ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN BÍCH NGỌC
DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: Luật học Chất lượng cao
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH - 2014 - L
Hà Nội, 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN BÍCH NGỌC
DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: Luật học Chất lượng cao
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH -2014- L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Tiến sĩ Trần Trí Trung
Hà Nội, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Các số liệu trong Khóa luận được sử
dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế
thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên cứu đã được
công bố, các website.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Người cam đoan
1
Nguyễn Bích Ngọc
BẢNG KÝ HIỆU, VIẾT TẮT
Doanh nghiệp xã hội DNXH
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD
Tổ chức phi chính phủ NGO
Hợp tác xã HTX
Quản lý nhà nước QLNN
2
Chủ nghĩa xã hội CNXH
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 1
BẢNG KÝ HIỆU, VIẾT TẮT ........................................................................ 2
MỤC LỤC ........................................................................................................ 3
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm Doanh nghiệp xã hội .................................................................. 8
1.2. Lịch sử phát triển ....................................................................................... 11
1.2.1. Trên thế giới ........................................................................................ 11
1.2.2. Ở Việt Nam ......................................................................................... 13
1.3. Đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội ........................................................... 17
1.3.1. Phải có hoạt động kinh doanh ............................................................. 17
1.3.2. Đặt mục tiêu xã hội lên hàng đầu ........................................................ 18
1.3.3. Tái phân phối lợi nhuận ...................................................................... 19
1.3.4. Sở hữu mang tính xã hội ..................................................................... 19
1.3.5. Phục vụ nhu cầu của Nhóm đáy (BoP) ............................................... 20
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI ............................................................................................................ 8
2.1. Cơ sở pháp lý chung ................................................................................... 21
2.2. Các quy định cụ thể .................................................................................... 21
2.2.1. Quy định về bản chất, đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội ................. 21
2.2.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội ................. 22
2.2.3. Quy định về quyền thành lập doanh nghiệp xã hội ............................. 24
2.2.4. Quy định về hình thức pháp lý của doanh nghiệp xã hội .................... 26
2.2.5. Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập doanh nghiệp xã hội ........... 26
2.2.6. Quy định về quản trị doanh nghiệp ..................................................... 29
2.2.7. Các chính sách hỗ trợ DNXH ............................................................. 34
2.2.8. Quy định về các chính sách xã hội của luật chuyên ngành ................. 38
3
Chương 2 DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM ........................................................................................ 21
Chương 3 KINH NGHIỆM MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM .............................................................................. 40
3.1. Pháp luật về DNXH tại một số quốc gia trên thế giới ............................... 40
3.1.1. Ưu đãi về chính sách thuế ................................................................... 40
3.1.2. Hỗ trợ về thể chế ................................................................................. 41
3.1.3. Loại hình DNXH ................................................................................. 41
3.1.4. Chiến lược phát triển DNXH .............................................................. 46
3.1.5. Cơ quan điều phối ............................................................................... 48
3.2. Một số hạn chế của pháp luật Việt Nam về DNXH ................................... 48
3.2.1. Về các tiêu chí của DNXH .................................................................. 48
3.2.2. Về loại hình DNXH ............................................................................ 49
3.2.3. Hệ thống văn bản pháp luật dành cho DNXH .................................... 50
3.2.4. Về các chính sách hỗ trợ DNXH ......................................................... 51
3.2.5. Cơ chế mở cho DNXH ........................................................................ 51
3.3. Đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về DNXH ..................................... 52
3.3.1. Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về DNXH ............................... 52
3.3.2. Về cơ quan điều phối, hỗ trợ DNXH .................................................. 54
3.3.3. Về chính sách ưu đãi đối với DNXH .................................................. 54
3.3.4. Xu hướng mở cho DNXH ................................................................... 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 56
4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 57
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ,
mang lại những hiệu quả kinh tế xã hội đáng ghi nhận. Cùng với sự phát triển
đó, hàng loạt vấn đề về môi trường, y tế, xã hội của nhóm người yếu thế trong
xã hội như phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, người
nhiễm HIV/AIDS v.v… cũng đã bộc lộ và ngày càng trở nên gay gắt, đòi hỏi
sự chung sức giải quyết của toàn xã hội. Trong hoàn cảnh đó, DNXH ra đời là
sự cần thiết để góp phần giải quyết hiệu quả những vấn đề trên.
Chính thức được thừa nhận theo quy định của Luật doanh nghiệp năm
2014, các quy định hiện hành của pháp luật đã tạo tiền đề pháp lý cho DNXH
được thành lập và hoạt động. Tuy nhiên, một số quy định về DNXH còn
chung chung, nhiều bất cập, chưa phát huy hết được những đặc điểm, ưu thế
của DNXH đối với xã hội, kinh tế của quốc gia. Trong khi, các quốc gia trên
thế giới đã hình thành và phát triển DNXH từ lâu, có nhiều kinh nghiệm về
mặt pháp lý mà chúng ta có thể tham khảo và học hỏi. Chính vì vậy, tôi đã
chọn đề tài “Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề
tài khóa luận cho mình.
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn pháp luật
về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay cũng như kinh nghiệm của một
số quốc gia trên thế giới. Từ đó đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình DNXH ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài có đối tượng nghiên cứu là các quy phạm pháp luật quy định về
tổ chức và hoạt động của DNXH được quy định trong Luật Doanh nghiệp
5
2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về doanh
nghiệp xã hội được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, các nghị
định, thông tư hướng dẫn đang có hiệu lực thi hành, các chính sách phát triển
cho DNXH hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài có sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử (nhìn vấn đề theo chiều dài lịch sử). Ngoài ra, các phương
pháp thống kê, so sánh, tổng hợp cũng được sử dụng trong đề tài.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
DNXH là mô hình doanh nghiệp đã được hình thành từ lâu, và cũng đã
phát triển ở Việt Nam trong một thời gian nhất định. Những đóng góp cho xã
hội của DNXH là không thể phủ nhận, chính vì vậy nghiên cứu về tổ chức và
hoạt động của DNXH đã được một số nghiên cứu đề cập đến. Có thể kể đến
các công trình nghiên cứu sau:
- Sách Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam: Khái niệm, Bối cảnh và
Chính sách năm 2012 của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hội
đồng Anh tại Việt Nam và Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (CSIP);
- Sách: Điển hình Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam năm 2016 của Hội
đồng Anh;
Nghiên cứu về khía cạnh pháp lý của doanh nghiệp xã hội, đặc biệt là
pháp luật về tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay
còn rất hạn chế,mới chỉ có một số ít công trình nghiên cứu các vấn đề pháp lý
về DNXH. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
- TS. Phan Thị Thanh Thủy với bài viết: Những vấn đề pháp lý về
DNXH theo Luật Doanh nghiệp 2014 đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật,
số 6 / 2015.
- TS. Phan Thị Thanh Thủy với bài viết: Hình thức pháp lý của doanh
nghiệp xã hội: Kinh nghiệm nước Anh và một số gợi mở cho Việt Nam - Tạp
6
chí Khoa học ĐHQGHN, số 4 / 2015.
- ThS. Vũ Thị Hòa Như với bài viết: Hoàn thiện quy định pháp luật
Việt Nam về doanh nghiệp xã hội, Tạp chí Luật học, số 3/2015.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số khía cạnh nhất
định của mô hình phát triển DNXH dưới góc độ pháp lý. Tuy nhiên, còn một
số khía cạnh mà những bài viết trên chưa đề cập đến. Chính vì vậy, việc tác
giả chọn đề tài “Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam hiện nay” với
mong muốn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật
DNXH ở Việt Nam và đóng góp những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về DNXH.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu đề tài này, Khóa luận có những đóng góp về mặt khoa học
trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công
trình đi trước, Khóa luận đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện và
tập trung pháp luật về doanh nghiệp xã hội.
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng pháp luật về DNXH Việt Nam theo quy
định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, các văn bản pháp luật chuyên ngành
và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, tìm hiểu pháp luật về DNXH của một số quốc gia trên thế giới.
Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về DNXH và nâng
cao hiệu quả tổ chức và hoạt động đối với loại hình doanh nghiệp này.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Khóa luận được bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp xã hội
Chương 2: Doanh nghiệp xã hội theo quy định của pháp luật Việt Nam
Chương 3: Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới và bài học cho
7
Việt Nam
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ DOANH NGHIỆP XÃ HỘI
1.1. Khái niệm Doanh nghiệp xã hội
Khi nói về DNXH, tổ chức Schwab về DNXH nêu định nghĩa: DNXH
áp dụng các giải pháp thực tiễn, tiên tiến, bền vững nhằm mang lại lợi ích cho
xã hội nói chung, đặc biệt là những người nghèo và người yếu thế trong xã
hội. Các tổ chức này đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề xã hội và kinh
tế… không phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động và không phụ thuộc vào đó là
doanh nghiệp kiếm lợi nhuận hay không [23]. Dễ nhận thấy, định nghĩa của
Schwab về DNXH tập trung vào mục đích của doanh nghiệp xã hội là có
những giải pháp sáng tạo, bền vững mang lại lợi ích cho xã hội, đặc biệt là
nhóm người yếu thế trong xã hội như người nghèo, phụ nữ, trẻ em… chứ
không định nghĩa theo mức lợi nhuận dùng để giải quyết các vấn đề xã hội,
kinh tế.
Tại Hàn Quốc, đạo luật khuyến khích DNXH, khoản 1, điều 2 quy
định: DNXH là tổ chức thực hiện các hoạt động kinh doanh sản xuất, mua bán
hàng hóa, dịch vụ, theo đuổi mục đích xã hội, tăng cường chất lượng cuộc
sống của người dân bằng cách cung cấp dịch vụ, tạo công ăn việc làm và các
dịch vụ cho những người yếu thế trong xã hội. Theo khoản 2, điều 2, nhóm
người yếu thế trong xã hội được hiểu là những người gặp khó khăn trong việc
tiếp cận các dịch vụ xã hội mà họ cần ở mức giá thị trường hoặc phải làm việc
trong điều kiện lao động dưới bình thường [25].
Tại Thái Lan: Theo Văn phòng DNXH Thái Lan, DNXH là doanh
nghiệp hoặc tổ chức được thành lập để giải quyết các vấn đề xã hội và môi
trường. Nguồn thu chính là từ dịch vụ (hơn là được tặng) để tạo ra loại hình tự
chủ tài chính. Tiền lãi được tái đầu tư để đạt được các mục đích xã hội.
8
Tại Philippin: Theo House Bill số 6085, DNXH là là tổ chức, dù là hiệp
hội, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty cổ phần mà lợi nhuận
của nó dùng để cung cấp hàng hóa, dịch vụ liên quan đến phát triển cuộc sống
cho người dân. [24]
Từ những định nghĩa về DNXH của một số quốc gia châu Á có thể
nhận thấy các quốc gia này cũng tập trung vào mục đích của DNXH khi định
nghĩa DNXH. DNXH thực hiện các hoạt động sản xuất, mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ nhằm cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho các đối tượng yếu thế
trong xã hội, gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, tìm
kiếm việc làm như phụ nữ, trẻ em lang thang, cơ nhỡ, bị bạo hành, người
nhiễm HIV/AIDS, những người chấp hành xong án phạt tù cần tái hòa nhập
cộng đồng, v.v…, nhằm mang lại điều kiện sống tốt hơn, tăng cường chất
lượng cuộc sống cho người dân, giúp họ tiếp cận được với các sản phẩm, dịch
vụ một cách tốt nhất.
Trong Chiến lược phát triển DNXH năm 2002, Chính phủ Anh định
nghĩa: “DNXH là một mô hình kinh doanh được thành lập nhằm thực hiện các
mục tiêu xã hội, và sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư cho mục tiêu đó hoặc cho
cộng đồng, thay vì tối đa hóa lợi nhuận cho cổ đông hoặc chủ sở hữu”.
Cách định nghĩa này rất toàn diện, bám sát những đặc điểm cơ bản của
DNXH. Một là, kinh doanh cần được hiểu như một mô hình, phương án, giải
pháp kinh doanh. Hai là, mục tiêu xã hội được đặt ra như một sứ mệnh cơ bản
và trước tiên của việc thành lập tổ chức đó. DNXH phải là tổ chức đượ lập ra
vì mục tiêu xã hội. Ba là, về nguyên tắc (principally) lợi nhuận được tái phân
phối lại cho tổ chức hoặc cộng đồng, không phải cho cá nhân.
OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) định nghĩa: “DNXH là
những tổ chức hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau vận dụng
tinh thần doanh nhân nhằm theo đuổi cùng lúc cả hai mục tiêu xã hội và kinh
tế. DNXH thường cung cấp các dịch vụ xã hội và việc làm cho các nhóm yếu
thế ở cả thành thị và nông thôn. Ngoài ra, DNXH còn cung cấp các dịch vụ
9
cộng đồng, trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa, môi trường”.
Tổ chức hỗ trợ sáng kiến vì cộng đồng - CSIP của Việt Nam đưa ra
quan điểm: “DNXH là một khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các doanh
nhân xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau tùy thuộc vào mục đích và điều
kiện hoạt động cụ thể. DNXH lấy lợi ích xã hội làm mục tiêu chủ đạo, được
dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân nhằm đạt được cả mục tiêu xã hội/ môi
trường và mục tiêu kinh tế”. [22]
Trước hết, CSIP gắn DNXH với doanh nhân xã hội để nhấn mạnh vai
trò của người sáng lập tổ chức là những người kết hợp hài hòa được sáng
kiến xã hội và tinh thần doanh nhân. Thứ hai, DNXH có thể đang hoặc sẽ
hoạt động dưới nhiều hình thức tổ chức và địa vị pháp lý khác nhau, vốn phù
hợp với thực trạng phong phú của khu vực xã hội dân sự ở Việt Nam, trong
đó nổi bật là vai trò đổi mới của các NGOs; đồng thời mở ra khả năng
chuyển đổi thành DNXH từ các mô hình tổ chức khác như Quỹ tín dụng vi
mô, Quỹ từ thiện, Hợp tác xã thậm chí có thể bao gồm các một số loại hình
từ Tổ chức xã hội, Tổ chức sự nghiệp, Doanh nghiệp dịch vụ công ích của
khu vực nhà nước. Thứ ba, các tiêu chí chủ đạo để xác định DXNH trong
khái niệm của CSIP dường như tiếp thu trường phái định nghĩa của OECD
khi yêu cầu DNXH phải theo đuổi đồng thời cả hai mục tiêu xã hội (chủ
đạo) và kinh tế. Tương tự như OECD, vấn đề phân phối lợi nhuận không
được đề cập rõ ràng trong định nghĩa của CSIP.
