ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN HƯƠNG LAN

BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TÍN DỤNG BẰNG QUYỀN SỞ

HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2014-L

HÀ NỘI - 2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN HƯƠNG LAN

BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TÍN DỤNG BẰNG QUYỀN SỞ

HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2014-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TH.S. KHUẤT QUANG PHÁT

HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các kết quả nêu trong Khóa luận tốt nghiệp chưa được công bố trong bất kỳ công trình

nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong Khóa luận tốt nghiệp đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Hương Lan

QSHTT

: Quyền sở hữu trí tuệ

NHTM

: Ngân hàng thương mại

BLDS

: Bộ luật dân sự

TSTT

: Tài sản trí tuệ

DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

LỜI CAM ĐOAN .....................................................................................................................................3

Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận tốt nghiệp chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong Khóa luận tốt nghiệp đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. .............................................3

Tôi xin chân thành cảm ơn! ......................................................................................................................3

NGƯỜI CAM ĐOAN ...............................................................................................................................3

Nguyễn Hương Lan ...................................................................................................................................3

MỤC LỤC.................................................................................................................................................5

MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ........................................................................................8

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................................................9

3. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài ...............................................................................................9

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................................9

5. Kết cấu khóa luận .......................................................................................................................... 10

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................................... 11

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ......... 11

1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ................................................................... 11

1.1.1.

Khái niệm ngân hàng thương mại ................................................................................ 11

1.1.2.

Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại .......................................................... 12

Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT trong hoạt động cho vay trong ngân hàng 1.2. thương mại ........................................................................................................................................ 14

1.2.1.

QSHTT - Đối tượng của biện pháp bảo đảm tiền vay ................................................... 14

1.2.1.1.

Khái niệm QSHTT .................................................................................................... 14

1.2.1.2.

Đặc điểm ................................................................................................................ 15

1.2.1.3.

Các quyền năng của chủ sở hữu QSHTT ............................................................... 16

1.2.1.4.

Điều kiện để QSHTT trở thành tài sản bảo đảm .................................................... 17

1.2.2.

Khái quát về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ .................................................. 18

1.2.2.1.

Khái niệm biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ................................................. 18

1.2.2.2.

Đặc điểm ................................................................................................................ 19

1.2.3.

Biện pháp bảo đảm QSHTT trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. ... 21

1.2.3.1.

Các biện pháp bảo đảm cụ thể: .............................................................................. 21

1.2.3.2.

Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay bằng QSHTT và quyền ưu tiên ..................... 25

1.2.3.3.

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong thời hạn bảo đảm ...................................... 26

1.2.3.4.

Xử lý QSHTT khi nghĩa vụ trả nợ bị vi phạm. .......................................................... 29

1.3.

Kinh nghiệm quốc tế về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng quyền sở hữu trí .................... 30

1.3.1.

Hoa Kỳ ............................................................................................................................ 30

1.3.2.

Trung Quốc..................................................................................................................... 32

CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ................................................................................................ 35

2.1. Một số vụ việc về cho vay có bảo đảm bằng QSHTT của ngân hàng thương mại ............... 35

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cho vay có bảo đảm bằng biện pháp chấp

2.1.1. quyền đối với tác phẩm điện ảnh. ................................................................................................ 35

2.1.2. mại

Agribank cho vay có bảo đảm bằng quyền sử dụng thương hiệu và nhãn hiệu thương 35

2.2.

Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT ........................ 37

2.2.1.

Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam ..................... 37

2.2.2.

QSHTT là một tài sản bảo đảm tiềm năng ................................................................... 40

2.2.2.1.

Cho phép sử dụng QSHTT làm tài sản bảo đảm. ................................................... 40

2.2.2.2.

Tài sản bảo đảm - QSHTT, được điều chỉnh tương đối đầy đủ. ............................. 42

2.2.2. Thế chấp tài sản – Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phù hợp với tài sản bảo đảm là QSHTT ................................................................................................................................ 50

2.2.2.1.

Đăng ký giao dịch bảo đảm .................................................................................... 56

2.2.2.2.

Xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ ......................................................... 58

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ... 65

3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. ....................................................................................... 65

Hoàn thiện pháp luật về về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ để tạo cơ sở

3.1.1. pháp lý cho hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ....................................................... 65

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ để đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn hoạt động của các Ngân hàng thương mại .................................................................. 66

3.1.3.

Hoàn thiện pháp luật về thế chấp QSHTT để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ....... 67

3.2. Một số đề xuất cụ thể nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. ......................... 68

3.2.1.

Đối với nhà nước ........................................................................................................... 68

3.2.2.

Đối với ngân hàng ......................................................................................................... 70

3.2.3.

Đối với doanh nghiệp cần gia tăng mức độ nhận biết và sử dụng QSHTT bằng cách 72

KẾT LUẬN ........................................................................................................................................... 73

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................... 75

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Trong nền kinh tế hiện nay, nguồn vốn là một trong các yếu tố quan trọng quyết

định đến sự tồn tại, phát triển và thành công của các tổ chức kinh tế nói chung và các

doanh nghiệp nói riêng. Các ngân hàng thương mại với hoạt động cho vay của mình đã

hỗ trợ một phần không nhỏ để đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp. Hoạt động

cho vay có vai trò và ý nghĩa rất lớn trong việc hỗ trợ cho các chủ thể kinh tế, thúc đẩy

phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, hoạt động cho vay đang bị kìm hãm do tài sản bảo đảm cho khoản vay

được các ngân hàng chấp nhận chủ yếu là bất động sản, máy móc, thiết bị, phương tiện

giao thông,… là các tài sản hữu hạn về mặt số lượng và ẩn chứa nhiều rủi ro bởi các

cuộc khủng hoảng kinh tế . Các tổ chức ngân hàng gần như “bỏ quên” quyền SHTT –

một loại tài sản có giá trị, đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của các

doanh nghiệp, đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Theo số liệu thống kê

về cơ cấu tài sản theo giá trị thị trường của 500 công ty S&P, tài sản IP tăng nhanh qua

từng năm, tài sản vô hình của nhóm công ty 17%, hữu hình 83%. Đến năm 2010, tài

sản vô hình tăng lên 80%, trong khi tài sản hữu hình chỉ còn lại 20% và ước tính tháng

01/2015, tài sản vô hình đã tăng lên 84%, trong kho tài sản hữu hình chỉ còn lại 16%.

Trong đó tại Việt Nam, theo Báo cáo Top 50 Thương hiệu hàng đầu Việt Nam về tài

sản vô hình và giá trị thương hiệu năm 2017 của Brand Finance, giá trị thương hiệu

trong các doanh nghiệp Việt Nam gia tăng đáng kể, lên đến hàng tỷ đô la Mỹ như

Vinamilk, Vingroup, Viettel,… Nếu được chấp nhận áp dụng trong việc bảo đảm

khoản vay thì các TSTT sẽ góp phần rất lớn trong việc tháo gỡ vướng mắc của hoạt

động cho vay và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp.

Cho vay có bảo đảm bằng quyền SHTT đã xuất hiện từ lâu, được một số ngân

hàng của một số nước phát triển áp dụng và đạt được hiệu quả. Đây cũng là xu hướng

chung của các nước phát triển trong việc khai thác, tận dụng giá trị của QSHTT. Việt

Nam đã có những ý tưởng về mô hình bảo đảm tiền vay này với các quy định pháp

luật dân sự làm nền tảng, các bài viết, bài nghiên cứu, các cuộc hội thảo,… tuy nhiên

các ngân hàng vẫn chưa đạt được nhiều kết quả khả thi với sự thiếu vắng quy định

pháp luật điều chỉnh. Đề tài này cũng thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều

nhà nghiên cứu, tuy nhiên chưa có nhiều các bài nghiên cứu chuyên sâu làm rõ về các

khía cạnh trong vấn đề này hoặc các bài viết chưa có tính hệ thống, chưa đưa ra bức

tranh toàn cảnh về Bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động của

ngân hàng thương mại. Nên cần tiếp tục nghiên cứu về mô hình này cả về lý luận, thực

tiễn để làm rõ những bất cập trong các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành. Có sự

tham khảo, nghiên cứu pháp luật của các nước đi trước để rút ra những định hướng giải

quyết cho vấn đề của Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Như đã nêu ở trên, việc nhận bảo đảm tiền vay bằng QSHTT mới diễn ra trong

thời gian gần đây, tại một số ngân hàng thương mại của một số nước đang phát triển.

Do đó, đây vẫn còn là một vấn đề mới mẻ và phức tạp ở cả trên thế giới và Việt Nam.

Bởi vậy, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này còn khá hạn chế.

Các nội dung được tác giả đề cập đến trong luận văn này chủ yếu được xây dựng trên

cơ sở đúc rút từ kinh nghiệm làm việc thực tế và tham khảo thực tế hoạt động của các

ngân hàng thương mại.

3. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài

Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết muốn làm rõ cơ sở lý luận cho việc

áp dụng các biện pháp Bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động của

ngân hàng thương mại, thực trạng pháp luật Việt Nam đối với vấn đề mới mẻ này, kinh

nghiệm pháp luật của một số nước để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm tham khảo cho

Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu

Bài khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và

Pháp luật. Trên cơ sở phương pháp luận, bài viết được vận dụng các phương pháp

nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp so sánh luật

học, phương pháp tổng hợp.

5. Kết cấu khóa luận

Bài khóa luận có kết cấu gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết

luận.

Phần nội dung với kết cấu được chia làm 3 chương:

- Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về Bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu

trí tuệ trong hoạt động của ngân hàng thương mại.

- Chương II. Pháp luật Việt Nam về Bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ

trong hoạt động của ngân hàng thương mại trong pháp luật Việt Nam.

- Chương III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về Bảo đảm

tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động của ngân hàng thương mại.

Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TÍN

DỤNG BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại

Với nhu cầu của đời sống, sản xuất, kinh doanh, các hoạt động của một số thương

gia như đổi tiền, giữ tiền hộ và thu tiền hộ,… qua thời gian và sự phát triển của nền

kinh tế thị trường, đã phát triển thành các nghiệp vụ ngân hàng như hiện nay và được

các NHTM thực hiện.

Mặc dù đã hình thành từ lâu đời, song giữa các nhà nghiên cứu, các tổ chức liên

quan đến lĩnh vực ngân hàng chưa có sự thống nhất về khái niệm ngân hàng thương

mại. Có nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng thương mại được đưa ra tùy thuộc

vào cách thức tiếp cận, điều kiện kinh tế của từng quốc gia, các nghiệp vụ mà ngân

hàng thực hiện,… Có thể đề cập đến một số khái niệm về NHTM theo pháp luật của

một số quốc gia trên thế giới như sau:

Theo pháp luật của nước Pháp, “NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành

nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác

các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài

chính”.

Theo pháp luật Mỹ, NHTM được định nghĩa là “loại hình tổ chức tài chính cung

cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và

thanh toán... và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức

kinh doanh nào trong nền kinh tế”

Như vậy có thể hiểu NHTM là một tổ chức kinh tế, chuyên thực hiện hoạt động

kinh doanh tiền tệ bằng cách cung cấp các dịch vụ về tài chính cho khách hàng là tổ

chức, cá nhân như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, thanh toán và các dịch vụ tài chính khác.

Trong đó nguồn tiền để thực hiện việc cung cấp các dịch vụ này đến từ sự luân chuyển

nguồn tiền của khách hàng gửi tiền. Cụ thể: nguồn tiền có được từ hoạt động nhận tiền

gửi sẽ trở thành nguồn vốn của hoạt động cho vay, thanh toán và các hoạt động khác.

Ngược lại, khoản lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ các hoạt động trên sẽ được dùng

một phần để chi trả tiền lãi cho người gửi tiền.

Sự phát triển của kinh tế, xã hội và đặt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát

triển, các hoạt động của ngân hàng thương mại ngày càng phong phú, đa dạng. Ngoài

các hoạt động ngân hàng truyền thống như nhận tiền gửi, cho vay thì các hoạt động

ngân hàng mới được ra đời, áp dụng ngày càng phổ biến như thư tín dụng (L/C), chiết

khấu, bảo lãnh, bao thanh toán,… Các hoạt động ngân hàng vừa là động lực thúc đẩy

ngân hàng phát triển, đồng thời là mục tiêu mà các ngân hàng hướng đến vì mục tiêu

lợi nhuận và lợi ích khách hàng. Trong đó, hoạt động cấp tín dụng mà cụ thể là hoạt

động cho vay có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của ngân hàng.

1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

Trong số các nghiệp vụ cấp tín dụng của NHTM, cho vay là nghiệp vụ cấp tín

dụng truyền thống, có ý nghĩa sống còn đối với các NHTM và được các NHTM hết sức

chú trọng.

Cho vay là hình thức cấp tín dụng theo đó NHTM giao hoặc cam kết giao cho

khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất

định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.

Xét về bản chất pháp lý, hoạt động cho vay là một hợp đồng, hay hợp đồng tín

dụng. Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa bên vay và bên cho

vay đối với một khoản tiền vay nhất định, làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và

nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng tín dụng giữa NHTM và khách hàng mang bản chất là

hợp đồng vay tài sản theo pháp luật dân sự, tuy nhiên hợp đồng tín dụng mang những

đặc thù về chủ thể tham gia, đối tượng của hợp đồng và nguyên tắc hoàn trả:

- Chủ thể: Trong hợp đồng vay tài sản, chủ thể của hợp đồng - bên vay và bên

cho vay, là cá nhân, pháp nhân bất kỳ đáp ứng đủ năng lực chủ thể và điều

kiện cho vay, trong đó một bên chủ thể có (có quyền sở hữu hoặc được trao

quyền cho vay đối với tài sản) tài sản và một bên chủ thể có nhu cầu vay tài

sản. Còn trong hợp đồng tín dụng, một bên chủ thể tham gia quan hệ, với vai

trò là bên cho vay bắt buộc là NHTM được nhà nước cho phép thực hiện

nghiệp vụ cho vay. Bên vay có thể là cá nhân, pháp nhân đáp ứng được các

điều kiện cho vay như: mục đích sử dụng tiền vay, tính khả thi và hiệu quả

của dự án, năng lực tài chính của bên vay tiền,…

- Đối tượng: Đối tượng của hợp đồng vay tài sản là các loại tài sản theo quy

định của luật. Còn đối tượng của hợp đồng tín dụng là một loại tài sản đặc biệt

- tiền tệ.

- Nguyên tắc hoàn trả: Nếu như trong hợp đồng vay tài sản, ngoài việc trả lại tài

sản theo đúng số lượng, chất lượng thì việc trả lãi là do các bên thỏa thuận,

không mang tính bắt bắt buộc thì trong hợp đồng tín dụng sẽ đặt ra yêu cầu trả

đầy đủ gốc và lãi.

Cho vay là một hoạt động kinh doanh tiền tệ có tính rủi ro cao. Tính rủi ro này do

nhiều yếu tố tạo nên, trong đó tiền tệ - đối tượng của hợp đồng tín dụng, là một yếu tố

then chốt tạo ra tính chất rủi ro. Nguồn tiền mà NHTM sử dụng để cho khách hàng vay

có nguồn gốc là tiền có được từ hoạt động huy động vốn của khách hàng. Nên trong

trường hợp bên vay không không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đầy đủ, đúng hạn theo thỏa

thuận thì NHTM có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, mất khả năng chi

trả. Đây là tình trạng rất nguy hiểm đối với một một NHTM nói riêng và hệ thống ngân

hàng nói chung. Bởi khi đó NHTM phải đứng trước nguy cơ phá sản. Việc phá sản

ngân hàng gây ra những tác động tiêu cực đến nhiều đối tượng, đó là quyền lợi của

người gửi tiền, sự an toàn của toàn bộ hệ thống ngân hàng và sự phát triển ổn định của

cả nền kinh tế.

Để phòng ngừa, giảm thiểu những rủi ro này, nhà nước và các ngân hàng thương

mại đã áp dụng nhiều biện pháp hạn chế rủi ro khác nhau như: Các quy định nhà nước

về các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng (hệ số an toàn vốn tối thiểu– CAR, giới

hạn tín dụng, giới hạn góp vốn, mua cổ phần, kinh doanh bất động sản và chứng khoả;

tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động; trích lập dự phòng rủi ro,… ) và biện

pháp hạn chế rủi ro do tổ chức tín dụng và khách hàng tự thỏa thuận, trong đó có biện

pháp bảo đảm tiền vay.

1.2. Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT trong hoạt động cho vay

trong ngân hàng thương mại

1.2.1. QSHTT - Đối tượng của biện pháp bảo đảm tiền vay

1.2.1.1. Khái niệm QSHTT

Hiện nay không có một khái niệm thống nhất về QSHTT, mà tùy theo cách tiếp

cận khác nhau về QSHTT sẽ có khái niệm khác nhau. Cụ thể:

Theo tổ chức SHTT thế giới, là một tổ chức quốc tế có mục đích hỗ trợ nhằm

đảm bảo quyền của người phát minh và chủ sở hữu TSTT được bảo hộ trên toàn thế

giới, thúc đẩy sở hữu trí tuệ và pháp luật về sở hữu trí tuệ phát triển, thì “QSHTT bao

gồm các quyền liên quan tới các tác phẩm khoa học, nghệ thuật và văn học; chương

trình biểu diễn của các nghệ sĩ, các bản ghi âm và chương trình phát thanh, truyền

hình; sáng chế trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người; các phát minh khoa

học; các kiểu dáng công nghiệp; các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ

dẫn và tên thương mại; bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh và tất cả các quyền

khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học

hoặc nghệ thuật”.

Theo Hiệp định các khía cạnh thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ (TRIPs),

tiếp cận QSHTT dưới góc độ kinh tế, thương mại thì QSHTT là quyền được trao cho

người tạo ra thành quả sáng tạo bởi trí tuệ của họ, QSHTT trao cho người sáng tạo một

độc quyền trong việc sử dụng sáng tạo của họ trong một khoảng thời gian nhất định.

QSHTT bao gồm 2 mảng chính là quyền tác giả và quyền liên quan; sở hữu công

nghiệp.

Như vậy, có thể hiểu QSHTT là các quyền của chủ thể đối với tài sản vô hình là

thành quả của sự lao động trí óc, được nhà nước thừa nhận.

