ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Nguyễn Thị Ngàn
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L
HÀ NỘI, 2016
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------
Nguyễn Thị Ngàn
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2012-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: THS. NGUYỄN ĐĂNG DUY
HÀ NỘI, 2016
2
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng em. Các kết
quả nêu trong khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực.
Vậy, em viết lời cam đoan này đề nghị Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
xem xét để em có thể bảo vệ khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
3
Nguyễn Thị Ngàn
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 7 Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ............................................................................................................. 10 1.1. Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước ..................................................... 10 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước .................................................... 10
1.1.2. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường................................................................................................................13 1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ................................ 16 1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ............................... 16 1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước .................... 20
Chương 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................... 28 2.1. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ................. 29 2.2. Đối tượng, điều kiện cổ phần hóa ............................................................. 32 2.3. Các hình thức cổ phần hóa .................................................................... 35 2.4. Đối tượng mua cổ phần .......................................................................... 36 2.5. Xử lý tài chính khi cổ phần hóa ............................................................ 40 2.6. Xác định giá trị doanh nghiệp .................................................................. 42 2.7. Bán cổ phần lần đầu ............................................................................... 50 2.8. Chính sách đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa ............................. 52 Chương 3. THỰC TRẠNG THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................................... 53
3.1. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam qua các giai đoạn ................ 53 3.1.1. Giai đoạn 1990- 2001 ........................................................................... 53 3.1.2. Giai đoạn 2002- 2010 ........................................................................... 55 3.1.3. Giai đoạn 2011 đến nay ....................................................................... 57 3.1.4. Đánh giá toàn bộ quá trình cổ phần hóa đến nay .............................. 67
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước……………………………………………………………………………75
3.2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước về cổ phần hóa giai đoạn 2016 2020…………………………………………………………………......75
4
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam....................................................................................................... 78 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 87
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 89
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chính phủ CP:
Hội đồng Bộ trưởng HĐBT:
Phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu IPO:
Nghị định NĐ:
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA:
Quyết định QĐ:
Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương TPP:
Thông tư TT:
Thủ tướng TTg:
6
Tổ chức Thương mại Thế giới WTO:
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và nhà nước ta trong suốt 30 năm qua. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận
kinh tế quan trọng trong nền kinh tế, được nhà nước giao phó nhiều nhiệm vụ đồng
thời được nhà nước tạo điều kiện, cơ hội về vốn, nguồn lực để phát triển. Tuy nhiên,
trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước không tận dụng được những lợi thế của mình,
ngược lại còn bộc lộ nhiều hạn chế, tính không hiệu quả so với các thành phần kinh
tế khác. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu để khắc phục những
thiếu sót của bộ phận doanh nghiệp nhà nước, khi nền kinh tế nước ta chuyển từ tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá
trình này nhằm đa dạng hóa hình thức sở hữu, đổi mới phương thức quản lý đồng thời
nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mở ra triển vọng xây dựng thị trường vốn
lành mạnh, phong phú, tạo điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế. Cổ phần hóa không nhằm
xóa bỏ bộ phận doanh nghiệp nhà nước, ngược lại, tăng cường vai trò chủ đạo của
doanh nghiệp nhà nước, nâng cao chất lượng doanh nghiệp nhà nước nói riêng và
chất lượng nền kinh tế nói chung.
Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã có những bước đi mạnh mẽ
từ những năm đầu thí điểm 1990 cho đến tận hôm nay, khi cổ phần hóa hóa đang dần
bước vào giai đoạn cuối hoàn thành. Hàng loạt văn bản pháp lý đã được ban hành để
hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện cổ phần hóa ở tất cả các cấp, ngành, địa phương.Tư
tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về cổ phần hóa được quán triệt
sâu sắc trong tất cả các văn bản, các nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, XI, XII.
Nhận thấy được tầm quan trọng của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước cùng những thành tựu, hạn chế mà nước ta đạt được trong quá trình cổ phần hóa
suốt 30 năm qua, em đã chọn đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình là:
“Những vấn đề pháp lý về cổ phầGHGGn hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam”.