Như vậy, có thể nhận thấy điểm chung của các định nghĩa trên là tập
trung vào mục tiêu của DNXH là giải quyết các vấn đề môi trường, xã hội,
thay vì tối đa hóa lợi nhuận. Các DNXH thực hiện các hoạt động kinh doanh
như mua bán hang hóa, cung cấp dịch vụ, nhằm giải quyết các vấn đề xã hội,
môi trường, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội như người nghèo,
phụ nữ, trẻ em, v.v… Từ đó, người dân nói chung và những người yếu thế
trong xã hội nói riêng được tiếp cận, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ một cách
tốt nhất, cải thiện chất lượng của họ. Hơn nữa, hình thức pháp lý của DNXH
10
rất đa dạng và phong phú, có những định nghĩa quy định một tổ chức là
DNXH chỉ dựa trên mục đích hoạt động mà không phụ thuộc vào hình thức
pháp lý là gì.
1.2. Lịch sử phát triển
1.2.1. Trên thế giới
Theo nghiên cứu của MacDonald M. & Howarth C. (2008), mô hình
DNXH đầu tiên xuất hiện tại London vào năm 1665, khi Đại dịch (Great
Plague) hoành hành đã khiến nhiều gia đình giàu có, vốn là các chủ xưởng
công nghiệp và cơ sở thương mại rút khỏi thành phố, để lại tình trạng thất
nghiệp tăng nhanh trong nhóm dân nghèo lao động. Trong bối cảnh đó,
Thomas Firmin đã đứng ra thành lập một xí nghiệp sản xuất và sử dụng nguồn
tài chính cá nhân cung cấp nguyên liệu cho nhà máy để tạo và duy trì việc làm
cho 1,700 công nhân. Ngay từ khi thành lập, ông tuyên bố xí nghiệp không
theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và số lợi nhuận sẽ được chuyển cho
các quỹ từ thiện.
Đến cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, số lượng không nhiều các DNXH ở
Anh có thể được phân thành hai nhóm:
(i) Một số người giàu có thay đổi quan điểm của họ trong hoạt động từ
thiện. Thay cho những khoản đóng góp vật chất dễ gây nên tâm lý ỷ lại, lười
biếng và ‘nhàn cư vi bất thiện’ ở tầng lớp dân nghèo, họ chuyển sang các
chương trình cung cấp việc làm để nhóm này học việc và có thể duy trì công
việc cũng như thu nhập của mình, trở thành ‘những thành viên hữu ích của
quốc gia’. Trường dạy xe sợi, dệt vải, mô hình DNXH đầu tiên trong lĩnh vực
giáo dục, được mở ở Liverpool năm 1790. Trường giáo dưỡng, tái hòa nhập
trẻ phạm tội của tư nhân, đã được Nhà nước công nhận và tài trợ. Hàng loạt
sáng kiến xã hội khác như đào tạo nghề đi biển, nghề mộc cho trẻ em, sử dụng
nguồn thu từ các hàng cà phê cũng được ghi nhận trong thời gian này. Đặc
biệt, các dự án cung cấp nhà ở xã hội đầu tiên đã đi theo mô hình DNXH với
mức lợi nhuận tối đa 5% được các nhà đầu tư chấp nhận.
11
(ii) Xuất hiện các mô hình cho phép người lao động có nhiều quyền
hơn trong ký kết hợp đồng lao động và lần đầu tiên họ có khả năng làm chủ
kế hoạch kinh doanh cũng như phân phối lợi nhuận. Hợp tác xã (Co-op), hội
ái hữu (Provident Society), làng nghề (Industrial Society) đã thực hiện phân
phối lợi nhuận và cung cấp phúc lợi cho toàn bộ cộng đồng, cũng như trao
quyền biểu quyết về quản lý tổ chức và kinh doanh cho tất cả thành viên.
Ngoài ra, trên thực tế nhiều thư viện và bảo tàng ở châu Âu và Bắc Mỹ
từ lâu đã có truyền thống thực hiện kinh doanh, bán hàng lưu niệm, đấu giá
nhằm mục đích gây quỹ cho các lĩnh vực hoạt động chính của mình. Mặc dù
không điển hình, nhưng đây cũng có thể được coi như những hoạt động mang
tinh thần doanh nhân xã hội xuất hiện từ rất sớm. Họ hướng đến kinh doanh
như một công cụ để tăng cường tính bền vững của tổ chức, cũng như giải
pháp xã hội mà dựa vào đó tổ chức được thành lập.
Sang thế kỷ 20, hoạt động của các DNXH có phần giảm sút khi chủ
thuyết kinh tế Keynes lên ngôi từ sau cuộc Đại suy thoái (1929-1933), cổ vũ
cho vai trò can thiệp của Nhà nước đối với nền kinh tế; và cũng nhờ đó, một
loạt mô hình Nhà nước phúc lợi đã ra đời ở Tây Âu và Bắc Mỹ sau Thế
chiến II. Các DNXH chỉ thực sự phát triển mạnh để hình thành nên một
phong trào rộng khắp có diện mạo như ngày nay kể từ khi Thủ tướng Anh
Margaret Thatcher lên nắm quyền, năm 1979. Bà chủ trương thu hẹp lại vai
trò của Nhà nước và cho rằng Nhà nước không nên trực tiếp tham gia cung
cấp phúc lợi xã hội.
Trong ba thập niên trở lại đây, phong trào DNXH đã phát triển mạnh ra
khỏi biên giới các quốc gia và trở thành một vận động xã hội có quy mô và
tầm ảnh hưởng toàn cầu. Nội dung, tiêu chí cụ thể để định nghĩa, phân loại
DNXH lại có nhiều quan điểm khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển,
đặc điểm kinh tế - xã hội của từng nước, và thậm chí là mục tiêu chính sách
của từng chính phủ. Mặc dù vậy, qua các tài liệu nghiên cứu, có thể nói
DNXH đang hoạt động mạnh mẽ ở tất cả các khu vực trên thế giới từ Tây Âu,
12
Bắc Mỹ, Úc đến Mỹ La-tinh, Trung Đông, châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á.
Không ít quốc gia đã ban hành văn bản pháp lý riêng về DNXH và tạo lập
được các mạng lưới có tổ chức để tập hợp, chia sẻ và kết nối lên tới hàng
nghìn DNXH ở phạm vi trong nước cũng như quốc tế. [22]
1.2.2. Ở Việt Nam
Có thể chia quá trình phát triển của các DNXH ở Việt Nam thành ba
giai đoạn chính như sau:
(i) Trước Đổi mới (1986), DNXH gắn với sở hữu tập thể, hoạt động
dưới hình thức các HTX phục vụ nhu cầu của nhóm cộng đồng yếu thế;
(ii) Từ 1986-2010, DNXH gắn với các NGO và nguồn vốn tài trợ chủ
yếu từ các tổ chức nước ngoài;
(iii) 2010 – nay, DNXH hoạt động theo nguyên tắc thị trường; nguồn vốn
chuyển dịch từ tài trợ bên ngoài sang nguồn thu từ các hoạt động kinh doanh.
1.2.2.1.Trước Đổi mới (1986)
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhà nước là chủ thể duy nhất
có trách nhiệm đảm bảo các dịch vụ xã hội được phân phối tới người dân. Sự
hình thành và hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội như Hội Phụ nữ,
Đoàn Thanh niên... luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, gắn chặt với hệ thống
quản lý nhà nước và là nơi duy nhất qua đó cá nhân có thể tham gia vào hoạt
động cộng đồng. Trong thời kỳ này, các loại hình tổ chức xã hội độc lập với
nhà nước như các tổ chức NGO không được phép hoạt động ở Việt Nam. Bên
cạnh đó, chỉ có kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể được công nhận là hai
thành phần kinh tế chủ đạo của đất nước.
Trong bối cảnh ấy, hợp tác xã (HTX) là hình thức tổ chức kinh tế-xã hội
phù hợp duy nhất được thành lập để đáp ứng một số nhu cầu đặc biệt của xã viên
theo tinh thần cộng đồng: hợp tác, chia sẻ và cùng hưởng lợi. HTX được coi là
một tổ chức thuộc sở hữu cộng đồng, đồng thời là một đơn vị kinh tế độc lập.
Chính vì vậy, HTX có thể được coi là mô hình doanh nghiệp xã hội sớm nhất ở
Việt Nam. Về mặt chính sách, nhà nước cũng có nhiều chính sách khuyến khích
13
sự phát triển của HTX ngay từ những năm đầu xây dựng CNXH ở Miền Bắc.
Đến năm 1987, số lượng các HTX trên cả nước lên tới gần 74,000 hoạt động
trên nhiều lĩnh vực, góp phần đáp ứng nhu cầu cấp thiết của cộng đồng.
Trong số các HTX ra đời trong giai đoạn này, một số không nhỏ được
thành lập để tạo việc làm, hỗ trợ cuộc sống cho những đối tượng yếu thế của
xã hội, chủ yếu là người khuyết tật. Hầu hết các HTX của người khuyết tật
hoạt động trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, như mây tre, đan thêu, may
mặc... bởi đây được coi là những việc làm phù hợp với sức khỏe và điều kiện
lao động của họ.
1.2.2.2 .Giai đoạn từ năm 1986-2010
Các hoat động kinh doanh vì mục tiêu xã hội với đầy đủ các đặc điểm
cơ bản của mô hình DNXH chỉ bắt đầu phát triển kể từ khi chính sách Đổi
Mới được thực hiện vào năm 1986. Đây là cột mốc đánh dấu sự thừa nhận các
thành phần kinh tế mới là kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân và
kinh tế cá thể tiểu chủ. Nhờ đó, vai trò chủ động của cá nhân và cộng đồng
trong việc cung cấp và trao đổi các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người dân đã
được công nhận và phát triển.
Sau khi lệnh cấm vận của Hoa Kỳ được dỡ bỏ vào năm 1994, hàng
trăm các tổ chức nhân đạo phát triển quốc tế đã vào Việt Nam, mang theo một
nguồn viện trợ nhân đạo không hoàn lại và vốn ODA rất lớn. Chỉ tính riêng
giai đoạn 2005-2010, tổng số vốn ODA cam kết cho Việt Nam là 31 tỷ đô la
Mỹ. Đây là giai đoạn nhà nước có nhiều chính sách cởi mở, tạo lập khung khổ
pháp lý cho sự phát triển các tổ chức kinh tế và xã hội ngoài nhà nước.
Nghị định số 71/1998/NĐ-CP về quy chế dân chủ ở cơ sở và các văn
bản pháp qui ra đời năm 1998 lần đầu tiên chính thức khuyến khích sự tham
gia của các tổ chức xã hội và công dân trong quá trình xây dựng, thực hiện và
giám sát thực hiện chính sách tại cộng đồng. Để thúc đẩy sự tham gia của
người dân vào quá trình xây dựng và phát triển cộng đồng, nhà nước đã có
những bước đi tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các tổ chức khác nhau,
14
đặc biệt thông qua việc tăng cường sức mạnh các tổ chức chính trị xã hội
(mass organizations). Nghị định 35-HĐBT (1992) đã đưa ra một số giải pháp
thúc đẩy việc cá nhân thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ. Nghị
định 177/1999/NĐ-CP và sau đó là Nghị định 148/2007/NĐ-CP đã đưa ra các
cơ sở cho việc thành lập các quỹ xã hội, quỹ từ thiện... Vai trò của các tổ chức
cộng đồng được đặc biệt chú trọng trong việc cung cấp các dịch vụ cơ bản
cho cộng đồng như quản lý tài nguyên nước, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc y
tế ban đầu, giáo dục phổ cập, bảo vệ môi trường.
Nhà nước đặc biệt chú trọng và khuyến khích sự hợp tác giữa các tổ
chức NGO trong nước, nước ngoài và chính quyền địa phương. Các chính
sách trên đã giúp các tổ chức và doanh nghiệp phát triển cộng đồng có điều
kiện để phát triển. Số liệu thống kê cho thấy có tới hơn 1,000 tổ chức NGO,
320 hiệp hội hoạt động cấp quốc gia và 2,150 hội hoạt động trên nguyên tắc
tự nguyện và tự chủ ở trung ương và địa phương. Hầu hết tất cả các tổ chức
này nhận hỗ trợ tài chính từ các tổ chức NGO quốc tế và nhà tài trợ để duy trì
hoạt động và cung cấp dịch vụ cho cộng đồng. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có
hàng nghìn tổ chức có tính cộng đồng như nhà văn hóa, câu lạc bộ và mảng
phụ trách hoạt động kinh doanh thuộc các tổ chức chính trị - xã hội quần
chúng (ví dụ: hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội người tàn tật, v.v.) và hàng
nghìn đơn vị sự nghiệp đang thực hiện chức năng cung cấp phúc lợi xã hội
của nhà nước (mang lại các dịch vụ công cộng như quản lý chất thải, nguồn
nước, v.v.). Các tổ chức này đều có một số đặc điểm của DNXH và có khả
năng chuyển thành DNXH trong tương lai [22].
Cùng với quá trình mở cửa và đổi mới toàn diện, Nhà nước cũng thực
hiện cải cách trong lĩnh vực dịch vụ công theo hướng xã hội hóa, kêu gọi sự
đầu tư và tham gia của các thành phần kinh tế, các cá nhân và tập thể vào việc
chia sẻ gánh nặng cung cấp các dịch vụ công, đặc biệt trong lĩnh vực giảm
nghèo, giáo dục và chăm sóc y tế.
1.2.2.3. Từ 2010 - nay
15
Trong giai đoạn này, nguồn vốn trong nền kinh tế Việt Nam đã dồi dào
và chủ động hơn trước, tình trạng nghèo đói đã được cải thiện đáng kể trong
số đông dân cư. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến việc thay đổi chính sách hỗ
trợ nhân đạo và phát triển xã hội của các quốc gia và tổ chức quốc tế tại Việt
Nam. Nếu chúng ta tiếp tục phụ thuộc vào các nguồn vốn viện trợ bên ngoài,
Việt Nam sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt vốn nghiêm trọng cho các
hoạt động phát triển cộng đồng trong thời gian tới. Trong khi đó, việc huy
động tài trợ và vốn từ cộng đồng ở Việt Nam còn khá hạn chế. Một nghiên
cứu gần đây của Quĩ Châu Á (2011) về đóng góp từ thiện ở Việt Nam cho
thấy tiềm lực đóng góp của người dân và doanh nghiệp khá lớn, tuy nhiên do
thiếu những kênh từ thiện chính thức và thiếu những chính sách phù hợp, đa
phần hoạt động từ thiện có tính tự phát, qui mô nhỏ và phạm vi hạn chế trong
cộng đồng nhỏ. Thiếu nguồn vốn cho hoạt động là một áp lực lớn tới hàng
ngàn tổ chức NGO Việt Nam và các dự án phát triển cộng đồng trong thời
gian không xa. Trong bối cảnh đó, Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng
đồng (CSIP) cùng các đối tác như Hội đồng Anh (British Council), Trung tâm
Spark đã tích cực tuyên truyền, giới thiệu DNXH như một hướng giải quyết
mới. Các DNXH hiện đang góp phần giải quyết các vấn đề của xã hội như
bảo vệ môi trường, đào tạo nghề và việc làm cho người khuyết tật, phụ nữ
nghèo, HIV/AIDS, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, sức khỏe tâm lý, chăm sóc
trẻ em bị bệnh tự kỷ... và bước đầu có được thành quả đáng ghi nhận.