Đối tượng của QSHTT là TSTT. TSTT được đề cập đến là sự sáng tạo của trí tuệ

như: tác phẩm văn học, nghệ thuật, sáng chế, thiết kế công nghiệp, tên gọi, biểu tượng

và hình ảnh được sử dụng trong thương mại,… và được chia làm ba nhóm:

- Sở hữu công nghiệp bao gồm bằng độc quyền sáng chế, tên thương mại,

thiết kế công nghiệp, chỉ dẫn địa lý,…

- Quyền tác giả (bản quyền) bao gồm các tác phẩm văn học (như tiểu

thuyết, thơ, kịch), tác phẩm điện ảnh, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm nghệ thuật

(tranh, ảnh và các tác phẩm điêu khắc) và thiết kế kiến trúc. Quyền liên quan đến

quyền tác giả bao gồm các tác phẩm của nghệ sỹ biểu diễn (cuộc biểu diễn), bản

ghi âm, ghi hình.

- Quyền đối với giống cây trồng.

QSHTT được chia làm hai nhóm quyền: quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền

nhân thân là những quyền thuộc về riêng cá nhân tác giả (người trực tiếp sáng tạo ra

TSTT), không thể chuyển giao cho bất kì ai dưới bất kì hình thức nào, ngay cả trong

trường hợp tác giả không còn. Quyền tài sản là quyền được hưởng những lợi ích vật

chất phát sinh từ TSTT. Tùy thuộc vào pháp luật của từng quốc gia và từng đối tượng

của QSHTT, quyền nhân thân và quyền tài sản được pháp luật ghi nhận khác nhau.

1.2.1.2. Đặc điểm

- Tính vô hình: QSHTT là quyền của chủ thể đối với TSTT, là một tài sản

vô hình, không thể nhận thức được thông qua các giác quan mà chỉ nhận thức

được bằng lý trí. Do đó, QSHTT cũng mang tính chất vô hình.

- QSHTT được bảo hộ có giới hạn. QSHTT chỉ được bảo hộ trong phạm vi

không gian và thời gian nhất định:

 Phạm vi bảo hộ theo không gian (hay Tính chất lãnh thổ): QSHTT được

pháp luật quốc gia nào công nhận thì có hiệu lực và được bảo vệ trong phạm vi

quốc gia đó. Tuy nhiên trong một thế giới toàn cầu hóa, hợp tác phát triển thế giới

ngày càng mạnh mẽ thì giới hạn về lãnh thổ được bảo hộ gần như xóa nhòa nhờ

vào việc đăng ký quốc tế.

 Phạm vi bảo hộ theo thời gian: QSHTT chỉ được bảo hộ trong thời gian

nhất định theo quy định của pháp luật quốc gia. Hết thời hạn bảo hộ, QSHTT sẽ

thuộc về công chúng, mọi người đều có quyền sử dụng.

- Tính độc quyền: QSHTT trao cho chủ sở hữu TSTT quyền độc quyền

trong việc cho người khác sử dụng hay không sử dụng TSTT của mình. Tính độc

quyền này cũng được thể hiện trong việc ngăn chặn người khác xâm phạm đến

của mình.

1.2.1.3. Các quyền năng của chủ sở hữu QSHTT

Chủ sở hữu đối với TSTT là người có các quyền đối với TSTT, là chủ thể đã bỏ

thời gian, tài chính của mình để tác giả có được tài sản, theo hợp đồng lao động, hợp

đồng thuê, hoặc chính là tác giả nếu họ đồng thời bỏ tài chính ra để tạo ra tài sản. Chủ

sở hữu là người nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế, nhận chuyển giao

QSHTT từ chủ thể khác. Do đó, họ có các quyền năng của một chủ sở hữu đối với tài

sản của mình.

Quyền SHTT là quyền sở hữu đối với các TSTT. Quyền sở hữu bao gồm: quyền

chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Quyền chiếm hữu TSTT được thể hiện

rất mờ nhạt và trongmột số trường hợp nhất định là không có ý nghĩa. Đối với quyền

sử dụng, tùy thuộc vào từng đối tượng của quyền SHTT mà việc sử dụng được thể hiện

khác nhau. Quyền định đoạt đối với TSTT được thể hiện gần giống như quyền định

đoạt tài sản hữu hình.

Quyền sử dụng TSTT là quyền của chủ sở hữu được sử dụng và hưởng lợi tức từ

TSTT. Chủ sở hữu TSTT có thể thực hiện quyền sử dụng của mình thông qua các

phương thức sử dụng TSTT khác nhau như: tự mình trực tiếp khai thác, sử dụng TSTT

hoặc cho phép người khác khai thác, sử dụng TSTT để đổi lại những khoản lợi tức nhất

định thông qua việc cho thuê, license, chuyển giao công nghệ,…

Quyền định đoạt TSTT là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu TSTT

cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu TSTT của mình. Việc từ bỏ quyền sở hữu đối

với TSTT của mình được thực hiện bằng việc tuyên bố từ bỏ QSHTT được bảo hộ

trong thời gian bảo hộ.Việc chuyển giao quyền sở hữu TSTT cho người khác diễn ra

phổ biến dưới các hình thức như chuyển nhượng, góp vốn bằng QSHTT, sử dụng

TSTT để bảo đảm tiền vay,…

Như vậy, các chủ sở hữu có đầy đủ các quyền của chủ sở hữu đối với TSTT, bao

gồm quyền dùng QSHTT của mình để bảo đảm cho các khoản vay với các ngân hàng

thương mại.

1.2.1.4. Điều kiện để QSHTT trở thành tài sản bảo đảm

- QSHTT thuộc sở hữu của bên bảo đảm.

Việc chứng minh QSHTT của một chủ thể được thể hiện qua một số giấy tờ pháp

lý liên quan đến QSHTT. Tùy thuộc vào đối tượng QSHTT và việc chủ thể có QSHTT

thông qua cách thức nào mà sẽ có những giấy tờ pháp lý thể hiện tương ứng.

- QSHTT phải còn trong thời hạn bảo hộ.

Điều kiện này của QSHTT là nhằm bảo đảm điều kiện đầu tiên của QSHTT. Bởi

QSHTT là một quyền sở hữu có thời hạn, thời hạn bảo hộ do pháp luật quy định. Hết

thời hạn bảo hộ, các đối tượng QSHTT sẽ không còn là tài sản thuộc sở hữu của bên

bảo đảm, mà thuộc quyền sở hữu của công chúng, mọi người đều có quyền sử dụng,

khai thác đối với TSTT đó mà không cần phải xin phép hoặc bị người khác cản trở,

thậm chí cả người đã sáng tạo ra TSTT. Do đó, một QSHTT chỉ được sử dụng làm tài

sản bảo đảm khi thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, tức là còn thời hạn bảo hộ. Việc

còn thời hạn bảo hộ cũng nhằm bảo đảm giá trị của QSHTT.

- QSHTT không phải là đối tượng của một tranh chấp bất kỳ

Khi một QSHTT là đối tượng của một tranh chấp, tranh chấp có thể là tranh chấp

quyền sở hữu, tranh chấp liên quan đến hành vi xâm phạm quyền và bồi thường thiệt

hại, thì một phán quyết được đưa ra có thể bất lợi cho bên bảo đảm, đồng thời đẩy tỷ lệ

rủi ro của NHTM lên cao. Do đó, để giảm thiểu rủi ro cho NHTM, yêu cầu này đối với

QSHTT là phù hợp.

1.2.2. Khái quát về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

1.2.2.1. Khái niệm biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại mang bản chất là hợp đồng vay tài

sản. Nên biện pháp bảo đảm tiền vay cũng mang bản chất là các biện pháp bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ.

Biện pháp bảo đảm là công cụ hữu hiệu nhằm ngăn ngừa hành vi vi phạm của

bên có nghĩa vụ, vừa bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền.

Trong giao lưu dân sự, đặc biệt là trong quan hệ kinh doanh - thương mại, biện pháp

bảo đảm có vai trò rất quan trọng.

Hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới (Civil Law và Common Law) có những

cách tiếp cận khác nhau về giao dịch bảo đảm, dựa trên truyền thống lịch sử pháp luật,

đó là tiếp cận theo hình thức hoặc chức năng.

Các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law như Pháp, Đức, Nhật Bản, Thái

Lan,… tiếp cận theo hướng hình thức, tức là quan tâm đến việc phân biệt các biện pháp

đảm bảo và đưa ra từng khái niệm riêng cho từng loại biện pháp bảo đảm mà không có

một khái niệm chung. Do đó, giao dịch bảo đảm trong pháp luật của các nước theo hệ

thống pháp luật này, được định nghĩa theo hướng liệt kê, bao gồm các biện pháp bảo

đảm như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh,…

Trong khi đó, các nước trong hệ thống pháp luật Common Law, tiêu biểu là

Anh, Hoa Kỳ, Canada,.. tiếp cận giao dịch bảo đảm theo hướng chức năng – hướng đến

một lợi ích bảo đảm. Theo đó, giao dịch bảo đảm là một hợp đồng xác lập lợi ích bảo

đảm. Một lợi ích bảo đảm cung cấp cho bên nhận bảo đảm với sự đảm bảo rằng nếu

bên bảo đảm không trả được nợ, người đó có thể được hoàn lại giá trị của khoản vay

bằng cách sở hữu tài sản bảo đảm cụ thể (với tư cách là chủ nợ có bảo đảm), thay vì chỉ

nhận một phần tài sản của người vay sau khi tài sản đó được chia trong số tất cả các

chủ nợ. Các biện pháp bảo đảm cụ thể bao gồm: Bảo lãnh, cầm cố, thế chấp. Ngoài ra

một biện pháp bảo đảm khác phổ biến trong hệ thống pháp luật Common Law, trong

đó bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm thỏa thuận với nhau về việc bên bảo đảm trao

cho bên nhận bảo đảm một quyền hoặc lợi ích trên tài sản của mình, lợi ích hoặc quyền

đó được gọi là “đặc quyền”.

Như vậy hiện nay không có một khái niệm chung dùng cho biện pháp bảo đảm,

pháp luật mỗi quốc gia đều có một khái niệm riêng về biện pháp bảo đảm. Tuy nhiên,

qua phân tích trên thì có thể hiểu, biện pháp bảo đảm là một giao dịch hoặc biện pháp

thiết lập một lợi ích bảo đảm hoặc một đặc quyền cho bên có quyền, nhằm bảo đảm

việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Vậy biện pháp bảo đảm trong hoạt động

cho vay của ngân hàng là sự thỏa thuận giữa ngân hàng thương mại và khách hàng về

việc thiết lập một lợi ích bảo đảm hoặc một đặc quyền cho ngân hàng, nhằm bảo đảm

việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng.

1.2.2.2. Đặc điểm

Biện pháp bảo đảm tiền vay mang mang bản chất là một giao dịch, do vậy, bao

gồm các đặc điểm cơ bản của một giao dịch nói chung. Đồng thời, biện pháp bảo đảm

tiền vay vẫn mang những đặc điểm riêng, giúp phân biệt giao dịch bảo đảm với các loại

giao dịch khác, cụ thể:

- Biện pháp bảo đảm là sự thỏa thuận xác lập đặc quyền hoặc lợi ích đối với tài

sản thuộc sở hữu của người vay (hoặc bên thứ ba) hoặc một cam kết thực hiện nghĩa vụ

thay thế của người thứ ba cho ngân hàng.

Xuất phát từ mục đích của biện pháp bảo đảm tiền vay là nhằm đảm bảo thực

hiện nghĩa vụ trả nợ của người vay, một lợi ích hoặc đặc quyền sẽ được thiết lập trên

tài sản thuộc sở hữu của người vay cho ngân hàng. Theo đó, ngân hàng có quyền truy

đòi tài sản hoặc kiểm soát lưu thông và quyền ưu tiên thanh toán so với các chủ nợ

không có tài sản bảo đảm khác khi xử lý tài sản bảo đảm.

- Biện pháp bảo đảm tiền vay là giao dịch phụ bên cạnh giao dịch chính là giao

dịch cho vay giữa ngân hàng và người vay

Biện pháp bảo đảm tiền vay là nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người

vay khi đến hạn thực hiện, do đó, một trong các căn cứ phát sinh biện pháp bảo đảm là

giao dịch cho vay, nội dung của biện pháp bảo đảm (thời hạn bảo đảm, nội dung, hiệu

lực của giao dịch bảo đảm) phải phù hợp với giao dịch cho vay, nghĩa vụ trả nợ chấm

dứt cũng làm chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm.

Khi nghĩa vụ được bảo đảm (giao dịch được bảo đảm) vô hiệu, hủy bỏ, đơn

phương chấm dứt thì nghĩa vụ bảo đảm (biện pháp bảo đảm) cũng không phát sinh hiệu

lực. Trong trường hợp giao dịch được bảo đảm vô hiệu, bị hủy bỏ hoặc đơn phương

chấm dứt và các bên chưa thực hiện toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ của mình thì biện

pháp bảo đảm đương nhiên chấm dứt. Tuy nhiên, nếu các bên đã thực hiện một phần

giao dịch được bảo đảm thì biện pháp bảo không bị chấm dứt mà tồn tại cho đến khi

các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

- Biện pháp bảo đảm tiền vay được xác lập dựa trên sự thỏa thuận của hai bên và

trên cơ sở pháp luật.

Biện pháp bảo đảm tiền vay là một dạng của giao dịch dân sự, do đó, nó tuân theo

các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự là tự do, tự nguyện thỏa thuận. Theo đó các bên

trong giao dịch bảo đảm được tự do thỏa thuận để xác lập quyền và nghĩa vụ của mình.

Nếu có sự đe dọa, cưỡng ép, lừa dối của một hoặc hai bên thì giao dịch bảo đảm có thể

bị tuyên bố vô hiệu.

- Mục đích của việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay là nhằm phòng ngừa

và hạn chế rủi ro cho ngân hàng .

Hoạt động cho vay của ngân hàng là một hoạt động mang nhiều rủi ro, rủi ro

thường xuất hiện từ phía người vay và gây thiệt hại cho phía ngân hàng khi người vay

không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Do đó, để nâng cao trách

nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng theo thỏa thuận, hạn chế sự tùy tiện, không tự

giác thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người vay, biện pháp bảo đảm tiền vay đã được ra

đời để phòng ngừa rủi ro.

Đồng thời, với một đặc quyền hoặc lợi ích trên tài sản bảo đảm, ngân hàng có thể

thu hồi được khoản tiền cho vay từ chính giá trị của tài sản bảo đảm. Hay nói cách

khác, biện pháp bảo đảm tiền vay tạo cơ sở kinh tế, pháp lý để ngân hàng thu hồi số

tiền vay, hạn chế rủi ro khi người vay không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.

1.2.3. Biện pháp bảo đảm QSHTT trong hoạt động cho vay của ngân

hàng thương mại.

1.2.3.1. Các biện pháp bảo đảm cụ thể:

- Bảo lãnh:

Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm có sự tham gia của bên thứ ba (bên bảo lãnh) cam

kết việc thực hiện nghĩa vụ đối với ngân hàng (bên nhận bảo lãnh) thay cho người vay

(bên được bảo lãnh) trong trường hợp người vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ (không thực

hiện hoặc thực hiện không đúng theo thỏa thuận).

Đối tượng của biện pháp bảo lãnh là cam kết trả nợ của bên bảo lãnh đối với bên

nhận bảo lãnh. Cam kết này có thể đơn thuần dựa trên uy tín của bên bảo lãnh hoặc

một sự cam kết được bảo đảm bằng tài sản của bên bảo lãnh. Trong bảo lãnh đơn

thuần, bên nhận bảo lãnh tin tưởng vào uy tín, khả năng thực hiện cam kết của bên bảo

lãnh. Nên tài sản của bên bảo lãnh nói chung, QSHTT của bên bảo lãnh nói riêng

không có ý nghĩa trong biện pháp bảo lãnh. Đối với bảo lãnh bằng tài sản, ngân hàng

chưa thực sự tin tưởng vào uy tín và một cam kết đơn thuần của bên bảo lãnh mà cần

một sự chắc chắn hơn nữa bằng tài sản của bên bảo lãnh. Bên cho vay yêu cầu bên bảo

lãnh sử dụng tài sản của mình để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh của mình. Biện pháp

bảo lãnh bằng tài sản của bên bảo lãnh thực chất là biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản

để bảo đảm nghĩa vụ của người khác hay nói cách khác là biện pháp cầm cố, thế chấp

bằng tài sản của bên thứ ba.

- Cầm cố tài sản:

Cầm cố là biện pháp bảo đảm bằng việc người vay giao tài sản thuộc quyền sở

hữu của mình cho bên ngân hàng nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Phương thức

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong biện pháp cầm cố là hạn chế quyền định đoạt tài sản

của người vay, đồng thời xác lập một đặc quyền lên tài sản cầm cố cho phía ngân hàng,

bằng việc giao tài sản cầm cố cho phía ngân hàng chiếm giữ, quản lý.

Tuy nhiên, tùy theo pháp luật của từng quốc gia mà biện pháp bảo đảm cầm cố tài

sản có những đặc trưng riêng và có khả năng áp dụng đối với tài sản bảo đảm là

QSHTT.

Điều 2071 BLDS Pháp quy định: “Cầm cố là một hợp đồng theo đó người có

nghĩa vụ trao cho người có quyền một vật nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ”. Với quy định

này nước Pháp đã cho phép mọi loại tài sản là tài sản cầm cố, không kể là tài sản hữu

hình hay vô hình, động sản hay bất động sản. Ngoài ra, đối với quyền tài sản, nước

Pháp coi việc “trao” loại tài sản này của bên có nghĩa vụ cho bên có quyền là việc trao

các giấy tờ sở hữu của tài sản. Do đó, pháp luật Pháp cho phép cầm cố QSHTT. Một số

quốc gia khác cũng có quy định tương tự Pháp như: Áo, Bỉ, Cộng hòa Séc, Đức, Italy,

Hà Lan, Ba Lan,…

Trong khi đó, pháp luật của một số quốc gia như Mỹ, Anh và xứ Wales, Ireland,

Slovakia, Tây Ban Nha,… yêu cầu đối với biện pháp cầm cố tài sản là chuyển giao tài

sản về mặt vật lý cho bên có quyền. Do đó, tài sản cầm cố phải là tài sản hữu hình, một

tài sản vô hình như QSHTT, không thể cầm nắm, chuyển giao trực tiếp được thì không

thể là đối tượng của biện pháp cầm cố tài sản.

- Thế chấp tài sản:

Thế chấp là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo đó bên thế chấp dùng

tài sản (là bất động sản hoặc động sản tùy pháp luật từng quốc gia ghi nhận) thuộc sở

hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Tài sản thế chấp không có sự chuyển

giao tài sản mà do bên thế chấp tiếp tục sở nắm giữ, sử dụng và định đoạt trong một số

trường hợp. Khi bên thế chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình đi thế chấp, bên nhận

thế chấp đã xác lập một vật quyền lên tài sản, do đó bên nhận thế chấp có quyền ưu

tiên thanh toán khi xử lý tài sản và quyền theo đuổi bất kể tài sản do ai nắm giữ.