7
Việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý và thực tiễn thi hành pháp luật cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước hiện nay có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết, để từ đó rút ra
những kinh nghiệm, đưa ra những kiến nghị nhằm thúc đẩy, hoàn thiện tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hướng tới mục tiêu hoàn thành quá trình cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý về cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, thấy được những thành tựu đạt được
cũng như những khó khăn, hạn chế mà các doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa
gặp phải. Từ đó, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp
luật và thi hành. Khóa luận đi sâu nghiên cứu và khẳng định sự đúng đắn của các chủ
trương, chính sách cổ phần hóa của Đảng và nhà nước.
Việc nghiên cứu và phân tích những vấn đề khái quát cơ bản về doanh nghiệp
nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được khóa luận thực hiện dưới góc
độ pháp luật, thông qua phân tích các quy định pháp luật hiện hành về cổ phần hóa,
cũng như thực trạng tiến hành cổ phần hóa ở các doanh nghiệp. Từ đó khóa luận chỉ
ra những điểm bất cập trong các quy phạm pháp luật và đề xuất các kiến nghị, giải
pháp hoàn thiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước tại Việt Nam trong 30 năm qua.
Khóa luận nghiên cứu và phân tích những khái quát cơ bản về doanh nghiệp
nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; phân tích các quy định pháp luật
hiện hành về cổ phần hóa, phân tích thực trạng tiến hành cổ phần hóa và đề xuất các
kiến nghị, giải pháp hoàn thiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em tiến hành khai thác thông tin từ các sách,
báo, tạp chí, và luận văn nhằm tìm kiếm số liệu của các bộ, ngành, doanh nghiệp, số
liệu của Tổng cục thống kê. Tham khảo các công trình nghiên cứu về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước của các tác giả trong nước. Đối chiếu, so sánh, thống kê, hệ
8
thống, đưa ra những tổng hợp, phân tích về vấn đề nghiên cứu.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Chương 2: Nội dung pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt
Nam hiện nay.
Chương 3: Thực trạng thi hành và giải pháp hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa
9
doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay.
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước là một khái niệm hoàn toàn không mới khi hình thái
doanh nghiệp này không thể thiếu trong bất kỳ nền kinh tế của các nước trên thế giới.
Ngân hàng thế giới 1991 định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước như sau: “Doanh
nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh tế mà quyền sở hữu hay quyền kiểm soát thuộc
về Chính phủ, và phần lớn thu nhập của chúng được tạo ra từ việc bán hàng hóa và
dịch vụ”.
Đối với Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng được đề cập trong
nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên khái niệm doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
không bất biến mà có sự thay đổi trong từng thời kỳ.
Theo điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo Nghị định
số 50/HĐBT ngày 22/03/1988 và quy chế về thành lập, giải thể doanh nghiệp nhà
nước ban hành kèm Nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 thì “Doanh nghiệp Nhà
nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách
chủ sở hữu”.
Doanh nghiêp nhà nước hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã
hội của nhà nước. Khái niệm này không cụ thể, chỉ khẳng định sự can thiệp trực tiếp
và toàn diện của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp.
Khái niệm doanh nghiệp nhà nước được đề cập lần đầu trong luật doanh nghiệp
nhà nước 1995. Theo đó, “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu
tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà
nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý” [26, 84].
Quan niệm này về cơ bản giống với các văn bản pháp lý trước đó, tập trung đề cập
10
đến vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động kinh doanh, công ích vì mục
tiêu kinh tế xã hội. Với khái niệm này, doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động trên
mọi lĩnh vực, ngành nghề bởi vai trò quan trọng của nó.
Trải qua nhiều lần sửa đổi luật, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng có
những thay đổi theo. Theo luật doanh nghiệp nhà nước 2003, “Doanh nghiệp nhà
nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn
góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công
ty trách nhiệm hữu hạn” [27, 84]. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có
các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh
trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi,
có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Luật doanh nghiệp nhà
nước 2003 đã liệt kê các đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp nhà nước. Khái niệm này
đã cụ thể hơn khi khẳng định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước
sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần chi phối, vốn góp chi phối thay vì chỉ là
doanh nghiệp do nhà nước đầu tư vốn như trước. Doanh nghiệp nhà nước được tổ
chức dưới nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với các mô hình doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường như công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn.
