp gia tăng trong các hoạt động NH đa dạng; chưa đánh giá được đầy đủ

các kỹ thuật có thể giúp giảm thiểu rủi ro tín dụng, ví dụ như thế chấp hay bảo đảm;

và cũng không đối phó được với rủi ro thị trường _ những thiệt hại mà NH có thể

gặp khi lãi suất, giá cả chứng khoán và tiền tệ biến đổi bất lợi, v.v…

Vì vậy, vào tháng 6 năm 1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất ra bản sửa đổi bổ sung

Basel II nhằm xây dựng một mô hình nhạy cảm với rủi ro hơn, yêu cầu những NH

đang đối đầu với nhiều rủi ro phải nắm giữ một lượng vốn lớn hơn so với các NH có

quy mô tương đương.

Theo Basel II, Sự an toàn, ổn định của NH dựa trên “ba trụ cột”, và mỗi trụ cột

đều bao hàm nhiều nội dung: 1) Quá trình giám sát (Supervisory Review Process):

liên quan đến việc hoạch định chính sách, giúp NH lựa chọn phương pháp hợp l‎ý để

đánh giá những rủi ro về cả tín dụng, thị trường, và vận hành với bốn nguyên tắc

giám sát cơ bản; 2) Quy luật thị trường (Market Discipline): gia tăng một cách đáng

kể các thông tin mà một NH phải công bố, cho phép thị trường có một bức tranh

hoàn thiện hơn về vị thế vốn và rủi ro tổng thể của NH để các đối tác của NH định

giá và tham gia chuyển giao một cách hợp lý. Và một thành phần quan trọng là:

3)Yêu cầu về vốn tối thiểu (Minimum Capital Requirement). Công thức tính Hệ số

an toàn mới của NH là:

Basel II không thay đổi gì đáng kể thành phần tử số của công thức so với văn

bản năm 1988, mà chỉ bổ sung ở phần mẫu số. Bằng việc đưa thêm những rủi ro vận

hành và thị trường vào tính toán, hệ số này cung cấp một cách đánh giá toàn diện và

26

khách quan hơn. Để đánh giá được các loại rủi ro này, NH có thể lựa chọn: phương

pháp tiêu chuẩn, tức là tuân theo những tiêu chuẩn rất chặt chẽ của các tổ chức nhất

định; hoặc mô hình nội bộ trong đó NH tự xây dựng hệ thống đánh giá của riêng

mình, phù hợp với môi trường và kinh nghiệm của tổ chức mình, nhưng phải chịu

sự giám sát chặt chẽ của các nhà quản l‎ý.

Giống như hiệp ước 1988, trọng số rủi ro được quyết định bởi phân loại người

vay (chính phủ, ngân hàng, doanh nghiệp), nhưng tăng cường độ nhạy cảm đối với

rủi ro hơn. Ví dụ như: một số nhóm tài sản rủi ro đã được thêm vào, trong đó có

những tài sản mang tỷ lệ rủi ro 150%; Cùng một nhóm đối tượng vay, mức độ rủi ro

được đánh giá theo uy tín của từng đơn vị:

Xếp hạng uy tín Đối A+ BBB+ BB+ Dưới Không AAAAA- tƣợng A- B- B- B- hạng vay Hệ số rủi ro:

50% Quốc gia 0% 20% 100% 150% 100%

50%, NH 20% 50% 100% 150% 50%, 100% 100%

Nguồn: [17]

DN 100% 20% 50% 100% 150% 100%

2.2. Vai trò của hệ số CAR trong việc xác định một quy mô VCSH thích hợp đối

với NHTM

Sử dụng hệ số CAR để xác định một mức VCSH cần có là một phương pháp tính

toán khoa học dựa trên việc cân nhắc các yếu tố rủi ro. Khi đó, muốn xác định quy

mô VCSH cần duy trì, các NH chỉ cần định giá lại những tài sản của mình (được

điều chỉnh theo tỷ lệ rủi ro thích hợp) và nhân với hệ số CAR do pháp luật yêu cầu

hoặc được các tổ chức quốc tế đề xuất. Nhờ cách phân loại và quy đổi các TS về các

mức rủi ro tương đương, các NH có thể có những biện pháp điều chỉnh thích hợp

nhằm cải thiện mức VCSH thông qua việc can thiệp vào những thành tố tạo nên rủi

ro này: thay đổi cấu trúc danh mục đầu tư để cải thiện tình trạng VCSH của mình _

27

nếu khéo léo lựa chọn những khoản nợ, NH có thể tăng tài sản mà không cần tăng

VCSH lên tương ứng.

Việc sử dụng hệ số CAR và các cách tính toán tài sản được điều chỉnh theo tỷ lệ

rủi ro về cơ bản là đã đảm bảo cho các NHTM xác định một mức VCSH cần thiết

nhằm duy trì hoạt động an toàn. Tuy nhiên, trên thực tế, mỗi NH tồn tại và vận hành

trong một môi trường khác nhau, dưới những cơ chế điều hành và quản l‎ý khác

nhau, dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro cũng không giống nhau. Vì vậy, đôi khi cùng

là những tài sản có như nhau, ví dụ như một khoản tín dụng cho vay, nhưng ở NH

này, khả năng nó trở thành một khoản nợ xấu có thể là cao hơn hẳn so với ở một NH

khác. Do đó, cách tiếp cận tối ưu là cùng việc sử dụng hệ số CAR (tốt nhất là

CARBasel II), cần đặt NH trong chính môi trường hoạt động của nó, quan sát sự ảnh

hưởng của các điều kiện bên trong cũng như bên ngoài lên NH. Việc này đồng

nghĩa với áp dụng cả những trụ cột còn lại của Basel II cũng như xem xét thêm

những yếu tố như: Thu nhập của NH qua các năm (để đánh giá tình hình hoạt động

của NH); Chi phí nắm giữ tài sản; Sự biến động nguồn tiền gửi; Môi trường pháp

luật, tình hình kinh tế-chính trị chung của môi trường kinh doanh. Bằng cách này,

NHTM sẽ xác định được một quy mô VCSH hợp l‎ý nhất.

II. Kinh nghiệm tăng VCSH của NHTM tại một số nƣớc và bài học cho Việt

Nam

Kinh nghiệm tăng VCSH của các NHTM trên thế giới không ít, song Khóa luận

chỉ xin tìm hiểu một số nước có đặc điểm kinh tế-xã hội tương đồng với Việt Nam:

Trung Quốc cũng có lịch sử NH tách từ một cấp sang hai cấp (từ năm 1984); cũng

có một hệ thống gồm 4 NHTMNN (State-owned Commercial Banks_SOCBs) đóng

vai trò chủ yếu trên thị trường nội địa, còn lại chủ yếu là các NHTM đô thị và liên

doanh tương đối nhỏ hơn; các NHTM trước đây đều có quy mô VCSH không cao

(xét trong tương quan với tình hình kinh tế nước này), chất lượng hoạt động kém

với những khoản nợ xấu (NPLs) lớn, hệ số CAR thấp; Sự can thiệp của Nhà nước

vào lĩnh vực NH là rất sâu; Trung Quốc cũng đứng trước một lộ trình mở cửa sau

khi gia nhập WTO năm 2001, và cũng là một thị trường tài chính ngân hàng đầy

triển vọng, vô cùng hấp dẫn cho các nhà đầu tư; Thái Lan là nước liền kề với nền

28

kinh tế có trình độ và điều kiện phát triển kinh tế tương tự như Việt Nam; Hàn

Quốc thời kỳ áp dụng các biện pháp tăng vốn này cũng là một quốc gia công nghiệp

vừa lớn mạnh, đồng thời đây cũng là một nước thuộc khu vực Đông Á láng giềng;

Ba Lan là một nước từng theo chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng là một nền kinh tế

chuyển đổi với nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Ngoài ra, kinh nghiệm của

một số định chế tài chính lớn nhất thế giới như Hoa Kỳ, EU, Singapore cũng là

những điều đáng học hỏi.

1. Trung Quốc

Để cải thiện tiềm lực tài chính của các NHTM, Chính phủ Trung Quốc đã tiến

hành các đợt cấp bổ sung vốn điều lệ: Đợt 1 vào năm 1998, cấp 33 tỷ USD bằng

Nhân dân tệ cho 4 SOCBs; Đợt 2 vào 12/2003, cấp 22,5 tỷ USD cho 2 SOCBs hoạt

động tốt nhất là CCB và BoC bằng cách chuyển giao cho họ quyền sở hữu trái

phiếu chính phủ Hoa Kỳ; Đợt 3 vào 4/2005, cấp 15 tỷ USD cho ICBC trực tiếp từ

nguồn dự trữ quốc tế chính thức [18]. Ngoài ra, CCB và BoC đã tăng Vốn cấp II của họ bằng cách phát hành các khoản nợ dài hạn không chi trả trong thời gian dài * trị

giá lần lượt là 4,8 và 7,3 tỷ USD. Nhưng những nguồn vốn được bổ sung cũng

không thay đổi được trạng thái của các NH nhiều, do phần lớn được dùng để giải

quyết các khoản nợ xấu; việc cấp vốn trong đợt 2 và 3 bằng USD cũng gặp rủi ro tỷ

giá nhất là khi đồng nhân dân tệ đang được phá giá _ trên thực tế, việc đánh giá lại

2,1% khoản vốn này đã cho thấy sự mất mát 9,8 tỷ nhân đân tệ. Quan trọng nhất là,

đến cuối năm 2006, hệ thống ngân hàng nước này sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh

bình đẳng của các NH nước ngoài.

Kể từ khi Trung Quốc k‎ý văn bản ra nhập WTO, số lượng chi nhánh NH nước

ngoài đã nhanh chóng tăng lên từ 157 lên 192 vào năm 2004, hầu hết là chi nhánh

của các NH đến từ Châu Á (chủ yếu là Đài Loan, Hàn Quốc và Hồng Kông _ nghĩa

là ngay những khu vực liền kề); các văn phòng đại diện cũng tăng từ 184 năm 2001

lên 223 năm 2004 [18]. Có những NH muốn mua cổ phần của những NH nhỏ, như

Newbridge Capital Inc. mua 18,02% cổ phần của Shenzhen Development Bank vào

năm 2002; năm 2005, ING mua 19,9% cổ phần của Bank of Beijing, và

Commonwealth Bank of Australia mua 19,9% cổ phần của Hangzhou City * “Subordinated debt” _ xem phần I _1..2..2 của chương này.

29

Commercial Bank. Kết thúc năm 2006 là thời hạn để các hạn chế đối với hoạt động

của các NH nước ngoài bị xóa bỏ hoàn toàn, thì tháng 11/2006, Citigroup _ tập

đoàn lớn nhất thế giới khi đó _ đã thành công trong việc mua 20% cổ phần của NH

Chinese Guandong Development Bank (GDB), đánh dấu cao điểm của việc các NH

nước ngoài mua cổ phần của NH Trung Quốc; thông qua thành công này, Citigroup

đã có được đặc quyền thiết lập sự quản lý và tiến hành cách thức hoạt động của

riêng mình tại GDB [38]. Trong khi đó, nhiều NH nước ngoài quyết tâm thâm nhập

bằng được vào các NHTM lớn của Nhà nước _ như Bank of America, Royal Bank of

Scotland, Merril Lynch, hay tiêu biểu là Temasek Holdings (Singapore) mua cổ

phần của Bank of China (BOC). Các nhà đầu tư này thấy rõ lợi thế mạng lưới phân

phối của BOC: 14.500 chi nhánh và 12.500 máy ATM trên khắp cả nước, cùng 136

triệu tài khoản cá nhân - con số gần bằng một nửa dân số Hoa Kỳ [38]. Vì vậy, để

nhanh chóng nâng cao tiềm lực tài chính nhằm đối phó với sự thâm nhập ồ ạt của

nước ngoài, Trung Quốc cũng đã đi đến con đường cổ phần hóa. Thời gian đầu, Nhà

nước vẫn còn rất dè dặt trong việc triển khai phương án này do tầm quan trọng của

bộ phận NHTMNN đối với nền kinh tế nước nhà, đó cũng là thời gian nhiều ‎ý kiến

trên thế giới cho rằng Trung Quốc quá chậm trong cải cách NH. Tuy nhiên, cuối

cùng NHTMNN đầu tiên đã được CPH, và ngay sau đó là việc các NHTMNN còn

lại liên tiếp tiến hành IPO và đều tạo được những nguồn vốn rất lớn:

Việc CPH các NHTMNN của Trung Quốc được khởi động từ năm 2003, và đến

tháng 10/2005, CCB _ NH hoạt động hiệu rất hiệu quả trong hệ thống NHTMNN,

được chọn thí điểm CPH _ đã tiến hành IPO thành công tại Hồng Kông, phát hành 26,49 tỷ cổ phiếu loại H** mệnh giá 2,35 đôla Hồng Kông/Cổ phiếu, số vốn thu

được từ đợt niêm yết này lên đến 8 tỷ USD, biến đây trở thành đợt IPO lớn nhất

trong lịch sử Sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông và lớn thứ 6 trên thế giới [18].

Sau thành công của người đi trước, đến lượt BOC đã thực hiện IPO quốc tế vào

1/6/2006 trên Sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông, thu được 9,7 tỷ USD từ cổ

phiếu loại H, lập kỷ lục về đợt IPO lớn nhất thế giới; đồng thời, đến 5/7/2006, NH

** Trung Quốc có 2 loại cổ phiếu là Cổ phiếu loại A (A-shares) là cổ phiếu thường được phát hành bằng nhân dân tệ, và cổ phiếu loại H (H-shares) là cổ phiếu được đăng k‎ý tại Đại lục Trung Quốc nhưng được niêm yết tại Hồng Kông.

30

này tiếp tục tiến hành IPO trên thị trường nội địa, bán ra 10 tỷ cổ phiếu loại A trên

Sàn giao dịch chứng khoán Thượng Hải, thu được 20 tỷ nhân dân tệ (gần 2,6 tỷ

USD). Ngày 27/10/2006, ICBC chính thức tiến hành IPO cùng lúc ở cả Sàn giao

dịch chứng khoán Thượng Hải và Hồng Kông, bán ra 55,65 tỷ cổ phiếu _ chiếm

16,7% tổng số vốn cổ phần tăng thêm của NH. Các cổ phiếu được phát hành với giá

3,12 Nhân dân tệ/CP loại A và 3,07 đôla Hồng Kông/CP loại H, nhưng giá chào bán

thì gần như bằng nhau, sau khi đã xét các yếu tố chuyển đổi ngoại tệ. Việc này

khiến cho ICBC trở thành NH đầu tiên tiến hành IPO ở cả thị trường trong nước và

quốc tế song song vào cùng một thời điểm, với cùng một giá bán. NH đã thu được

173,23 tỷ Nhân dân tệ (tương đương 22,2 tỷ USD), trong đó 124,95 tỷ đôla Hồng

Kông từ cổ phiếu loại H và 46,64 tỷ Nhân dân tệ từ cổ phiếu loại A, lập kỷ lục mới

trên toàn thế giới về đợt IPO gây được số vốn cao nhất, đồng thời đưa ICBC trở

thành NH lớn nhất của Trung Quốc.

Việc tiến hành IPO liên tiếp thành công của 3 trong số 4 NHTMNN của Trung

Quốc trong vòng chưa đầy 2 năm đã làm thay đổi hết sức đáng kể diện mạo của các

NH. Vốn cổ phần và vốn chủ sở hữu của các NH này tăng lên nhanh chóng. Ví dụ

với ICBC, kết thúc năm 2005, vốn cổ phần của NH là 248 tỷ Nhân dân tệ (tương

đương 30,7 tỷ USD) và VCSH là 255,839 tỷ Nhân dân tệ (31,7 tỷ USD), thì chỉ 2

tháng sau khi IPO, kết thúc năm tài chính 2006, các con số này lần lượt là 334,019 tỷ Nhân dân tệ (42,83 tỷ USD) và 466,464 tỷ Nhân dân tệ (59,82 tỷ USD)**. Hệ số

CAR của NH cũng lập tức được cải thiện: Nếu cuối năm 2005 hệ số CAR loại I là

8,11% và CAR loại II là 9,89% thì kết thúc năm 2006 lần lượt là 12,23% và 14,05%

[1viii]. Bàn rộng hơn quy mô VCSH, kết quả hoạt động của các NH đều đạt những

tiến bộ vượt bậc, và cả 3 NH này đều đã lọt vào Danh sách 1.000 ngân hàng tốt nhất

thế giới do tạp chí The Banker bình chọn, và lọt vào danh sách 25 NH hàng đầu thế

giới xét về quy mô vốn cơ sở [37].

Khi tiến hành CPH, chính quyền Trung Quốc muốn có các nhà đầu tư chiến lược

góp vốn vào các NHTMNN để đa dạng hóa hình thức sở hữu và cải thiện chất lượng

quản l‎ý, kết quả là Bank of America đã mua 9% cổ phần của CCB trị giá 2,5 tỷ USD

** Các số liệu được chuyển đổi từ Nhân dân tệ sang đôla Mỹ theo tỷ giá quy đổi tại các thời điểm tương ứng trên trang Oanda_The currency site: http://www.oanda.com/convert/classic

31

thậm chí trước khi NH này chính thức niêm yết, và sau đó là Temasek của

Singapore mua 1 tỷ USD cổ phần[18]. Thực hiện cam kết với WTO, Trung Quốc

phải mở cửa hoàn toàn hệ thống NH của mình cho nước ngoài vào cuối năm 2006,

theo đó các NH nước ngoài sẽ được cung cấp tất cả các dịch vụ ngân hàng mà

không bị giới hạn. Tuy các cam kết với WTO không trực tiếp yêu cầu gì về vấn đề

NH nước ngoài mua cổ phần của NH Trung Quốc, nhưng chính quyền Trung Quốc

đã tự tăng giới hạn về định mức sở hữu của nước ngoài từ 15% lên 20% đối với mỗi

nhà đầu tư, và 25% đối với tổng số vốn của các nhà đầu tư nước ngoài. Đến cuối

năm 2005, tổng số vốn đầu tư của nước ngoài vào các NH Trung Quốc đã đạt 16,5

tỷ USD, chiếm 15% vốn cơ sở của hệ thống NH[18]; Năm 2006, sau đợt IPO của

hai NHTMNN lớn như trên, con số này còn tăng lên gấp bội. Trước đó, các nhà

quản l‎ý Trung Quốc cũng đã sớm đặt yêu cầu hệ số CAR loại I đạt 4% và CAR loại

II là 8% theo Basel I phải được thực hiện đầy đủ vào cuối năm 2007 cho tất cả các

NH (kể cả NH chính sách), cùng với việc áp dụng khung quản l‎ý rủi ro bao gồm rủi

ro tín dụng, thị trường và vận hành (mô hình Basel II).

Cho đến hết năm 2005, khi chỉ mới có một NHTMNN thực hiện cổ phần hóa và

kết quả vẫn chưa thể hiện rõ, những bước đi của Trung Quốc vẫn bị đánh giá là quá

thận trọng, khiến cho việc các NH cải thiện tiềm lực vẫn diễn ra rất chậm. Quá trình

này đã cải thiện được chất lượng tài sản nhưng ở mảng vốn thì vẫn yếu; Các NH

Trung Quốc cũng không được chuẩn bị tốt để áp dụng Basel II vì còn đang chật vật

với Basel 1 (CCB và BoC cũng đã nhận được đủ vốn từ công chúng để nâng mức

CAR lên đủ tiêu chuẩn của Basel I, nhưng ICB và nhất là NH nông nghiệp _ ABC

thì tình hình vẫn rất kém). Do đó, các chuyên gia NH thế giới khuyến cáo Trung

Quốc mạnh dạn hơn nữa trong việc cải tổ các NHTM của mình, và thực tế Trung

Quốc đã đạt được nhiều thành công khi thực hiện những thay đổi này. Liên quan

đến việc tư nhân hóa đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung, có ‎ý kiến rằng

không phải NH nào cũng nên tiến hành IPO, mà chỉ những NH nào có tiềm năng tài

chính tương đối, bằng không các vấn đề về chủ sở hữu lại quay về bộ phận Nhà

nước. Đồng thời, trong khi IPO có sức hấp dẫn nhất định, việc chủ sở hữu tràn lan

sẽ khó đem lại sự cải thiện về mặt hoạt động, quản lý và điều hành so với việc có

một nhà đầu tư chiến lược. Các cách để đảm bảo có sự tham gia của một nhà đầu tư

32

chiến lược bao gồm đấu thầu, hoặc thông qua IPO với một tỷ lệ phần trăm cổ phần

được để lại sẵn cho một nhà đầu tư đủ tiêu chuẩn. Điều này đồng nghĩa Nhà nước

phải chấp nhận việc người mua được cổ phần này sẽ được tham gia kiểm soát và

quản l‎ý; Về việc mở cửa, rõ ràng vốn của nước ngoài sẽ giúp hệ thống NH Trung

Quốc_ không chỉ bằng nguồn vốn mới rất lớn, mà còn bằng cách thức quản lý và

quản trị rủi ro tốt hơn_, và rõ ràng Chính phủ Trung Quốc có l‎ý do để tính toán kỹ

lưỡng mức độ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các ngân hàng

bản địa , nhưng việc này cũng có thể sẽ kìm hãm sự lớn mạnh của các NHTM Trung

Quốc.

2. Thái Lan

Những nỗ lực triệt để nhất của Thái Lan trong việc tăng vốn cho hệ thống

NHTM diễn ra sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á bắt nguồn từ chính

nước này vào giữa năm 1997. Trong sự đổ vỡ này, bên cạnh việc tái cơ cấu nợ

doanh nghiệp thì tái cơ cấu NH là nhiệm vụ cấp thiết để khôi phục lại lòng tin của

thị trường, và sự ổn định của bộ phận NH nhằm giúp nền kinh tế khôi phục hoàn

toàn. Bộ tài chính và NH Thái Lan (Bank of Thailand_BOT) đã yêu cầu các NH và

tổ chức tài chính đang hoạt động phải tăng vốn để làm tấm đệm chống đỡ mọi rủi ro

do giảm giá trị tài sản. Nhiều chương trình cải thiện nợ xấu, tăng mức an toàn vốn

tối thiểu lên 8,5% đã được thực hiện từ cuối năm 1997. Song, do khủng hoảng sâu

hơn tại Thái Lan và các nước Đông Á khác vào năm 1998, việc tái cơ cấu vốn cho

các NH Thái dù đã được xử l‎ý nợ xấu trở nên rất khó khăn. Vào 14/8/1998, chính

quyền Thái Lan đã công bố một kế hoạch tái cơ cấu tài chính tăng cường. Để tạo

thuận lợi cho quá trình tái cơ cấu vốn, một loạt biện pháp đã được công bố. Việc hỗ

trợ vốn cấp I và cấp II chỉ dành cho các tổ chức tài chính của Thái, chi nhánh NH

nước ngoài không được hưởng. Với kế hoạch tăng vốn cấp I, sự bổ sung vốn từ phía

Chính phủ dựa trên điều kiện: các tổ chức phải thực hiện chương trình Phân loại nợ

và dự phòng thắt chặt (Loan Classification and Provisioning _ LCP) mà BOT đề

xuất, các chủ sở hữu hiện thời chịu chi phí liên quan, và các kế hoạch tái cơ cấu khả

thi được BOT chấp nhận. Trong khi đó, việc bổ sung vốn cấp II dựa trên mức độ

giảm giá trị do tái cơ cấu nợ, các khoản dự phòng trước đó, và mức tăng ròng trong

33

cho vay khu vực tư nhân. Đồng thời, BOT cũng công bố một kế hoạch can thiệp

vào 6 NH Thái và 12 công ty tài chính _ Một trong những bước đi đáng chú ‎ý nhất

là Chính phủ Thái Lan chủ trương sáp nhập, hợp nhất các định chế tài chính nhỏ

thành một số tổ chức có quy mô lớn hơn, mạnh hơn: Laem Thong Bank (LTB) hợp

nhất với Radanasin Bank (RAB), sau đó NH hợp nhất là RAB sẽ tìm đối tác chiến

lược thông qua cổ phần hóa; Union Bank Bangkok (UBB) và 12 công ty tài chính

được hợp nhất vào Krung Thai Thanakit (KTT) cũng theo cách của LTB và RAB;

Bangkok Metropolitan Bank (BMB) và Siam City Bank (SCIB) được tái cơ cấu vốn

theo các nguyên tắc của chương trình LCP nêu trên để tăng sức mạnh cho các NH

này, rồi sẽ được tư nhân hóa theo cách cùng chia sẻ tổn thất cho các nhà đầu tư mới.

First Bangkok City Bank (FBCB) cũng được hợp nhất với Krung Thai Bank (KTB);

Đến tháng 7/1999, Nakorthon Bank (NTB) trở thành NH thứ 7 được can thiệp do có

mức VCSH và vốn cấp I âm sau khi trích lập dự phòng cho nợ xấu theo yêu cầu.

BOT đã đề nghị NTB điều chỉnh giảm giá trị vốn của mình nhằm hạ thấp mức lỗ lũy

kế trước khi phát hành cổ phiếu thường để bán cho Quỹ phát triển các tổ chức tài

chính (FIDF) thuộc BOT. Sau đó, NTB được hướng dẫn tiến hành tăng vốn thông

qua việc bán cổ phiếu cho FIDF để rồi sau đó75% số cổphần sẽ được bán lại cho

một nhà đầu tư chiến lược (sau này là Standard Chartered Bank)[21]. Để tạo thuận

lợi cho việc tăng vốn của các định chế tài chính, vào 11/11/1997, BOT đã ban hành‎

Ý kiến chỉ đạo về việc nắm quyền sở hữu tại các ngân hàng Thái Lan. Theo đó, các

nhà đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh và khả năng giúp cải thiện năng

lực quản l‎ý sẽ được phép nắm giữ hơn 49% số cổ phần của các NHTM Thái trong

thời gian 10 năm (trước đó giới hạn là 25%); Sau 10 năm, các nhà đầu tư nước

ngoài sẽ không bị buộc phải bán số cổ phần của mình đi, nhưng họ không được

phép mua thêm cổ phần nữa, trừ khi tổng số cổ phần thuộc sở hữu nước ngoài tại

NH đó đang ở dưới mức 49%. Sau khi Chính phủ có sự thả lỏng như vậy, khu vực

NH đã thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài trị giá 2,3 tỷ USD năm 1998 và 2,5

tỷ USD năm 1999 [21]. Trên thực tế, đã có 4 NHTMNN mất cổ phần ưu thế về tay

các NH nước ngoài: Năm 1998 ABN Amro (Hà Lan) đã mua 75% cổ phần của Bank

of Asia (BOA); năm 1999 DBS (Singapore) đã mua 52% vốn của Thai Danu Bank

(thành DBS Thai Danu Bank_DTDB), Standard Chartered Bank (Anh) nắm 75%

34

cổ phần của Nakornthon Bank (thành Standard Chartered Nakornthon Bank_SCNB),

và UOB (Singapore) chính thức mua 75% cổ phần của RAB (thành: UOB Radanasin

Bank_UOB-RAB). Tất cả những NH nước ngoài này đều đã phải chấp nhận tình

trạng yếu kếm của các NH Thái và cam kết có những biện pháp vực dậy các NH

theo thỏa thuận với phía Thái Lan. Ngoài ra, một số NH Thái khác cũng có sự tham

gia tương đối sâu của nước ngoài_ đến giữa năm 2000, sở hữu nước ngoài tại

Bangkok Bank và Thai Farmers Bank là 49%, Bank of Ayudhya là 32% và Siam

Commercial Bank là 45% [21].

3. Hàn Quốc [6]

Cũng như Thái Lan, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997,

Hàn Quốc đã phải cải tổ lại toàn bộ hệ thống NH, trong đó một phần đáng kể là tăng

vốn, tiềm lực tài chính cho các định chế này.

Hệ thống NH của Hàn Quốc trước khủng hoảng chịu sự quản l‎ý và điều tiết rất

lớn của Nhà nước, và đặc biệt là có mối quan hệ chặt chẽ với các tập đoàn kinh tế

nước này (cheabol). Song, cuộc khủng hoảng tài chính đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu

trong hệ thống NH Hàn Quốc và Chính phủ đã phải tiến hành những biện pháp cải

tổ toàn diện ngành NH. Trước khủng hoảng, Hàn Quốc có 24 NH_một con số khá

nhỏ xét trong điều kiện một nước công nghiệp đang lớn mạnh như Hàn Quốc_, thì

đến cuối năm 1997, 12 trong số đó được đánh giá là không đủ khả năng tồn tại vì

không đáp ứng những yêu cầu tối thiểu về vốn. 5 NH đã bị đình chỉ giấy phép ngay

lập tức và 7 NH còn lại chỉ được chấp nhận hoạt động một cách có điều kiện. Chính

phủ đã cấp thêm vốn cho các NH thông qua trái phiếu Chính phủ do Cơ quan bảo

lãnh tiền gửi phát hành và được Chính phủ Hàn Quốc bảo lãnh. Sau đó, Chính phủ

đã yêu cầu 7 NH được hoạt động phải hợp nhất với nhau hoặc tự tìm đối tác nước

ngoài có khả năng về vốn và kinh nghiệm quản l‎ý. Các NH đã tiến hành hợp nhất để

tạo ra những NH lớn hơn, sức cạnh tranh cao hơn: NH Hanil và NH Thương Mại tự

nguyện hợp nhất thành NH Hanvit để trở thành 1 trong 6 NH lớn nhất của Hàn

Quốc; Chohung Bank _ một NH lớn khác của nước này_đã tiến hành một loạt cải tổ,

rồi hợp nhất với NH Hana, tiếp đó NH mới này lại hợp nhất với NH Boram một

năm sau; NH Kookmin cũng hợp nhất với NH Tín dụng dài hạn Hàn Quốc (Korea

35

Long-term Credit Bank). Đến nay, hệ thống ngân hàng Hàn Quốc chỉ còn 14 so với

24 NH trước khủng hoảng, trong đó sự hợp nhất của Kookmin Bank và Ngân hàng

Thương Mại chiếm đến 30% tài khoản tiền gửi; Do đó, nếu chỉ một NH phải đóng

cửa thì có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống ngân hàng nước này. Ngoài ra, một

số NH nhỏ đã được các NH lớn mua lại với sự hỗ trợ của Chính phủ như NH Nhà và

Thương Mại được NH Kookmin mua lại vào năm 2001, hay Seoulbank được bán lại

cho ngân hàng Hana năm 2002. Tuy nhiên, việc mua lại này rất tốn kém với Chính

phủ Hàn Quốc vì Nhà nước phải chi rất nhiều tiền _ không chỉ cho tái cơ cấu vốn

cho các NH mà còn phải mua lại nợ xấu, bù đắp những khoản trượt giá). Vì vậy, các

nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu được khuyến khích rót vốn vào hệ thống ngân hàng.

