ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THÌN
BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP 2013
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L
HÀ NỘI – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THÌN
BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP 2013
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGÔ MINH HƯƠNG
HÀ NỘI – 2019
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC ........................................................................................................ 1
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ 4
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
CHƯƠNG I: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC
TẾ ...................................................................................................................... 9
1.1. Khái niệm “hội” và “quyền tự do lập hội” ........................................... 9
1.2. Vai trò của quyền tự do lập hội .......................................................... 10
1.3. Các quy định của pháp luật quốc tế về quyền tự do lập hội ............... 11
1.4. Giới hạn của quyền tự do lập hội ....................................................... 17
CHƯƠNG II: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT MỘT
SỐ QUỐC GIA .............................................................................................. 23
CHƯƠNG III: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG HIẾN PHÁP 2013
VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH .............. 28
3.1. Quan điểm về quyền tự do lập hội ở Việt Nam .................................. 28
3.2. Quyền tự do lập hội là quyền hiến định ............................................. 29
3.3. Chủ thể của quyền tự do lập hội ......................................................... 32
3.4. Tư cách pháp nhân của hội ................................................................. 32
3.5. Hình thức của hội ............................................................................... 33
3.6. Giới hạn của quyền tự do lập hội ....................................................... 33
3.7. Nghĩa vụ của Nhà nước trong bảo đảm quyền tự do lập hội .............. 36
1
3.7.1. Nghĩa vụ tôn trọng........................................................................ 36
3.7.2. Nghĩa vụ bảo vệ ............................................................................ 37
3.7.3. Nghĩa vụ thực thi .......................................................................... 38
3.8. Thực tiễn thực thi quyền tự do lập hội ở Việt Nam ........................... 40
3.8.1. Trong lao động ............................................................................. 40
3.8.2. Trong hình sự, tố tụng hình sự ..................................................... 44
3.8.3. Trong văn hóa .............................................................................. 45
3.9. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc bảo đảm quyền tự do lập
hội ở Việt Nam ............................................................................................. 46
CHƯƠNG V: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐỂ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP 2013 ... 49
5.1. Ban hành Luật về Hội ......................................................................... 49
5.1.1. Sự cần thiết của Luật về Hội ở Việt Nam .................................... 49
5.1.2. Luật về Hội nên được quy định như thế nào? .............................. 51
5.2. Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và Luật xử lý vi phạm hành
chính cần sửa đổi, bổ sung các chế tài với những hành vi từ chối, ngăn cản
và các hành vi khác vi phạm quyền tự do lập hội của người dân ................ 55
5.3. Bảo đảm sự kế thừa và tính thống nhất của các văn bản quy phạm
pháp luật và quản lý hội phù hợp với thông lệ quốc tế ................................ 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 58
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả ghi trong Khóa luận hoàn toàn trung thực và chưa từng được
công bố. Các quan điểm, ý kiến của các tác giả khác được nêu trong Khóa
luận đã được trích dẫn và ghi nguồn rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về đề tài của mình.
Người cam đoan
Nguyễn Thị Thìn
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền UDHR
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ICCPR
Liên Hợp Quốc LHQ
Tổ chức phi chính phủ NGO
ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CO87 Công ước về quyền tự do hiệp hội và về việc bảo vệ
quyền được tổ chức
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền tự do lập hội là quyền con người quan trọng của một xã hội dân
chủ, đồng thời cũng là một chuẩn mực bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân bởi nó góp phần bảo đảm thực hiện các quyền con người khác.
Quyền tự do lập hội được ghi nhận lần đầu tiên tại Điều 20 Tuyên ngôn
quốc tế về Nhân quyền – UDHR năm 1948. Ngoài việc quy định “mọi người
có quyền tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình”, Khoản 2 Điều 20 còn
nêu rõ “không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào”. Sau đó,
trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị - ICCPR được LHQ
thông qua năm 1966 đã tái khẳng định và cụ thể hóa tại Điều 22, trong đó nêu
rõ “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập
và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”.
Kể từ khi hoàn toàn độc lập đến nay, Việt Nam cũng đã tham gia nhiều
hơn vào các diễn đàn quốc tế, trong đó có diễn đàn về quyền con người. Tăng
cường đối thoại, chủ động tham gia ký kết và thực hiện các cam kết và điều
ước quốc tế về quyền con người đang là một chủ trương nhất quán của Đảng
và Nhà nước ta. Đến nay, Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều Công ước
quốc tế về nhân quyền trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị (Việt Nam gia nhập năm 1982).
Hiện nay trong xu thế hội nhập quốc tế, số lượng các hội được thành
lập gia tăng nhanh chóng1. Với môi trường dân chủ, cởi mở hội nhập, các hoạt
động kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, xã hội hóa ngày càng cao, việc
1 Trong báo cáo của Bộ Nội vụ trình Quốc hội ngày 4/11/2015 đã nêu “tính đến tháng 12/2014, cả nước có 52.565 hội, trong đó 483 hội hoạt động trong phạm vi cả nước và 52.082 hội hoạt động ở phạm vi địa phương; số liệu này không bao gồm Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội nghề nghiệp khác”.
5
thành lập và phát triển hội thực sự là yêu cầu của thực tiễn đời sống và là xu
thế tất yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu tự do, dân chủ, sáng tạo của người dân và
xã hội. Các hội phát triển đa dạng với quy mô, phạm vi, tính chất hoạt động
khác nhau đã góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển đất
nước.
Tự do lập hội là một quyền con người cơ bản được ghi nhận trong luật
nhân quyền quốc tế và Hiến pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Như vậy, với hiệu lực pháp lý tối cao của nó, Hiến pháp
đang đóng vai trò là công cụ pháp lý cơ bản để thực hiện hóa các tiêu chuẩn
quốc tế về quyền con người nói chung hay quyền tự do lập hội nói riêng ở các
quốc gia. Tuy nhiên, cũng như một số quốc gia khác, khuôn khổ pháp luật về
quyền tự do lập hội ở Việt Nam hiện vẫn còn các rào cản, hạn chế sự hoạt
động của các hội, nên mặc dù có nhiều hội nhưng hoạt động của hội chưa
hiệu quả, chưa bảo đảm thực hiện quyền này một cách đầy đủ và thực sự.
Với những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Bảo đảm quyền
tự do lập hội theo Hiến pháp 2013” để làm đề tài Khóa luận cử nhân với
mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu rõ và sâu sắc hơn quyền tự do lập hội, tìm ra
nguyên nhân vì sao quyền tự do lập hội chưa được bảo đảm đầy đủ ở Việt
Nam, từ đó đề xuất quan điểm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về bảo đảm
quyền tự do lập hội trong bối cảnh hiện nay của nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu khoa học
đề cập các vấn đề liên quan tới nội dung này một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
như:
Về sách và giáo trình: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh
Tùng đồng chủ biên (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con
người, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; PGS.TS Vũ Công Giao
6
(2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 - Lý luận và thực
tiễn, Nhà xuất bản Hồng Đức.
Về các đề tài, công trình nghiên cứu khoa học: Phạm Thị Hồng
(2013), Hoàn thiện pháp luật về hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Viện khoa học xã hội Việt Nam; Hoàng
Lan Anh (2014), Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Đặng Ngân Hà
(2017), Hoàn thiện pháp luật về tự do lập hội ở Việt Nam hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Nhóm làm việc vì
sự tham gia của người dân (2016), Đời sống hiệp hội từ góc nhìn người dân.
Những nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng thông tin lớn về cả lý
luận và thực tiễn về việc thực hành và bảo đảm quyền tự do lập hội trên thế
giới cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu
nguyên nhân vì sao quyền tự do lập hội chưa được bảo đảm đầy đủ ở Việt
Nam để từ đó đưa ra các giải pháp về hoàn thiện khuôn khổ pháp luật nhằm
nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do lập hội.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu của Khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013, từ đó trả lời câu hỏi
tại sao quyền tự do lập hội chưa được đảm bảo đầy đủ ở Việt Nam. Trên cơ
sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp
luật về quyền tự do lập hội ở nước ta trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Khóa luận: Những vấn đề lý luận cơ bản về
quyền tự do lập hội, cơ chế bảo vệ quyền tự do lập hội trong các công ước
quốc tế, điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam.
7
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu những nội dung
cơ bản về bảo đảm quyền tự do lập hội, phân tích thực trạng, đánh giá tình
hình bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013, những ưu điểm và bất
cập còn tồn tại.
5. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài
Khóa luận là công trình khoa học ở cấp độ Cử nhân đề cập đến vấn đề
bảo đảm quyền tự do lập hội, cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm
và đề xuất mới có giá trị tham khảo với các cơ quan nhà nước trong việc hoàn
thiện pháp luật mà chủ yếu là khuyến nghị có Luật về Hội để góp phần bảo
đảm quyền tự do lập hội ở nước ta trong thời gian tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu trên, Khóa luận sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như phương pháp tổng hợp và
phân tích, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp nghiên cứu lý luận và
thực tiễn…
7. Bố cục Khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Khóa
luận gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Quyền tự do lập hội trong pháp luật quốc tế
Chương 2: Quyền tự do lập hội trong pháp luật một số quốc gia
Chương 3: Quyền tự do lập hội trong Hiến pháp 2013 và các quy định pháp
luật Việt Nam hiện hành
Chương 4: Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật để bảo đảm quyền tự do
lập hội theo Hiến pháp 2013
8
CHƯƠNG I: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm “hội” và “quyền tự do lập hội”
Hội đã xuất hiện trên thế giới từ thuở xa xưa, dưới nhiều hình thức đa
dạng. “Ngay từ thời cổ đại, ở phương Tây, Plato đã mô tả “câu lạc bộ” là
những nơi thị dân Hy Lạp lui tới để thưởng thức nghệ thuật, nghe giảng về
thiên văn học và khoa học” [1]. Cùng với thời gian, các hình thức hiệp hội
trên thế giới ngày càng phát triển, bao gồm các hội không có hoặc có tư cách
pháp nhân, với các tên gọi như câu lạc bộ, hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính
phủ, các quỹ, công đoàn, tổ chức tôn giáo, chính đảng hoặc công ty...Vậy
“hội” là gì?
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về “hội”. “Trong tiếng Anh, “hội”
thường được thể hiện qua hai thuật ngữ đó là: (i) “Association” – chỉ hình
thức liên kết của các cá nhân có cùng mối quan tâm, và (ii) “Society” – chỉ
một cộng đồng có tổ chức” [2]. “Cả hai khái niệm này đều có từ gốc Latinh là
socius/socielis, hàm ý là sự liên hệ, giao lưu, đồng hành giữa con người với
nhau trong đời sống” [3].
Công ước ICCPR và các văn kiện quốc tế quy định về quyền tự do lập
hội nhưng không định nghĩa khái niệm hội. Tuy nhiên, khái niệm này được
định nghĩa trong một số báo cáo của LHQ. Như theo Đại diện đặc biệt của
Tổng thư ký LHQ về bảo vệ quyền con người, khái niệm “hội” nhắc đến bất
kỳ nhóm cá nhân hoặc bất kỳ thực thể pháp lý nào liên kết với nhau để cùng
nhau hành động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi hoặc bảo vệ một lĩnh vực quan
tâm chung [4].
Theo GS.TS. Nguyễn Đăng Dung thì “hội” là sự thỏa thuận, liên kết,
tập hợp, quy tụ của nhiều người với nhau thành nhóm để hướng đến các mục
đích, lợi ích hay sự quan tâm chung [5].
9
Rõ ràng, các quan điểm trên đều có định nghĩa tương đồng về “hội”,
thừa nhận “hội” là một khái niệm có ngoại diên rộng nên quyền tự do lập hội
là một vấn đề phức tạp. Hơn nữa từ góc độ luật nhân quyền, quyền tự do lập
hội cũng là quyền có bản chất, nội dung đa dạng. Lập hội vừa là quyền dân
sự, chính trị và cũng vừa là quyền kinh tế xã hội, phụ thuộc rất lớn vào loại
hình hội mà cá nhân, tổ chức lựa chọn thành lập, gia nhập. Sự phức tạp và đa
dạng nêu trên dẫn đến hệ quả là đối với những hội khác nhau thì việc giải
thích, áp dụng và thực thi quyền tự do lập hội cũng có những yêu cầu khác
nhau.
Theo quan điểm của LHQ: Quyền tự do lập hội (freedom of
association) bao gồm quyền thành lập và tham gia hội, quyền hoạt động tự do
và được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô lý, quyền tiếp cận nguồn quỹ và các
nguồn lực, và quyền tham gia vào việc tiến hành các hoạt động chung của xã
hội [6]. Hay nói cách khác, quyền lập hội xuất phát từ những nhu cầu tự nhiên
của con người, đó là được quy tụ, được tập trung trong một tổ chức với những
mối liên hệ gần gũi, chặt chẽ với những thành viên khác trong cộng đồng.
Đây là quan điểm chung, tiến bộ được các quốc gia và vùng lãnh thổ thừa
nhận.
1.2. Vai trò của quyền tự do lập hội
Tự do lập hội là cần thiết trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Quyền tự do lập hội có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy một loạt
các quyền con người khác. Thông qua quyền tự do lập hội, các cá nhân liên
kết lại cùng nhau bảo vệ quyền sống, quyền an toàn thân thể, quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí…Trong lĩnh vực lao động, việc thành lập công đoàn
góp giúp bảo vệ các quyền cơ bản của công nhân về tiền lương, thời gian làm
việc, nghỉ ngơi, an toàn lao động…Trong lĩnh vực chính trị, quyền tự do lập
hội cũng có vai trò rất thiết yếu đối với việc thực hiện hóa quyền bầu cử, ứng
cử và quyền tham gia quản lý đất nước. Đối với các nhóm dễ bị tổn thương,
10
quyền tự do lập hội càng có vai trò quan trọng để chống lại sự phân biệt, kỳ
thị cũng như để bảo vệ các quyền khác khi mà tiếng nói của các cá nhân thuộc
nhóm này rất dễ bị xã hội và nhà nước bỏ qua.
Ngoài ra, thực hiện quyền tự do lập hội, các cá nhân liên kết với nhau,
hỗ trợ nhau trong hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, trong sản xuất kinh
doanh và các hoạt động thương mại, dịch vụ. Trong báo cáo năm 2013, Báo
cáo viên đặc biệt Maina Kiai đã khẳng định rằng, quyền tự do lập hội trao
quyền cho tất cả mọi người được thể hiện quan điểm chính trị, tham gia vào
các hoạt động văn hóa, kinh tế và xã hội, tham gia vào các nghi lễ tôn giáo
hoặc các niềm tin khác, và bầu lãnh đạo để đại diện cho lợi ích của họ và tăng
trách nhiệm giải trình. Sự phụ thuộc và liên quan lẫn nhau giữa các quyền làm
cho quyền tự do lập hội trở thành một trong những khía cạnh quan trọng để
đánh giá sự tôn trọng của nhà nước với những quyền con người khác [7].
