ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------
TRỊNH THU LAN
SỰ TÁC ĐỘNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-L
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Lan Phương
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng em. Các
kết quả nêu trong khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các ví dụ và trích dẫn trong khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Vậy em viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để em có thể
bảo vệ khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả khóa luận
Trịnh Thu Lan
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, với tình cảm chân thành, em
xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, cùng
các thầy giáo, cô giáo trong Khoa đã ân cần chỉ bảo, giảng dạy, tạo cho em có
được điều kiện học tập ở một môi trường tốt nhất trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Phan Thị Lan
Phương, người đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và trực
tiếp hướng dẫn em hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp này.
Đồng thời, em xin gửi lời tri ân tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên
em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp lần này.
Tác giả khóa luận
Trịnh Thu Lan
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. 2
MỤC LỤC ........................................................................................................ 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................ 6
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA DƯ LUẬN XÃ
HỘI ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT..................................... 13
1.1. Khái luận về tác động dư luận xã hội với việc thực hiện pháp luật ...... 13
1.1.1. Khái niệm dư luận xã hội ............................................................. 13
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật ..................................................... 14
1.1.3. Khái niệm về tác động của dư luận xã hội đối với thực hiện pháp
luật.............................................................................................................15
1.1.4. Nội dung của tác động dư luận xã hội đối với thực hiện pháp luật15
1.1.4.1. Dư luận xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc thực hiện
pháp luật ................................................................................................. 15
1.1.4.2. Dư luận xã hội tác động đến thực hiện pháp luật cả chiều tích cực
và tiêu cực .............................................................................................. 19
1.1.4.3. Sự tác động của dư luận xã hội có tính định hướng, điều chỉnh
hành vi thực hiện pháp luật .................................................................... 24
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tác động của dư luận xã hội với thực hiện
pháp luật ....................................................................................................... 25
1.2.1. Tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật bị ảnh hưởng
bởi kinh tế ................................................................................................. 25
1.2.2. Tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố văn hóa, xã hội................................................................... 26
3
1.2.3. Sự tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật bị quy định
bởi pháp luật .............................................................................................. 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI
TRONG VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 30
2.1. Các quy định pháp luật về tác động của dư luận xã hội với thực hiện pháp
luật ................................................................................................................ 30
2.1.1. Lịch sử hình thành các quy định pháp luật về tác động của dư luận
xã hội đến thực hiện pháp luật .................................................................. 30
2.1.2. Các quy định pháp luật hiện hành về tác động của dư luận xã hội đến
thực hiện pháp luật .................................................................................... 32
2.2. Thực trạng tác động của dư luận xã hội với thực hiện pháp luật ......... 37
2.2.1. Những tác động tích cực của dư luận xã hội đối với việc thực hiện
pháp luật ở Việt Nam hiện nay ................................................................. 37
2.2.1.1. Nâng cao hiệu quả việc người dân tham gia quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội và công tác đấu tranh chống tiêu cực thông qua việc khiếu
nại, tố cáo ............................................................................................... 37
2.2.1.2. Nâng cao trách nhiệm của người dân trong việc đóng góp ý kiến
với Đảng và Nhà nước về những vấn đề phát triển kinh tế xã hội thông
qua các cơ quan dân cử .......................................................................... 41
2.2.1.3. Nâng cao chất lượng hoạt động quản lý Nhà nước, quản lý xã hội
của đội ngũ cán bộ trong bộ máy Nhà nước .......................................... 42
2.2.2. Những tác động tiêu cực của dư luận xã hội đối với việc thực hiện
pháp luật ở Việt Nam hiện nay ................................................................. 44
2.2.2.1. Những phản ánh không toàn diện của dư luận xã hội gây nên mất
định hướng trong thực hiện pháp luật .................................................... 44
2.2.2.2. Phản ánh thiếu trung thực dẫn đến sự sai lệch trong hoạt động
thực hiện pháp luật ................................................................................. 46
2.2.2.3. Dư luận xã hội vượt quá giới hạn các quy định của pháp luật . 47
4
2.3. Nguyên nhân thực trạng tác động của dư luận xã hội đối với việc thực
hiện pháp luật ............................................................................................... 48
2.3.1. Nguyên nhân những tác động tích cực của dư luận xã hội trong thực
hiện pháp luật ............................................................................................ 49
2.3.2. Nguyên nhân những tác động tiêu cực của dư luận xã hội trong thực
hiện pháp luật ............................................................................................ 50
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TÁC
ĐỘNG DƯ LUẬN XÃ HỘI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT .... 53
3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tác động dư luận xã hội với thực
hiện pháp luật ............................................................................................... 53
3.2. Một số giải pháp khác ........................................................................... 57
3.2.1. Đẩy mạnh tổ chức điều tra, thăm dò và sử dụng các kết quả thăm dò
dư luận xã hội trong hoạt động thực hiện pháp luật ................................. 57
3.2.2. Đẩy mạnh dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội............... 58
3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật của người dân và của đội ngũ cán bộ, công
chức Nhà nước .......................................................................................... 60
3.2.4. Tăng cường quản lý và kiểm soát dư luận xã hội ........................... 62
3.2.5. Phát huy vai trò của báo chí và thông tin đại chúng ....................... 63
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Ý nghĩa
Bộ GD & ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo 1
2 3 HĐND NXB Hội đồng nhân dân Nhà xuất bản
4 5 TTATGT UBND Trật tự an toàn giao thông Ủy ban nhân dân
6 XHCN Xã hội chủ nghĩa
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dư luận xã hội hiện nay đang là một vấn đề ngày càng được quan tâm,
nhất là trong thời đại kinh tế thị trường hội nhập và thời đại công nghệ 4.0. Bởi
có thể nói, cuộc cách mạng 4.0 chính là kỉ nguyên của vạn vật được kết nối với
Internet. Với sự bùng nổ Internet, đặc biệt là tốc độ truy cập ngày càng nhanh,
vài năm trở lại đây, truyền thông xã hội đang phát triển mạnh mẽ với bất kỳ ai
cũng có thể đăng thông tin lên mạng xã hội. Quá trình toàn cầu hóa thông tin,
sự bùng nổ các phương tiện truyền thông Internet mạnh mẽ như vậy khiến công
tác quản lý thông tin trên mạng xã hội, định hướng dư luận ở nước ta hiện nay
đang đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức. Vì thế mà vấn đề này ngày
càng được chú trọng hơn nữa và không thể phủ nhận nó có sức ảnh hưởng sâu
rộng tới các lĩnh vực của đời sống nói chung và tới các hoạt động thực hiện
pháp luật nói riêng.
Dư luận xã hội là một hiện tượng tâm lý xã hội đặc biệt trong đời sống,
là tấm gương phản chiếu mức độ quan tâm của toàn xã hội tới một sự kiện, hiện
tượng nào đó. Trong từng thời kỳ, dư luận luôn có ảnh hưởng nhất định đến sự
ổn định và phát triển chung của toàn xã hội, nhất là khi Việt Nam có khoảng
66,1 triệu người sử dụng Internet [46] và mạng xã hội đang phát triển như vũ
bão hiện nay. Thông qua dư luận xã hội, người dân được tự do thể hiện quan
điểm cá nhân về các vấn đề chung của quốc gia, dân tộc. Đồng thời, dư luận
còn là một yếu tố mà Nhà nước luôn phải quan tâm để có thể phát huy được tác
động tích cực của hiện tượng này trong quá trình thực hiện các chủ trương,
chính sách và phát triển kinh tế - xã hội. Bởi chúng ta không thể phủ nhận,
trong bất cứ xã hội nào, dư luận xã hội cũng có những ảnh hưởng nhất định,
thậm chí ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến chính trị - xã hội của đất nước. Bên cạnh
đó, với mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì vai trò
của quần chúng nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước cần được chú
trọng hơn nữa. Trong đó, việc phát huy vai trò giám sát, đánh giá của nhân dân
7
thông qua phát huy phương diện tích cực của dư luận xã hội là yêu cầu vô cùng
cấp bách ở Việt Nam hiện nay.
Xét về bản chất, thực hiện pháp luật là một trong những nội dung mang
ý nghĩa quan trọng; quyết định đến hiệu lực của pháp luật trong hoạt động quản
lý Nhà nước, quản lý xã hội; quyết định đến sự ổn định và phát triển toàn diện
của xã hội hiện đại. Thực hiện pháp luật là một kênh quan trọng để cho các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành được thực hiện hóa vào đời sống. Hoạt
động lập pháp có tốt đến đâu cũng không còn ý nghĩa nếu chúng chỉ là những
quy phạm nằm trên giấy mà không được tôn trọng thực hiện trên thực tế; các
chủ trương đường lối có tốt tới mấy cũng khó mà thực hiện nếu Nhà nước không
phát huy được vai trò làm chủ của mình… Có ý nghĩa như vậy nên thực hiện
pháp luật luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế thì những góc khuất, mảng tối trong xã hội xuất hiện ngày
càng nhiều và đôi khi pháp luật vẫn chưa được thực hiện đúng và đầy đủ trên
thực tế. Những tệ nạn xã hội xuất hiện ngày càng nhiều với tính chất nguy hiểm
hơn trước, các giá trị xã hội bị đảo lộn, công bằng xã hội bị vi phạm… Tất cả
đều xuất phát từ việc không tôn trọng pháp luật, vi phạm pháp luật. Xã hội vẫn
tồn tại những tiêu cực, hạn chế yêu cầu nhà nước ta cần quan tâm hơn nữa tới
việc đẩy mạnh hiệu quả thực hiện pháp luật bằng phương thức phối hợp pháp
luật với những công cụ khác. Trong đó, phải kể đến dư luận xã hội như một
công cụ hiệu quả hỗ trợ hoạt động thực hiện pháp luật. Để làm được như vậy,
Đảng và Nhà nước cùng với toàn xã hội cần nhìn nhận và phát huy hơn nữa vai
trò tích cực của dư luận xã hội đối với đời sống, đặc biệt là hoạt động thực hiện
pháp luật.
Song, thực tế phản ánh rằng, việc nhìn nhận và phát huy những mặt tích
cực của dư luận xã hội vẫn chưa được thực hiện, dư luận xã hội vẫn chưa thực
sự được coi trọng, đôi khi nó còn trở thành con dao hai lưỡi gây nên những ảnh
hưởng tiêu cực. Vậy nên yêu cầu nâng cao hiệu quả của tác động dư luận xã
8
hội với thực hiện pháp luật ngày càng trở nên được quan tâm, chú trọng hơn
nữa.
Thêm vào đó, trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam như hiện nay, việc tiếp tục tìm kiếm những mô hình mới
nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân và các tổ chức xã hội thông
qua dư luận xã hội đối với quá trình tổ chức thực thi đường lối, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước cũng đang trở thành một yêu cầu cấp bách. Để có
thể đáp ứng những yêu cầu trên, việc tìm hiểu và nhìn nhận về sự tác động của
dư luận xã hội đối với thực hiện pháp luật là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Nó góp phần bổ sung hệ thống lý luận về dư luận xã hội và đánh giá những tác
động của nó trong công tác quản lý xã hội, trong việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật - nhiệm vụ trọng tâm của xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Có thể nói, những căn cứ lý luận và yêu cầu thực tiễn nêu trên chính là
lý do thúc đẩy người viết lựa chọn đề tài “Sự tác động của dư luận xã hội đối
với việc thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay” cho khóa luận tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp
luật ở Việt Nam đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu, trong đó có một số công
trình khoa học tiêu biểu sau đây:
Trong sách “Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới” [19] của PGS.TS
Lương Khắc Hiếu xuất bản năm 1999 tại NXB Chính trị Quốc gia, tác giả đã
trình bày rất cụ thể, chi tiết về bản chất và vai trò của dư luận xã hội trong xã
hội hiện đại cũng như đề xuất các giải pháp phát huy vai trò của dư luận xã hội
ở nước ta hiện nay.
Trong cuốn sách “Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật
của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở” [25] xuất bản năm 2004 của mình, TS Trần Thị
Hồng Thúy và TS. Ngọ Văn Nhân cũng đã đưa ra những nhận định về mối quan
9
hệ giữa dư luận xã hội với ý thức pháp luật, đồng thời đề xuất các giải pháp
nhằm phát huy vai trò của dư luận xã hội trong việc nâng cao ý thức pháp luật
của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Vấn đề này ít nhiều có mối liên quan đến đề tài
khóa luận người viết đã lựa chọn.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều công trình khác đi sâu nghiên cứu về dư
luận xã hội như các cuốn “Xã hội học về dư luận xã hội” [24] của GS.TS
Nguyễn Quý Thanh xuất bản năm 2006 tại NXB Đại học Quốc gia,“Dư luận
xã hội” [23] của PGS.TS Bùi Hoài Sơn xuất bản năm 2006 tại NXB Văn hóa –
Thông tin…
Hay trong cuốn tạp chí Giáo dục lý luận, số 09/2004 cũng có bài “Dư
luận xã hội và pháp luật” [20], tác giả Nguyễn Văn Luyện đã nhấn mạnh tác
động của dư luận xã hội đối với việc ra quyết định của các cấp lãnh đạo.
Có thể nói, đây là một vấn đề không còn quá mới lạ nhưng vẫn còn rất
hạn chế các công trình nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về nó. Trong khuôn khổ
của bài viết, người viết chỉ xin tập trung nghiên cứu vào một khía cạnh nhỏ
trong mối quan hệ giữa dư luận xã hội với pháp luật, đó là sự tác động của dư
luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu về dư luận xã hội, thực hiện pháp luật
cũng như những tác động tích cực và tiêu cực của dư luận xã hội đến thực hiện
pháp luật ở Việt Nam hiện nay, để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của những tác động ấy.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Người viết tập trung nghiên cứu thực trạng tác động của dư luận xã hội
đối với thực hiện pháp luật trong khoảng 10 năm vừa qua.
Khóa luận nghiên cứu sự tác động của dư luận xã hội đối với thực hiện
pháp luật ở các đơn vị, địa phương khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam.
10
Người viết tập trung nghiên cứu về đặc điểm sự tác động của dư luận xã
hội đến thực hiện pháp luật, thực trạng của sự tác động đó và kiến nghị các giải
pháp nâng cao hiệu quả của tác động dư luận xã hội với việc thực hiện pháp
luật trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
4. Mục đích nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Khi thực hiện bài nghiên cứu, người viết hướng tới các mục đích sau:
Đem lại được cái nhìn khái quát và hệ thống được những cơ sở lý luận
và nội dung cơ bản về sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện
pháp luật.
Làm rõ được những thực trạng tác động của dư luận xã hội trong việc
thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Phân tích, đánh giá được các mặt tích cực, hạn chế và những đóng góp
của dư luận xã hội trong việc thực hiện pháp luật, từ đó đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của những vai trò ấy cũng như khắc phục
được những bất cập, tiêu cực mà dư luận xã hội tác động đến thực hiện pháp
luật ở nước ta hiện nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu để thực hiện khóa luận, người viết đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp bình luận, diễn giải; phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê...
Phương pháp bình luận, diễn giải.... được sử dụng để nghiên cứu tổng
quan một số vấn đề lý luận về tác động của dư luận xã hội đối với thực hiện
pháp luật.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Khóa luận phân tích và tổng kết lại
những kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan đến tác động của dư
luận xã hội đối với thực hiện pháp luật và đưa ra những nhận xét, đánh giá của
11
bản thân để đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của tác động dư luận xã
hội với việc thực hiện pháp luật.
5. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì phần
nội dung của bài nghiên cứu có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực
hiện pháp luật.
Chương 2: Thực trạng tác động của dư luận xã hội trong việc thực hiện pháp
luật ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả của tác động dư luận xã hội với
việc thực hiện pháp luật.
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA DƯ LUẬN XÃ
HỘI ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1.1. Khái luận về tác động dư luận xã hội với việc thực hiện pháp luật
1.1.1. Khái niệm dư luận xã hội
“Dư luận xã hội” là một thuật ngữ được hình thành từ rất sớm, được sử
dụng lần đầu tiên bởi nhà hoạt động xã hội người Anh Jolsbery vào thế kỉ XII
[41] và sau đó dần trở nên phổ biến. Và cho đến nay, thuật ngữ này đã có rất
nhiều khái niệm khác nhau do bản thân nó là một hiện tượng xã hội rất phong
phú, năng động, phức tạp; mặt khác do sự đa dạng trong các góc độ nghiên cứu
hay các quan điểm lý luận của các nhà nghiên cứu.
Trên thế giới đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các khái niệm về dư
luận xã hội. Nhà nghiên cứu dư luận xã hội người Nga B. K. Paderin đã định
nghĩa như sau:“Dư luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các
ý kiến thể hiện sự phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng
lời), phản ánh ý nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với
các thể chế, giai cấp xã hội nói chung và thái độ công khai hoặc che đậy của
các nhóm xã hội lớn nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có động chạm
đến các lợi ích chung của họ” [34]. Các nhà nghiên cứu người Mỹ cũng sử
dụng khái niệm tương đồng với dư luận xã hội là khái niệm "công luận" và
cũng nêu ra những định nghĩa tương tự: "Công luận là tập hợp ý kiến cá nhân
ở bất cứ nơi đâu mà chúng ta có thể tìm được" [33].