Các DNXH ở giai đoạn mới này xuất phát từ 3 nhóm chính sau đây:
(i) Các tổ chức NGO: chuyển đổi chiến lược hoạt động của tổ chức, hoặc
thành lập một DNXH thành viên nhằm: Tìm kiếm thu nhập để làm tăng nguồn
quỹ tài trợ; và sử dụng và quản lý nguồn lực trong lĩnh vực cung cấp phúc lợi
xã hội hiệu quả hơn dựa trên cơ chế mang tính thị trường. mô hình tổ chức
thay thế phù hợp với bối cảnh chuyển đổi hiện nay. DNXH giải quyết được cả
hai mục đích xã hội và kinh tế, trong đó mục tiêu xã hội là mục tiêu chủ đạo,
đạt được mục tiêu kinh tế là phương tiện để đạt được mục tiêu xã hội ở qui
16
mô lớn hơn một cách bền vững.
(ii) Nhóm các doanh nghiệp theo đuổi các giá trị kép (shared value): ở đó
việc tạo ra các giá trị kinh tế được thực hiện theo cách mà nó cũng đồng thời
tạo ra các giá trị cho xã hội, thông qua việc đáp ứng được nhu cầu và các
thách thức xã hội.
(iii) Nhóm các DNXH mới: Nhiều cá nhân đã khởi nghiệp bằng cách thành
lập các DNXH, có thể hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau (NGO hoặc
công ty TNHH, công ty cổ phần). [22]
1.3. Đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội
Như được đề cập ở trên, cách định nghĩa về DNXH rất phong phú, tùy
thuộc trình độ phát triển của mỗi nước và khu vực, cũng như đặc thù và ưu
tiên của từng tổ chức. Tuy nhiên, có thể tổng hợp một số đặc điểm cơ bản của
DNXH được thừa nhận rộng rãi như sau:
1.3.1. Phải có hoạt động kinh doanh
DNXH không thể không có các hoạt động kinh doanh. Chính hoạt động
kinh doanh là nét đặc thù cũng như thế mạnh của DNXH so với các tổ chức
phi chính phủ, phi lợi nhuận, các quỹ từ thiện chỉ đơn thuần nhận tài trợ và
thực hiện các chương trình xã hội. Do đó, giải pháp kinh doanh là một nửa
không thể thiếu của mô hình DNXH. Hơn thế nữa, DNXH phải cạnh tranh
bình đẳng, công bằng với các doanh nghiệp thông thường trong cùng lĩnh
vực, khác với các Quỹ từ thiện có thể kêu gọi lòng hảo tâm để nhà tài trợ
đóng góp hoặc mua sản phẩm gây quỹ cho tổ chức.
DNXH phải cung cấp các sản phẩm, hàng hóa và cung ứng dịch vụ với
chất lượng tốt và ở mức giá cạnh tranh so với thị trường. Việc cạnh tranh bình
đẳng và công bằng, tuy là một thử thách lớn, nhưng lại đem lại cho DNXH vị
thế độc lập và tự chủ trong tổ chức và hoạt động của mình. Doanh thu từ hoạt
động kinh doanh có thể không bù đắp tất cả chi phí cho mục tiêu xã hội,
nhưng ít nhất việc bù đắp một phần, thường là từ 50-70% nguồn vốn (phần
còn lại các DNXH vẫn có thể dựa vào nguồn tài trợ), sẽ giúp DNXH độc lập
17
hơn trong quan hệ với các nhà tài trợ để theo đuổi sứ mệnh xã hội của riêng
mình và quan trọng hơn là tạo điều kiện để DNXH mở rộng được quy mô các
hoạt động xã hội của họ (như tăng số lượng học viên, phạm vi làng xã tham
gia). Sự độc lập và tự chủ gắn chặt với tính bền vững của giải pháp kinh
doanh cũng như DNXH.
1.3.2. Đặt mục tiêu xã hội lên hàng đầu
DNXH có mục tiêu xã hội hay các DNXH hoạt động nhằm giải quyết
các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. Các vấn đề xã hội, môi
trường và cộng đồng có thể kể đến như bảo vệ môi trường, bảo vệ và đáp ứng
các quyền cơ bản của con người thông qua các hoạt động tạo công ăn việc
làm, cung cấp các sản phẩm cần thiết cho những nhóm người khó hòa nhập,
dễ bị tổn thương như phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ nông thôn, người nghéo,
trẻ em dân tộc, lang thang cơ nhỡ, bị bạo hành, người nhiễm HIV / AIDS,
cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, nước sạch, xử lý rác thải, ô nhiễm, v.v…
Ví dụ như tạo công ăn việc làm cho người nghèo, trẻ em lang thang cơ
nhỡ, trẻ em đường phố, từng bị lạm dụng, bạo hành… xây dựng chuỗi nhà
hàng, cung cấp các suất ăn miễn phí, giá rẻ cho người có thu nhập thấp, trẻ
em lang thang…; Sử dụng một phần lợi nhuận xây dựng các chương trình đào
tạo dạy nghề, tạo cơ hội việc làm cho những đối tượng trên. Một ví dụ khác là
DNXH sử dụng trên 51% lợi nhuận để tái chế rác thải, xử lý rác thải, cung
cấp xe cấp cứu cho bệnh viện, v.v…
DNXH phải lấy mục tiêu xã hội làm sứ mệnh hoạt động tối thượng
ngay từ khi thành lập, và điều này phải được tuyên bố một cách công khai, rõ
ràng, minh bạch. Nói cách khác, mỗi DNXH được lập ra vì mục tiêu xã hội cụ
thể của mình. Điểm khác biệt với các doanh nghiệp thông thường là các
doanh nghiệp thông thường đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Ngược lại,
DNXH sử dụng hình thức kinh doanh như một công cụ, phương thức đảm bảo
cho việc thực hiện các mục tiêu xã hội của mình. Tiêu chí này góp phần giúp
chúng ta có cơ sở để phân biệt DNXH với các doanh nghiệp thông thường
18
khác. Đối với DNXH thì yếu tố “sinh lợi” không phải là yếu tố quyết định đến
sự ra đời của doanh nghiệp, mà chính từ các vấn đề đang tồn tại trong xã hội.
Các vấn đề xã hội trở thành động lực để doanh nhân xã hội tìm kiếm và quyết
định mô hình kinh doanh phù hợp, suy cho cùng thì doanh nhân xã hội sử
dụng phương thức kinh doanh để giải quyết vấn đề xã hội mà họ đã phát hiện
ra. Khi vấn đề xã hội được giải quyết thì mục đích của DNXH đã đạt được, dù
có thể chính DNXH không thu về được lợi nhuận, thậm chí bị thua lỗ [15].
1.3.3. Tái phân phối lợi nhuận
Mô hình DNXH đòi hỏi lợi nhuận phải được tái phân phối trở lại cho
hoạt động của tổ chức hoặc cho cộng đồng là đối tượng hưởng lợi. Thực chất,
hai đặc điểm ở trên về hoạt động kinh doanh và mục tiêu xã hội là những nét
cơ bản nhất về DNXH. Yêu cầu tái phân phối lợi nhuận chỉ là tiêu chí để giúp
phân định rõ đặc điểm ‘vì lợi nhuận’ hay ‘vì xã hội’ mà thôi. Nguyên tắc cơ
bản của DNXH là không được phân phối lợi nhuận cho cá nhân.
DNXH khi hoạt động kinh doanh phát sinh lợi nhuận không phân phối
như các doanh nghiệp thông thường. Lợi nhuận mà doanh nghiệp có được từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh được dùng để tái đầu tư vào doanh nghiệp với
mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội mà DNXH đang theo đuổi. Tiêu chí sử
dụng lợi nhuận để tái đầu tư phục vụ các mục tiêu xã hội là điểm phân biệt
DNXH với các doanh nghiệp thông thường, thể hiện rõ nét tiêu chí “vì xã
hội”. [22]
1.3.4. Sở hữu mang tính xã hội
Một đặc điểm khác tuy không phổ biến nhưng được một số định nghĩa
DNXH đề cập là cấu trúc sở hữu và quản lý của DNXH có sự tham gia của
cộng đồng hoặc các bên liên quan, các bên hưởng lợi... Điều này cho phép
DNXH có tính tự chủ cao. Đây là trường hợp của các Hợp tác xã hoạt động
theo mô hình DNXH rất hiệu quả ở một số nước.
Trên thực tế, hầu hết các DNXH đều có cấu trúc quản lý cởi mở và dân
chủ. Yêu cầu gắn kết với cộng đồng, các bên hưởng lợi và một số lượng đối
19
tác đông đảo, trong khi mục đích xã hội được đặt ở vị trí tối cao, khiến các
DNXH sẵn sàng chia sẻ ‘quyền lực’ của mình với tất cả các bên liên quan.
Đáng chú ý, ở nhiều DNXH khái niệm đối nhân - đối vốn không được áp
dụng như tại các công ty cổ phần hay TNHH truyền thống. Tại không ít
DNXH, Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng sáng lập viên đã áp dụng nguyên tắc
‘mỗi thành viên - một phiếu bầu / quyền biểu quyết như nhau’ trong mọi
quyết định của tổ chức, mà không dựa vào tỷ lệ góp vốn của họ.
1.3.5. Phục vụ nhu cầu của Nhóm đáy (BoP)
Một trong những sứ mệnh đặc thù của DNXH là phục vụ nhu cầu của
Nhóm đáy. Đây là đối tượng những người nghèo và yếu thế nhất trong xã hội.
Và vì chiếm số đông nhất nhưng ở dưới đáy cùng của xã hội nên được gọi là
‘Nhóm đáy’ của Kim tự tháp (Bottom of Pyramid - BoP). Đáng chú ý, nhóm
đối tượng bị lề hóa, bao gồm người dân ở vùng sâu vùng xa, người khuyết tật,
người bị nhiễm HIV/AIDS, trẻ em đường phố, thất học, phạm nhân mãn hạn
tù... tuy không hoàn toàn nằm trong Nhóm đáy nhưng có tỷ lệ và nguy cơ cao
rơi vào Nhóm đáy, do đó cũng là một địa bàn trọng yếu của các DNXH. [22]
Trong khi khu vực nhà nước không kham nổi gánh nặng phúc lợi xã hội
của Nhóm đáy, khu vực doanh nghiệp tư nhân chưa có nhiều hoạt động,
chương trình nhằm mang lại lợi ích cho các đối tượng này, thay vào đó họ
thường lấy các nhóm có khả năng chi trả cao hơn làm khách hàng mục tiêu để
thu được lợi nhuận tối đa thì DNXH đóng vai trò rất quan trọng trong việc
20
giải quyết các vấn đề môi trường, xã hội còn bỏ ngỏ.
Chương 2
DOANH NGHIỆP XÃ HỘI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1. Cơ sở pháp lý chung
Ở mức độ khái quát nhất, cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động
của DNXH ở nước ta hiện nay được thể hiện chủ yếu ở Luật Doanh nghiệp,
các đạo luật về các lĩnh vực, vấn đề xã hội cụ thể và hệ thống các văn bản
hướng dẫn thi hành luật. Bao gồm:
- Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014.
- Nghị định 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy định chi tiết một số
điều của Luật Doanh nghiệp 2014
- Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/09/2015 về đăng ký doanh nghiệp
- Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT ngày 17/5/2016 quy định các biểu
mẫu văn bản sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp xã hội
- Các văn bản quy phạm pháp luật về các lĩnh vực, vấn đề xã hội cụ thể
như: Luật bảo vệ môi trường 2014, Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây
ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) 2006,
luật trẻ em 2016, Luật phòng chống ma túy, Luật khám bệnh, chữa
bệnh 2009, v.v..
2.2. Các quy định cụ thể
2.2.1. Quy định về bản chất, đặc điểm của Doanh nghiệp xã hội
Về khái niệm, DNXH được định dựa trên các tiêu chí, điều kiện, khi
nào thì một tổ chức trở thành DNXH. Theo điều 10, Luật Doanh nghiệp 2014,
DNXH là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2014, mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội,
môi trường vì lợi ích cộng đồng, sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng
năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi
21
trường như đã đăng ký [6]. Từ khái niệm này, có thể nhận thấy doanh nghiệp
xã hội theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 có các đặc điểm: phải có
hoạt động kinh doanh, mục đích xã hội, tái phân phối lợi nhuận để phục vụ
mục tiêu xã hội đã đặt ra.
2.2.2. Quy định về quyền và nghĩa vụ của Doanh nghiệp xã hội
Về quyền và nghĩa vụ, doanh nghiệp xã hội vừa có quyền, nghĩa vụ như
các doanh nghiệp thông thường, vừa có quyền và nghĩa vụ riêng. Đầu tiên,
doanh nghiệp xã hội có các quyền như các doanh nghiệp thông thường khác
(điều 7 Luật Doanh nghiệp 2014): (1) Tự do kinh doanh trong những ngành,
nghề mà luật không cấm; (2) Tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ
chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh
doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh; (3) Lựa chọn
hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn; (4) Chủ động tìm
kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; (5) Kinh doanh xuất khẩu,
nhập khẩu; (6) Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh
doanh; (7) Chủ động ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao hiệu quả
kinh doanh và khả năng cạnh tranh; (8) Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
của doanh nghiệp; (9) Từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không theo quy
định của pháp luật; (10) Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo; (11) Tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp xã hội cũng có các nghĩa vụ như các doanh nghiệp thông
thường. Theo điều 8, Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp xã hội có những
nghĩa vụ: (1) Đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh với ngành nghề inh doanh có
điều kiện và bảo đảm duy trì đủ điều kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá
trình hoạt động kinh doanh; (2) Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo
tài chính trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về
kế toán, thống kê; (3) Kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài
chính khác theo quy định của pháp luật; (4) Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người lao động, không được phân biệt đối xử và xúc phạm
22
danh dự, nhân phẩm của người lao động trong doanh nghiệp, không được sử
dụng lao động cưỡng bức và lao động trẻ em; hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi
cho người lao động tham gia đào tạo nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, thực
hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và bảo hiểm
khác cho người lao động; (5) Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng
hàng hóa, dịch vụ; (6) Thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ về đăng ký
doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, công khai
thông tin về thành lập và hoạt động, báo cáo…; (7) Chịu trách nhiệm về tính
trung thực, chính xác của thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
và các báo cáo; trường hợp phát hiện thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu
chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó; (8)
Tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
bình đẳng giới, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử-văn hóa và
danh lam thắng cảnh; (9) Thực hiện nghĩa vụ về đạo đức kinh doanh [6].
Ngoài ra, DNXH có thêm một số quyền và nghĩa vụ riêng, được quy
định tại khoản 2, điều 10, Luật Doanh nghiệp 2014. Theo đó, DNXH có thêm
các quyền: (1) Chủ sở hữu doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp xã hội
được xem xét, tạo thuận lợi và hỗ trợ trong việc cấp giấy phép, chứng chỉ và
giấy chứng nhận có liên quan theo quy định của pháp luật; (2) Được huy động
và nhận tài trợ dưới các hình thức khác nhau từ các cá nhân, doanh nghiệp, tổ
chức phi chính phủ và các tổ chức khác của Việt Nam và nước ngoài để bù
đắp chi phí quản lý và chi phí hoạt động của doanh nghiệp.