Rõ ràng, quyền tự do lập hội không chỉ là một quyền con người cơ bản
mà còn là một công cụ hỗ trợ để bảo vệ các quyền khác
1.3. Các quy định của pháp luật quốc tế về quyền tự do lập hội
Điều ước quốc tế về nhân quyền là hình thức cơ bản chứa đựng các quy
phạm pháp luật quốc tế về quyền con người, điều chỉnh nghĩa vụ các quốc gia
thành viên và sự hợp tác giữa chúng nhằm hướng tới sự đảm bảo cao nhất các
chuẩn mực quyền con người được thừa nhận chung. Tự do lập hội được xác
định là một quyền tự do cơ bản và được nêu trong tất cả các văn kiện nhân
quyền quốc tế và khu vực, trong đó đặc biệt quan trọng là Tuyên ngôn quốc tế
về Nhân quyền (UDHR) năm 1948 và Công ước về các quyền dân sự và
chính trị (ICCPR) năm 1966. Đây là những cơ sở pháp lý rõ ràng nhất ràng
buộc các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm thực thi bảo đảm các quyền
được đề cập trong công ước nói chung và đối với quyền tự do lập hội nói
riêng.
11
Điều 20 UDHR ghi nhận: “1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và
lập hội một cách hòa bình; 2. Không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ
hiệp hội nào”
ICCPR đã cụ thể hóa quy định về quyền tự do lập hội tại Khoản 1 Điều
22: “Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập
và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”
Cả UDHR và ICCPR đều dùng từ “mọi người”, điều này có nghĩa là
chủ thể của quyền tự do lập hội không bị giới hạn ở công dân, mà còn bao
gồm cả người nước ngoài và người không có quốc tịch đang sinh sống hợp
pháp ở một quốc gia. Cách hiểu này tương thích với quy định của Điều 2
ICCPR về không phân biệt đối xử và được khẳng định trong các Nghị quyết
15/21, 21/16, 24/5, 20/27, 26/29 của Hội đồng Nhân quyền LHQ.
Đồng thời, để bảo đảm quyền tự do lập hội, tại Điều 30 UDHR quy
định: “Không được diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong bản Tuyên ngôn
này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hoặc cá nhân
nào được quyền tham gia vào bất cứ hoạt động hoặc thực hiện bất cứ hành vi
nào nhằm mục đích phá hoại bất kỳ quyền hoặc tự do nào nêu trong bản
Tuyên ngôn này”
Điều 5 ICCPR cũng tái khẳng định: “Không được phép giải thích bất
kỳ một quy định nào của Công ước này để qua đó có hàm ý tạo cho một quốc
gia, một nhóm người hoặc một cá nhân có được một quyền nào đó để tiến
hành những công việc hoặc hành động nhằm mục đích hủy bỏ bất kỳ quyền và
tự do nào được công nhận trong Công ước hoặc nhằm giới hạn những quyền
và tự do đó quá mức độ quy định trong Công ước”
Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ hiện chưa có bình luận chung nào
về nội dung Điều 22 ICCPR, tuy nhiên, từ nội dung của nó, có thể thấy quyền
tự do lập hội bao gồm ba khía cạnh: i) thành lập ra hội mới; ii) gia nhập các
12
hội có sẵn; iii) hoạt động, điều hành các hội, bao gồm cả việc tìm kiếm, huy
động các nguồn kinh phí cho hoạt động [8].
- Về quyền thành lập và gia nhập hội: Trong các nội dung của
quyền tự do lập hội, quyền thành lập và gia nhập các hội là nội
dung chủ yếu của quyền tự do lập hội. Mọi người đều có quyền
này. Trên cơ sở quy định của công ước ICCPR, quyền tự do lập
hội của mọi người được bảo đảm ở các quốc gia theo hai thủ tục:
thông báo hoặc cấp phép. Cùng với quyền thành lập hội, các cá
nhân có quyền gia nhập và rút lui các hội; các hội có quyền
ngưng hoạt động và tự giải tán. Tuy nhiên, việc các cơ quan nhà
nước ngưng hoạt động và giải tán hội phải tuân thủ chặt chẽ các
quy định của luật.
- Về quyền tự do hoạt động, điều hành các hội và được bảo vệ khỏi
sự can thiệp vô lý: Quyền tự do lập hội được giải thích là quyền
hoạt động tự do của các hội, và điều này xác định các nghĩa vụ
của nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi quyền này.
Theo cách tiếp cận chung của luật nhân quyền quốc tế, các quốc gia có
ba nghĩa vụ gắn với việc bảo đảm quyền con người. Đối với việc bảo đảm
quyền tự do lập hội cũng không ngoại lệ, nhà nước cũng có các nghĩa vụ sau:
- Nghĩa vụ tôn trọng: Tôn trọng đời sống nội bộ của hội, hay nói
cách khác không được can thiệp tùy tiện vào công việc nội bộ và
phải tôn trọng quyền riêng tư của hội như đã quy định tại Điều
17 ICCPR. Cụ thể, các nhà nước không được tùy tiện đặt điều
kiện cho những quyết định và hoạt động của hội; đảo ngược kết
quả bầu cử thành viên ban lãnh đạo; bắt buộc trong ban lãnh đạo
của các hội phải có sự hiện diện của đại diện Chính phủ; yêu cầu
các hội nộp báo cáo trước khi xuất bản ấn phẩm hoặc nộp kế
13
hoạch hoạt động để thông qua trước. Các cơ quan độc lập do nhà
nước thành lập ra có quyền xem xét báo cáo của các hội như là
một cơ chế đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm giải trình,
nhưng một thủ tục như vậy không được mang tính chất tùy tiện
và phải tôn trọng nguyên tắc không phân biệt đối xử và quyền
riêng tư của các hội [9]. Thành viên các hội cần phải được tự do
xác định điều lệ, cấu trúc tổ chức, hoạt động của hội và đưa ra
các quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước [10]
- Nghĩa vụ bảo vệ: đòi hỏi các quốc gia phải tiến hành các biện
pháp ngăn ngừa và xử lý những hành vi vi phạm quyền tự do lập
hội của người dân do bất kỳ chủ thể nào gây ra, kể cả từ phía
công quyền. Thành viên các hội cần phải được thực hành quyền
tự do lập hội của họ mà không lo sợ rằng họ có thể là đối tượng
của bất kỳ sự đe dọa hay hành động bạo lực nào, bao gồm việc
quấy rối, cấm đi lại, bắt, giam giữ, tra tấn, hành quyết tùy tiện,
trái pháp luật hay các chiến dịch truyền thông bôi nhọ [11].
- Nghĩa vụ thực thi: Luật nhân quyền quốc tế cũng ấn định nghĩa
vụ của các nhà nước phải thúc đẩy quyền tự do lập hội thông qua
việc tiến hành các biện pháp tích cực để thiết lập và duy trì môi
trường thuận lợi cho các hoạt động của các hội. Vì vậy, đòi hỏi
các quốc gia phải chủ động có các biện pháp hỗ trợ việc thành
lập các hội như cung cấp địa điểm mở văn phòng, tài trợ tài
chính trong giai đoạn đầu hoạt động. Tiến hành các hoạt động để
giúp đỡ người dân, đặc biệt là các nhóm xã hội yếu thế, được tiếp
cận quyền tự do lập hội. Các hội cần được hưởng, không kể
những quyền khác, quyền thể hiện chính kiến, truyền bá thông
tin, lôi kéo sự tham gia của công chúng, vận động của các chính
phủ và các cơ quan quốc tế về nhân quyền. Nghĩa vụ nêu trên
14
cũng đòi hỏi các nhà nước phải tạo điều kiện cho các hội tiếp cận
với các nguồn nhân lực cho hoạt động. Khả năng các hội có thể
tìm kiếm, tiếp cận và sử dụng các nguồn lực trong nước, ngoài
nước và quốc tế được xem là một phần quan trọng và không thể
tách rời của quyền tự do lập hội [12]. Trong đó, thuật ngữ “các
nguồn lực” dùng để chỉ các nguồn tài chính được chuyển giao,
các đóng góp phi tài chính, các nguồn lực vật chất, nguồn nhân
lực... [13]. Việc tiếp nhận nguồn tài chính trong và ngoài nước
của các hội không nên bị yêu cầu phải được nhà chức trách cấp
phép [14].
Mặt khác, bình đẳng là nguyên tắc cơ bản của mọi quyền con người
nên bên cạnh các nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ, thực thi quyền tự do lập hội, các
Nhà nước còn có nghĩa vụ đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể trong việc
tự do thành lập và hoạt động của hội. Luật nhân quyền quốc tế nghiêm cấm
phân biệt đối xử. Nguyên tắc quyền con người cần được áp dụng mà không có
bất kỳ sự kì thị nào là cốt lõi cho việc diễn giải các chuẩn mực quyền con
người. Điều này hàm ý rằng những quyết định về quyền tự do lập hội được
các nhà chức trách đưa ra không được tạo ra các hiệu ứng kỳ thị, phân biệt đối
xử - nói cách khác, phân biệt đối xử trực tiếp và gián tiếp trong việc thực hiện
quyền này phải bị nghiêm cấm. Mọi người cần được bình đẳng trong việc
hưởng thụ, thực hiện quyền tự do lập hội (thành lập, gia nhập, hoạt động…)
Đồng thời, các hội cũng cần phải đảm bảo sự bình đẳng với nhau.
Bên cạnh UDHR và ICCPR, một số hội đặc thù còn được bảo vệ bởi
các Điều ước quốc tế đa phương khác của LHQ. Chẳng hạn như quyền thành
lập và gia nhập các công đoàn, ngoài quy định tại Khoản 1 Điều 22 ICCPR
còn quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 8 ICESCR, theo đó, các quốc gia
thành viên Công ước cam kết bảo đảm: “Quyền của mọi người được thành
lập và gia nhập công đoàn do mình lựa chọn, theo quy chế của tổ chức đó, để
15
thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình. Việc thực hiện
quyền này chỉ bị những hạn chế quy định trong pháp pháp luật và là cần thiết
đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích của an ninh quốc gia và trật tự công
cộng, hoặc vì mục đích bảo vệ các quyền và tự do của những người khác”
Ngoài ra, vào năm 1990, LHQ cũng cho ra đời thêm một Công ước
trong lĩnh vực lao động, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động di trú.
Trong Công ước này, quyền công đoàn của người lao động di trú lao động
trên lãnh thổ của quốc gia thành viên cũng được đảm bảo giống như quyền
của người lao động trong nước. Với quy định tại Điều 7 về “bảo vệ không
phân biệt đối xử” giữa những người lao động có quốc tịch khác nhau, Công
ước năm 1990 của LHQ về bảo vệ người lao động di trú và thành viên gia
đình của họ đã buộc các quốc gia thành viên phải đảm bảo quyền tự do công
đoàn của người lao động nước ngoài như quyền của người lao động trong
nước. Nói cách khác, Công ước này cũng đã gián tiếp thừa nhận quyền tự do
công đoàn của tất cả mọi người lao động trên lãnh thổ của quốc gia thành
viên. Điều 26, Công ước nêu trên quy định: “Các quốc gia thành viên thừa
nhận quyền của người lao động di trú tham gia vào những cuộc họp và các
hoạt động của các công đoàn và các đoàn thể hợp pháp khác, nhằm để bảo vệ
quyền và lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội và các quyền khác, theo quy định của
các tổ chức nói trên”. Quyền này được cụ thể rõ ràng tại Điều 40 của cùng
Công ước: “Người lao động di trú có quyền, cùng với những người khác,
thành lập các hội và các công đoàn tại đất nước họ đang lao động nhằm thực
hiện và bảo vệ các lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội và các lợi ích khác của
họ”. Như vậy, theo quy định của các văn kiện quốc tế của LHQ, vì mục đích
đảm bảo cho lợi ích kinh tế, văn hoá, xã hội của mình, tất cả người lao động,
kể cả người lao động nước ngoài, đều có quyền thành lập và tham gia các
công đoàn theo sự lựa chọn của họ.
16
1.4. Giới hạn của quyền tự do lập hội
Theo cách hiểu phổ biến, sự hạn chế đối với một quyền con người nào
đó được hiểu là trong một số trường hợp các chủ thể hưởng thụ quyền không
được hưởng thụ quyền đó một cách tuyệt đối. Giới hạn quyền được ghi nhận
trong một số điều ước quốc tế về quyền con người, cho phép quốc gia thành
viên áp đặt một số điều kiện với việc thụ hưởng đa số quyền con người [15].
Về mặt ngữ nghĩa, có thể hiểu: “giới hạn” (danh từ) là “phạm vi, mức độ nhất
định, không thể hoặc không được phép vượt qua” hoặc (động từ) là “quy định
một giới hạn” [16]. Việc giới hạn quyền chính là hành vi can thiệp của nhà
nước vào khả năng thụ hưởng quyền trong trường hợp đáng lẽ nhà nước có
nghĩa vụ bị động. Những điều kiện đặt ra có hiệu lực trong mọi hoàn cảnh,
không nhất thiết chỉ trong bối cảnh khẩn cấp của quốc gia.
Quyền tự do lập hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thúc đẩy các
quyền con người khác cũng như đối với sự phát triển của các quốc gia. Mặc
dù vậy, quyền tự do lập hội không phải là một quyền tuyệt đối. Khoản 2 Điều
22 ICCPR xác định: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ trường
hợp do pháp luật quy định và những hạn chế này là cần thiết trong một xã hội
dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ
sức khoẻ của công chúng hoặc nhân cách, hoặc các quyền và tự do của
những người khác. Điều này không ngăn cản việc hạn chế hợp pháp đối với
những người trong các lực lượng vũ trang và cảnh sát”.
Rõ ràng, theo ICCPR các nhà nước có thể hạn chế hợp pháp quyền này
với những người thuộc lực lượng vũ trang và cảnh sát. Điều này là bởi lực
lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ đất nước trước ngoại xâm còn lực lượng
cảnh sát thì có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cộng đồng – cả hai nhiệm vụ quan
trọng này cần phải được bảo đảm trong mọi hoàn cảnh, vì thế những người
làm việc trong các lực lượng này không nên bị chi phối bởi các quan điểm về
chính trị do tham gia vào các hội.
17
Theo đó, cũng giống như nguyên tắc giới hạn các quyền con người việc
giới hạn quyền tự do lập hội phải dựa trên các cơ sở:
- Được quy định bởi luật: Chỉ có luật mới có thể giới hạn quyền tự do
lập hội. Các văn bản dưới luật không thể giới hạn quyền tự do lập
hội, mà chỉ có thể được ban hành để tổ chức, thực hiện các quyền do
Hiến pháp và luật quy định. Tuy nhiên, luật cũng không thể giới hạn
quyền một cách tùy tiện, mà phải đảm bảo yêu cầu cần thiết. Như
Tổ chức An ninh và hợp tác châu Âu (OSCE) đã nêu, từ ‘cần thiết”
không có nghĩa “tuyệt đối cần thiết” hay “không thể thiếu được”,
nhưng cũng không được linh hoạt đến mức “hữu ích” hay “tiện”;
thay vào đó, từ này có nghĩa là phải có một sức ép xã hội đối với
can thiệp. Khi một sức ép xã hội cần thiết nảy sinh, quốc gia phải
đảm bảo rằng bất kỳ biện pháp giới hạn nào cũng phải nằm trong
khuôn khổ chấp nhận được của một “xã hội dân chủ”. Mặt khác, tự
do lập hội là một quyền cá nhân luôn được thể hiện theo phương
thức tập thể. Những biểu hiện tập thể như vậy của các quan điểm cá
nhân có thể bị nhìn nhận là đặc biệt đe dọa đến các chính quyền
trong một số bối cảnh. Vì vậy, khi có hạn chế về quyền tự do lập
hội, những hạn chế đó cần được quy định rõ, bởi các hạn chế này có
thể ảnh hưởng đến một số lượng lớn người trong cùng một lúc.