Các hệ thống pháp luật khác nhau (Common Law và Civil Law) và các quốc gia

khác nhau trong cùng một hệ thống pháp luật cũng có những cách tiếp cận khác nhau

đối với biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản, đó là yêu cầu đối với tài sản thế chấp...

Theo pháp luật của một số nước theo hệ thống pháp luật Civil Law như Pháp,

Đức, Bỉ, Hà Lan, bang Louisiana (Hoa Kỳ) – có truyền thống pháp luật đặc biệt

nghiêng về Civil Law,... thế chấp là một quyền tài sản đối với bất động sản được sử

dụng đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ, do đó, biện pháp thế chấp không áp dụng đối

với loại tài sản là QSHTT.

Điều 2118 BLDS Pháp quy định:

“Chỉ có thể đem thế chấp:

- Những bất động sản trong thương mại và những vật phụ của bất động sản được

coi là bất động sản;

- Quyền hưởng hoa lợi trên một tài sản và những vật phụ trong thời gian có

quyền hưởng hoa lợi.”

Trong khi một số quốc gia khác đi theo hệ thống pháp luật Civil Law như Thái

Lan, Tây Ban Nha, Trung Quốc và trong đó có Việt Nam không hạn chế phạm vi tài

sản áp dụng đối với biện pháp thế chấp, theo đó QSHTT là một động sản vô hình,

không thể chuyển giao về mặt vật chất là phù hợp để làm tài sản thế chấp.

Điều 702 BLDS và Thương mại Thái Lan quy định :

“Hợp đồng thế chấp là hợp đồng qua đó, một người gọi là người thế chấp

nhượng một tài sản cho một người khác, gọi là người nhận thế chấp như một bảo đảm,

để thi hành một nghĩa vụ, nhưng không giao tài sản đó cho người nhận thế chấp.

Người nhận thế chấp có quyền được trả tiền đối với tài sản thế chấp ưu tiên trước

những chủ nợ thường, bất luận là quyền sở hữu đối với tài sản đó đã được chuyển

nhượng cho một người thứ ba hay chưa”.

Các quốc gia theo hệ thống pháp luật Common Law như: Mỹ, Anh và xứ Wales,

Ireland, Hungary, Slovakia,… và một số nước theo hệ thống Civil Law như Tây Ban

Nha không quy định bắt buộc tài sản thế chấp là bất động sản, nên quy định cho phép

sử dụng QSHTT là tài sản thế chấp.

- “Đặc quyền”:

Trong pháp luật Anh-Mỹ tồn tại khái niệm đặc quyền “charge” (luật của Anh)

hoặc “lien” (luật của Mỹ). “Đặc quyền là một quyền hoặc lợi ích pháp lý mà chủ nợ có

được trên một tài sản của một người khác tồn tại cho đến khi nghĩa vụ được bảo đảm

bởi đặc quyền này được hoàn thành”. Đặc quyền bao gồm đặc quyền chấp hữu, hay đặc

quyền đặc định (quyền cầm giữ tài sản) “artisan’s lien” và đặc quyền không chấp hữu,

hay đặc quyền thả nổi (đặc quyền không cầm giữ tài sản) “mechanic’s liens”.

Đặc quyền đặc định là đặc quyền được thiết lập trên một tài sản được đặc định

hóa như đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông,… Do đó chủ sở

hữu tài sản bị hạn chế quyền tự do định đoạt tài sản trong kinh doanh cho đến khi hoàn

thành nghĩa vụ của mình.

Đặc quyền thả nổi là đặc quyền được thiết lập trên một hoặc một tập hợp tài sản

không được đặc định hóa, có thể thay đổi theo thời gian như: hàng hóa lưu chuyển

trong kinh doanh, hàng tồn kho,.... Bên có nghĩa vụ không bị hạn chế quyền định đoạt

đối với tài sản mà có thể tự do giao dịch đối với tài sản, tuy nhiên phải bảo đảm luôn

có tài sản bảo đảm và tài sản bảo đảm phải có giá trị.

Đặc quyền có thể phát sinh theo thỏa thuận của các bên hoặc được quy định bởi

pháp luật. Đặc quyền được thiết lập trên một tài sản hoặc một tập hợp tài sản, đặc định

hoặc không đặc định, không phân biệt là động sản hay bất động sản. Như vậy, khi xác

lập các hợp đồng tín dụng, ngân hàng và bên vay có thể thỏa thuận xác lập một đặc

quyền lên QSHTT của bên vay.

Như vậy, qua việc tìm hiểu quy định về biện pháp bảo đảm của một số quốc gia,

đối chiếu đặc trưng của từng biện pháp bảo đảm cụ thể với đặc điểm của QSHTT, ta

thấy rằng các biện pháp bảo lãnh không phù hợp để áp dụng khi muốn dùng QSHTT để

bảo đảm cho khoản vay. Đối với biện pháp cầm cố, thế chấp, tùy thuộc quy định pháp

luật của từng quốc gia đối với đặc trưng của biện pháp bảo đảm và tài sản bảo đảm mà

có cho phép hoặc không cho phép áp dụng biện pháp cầm cố, thế chấp đối với

QSHTT. Ngoài ra, các nước theo hệ thống pháp luật Common Law với chế định “đặc

quyền” trên tài sản bảo đảm, có thể thỏa thuận xác lập một đặc quyền trên QSHTT tuệ

để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

1.2.3.2. Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay bằng QSHTT và quyền ưu tiên

Giao dịch bảo đảm tiền vay bằng QSHTT là sự thỏa thuận giữa ngân hàng và

người vay về việc xác lập một quyền hoặc lợi ích bảo đảm đối với QSHTT của bên vay

cho ngân hàng, do đó, giao dịch chỉ làm phát sinh hiệu lực đối với hai bên chủ thể của

giao dịch. Để giao dịch có hiệu lực đối kháng với bên thứ ba, thông tin về giao dịch

bảo đảm cần được công khai hóa.

Công khai hóa giao dịch bảo đảm được thực hiện dưới nhiều hình thức như đăng

ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền, hoặc chiếm hữu trực tiếp tài sản bảo

đảm. Việc áp dụng hình thức công khai thông tin nào phụ thuộc vào pháp luật của từng

quốc gia và loại giao dịch bảo đảm cần công khai. Đối với biện pháp thế chấp tài sản

và thỏa thuận xác lập “đặc quyền”, bởi khi mà áp dụng các biện pháp bảo đảm này,

phía ngân hàng không cầm giữ và quản lý trực tiếp tài sản bảo đảm nên một thủ tục

đăng ký giao dịch bảo đảm là cần thiết để công khai hóa thông tin cho bên thứ ba biết.

Còn trường hợp cầm cố, việc nắm giữ và kiểm soát tài sản cầm cố đã trực tiếp công

khai hóa thông tin và xác lập cho ngân hàng quyền ưu tiên thanh toán đầu tiên khi xử

lý tài sản bảo đảm.

Như vậy việc đăng ký giao dịch bảo đảm bằng QSHTT có ý nghĩa rất lớn đối với

các bên trong giao dịch bảo đảm và bên thứ ba, đặc biệt là phía ngân hàng. Với việc

đăng ký giao dịch bảo đảm, quyền lợi của các bên được công khai hóa, mọi người (đặc

biệt là chủ thể có dự định giao kết hợp đồng liên quan đến QSHTT) có thể tiếp cận và

nắm được tình trạng pháp lý của QSHTT, để đưa ra những quyết định phù hợp. Đồng

thời, đăng ký giao dịch bảo đảm xác lập thứ tự ưu tiên thanh toán cho bên ngân hàng

trong trường hợp một tài sản được dùng để thực hiện nhiều nghĩa vụ.

Trong trường hợp một tài sản được dùng để thực hiện nhiều nghĩa vụ, thứ tự ưu

tiên thanh toán được xác định theo hình thức công khai hóa giao dịch bảo đảm và thời

gian đăng ký. Do đó, chủ nợ có bảo đảm được quyền ưu tiên thanh toán trước các chủ

nợ không có bảo đảm; trong trường hợp có nhiều chủ nợ có bảo đảm thì thứ tự ưu tiên

phụ thuộc vào thời gian đăng ký giao dịch bảo đảm, chủ nợ đăng ký giao dịch bảo đảm

trước được ưu tiên thanh toán trước chủ nợ đăng ký sau.

Tuy nhiên, tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia mà việc đăng ký giao dịch bảo

đảm không phải là điều bắt buộc, trong đó pháp luật Đức, Nhật Bản không bắt buộc

đăng ký; còn pháp luật Pháp yêu cầu bắt buộc đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngoài ra,

tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia mà việc đăng ký giao dịch bảo đảm làm phát sinh

một trong hai loại hiệu lực sau đây:

- Đăng ký giao dịch bảo đảm là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực, tức là

điều kiện để xác lập quyền. (pháp luật Đức)

- Đăng ký giao dịch bảo đảm là điều kiện để vật quyền hay giao dịch bảo đảm có

hiệu lực đối kháng với bên thứ ba. (pháp luật Pháp, Nhật Bản,…)

1.2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong thời hạn bảo đảm

- Đối với hoa lợi, lợi tức thu được từ việc sử dụng QSHTT

Trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng QSHTT, tùy theo pháp luật của từng quốc

gia mà ngân hàng và bên bảo đảm có những quyền và nghĩa vụ nhất định đối với tài

sản bảo đảm và đối với bên còn lại. Tuy nhiên, với đặc điểm chung của các biện pháp

bảo đảm là xác lập cho bên ngân hàng một quyền hoặc một lợi ích bảo đảm đối với

QSHTT, thì bên ngân hàng thường có quyền kiểm soát lưu thông đối với QSHTT của

bên bảo đảm, hay nói cách khác là quyền hạn chế quyền định đoạt tài sản của bên bảo

đảm. Bên bảo đảm được giữ lại quyền sử dụng đối với tài sản bảo đảm. Theo đó, bên

bảo đảm không được chuyển nhượng, trao đổi, tặng cho, góp vốn bằng tài sản bảo đảm

nếu không được sự đồng ý của phía ngân hàng, nhưng được quyền trực tiếp khai thác

QSHTT hoặc cho phép người khác, sử dụng QSHTT. Việc cho phép người khác khai

thác, sử dụng QSHTT mang lại một khoản tiền, hay còn gọi là lợi tức. Vậy một vấn đề

đặt ra là khoản lợi tức thu được từ tài sản bảo đảm trong thời hạn bảo đảm sẽ thuộc sở

hữu của ai?

Đối với các loại tài sản bảo đảm là tài sản hữu hình thì hoa lợi, lợi tức thu được từ

việc khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm trong quá trình thực hiện biện pháp bảo đảm

thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm. Điều này dựa trên nguyên tắc của các biện pháp

bảo đảm chỉ làm hạn chế quyền định đoạt tài sản của bên bảo đảm, quyền sử dụng

không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên đối với QSHTT - một loại tài sản vô hình, giá trị của

tài sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan, không nằm trong tầm kiểm soát của chủ

sở hữu tài sản, thì rủi ro của bên ngân hàng bị đẩy lên cao hơn. Do đó, để hạn chế rủi ro

cho ngân hàng thì các khoản hoa lợi, lợi tức thu được từ việc cấp phép sử dụng QSHTT

thường được tự động gắn liền với lợi ích bảo đảm. Theo quy định tại § 9-203(f) của Bộ

luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ về giao dịch bảo đảm (2010), nguyên tắc đính kèm

một lợi ích bảo đảm trên tài sản bảo đảm đã trao cho bên được bảo đảm quyền đối với

lợi tức thu được, tức là lợi tức thu được tài sản sản bảo đảm cũng nằm trong phạm vi

bảo đảm. Điều 80 Luật bảo đảm của Trung Quốc (China’s Security Law) cũng có quy

định tương tự: Trong trường hợp bên ngân hàng đồng ý chuyển nhượng hoặc cấp giấy

phép về QSHTT, phí chuyển nhượng hoặc phí cấp giấy phép mà bên bảo đảm thu được

sẽ được sử dụng để trả nợ, hoặc sẽ bị thu hồi và giao cho bên thứ ba quản lý theo thỏa

thuận trong hợp đồng cầm cố.

Như vậy ngân hàng và bên bảo đảm có thể thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm về

việc lợi ích thu được từ việc cấp phép QSHTT sẽ được sử dụng để trực tiếp thực hiện

nghĩa vụ trả nợ hoặc được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ

thanh toán.

- Trách nhiệm đối với rủi ro về QSHTT:

QSHTT với đối tượng là TSTT luôn ẩn chứa nhiều rủi ro. Rủi ro đến từ nhiều

nguyên khác nhau như nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan. Việc sử dụng

QSHTT làm tài sản bảo đảm cho khoản vay chỉ có ý nghĩa và thành công khi các bên

nhận diện được các rủi ro và có những biện pháp để hạn chế và kiểm soát rủi ro. Các

rủi ro cụ thể, bao gồm:

 Rủi ro về giá trị QSHTT.

QSHTT là một loại tài sản ngày càng có giá trị, xong giá trị của nó lại phụ thuộc

vào nhiều yếu tố khác nhau, một phần nằm trong tầm kiểm soát của chủ sở hữu như: sự

cải tiến và đổi mới TSTT, các hoạt động nhằm nâng cao giá trị QSHTT,… và yếu tố

nằm ngoài tầm kiểm soát của chủ sở hữu như nhu cầu của thị trường, các sản phẩm

tương tự có khả năng thay thế, khả năng bị xâm phạm QSHTT,…

Trong thời gian bảo đảm, rủi ro về giảm sút giá trị, thậm chí là mất giá trị của

QSHTT là có khả năng xảy ra. Một ví dụ điển hình của rủi ro về giá trị QSHTT là các

hành vi xâm phạm QSHTT. Sự xâm phạm QSHTT thường xảy ra với những sản phẩm

mới, khi nó chưa được biết đến rộng rãi nhưng có một sản phẩm tương tự nhái lại trên

thị trường đã được tung ra trước với giá thấp hơn giá của TSTT này. Lúc này khi TSTT

được đưa ra thị trường muộn hơn, dù được bảo hộ bởi Nhà nước nhưng cũng đã giảm

mất giá trị hoặc là không còn giá trị trên thị trường. Như vậy cơ sở kinh tế để bên ngân

hàng thu hồi khoản nợ khi khách hàng không trả được nợ có thể không được bảo đảm.

Tuy nhiên, vẫn chưa có quy định nào điều chỉnh trực tiếp vấn đề này để cân bằng lợi

ích của hai bên. Do đó, để giảm thiểu rủi ro, phía ngân hàng có thể áp dụng một số

phương án như quy định tỷ lệ cấp tín dụng trên giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn so với

tài sản thông thường; chủ động, tăng cường phối hợp với bên bảo đảm trong việc kiểm

soát, phát triển QSHTT; thỏa thuận với chủ sở hữu tài sản về một tài sản bảo đảm thay

thế,…

 Rủi ro pháp lý về quyền sở hữu đối với QSHTT của bên bảo đảm:

Quyền sở hữu của bên bảo đảm đối với QSHTT ngay từ ban đầu xác lập giao

dịch bảo đảm đã được làm rõ (điều kiện của tài sản bảo đảm), tuy nhiên trong thời gian

bảo đảm, rủi ro đối với quyền sở hữu đối với QSHTT vẫn có thể được đặt ra. Đó là

trường hợp QSHTT của bên bảo đảm có thể bị khởi kiện trong một vụ án và một phán

quyết của tòa án về bác bỏ quyền sở hữu của bên bảo đảm đối với QSHTT là có thể

xảy ra. Theo đó, giao dịch bảo đảm xác lập trên QSHTT này có thể bị vô hiệu, khoản

cho vay của ngân hàng có thể trở thành khoản vay không có bảo đảm. Để hạn chế rủi

ro cho ngân hàng, việc nắm bắt tình hình pháp lý của tài sản bảo đảm trong thời gian

bảo đảm là vô cùng quan trọng để hai bên có thể thỏa thuận về hướng giải quyết. Do

đó, phía ngân hàng cần có sự quản lý tài sản bảo đảm bằng việc yêu cầu bên bảo đảm

cung cấp thông tin về tài sản bảo đảm. Bên bảo đảm có nghĩa vụ cung cấp các thông tin

liên quan đến tài sản bảo đảm và chịu trách nhiệm về tính xác thực của các thông tin

mình cung cấp.

1.2.3.4. Xử lý QSHTT khi nghĩa vụ trả nợ bị vi phạm.

Trong một giao dịch bảo đảm cho một khoản vay, việc xử lý tài sản bảo đảm

không phải bao giờ cũng được đặt ra. Bởi nếu bên vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ của

mình đầy đủ, đúng hạn, giao dịch bảo đảm sẽ được chấm dứt, quyền hoặc lợi ích bảo

đảm trên tài sản bảo đảm chấm dứt. Tuy nhiên khi bên vay không thực hiện đúng nghĩa

vụ trả nợ, ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được khoản tiền vay thì việc xử lý tài

sản bảo đảm được xem như là “giải pháp cứu cánh” cho khoản vay của ngân hàng. Do

đó, xử lý tài sản bảo đảm là một vấn đề cốt lõi của giao dịch bảo đảm.

Tùy theo chính sách pháp luật của từng quốc gia mà bên ngân hàng có quyền áp

dụng các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm khác nhau, trong đó có một số biện pháp

truyền thống như: yêu cầu thực hiện nghĩa vụ hoặc thu hồi tài sản bảo đảm thông qua

một thủ tục tư pháp, bán đấu giá tài sản,… Tuy nhiên, việc xử lý tài sản bảo đảm có

hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác, thiện chí của bên bảo đảm,

nhưng không phải lúc nào sự thiện chí cũng xuất hiện khi xử lý tài sản. Do đó, để phù

hợp với đòi hỏi của thực tiễn, hiện đại hóa các biện pháp bảo đảm thì nhiều hình thức

xử lý bảo đảm được đưa ra, trao nhiều quyền hơn cho bên có quyền.