Năm 2005, luật doanh nghiệp mới ra đời thay thế luật doanh nghiệp năm 2000
và luật doanh nghiệp nhà nước 2003. Luật doanh nghiệp 2005 đã thống nhất, không
có sự phân biệt đối xử đối với tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở
hữu, thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là doanh nghiệp
trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ [28, 85]. Như vậy, đối tượng thuộc
diện doanh nghiệp nhà nước được mở rộng dưới mọi hình thức chỉ cần doanh nghiệp
có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu nhà nước.
Luật doanh nghiệp 2014 đã thu hẹp đối tượng thuộc diện doanh nghiệp nhà
nước khi định nghĩa “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ” [29, 85]. Đây là một thay đổi lớn trong quan niệm về doanh nghiệp
nhà nước phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Theo đó, nhà nước giảm dần sự can thiệp
vào hoạt động của doanh nghiệp bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà
nước và vốn đầu tư tư nhân. Sự thay đổi định nghĩa này đem lại sự bình đẳng trong
11
kinh doanh giữa các thành phần doanh nghiệp, đặc biệt đem lại sự công bằng cho
doanh nghiệp dân doanh. Mặt khác, định nghĩa mới về doanh nghiệp nhà nước có thể
thúc đẩy quá trình cổ phần hóa và thoái vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà
nước hiện này- theo luật sư Nguyễn Hưng Quang. Theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh: “Việc
giảm danh nghĩa và pháp lý số doanh nghiệp nhà nước có thể có lợi trong quá trình
đàm phán hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”. Sự thay đổi khái niệm
doanh nghiệp nhà nước đã giúp doanh nghiệp tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh
và đầu tư. Doanh nghiệp bắt buộc phải năng động, sáng tạo để có thể tồn tại và đứng
vững trên thị trường. Với sự thay đổi này, hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước sẽ diễn ra nhanh hơn. Tổ chức và điều hành doanh nghiệp sau tái cơ cấu sẽ có
những thay đổi tích cực khi có só sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý,
giữa quản lý của chủ sở hữu với điều hành hoạt động kinh doanh, giữa quản lý điều
hành với kiểm tra kiểm soát, đồng thời cơ cấu tổ chức được bố trí hợp lý, gọn nhẹ,
tinh giản được lao động gián tiếp. Sự phân biệt đối xử trên thực tế giữa các thành
phần kinh tế dần được xóa bỏ, tạo sự cạnh tranh bình đẳng.
Tuy nhiên cũng có những ý kiến khác cho rằng sự thay đổi định nghĩa về doanh
nghiệp nhà nước dẫn đến những hệ quả liên quan đến doanh nghiệp có cổ phần chi
phối là nhà nước như:
- Sự thay đổi này không làm giảm bớt số lượng doanh nghiệp nhà nước đang
tồn tại trên thực tế ở những doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước,
đồng thời cũng không hạn chế được những vấn đề của doanh nghiệp nhà nước. Năm
2011, số doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước là 1.217 doanh nghiệp chiếm
1/3 tổng số doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Thực tế, những
doanh nghiệp này vẫn được coi là doanh nghiệp nhà nước, nhà nước vẫn sử dụng để
thực hiện mục tiêu chính sách, vẫn thuộc quyền kiểm soát của nhà nước, vẫn tồn tại
sự độc quyền, áp đặt của cổ đông nhà nước, cách thức quản trị doanh nghiệp không
thay đổi,...
- Khi doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước không còn là doanh
nghiệp nhà nước sẽ dẫn đến việc nhà nước không mấy quan tâm đến loại doanh nghiệp
này. Vì vậy, doanh nghiệp không có cách tiếp cận đúng, không có các nỗ lực, các
biện pháp, chính sách cải cách phù hợp, dẫn đến phó mặc các doanh nghiệp này cho
12
những người đại diện cổ đông nhà nước.
- Không coi doanh nghiệp có cổ phần chi phối nhà nước là doanh nghiệp nhà
nước là đi ngược lại với thông lệ quốc tế. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, sau làn
sóng tư nhân hóa từ những năm 1980, các doanh nghiệp nhà nước ở những nước này
chủ yếu là những doanh nghiệp do nhà nước sở hữu cổ phần chi phối, thậm chí gồm
cả những doanh nghiệp có cổ phần dưới mức chi phối nhưng nhà nước vẫn nắm quyền
kiểm soát [13, 83].