- Chỉ bị giới hạn khi điều đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì
lợi ích an ninh quốc gia hoặc an toàn, trật tự công cộng; bảo vệ sức
khỏe và đạo đức xã hội; bảo vệ các quyền và tự do của người khác.
Việc áp dụng các biện pháp giới hạn đòi hỏi chỉ được thực hiện
trong những bối cảnh cụ thể phù hợp với mục đích của giới hạn.
Thậm chí, cả khi việc áp dụng các giới hạn đúng theo quy định của
luật nhưng không cần thiết, không tương xứng với các mục đích đã
đề ra thì việc áp dụng giới hạn đó cũng trái với các nguyên tắc luật
18
nhân quyền quốc tế. Tính tương xứng yêu cầu chính quyền không
thường xuyên áp đặt các hạn chế mà có thể dẫn đến thay đổi bản
chất của việc lập hội. Điều này liên quan mật thiết với cách hiểu và
giải thích về các mục đích của việc giới hạn.
Mặc dù có nhiều căn cứ hợp pháp nhưng trên thực tế quyền lập hội
thường bị hạn chế với lý do để bảo vệ trật tự công cộng hoặc các quyền và tự
do của người khác. Thế nhưng, các lý do về an ninh quốc gia, lợi ích - an toàn
- trật tự công cộng là khá mơ hồ và phải đặt trong những bối cảnh cụ thể để
cân nhắc chính xác yếu tố nào có thể bị vi phạm, ví dụ như lợi ích công cộng
là lợi ích nào, an ninh quốc gia bị xâm phạm từ khía cạnh nào…Chẳng hạn
như sẽ không thể coi là xâm phạm an ninh quốc gia nếu như việc lập hội liên
quan đến việc phản đối, vận động phản đối, vì lý do tôn giáo, niềm tin, hoặc
lương tâm đối với việc nhập ngũ hoặc phục vụ cho một phần của xung đột,
hay các nguy cơ sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Không
được viện dẫn lý do trật tự công cộng để ngăn cấm hoặc xóa bỏ tự do lập hội.
Hạn chế chỉ nên được áp đặt vì trật tự công cộng khi người thực hiện quyền tự
do lập hội kích động hành động phi pháp và có cơ sở hợp lý cho thấy hành
động như vậy có thể xảy ra. Bất kỳ sự hạn chế nào đối với quyền tự do lập hội
cũng không được làm suy yếu bản chất tự do của quyền
Bất kỳ sự giới hạn nào với tự do lập hội cũng phải đảm bảo tính tương
xứng. Những biện pháp can thiệp phải phù hợp, ít nhất là phương thức can
thiệp phải đạt được các mục tiêu mà pháp luật đề ra. Các cơ quan chức năng
cần hiểu là họ có thể sử dụng nhiều biện pháp hạn chế chứ không đơn thuần là
cấm. Bất cứ sự hạn chế nào cũng cần gắn kết chặt chẽ với những mối quan
ngại cụ thể và cần được thu hẹp để đạt được những mục tiêu cụ thể. Nguyên
tắc tương xứng yêu cầu chính quyền không thường xuyên áp đặt các hạn chế
mà có thể dẫn đến thay đổi bản chất của sự kiện. Một số vấn đề cần cân nhắc
khi quyết định nên hay không nên đưa ra một giới hạn cụ thể với quyền tự do
19
hội họp bao gồm: bản chất của quyền, tầm quan trọng và mục đích của giới
hạn, bản chất và phạm vi của giới hạn, mối quan hệ giữa biện pháp giới hạn
và mục tiêu của giới hạn đó, liệu có bất kỳ sự giới hạn nào nhẹ hơn có thể đáp
ứng các mục đích đề ra? Nguyên tắc này không trực tiếp cân bằng giữa quyền
với những lý do để can thiệp, mà thay vào đó là sự cân bằng giữa bản chất,
phạm vi của những can thiệp với những lý do của việc can thiệp. Ví dụ Điều 7
Luật của Azerbaijan về tự do lập hội (1998) “Những giới hạn với tự do lập
hội phải tương xứng với những mục tiêu dự kiến. Để đạt được mục tiêu thì
một sự giới hạn không được vượt quá giới hạn ngưỡng cần và đủ. Các biện
pháp hạn chế tự do lập hội phải là thực sự cần thiết để đạt được các mục tiêu
là nguyên nhân dẫn đến sự giới hạn”
Để tránh việc các quốc gia lạm dụng quy định về giới hạn quyền để hạn
chế, xâm phạm các quyền tự do dân chủ, bao gồm quyền tự do lập hội, LHQ
và các tổ chức nhân quyền đã thông qua một số văn bản để xác định rõ nội
hàm của các quy định này: chỉ có thể viện dẫn lý do an ninh quốc gia để giới
hạn một số quyền khi điều đó là cần thiết để bảo vệ sự tồn tại của quốc gia, sự
toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự độc lập chính trị của quốc gia trước việc sử dụng vũ
lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực từ bên ngoài (Đoạn 29 của các Nguyên tắc
Siracusa); hạn chế sự biện minh với lý do an ninh quốc gia nếu mục đích thực
chất hoặc hiệu quả có thể thấy được là để bảo vệ lợi ích không liên quan đến
an ninh quốc gia, ví dụ, để bảo vệ một chính phủ khỏi xấu hổi hay khỏi phô
bày những hành động sai lầm (Nguyên tắc 2 của các Nguyên tắc
Johannesburg)
Theo Ủy ban Nhân quyền LHQ thì: “Khi một quốc gia áp đặt các hạn
chế với quyền tự do lập hội, cần cân nhắc tới các mục đích, và cần tạo điều
kiện hơn là tìm cách áp đặt những hạn chế một cách không cần thiết hoặc
không tương xứng. Các quốc gia có nghĩa vụ biện minh cho việc quy định
những hạn chế với quyền được bảo vệ bởi Điều 21 của ICCPR” [17]. Những
20
nỗ lực chống khủng bố hoặc sự cực đoạn và nhằm tăng cường an ninh nói
chung không bao giờ được viện dẫn để biện minh cho những hành động tùy
tiện cắt bớt việc thụ hưởng các quyền con người và tự do cơ bản. Tuyên bố
Berlin năm 2004 của Ủy ban Luật gia quốc tế về tôn trọng nhân quyền và
pháp quyền trong đấu tranh chống khủng bố nêu rằng: “bản chất của hành vi
khủng bố không thể coi là một lý do để các nhà nước bác bỏ nghĩ vụ quốc tế
của mình, đặc biệt trong việc bảo hộ các quyền con người cơ bản”. Đồng
thời, việc phòng chống tội phạm, bao gồm cả phòng chống gian lận, biển thủ
công quỹ, rửa tiền và các tội phạm khác…là quyền hạn, nhiệm vụ của nhà
nước, nhưng không được xem là lý do hợp pháp để hạn chế quyền tự do lập
hội. Các hạn chế áp đặt với quyền này phải được quy định rõ bởi luật và phải
chứng minh được “sự cần thiết” trong một xã hội dân chủ, thể hiện ở việc sự
hạn chế đó có mức độ tương xứng đối với lợi ích cần bảo vệ và là cách thức
can thiệp tối thiểu để đạt được mục tiêu là bảo vệ lợi ích đó. Các nhà nước
không được đặt ra những hạn chế đặc biệt với quyền tự do lập hội trong giai
đoạn bầu cử, bởi đây là giai đoạn rất quan trọng trong đời sống chính trị của
các quốc gia, gắn liền với việc thực thi nguyên tắc dân chủ [18]
Quyền sống và quyền không bị tra tấn hay trừng phạt hoặc đối xử tàn
ác, vô nhân đạo hay hạ nhục cần được quốc gia đảm bảo cho tất cả các cá
nhân ở mọi hoàn cảnh và thời gian, bao gồm trong hoàn cảnh thực hiện quyền
tự do lập hội, như quy định ở Điều 7 ICCPR. Việc áp đặt các hạn chế về
quyền tự do lập hội cũng có khả năng xâm phạm về quyền tự do ngôn luận và
tự do tư tưởng, đạo đức và tôn giáo. Vì vậy, việc áp dụng bất cứ điều khoản
riêng lẻ nào cũng phải hòa hợp với logic tổng thể của công ước.
Sự can thiệp của nhà nước không nên được sử dụng thường xuyên.
Phạm vi của bất kỳ sự hạn chế nào cũng phải được xác định một cách chính
xác. Khi sự hạn chế được áp dụng thì phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc
tương xứng và phải luôn đặt mục tiêu bảo đảm quyền tự do lập hội. Cấm đoán
21
chỉ được xem là biện pháp cuối cùng và chỉ áp dụng khi các hạn chế nhẹ hơn
không đem lại hiệu quả bảo đảm những lợi ích liên quan. Hơn nữa, nghĩa vụ
của nhà nước là cung cấp các nguồn lực bảo vệ quyền tự do lập hội nên việc
cấm đoán sẽ thể hiện sự thất bại của nhà nước trong việc thực hiện nghĩa vụ
đó. Trong cuốn “Nền dân trị Mỹ” Alexis de tocqueville cũng đã lập luận về
điều này khi cho rằng: “Khi các công dân chỉ có thể được kết hội trong một số
trường hợp, họ sẽ nhìn hiệp hội như một vật hiếm và đặc biệt, và họ không
buồn nghĩ đến những thứ hội hè ấy nữa...Khi có sự phân biệt, hiệp hội này thì
bị cấm đoán, hiệp hội kia thì được cho phép, thì thật khó mà biết đâu là cái
được phép và đâu là cái bị cấm. Khi người ta đang hồ nghi, người ta chẳng
làm bất cứ thứ gì nữa, và sẽ hình thành một quan niệm chung coi một hiệp hội
nào đó như một công cuộc liều lĩnh và hầu như bất chính…Khi các công dân
có được khả năng và thói quen kết hội để làm mọi điều, họ sẽ tự nguyện kết
hội cả vì việc lớn cũng như việc nhỏ. Thế nhưng, nếu họ không có quyền kết
hội chỉ vì những việc nhỏ, họ sẽ không còn cả thèm muốn lẫn khả năng kết
hội nói chung. Rồi sau đó nếu có cho họ hoàn toàn tự do cùng chăm lo việc
thương thuyết (lập hội) thì cũng vô ích thôi: họ sẽ chỉ sử dụng một cách uể oải
những quyền được trao; và sau khi các bạn đã kiệt sức ngăn họ tham gia vào
các hiệp hội bị cấm đoán, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy chẳng thế nào xui được
họ đứng ra lập những hội được phép lập nữa…Một quốc gia có thể đặt những
cột mốc nhất định giới hạn ở đó mà vẫn không ngừng tự làm chủ được mình.
Đôi khi quốc gia đó phải làm như vậy để tiếp tục được là một quốc gia [19].
22
CHƯƠNG II: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG PHÁP LUẬT MỘT
SỐ QUỐC GIA
Tự do lập hội là quyền con người cơ bản, được ghi nhận trong Hiến
pháp hầu hết các quốc gia. Đồng thời, để bảo đảm tự do lập hội, nhiều quốc
gia còn ban hành một đạo luật riêng, tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của luật
về hội ở các quốc gia rộng hẹp khác nhau.
Quyền tự do lập hội từ lâu đã được ghi nhận như một quyền tự do chính
trị cơ bản tại Trung Quốc. Bản Hiến pháp hiện hành (ban hành năm 1982,
được sửa đổi, bổ sung vào năm 1988, 1993, 1999 và 2004), tại Điều 35 quy
định: “Công dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền tự do ngôn
luận, xuất bản, lập hội, tham gia tổ chức đoàn thể, đi lại, biểu tình” [20].
Ngoài Hiến pháp, ở Trung Quốc chưa có một đạo luật cụ thể quy định về
quyền tự do lập hội. Các quy định trực tiếp liên quan đến hội được điều chỉnh
bởi các Quyết định của Quốc vụ viện, gồm: Quyết định số 250 điều chỉnh
việc đăng ký và quản lý các tổ chức xã hội, Quyết định số 251 điều chỉnh tạm
thời về đăng ký và quản lý các doanh nghiệp phi chính phủ, phi thương mại.
Điều 21 Hiến pháp Hàn Quốc năm 1987 quy định: “(1) Mọi công dân
được hưởng các quyền tự do ngôn luận và báo chí, tự do hội họp và lập hội.
(2) Không cấp phép hoặc kiểm duyệt ngôn luận và báo chí, cũng như việc hội
họp và lập hội” [21].
Điều 18 Hiến pháp Nam Phi 1996 quy định về tự do lập hội: “Mọi
người đều có quyền tự do lập hội” [22].
Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, ở Nga không có quyền lập hội
hay Luật về Hội mà gọi là luật về hiệp hội xã hội và quyền tự do hiệp hội. Tại
Điều 30 Hiến pháp Nga quy định: “1) Mỗi người đều có quyền hiệp hội, bao
gồm quyền thành lập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình. Sự tự do
hoạt động của các hiệp hội xã hội được đảm bảo. 2) Không ai có thể bị ép
23
buộc gia nhập hoặc tham dựu vào bất kỳ một hiệp hội nào”. Ngoài Hiến pháp
là luật cơ bản và hiệu lực cao nhất, Liên bang Nga còn có một số đạo luật cụ
thể hóa quyền tự do lập hội của người dân cũng như đảm bảo pháp lý của Nhà
nước để thực hiện quyền tự do hiệp hội, quy chế pháp lý của các hiệp hội xã
hội. Ví dụ như: Đạo luật Liên bang số 82-FZ “Về các hiệp hội xã hội” ban
hành ngày 19/5/1995, được sửa đối, bổ sung 11 lần, lần gần nhất là ngày
30/1/2016), Luật Liên bang “Về các tổ chức phi lợi nhuận” năm 1996…
Luật về hội của Pháp năm 1901 và Hungary năm 1989 điều chỉnh hoạt
động của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, các tổ chức công
đoàn và đảng phái chính trị. Trong khi đó, luật về hội của một số quốc gia
khác lại chỉ điều chỉnh hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi
lợi nhuận, các quỹ, còn các tổ chức công đoàn và các đảng chính trị được điều
chỉnh bằng các luật về đảng phái chính trị, luật doanh nghiệp, luật công
ty…bởi các hội thành lập thường có hình thức rất đa dạng. Ví dụ, một số
nước như Thái Lan, Hà Lan, Italia… coi thành lập hội như một chủ thể của
đời sống dân sự, vì vậy quyền lập hội nằm trong Luật dân sự hoặc Luật
thương mại. Ví dụ, Điều 1274 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan đưa ra
định nghĩa: “Hợp đồng thành lập hội liên hiệp là một hợp đồng mà qua đó
nhiều người thỏa thuận hợp nhau lại để cùng tiến hành một hoạt động chung
ngoài mục đích chia lời”. Tuy nhiên, quan điểm này hẹp hơn quan điểm của
LHQ bởi LHQ cho rằng quyền tự do lập hội không chỉ là quyền dân sự mà
còn là quyền chính trị.