Theo quy định tại § 9-601 của Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ về giao

dịch bảo đảm (2010) đã trao cho chủ nợ quyền thực hiện các biện pháp xử lý tài sản

bảo đảm khi người vay vỡ nợ, theo đó ngân hàng có thể áp dụng các biện pháp sau:

giảm yêu cầu bồi thường, tịch thu tài sản thế chấp hoặc thực hiện yêu cầu bồi thường

hoặc lợi ích an ninh bằng bất kỳ thủ tục tư pháp nào có sẵn, và các quyền này có thể

được thực hiện đồng thời; Tự thu hồi tài sản theo nguyên tắc “without breach of the

peace” - không xâm phạm đến đến hòa bình (có thể hiểu là hành vi không xúc phạm

danh dự, nhân phẩm, thân thể, sức khỏe, tài sản và quyền lợi hợp pháp khác); Xử lý tài

sản bảo đảm bằng các hình thức bán, cho thuê, cấp phép,… với điều kiện phải thực

hiện các quy định về thông báo và sử dụng số tiền thu được từ việc xử lý tài sản theo

quy định của luật; Nhận tài sản bảo đảm để thay thế nghĩa vụ, với điều kiện được sự

đồng ý của bên bảo đảm.

1.3. Kinh nghiệm quốc tế về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng quyền sở

hữu trí

1.3.1. Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là một quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất thế giới, một trong những

yếu tố góp phần dẫn đến sự hùng mạnh đó là QSHTT. Ngành công nghiệp giải trí,

ngành công nghiệp xe hơi, các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,… mang

lại lợi nhuận cho nước Hoa Kỳ, thực chất là dựa trên nền tảng QSHTT. Để khai thác tối

đa lợi ích mà sở hữu trí tuệ mang lại, Hoa Kỳ đã sử dụng sở hữu trí tuệ như là tài sản

bảo đảm cho các khoản vay có bảo đảm đảm (QSHTT -Backed Financing). Việc cho

vay có bảo đảm bằng QSHTT được dựa trên hai nền tảng chính là hệ thống pháp luật

về bảo hộ và thực thi sở hữu trí tuệ mạnh và chế độ giao dịch bảo đảm hiện đại.

Chế độ pháp luật về giao dịch bảo đảm được điều chỉnh bởi Điều 9 Bộ luật

thương mại thống nhất (Điều 9 UCC) được thông qua năm 1952 bởi 50 bang của Hoa

Kỳ, phiên bản cập nhật mới nhất là bản năm 2010. Điều 9 UCC có thể được coi là

phần hoàn thiện nhất của Bộ luật thương mại thống nhất. Việc ban hành Điều 9 đặt dấu

mốc quan trọng trong lịch sử của luật giao dịch bảo đảm trên toàn thế giới, đánh dấu sự

ra đi của chế độ giao dịch bảo đảm truyền thống và hiện đại. Điều 9 đã trở thành mô

hình cải cách luật giao dịch bảo đảm ở nhiều quốc gia, cũng như là nền tảng để xây

dựng các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực trong các giao dịch bảo đảm, ví dụ như Luật về

Các giao dịch bảo đảm của Ngân hàng Châu Âu (EBRD) (2004) và Hướng dẫn Lập

pháp của UNCITRAL về Giao dịch bảo đảm (2007).

Theo Điều 9 UCC, QSHTT là một tài sản vô hình, các giao dịch bảo đảm bằng

QSHTT được thực hiện theo quy định của Điều 9 UCC đối với tài sản vô hình. Các

quy định pháp luật cụ thể:

Xác lập giao dịch bảo đảm: -

Giao dịch bảo đảm với tài sản bảo đảm là QSHTT được xác lập theo thỏa thuận

của các bên. Trừ trường hợp nội dung thỏa thuận trái pháp luật, thỏa thuận đương

nhiên có hiệu lực đối rằng buộc đối với hai bên. Các tài liệu cần có để thiết lập một

giao dịch bảo đảm là hối phiếu nhận nợ và hợp đồng bảo đảm có mô tả về tài sản bảo

đảm và có chữ ký của con nợ. Để phát sinh hiệu lực với bên thứ ba, giao dịch bảo đảm

phải được hoàn thiện “perfection”, tức là thực hiện thủ tục pháp lý nhất định để công

khai hóa các thông tin về giao dịch bảo đảm cho người thứ ba biết. Phương thức hoàn

thiện giao dịch bảo đảm bằng QSHTT là đăng ký giao dịch bảo đảm tại văn phòng thư

ký bang hoặc cơ quan tương đương nơi con nợ cư trú. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm

rất đơn giản, thuận lợi vì mang tính chất lưu trữ thông tin và thông báo.

Quyền ưu tiên: -

Quyền ưu tiên là vấn đề cốt lõi của giao dịch bảo đảm, đặc biệt là khi xử lý tài sản

bảo đảm trong trường hợp một tài sản bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ. Quyền ưu

tiên của chủ nợ được xác định theo vị thế của giao dịch bảo đảm và nguyên tắc ưu tiên

theo thứ tự thời gian (the first in time). Đối với việc đăng ký giao dịch bảo đảm trí tuệ

(cùng loại ưu tiên) thì thứ tự ưu tiên được xác định theo thứ tự thời gian, giao dịch nào

đăng ký trước thì được quyền ưu tiên thanh toán trước.

Xử lý tài sản bảo đảm: -

Ngân hàng có thể áp dụng một trong số các hình thức xử lý tài sản bảo đảm theo

quy định tại tại § 9-601 của Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ về giao dịch bảo

đảm (2010), bao gồm: Giảm yêu cầu bồi thường, tịch thu tài sản thế chấp hoặc thực

hiện yêu cầu bồi thường hoặc lợi ích an ninh bằng bất kỳ thủ tục tư pháp nào có sẵn, và

các quyền này có thể được thực hiện đồng thời; Tự thu hồi tài sản theo nguyên tắc

“without breach of the peace” - không xâm phạm đến đến hòa bình (có thể hiểu là hành

vi không xúc phạm danh dự, nhân phẩm, thân thể, sức khỏe, tài sản và quyền lợi hợp

pháp khác); Xử lý tài sản bảo đảm bằng các hình thức bán, cho thuê, cấp phép,… với

điều kiện phải thực hiện các quy định về thông báo và sử dụng số tiền thu được từ việc

xử lý tài sản theo quy định của luật; Nhận tài sản bảo đảm để thay thế nghĩa vụ, với

điều kiện được sự đồng ý của bên bảo đảm.

1.3.2. Trung Quốc

Trung Quốc đã rất tích cực trong việc ban hành các quy định cụ thể điều chỉnh

việc sử dụng tài sản QSHTT làm tài sản thế chấp trong cho vay có bảo đảm, được gọi

là "cầm cố QSHTT". Trung Quốc là nước duy nhất ban hành các quy tắc riêng về cầm

cố sở hữu trí tuệ vào những năm 1990, và các quy tắc này gần đây được thay thế bằng

những cam kết mới trong năm 2009 và 2010 với các nội dung cụ thể:

Các yêu cầu chính thức đối với biện pháp cầm cố QSHTT: -

Pháp luật Trung Quốc tiếp cận theo hướng bảo vệ lợi ích của các ngân hàng cho

các doanh nghiệp vay dựa trên tài sản là QSHTT. Do đó, luật pháp Trung Quốc sẽ tạo

ra nhiều biện pháp bảo vệ, bao gồm các thủ tục về giao kết hợp đồng cầm cố QSHTT

và các yêu cầu về tính hợp lệ đối với tài sản bảo đảm được cầm cố. Tất cả các hợp

đồng cầm cố QSHTT phải bằng văn bản và phải được đăng ký với cơ quan quản lý

QSHTT có liên quan. Các hợp đồng này chỉ có hiệu lực sau khi đăng ký. Tài sản cầm

cố là QSHTT được yêu cầu nghiêm ngặt:

 Bên cầm cố phải là bên có quyền sở hữu đối với đối tượng QSHTT được ghi

nhận trong hồ sơ của cơ quan có liên quan.

 Thời hạn bảo hộ sở hữu trí tuệ chưa hết hạn, hoặc phải được gia hạn thường

xuyên trong trường hợp thế chấp nhãn hiệu.

 Không có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc tính hợp lệ của SHTT.

 Thời hạn của khoản vay không thể vượt quá thời hạn bảo hộ sở hữu trí tuệ.

Trong thời hạn cam kết, nếu cơ quan có liên quan phát hiện thấy rằng bất kỳ yêu

cầu nào nêu trên không được đáp ứng thì sẽ huỷ bỏ việc đăng ký cầm cố, và việc đăng

ký sẽ bị vô hiệu ngay từ đầu.

Quyền của ngân hàng và bên cầm cố. -

Người vay không thể định đoạt quyền SHTT hoặc cấp phép QSHTT mà không có

sự chấp thuận của bên ngân hàng. Trong trường hợp bên ngân hàng đồng ý chuyển

nhượng hoặc cấp giấy phép về QSHTT, phí chuyển nhượng hoặc phí cấp giấy phép mà

người đòi nợ thu được sẽ được sử dụng để trả nợ, hoặc sẽ bị thu hồi và giao cho bên

thứ ba quản lý theo thỏa thuận trong hợp đồng cầm cố. Điều này cho thấy rằng lợi tức

thu được từ tài sản bảo đảm cũng được bao gồm trong phạm vi của cầm cố QSHTT.

Nếu người nợ giao quyền hoặc cho phép sở hữu sổ cầm cố mà không có sự chấp thuận

của bên được bảo đảm thì việc chuyển nhượng hoặc giấy phép sẽ bị coi là không hợp lệ

và người vay sẽ phải chịu trách nhiệm về "hậu quả tổn thất" của bên ngân hàng.

Ngoài ra, cơ quan quản lý có thẩm quyền tiến hành hỗ trợ bên ngân hàng trong

việc quản lý QSHTT trong thời gian bảo đảm. Trong thời hạn bảo hộ bằng sáng chế và

thời gian áp dụng biện pháp cầm cố QSHTT, SQSHTT O sẽ không xử lý các thủ tục

cho việc từ bỏ quyền, chuyển nhượng hoặc cấp phép bằng độc quyền sáng chế nếu

người cầm cố không thể chứng minh được sự chấp thuận của bên ngân hàng cho việc

từ bỏ, chuyển nhượng hoặc cấp phép đó. SQSHTT O cũng sẽ thông báo cho bên hàng

khi một quyền về bằng sáng chế bị hủy bỏ hoặc chấm dứt trong thời hạn của cam kết,

hoặc khi người sáng chế không nộp lệ phí hàng năm để duy trì bằng sáng chế.

Các luật và quy định nói trên cho thấy Trung Quốc có các quy tắc cứng nhắc, cả

về nội dung và thủ tục, liên quan đến việc sử dụng QSHTT làm tài sản đảm bảo trong

hoạt động cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, các quy tắc này rất cấp

tiến và tiên phong so với các nước đang phát triển khác, hỗ trợ cho các khoản vay được

tiếp cận đến chủ thể cần vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh, dựa trên tài sản

bảo đảm là QSHTT.

CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TÍN DỤNG

BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI

2.1.

Một số vụ việc về cho vay có bảo đảm bằng QSHTT của ngân hàng thương

mại

Để hiểu rõ thực tiễn pháp luật Việt Nam về hoạt động cho vay có bảo đảm bằng

QSHTT, trước hết cần xem xét một số vụ việc hiếm hoi, tiêu biểu về việc sử dụng

QSHTT làm tài sản bảo đảm khoản vay trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, cụ

thể:

2.1.1. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cho vay có bảo đảm bằng biện

pháp chấp quyền đối với tác phẩm điện ảnh.

Năm 2009, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) ký kết hợp đồng

tín dụng với Công ty Latsata MultiMedia Corporation ("Latsata") đặt tại thành phố Hồ

Chí Minh, với tài sản đảm bảo là “các quyền tài sản phát sinh từ bản quyền trong 46 bộ

phim điện ảnh Siêu Thị Tình Yêu ". Hợp đồng thế chấp được ký kết vào ngày 30 tháng

7 năm 2009 (thỏa thuận không công khai). Ngày 13 tháng 11 năm 2011, Latsata và

BIDV đã đăng ký giao dịch bảo đảm tại Phòng Đăng ký Giao dịch Bảo đảm Thành phố

Hồ Chí Minh. Các tài liệu liên quan đến bộ phim cũng được liệt kê trong báo cáo tài

chính, bao gồm: (1) Thỏa thuận chuyển nhượng phim vào ngày 2 tháng 6 năm 2010,

(2) Thỏa thuận chuyển nhượng bản quyền ngày 29 tháng 12 năm 2009, và (3) Xác

nhận phê duyệt phim và phát hành ngày Ngày 2 tháng 6 năm 2010.

Các dữ kiện về vụ việc là chưa đầy đủ, song rõ ràng là người vay là người được

chuyển nhượng quyền sử dụng phim và các quyền liên quan trong phim và sử dụng các

quyền này để thế chấp khoản vay của BIDV.

2.1.2. Ngân hàng Agribank cho vay có bảo đảm bằng quyền sử dụng thương hiệu

và nhãn hiệu thương mại

Năm 2013, ngân hàng Agribank (Chi nhánh Nam Hà Nội) đã cho Công ty Liên

doanh Lifepro Vietnam ("Lifepro") vay số tiền lên đến 150 triêu USD để tài trợ cho dự

án Luxfashion của Lifepro - sự phát triển của một nhà máy dệt may quy mô lớn với

tổng đầu tư 305 triệu USD, được đầu tư xây dựng tại KCN Gián Khẩu (tỉnh Ninh

Bình). Nhưng đến tháng 8-2012, nhà máy bất ngờ ngừng hoạt động. Lãnh đạo cao cấp

của công ty cùng toàn bộ chuyên gia nước ngoài đã biến mất một cách bí ẩn.

Trong khi đó, khoản nợ vay Agribank đầu tư dự án Luxfashion tính đến ngày 12-

10-2012 là hơn 3.099 tỷ đồng hiện vẫn chưa thể xử lý được. Liên quan đến khoản cho

vay này, Agribank đã xác lập cùng Cty liên doanh Lifepro Việt Nam 2 hợp đồng thế

chấp tài sản.

Cụ thể, ngày 8-4-2012, kí Hợp đồng thế chấp số 01 trị giá 1.518 tỷ đồng, tài sản

thế chấp được hình thành từ vốn vay và vốn tự có. Trong đó, gồm toàn bộ công trình

kiến trúc, dây chuyền máy móc, thiết bị giai đoạn I và II, giá trị quyền sử dụng đất, lô

máy móc thiết bị hoàn tất sản phẩm.

Tiếp đó, ngày 14-4-2012, một hợp đồng thế chấp khác được kí kết với tài sản thế

chấp cũng được hình thành từ vốn vay và vốn tự có trong tương lai gồm nguyên phụ

liệu nhập khẩu, các bộ chứng từ xuất hàng chờ thu tiền, các khoản phải thu của khách

hàng… với tổng trị giá 64 triệu EURO và 14,9 triệu USD.

Tài sản thế chấp thứ hai của hợp đồng này là quyền sử dụng 6 thương hiệu và

nhãn hiệu thương mại mà Cty liên doanh Lifepro Việt Nam đã mua của FGF Industry

Spa (Italia). Với 6 thương hiệu và nhãn hiệu này, Agribank đã nhận thế chấp cho khoản

vay tới 70 triệu USD, tương đương 1.464 tỷ đồng.

Việc các lãnh đạo của Lifepro biến mất, bỏ lại khoản nợ hàng trăm triệu USD. Để

khắc phục thiệt hại, ngày 25/12/2017, Công ty xử lý nợ của ngân hàng Agribank -

Agribank AMC đã có thông báo bán đấu giá toàn bộ tài sản bảo đảm, bao gồm: nguyên

phụ liệu dệt may, thành phẩm, bán thành phẩm may mặc trong các kho xưởng tại Công

ty Liên doanh Lifepro Việt Nam, toàn bộ máy móc thiết bị tại Công ty Liên doanh

Lifepro Việt Nam, toàn bộ các hạng mục công trình kiến trúc, kết cấu hạ tầng kỹ thuật

gắn liền với đất của Công ty Liên doanh Lifepro Việt Nam và một số hạng mục đầu tư,

lắp đặt tại nhà máy. Tuy nhiên lại không đề cập đến việc xử lý tài sản bảo đảm đối với

quyền sử dụng 06 nhãn hiệu, thương hiệu thời trang được cấp phép.

Việc không xử lý tài sản bảo đảm này được các chuyên gia pháp lý lý giải như

sau: Việt Nam cho phép ngân hàng sử dụng thương hiệu là tài sản bảo đảm khoản vay.

Tuy nhiên, theo quy định tại Luật Sở hữu Trí tuệ (2005) của Việt Nam, chỉ có chủ sở

hữu thương hiệu được pháp luật công nhận mới có quyền cho phép đối tượng khác khai

thác thương hiệu ấy. Luật Sở hữu Trí tuệ cũng không có điều khoản công nhận quyền

sở hữu thương hiệu có được từ việc mua lại tài sản thế chấp là thương hiệu bị ngân

hàng phát mại. Như vậy, Agribank sẽ khó bán được 6 thương hiệu đã nhận thế chấp

của Lifepro Việt Nam. Vì người mua tài sản phát mại (là 6 thương hiệu này) sẽ không

được công nhận QSHTT để khai thác các thương hiệu ấy tại Việt Nam và trên toàn thế

giới.

Như vậy, qua hai vụ việc trên, thấy rằng pháp luật Việt Nam cho phép các ngân

hàng áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT. Tuy nhiên, thông qua hệ

thống các quy định pháp luật hiện hành là chưa đủ để áp dụng trên thực tế, đặc biệt liên

quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm. Vậy pháp luật Việt Nam đã có quy định nào làm

cơ sở cho hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT? Còn những khoảng trống nào

trong hệ thống pháp luật cần phải khắc phục để tạo thuận lợi cho việc áp dụng biện

pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT ở Việt Nam hiện nay? Phần tiếp theo của bài viết

sẽ phân tích và làm rõ hai câu hỏi trên.

2.2. Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT

2.2.1. Pháp luật về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam

Việt Nam là một nền kinh tế phát triển năng động, có nhu cầu rất lớn về vốn nên

vai trò của các NHTM là hết sức quan trọng. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh tiền tệ

của các ngân hàng luôn ẩn chứa nhiều rủi ro và có ảnh hưởng lớn đến lợi ích của người

gửi tiền, hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Do đó các hoạt động ngân hàng

nói chung và hoạt động cho vay của NHTM nói riêng, được nhà nước quy định chặt

chẽ theo các quy định pháp luật. Trong đó văn bản pháp lý quan trọng nhất, trực tiếp

điều chỉnh hoạt cơ cấu tổ chức và động cho vay của NHTM là Luật các tổ chức tín

dụng 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Theo quy định tại khoản 3, Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng, “Ngân hàng thương

mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt

động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. NHTM

thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng như kinh doanh, cung ứng thường xuyên các nghiệp

vụ: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán. Trong các hoạt động

trên, cho vay là một hoạt động ngân hàng truyền thống quan trọng của NHTM. Cho

vay ”là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay hoặc cam kết cho vay một khoản

tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong thời gian nhất định theo thỏa thuận với

nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi” (khoản 16, Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng).