Ở Việt Nam cũng có rất nhiều tác giả đã đưa ra những khái niệm về dư
luận xã hội. Theo ông Phạm Tiến Khu - Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội
thuộc Ban Tư Tưởng - Văn hóa Trưng Ương: "Dư luận xã hội là tập hợp các
luồng ý kiến cá nhân trước các vấn đề, sự kiện, hiện tượng, có tính thời sự"
[35]. Hay theo như Chung Á - Nguyễn Đình Tấn thì: “Dư luận xã hội là một
hiện tượng xã hội đặc biệt, biểu thị sự phán xét, đánh giá của quần chúng đối
13
với các vấn đề mà xã hội quan tâm” [41].
Có thể nói, hiện nay có rất nhiều khái niệm về dư luận xã hội được đưa
ra nhưng cũng chưa có một khái niệm chính thống và hoàn chỉnh nào được tất
cả các nhà nghiên cứu đồng tình. Song, tựu chung lại, trong hầu hết các khái
niệm đều đề cập tới những nội dung chính như sau:
Thứ nhất, dư luận xã hội là tập hợp những ý kiến, quan điểm, thái độ
mang tính chất phán xét đánh giá của nhiều người trước một thực tế xã hội nhất
định.
Thứ hai, sự phán xét đánh giá đó chỉ nảy sinh khi trong xã hội có những
vấn đề mang tính thời sự, có liên quan đến lợi ích chung của các nhóm xã hội
hay cộng đồng xã hội.
Thứ ba, vấn đề mang tính thời sự đó phải thu hút được sự quan tâm, chú
ý của nhiều người, của đa số các thành viên trong xã hội.
Theo đó, cũng kết hợp với tính chất cùng vai trò ý nghĩa thực tế của dư
luận xã hội, người viết xin đưa ra một khái niệm khá toàn diện từ các góc độ
của dư luận xã hội để làm căn cứ định hướng triển khai bài nghiên cứu như sau:
“Dư luận xã hội là một hiện tượng tâm lý xã hội đặc biệt, là ý kiến, thái
độ, quan điểm mang tính chất phán xét, đánh giá của cộng đồng xã hội trước
những vấn đề, sự việc, hiện tượng mang tính thời sự có liên quan đến lợi ích
chung của cả cộng đồng, xã hội và thu hút được sự quan tâm của số đông người
trong xã hội”.
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật
Dưới góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp, phù hợp
với các quy định của pháp luật và có lợi cho xã hội, cho N hhà nước và cho cá
nhân. Nói cách khác, tất cả hoạt động nào của con người, của các tổ chức mà
phù hợp với quy định của pháp luật thì đều được coi là biểu hiện của việc thực
hiện các quy phạm pháp luật. Thông qua hoạt động thực hiện pháp luật, mục
đích của Nhà nước khi ban hành pháp luật được hiện thực hóa. Do đóng một
14
vai trò quan trọng như vậy mà thực hiện pháp luật trở thành một trong những
khái niệm cơ bản của khoa học pháp lý.
Có nhiều quan điểm bàn về khái niệm thực hiện pháp luật, qua nghiên
cứu một số bài viết và giáo trình, người viết xin đưa ra một khái niệm chung về
thực hiện pháp luật đã được sử dụng phổ biến, rộng rãi như sau:“Thực hiện
pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các
chủ thể pháp luật.” [18]
1.1.3. Khái niệm về tác động của dư luận xã hội đối với thực hiện pháp luật
Dư luận xã hội và thực hiện pháp luật là hai hiện tượng độc lập với nhau,
song lại có mối quan hệ mật thiết, cả hai cùng hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau.
Trong khuôn khổ khóa luận của mình, người viết xin đi sâu tìm hiểu sự tác
động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật. Chúng ta không thể
phủ nhận sự tác động của dư luận xã hội trong đời sống pháp lý là vô cùng to
lớn. Một văn bản pháp luật nếu không quan tâm dư luận xã hội, ngược lại sẽ
không nhận được sự ủng hộ của người dân. Chúng ta có thể hiểu sự tác động
ấy với khái niệm như sau:
“Tác động của dư luận xã hội đối với thực hiện pháp luật là sự ảnh
hưởng từ các luồng ý kiến, thái độ, quan điểm mang tính chất phán xét, đánh
giá của cộng đồng xã hội đến các hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể
pháp luật trong đời sống làm nó trở nên tiêu cực hoặc tích cực”.
1.1.4. Nội dung của tác động dư luận xã hội đối với thực hiện pháp luật
1.1.4.1. Dư luận xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc thực hiện
pháp luật
Với tư cách một hiện tượng xã hội, dư luận xã hội phản ánh tồn tại xã
hội nói chung, đồng thời phản ánh các sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong
đời sống xã hội. Sự bàn luận, trao đổi ý kiến giữa các thành viên trong xã hội
về các sự kiện, hiện tượng pháp lý đưa tới kết quả là, họ đạt tới sự nhận thức
chung, thống nhất trong các phán xét, đánh giá về sự việc, sự kiện pháp lý. Đối
15
với thực hiện pháp luật, dư luận xã hội luôn tác động mạnh mẽ và có những
ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp.
*Tác động trực tiếp:
Dư luận xã hội tác động trực tiếp đến thực hiện pháp luật được phản ánh
qua các cuộc trưng cầu ý dân hay khiếu nại tố cáo. Bên cạnh đó, dư luận xã hội
cũng có những tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến hành vi của các chủ thể thực
hiện pháp luật, đó là trực tiếp lên án những hành vi vi phạm pháp luật, buộc
người đang thực hiện hành vi đó phải tạm dừng, thậm chí là chấm dứt hoàn
toàn hành vi đó. Việc chủ thể pháp luật tự mình nhận thức, phân tích, đánh giá
trong ý thức, sau đó tự điều chỉnh hành vi thực tế của mình được gọi là cơ chế
tự thân (cơ chế bên trong) của thực hiện pháp luật. Dư luận xã hội sẽ tác động
đến sự tự điều chỉnh này của chủ thể pháp luật. Khi thực hiện một hành vi hợp
pháp, các chủ thể đều phải có nhận thức trước về hành vi của mình, rằng hành
vi đó có đúng hay không, có phù hợp với quy định của pháp luật hay không.
Phải có sự tự ý thức như vậy thì khi thực hiện trên thực tế chủ thể mới có thể
tự điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngược lại, nếu các cá nhân không tự nhận thức về tính đúng sai, phù hợp hay
không phù hợp trong hành vi của mình trước khi thực hiện thì rất dễ mắc phải
những sai lầm, dẫn tới các hành vi vi phạm pháp luật trên thực tế. Đối với những
hành vi vi phạm pháp pháp luật đã bị Nhà nước xử lý thì ngoài bản án của tòa,
người đó còn phải chịu một bản án khác, đó là bản án của dư luận. Dư luận xã
hội đã phát huy vai trò không nhỏ trong thực hiện pháp luật thông qua sự tác
động vào quá trình chuyển hóa từ nhận thức đến hành vi thực tế hợp pháp của
chủ thể pháp luật. Song, bên cạnh đó, cũng chính dư luận xã hội đã gây ra
những ảnh hưởng tiêu cực trong nhận thức cũng như dẫn đến hành vi vi phạm
pháp luật của họ.
*Tác động gián tiếp:
Dư luận xã hội gián tiếp tác động đến tâm lý pháp luật, đến nhận thức tự
đánh giá của mỗi cá nhân về pháp luật để từ đó tác động đến việc thực hiện
16
pháp luật. Trên cơ sở ý thức pháp luật của các cá nhân, tổ chức được nâng cao,
chủ thể sẽ thực hiện hành vi nếu chắc chắn được hành vi đó là hợp pháp và
ngược lại họ sẽ hủy không thực hiện hành vi nào đó nếu biết rằng hành vi ấy là
trái pháp luật. Ngoài sự phán xét, phản đối của xã hội, hành vi của các chủ thể
còn chịu sự chi phối của tòa án “lương tâm” mỗi người. Nhờ đó, những hành
vi vi phạm pháp luật sẽ dần bị ngăn chặn, thay vào đó là những hành vi hợp
pháp được thực hiện trong xã hội. Dư luận xã hội cũng tích cực ủng hộ khuyến
khích những hành vi đúng đắn, phù hợp với những lợi ích chung. Đó có thể là
những hoạt động tuyên truyền pháp luật, các chương trình từ thiện, giúp đỡ
những người khó khăn... Chính sự ủng hộ, khuyến khích của toàn xã hội đó sẽ
góp phần xây dựng cho người dân một lối sống cao đẹp, tôn trọng và tích cực
thực hiện các tốt pháp luật vào đời sống. Có thể nói, dư luận xã hội có tác động
lâu dài đến việc xây dựng nhân cách con người, từ đó tác động đến ý thức, hành
vi của chủ thể thực hiện pháp luật.
Bên cạnh đó, dư luận xã hội cũng gián tiếp tác động đến ý thức và hành
vi của chủ thể thực hiện pháp luật qua các yếu tố khác:
Thứ nhất, dư luận xã hội tác động đến xã hội, môi trường sống; từ đó
gián tiếp tác động đến thực hiện pháp luật:
Dư luận xã hội là một mảnh ghép quan trọng trong sự phát triển của xã
hội, dư luận xã hội “đúng chất” và “hiệu quả” sẽ góp phần tạo nên một xã hội
văn minh, đồng thời đó cũng là biểu hiện của một xã hội dân chủ, công bằng.
Xã hội, môi trường sống là yếu tố hoàn cảnh khách quan đầu tiên được kể đến
có tác động tới thực hiện pháp luật. Một xã hội ổn định và phát triển bao giờ
cũng tạo điều kiện, yêu cầu các chủ thể phải tôn trọng thực hiện pháp luật.
Ngược lại, một xã hội nghèo nàn, lạc hậu sẽ đánh mất đi niềm tin của các chủ
thể với xã hội nói chung và pháp luật nói riêng, pháp luật sẽ không được coi
trọng và thực hiện trong đời sống xã hội.
Thứ hai, dư luận xã hội tác động đến hoạt động quản lý Nhà nước và
việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế Nhà nước:
17
Để xây dựng được bộ máy Nhà nước vững mạnh cần phải phát huy hơn
nữa quyền làm chủ và giám sát của nhân dân, đặc biệt là hoạt động kiểm tra,
giám sát và xây dựng của nhân dân thông qua dư luận xã hội. Sự phán xét, đánh
giá của dư luận đặt ra yêu cầu Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện và nâng
cao chất lượng bộ máy, tổ chức của mình.
Nhà nước tác động vào việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trên các
phương diện sau: Nhà nước giáo dục, tuyên truyền nâng cao ý thức tôn trọng
thực hiện pháp luật của các cá nhân, tổ chức trong xã hội; Nhà nước sử dụng
quyền lực để kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trong
xã hội.
Tất cả những tác động trên của Nhà nước với thực hiện pháp luật chỉ
được phát huy khi bộ máy Nhà nước thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của
mình trên nền tảng đội ngũ cán bộ, các cấp chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Các chủ thể trong xã hội được đặt dưới sự quản lý sát sao của một bộ máy chính
quyền vững mạnh bao giờ cũng có ý thức tôn trọng và thực hiện pháp luật
nghiêm chỉnh. Ngược lại, trong một Nhà nước mà bộ máy Nhà nước, tổ chức
lỏng lẻo không thống nhất, tham nhũng, quan liêu,... thì các chủ thể pháp luật
sẽ dễ coi thường và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, dư luận xã hội tác động đến các công cụ điều chỉnh quan hệ xã
hội – một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến ý thức và hành vi của
chủ thể thực hiện pháp luật:
Vận động cùng sự phát triển của xã hội, các công cụ điều chỉnh quan hệ
xã hội như: pháp luật, đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo, lệ làng,…
cũng chịu sự tác động thay đổi của nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến dư luận
xã hội. Dư luận phán xét đúng sai là căn cứ để Nhà nước và toàn cộng đồng xã
hội có sự điều chỉnh những quy tắc trong xử sự để phù hợp với yêu cầu xã hội.
Những quy tắc xử sự chung ấy điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong
xã hội, nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành và nâng cao ý thức thực
hiện pháp luật của các chủ thể. Đồng thời, hệ thống các công cụ điều chỉnh
18
quan hệ xã hội còn tác động điều chỉnh hành vi của các chủ thể thực hiện pháp
luật thông qua sự lên án, phản đối những hành vi tiêu cực, sai trái hay ủng hộ,
khuyến khích những hành vi hợp pháp, tích cực.
Với những phân tích trên đây có thể thấy, sự tác động của dư luận xã hội
đối với việc thực hiện pháp luật vừa trực tiếp lại vừa gián tiếp. Nó tác động trực
tiếp đến ý thức và hành vi thực tế của chủ thể. Sự bất bình của dư luận xã hội
đối với những hành vi vi phạm pháp luật có tác động mạnh mẽ đến việc uốn
nắn, điều chỉnh ý thức pháp luật của các cá nhân. Đồng thời, dư luận xã hội còn
tác động gián tiếp đến thực hiện pháp luật qua các yếu tố như xã hội, Nhà nước,
pháp luật,... từ đó tạo điều kiện hỗ trợ và đẩy mạnh hiệu lực của thực hiện pháp
luật vào đời sống xã hội.
1.1.4.2. Dư luận xã hội tác động đến thực hiện pháp luật cả chiều tích cực
và tiêu cực
Trong cuộc sống, hầu hết những vấn đề, những sự kiện đều có hai mặt
tích cực, tiêu cực đan xen và sự tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp
luật cũng vậy. Dư luận có những tác động tích cực và tiêu cực đến thực hiện
pháp luật dựa vào các nguồn tin mà từ đó nó hình thành.
*Tác động tích cực:
Nếu dư luận xã hội hình thành dựa vào nguồn tin xác thực, có ý nghĩa
góp ý, xây dựng thì sẽ trở thành thông tin hữu ích khi phản ánh được những
quan điểm, những đánh giá của xã hội về hoạt động thực hiện pháp luật. Thực
tế, dư luận xã hội tác động tích cực đến việc thực hiện pháp luật trên các nội
dung, phương diện chính sau:
Thứ nhất, dư luận xã hội thúc đẩy xây dựng và nâng cao ý thức pháp
luật:
Chính sự tác động tích cực của dư luận xã hội như kịp thời đưa ra các ý
kiến đánh giá về các sự kiện, hiện tượng diễn ra trong xã hội giúp con người tự
nhìn nhận được bản thân từ đó đã thúc đẩy con người luôn luôn phấn đấu đạt
được những gì tốt đẹp nhất, góp phần hình thành nhân cách cao đẹp, cũng như
19
ý thức pháp luật của họ. Khi ý thức pháp luật được xây dựng và không ngừng
nâng cao sẽ góp phần giúp cho hoạt động thực hiện pháp luật được tôn trọng
và đạt hiệu quả cao hơn.
Ý thức pháp luật thể hiện nhận thức của công dân và thái độ của họ đối
với các quy định của pháp luật. Sự tôn trọng và ý thức pháp luật tốt sẽ định
hướng cho hành vi của chủ thể làm cho hành vi của họ phù hợp với quy định
của pháp luật. Ngược lại, sự coi thường pháp luật sẽ dễ dẫn đến hành vi trái
pháp luật. Vì vậy, ý thức pháp luật càng được nâng cao thì hiệu quả trong thực
hiện pháp luật càng được bảo đảm.
Khi ý thức pháp luật xã hội được nâng cao là tiền đề cho hoạt động thực
hiện pháp luật ngày càng hiệu quả. Không có bất kỳ ai mong muốn hành động
của mình bị toàn xã hội lên án hay phản đối. Chính vì vậy mà khi ý thức pháp
luật xã hội được nâng cao thì những hành vi trái pháp luật sẽ ngày càng ít đi.
Vì trong xã hội mà tất cả mọi người đều tôn trọng pháp luật, ý thức pháp luật
xã hội cao thì mọi hành vi vi phạm pháp luật đều sẽ bị phản đối, lên án ở mọi
lúc, mọi nơi.
Thứ hai, dư luận xã hội điều chỉnh hành vi thực tế của các chủ thể trong
xã hội:
“Ý thức quyết định hành vi”. Không chỉ tác động đến ý thức pháp luật,
dư luận xã hội còn tác động trực tiếp đến hành vi thực tế của các chủ thể. Trên
cơ sở thúc đẩy nâng cao ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật xã hội thì
dư luận xã hội còn tác động đến cả hành vi thực tế của các chủ thể trong xã hội,
góp phần điều chỉnh sao cho các hành vi ấy phù hợp với các quy định của pháp
luật. Cũng từ chuẩn mực ấy, họ biết được những hành vi nào không được phép
thực hiện. Nhờ đó mà giảm thiểu được các hành vi trái đạo đức, pháp luật.
Cụ thể, dư luận xã hội có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến hành vi của
các chủ thể như sau:
20
Dư luận xã hội là công cụ trong ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp
luật. Dư luận xã hội tác động đến ý thức pháp luật để từ đó các chủ thể tự nhận
thức và thực hiện pháp luật đúng đắn.
Dư luận xã hội cũng có thể tác động trực tiếp nhằm lên án những hành
vi vi phạm pháp luật, buộc người đang thực hiện hành vi đó phải tạm dừng,
thậm chí là chấm dứt hoàn toàn hành vi đó.