DNXH có thêm các nghĩa vụ: (1) Duy trì mục tiêu và điều kiện của
DNXH trong suốt quá trình hoạt động; trường hợp doanh nghiệp đang hoạt
động muốn chuyển thành doanh nghiệp xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội
muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi trường, không sử dụng lợi nhuận để tái đầu
tư thì doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành
các thủ tục theo quy định của pháp luật; (2) Không được sử dụng các khoản
tài trợ huy động được cho mục đích khác ngoài bù đắp chi phí quản lý và chi
23
phí hoạt động để giải quyết vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp đã
đăng ký; (3) Trường hợp được nhận các ưu đãi, hỗ trợ, doanh nghiệp xã hội
phải định kỳ hằng năm báo cáo cơ quan có thẩm quyền về tình hình hoạt động
của doanh nghiệp [6].
Như vậy, pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã
hội có những quyền và nghĩa vụ như các doanh nghiệp truyền thống, điều này
một phần thể hiện sự bình đẳng định giữa DNXH và doanh nghiệp truyền
thống. DNXH cũng có những quyền và nghĩa vụ cơ bản như doanh nghiệp
truyền thống. Tuy nhiên, vì mục tiêu hoạt động là vì xã hội nên họ cũng chịu
những thiệt thòi nhất định. Chính vì vậy, Nhà nước cũng tạo điều kiện cho họ
để họ thực hiện được mục tiêu xã hội đó.
2.2.3. Quy định về quyền thành lập doanh nghiệp xã hội
Theo Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì DNXH “là doanh
nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật này”. Do vậy, chủ thể
có quyền thành lập DNXH chính là chủ thể có quyền thành lập doanh nghiệp
nói chung. Pháp luật Việt Nam qui định mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền
được đăng kí thành lập doanh nghiệp để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh
doanh, trừ những trường hợp cấm của pháp luật. Theo Luật Doanh nghiệp
2014, khoản 2 Điều 18 quy định các đối tượng không được thành lập và quản
lý doanh nghiệp tại Việt Nam, bao gồm:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước
để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ,
công chức, viên chức;
c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức
quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt
Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần
vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
24
d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước,
trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân;
e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù,
quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt
buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm
công việc nhất định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án;
các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống
tham nhũng [6].
Ngoài ra theo khoản 3, điều 130 Luật Phá sản năm 2014, người giữ
chức vụ quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản mà cố ý vi
phạm quy định tại khoản 1 Điều 18, khoản 5 Điều 28, khoản 1 Điều 48 của
Luật này thì Thẩm phán xem xét, quyết định về việc không được quyền thành
lập doanh nghiệp, hợp tác xã, làm người quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã
trong thời hạn 03 năm kể từ ngày Tòa án nhân dân có quyết định tuyên bố phá
sản [13].
Như vậy, những cá nhân, tổ chức không rơi vào chủ thể trong điều luật
trên đều có thể thành lập doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xã hội nói
riêng. Điều này thể hiện quyền tự do kinh doanh đã được quy định là quyền
công dân trong Hiến pháp 2013, quyền tự do thành lập doanh nghiệp, quyền
tự do kinh doanh với doanh nghiệp nói chung và DNXH nói riêng. Nhà nước
khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thành lập DNXH có
mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích
cộng đồng. Đồng thời, Luật Doanh nghiệp 2014 cũng hạn chế một số chủ thể
trong việc thành lập doanh nghiệp. Việc cấm một số đối tượng thành lập
doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của xã
25
hội cũng như lợi ích của bản thân các nhà đầu tư.
2.2.4. Quy định về hình thức pháp lý của doanh nghiệp xã hội
Theo Luật Doanh nghiệp 2014, DNXH có thể hoạt động dưới bốn mô
hình cơ bản: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công TNHH, công ty
cổ phần và hai chế độ trách nhiệm tài sản của chủ sở hữu: trách nhiệm tài sản
vô hạn (áp dụng cho chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh
công ty hợp danh), trách nhiệm tài sản hữu hạn (áp dụng cho thành viên công
ty trách nhiệm hữu hạn và cổ đông công ty cổ phần) [6]. Vì vậy, chủ sở hữu
khi thành lập phải lựa chọn một trong các mô hình được quy định trong Luật
Doanh nghiệp năm 2014 để đăng kí với cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc Sở
kế hoạch và đầu tư.
2.2.5. Quy định về điều kiện, thủ tục thành lập doanh nghiệp xã hội
DNXH muốn thành lập phải tuân theo các thủ tục thành lập doanh
nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng
dẫn. Phụ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp (Doanh nghiệp tư nhân, công
ty hợp danh, công ty TNHH, công ty cổ phần). Thủ tục này được quy định
trong Nghị định 78/2015/NĐ-CP quy định về đăng ký doanh nghiệp, Nghị
định 96/2015/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của doanh nghiệp và Thông tư
20/2015/TT-BKHĐT quy định về hướng dẫn đăng ký, áp dụng chung cho
doanh nghiệp. Trình tự, thủ tục bao gồm:
Giai đoạn 1: Chuẩn bị đầy đủ các thông tin cần thiết để lập hồ sơ thành lập
doanh nghiệp.
Bước 1: Lựa chọn loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty
hợp danh, Công ty TNHH 1 thành viên, Công ty TNHH 2 thành viên trở lên,
Công ty cổ phần.
Bước 2: Chuẩn bị bản sao chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của những
thành viên (cổ đông). Việc chọn lựa ai sẽ là thành viên (cổ đông) của công ty
sẽ do chủ doanh nghiệp quyết định, tuy nhiên số lượng thành viên và cổ đông
sẽ được quy định bởi loại hình doanh nghiệp.
26
Bước 3: Lựa chọn đặt tên doanh nghiệp, tên doanh nghiệp gồm hai phần là
loại hình doanh nghiệp và tên riêng của doanh nghiệp; tránh trường hợp tên
doanh nghiệp bị trùng, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. DNXH cần bổ
sung thêm cụm từ “xã hội” vào tên riêng của doanh nghiệp.
Bước 4: Xác định địa chỉ trụ sở thuộc quyền sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp.
Bước 5: Xác định vốn điều lệ để đưa ra kinh doanh. Vốn điều lệ là số vốn do
các thành viên, cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và
được ghi vào Điều lệ công ty.
Bước 6: Xác định chức danh người đại diện theo pháp luật của công ty.
Bước 7: Xác định ngành nghề kinh doanh chuẩn hoá theo quy định của pháp
luật về đăng ký kinh doanh.
Giai đoạn 2: Soạn thảo và nộp hồ sơ thành lập công ty
Bước 1: Soạn thảo hồ sơ công ty, chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ quy định tại
Điều 19, 20, 21, 22 Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 về đăng ký
doanh nghiệp
Bước 2: Nộp hồ sơ đến Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nơi doanh nghiệp
đặt trụ sở chính. Sau 03 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, nếu hồ sơ
hợp lệ thì sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Giai đoạn 3: Làm con dấu pháp nhân
Giai đoạn 4: Thủ tục sau thành lập công ty
Một doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề không có điều kiện sau khi có
Đăng ký kinh doanh và con dấu là có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh
của mình theo quy định tại Điều 8 Luật Doanh nghiệp 2014.
Tuy nhiên theo quy định pháp luật, sau khi có Đăng ký kinh doanh Doanh
nghiệp cần thực hiện các công việc như sau:
Bước 1: Tiến hành đăng ký khai thuế ban đầu với cơ quan thuế tại nơi đăng
ký kinh doanh trong thời hạn quy định.
Bước 2: Tiến hành đăng ký kê khai thuế qua mạng điện tử thông qua dịch vụ
chữ ký số, "Từ ngày 01 tháng 7 năm 2013 tất cả các doanh nghiệp trong cả
27
nước phải kê khai, nộp tờ khai thuế qua mạng, nội dung này được quy định
trong Luật số 21/2012/QH13 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Quản lý thuế".
Bước 3: Nộp thuế môn bài, nộp thông báo áp dụng phương pháp tính thuế GTGT.
Ngoài những trình tự, thủ tục tương tự với doanh nghiệp thông thường
kể trên, việc đăng ký DNXH có một số điểm khác biệt. Thứ nhất, DNXH cần
công khai Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường của doanh nghiệp
xã hội. DNXH phải thông báo Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường
cho cơ quan đăng ký kinh doanh để công khai trên Cổng thông tin quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp khi thành lập doanh nghiệp hoặc trong quá trình hoạt
động. Trường hợp nội dung Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường có
sự thay đổi, doanh nghiệp xã hội phải thông báo với cơ quan đăng ký kinh
doanh về nội dung thay đổi trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày quyết
định thay đổi để công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp. Kèm theo thông báo phải có Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi
trường đã được sửa đổi, bổ sung.
Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường của doanh nghiệp xã hội
phải bao gồm các nội dung sau đây. Một là các vấn đề xã hội, môi trường;
phương thức mà doanh nghiệp dự định thực hiện nhằm giải quyết vấn đề xã
hội, môi trường đó. Hai là thời hạn thực hiện các hoạt động nhằm mục tiêu
giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường. Ba là mức tỷ lệ phần trăm (%) lợi
nhuận giữ lại hằng năm được tái đầu tư để giải quyết vấn đề xã hội, môi
trường. Bốn là nguyên tắc và phương thức sử dụng các khoản viện trợ, tài trợ
từ tổ chức và cá nhân; nguyên tắc và phương thức xử lý các khoản viện trợ,
tài trợ còn dư khi doanh nghiệp giải thể hoặc chuyển đổi thành doanh nghiệp
thông thường (nếu có). Năm là họ, tên, chữ ký của chủ doanh nghiệp tư nhân
đối với doanh nghiệp tư nhân; thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh;
thành viên, cổ đông là cá nhân, người đại diện theo pháp luật hoặc người đại
diện theo ủy quyền của thành viên, cổ đông là tổ chức đối với công ty trách
28
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần [3].
Thứ hai là về tên DNXH. Theo điều 4, nghị định 96/2015, ngày
19/10/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật doanh nghiệp, tên DNXH
có thể bổ sung thêm cụm từ “xã hội” vào tên riêng của doanh nghiệp. [3]. Ví
dụ: Doanh nghiệp xã hội KOTO, doanh nghiệp xã hội VietHealth v.v…
2.2.6. Quy định về quản trị doanh nghiệp
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về quản trị
doanh nghiệp dành riêng cho DNXH. Các quy định của pháp luật về quản trị
doanh nghiệp thông thường được áp dụng cho quản trị DNXH và dựa trên
hình thức tổ chức doanh nghiệp mà doanh nhân xã hội lựa chọn.
Thứ nhất, đối với trường hợp lựa chọn thành lập công ty cổ phần thì áp
dụng chế độ quản trị doanh nghiệp theo quy định của pháp luật dành cho công
ty cổ phần. Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc; đối với Công ty cổ phần có trên mười một cổ
đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần
của công ty phải có Ban kiểm soát.
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ
quan quyết định cao nhất của Công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông họp
thường niên hoặc bất thường; ít nhất mỗi năm họp một lần. Đại hội đồng cổ
đông phải họp thường niên trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày kết thúc năm
tài chính. Đại hội đồng cổ đông thường niên thảo luận và thông qua các vấn
đề: báo cáo tài chính hàng năm; báo cáo của Hội đồng quản trị đánh giá thực
trạng công tác quản lý kinh doanh ở công ty; báo cáo của Ban kiểm soát về
quản lý công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; mức
cổ tức đối với mỗi cổ phần của từng loại; các vấn đề khác thuộc thẩm quyền.
Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại
diện ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết; tỷ lệ cụ thể do Điều lệ
công ty quy định.
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh
29
công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không
thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có không ít
hơn ba thành viên, không quá mười một thành viên, nếu Điều lệ công ty
không có quy định khác. Số thành viên Hội đồng quản trị phải thường trú ở
Việt Nam do Điều lệ công ty quy định. Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị là
năm năm. Nhiệm kỳ của thành viên Hội đồng quản trị không quá năm năm;
thành viên Hội đồng quản trị có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không
hạn chế.
Hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người
khác làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không
quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty. Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày
của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước
Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ
được giao. Nhiệm kỳ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không quá năm năm;
có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Ban kiểm soát có từ ba đến năm thành viên nếu Điều lệ công ty không
có quy định khác; nhiệm kỳ của Ban kiểm soát không quá năm năm; thành
viên Ban kiểm soát có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc, Tổng giám đốc là người đại
diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty. Người đại
diện theo pháp luật của công ty phải thường trú ở Việt Nam; trường hợp vắng
mặt trên 30 ngày ở Việt Nam thì phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác
theo quy định tại Điều lệ công ty để thực hiện các quyền và nhiệm vụ của
người đại diện theo pháp luật của công ty.
Thứ hai, công ty TNHH bao gồm hai loại: công ty TNHH một thành
viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên. Công ty TNHH một thành viên
có hai mô hình tổ chức hoạt động, bao gồm: Mô hình tổ chức hoạt động dành
cho cá nhân làm chủ sở hữu và mô hình tổ chức hoạt động dành cho một tổ
30
chức làm chủ sở hữu.