Ngoài Luật các tổ chức tín dụng 2010, hoạt động cho vay của hoạt động cho vay

của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói chung và NHTM nói riêng

được điều chỉnh bởi văn bản pháp luật chuyên ngành là Thông tư số 39/2016/TT-

NHNN (Thông tư 39). Thông tư 39 ra đời nhằm thực hiện các quy định của Luật các tổ

chức tín dụng, đồng thời chấm dứt tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn pháp luật khi có

nhiều văn bản pháp luật cùng điều chỉnh về hoạt động cho vay trước đó. Thông tư 39

điều chỉnh mọi khía cạnh trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, bao

gồm: khách hàng vay vốn, lãi suất, thời hạn cho vay, quy trình thủ tục cho vay, thỏa

thuận cho vay, kiểm tra sử dụng tiền vay, phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, và biện

pháp bảo đảm tiền vay.

Như vậy, đối với hoạt động cho vay của NHTM, Thông tư 39 có thể coi là văn

bản pháp luật quan trọng, cơ bản nhất. Các ngân hàng thương mại căn cứ vào quy định

trong thông tư để tiến hành các hoạt động cho vay, trong đó có thực hiện các biện pháp

bảo đảm tiền vay.

Theo quy định tại Điều 15, Thông tư 39 về bảo đảm tiền vay:

“Điều 15. Bảo đảm tiền vay

1. Việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện pháp bảo

đảm tiền vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận. Việc thỏa thuận về biện

pháp bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng với khách hàng phù hợp với quy định của

pháp luật về biện pháp bảo đảm và pháp luật có liên quan.

2. Tổ chức tín dụng quyết định và chịu trách nhiệm về việc cho vay không áp

dụng biện pháp bảo đảm tiền vay.

3. Khách hàng, bên bảo đảm phải phối hợp với tổ chức tín dụng để xử lý tài sản

bảo đảm tiền vay khi có căn cứ xử lý theo thỏa thuận cho vay, hợp đồng bảo đảm tiền

vay và quy định của pháp luật.”

Theo đó, việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện pháp

bảo đảm tiền vay do NHTM và khách hàng thỏa thuận. Cho vay là hoạt động kinh

doanh của ngân hàng. Ngân hàng có quyền tự chủ, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm

khi thực hiện hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ quy định của luật, trong đó có

quyền tự quyết định việc biện pháp bảo đảm tiền vay hay không. Việc thỏa thuận về

biện pháp bảo đảm tiền vay của NHTM với khách hàng phù hợp với quy định của pháp

luật về biện pháp bảo đảm được quy định trong BLDS và pháp luật có liên quan.Tuy

nhiên để tăng tỷ lệ tăng trưởng tín dụng và nâng cao chất lượng các khoản vay, hạn chế

rủi ro không thu hồi được vốn thì các NHTM thường thỏa thuận với người vay về áp

dụng các biện pháp bảm đảm.

Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được quy định trong BLDS 2015, văn bản

hướng dẫn bao gồm Nghị định 163/2006/NĐ-CP, các văn bản sửa đổi, bổ sung Nghị

định 163/2006/NĐ-CP và các quy định pháp luật chuyên ngành đối với từng loại tài

sản bảo đảm.

Pháp luật Việt Nam không quy định cụ thể về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng

QSHTT. Tuy nhiên các quy định pháp luật hiện hành đã thừa nhận và mở đường cho

việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay, cụ thể:

2.2.2. QSHTT là một tài sản bảo đảm tiềm năng

2.2.2.1.

Cho phép sử dụng QSHTT làm tài sản bảo đảm.

Cơ sở pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất cho việc sử dụng QSHTT làm tài sản

bảo đảm khoản vay là BLDSnăm 2015. Mặc dù không có điều nào quy định riêng về

việc bảo đảm bằng QSHTT, nhưng việc BLDSthừa nhận QSHTT là một loại quyền tài

sản và có thể dùng làm tài sản bảo đảm đã đặt nền tảng cho sự phát triển của hoạt động

bảo đảm bằng QSHTT.

Theo Điều 105 BLDS 2015 quy định về tài sản như sau:

“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể

là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”

Như vậy, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Các loại tài sản cụ

thể được liệt kê như vật, tiền, giấy tờ có giá là tài sản hữu hình, con người có thể hình

dung, xác định được nó một cách rõ ràng. Tuy nhiên, quyền tài sản là một loại tài sản

vô hình trừu tượng. Để làm rõ tài sản này, Điều 115 BLDS quy định quyền tài sản như

sau:

“Điều 115. Quyền tài sản

Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối

tượng QSHTT, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”

Theo đó, một quyền được xác định là quyền tài sản nếu đáp ứng một tiêu chí “trị

giá được bằng tiền”. Hay nói cách khác, “trị giá được bằng tiền” là một tiêu chí để xác

định phạm vi quyền tài sản, tránh được sự nhầm lẫn với quyền nhân thân. Đây là một

sự thay đổi so với quy định về quyền tài sản trong BLDS 2005, khi bộ luật này quy

định “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao

dịch dân sự, kể cả QSHTT”. Như vậy tiêu chí “có thể chuyển giao được trong giao dịch

dân sự” đã bị loại bỏ. Sự thay đổi này làm mở rộng khái niệm quyền tài sản, mở rộng

các đối tượng được xác định là quyền tài sản.

Các quyền tài sản điển hình được pháp luật ghi nhận bao gồm quyền tài sản đối

với đối tượng QSHTT, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. So với BLDS

2005, ngoài việc quy định cụ thể quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản, BLDS

2015 đã định nghĩa lại quyền tài sản liên quan đến QSHTT. BLDS 2015 quy định chỉ

quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT mới là quyền tài sản. Việc xác định lại quyền

tài sản liên quan đến quyền sở hữ trí tuệ là đúng đắn, phù hợp với sự phân loại quyền

chủ thể và các quy định pháp luật có liên quan. Vì theo quy định của Luật sở hữu trí

tuệ 2005, QSHTT bao gồm quyền nhân thân của tác giả và quyền tài sản của chủ sở

hữu, chủ thể khác. Việc quy định quyền tài sản là QSHTT, tức là bao hàm cả quyền

nhân thân là một sự thiếu sót cơ bản trong việc phân loại quyền tài sản. Quyền nhân

thân và quyền tài sản là hai loại quyền tách biệt của một chủ thể với các tính chất, đặc

điểm hoàn toàn khác nhau. Quyền nhân thân là quyền gắn liền với một cá nhân, gắn

liền với các giá trị danh dự, nhân phẩm của cá nhân và chỉ dành riêng cho cá nhân nên

không xác định giá trị thông qua tiền và không thể chuyển giao cho người khác. Quyền

tài sản là quyền của một chủ thể đối với một tài sản cụ thể, gắn liền với tài sản nên có

thể chuyển giao giữa các chủ thể và trị giá được bằng tiền.

Việc xác định đúng nội hàm của QSHTT bao gồm quyền nhân thân và quyền tài

sản đối với đối tượng QSHTT, quy định quyền tài sản là quyền tài sản đối với đối

tượng QSHTT đã tạo sự thống nhất cho hệ thống quy phạm pháp luật Việt Nam. Tuy

nhiên, khái niệm về quyền tài sản là quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT còn quá

dài, không thuận tiện cho việc sử dụng nên cần phải được nghiên cứu rút gọn. Do đó,

trong bài viết này, để thuận tiện cho việc sử dụng, gọi tên, người viết sử dụng tiếp tục

thuật ngữ “quyền sở hữu trí tuệ” để chỉ quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT.

Như vậy, qua các phân tích trên, thấy rằng quyền tài sản đối với QSHTT là một

trong các loại tài sản theo quy định của luật dân sự.

QSHTT là một loại tài sản nên nó mang đầy đủ các đặc điểm của một loại tài sản

thông thường, trở thành đối tượng của các giao dịch mua bán, chuyển nhượng, tặng

cho, cho thuê, góp vốn, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,… Do đó có thể dùng QSHTT làm

2.2.2.2.

tài sản bảo đảm thực nghĩa vụ.

Tài sản bảo đảm - QSHTT, được điều chỉnh tương đối đầy đủ.

Do yêu cầu hội nhập quốc tế, Việt Nam đã xây dựng nên một khuôn khổ pháp lý

cho sở hữu trí tuệ tương đối đầy đủ và ngày càng hoàn thiện hơn, để làm cơ sở cho các

chủ thể thực hiện các QSHTT, trong đó có quyền sử dụng QSHTT để bảo đảm cho

nghĩa vụ trả nợ ngân hàng.

Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các quyền đối với QSHTT là Luật sở hữu trí tuệ

2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là Luật sở hữu trí tuệ). Luật sở hữu trí

tuệ điều chỉnh hầu như toàn bộ các vấn đề có liên quan đến đối tượng của sở hữu trí tuệ

như điều kiện bảo hộ, chủ sở hữu, nội dung và thời gian bảo hộ, chuyển giao

QSHTT,… Trong đó có quy định về quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT, làm cơ

sở cho các bên thực hiện giao dịch bảo đảm bằng QSHTT.

Luật sở hữu trí tuệ không có quy định cụ thể chỉ ra quyền tài sản đối với đối

tượng QSHTT, mà chỉ quy định về từng vấn đề riêng lẻ như QSHTT, các đối tượng của

QSHTT, các nhóm QSHTT với quy định về điều kiện bảo hộ, nội dung, giới hạn

quyền, thời hạn bảo hộ, chủ sở hữu quyền và chuyển giao quyền. Do đó để hiểu được

các loại QSHTT nào được dùng để làm tài sản bảo đảm cho khoản vay thì cả ngân

hàng và người vay phải hiểu được loại tài sản này.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005, “QSHTT là quyền của

tổ chức, cá nhân đối với TSTT, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền

tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”. Theo đó QSHTT

gồm ba nhóm quyền là quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và

quyền đối với giống cây trồng. Mỗi nhóm quyền khác nhau có đối tượng khác nhau,

đặc điểm, điều kiện bảo hộ, thời gian bảo hộ khác nhau, và bao gồm quyền nhân thân

và quyền tài sản khác nhau. Quyền nhân thân là quyền được trao cho người trực tiếp

tạo nên kết quả sáng tạo, gắn liền với người đó và không thể chuyển giao. Quyền tài

sản là quyền trao cho người đã đầu tư thời gian, tài chính, các cơ sở vật chất, kỹ thuật

để tạo nên kết quả sáng tạo. Cụ thể:

Thứ nhất, quyền tác giả và quyền liên quan

Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo

ra hoặc sở hữu (4, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ). Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả ở

Việt Nam là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.

Đặc điểm của quyền tác giả:

(i) Chỉ bảo hộ hình thức thể hiện, không bảo hộ nội dung, giá trị của tác phẩm. Do

đó, quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được định hình dưới hình thức vật

chất nhất định.

(ii) Tác phẩm phải có tính nguyên gốc. Một tác phẩm được định hình dưới một

dạng hình thức vật chất nhất định thì mới chỉ là điều kiện cần để phát sinh quyền tác

giả đối với tác phẩm. Điều kiện đủ để một tác phẩm được bảo hộ đó là tính nguyên

gốc. Nghĩa là tác phẩm đó phải do tác giả bằng trí tuệ của mình sáng tạo ra mà không

sao chép từ một hay những tác phẩm khác.

Quyền tác giả được phát sinh khi tác phẩm có tính nguyên gốc và được thể hiện

dưới một dạng vật chất nhất định, không phụ thuộc vào nội dung, giá trị của tác phẩm.

Đây là nguyên tắc “bảo hộ tự động” của quyền tác giả. Chủ sở hữu tác phẩm không bắt

buộc phải đăng ký quyền tác giả tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tác phẩm dù có

đăng ký hay không đăng ký quyền tác giả đều được hưởng sự bảo hộ như nhau từ phía

Nhà nước. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền tác giả lại cần thiết và rất có ý nghĩa trong

việc chứng minh quyền tác giả khi có tranh chấp xảy ra.

Quyền tác giả bao gồm: quyền nhân thân và quyền tài sản. Trong đó, quyền nhân

thân gồm quyền nhân thân không gắn với quyền tài sản và quyền nhân thân gắn với

quyền tài sản:

- Quyền nhân thân không gắn với quyền tài sản gồm: quyền đặt tên tác

phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, bảo vệ toàn vẹn của tác phẩm

(4, Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ). Các quyền này gắn với tác giả được bảo hộ vô

thời hạn và không phải là đối tượng trong giao dịch bảo đảm tiền vay.

- Quyền nhân thân gắn với tài sản như quyền công bố tác phẩm hoặc cho

phép người khác công bố tác phẩm (4, Điều 19, khoản 3 Luật sở hữu trí tuệ) và

quyền tài sản. Quyền tài sản bao gồm: (1) Quyền làm tác phẩm phái sinh; (2)

Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; (3) Sao chép tác phẩm; (4) Phân phối, nhập

khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; (5) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng

bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ

phương tiện kỹ thuật nào khác; (6) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện

ảnh, chương trình máy tính. (Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005) Quyền nhân

thân gắn với quyền tài sản và quyền tài sản được bảo hộ suốt cuộc đời tác giả

cộng với năm mươi năm sau khi tác giả chết. Quyền nhân thân gắn với quyền tài

sản và quyền tài sản sẽ thuộc về chủ sở hữu tác phẩm.

Quyền liên quan: Khoản 3 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Quyền liên quan

là là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương

trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”. Tương tự như

quyền tác giả, quyền liên quan cũng được bảo hộ theo nguyên tắc “bảo hộ tự động” tức

là nó phát sinh ngay khi cuộc biểu diễn; bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng

và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được định hình. Việc đăng ký bảo

hộ quyền liên quan với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phải là điều kiện

bắt buộc.

Quyền tài sản của người biểu diễn bao gồm: Người biểu diễn được độc quyền thực hiện

hoặc cho người khác thực hiện các quyền tài sản sau: (1) Định hình cuộc biểu diễn

trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình;(2) Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc

biểu diễn của mình đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình; (3) Phát sóng hoặc

truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của mình chưa được định hình

mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích

phát sóng; (4) Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình

thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật

nào mà công chúng có thể tiếp cận được. (Điều 29 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005)

Quyền tài sản của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là độc quyền thực hiện hoặc cho

người khác thực hiện các quyền tài sản sau: (1) Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản

ghi âm, ghi hình của mình; (2) Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi

âm, ghi hình của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ

phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. ( Điều 30 Luật sở hữu

trí tuệ 2005)

Quyền tài sản của tổ chức phát sóng có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác

thực hiện các quyền sau: (1) Phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình;

(2) Phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của mình; (3) Định hình

chương trình phát sóng của mình; (4) Sao chép bản định hình chương trình phát sóng

của mình. ( Điều 31 Luật sở hữu trí tuệ 2005).

Thứ hai, quyền sở hữu công nghiệp

Quyền SHCN bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, tên thương

mại, bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (khoản 2 Điều 3 Luật sở

hữu trí tuệ), với các đặc điểm, điều kiện bảo hộ và thời hạn bảo hộ như sau:

- Sáng chế: Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy

trình nhằm giải quyết một số vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự

nhiên (khoản 4, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ). Điều kiện để sáng chế được bảo hộ

dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế là: có tính mới, có trình độ sáng tạo

và có khả năng áp dụng công nghiệp. Điều kiện để một sáng chế được bảo hộ

dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích là: có tính mới, có trình độ

sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Quyền sở hữu công nghiệp đối với

sáng chế và quyền sở hữu công nghiệp đối với giải pháp hữu ích được bảo hộ

trong thời hạn bằng độc quyền có hiệu lực. Tại Việt Nam, bằng độc quyền sáng

chế có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ; bằng độc

quyền giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm từ ngày nộp đơn

hợp lệ.

- Kiếu dáng công nghiệp: Kiểu dáng công nghiệp là hình thức bên ngoài

của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu

tố này. Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ nếu đáp ứng được các điều kiện: có

tình mới; có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Chủ thể muốn

được hưởng quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp tại Việt

Nm phải làm đơn xin cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp và nộp cho Cục

SHTT. Thời hạn bảo hộ bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp là 5 năm tính từ

ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên tiếp 2 lần, mỗi lần 5 năm.

- Nhãn hiệu: Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ

của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Đặc trưng của nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn

thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc

sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Nhãn hiệu

phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng

hóa, dịch vụ cùng loại của chủ thể khác.

Nhãn hiệu được phân chia thành các loại: nhãn hiệu thông thường (bao gồm

cả nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ), nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu liên

kết, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu nổi tiếng. Chủ thể muốn được cấp văn

bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu tại Việt Nam phải làm đơn xin cấp văn bằng bảo

hộ và nộp cho Cục SHTT. Văn bằng bảo hộ có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10

năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi

lần 10 năm. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ

vô thời hạn và không phụ thuộc vào bất kỳ một thủ tục đăng ký nào. Khi góp vốn

bằng nhãn hiệu thì việc chuyển giao quyền đối với nhãn hiệu không được gây ra

sự nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Nhãn

hiệu chỉ được góp vốn cho tổ chức, đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền

đăng ký nhãn hiệu đó (khoản 4, Điều 139 Luật sở hữu trí tuệ). Ngoài ra, quyền sử

dụng nhãn hiệu tập thể không được góp vốn cho các tổ chức không phải là thành

viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó.

- Tên thương mại: Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng

trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tên thương mại sẽ không được bảo hộ nếu

trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã

được sử dụng từ trước trên cùng một khu vực kinh doanh và trong cùng một lĩnh

vực kinh doanh, hoặc trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu

của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý đang còn hiệu lực bảo hộ từ trước khi bắt đầu

sử dụng tên thương mại đó. Tên thương mại được tự động bảo hộ (không cần

đăng ký) khi đáp ứng các yêu cầu nêu trên. Tên thương mại được bảo hộ chừng

nào chủ sở hữu vẫn còn duy trì hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó.

Tên thương mại được quyền góp vốn bằng việc chuyển giao quyền sở hữu tên

thương mại đó cùng với cơ sở kinh doanh và không được quyền góp vốn bằng

quyền sử dụng tên thương mại (khoản 4, Điều 142 Luật sở hữu trí tuệ).