Bên cạnh sự phản đối, lên án để ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật
thì dư luận xã hội còn tích cực ủng hộ khuyến khích những hành vi tích cực,
phù hợp với những lợi ích chung.
Thứ ba, dư luận xã hội nâng cao chất lượng điều kiện ngoại cảnh thúc
đẩy hoạt động thực hiện pháp luật:
Dư luận xã hội không chỉ tác động trực tiếp vào ý thức và hành vi thực
tế của chủ thể mà còn có vai trò quan trọng trong xây dựng, nâng cao chất lượng
điều kiện ngoại cảnh cho thực hiện pháp luật (xã hội, Nhà nước, pháp luật, các
công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội khác…). Cụ thể như sau:
Dư luận xã hội nâng cao điều kiện xã hội, góp phần thúc đẩy hoạt động
thực hiện pháp luật. Dư luận xã hội là tiếng nói chung phản ánh hiệu quả những
mong muốn, nguyện vọng của số đông người trong xã hội. Dư luận xã hội vừa
phát huy được quyền tự chủ của nhân dân vừa lên án những tiêu cực, hạn chế;
tuyên dương, khuyến khích những hành vi cao đẹp trong xã hội. Từ đó góp
phần xây dựng lên một xã hội ổn định, phát triển, một môi trường thuận lợi để
các chủ thể có lòng tin vào pháp luật và hiện thực hóa pháp luật trở thành hành
vi hợp pháp của mình.
Bộ máy Nhà nước trong sạch thì hoạt động thực hiện pháp luật mới có
thể đạt được hiệu quả cao. Dư luận xã hội được coi là búa rìu của tệ nạn tham
nhũng, quan liêu, cửa quyền. Nó sẵn sàng lên án, tố cáo các hiện tượng tiêu cực
đó để đảm bảo cho bộ máy Nhà nước luôn luôn vững mạnh.
Một hệ thống pháp luật thống nhất, hoàn thiện là điều kiện cần thiết đảm
bảo hiệu quả cho hoạt động thực hiện pháp luật. Dư luận xã hội là yếu tố mà
21
nhà làm luật bắt buộc phải tìm hiểu, tham khảo trong quá trình xây dựng pháp
luật vì một văn bản pháp luật không thể đem lại hiệu quả nếu xa rời thực tế; xa
rời yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời dư luận xã hội còn phản ánh
được những hạn chế của hệ thống pháp luật khi thực hiện vào đời sống như: Có
quá nhiều văn bản luật và hướng dẫn thi hành văn bản pháp luật, nội dung giữa
các văn bản còn tồn tại mâu thuẫn, chồng chéo, nhiều văn bản quy phạm pháp
luật ban hành trái pháp luật (Năm 2017 có 5639 văn bản trái pháp luật được các
Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa phương ban hành) [28]. Trên cơ sở đó các nhà
làm luật có những điều chỉnh, sửa đổi sao cho phù hợp.
Dư luận xã hội có tác động đến các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
như: Đạo đức, tôn giáo, hương ước,... thông qua việc ủng hộ hay lên án những
yêu cầu, chuẩn mực trong xử sự mà các công cụ ấy đặt ra với các chủ thể trong
xã hội. Qua đó phát huy được vai trò của các công cụ ấy đến việc hiện thực hóa
pháp luật vào đời sống xã hội.
Thứ tư, dư luận xã hội giám sát, tư vấn hoạt động thực hiện pháp luật,
đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật:
Hoạt động giám sát của dư luận xã hội tác động đến tất cả các hình thức
thực hiện pháp luật, trong đó có tác động mạnh và quan trọng nhất với hình
thức áp dụng pháp luật, cụ thể như sau:
Với hoạt động tuân thủ pháp luật: Nhờ sự giám sát của dư luận xã hội,
buộc các chủ thể phải kiềm chế không tiến hành các hoạt động mà pháp luật
cấm.
Với hoạt động thi hành pháp luật: Cùng với các cơ quan nhà nước, sự
giám sát của dư luận buộc các chủ thể pháp luật phải tích cực thực hiện nghĩa
vụ pháp lý của mình.
Với hoạt động sử dụng pháp luật: Qua sự giám sát của dư luận buộc các
chủ thể pháp luật chỉ tiến hành những hành vi mà pháp luật cho phép thực hiện.
Với hoạt động áp dụng pháp luật: Áp dụng pháp luật là một hình thức
thực hiện pháp luật đặc biệt. Kết quả của hoạt động này luôn có ảnh hưởng rất
lớn đến quyền lợi của các chủ thể bị áp dụng. Do vậy, nếu không có sự giám
22
sát của người dân, hoạt động áp dụng pháp luật trên thực tế sẽ kém hiệu quả,
gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Vì thế cần phải tăng cường vai trò
giám sát của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật.
*Tác động tiêu cực:
Bên cạnh việc đem lại những lợi ích, tác động tích cực thì dư luận xã hội
cũng tồn tại những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức và hành vi thực hiện
pháp luật của cá nhân trong xã hội. Những dư luận xấu cổ vũ cho hành vi phạm
pháp, chống đối người thi hành công vụ, làm ngơ trước người bị hại,… nếu
không kịp thời loại trừ sẽ tạo ra những thành phần ý thức pháp luật kém trong
xã hội, từ đó dẫn đến những hành vi vi phạm trong hoạt động thực hiện pháp
luật. Đặc biệt, thói a dua “ném đá” phong trào của công chúng hiện nay đã làm
mất đi ý nghĩa tích cực của dư luận xã hội, biến nó trở thành công cụ đả kích
một hoặc một nhóm chủ thể nào đó chỉ để nhằm thỏa mãn sự bức xúc của mình
mà không hề có sự tìm hiểu, đánh giá từ trước. Ví dụ: Vụ việc một nữ sinh ở
Tiền Giang khi bị lộ đoạn phim chứa hình ảnh nhạy cảm đã phải chọn cách từ
bỏ cuộc sống vì nhiều bình luận tiêu cực, độc địa từ phía những người không
quen biết. Hoặc việc những bình luận ác ý, thậm chí mang tính xúc phạm về
nhan sắc mà hoa hậu H’Hen Niê phải đối mặt ngay sau khi đăng quang Hoa
hậu Hoàn vũ Việt Nam 2017 [43].
Một trong những hạn chế của sự tác động dư luận xã hội đến thực hiện
pháp luật phải nói đến hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan chức năng,
của đội ngũ cán bộ trong bộ máy Nhà nước. Sự đề cao quá mức vai trò của dư
luận xã hội đã làm phát sinh tình trạng cán bộ xử lý công việc theo dư luận xã
hội, chạy theo dư luận xã hội mà không phân tích, đánh giá đúng bản chất của
vấn đề. Trên thực tế, vẫn tồn tại một bộ phận đáng kể cán bộ cơ sở thiếu chính
kiến, không tự tin trong xử lý công việc chuyên môn, đều làm theo sự phán xét
đánh giá của dư luận xã hội. Điều đó rất dễ khiến các cơ quan Nhà nước đưa ra
các quyết định sai lầm và người chịu thiệt hại trực tiếp chính là nhân dân.
23
Những tác động tiêu cực của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật đã
gây ra những ảnh hưởng xấu đến toàn thể cộng đồng xã hội. Dư luận xã hội
được hình thành khi không có căn cứ hoặc dựa vào nguồn thông tin không rõ
ràng, phiến diện, cho dù là cố ý hay vô ý, nó có thể tạo tin đồn nhảm và bị sử
dụng cho một mục đích nào đó trái pháp luật. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến an
ninh trật tự và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ví dụ: Trong tình
hình dịch bệnh hô hấp cấp tính nặng virus Corona 2 (SARS-CoV-2) diễn biến
phức tạp như hiện nay việc “loạn thông tin” giữa các nhóm dư luận xã hội là
một vấn đề vô cùng nhức nhối. Từ các thông tin sai lệch về các trường hợp bị
nhiễm bệnh, tình hình cách li cho đến các thông tin hoang đường như “ăn trứng
luộc vào 12 giờ đêm có thể chữa khỏi bệnh”… Tất cả những điều đó ảnh hưởng
không những đến quyền, lợi ích, danh dự của một vài cá nhân những người bị
tung tin đồn thất thiệt về việc mình bị nhiễm bệnh mà xa hơn nó có thể ảnh
hưởng đển lợi ích của toàn xã hội khi các dư luận xã hội đó có thể gây hoang
mang trong dân chúng dẫn đến việc : Đầu cơ, tính trữ hàng hóa , các hành vi
gây rối trật tự công cộng…
1.1.4.3. Sự tác động của dư luận xã hội có tính định hướng, điều chỉnh
hành vi thực hiện pháp luật
Pháp luật được ban hành nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội
theo một định hướng nhất định và được thể hiện thông qua những hành vi thực
hiện pháp luật cụ thể của mỗi cá nhân. Trong đó, việc mỗi cá nhân tự giác tuân
thủ, sử dụng, thi hành hay áp dụng quy định của pháp luật là vấn đề quan trọng
nhất để pháp luật phát huy được hiệu lực thực sự trong đời sống xã hội. Song,
để đảm bảo cho các hoạt động đó đạt hiệu quả cao thì sự định hướng các hành
vi thực hiện pháp luật là vô cùng cần thiết. Sự tác động của dư luận xã hội đã
góp phần định hướng được điều đó.
Dư luận xã hội bản chất là những đánh giá, nhận xét về một sự vật, hiện
tượng, quá trình nào đó đang diễn ra trong xã hội. Chính nhờ sự khen chê kịp
thời của dư luận đã giúp từng chủ thể có thể nhìn nhận lại thái độ, hành vi của
24
mình rồi trên cơ sở đó điều chỉnh hành vi thực tế sao cho phù hợp với pháp luật,
các giá trị đạo đức, phong tục tập quán cùng các truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. Nói cách khác, dư luận xã hội, trong trường hợp này, là “tấm gương” để
mỗi cá nhân tự soi mình vào đó mà định hướng, điều chỉnh hành vi ứng xử của
bản thân. Chính sự tác động này của dư luận xã hội đã thúc đẩy con người luôn
luôn phấn đấu đạt được những gì tốt đẹp nhất và từ đó góp phần hình thành
nhân cách cao đẹp, cũng như ý thức pháp luật của họ. Khi ý thức pháp luật được
xây dựng và không ngừng nâng cao sẽ góp phần giúp cho hoạt động thực hiện
pháp luật được tôn trọng và đạt hiệu quả cao hơn.
Hơn nữa, dư luận xã hội còn có tác động lâu dài đến việc hình thành nhân
cách con người. Điều này phản ánh qua mối quan hệ khăng khít giữa dư luận
xã hội với các chuẩn mực xã hội. Theo thời gian mỗi cá nhân trong xã hội sẽ tự
ý thức được những điều nên hay không nên, được hay không được phép thực
hiện. Thực tế cho thấy rằng, ai ai trong chúng ta cũng đều quan tâm xem dư
luận xã hội đã và đang đánh giá về mình như thế nào. Chính vì sự quan tâm ấy,
mà mỗi cá nhân đều có khuynh hướng thực hiện những hành vi được xã hội
đánh giá, nhận xét tốt, đồng thời khắc phục sửa chữa những sai sót, hạn chế để
đáp ứng những đòi hỏi của ngày càng cao của xã hội.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tác động của dư luận xã hội với thực hiện
pháp luật
1.2.1. Tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật bị ảnh hưởng
bởi kinh tế
Điều kiện sống của cộng đồng dân cư cũng có ảnh hưởng khá lớn đến nội
dung, phương hướng đánh giá việc thực hiện pháp luật. Những nơi điều kiện
sống còn khó khăn, đời sống thấp thì đại đa số người dân thường chú trọng vào
cải thiện kinh tế mà ít quan tâm đến các vấn đề pháp luật nói chung và việc
thực hiện pháp luật nói riêng. Song, bên cạnh đó cũng có những bộ phận tầng
lớp dân cư rất quan tâm đến những chủ trương, chính sách pháp luật về phát
triển kinh tế cũng như việc hiện thực hóa các quy định ấy vào đời sống để họ
25
có thể nâng cao điều kiện sống của mình.
Với những nơi có nền kinh tế phát triển, các phương tiện thông tin đại
chúng được sử dụng phổ biến cũng góp phần tạo điều kiện khiến người dân dễ
dàng tiếp cận nguồn thông tin về pháp luật, nâng cao hiểu biết ý thức pháp luật
cũng như dễ dàng thể hiện quan điểm đánh giá của mình đối với các hoạt động
thực hiện pháp luật.
Như vậy, nền kinh tế phát triển cùng những mặt tích cực của nó có thể
nói đã góp phần giúp người dân hình thành được tư duy năng động, dám lên
tiếng thể hiện quan điểm cá nhân của mình trong việc thực hiện pháp luật của
nước ta.
1.2.2. Tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố văn hóa, xã hội
Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ rộng rãi, thông tin đa dạng, phong
phú, nhiều chiều như hiện nay, các tầng lớp xã hội có thể thẳng thắn, công khai,
cởi mở bày tỏ chính kiến, quan điểm, nguyện vọng của mình đối với các vấn
đề pháp luật cũng như yêu cầu các cơ quan thực hiện pháp luật trợ giúp, bảo vệ
lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình.
Một xã hội mà ở đó người dân có tính cộng đồng cũng tạo tiền đề khuyến
khích họ có thể cởi mở, thẳng thắn tham gia bày tỏ ý kiến về những cái được
và cái chưa được trong hoạt động thực hiện pháp luật. Một xã hội phát triển,
văn minh cũng góp phần hướng những thông tin tích cực về các sự kiện pháp
luật, hoạt động thực hiện pháp luật đến mọi người dân. Những thông tin đó sẽ
phần nào tác động đến suy nghĩ, nhận thức và hành vi của mỗi con người, khiến
họ thực hiện pháp luật tốt hơn.
Có thể nói, một xã hội tốt sẽ khiến cho sự tác động của dư luận xã hội
đối với việc thực hiện pháp luật ngày càng trở nên mạnh mẽ và được định hướng
một cách tốt hơn.
Bên cạnh đó, văn hóa cũng là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sự
tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật. Phong tục, tập quán hay
26
thói quen được hình thành trong đời sống xã hội của các tầng lớp dân cư cũng
ảnh hưởng đến sự đánh giá, phán xét của họ đến việc thực hiện pháp luật. Từ
khi chưa có pháp luật, con người đã biết sử dụng dư luận xã hội để bảo đảm
cho các quy phạm xã hội được thực hiện. Và cho đến nay, việc đó như trở thành
một thói quen trong xã hội.
Có thể nói, với những nơi văn hóa, xã hội phát triển, người dân có thể
dùng dư luận xã hội tác động tích cực đến việc thực hiện pháp luật. Song, thực
tế vẫn có những nơi trình độ dân trí còn thấp; đời sống xã hội còn tồn tại không
ít những hủ tục lỗi thời; hơn nữa, với thói quen của người dân khi sử dụng
những dư luận lạc hậu để ổn định xã hội mà không coi trọng pháp luật sẽ khiến
phát sinh những nguồn sóng dư luận tiêu cực hình thành gây cản trở thực hiện
pháp luật.
1.2.3. Sự tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật bị quy định
bởi pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do được
Nhà nước đặt ra để quản lý xã hội, bảo vệ nhân dân. Do đó, đối tượng chịu sự
tác động trực tiếp của pháp luật không ai khác chính là quần chúng nhân dân.
Khi pháp luật bộc lộ những yếu kém, nhân dân là người phải chịu không ít ảnh
hưởng. Chính vì vậy, chỉ có dư luận xã hội của quần chúng nhân dân mới đưa
ra được những nhận xét, đánh giá chính xác về tính hợp lý và hiệu quả của
những quy phạm pháp luật. Suy cho cùng, pháp luật hiện hành chính là yếu tố
ảnh hưởng đến sự tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật.
Trên thực tế cũng có những quy phạm pháp luật được người dân đồng
tình ủng hộ, song không phải những người thực hiện và áp dụng nó đã thực
hiện một cách nghiêm chỉnh và đầy đủ. Trước những hành vi vi phạm pháp
luật, những hành vi đi ngược lại với lợi ích của cộng đồng, của xã hội thì không
ai khác dư luận xã hội sẽ lên tiếng. Pháp luật không thể đi ngược dư luận xã
hội. Và thực tế cho thấy những quy định pháp luật đi ngược với dư luận xã hội
đều không có hiệu lực trên thực tế, nó sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực trong
27
dư luận xã hội.
Hệ thống pháp luật không vững chắc cũng sẽ khiến người dân mất niềm
tin vào pháp luật; từ đó có thái độ thờ ơ, đánh giá hời hợt, thậm chí sẽ bộc lộ
những quan điểm tiêu cực trước những hành vi thực hiện pháp luật. Sự hoạt
động của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện pháp luật có tác động
quan trọng đến tư tưởng, quan điểm của người dân. Chỉ khi các cơ quan chức
năng hoạt động thực hiện pháp luật hiệu quả, người dân mới tích cực tham gia
đóng góp ý kiến, lên tiếng bày tỏ quan điểm, nhìn nhận của mình về các sự kiện
pháp luật; dư luận xã hội cũng từ đó mới có thể phát huy một cách mạnh mẽ
trong việc thực hiện pháp luật.