Việc thành lập hội mới được quy định khác nhau trong pháp luật các
quốc gia. Dù Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về tự do hội họp hòa bình và
hiệp hội cũng đã nhấn mạnh rằng không nên yêu cầu sự đồng ý/ chấp thuận
của nhà nước đối với việc hội họp [23]. Nhưng nhiều quốc gia có văn hóa xin
phép thì khi thực hiện quyền tự do lập hội, công dân phải xin phép trước với
cơ quan công quyền. Luật biểu tình được thông qua gần đây bằng trưng cầu
24
dân ý ở tỉnh Geneva, Thụy Sỹ, quy định mức phạt đến 100.000 Franc Thụy
Sỹ đối với bất kỳ ai không xin phép biểu tình, hoặc không tôn trọng nội dung
cấp phép[24]. Tương tự, trong khu vực ASEAN, Luật Hội họp và tuần hành
hòa bình của Myanmar (2011, sửa đổi 2014) bị phê phán khi quy định nhiều
căn cứ mơ hồ, thiếu rõ ràng (như “gây tổn hại cho các tôn giáo, nhân phẩm,
các nguyên tắc đạo đức“...) có thể được các cơ quan công quyền nại ra để giải
tán một cuộc tuần hành. Đồng thời, đòi hỏi phải “xin phép” 5 ngày trước khi
tổ chức tuần hành hoặc biểu tình.
Những quy định như vậy là đi ngược với quan điểm của LHQ. Trong
báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về tự do hội họp hòa bình và hiệp
hội, năm 2012 (A/HRC/20/70)(21/5/2012) đã khẳng định không cần sự phê
duyệt trước bởi cơ quan chức năng khi thực hiện quyền tự do lập hội, cùng
lắm là có thủ tục thông báo trước với lý do là để cơ quan nhà nước hỗ trợ cho
việc thực thi quyền tự do lập hội và có những biện pháp bảo vệ an toàn, trật tự
và quyền của người khác. Thủ tục thông báo này phải được áp dụng quy trình
đánh giá tương xứng, không phải là một quá trình đánh giá quan liêu phi lý.
Đồng thời, việc thông báo trước, chỉ nên yêu cầu đối với những cuộc họp lớn,
hoặc những cuộc họp có thể gây ra gián đoạn giao thông.
Về tư cách pháp nhân của hội, luật pháp của nhiều quốc gia thừa nhận
loại hình hội không có tư cách pháp nhân. Ví dụ, Điều 2 Luật về Hội của
Pháp năm 1901 quy định: “Các hội được thành lập một cách tự do không cần
giấy phép hoặc khai báo trước, nhưng chỉ có năng lực pháp lý khi được những
người sáng lập công bố sự thành lập theo các quy định của Điều 5” [25]. Như
vậy, theo quy định Luật về Hội của Pháp, có hai dạng hội tồn tại: hội không
khai báo và hội khai báo. Việc khai báo là điều kiện để hội có được tư cách
pháp nhân. Pháp luật về hội của Nhật Bản cũng thừa nhận sự tồn tại của loại
hội không có tư cách pháp nhân (các hội có mục đích hoạt động không mang
tính phổ thông). Việc thành lập, sửa đổi và giải thể của hội dạng này không
25
đòi hỏi bất kỳ một thủ tục hành chính nào. Các thành viên có thể tổ chức hội
theo cách những người này muốn. Theo pháp luật Nhật Bản, Pháp…hoạt
động của một hội không có tư cách pháp nhân hoàn toàn hợp pháp, nhưng bị
hạn chế về quyền vì thiếu tư cách pháp nhân. Nghĩa là các hội dạng này
không thể tham gia tố tụng dân sự, giao kết hợp đồng, nhận các khoản tặng
cho, tài trợ cũng như sở hữu tài sản riêng. Tuy nhiên, hội không có tư cách
pháp nhân có thể thu lệ phí của hội viên để hoạt động. Nếu sử dụng loại hình
hội không đăng ký, pháp luật nhiều nước gọi loại hội này là “hội tồn tại trên
thực tế”- de facto, bản thân các thành viên của hội phải gánh chịu các rủi ro
pháp lý khiến họ phải suy nghĩ thấu đáo, nên dần sẽ chọn phương thức đăng
ký để hội có được tư cách pháp nhân.
Tuy nhiên hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia đôi khi làm cho quyền tự
do lập hội không được áp dụng. Trong hoàn cảnh xung đột vũ trang, quyền tự
do lập hội dù chỉ để đáp ứng nhu cầu khẩn cấp hoặc để kêu gọi chấm dứt bạo
lực có thể bị từ chối triệt để. Trong nhiều trường hợp, pháp luật một số quốc
gia còn liệt kê thêm những lý do hạn chế quyền không rõ ràng ngoài các lý do
được quy định trong luật nhân quyền quốc tế.
Vì vậy, từ quy định về hội của các quốc gia trên thế giới có thể rút ra
một số kinh nghiệm sau:
- Quyền tự do lập hội là quyền đương nhiên của con người mà nhà
nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và thực thi.
- Thủ tục đăng ký thành lập hội cần rõ ràng, đơn giản. Cơ chế quản lý
“xin – cho” với hệ quả “cho phép” thành lập hội như một sự ban ơn
cần được xóa bỏ để thay vào đó là cách tư suy tôn trọng quyền con
người
- Hội không nhất thiết phải có tư cách pháp nhân vì “có pháp nhân
hay không có pháp nhân thì quyền lập hội vẫn là quyền con người,
26
quyền của cá nhân con người, quyền đương nhiên và khách quan,
cần được bảo vệ bằng pháp luật” [26]
27
CHƯƠNG III: QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI TRONG HIẾN PHÁP 2013
VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
3.1. Quan điểm về quyền tự do lập hội ở Việt Nam
Lập hội là việc các cá nhân liên kết, tập hợp lại với nhau thành nhóm để
hướng đến những lợi ích, mục đích hay sự quan tâm chung. Giống như các
quốc gia khác, ở Việt Nam, các hội đã được hình thành từ rất lâu trong lịch
sử. Minh chứng rõ nhất là ở các làng – đơn vị dân cư nền tảng của người Việt
từ trước đến nay. Tuy lấy gia đình làm cơ sở, song làng là một phức hợp của
nhiều tổ chức xã hội mà trước hết là dòng họ. Bên cạnh đó ở nhiều làng Việt
Nam còn có phường hội là tổ chức phường hội là tổ chức nghề nghiệp của
những người làm nghề thủ công và buôn bán. Trong quá trình đấu tranh giành
độc lập dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam (Đảng Cộng sản Đông Dương)
cũng đề cao các quyền lập hội và hội họp. Nhiều văn kiện do Đảng ban hành
trong thời kỳ này đã nêu rõ những đòi hỏi về quyền lập hội, cụ thể như: đấu
tranh để “dân chúng được tự do tổ chức” [27]. Trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng nhà nước pháp quyền, nhận
thức rõ tính tất yếu khách quan của việc hình thành các hội, Đảng ta đã đề ra
quan điểm chỉ đạo nhất quán: “Hội lập ra phải xuất phát từ nhu cầu chính
đáng của quần chúng nhân dân, theo đúng quy định của pháp luật; không nhất
thiết phải tổ chức thành hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Hoạt động của hội
theo nguyên tắc chung là: tự nguyện, tự quản, tự trang trải về kinh phí, tuân
thủ pháp luật và điều lệ hội. Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho hội căn cứ vào hoạt
động và việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể do Đảng, Nhà nước giao” [28]. Mặt
khác, một trong những nhiệm vụ cơ bản của Hiến pháp chính là ghi nhận và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Do tính chất tối cao của Hiến pháp
những bảo đảm trong Hiến pháp luôn được coi là những bảo đảm có hiệu lực
cao nhất. Vì vậy, quan điểm trên sau đó đã được phản ánh trong Hiến pháp
đầu tiên năm 1946, và tái khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp tiếp theo
năm 1959, 1980, 1992 và 2013.
28
3.2. Quyền tự do lập hội là quyền hiến định
Việt Nam đã sớm là thành viên của LHQ, gia nhập Công ước ICCPR
và với việc ban hành Hiến pháp 2013, lần đầu tiên khẳng định trong Hiến
pháp rằng Việt Nam “tuân thủ Hiến chương LHQ và điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” (Điều 12 Hiến pháp
2013)
Tại Điều 25 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này do pháp luật quy định”
Như vậy, mọi công dân đều có quyền lập hội theo pháp luật. Quy định
tại Điều 25 Hiến pháp 2013 là bảo đảm quan trọng nhất về mặt pháp lý cho
việc thực hiện quyền lập hội của người dân. Tuy nhiên, khi quy định “Việc
thực hiên các quyền này do pháp luật quy định” vô hình chung biến quyền lập
hội cũng như những quyền còn lại (quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp
cận thông tin, hội họp, biểu tình) trở thành những quyền chỉ tồn tại trên giấy
nếu không ban hành luật chuyên ngành điều chỉnh từng lĩnh vực một. Điều
này cho thấy mâu thuẫn khi mà Hiến pháp luôn được coi là văn bản pháp luật
có giá trị pháp lý cao nhất nhưng những quyền hiến định lại được thực hiện
theo quy định của những văn bản pháp luật khác có giá trị pháp lý hơn.
Bên cạnh quy định trong Hiến pháp, nhà nước Việt Nam cũng từng ban
hành một đạo luật riêng có tên gọi là “Luật quy định quyền lập hội” (theo Sắc
lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957 của Chủ tịch Hồ Chí Minh), tuy nhiên
các quy định của luật này chủ yếu là các quy định mang tính chất nguyên tắc,
lại chưa bổ sung, sửa đổi lần nào nên không còn phù hợp với yêu cầu các hội
đa dạng đang nảy nở ở Việt Nam.
Hiện nay, văn bản trực tiếp điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của
các hội là Nghị định số 45/2010/NĐ-CP Quy định về tổ chức, hoạt động và
29
quản lý hội (thay thế cho Nghị định số 88/2003/NĐ-CP). Nghị định này được
sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày
13/4/2012 của Chính phủ. Điều 2 Nghị định số: 45/2010/NĐ-CP Quy định về
tổ chức, hoạt động và quản lý hội quy định: “1. Hội được quy định trong Nghị
định này được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam
cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn
kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu
quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức
và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan. 2. Hội có các tên gọi khác nhau: hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên
đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy
định của pháp luật (sau đây gọi chung là hội)”.Rõ ràng theo cả Hiến pháp
năm 2013 và các Nghị định hướng dẫn thi hành, chủ thể của quyền tự do lập
hội chỉ là công dân và hội bắt buộc phải có tư cách pháp nhân.
Ngoài Hiến pháp và các văn bản pháp luật trên, quyền tự do lập hội ở
Việt Nam còn được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật sau:
- Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015
- Luật Công đoàn năm 2012
- Thông tư số 03/2013/TT-BNV ngày 16/4/2013 quy định chi tiết thi
hành Nghị định số 45/2010/NĐ-CP
- Thông tư số 03/2014/TT-BNV ngày 19/6/2014 sửa đổi Thông tư số
03/2013/TT-BNV
- Nghị định số 30/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 về tổ chức, hoạt động
của quỹ xã hội, quỹ từ thiện
30
- Thông tư số 02/2013/TT-BNV ngày 10/4/2013 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 30/2012/NĐ-CP
- Nghị định số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2018 quy định điều kiện, thủ
tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội
- Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/1/2014 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khoa học và công nghệ
- Thông tư số 03/2014/TT-BKHCN ngày 31/3/2014 hướng dẫn điều kiện
thành lập và đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ,
văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức khoa học và công nghệ
- Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg ngày 01/11/2010 của Thủ tướng Chính
phủ quy định về hội có tính chất đặc thù
- Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 về bảo đảm, hỗ trợ
kinh phí từ ngân sách Nhà nước đối với các hội có tính chất đặc thù
- Nghị định số 12/2012/NĐ-CP ngày 1/3/2012 về đăng ký và quản lý
hoạt độn của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam
- Thông tư số 05/2012/TT-BNG ngày 12/11/2012 hướng dẫn thi hành
Nghị định số 12/2012/NĐ-CP
Tuy nhiên, các văn bản này chỉ điều chỉnh một số hội đặc thù, chưa
thực sự bao quát những chế định về hội và quyền tự do lập hội nói chung. Dù
số lượng văn bản không hề nhỏ nhưng chưa quy định rõ ràng, phù hợp, lại có
nhiều quy định chồng chéo, gây khó khăn khi áp dụng. Chẳng hạn như quy
định về đầu mối quản lý thống nhất các hội; cơ chế đánh giá, giám sát trách
nhiệm giải trình và tính công khai, minh bạch của các hội; chính sách khuyến
khích và ưu đãi thuế dành cho các hội hoạt động phi lợi nhuận, vì lợi ích công
cộng; cơ chế đối thoại và hợp tác giữa các hội với nhà nước và khu vực tư
nhân…
31
3.3. Chủ thể của quyền tự do lập hội
Theo cách hiểu phổ thông nhất thì công dân là khái niệm dùng để chỉ
một người thuộc về một nhà nước nhất định mà người đó mang quốc tịch.
Việc quy định chủ thể quyền là công dân Việt Nam thì quyền tự do lập hội
của người nước ngoài sinh sống và làm việc hợp pháp ở Việt Nam không
được tôn trọng và bảo vệ khi họ có nguyện vọng chính đáng như tham gia các
tổ chức tình nguyện được thành lập tại Việt Nam hay những hội, nhóm được
thành lập với mục đích chính đáng của người nước ngoài tại Việt Nam. Đồng
thời, quan điểm chủ thể của quyền tự do lập hội chỉ là công dân hẹp hơn quan
niệm chung của luật nhân quyền quốc tế, Hiến pháp của đa số nước trên thế
giới và xu thế trên thế giới. Ví dụ, tại Đức, mặc dù Hiến pháp không quy định
nhưng người nước ngoài có thể thực hiện quyền tự do lập hội của mình trên
cơ sở viện dẫn điều khoản về tự do lập hội của mọi cá nhân trong luật nhân
quyền quốc tế. Tuy nhiên, nhận thấy vai trò quan trọng của các doanh nghiệp
nước ngoài đối với nền kinh tế, hỗ trợ kỹ thuật và tài chính với các công ty
trong nước nên trong Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ chính
trị cho phép “thí điểm việc kết nạp hội viên chính thức của hiệp hội đối với
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”
3.4. Tư cách pháp nhân của hội
Về vấn đề tư cách pháp nhân của hội cần được nhìn nhận dưới góc độ
luật dân sự. Bản chất của quy chế pháp nhân của một chủ thể pháp luật thể
hiện ở tính chất độc lập về tài sản và độc lập về tư cách pháp lý khi tham gia
các giao dịch dân sự. Theo đó, quan trọng nhất là, “pháp nhân có một khối tài
sản riêng, độc lập với các khối tài sản của các thành viên tạo ra nó” [29]. Như
vậy, hội không khai báo sẽ không có tư cách pháp nhân, mất đi tư cách một
chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật.