Kết thúc năm 2001, các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ 40% cổ phần ngân hàng

KorAm, 11% của Kookmin, 51% của Korean First,… Để tái cơ cấu nguồn vốn các

NHTM Chính phủ Hàn Quốc cũng yêu cầu các NH duy trì hệ số CAR 10-13% do

thận trọng về tính bất ổn của tình hình các NH và các điều kiện tài chính khác. Sau

tất cả quá trình này, Chính phủ Hàn Quốc đã phải chi 161 ngàn tỷ Won để ổn định

hệ thống ngân hàng, nhưng đến năm 2003 chỉ thu lại được 61 ngàn tỷ Won, chiếm

38% và dự đoán, 69 ngàn tỷ Won sẽ không thể thu hồi lại được.

4. Ba Lan

Cho đến năm 1989, hệ thống NH Ba Lan vẫn thuộc nền kinh tế kế hoạch hóa

tập trung, NH Quốc gia Ba Lan (National Bank of Poland_NBP) đóng vai trò chính

trong hệ thống NH. Sau khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, các NH hiện

hữu đã đa dạng hóa dịch vụ, và nhiều NH mới được thành lập. Vào cuối năm 1988,

khu vực NH Ba Lan gồm: 3 NHNN, 2 NH cổ phần 100% sở hữu nhà nước, 1 NH

hợp tác của Nhà nước, và 1663 NH hợp tác nhỏ của địa phương[15]. Đến năm 1989,

có 9 NHTM được thành lập, tiếp nhận lại các mạng lưới của NBP, khởi đầu được

trang cấp vốn bởi NPB và năm 1991 được chuyển đổi thành các công ty mà nhà

nước là cổ đông duy nhất. Thời kỳ đầu của kinh tế thị trường (1989-1991), một số

NHTM bị phá sản do hiện trạng tài chính khó khăn, một phần bắt nguồn từ sự yếu

kém về vốn, nên các hoạt động củng cố đã được tăng cường. NH Kredyt SA đã tiếp

nhận các NH: Ziemski SA, Powszechny Handlowy Gecobank SA, Regionalny SA ở

36

Rybnik, Depozytowo Powierniczy GLOB SA, và Polsky Inwestycyjny SA; NH Polska

Kasa Opieki SA cũng được hợp nhất vào năm 1993 với 3 NH đã được tách từ NBP

năm 1989 [15]. Tuy nhiên, những thay đổi lớn bắt đầu từ việc tư nhân hóa các

NHQD lớn từ năm 1991. Kế hoạch tư nhân hóa cho các NH có đối tác chiến lược

nước ngoài cho phép nước ngoài được nắm giữ không quá 30% tổng số cổ phiếu

được phát hành, nhưng có thể được tham gia quản l‎ý NH; Nhà nước vẫn giữ khoảng

30% cổ phiếu với quyền biểu quyết được giới hạn trong các quyết định chiến lược.

Các quy định này được áp dụng trong việc tư nhân hóa hai NH đầu tiên là Bank

Slaski SA và Wielkopolski Bank Kredytowy SA năm 1993 và 1994, với sự tham gia

của các nhà đầu tư chiến lược là Dutch ING Bank NB và NH Châu Âu về Phát triển

và Tái cơ cấu. Tuy nhiên, quyền của nhà nước trong các NH được tư nhân hóa gây

hạn chế cho các NH nước ngoài với tư cách là nhà đầu tư chiến lược. Việc thay đổi

chính sách của Chính phủ đối với vốn nước ngoài có hiệu lực vào năm 1998 bằng

việc bán cho các nhà đầu tư nước ngoài một lượng cổ phần cố định đáng kể của 2

trong số 9 NHNN: 36,72% của Bank Przemyslowy w Krakowie SA và 33,3% của

Powszechny Bank Kredytowy SA. Điều này dẫn đến việc chuyển giao quyền kiểm

soát các NH này cho các tổ chức nước ngoài. Hai NH được tư nhân hóa tiếp theo là

Bank Zachodni we Wroclawiu SA và Bank Pekao SA năm 1999 cũng có liên quan

đến các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là AIB European Investment Limited

(Ailen), UniCredito-Italiano và Allianz AG, chiếm đa phần cổ phần tương ứng là

80% và 52,09%[15]. NH Bank Polska Kasa Opieki Sa và Zachodni SA năm 1999 đã

hoàn thiện việc CPH 9 NH quốc doanh trước đây.

5. Hình thức liên kết vốn “Tập đoàn tài chính” tại một số nước phát triển

Một đặc trưng cơ bản của Tập đoàn tài chính là có tổng tài sản và VCSH thường

vô cùng lớn. Ví dụ:

37

Bảng 1: Tỷ lệ đóng góp của VCSH và Tài sản của các tập đoàn tài chính

vào GDP ở một số nƣớc Châu Á (2004)

Tên nước Trung Quốc Hàn Quốc Malaysia Singapore Thái Lan

Tổng tài sản (%) 31 26 40 102 22

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Xây dựng mô hình tập đoàn tài

chính - ngân hàng ở Việt Nam”, trang 154.

VCSH (%) 2,1 1,1 2,7 6,8 1,5

- Số lượng các vụ hợp nhất và sáp nhập ở EU diễn ra từ năm 1999 đến 2001, dù

phần lớn mới chỉ ở mức độ quốc gia. Trong giai đoạn này, toàn bộ giá trị của các

cuộc sáp nhập và hợp nhất của NH và công ty bảo hiểm lên tới 72,3 tỷ EURO (trong

đó, sáp nhập trong nước chiếm khoảng 56 tỷ EURO) và bao gồm 15 vụ sáp nhập lớn

nhất thời kỳ đó, trong đó có: công ty bảo hiểm Allianz và NHTM Dressdner hợp

nhất trong nội bộ nước Đức năm 2001 với giá trị giao dịch là 22,3 tỷ; công ty bảo

hiểm Scottish Widows Fund & Life sáp nhập với Life Assuaranve Society của tập

đoàn ngân hàng Lloys TSB Group (cùng của Anh) năm 2000 với giá trị giao dịch 12

tỷ EURO. Gần đây hơn, tháng 2/2006, NHTM lớn thứ 2 của Đức là Hypo

Vereinsbank - Bank of Austria đã sáp nhập vào Tập đoàn UniCredit Group của

Italia để trở thành tập đoàn toàn cầu[9].

- Tại Mỹ, mô hình tập đoàn của Citigroup là tiêu biểu nhất. Tập đoàn này được

hợp nhất bởi hai tổ chức riêng lẻ là Citicorp và Travellers Insuarance. Citicorp là

một tập đoàn ngân hàng hàng đầu của Mỹ với công ty mẹ là Citybank, hoạt động đa

quốc gia ở khoảng 100 nước. Đầu thế kỷ 19, NH mở những chi nhánh đầu tiên ở

nước ngoài, và phát triển rất nhanh trong những năm 1920-1940. Năm 1955, NH

sáp nhập với First National (New York) để trở thành một tổ hợp lớn với tên gọi

First National City Bank, đến năm 1968 cải tổ để trở thành một công ty mẹ và hình

thành tập đoàn ngân hàng First National City Corp và năm 1980 vượt qua Bank of

America để trở thành ngân hàng lớn nhất Hoa Kỳ. Trong những năm 80, Citibank đã

mua một số tổ chức tài chính ở San Francisco, Chicago, Miami và Washington, sau

đó năm 1998 thực hiện sáp nhập với hãng Travellers Group_một tổ chức hợp nhất

từ nhiều công ty khác nhau, từ tín dụng thương mại đến hỗ trợ tiêu dùng , môi

38

giới và bảo hiểm _ để trở thành Tập đoàn ngân hàng - tài chính hàng đầu thế giới:

CitiGroup.

- Tập đoàn tài chính ngân hàng Trung Quốc Hồng Kông: thành lập từ năm 1983

gồm 13 ngân hàng (NH Trung Quốc chi nhánh tại Hồng Kông, NH Trung Quốc chi

nhánh tại Macao, NH tỉnh Quảng Đông chi nhánh Hồng Kông, NH Tân Hoa chi

nhánh Hồng Kông, NHTM Nam Dương, v.v…) và các công ty chuyên doanh khác

hoạt động dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Trung Quốc (BOC). Năm 2001, Tập đoàn

tài chính ngân hàng Trung Quốc Hồng Kông đã tiến hành sáp nhập 10 trong số 13

NH cũ của tập đoàn, sau đó đổi tên thành Bank of China (HongKong) Ltd.- BOCK,

và trở thành một trong bốn đơn vị trực thuộc BOC [9].

Và còn vố số những trường hợp khác như tập đoàn UOB (United Overseas Bank)

cũng trải qua nhiều cuộc sáp nhập, hợp nhất để trở thành tập đoàn ngân hàng tài

chính hàng đầu Singapore và Malaysia (VCSH của tập đoàn lên tới 14,9 tỷ đôla

Singapore và tổng tài sản là 145,1 tỷ đôla Singapore, mạng lưới gồm 503 văn phòng

và chi nhánh trên khắp thế giới); hay NH Nhật Bản với tài sản lên đến 1,3 nghìn tỷ

USD, được hình thành thông qua hình thức sáp nhập giữa DAI ICHI KANGYO

BANK, FUJI BANK và INDUSTRIAL BANK OF JAPAN vào năm 2003, v.v... [9].

6. Bài học cho Việt Nam

Qua tất cả các trường hợp trên đây, có thể rút ra một số bài học như sau:

- Việc tham gia quá sâu của Nhà nước tại các NH không chỉ hạn chế khả năng

cải thiện chất lượng thực sự của các định chế này, mà còn rất tốn kém cho Nhà nước.

- Tư nhân hóa và tiếp nhận các nhà đầu tư nước ngoài có thể đem lại nguồn vốn

bổ sung khổng lồ và nhanh chóng. Quan trọng là việc lựa chọn các nhà đầu tư chiến

lược, cùng những định mức cho nhà đầu tư nước ngoài được tham gia vào các

NHTM: Thắt quá chặt sẽ không hấp dẫn đầu tư, nhưng thả quá lỏng thì lập tức các

NH lớn nhất thế giới sẽ thôn tính ngay những NH nội địa nhằm tận dụng được

những cơ sở các NH bị thôn tính đã tạo dựng được và biến chúng thành những công

cụ sinh lời, vì họ đủ khả năng để khắc phục tình trạng tài chính yếu kém của các NH.

- Sáp nhập các tổ chức quy mô nhỏ, khó trụ vững trên thị trường để hình thành

những định chế lớn mạnh hơn, nhưng cũng cần chú ý rằng trong điều kiện tiềm lực

39

của tất cả các NH trong nước còn yếu, việc sáp nhập ồ ạt đến mức chỉ còn lại một số

ít tổ chức không phải là quyết định tốt nhất. Hợp nhất và sáp nhập cũng là hình thức

tất yếu trong con đường hình thành những tập đoàn tài chính mạnh có quy mô vốn

hết sức lớn.

 Tiểu kết: VCSH đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với các NHTM, vì vậy

cần xác định mức vốn cần thiết để NH có thể hoạt động và phát triển mà không

phải đối mặt với những nguy cơ về tổn thất hoặc phá sản. Hệ số an toàn vốn

CAR do Uỷ ban Basel đề xuất là một cách thức tính toán được công nhận và áp

dụng rộng rãi nhằm giúp các NH đảm bảo một mức VCSH phù hợp với điều

kiện và tình hình hoạt động của tổ chức mình. Nhằm tăng cường VCSH và cải

thiện hệ số an toàn vốn, Việt Nam có thể học hỏi và rút kinh nghiệm từ thực tế

tăng vốn của các NHTM nước ngoài trong thời gian qua.

40

CHƢƠNG II

THỰC TRẠNG VỐN CHỦ SỞ HỮU CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

I. Tổng quan về hệ thống NHTM Việt Nam

1. Lịch sử hình thành và phát triển

Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, hệ thống tiền tệ, tín dụng của Việt Nam

được thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua NH Đông Dương _ vừa đóng

vai trò là NH Trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia),

vừa là NH thương mại, phục vụ đắc lực cho chính sách thuộc địa của Pháp và làm

giàu cho tư bản Pháp. Để từng bước xây dựng nền tiền tệ và hệ thống NH độc lập tự

chủ, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL

thành lập NH Quốc Gia Việt Nam - NH của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở

Đông Nam Á để thực hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho

bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để

quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngày 21/1/1960, theo thông tư số 20/VP

- TH của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính

phủ, NH Quốc Gia Việt Nam được đổi tên thành NH Nhà nước Việt Nam. Tháng 7

năm 1976, đất nước được thống nhất, NH Quốc gia của chính quyền Việt Nam cộng

hoà ở miền Nam được hợp nhất vào NHNN Việt Nam, tạo thành hệ thống NHNN

duy nhất của cả nước. Hệ thống tổ chức thống nhất của NHNN bao gồm: NHTW

đặt trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh NH tại các tỉnh, thành phố và các

chi điếm NH cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước.

Đến cuối những năm 80, hệ thống NHNN về cơ bản vẫn hoạt động như là một

công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc

thị trường. Giai đoạn 1986 - 1990, chức năng quản lý Nhà nước mới bắt đầu được

tách dần ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động NH sang

hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Song mô hình hoạt động rập khuôn theo

Liên Xô và các nước XHCN cũ, theo đó chỉ tồn tại NHNN do Nhà nước độc quyền

nắm giữ - vừa làm chức năng quản lý của NHTW, vừa trực tiếp kinh doanh tiền tệ

tín dụng của NHTM.

41

Tháng 5/1990, Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân

hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ra đời đã chính thức chuyển cơ chế

hoạt động của hệ thống NH Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp - Trong đó, lần đầu tiên

đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt

rạch ròi: NHNN là cơ quan quản l‎ý Nhà nước về tiền tệ và tín dụng, là NH phát

hành, đồng thời là NH của các NH trên lãnh thổ Việt Nam; Cấp NH kinh doanh

thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân

hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính NH và phi NH thực

hiện. Nhìn từ góc độ pháp l‎ý và thực tiễn, có thể coi đây là thời điểm ra đời của của

hệ thống NHTM Việt Nam (vì tuy NH Đầu tư và phát triển - tiền thân là NH Kiến

thiết được thành lập năm 1957, và NH Ngoại thương được thành lập năm 1963,

song cho tới trước năm 1990, hai ngân hàng này chưa được tổ chức và hoạt động

như NHTM). Kể từ đó là quá trình ra đời hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp

2 với các loại hình sở hữu khác nhau. Sau gần 20 năm phát triển, hệ thống NHTM

Việt Nam đã lớn mạnh hết sức nhanh chóng và khẳng định vai trò to lớn trong nền

kinh tế, cũng như xu hướng đi lên không ngừng. Đến nay, xếp theo hình thức sở hữu,

cơ cấu hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm:

NH Nhµ N íc

NHTM Nhà nƣớc (5) NH Liên doanh (5) NHTM Cổ phần (35) Chi nhánh NH nƣớc ngoài (37)

BIDV ICB VCB MHB AGB Đô thị (31) Nông thôn ( 4)

Cụ thể 5 NHTMNN là: NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

(AgriBank), NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NH Công thương Việt Nam

(ICB), NH Ngoại Thương Việt Nam (VCB), NH Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu

42

Long (MHB). Ngoài ra, còn hai TCTD Nhà nước khác là: NH Phát triển Việt Nam

và NH Chính sách xã hội (vốn điều lệ mỗi NH đạt 5.000 tỷ đồng), nhưng đây

không phải là các NHTM, do hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà nhằm phục

vụ các chính sách phát triển của Nhà nước [27].

Như đã giới hạn trong Lời mở đầu, ở đây chỉ xem xét những NHTM do phía

Việt Nam nắm quyền kiểm soát (được hiểu là có quyền quyết định cơ bản đến hoạt

động kinh doanh của NHTM như: chiến lược kinh doanh, phân chia lợi ích, v.v…),

bao gồm: NHTMNN, NHTMCP, và NHTM Liên doanh.

2. Khái quát những thành tựu của hệ thống NHTM Việt Nam thời gian qua

Xét từ những năm bước vào cao trào đổi mới (1990) đến nay, với những nỗ lực

toàn diện, kết quả hoạt động của toàn ngành ngân hàng Việt Nam được thể hiện trên một số nét tổng quát sau đây *:

- Đổi mới từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, trực tiếp góp phần làm cho

toàn nền kinh tế khắc phục được nạn khan hiếm phương tiện thanh toán trong khi

vẫn giữ được giá trị sức mua của đồng Việt Nam; góp phần kiểm soát lạm phát (kéo

chỉ số lạm phát từ 774,7% trong năm 1986 xuống ở mức 2 con số và từ năm 1992

đến nay liên tục là 1 con số); Góp phần giảm tỷ lệ tiền mặt trong lưu thông: tỷ lệ

tiền mặt trong cơ cấu của tổng phương tiện thanh toán đã giảm dần từ 40% năm

1990 xuống còn quanh 20% như hiện nay.

- Về bộ máy tổ chức: thiết lập được một mạng lưới cung cấp dịch vụ ngân hàng

phong phú, phục vụ mọi thành phần kinh tế. Hệ thống NHTM đóng vai trò là các

định chế trung gian bên cạnh NHNN, bao gồm: 5 NHTMNN, 1 NH Chính sách xã

hội, 1 NH Phát triển, 31 NHTMCP đô thị, 4 NHTMCP nông thôn, 37 Chi nhánh

nước ngoài, 5 NH Liên doanh, 40 văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại VN,

9 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài chính, hơn 900 quỹ tín dụng nhân dân

(hoạt động tín dụng quy mô nhỏ ở địa bàn nông thôn). Trong đó, đáng chú ‎ý là hệ

thống NHTMNN tuy chỉ có 5 NH nhưng chiếm tới hơn 70% thị phần tổng thể các

* Tổng hợp thông tin và số liệu từ “Ngân hàng Việt Nam 20 năm đổi mới cùng đất nước và những việc cần làm trong tiến trình phát triển cùng nền kinh tế thị trường, hội nhập của VN”, TS. Phùng Khắc Kế, Phó thống đốc NHNNVN (TLTK số [8] ]trang 4-7 của Khóa luận này), “Hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam” www.sbv.gov.vn, Báo cáo thường niên năm 2006 và thông tin trên website của 5 NHTMNN.

43

dịch vụ NH thông qua một mạng lưới dày đặc các chi nhánh trong cả nước: BIDV

có 100 chi nhánh và 3 sở giao dịch; ICB có 130 chi nhánh, 2 sở giao dịch, và trên

700 điểm giao dịch; VCB có 24 chi nhánh cấp 1; MHB có hơn 130 chi nhánh,

phòng giao dịch tại các vùng kinh tế trọng điểm trên khắp cả nước; Đặc biệt, NH

Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 108 chi nhánh cấp 1 và tổng số 2.200 chi

nhánh tính tới cấp 4, đã có mặt trên 100% số huyện, thị trong cả nước.

- Bắt đầu từ năm 1992 đã đi từ lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương, lãi suất

dài hạn lớn hơn lãi suất ngắn hạn; thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất nội tệ và lãi

suất ngoại tệ, cơ chế lãi suất thích ứng với rủi ro cũng như quan hệ cung cầu vốn

theo cơ chế thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Về chính sách tín dụng: Các NHTM đã thực sự trở thành ngân hàng của toàn

dân, không phân biệt thành phần kinh tế. Dư nợ tín dụng của các ngân hàng Việt

Nam cấp cho các doanh nghiệp gồm cả doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân các năm

đều có xu hướng tăng lên _ mức tăng bình quân 10 năm, gần đây đạt mức 21%/năm.

Xu hướng tín dụng tăng và phân bố thích hợp với cơ cấu thành phần khách hàng

trong cả nước, và các NHTM đã tham gia mạnh vào quá trình đổi mới cơ chế, đáp

ứng các nhu cầu kinh doanh, đầu tư sản xuất của mọi thành phần kinh tế.

- Về chương trình hiện đại hóa công nghệ ngân hàng: Các NHTM đã đi tiên

phong so với tất cả các thành phần kinh tế khác trong việc đưa công nghệ máy tính

vào hoạt động có hiệu quả ngay từ những năm 70 và đặc biệt phát triển vào những

năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20 đến nay. Hiện nay, các NHTM đã nối mạng

thanh toán, chuyển tiền thông suốt từ Trung Ương đến các chi nhánh cơ sở, tốc độ

thanh toán tăng mạnh (thanh toán khác tỉnh, thành giờ chỉ còn tính bằng phút, thậm

chí bằng giây), làm cho các dòng luân chuyển vốn không chỉ nhanh, nhạy, mà còn

tiết kiệm rất lớn cho khách hàng và ngân hàng. Hệ thống ATM cũng phát triển

nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu thanh tóan phi tiền mặt : cuối năm 2006 toàn hệ

thống có trên 3.500 máy so với 200 máy của năm 2002.

- Đã cơ bản phổ cập và trang bị mới kiến thức về hoạt động ngân hàng bằng cơ

chế thị trường trong toàn ngành. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt ngày càng

có trình độ cao hơn _ năm 2005, số cán bộ có trình độ đại học trở lên đã chiếm hơn

60% của hơn 70.000 cán bộ công nhân viên toàn ngành so với mức xấp xỉ 20% của

44

hơn 40.000 người làm ngân hàng năm 1990; Các NH cũng liên tục quan tâm đến

việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực.

- Các NHTMNN cũng không ngừng đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế với các

tổ chức tài chính, tiền tệ như WB, IMF, ADB,…và với các NH của nước ngoài, xây

dựng quan hệ hợp tác song phương, từ đó thu hút được vốn và công nghệ của bạn.

3. Phân tích SWOT của các NHTM Việt Nam

Với hoàn cảnh phát triển và môi trường chung của nền kinh tế nước nhà, hệ

thống NHTM Việt Nam mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của quá trình lớn mạnh và

đào thải. Trong bối cảnh hiện nay, các NHTM Việt Nam đang có những lợi thế

riêng của mình song vẫn còn nội tại nhiều bài toán không dễ giải quyết, được mở ra

rất nhiều cơ hội cũng như phải đối mặt với không ít thách thức. Để nắm bắt nhanh

chóng, có thể sử dụng mô hình phân tích SWOT để nêu một cách cơ bản những

Điểm mạnh (Strengths), Điểm yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities), và Hiểm

họa (Threats) của các NHTM Việt Nam hiện nay như sau:

S W

- M¹ng l íi chi nh¸nh dµy ®Æc ®Õn tËn - Tìềm lực tài chính thấp: Quy mô vốn

c¸c ®Þa ph ¬ng vµ c¬ së, thÞ phÇn ®ang nhỏ, chất lượng tài sản có không cao

chiÕm u thÕ. (ảnh hưởng của tỷ lệ nợ xấu _NPL). Một

- Sù th«ng hiÓu m«i tr êng kinh doanh lượng vốn khá lớn thất thoát không thu

vµ tËp qu¸n tiªu dïng trong n íc _ ®©y hồi được. Mặc dù đã tái cơ cấu lại tài

cã thÓ coi lµ u thÕ lín nhÊt cña c¸c chính đối với các NHTMNN nhưng nợ

NHTM ViÖt Nam vÒ ng¾n vµ trung h¹n. khó đòi vẫn còn và nguy cơ tiềm ẩn tăng

- Tèc ®é ph¸t triÓn thêi gian qua kh¸ cao, cao vẫn có.

t¹o ® îc uy tÝn cho c¸c nhµ ®Çu t trong - Khả năng chống đỡ rủi ro chưa cao; x· héi. Mức trích lập dự phòng rủi ro so với - § îc sù quan t©m vµ ®Çu t lín cña nguy cơ rủi ro thực tế không đủ, nếu ChÝnh phñ vµ sù hç trî cña c¸c tæ chøc trích lập đủ thì một số NHTMNN chưa quèc tÕ. hẳn đã có lãi.

- Dịch vụ ngân hàng trong nước còn đơn

45

điệu, chất lượng chưa cao, chưa định

hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng

về dịch vụ ngân hàng truyền thống (Các

NH huy động vốn chủ yếu dưới dạng

tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy

động và cấp tín dụng là hoạt động chủ

yếu của NH, chiếm trên 80% tổng thu

nhập _ tức là chủ yếu dùng công cụ lãi

suât để thu hút khách hàng, nhưng công

cụ này cũng chỉ có tác dụng giới hạn

[32]).

- Nhiều nguồn vốn còn trôi nổi trong dân

mà NH chưa huy động được.

- Việc cho vay vốn đầu tư còn nhiều

vướng mắc, nhiều doanh nghiệp và

người dân có nhu cầu vay vốn đầu tư

chưa tiếp cận được với nguồn vốn NH.

- Nguồn nhân lực hạn chế về trình độ, tri

thức, tác phong; chính sách nhân sự còn

nhiều bất cập.

- Năng lực quản l‎ý thÊp, thiÕu chÝnh

s¸ch, vµ quy tr×nh kiÓm so¸t rñi ro tÝn

dông.

- C«ng nghÖ ng©n hµng cßn yÕu kÐm so

víi mÆt b»ng chung cña thÕ giíi.

O T

- Môi trường khách quan thuận lợi: Nền - Rủi ro từ môi trường kinh doanh: lạm

kinh tế, thị trường tài chính đang trên đà phát; thị trường bất động sản và hàng

phát triển; Những quy định về kiểm soát hóa chưa thực sự phát triển và còn nhiều

lãi suất, tỷ giá, …từng bước được tháo biến động (ảnh hưởng đến tài sản đảm

gỡ, trao quyền tự chủ cho các NH trong bảo để cho vay); cạnh tranh lãi suất giữa

46

việc đàm phán, k‎ý kết với khách hàng; các NH dẫn đến lãi suất huy động tăng

cao, chi phí doanh nghiệp phải chịu khi Các NH được chủ động hơn trong việc

triển khai các nghiệp vụ và các hình thức vay NH lớn, dẫn đến nguy cơ NH mất

nợ; cơ cấu hệ thống tài chính mất cân cạnh tranh mới; Chính sách và môi

trường kinh doanh minh bạch hơn. đối: NH vẫn là kênh chính cho vay trung

- Có tương lai được tham gia mạnh mẽ và dài hạn, số vay huy động ngắn hạn

vào quá trình hội nhập, đồng nghĩa với chuyển cho vay trung và dài hạn lên tới

cơ hội tiếp cận những luồng vốn lớn, 50% _ con số quá cao, có thể gây rủi ro

lớn cho cả hệ thống. công nghệ hết sức tiên tiến, điều kiện

hợp tác cao, tranh thủ được kinh nghiệm - Về dài hạn, hầu hết những lợi thế hiện

nay đều có nguy cơ mất đi. vận hành và quản l‎ý cña n íc ngoµi.

- Áp lùc c¹nh tranh hÕt søc gay g¾t tõ

nh÷ng ®Þnh chÕ tµi chÝnh khæng lå vµ dµy

d¹n kinh nghiÖm cña n íc ngoµi.

Tõ sù ph©n tÝch kh¸i qu¸t nãi trªn, cã thÓ thÊy rÊt râ con ® êng phÝa tr íc cña

c¸c NHTM ViÖt Nam tuy s¸ng l¹n nh ng còng ®Çy ch«ng gai. ViÖc c¹nh tranh lµ

kh«ng thÓ tr¸nh khái, do ®ã n¨ng lùc c¹nh tranh lµ vÊn ®Ò then chèt. Bµn vÒ n¨ng lùc

c¹nh tranh cña hÖ thèng NHTM ViÖt Nam, tiÒm lùc tµi chÝnh lu«n lµ mét trong

nh÷ng yÕu ®iÓm lín nhÊt, vµ VCSH chÝnh lµ thµnh tè ®Çu tiªn t¹o nªn tiÒm lùc nµy.

II. Thùc tr¹ng VCSH vµ HÖ sè an toµn vèn cña c¸c NHTM ViÖt Nam

1. Thùc tr¹ng

1.1. Bé phËn NHTMNN

Nh÷ng thµnh phÇn träng yÕu nhÊt lµm nªn VCSH cña NHTM lµ: Vèn ®iÒu lÖ,

C¸c quü dù tr÷ vµ Lîi nhuËn gi÷ l¹i. Song, ®èi víi c¸c NHTM ViÖt Nam, do ®a sè cã

thêi gian ho¹t ®éng t ¬ng ®èi ng¾n (nhÊt lµ c¸c NHTMCP vµ NHTM Liªn doanh,

phÇn lín míi chØ thµnh lËp vµo thËp niªn 90 cña thÕ kû tr íc) nªn c¸c nguån vèn

h×nh thµnh tõ tÝch lòy ch a lín; V× thÕ, t¹i hÇu hÕt c¸c ng©n hµng, Vèn ®iÒu lÖ vÉn lµ

thµnh phÇn chñ chèt cña VCSH. Trong hÖ thèng NHTM ViÖt Nam hiÖn nay, c¸c

47

NHTMNN cã nguån VCSH cao nhÊt do nhËn ® îc sù tµi trî ban ®Çu vµ c¸c ®ît cÊp

bæ sung nguån vèn ®iÒu lÖ lín h¬n nhiÒu so víi viÖc tù g©y dùng cña c¸c NHTMCP.