28
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Dư luận xã hội là một hiện tượng tinh thần phức tạp của xã hội nên khó
có thể mô tả hết nội hàm của nó trong một vài dòng định nghĩa ngắn. Vì vậy
hiện nay gần như không tồn tại một định nghĩa toàn diện về dư luận xã hội được
tất cả mọi người đồng tình.
Thực hiện pháp luật có vai trò hiện thực hóa các quy định của pháp luật;
là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước; đồng thời giúp
phát triển ý thức đạo đức người dân; thể hiện sự bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của mỗi công dân.
Dư luận xã hội và hoạt động thực hiện pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau và sự tác động của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật là
nội dung chính mà người viết muốn đi sâu tìm hiểu trong bài viết này.
29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA DƯ LUẬN XÃ HỘI
TRONG VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các quy định pháp luật về tác động của dư luận xã hội với thực hiện
pháp luật
Sự tác động của dư luận xã hội đến việc thực hiện pháp luật là không hề
nhỏ và sự tác động liên tục không ngừng nghỉ. Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam hiện nay đã có nhiều quy định cụ thể ghi nhận và điều chỉnh vấn đề này
trong thực tiễn quản lý xã hội, quản lý hành chính Nhà nước:
2.1.1. Lịch sử hình thành các quy định pháp luật về tác động của dư luận
xã hội đến thực hiện pháp luật
Nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành từ trước đây cho
đến hiện nay đã tạo ra được một cơ chế để có thể điều chỉnh và phát huy những
vai trò tích cực của dư luận xã hội đối với việc thực hiện pháp luật.
Sớm thấy rõ được vai trò của dư luận xã hội, nên ngay trong bản Hiến
pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946 của Việt Nam, Quốc hội đã có quy định thể
hiện phần nào về nội dung trưng cầu ý dân: "Nhân dân có quyền phúc quyết về
hiến pháp và những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia…". Tại Điều 32
cũng có quy định: "Những việc có quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra
nhân dân phúc quyết nếu hai phần ba số nghị viện đồng ý…". Đến Hiến pháp
1959, việc trưng cầu ý dân được quy định tại Điều 53: “…giao cho Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quyết định”. Hiến pháp năm 1980 cũng quy định việc này:
"…giao cho Hội đồng Nhà nước quyết định”. Theo Hiến pháp 1992, tại Điều
53 quy định: "Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham
gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước, địa phương, kiến nghị với cơ quan
nhà nước, biếu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân". Hiến pháp 2013
đã có các quy định cụ thể trong việc xác định định nghĩa hay nội hàm của thuật
ngữ “trưng cầu ý dân” được nhắc đến tại Hiến pháp 1992. Điều 120 Hiến pháp
2013 đã nói tới “trưng cầu ý dân” (Khoản 4) và “lấy ý kiến nhân dân” (Khoản
30
3).
Bên cạnh đó, khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công
dân; thể hiện quyền dân chủ trực tiếp của người dân; nói lên những tâm tư,
nguyện vọng, mong muốn của người dân trước các vấn đề của bản thân, của xã
hội, của Nhà nước và quyền này cũng đã được quy định từ rất sớm tại các bản
Hiến pháp trước đây của Việt Nam. Điều 29 Hiến pháp 1959 quy định: “Công
dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại, tố cáo bất cứ cơ quan
nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước.”
Tại điều 73 Hiến pháp 1980, một lần nữa, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân
được ghi nhận và quy định cụ thể hơn: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo
với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang hoặc của bất cứ cá nhân nào
thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó”. Không chỉ kế thừa những hạt nhân
hợp lý của Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 còn bổ sung thêm một số nội dung
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và thể hiện tính răn
đe hơn khi “nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo” và nghiêm cấm
việc “lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người
khác”. Điều 30 Hiến pháp 2013 mở rộng chủ thể có quyền khiếu nại, quyền tố
cáo không chỉ là công dân mà là mọi người sinh sống, làm việc trên đất nước
Việt Nam đều “có quyền khiếu nại, tố cáo về những việc làm trái pháp luật của
cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
Các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay đều có những quy
định về tự do ngôn luận, tự do báo chí và khẳng định đây là một quyền cơ bản
của con người, của mọi công dân. Điều 10 Hiến pháp 1946 - Hiến pháp đầu
tiên của nước ta quy định: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự
do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại
trong nước và ra nước ngoài”. Các bản Hiến pháp của nước ta sau đó (Hiến
pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992) đều khẳng định và bổ sung nội
hàm tự do ngôn luận, tự do báo chí; đồng thời gắn quyền lợi và trách nhiệm
31
công dân, trách nhiệm xã hội của nhà báo. Điều 25 Hiến pháp 2013 đã ghi rõ:
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Có thể thấy, từ những bước đầu của việc khẳng định vai trò của dư luận
xã hội đối với thực hiện pháp luật qua các bản Hiến pháp, pháp luật Việt Nam
đã tạo được một nền tảng cơ bản để xây dựng các quy định pháp luật hiện hành
về vấn đề này.
2.1.2. Các quy định pháp luật hiện hành về tác động của dư luận xã hội
đến thực hiện pháp luật
Hiến pháp 2013:
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn bản pháp
luật có giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam và bản Hiến pháp
hiện hành của nước ta là Hiến pháp 2013. Bản Hiến pháp này đã quy định rất
cụ thể những nội dung nhằm khẳng định vai trò của dư luận xã hội như sau:
Hiến pháp 2013 đã có quy định mới về trưng cầu ý dân, gồm Điều 29,
Điều 70, Điều 74 và Điều 120, trong đó có một điều riêng về quyền biểu quyết
của người dân khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29), đã thể hiện sự
coi trọng đối với quyền này. Ngoài ra, Hiến pháp 2013 quy định hai thủ tục
tách biệt trong quy trình lập hiến là: lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp
là thủ tục bắt buộc, còn trưng cầu dân ý về dự thảo Hiến pháp do Quốc hội xem
xét quyết định (Điều 120).
Điều 30 của Hiến pháp năm 2013 cũng đã ghi nhận khiếu nại, tố cáo là
một trong những quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân như sau:
“1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
32
3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Đặc biệt, sự ghi nhận tối ưu đối với sự hình thành và phát triển của dư
luận xã hội đó chính là quyền tự do ý chí, tự do ngôn luận được Hiến pháp ghi
nhận tại Điều 25 Hiến pháp 2013 :"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định". Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc tự do đóng
ý kiến, quan điểm và phản biện về những vấn đề, hiện tượng, sự việc xảy ra
trong đời sống thường nhật là một quyền Hiến định của người dân Việt Nam.
Song, quyền tự do ngôn luận và sự tồn tại của dư luận xã hội không phải
là một quyền tuyệt đối. Để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của con
người và đặc biệt là bảo vệ người dân bởi tác động tiêu cực của dư luận xã hội,
cũng như để có thể loại bỏ những tác động tiêu cực ấy tồn tại trong xã hội, việc
hạn chế các tác động xấu là điều vô cùng cùng thiết, và sự giới hạn đó được
hiến pháp đặt ra thông qua việc quy định tại Điều 21 Hiến pháp 2013 cụ thể
như sau:
"1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông
tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo
đảm an toàn.
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu
giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin
riêng tư của người khác".
Bộ Luật Dân sự 2015:
Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã có quy định rất cụ thể về vấn đề quyền tự
do ngôn luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Có thể hiểu
rằng, con người nói chung và công dân Việt Nam nói riêng đều có quyền tự do
33
ngôn luận, có quyền phát biểu, đưa ra ý kiến chủ quan để đánh giá vấn đề trong
xã hội, tuy nhiên hành vi ấy không được lạm dụng để làm ảnh hưởng, gây thiệt
hại hoặc xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Điều 38 Bộ
Luật Dân sự 2015 quy định như sau:
“1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm
phạm và được pháp luật bảo vệ.
2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời
sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu
giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các
thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác.
3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức
trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu
điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ
được thực hiện trong trường hợp luật quy định.
4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng
tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá
trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Bộ Luật Hình sự 2015:
Tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà người tung tin đồn
thất thiệt lên các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter, Instagram,... có thể
bị xử lý hình sự về “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính,
mạng viễn thông” được quy định tại Điều 288 Bộ Luật Hình sự 2015. Trong
trường hợp, nếu xác định được chính xác người tung tin đồn thất thiệt có tính
chất vu khống thì xử lý theo quy định tại Điều 122 Bộ Luật Hình sự 2015.
Trường hợp không xác định được chính xác người tung tin đồn thất thiệt mà
chỉ xác định được người đưa tin lên mạng thì áp dụng theo quy định tại Điều
226 Bộ luật Hình sự 2015, tội “Đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng
Internet những thông tin trái với quy định của pháp luật”.
34
Luật trưng cầu ý dân năm 2015:
Để pháp điển hóa những ghi nhận về quyền tự do ngôn luận, cụ thể Quốc
Hội đã ban hành Luật Trưng cầu ý dân năm 2015 để người dân có thể tự do thể
hiện chính kiến của mình thông qua việc bỏ phiếu đồng ý hoặc không đồng ý
về các đề xuất đặc biệt, có thể là các đề xuất liên quan đến công tác thực hiện
pháp luật. Trưng cầu dân ý là một trong những cách thức thực hiện dân chủ trực
tiếp, một trong những hình thức nâng cao khả năng thảo luận, đối thoại giữa
nhân dân với Nhà nước, từ đó khiến nhân dân phát huy được khả năng thể hiện
quan điểm, đánh giá về việc thực hiện pháp luật của một hiện tượng, sự kiện
pháp lý nào đó.
Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2018:
Để cụ thể hóa thêm về quyền khiếu nại, tố cáo được quy định trong Hiến
pháp, Quốc Hội đã ban hành Luật Khiếu nại 2011 và Luật Tố cáo 2018 nhằm
giải quyết các vấn đề khiếu nại, tố cáo mà dư luận xã hội đề ra.
Không thể phủ nhận rằng một trong những kết quả có giá trị pháp lý và
thực tiễn nhất của việc pháp điển hóa các quy định liên quan đến dư luận xã hội
đó là phát huy vai trò của dư luận xã hội trong việc thực hiện pháp luật ở nước
ta hiện nay, cụ thể ở đây là nhân dân có thể trực tiếp đấu tranh chống tiêu cực
thông qua việc khiếu nại, tố cáo và thông qua các diễn đàn nhân dân, nhất là
bằng các phương tiện thông tin đại chúng.
Luật Tiếp cận thông tin 2016:
Luật Tiếp cận thông tin 2016 được Quốc hội ban hành cũng là một trong
những đạo luật có đóng góp to lớn vào công cuộc ghi nhận quyền tự do ngôn
luận, tự do thông tin của người dân và đưa ra được giải pháp nâng cao những
tác động tích cực của dư luận xã hội đối với thực hiện pháp luật.
Luật Báo chí 2016:
Từ trước đến nay, báo chí luôn được coi là một trong những kênh thông
tin chủ yếu khơi nguồn dư luận xã hội. Báo chí có nhiệm vụ chính là định hướng
35
dư luận xã hội. Giữ một vai trò quan trọng đối với dư luận xã hội, song, phương
tiện thông tin đại chúng này vẫn tồn tại không ít mặt phức tạp, dẫn đến một
phần định hướng dư luận xã hội theo chiều hướng xấu. Từ đó, tác động của dư
luận xã hội đối với thực hiện pháp luật không tránh khỏi tiêu cực. Vì vậy Luật
Báo chí 2016 ban hành đã có quy định như sau về nhiệm vụ và quyền hạn của
báo chí:“Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền
tự do ngôn luận của nhân dân” (Mục c khoản 2 Điều 4). Thực tế, một số nhà
báo lợi dụng chức năng phản ánh của báo chí để yêu cầu cá nhân, tổ chức cung
cấp tài liệu theo phản ánh của xã hội là không đúng quy định pháp luật, hay
viết bài thiếu tính xây dựng, thể hiện quan điểm tiêu cực trên mạng xã hội, một
số văn phòng đại diện, phóng viên, hội viên thường trú và đội ngũ cộng tác viên
hoạt động không đúng chức năng, nhiệm vụ, gây tác động xấu đến dư luận xã
hội [36]. Quy định tại khoản 8 Điều 9 Luật Báo chí 2016 đã nêu ra các hành vi
báo chí thông tin sai sự thật thuộc một trong các hành vi bị nghiêm cấm trong
hoạt động báo chí.
Luật An ninh mạng 2018:
Với xã hội hiện đại ngày nay, Internet được coi là phương tiện truyền
thông đại chúng phổ biến, mạng xã hội cũng theo đó phát triển như vũ bão với
đa dạng đối tượng người sử dụng. Vì vậy, ngoài những tích cực mà mạng xã
hội đem lại thì có không ít những tác động tiêu cực từ dư luận xã hội được hình
thành từ mạng xã hội. Mới đây, Luật An ninh mạng 2018 đã chính thức có hiệu
lực để xây dựng một hệ thống mạng xã hội văn minh, đồng thời ngăn chặn
những ảnh hưởng tiêu cực từ những dư luận xã hội do tội phạm mạng gây ra.
Nghị định 174/2013/NĐ-CP:
Để hạn chế những tác động tiêu cực của dư luận xã hội đến xã hội cũng
như đến việc thực hiện pháp luật, điểm a khoản 3 Điều 64 và điểm g khoản 3
Điều 66 ngày 13/11/2013 cũng đã quy định xử phạt hành vi “cung cấp nội dung
thông tin sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức
và danh dự, nhân phẩm của cá nhân” cùng hành vi “cung cấp, trao đổi, truyền
36
đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu
khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
khác”.
Có thể nói, pháp luật hiện hành đã thể hiện được rõ tính răn đe đối với
những dư luận xã hội có tác động xấu đến xã hội, để từ đó những dư luận xã
hội tác động tiêu cực đến thực hiện pháp luật cũng dần được hạn chế.
2.2. Thực trạng tác động của dư luận xã hội với thực hiện pháp luật
2.2.1. Những tác động tích cực của dư luận xã hội đối với việc thực hiện
pháp luật ở Việt Nam hiện nay
2.2.1.1. Nâng cao hiệu quả việc người dân tham gia quản lý Nhà nước, quản
lý xã hội và công tác đấu tranh chống tiêu cực thông qua việc khiếu nại, tố
cáo
Dư luận xã hội có những tác động tích cực đến thực hiện pháp luật đã
phát huy hiệu quả quyền làm chủ của người dân. Hiện nay, quyền làm chủ của
người dân đã được nâng lên rất nhiều thể hiện qua khả năng tham gia quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội của họ. Người dân có thể biểu đạt được ý chí, nguyện
vọng của mình với các cơ quan Nhà nước trong việc hình thành nên các chính
sách, pháp luật cũng như việc quyết định và thi hành pháp luật.
Quyền tham gia quản lý Nhà nước quản lý xã hội của người dân Việt
Nam được thực hiện với bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Cụ thể:
Với sức mạnh của dư luận, của truyền thông nhân dân biết được vai trò
và quyền lợi của mình khi tham gia vào hoạt động quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội, đó là họ được quyền lựa chọn những người có đức, có tài để quản lý
Nhà nước và xã hội, đồng thời công dân có quyền phản ánh, kiến nghị đến các
cơ quan hành pháp, các cơ quan tư pháp và các cơ quan khác của Nhà nước.
Điều này được phản ánh thông qua các số liệu cụ thể sau:
37
Trong bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, dư luận xã hội đã có đóng góp rất lớn trong truyền
thông và vận động cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu thông qua báo chí, truyền
thông và các cuộc đối thoại, tọa đàm phổ biến kiến thức pháp luật về bầu cử.
Kết quả, trong ngày chủ nhật (22/5/2016), trên khắp mọi miền đất nước, các tổ
bầu cử đồng loạt tiến hành khai mạc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021 có 98,77% số cử tri cả
nước đi bỏ phiếu bầu cử [38].
Với tác động của dư luận xã hội, người dân không chỉ hiểu được họ có
quyền phản ánh, kiến nghị đến các cơ quan nhà nước mà còn thực hiện quyền
ấy trên thực tế một cách tích cực và hiệu quả. Dư luận xã hội giúp cho từng cá
nhân có điều kiện nắm bắt thông tin để từ đó thực hiện việc giám sát, phản ánh
kiến nghị đến các cơ quan nhà nước kịp thời và hiệu quả. Cụ thể, theo Ủy viên
Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Trưởng Ban Dân
nguyện Nguyễn Thanh Hải cho biết, từ ngày 16/8/2017 đến 15/8/2018, Quốc
hội đã nhận được 43.324 đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của
công dân - tăng 469 đơn thư so với cùng kỳ, riêng Ban Dân nguyện nhận được
18.715 đơn. Sau khi xem xét, 7.043 đơn đủ điều kiện xử lý đã được gửi đến các
cơ quan có thẩm quyền giải quyết, đạt tỷ lệ 59,36%. Quốc hội đã nhận được
4.285 văn bản trả lời, đạt tỷ lệ 60,84%, còn 2.758 vụ việc đã chuyển đơn nhưng
Quốc hội chưa nhận được văn bản trả lời của cơ quan có thẩm quyền, chiếm
39,16% [47].