- Bí mật kinh doanh: Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động

đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh

doanh. Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện: (i) không phải

là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được; (ii) khi được sử dụng trong

kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người

không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó; (iii) được chủ sở hữu

bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ với

danh nghĩa bí mật kinh doanh gồm: bí mật về nhân thân, bí mật về quản lý nhà

nước; bí mật về quốc phòng, an ninh; thông tin bí mật khác liên quan đến kinh

doanh. Bí mật kinh doanh được bảo hộ mà không cần phải nộp đơn đăng ký và

được bảo hộ khi bí mật kinh doanh đáp ứng đủ các điều kiện bảo hộ như đã nêu

trên và không phải là bí mật về nhân thân, bí mật về quản lý nhà nước, bí mật

quốc phòng, an ninh, thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.

- Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (Thiết kế bố trí): Thiết kế bố trí

mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của phần tử mạch và mối liên kết

của các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn (khoản 15, Điều 4 Luật sở hữu trí

tuệ). Thiết kế bố trí được bảo hộ nếu đáp ứng hai điều kiện: có tính nguồn gốc và

có tính mới thương mại. Tính nguyên gốc: thiết kế bố trí là kết quả lao động sáng

tạo của chính tác giả và chưa được những người sáng tạo thiết kế bố trí và những

nhà sản xuất mạch tích hợp bán dẫn biết đến một cách rộng rãi tại thời điểm tạo ra

thiết kế bố trí đó. Tính mới thương mại: thiết kế bố trí chưa được khai thác

thương mại tại bất kỳ nơi nào trên thế giới trước ngày nộp đơn đăng ký. Để được

hưởng quyền đối với thiết kế bố trí tại Việt Nam thì tác giả phải làm đơn xin cấp

Bằng độc quyền thiết kế bố trí tại Cục SHTT. Đây chính là cơ sở ghi nhận quyền

chủ sở hữu và chủ thể quyền có quyền góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp

đối với thiết kế bố trí vào mục đích kinh doanh.

Các quyền tài sản của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là

quyền nhận thù lao theo quy định (Khoản 3 Điều 122 Luật sở hữu trí tuệ 2005).

Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền tài sản sau đây: (1) Sử

dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định; (2)

Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp; (3) Định đoạt đối tượng

sở hữu công nghiệp theo quy định. (Khoản 1 Điều 123 Luật sở hữu trí tuệ 2005).

Thứ ba, quyền đối với giống cây trồng

Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây

trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở

hữu (Khoản 5 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005).

Đối tượng của quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu

hoạch. Trong đó: Vật liệu nhân giống là cây hoặc bộ phận của cây có khả năng phát

triển thành một cây mới dùng để nhân giống hoặc để gieo trồng. Vật liệu thu hoạch là

cây hoặc bộ phận của cây thu được từ việc gieo trồng vật liệu nhân giống.

Để được bảo hộ thì giống cây trồng được bảo hộ là giống cây trồng được chọn tạo

hoặc phát hiện và phát triển thuộc Danh mục loài cây trồng được Nhà nước bảo hộ do

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành, có tính mới, tính khác biệt, tính

đồng nhất, tính ổn định và có tên phù hợp. Bằng bảo hộ giống cây trồng có hiệu lực kể

từ ngày cấp đến hết 25 năm đối với giống cây thân gỗ và cây nho; đến hết 20 năm đối

với các giống cây trồng khác.

Chủ bằng bảo hộ có quyền sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng các quyền

sau đây liên quan đến vật liệu nhân giống của giống đã được bảo hộ (1) Sản xuất hoặc

nhân giống; (2) Chế biến nhằm mục đích nhân giống; (2) Chào hàng; (3) Bán hoặc

thực hiện các hoạt động tiếp cận thị trường khác; (4) Xuất khẩu; (5) Nhập khẩu; (6)

Quyền lưu trữ để thực hiện các quyền khác. (Khoản 1 Điều 186 Luật sở hữu trí tuệ

2005).

Như vậy, mỗi nhóm QSHTT với đối tượng QSHTT riêng đều có những đặc điểm

và điều kiện bảo hộ, cơ chế bảo hộ khác nhau và chủ thể của quyền được hưởng các

quyền và nghĩa vụ khác nhau khi tham gia vào quan hệ pháp luật, đặc biệt khi tham gia

và trở thành đối tượng của giao dịch bảo đảm.

Do đó, chỉ các quyền tài sản liên quan đến QSHTT được phép làm tài sản bảo

đảm chỉ bao gồm: Các quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác đối với phẩm

văn học, nghệ thuật, khoa học, đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm

cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang

chương trình được mã hoá; Quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu công nghiệp đối với

gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; Quyền tài

sản của tác giả, chủ văn bằng bảo hộ giống cây trồng đối với vật liệu nhân giống và vật

liệu thu hoạch.

Tuy nhiên, trong hoạt động cho vay của các ngân hàng, mặc dù giao dịch bảo

đảm chỉ là giao dịch thứ yếu, nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra cho bên ngân

hàng, và để đưa ra một quyết định cho vay, ngân hàng cần xem xét và cân nhắc nhiều

yếu tố khác như uy tín của khách hàng, năng lực tài chính, tiềm năng của các dự án đầu

tư,… nhưng một tài sản bảo đảm có giá trị và chắc chắn sẽ làm giảm đáng kể rủi ro của

ngân hàng. Theo đó, cần có những quy định chặt chẽ về điều kiện đối với QSHTT khi

làm tài sản bảo đảm cho khoản vay.

2.2.3. Thế chấp tài sản – Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phù hợp

với tài sản bảo đảm là QSHTT

Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là một phần của chế định nghĩa vụ và

hợp đồng, được quy định tại BLDSnăm 2015 và được quy định chi tiết thi hành tại

Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm.

Điều 292 BLDS 2015 quy định chín biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bao

gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặc cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu,

bảo lãnh, tín chấp và cầm giữ tài sản. So với BLDS 2005, BLDS 2015 đã bổ sung hai

biện pháp bảo đảm mới là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài sản. Thực chất, hai biện

pháp này đã được quy định trong phần thực hiện hợp đồng của hợp đồng song vụ (cầm

giữ tài sản) và phần một số quy định riêng về mua bán tài sản (bảo lưu quyền sở hữu)

trong các BLDS trước đó, và đã được các bên áp dụng trên thực tế. Do vậy, sự bổ sung

hai biện pháp bảo đảm mới chỉ là xác định lại đúng bản chất của biện pháp và đặt về

đúng vị trí trong luật với việc quy định chính thức hai biện pháp này là biện pháp bảo

đảm thực hiện nghĩa vụ.

Căn cứ vào căn cứ xác lập, tính chất của biện pháp bảo đảm, các biện pháp bảo

đảm thực hiện nghĩa vụ được chia làm hai nhóm là giao dịch bảo đảm và biện pháp bảo

đảm. Giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập một giao dịch bảo

đảm có tính độc lập với giao dịch được bảo đảm, nhằm bảo đảm nghĩa vụ trong giao

dịch được bảo đảm được thực hiện. Bao gồm các biện pháp: Cầm cố tài sản, thế chấp

tài sản, đặc cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Biện pháp bảo đảm là biện pháp

được hai bên thỏa thuận xác lập trực tiếp trên giao dịch được bảo đảm, gắn liền với

giao dịch bảo đảm, bao gồm biện pháp cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu.

Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cụ thể bao gồm:

- Cầm cố tài sản:

Theo quy định Điều 309 BLDS 2015, cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi

là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là

bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Như vậy, theo quy định của luật, biện pháp cầm cố tài sản áp dụng cho mọi tài

sản thuộc sở hữu của bên cầm cố mà không phân biệt động sản hay bất động sản, tài

sản hữu hình hay tài sản vô hình. Và có thể dùng để bảo đảm thực hiện mọi loại nghĩa

vụ, bao gồm cả nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên với đặc trưng

của biện pháp cầm cố là “giao tài sản” cho bên nhận cầm cố, tức là có sự chuyển giao

tài sản về mặt vật chất. Do đó, tài sản cầm cố phải có tính chất của một tài sản hữu

hình, có thể nhận diện, cảm nhận, cầm nắm trên thực tế. Do đó, QSHTT là một tài sản

vô hình điển hình không phải là đối tượng của giao dịch cầm cố tài sản.

- Đặt cọc tài sản:

Theo quy định Điều 328 BLDS 2015, Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên

đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim

khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một

thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.

Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho

bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc

giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên

nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài

sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có

thỏa thuận khác.

Theo đó, đặt cọc là biện pháp bảo đảm được các bên thỏa thuận xác lập nhằm bảo

đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. Trong đó, có sự chuyển giao trên thực tế tài sản

đặt cọc của bên đặt cọc cho bên nhận đặt cọc. Tài sản đặt cọc được quy định cụ thể bao

gồm tiền, kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác, không bao gồm quyền tài sản

vô hình. Như vậy, biện pháp đặt cọc tài sản thường được sử dụng để bảo đảm việc giao

kết hoặc thực hiện các hợp đồng mua bán, không phù hợp để áp dụng cho hợp đồng tín

dụng.

- Ký cược:

Theo quy định tại Điều 329 BLDS 2015, Ký cược là việc bên thuê tài sản là động

sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị

khác (sau đây gọi chung là tài sản ký cược) trong một thời hạn để bảo đảm việc trả lại

tài sản thuê.Trường hợp tài sản thuê được trả lại thì bên thuê được nhận lại tài sản ký

cược sau khi trả tiền thuê; nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê thì bên cho thuê có

quyền đòi lại tài sản thuê; nếu tài sản thuê không còn để trả lại thì tài sản ký cược thuộc

về bên cho thuê.

Như vậy, biện pháp ký cược được áp dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả lại

tài sản thuê trong hợp đồng thuê tài sản là động sản. Biện pháp ký cược không được áp

dụng để bảo đảm cho hợp đồng tín dụng.

- Ký quỹ:

Điều 330 BLDS 2015 quy định về biện pháp ký quỹ như sau: Ký quỹ là việc bên

có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá vào tài

khoản phong tỏa tại một tổ chức tín dụng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.Trường

hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có

quyền được tổ chức tín dụng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có

nghĩa vụ gây ra, sau khi trừ chi phí dịch vụ.

Theo đó, biện pháp ký quỹ được áp dụng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ do

các bên thỏa thuận, có thể bao gồm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng tín dụng. Ký

quỹ là giao dịch bảo đảm có sự tham gia của bên thứ ba (hoặc chính bên bên có quyền)

là một tổ chức tín dụng với vai trò là bên quản lý tài sản ký quỹ thông qua một tài

khoản phong tỏa, và thực hiện nghĩa vụ thanh toán, bồi thường thiệt hại, trong phạm vi

giá trị tài sản ký quỹ, cho bên có quyền khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ. Tài sản

ký quỹ bao gồm khoản tiền, kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá. Do đó, QSHTT không

được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho biện pháp ký quỹ.

- Bảo lãnh:

Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có

quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa

vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên

được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên có thể

thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo

lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo

lãnh (Điều 335 BLDS 2015).

Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân, có sự tham gia của bên thứ ba với vai

trò là người bảo lãnh, cam kết với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho

bên được bảo lãnh, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh

không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ. Các bên có thể thỏa thuận sử

dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Biện

pháp bảo đảm bằng tài sản là các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được quy định

trong BLDS bao gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, cầm

giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Tuy nhiên do đặc trưng của từng biện pháp bảo đảm

như đã phân tích ở trên, các bên thường thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo đảm là cầm

cố tài sản, thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Thực chất, việc áp

dụng biện pháp bảo lãnh đồng thời sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm

nghĩa vụ bảo lãnh là biện pháp bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba.

Trong hợp đồng tín dụng, các bên có thể thỏa thuận áp dụng biện pháp bảo lãnh

để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Để tăng cường bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh được thực

hiện, thông thường ngân hàng thường thỏa thuận với bên bảo lãnh về việc sử dụng biện

pháp bảo đảm bằng tài sản. Ngân hàng và bên bảo lãnh hoàn toàn có thể thỏa thuận áp

dụng biện pháp bảo đảm bằng QSHTT phù hợp với quy định của luật.

- Tín chấp:

Tín chấp là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong đó các tổ chức chính trị -

xã hội ở cơ sở dùng uy tín của mình để bảo đảm cho khoản vay của cá nhân, hộ gia

đình nghèo tại các tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh. Đây là biện pháp bảo đảm

đặc biệt, nhằm hỗ trợ các cá nhân, hộ gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn vay vốn

để phát triển sản xuất, kinh doanh. Tín chấp mang bản chất của một biện pháp bảo đảm

đối nhân đơn thuần, trong trường hợp khi người vay không trả được nợ, bên tín chấp

không có nghĩa vụ trả nợ thay. Như vậy, tín chấp là một biện pháp bảo đảm không

mang tính chất dân sự, được nhà nước quy định để nhằm thực hiện chính sách xóa đói,

giảm nghèo.

- Cầm giữ tài sản:

Theo quy định của Điều 346 BLDS 2015, Cầm giữ tài sản là việc bên có quyền

(sau đây gọi là bên cầm giữ) đang nắm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng

song vụ được chiếm giữ tài sản trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng nghĩa vụ.

Như vậy, cầm giữ tài sản là một biện pháp bảo đảm không mang bản chất giao

dịch, mà bên có quyền áp dụng trong chính giao dịch được bảo đảm. Theo đó bên có

quyền đang nắm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ (là giao dịch

chính được bảo đảm), được chiếm giữ tài sản, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không

thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ.

- Bảo lưu quyền sở hữu:

Theo tại khoản 1, Điều 331 BLDS 2015, Bảo lưu quyền sở hữu được quy định

như sau: “Trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu

cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện đầy đủ.”

Bảo lưu quyền sở hữu là biện pháp bảo đảm được áp dụng trong hợp đồng mua

bán tài sản, gắn liền với phương thức thanh toán là mua trả chậm, trả dần (Điều 453

BLDS 2015). Theo đó, biện pháp này trao một đặc quyền cho bên bán, là được bảo lưu

quyền sở hữu tài sản đã bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền.

- Thế chấp tài sản:

Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc

sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau

đây gọi là bên nhận thế chấp). Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể

thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp (Điều 317 BLDS 2015).

Thế chấp là biện pháp bảo đảm với đặc trưng là không giao tài sản thế chấp cho

bên nhận thế chấp chiếm giữ. Thay vào đó, các bên có thể thỏa thuận về việc giao các

giấy tờ về tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp giữ trong suốt thời gian thế chấp để

bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bên thế chấp được quyền chiếm hữu, khai thác công

dụng, hưởng hoa lợi từ tài sản (bao gồm quyền cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp),

được quyền bán, thay thế, trao đổi tài sản thế chấp nếu được sự đồng ý của bên nhận

thế chấp. Như vậy, thế chấp tài sản là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được thiết

lập trên tài sản của bên thế chấp, theo đó bên nhận thế chấp có quyền nắm giữ tài sản

về mặt pháp lý và có quyền kiểm soát lưu thông tài sản.

Tài sản thế chấp là các loại tài sản bảo đảm được quy định trong Bộ luật dân sự.

Tuy nhiên, do đặc trưng là không giao tài sản cho bên nhận thế chấp, nên trên thực tế

các bên thường dùng các loại tài sản không thể hoặc khó giao về mặt vật chất như tàu

bay, tàu biển, máy móc thiết bị, quyền tài sản làm tài sản thế chấp. Quyền tài sản trong

đó có QSHTT.

Như vậy, pháp luật Việt Nam đã xây dựng một hệ thống các biện pháp bảo đảm

thực hiện nghĩa vụ tương đối hoàn chỉnh, với nhiều biện pháp bảo đảm khác nhau, phù

hợp với từng loại giao dịch chính được bảo đảm. Trong hoạt động cho vay của các

ngân hàng thương mại, để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ của bên vay, hai bên có thể

thỏa thuận áp dụng các biện pháp như cầm cố tài sản, thế chấp tài sản và bảo lãnh.

Trong đó, đối với QSHTT, ngân hàng và doanh nghiệp có thể thỏa thuận áp dụng

biện pháp thế chấp QSHTT để bảo đảm cho khoản vay.

BLDS 2015 và Nghị định 163, Nghị định 112 đã xây dựng một khuôn khổ pháp

lý tương đối đầy đủ về biện pháp thế chấp tài sản nói chung với các quy định về tài sản

thế chấp, hiệu lực của thế chấp tài sản, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ

2.2.3.1. Đăng ký giao dịch bảo đảm

thế chấp, chấm dứt thế chấp.

Hiện nay việc đăng ký giao dịch bảo đảm được điều chỉnh bởi Nghị định số

102/2017/NĐ-CP về đăng ký giao dịch bảo đảm thì thế chấp QSHTT được coi là giao

dịch đối với động sản khác. Việc đăng ký đối với động sản khác được thực hiện bởi

Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm

thuộc Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, QSHTT là một loại tài sản đặc biệt, việc đăng ký

QSHTT và các giao dịch có liên quan đến QSHTT được Cục sở hữu trí tuệ, thuộc bộ

Khoa học và công nghệ quản lý. Theo đó, giao dịch bảo đảm bằng QSHTT là một

trong các giao dịch liên quan đến QSHTT, thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm này nên

giao cho Cục sở hữu trí tuệ tiếp nhận, thực hiện để dễ dàng kiểm tra các thông tin về

QSHTT có liên quan, tạo một đầu mối thống nhất trong việc quản lý quyền sở hữu nói

chung và giao dịch bảo đảm bằng QSHTT nói riêng.

Ngoài ra, giao dịch bảo đảm bằng QSHTT là không bắt buộc phải đăng ký. Tuy

nhiên, thứ tự đăng ký và việc có đăng ký hay không lại là các tiêu chí xác định thứ tự

ưu tiên thanh toán theo quy định tại Điều 308 của BLDS năm 2015, cụ thể như sau:

“Điều 308. Thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm

1. Khi một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ tự ưu

tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định như sau:

a) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với

người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối

kháng;

b) Trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ

ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì

nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được thanh

toán trước;

c) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối kháng

với người thứ ba thì thứ tự thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập biện pháp bảo

đảm”.