MÆc dï vÉn lu«n ®ãng vai trß chñ ®¹o trªn thÞ tr êng _ chiÕm trªn 70% thÞ phÇn

huy ®éng vèn vµ cho vay_, nh ng tæng nguån vèn tù cã cña c¸c NHTMNN n¨m

2000 míi chØ ®¹t 6.673 tû ®ång (t ¬ng ® ¬ng 420 triÖu USD)[15]. Th«ng qua §Ò ¸n

t¸i c¬ cÊu l¹i c¸c NHTMNN (® îc khëi ®éng tõ cuèi n¨m 2001 trªn c¬ së c¸c

QuyÕt ®Þnh 149/2001/Q§-TTg ngµy 5/10/2001 vµ 92/2002/Q§-TTg ngµy 29/1/2002

cña Thñ t íng ChÝnh phñ), ChÝnh phñ ®· cã kÕ ho¹ch cÊp bæ sung vèn ®iÒu lÖ nh»m

n©ng cao n¨ng lùc tµi chÝnh vµ ®¶m b¶o tû lÖ an toµn vèn tèi thiÓu cho c¸c

NHTMNN, chñ yÕu dùa trªn c¬ së ph¸t hµnh tr¸i phiÕu ®Æc biÖt cña ChÝnh phñ g¾n

liÒn víi tiÕn tr×nh gi¶i quyÕt nî xÊu cña c¸c NH nµy. §Çu th¸ng 1-2005, Bé Tµi

chÝnh ®· quyÕt ®Þnh cÊp bæ sung vèn ®iÒu lÖ ®ît 4 - ®ît cuèi cïng cho c¸c

NHTMNN; Trong ®ît 4 nµy, NH C«ng th ¬ng vµ NH Ngo¹i Th ¬ng mçi ng©n hµng

® îc cÊp 400 tû ®ång b»ng nguån tr¸i phiÕu ®Æc biÖt. TÝnh chung trong giai ®o¹n

2002 - 2005, tÊt c¶ 5 NHTMNN ®· ® îc cÊp bæ sung vèn ®iÒu lÖ trong 4 lÇn víi

tæng sè tiÒn lµ 12.641,2 tû ®ång, n©ng tæng sè vèn tù cã cña c¸c NHTMNN tÝnh ®Õn

th¸ng 6/2005 lªn 18.415 tû ®ång (t ¬ng ® ¬ng 1,1 tû USD), gÊp 3 lÇn cuèi n¨m

2000 [15]. Tõ ®ã ®Õn nay, vèn ®iÒu lÖ còng nh VCSH cña c¸c NHTMNN vÉn tiÕp

tôc t¨ng t ¬ng ®èi nhanh.

Trong sè 5 NHTMNN, ngo¹i trõ NH Ph¸t triÓn nhµ §ång b»ng s«ng Cöu Long

cã sè vèn ®iÒu lÖ còng nh VCSH nhá nhÊt _ch a ®Õn 1.000 tû ®ång (Cô thÓ: Vèn

®iÒu lÖ: 774,2 tû VN§, VCSH: 929 tû VN§ *), c¸c NHTMNN cßn l¹i ®Òu cã c¸c

møc vèn nµy t ¬ng ®èi cao h¬n. Trong ®ã, Ng©n hµng Ngo¹i th ¬ng tuy kh«ng së

h÷u mét møc vèn ®iÒu lÖ cao nhÊt, nh ng l¹i liªn tôc dÉn ®Çu lµ NH cã VCSH lín

nhÊt nhê kÕt qu¶ ho¹t ®éng hiÖu qu¶ nhÊt trong nhãm c¸c NHTMNN. (VCSH cña

c¸c NH khi ghi chÐp theo hÖ thèng kÕ to¸n NH ViÖt Nam VAS cã thÓ lµ rÊt lín,

song nh÷ng con sè ®ã ® îc ghi theo gi¸ trÞ sæ s¸ch vµ tu©n theo mét sè nguyªn t¾c

khiÕn chóng ch a ph¶n ¸nh ®Çy ®ñ ho¹t ®éng kinh doanh cña NH theo c¬ chÕ thÞ

tr êng, do ®ã khi tÝnh to¸n theo c¸c tæ chøc kiÓm to¸n quèc tÕ l¹i nhá h¬n rÊt nhiÒu.

Víi thùc tÕ lµ hiÖn nay c¸c NH ®Òu nç lùc b¾t kÞp xu h íng thÞ tr êng vµ ®· sö dông

* Bảng cân đối kế toán Ngân hàng MHB tại thời điểm 31/12/2006

48

dÞch vô kiÓm to¸n cña c¸c c«ng ty quèc tÕ, c¸c sè liÖu ë ®©y ®Òu lÊy theo tiªu chuÈn

kiÓm to¸n quèc tÕ IFRS):

B¶ng 2: VCSH cña c¸c NHTMNN giai ®o¹n 2003-2006 (§¬n vÞ: triÖu ®ång)

STT Ng©n hµng 2003 2004 2005 2006

1 AGB 126.135 483.619 781.031 937.237

2 BIDV 3.083.843 3.149.720 3.061.921 4.502.000

3 ICB 4.154.083 4.908.773 6.071.631 7.285.957

4 VCB 5.923.811 7.180.787 8.415.901 11.127.248

và phát triển nông thôn (Agribank), NH Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV), NH Công thương

Việt Nam (ICB), NH Ngoại Thương Việt Nam (VCB).

Nguồn: Tổng hợp các Bảng Cân Đối Kế Toán từ 31/12/2003 đến 31/12/2006 của NH Nông nghiệp

Tiếp tục biểu đồ hóa các số liệu đó sẽ có:

Nguồn: Tổng hợp từ bảng cân đối kế toán các NH

Biểu đồ 1: VCSH của các NHTMNN giai đoạn 2003-2006 (Đơn vị: triệu đồng)

Ngoài thành phần lớn nhất là vốn điều lệ, bộ phận chiếm tỷ trọng cao tiếp

theo trong quy mô VCSH của các NHTMNN tại Việt Nam là các “Quỹ dự trữ”, đôi

khi còn có “Thặng dư vốn”. Các thành phần “Lợi nhuận giữ lại” hay các nguồn khác

của vốn không đáng kể _ ngay cả với những ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất như

Vietcombank hay Incombank; đặc biệt, đối với các NHTMNN như BIDV hay

49

Agribank, Lợi nhuận giữ lại thậm chí bị âm (theo tiêu chuẩn kiểm toán quốc tế IFRS)

(ví dụ năm 2006 tại BIDV là -3.013.099 triệu đồng ).

Biểu đồ 2: Tỷ trọng các thành phần chính của VCSH tại một số NHTMNN

Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2006 của MHB và VCB

Xét về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu _ hệ số CAR (thông thường được hiểu là CAR

MHB VCB

loại II) _ của hệ thống NHTM Việt Nam, tình 0hình hiện nay đã được cải thiện đáng

kể, tuy chưa phải tất cả đều đã đạt mức 8% mà Uỷ ban Basel đề xuất. Thời điểm

31/12/2000, tỷ lệ an toàn vốn của các NHTMNN là 3,05% _ một con số thấp đến

mức nguy hiểm. Nhờ có Đề án tái cơ cấu NHTMNN như đã đề cập ở trên, năm

2005, tỷ lệ an toàn vốn của khối NHTMNN đã tăng lên mức trung bình khoảng

4,4 % vào cuối năm 2004 và 5,6% vào năm 2005 [15], và tình hình vẫn đang tiếp

tục tiến triển tốt hơn, vì theo Điều 4_Khoản 2_Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN:

đến năm 2008, các NHTMNN đều phải đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8%.

Theo báo cáo kết thúc năm tài chính 2006 của NH Đầu tư và phát triển, hệ số an

toàn vốn CAR liên tục được tăng cường, chủ yếu là nhờ tăng vốn cấp 1 thông qua

lợi nhuận giữ lại và vốn cấp 2 thông qua phát hành trái phiếu dài hạn:

Bảng 3: Hệ số CAR của NH Đầu tƣ và phát triển BIDV

Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006

Vốn tự có theo VAS (Tỷ VNĐ) 6.499 10. 838

50

Vốn cấp 1 6.411 7.489

Vốn cấp 2 124 3.524

Chỉ số CAR (%) theo VAS 6,86% 9,1%

Nguồn: Báo cáo thường niên ngân hàng BIDV năm 2006, trang 41.

Chỉ số CAR (%) theo IFRS 3,36% 5,9%

BIDV đã đặt mục tiêu tiềm lực tài chính cho năm 2007 với hệ số CAR tối thiểu

là 10% [1iii]; NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đặt mục tiêu hệ số này

năm 2007 đạt 8% [1ii]; NH Công thương năm 2003 và 2004 mới có hệ số CAR lần

lượt là 6,08% và 6,3%, nhưng năm 2005 đã đạt 8,07% [1v]; Hệ số CAR của NH

Ngoại thương cuối năm 2000 chỉ có 2,7%, nhưng đến cuối năm 2004 đã tăng lên 7%

và năm 2005 đã cao đáng kể ở mức 9,57% [1vi].

1.2. Bộ phận NHTMCP

Với bộ phận các NHTMCP, tính bình quân quy mô vốn còn nhỏ hơn rất nhiều

do quá trình hình thành có điểm xuất phát rất thấp. thậm chí một số NH ban đầu chỉ

có mức vốn điều lệ khoảng vài tỷ đồng, tức là VCSH cũng bị giới hạn ở mức nhỏ bé

tương đương. Số lượng NHTMCP được cấp giấy phép thêm qua các năm: 1991:

5NH, 1992: 17 NH, 1993: 20 NH, 1994: 4NH, 1995: 3NH, 1996: 3NH, và đến năm

1997, NHNN đã dừng việc cấp phép thành lập mới loại hình NH này. Vào thời điểm

phát triển nhất (năm 1996), hệ thống các NHTMCP có 52 NH, trong đó có 32

NHTMCP đô thị và 20 NHTMCP nông thôn. Tổng số vốn tự có của các NHTMCP

cuối năm 2000 chỉ là 2.100 tỷ đồng và cuối năm 2004 tăng lên mức 5.500 tỷ đồng.

Trong giai đoạn 2000-2003, sau một thời gian tái cơ cấu, thực hiện bài bản và êm

thấm việc sắp xếp, củng cố, sáp nhập, giải thể, bán lại, cả nước còn 37 NHTMCP,

và đến nay con số này là 35. Hiện nay, tuy các NH đều đã nỗ lực tăng quy mô vốn

tự có, song đa số vẫn chỉ có mức vốn điều lệ dưới 1.000 tỷ đồng:

- Các NHTMCP nông thôn là các tổ chức có số vốn điều lệ thấp nhất trong bộ

phận NHTMCP: Kết thúc năm 2006, sau khi tiếp tục có nhiều ngân hàng tiếp tục

chuyển đổi sang hình thức NHTMCP đô thị (Các ngân hàng: An Bình, Ninh Bình,

Nhơn Ái, Sông Kiên, Kiên Long, Hải Hưng, Đồng Tháp Mười), hiện nay chỉ còn lại

4 NHTMCP Nông thôn (và cả 4 NH này đều đã và đang tăng vốn điều lệ, tái cơ cấu

51

tổ chức, hoạt động, hoàn thiện các điều kiện và thủ tục hồ sơ để trình Thống đốc

NHNN chấp thuận cho phép chuyển đổi mô hình hoạt động thành NHTMCP đô thị

[39]).

Bảng 4: Vốn điều lệ của các NHTMCP Nông thôn hiện nay

Vốn điều lệ STT Ngân hàng Thành lập Tỷ VNĐ Quy đổi ra triệu USD*

1. Miền Tây 1992 200 12,38

2. Mỹ Xuyên 1992 500 30,94

3. Rạch Kiến 1993 504 31,19

4. Đại Á 1993 500 30,94

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [27]

Trung bình 426 26,36

Mức VCSH của các ngân hàng này cũng không lớn hơn nhiều so với Vốn điều

lệ. Ví dụ tại NHTMCP nông thôn Đại Á kết thúc năm tài chính 2006: VCSH là

711,821 tỷ đồng, trong đó ngoài vốn điều lệ thì Các quỹ dự trữ chiếm 7,149 tỷ đồng và Lợi nhuận giữ lại là 23,027 tỷ đồng **.

- Các NHTMCP đô thị nhìn chung có số vốn điều lệ cao hơn. NH có mức vốn này

thấp nhất là NH Gia Định (vốn điều lệ 210 tỷ đồng [27]), và cao nhất là NH Sài Gòn

Thương Tín (theo thông cáo mới nhất của NH, đến tháng 10/2007, vốn điều lệ đạt

4.449 tỷ đồng và VCSH đạt 5.948 tỷ đồng, tiếp tục duy trì là NH lớn nhất trong hệ

thống NHTMCP và lớn thứ 5 trong tổng hệ thống NHTM Việt Nam), các NHTMCP

đô thị khác có vốn điều lệ xung quanh mức 500-1.000 tỷ VNĐ. Trong 31 NHTMCP

đô thị, chỉ 12 NH sở hữu số vốn điều lệ và VCSH trên 1.000 tỷ đồng:

Bảng 5: Vốn điều lệ và VCSH của những NHTMCP lớn nhất

* Quy đổi theo tỷ giá bình quân liên Ngân hàng ngày 12/10/2007 theo www.sbv.gov.vn/vn/home ** Báo cáo tài chính của NHTMCP nông thôn Đại Á [43v]

52

(Đơn vị: triệu đồng)

Vốn điều lệ VCSH STT Ngân hàng 31/12/2006 (31/12/2006) 9/2007

1. á Châu (ACB) 1.100.047 2.530.106 1.653.987

2. An Bình (ABbank) 1.131.951 (*)2.300.000 1.190.274

3. Đông á (EAB) 880.480 1.400.000 1.521.034

4. Đông Nam á (Seabank) 500.000 1.500.000 1.055.536

5. Kỹ thương (Techcombank) 1.500.000 1.500.000 1.761.687

6. Nhà Hà Nội (Habubank) 1.000.000 1.260.000 1.756.381

7. Phương Nam (Southern bank) 1.290.789 1.290.789 1.621.860

8. Quân Đội (MBank) 1.045.200 1.045.200 13.529.356

9. Quốc tế (VIB) X 1.000.000 X

10. Sài Gòn (SCB) 600.000 1.427.554 850.236

11. SG Thương Tín (Sacombank) 2.089.000 4.449.000 2.429.800

(*)Đợt phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn điều lệ đợt 1/2007 đã được thông qua và sẽ triển khai

vào 10/2007 [43iii].

Nguồn: Tổng hợp Báo cáo thường niên được công khai trên website của các NHTMCP trong danh

sách nói trên.

Ngoài Vốn điều lệ, thành phần chủ yếu còn lại của VCSH cũng là Lợi nhuận

12. Xuất nhập khẩu (Eximbank) 1.212.371 1.870.124 1.946.667

giữ lại và Các quỹ dự trữ. Song, không hoàn toàn giống với các NHTMNN, tại một

số NHTMCP, Lợi nhuận giữ lại (lũy kế) đôi khi còn lớn hơn các quỹ dự trữ rất

nhiều _ ví dụ trường hợp của Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, Techcombank,

Eximbank, v.v … Và trong một số trường hợp, Thặng dư vốn cổ phần cũng

chiếm một lượng

không nhỏ.

Biểu đồ 3: Tƣơng quan các thành phần chủ yếu của VCSH tại một số

NHTMCP lớn

53

Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2006 của 4 ngân hàng trên

Về mặt hệ số an toàn vốn CAR, các NHTMCP tuy quy mô vốn nhỏ hơn so với

các NHTMNN, nhưng nhìn chung lại có tỷ lệ an toàn vốn đều đã đạt mức 8% hoặc

hơn nữa. Ví dụ: Ngay cả khi không xem xét đến yếu tố rủi ro khi đánh giá các Tài

sản có của NHTMCP nông thôn Đại Á, tỷ lệ VCSH/Tổng Tài sản có đã đạt mức khoảng 50%*, như vậy khi áp dụng phương pháp tình toán CAR của Basel _ tức là

gán cho các Tài sản có này những hệ số chuyển đổi theo mức độ rủi ro tiềm tàng

(mà các hệ số chuyển đổi này luôn ≤ 1) _ thì hệ số an toàn vốn của NH đó còn cao

hơn nữa.

Đối với các NHTMCP đô thị, tình hình cũng rất khả quan: Hệ số CAR của

NHTMCP Đông Á kể từ năm 2002 luôn đạt trên 8% (trừ năm 2003: 7,88%), và năm

2006 là 13,57%[1iv]; của NHTMCP Á Châu năm 2005 và 2006 lần lượt là 12% và

10,9% [1i], của NH Eximbank năm 2006 đạt trên 10%, v.v... Tiêu biểu nhất là

NHTMCP lớn và uy tín nhất Việt Nam Sacombank, từ năm 2001 đến nay liên tục

đạt mức CAR rất cao (hơn nhiều so với mức 8% mà Uỷ ban Basel đề xuất). Theo

cách giải thích truyền thống, sở dĩ các NHTM nhỏ hơn lại thường có hệ số an toàn

vốn cao là do quy mô nhỏ ấy khiến hoạt động của họ tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn, vì

vậy cần duy trì một mức độ bảo đảm an toàn lớn hơn.

Biểu đồ 4: Hệ số an toàn vốn CAR của NHTMCP Sacombank qua các năm

* Tính toán theo số liệu trong bảng cân đối kế toán năm 2006 của NHTMCP Đại Á [43V]

54

Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2006 của ngân hàng Sacombank, trang 18

1.3. Bộ phận NHTM Liên doanh

Số lượng các NHTM Liên doanh ở nước ta không nhiều, đều là liên doanh giữa

các NHTMNN lớn nhất của Việt Nam và một số tổ chức tài chính lớn của các nước

lân cận hoặc quan hệ hữu nghị lâu đời với Việt Nam, trong đó bên góp vốn Việt

Nam nắm cổ phần chi phối hoặc ngang bằng với đối tác nước ngoài. Quy mô

vốn điều lệ của các NH này cũng không cao:

Bảng 6: Vốn điều lệ của các NHTM Liên doanh của Việt Nam hiện nay

Vốn điều lệ STT Ngân hàng Thành lập Triệu USD Quy đổi ra tỷ VNĐ*

1. INDOVINA 1990 20 323,2

2. SHINHANVINA 1993 20 323,2

3. VID PUBLIC 1992 20 323,2

4. VINA SIAM 1995 15 242,4

5. Việt – Nga 2006 10 161,6

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [27]

Trung bình 17 274,72

Hiện nay, tuy thực trạng VCSH và Hệ số an toàn vốn của các ngân hàng này

không được công khai cũng như không đủ số liệu để tính toán gián tiếp, và tuy

không rầm rộ về danh tiếng hay quy mô, nhưng kết quả hoạt động của các ngân

hàng này trong thời gian vừa qua đều tương đối khả quan, điển hình như Liên doanh

* Quy đổi theo tỷ giá bình quân liên Ngân hàng ngày 12/10/2007 theo www.sbv.gov.vn/vn/home

55

ngân hàng VID Public Bank hay Indovina. Với các chủ đầu tư là các ngân hàng lớn

của Việt Nam và phía đối tác có uy tín của nước ngoài (Ngân hàng Công Thương

Việt Nam cùng Ngân hàng của Đài Loan thành lập Indovina Bank; Ngân hàng đầu

tư và phát triển Việt Nam liên doanh với Ngân hàng Ngoại thương Nga thành lập

ngân hàng liên doanh Việt – Nga, và cùng một ngân hàng lớn thứ hai của Malaysia

thành lập VID Public Bank; ShinhanVina Bank là kết quả hợp tác giữa

Vietcombank với Tập đoàn tài chính Shinhan của Hàn Quốc; và VinaSiam Bank là

liên doanh giữa Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam với Ngân

hàng Thương mại Thái (SCB) và Tập đoàn Charoen Pokphand của Thái Lan), có

thể tin rằng quy mô vốn chủ và hệ số đảm bảo an toàn của các ngân hàng liên doanh

này không ở mức quá thấp hoặc quá chênh lệch so với trạng thái của các bên góp

vốn liên doanh.

2. Đánh giá thực trạng VCSH và hệ số an toàn vốn của các NHTM Việt Nam

2.1. Những thành tựu

Trong khoảng nửa thập kỷ vừa qua, chỉ sau một thời gian ngắn hội nhập kinh tế

tích cực và sâu rộng hơn, thị trường NH của Việt Nam đã có những biến đổi rất rõ

nét và tích cực về quy mô VCSH, được tạo dựng chủ yếu trên cơ sở tăng cường

nguồn vốn điều lệ. Những nỗ lực lớn nhất được thực hiện ở bộ phận NHTMNN với

những đợt cấp bổ sung vốn liên tục từ phía Nhà nước (như đã trình bày ở trên): Tất

cả 5 NHTMNN đã được cấp bổ sung vốn điều lệ trong 4 lần, nâng tổng số vốn tự có

của các NHTMNN tính đến tháng 6/2005 lên 18.415 tỷ đồng (tương đương 1,1 tỷ

USD), gấp 3 lần cuối năm 2000 [15]. Từ đó đến nay, vốn điều lệ cũng như VCSH

của các NHTMNN vẫn tiếp tục tăng tương đối nhanh. Tuy nhiên, kết quả tích cực

nhất về việc cải thiện trạng thái vốn đặc biệt dễ nhận thấy nhất ở các NHTMCP.

Vào thời điểm 2-3 năm trước, hầu hết các NHTMCP vẫn chỉ có số vốn điều lệ phổ

biến ở mức 500 tỷ VNĐ, nhưng hiện nay, “câu lạc bộ NHTMCP có vốn điều lệ trên

1.000 tỷ đồng” đã lớn mạnh rất nhanh chóng (12 trong 35 NHTMCP hiện đã vượt

ngưỡng này). Những động thái tăng vốn này đã góp phần mở rộng đáng kể quy mô

NH, ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả những mặt khác trong hoạt động của các TCTD:

tăng số lượng chi nhánh, dịch vụ, quy mô các khoản tín dụng, v.v… Những

56

NHTMCP lớn đang tiến dần đến mức vốn điều lệ của NHTMNN, ví dụ như trường

hợp của Ngân hàng Sài Gòn thương tín với số vốn điều lệ vào tháng 10/2007 đã đạt

4.449 tỷ đồng,

tương đương với mức vốn điều lệ của Vietcombank và Incombank.

Không chỉ tăng về quy mô VCSH, các NHTM Việt Nam còn không ngừng

quan tâm đến nhiệm vụ cải thiện hệ số an toàn vốn CAR (cả loại 1 và loại 2) _ đặc

biệt là các NHTMCP. Điều này chứng tỏ các NH hiện nay có khả năng duy trì hoạt

động một cách ổn định, lành mạnh, và chống đỡ tốt hơn đối với những rủi ro, tổn

thất có thể xảy ra trong quá trình kinh doanh. Đến nay, nhiều NHTMCP đã duy trì

được mức hệ số an toàn rất cao, thậm chí là khi so sánh với nước ngoài, giúp đạt

gần hơn tới thành tích của các NHTM lớn nhất thế giới và khu vực.

Biểu đồ 5: Hệ số CAR của các NHTMCP lớn của Việt Nam so với

Nguồn: Báo cáo thường niên các ngân hàng trên

một số nƣớc trên thế giới (2006)

Bên cạnh đó, luật pháp liên quan tới lĩnh vực này cũng đang được hoàn thiện

hơn, trong tương lai sẽ góp phần nâng cao tiềm lực tài chính cho các NHTM của

Việt Nam. Cụ thể là trong thời gian tới, cùng với Quyết định 24/2007/QĐ-NHNN

(ban hành ngày 7/6/2007) về Quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động của

57

NHTMCP, và nghị định 141/2006/NĐ-CP (ban hành ngày 22/11/2006) về Danh

mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng Việt Nam, quy mô vốn cũng như

việc thành lập các NHTM _ trong đó có NHTMCP và NHTM Liên doanh _ đều đã

được thắt chặt hơn. Những yêu cầu tương đối cao này đảm bảo tính an toàn cũng

như khả năng cạnh tranh cho các NH, tránh tình trạng các NHTM (đặc biệt là

NHTMCP) ồ ạt đua nhau thành lập không tính đến khả năng tồn tại trong tương lai

hay sự yếu thế so với các NH có quy mô lớn. Đến nay, hầu như các NHTMNN đều

đã đáp ứng được mức vốn pháp định yêu cầu (vẫn còn NH Phát triển nhà Đồng

bằng sông Cửu Long với số vốn đìêu lệ chưa tới 800 tỷ VNĐ) ; Các NHTMCP

chưa đạt định mức sẽ có

thời hạn đến năm 2008 để tăng vốn pháp định lên tiêu chuẩn đặt ra là 1.000 tỷ đồng:

Bảng 7: Mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng

(Ban hành kèm theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP

ngày 22 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ)

Mức vốn pháp định áp dụng đến

năm STT Loại hình tổ chức tín dụng

2008 2010

I Ngân hàng

1 Ngân hàng thương mại

a Ngân hàng thương mại Nhà nước 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

b Ngân hàng thương mại cổ phần 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

c Ngân hàng liên doanh 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

d Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

đ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 15 triệu USD 15 triệu USD

2 Ngân hàng chính sách 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng

3 Ngân hàng đầu tư 3.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

4 Ngân hàng phát triển 5.000 tỷ đồng 5.000 tỷ đồng

5 Ngân hàng hợp tác 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

6 Quỹ tín dụng nhân dân

58

a Quỹ tín dụng nhân dân TW 1.000 tỷ đồng 3.000 tỷ đồng

b Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 0,1 tỷ đồng 0,1 tỷ đồng

II Tổ chức tín dụng phi ngân hàng

1 Công ty tài chính 300 tỷ đồng 500 tỷ đồng

2 Công ty cho thuê tài chính 100 tỷ đồng 150 tỷ đồng

Tương tự, Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ

chức

tín dụng (Ban hành kèm theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4

năm 2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam), Mục II _ Điều 4 yêu cầu:

1. Tổ chức tín dụng, trừ chinh nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ

tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản "Có" rủi ro.

2. Tại thời điểm Quy định này có hiệu lực thi hành, ngân hàng thương mại nhà

nước có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn mức quy định tại Khoản 1 điều này thì

trong thời hạn tối đa là 3 năm phải tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng mức quy

định. Mức tăng tỷ lệ hàng năm tối thiểu bằng một phần ba (1/3) số tỷ lệ còn thiếu.”

Như vậy là đến năm 2008, tất cả các tổ chức tín dụng đều phải đảm bảo đáp ứng

mức tối thiểu về hệ số an toàn vốn là 8%.

2.2. Những hạn chế

Tuy đã đạt được những sự tiến bộ đáng kể trong nỗ lực cải thiện tiềm lực tài

chính bằng cách nâng cao các mức vốn chủ cũng như hệ số an toàn vốn, nhưng

những thành tích đó của các NHTM Việt Nam trong thời gian qua vẫn còn rất nhỏ

bé nếu đem so sánh với những gì mà các định chế tài chính nước ngoài đã tạo lập

được. Trong khi các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới đang bứt phá để

không ngừng tăng cao hơn nữa nguồn vốn chủ nhằm chạy đua tiềm lực tài chính, thì

các NHTM Việt Nam mới chỉ bắt đầu thoát khỏi tình trạng quá thấp kém, chưa nói

đến việc trở thành những tổ chức mạnh. Điều này đặc biệt rõ rệt đối với bộ phận

NHTMCP nông thôn và các NH Liên doanh, khi mà mức vốn điều lệ _ thành phần

chủ yếu làm nên VCSH _ chỉ đạt phổ biến khoảng 500 tỷ đồng (các NHTMCP nông

thôn) và khoảng 300 tỷ đồng (các NHTM Liên doanh). 17 273

59

Từ các số liệu đã trình bày, có thể tổng kết thấy quy mô vốn chủ của hệ thống

NHTM Việt Nam là rất khiêm tốn: mức vốn điều lệ trung bình của một NHTMNN

chỉ là khoảng 4.000 tỷ đồng (tương đương với 247 triệu USD), mức trung bình của

một NHTMCP đô thị là 963 tỷ đồng (tức là gần 60 triệu USD), một NHTMCP nông

thôn thì chỉ là 426 tỷ đồng (xấp xỉ 26,35 triệu USD), và trung bình của một NHTM

Liên doanh là gần 273 tỷ đồng (tức 17 triệu USD); Tổng số vốn điều lệ của tất cả các NHTMCP đô thị là gần 29.850 tỷ đồng (tương đương 1,85 tỷ USD) *, cũng như

tổng cộng số vốn điều lệ của tất cả các NHTMNN lại cũng chỉ bằng mức vốn của

một NH cỡ trung bình của các nước lân cận. Nếu so sánh với những NHTM khổng

lồ nhất thế giới thì các ngân hàng của Việt Nam không thể bì kịp:

Bảng 8: 25 ngân hàng hàng đầu thế giới năm 2007 xét về quy mô vốn cơ sở

Vốn cơ sở STT Ngân hàng Quốc tịch (triệu USD)

1. Bank of America Corp Hoa Kỳ 91.065

2. Citigroup Hoa Kỳ 90.899

3. HSBC Holdings Anh 87.842

4. Crédit Agricole Group Pháp 84.937

5. JP Morgan Chase & Co Hoa Kỳ 81.055

6. Mitsubishi UFJ Financial Group Nhật Bản 68.464

7. ICBC Trung Quốc 59.166

8. Royal Bank of Scotland Anh 58.973

9. Bank of China Trung Quốc 52.518

10. Santander Central Hispano Tây Ban Nha 46.805

11. BNP Paribas Pháp 45.305

* Các số liệu tổng hợp từ “Hệ thống các tổ chức tín dụng” và quy đổi theo Tỷ giá bình quân liên ngân hàng ngày 19/9/2007 www.sbv.gov.vn

60

12. Barclays Bank Anh 45.161

13. HBOS Anh 44.030

14. China Construction Bank Corporation Trung Quốc 42.286

15. Mizuho Financial Group Nhật Bản 41.934

16. Wachovia Corporation Hoa Kỳ 39.428

17. UniCredit Italia 38.700

18. Wells Fargo & Co Hoa Kỳ 36.808

19. Robobank Group Hà Lan 34.757

20. ING Bank Hà Lan 33.958

21. UBS Thụy Sỹ 33.212

22. Sumitomo Mitsui Financial Group Nhật Bản 33.177

23. Deutsche Bank Đức 32.264

24. ABN AMRO Bank Hà Lan 31.239

25. Crédit Mutuel Pháp 29.792

Nguồn: The Banker _ “Top 25 World Banks 2007 by Tier 1 Capital” [37]

Tình hình cũng không khả quan hơn khi so sánh các NHTM của Việt Nam với

một số NH tiêu biểu của các nước cùng khu vực Đông Nam Á:

Bảng 9: 10 ngân hàng hàng đầu Đông Nam Á năm 2006

CAR (%) VCSH

(31/12/2006) STT Ngân hàng Quốc tịch (triệu USD)

31/12/2006 Loại 1 Loại 2

1. DBS Singapore 12.200 10,2 14,5

2. United Overseas Bank Singapore 10.949 11 16,3

3. OCBC Singapore 8.160 13,1 15,8

4. Maybank Malaysia 4.352 9 11,9

5. Bangkok Bank Thái Lan 4.096 12,3 15,1

6. Public Bank Malaysia 2.543 11 14

7. Krung Thai Bank Thái Lan 2.558 10,88 14,03

61

8. Bank Mandiri Indonesia 2.926 --- 25,3

9. RHB Bank Malaysia 1.397 8,6 11,5

Các NH được đánh giá theo 11 tiêu chí: 1) quy mô tài sản có; 2) tình hình cải thiện các khoản

tiền gửi; 3) tình hình cải thiện các khoản nợ; 4) chỉ số rủi ro; 5) CAR; 6) lợi nhuận; 7)ROA; 8) chi

phí/thu nhập; 9)thu nhập khác ngoài các khoản cho vay ; 10) dự phòng; và 11) tỷ lệ nợ xấu NPL.