32
Khác với quan niệm chung của thế giới mà trong đó hội có thể tồn tại
dưới nhiều dạng, có thể có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp
nhân, theo pháp luật Việt Nam, một nhóm gồm các cá nhân hoặc tổ chức tự
nguyện chỉ có thể được pháp luật cho phép hoạt động khi có tư cách pháp
nhân. Quy định có này có thể làm cản trở quyền lập hội của các cá nhân, khi
chưa được công nhận hoặc không đủ điều kiện để được công nhận có tư cách
pháp nhân. Ở một phương diện khác, khi mà thực tiễn ở Việt Nam hiện nay,
quyền tự do lập hội vẫn được công dân sử dụng mà không cần tới tư cách
pháp nhân. Các hội đồng hương, hội cựu học sinh, hội khuyến học…là những
tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của một số cá nhân. Những tổ
chức này hoạt động bình thường mà không cần tới tư cách pháp nhân bởi
thành viên của các hội này cũng không cảm thấy cần phải có tư cách pháp
nhân của hội để thực hiện các giao dịch dân sự. Do đó, quan niệm về hội hoạt
động phải có tư cách pháp nhân cần được xem xét lại.
3.5. Hình thức của hội
Tiếp cận theo tiêu chí phi lợi nhuận, có thể xác định 7 hình thức tổ
chức hội ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: Hội; Hội có tính chất đặc thù; Quỹ
xã hội, quỹ từ thiện; Cơ sở bảo trợ xã hội; Tổ chức Khoa học và Công nghệ;
Tổ chức chính trị - xã hội; Tổ chức phi chính phủ quốc tế [30].
Còn theo Irene Norlund dựa vào cách phân loại của các cơ quan Nhà
nước, các hội hiện nay ở Việt Nam được xếp vào 4 nhóm lớn: Các tổ chức
quần chúng, Các hội nghề nghiệp và các các tổ chức bảo trợ, Các NGO Việt
Nam, Các tổ chức tại cộng đồng [31].
3.6. Giới hạn của quyền tự do lập hội
Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tại Hiến pháp 2013, lần đầu tiên vấn
đề hạn chế quyền được hiến định thành nguyên tắc, những quy định này được
đánh giá là một điểm sáng của Hiến pháp 2013. Cụ thể tại Khoản 2 Điều 14
33
quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Đây là
nguyên tắc đã được nêu trong luật nhân quyền quốc tế và Hiến pháp của một
số quốc gia. Hạn chế việc thực hiện quyền rất quan trọng bởi nó đảm bảo sự
cân bằng giữa các lợi ích trong mối quan hệ giữa nhà nước – con người, công
dân, cá nhân. Về cơ bản, quy định tại Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 tương
thích với quy định của pháp luật quốc tế và các bản Hiến pháp tiến bộ trên thế
giới về nguyên tắc hạn chế quyền, bảo đảm việc hạn chế quyền chỉ được đặt
ra khi có lý do khách quan, hợp pháp và hợp lý. Như vậy, nguyên tắc hạn chế
quyền góp phần bổ sung cho hệ thống cơ chế bảo vệ quyền con người tại Việt
Nam
Tuy nhiên, mặc dù Hiến pháp quy định trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng quyền tự do lập hội có thể bị hạn chế nhưng cách hiểu
thế nào là “cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” thì các lý do này lạ khá mơ hồ
và phải đặt trong những bối cảnh cụ thể để cân nhắc chính xác yếu tố nào có
thể bị vi phạm nên tại Việt Nam lý do này đang bị các cơ quan nhà nước lạm
dụng để thuận tiện cho việc quản lý của mình chứ không nhìn nhận dưới góc
độ bảo đảm quyền. Việc nhìn nhận quyền tự do lập hội như một nguy cơ đối
với trật tự công cộng, thậm chí an ninh quốc gia để từ đó đặt ra trách nhiệm
quản lý của các cơ quan nhà nước vừa mang tính bất khả thi đối với khả năng
của nhà nước, vừa khiến cho những xu hướng xã hội bị kìm nén dẫn đến nảy
sinh và tích tụ những mâu thuẫn không đáng có. Rõ ràng, tính “cần thiết” tạo
ra khoảng không lớn cho các cơ quan chức năng khi tiến hành hoạt động
trong phạm vi thẩm quyền của mình nên có thể hạn chế quyền tự do lập hội
của người dân. Điều này là đi ngược lại quan điểm chung củapháp luật quốc
34
tế khi mà bất kỳ sự hạn chế nào đối với quyền tự do lập hội cũng không được
làm suy yếu bản chất tự do của quyền.
Dù đã quan tâm tới vấn đề giới hạn quyền nói chung và quyền tự do lập
hội nói riêng nhưng nguyên tắc hạn chế quyền trong Hiến pháp 2013 còn
thiếu vắng một số yếu tố khá quan trọng so với các nguyên tắc giới hạn quyền
lập hội trong pháp luật nhân quyền quốc tế:
- Chưa quy định hạn chế quyền khi “cần thiết trong một xã hội dân
chủ”như Khoản 2 Điều 22 ICCPR mà chỉ dừng lại ở “trong trường hợp
cần thiết”. “Cần thiết trong một xã hội dân chủ” là đòi hỏi cao hơn, rõ
ràng hơn so với “trong trường hợp cần thiết”, bởi chỉ có thể hạn chế
quyền khi đó là một đòi hỏi xã hội cần thiết và đảm bảo sự cân xứng
giữa hạn chế và mục đích của nó.
- Chưa quy định việc hạn chế quyền không được làm mất đi bản chất của
quyền con người, quyền công dân (theo như quy định của pháp luật
quốc tế). Thiếu nội dung này có thể dẫn đến hạn chế quá mức quyền
con người, quyền công dân.
- Chưa quy định về tạm đình chỉ quyền con người, quyền công dân trong
trường hợp tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Từ đó, chưa tạo ra các ngoại
lệ cho việc tạm đình chỉ thực hiện quyền.
- Chưa quy định rõ hạn chế quyền cần đồng thời đáp ứng toàn bộ hay chỉ
cần một trong số lý do hạn chế.
Bên cạnh đó, Khoản 4 Điều 15 Hiến pháp 2013 quy định: “Việc thực
hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc
gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều thắc mắc liên quan tới lợi ích quốc gia và dân tộc nên được hiểu như thế
nào cho chính xác? Việc sử dụng dấu phẩy giữa hai từ này cho thấy nhà làm
35
luật hiểu lợi ích quốc gia không bao hàm lợi ích dân tộc. Tuy nhiên, “dân tộc”
ở đây hiểu như thế nào? Liệu có hàm ý dân tộc thiểu số hay không? [32] thì
hiện nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn. Do đó, gây khó khăn trong việc
thực hiện quyền con người nói chung và quyền tự do lập hội nói riêng của chủ
thể quyền.
3.7. Nghĩa vụ của Nhà nước trong bảo đảm quyền tự do lập hội
Hiến pháp cũng quy định nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo đảm
quyền con người nói chung và quyền lập hội nói riêng. Nếu Hiến pháp 1992
mới đề cập đến nghĩa vụ tôn trọng quyền con người ở Điều 50 thì khắc phục
những hạn chế đó, Hiến pháp 2013 ghi nhận cả ba nghĩa vụ của Nhà nước
theo tinh thần chung của luật nhân quyền quốc tế về nghĩa vụ của quốc gia.
Cụ thể tại Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật”.
3.7.1. Nghĩa vụ tôn trọng
Hàm ý của “tự do lập hội” có nghĩa là nhà nước không can thiệp vào
công việc nội bộ của hội và đảm bảo quyền riêng tư của hội. Nhưng quyền tự
do lập hội ở Việt Nam mới được nhìn ở góc độ quản lý hơn là nhận thức về
quyền con người. Do đó, nhà nước quản lý hội ngay từ khi hội được thành
lập, điều lệ hội phải được phê duyệt. Đối với hoạt động nội bộ của hội, theo
quy định tại Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, các hoạt động nội bộ của hội như
tổ chức đại hội nhiệm kỳ/đại hội bất thường, đổi tên hội; hợp nhất, sáp nhâp,
chia tách hội; giải thể hội; thành lập văn phòng đại diện đều phải xin phép từ
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Công tác thanh tra, kiểm tra tiến hành
thường xuyên để đưa các hội hoạt động vào nề nếp đúng hướng theo quy định
pháp luật. Hằng năm, các hội đều thực hiện báo cáo về tổ chức và hoạt động
của hội để cơ quan nhà nước thu thập thông tin về hoạt động của hội. Hoạt
36
động của hội luôn đứng trước nguy cơ bị cơ quan nhà nước yêu cầu giải tán
với các lý do mất trật tự công cộng, gây ảnh hưởng đến sinh hoạt của cộng
đồng. Điều này vô hình chung khiến nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động
của hội.
Thực tiễn ở Việt Nam còn có một số hội được thành lập do sự chỉ đạo
có tính chất áp đặt của hội cấp trên, không thực sự xuất phát từ nhu cầu, ý
nguyện của của nhân dân, hoạt động còn hình thức, chỉ có ban chấp hành,
không tập hợp, thu hút được quần chúng, hội viên. Có hội ở cấp Trung ương
yêu cầu các tỉnh thành phố lập hội theo hệ thống dọc từ Trung ương đến cấp
cơ sở hoặc tự xem là cơ quan lãnh đạo cấp trên chỉ đạo hoạt động của các hội
cấp dưới, trái với tinh thần “Hội không nhất thiết phải tổ chức thành hệ thống
từ Trung ương đến cơ sở” của Chỉ thị số 42-CT/TW và Nghị định cố
45/2010/NĐ-CP, đồng thời đi ngược với tinh thần chung của thế giới khi nhà
nước có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do lập hội của người dân.
3.7.2. Nghĩa vụ bảo vệ
Đây là một nghĩa vụ chủ động, bởi để ngăn chặn sự vi phạm quyền con
người của các bên thứ ba. nhà nước phải chủ động đưa ra những biện pháp và
xây dựng cơ chế phòng ngừa, xử lý những hành vi vi phạm. Để tất cả mọi
người tự nguyện tham gia các hội, không lo sợ bất kỳ điều gì khi thực hiện
quyền tự do lập hội của mình, nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp
luật để xử lý những hành vi cản trở thành lập và hoạt động của hội.
Việt Nam tôn trọng và thực hiện theo các nguyên tắc chung của pháp
luật quốc tế, theo đó Việt Nam cũng cần ưu tiên áp dụng các điều ước Việt
Nam đã ký kết hoặc tham gia trong trường hợp pháp luật quốc gia xung đột
với pháp luật quốc tế. Như vậy, quyền tự do lập hội có thể bảo đảm bằng cách
áp dụng trực tiếp các quy định của điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam
đã tham gia. Tuy nhiên, việc áp dụng trực tiếp các quy định này đòi hỏi kiến
thức pháp luật phải chắc chắn, đặc biệt là về luật điều ước quốc tế của cả cơ
37
quan nhà nước lẫn các hội. Ngoài ra, trong bối cảnh chính trị - xã hội ở Việt
Nam, khi mà vẫn còn quan điểm bảo thủ về một số vấn đề nhân quyền như tự
do lập hội, khả năng áp dụng cơ chế này là rất thấp. Trên thực tế chưa có vụ
việc nào được áp dụng theo phương thức này.
Trong trường hợp quyền tự do lập hội bị hạn chế, tước bỏ một cách tùy
tiện, công dân Việt Nam cũng không thể áp dụng các cơ chế bảo vệ quyền
con người của LHQ, bởi Việt Nam chưa tham gia Nghị định thư bổ sung thứ
nhất của ICCPR cho phép người dân tại các nước thành viên nộp đơn tố cáo
vi phạm quyền đến Ủy ban công ước. Việc khiếu nại theo cơ chế bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người trong khu vực ASEAN cũng không khả thi khi mà
Ủy ban liên chính phủ ASEAN về quyền con người (AICHR) chỉ là một cơ
quan tư vấn chứ không có thẩm quyền nhận các khiếu nại của các cá nhân là
nạn nhân của vi phạm nhân quyền trong khu vực. Theo quy định hiện hành,
công dân Việt Nam có thể bảo vệ quyền tự do lập hội thông qua cơ chế khiếu
nại theo thủ tục hành chính. Tuy nhiên, một số vụ việc khiếu nại về quyền lập
hội của người dân chưa được cơ quan hành chính giải quyết thấy đáo, cũng
chưa có một vụ việc liên quan đến quyền này được Tòa án thụ lý. Như vậy,
nghĩa vụ bảo vệ của Nhà nước chưa được thực hiện trọn vẹn.
3.7.3. Nghĩa vụ thực thi
Đây cũng được coi là nghĩa vụ chủ động, bởi nó yêu cầu các nhà nước
phải có những kế hoạch, chương trình cụ thể để bảo đảm cho mọi công dân có
thể hưởng thụ đến mức cao nhất có thể quyền của mình. Nhà nước Việt Nam
đã thúc đẩy quyền tự do lập hội thông qua việc tiến hành các biện pháp tích
cực để thiết lập và duy trì môi trường thuận lợi cho các hoạt động của các hội.
Các bộ, ngành đã quan tâm, tạo điều kiện cho hội ra đời và hoạt động
đúng hướng, giao cho hội thực hiện công tác tư vấn, phản biện và giám sát xã
hội, cung ứng dịch vụ công. Một số Bộ, ngành đã tích cự hỗ trợ hội hoạt
động, tạo điều kiện thông tin cho hội về chiến lược phát triển ngành tạo điều
38
kiện để tham gia; mạnh dạn giao đề tài nghiên cứu khoa học cho hội như Bộ
Khoa học và Công nghệ hằng năm giao cho Liên hiệp các Hội Khoa học và
Kỹ thuật nhiều đề tài, tổng trị giá trên 20 tỷ đồng/năm [33].
Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế trong quản lý đối với hội như: thủ
tục thành lập hội còn khá phức tạp, một số tiêu chí xét duyệt đơn đăng ký của
các hội quá chặt chẽ quá mức cần thiết làm mất nhiều thời gian. Các tiêu chí
chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn đăng ký còn thiếu minh bạch, tạo cho
các cấp có thẩm quyền phê duyệt có khả Cơ chế quản lý kép đối với hội là
quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ (đối với các hội có phạm vi hoạt động toàn
quốc) hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (đối với các hội có phạm vi hoạt động
cấp tỉnh) và một hoặc thậm chí hai hay nhiều Bộ, ngành chủ quản chưa được
cụ thể hóa, do đó trong nhiều trường hợp thiếu đầu mối thống nhất quản lý,
gây khó khăn cho hoạt động của hội
Về cấp kinh phí cho hội hoạt động, nhiều cơ quan địa phương chưa
thực hiện đúng quy định nhà nước dẫn đến tình trạng phân biệt, không công
bằng giữa các hội
Việt Nam cũng chưa có cơ quan nhân quyền quốc gia thực hiện chức
năng tư vấn, giáo dục, đào tạo, nghiên cứu, đề xuất biện pháp thúc đẩy quyền
con người.
Quyền tự do lập hội là một quyền hiến định, được ghi nhận và bảo vệ
bởi Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, ở Việt
Nam hiện nay chưa có cơ quan bảo hiến nên quyền con người nói chung và
lập hội nói riêng chưa được bảo đảm theo quy định của Hiến pháp và cũng
không thể đưa ra các phán quyết về những văn bản pháp luật và quyết định vi
hiến có thể có của các cơ quan nhà nước liên quan đến quyền tự do lập hội.
39
3.8. Thực tiễn thực thi quyền tự do lập hội ở Việt Nam
3.8.1. Trong lao động
Nhiều nước trên thế giới đã có đạo luật riêng quy định công đoàn với tư
cách là một dạng hội. Chẳng hạn Luật Công đoàn 1949 của Nhật Bản quy
định về trình tự, thủ tục đăng ký cũng như các vấn đề khác liên quan đến công
đoàn và công nhân sẽ do Ủy ban về quan hệ lao động (Labor Relation
Commission) quản lý như một dạng hội. Việt Nam cũng vậy, cũng coi công
đoàn là một dạng hội vì nó mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của một hội
theo khái niệm chung.
Tuy nhiên, theo Hiến pháp 2013 và Luật công đoàn năm 2012 thì công
đoàn ở Việt Nam có một số điểm đặc thù:
- Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội, với vai trò và ý nghĩa chính
trị được đề cao trong bối cảnh nhà nước Việt Nam được xây dựng theo
mô hình xã hội chủ nghĩa, trong đó vị trí, vai trò của giai cấp công nhân
được đặc biệt chú trọng
- Công đoàn là tổ chức của người lao động nhưng thẩm quyền của nó
được nhà nước quy định thông qua các văn bản quy phạm pháp luật
- Một bộ phận trong bộ máy điều hành công đoàn là cán bộ, công chức,
viên chức của nhà nước và chịu sự điều chỉnh của pháp luật cán bộ,
công chức, viên chức
- Tài chính công đoàn được hỗ trợ một phần từ ngân sách Nhà nước
- Sự thành lập công đoàn được pháp luật dẫn chiếu sang Điều lệ Công
đoàn Việt Nam. Theo đó, sự thành lập của công đoàn các cấp do công
đoàn cấp trên quyết định và chỉ đạo
Chính vì những đặc thù này mà mặc dù Điểm c Khoản 1 Điều 5 Bộ luật
lao động năm 2012 thừa nhận người lao động có quyền “Thành lập, gia nhập, 40
hoạt động công đoàn, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của
pháp luật” nhưng quyền thành lập, gia nhập công đoàn và hoạt động của công
đoàn tại Việt Nam vẫn bị hạn chế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật ở Việt Nam hiện nay quy định công đoàn là tổ chức
duy nhất đại diện cho người lao động, vì thế quyền thành lập và hoạt động
của tổ chức đại diện của người lao động cũng chính là quyền thành lập và
hoạt động của tổ chức công đoàn. Như vậy, nói đến tổ chức đại diện cho
người lao động là nói đến một chủ thể duy nhất là công đoàn. Điều này hoàn
toàn không đúng với bản chất của chủ thể đại diện của người lao động trong
tuyên bố chung của Công ước số 87, 98 của Tổ chức lao động quốc tế, cụ thể
là Điều 2 Công ước CO87 “Người lao động và người sử dụng lao động,
không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, đều không phải xin phép trước mà
vẫn có quyền được tổ chức và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của
mình, với một điều kiện duy nhất là phải tuân theo điều lệ của chính tổ chức
đó”. Trong đó theo Điều 10 CO87 “tổ chức” được hiểu là “là mọi tổ chức
nào của người lao động hoặc của người sử dụng lao động có mục đích xúc
tiến và bảo vệ những lợi ích của người lao động hoặc của người sử dụng lao
động”.
Thứ hai, Luật công đoàn năm 2012 quy định công đoàn cơ sở là một
cấp công đoàn, chứ không phải là một công đoàn độc lập nên việc thành lập
hoặc công nhận công đoàn cơ sở là thuộc trách nhiệm của công đoàn cấp trên
cơ sở. Cụ thể, một công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp được thành lập khi có sự
tự nguyện gia nhập công đoàn của một số lượng tối thiểu người lao động và
được công đoàn cấp trên ra quyết định thành lập hoặc công nhận. Như vậy,
theo quy định quyền thành lập công đoàn cơ sở chỉ thuộc về công đoàn cấp
trên của công đoàn cơ sở. Điều này là đi ngược với quan niệm cơ bản về
quyền công đoàn (trade union/ labour union rights) là quyền của công nhân
41
được tham gia và thiết lập những tổ chức do họ tự mình chọn lựa, mà không
cần cấp phép trước [34]
Thứ ba, quyền gia nhập công đoàn và việc thành lập công đoàn cơ sở
phụ thuộc rất nhiều vào sự thiện chí và ủng hộ của người sử dụng lao động.
Thủ tục và hồ sơ thành lập công đoàn cơ sở phải có chữ ký của người sử dụng
lao động dẫn đến tình huống là nếu người sử dụng lao động không thiện chí
và không ký vào các văn bản đề nghị thành lập công đoàn thì việc thành lập
công đoàn cơ sở là điều rất khó khăn. “Người lao động chỉ có quyền gia nhập
công đoàn và việc thành lập một công đoàn cơ sở (mà thực chất là thành lập
ra một cấp công đoàn, chứ không phải thành lập ra một công đoàn) chủ yếu
được thực hiện theo cách: Công đoàn cấp trên đến doanh nghiệp thảo luận và
đề nghị người sử dụng lao động tạo điều kiện để thành lập một công đoàn cơ
sở. Nếu được người lao động đồng ý tạo điều kiện, công đoàn cấp trên sẽ có
buổi tiếp xúc với người lao động để tuyên truyền về việc thành lập công đoàn
cơ sở tại doanh nghiệp. Sau đó công đoàn cấp trên ra quyết định kết nạp đoàn
viên là những người lao động tự nguyện gia nhập công đoàn; quyết định
thành lập công đoàn cơ sở và chỉ định Ban chấp hành công đoàn lâm thời trên
cơ sở sự chuẩn bị và giới thiệu của người sử dụng lao động. Đây là quy trình
thành lập công đoàn cơ sở phổ biến nhất. Trên thực tế, việc thành lập công
đoàn cơ sở có thể phải trải qua nhiều công việc hơn khi người sử dụng lao
động không thiện chí hoặc cố tình gây cản trở, khó khăn cho việc thành lập
công đoàn cơ sở” [35]. Trong nhiều trường hợp, người lao động muốn thành
lập công đoàn cơ sở, song nếu không được người sử dụng lao động đồng ý và
tiến hành các thủ tục đề nghị bằng cách ký vào các văn bản gửi công đoàn cấp
trên, và/hoặc không có sự vào cuộc của công đoàn cấp trên thì công đoàn cơ
sở không thể được thành lập, và do đó, quyền thành lập công đoàn của người
lao động không thể thực hiện được [36]
42
Như vậy, từ thực tiễn và các quy định của pháp luật, có thể thấy việc
gia nhập công đoàn và thành lập công đoàn cơ sở của người lao động cần có 3
điều kiện: có sự tự nguyện gia nhập công đoàn của một số lượng tối tiểu
người lao động; được sự đồng ý, tạo điều kiện và phối hợp của người sử dụng
lao động; được công đoàn cấp trên ra quyết định thành lập.
Thứ tư, danh sách ban chấp hành công đoàn lâm thời do người sử dụng
lao động chuẩn bị có nguy cơ sẽ là những người không thực sự đại diện cho
người lao động mà nghiêm trọng hơn là những người hoạt động để bảo vệ lợi
ích của người sử dụng lao động. Mặt khác, Điều 23 Luật công đoàn năm 2012
đã có quy định về bảo đảm về tổ chức, cán bộ: “1. Công đoàn các cấp được
bảo đảm về tổ chức và số lượng cán bộ, công chức để thực hiện chức năng,
quyền, trách nhiệm theo quy định của pháp luật; 2. Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy và chức danh cán bộ công đoàn
trình cơ quan có thẩm quyền quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền; 3.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ của từng công đoàn cơ sở và số lượng lao động
trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ
công đoàn quyết định bố trí cán bộ công đoàn chuyên trách”. Như vậy, một
bộ phận trong bộ máy điều hành công đoàn là cán bộ, công chức, viên chức
của nhà nước và chịu sự điều chỉnh của pháp luật cán bộ, công chức, viên
chức. Việc quy định như vậy là trái với tinh thần tại Điều 3 Công ước CO87:
“1. Các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động có quyền
lập ra điều lệ, những quy tắc quản lý, tự do bầu các đại diện, tổ chức việc
điều hành hoạt động và soạn thảo chương trình hoạt động của mình. 2. Các
cơ quan có thẩm quyền phải tránh mọi sự can thiệp có tính chất hạn chế
quyền đó, hoặc cản trở việc thi hành hợp pháp quyền đó”. Do đó, trong quá
trình thực hiện quan hệ lao động, vai trò của công đoàn mờ nhạt, đặc biệt khi
tranh chấp lao động dẫn đến hiện tượng đình công. Hầu hết các công đoàn cơ
sở khu vực tư nhân được thành lập với sự tạo điều kiện của người sử dụng lao
động hiện nay cũng đang rất khó hoạt động, hoạt động mang tính hình thức, 43
rất nhiều công đoàn cơ sở trong số đó thực sự yếu kém. Theo báo cáo số
04/BC-TLĐ ngày 7/1/2010 của Ban chỉ đạo chương trình phát triển đoàn viên
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, trong khu vực doanh nhân Việt Nam chỉ
có 46,98% công đoàn cơ sở được phân loại vững mạnh trở lên.
3.8.2. Trong hình sự, tố tụng hình sự
Ở Việt Nam vẫn còn những suy nghĩ thành lập hội một cách tự do và tự
nguyện không khác nào việc các cá nhân muốn liên kết và tập hợp lực lượng
để tạo sức mạnh chính trị riêng, nhằm đi chệch hướng lãnh đạo của nhà nước,
hay gây sức ép, thách thức quyền lực với chính quyền nhân dân. Bộ luật hình
sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cũng có nhiều quy định gây ra tâm lý
e ngại cho người dân khi thực hiện quyền tự do lập hội như:
“Điều 109. Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
Người nào hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân, thì bị phạt như sau:
1. Người tổ chức, người xúi giục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình;
2. Người đồng phạm khác, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm;
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Điều 115. Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội
1. Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà phá hoại việc thực hiện
các chính sách kinh tế - xã hội, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
2. Phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07
năm.
44
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
3.8.3. Trong văn hóa
Tại Việt Nam hiện nay, xuất phát từ một số đặc điểm của văn hóa, xã
hội, cũng như sự lo ngại về mất kiểm soát nên quan tâm duy trì an ninh, trật
tự và sự ổn định dường như đang tiếp tục được ưu tiên hơn là các quyền tự do
cá nhân.
Các cơ quan nhà nước thường viện dẫn Nghị định số 38/2005/NĐ-CP
ngày 18 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ quy định về một số biện pháp bảo
đảm trật tự công cộng để điều chỉnh, về “tập trung đông người ở nơi công
cộng”. Cụ thể, việc tập trung đông người ở nơi công cộng phải đăng ký trước
với Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền nơi diễn ra các hoạt động đó và phải thực
hiện đúng nội dung đã đăng ký. Tuy nhiên, Nghị định này dường như có sự
phân biệt đối xử khi không áp dụng đối với các hoạt động do các cơ quan
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
tổ chức.
Cạnh đó, nhiều hình thức hoạt động của hội cũng vẫn đang gặp những
khó khăn, vướng mắc bởi cơ chế xin - cho. Rõ nét nhất là liên quan đến việc
tổ chức các hội nghị, hội thảo có yếu tố nước ngoài, hiện nay tiếp tục có nhiều
khó khăn về thủ tục. Lĩnh vực này hiện được điều chỉnh bởi Quyết định số
76/2010/QĐ-TTg ngày 30/11/ 2010 của Thủ tướng về việc tổ chức, quản lý
hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam. Điểm b, Khoản 1, Điều 3 Quyết định
này quy định “Hội nghị, hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các vấn
đề chính trị, an ninh, quốc phòng, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, biên giới
lãnh thổ hoặc thuộc phạm vi bí mật nhà nước”. Như vậy, các cuộc hội nghị,
hội thảo phải được Thủ tướng phê duyệt có phạm vi rất rộng. Điều đó cũng có
nghĩa là nhiều hội nghị, hội thảo – một hình thức quan trọng của hoạt động
hội – đang phải trải qua nhiều thủ tục, mất nhiều thời gian mới có thể tổ chức.
45
Quyền tự do lập hội không chỉ bao gồm quyền tổ chức và tham gia các
hội mà còn cả quyền được bảo vệ khỏi những can thiệp phi lý, bảo đảm quyền
có các biện pháp khắc phục, chế tài hiệu quả đối với các vi phạm quyền tự do
lập hội. Bên cạnh các nghĩa vụ “tôn trọng“ và “bảo vệ“ của nhà nước, việc
hưởng thụ quyền tự do lập hội đòi hỏi cả nghĩa vụ “thực thi” của các cơ quan,
cán bộ nhà nước trong việc tích cực tạo điều kiện cho việc thực hành quyền
này. Tuy nhiên, vì những ảnh hưởng của văn hóa mà cụ thể là văn hóa xin
phép trước khi thực hiện quyền tự do lập hội đang cản trở công dân thực hiện
quyền này.
3.9. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc bảo đảm quyền tự do
lập hội ở Việt Nam
Thứ nhất, duy trì khuôn khổ pháp lý cứng nhắc, thiên về tạo điều kiện
quản lý hội cho cơ quan quản lý nhà nước. Nhìn chung các quy định hiện
hành về quyền tự do lập hội được các nhà làm luật tiếp cận theo hướng luật để
quản lý hội, với nhiều quy định và nhiều cơ quan quản lý tạo thuận lợi cho cơ
quan hành chính. Vẫn còn tư tưởng lo sợ sự phát triển của hội dẫn đến sự thay
đổi chế độ, nên chưa nhìn nhận đúng đắn đây là quyền tự do của con người và
trách nhiệm của nhà nước là phải tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do
đó. Cụ thể:
- Về điều kiện thành lập hội: được quy định tại Điều 5 Nghị định số
45/2010/NĐ-CP với 4 điều kiện.