Việc quy định đăng ký giao dịch bảo đảm là quyền của các bên, đặc biệt là bên

ngân hàng, tuy nhiên việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán lại căn cứ vào thời điểm

xác lập hiệu lực đối kháng với bên thứ ba (tức là thời điểm đăng ký giao dịch bảo

đảm). Như vậy, các quy định trên đều ngầm định rằng việc đăng ký giao dịch bảo đảm

là bắt buộc đối với bên nhận bảo đảm để bảo đảm thứ tự ưu tiên cao hơn cho mình, và

trên thực tế, các ngân hàng luôn thực hiện thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm. Do đó,

quy định về quyền lựa chọn đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc không chỉ mang tính hình

thức, nên quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm theo hướng là nghĩa vụ của bên nhận

bảo đảm để phù hợp với thực tế,

Như vậy, pháp luật Việt Nam về thứ tự ưu tiên thanh toán cũng tiếp cận theo

nguyên tắc thời gian và loại giao dịch bảo đảm ưu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế các giao

dịch bảo đảm luôn được NHTM thực hiện thủ tục đăng ký để xác lập thứ tự ưu tiên đầu

2.2.3.2. Xử lý tài sản bảo đảm để thực hiện nghĩa vụ

tiên cho mình.

- Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm:

Theo Điều 299, BLDS 2015 quy định các trường hợp mà bên nhận bảo đảm có

quyền xử lý tài sản bảo đảm, các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm bao gồm: (1) Đến

hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng nghĩa vụ. (2) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm

trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật. (3)

Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.

Như vậy, điều luật này đưa ra các nguyên tắc mang tính mặc định về quyền xử lý

bảo đảm của ngân hàng; mặt khác, nó cũng cho phép các bên thỏa thuận trong hợp

đồng bảo đảm của mình về các trường hợp xử lý bảo đảm khác, đồng thời ghi nhận các

trường hợp xử lý bảo đảm bắt buộc theo quy định tại một văn bản luật cụ thể.

Trường hợp xử lý bảo đảm đầu tiên nêu ở trên là trường hợp thông thường khi có

vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm.

Trường hợp thứ hai thường xảy ra khi ngân hàng thu hồi nợ trước hạn theo thỏa

thuận trong hợp đồng tín dụng, khi một tài sản được sử dụng để bảo đảm cho nhiều

nghĩa vụ (khoản 3, Điều 296, BLDS2015) hay trước khi tuyên bố bên có nghĩa vụ phá

sản (điểm b, khoản 1, Điều 53, Luật phá sản số 51/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm

2014).

Một văn bản luật cũng có thể quy định về trường hợp xử lý bảo đảm. Chẳng hạn,

theo quy định tại Điều 90, Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 ngày 14 tháng 11

năm 2008, được bổ sung, sửa đổi năm 2014 (Luật thi hành dân sự), trường hợp người

phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi

hành án, chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án

đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi

phí cưỡng chế thi hành án. Ngoài ra, các bên cũng có thể thỏa thuận về một số trường

hợp xử lý tài sản bảo đảm khác, như khi bên vay vi phạm một nghĩa vụ nào đó của hợp

đồng vay hay bên bảo đảm vi phạm một nghĩa vụ nào đó nêu trong hợp đồng bảo đảm.

- Phương thức xử lý tài sản bảo đảm:

Theo quy định tại khoản 1, Điều 303, các bên có thể thỏa thuận một trong các

phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau đây: (1) Bán đấu giá tài sản; (2) Bên

nhận bảo đảm tự bán tài sản; (3)Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho

việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; (4) Phương thức khác.

Đây là một danh sách mở bởi vì điều luật này cũng quy định khả năng các bên có

thể thỏa thuận về các phương thức xử lý tài sản bảo đảm khác, ngoài ba phương thức

đã được liệt kê. Chẳng hạn, các bên có thể thỏa thuận về việc đưa tài sản bảo đảm vào

khai thác hay cho thuê và số tiền thu được từ việc khai thác hay cho thuê sẽ được sử

dụng vào việc thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm.

Trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì

tài sản sẽ được bán đấu giá (khoản 2, Điều 303).

Việc bán đấu giá tài sản bảo đảm được thực hiện theo quy định của pháp luật về

bản đấu giá tài sản. Hiện nay, khuôn khổ pháp lý về bán đấu giá tài sản được điều

chỉnh chủ yếu bởi Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 về bán đấu

giá tài sản và Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày 06 tháng 12 năm 2010 của Bộ Tư

pháp.

Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản - Điều 195, BLDS2015 quy định “người không

phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu

hoặc theo quy định của luật”. Điểm b, khoản 1, Điều 303 đã mở ra một ngoại lệ cho

bên nhận bảo đảm là người không phải chủ sở hữu của tài sản bảo đảm - được tự bán

tài sản bảo đảm. Như vậy, để ngân hàng được tự mình bán tài sản cầm cố hay thế chấp,

chỉ cần các bên có thỏa thuận về phương thức xử lý bảo đảm này, mà không cần có ủy

quyền của bên bảo đảm cho ngân hàng vì mục đích này. Đây là một quy định mới và

được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngân hàng trong việc xử lý bảo đảm.

Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ - Một trong

các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp được quy định tại khoản 1, Điều 303 là

“bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên

bảo đảm”. Nghĩa vụ của bên bảo đảm là thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho người vay,

nghĩa vụ của bên bảo đảm có thể được thay thế bằng việc ngân hàng nhận chính tài sản

bảo đảm.

Như vậy, các phương thức xử lý tài sản trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho

các ngân hàng thu hồi các khoản nợ của mình. Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện

các biện pháp này lại gặp phải nhiều khó khăn như thiếu sự thiện chí, hợp tác của bên

bảo đảm trong việc giao tài sản. Luật đã cho các ngân hàng một giải pháp để buộc bên

bảo đảm giao tài sản hoặc thực hiện nghĩa vụ là khởi kiện lên tòa án và yêu cầu thi

hành bản án đã tuyên. Tuy nhiên biện pháp này không mang lại hiệu quả khi mất nhiều

thời gian, chi phí và công sức. Để giải quyết khó khăn, vướng mắc của ngân hàng trong

quá trình xử lý tài sản bảo đảm liên quan đến việc giao tài sản bảo đảm để xử lý, tạo

điều kiện cho ngân hàng thúc đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu, tránh trường hợp chủ

tài sản cố tình chây ỳ, chống đối kéo dài thời gian xử lý, gây ảnh hưởng lớn đến việc

xử lý nợ xấu của ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đa số người gửi

tiền, nâng cao kỷ luật hợp đồng, đồng thời, hạn chế việc ngân hàng lạm dụng quyền

thực hiện hành vi thu giữ gây mất trật tự xã hội, xâm phạm đến các quyền khác của các

chủ thể có liên quan, ngày 21 tháng 6 năm 2017 Quốc hội đã thông qua Nghị quyết

42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) về Thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, cho

phép ngân hàng được thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.

Quyền thu giữ tài sản bảo đảm được quy định tại Điều 7 Nghị quyết 42, theo đó

ngân hàng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý khi đáp ứng đủ 05 điều kiện do

luật định:

Thứ nhất, Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299

BLDS2015.

Thứ hai, tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho

ngân hàng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra các trường

hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định pháp luật.

Thứ ba, giao dịch bảo đảm, biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo quy định pháp

luật. Quy định này bảo đảm quyền của bên nhận bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối

kháng với bên thứ 3.

Thứ tư, tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ

lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền;

không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên

hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, ngân hàng đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại

Nghị quyết.

Dựa trên những điều kiện thu giữ tài sản cụ thể được phân tích ở trên, thấy rằng

các quy định này chỉ hướng đến đối tượng tài sản bảo đảm là tài sản hữu hình và một

số quyền tài sản vô hình, tiêu biểu là quyền sử dụng đất mà vẫn chưa bao quát được hết

các loại tài sản bảo đảm, trong đó có QSHTT. Điều này cũng là phù hợp khi các quy

định về giao dịch bảo đảm hiện hành chưa điều chỉnh trực tiếp việc bảo đảm bằng

QSHTT và Nghị quyết này chỉ mang tính chất thí điểm. Tuy nhiên, trong tương lai khi

giao dịch bảo đảm tiền vay bằng QSHTT tại các ngân hàng diễn ra phổ biến, khi xuất

hiện những khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là QSHTT, thì cần có một cơ chế đặc thù

tương tự Nghị quyết 42 để xử lý tài sản bảo đảm.

Ngoài ra, một trong những khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm nói chung

và xử lý QSHTT nói riêng, đó là những quy định về hạn chế chuyển nhượng, chuyển

giao QSHTT.

Theo quy định tại khoản 4, Điều 133 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005: “Chuyển

nhượng quyền sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp

chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác”. Khi ngân hàng khi

xem xét chấp nhận một quyền sở hữu công nghiệp là tài sản bảo đảm thì cần lường

trước những hạn chế trong việc xử lý tài các tài sản này.

Thứ nhất, Việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp

Khi xử lý tài sản bảo đảm bằng việc chuyển nhượng QSHTT cho tổ chức, cá

nhân khác cần phải chú ý các điều kiện hạn chế theo quy định của pháp luật cụ thể như

sau:

 Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp chỉ được chuyển nhượng quyền

của mình trong phạm vi được bảo hộ.

 Quyền đối với chỉ dẫn địa lý không được chuyển nhượng.

Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu

vực, địa phương, vùng lãnh thổ cụ thể. Theo Luật SHTT, nhà nước cho phép tổ

chức, cá nhân sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý thực hiện quyền đăng ký chỉ

dẫn địa lý nhưng không trở thành chủ sở hữu của chỉ dẫn địa lý đó. Người thực

hiện quyền đăng ký chỉ dẫn địa lý của Việt Nam không trở thành chủ sở hữu chỉ

dẫn địa lý đó, bởi chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước Việt Nam.

Đây chính là lý do chính hạn chế và giải thích tại sao chỉ dẫn địa lý không được

chuyển nhượng.

 Quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc

chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên

thương mại đó.

Tên thương mại được bảo hộ nếu có khả năng phân biệt chủ thể kinh

doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực

và khu vực kinh doanh. Nếu chuyển nhượng tên thương mại cho tổ chức, cá nhân

khác mà không chuyển nhượng cơ sở kinh doanh gắn liền với tên thương mại thì

sẽ dẫn đến tính trạng gây nhẫm lẫn về sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho người tiêu

dùng và không đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Vì vậy,

quyền đối với tên thương mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc chuyển

nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại

đó.

 Việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu không được gây ra sự nhầm

lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hóa dịch vụ mang nhãn hiệu

Vì nhãn hiệu chỉ được bảo hộ khi là một dấu hiệu (nhìn thấy được dưới dạng chữ

cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó,

được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc¬) và có khả năng phân biệt hàng hóa,

dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Khi

chủ sở hữu tiến hành chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu thì không được gây

ra sự nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu đó.

 Quyền đối với nhãn hiệu chỉ được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp

ứng được các điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó.

Theo khoản 4, Điều 87 Luật SHTT, các tổ chức, cá nhân Việt nam hoặc

nước ngoài có hoạt động sản xuất hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ đều có quyền

đăng ký nhãn hiệu dùng cho sản phẩm do mình cung cấp. Thương nhân có quyền

đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm mà mình đưa ra thị trường do người khác sản

xuất, với điều kiện người sản xuất đó không sử dụng nhãn hiệu và không phản đối

việc đăng ký đó. Như vậy, nhà sản xuất và các nhà phân phối sản phẩm, dịch vụ

đều có quyền đăng ký nhãn hiệu. Bên chuyển nhượng nhãn hiệu chỉ được chuyển

nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện đăng ký nhãn hiệu nêu trên.

Thứ hai, chuyển giao quyền sử dụng công nghiệp

 Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân

không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó.

Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký nhãn hiệu tập thể để

các thành viên của mình sử dụng theo quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể. Mỗi

thành viên sở hữu nhãn hiệu tập thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định

trong quy chế sử dụng nhãn hiệu tập thể đã được các thành viên thống nhất áp

dụng. Vì vậy, chỉ có thành viên thuộc chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể mới có

quyền chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể của mình cho các thành

viên khác. Bởi nếu chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể cho tổ chức,

cá nhân không thuộc nhóm chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể sẽ ảnh hưởng nghiêm

trọng đến uy tín của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể cũng như từng thành viên của

tổ chức này.

 Bên được chuyển giao quyền sử dụng sở hữu công nghiệp không được ký kết

hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, trừ trường hợp được bên chuyển quyền cho

phép.

Bên nhận chuyển quyền sử dụng sở hữu công nghiệp không có đầy đủ quyền

của một chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp. Họ chỉ có quyền sử dụng

đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định tại hợp đồng chuyển giao quyền sử

dụng. Vì vậy, khi muốn ký kết hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, cho phép tổ

chức, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp thì phải được sự

đồng ý của bên chuyển quyền. Đây là quy định nhằm bảo vệ quyền kiểm soát

đối tượng sở hữu công nghiệp của chủ thể có quyền.

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TÍN DỤNG BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG

HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

3.1.

Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT

trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ để

tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn là vấn đề được Ðảng và Nhà

nước ta dành sự quan tâm đặc biệt, nhất là hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nghị quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đã chỉ rõ, "Tiếp tục đẩy mạnh việc xây

dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thật

sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Ðảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức

năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội... Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế,

chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế,

bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc".

Pháp luật về về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ là một phần của hệ thống

pháp luật Việt Nam, việc hoàn thiện pháp luật về về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu

trí tuệ là góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Như đã nêu tại Chương II

của bài viết, pháp luật Việt Nam hiện hành đang thiếu những quy định trực tiếp điều

chỉnh các giao dịch bảo đảm bằng QSHTT. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về giao

dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ thực sự là nhu cầu thiết yếu nhằm tạo hành lang, cơ

sở pháp lý cho hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT trong các ngân hàng

thương mại.

Việc hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ không chỉ là

nhiệm vụ của cơ quan lập pháp mà là nhiệm vụ chung của tất cả các chủ thể trong xã

hội, đặc biệt là các chủ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động cho vay có bảo đảm bằng

QSHTT. Pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, khi các mối quan hệ

xã hội có sự thay đổi thì đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi theo. Để đảm bảo tính

khả thi, các quy định pháp luật cần phải được xây dựng trên cơ sở thực tiễn và nhu cầu

của các chủ thể tham gia giao dịch. Vì vậy, các văn bản pháp luật trước khi ban hành

luôn được tham khảo ý kiến của các cơ quan hữu quan và các tổ chức, doanh nghiệp để

kịp thời tiếp thu, sửa đổi các điểm bất cập, hạn chế.

Ngoài các chủ thể tham gia hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT, các cơ

quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ như: Cục sở hữu trí tuệ, các cơ quan chuyên

môn. Và các tư pháp như Tòa án, cơ quan Thi hành án cũng là những cơ quan có

những đóng góp to lớn cho việc hoàn thiện pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng

QSHTT. Những vướng mắc, bất cập, yếu kém của pháp luật được phát hiện trong thực

tiễn xét xử, thi hành án dân sự sẽ là nguồn đóng góp quan trọng nhằm hoàn thiện pháp

luật.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ để đáp

ứng yêu cầu từ thực tiễn hoạt động của các Ngân hàng thương mại

Đối với các loại tài sản bảo đảm hữu hình, khi bên có nghĩa vụ được bảo đảm

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ, bên nhận bảo đảm

có thể tịch thu, thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý. Nhưng đối với tài sản bảo đảm là

QSHTT - một loại tài sản vô hình, bên nhận bảo đảm không thể áp dụng biện pháp thu

giữ mà chỉ có thể thông báo và tiến hành các biện pháp xử lý tài sản thế chấp theo thỏa

thuận trong hợp đồng. Như vậy, việc xử lý QSHTT của bên nhận thế chấp khó khăn

hơn việc xử lý tài sản bảo đảm hữu hình rất nhiều. Trường hợp được nhận bảo đảm với

tính chất là tài sản bảo đảm chính thì bên được bảo đảm thường sẽ phải đáp ứng các

điều kiện được cho vay không có bảo đảm theo quy định của Ngân hàng thương mại.

Sở dĩ có tình trạng nêu trên là bởi vì pháp luật hiện hành chưa có một cơ chế chắc chắn

để bảo đảm quyền lợi của bên nhận thế chấp QSHTT. Nếu như vấn đề quản lý QSHTT

là vấn đề các Ngân hàng thương mại có thể kiểm soát, chủ động được thông qua các

biện pháp như thông báo với bên có nghĩa vụ thanh toán, yêu cầu bên bảo đảm mở tài

khoản tại Ngân hàng thương mại nhận thế chấp để nhận các khoản thanh toán của bên

có nghĩa vụ thì vấn đề xử lý QSHTT lại không phải vấn đề các Ngân hàng thương mại

được tự do thực hiện mà phải trên cơ sở quy định của pháp luật. Như vậy, vấn đề

vướng mắc lớn nhất cần giải quyết là đưa ra cơ chế xử lý một cách hiệu quả QSHTT và

một trong những biện pháp có thể xem xét lựa chọn là trao quyền chủ động cho bên

nhận thế chấp. Theo đó, nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ theo quy định

tại hợp đồng phát sinh QSHTT, bên nhận thế chấp có thể áp dụng các biện pháp hợp

pháp để thu hồi số tiền bên có nghĩa vụ phải thanh toán, bao gồm nhưng không giới

hạn các biện pháp như thu giữ tài sản khác của bên có nghĩa vụ, yêu cầu ngân hàng nơi

bên có nghĩa vụ mở tài khoản phong tỏa tài khoản, trích tiền từ tài khoản của bên có

nghĩa vụ thanh toán.

Nếu vướng mắc về cách thức xử lý QSHTT được giải quyết, QSHTT có thể trở

thành một loại tài sản bảo đảm thực thụ, phát huy được vai trò của mình và mang lại cơ

hội tiếp cận nguồn vốn rất lớn cho các thành phần kinh tế trong xã hội. Đồng thời, cũng

mở ra cơ hội kinh doanh mới cho các tổ chức tín dụng nói chung và các Ngân hàng

thương mại nói riêng.

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thế chấp QSHTT để đáp ứng yêu cầu hội nhập

quốc tế

Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, một trong những yếu tố được các nhà

đầu tư nước ngoài quan tâm hàng đầu trước khi đưa ra quyết định đầu tư vào Việt Nam

đó là hệ thống pháp luật. Sự hoàn thiện, ưu việt, minh bạch của hệ thống pháp luật

không chỉ là thước đo sự phát triển của một quốc gia mà còn là một yếu tố có sức hút

mãnh liệt đối với các nhà đầu tư. Thật vậy, khi đầu tư vào một quốc gia, các nhà đầu tư

cần biết chắc chắn rằng nếu có rủi ro, tranh chấp xảy ra đối với nguồn vốn của mình,

họ có thể được bảo vệ bởi pháp luật của nước sở tại hay không, có cơ sở để thu hồi vốn

hay không. QSHTT là loại tài sản hữu hình chỉ bắt đầu được thừa nhận trong thời đại

kinh tế thị trường, như vậy có thể nói QSHTT là loại tài sản của xã hội văn bản. Do đó,

sự hoàn thiện của pháp luật về thế chấp QSHTT sẽ là minh chứng xác đáng thể hiện sự

tiến bộ của một hệ thống pháp luật.