Nguồn danh sách 10 NH hàng đầu Đông Nam Á: Bangkok Bank’s Annual Report 2006, trang 3.

10. Kasikorn Bank Thái Lan 2.475 10,45 14,74

‎ Nguồn số liệu: Tổng hợp từ các báo cáo thường niên trên website của 10 NH trong danh sách trên.

Nước láng giềng Trung Quốc _ quốc gia có hệ thống ngân hàng tương đồng với

Việt Nam ở rất nhiều điểm _ thời gian gần đây cũng đã chứng kiến sự cải thiện hết

sức đáng kể về mức VCSH. Trung Quốc cũng từng có hệ thống NHTMNN với 4

NH tương tự như hệ thống NHTMNN của Việt Nam; Từ cuối năm 2006, 3 trong số

4 NH đó đã được cổ phần hóa (cũng là nguồn gốc của bước ngoặt gia tăng vốn này),

và đều đã lọt vào danh sách 25 NH hàng đầu thế giới xét về quy mô vốn cơ sở nói

trên (Bank of China, ICBC, China Construction Bank Corporation); NHTMNN còn

lại là Ngân hàng nông nghiệp Trung Quốc (Agricultural Bank of China cũng có số

VCSH là 10.773 tỷ USD [43xix] ). Không chỉ mở rộng quy mô VCSH, các NH

này còn đảm bảo rất tốt hệ số an toàn:

Bảng 10: CAR của 3 NHTMNN lớn nhất của Trung Quốc

CAR (%) (31/12/2006) Ngân hàng Loại 1 Loại 2

Bank of China (BOC) 11,44 13,59

Chinese Construction Bank (CCB) 9,92 12,11

Industrial and Commercial Bank of China (ICBC) 12,23 14,05

Nguồn: Tổng kết từ báo cáo thường niên năm 2006 trên website của 3 ngân hàng trên.

Mức trung bình của 3 ngân hàng 11,2 13,25

Có thể thấy hệ số CAR của các NHTM lớn nhất của Trung Quốc rất đáng nể.

Nhưng không chỉ các NHTM do Nhà nước nắm sở hữu đa số mới có các chỉ số tài

chính cao như vậy _ bộ phận NH còn lại trong nền kinh tế (bao gồm các NHTM đô

62

thị, thành phố,v.v..) cũng có mức vốn tương đối cao, và mức CAR trung bình của

các NH đô thị Trung Quốc hiện nay cũng đã đạt 8,5% [25].

Ngay cả các NHTM trung bình của những nước vốn được coi là có trình độ

phát triển ngang tầm (thậm chí thấp hơn) so với Việt Nam cũng vẫn có quy mô

VCSH và hệ số CAR cao hơn hẳn các NHTM của ta:

Bảng 11: VCSH của một số ngân hàng khác trong khu vực

CAR (%) VCSH

(31/12/2006) Ngân hàng Quốc tịch (triệu USD)

31/12/2006 Loại 1 Loại 2

Bank BNI Indonesia 1.346 X 19,04

Bank of the Philippine Islands Philippine 1.319 X 15,94

Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên trên các website của các ngân hàng trên.

Siam City Bank Thái Lan 1.033 11,63 12,483

Nếu lấy các số liệu nêu trên để so sánh một số NHTMNN hoạt động hiệu quả và

có số VCSH lớn của Việt Nam với các NHTM nước ngoài thì tương quan cũng hết

sức chênh lệch:

Biểu đồ 6: Tƣơng quan VCSH của Vietcombank và một số NH khu vực

(31/12/2006)

Biểu đồ 7: Tƣơng quan hệ số CAR của BIDV và một số NH khu vực

(31/12/2006)

63

Phải thừa nhận rằng, cũng như mọi đơn vị kinh doanh khác, không phải VCSH

càng lớn càng tốt, vì một mức vay nợ thích hợp cũng có những tác dụng riêng của

nó: đóng vai trò lá chắn thuế, tận dụng được các nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong

xã hội để mở rộng hoạt động, tránh giảm quyền lực của cổ đông, v.v…Tuy nhiên,

như đã trình bày ở phần trước, VCSH đóng một vai trò hết sức quan trọng, qu‎yết

định trực tiếp đến mọi khả năng hoạt động, phát triển, chống đỡ rủi ro, tạo uy tín với

khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh, v.v… Vì vậy, việc VCSH của các NHTM Việt

Nam thấp như vậy tất yếu tác động tiêu cực tới tiềm năng lớn mạnh của các NH.

Về hệ số an toàn vốn, vẫn còn trường hợp hệ số CAR thậm chí chưa đáp ứng

được yêu cầu tối thiểu _ chủ yếu tại các NHTMNN lớn như tại Agribank, BIDV.

Trong khi đó, có thể nói tất cả những NH từ cấp trung bình của các nước trong khu

vực và trên thế giới hiện nay đều đã vượt cao hơn mức an toàn vốn tối thiểu 8% mà

Uỷ ban Basel đề xuất.

Đối với một NHTM, đảm bảo quy mô VCSH đủ lớn để khắc phục thiệt hại khi

xảy ra rủi ro và ngăn ngừa nguy cơ phá sản là cực kỳ quan trọng vì nó có chức năng

hàng đầu là “tấm đệm hấp thụ tổn thất”. Bên cạnh đó, hệ số CAR được Uỷ ban

Basel xây dựng là một hệ số có tính khoa học rất cao và được thừa nhận, áp dụng

rộng rãi. Do đó, việc một số NHTMNN còn chưa đáp ứng được yêu cầu an toàn vốn

tối thiểu CAR là một nguy cơ lớn đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế, bởi đây

là những trung gian tài chính lớn nhất trong mạng lưới các NHTM và có ảnh hưởng

trực tiếp đến tính ổn định của toàn bộ hệ thống tài chính tiền tệ, đặc biệt là trong

tình hình kinh tế – xã hội nhiều biến động và rủi ro như hiện nay.

64

Một vấn đề nữa là hiện nay, các định chế tài chính trên thế giới đã bắt đầu

chuyển sang áp dụng Hiệp ước Basel II, với những đòi hỏi cao hơn nhưng cũng ưu

việt hơn nhiều, nhằm đảm bảo sự lành mạnh của ngân hàng không tách rời những

yếu tố khách quan và chủ quan bao bọc sự tồn tại và hoạt động của ngân hàng.

Sự lành mạnh của Ngân hàng

Trụ cột 3

Trụ cột 1

Trụ cột 2

Quy luật Yêu cầu vốn Quá trình

thị trường tối thiểu giám sát

Basel II đã khẳng định một cách hoàn chỉnh vai trò của yếu tố VCSH đối với sự

ổn định của NHTM. Và một trong số 4 nguyên tắc của trụ cột Giám sát khuyến cáo

các NH nên nắm giữ một mức vốn cao hơn mức yêu cầu tối thiểu. Trên thực tế,

hiện nay một số nước đã đặt ra những đòi hỏi cao hơn về hệ số an toàn vốn, ví dụ

Thái Lan yêu cầu 8,2%, hoặc trong những tình hình nhất định các nhà quản l‎ý vẫn

yêu cầu các ngân hàng duy trì mức an toàn lớn hơn nữa (ví dụ Hàn Quốc trong thời

kỳ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 được yêu cầu đáp ứng mức CAR 10-

13%). Như vậy, việc một số NHTM lớn nhất của Việt Nam vẫn chưa thực hiện

thành công nội dung của Basel I đồng nghĩa với việc khó mà tính tới việc triển khai

áp dụng văn bản Basel II , vì tuy khoa học và thực chất hơn, nhưng Basel II phức

tạp hơn nhiều và đòi hỏi nhiều sự đầu tư cũng như theo dõi và giám sát hơn. Có thể

thấy trong thời gian trước mắt, hệ thống NHTM của Việt Nam còn phải phấn đấu rất

nhiều để nâng cao tiềm lực tài chính của mình.

3. Nguyên nhân của thực trạng VCSH và hệ số an toàn vốn của các NHTM Việt

Nam

3.1. Nguyên nhân của những tiến bộ

65

Thứ nhất, phải kể tới các đợt bổ sung vốn của Nhà nước dành cho các

NHTMNN. (như đã đề cập ở phần thực trạng VCSH). Trước thực trạng tài chính

yếu kém của các NHTMNN và thách thức cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế,

Thủ tướng Chính phủ đã ký: Quyết định 149/2001/QĐ-TTg (ban hành 5/10/2001)

phê duyệt “Đề án xử lý nợ tồn đọng của các NHTM” và Qu‎yết định 92/2002/QĐ-

TTg (ban hành 29/1/2002) phê duyệt “Phương án tài chính để tái cơ cấu, sắp xếp lại

doanh nghiệp Nhà nước và NHTMNN giai đoạn 2001-2003” [15]. Nội dung chủ

yếu của hai quyết định này là đưa ra các giải pháp xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn

đọng của các NHTMNN (khóa sổ tại thời điểm 31/12/2000), đồng thời hỗ trợ nguồn

vốn để cấp bổ sung vốn điều lệ và xử lý nợ tồn đọng của các tổ chức này. Nhờ

những đợt cấp vốn trong một thời gian tương đối dài và liên tục như vậy, các

NHTMNN của Việt Nam tăng mức vốn điều lệ của mình ở thời điểm năm 2005 lên

gấp 3 lần so với thời kỳ đầu năm 2000. Bên cạnh đó, việc xử lý được các khoản nợ

xấu là một trong những nhân tố quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp nhất đến kết quả

cải thiện được hệ số an toàn vốn của các NHTMNN. Đối với bộ phận các NHTMCP,

các nhà quản trị ngân hàng cũng hết sức quan tâm đến việc duy trì một tỉ lệ nợ xấu

thấp (nhiều NHTMCP lớn hiện đều có mức nợ xấu dưới 1% Tổng dư nợ).

Thứ hai, đó là việc mở cửa tăng cường hợp tác và kêu gọi nguồn lực đầu tư của

nước ngoài. Điều này thực sự rõ nét ở bộ phận các NHTMCP. Không giống như các

NHTMNN có sự trợ giúp to lớn từ phía Nhà nước với nguồn cung là ngân sách hoặc

các công cụ tài chính hữu hiệu của chính phủ, các NHTMCP phải tự đi tìm nguồn

lực. Phương pháp đang dần trở nên phổ biến và chứng tỏ hiệu quả nhất là tìm kiếm

các đối tác chiến lược nước ngoài. Nhờ cách làm này, một số NHTMCP đã có thể

tăng VCSH lên một cách hết sức đáng kể _ bằng cách tăng vốn điều lệ _ và trong

một khoảng thời gian vô cùng ngắn. Chỉ cần một hoặc hai nhà đầu tư nước ngoài

rót vốn là lập tức trạng thái vốn chủ của các ngân hàng đã khác hắn. Ví dụ vốn điều

lệ của Ngân hàng ngoài quốc doanh (VPBank) là 750 tỷ VNĐ, tương đương 46 triệu

USD, nhưng chỉ một mình tập đoàn ngân hàng OCBC (Singapore) đã chi ngay 15,7

triệu USD để mua cổ phần của NH này. Gần đây nhất: Tuần đầu tháng 8/2007, một

sự kiện được coi là “chấn động” trong cộng đồng NH Việt Nam khi Eximbank chọn

được đối tác chiến lược là Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC)_ một

66

trong số ít Tập đoàn NH lớn nhất của Nhật Bản và thế giới. Chỉ một giao dịch bán

15% vốn cổ phần cho đối tác này đã đem lại cho Eximbank số tiền 225 triệu USD.

Đồng thời, trong thời điểm này Eximbank cũng đang hoàn tất thoả thuận bán 10%

vốn điều lệ cho 2 Quỹ đầu tư nước ngoài. Thông qua các giao dịch đó, vốn điều lệ

của Eximbank tăng từ 2.800 tỷ đồng lên 3.733 tỷ đồng ngay trong năm 2007. Thặng

dư vốn sau khi bán cổ phần cho đối tác nước ngoài là khoảng 5.600 tỷ đồng, cộng

với khoản thặng dư vốn bán cho 17 đối tác trong nước là các tập đoàn kinh doanh có

uy tín khoảng 3.500 tỷ đồng, tổng cộng là trên 9.000 tỷ đồng và VCSH tăng lên trên

13.000 tỷ đồng, trở thành NHTM cổ phần có số VCSH lớn nhất và vốn điều lệ lớn

thứ hai ở Việt Nam [36]. Tập đoàn ngân hàng Australia và New Zealand là ANZ

cũng đầu tư 27 triệu USD mua 10% cổ phần của NH Sài Gòn Thương tín, v.v…Đến

nay, đã có gần 10 NH và tập đoàn tài chính nước ngoài, đầu tư gần 1 tỷ USD mua

cổ phần, trở thành đối tác chiến lược của 7 NHTMCP của Việt Nam [35]. Đây chính

là con đường đã giúp các NHTMCP lớn nhất trong hệ thống ngân hàng có những

bước nhảy vọt trong khâu tăng VCSH chỉ trong một vài năm ngắn ngủi vừa qua.

Thứ ba, việc Nhà nước liên tục ban hành nhiều điều luật mới liên quan tới

yếu tố VCSH trong thời gian vừa qua đã buộc các ngân hàng phải nỗ lực tăng

VCSH: Nghị định 141/2006/NĐ-NHCP (ban hành vào 22/11/2006) về Vốn pháp

định của tổ chức tín dụng; Quyết định 888/2005/QĐ-NHNN (16/6/2005) về Việc

mở, thành lập và chấm dứt hoạt động sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện,

đơn vị sự nghiệp của ngân hàng thương mại; Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN

(22/4/2005) về Phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử l‎ý rủi ro tín dụng, sửa đổi bổ

sung bởi quyết định số 18/2007/QĐ -NHNN (25/4/2007); Quyết định 457/2005/QĐ

- NHNN ban hành ngày 19/4/2005 về Các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng *. Đồng thời, những yêu cầu về vốn điều lệ và hệ số an

toàn vố tối thiểu với lộ trình hoàn thành là năm 2008 là động lực thúc đẩy các

NHTM phải gấp rút triển khai thực hiện, nhằm đảm bảo đáp ứng những quy định đó

đúng thời hạn.

* xem Chương III_ Phần I _3.2.3

67

Thứ tư, nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh, đi kèm với điều đó là

sự gia tăng về nhu cầu vốn dành cho phát triển kinh tế. Ngoài ra, cùng với sự phát

triển của kinh tế và xã hội, đời sống con người được nâng cao, phát sinh những thói

quen tiêu dùng dịch vụ ngân hàng mới, đòi hỏi các trung gian tài chính phải tăng

cường tiềm lực để cải thiện khả năng hoạt động cũng như thu hút khách hàng.

Cuối cùng, việc Việt Nam từng bước hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế

giới, ký kết nhiều hiệp định song và đa phương, gia nhập các định chế tài chính lớn

nhất…đồng nghĩa với việc một môi trường kinh doanh mới đang mở ra. Và các

NHTM trong nước đều hiểu rõ ràng rằng những thay đổi này sẽ mang theo một sức

ép cạnh tranh rất lớn. Các ngân hàng hiểu rõ mình cần phải chủ động cải thiện tiềm

lực tài chính, bằng không sẽ khó có thể tồn tại trong một thị trường tài chính rất

tiềm năng nhưng cũng đầy thách thức trong tương lai gần. Theo các chuyên gia kinh

tế – tài chính, 5 năm thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ là giai

đoạn chứng kiến sự cải thiện ấn tượng của các NHTMCP. Nếu như những năm đầu

các NH chấp nhận các biện pháp khắt khe để củng cố và sắp xếp thì những năm gần

đây đã chủ động tăng cường năng lực để kinh doanh hiệu quả hơn.

3.2. Nguyên nhân của những tồn tại

Trước hết, không thể phủ nhận thực tế rằng các NHTM Việt Nam có điểm xuất

phát rất thấp. Các NHTMQD (nay là NHTMNN) được tách ra từ các bộ phận có

chức năng tương ứng của NHTW; các NHTMCP thì được thành lập với những số

vốn ban đầu rất ít ỏi. Chính vì điểm xuất phát thấp, cộng với thực tế là trong thời

gian đầu các TCTD này mới hình thành, nền kinh tế chưa đủ điều kiện cung cấp

những cơ hội cải thiện tiềm lực tài chính; do đó các ngân hàng đã phải mất một

quãng thời gian rất dài và chật vật để có thể tăng nguồn vốn chủ của mình. Lấy điển

hình như trường hợp NHTMCP nông thôn Đại Á (Đại Á Ngân hàng) được thành lập

và khai trương hoạt động từ ngày 30/07/1993 tại Đồng Nai với mức vốn điều lệ ban

đầu chỉ có 1 tỷ đồng _ thực sự là một con số quá nhỏ. Sau đó, NH này phải trải qua

một quá trình tăng vốn điều lệ rất chậm chạp và mức tăng không cao: Năm 2001 sáp

nhập Quỹ tín dụng Quang Vinh vào Đại Á Ngân hàng, tăng vốn điều lệ lên 8 tỷ

VNĐ; Năm 2002 tăng vốn điều lệ 16 tỷ VNĐ; Năm 2003 tăng vốn điều lệ 25 tỷ

68

VNĐ; Năm 2004, tăng vốn điều lệ lên 42 tỷ đồng. Phải đến ngày 31/12/2006, NH

mới thực hiện được một bước ngoặt tăng vốn điều lệ lên 500 tỷ đồng. Hiện nay, NH

cũng đã định hướng cuối năm 2007 sẽ chuyển sang Ngân hàng Thương mại cổ phần

đô thị, với vốn điều lệ là 1.000 tỷ đồng [43v]. Ngay cả ngân hàng được thành lập

gần đây nhất là NH Việt – Nga, dù ra đời trong bối cảnh các tổ chức tài chính đều

đã ‎nhận thức được việc cần gấp rút tăng cao nguồn vốn chủ, cũng chỉ có mức vốn

điều lệ hơn 100 tỷ đồng.

Thứ hai, sự hạn chế trong hình thức huy động nguồn lực tăng vốn của các

NHTM Việt Nam khiến cho quá trình này chưa đạt hiệu quả cao. Các NHTMNN

vẫn chỉ dựa chủ yếu vào sự hỗ trợ của Nhà nước, trong khi ngân sách là có hạn mà

số vốn cần cấp bổ sung lại quá lớn. Các NHTMCP cũng mới dừng lại ở việc huy

động thêm vốn điều lệ từ các cổ đông sáng lập _ vốn chỉ là một con số ít ỏi _ chứ

chưa tận dụng được nguồn vốn từ công chúng hoặc từ nhà đầu tư nước ngoài. Hiện

nay, mới chỉ có một số ngân hàng tiến hành kêu gọi đầu tư từ các cổ đông chiến

lược nước ngoài, và chỉ mới có vài ba ngân hàng tham gia thị trường chứng khoán

một cách chính thức (niêm yết trên sàn chứng khoán).

Thứ ba, nội dung và kết quả hoạt động của nhiều ngân hàng là một nguyên nhân

khiến cho tình trạng vốn và hệ số an toàn của các trung gian tài chính này rơi vào

tình trạng thấp kém. Những NHTMNN với phần lớn khách hàng là các doanh

nghiệp Nhà nước hoạt động rất không hiệu quả cộng thêm tính ỷ lại ở sự giúp đỡ

của Nhà nước, hay những hộ nông dân với khả năng làm kinh tế chưa cao và tài sản

đảm bảo hầu như không có, là chủ của các khoản nợ xấu tại ngân hàng. Ví dụ tại

NH Đầu tư và phát triển Việt Nam năm 2006, tỷ trọng cho vay không có tài sản đảm

bảo lên tới 30% và cho vay khu vực quốc doanh chiếm tới 43,2% [1iii]; Tại NH

Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, cho vay doanh nghiệp Nhà nước

cũng chiếm tới 11,1% và cho vay hộ gia đình và cá nhân (trong đó đối tượng khách

hàng chủ yếu chính là các hộ nông dân ít có khả năng trả đủ và đúng hạn các khoản

vay nợ) là 56,9% [1ii]. Nợ xấu khiến cho độ rủi ro cao hơn (tức là hệ số an toàn

giảm đi), và nguy cơ phải sử dụng hết các khoản dự phòng được trích lập, lỗ lũy kế

kéo dài, và phải đem VCSH ra bù đắp là rất lớn (đồng nghĩa với việc VCSH bị

giảm). Bên cạnh kết quả kinh doanh còn khiêm tốn thì do thời gian thành lập chưa

69

lâu _ nhất là các NHTMCP và Liên doanh _ nên mức tích lũy từ các khoản lợi

nhuận giữ lại hoặo quỹ dự phòng cũng không đáng kể. Trên thực tế, đối với các

ngân hàng nước ngoài, đây l‎à nguồn quan trọng nhất để tăng quy mô VCSH nói

riêng và vốn ngân hàng nói chung _ ví dụ: tại ABN AMRO (nằm trong danh sách

mười NH lớn nhất Châu Âu và thứ mười ba thế giới xét về tổng tài sản; hợp nhất từ

năm 1964 [43xviii]) tính đến hết quý I năm 2007, VCSH là gần 24,7 tỷ Euro, trong

khi lợi nhuận giữ lại tích lũy đạt gần 19,66 tỷ Euro [421]; hay tại Barclay PLC (một

trong những ngân hàng lớn mạnh và uy tín nhất tòan cầu, thành lập từ 1690), kết

thúc năm 2006 các con số này lần lượt là 19,8 tỷ và 12,7 tỷ Bảng Anh [42ii].

Thứ tư, có thể nói rằng Nhà nước chưa có định hướng cụ thể về hệ thống NHTM

Việt Nam. Ví dụ tại Thái Lan hoặc Indonesia, Nhà nước chủ trương không duy trì

quá nhiều các định chế tài chính tồn tại lẻ tẻ và ‎yếu kém, thay vào đó là chỉ duy trì

một số ít tổ chức nhưng thật mạnh và hiệu quả. Thái Lan sau thời kỳ cải cách nhằm

khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã tiến hành sáp nhập và

giải thể, cuối cùng chỉ còn 13 NHTM; Hàn Quốc, một nước công nghiệp phát triển

rất mạnh, một nền kinh tế lớn của khu vực cũng như thế giới, đến nay cũng chỉ có

chưa tới 15 ngân hàng, v.v… Có thể khái quát quan điểm của họ là “qu‎ý hồ tinh bất

qu‎ý hồ đa”. Trong khi đó tại Việt Nam, hàng loạt các TCTD, các NHTM đua nhau

thành lập, mặc dù rất nhiều trong số đó chỉ hình thành với mục tiêu phục vụ một địa

bàn nhỏ hẹp, và không quan tâm nhiều đến khả năng cạnh tranh của mình. Việc này

có tác động không tích cực ở chỗ nó làm phân tán nguồn lực _ cả về mặt tài chính

và cạnh tranh. Những điều luật quy định về mức vốn pháp định, hệ số an toàn vốn,

giới hạn phạm vi hoạt động trong tương quan với vốn điều lệ, v.v… chỉ có tác dụng

đặt ra các định mức nhằm cải thiện hơn trạng thái vốn của các ngân hàng, chưa

mang ‎ý nghĩa thúc đẩy hoặc định hướng cho các ngân hàng xóa bỏ tình trạng tồn tại

nhỏ lẻ và rải rác.

 Tiểu kết: Thực trạng VCSH cũng như hệ số an toàn vốn của các NHTM Việt

Nam trong thời gian qua đã được cải thiện đáng kể, nhưng xét trong tương quan

với khu vực và thế giới, những chỉ số này của hệ thống NHTM Việt Nam còn

quá nhỏ ‎yếu. Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến những thành tích đã đạt

được trong nỗ lực cải thiện VCSH và mức độ an toàn vốn, cũng như những lý

70

do của các mặt còn hạn chế sẽ góp phần tìm ra các giải pháp để tiếp tục phát huy

những nhân tố tích cực và khắc phục những yếu kém còn tồn tại.

71

CHƢƠNG III

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNGVỐN CHỦ SỞ HỮU CHO CÁC

NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM NHẰM PHÙ HỢP VỚI

SỨC ÉP TĂNG VỐN CỦA BỐI CẢNH HỘI NHẬP

I. NHTM Việt Nam trƣớc sức ép tăng vốn trong bối cảnh hội nhập

1. Xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các doanh nghiệp của một nước tham gia

một cách chủ động, tích cực vào nền kinh tế thế giới. Nó đã trở thành một xu thế

khách quan trong thế giới ngày nay khi làn sóng toàn cầu hóa đang diễn ra vô cùng

mạnh mẽ. Toàn cầu hóa tạo nên mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các

quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở mọi góc độ của đời sống trên quy mô toàn

cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế với sự gia tăng về quy mô và hình thức trao

đổi hàng hóa, dịch vụ, các dòng chảy tư bản kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ

thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá. Toàn cầu hóa xuất phát từ sự phát triển của

khoa học kỹ thuật, nhưng đồng thời, nó cũng lại là điều kiện cần thiết để triển khai

những tiến bộ về công nghệ, kỹ thuật, làm tăng các mối liên kết sản xuất kinh doanh,

trao đổi công nghệ giữa các quốc gia và doanh nghiệp trên phạm vi toàn thế giới.

Nhờ có toàn cầu hóa, các nguồn lực trên thế giới có thể được phân bố một cách hợp

lý hơn, các thể chế quốc tế được hình thành và củng cố, những quy chuẩn chung để

điều phối các hoạt động sản xuất, kinh doanh được xây dựng. Tham gia vào quá

trình này giúp các nước tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ, và những

ưu đãi để phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và các

doanh nghiệp trong nước nói riêng. Do đó, hội nhập là con đường ngắn nhất để các

nước rút ngắn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và hiện nay không một quốc

gia nào mong muốn phát triển lại có thể đóng cửa không hội nhập với bên ngoài. Và

nếu như toàn cầu hoá luôn có hai mặt tích cực và tiêu cực thì hội nhập kinh tế quốc

tế cũng luôn mang theo mình những cơ hội và thách thức to lớn.

2. Hội nhập trong lĩnh vực Ngân hàng ở Việt Nam

Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành những xung lực cho quá trình đổi

mới và phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam. Hội nhập trong lĩnh vực ngân

72

hàng là việc các định chế tài chính cùng tham gia một cách bình đẳng trên thị trường

kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng trong phạm vi lớn quốc tế và khu vực, có

nghĩa là các NHTM nội địa và nước ngoài đều được làm nhiệm vụ kinh doanh đúng

theo luật pháp và tập quán quốc tế, được tiếp cận với những điều kiện như nhau và

phải đối mặt với những thử thách giống nhau. Nó thể hiện ở sự hội tụ quốc tế, sự

tương đồng trên tất cả các giác độ thể chế, chính sách, hoạt động và tư duy, nhận

thức. Hội nhập NH nói riêng và tài chính - tiền tệ nói chung vừa là tiền đề, vừa là hệ

quả của sự hội nhập, phát triển của tất cả các lĩnh vực kinh tế khác.

Tại Việt Nam, tài chính - ngân hàng là một trong những mảng nhận được nhiều

sự quan tâm nhất và chịu tác động mạnh nhất trong tiến trình hội nhập mạnh mẽ, do

tính nhạy cảm của bản thân lĩnh vực này, cũng như những thay đổi tiềm tàng được

dự đoán là hết sức to lớn sẽ diễn ra trong thời gian tới. Đi cùng xu hướng hội nhập

sẽ là rất nhiều cơ hội: Trao đổi, hợp tác quốc tế về các vấn đề tài chính, tiền tệ, qua

đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NH Việt Nam trên thị trường tài chính

quốc tế; Điều kiện chia sẻ thông tin, trao đổi nghiệp vụ, thu hút các luồng vốn quốc

tế, tiếp cận thị trường mới cũng như tranh thủ được công nghệ NH, trình dộ quản l‎ý

tiên tiến từ các quốc gia có nền kinh tế phát triển; Động lực thúc đẩy công cuộc đổi

mới và cải cách NH phải tiến hành nhanh hơn, quyết liệt hơn, từ đó nâng cao được

sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động, nâng cao được năng lực quản trị điều hành

tương xứng với chuẩn mực trong hệ thống NH quốc tế; Thông qua việc hợp tác, các

định chế tài chính có thể dành cho nhau những ưu đãi trong tín dụng, trong mức phí

dịch vụ NH, trong đào tào nguồn nhân lực; v.v…Tóm lại, sự hội nhập sẽ đặt các

NHTM Việt Nam trong một môi trường kinh doanh rất mới, hàm chứa những vận

hội vô cùng, nhưng cũng đi liền với nhiều thách thức..

3. Sức ép tăng vốn trong bối cảnh hội nhập

Cơ hội có thể được chuyển hóa thành thành công hoặc cũng có thể sẽ là thất bại.

Báo cáo phát triển mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, ngân hàng là lĩnh vực chậm cải cách nhất trong nền kinh tế năng động của Việt Nam [28]. Chưa

hẳn đồng tình với quan điểm này của WB, nhưng Ngân hàng Nhà nước cũng thừa

nhận, hệ thống NH của Việt Nam còn tồn tại rất nhiều mặt yếu kém và cho rằng,

73

hơn bất cứ ngành nào, lĩnh vực ngân hàng cần phải hết sức tăng tốc nâng cao năng

lực cạnh tranh để không bị thua thiệt ngay trên “sân nhà”. Thách thức đối với quá

trình hội nhập quốc tế trong dịch vụ ngân hàng của Việt Nam thì nhiều, nhưng một

trong những hạn chế lớn nhất, ảnh hưởng cơ bản nhất đến năng lực cạnh tranh của

hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay chính là tiềm lực về vốn yếu.