- Về trình tự, thủ tục thành lập hội (theo Nghị định số 45/2010/NĐ-CP):
+ Thủ tục công nhận ban vận động thành lập hội: Khoản 1 Điều 6
+ Thủ tục thành lập hội: Điều 14
+ Thủ tục phê duyệt điều lệ hội: Điều 13
46
Tuy nhiên các thủ tục này rất phức tạp, nặng về thủ tục hành chính, các
tiêu chí đòi hỏi cao. Các hội lại ở địa vị thấp hơn cơ quan nhà nước, điều này
dễ tạo điều kiện cho sự quan liêu, hạch sách, gây cản trở cho việc thực hiện
quyền lập hội của người dân. Hoặc phải chờ rất lâu để được cấp phép đồng ý
thành lập. Hoạt động hội vì thế gặp khó khăn, giảm hiệu quả và hạn chế
những đóng góp của hội vào công cuộc phát triển xã hội. Đây là lý do không
chỉ các tổ chức xã hội trong nước mà còn nhiều tổ chức quốc tế đã đưa ra
khuyến nghị với nhà nước về sự cần thiết cải thiện khuôn khổ pháp lý về
quyền tự do lập hội.2
Thứ hai, hệ thống các văn bản chủ yếu là của Chính phủ, chưa thể hiện
rõ và đầy đủ quyền của công dân được Hiến pháp năm 2013 quy định. Nhiều
văn bản quy định nhưng chưa đáp ứng nhu cầu lập hội đa dạng của người dân.
Ví dụ, pháp luật Việt Nam chưa có quy định đối với các hội không đăng ký
nên các quy định liên quan đến hoạt động của các hội này cũng vắng bóng
trong các văn bản pháp luật hiện hành. Sự vô thừa nhận đối với các hội không
đăng ký có thể dẫn đến hậu quả các hội này không được bảo vệ, trở thành đối
tượng bị vi phạm quyền bởi các cơ quan nhà nước. Thực tiễn hoạt động hội ở
Việt Nam chỉ ra rằng, nhiều hội nhóm ở Việt Nam gặp khó khăn trong việc
thành lập, không thể thành lập dẫn đến không được pháp luật Việt Nam thừa
nhận, hoạt động hội vì thế cũng bị cản trở hoặc các hội viên trở thành đối
tượng của luật hình sự.
Thứ ba, đối với hoạt động liên quan đến tài chính của hội có những quy
định rất khắt khe và đặt ra thủ tục hành chính rất phức tạp, thể hiện qua các
điều khoản về chuẩn bị hồ sơ dự án nhận viện trợ, chuẩn bị vốn đối ứng, các
quy định về thẩm định phí dự án với sự tham gia của các cơ quan nhà nước
2 Chẳng hạn, Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã quan tâm đến những trở ngại đối với việc đăng ký và hoạt động tự do của các tổ chức phi chính phủ bảo vệ quyền con người tại Việt Nam trong Kết luận giám sát ngày 26/7/2002, CCPR/CO/75/VNM.
47
khác nhau, các nguyên tắc và quy định thực hiện và giám sát thực hiện viện
trợ phi chính phủ nước ngoài, các quy định về quản lý nhà nước đối với viện
trợ phi chính phủ nước ngoài. Thực tế cho thấy việc xin tài trợ từ các tổ chức
và cá nhân nước ngoài đã khó nhưng thủ tục nhận tiền từ nhà nước còn khó
hơn.
Thứ tư, nhận thức về vai trò của hội trong phát triển còn hạn chế, nhiều
khi còn e dè do nhạy cảm. Nhận thức về vai trò của hội trong điều kiện mới
chưa chuyển kịp với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và xu thế thời đại.
Thứ năm, các cơ chế chính sách chưa đủ để động viên, huy động người
dân tham gia thành lập hội mới hay gia nhập các hội có sẵn. Sự thiếu minh
bạch trong cách thức làm việc của cơ quan nhà nước khó tạo lòng tin đến các
hội viên, các nhà tài trơ và đối tác của hội, từ đó gây khó khăn cho cho hoạt
động huy động nguồn lực phục vụ cho hoạt động của hội cũng như hội khó
lòng nâng cao vị thế và tầm ảnh hưởng của hội đến công chúng. Như vậy, sự
thiếu minh bạch tác động tiêu cực đến hoạt động của hội
48
CHƯƠNG V: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐỂ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO LẬP HỘI THEO HIẾN PHÁP 2013
Căn cứ vào quy định của pháp luật quốc tế, kinh nghiệm thực tiễn của
các quốc gia trên thế giới và tình hình thực tế ở Việt Nam, tác giả xin đưa ra
một số kiến nghị sau để tăng cường bảo đảm quyền tự do lập hội ở Việt Nam:
5.1. Ban hành Luật về Hội
5.1.1. Sự cần thiết của Luật về Hội ở Việt Nam
Khi chuyển từ nhà nước cai trị sang phục vụ, nhà nước của dân, do dân,
vì dân thì sẽ hình thành các thiết chế xã hội đa dạng. Nhà nước sẽ nhỏ đi và
xã hội sẽ lớn lên, nhờ vậy mà các hội ngày càng phát triển, do vậy mà đòi hỏi
cần phải có những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh. Mặc dù đã có các
Nghị định hướng dẫn về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, song các văn bản
đó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Một số quy định
về quyền và nghĩa vụ của hội thiếu cụ thể, thường được gắn với “theo quy
định của pháp luật” trong khi pháp luật chưa có quy định nên rất khó thực thi.
Một số nội dung quy định tại các Nghị định này chưa phù hợp với các vấn đề
nảy sinh trong thực tế, chưa bắt kịp với xu thế mở rộng dân chủ và phát huy
nguồn lực từ xã hội. Ví dụ, Nghị định số 45/2010/NĐ-CP của Chính phủ với
vai trò là văn bản có hiệu lực trực tiếp điều chỉnh việc thành lập và hoạt động
của các hội được đánh giá là khắt khe, được ban hành theo hướng quản lý
hoạt động của các hội thay vì tôn trọng và bảo vệ quyền tự do lập hội của
người dân. Nghị định và các văn bản liên quan còn thiếu các quy định điều
chỉnh về hội không có hội viên và các tổ chức cộng đồng, quy định đầu mối
quản lý thống nhất các hội; cơ chế đánh giá, giám sát trách nhiệm giải trình và
tính công khải, minh bạch của các hội; chính sách khuyến khích và ưu đãi
thuế dành cho các hoạt động vì mục đích phát triển cộng đồng. Mặt khác,
“nhiều Nghị định được ban hành tạo sự chồng chéo do đó cần xây dựng Luật
về Hội để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ” [37]
49
Hội được thành lập tức là tiếng nói của người dân được tập hợp lại với
nhau để tạo thành sức mạnh, cùng nhà nước thực hiện mục tiêu của hệ thống
chính trị, để kiểm soát sự lạm quyền, để bảo vệ mình, để chống lại những tiêu
cực trong xã hội như tham nhũng, quan liêu, hách dịch. Nhà nước ghi nhận và
tôn trọng quyền này trước hết là để đảm bảo quyền lợi cá nhân, nhưng suy
cho cùng là phát huy vai trò của mỗi cá nhân trong xã hội. Do vây, cùng với
quy định của Hiến pháp về quyền lập hội, cần thiết phải ban hành luật để tạo
cơ sở pháp lý cụ thể, đầy đủ cho công dân thực hiện quyền này. Đồng thời,
Luật về Hội sẽ tạo hành lang pháp lý an toàn, khắc phục những hành vi chủ
quan, duy ý chí của các cơ quan nhà nước mà cản trở việc thực hiện quyền
của người dân.
Luật về Hội sẽ giúp tăng cường vị thế và năng lực cho các hội. Nếu
thiếu các hội mạnh thì chủ thể chịu thiệt thòi đầu tiên là người dân. Các cá
nhân đơn lẻ không thể phản hồi hiệu quả cho Chính phủ. Thực tế chắc chắn sẽ
khác đi khi các hội với hàng chục, hàng trăm ngàn thành viên nêu ý kiến. Khi
đó, các cơ quan nhà nước phải lắng nghe và có trách nhiệm tiếp cận, giải
quyết và thay đổi.
Với khung pháp lý hiện tại, các tổ chức phi chính phủ vẫn có thể hoạt
động, tham gia cung cấp dịch vụ, vận động xã hội và chính sách. Nhưng khi
hoạt động của họ vươn ra các vùng bị các cơ quan nhà nước cho là "nhạy
cảm", không mong đợi, thì việc bị hạn chế hoạt động hoặc bị loại bỏ ra khỏi
các cuộc tham vấn chính sách là hoàn toàn có thể. Đây chính là lý do cần phải
có Luật về Hội để các tổ chức phi chính phủ có thể giám sát và phê phán
chính sách của nhà nước một cách độc lập, trung thực mà không bị ngăn cản.
Đồng thời, các Hội thành viên có thể được thành lập để nâng cao nhận thức
xã hội, cũng như cân bằng quyền lực với các cơ quan công quyền, nhằm tạo
ra các kênh đối thoại để tìm ra những giải pháp tối ưu cho sự phát triển của
đất nước, song hành với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
50
Việc ban hành Luật về Hội không chỉ đảm bảo quyền lập hội của người
dân mà còn có tác dụng huy động người dân đóng góp vào công cuộc phát
triển đất nước, cải cách thể chế đảm bảo an ninh, ổn định của xã hội. Xã hội
ngày càng phát triển, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, người dân
ngày càng được hưởng nhiều quyền lợi hơn, đặc biệt là quyền dân chủ, nhất là
dân chủ trực tiếp. Dân chủ của người dân được đảm bảo bằng pháp luật với
những điều kiện hết sức rõ ràng, cho nên khơi gợi, khuyến khích người dân
mạnh dạn hơn, ý thức hơn các công việc của mình, thúc đẩy họ tham gia
những công việc xã hội theo sức của mình.
Tóm lại, việc liên kết lại với nhau là một đặc tính xã hội xuất phát từ
nhu cầu tồn tại của con người. Tự do lập hội được coi là một quyền tự nhiên
của con người, được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế về quyền con
người như UDHR, ICCPR và hiến pháp của nhiều quốc gia. Thế nhưng, các
quy định về quyền tự do lập hội trong pháp luật hiện nay chưa hoàn toàn
tương thích với các quy định quốc tế. Do vậy, việc ban hành Luật về hội để
mau chóng thực hiện hóa quyền này trên thực tế là một việc làm cần thiết để
tạo môi trường pháp lý thuận lợi nhất bảo đảm quyền tự do lập hội theo tinh
thần tôn trọng quyền con người theo Hiến pháp 2013 và các tiêu chuẩn nhân
quyền quốc tế. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ thống thể chế pháp luật về hội
cần một chiến lược tổng thể và những bước đi phù hợp, phải có sự chuẩn bị,
lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức cá nhân liên quan bởi “chỉ khi nào luật
gần với ý nguyện của dân thì dân mới sử dụng đến luật” [38]
5.1.2. Luật về Hội nên được quy định như thế nào?
a. Về tên gọi
Nên được gọi là Luật về lập hội để nêu bật được quyền và sự tự chủ của
người dân khi tham gia vào việc thành lập, quản lý hoạt động của hội, thể
hiện trong các nội dung: điều kiện thành lập hội, quyền nghĩa vụ của hội, xử
51
lý trách nhiệm đối với hội và sự hỗ trợ, giúp đỡ của nhà nước đối với hội. Nói
cách khác, nội dung của luật phải theo hướng tạo điều kiện, thúc đẩy quyền
được lập hội của công dân, và tạo điều kiện cho các hoạt động của hội được
độc lập, tự chủ, không nên thiết lập các quy định mang tính hành chính nhà
nước cho các hoạt động thành lập, tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã
hội.
b. Về cách tiếp cận
Nên xác định đây là đạo luật để bảo vệ và bảo đảm thực thi quyền tự do
lập hội, chứ không phải là đạo luật đơn thuần chỉ để quản lý hội. Do đó, cần
xác định các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng (không cản trở), bảo vệ
(xử lý các vi phạm) và thúc đẩy (hỗ trợ các điều kiện thực thi) quyền này của
mọi cá nhân, tổ chức bởi hội là tổ chức của dân, hội hoạt động phục vụ phát
triển xã hội và đáng được khuyến khích để hoạt động. Xác định việc tăng
cường tự do lập hội như là một trong những ưu tiên trong chính sách tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân hiện nay.
Cần thấy rằng, việc thành lập các hội đoàn là nhu cầu chính đáng của
con người và là xu thế phát triển tất yếu của tiến trình phát triển xã hội. Do
đó, viêc duy trì khuôn khổ pháp lý cứng nhắc, thiên về tạo điều kiện cho cơ
quan quản lý nhà nước là không còn phù hợp với thực tế nước ta, cũng như
với những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về tự do lập hội mà Việt Nam đã
ký kết. Các biện pháp cấm đoán, hạn chế quyền tự do lập hội là kiểu quản lý
đã lỗi thời, thiếu hiệu quả. Đổi mới phương thức quản trị công, thiết lập và
thực thi chính sách theo lăng kính quyền con người là cách thức đúng đắn để
thực hiện nghĩa vụ của quốc gia trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện
quyền tự do lập hội.
Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về hội. Không
nên áp đặt ý chí chủ quan, một chiều từ phía cơ quan quản lý mà ít hoặc
52
không quan tâm đến nguyện vong của đối tượng bị điều chỉnh và nhiều khi xa
rời thực tế sinh động. Theo đó, Luật về Hội cần có những quy định bắt buộc
các cơ quan chức năng nhà nước phải tạo điều kiện cho việc thực thi quyền tự
do lập hội và ngăn ngừa sự tùy tiện khi thi hành công vị trong quản lý các hội.
Cần xem xét mức độ riêng tư của hội, loại bỏ những rào cản kỹ thuật đối với
thực hành quyền lập hội, giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào tổ chức và
hoạt động của hội. Tôn trọng nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội. Nhà
nước cũng cần có các chính sách cụ thể nhằm tạo dựng một môi trường bình
đẳng, thuận lợi cho các hội, tạo điều kiện cho hội hoạt động nhằm phát huy
vai trò của hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
c. Về phạm vi chủ thể tham gia
Cần quán triệt quan điểm quyền lập hội là quyền cơ bản của con người
chứ không phải riêng của công dân. Cần mở rộng chủ thể quyền từ công dân
sang con người. Trước mắt nếu chưa thể mở rộng đối tượng áp dụng của luật
thì trong điều khoản thi hành có thể ghi nhận quyền tự do lập hội của người
nước ngoài, người không có quốc tịch sinh sống và làm việc hợp pháp tại Việt
Nam, hoặc quy định tương tự như luật của một số nước (chẳng hạn như
CHLB Đức), theo đó người nước ngoài có thể thực hiện quyền tự do lập hội
của mình trên cơ sở viện dẫn điều khoản về tự do lập hội của mọi cá nhân
trong luật nhân quyền quốc tế.
d. Về phạm vi điều chỉnh
Việc quy định công dân chỉ có thể thực hiện quyền lập hội khi thành
lập thành một nhóm, một tổ chức nhất định và phải được công nhân là có tư
cách pháp nhân là không phù hợp. Để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa các
cá nhân và giữa các hội, nên mở rộng đối tượng điều chỉnh của luật đến mọi
tổ chức trong xã hội, trong đó xác định rõ có loại hội không cần đăng ký và có
loại hội cần đăng ký (có tư cách pháp nhân).