Hiện nay, vươn ra thị trường quốc tế là mục tiêu của rất nhiều các doanh nghiệp

Việt Nam. Để làm được điều này không chỉ cần sự nỗ lực của bản thân các doanh

nghiệp trong việc nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh

mà còn phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống pháp luật Việt Nam. Tại nhiều quốc gia trên

thế giới, sự phát triển của hệ thống pháp luật của nước mà doanh nghiệp đó mang quốc

tịch là một trong những điều kiện đầu tiên quyết định việc một doanh nghiệp có thể đầu

tư vào quốc gia đó hay không.

Khi Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế, sự hoàn thiện của hệ thống pháp

luật cũng là một trong những yếu tố quan trọng được các tổ chức này quan tâm, xem

xét. Do đó, muốn hội nhập kinh tế quốc tế, một đòi hỏi cấp thiết là Việt Nam cần hoàn

thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hơn nữa vai trò của pháp luật.

Trong thời gian gần đây QSHTT mới trở thành loại tài sản bảo đảm phổ biến và

được các Ngân hàng thương mại nhận thế chấp một cách rộng rãi. Có lẽ một phần vì lý

do đó mà các quy định của pháp luật về vấn đề thế chấp QSHTT còn khá hạn chế và

bất cập.

3.2. Một số đề xuất cụ thể nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp

luật về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT trong hoạt động cho vay của

ngân hàng thương mại.

3.2.1. Đối với nhà nước

Nhà nước nước phải cung cấp một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động

cho vay có bảo đảm bằng quyền sở hữu trí tuệ, mà trọng tâm là việc áp dụng các biện

pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT.

Tài sản bảo đảm là quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT (trong bài gọi tắt là

QSHTT). Để cả phía ngân hàng và bên vay chấp nhận và sử dụng QSHTT làm tài sản

bảo đảm trong hoạt động cho vay, thì QSHTT phải cho các chủ thể thấy được giá trị

của nó, những lợi ích mà nó mang lại, khả năng có thể thực hiện được, thực hiện được

một cách thuận lợi, đơn giản, khả năng có thể kiểm soát được và tính an toàn về mặt

pháp lý của nó. Do đó, nhà nước với vai trò tạo ra môi trường pháp lý và định hướng

phát triển cần có những chính sách về QSHTT hợp lý để nhận thức kịp thời về tầm

quan trọng của QSHTT trong nền kinh tế hiện đại và có những chính sách bảo hộ tốt

hơn đối với quyền của người sở hữu TSTT và QSHTT, cụ thể:

 Nhà nước nên có những thống kê, báo cáo hàng năm về thị trường

QSHTT để tạo lập một hệ thống thông tin đáng tin cậy cho các đối tượng quan

tâm, làm hạn chế rủi ro về thông tin bất cân xứng.

 Nhà nước nên có những dự án, chương trình giúp nâng cao nhận thức về

tầm quan trọng của QSHTT trong người dân để gia tăng nhận diện với QSHTT,

giúp mở rộng thị trường người mua, người bán cũng như giúp bảo vệ tốt hơn giá

trị của các QSHTT từ trong người dân. Chủ động tạo ra các thị trường chấp nhận

QSHTT để có môi trường phát triển loại hình tài sản này, do đó sẽ tạo ra nhiều

cơ hội hơn cho việc sử dụng QSHTT làm tài sản bảo đảm.

 Nhà nước cần tiếp tục thiết lập một hệ thống cấp độc quyền sáng chế,

kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và các loại QSHTT khác, tạo động

lực cho sự sáng tạo và kích thích sự đổi mới trong khi vẫn thúc đẩy cạnh tranh

công bằng bằng cách đảm bảo rằng chỉ những người sở hữu trí tuệ có đủ điều

kiện để có thể tồn tại lâu dài quá trình kiểm tra được độc quyền.

Thứ hai, về chế độ đăng ký giao dịch bảo đảm

Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và vận hành một hệ thống đăng ký giao dịch bảo

đảm liên quan đến QSHTT để tăng cường tính minh bạch của giao dịch bảo đảm. Như

đã phân tích ở mục 2.2.2.3. thì để tạo ra sự tập trung trong quản lý QSHTT nói chung

và các giao dịch về QSHTT nói riêng, sự hiệu quả trong việc đăng ký giao dịch bảo

đảm thì Nhà nước nên giao cho Cục sở hữu trí tuệ là cơ quan đăng ký giao dịch bảo

đảm liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời Nhà nước nên bổ sung quy định về

sự phối hợp giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với phía ngân hàng trong việc

quản lý QSHTT trong thời gian bảo đảm như: không tiến hành đăng ký các giao dịch

chuyển giao QSHTT đang là tài sản bảo đảm mà không có sự đồng ý của bên ngân

hàng, đồng thời có thông báo cho bên ngân hàng biết.

Thứ ba, về biện pháp xử lý tài sản bảo đảm.

Để hỗ trợ các ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm, nhà nước cần đẩy mạnh

nghiên cứu và áp dụng các biện pháp xử lý tài sản mới. Nghị định 42/2017/NĐ-CP về

thí điểm xử lý nợ xấu của các NHTM đã trao cơ hội cho các ngân hàng được áp dụng

những biện pháp xử lý tài sản bảo đảm mới, trong đó tăng cường trao quyền cho phía

ngân hàng, như quyền thu giữ tài sản bảo đảm, thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh

chấp liên quan đến tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, để các biện pháp này được áp dụng

rộng rãi và thực sự hỗ trợ cho các ngân hàng, thì các cơ cơ quan nhà nước cần tích cực

phối hợp, hỗ trợ ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm, tổ chức tổng kết, đánh giá

kết quả triển khai các biện pháp này, từ đó đề ra những biện pháp xử lý tài sản bảo đảm

phù hợp hơn.

Thứ tư, về hướng dẫn cụ thể về hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT

Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động ngân hàng, trong đó có

hoạt động cho vay, ngân hàng nhà nước cần có những chính sách khuyến khích hoạt

động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT của các NHTM. Ngân hàng nhà nước cần đẩy

mạnh việc nghiên cứu, xây dựng văn bản hướng dẫn các NHTM thực hiện việc cho vay

có bảo đảm bằng QSHTT, xây dựng các tiêu chuẩn về tài sản bảo đảm và hướng dẫn

việc xử lý QSHTT khi nghĩa vụ trả nợ, từ đó mới thực sự khuyến khích các NHTM

thực hiện việc cho vay có bảo đảm bằng QSHTT.

3.2.2. Đối với ngân hàng

Các NH cần chấp nhận nó như một tài sản có thể bảo đảm cho vay để mở rộng thị

trường và gián tiếp giúp nâng cao nhận thức đối với QSHTT . Cán bộ tín dụng phải có

cập nhật nhanh chóng với thị trường QSHTT , cũng như cách xác định giá trị QSHTT

cho mục đích đảm bảo cho vay phù hợp với thị trường cho vay của Việt Nam và sự an

toàn của NH. Cần bổ trợ kiến thức về thẩm định tài sản vô hình nói chung và QSHTT

nói riêng cho các cán bộ tín dụng. QSHTT thường có thị trường giao dịch rất nhỏ và

khá đặc thù. Theo lẽ thường, với loại giao dịch này, chỉ cần có bên mua và bên bán

đồng ý thì giao dịch sẽ diễn ra mà không cần hoạt động định giá độc lập và chuyên

nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động định giá đối với các NH trước khi quyết định tài trợ vốn

cho DN dựa trên tài sản đảm bảo là QSHTT lại rất quan trọng và đòi hỏi sự cẩn trọng,

tỉ mỉ. Mục đích việc định giá QSHTT là lường trước các khả năng rủi ro, đánh giá

mức độ sinh lời, lợi nhuận đầu tư vào “hàng hóa” là QSHTT . Để làm tốt được công

việc này đòi hỏi bộ máy NH phải có bộ phận chuyên trách, am hiểu pháp luật về sở

hữu trí tuệ và các kỹ năng chuyên môn về thẩm định, định giá QSHTT . Một cách khác

giúp NH có thể thực hiện được công tác thẩm định, định giá QSHTT là ký hợp đồng

“out- sourcing” với bên thứ ba để thuê mua dịch vụ này. Bên thứ ba sẽ phân tích, đánh

giá minh bạch giá trị QSHTT , giải trình rõ ràng, ký xác nhận, chịu trách nhiệm về

công tác thẩm định đối với NH. Thẩm định QSHTT là một nghiệp vụ rất quan trọng

trước khi tài trợ vốn, vì nó quyết định đến giá trị của QSHTT . Một số yếu tố cần xét

đến khi thẩm định thường là: Lường trước các vụ tranh chấp pháp lý có thể xảy ra ở

hiện tại và tương lai; mức độ uy tín của công ty luật tư vấn; tư cách của luật sư tham

gia thẩm định; và tính chuyên nghiệp của tư vấn kỹ thuật và công nghệ…

NH cần có những điều khoản pháp lý ràng buộc chặt chẽ quyền lợi và nghĩa vụ

các bên liên quan trong hợp đồng thế chấp QSHTT , đối với các tài sản hiện tại và tài

sản tương lai, vì tài sản tương lai thì khó có thể định giá hơn.

Kinh nghiệm cho thấy, vì bên đi vay là bên luôn cần vốn tài trợ, nên họ thường dễ

dàng đồng ý ký kết thụ động với các điều khoản hợp đồng do NH dự thảo. Trong quá

trình cho vay đối với trường hợp dùng QSHTT làm tài sản đảm bảo cán bộ tín dụng

cần chú ý những điều sau:

- Thường xuyên đánh giá lại chiến lược sở hữu trí tuệ;

- Không bỏ mặc các vấn đề về sở hữu trí tuệ;

- Đảm bảo rằng TSTT ở trạng thái tốt nhất khi ra bán công ty;

- Đảm bảo rằng chính sách bảo hiểm sẽ phải bao trùm cả các loại QSHTT

trong quá trình bán công ty;

- Đối với doanh nghiệp

Đối với các doanh nghiệp cần gia tăng mức độ nhận thức và sử dụng QSHTT,

bằng cách:

- Có những trợ cấp cho việc sử dụng các hệ thống QSHTT : Các chủ sở hữu nên

có nguồn vốn nhất định hỗ trợ cho QSHTT , nhằm bảo vệ các quyền sở hữu trí

tuệ của mình, tránh bị làm giả, lạm dụng hình ảnh khiến giảm giá trị.

- Luôn tự theo dõi QSHTT của mình và có những báo cáo biến động hàng năm

thích hợp để cung cấp thông tin, hạn chế rủi ro do thông tin bất cân xứng.

- Xây dựng hệ thống nhận thức và năng lực nhận thức rõ hơn về lợi ích của việc

bảo vệ sáng kiến của mình đối với quyền sở hữu trí tuệ, và trang bị cho chủ sở hữu

những khả năng để duy trì giá trị của QSHTT . Bảo đảm cho QSHTT của mình có thể

được bảo vệ khỏi các rủi ro. Tự bảo vệ các QSHTT của mình trước các rủi ro về thị

trường, rủi ro kinh tế và lạc hậu về công nghệ để không bị tác động đến giá trị. Đăng

ký những văn bằng bảo hộ cần thiết với các quyền sở hữu trí tuệ và có các biện pháp

bảo vệ QSHTT .

KẾT LUẬN

Quyền sở hữu trí tuệ là một loại tài sản được công nhận ngày càng phổ biến và có

giá trị lớn. Việc sử dụng, khai thác QSHTT đang được nhà nước, các ngân hàng, các

doanh nghiệp và các chủ thể khác quan tâm, trong đó có việc sử dụng QSHTT làm tài

sản bảo đảm cho các khoản vay tại các NHTM.

Các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển đã và đang có những bước

đi trong việc cho vay có bảo đảm bằng QSHTT như hiện đại hóa chế độ pháp lý về

giao dịch bảo đảm, hoàn thiện chế độ bảo hộ sở hữu trí tuệ mạnh mẽ, hiệu quả và xây

dựng thị trường sở hữu trí tuệ dễ tiếp cận,… Đây là một xu hướng tất yếu của sự phát

triển kinh tế, xã hội và pháp lý của toàn nhân loại, nên đòi hỏi các quốc gia, trong đó có

Việt Nam nghiên cứu và áp dụng.

Hiện nay, hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT tại các NHTM Việt Nam

đã diễn ra, tuy nhiên diễn ra với số lượng không đáng kể. Trong đó nguyên nhân, đồng

thời là hệ quả của thực trạng này là pháp luật Việt Nam chưa có quy định trực tiếp điều

chỉnh về biện pháp bảo đảm tín dụng bằng QSHTT mà chỉ có các quy định làm nền

tảng cơ bản cho việc xây dựng một chế độ pháp lý về biện pháp bảo đảm bằng quyền

sở hữu trí tuệ trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại như: quy định pháp

luật dân sự về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tài sản bảo đảm, pháp luật về sở

hữu trí tuệ,... Do đó, để kịp thời bắt nhịp với sự phát triển của thế giới, đáp ứng các yêu

cầu của hoạt động kinh tế và để hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT được thực

hiện trên thực tế đòi hỏi phải có sự nâng cao, thay đổi của nhiều yếu, nhiều chủ thể,

trong đó đặt trọng tâm là thay đổi các quy định pháp luật về biện pháp bảo đảm nghĩa

vụ.

Với lợi thế là một đất nước đi sau, Việt Nam có thể học hỏi mô hình pháp luật của

các nước phát triển trên thế giới về biện pháp bảo đảm tín dụng bằng QSHTT trong

hoạt động của NHTM. Tuy nhiên, vấn đề cho vay có bảo đảm bằng QSHTT là một vấn

đề mới, các nước trên thế giới và các tổ chức quốc tế và khu vực đang trong quá trình

nghiên cứu và xây dựng một mô hình pháp lý hoàn thiện nhất. Do đó việc lựa chọn một

mô hình học tập cho pháp luật Việt Nam cần phải được xem xét những ưu điểm và

nhược điểm của từng mô hình để vận dụng linh hoạt vào điều kiện cụ thể của Việt

Nam.

Dựa trên những phân tích nêu trên, bài khóa luận của người viết đã cố gắng tìm

hiểu những cơ sở lý luận của việc áp dụng biện pháp bảo đảm tín dụng bằng QSHTT

trong các NHTM, thực trạng pháp luật Việt Nam về vấn đề này, đồng thời từ đó đưa ra

một vài kiến nghị cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền

vay bằng QSHTT trong NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, do sự hữu hạn về kiến thức và

hiểu biết nên trong phạm vi bài khóa luận tốt nghiệp này, người viết không thể bao

quát, làm rõ hết các vấn đề về biện pháp bảo đảm tín dụng bằng QSHTT trong hoạt

động của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên người viết cũng hy vọng thông qua bài

khóa luận tốt nghiệp này sẽ góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về

biện pháp bảo đảm tín dụng bằng QSHTT trong hoạt động của NHTM, đưa các biện

pháp bảo đảm này vào áp dụng trong thực tiễn của hoạt động ngân hàng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tiếng Việt

1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật dân sự.

2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật dân sự.

3. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Luật các tổ chức tín

dụng;

4. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Luật các tổ chức tín

dụng (sửa đổi, bổ sung);

5. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Sở hữu trí tuệ;

6. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật Sở hữu trí tuệ

(sửa đổi, bổ sung);

7. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Chuyển giao

công nghệ;

8. Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về

Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với

khách hàng;

9. Quốc hổi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Nghị quyết

42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng;

10. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Nghị định số

163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm;

11. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Nghị định số

11/2012/NĐ-CP về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số

163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo

đảm;

12. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2017), Nghị định số

102/2017/NĐ-CP về Đăng ký giao dịch bảo đảm

13. TS Lê Nêt (2006) Sở hữu trí tuệ - Tài liệu bài giảng;

14. Tiến sĩ Luật học Nguyễn Ngọc Điện (2001) Bình luận khoa học về bảo đảm thực

hiện nghĩa vụ trong Luật dân sự Việt Nam;

15. Luật sư Trương Thanh Đức (2017), 09 biện pháp bảo đảm nghĩa vụ hợp đồng,

NXB Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội;

16. PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy (2016), Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro

trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên

thế giới, ĐHQGHN, Hà Nội;

17. Phạm Thị Hồng (2015), Pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ tại ngân hàng thương

mại ở Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật (ĐHQG Hà

Nội), Hà Nội;

18. Đào Thị Dung (2016), Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ tại Việt

Nam. Thực tiễn pháp lý và phương hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Khoa Luật (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội;

19. Nguyễn Trí Đức (2008), Hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm trong hoạt

động của ngân hàng thương mại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học

Luật Hà Nội, Hà Nội;

20. Trần Thị Thu Hường, “Cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là tài sản trí tuệ - Cơ

hội, thách thức cho các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và

Đào tạo Ngân hàng, 170 (7), 46-52;

21. Thu Hằng (2013), “Thế chấp ảo, rút ruột ngàn tỷ thật”, www.tienphong.vn

22. Tùng Lâm (2017), “Agribank rao bán tài sản tại công ty Lifepro tai tiếng từng

khiến hàng loạt cựu lãnh đạo ngân hàng này vào tù”, nhipsongkinhte.com

23. Tô My (2015), “Sử dụng tài sản trí tuệ đảm bảo cho các khoản vay”, laodong.vn;

24. Linh Chi (2015), “Cho vay đảm bảo bằng tài sản trí tuệ: Cũ người, mới ta”,

doanhnhansaigon.vn;

25. Brandfinance (2017), “Báo cáo Top 50 Thương hiệu hàng đầu Việt Nam về tài

sản vô hình và giá trị thương hiệu năm 2017”, brandfinance.com.

B. Tiếng Anh

1. Bich Thao Nguyen (2014), Legal Frameworks for Intellectual Property-Based

Secured Financing: Proposal for Reform in Vietnam, SMU Dedman School of

Law, The United State of America;

2. TaylorWessing (2015), “Taking and enforcing security in Ẻuope”,

TaylorWessing.com;