Vốn tự có của NH tuy không phải là tất cả: một NH có quy mô vốn nhỏ và hệ số

an toàn không đảm bảo vẫn có thể tồn tại ở một chừng mực nhất định; song, xét về

dài hạn và trong điều kiện thị trường mở, với cạnh tranh công bằng và khốc liệt, thì

việc NH đó có thể vận hành an toàn, ổn định và có thể phát triển hay không hoàn

toàn chịu sự chi phối của nhân tố VCSH. Quy mô vốn đủ lớn sẽ như một nguồn nội

lực dồi dào sẵn sàng để giúp “cơ thể NH” chống trọi với những đổ vỡ, hoặc nếu tốt

hơn: cung cấp sinh lực cho cơ thể ấy lớn mạnh không ngừng. Bước vào giai đoạn

hội nhập sâu rộng như hiện nay, khi mà Việt Nam đã chính thức trở thành một bộ

phận của những thể chế kinh tế quốc tế lớn nhất, môi trường kinh tế - tài chính mới

sẽ tạo ra những sức ép về VCSH, xét cơ bản đến từ ba góc độ: (i) Sức ép cạnh tranh

đến từ phía các định chế tài chính hùng mạnh của nước ngoài; (ii) Phạm vi và chất

lượng hoạt động được mở rộng đòi hỏi nguồn vốn lớn; và (iii) Sự gia tăng của các

yếu tố rủi ro trong môi trương tài chính - ngân hàng của bối cảnh hội nhập.

3.1. Sức ép cạnh tranh từ phía các định chế tài chính nước ngoài

Trong thời điểm hiện nay, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực NH ở Việt Nam trước

hết là việc thực hiện tất cả những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính -

ngân hàng mà chúng ta đã đưa ra khi gia nhập các thể chế quốc tế, cụ thể là tuân

theo các thỏa thuận của: Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định

khung về thương mại, dịch vụ ASEAN (AFAS), và Hiệp định chung về thương mại,

dịch vụ của WTO (GATS).

Được cân nhắc là một quốc gia đang phát triển, việc mở cửa các thị trường tài

chính - ngân hàng (cũng tương tự như các lĩnh vực khác) của Việt Nam có lộ trình

tương đối dài _ từ 3 đến 10 năm sau khi k‎ý kết các hiệp định_ để các doanh nghiệp,

tổ chức trong nước kịp thời thích nghi với những sự thay đổi. Song, những ưu đãi ấy

sắp không còn nữa, và trong thời gian không xa, lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam

74

sẽ phải hội nhập thực sự đầy đủ. Điều đó đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường

trong nước trên cơ sở điều chỉnh dần các giới hạn về số lượng đơn vị, loại hình tổ

chức, phạm vi hoạt động, tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài hoặc tổng giao dịch

nghiệp vụ NH, mức huy động vốn VNĐ, các loại hình dịch vụ, bảo đảm quyền kinh

doanh của các TCTD nước ngoài theo các cam kết đa phương và song phương: từng

bước đối xử bình đẳng hơn giữa các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, loại

bỏ căn bản các hình thức bảo hộ bất hợp lý đối với các TCTD nội địa để tiến tới

thực hiện đối xử bình đẳng hơn giữa TCTD trong nước với nước ngoài. Cụ thể như

sau:

3.1.1. Hội nhập theo Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ

Cho đến nay, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là sự cam kết quốc tế

đầu tiên của Việt Nam về lĩnh vực NH trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo cam kết này, việc mở cửa dịch vụ NH ở Việt Nam được thực hiện theo lộ trình

9 năm (chia làm 7 mốc) trước khi mọi hạn chế đối với các NH Hoa Kỳ được bãi bỏ

[3]:

- Trong vòng 3 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp l‎‎ý duy

nhất mà các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ khác (ngoài NH và công ty thuê mua tài

chính) được phép hoạt động là liên doanh với đối tác Việt Nam.

- Sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam dành đối xử quốc gia đầy

đủ với quyền tiếp cận NHTW trong các hoạt động tái chiết khấu, swap, forward.

- Trong vòng 8 năm đầu, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh NH

Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các pháp nhân Việt Nam mà NH

không có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh phù hợp với biểu

sau (Sau thời gian đó các hạn chế này sẽ được bãi bỏ): năm thứ 1: 50% (vốn pháp

định chuyển vào), năm thứ 2: 100%, năm thứ 3: 250%, năm thứ 4: 400%, năm thứ

5: 600%, năm thứ 6: 700%, năm thứ 7 : 900%, năm thứ 8 : Đối xử quốc gia đầy đủ.

- Sau 8 năm, các định chế tài chính có vốn đầu tư Hoa Kỳ có thể phát hành thẻ tín

dụng trên cơ sở đối xử quốc gia. Chi nhánh NH Hoa Kỳ không được đặt các máy rút

tiền tự động tại các địa điểm ngoài văn phòng của chúng cho tới khi các NH Việt

Nam được phép làm như vậy; Chi nhánh NH Hoa Kỳ cũng không được lập các

điểm giao dịch phụ thuộc.

75

- Trong 9 năm đầu, NH Hoa Kỳ chỉ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối

tác Việt Nam trong đó phần góp vốn của đối tác Hoa Kỳ không thấp hơn 30%

nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh.

- Sau 9 năm, các NH Hoa Kỳ được thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ.

- Trong vòng 10 năm đầu, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh NH

Hoa Kỳ nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà NH không

có quan hệ tín dụng theo mức vốn pháp định của chi nhánh theo mức: Năm thứ 1 :

50% (vốn pháp định chuyển vào), năm thứ 2 : 100%, năm thứ 3 : 250%, năm thứ 4 :

350%, năm thứ 5 : 500%, năm thứ 6 : 650%, năm thứ 7 : 800%, năm thứ 8 : 900%,

năm thứ 9 : 1000%, và năm thứ 10 : Đối xử quốc gia đầy đủ.

Vậy là sau 9 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực, sẽ có 5 hình thức thông qua đó

các định chế tài chính Hoa Kỳ có thể hoạt động tại Việt Nam là: Chi nhánh NH Hoa

Kỳ, NH liên doanh Việt Nam - Hoa Kỳ, NH con 100% vốn Hoa Kỳ, Công ty thuê

mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ, và Công ty mua tài chính liên doanh Việt Nam -

Hoa Kỳ. Cùng với sự nới lỏng về hình thức pháp l‎ý đó, phía Hoa Kỳ cũng sẽ được

phép cung cấp đầy đủ 12 phân ngành dịch vụ tài chính ngân hàng, trong đó có thể

nói là bao trùm toàn bộ các loại hình dịch vụ (như: Nhận tiền gửi; Cho vay các hình

thức ; Tất cả các giao dịch thanh toán và chuyển tiền bao gồm các thẻ tín dụng; ghi

nợ , báo nợ , séc du lịch và hối phiếu NH; Bảo lãnh và cam kết; Môi giới tiền tệ;

Quản lý tài sản; Cung cấp và chuyển thông tin tài chính và xử lý dữ liệu tài chính và

các phần mềm của các nhà cung cấp các dịch vụ tài chính khác; Tư vấn, trung gian

môi giới và các dịch vụ tài chính phụ trợ khác kể cả tham chiếu và phân tích tín

dụng , tư vấn và nghiên cứu đầu tư , tư vấn về thụ đắc và về chiến lược và cơ cấu

công ty, v.v…). Như vậy, đến năm 2010, các NH Hoa Kỳ sẽ có một sân chơi bình

đẳng với các NH trong nước. Nắm bắt thời cơ đó, nhiều TCTD nước này đã và đang

gấp rút tìm hiểu luật lệ để thâm nhập thị trường tài chính Việt Nam.

3.1.2. Hội nhập theo các hiệp định của ASEAN và WTO

Trong khuôn khổ các cam kết của ASEAN: đến năm 2008, Việt Nam sẽ phải

“mở” toàn bộ các quy định về việc khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị

giao dịch của các ngân hàng nước ngoài theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp

định khung về hợp tác thương mại dịch vụ (AFAS) [28]. Đồng thời, khi gia nhập

76

WTO, tuân theo Hiệp định chung về thương mại_dịch vụ (GATS), chúng ta cam kết

dành nguyên tắc đối xử Tối huệ quốc (MFN) và Đãi ngộ quốc gia (NT) cho những

nước đã có thỏa hiệp song và đa phương. Theo cam kết giữa Việt Nam và các nước

thành viên, từ nay đến năm 2010, các NH nước ngoài sẽ được phép thực hiện hầu

hết các dịch vụ NH như một NH trong nước (trừ dịch vụ tư vấn và cung cấp thông

tin NH). Từ ngày 20/7/2007, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện quy định mới cho phép

thành lập NH 100% vốn nước ngoài. Từ đây, các NH nước ngoài được phép thiết

lập sự hiện diện thương mại của mình tại Việt Nam dưới các hình thức như: văn

phòng đại diện, chi nhánh NH thương mại, các NH thương mại liên doanh với nước

ngoài có vốn nước ngoài dưới 50% vốn điều lệ, các công ty cho thuê tài chính liên

doanh, các công ty tài chính cho thuê 100% vốn nước ngoài và ngân hàng 100% vốn

nước ngoài... Cũng như các pháp nhân Việt Nam, các chi nhánh, văn phòng đại diện,

và ngân hàng nước ngoài này được hưởng quy chế đối xử không phân biệt ngay sau

khi Việt Nam gia nhập WTO.

Tựu chung lại, đến giai đoạn 2010-2013, hoàn tất việc thực hiện những cam kết

còn lại của BTA cũng như GATS và AFAS, thị trường tài chính ngân hàng của Việt

Nam sẽ phải đáp ứng được tất cả những yêu cầu sau cơ bản sau [3]:

- Không hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ NH;

- Không hạn chế tổng trị giá các giao dịch về dịch vụ NH;

- Không hạn chế tổng số các hoạt động tác nghiệp hoặc tổng số lượng dịch vụ

đầu ra của NH;

- Không hạn chế về tổng số thể nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực

dịch vụ cụ thể, hoặc một nhà cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng cần thiết, hoặc

trực tiếp liên quan tới việc cung cấp một dịch vụ cụ thể;

- Không các biện pháp hạn chế hoặc yêu cầu các hình thức pháp nhân cụ thể

hoặc liên doanh thông qua đó người cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch vụ;

- Không hạn chế về tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài bằng việc quy định tỷ lệ

phần trăm tối đa cổ phần của bên nước ngoài hoặc tổng trị giá đầu tư nước ngoài

tính đơn hoặc tính gộp.

3.1.3. Yêu cầu quy mô VCSH lớn

77

Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn nữa, hệ thống NHTM Việt Nam sẽ phải

đứng trước sự cạnh tranh bình đẳng với các định chế tài chính NH và phi NH của

nước ngoài. Đó sẽ là những tổ chức với lực lượng hết sức hùng hậu: những tập đoàn

tài chính hay các tập đoàn NH khổng lồ với các công ty mẹ và công ty con có mặt

tại khắp năm châu, trình độ vô cùng tiên tiến, công nghệ hiện đại và bề dày kinh

nghiệm lâu năm. Đơn cử như Mỹ có khoảng 8.000 NHTM, trong đó khoảng 10 NH

với số vốn tự có trên 10 tỉ USD, 62 NH trên 1 tỉ USD và 215 NH trên 150 triệu

USD; Không chỉ có vậy, các NHTM quốc tế đang thực hiện khoảng 6.000 nghiệp vụ

kinh doanh tiền tệ tín dụng ngân hàng[31], trong khi các NHTM Việt Nam mới chỉ

thực hiện tối đa khoảng 300 nghiệp vụ và mới cung cấp các dịch vụ mang tính chất

truyền thống, còn các dịch vụ hiện đại như NH điện tử, môi giới kinh doanh, nghiệp

vụ NH đầu tư, tư vấn... thì mức độ sử dụng vẫn còn mới hoặc hạn chế. Hiện nay,

những NHTM trong nước đang nắm giữ khoảng 90% thị phần (cả tiền gửi và cho

vay), trong đó riêng các NHTMNN chiếm 70%. Bộ phận các NH nước ngoài chỉ

chiếm gần 10% thị phần. Song, đây không phải là lợi thế của các NH trong nước

trước tiến trình hội nhập và mở cửa, mà chỉ là kết quả tất yếu của sự bảo hộ trong

suốt thời gian qua đối với các NHTM nội địa, đặc biệt là các NHTMNN so với các

NH nước ngoài về đối tượng khách hàng, số lượng và loại hình tiền tệ được phép

huy động và mạng lưới hoạt động, đồng thời các NHTMNN cũng bỏ qua việc hệ số

an toàn bị giảm thấp. Kết quả một cuộc điều tra của Chương trình Phát triển Liên

hợp quốc (UNDP) được thực hiện vào cuối năm 2005 cho biết: có 45% khách hàng

(là doanh nghiệp và cá nhân) sẽ chuyển sang vay vốn của NH nước ngoài thay vì

của NH trong nước; 50% chọn dịch vụ NH nước ngoài thay thế, và 50% còn lại

chọn NH nước ngoài để gửi tiền, đặc biệt là ngoại tệ. Như vậy, các NH trong nước

có thể sẽ mất đi khoảng một nửa các hoạt động kinh doanh hiện nay; và khả năng

huy động vốn cũng bị giảm sút [31].

Xét về nguy cơ khi phải đối mặt với các định chế tài chính nước ngoài, có hai

khả năng xảy ra: Hoặc phía nước ngoài sẽ thành lập các tổ chức riêng theo hình thức

100% vốn nước ngoài. Khi đó, các NHTM Việt Nam sẽ đứng trước khả năng bị

“tiếm ngôi”, mất đi hoàn toàn vị thế thống lĩnh thị trường tài chính trong nước vào

tay các tổ chức nước ngoài hoạt động bài bản và hiệu quả hơn; Hoặc các định chế

78

tài chính nước ngoài sẽ dùng tiềm lực của mình mua cổ phần của các NHTM nội địa

để dần dần (khi luật pháp bớt đi sự hạn chế đối với các nhà đầu tư nước ngoài) tham

gia nắm quyền chi phối những TCTD đang hoạt động hiệu quả thông qua con đường

chủ yếu là nắm giữ cổ phần ưu thế _ Các pháp nhân là NHTM từ những nền kinh tế

thị trường phát triển không bao giờ chỉ mua cổ phần ở tỷ lệ quá nhỏ để chấp nhận vị

thế không có vai trò gì trong hội đồng quản trị, và càng không bao giờ chỉ mua cổ

phiếu để đóng vai trò là người đầu tư hưởng lợi tức thuần túy. Với kinh nghiệm

hoạch định chiến lược, các nhà đầu tư này hiểu rằng khi đầu tư vào một doanh

nghiệp trong nước có thương hiệu định hình sẽ mang lại giá trị lợi nhuận cao hơn,

tận dụng được những nền tảng mà các TCTD trong nước đã mất nhiều năm gây

dựng, từ đó rút ngắn giai đoạn đầu tư và thuận lợi hơn trong việc đóng góp vào công

tác quản trị nội bộ_ Những thương vụ mua bán quốc tế gần đây phần lớn đều diễn ra

theo xu hướng những NH nước ngoài lớn, có lợi nhuận cao, có trụ sở ở những nước

phát triển mua lại cổ phần của những NH tại nước có tiềm năng phát triển mặc dù tỷ

lệ tập trung tư bản của ngành NH trong nước này còn thấp và khung pháp lý NH còn

chưa đầy đủ. Bằng cách này hay cách khác, các định chế tài chính nước ngoài đều

có khả năng sẽ chiếm lĩnh được thị trường rất cao mà không gặp nhiều trở ngại gì.

Việc các NH nước ngoài sẽ không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh tại những thị trường

tiềm năng ở các nước đang phát triển mạnh là điều chắc chắn. Trên thực tế, rất nhiều

NH, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính nước ngoài đang nghiên cứu thị

trường Việt Nam, một thị trường được đánh giá là rất nhiều tiềm năng, với tốc độ

tăng trưởng nhanh trong khi mức độ và trình độ cung cấp dịch vụ tài chính còn ở

giai đoạn phát triển ban đầu. Đã có những động thái cho thấy nhiều NH nước ngoài

có tiềm lực mạnh mẽ đã và đang nhanh chóng chuẩn bị vào Việt Nam. Các tổ chức

này khi tới đây đều nhắm đến thị trường tại chỗ, và đều tin chắc vào sự thành công

của mình. Cơ sở của niềm tin này một phần không nhỏ là vì tiềm lực tài chính của

các NHTM Việt Nam khó mà cạnh tranh nổi với họ. Chỉ trong một thời gian ngắn,

đã có ngày càng nhiều NH nước ngoài “nhòm ngó” các NH trong nước, tiến hành

thương thảo, tiếp xúc để trở thành cổ đông chiến lược của các NH VN. Việc một

loạt các NHTMCP Việt Nam bán hoặc thương thảo bán cổ phần cho các NH lớn của

nước ngoài trong thời gian qua cho thấy sức hấp dẫn của các NH Việt Nam và xu

79

thế hội nhập quốc tế đang ngày càng trở nên mạnh mẽ trong lĩnh vực này:NHTMCP

Á Châu bán 10% cổ phần cho NH Anh Standard Chartered, NH Kỹ thương bán

15% cổ phần cho NH Hồng Công-Thượng Hải (HSBC), NH Phương Nam thương

lượng bán 10% cho NH Mỹ Cathay Bank, OCBC của Singapore mua 10% cổ phiếu

VPBank, ANZ của Australia và New Zealand nắm 10% cổ phần Sacomban, PNB

Paribas cũng mua 10% cổ phần của Ocean Bank (OCB) [22]. Mới đây nhất, việc

NH đầu tiên của Nhật Bản mua cổ phần của một NH Việt Nam _ Sumitomo Mitsui

Banking Corporation (SMBC) mua cổ phần Eximbank hồi tháng 8/2007 khi mà hệ

thống NH của Nhật Bản được coi là "bảo thủ” nhất trong hệ thống tài chính trên thế

giới, với cung cách làm ăn hết sức chắc chắn, có nghiệp vụ quản trị rủi ro hoàn hảo,

càng chứng tỏ sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Theo nhận định của các

chuyên gia kinh tế, bình quân lãi ròng trên vốn tự có đạt trên 30% của nhiều

NHTMCP trong nước đang là một con số rất hấp dẫn đối với giới đầu tư tài chính

quốc tế.

Khả năng các NH nước ngoài sẽ thành công cũng không khó dự đoán. Các NH

nước ngoài đang ngày càng đạt được nhiều thành tích trên thị trường dịch vụ tài

chính - ngân hàng của Việt Nam chỉ sau một khoảng thời gian ngắn thâm nhập, và

trong điều kiện còn gặp nhiều phân biệt đối xử so với các TCTD trong nước. HSBC

_ đơn vị được bầu chọn là NH nước ngoài tốt nhất tại Việt Nam năm 2006 (theo giải

thưởng quốc gia của tạp chí FinanceAsia), và NH bán lẻ tốt nhất Việt Nam_ từ năm

2005 đã tiến hành mua lại cổ phần và trở thành đối tác chiến lược của Techcombank.

Với cách làm này, HSBC đã tận dụng được 65 chi nhánh của Techcombank trên toàn

quốc để phục vụ khách hàng của mình, ngoài ra còn có hơn 800 điểm giao dịch khác

trong khuôn khổ hợp tác giữa HSBC và các NH trong nước [29]. NH này cùng với

tập đoàn NH ANZ và Standard Chartered Bank đã nộp đơn thành lập NH 100% vốn

nước ngoài. Đến nay, chỉ sau một vài năm ngắn ngủi thực sự hội nhập, đã có 6 NH

nước ngoài có nguyện vọng thành lập NH con 100% vốn điều lệ tại Việt Nam [35].

Đối mặt với đông đảo những “người khổng lồ” đang ngấp nghé trước ngưỡng

cửa thị trường tài chính - ngân hàng Việt Nam như vậy, các NHTM trong nước

không còn lựa chọn nào khác là trước hết phải nâng cao tiềm lực tài chính. Thiếu

tiềm lực tài chính cũng sẽ như không có “sức”, các NH Việt Nam sẽ khó mà “trụ”

80

nổi trên những gì mình đã gây dựng được, chưa nói đến việc cạnh tranh mở rộng với

nước ngoài. Quy mô tài chính nhỏ sẽ khó thu hút sự chú ‎‎ý của khách hàng trong

điều kiện họ có vô số lựa chọn cho quyết định k‎‎ý thác hoặc đi vay _ kết quả nêu trên

của UNDP cũng đủ cho thấy khách hàng có xu hướng ưa chuộng dịch vụ NH của

nước ngoài như thế nào_, v.v…Và như đã trình bày ở chương trước, sức mạnh tài

chính của các NHTM được quyết định ban đầu chính bởi VCSH. Do đó, tăng cường

nguồn lực VCSH là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất mà các NHTM Việt

Nam đang phải thực hiện.

3.2. Phạm vi và chất lượng hoạt động được mở rộng đòi hỏi nguồn VCSH lớn

Ngay cả khi không đề cập đến việc cạnh tranh với các định chế tài chính của

nước ngoài, thực tế nhu cầu to lớn của lĩnh vực tài chính - ngân hàng trong bối cảnh

hội nhập kinh tế tương lai cũng tự nó đặt ra một yêu cầu vô cùng to lớn về vốn cho

các NHTM Việt Nam.

3.2.1. Số lượng và quy mô nhu cầu về dịch vụ NH tăng đòi hỏi VCSH lớn

Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ.

Bước vào giai đoạn hậu gia nhập WTO, tình hình tăng trưởng sẽ còn diễn ra tích

cực hơn rất nhiều. Đi kèm theo sự chuyển mình của nền kinh tế là những nhu cầu

khổng lồ về vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, cũng như sự chính thức gia tăng nhu

cầu về dịch vụ NH trên mọi mặt của đời sống xã hội: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián

tiếp nước ngoài, xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả; Hàng loạt thị

trường khác, như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường du lịch

quốc tế và nội địa, thị trường lao động trong và ngoài nước,... tiếp tục phát triển

mạnh; các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, chăm sóc sức khoẻ, dịch vụ công cộng,

đang được xã hội hoá với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, v.v... Tất cả

những yếu tố đó tạo ra nhu cầu mở tài khoản, gửi tiền, thanh toán, vay tiền, chuyển

tiền, và vô số các nhu cầu khác về tài chính ngân hàng. Đơn cử, theo tính toán, 5

năm 2006-2010 cần một lượng vốn khá lớn cho đầu tư: tăng từ 40% GDP năm 2006

lên 41%GDP năm 2010, với tốc độ tăng vốn đầu tư hàng năm khoảng trên 10%.

Nếu xét về số tuyệt đối thì giai đoạn 2006-2010 cần một lượng vốn khoảng 2.675

ngàn tỷ đồng (≈163-167 tỷ USD), trong đó năm 2006: 375 ngàn tỷ VNĐ, 2007: 442

81

ngàn tỷ, 2008: 523 ngàn tỷ, 2009: 615 ngàn tỷ, 2010: 720 ngàn tỷ. Giai đoạn kế

hoạch 5 năm này cũng có nhiều dự án lớn có nhu cầu vốn cho đầu tư và phát triển

khá nhiều như các dự án ngành điện lực, dầu khí, công nghiệp, tàu thủy, xi

măng,v.v…Nguồn vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi chắc chắn chỉ đáp ứng được

một phần nhỏ nhu cầu này. Thực tế, với hơn 2.800 DNNN, hàng ngàn DN cổ phần,

hơn 100 ngàn DN vừa và nhỏ, chưa kể các DN có vốn đầu tư nước ngoài, các trang

trại, hợp tác xã, tổ sx, hộ kinh doanh cá thể…trong nền kinh tế nước ta, có thể thấy

nhu cầu vay vốn từ hệ thống NH sẽ rất lớn [8]. Ngoài ra, đông đảo người dân cũng

đang dần làm quen với những tiện ích NH, tạo điều kiện cho sự thâm nhập mạnh

của các dịch vụ này vào đời sống trong tương lai. Để đáp ứng được tất cả những nhu

cầu ấy, các NHTM Việt Nam cần gây dựng cho mình một tiềm lực đủ mạnh để

không bỏ lỡ các cơ hội kinh doanh, và những sự đầu tư như thế cần nguồn VCSH

rất lớn.

Không chỉ gia tăng về số lượng nhu cầu, quy mô chất lượng của các hoạt động

trong tương lai cũng sẽ thay đổi. Trong thời gian tới, những dự án đầu tư lớn sẽ đòi

hỏi những khoản tín dụng lớn, thời hạn dài mà chỉ những TCTD có uy tín cũng như

năng lực mạnh mới cung cấp được. Những dự án khu công nghiệp, khu chung cư

hay quy hoạch thành phố, v.v…sẽ là những cơ hội kinh doanh rất tốt cho các NH.

Song, nếu mỗi khoản vay đã có giá trị vài triệu đôla, thậm chí lên đến đơn vị tỷ đôla,

thì huy động toàn bộ số vốn của một NH nhỏ có lẽ cũng chỉ đủ đáp ứng một vài dự

án như thế. Có nghĩa là, những NH có quy mô vốn giảm sút sẽ mất dần vị trí trên thị

trường cho vay kinh doanh giá trị lớn.

Tiềm lực không đủ mạnh chính là một trong những nguyên nhân đẩy các NHTM

Việt Nam vào tình thế phải chấp nhận những cơ hội kinh doanh nghèo nàn. Các NH

nước ngoài, với tiềm lực sẵn có của mình, khi mới thâm nhập vào một nền kinh tế

mà thị trường tài chính chưa phát triển, công nghệ yếu kém, môi trường kinh doanh

thiếu minh bạch, hệ thống thông tin không đầy đủ… phản ứng thường thấy là họ

thực hiện chính sách tín dụng “Chọn miếng ngon” (Cherry pick) để đầu tư tài chính.

Thực tế thời gian qua ở Việt Nam đã cho thấy, các NH nước ngoài đã cố gắng giành

lấy khách hàng là các xí nghiệp liên doanh, tổng công ty có doanh số xuất nhập

khẩu lớn, những doanh nghiệp có thị trường sản phẩm ổn định, thực hiện chính sách

82

tín dụng chọn những khách hàng làm ăn có lãi, rủi ro thấp nhất và nhường phần các

doanh nghiệp có độ rủi ro hơn cho các NHTM trong nước. Trong tương lai khi mà

các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tiếp tục ồ ạt đổ vào Việt Nam, họ hoàn toàn có

khả năng sẽ lựa chọn sử dụng dịch vụ tài chính tín dụng của các NH đến từ chính

nước mình. Các NH của Việt Nam sẽ để tuột mất các cơ hội nếu không xây dựng

tiềm lực và uy tín ngay từ bây giờ.

3.2.2. Quy mô hoạt động mở rộng để tận dụng lợi ích kinh tế theo quy mô

Những NH vốn nhỏ sẽ không tận dụng được lợi ích kinh tế theo quy mô. Sự

tăng trưởng nhanh của các NHTM và quá trình tự động hóa trong bối cảnh cạnh

tranh mạnh mẽ đòi hỏi các NH phải duy trì ở quy mô lớn nhằm giảm thiểu chi phí.

Tại các NH lớn, chi phí để duy trì bộ máy giảm và số tài sản có tính trên đầu người

tăng. Nhờ việc tăng cường VCSH _ từ đó mở rộng quy mô tổng quát, các nguồn lực

sẽ được tận dụng tối đa, chi phí giảm và do đó lợi nhuận tăng. Ví dụ, trong thời kỳ

thập niên 80 tại Hoa Kỳ, để thu hút 1.000USD tiền gửi và tiền vay, NHTM phải chi

phí bình quân 33,3 USD trong đó các NH cỡ nhỏ thu nhập 55-60USD/1000USD

vốn đầu tư, các NH cỡ trung bình đạt 64,6USD/1000USD vốn đầu tư, và NH cỡ lớn

thu được 70-80USD [14]. Có thể thấy, quy mô NH thực sự góp phần tạo chênh lệch

về thu nhập, mà thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến tích lũy _ nguồn cơ bản để tiếp

tục tăng vốn hàng năm và phát triển hơn nữa.

3.2.3. VCSH lớn để vượt qua những giới hạn kinh doanh đặt ra từ phía các nhà

quản lý

Để đảm bảo phát triển ổn định và bền vững trong môi trường hội nhập nhanh và

mạnh, các cơ quan quản l‎ý gần đây luôn nhấn mạnh đến sự cần thiết của quy mô

vốn hợp l‎ý trước khi cho phép NH cung cấp dịch vụ mới hay thành lập, mua lại văn

phòng, và các chi nhánh mới. Những NH có mức tư bản hóa vững mạnh sẽ được

phép đầu tư vào những lĩnh vực mới và mở rộng phạm vi hoạt động, trong khi

những NH ít vốn sẽ phải chịu áp lực từ phía các nhà chức trách và sẽ bị giám sát

chặt chẽ trong hoạt động cho đến khi trạng thái vốn được cải thiện. Ở Việt Nam thời

gian gần đây, nhiều văn bản pháp luật đã được xây dựng để phục vụ

83

mục đích đó:

- Nghị định 141/2006/NĐ-NHCP (ban hành vào 22/11/2006) về Vốn pháp định

của tổ chức tín dụng yêu cầu các NHTMNN có mức vốn điều lệ tối thiểu là 3.000 tỷ

đồng, các NHTMCP có vốn điều lệ thấp nhất là 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và

3.000 tỷ đồng vào năm 2010 (Xem bảng 8 trang 51).

- Quyết định 888/2005/QĐ-NHNN (16/6/2005) về Việc mở, thành lập và chấm

dứt hoạt động sở giao dịch, chi nhánh, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp của

ngân hàng thương mại áp dụng đối với các NHTMNN và NHTMCP hoạt động tại

Việt Nam cũng đặt ra công thức tính số sở giao dịch và chi nhánh được mở trực tiếp

chịu ảnh hưởng của quy mô vốn điều lệ và vốn pháp định: Số sở giao dịch, chi

nhánh được mở tính theo công thức ràng buộc trực tiếp với số vốn điều lệ của NH.

- Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (22/4/2005) về Phân loại nợ, trích lập dự

phòng để xử l‎ý rủi ro tín dụng, sửa đổi bổ sung bởi quyết định số 18/2007/QĐ-

NHNN (25/4/2007), đưa ra mức trích lập dự phòng cụ thể, tác động trực tiếp đến

các quỹ, cũng tức là đến nguồn vốn của NH. Nếu VCSH của NH không lớn, khi

trích lập dự phòng cho đủ với quy định của pháp luật, thậm chí vốn có thể bị âm.