Vậy, cần hiểu và vận dụng khái niệm mới về doanh nghiệp nhà nước một cách
khách quan, linh hoạt để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước, đồng thời tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.
1.1.2. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sở hữu toàn dân là tư tưởng chi phối,
doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước đóng vai trò chủ
đạo trong mọi khu vực, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhà nước
thuộc sở hữu nhà nước, được điều hành, kiểm soát về mọi phương diện bởi nhà nước.
Vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước luôn được xác định và định hướng
bởi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước cũng như
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là chủ trương nhất quán của Đảng tại các kỳ đại
hội. Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khóa IX năm 2001 nêu rõ ”Doanh nghiệp nhà
nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà
nước định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ
yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 3 khóa IX xác định ”Tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt
và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ
yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực sản phẩm
của nền kinh tế”. Đại hội X có sự điều chỉnh nhất định về vị trí của doanh nghiệp
nhà nước, đó là ”Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước và tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất
tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích”.
13
Đại hội XI chỉ khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà không khẳng định
rõ ràng, trực tiếp và cụ thể về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trong
nền kinh tế như Hội nghị trung ương 3 khóa IX và các văn kiện khác trước đây.
Trên thực tế, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới theo
hướng thu hẹp dần, giảm bớt ở nhiều vị trí không cần đến sự hiện diện doanh nghiệp
nhà nước, kể cả diện hoạt động- phạm vi ngành, lĩnh vực có doanh nghiệp nhà nước
và mật độ hiện diện của doanh nghiệp nhà nước- số lương doanh nghiệp nhà nước
cùng kinh doanh trong ngành, lĩnh vực. Số ngành, lĩnh vực nhà nước giữ 100% vốn
đã giảm từ 43 ngành, lĩnh vực năm 2002 xuống 20 ngành, lĩnh vực năm 2011. Số
doanh nghiệp nhà nước từ 12.600 doanh nghiệp năm 1991 còn 3265 doanh nghiệp
năm 2011, trong đó, số doanh nghiệp sở hữu 100% vốn của nhà nước từ 5.655 doanh
nghiệp năm 2001 còn 1.254 doanh nghiệp năm 2013.
Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nhiều vị trí quan trọng có ảnh hưởng lớn đến
nhiều ngành, lĩnh vực và nền kinh tế. Cuối năm 2011, có 452 doanh nghiệp thuộc lĩnh
vực quốc phòng an ninh và hoạt động công ích chiếm 34,5%. Số doanh nghiệp còn
lại hoạt động kinh doanh và giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực hạ tầng. Đây là những
vị trí quan trọng cần có doanh nghiệp nhà nước để phát triển. Những vị trí này chủ
yếu do các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nắm giữ. Các Doanh nghiệp nhà
nước chủ yếu thông qua các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước giữ vai trò chi
phối hoặc có ảnh hưởng đến các ngành, lĩnh vực quan trọng như điện, than, xăng dầu,
bưu chính viễn thông, .... Doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm gần 1% tổng số doanh
nghiệp cả nước nhưng lại có các sản phẩm dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế như
hệ thống lưới điện quốc gia đã vươn tới những vùng sâu, vùng xa, đưa tỷ lệ hộ sử
dụng điện cả nước đạt 97,5%. Doanh nghiệp nhà nước cung ứng gần như toàn bộ
than, phần lớn thép, xi măng cho nền kinh tế, cung ứng 85% sản lượng xăng dầu, 100%
vận tải đường sắt, 98% lượng vận tải hàng không nội địa, 56% dịch vụ tài chính, tín
dụng; 70% lượng gạo xuất khẩu, 80% lượng phân bón hóa học, 95% khách hàng sử
dụng dịch vụ viễn thông của 2 tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam- VNPT và
tập đoàn viễn thông quân đội- Vietel. Năm 2012, Chính phủ đánh giá tình hình tài
chính và kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước phát triển tương
14
đối ổn định, hơn 80% doanh nghiệp làm ăn có lãi, các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước đạt tổng doanh thu hơn 1.621 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2011, lợi
nhuận trước thuế đạt 127,5 nghìn tỷ đồng.