Mô hình công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu bao
gồm: Chủ tịch công ty (chính là chủ sở hữu công ty) là người có quyền điều
hành cao nhất trong mọi hoạt động của công ty cũng như có thể quyết định
thực hiện các thủ tục thay đổi loại hình công ty, phương hướng hoạt động, cơ
cấu bổ nhiệm nhân sự, v.v… Giám đốc hoặc tổng giám đốc (Đối với công ty
TNHH một thành viên, giám đốc hay tổng giám đốc của doanh nghiệp có thể
là do chủ tịch công ty kiêm nhiệm hay thuê người khác làm), quyền và nghĩa
vụ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc được quy định tại hợp đồng với công ty
và theo điều lệ công ty quy định. Các phòng ban phục vụ cho hoạt động của
doanh nghiệp như: phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng hành chính nhân
sự, v.v…
Đối với công ty TNHH một thành viên trở lên do một tổ chức làm chủ
sở hữu, sẽ có 2 trường hợp tương ứng với 2 mô hình cơ cấu tổ chức quản lý
khi thành lập doanh nghiệp với hình thức TNHH một thành viên. Trường hợp
thứ nhất, chủ sở hữu công ty bổ nhiệm một người đại diện theo ủy quyền,
công ty TNHH bao gồm chủ tịch công ty, giám đốc hoặc tổng giám đốc, kiểm
soát viên và các phòng ban. Chủ tịch công ty là người được chủ sở hữu công
ty bổ nhiệm đại diện theo ủy quyền. Giám đốc hoặc tổng giám đốc có thể do
người chủ tịch công ty kiêm nhiệm hoặc thuê người khác với ràng buộc quy
định quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng và điều lệ của công ty. Kiểm soát viên
kiểm tra tính trung thực, cẩn trọng của chủ tịch công ty, giám đốc hoặc tổng
giám đốc, thẩm định báo cáo tài chính, v.v… và các phòng phục vụ cho hoạt
động của doanh nghiệp như: phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng hành
chính nhân sự, v.v…
Trường hợp thứ hai, chủ sở hữu công ty bổ nhiệm ít nhất 2 người đại
diện theo ủy quyền, công ty TNHH bao gồm: hội đồng thành viên, giám đốc
hoặc tổng giám đốc, kiểm soát viên, các phòng ban. Hội đồng thành viên bao
gồm tất cả những người được bổ nhiệm đại diện theo ủy quyền. Giám đốc
31
hoặc tổng giám đốc do công ty thuê, thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng
hợp đồng ký kết cũng như theo điều lệ của công ty. Kiểm soát viên kiểm tra
tính trung thực, cẩn trọng của hội đồng thành viên, giám đốc / tổng giám đốc,
thẩm định báo cáo tài chính. Các phòng phục vụ cho hoạt động của doanh
nghiệp như: phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng hành chính nhân sự,
v.v…
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có Hội đồng thành
viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Công ty
trách nhiệm hữu hạn có từ mười một thành viên trở lên phải thành lập Ban
kiểm soát; trường hợp có ít hơn mười một thành viên, có thể thành lập Ban
kiểm soát phù hợp với yêu cầu quản trị công ty. Quyền, nghĩa vụ, tiêu chuẩn,
điều kiện và chế độ làm việc của Ban kiểm soát, Trưởng ban kiểm soát do
Điều lệ công ty quy định.
Hội đồng thành viên gồm các thành viên, là cơ quan quyết định cao
nhất của công ty. Điều lệ công ty quy định cụ thể định kỳ họp Hội đồng thành
viên, nhưng ít nhất mỗi năm phải họp một lần. Hội đồng thành viên quyết
định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty;
quyết định tăng hoặc giảm vốn điều lệ, quyết định thời điểm và phương thức
huy động thêm vốn; quyết định phương thức đầu tư và dự án đầu tư có giá trị
trên 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm
công bố gần nhất của công ty; quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp
thị và chuyển giao công nghệ…
Hội đồng thành viên bầu một thành viên làm Chủ tịch. Chủ tịch Hội
đồng thành viên có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty. Chủ tịch
Hội đồng thành viên chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, kế
hoạch hoạt động của Hội đồng thành viên; chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn
bị chương trình, nội dung, tài liệu họp Hội đồng thành viên hoặc để lấy ý kiến
các thành viên; triệu tập và chủ trì cuộc họp Hội đồng thành viên hoặc tổ chức
việc lấy ý kiến các thành viên; giám sát hoặc tổ chức giám sát việc thực hiện
các quyết định của Hội đồng thành viên, v.v …
32
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty là người điều hành hoạt động
kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành
viên về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình. Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng thành viên; quyết
định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty; tổ
chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty, v.v…
Đối với doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền
quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử
dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác
theo quy định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc
thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh và là đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty hợp danh bao gồm hội đồng
thành viên, thành viên hợp danh, giám đốc hoặc tổng giám đốc. Hội đồng
thành viên là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, bao gồm tất cả các
thành viên. Hội đồng thành viên bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch
Hội đồng thành viên. Hội đồng thành viên có quyền quyết định tất cả công
việc kinh doanh của công ty theo nguyên tắc đa số (mỗi thành viên hợp danh
có một phiếu biểu quyết như nhau không phụ thuộc vào phần vốn góp).
Tất cả các thành viên hợp danh đều là người đại diện theo pháp luật và
tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Trong điều
hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân công nhau
đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty. Khi một số hoặc tất
cả thành viên hợp danh cùng thực hiện một số công việc kinh doanh thì quyết
định được thông qua theo nguyên tắc đa số.
Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc nếu điều lệ công ty không có quy định
khác thì Chủ tịch Hội đồng thành viên đồng thời kiêm Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc công ty. Giám đốc thực hiện chức năng quản lý hoạt động kinh
33
doanh của công ty cùng với các thành viên hợp danh.
2.2.7. Các chính sách hỗ trợ DNXH
Theo nghị định 96/2015 ngày 19/10/2015 quy định chi tiết một số điều
của Luật doanh nghiệp, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ
chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp xã hội có mục tiêu hoạt động nhằm giải
quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng; DNXH được hưởng
các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư theo quy định của pháp luật [3].
Doanh nghiệp xã hội được tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài
để thực hiện mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường theo quy định
của pháp luật về tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài. Ngoài khoản
viện trợ này, doanh nghiệp xã hội được tiếp nhận bằng tài sản, tài chính hoặc
hỗ trợ kỹ thuật từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước và tổ chức nước
ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam để thực hiện mục tiêu giải quyết vấn
đề xã hội, môi trường (điểm c Khoản 2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp 2014;
Điều 3 Nghị định 96/2015/NĐ-CP) [3].
- Nguồn tài trợ, viện trợ: Viện trợ phi chính phủ nước ngoài
- Hình thức hỗ trợ: Tài sản, tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật từ các cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong nước và tổ chức nước ngoài
- Quy trình:
Việc tiếp nhận tài trợ phải lập thành văn bản, bao gồm thông tin về cá
nhân, tổ chức tài trợ, loại tài sản, giá trị tài sản hoặc tiền tài trợ, thời điểm
thực hiện tài trợ, yêu cầu đối với doanh nghiệp tiếp nhận tài trợ, họ, tên và
chữ ký của người đại diện có thẩm quyền của các bên.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày văn bản tiếp nhận tài trợ
được ký kết, doanh nghiệp phải thông báo cho Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc
cơ quan quản lý viện trợ, tài trợ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi doanh
nghiệp có trụ sở chính.
2.7. Quy định về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp xã hội
Trong điều kiện chưa có một văn bản pháp luật riêng biệt, các DNXH
34
vẫn chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật về doanh nghiệp nói
chung. Do vậy, các quy định về tổ chức lại, giải thể, phá sản DNXH tương tự
như doanh nghiệp thông thường.
Thứ nhất, tổ chức lại DNXH bao gồm các hình thức: chia, tách, hợp
nhất, sáp nhập và chuyển đổi hình thức pháp lí của doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp xã hội được chia, tách, hợp nhất, sáp nhập trong các trường hợp sau
đây: (1) Doanh nghiệp xã hội được chia hoặc tách thành các doanh nghiệp xã
hội; (2) Các doanh nghiệp xã hội hợp nhất thành doanh nghiệp xã hội; (3) Sáp
nhập doanh nghiệp vào doanh nghiệp xã hội [3]. Ngoài ra, các DNXH còn
được chuyển đổi hình thức pháp lý.
Về chia doanh nghiệp, đối tượng áp dụng là công ty TNHH và công ty
cổ phần. Các doanh nghiệp có thể được chia thành một số doanh nghiệp cùng
loại. Hậu quả pháp lý của việc chia doanh nghiệp là công ty bị chia chấm dứt
tồn tại sau khi các công ty mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp. Các công ty mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ
chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị
chia hoặc thỏa thuận với chủ nợ, khách hàng và người lao động để một trong
số các công ty đó thực hiện các nghĩa vụ này. Thủ tục chia doanh nghiệp gồm
ba bước: Thông qua quyết định chia doanh nghiệp, tiến hành thông báo nghị
quyết chia doanh nghiệp và hoàn tất thủ tục đăng ký doanh nghiệp hoặc đăng
ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp [6].
Về tách doanh nghiệp, đối tượng áp dụng là công ty TNHH, công ty cổ
phần. Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể tách doanh nghiệp
bằng cách chuyển một phần tài sản của công ty hiện có (công ty bị tách) để
thành lập một hoặc một số công ty mới (công ty được tách); chuyển toàn bộ
phần vốn góp, cổ phần của một hoặc một số thành viên, cổ đông cùng với tài
sản tương ứng với giá trị cổ phần, phần vốn góp của họ được chuyển sang cho
các công ty mới; hoặc kết hợp cả hai hình thức trên. Hậu quả pháp lý là công
ty bị tách phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ và số lượng thành viên tương ứng
35
với phần vốn góp, cổ phần và số lượng thành viên giảm xuống đồng thời với
đăng ký doanh nghiệp các công ty mới. Sau khi đăng ký doanh nghiệp, công
ty bị tách và công ty được tách phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về các
khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty bị tách. Thủ tục tách doanh nghiệp tương tự thủ tục chia doanh
nghiệp.
Về hợp nhất doanh nghiệp, đối tượng áp dụng là công ty TNHH, công
ty cổ phần, công ty hợp danh. Hai hoặc một số công ty (công ty bị hợp nhất)
có thể hợp nhất thành một công ty mới (công ty hợp nhất) bằng cách chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất.
Hậu quả pháp lý là sau khi đăng ký doanh nghiệp, các công ty bị hợp nhất
chấm dứt tồn tại, công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp,
chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các
nghĩa vụ tài sản khác của các công ty bị hợp nhất. Hợp nhất doanh nghiệp trải
qua ba bước: Chuẩn bị hợp đồng hợp nhất, thông báo hợp đồng hợp nhất và
hoàn tất thủ tục đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thay đổi nội dung đăng ký
doanh nghiệp [6].
Về sáp nhập doanh nghiệp, sáp nhập doanh nghiệp, đối tượng áp dụng
là công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Một hoặc một số công
ty (công ty sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (công ty nhận sáp
nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp
nhập. Hậu quả pháp lý là sau khi đăng ký doanh nghiệp, công ty bị sáp nhập
chấm dứt tồn tại; công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp
pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động
và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập. Sáp nhập doanh nghiệp
tương tự như hợp nhất doanh nghiệp. [6].
Về chuyển đổi hình thức pháp lý của công ty, công ty TNHH có thể
chuyển đổi thành công ty cổ phần và ngược lại, doanh nghiệp tư nhân có thể
36
chuyển đổi thành công ty TNHH. Hậu quả pháp lý là sau khi đăng ký kinh
doanh, công ty được chuyển đổi chấm dứt sự tồn tại; công ty chuyển đổi được
hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa
thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ về tài sản khác của công ty được
chuyển đổi [6].
Mặt khác, DNXH có thể từ bỏ mục tiêu xã hội của mình để chuyển
sang hoạt động như một doanh nghiệp thông thường. Theo quy định tại Điều
10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì: Trường hợp doanh nghiệp đang hoạt
động muốn chuyển thành doanh nghiệp xã hội hoặc doanh nghiệp xã hội
muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi trường, không sử dụng lợi nhuận để tái đầu
tư thì doanh nghiệp phải thông báo với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành
các thủ tục theo quy định của pháp luật [6, Điều 10]. Như vậy, đối với trường
hợp các doanh nghiệp thông thường muốn chuyển thành DNXH hoặc
DNXH muốn từ bỏ mục tiêu xã hội, môi trường, không sử dụng lợi nhuận để
tái đầu tư thì phải báo với cơ quan có thẩm quyền để tiến hành các thủ tục
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cho đến hiện nay chưa có quy định cụ
thể nào về trình tự, thủ tục, nội dung thông báo hoặc thay đổi hoạt động của
các DNXH được tiến hành như thế nào.
Thứ hai, giải thể DNXH cũng như giải thể doanh nghiệp thông thường
là việc chấm dứt sự tồn tại, hoạt động của doanh nghiệp. Các trường hợp giải
thể DNXH bao gồm: Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty
mà không có quyết định gia hạn; Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối
với doanh nghiệp tư nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp
danh, của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty TNHH,
của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần; Công ty không còn đủ số
lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 trong
thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp; Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ
được giải thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
37
khác và doanh nghiệp không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án
hoặc cơ quan trọng tài. Thủ tục giải thể doanh nghiệp bao gồm các bước:
Thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp, thanh lí tài sản, gửi quyết định
giải thể doanh nghiệp đến các cơ quan, tổ chức liên quan (Cơ quan đăng ký
kinh doanh, cơ quan thuế, người lao động trong doanh nghiệp), thông báo tình
trạng doanh nghiệp, thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp và gửi đề nghị
giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh.
Bên cạnh các quy định tương tự doanh nghiệp thông thường, nghị định
96/ 2015 ngày 19/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết một
số điều của Luật Doanh nghiệp bổ sung một số quy định về giải thể DNXH.
Một là, số dư tài sản hoặc tài chính còn lại đối với nguồn tài sản, tài chính mà
DNXH đã nhận phải được trả lại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã viện trợ, tài
trợ hoặc chuyển cho các doanh nghiệp xã hội khác, tổ chức khác có mục tiêu
xã hội tương tự. Hai là, trường hợp doanh nghiệp xã hội còn số dư tài sản
hoặc tài chính đối với nguồn viện trợ, tài trợ đã nhận, thì hồ sơ giải thể phải
có Thỏa thuận với cá nhân, tổ chức liên quan về xử lý số dư tài sản hoặc tài
chính đối với nguồn viện trợ, tài trợ mà doanh nghiệp xã hội đã nhận [3].
Thứ ba, DNXH có thể thực hiện các thủ tục phá sản tương tự các doanh
nghiệp thông thường. Các doanh nghiệp phá sản bởi lí do duy nhất đó là
doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 3
tháng kể từ ngày đến hạn. Thủ tục phá sản doanh nghiệp bao gồm: Nộp đơn
yêu cầu và mở thủ tục phá sản; Hòa giải và Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản; Mở thủ tục phá sản; Hội nghị chủ nợ; Phục hồi doanh nghiệp; Ra
quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản; Thi hành Quyết
định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản [13].
2.2.8. Quy định về các chính sách xã hội của luật chuyên ngành
DNXH không những chịu sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp 2014 và
các văn bản hướng dẫn mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên
ngành như bộ luật lao động, luật bảo hiểm xã hội, luật bảo hiểm y tế, luật bảo
38
vệ môi trường, luật trẻ em, luật phòng chống HIV/AIDS, luật khám bệnh,
chữa bệnh, v.v… và các văn bản hướng dẫn. Khi tham gia kinh doanh ở các
lĩnh vực cụ thể, DNXH chịu sự điều chỉnh của luật chuyên ngành. Đó là các
quy định về điều kiện thành lập, quyền, nghĩa vụ, những việc bị cấm, ưu đãi,
cơ chế quản lý, giám sát, báo cáo, trách nhiệm của DNXH trong việc bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người nhiễm HIV / AIDS, chế độ tuyển dụng,
39
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho những người lao động trong DNXH.
Chương 3
KINH NGHIỆM MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
3.1. Pháp luật về DNXH tại một số quốc gia trên thế giới
3.1.1. Ưu đãi về chính sách thuế
Đối với các tổ chức công ích tại Ý, lợi nhuận để tái đầu tư được áp
dụng mức thuế là 12,5%, thay vì mức thuế thông thường là 40%.