- Quy mô hoạt động cũng như sự phát triển của một NH luôn bị giới hạn và chịu

ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố VCSH (như đã trình bày ở chương I). Cụ thể,

những giới hạn này được nêu rõ trong Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ban hành

ngày 19/4/2005 về Các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín

dụng, có quy định rõ các giới hạn tín dụng của TCTD đối với khách hàng. Theo đó,

các NHTM phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% như tiêu chuẩn mà Uỷ Ban

Basel đề xuất. Ngoài ra, Mục III và IV cũng đặt ra những giới hạn tóm tắt lại là:

 Tổng dư nợ cho vay của TCTD đối với một khách hàng không được vượt quá

15% vốn tự có TCTD, tổng mức cho vay và bảo lãnh của TCTD đối với một khách

hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của TCTD; Còn đối với một nhóm khách

hàng có liên quan thì các giới hạn lần lượt là 50% và 60%.

 Tổng mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30%

vốn tự có của công ty cho thuê tài chính; với một nhóm khách hàng có liên quan

không được vượt quá 80% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.

84

 Các NH cũng phải đảm bảo tỷ lệ về khả năng thanh toán: Tỷ lệ tối thiểu 25%

giữa giá trị các tài sản "Có" có thể thanh toán ngay và các tài sản "Nợ" sẽ đến hạn

thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo; Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản

"Có" có thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và

tổng tài sản Nợ phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo.

 Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn tổ chức tín dụng được sử dụng để cho vay

trung hạn và dài hạn: Ngân hàng thương mại: 40%; Tổ chức tín dụng khác: 30%.

(Điều này có nghĩa là nếu nguồn vốn tự có của NH đủ lớn thì việc cho vay dài hạn

sẽ bớt chịu ảnh hưởng)

 Mức đầu tư vào một khoản đầu tư thương mại của tổ chức tín dụng tối đa không

được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp, quỹ đầu tư hoặc 11% giá trị dự

án đầu tư; Tổng mức đầu tư trong tất cả các khoản đầu tư thương mại của tổ chức

tín dụng không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của TCTD.

Có thể thấy, quy mô vốn tự có nhỏ sẽ khiến các NHTM bị “trói chặt” trong

những hạn chế về giới hạn hoạt động. Do đó, nếu muốn mở rộng phạm vi kinh

doanh của mình, họ không còn con đường nào khác là phải nâng cao nguồn VCSH.

Thực chất, chính VCSH là yếu tố đóng vai trò then chốt trong sự gia tăng mạnh mẽ

của xu hướng sáp nhập NH trong thời gian qua. Hàng năm, nhiều NH nhỏ đã biến

mất trước làn sóng sáp nhập bởi quy mô NH ngày càng gia tăng cùng với các khoản

cho vay kinh doanh giá trị lớn mà chỉ những NH hàng đầu với trạng thái VCSH dồi

dào mới có thể đáp ứng được.

3.3. Sự gia tăng các yếu tố rủi ro trong hoạt động tài chính - ngân hàng trong

bối cảnh hội nhập

VCSH của NH và rủi ro có liên quan mật thiết với nhau, bởi vì hoạt động trong

lĩnh vực NH luôn tiềm ẩn những rủi ro không thể lường hết được. Bản thân VCSH

chủ yếu là tiền do những người chủ NH đóng góp, những người đã chấp nhận rủi ro

về khả năng NH sẽ chỉ kiếm được một khoản lãi không làm họ thỏa mãn, hoặc thậm

chí là thua lỗ và do đó phần thu nhập trả cho cổ đông sẽ rất ít ỏi. Với các NH nhỏ,

có thể nói rủi ro là lớn hơn: Nhìn chung, các NH nhỏ ít có chiều sâu về quản l‎ý và

trình độ cũng thấp hơn so với các NH lớn. Hoạt động của họ bị giới hạn về cả mặt

85

địa l‎ý lẫn danh mục đầu tư _ Các NH lớn cho vay tại những thị trường trong khu

vực địa phương, thậm chí là trên cả nước và quốc tế, trong khi đó, các NH nhỏ bị

giới hạn chủ yếu ở một cộng đồng dân cư (có thể là một tỉnh hay thành phố) và

thường bị chi phối bởi một ngành công nghiệp nào đó; Các NH quy mô nhỏ thường

có các khoản mục đầu tư và cho vay kém hấp dẫn, kém đa dạng hơn, phạm vi cho

vay hẹp hơn. Họ cũng thường ở vào tình trạng bắt buộc phải mua các trái khoán

thành phố hoặc địa phương nơi họ đặt trụ sở. Rõ ràng, tính đa dạng bị giới hạn này

góp phần làm cho các rủi ro gia tăng. Để bảo hiểm rủi ro, muốn hay không, các NH

nhỏ này lại phải dựa vào các NH lớn hơn, k‎ý các hợp đồng đại l‎ý với các NH lớn

hơn để thực hiện các nghĩa vụ hay quan hệ giao dịch vượt quá giới hạn của bản

thân.Trong tương lai, việc mở cửa thị trường tài chính sẽ càng khiến các NH trong

nước phải đối mặt với nhiều rủi ro thị trường hơn nữa, chẳng hạn rủi ro về giá, tỷ

giá và lãi suất và các rủi ro hệ thống, bắt nguồn từ sự lan truyền của các cuộc khủng

hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính khu vực và trên thế giới; Rủi ro cũng có thể đến

từ các doanh nghiệp là khách hàng của NHdo làm ăn thua lỗ, thất bại trong cạnh

tranh. Khi có bất cứ một biến động tài chính nào thì những ngân hàng quy mô nhỏ

dễ bị tổn thương hơn cả.

Một mặt, sự tiến bộ về tri thức và khoa học công nghệ đã và đang giúp người ta

xây dựng được nhiều biện pháp phòng tránh và hạn chế rủi ro hơn, nhưng đồng thời

chính tính chất đa dạng và khó phán đoán của các diễn biến kinh tế, tài chính cũng

như các mặt khác trong đời sống xã hội khiến cho các rủi ro phần nào sẽ phức tạp,

nghiêm trọng và đáng lo ngại hơn:

Rủi ro tín dụng: Các biện pháp kiểm định dự án nghiêm ngặt cùng với các chỉ số

xếp hạng doanh nghiệp uy tín có thể sẽ giúp các NH phòng tránh được những khách

hàng kém năng lực chi trả. Song, do quy mô tín dụng lớn, chỉ cần một vài khoản vay

không thu hồi được cũng sẽ đủ khiến vốn của NH rơi vào trạng thái nguy hiểm.

Ngoài ra, những khoản đầu tư và cho vay chứng khoán cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro

như thực tế những biến động thị trường phức tạp đã diễn ra trong thời gian qua.

Rủi ro thanh khoản: Các NH trong tương lai có nhiều khả năng sẽ là nhà cung

cấp dịch vụ cho khối lượng khách hàng cá nhân khổng lồ khi mà dịch vụ NH trở nên

phổ biến trong dân chúng. Nhưng, đây cũng chính là bộ phận nhạy cảm với những

86

biến động xấu của thị trường nhất. Chỉ cần một sự đi xuống nhỏ trên thị trường tài

chính, lập tức các khách hàng này sẽ ồ ạt rút tiền hoặc rút sử dụng dịch vụ.

Rủi ro lãi suất: Có thể nói chưa khi nào sự điều chỉnh, thay đổi lãi suất của các

NH thế giới cũng như trong nước lại diễn ra nhiều như thời gian vừa qua, và xu

hướng này hoàn toàn có khả năng tiếp tục xảy ra trong tương lai tới.

Rủi ro hoạt động: Sự giảm sút chất lượng quản l‎ý, những thay đổi trong nền

kinh tế, sự cạnh tranh của các đối thủ mới, v.v…tất cả đều có thể làm giảm nhu cầu

đối với danh mục dịch vụ mà các NH cung cấp, ảnh hưởng tiêu cực đến dòng thu

nhập.

Ngoài ra còn có rất nhiều những rủi ro khác có xu hướng gia tăng tinh vi hơn,

như rủi ro tội phạm _ khi mà ngày nay các NH đang áp dụng những biện pháp và

thiết bị công nghệ thanh toán điện tử hiện đại như thẻ thanh toán điện tử, máy ATM,

thanh toán trực tuyến, v.v…Khi rủi ro nhiều, các NH cần phải có lượng VCSH lớn,

vì đây chính là nơi chức năng “tấm đệm chống đỡ rủi ro” của nguồn vốn này phát

huy cao nhất. Xét về mặt này, cần quan tâm đến việc tăng cường nguồn VCSH trong

mối liên hệ chặt chẽ với hệ số CAR, làm sao để VCSH đáp ứng được những mức

đảm bảo an toàn vốn . Điều đó có nghĩa là các NH cần phải tính toán các thành phần

VCSH trong tương quan với các tài sản có được điều chỉnh theo tỷ lệ rủi ro một

cách phù hợp.

III. Một số giải pháp tăng VCSH và Hệ số an toàn vốn cho các NHTM Việt

Nam

Tăng VCSH có nghĩa là tăng những thành phần tạo nên nó: vốn điều lệ, thặng

vốn, các quỹ, v.v...và trong bối cảnh hiện nay, tăng nguồn vốn này còn phải đi liền

với việc đảm bảo hệ số an toàn CAR. Mỗi NHTM có rất nhiều biện pháp để gia tăng

VCSH và mỗi biện pháp đều có những ưu và nhược điểm riêng. Song, kết hợp

những l‎ý thu‎yết đó, cùng những kinh nghiệm rút ra từ thực té tăng VCSH của các

NH nước ngoài như trên, và xét theo điều kiện và tình hình của các NHTM Việt

Nam, có thể đề xuất một số biện pháp tăng VCSH phù hợp với trong thời gian tới

như sau:

87

1. Đẩy mạnh triển khai cổ phần hóa đối với bộ phận NHTMNN

Tại VN, việc tăng vốn điều lệ cho các NHTMNN _bộ phận chiếm ưu thế nhất

hiện nay trên thị trường tài chính ngân hàng ở nước ta _ suốt thời gian qua đã luôn

dựa chủ yếu vào sự cấp bổ sung vốn từ phía Nhà nước. Chính phủ đã phải sử dụng

một số công cụ đặc biệt để giải cứu bài toán tình thế về vốn điều lệ như phát hành

trái phiếu Chính phủ đặc biệt, tài trợ từ nguồn vay nợ nước ngoài. Song, một mặt,

những biện pháp này chưa phải là tối ưu_ ví dụ công cụ trái phiếu chỉ có ‎ý nghĩa

tăng vốn thực sự trong trung hạn (sau 5 năm), chứ chưa làm tăng được sức mạnh tài

sản thực tế của các NHTMNN hiện tại; Mặt khác, với nhu cầu vốn tự có của các

NHTMNN trong tương lai là vô cùng lớn để có thể duy trì tỷ lệ an toàn vốn cũng

như đủ sức cạnh tranh với các tổ chức do nước ngoài đầu tư, Nhà nước sẽ khó mà

duy trì được sự “tài trợ” này. Do đó, có thể nói, việc các NHTMNN trông chờ vào

việc bơm vốn từ NHTW là không khả thi, mà cần có những giải pháp thiết thực và

chủ động hơn. Cổ phần hóa (CPH) chính là một câu trả lời.

Trên thực tế, Chính phủ đã quyết định lựa chọn thí điểm CPH các ngân hàng

VCB và MHB từ lâu (Chủ trương cổ phần hóa VCB bắt đầu có từ 30/3/2004; đến

21/9/2005 Chính phủ mới chính thức cho phép NH này tiến hành CPH). Cuối năm

2006, Thủ tướng cũng đã có văn bản đồng ý tiếp tục cho 3 NHTMQD còn lại thực

hiện cổ phần hóa theo 2 bước, một là nâng cao năng lực tài chính theo hướng đạt

các chỉ số lành mạnh tài chính theo chuẩn quốc tế vào cuối năm 2006 đối với BIDV,

ICB và cuối năm 2007 đối với Agribank; hai là, từ năm 2007 tiến hành cổ phần hoá

BIDV, ICB và từ năm 2008 cổ phần hoá Agribank, tiến tới hoàn thành CPH toàn bộ

khu vực NHTMQD trước năm 2009. Như vậy là quyết định đã được đưa ra; Tuy

nhiên, trong thời gian qua việc triển khai diễn ra rất chậm và nhiều lần kế hoạch bị

hoãn thực hiện, ví dụ Lộ trình đã đặt ra là VCB sẽ chính thức phát hành cổ phiếu vào

cuối tháng 7/2007, niêm yết trên thị trường chứng khoán sau đó khoảng 6-8 tuần, và

khẳng định sẽ thực hiện đấu giá cổ phần quốc tế lần đầu và niêm yết trên thị trường

chứng khoán nước ngoài vào 2008; nhưng đến hết tháng 8/2007, VCB đã chính “lỡ

hẹn” IPO trong nước, và cho đến đầu tháng 10/2007 vẫn chưa có động thái rõ ràng

nào. Vì vậy, cần khẳng định lại một lần nữa việc cần thiết phải đẩy mạnh CPH hệ

thống NHTMNN.

88

1.1. Tính cấp thiết và triển vọng

Việc CPH các NHTMQD VN hiện nay là rất cấp thiết và khả thi. Cấp thiết vì

các NHTMNN đang đóng vai trò chủ chốt trong thị trường tài chính - ngân hàng xét

cả về thị phần vốn huy động và cho vay, nhưng quy mô lại quá nhỏ, không thể đảm

bảo cạnh tranh được với các TCTD nước ngoài khi họ đổ bộ vào thị trường Việt

Nam. CPH sẽ huy động được nguồn vốn rất lớn từ cả trong và ngoài nước: Công

chúng, nhân viên ngân hàng, các tổ chức tài chính nội địa, Việt kiều, các định chế

tài chính nước ngoài, v.v…Ngoài ra, bàn xa hơn việc tăng được vốn trước mắt ngay

khi IPO (phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng), thì về dài hạn: Vấn đề cốt tử

sống còn trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp_ kể cả NH _ là nguyên

tắc độc lập tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Nó tạo ra, hay nói cách khác là làm nền

tảng cho sự chủ động, năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám quyết định và

quyết đoán, bởi lẽ trong kinh doanh, yếu tố quan trọng là thời cơ, là cạnh tranh; Nếu

không thực sự độc lập tự chủ thì sẽ mất cơ hội, mất sức cạnh tranh, kinh doanh

không hiệu quả hoặc thua lỗ, phá sản. CPH sớm các NHTMNN sẽ giúp các NH độc

lập tự chủ thực sự trong kinh doanh tài chính - tiền tệ, thực sự là huyết mạch của

nền kinh tế - xã hội, đủ sức mạnh và sức cạnh tranh trong cơ chế và nền kinh tế thị

trường trong hội nhập khu vực và quốc tế. Thông qua CPH sẽ thiết lập được mô

hình quản trị điều hành NH hiện đại, với công nghệ thông tin tiên tiến, trình độ cán

bộ có năng lực đáp ứng được nhu cầu mới, tạo ra động lực mới trong hoạt động của

các NH. Tất cả những điều này kết hợp với nền tảng sẵn có của các NHTMNN sẽ

khiến bộ phận này phát triển mạnh hơn, tạo ra nhiều lợi nhuận và tích lũy, nghĩa là

đến lượt nó sẽ tiếp tục mở rộng quy mô vốn cho các NH.

Khả thi vì sức hấp dẫn của các NHTMNN đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là

các nhà đầu tư nước ngoài, là rất lớn: mạng lưới chi nhánh rất dày _ xuống đến tận

địa phương và cơ sở, lịch sử hình thành và phát triển cũng lâu nhất, uy tín hoạt động

cao, nắm rất rõ tâm l‎ý khách hàng bản địa_vốn rất khác so với người tiêu dùng ở

những nước khác, đã thiết lập được quan hệ khách hàng với những DN, tổ chức

kinh tế- xã hội lớn, vẫn nhận được sự quan tâm từ phía Nhà nước nghĩa là còn có

những thuận lợi nhất định về chính sách, v.v... Vì vậy, các định chế tài chính nước

ngoài có sự quan tâm rất lớn đến việc mua cổ phần của những NHTMNN vì họ tin

89

chắc vào năng lực của các NH này, và cũng tận dụng được tất cả những lợi thế mà

các NH đã tạo dựng được. Điển hình là ngay sau khi VCB lập đề án CPH, hàng loạt

các tập đoàn tài chính hùng mạnh trên thế giới đã lập tức chạy đua để có thể trở

thành đối tác chiến lược của NH này, 5 tên tuổi trong danh sách rút gọn trình Chính

phủ đều thuộc hạng tầm cỡ trên thế giới.

1.2. Những vấn đề đối với việc CPH bộ phận NHTMNN

(i) Xác định phần nắm giữ của Nhà nước và các nhà đầu tư

Sở dĩ quá trình CPH hệ thống NHTMNN của VN diễn ra tương đối chậm là

do phía sở hữu là Nhà nước cảm thấy cần sự thận trọng rất lớn trong vấn đề này.

Các NHTMQD có thể nói là một trong những bộ phận làm ăn kinh doanh hiệu quả

nhất và có vai trò quan trọng nhất đối với nền kinh tế nước nhà. Nếu để CPH tự do

không hạn chế thì có thể nói là chắc chắn các tổ chức tài chính nước ngoài sẽ đổ vốn

mua trọn lượng cổ phần ưu thế và chiếm được quyền quản l‎ý điều hành các NH này

_ đồng nghĩa với việc Nhà nước sẽ mất tất cả. Ngay cả khi chưa tính đến các nhà

đầu tư nước ngoài thì nguy cơ tương tự từ phía vô số các nhà đầu tư tiềm năng từ

nội địa cũng không nhỏ. Khi đó, việc dùng các NH này như một công cụ để điều tiết

nền kinh tế, thị trường tiền tệ, hay thực hiện một chính sách nào đó của Nhà nước sẽ

không còn, nên việc hạn chế tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài là cần thiết.

Song, giới hạn đến đâu lại là câu hỏi không dễ. Ví dụ như đối với NH tiên phong

CPH làVCB: Theo kế hoạch, sau khi CPH, Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối với

51%; Trong giai đoạn đầu, VCB chỉ được bán 30% cổ phiếu ra ngoài và mỗi lần bán

không quá 10%. Tuy nhiên, việc nhà đầu tư nước ngoài có được mua cổ phiếu VCB

ngay từ lần phát hành đầu tiên hay không đến nay vẫn chưa được quyết định. Theo

quy định hiện nay, số cổ phiếu do mỗi nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trong một

NHTMCP không được vượt quá 10%, và tổng số cổ phiếu thuộc sở hữu của tất cả

các nhà đầu tư nước ngoài không quá 30%. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng Nhà

nước cũng không nhất thiết phải nắm giữ trên 51% cổ phần, vì vẫn có khả năng chi

phối với tư cách là cổ đông lớn nhất. Việc Nhà nước không nắm giữ trên 51% sẽ tạo

tâm l‎ý thoải mái hơn cho các nhà đầu tư, rằng đây không còn là TS thuộc “sở hữu

90

Nhà nước” nữa mà Nhà nước cũng chỉ là một cổ đông, từ đó có thể thu hút nhiều

nhà đầu tư hơn.

(ii). Khó khăn trong định giá các NHTMNN

Để tư nhân hóa (cách gọi khác của CPH) thành công, cần có một phương án

đồng bộ, bao gồm: xử l‎ý nợ xấu một cách nhanh chóng và dứt điểm, xác định lượng

cổ phiếu cần phát hành cho từng giai đoạn và xác định đối tác tham gia. Trong đó,

việc CPH nhìn chung sẽ thành công hơn khi bắt đầu trước bằng tái cơ cấu hoạt động

tài chính. Khi các NH được bán đi như nguyên trạng của nó, các chủ sở hữu tiềm

năng phải đối mặt với các bất ổn định về chất lượng, tài sản có cũng như khả năng

không biết trước để thực hiện các hoạt động có độ nhạy cảm chính trị như tái cơ cấu

các khoản nợ tồn đọng, giảm số nhân viên dôi dư, và đóng cửa các chi nhánh làm ăn

không có lãi. Các bất ổn này giảm tính hấp dẫn của NH và hạn chế sự hợp vốn của

những người mua tiềm năng. Định giá tổ chức được tư nhân hóa chính là công việc

phức tạp nhất trong quá trình CPH các DN nói chung và đặc biệt là đối với các NHTMNN. Công việc này ở các NHTMNN VN gặp không ít khó khăn*:

- Việc xử lý nợ khó đòi: Về nguyên tắc, nợ khó đòi phải loại khỏi giá trị doanh

nghiệp CPH. Nếu việc xác định nợ khó đòi theo các chuẩn mực quốc tế của một

NHTM nào đó quá cao (chẳng hạn tới 20 - 30%) thì sẽ khó còn hấp dẫn nhà đầu tư

và chủ sở hữu (Nhà nước) cũng không dễ chấp nhận _ do nợ xấu nhiều sẽ phải trừ

khỏi giá trị NH và có thể Nhà nước sẽ mất vốn, sẽ “thiệt”.

- Giá trị NHTM được CPH có thể tăng thêm khi đánh giá lại tài sản cố định mà

trước hết là nhóm bất động sản. Giá trị còn lại (sau khi khấu hao) của các trụ sở, văn

phòng, tài sản xiết nợ (nếu đã chuyển thành cổ phiếu, tài sản cố định của NH phải

được tính lại theo giá thị trường và chắc chắn sẽ tăng hơn vì giá trị danh nghĩa của

chúng đã quá lỗi thời. Tuy vậy, khung giá mới theo Luật Đất đai mới liệu đã sẵn

sàng và hợp lý để có thể định giá lại.

Hội thảo khoa học về CPH các NHTMNN [23].

* Có trích một số ý kiến của TS. Phạm Thanh Bình - Thành viên hội đồng KH&CN ngân hàng xung quanh

91

- VCSH cũ (Nhà nước) về nguyên tắc phải là vốn thực. Nhưng thực tế, qua 4

đợt tăng vốn bổ sung của Đề án tái cơ cấu NHTMNN, Nhà nước đã cấp loại trái

phiếu đặc biệt" cho các NH này. Về bản chất, đây chỉ là vốn danh nghĩa (vốn ghi sổ)

nên chúng không thể tạo nên giá trị doanh nghiệp. Vậy liệu Nhà nước có chấp nhận

loại trừ vốn này khỏi giá trị doanh nghiệp để rồi sau khi CPH, vốn không tăng mà

lại giảm. Trong khi nếu không loại trừ thì nhà đầu tư cũng khó mà chấp nhận.

- Lựa chọn tổ chức đánh giá lại NH trước khi CPH cũng là vấn đề không dễ. Rõ

ràng phải có các tổ chức kiểm toán độc lập làm việc này. Tuy vậy, có thể dự đoán

trước được sự phức tạp sẽ xảy ra sau khi kết quả kiểm toán được hoàn thành mà

trọng tâm là nhóm tài sản có là nợ khó đòi và nhóm tài sản nợ là vốn của chủ sở

hữu Nhà nước. Nhưng những khó khăn này sẽ được tập trung giải quyết trong thời

gian sắp tới khi một trong những vấn đề vướng mắc nhất của quá trình CPH đã được

tháo gỡ: lựa chọn các tổ chức tư vấn CPH (có vai trò giúp xác định giá trị NH, xây

dựng phương án cổ phần hóa, tiến hành IPO trong nước và quốc tế, lựa chọn nhà

đầu tư chiến lược). Ngay sau khi việc chọn nhà tư vấn hoàn tất thì tiến trình cổ phần

hoá sẽ diễn ra nhanh chóng hơn rất nhiều. Đến nay, VCB đã chọn được nhà tư vấn

CPH là Credit Suisse (Thụy Sỹ), MHB đã chọn được Deutsche Bank (Đức), BIDV

chọn Morgan Stanley Dean Witter Asia Pte (Singapore), và ICB thỏa thuận sử dụng

dịch vụ của nhà tư vấn JP Morgan Securities Asia Pacific Limited.

(iii) Trình tự CPH các NHTMNN

Việc thử nghiệm trước ở VCB là một bước đi hợp lý: Là NH có bề dày kinh

nghiệm về hoạt động kinh doanh tiền tệ, kể cả kinh doanh ngoại tệ, thay đổi trong

VCB sẽ tránh được, hay đúng hơn là có khả năng chống đỡ tốt hơn với những cú sốc

thay đổi, và cả những bất ổn từ phía thị trường tài chính thế giới, nhất là trong tình

hình thế giới có nhiều biến động về kinh tế, xã hội như hiện nay. Đồng thời, là NH

hàng đầu ở Việt Nam cả về quy mô hoạt động, thị phần, vị trí trên thị trường trong

nước và thị trường tài chính quốc tế (Tính đến cuối 2006, tổng tài sản của VCB đạt

171.862 tỷ đồng, tăng 23,3% so với năm trước. Lợi nhuận trước thuế đạt 3.600 tỷ

đồng, sau thuế đạt 2.470 tỷ đồng, lần lượt tăng 14,5% và 88,7% so với năm ngoái.

Lượng tín dụng cung ứng cho nền kinh tế cùng thời gian này lên đến 62.400 tỷ đồng

92

[40], và S&P cũng đã công nhận VCB xếp hạng ở mức BB/B, triển vọng ổn định và

năng lực nội tại ở mức D_ đây là mức xếp hạng cao nhất của S&P đối với một định

chế tài chính Việt Nam [24]), các nhà đầu tư hàng đầu, nhất là các NH lớn trên thế

giới sẽ rất quan tâm và sẵn sàng tham gia cổ phần hóa VCB, tạo bước thay đổi đột

phá về mọi mặt trong NH, làm cơ sở đẩy nhanh quá trình tích tụ vốn và tài sản để

NH có khả năng cạnh tranh với các NH nước ngoài, đảm bảo cho hệ thống NH Việt

Nam chiếm vị thế áp đảo trên thị trường trong nước và nhanh chóng thâm nhập vào

thị trường tài chính quốc tế.

Chính vì vậy, việc hoàn thành tư nhân hóa VCB sẽ là tiền đề cho việc tiếp tục

CPH các NHTMQD. Song, sau đợt IPO không thành công của Tổng công ty bảo

hiểm Bảo Việt, cùng sự việc hàng loạt các phiên đấu giá của các công ty lớn như

Tổng công ty CP tái bảo hiểm quốc gia VN (Vinare), Công ty CP Lương thực và

công nghiệp thực phẩm, Công ty CP đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp

Sông Đà, hay Nhà máy nước Bảo Lộc, v.v...không được các nhà đầu tư quan tâm,

VCB có quyền cẩn trọng đến mức tối đa để tránh trở thành một “Bảo Việt thứ 2”.

Tuy nhiên, mặt khác, khi VCB chậm lại tiến trình IPO, cũng có nghĩa là các

NHTMNN còn lại khó mà phát hành cổ phiếu đúng hẹn ra công chúng: BIDV dự

kiến cùng nhà tư vấn tiến hành các hoạt động xác định giá trị và lập phương án CPH

trình Chính phủ phê duyệt vào tháng 9/2007 để có thể bán cổ phần lần đầu vào quý

IV/2007. Trong khi đó, ICB cũng đang thúc đẩy công việc để hoàn thành CPH và

thực hiện IPO vào cuối năm 2007. Vô hình trung, đầu tàu VCB có thể trở thành vật

cản đối với những sự chờ đợi ở phía sau. Thị trường hiện tại có thể chưa thực sự

thuận lợi để VCB hoàn tất tiến độ cổ phần hóa, nhưng bất cứ đợt IPO nào cũng phải

đối mặt với các bất lợi khác nhau. Thực tế, thay vì cẩn trọng quá mức, VCB nên tự

tin hơn về cơ hội thành công của mình với tất cả những gì họ đã có.

2. Đối với bộ phận NHTMCP và Liên doanh

2.1. Phát hành cổ phiếu, và trái phiếu có khả năng chuyển đổi

Đối với các NHTMCP, phát hành cổ phiếu là một trong những biện pháp giúp

NH tăng được quy mô VCSH nhanh nhất, ngoài tăng vốn điều lệ theo mệnh giá cổ

phiếu còn thu được thặng dư vốn. Trong điều kiện của các NHTMCP Việt Nam hiện

nay, đây là một phương án rất khả thi, vì nhiều NH có uy tín và tiềm lực khá lớn vẫn

93

chưa phát hành cổ phiếu ra công chúng, trong khi thứ “hàng hóa” này lại này lại

đang hết sức khan hiếm trên thị trường. Song, cũng có nhiều vấn đề cần cân nhắc:

- Quy mô, uy tín của NH sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí phát hành (thường

các NH lớn, uy tín cao có chi phí phát hành thấp hơn các NH nhỏ), và quan trọng

nhất là đến khả năng thành công của đợt phát hành. Cũng giống các doanh nghiệp

nhỏ nói chung, đối với một NH nhỏ và không có tiếng tăm cổ phiếu của họ khó

được thị trường chú ‎ý. Nếu hiện nay tất cả các NHTMCP tại Việt Nam đều tính đến

việc bổ sung vốn điều lệ bằng cách bán cổ phiếu ra công chúng, việc những NH có

số vốn điều lệ và VCSH thấp, hoạt động trong phạm vi hẹp sẽ khó được chấp nhận,

bởi các nhà đầu tư thiếu thông tin về những NH đó, lo ngại trước thực tế rất nhiều

các doanh nghiệp đang ồ ạt phát hành cổ phiếu chỉ nhằm hút tiền của công chúng

phục vụ cho những tổ chức hoạt động kém hiệu quả, hoặc vì những mục đích không

hợp pháp khác; Như vậy, cổ phiếu của NH dễ lâm vào tình trạng “ế ẩm”, chi phí

phục vụ cho đợt phát hành sẽ bị lãng phí, đồng thời tạo dư luận không tốt cho giới

NH. Chỉ có một số NH đã có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán quốc

gia, hoặc những NH lớn mới có thể dễ dàng sử dụng phương án này. Ví dụ, nếu

những NHTMCP hàng đầu hiện nay như Sacombank, Techcombank, NHTMCP

Quân đội, NH Đông Á, và một số NH khác với số vốn điều lệ cao, uy tín rộng khắp

trong cả nước (xét về quy mô và phạm vi hoạt động, số lượng khách hàng, lợi nhuận,

các giải thưởng được bình chọn,v.v..) hoặc những NH đã niêm yết trên sàn giao

dịch như ACB phát hành cổ phiếu bổ sung, thì khả năng thành công sẽ rất cao.