Hiện nay, những việc dân bàn và trực tiếp quyết định được quy định bao
gồm: Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây
dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã,
thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các
công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp
luật [16].
38
Bàn về tầm quan trọng của dư luận xã hội, xét trên "Vụ việc cô gái bị sàm
sỡ, cưỡng hôn trong thang máy, đối tượng chỉ bị phạt 200.000 đồng” xảy ra vào
đầu năm 2019 đã cho thấy rõ hơn vai trò của người dân trong hoạt động quản
lý Nhà nước, quản lý xã hội. Ngày 4/3/2019, một nữ sinh 20 tuổi ở Thành phố
Hà Nội vào thang máy đã bị một người đàn ông không quen biết buông lời tán
tỉnh nhưng nữ sinh này từ chối. Ngay sau đó, cô gái bị gã này dồn vào góc thang
máy và có những hành động gần gũi. Sau khi sự việc xảy ra, nữ sinh này đã tới
trình báo tại cơ quan công an. Công an quận Thanh Xuân (Hà Nội) xử phạt đối
tượng có hành vi trên 200.000 đồng [39]. Hình thức xử phạt này đã gây ra làn
sóng phản đối gay gắt của dư luận. Nhiều người bày tỏ quan điểm cho rằng việc
thủ phạm lại “được” chịu một mức phạt hành chính 200.000 đồng này như một
trò đùa và như cộng đồng mạng nói “Tôi xin nộp trước 1.000.000 đồng để có
được 5 lần hôn”. Người ta lên tiếng bảo vệ nạn nhân, lên tiếng bài trừ những
hành động xấu xa này và phản ánh mức phạt như vậy với thủ phạm là quá nhẹ,
đồng thời dư luận thể hiện kiến nghị về việc sửa đổi các quy định của pháp luật
đối với việc xử lý những hành vi sàm sỡ, xâm hại đến các bé gái, cô gái.
Dư luận xã hội thông qua khiếu nại, tố cáo cũng đã đem đến những hiệu
quả thiết thực trong công tác đấu tranh chống tiêu cực của người dân. Trong
cuộc đấu tranh chống tiêu cực này, dư luận quần chúng nhân dân giữ một vai
trò vô cùng quan trọng vì họ là những người trực tiếp kiểm tra, giám sát hoạt
động của đội ngũ cán bộ công chức và các cấp chính quyền. Ngoài ra, nhân dân
còn tham gia tích cực, chủ động vào công tác thanh tra nhân dân, góp phần quan
trọng trong việc phát hiện ra các sai phạm, tiêu cực trong hoạt động của các cấp
chính quyền. Nhân dân tham gia vào công tác thanh tra nhân dân bằng nhiều
cách thức khác nhau có thể là việc tham gia đóng góp ý kiến trực tiếp với Đảng
và Nhà nước thông qua các buổi tiếp xúc cử tri, trưng cầu dân ý về các vấn đề
phát triển kinh tế - xã hội cũng như các vấn đề liên quan đến tham nhũng và
đấu tranh chống tham nhũng, cửa quyền. Hoặc nhân dân có thể tham gia đóng
góp ý kiến vào công tác thanh tra và đấu tranh chống quan liêu tham nhũng của
39
Đảng và Nhà nước bằng các đơn, thư. Kết quả, hàng năm cả nước đã tiếp hàng
trăm nghìn lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo tại các trụ sở tiếp công dân của
Đảng và Nhà nước. Sự tham gia của nhân dân vào công tác đấu tranh phòng
chống quan liêu, tham nhũng còn được thể hiện thông qua các diễn đàn của
nhân dân như báo nói, báo viết các phương tiện thông tin đại chúng khác. Riêng
trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong năm 2018 toàn thành phố đã thụ lý 4.899
vụ khiếu nại, tố cáo (3.242 vụ khiếu nại, 1.657 vụ tố cáo); đã giải quyết 4.168
vụ (2.727 khiếu nại, 1.440 tố cáo), đạt tỷ lệ 85,7% [29]. Hay ở Cao Bằng trong
năm 2018 đã thụ lý 436 vụ khiếu nại, tố cáo (375 vụ khiếu nại, 61 vụ tố cáo);
đã giải quyết 356 vụ (311 khiếu nại, 45 tố cáo), đạt tỷ lệ 81,65% [30].
Chính nhờ sự tham gia tích cực của nhân dân vào công tác kiểm tra, giám
sát mà nhiều vụ việc quan liêu, tham nhũng của các cấp chính quyền được đưa
ra ánh sáng. Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng từ đó ngày
càng được coi trọng, đạt những kết quả thiết thực: Nhiều vụ án tham nhũng
nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện, xử lý, mở rộng điều tra cả hành vi
và đối tượng. Bên cạnh đó, với sự giám sát của nhân dân, việc xử lý sai phạm
cũng trở nên nghiêm minh, kịp thời hơn, có tác dụng cảnh tỉnh, răn đe mạnh
mẽ. Trong năm 2019, cơ quan hành chính Nhà nước các cấp đã tiếp 478.237
lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về tình trạng tham
nhũng (tăng 4,3% so với năm 2018) [45]. Số liệu này đã thể hiện sự quan tâm
sát sao của nhân dân cũng như của các cấp chính quyền trong công tác phòng,
chống quan liêu, tham nhũng. Nhờ đó mà tình trạng tham nhũng ở Việt Nam
đã và đang có những bước thuyên giảm. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng và quy chế dân chủ được coi trọng tạo dựng lòng tin trong nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
40
2.2.1.2. Nâng cao trách nhiệm của người dân trong việc đóng góp ý kiến với
Đảng và Nhà nước về những vấn đề phát triển kinh tế xã hội thông qua các
cơ quan dân cử
Nhân dân ngày càng nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc tham gia
đóng góp ý kiến với Đảng và Nhà nước về chủ trương, chính sách, xây dựng
và sửa đổi Luật, các phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và của các địa phương, góp ý kiến về hoạt động
của HĐND, UBND các cấp.
Thực tế hiện nay, trước mỗi kì Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhân
dân đã tích cực đóng góp ý kiến vào xây dựng báo cáo chính trị của Đại hội,
đóng góp ý kiến xây dựng một số chính sách của Nhà nước. Đây thực sự là
những hoạt động chính trị nhằm mở rộng quyền làm chủ cho nhân dân, vì vậy
đã thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đồng thời, nhân dân
ngày càng tham gia có hiệu quả vào quá trình giám sát hoạt động của HĐND,
UBND các cấp, của đại biểu HĐND, cán bộ, Đảng viên. Công tác giám sát,
kiểm tra của nhân dân còn được thực hiện thông qua việc dự các kỳ họp thôn,
đoàn thể, ban thanh tra nhân dân và các tổ kiểm tra do nhân dân bầu ra. Sự giám
sát kiểm tra đó đã góp phần nâng cao trách nhiệm của chính quyền, các cán bộ;
hạn chế được tham nhũng, tiêu cực, tạo được niềm tin trong quần chúng nhân
dân.
Trong thời gian gần đây, chủ trương thông qua dự án Luật Đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt của Quốc hội nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư
luận. Dự án xây dựng đặc khu kinh tế là ý kiến định hướng của Bộ chính trị
Đảng Cộng sản Việt Nam về việc thành lập các đặc khu hành chính - kinh tế
tại Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên
Giang) để thu hút đầu tư [40]. Việc hình thành ba đặc khu trên được người dân
cả nước đặc biệt quan tâm và có nhiều phản ứng trái chiều. Nhiều góp ý tích
cực của người dân đã được đưa ra nhằm định hướng, xây dựng những đặc khu
này một cách thành công, hợp lòng dân. Trong đó có nhiều ý kiến tích cực,
41
mang tính chất xây dựng của người dân được đưa ra mà Đảng và Nhà nước
quan tâm. Nhân dân đưa ra các ý kiến thảo luận bằng việc đưa ra quan điểm
trên các phương tiện truyền thông, báo chí, các diễn đàn... Đồng thời, họ tham
gia đóng góp ý kiến thông qua các cơ quan dân cử, các kì họp tiếp xúc cử tri.
Chủ trương thông qua dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, ở
Việt Nam đã được tầng lớp nhân dân quan tâm góp ý, thảo luận, trong đó có
việc phản biện xã hội đã thể hiện được rõ thái độ của số đông người trong xã
hội về chủ trương này của Đảng. Thông qua dư luận, người dân nêu ra quan
điểm về cái được mất của Việt Nam khi xây dựng đặc khu kinh tế. Từ đó, đưa
ra ý kiến đóng góp trong sửa đổi, điều chỉnh nội dung dự án Luật Đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt để thực hiện chủ trương xây dựng các đặc khu kinh tế
trên lãnh thổ Việt Nam - một nội dung rất khó, mới, nhạy cảm và hệ trọng. Là
một nội dung mới, lần đầu tiên được triển khai thực hiện ở Việt Nam, nên nắm
bắt và tiếp thu dư luận là yêu cầu bắt buộc với Đảng và Nhà nước để tránh mắc
phải những thiếu sót, sai lầm về sau.
2.2.1.3. Nâng cao chất lượng hoạt động quản lý Nhà nước, quản lý xã hội
của đội ngũ cán bộ trong bộ máy Nhà nước
Bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh là điều kiện quan trọng quyết
định đến thực hiện pháp luật vào đời sống xã hội. Dư luận xã hội là công cụ hai
chiều trong hoạt động của Nhà nước. Nó vừa là công cụ hỗ trợ trong hoạt động
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân thực hiện quyền
kiểm tra, giám sát, khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động của các cơ quan, các cấp
chính quyền.
Do đặc tính chủ thể tiến hành áp dụng bao giờ cũng là những người cầm
quyền nên thực tế cho thấy trong quá trình áp dụng pháp luật rất dễ dẫn tới hành
vi lạm dụng, lộng quyền, quan liêu, tham nhũng. Dư luận xã hội phản ánh chân
thực, đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, là căn cứ quan
trọng Nhà nước phải chú ý để có những điều chỉnh trong hoạt động của mình
42
sao cho hoạt động quản lý đạt hiệu quả, không đi ngược lại với số đông người
trong xã hội.
Đồng thời dư luận còn là phương tiện để nhân dân kiểm tra, giám sát đối
với hoạt động của bộ máy cầm quyền, thông qua dư luận nhiều sai phạm, quan
liêu, tham nhũng bị bóc trần, giúp thanh lọc và xây dựng một đội ngũ cán bộ
trong sạch, vững mạnh. Trước những hành vi vi phạm pháp luật của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, dư luận xã hội lên tiếng phản đối kịch liệt, buộc cơ
quan có thẩm quyền phải xử lý đúng theo quy định pháp luật. Qua sự giám sát
của dư luận buộc các chủ thể thực hiện quyền lực của mình một cách phù hợp,
tránh sự tùy tiện. Người dân không chỉ bầu ra người đại diện cho quyền lợi của
mình mà còn thông qua dư luận xã hội, họ đánh giá, nhận xét về các chủ trương,
chính sách mà Nhà nước ban hành và hoạt động áp dụng pháp luật vào quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội của bộ máy Nhà nước. Qua đó, dư luận xã hội thực
hiện chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã
hội, gây sức ép lớn đối với tệ tham nhũng, quan liêu, tắc trách của người cầm
quyền.
Cũng xét trên vụ việc “cô gái bị sàm sỡ, cưỡng hôn trong thang máy, đối
tượng chỉ bị phạt 200.000 đồng”, dư luận xã hội trên cơ sở phản đối và kiến
nghị sửa đổi quy định pháp luật, nó đã tác động ở một mức độ nhất định, yêu
cầu các nhà làm luật cần xem xét lại quy định về xử lý các đối tượng như vậy
đã phù hợp hay chưa và nếu chưa thì cần sửa đổi như nào. Như vậy, dư luận xã
hội ở phương diện này đã ít nhiều tác động đến hoạt động lập pháp của Nhà
nước.
Không những thế, dư luận xã hội còn tác động mạnh mẽ đến hoạt động
xét xử của tòa án và đặt ra yêu cầu xét xử và dư luận phải luôn đi đôi với nhau.
Cụ thể được chứng minh qua nhiều vụ việc thực tế những năm gần đây như:
Bác sĩ Hoàng Công Lương, Bệnh viện đa khoa tỉnh Hòa Bình, bị Viện Kiểm
sát truy tố tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, vì lý do sáng
29/5/2017. Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình thụ lý và đưa vụ án ra xét xử được
43
dư luận cả nước đặc biệt quan tâm. Đã có trên 15.400 chữ ký được tập hợp
trong bản danh sách “chữ ký đồng thuận ủng hộ bác sĩ Hoàng Công Lương”,
phần rất lớn trong số này là của các đồng nghiệp y khoa trong cả nước gửi đến
Tòa án [32].
Hoặc việc Tòa án Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm bị cáo Nguyễn
Khắc Thủy phạm tội dâm ô với trẻ em, lĩnh án 18 tháng tù treo. Dư luận đã
phản ứng gay gắt vì cho rằng mức án quá nhẹ, trong khi bản án sơ thẩm trước
đó xử phạt 3 năm tù. Với ảnh hưởng của dư luận Viện kiểm sát tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu cũng đã gửi văn bản khẩn kiến nghị Viện kiểm sát cấp trên kháng
nghị giám đốc thẩm với bản án phúc thẩm này [48].
Qua những vụ việc trên có thể thấy dư luận đã góp phần tác động đến
hoạt động xét xử của tòa án, yêu cầu khi xét xử bất cứ một vụ việc gì cơ quan
xét xử cũng phải lắng nghe dư luận, lắng nghe ý kiến chuyên gia, luật sư, nhà
báo… để có cái nhìn đa chiều về vụ án, để giải quyết được đúng đắn và có được
những phán quyết công bằng, đúng người, đúng tội tránh án oan, sai. Dư luận
xã hội quả thực đã có những tác động vô cùng tích cực đến những hoạt động
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội của các cơ quan chức năng.
2.2.2. Những tác động tiêu cực của dư luận xã hội đối với việc thực hiện
pháp luật ở Việt Nam hiện nay
2.2.2.1. Những phản ánh không toàn diện của dư luận xã hội gây nên mất
định hướng trong thực hiện pháp luật
Hiện nay, dư luận xã hội có thể xuất hiện ở nhiều kênh khác nhau trong
đó nổi bật là các trang mạng xã hội, truyền hình, báo chí. Người dân được thực
hiện quyền tự do ngôn luận của mình, được tự do thể hiện quan điểm về các
vấn đề chung của quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, không phải bao giờ dư luận cũng
phản ánh đầy đủ, chính xác thực tế đời sống, mà đôi khi những đánh giá của dư
luận về một vấn đề nào đó còn dựa trên cách nhìn nhận phiến diện, thiên lệch
và thiếu khách quan.
44
Bản thân dư luận là những đánh giá mang tính phán xét, là những quan
điểm cá nhân vì vậy mà nó phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố cảm tính của chủ thể.
Khi đánh giá về một vấn đề nào đó, chúng ta thường bị chi phối rất nhiều bởi
yếu tố tâm lý chủ quan của chính mình, chính vì điều này mà đôi khi việc đưa
ra những nhận xét, đánh giá về một sự việc, hiện tượng nào đó còn thiếu tính
chính xác, khách quan.
Chính vì bị chi phối với yếu tố tâm lý chủ quan nên dư luận về một vấn
đề nào đó đôi khi mang tính phiến diện, thiên lệch. Với cảm tính cá nhân, các
chủ thể thường vội vàng trong quá trình tìm hiểu để đưa ra nhận định của mình,
thiếu cái nhìn toàn cảnh, đa chiều về sự việc, thường họ chỉ nhìn thấy một mặt,
một phương diện tích cực hay tiêu cực của vấn đề ấy mà thôi. Thiếu sự phân
tích, đánh giá khiến cho dư luận về một vấn đề nào đó hiện nay dễ rơi vào tình
trạng phiến diện, thiếu khách quan.
Sự phiến diện, thiên lệch của dư luận ảnh hưởng rất lớn làm cho hoạt
động thực hiện pháp luật mất đi định hướng chuẩn. Thực hiện pháp luật xuất
phát từ ý thức pháp luật của chủ thể, từ nhận thức ấy để định hướng điều chỉnh
để thực hiện hành vi thực tế hợp pháp. Vì vậy, nhận thức lệch lạc, chủ quan và
phiến diện của chủ thể về một vấn đề của xã hội là nguyên nhân dẫn tới việc
thực hiện pháp luật cũng đi sai hướng và đôi khi còn dẫn tới những hành vi vi
phạm pháp luật.
Một ví dụ minh chứng cho tình trạng phiến diện, thiếu tính khách quan
của dư luận đó là vụ việc phụ huynh ở Hải Phòng tự mình chụp ảnh con đứng
dưới nắng ở cổng trường đăng lên mạng xã hội rồi đổ lỗi cho nhà trường, giáo
viên. Ngay sau khi được đăng tải, hình ảnh đã được lan truyền nhanh chóng,
gây xôn xao dư luận trong những ngày vừa qua và đã kéo theo những bình luận
tiêu cực, chửi bới, lăng mạ giáo viên, nhà trường, thậm chí là cả ngành giáo dục
của những người chưa nắm đủ thông tin, mới chỉ nghe sự việc một chiều. Điều
này chính là hành vi vi phạm pháp luật.