Tại Tây Ban Nha, các khoản trợ cấp, tài trợ được miễn thuế nếu các
khoản thu này không từ hoạt động kinh tế. Thu nhập từ các hoạt động kinh tế
khác có liên quan được miễn thuế nếu lợi nhuận từ hoạt động này không vượt
quá 20% tổng thu nhập hàng năm của tổ chức. Khoản thu từ hoạt động kinh tế
không liên quan được đánh thuế ưu đãi 10%. Các doanh nghiệp này được
miễn thuế lợi nhuận đầu tư, VAT, v.v…
Tại Anh, các tổ chức từ thiện tham gia các hoạt động kinh tế thông qua
doanh nghiệp thì lợi nhuận sẽ được miễn thuế nếu tổ chức từ thiện sử dụng lợi
nhuận để tiếp tục theo đuổi mục đích ban đầu. Bên cạnh đó, tổ chức từ thiện
được giảm 80% thuế bất động sản.
Tại Áo, các công ty TNHH phi lợi nhuận được miễn thuế từ thu nhập
tạo ra từ các hoạt động kinh tế nếu đáp ứng các điều kiện sau:
(1) Các mục tiêu cơ bản của hoạt động đó là các mục đích công ích
(2) Các hoạt động cần thiết để theo đuổi mục tiêu cơ bản của tổ chức (lợi ích
công cộng)
(3) Không làm méo mó thị trường cạnh tranh.
Tại Cộng hòa liên bang Đức, luật thuế doanh nghiệp cho phép các công
ty, tổ chức được miễn thuế thu nhập nếu họ hoạt động vì cộng đồng, từ thiện,
đảm bảo không độc quyền và trực tiếp tiến hành các hoạt động. [6]
Tại Mỹ, theo bà Dana Doan, tư vấn chiến lược của Trung tâm phát triển
40
cộng đồng LIN, những nhà đầu tư đổ tiền vào doanh nghiệp xã hội sẽ không
phải đóng thuế. Tại Thái Lan, Chính phủ cũng dành 3% từ tiền thuế thu từ thuốc
lá và hoạt động vũ trường để đầu tư vào doanh nghiệp xã hội, v.v… [16]
Như vậy, về thuế, kinh nghiệm các nước cho thấy các doanh nghiệp xã
hội được miễn hoặc giảm thuế kinh doanh, thuế bất động sản, v.v… Các quốc
gia tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xã hội mức ưu đãi về thuế cao nhất,
bởi mục đích cộng cộng thiệt thòi hơn các doanh nghiệp truyền thống về
khách hàng, v.v… nên các quốc gia cho họ ưu đãi về thuế.
3.1.2. Hỗ trợ về thể chế
Hỗ trợ về thành lập và hoạt động DNXH: Tây Ban Nha đã thành lập mạng -
lưới “Điểm truy cập và khởi sự doanh nghiệp”, trong đó hỗ trợ các thu tục hành
chính và tư vấn thành lập doanh nghiệp cho các đối tượng yếu thế như phụ nữ,
thanh niên, có kế hoạch thành lập doanh nghiệp. Ngoài ra, Chính phủ tuyển dụng
100 công chức chuyên hỗ trợ thành lập doanh nghiệp trên mạng Internet và tiến
hành cải cách thủ tục “một cửa” nhằm hỗ trợ các DNXH.
Duy trì và kiểm soát chất lượng hoạt động của DNXH: Luật DNXH của -
Ý yêu cầu Bộ Lao động và các vấn đề xã hội chịu trách nhiệm chính trong
việc xây dựng cơ chế giám sát và xử lý chất lượng hoạt động của DNXH.
Luật của Tây Ban Nha cũng yêu cầu Chính phủ phải trình báo cáo về DNXH
cho Quốc hội 2 năm/ lần. [14]
3.1.3. Loại hình DNXH
- Anh:
Hình thức tổ chức và địa vị pháp lý của DNXH ở Anh cũng rất đa dạng
và phong phú, có thể chia thành 4 nhóm cơ bản dựa trên tính chất và mức độ
liên kết giữa các nhà đầu tư như sau:
(1) Nhóm doanh nghiệp xã hội không phải là công ty
Nhóm DNXH không phải là công ty (unincoporated form) được coi là hình
thức đơn giản nhất mà DNXH có thể được thiết lập ở Anh. Theo đó DNXH
có thể do một thương nhân đơn lẻ (sole trader) hoặc hội hợp danh của các
41
thương nhân đơn lẻ (partnership) thành lập. nên. Trường hợp này DNXH
không được coi là công ty, không có sự tồn tại độc lập về mặt pháp lý với
thương nhân hoặc các thương nhân thành lập nó; bởi vậy không phải đăng ký
kinh doanh. Mặc dù hoạt động kinh doanh hướng tới mục tiêu xã hội nhưng
lợi nhuận của DNXH do các thương nhân đơn lẻ làm chủ sẽ bị đánh thuế thu
nhập cá nhân, có xem xét giảm trừ. Thông thường các DNXH này được xem
xét như là hình thức người chủ DNXH trực tiếp lao động (shelf-employed) và
được yêu cầu tự đánh giá, để tính toán thuế thu nhập và các khoản đóng góp
cho bảo hiểm nhà nước đối với bất kỳ lợi nhuận nào thu được từ công việc
kinh doanh.
(2) Nhóm doanh nghiệp xã hội được thành lập dưới hình thức công ty
Nhóm doanh nghiệp xã hội được thành lập dưới hình thức công ty
(incorporated forms) là nhóm phổ biến nhất ở Anh hiện này. Bản thân nhóm
này cũng thể hiện dưới rất nhiều hình thức pháp lý và tên gọi khác nhau.
(i) Nhóm công ty hữu hạn Nhóm công ty hữu hạn (limited company) là
nhóm phổ biến nhất của DNXH, được tổ chức dưới hình thức công ty CP
hoặc công ty TNHH. Dưới sự điều chỉnh của Luật Công ty 2006 (Company
Act 2006), các công ty hữu hạn bị ràng buộc bởi các quy định ngặt nghèo hơn
đối với nhóm DNXH không phải là công ty như yêu cầu cao hơn về trách
nhiệm giải trình và sự minh bạch đối với các cổ đông và với xã hội. Để thành
lập một công ty hữu hạn nói chung, doanh nhân phải thực hiện đăng ký kinh
doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh (Companies House) thuộc Bộ Kinh
doanh, Đổi mới và Kỹ năng thuộc chính phủ hoàng gia Anh, và đăng ký với
Cục thuế và Hải quan hoàng gia (HMRC) để nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Để thành lập DNXH dưới hình thức công ty hữu hạn các thành viên sáng lập
của công ty phải thiết lập các điều khoản chỉ rõ mục tiêu hoạt động vì xã hội
của công ty trong tài liệu đăng ký kinh doanh. Pháp luật của Anh cũng rất linh
hoạt khi cho phép các công ty chuyển đổi hình thức pháp lý, mục tiêu hoạt
động, miễn là các thành viên của công ty đồng ý và sự chuyển đổi đó phải
42
được ghi nhận trong điều lệ.
(ii) Công ty vì lợi ích cộng đồng Công ty vì lợi ích cộng đồng (Community
Interest Company - CIC): là một loại hình công ty được thiết kế đặc biệt cho
DNXH và được Chính phủ Anh giới thiệu ra công chúng năm 2005 bằng Bộ
quy định về Công ty vì lợi ích cộng đồng 2005 (The Community Interest
Company Regulations 2005 - CIC Regs). Tuy nhiên các DNXH không bắt
buộc phải lựa chọn mô hình pháp lý của CIC để tạo dựng doanh nghiệp của
mình. Theo CIC Regs 2005, các CIC là các doanh nghiệp cộng đồng
(community enterprise) phải được tổ chức dưới hình thức công ty hữu hạn, có
thể là công ty TNHH hoặc công ty CP quy định trong Luật Công ty 1985, và
cam kết dành lợi nhuận và tài sản của mình để phục vụ lợi ích cộng đồng
trong điều lệ hoạt động bằng văn bản (Điều 32 Luật Công ty 2004). Để theo
đuổi mục tiêu này, CIC phải có một khoản tài sản đảm bảo được gọi là “tài
sản khóa” (lock assets) để hạn chế chuyển tài sản ra ngoài công ty, và đặc biệt
là để đảm bảo rằng số tài sản này tiếp tục được dùng cho lợi ích cộng đồng.
CIC Regs 2005 cũng ấn định mức trần tối đa của các khoản thanh toán cổ tức
và và lợi nhuận mà công ty có thể phân bổ. Các CIC cũng bị cấm thành lập vì
mục đích chính trị (Điều 3) hoặc thành lập để phục vụ quá mức đối với một
nhóm nhất định (Điều 4 và 5), đặc biệt các CIC không phải là một tổ chức từ
thiện, không được thực hiện các hành vi bất hợp pháp (Điều 5 và 6). Có thể
thấy rằng cấu trúc, hoạt động của CIC quy định trong đã chuyển những thông
điệp rõ ràng đến các nhà đầu tư rằng doanh nghiệp phải vận hành vì lợi ích
cộng đồng và mục tiêu xã hội và được bảo vệ bởi các quy định tương ứng. Để
bảo đảm nguyên tắc tôn trọng quyền tự do kinh doanh, pháp luật của Anh
cũng cho phép một CIC có thể chuyển đổi hình thức hoạt động thành một tổ
chức từ thiện hoặc trở thành một hợp tác xã (HTX) vì lợi ích cộng đồng hặc
tự nguyện giải thể; tuy nhiên các CIC có thể không được chuyển đổi thành
các công ty hữu hạn thông thường.
(iii) Công ty hợp danh hữu hạn Công ty hợp danh hữu hạn (limited liability
43
partnerships – LLP) hoạt động theo Luật Công ty hợp danh hữu hạn năm
2000 (Limited Liability Partnerships Act 2000). Đây là loại hình doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân tương tự như các công ty hữu hạn trong Luật
Công ty 2006. Không giống hình thức hợp danh cơ bản (standard partnership)
do các doanh nhân đơn lẻ thành lập, các thành viên của LLP được hưởng
trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty nhưng công ty phải
minh bạch đối với mục đích thuế. Thành viên góp vốn (non-coperate partner)
phải đăng ký tự đánh giá tài sản và trả thuế thu nhập cá nhân trên phần lợi
nhuận được chia như các thương nhân đơn lẻ, trong khi đó phần lợi nhuận
chia cho những thành viên hợp danh (corporate partner) sẽ phải chịu thuế
doanh thu. Mặc dù không được thiết kế một cách đặc biệt cho DNXH như các
CIC, mô hình LLP cho nhà đầu tư nhiều tự do hơn mô hình công ty hữu hạn
trong việc lựa chọn đối tác, thiết lập các thương vụ kinh doanh theo mong muốn,
quyết định cách thức vận hành doanh nghiệp và cách thức phân phối lợi nhuận.
Để thành lập một LLP, chỉ cần các đối tác cùng quyết định bằng văn bản rằng
phần lớn lợi nhuận của công ty được cống hiến cho mục tiêu xã hội.
(3) Các hợp tác xã và các hiệp hội vì lợi ích cộng đồng
Theo pháp luật hiện hành, kể từ 01/8/2014, ở Anh có hai hình thức pháp lý
của DNXH trong lĩnh vực làng nghề và hội ái hữu là các HTX (Co-operative
Societies) và các hội vì lợi ích cộng đồng (Community Benefit Societies hoặc
Ben Comms). Tiền thân của các DNXH loại này chính là các làng nghề và hội
ái hữu (Industrial and Provident Societies-IPS) trước đây. Các HTX và các
hiệp hội này hoạt động trên nguyên tắc dân chủ và sở hữu tập thể và có thể
chuyển đổi thành hình thức công ty hữu hạn và ngược lại, nhưng phải tuân thủ
các quy định của các luật có liên quan.
(4) Các tổ chức từ thiện có hoạt động kinh doanh không vì lợi nhuận Các
tổ chức từ thiện có hoạt động kinh doanh không vì lợi nhuận (Group structure
with charity status) là một trong những hình thức pháp lý khá phổ biến của
DNXH ở Anh. Theo xu thế phát triển của xã hội, rất nhiều tổ chức từ thiện
44
nhận thức được tính thụ động, kém bền vững của phương thức gây quỹ truyền
thống qua các khoản hiến tặng, tài trợ. Do đó họ đang nỗ lực tách khỏi sự phụ
thuộc này, chuyển sang tự kinh doanh để tồn tại bền vững. Để giải quyết vấn
đề chuyển đổi của các tổ chức từ thiện sang DNXH, Luật Từ thiện 2006
(Charity Act 2006) quy định rằng các tổ chức từ thiệt có 60 đăng ký (registed
charities) được quyền chuyển đổi toàn bộ, hay một phần tổ chức thành DNXH
hoặc thành lập DNXH dưới hình thức công ty hữu hạn, bao gồm cả CIC, các
HTX hoặc hội ái hữu (Chương 8). Trong Luật Công ty 2006, Bộ quy định về
Công ty vì lợi ích cộng đồng 2005 và Luật các Hợp tác xã và Hội vì lợi ích
cộng đồng 2014 đều có những quy định về chuyển đổi mục tiêu và hình thức
hoạt động của doanh nghiệp. [19]
Như vậy, có thể tóm tắt lại bốn loại hình DNXH đang tồn tại ở nước
Anh bao gồm:
Nhóm DNXH không phải là công ty: DNXH không được coi là công ty,
không có sự tồn tại độc lập về mặt pháp lý với thương nhân hoặc các
thương nhân thành lập nó; bởi vậy không phải đăng ký kinh doanh.
Các Hội ái hữu và Làng nghề (Industrial and Provident Society - IPS): chủ
yếu bao gồm các HTX và các dạng hợp tác vì lợi ích cộng đồng khác hoạt
động trên nguyên tắc dân chủ và sở hữu tập thể.
Công ty CP hoặc công ty TNHH (Company Limited by Shares or
Guarantee): Đây là hình thức công ty phổ biến và nhiều DNXH cũng chọn
loại hình này bởi tính linh hoạt của nó. Tuy nhiên, để xác định đây là
DNXH, công ty phải thể hiện rõ mục tiêu vì lợi ích cộng đồng trong Điều
lệ và phải cam kết tái đầu tư lợi nhuận cho các mục tiêu xã hội.
Các tổ chức từ thiện, trong đó có hoạt động kinh doanh không vì lợi nhuận
(Group structure with charity status): đây là hình thức DNXH phổ biến
nhất ở Anh vì ngày càng nhiều tổ chức từ thiện chuyển đổi mô hình gây
quỹ truyền thống nhằm đảm bảo tính bền vững. Ngoài ra, chính sách ưu
đãi miễn giảm thuế đối với các tổ chức từ thiện phi lợi nhuận cũng đóng
45
vai trò quan trọng để các DNXH lựa chọn loại hình này.