- Trong các đợt phát hành bổ sung, nếu các cổ đông hiện tại không có khả năng

mua toàn bộ cổ phiếu mới được phát hành thì việc này sẽ làm “loãng” quyền sở hữu

NH, ảnh hưởng tới quyền bỏ phiếu, quyền kiểm soát hoạt động NH và đến lợi nhuận

của cổ đông hiện hữu.

Chính vì vậy, trong thời gian gần đây, các NH còn quan tâm đến việc phát hành

trái phiếu dài hạn có khả năng chuyển đổi (trái phiếu bổ sung). Lợi thế của hình thức

này là tạo ra một nguồn vốn có thể sử dụng lâu dài, không làm thay đổi quyền sở

hữu của các cổ đông trong thời gian chưa chuyển đổi, phần trả lãi được tính vào chi

phí trước thuế nên giúp giảm số thu‎ế phải nộp. Nhưng, so với cổ phiếu, lãi suất của

các trái phiếu này lại không phụ thuộc vào việc NH có kinh doanh có lãi hay không.

94

Để lựa chọn được phương pháp tăng VCSH có lợi và phù hợp nhất, cần phải

phân tích chúng trong quan hệ với mục đích, chiến lược của các NH. Những NH

chưa phát hành CP ra công chúng khi tiến hành IPO cần cân nhắc xem các biện

pháp khác nhau sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận của NH ra sao; các NH đã bán

CP ra công chúng thì ngoài vấn đề trên còn phải cân nhắc ảnh hưởng của cách tăng

vốn này đến lợi nhuận của cổ đông hiện hữu. Ví dụ: Giả sử một NH đang có 50 triệu

đôla($) VCSH, 8 triệu CP thường mệnh giá $5/CP, hoạt động với thuế suất 35%,

cần tăng VCSH thêm $20 triệu. Khi đó, NH có 3 lựa chọn: Phát hành mới 2 triệu

CP thường mệnh giá $10/CP; hoặc phát hành 1 triệu CP ưu đãi mệnh giá $20/CP

với lãi suất cổ phần 8%; hoặc phát hành 20 triệu đôla trái phiếu có khả năng chuyển

đổi với lãi suất trái phiếu là 10%. Khi đó, các phương án sẽ cho các kết quả khác

nhau:

Thu nhập & Chi phí CP thường CP ưu đãi TP dài hạn có khả

năng chuyển đổi

Thu nhập ước tính $100 triệu $100 triệu $100 triệu

Chi phí hoạt động $80 triệu $80 triệu $80 triệu

Thu nhập ròng $20 triệu $20 triệu $20 triệu

Chi phí trả lãi 0 0 $2 triệu

Thu nhập trước thuế ước tính $20 triệu $20 triệu $18 triệu

Thu nhập sau thuế $13 triệu $13 triệu $11,7 triệu

Cổ tức cho CP ưu đãi 0 $1,6 triệu 0

Thu nhập ròng cho cổ đông $13 triệu $11,4 triệu $11,7triệu

Thu nhập mỗi CP $1,3 $1.43 $1,46

ROE 0,186 1,163 0,167

Như vậy, nếu NH muốn tăng VCSH đi cùng với mức tỷ suất sinh lời của VCSH

cao nhất thì nên chọn phát hành cổ phiếu thường, nhưng nếu muốn giữ cho thu nhập

của các cổ đông hiện hữu cao nhất và bảo vệ quyền các quyền lợi (bỏ phiếu, quản l‎ý

hoạt động của NH) cho họ thì lại nên chọn phát hành trấi phiếu dài hạn có khả năng

chuyển đổi. Song, có thể nói cả cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu dạng này đều

có thể giúp các NH bổ sung VCSH một cách đáng kể và nhanh chóng nhất.

95

2.2. Thu hút đối tác chiến lược

Việc này đã được chú ‎ý và nằm trong chủ trương của các kế hoạch CPH các

NHTMNN, và bước đầu được áp dụng trong bộ phận các NHTMCP, nhưng vẫn

chưa rộng rãi. Đây có thể nói là một trong những biện pháp hữu hiệu và khôn ngoan

nhất để giúp các NHTM tăng tiềm lực tài chính một cách hết sức hiệu quả, vì những

l‎ý do dễ phân tích:

- Thứ nhất, với năng lực tài chính hùng mạnh của các NHTM nước ngoài, chỉ

cần một vài nhà đầu tư rót vốn là lập tức NHTMCP Việt Nam chuyển sang một

trạng thái vốn hoàn toàn khác.

- Ngoài ra, phương án này còn đem lại rất nhiều lợi ích cho các NH trong quản

lý và hoạt động _ Những điều này giúp nâng cao chất lượng tài sản, ảnh hưởng tới

hệ số an toàn, giảm áp lực tăng vốn; đồng thời tích lũy từ lợi nhuận tăng, từ đó lại

giúp VCSH lớn thêm, quy mô NH càng được mở rộng hơn nữa. Cụ thể của những

lợi ích này là:

+ Việc phân tán VCSH cho quá nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ hoặc chỉ đơn thuần bán

cổ phiếu ra công chúng cũng sẽ không có tác dụng gì nhiều, thậm chí có thể làm suy

yếu năng lực quản trị của NH. Một nhà đầu tư chiến lược có thể cam kết đóng vai

trò chủ đạo trong quản l‎ý và cung cấp chuyển giao kỹ thuật chyên môn cho các cán

bộ của NH. Với những ưu thế về kinh nghiệm và tập quán kinh doanh hiện đại, các

nhà đầu tư nước ngoài đóng góp vào công tác quản trị những ưu thế kinh doanh nổi

trội. Nhờ đó, các NH trong nước tự hoàn thiện mình trong công tác chăm sóc khách

hàng, nâng cao hàm lượng dịch vụ trong mỗi sản phẩm tài chính đưa ra công chúng.

Ví dụ trường hợp của Techcombank: Có HSBC là đối tác chiến lược,

Techcombank không chỉ thu được những lợi ích trong thời điểm hiện tại mà cả

trong tương lai. Chỉ trong vòng vài tháng kể từ khi HSBC tham gia vào NH từ cuối

năm 2005, giá cổ phiếu của Techcombank trên thị trường chứng khoán phi tập trung

(OTC) đã tăng gấp gần 8 lần so với mệnh giá, đạt xấp xỉ 8 triệu đồng/cổ phiếu.

Đồng thời, với cam kết của HSBC về việc hỗ trợ Techcombank mỗi năm 1 triệu

USD trong vòng 3 năm (2006-2008) cho các chi phí về hỗ trợ nâng cao kỹ thuật,

công nghệ, Techcombank đã liên tục mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ và

tiện ích phục vụ khách hàng, tăng nhanh các loại hình dịch vụ công nghệ cao. Với

96

Eximbank cũng vậy: SMBC cam kết trợ giúp Eximbank về mặt kỹ thuật, công nghệ,

quản trị NH và đã SMBC cử một đại diện tham gia Hội đồng quản trị của Eximbank

để thực hiện sự hỗ trợ đó.

+ Khi các NH nước ngoài tham gia mua cổ phần, danh tiếng của họ cũng là

một thứ “nhãn mác” làm tăng giá trị của các NH nội địa, từ đó đem lại nhiều sức hút

cho NH và có tác động tích cực tới hoạt động của NH.

+ NH cơ hội “tận dụng ngược” khách hàng của các đối tác này. Chiến lược của

Eximbank được đánh giá rất cao bởi nó khác hẳn với cách đi của các NHTM cổ

phần khác khi mà chỉ chọn có 1-2 cổ đông là tập đoàn lớn trong nước, trong khi

Eximbank chọn tới 17 cổ đông lớn, trong đó có: Tổng công ty xuất nhập khẩu tổng

hợp 1, Công ty dịch vụ hàng không Saco, Công ty đầu tư chứng khoán Biển Việt,

Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam, Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn, Công ty

TNHH địa ốc Phú Long, Công ty kiều hối Tân Vạn Hưng, Công ty tài chính dầu khí,

NHTMCP ACB, Công ty cổ phần đầu tư thương mại Nguyễn Kim,Tập đoàn Kinh

Đô,v.v... Các tập đoàn kinh doanh này có hàng trăm nghìn khách hàng cá nhân và

thể nhân khác nhau trong cả nước, cho phép Eximbank cung cấp dịch vụ ngân hàng

bán lẻ đa dạng và tiện ích.

+ Trong nhiều trường hợp, nhiều NHTM Việt Nam hoạt động theo từng ngành

nghề hoặc lĩnh vực kinh tế, như: chuyên về lĩnh vực ngoại thương, lĩnh vực xuất

nhập khẩu, lĩnh vực hàng hải,v.v…Khi đó, việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược còn

là một “nước cờ đôi” cho sự phát triển và mở rộng quy mô NH. Ví dụ, vẫn với

thương vụ kể trên của Eximbank, việc chọn cổ đông chiến lược là một tập đoàn NH

hàng đầu của Nhật Bản không chỉ cho phép Eximbank tăng thêm tiềm lực về tài

chính, quản trị điều hành và công nghệ, mà còn cho phép đáp ứng tốt hơn nhu cầu

dịch vụ, đặc biệt là thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ, chuyển tiền, kiều hối, đầu

tư,... cho các doanh nghiệp Việt Nam là khách hàng của Eximbank xuất nhập khẩu,

du lịch, xuất khẩu lao động và làm ăn với các đối tác Nhật Bản, trong khi Nhật Bản

đang là một trong những thị trường xuất khẩu, một đối tác thương mại, đầu tư, du

lịch hàng đầu của Việt Nam.

Trong giai đoạn sắp tới, chính sách linh hoạt hoàn chỉnh về quy định nắm giữ cổ

phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTMCP sẽ có tác động tích cực đến quá

97

trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực tài chính ngân hàng - vốn dĩ là một

trong những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận rất cao. Tuy nhiên, một số nhà đầu tư

nước ngoài cho rằng NHNN nên để người mua (NH nước ngoài) và người bán (NH

trong nước) tự thỏa thuận với nhau mức tỷ lệ mà họ mong muốn và cho phép NH

trong nước được quyền tự quyết định có thể chỉ bán cổ phần cho một hay nhiều nhà

đầu tư nước ngoài.

Ngoài ra, có những biện pháp mà tất cả các NHTM nói chung, không phân biệt

khu vực quốc doanh hay phi quốc doanh cần thực hiện:

3. Hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tài chính

3.1. Hợp nhất, sáp nhập để cải thiện năng lực tài chính

Đây là một giải pháp hữu hiệu cho các NH nhỏ, khó tồn tại trong môi trường

cạnh tranh, và khó có khả năng thu hút được các nhà đầu tư thông qua cách phát

hành chứng khoán như đã nêu. Việc hợp nhất tạo ra các NH mạnh, có khối lượng

vốn tự có khổng lồ, tiềm lực tài chính to lớn, mở rộng hoạt động và tăng cường tính

cạnh tranh và phát triển. Trong tình hình của Việt Nam hiện nay, việc các NH nhỏ,

hoạt động trên một địa bàn hẹp và năng lực cạnh tranh kém tiếp tục duy trì lẻ tẻ,

cạnh tranh lẫn nhau thì sẽ như những chiếc đũa mảnh, càng dễ bị các NH nước

ngoài bẻ gãy. Tuy nhiên, một điều phải lưu tâm là cần sáp nhập, hợp nhất đến một

mức độ nhất định, vì ngay cả khi tất cả các NH của Việt Nam hợp lại cũng chỉ bằng

một NH lớn của nước ngoài; Khi đó, việc chỉ còn một số ít ỏi các NH nội địa tồn tại

trên thị trường lại càng tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính nước ngoài bẻ gãy

những chiếc đũa của chúng ta nhanh chóng và gọn nhẹ hơn. Do vậy, phù hợp nhất là

chỉ áp dụng biện pháp này với những NH nhỏ, còn với những NH lớn muốn tăng

cao tiềm lực hơn nữa thì chỉ nên thực hiện giữa một số ít NH với nhau mà thôi.

3.2. Hợp nhất, sáp nhập để thành lập tập đoàn tài chính mạnh:

Trong thời gian gần đây, làn sóng sáp nhập và hợp nhất giữa các định chế tài

chính diễn ra hết sức mạnh mẽ trên toàn thế giới _ nhất là tại các nước phát triển.

Trước kia, đây chỉ là một biện pháp được thực hiện để giúp các tổ chức tài chính trở

nên mạnh hơn nhờ cải thiện quy mô, từ đó tránh được sự đổ vỡ hoặc bị thôn tính bởi

98

đối thủ. Tuy nhiên, hiện nay, nó đã trở thành một xu thế thường xuyên được áp dụng

bởi các tổ chức đã có sẵn quy mô lớn, uy tín cao nhằm hình thành nên những tập

đoàn tài chính khổng lồ, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, chiếm lĩnh trọn vẹn thị

trường, có quyền lực chi phối không chỉ nền kinh tế của một mà là nhiều quốc gia.

Tập đoàn tài chính là một sự kết hợp chặt chẽ của nhiều công ty trong một tổ

chức thống nhất. Mô hình tập đoàn tài chính ở mỗi nước là không giống nhau và

cách định nghĩa cũng không thống nhất. Song, có thể hiểu “Tập đoàn tài chính” là

một liên kết đáp ứng được hai điều kiện: 1) bao gồm ít nhất hai trong số các lĩnh

vực tài chính: NH, bảo hiểm, chứng khoán; 2) NH, chứng khoán, hoặc/và bảo hiểm

là cốt lõi kinh doanh của liên kết này. Thông thường, tập đoàn tài chính được tổ

chức theo một trong ba mô hình: NH đa năng, Công ty mẹ - con, Công ty sở hữu tài

chính (xem Phụ lục_Bảng phụ 4), và phần lớn các tập đoàn tài chính do NH đứng

đầu. Tập đoàn là một cấu trúc có tính lỏng về tổ chức nhưng lại có quan hệ rất chặt

chẽ về chiến lược thị trường và chiến lược luân chuyển vốn. Mục tiêu chung của

việc thành lập tập đoàn tài chính là tăng vốn để mở rộng quy mô và đầu tư hiện đại

hóa công nghệ, tiết kiệm chi phí, nâng cao chất lượng và loại hình dịch vụ, mở rộng

kênh phân phối sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Có nhiều hướng đi khác

nhau để xây dựng một tập đoàn tài chính như:

- Một NHTM nếu có đủ năng lực sẽ tự mình phát triển thành một tập đoàn tài chính.

- Thông qua việc cổ phần hóa những NHTMNN mà Nhà nước cho phép, hoặc tự

liên doanh, liên kết.

- Hợp nhất một số NHTM để trở thành một tập đoàn tài chính.

- Hợp nhất các NHTM và công ty bảo hiểm để tạo ra những tập đoàn tài chính.

Việc sáp nhập và hợp nhất có thể không chỉ tiến hành một lần mà thực hiện

nhiều lần trong suốt quá trình tồn tại của tập đoàn tài chính đó để có được kết quả

kinh doanh ngày càng cao hơn.

Tại Việt Nam, hiện nay các NHTM cũng đang phát triển theo mô hình này khi

tự thành lập các công ty con là công ty chứng khoán. Tuy nhiên, các NHTM còn có

thể tận dụng nguồn vốn của một số định chế tài chính tiềm lực rất mạnh đang tồn tại

độc lập, một điển hình là Công ty bảo hiểm Bảo Việt _ cũng do Nhà nước nắm

quyền sở hữu đa số. Nếu có thể sáp nhập một NHTMNN sau khi cổ phần hóa với

99

một công ty như vậy, quy mô của cả hai sẽ tăng lên rất nhiều _ đó là chưa kể đến

những lợi ích khác như tận dụng được các mạng lưới giao dịch và khách hàng của

nhau.

Vấn đề là giải pháp này không thể tiến hành tùy tiện mà phải tuân thủ một số

nguyên tắc: Các tổ chức được sáp nhập phải tự nguyện và cùng có lợi, không phải

bằng cưỡng ép hay áp dụng máy móc _ đặc biệt khi thành lập một tập đoàn tài chính:

một mệnh lệnh hành chính không phải là điều kiện để chuyển một NHTM (dù lớn)

thành tập đoàn tài chính, mà phải xuất phát từ nhu cầu tự thân của tổ chức trên cơ sở

hội tụ được các điều kiện thiết yếu. Ngoài ra, tuy đặc trưng của các tập đoàn là hoạt

động đa ngành, nhưng trong điều kiện của Việt nam hiện nay, các tập đoàn tài chính

ngân hàng không nên mở rộng vào nhiều lĩnh vực, mà chỉ nên tập trung vào một số

chuyên ngành có khả năng phát triển nhất (ví dụ chứng khoán, bảo hiểm), sau một

thời gian ổn định sẽ từng bước mở rộng sang các lĩnh vực khác_ như vậy sẽ đảm

bảo tập trung được vốn và tăng được sức mạnh tài chính, tạo dựng thương hiệu ổn

định.

3.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động, từ đó tăng lợi nhuận tích lũy

Ngoài giải pháp tăng vốn điều lệ, xét về lâu dài, tăng VCSH thông qua tích lũy

là rất cần thiết đối với NH. Lợi nhuận tích lũy là lợi nhuận ròng của các NH sau khi

đã trừ đi mọi khoản trích lập dự phòng, các quỹ, cũng như phần đem chia. Trong

tương lai, có thể nói hầu hết các NHTM của ta sẽ được cổ phần hóa; Khi đó, một

nguồn bổ sung vốn cơ bản chính là những khoản lợi nhuận không chia sau khi NH

đã tiến hành chia cổ tức. Nguồn vốn phát sinh từ nội bộ có thuận lợi là giúp NH

không phải phụ thuộc vào thị trường vốn và nhờ vậy tránh được chi phí huy động

vốn. Không những có chi phí thấp, phương thức tăng cường vốn từ nguồn nội còn

không làm thay đổi quyền bỏ phiếu, không gây ra tình trạng loãng quyền sở hữu _

giúp các cổ đông của NH yên tâm về tỷ lệ sở hữu và thu nhập tương lai từ cổ phiếu

của họ. Để tăng cường lợi nhuận, việc quan trọng nhất chính là nâng cao hiệu quả

hoạt động, và việc này lại đòi hỏi hàng loạt những nỗ lực khác như: đa dạng hóa và

cải thiện chất lượng dịch vụ, cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng quản l‎ý, đội ngũ

cán bộ nhân viên, cải thiện công nghệ ngân hàng, v.v... trong đó, việc phối hợp với

100

đối tác chiến lược như đã trình bày ở trên là một biện pháp rất hiệu quả để NH thành

công trong nhiệm vụ này.

4. Tăng cường hệ số an toàn vốn

Từ công thức tính hệ số CAR, có thể thấy muốn nâng cao hệ số này ngoài cách

tăng VCSH, NH còn có thể giảm “Tài sản có điều chỉnh theo tỷ lệ rủi ro” bằng cách

áp dụng các biện pháp quản trị rủi ro với các tài sản, trong đó những vấn đề chính là:

- Nợ khó đòi: NH cần hạn chế số lượng và quy mô các khoản nợ xấu này thông

qua những quy định chặt chẽ hơn trong nghiệp vụ tài sản có, trong đó quan trọng

nhất là phải tìm hiểu thật đầy đủ và phân tích kỹ tính khả thi của dự án cũng như

khả năng chi trả của chủ thể đi vay và yêu cầu có tài sản đảm bảo cho khoản vay.

NH cũng nên mở rộng phạm vi khách hàng và chú trọng những đối tượng có độ an

toàn cao, như vậy sẽ giúp NH san bớt rủi ro, ví dụ như tìm hiểu xếp hạng tín nhiệm

của khách hàng để có sự đánh giá hợp lý. Đối với các khoản nợ xấu đang tồn tại,

NH cần phân loại và xử lý dứt điểm, không để tình trạng lưu từ năm này qua năm

khác.

- Các danh mục tài sản chịu ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái (như hợp đồng mua

bán ngoại tệ): NH cần có những biện pháp phòng ngừa biến động tiêu cực của tỷ giá

như k‎ý các hợp đồng kỳ hạn, tương lai hay quyền chọn để đảm bảo giá trị tài sản

không bị sụt giảm cùng thời gian khi hợp đồng đáo hạn.

Đối với các khoản đầu tư (vào chứng khoán, kinh doanh,…) hay các khoản mục

ngoại bảng (bảo lãnh, phát hành tín dụng thư, v.v..): NH cũng cần áp dụng những

biện pháp như đối với các khoản cho vay nói trên _cần phải có đầy đủ thông tin,

phân tích chi tiết dự án đầu tư, và lựa chọn lĩnh vực đầu tư với mức độ rủi ro không

vượt quá khả năng NH có thể đảm đương được. Các khách hàng sử dụng dịch vụ

bảo lãnh hay phát hành tín dụng thư cũng phải được tìm hiệu mức độ an toàn hay

xếp hạng tín nhiệm, khả năng tài chính, hoặc có tài sản đảm bảo.

III. Một số kiến nghị nhằm góp phần tăng VCSH và hệ số an toàn vốn đối với

các NHTM Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

101

Để thực hiện thành công các giải pháp nêu trên, không chỉ cần nỗ lực từ phía

bản thân các NHTM, mà môi trường pháp lý và các chính sách của Nhà nước đóng

một vai trò rất quan trọng.

Trước hết, Chính phủ cần dứt điểm cho triển khai CPH các NHTMNN.

Ngoài ra, bên cạnh việc nghiêm khắc thực hiện những văn bản quy phạm pháp

luật liên quan đến tăng cường vốn điều lệ và đảm bảo các mức độ an toàn đã ban

hành trong thời gian gần đây, cơ quan quản lý Nhà nước thuộc lĩnh vực NH (hàng

đầu là NH Nhà nước) cần nghiên cứu tìm ra mức độ hợp lý trong các giới hạn và

định mức đối với các nhà đầu tư nước ngoài, sao cho môi trường cạnh tranh được

công bằng để giúp các NHTM Việt Nam dần dần tự lực tìm cách thiết lập chỗ đứng

cho mình _ những chính sách thúc đẩy cạnh tranh sẽ làm các NH cải thiện chất

lượng hoạt động , nâng cao hiệu quả và tăng cường tích lũy, mở rộng hơn ; đồng

thời

cũng thu hút được các nhà đầu tư lớn.

Thêm vào đó, các cơ quan này cũng có thể xem xét đưa ra những định hướng rõ

ràng và cụ thể về bộ phận NHTMCP, như việc có nên duy trì sự tồn tại của quá

nhiều tổ chức nhỏ lẻ hay cần tập hợp thành một số định chế lớn mạnh mà thôi.

Trong mọi trường hợp, các cơ quan quản lý Nhà nước không nên can thiệp quá

sâu vào từng bước đi của các NH, mà nên đóng vai trò là người dẫn đường, đưa ra

các định hướng giúp các NH không bị áp lực cạnh tranh sớm làm sụp đổ trong điều

kiện bắt đầu mở cửa sâu rộng thị trường tài chính ngân hàng cũng như nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước cần xem xét đưa thành quy định bắt buộc việc triển khai

áp dụng những đề xuất của Basel II, có thể gồm lộ trình để các ngân hàng trong

nước đủ thời gian điều chỉnh và nâng cấp kịp thời chất lượng hoạt động và quản l ý

 Tiểu kết: Xét về l‎ý thuyết, có rất nhiều biện pháp để tăng VCSH của các

của mình.

NHTM, nhưng với điều kiện của nền kinh tế và thị trường Việt Nam hiện nay cũng

như tương lai trước mắt, đó phải là những biện pháp có tác dụng nhanh chóng và

mang lại nguồn vốn rất lớn, vì các NHTM Việt Nam hiện đang có tiềm lực tài chính

rất khiêm tốn. Đối với NHTMNN, biện pháp cấp thiết là cổ phần hóa; Với các

102

NHTMCP và Liên doanh, có thể áp dụng phát hành cổ phiếu bổ sung trong đó quan

tâm tới việc niêm ‎yết trên thị trường chứng khoán để tăng sức hút của các NH, tiến

hành sáp nhập những định chế nhỏ thành các tổ chức lớn hơn, và cần tăng cường thu

hút nhà đầu tư chiến lược. Ngoài ra, tất cả các bộ phận NH nói trên đều cần nâng

cao hiệu quả hoạt động để tăng cường tích lũy nhằm tạo nguồn lâu dài để tăng

VCSH. Bên cạnh đó, các NHTM cần luôn chú trọng việc mở rộng quy mô VCSH

phải đi kèm với tăng cường hệ số an toàn vốn, nhằm đảm bảo sự hoạt động và phát

triển ổn định cho NH.

103

KẾT LUẬN

Vốn chủ sở hữu là một bộ phận sống còn của các ngân hàng thương mại, vì vậy

đảm bảo duy trì một mức vốn chủ sở hữu đủ lớn là nhiệm vụ hết sức quan trọng mà

các tổ chức này cần phải thực hiện để tăng tiềm lực tài chính của mình. Các ngân

hàng thương mại Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong một tương lai

gần, khi mà quá trình hội nhập kinh tế diễn ra sâu rộng hơn nữa, thị trường tài chính

ngân hàng sẽ được mở cửa rất mạnh, đem lại một môi trường kinh doanh mới,

nhưng cũng hứa hẹn những sự cạnh tranh khốc liệt hơn. Giữ một vai trò trọng yếu

đối với nền kinh tế, hệ thống các ngân hàng thương mại của Việt Nam không thể

chậm trễ trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mà một trong những bước quan

trọng hàng đầu chính là cải thiện sức mạnh tài chính.

Nhìn nhận thực trạng khách quan của năng lực vốn chủ sở hữu tại các ngân

hàng thương mại Việt Nam, từ đó hiểu được vị trí của mình trong thế giới tài chính -

ngân hàng là điều cần thiết để các định chế này thấy rõ hơn những gì mình có thể

phải đối mặt trong tương lai. Điều này sẽ thôi thúc các ngân hàng chủ động và quyết

tâm hơn trong nỗ lực tăng cường quy mô vốn chủ của mình.

Có lợi thế là trung gian tài chính của một nền kinh tế đang phát triển rất mạnh

và tiềm năng vô cùng lớn, các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể tin tưởng vào

khả năng thành công trong việc triển khai các biện pháp nâng cao tiềm lực tài chính,

thông qua việc áp dụng một cách linh hoạt và chọn lọc những bài học kinh nghiệm

của các ngân hàng nước ngoài. Khi năng lực tự thân này được củng cố, các ngân

hàng sẽ tạo dựng được một tâm thế sẵn sàng hơn trong việc đón nhận những thử

thách sắp tới, tiếp tục thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mình trên thị trường tài chính

- ngân hàng, là nguồn lực to lớn đóng góp vào những bước đi lên vững chãi của nền

kinh tế - xã hội nước nhà.

104

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt:

1. Báo cáo thường niên năm 2004 đến năm 2006 của 5 NHTM Nhà nước; năm 2005

- 2006 của 12 NHTM cổ phần đô thị: Á Châu (ACB), An Bình (ABbank), Đông Á

(EAB), Đông Nam Á (Seabank), Kỹ thương (Techcombank), Nhà Hà Nội

(Habubank), Phương Nam (Southern bank), Quân Đội (MBank), Quốc tế (VIB), Sài

Gòn (SCB), Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), Xuất nhập khẩu (Eximbank); năm

2006 của danh sách các NHTM nước ngoài được liệt kê trong mục 42 của tài liệu

tham khảo này.

Trong nội dung khóa luận cũng trích dẫn cụ thể các trang:

* Ngân hàng Việt Nam:

(i) NHTMCP ACB năm 2006 trang 18

(ii) NH Agribank năm 2006 trang 15, tóm lược giai đoạn đầu năm 2007 trang 14

(iii) NH BIDV năm 2006 trang 35- 41- 64

(iv) NHTMCP Đông Á năm 2006 trang 11

(v) NH ICB năm 2004 http://www.icb.com.vn/?annua=1, năm 2005 trang 3

(vi) NH VCB năm 2004 trang 11, năm 2005 trang 10

* NH nước ngoài:

(vii) Bank of China’ Annual Report 2006, trang 103.

(viii) ICBC’s Annual Report 2006, trang 5 - 6 - 7 - 51.

2. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Phụ lục G_Bảng lộ trình cam kết

thương mại dịch vụ cụ thể_ Phần VI: Các dịch vụ tài chính_B: Các dịch vụ

Ngân hàng và tài chính khác.

3. GATS: Phần III_Điều XVI, và phần Phụ lục về các dịch vụ tài chính.

4. PGS.TS.Phan Thị Thu Hà (2007), Ngân hàng thương mại, NXB Đại học Kinh tế

quốc dân, Hà Nội, trang 247.

5. PGS.TS.Nguyễn Thị Mùi (2006), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài

chính, Hà Nội, trang 5.

105

6. PGS.TS.Nguyễn Thị Quy (2005), Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng

thương

mại trong xu thế hội nhập (Sách chuyên khảo), NXB L‎ý luận chính trị, Hà Nội,

trang 25- 66 - 67 - 69 - 71 - 72 - 73.

7. Edward W.Reed PH.D & Edward K.Gill PH.D (2004), Ngân hàng thương mại,

Sách dịch, NXB Thống kê, Hà Nội, trang 244 - 250.

8. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Vai trò của

hệ thống NH trong 20 năm đổi mới ở Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà

Nội, trang 4-7-13.

9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Xây dựng mô

hình tập đoàn tài chính - ngân hàng ở Việt Nam; NXB Văn hóa - Thông tin, Hà

Nội, trang 18 - 40 -132-159.

10. Peter S.Rose (2004), Quản trị ngân hàng thương mại, Sách dịch, NXB Tài chính,

trang 7- 557- 558.

11. PGS.TS.Lê Văn Tề chủ biên (2007), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB

Thống kê, Hà Nội, trang 85.

12. PGS.TS .Nguyễn Văn Tiến (2005), Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng,

NXB Thống kê, Hà Nội, trang 595.

13. GS.TS Lê Văn Tư (2005), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính, Hà

Nội, trang 68.

14. P.TS Nguyễn Quốc Việt _ Nguyễn Thành (1993), Công nghệ ngân hàng thương

mại Mỹ, NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 21.

15. Thường trực Hội đồng KH&NC Ngân hàng _Vụ chiến lược phát triển Ngân

hàng _ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Tái

cơ cấu các NHTM Nhà nước: Thực trạng và triển vọng”, NXB Phương Đông,

Hà Nội, trang 36-67-71-102-113-144-171-173.