45
2.2.2.2. Phản ánh thiếu trung thực dẫn đến sự sai lệch trong hoạt động thực
hiện pháp luật
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại
chúng mà mọi người trong xã hội có cơ hội được tiếp cận với các thông tin
được dễ dàng và đầy đủ hơn. Tuy nhiên cũng chính vì vậy mà có rất nhiều luồng
thông tin khác nhau được đưa tới cho người đọc, người nghe. Chính vì những
thông tin không chính thống, độ chính xác không cao đã gây ra tâm lý hoang
mang, và khi đưa ra những nhận định, đánh giá mang tính phán xét cá nhân về
một sự việc, hiện tượng nào đó các chủ thể dễ đưa ra những đánh giá chủ quan,
không chính xác và đôi khi còn mang hơi hướng tiêu cực về sự việc, hiện tượng
ấy.
Ở Việt Nam hiện nay, việc sử dụng và phụ thuộc quá nhiều vào Internet,
vào các trang mạng xã hội như Facebook, Instagram, Zalo…đã khiến cho một
bộ phận không nhỏ các cá nhân trong xã hội, đặc biệt là lớp trẻ sống xa rời thực
tế, có thái độ hời hợt, xu hướng và ăn theo phong trào khi đánh giá hay nhận
xét về một hiện tượng nào đó trong xã hội. Họ không có quan điểm hay chính
kiến cá nhân mà a dua theo thái độ của người khác. Chính vì vậy, trong nhiều
trường hợp thực tế hiện nay, với một hiện tượng nào đó dù chưa đầy đủ thông
tin hoặc có nhưng là những thông tin sai lệch, các chủ thể trong xã hội sẵn sàng
đưa ra những nhận xét, đánh giá một cách phiến diện. Đôi khi vì cái gọi là
“hưởng ứng theo phong trào” cũng đã tạo nên những làn sóng phản ứng mạnh
mẽ theo chiều hướng tiêu cực, gây tác động xấu đến trật tự an ninh, an toàn xã
hội. Hơn nữa, chính vì sự hời hợt khi tìm hiểu hay đánh giá về các sự việc, hiện
tượng xã hội đã gây ra tâm lý hoang mang, mất niềm tin vào nhà nước, pháp
luật từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến ý thức tôn trọng thực hiện pháp luật của
các chủ thể trong xã hội.
Một minh chứng rõ nét cho phong trào “ném đá tập thể” của những “anh
hùng bàn phím” có thể nhắc tới vụ việc “1 cô giáo ở La Gi, Bình Thuận bị
chồng tố cáo có quan hệ bất chính với học sinh lớp 10”. Khi vụ việc mới bùng
46
nổ trên mạng xã hội, dù chưa biết thực hư lời tố cáo kia của người chồng có
đúng không hay nhưng cư dân mạng đã thi nhau tìm từ cái ảnh, cái status của
Trần Công Mẫn học sinh lớp 10A3 trường Trung học phổ thông Nguyễn Huệ
thị xã La Gi Bình Thuận [44] vì nghĩ em là người vào nhà nghỉ cùng cô giáo
trong đoạn clip. Không chỉ vậy, họ còn ra sức buông những lời chửi bới, mỉa
mai, miệt thị đến em cùng gia đình. Nhưng đau lòng thay em Trần Công Mẫn
không hề liên quan vụ việc, học sinh có liên quan đến vụ việc này có tên Nguyễn
Tuấn A nhưng người ta lại thi nhau chia sẻ hình ảnh của Mẫn để chửi bới. Điều
này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm và gây ra cú sốc tâm
lý lớn đối với em và gia đình. Khi thông tin được đính chính thì ai sẽ là người
chịu trách nhiệm với những tổn thương mà em và gia đình phải chịu, liệu những
người đã ra sức chửi rủa em có dám gửi tới em lời xin lỗi hay không và liệu em
Trần Công Mẫn có thể tiếp tục cuộc sống bình thường sau khi trải qua cú sốc
tâm lý này hay không?
Ví dụ trên chỉ là một trong số rất nhiều vụ việc “ném đá tập thể” của dư
luận hiện nay. Những thông tin bịa đặt, xuyên tạc thói vô cảm, a dua của một
bộ phận trong xã hội đặc biệt là lớp trẻ hiện nay đã tác động gây ảnh hưởng tiêu
cực đến thực hiện pháp luật, khiến cho thực hiện pháp luật bị sai lệch, thiếu
hiệu quả và đôi khi còn bị vi phạm trên thực tế.
2.2.2.3. Dư luận xã hội vượt quá giới hạn các quy định của pháp luật
Chính vì tính lan truyền nhanh và sức ảnh hưởng mạnh đến đông đảo các
chủ thể trong xã hội mà đôi khi dư luận xã hội lại bị lợi dụng làm công cụ gây
rối, chống lại nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Ví dụ dư luận xã hội bị
các thế lực phản động sử dụng để kích động dân chúng phản đối lại một chủ
trương chính sách nào đó của nhà nước, nhằm chống phá hoạt động của Đảng,
Nhà nước và các cấp chính quyền.
Một vụ việc gần đây phản ánh rất rõ nét tác động tiêu cực này của dư
luận xã hội đó là việc một số cá nhân đưa những thông tin sai lệch về dịch tả
lợn châu phi để chuộc lợi cá nhân, câu view cho bản thân kinh doanh online
47
như chủ trang Facebook Đầm Bầu Thời Trang Mami hay chỉ đơn giản là để
sống ảo như Nguyễn Bảo Trân (26 tuổi, tại phường 8, Thành phố Cà Mau) và
Phạm Hoàng Yên (22 tuổi, tại thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời) [42].
Những thông tin sai lệch này đã gây hoang mang dư luận và ảnh hưởng tiêu
cực trực tiếp đến người kinh doanh, các hộ chăn nuôi và người tiêu dùng. Ở
nhiều địa phương mặc dù dịch tả lợn chưa xảy ra, thịt lợn vẫn bị người dân tẩy
chay, làm cho giá thịt lợn sụt giảm khiến cho bao người chăn nuôi điêu đứng.
Không chỉ vậy, những thông tin ấy còn ảnh hưởng đến giá của nhiều loại sản
phẩm khác gây nên những biến động và bất ổn của thị trường.
Hay một minh chứng nữa cho hạn chế này của dư luận hiện nay đó là dư
luận xoay quanh chủ trương thông qua dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt của Quốc hội. Nhiều phần tử đã xuyên tạc, đưa thông tin sai lệch dẫn
đến một số nơi đã xảy ra biểu tình, lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, để
những phần tử chống đối phá hoại kích động gây rối. Đã xuất hiện rất nhiều lời
kêu gọi người dân xuống đường biểu tình với chiêu bài “biểu tình ôn hòa” để
phản đối thông qua dự thảo luật đặc khu ở nhiều địa phương trong cả nước. Lời
kêu gọi biểu tình này lan tỏa rất mạnh trên các trang mạng xã hội. Bản chất của
biểu tình ôn hòa mà các thế lực thù địch đang kêu gào tiến hành thực chất là
âm mưu trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch, phản
động đã và đang tiến hành đối với nước ta [37]. Mục tiêu xuyên suốt vẫn là
chống phá sự lãnh đạo của Đảng, làm chuyển hoá chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Như vậy, đôi khi do sự thiếu kiểm soát mà dư luận xã hội đã bị các phần
tử xấu lợi dụng để trở thành công cụ chuộc lợi cá nhân, gây rối an toàn trật tự
xã hội và nguy hiểm hơn, trong nhiều vụ việc dư luận còn bị lợi dụng cho âm
mưu chống phá sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản lý của Nhà nước, xâm
phạm tới an ninh quốc gia.
2.3. Nguyên nhân thực trạng tác động của dư luận xã hội đối với việc thực
hiện pháp luật
48
2.3.1. Nguyên nhân những tác động tích cực của dư luận xã hội trong thực
hiện pháp luật
Trong bối cảnh hiện nay của nước ta, pháp luật có vai trò hết sức quan
trọng và là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước thực hiện quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội. Tuy nhiên pháp luật không phải là công cụ “vạn năng”, do vậy
pháp luật cũng tồn tại những lỗ hổng, thiếu sót nhất định. Bằng thực tiễn, dư
luận xã hội có thể tìm ra những lỗ hổng đó và đưa ra những giải pháp sửa chữa
các sai lầm mà pháp luật mắc phải, góp phần vào hoàn thiện hệ thống pháp luật
quốc gia.
Thông qua dư luận xã hội, nhân dân có điều kiện bày tỏ quan điểm, ý
kiến của mình về các vấn đề đang tồn tại của xã hội. Trên cơ sở đó Đảng và
nhà nước ta có thể nắm bắt được những thông tin liên quan đến việc điều chỉnh
các quan hệ trong xã hội và đưa ra các biện pháp giải quyết một cách chính xác
và phù hợp.
Những kết quả đạt được và vai trò quan trọng của dư luận xã hội với việc
thực hiện pháp luật đến từ những yếu tố chủ yếu sau:
Đảng và Nhà nước rất chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo
dục pháp luật: Với sự phát triển của khoa học công nghệ và các phương tiện
thông tin đại vhúng cũng như nhận thức được vai trò và ý nghĩa của dư luận xã
hội, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng và không ngừng đẩy mạnh hoạt động
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, xây dựng ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân.
Trình độ dân trí, nhận thức của người dân ngày càng được nâng cao:
Đổi mới và hội nhập đã đem lại cho nhân dân cuộc sống ấm no và ổn định hơn.
Kinh tế phát triển, nhân dân có điều kiện chăm lo đến đời sống văn hóa, tinh
thần nâng cao khả năng nhận thức trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
biệt là pháp luật. Do đó, người dân bắt đầu hình thành thói quen tìm hiểu, nghiên
cứu về pháp luật, về các quyền tự do của mình được pháp luật cho phép, trong
đó có quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin và biểu đạt ý chí. Đặc biệt, trong
49
bối cảnh hiện nay, khả năng tiếp cận thông tin của người dân và rất dễ dàng,
năng lực và ý thức pháp luật của người dân cũng ngày được nâng cao, dân đến
việc người dân cũng dần ý thức được vai trò của mình trong đời sống xã hội.
Từ đó hình thành nên các hoạt động ngôn luận mang tính thời sự, tạo được sự
đồng quan tâm cao trong nhân dân với nhiều ý kiến và quan điểm liên quan
được đưa ra. Và dư luận xã hội bắt đầu được hình thành và phát triển.
Hoạt động lập pháp ngày càng được coi trọng: Hệ thống pháp luật ngày
càng hoàn thiện, dễ dàng, dễ nhận thức, tiếp cận với người dân, điều chỉnh được
hầu hết các quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đội ngũ cán bộ, công chức kiên quyết và vững vàng đấu tranh chống
những biểu hiện tiêu cực trong xã hội: Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức ở
các cấp chính quyền khác nhau phần lớn đều có lí tưởng chính trị vững vàng,
trình độ không ngừng được nâng cao, có tinh thần đấu tranh với những biểu
hiện tiêu cực, tham nhũng. Để đạt được những kết quả như vậy là nhờ sự đóng
góp tích cực của dư luận xã hội khi dám lên án, phanh phui và đưa ra xử lý kịp
thời các vụ việc tiêu cực, từ đó góp phần hạn chế những tình trạng tồn tại trong
xã hội.
2.3.2. Nguyên nhân những tác động tiêu cực của dư luận xã hội trong thực
hiện pháp luật
Những tác động tiêu cực của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật kể
trên đến từ nhiều nguyên nhân, yếu tố khác nhau trong đó có thể kể đến những
nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, do người dân khi tiếp cận với các nguồn thông tin hiện nay
vẫn chưa có sự chọn lọc dẫn đến rất nhiều thông tin sai lệch, thiếu chính xác
đến với người dân gây nên tâm lý hoang mang, mất niềm tin.
Thứ hai, do khả năng tiếp cận thông tin và tham gia thảo luận của người
dân vẫn chưa thực sự rộng và đồng đều: Ở Việt Nam hiện nay, tuy độ phủ sóng
của các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng được nâng cao tuy nhiên
vẫn chưa phủ sóng được hoàn toàn trong cả nước. Vẫn còn rất nhiều khu vực,
50
vùng miền người dân vẫn chưa được tiếp cận thông tin chính thống và đầy đủ.
Đặc biệt là nhân dân các vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Chính vì
vậy mà khả năng tham gia của các nhóm chủ thể này vào việc đánh giá, nhận
xét các sự kiện, hiện tượng của xã hội cũng bị hạn chế.
Thứ ba, do ý thức của từng chủ thể khi tham gia đóng góp ý kiến, nhận
xét, đánh giá của bản thân. Thiếu sự tìm hiểu và đánh giá khách quan là nguyên
nhân chính khiến cho các chủ thể có cái nhìn sai lệch, đánh giá phiến diện, thiếu
khách quan về một sự việc, hiện tượng nào đó.
Thứ tư, do công tác quản lý sàng lọc, kiểm soát các thông tin trước khi
đến với người dân của Nhà nước còn chưa được thực hiện triệt để. Do vậy,
nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc, bịa đặt không được kịp thời ngăn chặn trước
khi đến với người dân gây tâm lý hoang mang trong dư luận.
Thứ năm, một bộ phận người dân hiện nay vẫn chưa hiểu rõ được các
quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin và bày tỏ quan
điểm. Do đó, trong một vài trường hợp, người dân có biểu hiện của hành vi vi
phạm các quy định của pháp luật về tự do ngôn luận, xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác, đồng thời gây nên những làn sóng dư luận thiếu
tính trung thực, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh thông tin, an toàn và
trật tự xã hội.
51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho cuộc sống, cả về vật chất lẫn
tinh thần của nhân dân ta được thay da, đổi thịt. Không chỉ trong lĩnh vực kinh
tế - xã hội mà trong việc thực hiện pháp luật cũng đạt được những kết quả rất
đáng ghi nhận qua việc phát huy những tác động tích cực của dư luận xã hội
với việc thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, khi nhìn nhận về vai trò, về những tác
động tích cực của dư luận xã hội với việc thực hiện pháp luật thì bên cạnh đó
cũng phải thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, những tác động tiêu cực của dư
luận xã hội với việc thực hiện pháp luật để từ đó có những điều chỉnh phù hợp
sao cho dư luận xã hội có thể phát huy tối đa sức ảnh hưởng tích cực của mình
vào việc thực hiện pháp luật.
52
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TÁC
ĐỘNG DƯ LUẬN XÃ HỘI VỚI VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về tác động dư luận xã hội với thực
hiện pháp luật
Hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về tác động của dư luận xã
hội với thực hiện pháp luật là một trong những nội dung góp phần vào việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung. Chỉ khi hệ thống các quy định về tác
động dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật được củng cố, hoàn thiện thì mới
có thể nâng cao được tối đa hiệu quả của những tác động ấy. Trên thực tế, hệ
thống các quy định đó ở Việt Nam còn tồn tại rất nhiều bất cập và vướng mắc,
đòi hỏi cần phải nhanh chóng khắc phục tình trạng các quy định pháp luật chỉ
dừng lại ở những quy định chung, xa rời thực tế; đồng thời, loại bỏ những văn
bản không còn hiệu lực, trái với Hiến pháp. Người viết xin đưa ra những đề
xuất sửa đổi một số quy định để góp phần vào việc hoàn thiện các quy định
pháp luật về tác động dư luận xã hội với thực hiện pháp luật như sau:
Bộ Luật Hình sự 2015:
Đối với việc quản lý và giám sát chặt chẽ hoạt động tự do ngôn luận, các
quy định của pháp luật hiện nay vẫn chưa có tính răn đe nghiêm khắc, dẫn tới
vẫn còn nhiều trường hợp lạm dụng việc tự do ngôn luận và coi thường các
biện pháp xử lý của pháp luật. Theo đó, quy định tại Điều 167 Bộ luật hình sự
2015 quy định về hành vi xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp
cận thông tin, quyền biểu tình của công dân có hình phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm hoặc từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên, trên thực tế, để xử lý các vụ việc
liên quan đến xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin của người dân thường diễn ra trong một quá trình dài xác minh và xử lý, do
đó quy định về mức hình phạt 03 tháng nêu trên là không phù hợp bởi thời gian
này có thể ngắn hơn thời gian điều tra, giải quyết vụ án và không có tính răn
53
đe. Do đó mức hình phạt tối thiểu đối với các hành vi này cần được nâng lên là
06 tháng để đáp ứng được tính khả thi trên thực tiễn.