- Hoa Kỳ:
Về các loại hình hoạt động, DNXH ở Mỹ cũng hoạt động dưới nhiều
hình thức đa dạng như:
Tổ chức phi lợi nhuận (hoạt động theo qui định tại khoản 501(c)(3) của
Luật thu nhập;
Doanh nghiệp tư nhân (Sole proprietorship)
Công ty cổ phần (Corporation)
Công ty hợp doanh (Partnership)
Công ty TNHH (Limited Liability Company)
Công ty TNHH lợi nhuận thấp (Low-Profit Limited Liability Companies -
L3C). [22]
3.1.4. Chiến lược phát triển DNXH
- Vương quốc Anh:
Năm 2002, chính phủ Anh lần đầu tiên đưa ra Chiến lược phát triển
Doanh nghiệp xã hội và thành lập bộ phận Doanh nghiệp xã hội (SEnU) trực
thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp (DTI) để điều phối các hoạt động ở
Anh và xứ Wales. Năm 2006, bộ phận này trở thành một phần của Văn phòng
Khu vực thứ Ba (Office of the Third Sector), thuộc Văn phòng Nội các
(Cabinet office). Năm 2010, Văn phòng Khu vực thứ Ba trở thành Văn phòng
Xã hội Dân sự (Office for Civil Society) thuộc Văn phòng Nội các, chịu trách
nhiệm cho các tổ chức tình nguyện, từ thiện và DNXH.
Cụ thể, Năm 2002, chính phủ Anh lần đầu đưa ra Chiến lược phát
triển Doanh nghiệp xã hội (Social enterprise: a strategy for success). Chiến
lược phát triển DNXH đặt ra 3 mục tiêu chính với các chính sách thực hiện
như sau:
(i) Xây dựng một môi trường thuận lợi thông qua việc: củng cố vai
trò và sự tham gia chính thức của chính phủ; đảm bảo rằng các qui định luật
pháp không làm cản trở sự phát triển DNXH; thúc đẩy sự tham gia của
46
DNXH trong quá trình mua sắm dịch vụ công.
(ii) Làm cho DNXH trở thành những doanh nghiệp tốt hơn. Chính
phủ cam kết làm việc với các tổ chức nâng cao năng lực (tư nhân hay nhà
nước) để hỗ trợ năng cao năng lực kinh doanh cho DNXH. Ngoài ra, Chính
phủ cũng có những giải pháp cụ thể để đảm bảo nguồn vốn tài chính cho
DNXH. Chuyển đổi từ việc DNXH phụ thuộc vào vốn tài trợ sang tự chủ tài
chính từ hoạt động kinh doanh.
(iii) Tạo ra các giá trị cho DNXH thông qua: nghiên cứu xác định
qui mô và ảnh hưởng của DNXH; thừa nhận chính thức và truyền thông rộng
rãi những đóng góp của DNXH; xây dựng hệ thống đánh giá để tạo dựng uy
tín và niềm tin về những giá trị xã hội và kinh tế mà DNXH mang lại.
Năm 2005, Chính phủ Anh đưa ra một hình thức công ty mới: Công ty
vì lợi ích cộng đồng (Community Interest Company - CIC). CIC là loại hình
công ty dành cho các DNXH mong muốn sử dụng tài sản và lợi nhuận của
mình cho các mục tiêu xã hội. CIC dễ thành lập, với những đặc tính linh hoạt
tương tự như các loại hình công ty khác, tuy nhiên nó cũng mang những đặc
điểm riêng để đảm bảo CIC phục vụ cho lợi ích cộng đồng. [22]
Năm 2006, Chính phủ Anh đưa ra Kế hoạch hành động về DNXH,
trong đó có sự tham gia liên ngành của 12 bộ, ngành khác nhau như: Bộ Kinh
doanh, Doanh nghiệp và Cải cách thể chế; Bộ Y tế; Bộ Trẻ em, trường học và
gia đình, cũng như Văn phòng Khu vực thứ Ba để thúc đẩy và hỗ trợ DNXH.
Chính sách hỗ trợ của chính phủ Anh bao gồm:
Nuôi dưỡng văn hóa DNXH thông qua các chương trình đào tạo
DNXH, thúc đẩy truyền thông, nghiên cứu và đánh giá tác động xã hội
(SROI);
Tăng cường tư vấn và thông tin cho việc thành lập và phát triển
DNXH: chính phủ dành nguồn lực cho các hoạt động như hỗ trợ phát
triển kinh doanh (6 triệu bảng), xây dựng năng lực tư vấn và hỗ trợ
chuyên sâu (6 triệu bảng) và hỗ trợ hiện đại hóa DNXH trong thời kỳ
khủng hoảng (8 triệu bảng);
Cải thiện tiếp cận nguồn vốn tài chính và đa dạng hóa các hình thức
47
đầu tư. Ước tính khoảng 315 triệu bảng Anh đã được dành cho DNXH
thông qua: 215 triệu bảng Anh để DNXH nâng cao năng lực cung ứng
dịch vụ công; 10 triệu bảng để xây dựng Qũy đầu tư mạo hiểm; Chương
trình Đầu tư xã hội (impact investment): cung cấp vốn và tăng khả năng
thanh toán cho các tổ chức trung gian hiện đang đầu tư và các DNXH;
Khuyến khích đầu tư vào DNXH; Tập huấn về quản lý tài chính.
Tạo điều kiện hợp tác giữa DNXH với Chính phủ: thực hiện một
nghiên cứu để xác định những lĩnh vực mà DNXH có thể đóng góp như
y tế, phát triển cộng đồng, phát triển kinh doanh ở những vùng khó
khăn và tái hòa nhập người mãn hạn tù. Trên cơ sở đó, Chính phủ xây
dựng các chương trình hợp tác chiến lược với DNXH. [14]
3.1.5. Cơ quan điều phối
- Một số nước EU nỗ lực hỗ trợ phát triển DNXH thông qua việc thành lập cơ quan điều phối. Các nước quan tâm đến việc phát triển DNXH
đã thiết lập một mạng lưới và cơ quan điều phối có vai trò:
(i) Hợp tác với chính phủ trong việc xây dựng chính sách phát triển
(ii) Đề ra các biện pháp hỗ trợ DNXH phát triển
- Ý: Chính phủ thành lập một cơ quan có quyền đề xuất các văn bản
chính sách và giám sát dữ liệu về phát triển DNXH.
- Tây Ban Nha thành lập Hội đồng phát triển kinh tế xã hội nhằm phát triển DNXH. Cơ quan này có trách nhiệm điều phối các cơ quan chính
phủ xây dựng các văn bản, thể chế hóa các văn bản liên quan đến phát
triển kinh tế xã hội và kinh phí hỗ trợ DNXH.
- Vương quốc Anh: Văn phòng khu vực thứ ba được đổi tên thành văn
phòng xã hội dân sự, chịu trách nhiệm hỗ trợ phát triển DNXH. [14]
3.2. Một số hạn chế của pháp luật Việt Nam về DNXH
3.2.1. Về các tiêu chí của DNXH
Theo điều 10, Luật Doanh nghiệp 2014, có hai tiêu chí để xác định thế
nào là DNXH. Thứ nhất, DNXH phải có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết
vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. Thứ hai, DNXH phải sử dụng
ít nhất 51% tổng lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm
48
thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký [6].
Tuy nhiên, hai tiêu chí này chưa có văn bản luật nào quy định một cách
rõ ràng. Thứ nhất, DNXH có “mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết những vấn
đề xã hội, môi trường”, những mục tiêu này còn chung chung, chưa có quy
định cụ thể, chi tiết. Liệu những mục tiêu này có thể bao gồm những mục tiêu
nhỏ hơn không, có thể phân loại thành các nhóm nhỏ hơn không? Việc quy
định chung chung như vậy sẽ gây khó khăn trong quá trình xác định doanh
nghiệp nào là doanh nghiệp xã hội. Vì lý do này, có thể các oanh nghiệp, tổ
chức sẽ không muốn chuyển đổi sang doanh nghiệp xã hội. Do chưa có tiêu
chí cụ thể xác định thế nào là DNXH, nên có tình trạng, một số doanh nghiệp
tự tuyên bố đi theo con đường này thực chất chỉ để thông qua đó, cắt giảm các
chi phí truyền thông, marketing, quảng cáo và bán hàng, trong khi hoạt động
không khác gì doanh nghiệp thông thường.
Thứ hai, về việc sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hang năm của
doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường đã
đăng ký. Tuy nhiên, pháp luật chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về việc làm
thế nào để xác định. 51% tổng lợi nhuận này là do doanh nghiệp tự báo cáo
hay có sự kiểm tra, giám sát của cơ quan, tổ chức nào? Cơ chế giám sát các
nguồn tài chính ra vào doanh nghiệp, thủ tục thanh toán các hợp đồng, thanh
toán không dung tiền mặt, v.v… chưa được quy định rõ dẫn đến sự thiếu rõ
ràng, minh bạch trong việc xác định lượng vốn tái đầu tư của doanh nghiệp
3.2.2. Về loại hình DNXH
Về các loại hình của DNXH, pháp luật Việt Nam chỉ quy định có bốn
loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty hợp
danh, công ty cổ phần. Việc quy định này chưa phù hợp với đặc điểm của
DNXH cũng như chưa tạo ra những điều kiện thuận lợi cho DNXH hoạt
động. Kinh nghiệm một số quốc gia trên thế giới cho thấy pháp luật cho phép
DNXH được thành lập dưới các loại hình khác với các doanh nghiệp truyền
thống như hợp tác xã hay hội làng nghề, hội ái hữu, v.v…
49
Theo Luật doanh nghiệp 2014, DNXH không được thành lập theo hình
thức hợp tác xã. Quy định này đã bỏ qua các đặc tính ưu việt rất phù hợp với
các mục tiêu xã hội của các hợp tác xã đó là tính chất sở hữu tập thể, tinh thần
cộng đồng. Ở nước ta, các hiệp hội vì lợi ích cộng đồng, có tính chất tương tự
như hội làng nghề, hội ái hữu ở Anh, chưa được pháp luật nhìn nhận như
những mô hình pháp lý của DNXH.
Đối với DNXH thì phải cần yếu tố về hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận nên cách thiết kế bốn loại hình doanh nghiệp như vậy sẽ rất khó khăn
trọng việc đảm bảo tính chất căn bản của DNXH. Việc quy định như tại Luật
Doanh nghiệp tuy tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất quản lý nhà
nước về doanh nghiệp, nhưng lại gây ra một sự khó khăn lớn trong cộng
đồng DNXH bởi lẽ có một số lượng các DNXH thực tế đang tồn tại dưới các
hình thức linh hoạt có tính tương tác cao như các HTX, các tổ chức phi chính
phủ, trung tâm, hiệp hội, câu lạc bộ, quỹ, v.v sẽ phải giải quyết rất nhiều vấn
đề về vốn, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động để chuyển đổi sang
DNXH.
3.2.3. Hệ thống văn bản pháp luật dành cho DNXH
Hiện nay, mới chỉ có Luật doanh nghiệp 2014 và nghị định 96/2015 có
quy định trực tiếp về DNXH. Các văn bản bao gồm tiêu chí để xác định thế
nào là DNXH, quyền và nghĩa vụ của DNXH, cam kết thực hiện mục tiêu xã
hội của DNXH, chuyển đổi DNXH, hệ thống pháp luật quy định về DNXH
còn khá đơn giản và chưa có hướng dẫn chi tiết về DNXH. Vấn đề về quản trị
DNXH, thủ tục hành chính, ưu đãi dành cho DNXH vẫn còn thiếu.
Cụ thể, còn nhiều quy định về doanh nghiệp xã hội chưa được đề cập
đến hoặc đề cập một cách chung chung như tiêu chí của DNXH (mục tiêu giải
quyết các vấn đề môi trường, xã hội, sử dụng 51% tổng doanh thu, cơ chế
kiểm tra giám sát, phối hợp, phát hiện của cộng đồng, hiệu quả đầu tư của
DNXH, thủ tục thành lập doanh nghiệp, vốn của doanh nghiệp, tài trợ cho
doanh nghiệp, thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp thông thường sang DNXH và
50
ngược lại, quản trị doanh nghiệp, các loại thuế và cách thức nộp thuế.
3.2.4. Về các chính sách hỗ trợ DNXH
Về thuế, theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành chỉ có quy
định: Miễn thuế đối với phần thu nhập không chia của cơ sở thực hiện xã hội
hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội hóa khác để lại
để đầu tư phát triển cơ sở đó theo quy định của luật chuyên ngành về lĩnh vực
giáo dục - đào tạo, y tế và lĩnh vực xã hội hóa khác. Hiện hành mới có Luật
Giáo dục đại học quy định cụ thể về phần thu nhập không chia của cơ sở giáo
dục đại học tư thục. Vậy việc xác định phần thu nhập không chia dùng để tái
đầu tư của các cơ sở xã hội hóa trong khi các luật chuyên ngành chưa có quy
định cụ thể. Các quy định về thuế chưa được hướng dẫn cụ thể và cũng chưa
có nhiều ưu đãi dành cho mô hình doanh nghiệp này.
Về các cơ quan hỗ trợ DNXH, theo kinh nghiệm một số quốc gia trên
thế giới, các chính phủ thành lập cơ quan điều phối, cơ quan phụ trách, hỗ trợ
DNXH về thủ tục hành chính, đề xuất với Chính phủ những các quy định, mô
hình, chính sách, ưu đãi dành cho DNXH. Hiện nay, Việt Nam chưa có những
cơ quan, tổ chức nhằm hỗ trợ cho DNXH.
3.2.5. Cơ chế mở cho DNXH
Trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ và các nhu cầu của
xã hội, đặc biệt là nhu cầu của những người yếu thế ngày càng tăng cao, nhu
cầu đầu tư vào những lĩnh vực mà Nhà nước hoặc các doanh nghiệp thông
thường không muốn khai thác hoặc khai thác chưa hiệu quả, nhu cầu thành
lập, mở rộng, phát triển DNXH ngày càng tăng. Do đó, xu hướng mở của các
DNXH hiện nay là vô cùng cần thiết. Theo đó, DNXH được thiết kế theo mô
hình mở, sẵn sàng tiếp nhận người tham gia, tiếp nhận nguồn vốn, viện trợ, tài
trợ. Hơn nữa, các quy định về nội dung về thủ tục hành chính về các vấn đề
như thành lập DNXH, đăng ký DNXH, mở rộng, thay đổi lĩnh vực kinh
doanh, thay đổi quy mô hoạt động, địa bàn hoạt động, chuyển đổi giữa doanh
nghiệp truyền thống và DNXH… cần đơn giản hóa, rút gọn.