16. Viện nghiên cứu khoa học Ngân hàng (2003), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Những

thách thức của NHTM Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế, NXB

Thống Kê, Hà Nội, trang 80.

Tài liệu tiếng Anh:

106

17. Bank for international settlements, International Convergence of Capital

Measurement and Capital Standards,A revised framework, June 2004, trang 1-

(Pdf version: http://www.federalreserve.gov/boarddocs/press/bcreg/2004/20040626/attachment.pdf)

18.

18. Alicia García-Herrero, Sergio Gavilá, and Daniel Santabárbara (2006), China's

Banking Reform: An Assessment of its Evolution and Possible Impact, CESifo

Economic Studies, Volume 52, Number 2, Pp 304-363, Oxford Journals _

Oxford University Press, trang 33-313-314-320-322.

(Pdf version: http://cesifo.oxfordjournals.org/cgi/reprint/52/2/304 )

19. Dietrich Domanski (2005), Foreign banks in emerging market economies:

changing players, changing issues, BIS Quarterly Review December 2005.

(Pdf version: http://www.bis.org/publ/qtrpdf/r_qt0512f.pdf )

20. Maher Hasan, (To be presented in the Credit Alliance/ Information Alliance

Regional Meeting in Amman 3-4 April 2002),The Significance of Basel 1 and

Basel 2 for the future of the banking industry with special emphasis on credit

Information, Central Bank of Jordan.

21. Sakulrat Montreevat (2000), Impact of Foreign Entry on the Thai Banking

Sector: Initial Stage of Bank Restructuring, Economics & Finance No.5(2000),

Institute of South East Asian Studies, trang 9 - 10 -11-12-21.

(Pdf version: http://www.iseas.edu.sg/ef52000.pdf )

Trang web (Ngày truy cập, Nội dung, Đường dẫn):

22. (25/9/2007) “Bán cổ phần cho NH nước ngoài”

http://tintuc.ethitruong.vn/Home/taichinh/hdnh/2006/11/12247.aspx

23. (27/9/2007) “Cổ phần hóa để „tăng sức đề kháng‟ cho các ngân hàng”

http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=13489

24. (28/9/2007) “Credit Suisse tư vấn cổ phần hóa cho Vietcombank”

http://www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id=251b

646543b3e9

25. (3/9/2007) “Deadline for banks to reach capital ratio”

www.china.com.cn/market/news/458825.htm

107

26. (27/9/2007) “Gia nhập WTO – Thách thức chất lượng dịch vụ tài chính ngân

hàng Việt Nam” http://www.mof.gov.vn/ItemPrint.aspx?ItemID=38857

27. (3/9/2007) Hệ thống các tổ chức tín dụng

http://www.sbv.gov.vn/vn/home/htTCTD.jsp

28. (19/9/2007) “Hội nhập ngân hàng: Không thể chậm trễ”

http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105039/ns050511150252

29. (27/9/2007) “HSBC – Ngân hàng nước ngoài tốt nhất tại Việt Nam”

http://vietnamnet.vn/kinhte/2006/09/607972/

30. (20/9/2007) “Lập Ngân hàng: vượt được rào thì hãy qua”

http://www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id=d098

2b67f62b6d

31. (10/9/2007) “Lời giải nào cho thách thức ngành ngân hàng khi Việt Nam là

thành viên của WTO” :http://www.tapchicongsan.org.vn/print_preview.asp?

Object=4&news_ID=5755383

32. (10/9/2007) “Những điểm yếu của hệ thống Ngân hàng”

http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1301

33. (9/9/2007) “ Những thiếu sót của Basel I và nội dung cơ bản của Basel II”

http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1186

34. (3/9/2007) “Overview of reform in China's banking industry in 2005”

http://www.tdctrade.com/report/indprof/indprof_060103.htm

35. (27/9/2007)“Thách thức đợi ngân hàng mới” :http://www.taichinhvietnam.

com/taichinhvietnam/modules.php?name=News&file=article&sid=10300

36. (30/8/2007)“Thấy gì qua „quả bom tấn‟ Eximbank?”

http://www.vietnamnet.vn/kinhte/2007/08/727475/

37. (16/9/2007) “The Banker: TOP 1000 World Banks” :http://www.thebanker.

com/news/fullstory.php/aid/5050/TOP_1OOO__World_Banks_O7.html

38. (1/10/2007) The Illinois Business Law Journals: “Strategies behind Foreign

Banks Acquiring Equity Stakes in Chinese Banks” : http://iblsjournal.typepad.

com/illinois_business_law_soc/2006/11/on_november_26_.html

39. (15/9/2007) “Tình hình hoạt động của tổ chức tham gia BHTG là các NHTM

qu‎ý 2/2006” http://div.gov.vn/Bulletin/VN/2006/1/PBKhanh_Giamsat1.doc

108

40. (28/9/2007) “Vietcombank chọn Credit Suisse tư vấn cổ phần hóa”

http://vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/Chung-khoan/2007/02/3B9F32CA/

41. (4/9/2007) Wikipedia_the free encyclopedia: www.wikipedia.org

(i) “ Shareholders‟ equity”: http://en.wikipedia.org/wiki/Shareholders%27_equity

(ii) http://en.wikipedia.org/wiki/Basel_Accord ,

(iii) http://en.wikipedia.org/wiki/Basel_I,

(iv) http://en.wikipedia.org/wiki/Capital_requirements,

(v) http://en.wikipedia.org/wiki/Tier_1_capital

(vi) http://en.wikipedia.org/wiki/Tier_2_capital

42. Yahoo finance (6/9/2007):

(i) http://finance.google.com/finance?fstype=bi&q=NYSE:ABN,

(ii) http://finance.google.com/finance?fstype=bi&q=NYSE:BCS

43. Website các NH:

* Các NH Việt Nam (5-15/9/2007):

i. ACB: http://www.acb.com.vn/codong/bcthuongnien06.htm ;

http://www.acb.com.vn/gthieu/gthieu.htm

ii. Agribank: http://www.agribank.com.vn/internet/jsp/download.jsp

iii. AnBinh Bank: http://www.abbank.vn/display/newscontent.aspx?cateid=181

iv. BIDV: http://www.bidv.com.vn/Report_Bidv.asp

v. Dai A Bank: http://www.daiabank.com.vn/gioithieu.aspx

vi. Eab: http://www.eab.com.vn/service/63,0,120.html ;

http://www.eab.com.vn/service/63.html

vii. Eximbank: http://www.eximbank.com.vn/vietnam/baocao.aspx ;

http://www.eximbank.com.vn/vietnam/gioithieu.aspx

viii. Habubank:http://www.habubank.com.vn/default.aspx?tabid=384&cateid=39

2&MainMenuID=1&MenuItemID=276;http://www.habubank.com.vn/defaul

t.aspx?tabid=384&cateid=390&MainMenuID=1&MenuItemID=274

ix. Eximbank: http://www.eximbank.com.vn/vietnam/baocao.aspx

x. Incombank: http://www.icb.com.vn/?annua=1

xi. Military bank: http://www.militarybank.com.vn/aboutus.asp

xii. MHB: http://www.mhb.com.vn/?p=BCTN/bctc.asp

109

xiii. Sacombank:

http://www.sacombank.com/vie/gioithieuvesacombank.php?v_idlienket=1

xiv. Saigon bank: http://www.scb.com.vn/baocaotc.aspx

xv. Seabank: http://www.seabank.com.vn/Gioithieu_new.asp

xvi. Southernbank: http://www.phuongnambank.com.vn/

xvii. Techcombank:

http://www.techcombank.com.vn/modules.php?name=Annual_report

xviii. VIB: http://www.vib.com.vn/news/Default.aspx;

http://www.vib.com.vn/news/Default.aspx

xix. Vietcombank: http://www.vcb.com.vn/vn/gioithieu/Baocaonam/

* Các Ngân hàng nước ngoài:

xx. ABN Amro bank: http://www.abnamro.com/com/about/profile.jsp

xxi. Agricultural Bank of China: http://www.abchina.com/en/hq/report.jsp

/fid=20000021/sid=105000874/index.html

xxii. BarclaysPLC:

http://www.aboutbarclays.com/content/detailwithlist.asp?NewsAreaID=136

(xx) Bangkok Bank: http://www.bangkokbank.com/Bangkok+Bank/

For+Shareholders/Financial+Results/Default.htm

(xxi) Bank for international settlements: http://www.bis.org/

(xxii) Bank BNI: http://www.bni.co.id/Portals/0/Document/Quarterly%20

Report%202007/BNI%20Published%20Report%201H2007-eng.pdf

(xxiii) Bank Mandiri: http://www.bankmandiri.co.id/english/index.aspx

(xxiv) Bank of the Philippine Islands:http://info.bpiexpressonline.com/bpiprod/

BPIAbout.nsf/Annual+Report/FinancialHighLights?OpenDocument

(xxv) Bank of China: http://www.abchina.com/en/hq/index.jsp/index.html

(xxvi) Chinese Construction Bank:http://www.ccb.com/portal/en/investernew/

second.jsp?column=ROOT%3E%D3%A2%CE%C4%CD%F8%D5%BE%3

EInvestor+Relations%3EFinancial+Highlights&miniset_column=ROOT%3

E%D3%A2%CE%C4%CD%F8%D5%BE%3EInvestor+Relations

(xxvii) DBS: http://www.dbs.com/dbsgroup/annual2006/

110

(xxviii) Deutsche Bank:

http://www.db.com/en/content/company/facts_and_figures.htm

(xxix) Industrial and Commercial Bank of China:

http://www.icbcltd.com/down load/nianbao/2007/ICBC_H%20share%20engi-

as%20printed%20Final.pdf

(xxx) KBank: http://www.ktb.co.th/PublicApp/ktbweb/en/pid/0700001458

(xxxi) Krung Thai Bank:

http://www.ktb.co.th/PublicApp/ktbweb/en/pid/0700003307#A3

(xxxii) Maybank: http://www.maybank2u.com.my/corporate/financial_info.shtml

(xxxiii) OCBC: http://www.ocbc.com.sg/global/aboutOCBC/Gco_Abt_

Overview.shtm?bcid=M

(xxxiv) Public Bank: http://ww2.publicbank.com.my/

(xxxv) Reserve bank of New Zealand:

http://www.rbnz.govt.nz/finstab/banking/regulation/0091769.html

(xxxvi) RHB Bank:

http://www.kasikornbank.com/GlobalHome/EN/investor_relations/IR_report/ir_rep

ort.html?content=IR_report_annual/ir_report _annual.jsp&_ExCache=clear

(xxxvii) Siam City Bank: http://www.scib.co.th/en/business/default.asp?KeyRef=

Financial-Information-En

(xxxviii) UOB: http://www.uobgroup.com/pages/investor/financial/index.html

111

Danh mục bảng biểu

Bảng:

Trang:

Bảng 1: Tỷ lệ đóng góp của VCSH và Tài sản của các tập đoàn tài chính

Bảng 2: VCSH của các NHTMNN giai đoạn 2003-2006

42

vào GDP ở một số nước Châu Á (2004) 31

Bảng 3: Hệ số CAR của NH Đầu tư và phát triển BIDV

43

Bảng 5: Vốn điều lệ và VCSH của những NHTMCP lớn nhất

45

Bảng 4: Vốn điều lệ của các NHTMCP Nông thôn hiện nay 45

Bảng 6: Vốn điều lệ của các NHTM Liên doanh của Việt Nam hiện nay 48

Bảng 8: 25 NH hàng đầu thế giới năm 2007 xét về quy mô vốn cơ sở

53

Bảng 9: 10 ngân hàng hàng đầu Đông Nam Á năm 2006

54

Bảng 10: CAR của 3 NHTMNN lớn nhất của Trung Quốc

55

Bảng 11: VCSH của một số ngân hàng khác trong khu vực

55

Bảng 7: Mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng 51

Biểu đồ:

Trang:

Biểu đồ 1: VCSH của các NHTMNN giai đoạn 2003-2006

42

Biểu đồ 2: Tỷ trọng các thành phần chính của VCSH tại một số NHTMNN 43

Biểu đồ 3: Tương quan các thành phần chủ yếu của VCSH tại một số

NHTMCP lớn 46

Biểu đồ 4: Hệ số an toàn vốn CAR của NHTMCP Sacombank qua các năm 47

Biểu đồ 5: Hệ số CAR của các NHTMCP lớn của Việt Nam so với một số

Biểu đồ 6: Tương quan VCSH của Vietcombank và một số NH khu vực 56

Biểu đồ 7: Tương quan hệ số CAR của BIDV và một số NH khu vực

56

nước trên thế giới 50

112

Phụ lục 1: Danh mục các bảng biểu phụ

Bảng phụ 1: VCSH trong Bảng cân đối kế toán hợp nhất của

Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam (tại thời điểm 31/12/2006)

VỐN CHỦ SỞ HỮU

2006 2005

(triệu đồng) (triệu

đồng)

Vèn ®iÒu lÖ

4.356.737 4.279.127

Vèn kh¸c 1.180.827 1.158.253

C¸c quü dù tr÷

5.227.449 2.728.353

Quü chªnh lÖch tû gi¸ do

chuyÓn ®æi b¸o c¸o tµi chÝnh 90.371 90.220

Quü ®¸nh gi¸ l¹i tµi s¶n

13.741 11.914

Lîi nhuËn ®Ó l¹i

258.123 148.034

Tæng vèn chñ së h÷u

1.127.248 8.415.901

Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2006 của VCB.

113

Bảng phụ 2: VSCH trong Bảng cân đối kế toán hợp nhất ngân hàng

Deutsche Bank 2006

2006

Vốn chủ sở hữu (đơn vị: triệu EURO)

Cổ phiếu thường _ giá trị danh nghĩa (không xét mệnh giá): € 2,56/CP

1.343

Phát hành: năm 2006, 524,8 triệu cổ phần

Thặng dư vốn

14.424

Lợi nhuận giữ lại

25.069

Lỗ từ bán trái phiếu chính phủ

(2.378)

Vốn được phân loại riêng dành để mua cổ phiếu quỹ

(3.457)

Các khoản lời (lỗ) tích lũy không xuất phát từ VCSH nhưng có ảnh

hưởng đến VCSH:

(2.165)

Thuế được hoãn lại đối với thu nhập ròng từ cổ phiếu sẵn sàng bán

liên quan tới đợt thay đổi thuế suất tại Đức năm 1999 & 2000.

2.779

Thu nhập ròng ròng từ cổ phiếu sẵn sàng bán do giá thị trường thay

đổi, tính theo thuế suất và các khoản khác có thể được áp dụng.

(44)

Thu nhập (thua lỗ) ròng do giá thị trường thay đổi của các công cụ

phái sinh phục vụ mục đích tự bảo vệ.

(549)

Điều chỉnh để áp dụng SFAS 158.

(2.214)

Điều chỉnh do chuyển đổi tỷ giá hối đoái.

Tổng cộng các khoản thu nhập bổ sung khác

(2.193)

Tổng cộng vốn chủ sở hữu

32.808

Nguồn: http://annualreport.deutsche-

bank.com/2006/ar/consolidatedfinancialstatements/balancesheet.html

114

Bảng phụ 3: Ba mô hình chủ yếu của tập đoàn tài chính

Công ty mẹ - con

Công ty sở hữu tài chính

Ngân hàng đa năng

Loại hình

(Parent -

(Financial Holding

(Universal Banking)

Subsidiary)

Company)

Cổ đông

Cổ đông

Cổ đông

Công ty mẹ

Ngân hàng

Mô hình

Kinh doanh

Ngân hàng

Kinh doanh Ngân hàng

Cty bảo hiểm

Cty chứng khoán

C.ty bảo hiểm

Kinh doanh chứng khoán

Cty chứng khoán

Ban điều hành trực tiếp điều hành

Ban điều hành trực

Ban điều hành thực hiện

các hoạt động kinh doanh (kinh

tiếp điều hành hoạt

quyền nắm giữ cổ phần trong

doanh ngân hàng, bảo hiểm,

động của ngân hàng

tất cả các công ty con.

chứng khoán)

và gián tiếp điều hành

Ban điều

công ty bảo hiểm,

hành

chứng khoán thông

qua quyền nắm giữ

cổ phần tại các công

ty này

Mối quan

Không có quy định riêng về vốn

Các công ty con nắm

Các công ty con nắm giữ vốn

hệ về vốn

giữa các công ty con.

giữ vốn chủ sở hữu.

chủ sở hữu.

giữa các

công ty

con

Rất khó để có thể ngăn ngừa rủi

Việc lan truyền rủi ro

Dễ dàng ngăn ngừa sự lan

Việc cách

ro lan truyền giữa các công ty

có thể được ngăn

truyền rủi ro giữa các công ty.

ly rủi ro

con.

ngừa ở mức độ nhất

Giữa các công ty có sự độc

giữa các

định. Công ty mẹ có

lập tương đối và không chịu

công ty

tác động lên công ty

tác động rủi ro trực tiếp lẫn

con

nhau.

con

Ngân hàng

115

Phụ lục 2: Cách phân loại vốn và “tài sản có” (nội và ngoại bảng) điều

chỉnh theo tỷ lệ rủi ro theo luật Việt Nam

Trích: Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín

dụng

(Ban hành kèm theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005

của Thống đốc NHNN Việt Nam)

II. Mục I. Vốn tự có

Điều 3:

1. Vốn tự có của tổ chức tín dụng bao gồm:

1.1. Vốn cấp 1:

a. Vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp).

b. Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ.

c. Quỹ dự phòng tài chính.

d. Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ.

đ. Lợi nhuận không chia.

Vốn cấp 1 được dùng làm căn cứ để xác định giới hạn mua, đầu tư vào tài sản cố

định của tổ chức tín dụng.

1.2. Vốn cấp 2:

a. 50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được định giá lại theo quy định của

pháp luật.

b. 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu

tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của pháp luật.

c. Trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành thỏa

mãn những điều kiện sau:

(i). Có kỳ hạn ban đầu, thời hạn còn lại trước khi chuyển đổi thành cổ phiếu phổ

thông tối thiểu là 5 năm;

(ii) Không được đảm bảo bằng tài sản của chính tổ chức tín dụng;

(iii) Tổ chức tín dụng không được mua lại theo đề nghị của người sở hữu hoặc mua

lại trên thị trường thứ cấp, hoặc tổ chức tín dụng chỉ được mua lại sau khi được

Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản;

116

(iv) Tổ chức tín dụng được ngừng trả lãi và chuyển lãi lũy kế sang năm tiếp theo

nếu

việc trả lãi dẫn đến kết quả kinh doanh trong năm bị lỗ;

(v) Trong trường hợp thanh lý tổ chức tín dụng, người sở hữu trái phiếu chuyển đổi

chỉ được thanh toán sau khi tổ chức tín dụng đã thanh toán cho tất cả các chủ nợ có

bảo đảm và không có bảo đảm khác;

(vi) Việc điều chỉnh tăng lãi suất chỉ được thực hiện sau 5 năm kể từ ngày phát hành

và được điều chỉnh một (1) lần trong suốt thời hạn trước khi chuyển đổi thành cổ

phiếu phổ thông.

d. Các công cụ nợ khác thỏa mãn những điều kiện sau:

(i) Là khoản nợ mà chủ nợ là thứ cấp so với các chủ nợ khác: trong mọi trường hợp,

chủ nợ chỉ được thanh toán sau khi tổ chức tín dụng đã thanh toán cho tất cả các chủ

nợ có bảo đảm và không bảo đảm khác;

(ii) Có kỳ hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm;

(iii) Không được đảm bảo bằng tài sản của chính tổ chức tín dụng;

(iv) Tổ chức tín dụng được ngừng trả lãi và chuyển lãi lũy kế sang năm tiếp theo

nếu việc trả lãi dẫn đến kết quả kinh doanh trong năm bị lỗ;

(v) Chủ nợ chỉ được tổ chức tín dụng trả nợ trước hạn sau khi được Ngân hàng Nhà

nước chấp thuận bằng văn bản;

(vi) Việc điều chỉnh tăng lãi suất chỉ được thực hiện sau 5 năm kể từ ngày ký kết

hợp đồng và được điều chỉnh một (1) lần trong suốt thời hạn của khoản vay.

đ. Dự phòng chung, tối đa bằng 1,25% tổng tài sản "Có" rủi ro.

2. Các giới hạn khi xác định vốn tự có:

2.1. Giới hạn khi xác định vốn cấp 1: Vốn cấp 1 phải trừ đi lợi thế thương mại.

2.2. Giới hạn khi xác định vốn cấp 2:

a. Tổng giá trị các khoản quy định tại mục c và d, khoản 1.2 Điều này tối đa bằng

50% giá trị vốn cấp 1.

b. Trong thời gian 5 năm cuối cùng trước khi đến hạn thanh toán, chuyển đổi thành

cổ phiếu phổ thông, giá trị các công cụ nợ khác và trái phiếu chuyển đổi được tính

vào vốn cấp 2 sẽ phải khấu trừ mỗi năm 20% giá trị ban đầu.

c. Tổng giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% giá trị vốn cấp 1.

117

3. Các khoản phải trừ khỏi vốn tự có:

3.1. Toàn bộ phần giá trị giảm đi của tài sản cố định do định giá lại theo quy định

của pháp luật.

3.2. Toàn bộ phần giá trị giảm đi của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu

đầu tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của pháp luật.

3.3. Tổng số vốn của tổ chức tín dụng đầu tư vào tổ chức tín dụng khác dưới hình

thức góp vốn, mua cổ phần.

3.4. Phần góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của quỹ đầu tư, doanh nghiệp khác vượt

mức 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.

3.5. Khoản lỗ kinh doanh, bao gồm cả các khoản lỗ lũy kế.

MỤC II. T Ỷ LỆ AN TOÀN VỐN TỐI THIỂU

Điều 4.

1. Tổ chức tín dụng, trừ chinh nhánh ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối

thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản "Có" rủi ro.

2. Tại thời điểm Quy định này có hiệu lực thi hành, ngân hàng thương mại nhà nước

có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu thấp hơn mức quy định tại Khoản 1 điều này thì trong

thời hạn tối đa là 3 năm phải tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bằng mức quy định.

Mức tăng tỷ lệ hàng năm tối thiểu bằng một phần ba (1/3) số tỷ lệ còn thiếu.

3. Cách xác định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được nêu tại Phụ lục A Quy định này.

Điều 5. Tài sản "Có" rủi ro của các cam kết ngoại bảng:

1. Các cam kết bảo lãnh, tài trợ cho khách hàng:

1.1. Hệ số chuyển đổi:

1.1.1. Hệ số chuyển đổi 100%: Các cam kết không thể hủy ngang, thay thế hình

thức cấp tín dụng trực tiếp, nhưng có mức độ rủi ro như cấp tín dụng trực tiếp, gồm:

a. Bảo lãnh vay.

b. Bảo lãnh thanh toán.

c. Các khoản xác nhận thư tín dụng; Thư tín dụng dự phòng bảo lãnh tài chính cho

các khoản cho vay, phát hành chứng khoán; Các khoản chấp nhận thanh toán bao

gồm các khoản chấp nhận thanh toán dưới hình thức ký hậu, trừ các khoản chấp

nhận thanh toán hối phiếu quy định tại điểm 1.1.3.b Khoản 1 điều này.

118

1.1.2. Hệ số chuyển đổi 50%: Các cam kết không thể hủy ngang đối với trách nhiệm

trả thay của tổ chức tín dụng, gồm:

a. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng.

b. Bảo lãnh dự thầu.

c. Bảo lãnh khác.

d. Thư tín dụng dự phòng ngoài thư tín dụng quy định tại điểm 1.1.1.c Khoản 1

điều này.

đ. Các cam kết khác có thời hạn ban đầu từ 1 năm trở lên.

1.1.3. Hệ số chuyển đổi 20%: Các cam kết liên quan đến thương mại, gồm:

a. Thư tín dụng không hủy ngang.

b. Chấp nhận thanh toán hối phiếu thương mại ngắn hạn, có bảo đảm bằng hàng

hóa.

c. Bảo lãnh giao hàng.

d. Các cam kết khác liên quan đến thương mại.

1.1.4. Hệ số chuyển đổi 0%:

a. Thư tín dụng có thể hủy ngang.

b. Cam kết có thể hủy ngang vô điều kiện khác, có thời hạn ban đầu dưới 1 năm.

1.2. Hệ số rủi ro:

Hệ số rủi ro của giá trị các cam kết ngoại bảng sau khi chuyển đổi theo quy định tại

khoản 1.1.1, 1.1.2 và khoản 1.1.3 điều này như sau:

1.2.1 Được Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam bảo lãnh hoặc

được bảo đảm hoàn toàn bằng tiền mặt, sổ tiết kiệm, tiền ký quỹ, giấy tờ có giá do

Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành: Hệ số rui ro là 0%.

1.2.2. Có tài sản bảo đảm bằng Bất động sản của bên vay: Hệ số rủi ro 50%.

1.2.3. Trường hợp khác: Hệ số rủi ro 100%.

2. Các hợp đồng giao dịch lãi suất và hợp đồng giao dịch ngoại tệ:

2.1. Hệ số chuyển đổi:

2.1.1. Hợp đồng giao dịch lãi suất:

a. Có kỳ hạn ban đầu dưới 1 năm: 0,5%

b. Có kỳ hạn ban đầu từ 1 năm đến dưới 2 năm: 1,0%

119

c. Có kỳ hạn ban đầu từ 2 năm trở lên: 1,0% cho phần kỳ hạn dưới 2 năm cộng

thêm (+) 1,0% cho mỗi năm tiếp theo.

2.1.2. Hợp đồng giao dịch ngoại tệ:

a. Có kỳ hạn ban đầu dưới 1 năm: 2,0%

b. Có kỳ hạn ban đầu từ 1 năm đến dưới 2 năm: 5,0%

c. Có kỳ hạn ban đầu từ 2 năm trở lên: 5,0% cho phần kỳ hạn dưới 2 năm cộng

thêm (+) 3,0% cho mỗi năm tiếp theo.

2.2. Hệ số rủi ro: Hệ số rủi ro đối với giá trị các hợp đồng giao dịch lãi suất và hợp

đồng giao dịch ngoại tệ sau khi chuyển đổi nêu tại khoản 2.1 điều này là 100%.

Điều 6.

Tài sản "Có" được phân nhóm theo các mức độ rủi ro như sau:

1. Nhóm tài sản "Có" có hệ số rủi ro 0% gồm:

a. Tiền mặt.

b. Vàng.

c. Tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng nhà nước đã duy trì tại

Ngân hàng chính sách xã hội theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002

của Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.

d. Các khoản cho vay bằng vốn tài trợ, ủy thác đầu tư theo các hợp đồng ủy thác

trong đó tổ chức tín dụng chỉ hưởng phí ủy thác và không chịu rủi ro.

đ. Các khoản phải đòi bằng Đồng Việt Nam đối với Chính phủ Việt Nam, Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam.

e. Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá do chính tổ chức tín dụng

phát hành.

g. Các khoản phải đòi bằng Đồng Việt Nam được bảo đảm bằng giấy tờ có giá do

chính tổ chức tín dụng phát hành; Các khoản phải đòi được bảo đảm hoàn toàn

bằng tiền mặt, sổ tiết kiệm, tiền ký quỹ, giấy tờ có giá do Chính phủ, Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam phát hành.

h. Các khoản phải đòi đối với Chính phủ Trung ương, Ngân hàng Trương ương

các nước thuộc khối OECD.

120

i. Các khoản phải đòi được bảo đảm bằng chứng khoán của Chính phủ Trung ương

các nước thuộc khối OECD hoặc được bảo lãnh bởi Chính phủ Trung ương các

nước thuộc khối OECD.

2. Nhóm tài sản "Có" có hệ số rủi ro 20% gồm:

a. Các khoản phải đòi đối với tổ chức tín dụng khác ở trong nước và nước ngoài,

đối với từng loại đồng tiền.

b. Các khoản phải đòi đối với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương; Các khoản phải đòi bằng ngoại tệ đối với Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng

Nhà nước Việt Nam.

c. Các khoản phải đòi được bảo đảm bằng giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng khác

thành lập tại Việt Nam phát hành.

d. Các khoản phải đòi đối với tổ chức tài chính nhà nước; các khoản phải đòi được

bảo đảm bằng giấy tờ có giá do các tổ chức tài chính nhà nước phát hành.

đ. Kim loại quý (trừ vàng), đá quý.

e. Tiền mặt đang trong quá trình thu.

g. Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng IBRD, IADB, ADB, AfDB, EIB,

EBRD và Các khoản phải đòi được các được các ngân hàng này bảo lãnh hoặc

được bảo đảm bằng chứng khoán do các ngân hàng này phát hành.

Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng được thành lập ở các nước thuộc khối

OECD và các khoản phải đòi được bảo lãnh bởi các ngân hàng này.

i. Các khoản phải đòi đối với các công ty chứng khoán được thành lập ở các nước

thuộc khối OECD có tuân thủ những thỏa thuận quản lý và giám sát về vốn trên cơ

sở rủi ro và những khoản phải đòi được các công ty này bảo lãnh.

k. Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng được thành lập ngoài các nước thuộc

khối OECD, có thời hạn còn lại dưới 1 năm và các khoản phải đòi có thời hạn còn

lại dưới 1 năm được các ngân hàng này bảo lãnh.

3. Nhóm tài sản "Có" có hệ số rủi ro 50% gồm:

a. Các khoản đầu tư cho dự án theo hợp đồng, quy định tại Nghị định số

79/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của

công ty tài chính.

b. Các khoản phải đòi có bảo đảm bằng Bất động sản của bên vay.

121

4. Nhóm tài sản "Có" có hệ số rủi ro 100% gồm:

a. Các khoản cấp vốn điều lệ cho các công ty trực thuộc không phải là tổ chức tín

dụng, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập.

b. Các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần vào các doanh nghiệp,

tổ chức kinh tế khác.

c. Các khoản phải đòi đối với các ngân hàng được thành lập ở các nước không

thuộc khối OECD, có thời hạn còn lại từ 1 năm trở lên.

d. Các khoản phải đòi đối với chính quyền Trung ương của các nước không thuộc

khối OECD, trừ trường hợp cho vay bằng đồng bản tệ và nguồn cho vay cũng

bằng đồng bản tệ của các nước đó.

đ. Bất động sản, máy móc, thiết bị và tài sản cố định khác.

e. Các khoản phải đòi khác ngoài các khoản phải đòi quy định tại Khoản 1, Khoản

2 và Khoản 3 Điều này.

122