Luật Trưng cầu dân ý 2015:
Luật Trưng cầu dân ý 2015 đã được ban hành và đi vào áp dụng thực
tiễn. Việc ban hành Luật này tạo khuôn khổ pháp lý cho đông đảo người dân
có thể tham gia chủ động, tích cực và quyết định vào các công việc của Nhà
nước và xã hội. Hơn nữa, người dân cũng có thể trực tiếp thể hiện và quyền lực
của mình đối với các vấn đề quan trọng của đất nước, đáp ứng nhu cầu khách
quan trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, tại đạo luật này cần làm rõ
các vấn đề sau:
Thứ nhất, tại Điều 6 về các vấn đề trưng cầu dân ý có quy định:
“Quốc hội xem xét, quyết định trưng cầu ý dân về các vấn đề sau đây:
1. Toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp;
2. Vấn đề đặc biệt quan trọng về chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc
phòng, an ninh, đối ngoại có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của quốc gia;
3. Vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội có ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển của đất nước;
4. Vấn đề đặc biệt quan trọng khác của đất nước.”
Luật này cần giải thích rõ "vấn đề đặc biệt quan trọng" bởi đây là một
khái niệm rất trừu tượng và không xác định rõ phạm vi áp dụng, do đó khó xác
định được quyền của người dân đối với các vấn đề này. Do đó, điều luật này
cần được sửa đổi theo hướng liệt kê chi tiết các vấn đề được xem là đặc biệt
quan trọng hoặc xây dựng được khái niệm cụ thể để xác định được nội hàm của
thuật ngữ "vấn đề đặc biệt quan trọng" nhằm xác định rõ các vấn đề được đưa
ra trưng cầu dân ý. Bên cạnh đó, các trường hợp đang được liệt kê tại Điều 6
Luật này chưa đảm bảo được quyền tự do, quyền làm chủ của người dân, bởi
các trường hợp trưng cầu dân ý này do cơ quan nhà nước có thẩm quyền nêu
54
ra. Do đó, Điều 6 Luật Trưng cầu dân ý 2015 cần bổ sung trường hợp trưng cầu
dân ý đối với vấn đề "được đa số người dân quan tâm" hoặc "đa số người dân
có đề nghị trưng cầu dân ý".
Thứ hai, quy định chỉ áp dụng hình thức bỏ phiếu trực tiếp của Luật
Trưng cầu dân ý 2015 đã làm hạn chế quyền bỏ phiếu của một số công dân đủ
điều kiện cử tri nhưng không có điều kiện trực tiếp thực hiện việc bỏ phiếu. Vì
vậy, người viết xin đề xuất việc hoàn thiện quy định các hình thức bỏ phiếu
gián tiếp như sau: Bổ sung hình thức bỏ phiếu gián tiếp qua đường bưu điện,
Internet hoặc ủy quyền bỏ phiếu vì lý do sức khỏe, công tác, đang ở nước
ngoài… Đồng thời, với sự phát triển của thời đại công nghệ 4.0, chúng ta nên
tận dụng được các ưu thế của công nghệ thông tin vào công tác tổ chức trưng
cầu ý dân. Với tốc độ phát triển của khoa học - kỹ thuật hiện nay, việc ghi nhận
phương thức bỏ phiếu mới qua Internet, qua thư điện tử rõ ràng sẽ hỗ trợ rất
tích cực cho quá trình bỏ phiếu, nhất là hoạt động bỏ phiếu của một số không
nhỏ cử tri từ nước ngoài.
Thứ ba, tại Điều 35 của Luật này chỉ đặt ra tiêu chí về nội dung lá phiếu
phải đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, khách quan, chính xác và rõ nghĩa nhưng không
đưa ra các tiêu chuẩn về cách thiết kế câu hỏi và kỹ thuật trình bày câu hỏi…
Điều này đặt ra yêu cầu cần phải chú trọng hơn về tính hình thức của phiếu bầu
và cách thức thiết kế phiếu bầu; các quy định vẫn cần phải được cụ thể hóa và
hướng dẫn cụ thể hơn.
Luật Tiếp cận thông tin 2018:
Quyền tiếp cận thông tin cũng là một trong những quyền cơ bản, quan
trọng của công dân liên quan trực tiếp đến việc định hướng tác động của dư
luận xã hội. Cụ thể hóa Điều 25 Hiến pháp 2013, Luật Tiếp cận thông tin 2018
được ban hành nhằm tạo khuôn khổ pháp lý để công dân thực hiện quyền tiếp
cận thông tin của mình. Song, một số điều khoản của Luật Tiếp cận thông tin
2018 chưa còn hạn chế quyền tiếp cận thông tin và cần được sửa đổi. Cụ thể,
55
tại Điều 5 Luật tiếp cận thông tin quy định về các thông tin công dân được tiếp
cận, theo đó "công dân được tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước", với quy
định này, quyền tiếp cận của công dân bị hạn chế bởi chủ thể sở hữu thông tin
chỉ là "cơ quan nhà nước" trong khi đó, thông tin mà công dân có quyền tiếp
cận không chỉ giới hạn liên quan đến chủ thể này. Bên cạnh đó, ngoài các thông
tin được tự do tiếp cận, công dân cũng có quyền tiếp cận các thông thin khác
theo yêu cầu của mình. Do đó, quy định về thông tin mà công dân được tiếp
cận tại Điều 5 Luật tiếp cận thông tin 2018 cần sửa đổi thành "Công dân được
quyền tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước và các thông tin yêu cầu cơ
quan nhà nước cung cấp", chỉ có quy định như vợi mới đảm bảo được quyền
yêu cầu và đầu đủ các thông tin mà người dân được quyền tiếp cận.
Luật Báo chí 2016:
Ngoài ra, Luật báo chí 2016 được ban hành cũng quy định về quyền tự
do ngôn luận trên báo chí của công dân, tuy nhiên các trường hợp được phép
tự do ngôn luận của người dân lại chỉ dừng lại ở các vấn đề về tình hình đất
nước và thế giới; đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; nêu
ý kiến về các tổ chức và cá nhân khác. Trong các trường hợp này, các quyền tự
do ngôn luận về chính các vấn đề của mỗi người dân lại không được quy định,
điều đó đồng nghĩa với việc người dân chỉ được quyền tự do ngôn luận trên báo
chí đối với vấn đề mang tính chung chung liên quan đến Nhà nước mà không
có quyền ngôn luận đối với các vấn đề ngoài Nhà nước, hoặc chính các vụ việc
của mỗi người dân. Do đó, quy định tại Điều 11 Luật Báo chí 2016 cần được
sửa đổi, bổ sung thêm Khoản 4 quy định về việc người dân được quyền tự do
ngôn luận; phát biểu ý kiến đối với vụ việc của cá nhân trên báo chí.
Như vậy, qua việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật quy định các
vấn đề liên quan đến sự tác động của dư luận xã hội đến thực hiện pháp luật,
người viết nêu ra một số điều bất cập của các quy định pháp luật trên đây và đề
xuất được sửa đổi, bổ sung, từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật.
56
3.2. Một số giải pháp khác
3.2.1. Đẩy mạnh tổ chức điều tra, thăm dò và sử dụng các kết quả thăm dò
dư luận xã hội trong hoạt động thực hiện pháp luật
Để phát huy tốt vai trò của dư luận xã hội trong hoạt động thực hiện pháp
luật thì những nội dung kết quả hoạt động của việc thăm dò dư luận phải được
sử dụng thực sự hiệu quả. Cần đẩy mạnh việc sử dụng các kết quả thăm dò
nghiên cứu dư luận xã hội để phục vụ cho công tác quản lý và hoàn thiện pháp
luật.
Việc điều tra, thăm dò dư luận cho phép thu thập được những thông tin
phản hồi từ dư luận xã hội về chính sách pháp luật, hiệu quả thực thi pháp luật
và nhu cầu thông tin pháp luật của các tầng lớp cán bộ và nhân dân. Sự phản
hồi từ phía dư luận xã hội là một trong những thông tin hết sức quan trọng giúp
cho nhà nước đưa ra những quy định mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn; kịp
thời sửa đổi, bổ sung những hạn chế, thiếu sót của hệ thống pháp luật. Mọi chủ
trương, chính sách, quy định của pháp luật khó có thể trở thành hiện thực nếu
không nhận được sự đồng tình, ủng hộ của người dân. Tổ chức điều tra thăm
dò dư luận xã hội cho phép thu thập được những thông tin; số liệu thực nghiệm
từ đó tạo định hướng hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật cho người dân.
Có thể nói, việc tăng cường khâu nắm bắt các thông tin phản hồi bằng các
phương pháp điều tra, thăm dò dư luận xã hội một cách khách quan, khoa học
là một trong những biện pháp rất quan trọng nhằm phát huy sức mạnh và hiệu
quả của hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Do vậy, đòi hỏi các cơ nhà
nước cần phải đẩy mạnh phương pháp này để nắm bắt đúng tâm tư và nguyện
vọng của quần chúng nhân dân, những băn khoăn, thắc mắc của người dân để
trên cơ sở đó kịp thời đề ra những biện pháp bổ sung phù hợp nhằm khắc phục
vướng mắc, thúc đẩy quá trình thực hiện pháp luật có hiệu quả.
Dư luận xã hội là một hiện tượng tâm lý xã hội đặc biệt. Việc phát huy
vai trò của dư luận xã hội có thể biến dư luận xã hội thành công cụ hữu hiệu hỗ
trợ hoạt động thực hiện pháp luật. Tổ chức thăm dò dư luận xã hội và sử dụng
57
kết quả của việc thăm dò dư luận xã hội là một trong những giải pháp quan
trọng để dư luận xã hội phát huy được vai trò của nó với việc thực hiện pháp
luật.
3.2.2. Đẩy mạnh dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống xã hội
Dân chủ hiểu một cách đơn giản là nhân dân được quyền làm chủ và tất
cả quyền lực thuộc về nhân dân. Mức độ dân chủ trong đời sống xã hội là yếu
tố mang tính quyết định đến sự hình thành và phát triển của dư luận xã hội.
Trong một xã hội có nền dân chủ rộng rãi thì khả năng nhân dân tham gia bày
tỏ quan điểm, đánh giá các vấn đề chung của đất nước, đóng góp ý kiến vào các
dự án luật sẽ tốt hơn. Từ đó mà dư luận xã hội về các vấn đề pháp luật có điều
kiện hình thành và phát triển thuận lợi. Ngược lại, trong điều kiện xã hội thiếu
dân chủ, thông tin nghèo nàn, không chính thống thì dư luận xã hội thường hình
thành khó khăn, chậm chạp và đôi khi dư luận xã hội còn phát triển sai hướng,
gây ra những ảnh hưởng tiêu cực.
Tuy nhiên, hiện nay việc dân chủ hóa các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội vẫn còn chưa thực sự hiệu quả và còn tồn tại một số hạn chế. Để
hoạt động dân chủ hóa đời sống xã hội được hiệu quả, người viết xin đề xuất
một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh dân chủ hóa một số lĩnh vực cơ bản: Việc thể chế
hóa nền dân chủ trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội cùng
lúc là điều rất khó và không đem lại hiệu quả. Chính vì vậy, để hoạt động thể
chế nền dân chủ thực sự đạt hiệu quả thì trước hết cần đẩy mạnh dân chủ hóa
các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội (dân chủ về chính trị, kinh tế, xã hội,…)
Thứ hai, hoàn chỉnh hình thức dân chủ đại diện, mở rộng hình thức dân
chủ trực tiếp là điều kiện quan trọng nhất nhằm phát huy dân chủ ở nước ta hiện
nay. Muốn hoàn thiện dân chủ đại diện, điều quan trọng là phải nâng cao chất
lượng của các tổ chức quần chúng, làm cho các tổ chức đó thực sự được sự
quan tâm của các thảnh viên. Thông qua các tổ chức đó, người dân kịp thời nêu
ra các ý kiến, nguyện vọng của mình về các chủ trương, chính sách pháp luật
58
của Nhả nước. Dân chủ trực tiếp là hình thức nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí
và nguyện vọng của mình. Quy định tại Điều 6 Hiến pháp 2013 đã ghi nhận về
nguyên tắc dân chủ trực tiếp trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Việc
phát triển nguyên tắc này được thể hiện nhất quán trong toàn bộ Hiến pháp năm
2013, từ chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân đến các thiết chế trong bộ máy nhà nước cũng như trong việc sửa đổi Hiến
pháp - đạo luật cơ bản nhất, quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật của một
quốc gia, dân tộc. Muốn phát huy được dân chủ trực tiếp đòi hỏi: Lãnh đạo các
cơ quan và địa phương phải nâng cao chất lượng đóng góp của nhân dân vào
việc hình thành các quyết định của chính quyền địa phương, xác định rõ những
vấn đề nào các cơ quan cần phải có trách nhiệm báo cáo trước nhân dân, đồng
thời nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở trong việc lắng nghe và xử lý
những ý kiến do nhân dân đưa ra, tránh thái độ thụ động, theo đuổi dư luận.
Bên cạnh đó cũng cần xây dựng những thiết chế dân chủ ở cơ sở phù hợp với
lĩnh vực và trình độ của đối tượng tương ứng.
Thứ ba, đổi mới các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị và mối quan hệ
giữa các yếu tố đó để phát huy hơn nữa quyền dân chủ của nhân dân.
Thứ tư, nâng cao tính tích cực về chính trị của dư luận: Việc tích cực
quan tâm đến các vấn đề chính trị của toàn thể nhân dân sẽ góp phần mở rộng
quyền dân chủ của nhân dân. Từ đó nhân dân sẽ kịp thời đóng góp ý kiến, quan
điểm về việc ban hành các chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước về
việc thực hiện các quy định của pháp luật trên thực tế.
Thứ năm, khắc phục bệnh quan liêu của đội ngũ cán bộ, công chức trong
các cơ quan các cấp chính quyền Nhà nước. Thực tiễn cho thấy đây là một căn
bệnh hết sức nguy hiểm và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của một đất
nước bởi đây là đội ngũ nắm giữ các cương vị quan trọng trong bộ máy Nhà
nước. Chúng ta cần phát động quần chúng tích cực tham gia đấu tranh chống
quan liêu; xây dựng đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực, phẩm chất; làm tốt công
tác cán bộ và xử lý răn đe những hành vi sai phạm.
59
3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật của người dân và của đội ngũ cán bộ, công
chức Nhà nước
Đối với người dân:
Ý thức pháp luật thể hiện nhận thức của công dân và thái độ của họ đối
với các quy định của pháp luật. Sự tôn trọng pháp luật, nâng cao ý thức pháp
luật sẽ hình thành cho người dân một tầm hiểu biết về pháp luật quy định những
vấn đề liên quan đến dư luận xã hội như tự do ngôn luận, tự do thông tin, bày
tỏ quan điểm… Từ đó định hướng sự tác động của dư luận xã hội đến các hành
vi thực hiện pháp luật của các cá nhân, làm cho hành vi của họ phù hợp yêu cầu
của pháp luật.
Để nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, người viết xin đề xuất một
số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Bởi muốn nâng cao ý
thức pháp luật cho người dân thì cần thiết phải cải thiện và nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của họ, mà trực tiếp là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũ sang sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Vì theo như quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê-nin thì
“không phải con người quyết định tồn tại của họ mà tồn tại xã hội của họ quyết
định ý thức của họ”. Thật vậy, chỉ khi kinh tế - xã hội phát triển mới có thể tạo
điều kiện thuận lợi tối đa để người dân tiếp xúc với pháp luật, nâng cao hiểu
biết và nhận thức về pháp luật. Thái độ, ý thức đối với pháp luật của con người
luôn chịu tác động rất lớn từ môi trường sống và xã hội xung quanh. Việc xây
dựng được một xã hội ổn định và lành mạnh sẽ góp phần tác động tạo nên thái
độ tích cực của mọi người sống trong xã hội đó. Nó gián tiếp ảnh hưởng đến
việc hình thành dư luận xã hội. Một xã hội văn minh mà người dân có ý thức
pháp luật tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hình thành dư luận xã hội lành mạnh
và ngược lại. Do vậy, cần thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo lập một bầu không
khí xã hội lành mạnh, xây dựng một xã hội ổn định, văn minh làm tiền đề, điều
kiện để nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, từ đó giúp cho dư luận xã hội
60
phát huy vai trò tích cực của mình trong việc người dân tham gia quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội thúc đẩy việc thực thi hóa các quy định pháp luật vào cuộc
sống.
Thứ hai, cần đẩy mạnh và đa dạng hóa các công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật. Phổ biến, giáo dục pháp luật là cơ sở hình thành tri
thức pháp luật và tâm lý pháp luật trong cán bộ và nhân dân. Đây là biện pháp
trực tiếp trang bị những kiến thức cơ bản về pháp luật cho người dân, qua đó
hình thành nên tình cảm, thái độ tích cực của họ đối với pháp luật. Khả năng
tiếp cận thông tin về pháp luật và tham gia thảo luận những vấn đề pháp luật
của người dân ở nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự chất lượng do sự không
đồng đều về trình độ văn hóa, dân trí của các tầng lớp xã hội, các vùng miền
khác nhau. Do vậy, Đảng và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ sự phát triển
của các phương tiện thông tin đại chúng, để thông qua đó hỗ trợ hầu hết người
dân mở rộng khả năng nắm bắt thông tin và tham gia đóng góp vào các vấn đề
pháp luật. Đảng và Nhà nước cũng cần đẩy mạnh giáo dục pháp luật trong nhà
trường; đẩy mạnh công tác hỗ trợ, tuyên truyền cho nhân dân các khu vực biên
giới, hải đảo, nhân dân vùng sâu, vùng xa... nơi mà khả năng tiếp cận thông tin
của người dân còn có phần hạn chế; cần đầu tư thỏa đáng và có hiệu quả về cơ
sở vật chất cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, sớm triển
khai áp dụng khoa học công nghệ cho công tác này đế đạt hiệu quả cao nhất.