51
Tuy nhiên, trong pháp luật Việt Nam hiện hành, các quy định về thành
lập, đăng ký DNXH, chuyển đổi giữa doanh nghiệp truyền thống và DNXH
đã có nhưng còn rất sơ lược hoặc còn cồng kềnh, nặng nề, chưa mang đến
thuận lợi, dễ dàng cho DNXH. Điều này có thể là những thuận lợi cho các cơ
quan chức năng, những người có thẩm quyền trong việc quản lý, điều hành
DNXH nhưng lại tạo những khó khăn cho DNXH. Điều này có thể là lý do
cản trở sự hình thành, mở rộng và phát triển DNXH trong tương lai, các tổ
chức, doanh nghiệp sẽ rất ngại đầu tư vào các lĩnh vực mà Nhà nước và tư
nhân chưa khai thác dưới hình thức DNXH. Vì vậy, những người yếu thế
cũng như nền kinh tế - xã hội nói chung cũng sẽ bị ảnh hưởng theo.
3.3. Đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về DNXH
3.3.1. Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật về DNXH
- Về hệ thống các văn bản pháp luật
Hiện nay, mới chỉ có điều 10 Luật Doanh nghiệp 2014 và một số điều
của nghị định 96 / 2015 quy định về tiêu chí, nghĩa vụ, quyền… của DNXH.
Có thể nhận thấy trong tương lai cần bổ sung thêm các nghị định, thông tư
hướng dẫn chi tiết về DNXH. Cụ thể là các quy định cụ thể hơn về tiêu chí
xác định thế nào là DNXH, quản trị doanh nghiệp, vốn, thủ tục thành lập
doanh nghiệp, tên gọi doanh nghiệp, chế độ trách nhiệm, thủ tục phá sản, chế
độ ưu đãi, chính sách của Nhà nước, thủ tục, điều kiện chuyển đổi từ doanh
nghiệp thông thường, các tổ chức sang DNXH và ngược lại khi không còn
mục tiêu hoạt động vì cộng đồng, nhận tài trợ, cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt
động, hiệu quả, doanh thu của DNXH.
Về lâu dài, cần có đạo luật riêng quy định về DNXH tạo sự thống nhất,
liên kết, tạo thuận lợi cũng như khuyến khích thành lập và phát triển DNXH.
Hơn nữa, cũng cần có những quy định tạo mối liên hệ thống nhất giữa các văn
bản quy phạm pháp luật để thực sự tạo hành lang pháp lý đầy đủ và thuận lợi
cho các DNXH. Cụ thể đó là mối liên hệ giữa luật doanh nghiệp, luật đầu tư,
luật đầu tư công, luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, luật các tổ chức tín
52
dụng, v.v DNXH không phải là một loại hình doanh nghiệp mới nhưng lại
góp phần giúp nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường mà nếu tiếp
tục để Nhà nước thực hiện chưa chắc đã hiệu quả do đó trước hết những chính
sách đầu tư, những quy định về tổ chức và hoạt động của DNXH không nên
chỉ bó hẹp trong luật doanh nghiệp mà còn phải chịu sự điều chỉnh của nhiều
văn bản pháp luật có liên quan khác nhưng chưa được đề cập đầy đủ khi quy
định về DNXH trong luật doanh nghiệp. DNXH hoàn toàn không phải là một
“lợi thế” mà bên cạnh việc thực hiện các mục tiêu xã hội, các DNXH thực
hiện hoạt động kinh doanh phải dựa trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng và công
bằng như các loại hình doanh nghiệp khác.
- Về tiêu chí xác định DNXH
Thứ nhất, về mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, các
văn bản pháp luật cần được quy định cụ thể hơn, đi sâu vào nội hàm của mục
tiêu xã hội, đó là các DNXH hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội,
môi trường vì lợi ích cộng đồng. Các vấn đề xã hội, môi trường và cộng đồng
có thể kể đến như bảo vệ môi trường, bảo vệ và đáp ứng các quyền cơ bản của
con người thông qua các hoạt động tạo công ăn việc làm, cung cấp các sản
phẩm cần thiết cho những nhóm người khó hòa nhập, dễ bị tổn thương, cung
cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, nước sạch, xử lý rác thải, ô nhiễm, v.v…
Thứ hai, về việc sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hang năm của
doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như
đã đăng ký. Pháp luật cần có quy định cụ thể, rõ ràng về việc báo cáo về
nguồn gốc 51% tổng lợi nhuận này, tăng cườngkiểm tra, giám sát của cơ
quan, tổ chức về mức 51% này. Cơ chế giám sát các nguồn tài chính ra vào
doanh nghiệp, thủ tục thanh toán các hợp đồng, thanh toán không dung tiền
mặt… cũng cần được xem xét kĩ lưỡng.
- Về hình thức pháp lý của DNXH
Hiện nay luật Việt Nam mới chỉ quy định bốn hình thức pháp lý của
DNXH: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty TNHH, công ty cổ
53
phần. Quy định như vậy chưa thực sự thúc đẩy quyền tự do kinh doanh và tự
do lựa chọn mô hình kinh doanh các doanh nhân xã hội đang hoạt động dưới
nhiều quy mô và lĩnh vực kinh doanh khác nhau, hạn chế khả năng tiếp cận
nhu cầu của các cộng đồng thiệt thòi, đối tượng hướng tới của DNXH.
Vì vậy, pháp luật nên bổ sung các hình thức pháp lý, mô hình DNXH
khác nhau. Ví dụ như cá nhân, hộ kinh doanh cần được khuyến khích kinh
doanh với những mô hình tổ chức không nhất thiết thuộc các hình thức pháp
lý như trong Luật Doanh nghiệp 2014. Ví dụ như hợp tác xã, tổ chức từ thiện,
v.v… Các tổ chức khác như trung tâm, hội, quỹ vì cộng đồng muốn chuyển
sang mô hình DNXH cần có quy định về điều kiện chuyển đổi, thủ tục chuyển
đổi nhanh gọn, tạo điều kiện cho DNXH phát triển, khuyến khích cá nhân, tổ
chức thành lập, chuyển đổi sang DNXH.
3.3.2. Về cơ quan điều phối, hỗ trợ DNXH
Chính phủ cần thành lập một số cơ quan điều phối, hỗ trợ. Cụ thể, các
cơ quan này cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
(i) Hợp tác với chính phủ trong việc xây dựng chính sách phát triển; điều
phối các cơ quan chính phủ xây dựng các văn bản, thể chế hóa các văn
bản liên quan đến phát triển kinh tế xã hội và kinh phí hỗ trợ DNXH.
(ii) Đề ra các biện pháp hỗ trợ DNXH phát triển: Hỗ trợ về thực hiện các
thủ tục thành lập, chuyển đổi DNXH, sáp nhập, tách DNXH, nguồn
nhân lực, kinh phí, quản trị nội bộ DNXH.hỗ trợ thông tin về thuế, các
chiến dịch quảng bá.
3.3.3. Về chính sách ưu đãi đối với DNXH
Vì mục tiêu mà DNXH theo đuổi trong suốt quá trình hoạt động là mục
tiêu xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường mà Nhà nước hay các
Doanh nghiệp thông thường chưa làm được. Chính vì vậy, để tạo điều kiện để
DNXH phát triển cũng như khuyến khích DNXH được thành lập và mở rộng,
Nhà nước nên có những chính sách ưu đãi cụ thể, như chính sách về thuế, các
nguồn tài trợ…
54
Tuy nhiên, những khoản viện trợ, ưu đãi, tài trợ cho DNXH sẽ phải có
những báo cáo cụ thể liên quan đến hoạt động của DNXH trong việc thực
hiện những khoản viện trợ này (Luật Doanh nghiệp 2014). Tuy nhiên một vấn
đề mà pháp luật chưa quy định đó là cần phải có những báo cáo, giải trình để
xác định rõ nguồn gốc của những khoản hỗ trợ tài chính này có thực sự hợp
pháp hay không. Ở Việt Nam, trong nhiều lĩnh vực đặc biệt liên quan đến các
quỹ xã hội, quỹ từ thiện, bên cạnh việc quản lý quỹ còn nhiều yếu kém, việc
xác định nguồn gốc hình thành những khoản viện trợ, tài trợ này chưa hề
được quan tâm và kiểm soát bằng các cơ chế mang tính pháp lý. Nếu không
được kiểm soát, các nguồn này có thể đến từ các nguồn bất hợp pháp, gây ra
hậu quả khó lường cho cả doanh nghiệp và xã hội.
3.3.4. Xu hướng mở cho DNXH
Nhằm bắt kịp với sự phát triển, mở rộng ủa DNXH trong tương lai, luật
pháp cũng cần sửa đổi theo xu hướng mở này. Cụ thể, các quy định về thành
lập, phá sản, mở rộng phạm vi hoạt động, lĩnh vực hoạt động, quy mô hoạt
động, chế độ quản trị DNXH cần được rút gọn, đơn giản hóa, tránh các quy
định, thủ tục phiền phức, chồng chéo, không cần thiết. Hơn nữa, cần bổ sung
các quy định về thêm thành viên, tiếp nhận người tham gia mới, tiếp nhận
nguồn tài trợ, viện trợ, cần vô cùng linh hoạt nhằm thể hiện đúng bản chất của
DNXH, đồng thời tạo cơ hội, sự thuận lợi cho DNXH phát huy hết tiềm năng
55
của mình.
KẾT LUẬN
DNXH hình thành và phát triển dựa trên nhu cầu giải quyết các vấn đề
kinh tế - xã hội vô cùng cấp thiết và liên quan đến lợi ích của các đối tượng
yếu thế trong xã hội như trẻ em, người nghèo, người khuyết tật, người nhiễm
HIV / AIDS… DNXH khai thác, đầu tư những lĩnh vực mà Nhà nước hay tư
nhân không muốn can thiệp hoặc chưa khai thác triệt để, chưa tiếp cận được
lợi ích của nhóm người yếu thế nói trên hay các vấn đề liên quan đến môi
trường, y tế, giáo dục, v.v… Trong bối cảnh này, chúng ta thấy vai trò của các
tổ chức xã hội, phát triển cộng đồng nói chung và đặc biệt sự nổi lên của mô
hình DNXH rất phù hợp để có thể bù đắp cho khoảng trống đó. DNXH là một
mô hình hỗn hợp, sử dụng hoạt động kinh doanh để đạt được các mục tiêu xã
hội. Họ hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, các mục tiêu xã hội là điều
căn bản mà DNXH muốn hướng tới. Trên thực tế, các DNXH là những tác
nhân thúc đẩy đổi mới, sáng kiến cho xã hội, sản xuất ra các sản phẩm mới,
đưa ra thị trường những sản phẩm phục vụ nhu cầu, lợi ích của những nhóm
đối tượng yếu thế hoặc đưa ra các dịch vụ đầy sang tạo, giải quyết những vấn
đề xã hội - môi trường nảy sinh trong quá trình tăng trưởng kinh tế của đất
nước. DNXH có thể được xem như một giải pháp hay công cụ để bổ trợ cho
những điểm yếu của các khu vực còn lại.
Pháp luật Việt Nam hiện nay tuy đã có những quy định về một số vấn
đề liên quan đến DNXH nhưng vẫn chưa cụ thể, rõ rang như các tiêu chí để
xác định thế nào là DNXH, hình thức pháp lý của DNXH, thủ tục thành lập,
đăng ký doanh nghiệp, nhận tài trợ, viện trợ của doanh nghiệp, quản trị doanh
nghiệp, phá sản doanh nghiệp, chuyển đổi doanh nghiệp truyền thống sang
DNXH và ngược lại hay những quy định về thêm thành viên mới, cơ quan
điều phối, hỗ trợ chưa được đề cập đến. Chính vì vậy, Nhà nước cần có những
cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật, ưu đãi, v.v… để điều chỉnh, quản lý, hỗ
trợ DNXH, nhằm để tạo lập khung khổ pháp lý ổn định cho hoạt động của các
DNXH, tạo điều kiện thuận lợi cho các sáng kiến xã hội được dễ dàng triển
khai hơn trong thực tế, khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển mạnh của
56
DNXH ở Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2016), Thông tư số 04/2016/TT-BKHĐT ngày
17/5/2016 quy định các biểu mẫu văn bản sử dụng trong đăng ký doanh
nghiệp xã hội
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Thông tư 20/2015/TT-BKHĐT ngày
01/12/2015 hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp
3. Chính phủ (2015), Nghị định 96/2015 ngày 19/10/2015 quy định chi
tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp
4. Chính phủ (2015), Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14/09/2015 về
đăng ký doanh nghiệp
5. Quốc hội (2012), Bộ luật lao động số 10/2012/QH13 ngày 18/06/2012
6. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày
26/11/2014
7. Quốc hội (2012), Luật Hợp tác xã số 23/2012/QH13 ngày 20/11/2012
8. Quốc hội (2014), Luật bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 ngày
23/06/2014
9. Quốc hội (2006), Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy
giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) số 64/2006/QH11
ngày 29/06/2006
10. Quốc hội (2016), Luật trẻ em số 102/2016/QH13 ngày 05/04/2016
11. Quốc hội (2008), Luật phòng chống ma túy sửa đổi số 16/2008/QH12
ngày 03/06/2008
12. Quốc hội (2009), Luật khám bệnh, chữa bệnh số 40/2009/QH12 ngày
23/11/2009
57
13. Quốc hội (2014), Luật phá sản số 51/2014/QH13 ngày 19/06/2014
II. Tài liệu trong nước
14. Hội đồng Anh, (2016), Điển hình DNXH tài Việt Nam
15. Lê Nhật Bảo (2017), Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam
http://tcdcpl.moj.gov.vn/, truy cập ngày 3/4/2018
16. N. Hiền (2014), Cần khuyến khích phát triển doanh nghiệp xã hội,
Báo hải quan, http://www.baohaiquan.vn/, truy cập ngày 3/4/2018
17. Nguyễn Hoàng (2014), Hoàn thiện thể chế khuyến khích doanh
nghiệp xã hội phát triển bền vững, truy cập ngày 1/4/2018
18. Nguyễn Như Chính (2017), Thực tiễn và yêu cầu hoàn thiện pháp luật
về doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí dân chủ và pháp
luật , http://tcdcpl.moj.gov.vn/ (Truy cập ngày 19/3/2018).
19. Phan Thị Thanh Thủy (2015), “Hình thức pháp lý của doanh nghiệp xã
hội: Kinh nghiệm nước Anh và một số gợi mở cho Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN, 31 (4), 56-64
20. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật thương mại, Tập
1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật thương mại, Tập
2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
22. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hội đồng Anh tại Việt
Nam, Trung tâm hỗ trợ sáng kiến cộng đồng (2012), Doanh nghiệp xã
hội tại Việt Nam, khái niệm, bối cảnh và chính sách
III. Tài liệu nước ngoài
23. Savannah D. Dodd, Social entrepreneur terminology and definitions in
korea, sri lanka, thailand, philippines, and Vietnam, (2016),
https://wfto-asia.com, truy cập ngày 23/3/2018
24. Schwab Foundation for Social entrepreneur, What is a social
entrepreneur?, http://www.schwabfound.org, truy cập ngày 1/4/2018
25. Korean Ministry of Government Legislation, Social enterprise
58
promotion act of Korea, act no. 8217, jan. 3, 2007