53
Đồng thời, nhằm khuyến khích các hội đăng ký khi thành lập nên quy
định rõ những ưu đãi khi hội đăng ký trở thành pháp nhân như: được mua sắm
bất động sản, được nhận trong và ngoài nước, được nhân danh tổ chức tham
gia quan hệ dân sự theo luật dân sự…
e. Về thủ tục thành lập
Bảo đảm quyền tự do lập hội của công dân theo Hiến pháp là tạo điều
kiện cho hoạt động của hội bao gồm thực hiện đơn giản hóa về thủ tục lập
hội. Đối với thủ tục đăng ký cần gọn nhẹ, một cửa, thuận tiện, tối thiểu hóa
các thủ tục hành chính, các tiêu chí thành lập vừa phải, đảm bảo rõ ràng và
nhanh chóng để mọi tổ chức, cá nhân đều có thể hiểu và thực hiện.
Phù hợp xu hướng chung của cải cách hành chính và hướng tới xây
dựng chính phủ điện tử, Việt Nam có thể quy định thủ tục đăng ký thành lập
hội thông qua Internet. Quy trình thành lập hội nên đơn giản, dễ tiếp cận,
không phân biệt đối xử, không phiền hà hoặc miễn phí. Cần đơn giản hóa tối
đa để thủ tục đăng ký thành lập hội theo hướng thông báo thay vì xin phép để
tránh tình trạng xin – cho. Việc đăng ký phải được phúc đáp kịp thời, không
quá lâu. Nên quy định quyền được khiếu nại để xem xét lại quyết định của cơ
quan cấp đăng ký.
f. Về quản lý, giám sát
Xác định rõ quy định quản lý về hội, trong đó có quản lý nhà nước về
hội. Chỉ nên quy định một cơ quan là đầu mối quản lý việc thành lập và hoạt
động của hội, bỏ chế độ bộ chủ quản. Nên có các quy định cụ thể, rõ ràng về
nghĩa vụ công khai, cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của các hội, đặc biệt là các hội nhận ngân sách công và tài trợ, quyên
góp của công chúng để cơ quan công quyền không lợi dụng việc giám sát,
quản lý hội mà xâm phạm quyền tự do lập hội. Bởi hoạt động của hội phụ
thuộc vào các nguồn hỗ trợ tài chính trong và ngoài nước nên để hoạt động
54
các hội được thuận tiện, cũng là để tôn trọng quyền tự do lập hội, cần tạo điều
kiện cho các hội tiếp cận các nguồn quỹ đó mà không buộc phải có quyết định
phê duyệt trước đó của cơ quan có thẩm quyền. Các quy định về gây quỹ,
nhận tài trợ, về triển khai các hoạt động hội (nhất là hội thảo, tập huấn), có
hoặc không liên quan đến nước ngoài, nên được điều chỉnh theo hướng tôn
trọng quyền tự chủ của các hội.
Đối với các chủ thể trung gian, pháp luật cũng cần quy định rõ quyền
và nghĩa vụ/ trách nhiệm của báo chí trong việc đưa tin về hội, cũng như của
cơ quan nhân quyền quốc gia (nếu có) trong việc giám sát và giải quyết
những khiếu nại, tố cáo vi phạm quyền tự do lập hội.
5.2. Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và Luật xử lý vi phạm
hành chính cần sửa đổi, bổ sung các chế tài với những hành vi từ
chối, ngăn cản và các hành vi khác vi phạm quyền tự do lập hội của
người dân
Những hành vi vi phạm pháp luật về hội cũng nên được cụ thể hóa
trong Luật xử lý vi phạm hành chính và Bộ luật hình sự. Cần sửa đổi Bộ luật
Hình sự và Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng bổ sung thêm các chế
tài áp dụng với những hành vi từ chối, ngăn cản và các hành vi khác vi phạm
quyền tự do lập hội của người dân, đồng thời xóa bỏ những quy định trái với
tinh thần bảo đảm quyền tự do lập hội. Nói cách khác, luật cần quy định rõ
ràng và cụ thể cơ chế và biện pháp bảo vệ quyền tự do lập hội khỏi các can
thiệp vô lý, tùy tiện của cơ quan, cán bộ Nhà nước ở bất kỳ cấp nào. Cần đảm
bảo các công chức hành chính và thi hành luật được đào tạo thích đáng về
việc tôn trọng quyền tự do lập hội, nếu vi phạm quyền này sẽ phải chịu trách
nhiệm đầy đủ trước pháp luật. Đồng thời, luật cần đảm bảo các biện pháp hay
cơ chế khắc phục hậu quả và bồi thường đối với nạn nhân bị vi phạm các
quyền tự do lập hội.
55
Các hội nhìn chung là ôn hòa, tuy nhiên cũng có những hội cực đoan,
có hành động quá khích, ảnh hưởng đến trật tự trị an. Hành động của những
hội này phải được điều chỉnh bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng
trong quá trình điều chỉnh có thể dấn tới những hạn chế, can thiệp tùy tiện,
trái pháp luật vào hoạt động của hội. Chính vì vậy, Tòa án và cơ quan nhân
quyền quốc gia có vai trò quan trọng trong vấn đề này. Cần quy định rõ thẩm
quyền tài phán của cơ quan thụ lý, giải quyết khiếu nại, khiếu kiện độc lập với
cơ quan quản lý hành chính để bảo đảm tính khách quan, độc lập và hiệu quả
trong việc bảo vệ quyền tự do hiệp hội của người dân. Quyết định đình chỉ,
chấm dứt hay giải tán không tự nguyện một hội phải được đưa ra từ một tòa
án vô tư và độc lập. Tòa án có nghĩa vụ xử lý một cách công bằng, khách
quan những vi phạm pháp luật tự do lao hội, bao gồm vi phạm của người tổ
chức, người điều hành, thành viên các hội và của có quan nhà nước có trách
nhiệm quản lý hội. Các cơ quan nhân quyền quốc gia có vai trò bảo đảm
quyền tự do lập hội thông qua tư vấn, hướng dẫn cho các cơ quan nhà nước,
tiếp nhận và giải thích những đơn tố cáo vi phạm quyền tự do lập hội của
công dân, tổ chức. Mặc dù không phải là cơ quan tư pháp, song ý kiến của cơ
quan nhân quyền quốc gia về một khiếu nại, tố cáo vi phạm quyền tự do lập
hội thường sẽ được các cơ quan nhà nước liên quan lắng nghe, tôn trọng và
thực hiện
5.3. Bảo đảm sự kế thừa và tính thống nhất của các văn bản quy phạm
pháp luật và quản lý hội phù hợp với thông lệ quốc tế
Pháp luật về hội ngoài đảm bảo tính chính xác, chuẩn mực cần phải
đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ trong hệ thống pháp luật và phải phù hợp,
hợp lý với hệ thống pháp luật quốc tế. Đây là điều hết sức cần thiết để bảo
đảm tính tương thích của pháp luật quốc gia so với các tiêu chuẩn của luật
nhân quyền quốc tế nói chung và so với Công ước ICCPR nói riêng.
56
KẾT LUẬN
Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý xã hội, ngăn ngừa và xử
lý các vi phạm pháp luật của tất cả các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực
hiện các hoạt động xã hội. Mặt khác, pháp luật là công cụ đảm bảo quyền tự
do bình đẳng của mọi tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động đó. Nếu
yếu tố pháp luật không được đề cao sẽ lúng túng trong quản lý nhà nước, các
quyền của người dân rất dễ bị xâm hại. Mặt khác, quyền tự do lập hội lại là
quyền cơ bản của con người nên với tư cách là chủ thể quyền lực công, nhà
nước có nghĩa vụ bảo đảm quyền tự do lập hội của công dân. Do vậy, để bảo
đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 thì hoàn thiện khuôn khổ pháp
luật về quyền tự do lập hội ở nước ta trong thời gian tới là rất cần thiết.
Mặc dù hiện nay, pháp luật về tự do lập hội ở nước ta chưa hoàn toàn
tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế nhưng so với trước thời kỳ
đổi mới, quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam về quyền tự do lập hội
đã có những thay đổi lớn, theo hướng có coi trọng, cởi mở hơn, đây là yếu tố
thúc đẩy việc thực hiện quyền. Căn cứ vào tình hình nước ta hiện nay, việc
nhà nước đẩy nhanh việc xây dựng Luật về Hội để làm cơ sở pháp lý nền tảng
cho việc bảo đảm quyền này, sau đó ban hành các văn bản pháp quy cụ thể
hóa các quy định của luật là cần thiết. Pháp luật về hội phải phản ánh một
cách khách quan những yêu cầu của xã hội, sự phát triển của đời sống xã hội,
có như vậy quyền tự do lập hội mới được bảo đảm. Nếu xuất phát từ việc tôn
trọng quyền tự do lập hội và coi quyền tự do lập hội như là quyền của người
dân được đóng góp sức lực và trí tuệ cho sự phát triển của đất nước thì nội
dung của Luật về Hội chắc chắn sẽ tạo thêm sự đồng thuận cao trong xã hội,
góp phần bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013.
57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Vũ Công Giao (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến
pháp 2013 - Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội,
tr13-14
2. PGS.TS Vũ Công Giao (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến
pháp 2013 – Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội,
tr11
3. Lã Khánh Tùng, Nghiêm Xuân Hoa, Vũ Công Giao (2015), Hội và Tự
do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, Nhà xuất bản Hồng
Đức, Hà Nội, tr11
4. Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/20/27
ngày 21/5/2012 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 51
5. PGS.TS Vũ Công Giao (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến
pháp 2013 - Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội,
tr32
6. Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/20/27
ngày 21/5/2012 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 52
7. Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/23/39
ngày 24/4/2013 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 11
8. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng đồng chủ biên
(2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr191.
58
9. Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/20/27
ngày 21/5/2012 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 65
10. Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/20/27
ngày 21/5/2012 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 64
11. Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/20/27
ngày 21/5/2012 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 63
12. Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/20/27
ngày 21/5/2012 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 67
13. Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/23/39
ngày 24/4/2013 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 10
14. Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/20/27
ngày 21/5/2012 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 68
15. Lã Khánh Tùng, Vũ Công Giao, ABC về các quyền dân sự, chính trị cơ
bản, Tài liệu lưu hành nội bộ, tr25
16. Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng – Trung
tâm từ điển học Hà Nội – Đà Nẵng, các trang 405, 420,694
17. Ủy ban nhân quyền, Phán quyết trong vụ Denis Turchenyaketal kiện
Belarus, số 1948/2010, UNdoc.CCPR/C/108/D1948/2010, ngày 10
tháng 9 năm 2013, phần 7.4
59
18. Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Văn kiện số hiệu A/68/299 năm
2013 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và hiệp hội hòa
bình, đoạn 25
19. Alexis de tocqueville, Phạm Văn Toàn dịch, Nền dân trị Mỹ, Nhà xuất
bản Tri thức, Hà Nội, 2008, các trang 697,698,700
20. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lã Khánh Tùng, Vũ Công Giao
đồng chủ biên (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, Nhà
xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, tr88
21. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lã Khánh Tùng, Vũ Công Giao
đồng chủ biên (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, Nhà
xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, tr42
22. Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lã Khánh Tùng, Vũ Công Giao
đồng chủ biên (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, Nhà
xuất bản Hồng Đức, Hà Nội, tr561
23. Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, Văn kiện số hiệu A/HRC/23/39
ngày 24/4/2013 của Báo cáo viên đặc biệt về quyền tự do hội họp và
hiệp hội hòa bình Maina Kiai, đoạn 51
24. Lã Khánh Tùng, Luật biểu tình hay luật về hội họp,
http://www.nhanquyen.vn/modules.php?name=News&op=detailsnews
&mid=287&mcid=2, truy cập lúc 23h25p ngày 26/3/2019
25. Lã Khánh Tùng, Nghiêm Xuân Hoa, Vũ Công Giao (2015), Hội và Tự
do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, Nhà xuất bản Hồng
Đức, Hà Nội, tr12
26. PGS.TS Vũ Công Giao (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến
pháp 2013 - Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội,
tr245
60
27. Chính cương vắn tắt của Đảng, 1930
28. Chỉ thị số 17-CT/TW ngày 28/8/2012 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục
đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hội quần
chúng
29. Nguyễn Ngọc Điện (1999), Nghiên cứu về tài sản trong luật dân sự
Việt Nam, Nhà xuất bản trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr35
30. Lã Khánh Tùng, Nghiêm Xuân Hoa, Vũ Công Giao (2015), Hội và Tự
do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa trên quyền, Nhà xuất bản Hồng
Đức, Hà Nội, tr12
31. Irene Norlund, Khỏa lấp sự cách biệt: Xã hội dân sự mới nổi ở Việt
Nam, Hà Nội, tháng 1-2007,tr11-12, tại http://
http://www.un.org.vn/images/stories/pub_trans/Filling_the_Gap__V_.p
df
32. Nguyễn Tiến Đức, Giới hạn quyền con người trong công ước Nhân
quyền châu Âu và gợi mở cho Việt Nam, Nhà nước và pháp luật số
4(360)/2018, tr68
33. PGS.TS Vũ Công Giao (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến
pháp 2013 - Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội,
tr96
34. PGS.TS Vũ Công Giao (2016), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến
pháp 2013 - Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr161;
Susan L. Kang, Human rights anh labor solidarity: Trade Unions in
the Global Economy, University of Pennsylvania Press, 2012, tr45
35. Nguyễn Văn Bình, Tổ chức công đoàn trong Luật công đoàn và Bộ luật
lao động sửa đổi, Nhà nước và pháp luật, số 5(289), tháng 5/2012, tr73
61
36. Nguyễn Văn Bình, Đỗ Quỳnh Chi, Tài liệu thảo luận của Tổ chức Lao
động Quốc tế ILO về các quy định liên quan đến Quan hệ lao động của
Bộ luật lao động và Luật công đoàn sửa đổi, Văn phòng ILO tại Hà
Nội, tháng 2/2011, tr14
37. Tờ trình của Bộ nội vụ về dự thảo luật.
38. Bùi Ngọc Sơn (2004), Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh, Nhà xuất
bản lý luận chính trị, Hà Nội, tr149
62