Nhà nước cũng cần có những biện pháp mở rộng và nâng cao chất lượng các
hoạt động tư vấn pháp lý, đặc biệt chú ý công tác trợ giúp pháp lý cho người
nghèo, các đối tượng chính sách để họ có điều kiện nâng cao ý thức hiểu biết
pháp luật.
Thứ ba, nâng cao trình độ văn hóa, chính trị, dân trí cho người dân. Sống
trong một xã hội mà trình độ văn hóa chính trị của người dân được nâng cao thì
khả năng tham gia quản lý Nhà nước, ý thức pháp luật của người dân cũng được
nâng cao. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta hiện nay thì trình độ chính trị văn hóa
của người dân chưa thực sự cao. Để nâng cao trình độ văn hóa, chính trị, dân
61
trí của người dân, cần phải thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tạo điều kiện cho
người dân dễ dàng cải thiện trình độ của mình; thúc đẩy sự nghiệp giáo dục,
đào tạo, tạo nền tảng văn hóa cho toàn xã hội; đặc biệt là giáo dục chính trị tư
tưởng, làm cho mỗi người dân tự ý thức được quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
của bản thân mình trong các quan hệ xã hội.
Thứ tư, cần nâng cao vai trò trách nhiệm, hiệu lực của các cơ quan thực
thi pháp luật. Thực tế cho thấy, hoạt động của các cơ quan này có tác động trực
tiếp đến người dân, ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức, tình cảm, niềm tin của
người dân đối với pháp luật cả theo hướng tích cực và tiêu cực.
Đối với cán bộ, công chức Nhà nước:
Dư luận xã hội đòi hỏi các cán bộ trong các cơ quan nhà nước phải có
một trình độ kiến thức, hiểu biết nhất định về pháp luật, phải luôn có ý thức
gương mẫu trong việc áp dụng và tuân thủ pháp luật. Dư luận xã hội không thể
chấp nhận tình trạng một cán bộ công chức Nhà nước mà không có hiểu biết
tối thiểu về pháp luật. Hơn nữa, mọi hành vi, hoạt động của các cán bộ cơ sở là
sự phản ánh thực trạng tình hình tuân thủ và áp dụng pháp luật, đồng thời biểu
hiện ý thức pháp luật cùa đội ngũ cán bộ này.
Từ sự đòi hỏi của dư luận xã hội mà cán bộ trong cơ quan nhà nước phải
phấn đấu học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật, nâng
cao ý thức pháp luật, đáp ứng đòi hỏi khách quan của dư luận. Họ không những
phải gương mẫu trong việc sống và làm việc theo pháp luật mà còn phải biết
cách tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện đầy đủ và nghiêm minh các quy
định của pháp luật.
3.2.4. Tăng cường quản lý và kiểm soát dư luận xã hội
Nhà nước ta cần có sự quản lý chặt chẽ và kiểm soát tốt hơn nữa đối với
việc đưa tin trong xã hội. Các thông tin được đưa đến với công chúng cần có
sự kiểm soát, xử lý và chọn lọc, tránh gây ra tâm lý hoang mang, mất định
hướng chuẩn đối với người dân. Nhà cầm quyền cần nghiêm cấm và có hình
thức xử lý kịp thời đối với các hành vi cố tình bóp méo sự thật, đưa ra những
62
thông tin sai lệch, chủ quan, kích động dư luận nhằm chuộc lợi cá nhân hay gây
rối an toàn trật tự xã hội, đặc biệt cần xử lý nặng các phần tử xấu lợi dụng dư
luận phục vụ cho âm mưu chống phá sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động quản
lý của Nhà nước, xâm phạm tới an ninh quốc gia. Điều đó đòi hỏi cần phải có
những người cán bộ quản lý chủ chốt có trình độ chuyên môn cao và sự nhạy
bén để có thể nắm bắt tốt dư luận xã hội. Từ đó ngăn chặn kịp thời những dư
luận xấu lan truyền đến người dân và đẩy mạnh những dư luận tích cực trong
xã hội để nó có thể phát huy hơn nữa vai trò của mình.
3.2.5. Phát huy vai trò của báo chí và thông tin đại chúng
Khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu của công chúng về thông tin
và quyền tự do ngôn luận sẽ tăng lên. Thông tin là quyền lực và con người càng
có nhiều thông tin thì quyền lực càng lớn. Trong xã hội ngày nay, muốn phát
huy quyền dân chủ của nhân dân và vai trò của dư luận xã hội thì không thể
không kể đến vai trò của báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng.
Dư luận xã hội có thể hình thành bằng nhiều con đường khác nhau nhưng
không con đường nào, không có kênh nào mà dư luận xã hội được hình thành,
phát tán nhanh, mạnh và hiệu quả bằng thông qua báo chí. Dư luận xã hội với
báo chí là mối quan hệ hai chiều. Dư luận xã hội là nội dung, khởi nguồn là
chất liệu của báo chí. Đến lượt mình báo chí và các phương tiện thông tin đại
chúng trở thành con đường phát tán, phát triển của dư luận xã hội.
Để phát huy vai trò của dư luận xã hội đối với công tác phổ biến, giáo
dục, thực hiện pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, cần tập
trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất, các phương tiện thông tin đại chúng cần phát huy mạnh mẽ
hơn nữa vai trò là tiếng nói của nhân dân. Báo chí cần tập trung cung cấp đầy
đủ và đa dạng hơn về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra trong đời sống
chính trị - xã hội, cung cấp các thông tin pháp luật cần thiết cùng các chủ trương
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cho cho các cán bộ, các cấp chính
quyền và toàn thể các tầng lớp nhân dân. Nếu làm được như vậy, trình độ và
63
kiến thức pháp luật của người dân sẽ được nâng lên đáng kể làm cơ sở cho việc
nâng cao ý thức tôn trọng và thực hiện pháp luật trên thực tế.
Thứ hai, cần thiết phải nâng cao chất lượng đào tạo và quản lý đội ngũ
phóng viên, nhà báo những người công tác trong hoạt động báo chí, thông tin
đại chúng. Xây dựng được đội ngũ phóng viên, nhà báo có chuyên môn trình
độ nghiệp vụ cao.
Thứ ba, hoạt động báo chí, thông tin đại chúng khi thực hiện phải tuân
thủ một số nguyên tắc nhất định. Trước cùng một sự việc, hiện tượng xảy ra
trên thực tế có thể hình thành những luồng dư luận khác nhau, do đó cũng tạo
ra những luồng tác động khác nhau đến hoạt động thực hiện pháp luật của các
chủ thể trong xã hội. Chính vì vậy mà báo chí phải phản ánh được sự phong
phú và phức tạp ấy qua cách nhìn nhận khách quan nhất. Việc phản ánh dư luận
xã hội thông qua báo chí, thông tin đại chúng phải có sự chọn lọc. Có nghĩa là
báo chí, thông tin đại chúng khi phản ánh dư luận xã hội phải đảm bảo tôn trọng
nguyên tắc chân thật, đúng bản chất tránh sự dễ dãi, tùy tiện không có sự sàng
lọc hoặc bưng bít, cắt xén, thiếu độ chính xác, chân thật của thông tin.
64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Dư luận xã hội có những tác động quan trọng đối với việc thực hiện pháp
luật. Vì vậy các giải pháp tạo điều kiện cho sự hình thành, phát triển, phát huy
và nâng cao hiệu quả của dư luận xã hội là rất cần thiết.
Trước hết cần nâng hơn nữa những tác động tích cực của dư luận xã hội
với hoạt động thực hiện pháp luật bằng các giải pháp như: Hoàn thiện các quy
định pháp luật về tác động của dư luận xã hội đến việc thực hiện pháp luật; đẩy
mạnh tổ chức điều tra, thăm dò dư luận xã hội trong hoạt động thực hiện pháp
luật và sử dụng các kết quả thăm dò dư luận xã hội vào hoạt động thực hiện
pháp luật; dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống; nâng cao ý thức pháp luật
của người dân và đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước; đẩy mạnh sự quản lý
và kiểm soát dư luận xã hội; phát huy vai trò của báo chí và thông tin đại chúng.
65
KẾT LUẬN CHUNG
Xuất phát từ những yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, người viết đã lựa
chọn đề tài để đi sâu vào tìm hiểu, phân tích từ đó có cái nhìn chính xác, đầy
đủ nhất về sự tác động của dư luận xã hội đến việc thực hiện pháp luật, từ đó
đưa ra những giải pháp để giải quyết các yêu cầu đặt ra. Trong nội dung bài
viết của mình, dựa trên quan điểm cá nhân tác giả đã có sự đánh giá của riêng
mình về những tác động của dư luận xã hội trong mối quan hệ với hoạt động
thực hiện pháp luật. Từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp và hiệu quả để nâng
cao những vai trò tích cực của dư luận xã hội với việc thực hiện pháp luật.
Ở nước ta hiện nay, dư luận xã hội có vai trò quan trọng trong việc tác
động đối với việc xây dựng ý thức pháp luật, từ đó điều chỉnh hành vi của con
người và duy trì sự ổn định, phát triển của xã hội. Thực tế phản ánh, chúng ta
đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng và đáng ghi nhận từ việc phát
huy tác động tích cực của dư luận xã hội trong việc thực hiện pháp luật như:
Dân chủ hóa quá trình xây dựng pháp luật; tạo điều kiện để nhân dân tích cực
đóng góp ý kiến về các vấn đề kinh tế, xã hội; chủ động tham gia vào hoạt động
quản lý Nhà nước, xã hội; trực tiếp đấu tranh chống tiêu cực; từng bước nâng
cao ý thức tôn trọng và thực hiện pháp luật của nhân dân trong đời sống xã hội
cũng như nâng cao chất lượng hoạt động quản lý Nhà nước, xã hội của đội ngũ
cán bộ, công chức Nhà nước.
Dư luận xã hội được xem là một dạng quyền lực, nhưng quyền lực này
cũng có những giới hạn nhất định. Vì thế, trong hoạt động pháp luật, chúng ta
cần có những giải pháp để phát huy “vai trò quyền lực” ấy của dư luận xã hội.
Các giải pháp đó phải vừa tạo điều kiện cho sự hình thành, phát triển, tác động
vừa phải phát huy được vai trò của dư luận xã hội với hoạt động thực hiện pháp
luật, cụ thể là: Hoàn thiện các quy định pháp luật về tác động của dư luận xã
hội đến việc thực hiện pháp luật; đẩy mạnh tổ chức điều tra, thăm dò dư luận
xã hội trong hoạt động thực hiện pháp luật và sử dụng các kết quả thăm dò dư
luận xã hội vào hoạt động thực hiện pháp luật; dân chủ hóa các lĩnh vực của
66
đời sống; nâng cao ý thức pháp luật của người dân và đội ngũ cán bộ, công
chức Nhà nước; đẩy mạnh sự quản lý và kiểm soát dư luận xã hội; phát huy vai
trò của báo chí và thông tin đại chúng.
Trong quá trình nghiên cứu, kết quả khóa luận còn nhiều hạn chế cần
được bổ sung và hoàn thiện, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô
giáo. Em xin chân thành cảm ơn!
67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1946.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1959.
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1980.
4. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992.
5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013.
6. Bộ Luật Dân Sự 2015, được Quốc hội thông qua vào ngày 24 tháng 11
năm 2015 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2017.
7. Bộ Luật Hình sự 2015, được Quốc hội thông qua vào ngày 27 tháng 11
năm 2015 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2016.
8. Luật An ninh mạng 2018, được Quốc hội thông qua vào ngày 12 tháng
06 năm 2018 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2019.
9. Luật An toàn giao thông 2008, được Quốc hội thông qua vào ngày 13
tháng 11 năm 2008 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2009.
10. Luật Báo chí 2016, được Quốc hội thông qua vào ngày 05 tháng 04 năm
2016 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2017.
11. Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, được Quốc hội thông qua
vào ngày 19 tháng 06 năm 2015 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2016.
12. Luật Khiếu nại 2011, được Quốc hội thông qua vào ngày 11 tháng 11
năm 2011 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2012.
13. Luật Tiếp cận thông tin 2016, được Quốc hội thông qua vào ngày 06
tháng 04 năm 2016 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2018.
14. Luật Tố cáo 2018, được Quốc hội thông qua vào ngày 12 tháng 6 năm
2018 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2019.
15. Luật Trưng cầu dân ý 2015, được Quốc hội thông qua vào ngày 25 tháng
11 năm 2015 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2016.
68
16. Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11, Thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, được Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam thông qua vào ngày
20 tháng 04 năm 2007 và có hiệu lực từ 01 tháng 07 năm 2007.
17. Nghị định 174/2013/NĐ-CP, Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến
điện, được Chính phủ ban hành vào ngày 13 tháng 11 năm 2013 và có
hiệu lực từ ngày 15 tháng 01 năm 2014.
18. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Giáo trình Lý luận chung
về Nhà nước và Pháp luật, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
19. Lương Khắc Hiếu (1999), Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Luyện (2004), “Dư luận và xã hội và pháp luật”, Tạp chí
Giáo dục Lý luận, 9(3), 8-11.
21. Nguyễn Chí Mỳ (2005), Sự nghiệp đổi mới và đổi mới công tác tư tưởng
thực hiện dân chủ ở cơ sở phường, xã Hà Nội, NXB Hà Nội, Hà Nội.
22. Phạm Thành Nam và Đỗ Thị Thạch (2005), Phát huy dân chỉ trong đấu
tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, NXB Lý luận và chính trị
Hà Nội, Hà Nội.
23. Bùi Hoài Sơn (2006), Dư luận xã hội, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
24. Nguyễn Quý Thanh (2006), Xã hội học về dư luận xã hội, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Trần Thị Hồng Thúy và Ngọ Văn Nhân (2004), Tác động của dư luận
xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, NXB Tư
pháp, Hà Nội.
26. Ngô Thị Thu Hương (2014), Dư luận xã hội đối với việc xây dựng và
thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
69
27. Tạ Thị Thu Hương (2009), Vai trò của dư luận xã Hội với việc thực hiện
pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật
(ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.
28. Báo cáo đánh giá hậu quả, tác động của việc ban hành văn bản trái pháp
luật năm 2017 của Bộ Tư pháp.
29. Báo cáo kết bảo tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
năm 2018 của UBND TP. Hà Nội.
30. Báo cáo kết bảo tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân
năm 2018 của UBND tỉnh Cao Bằng (từ ngày 15/08/2017 đến ngày
15/08/2018).
31. Từ điển (1996), Điều tra thăm dò dư luận, NXB Thống kê, Hà Nội.
32. 15400 chữ ký ủng hộ, bác sĩ Hoàng Công Lương có được xét vô tội?,
duoc-xet-vo-toi-7777873554.htm>, truy cập ngày 21/03/2020. 33. Bàn về khái niệm “Dư luận xã hội”, , truy cập ngày 08/03/2020. 34. Bàn về khái niệm “Dư luận xã hội”, truy cập ngày 08/03/2020. 35. Bàn về khái niệm và chỉ báo đo lường dư luận xã hội, luong-du-luan-xa-hoi-19692.html>, truy cập ngày 08/03/2020. 36. Báo chí trong vai trò định hướng dư luận xã hội, luan-xa-hoi.html>, truy cập ngày 25/04/2020. 37. Cần cảnh giác với chiêu trò kêu gọi biểu tình phản đối Luật đặc khi kinh tế, keu-goi-bieu-tinh-phan-doi-luat-dac-khu-kinh-te-231.html>, truy cập ngày 24/03/2020. 38. Cử tri cả nước đi bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, tuc-su-kien/item/29663902-cu-tri-ca-nuoc-di-bau-cu-dai-bieu-quoc- hoi-khoa-xiv-va-dai-bieu-hdnd-cac-cap-nhiem-ky-2016-2021.html>, truy cập ngày 19/03/2020. 39. Cưỡng hôn nữ sinh trong thang máy phạt 200 nghìn đồng như trò đùa, 200-nghin-dong-nhu-tro-dua-964427.html>, truy cập ngày 20/03/2020. 40. Đặc khu kinh tế Việt Nam, ngày 26/03/2020. 41. Dư luận xã hội, truy cập ngày 01/06/2020. 42. Lập biên bản hai người tung tin thất thiệt về dịch tả heo Châu Phi, thiet-ve-dich-ta-heo-chau-phi-581157.html>, truy cập ngày 23/03/2020. 43. Mạng xã hội và hội chứng “ném đá cộng đồng”, hoi-chung-nem-da-hoi-dong.html>, truy cập ngày 13/03/2020. 44. Nỗi oan của nam sinh vụ cô giáo vào nhà nghỉ với học sinh lớp 10, vao-nha-nghi-voi-hoc-sinh-lop-10-42937.html>, truy cập ngày 22/03/2020. 45. Tham nhũng đang từng bước được kiềm chế và có chiều hướng thuyên giảm, nhung-dang-tung-buoc-duoc-kiem-che-va-co-chieu-huong-thuyen- giam-306813/>, truy cập ngày 28/05/2020. 46. Thống kê số lượng người dùng Internet ở Việt Nam năm 2019, internet-o-viet-nam-nam-2019>, truy cập 08/03/2020. 47. Tiếp tục nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, hoi.aspx?ItemID=37440>, truy cập ngày 19/03/2020. 48. Xét xử và dư luận, < https://tapchitoaan.vn/bai-viet/suy-ngam-thoi- su/xet-xu-va-du-luan>, truy cập ngày 21/03/2020.70
71
72