Do nắm giữ các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nên Doanh nghiệp nhà
nước giữ vị trí độc quyền ở một số ngành, lĩnh vực mang tính chất độc quyền tự nhiên
và độc quyền do cạnh tranh không lành mạnh mà ra. Nguyên nhân của thực trạng này
là do nhà nước thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp nhà nước độc lập
thành các tổng công ty, sáp nhập các tổng công ty thành các tập đoàn kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước được dùng để điều tiết vĩ mô, ổn định thị trường, bình
ổn nền kinh tế. Vai trò này được nhấn mạnh đặc biệt trong thời ký kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp trước đây. Hiện nay, Doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục thể hiện vai
trò này, tuy nhiên, quy mô và mức độ giảm đi rất nhiều. Năm 2008- 2009, doanh
nghiệp nhà nước được sử dụng nguồn vốn nhà nước hoặc nguồn vốn tự huy động để
tăng đầu tư, chống suy giảm kinh tế. Năm 2011- 2012, doanh nghiệp nhà nước được
sử dụng để thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bằng cách
cắt giảm đầu tư và chi tiêu, không tăng giá bán sản phẩm, dịch vụ (than, điện, xăng
dầu, sắt thép,..) theo yêu cầu của nhà nước. Tuy nhiên với nền kinh tế thị trương hiện
nay, vai trò điều tiết vĩ mô không còn phù hơp. Việc lạm dụng vai trò này làm thị
trường bọ bóp méo, tạo sự bất bình đẳng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, vị trí, vai
trò của doanh nghiệp nhà nước được định vị lại với nhận thức đúng đắn về kinh tế
nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không biểu hiện ở số lượng đông đảo
doanh nghiệp nhà nước, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế hay tổng sản phẩm quốc
nội, không phải ở việc doanh nghiệp nhà nước phải luôn luôn làm công cụ vật chất
để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô hay doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ
những vị trí then chốt trong nền kinh tế với toàn bộ là sở hữu nhà nước. Vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước phải là ở việc doanh nghiệp nhà nước đi đầu ứng dụng tiến
bộ khoa học công nghiệp, đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội.
Doanh nghiệp nhà nước góp phần bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước. Doanh nghiệp nhà nước tạo lập, dẫn dắt, thúc đẩy hình thành, phát tiển nền
tảng hạ tầng kinh tế cơ bản và thiết yếu, tạo đà cho phát triển kinh tế xã hội, thúc đầy
15
cạnh tranh và hội nhập. Doanh nghiệp nhà nước làm công cụ khắc phục những thất
bại hoặc thiếu hụt của thị trường khi có các lĩnh vực, ngành nghề không có thị trường,
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không tham gia hay do độc quyền tự nhiên,
chưa hình thành được thị trường cạnh tranh. Doanh nghiệp nhà nước làm công cụ hỗ
trợ với các chính sách điều tiết kinh tế, ổn đinh kinh tế vĩ mô được áp dụng trong
những trường hợp đặc biệt như khủng hoảng, suy giảm, lạm phát cao, ...
Doanh nghiệp nhà nước góp phần tạo ra vị thế chủ đạo cho kinh tế nhà nước
dựa trên ngành, lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước hoạt động, mức độ sở hữu của nhà
nước ở các doanh nghiệp nhà nước và tổng sở hữu nhà nước trong ngành, lĩnh vực
hoạt động chính hay quy mô của doanh nghiệp nhà nước.
1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Theo quan điểm của nhiều quốc gia đã tiến hành cổ phần hóa như Trung Quốc,
Liên Xô cũ, quá trình cổ phần hóa nằm trong quá trình lớn hơn là tư nhân hóa. Tư
nhân hóa theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc là “Sự biến đổi tương quan giữa nhà
nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước ưu tiên thị trường. Nền kinh
tế tư nhân được khuyến khích phát triển, hạn chế sự can thiệp trực tiếp của nhà nước
vào nền kinh tế” [16, 84].
Quan điểm cổ phần hóa của Trung Quốc dựa trên tư tưởng cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lenin coi cổ phần hóa là một bộ phận quan trọng trong chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nước, với mục tiêu tìm kiếm hiệu quả kinh doanh chứ không phải tìm
kiếm các hình thức sở hữu khác nhau.
Quan niệm cổ phần hóa của các nước đều hướng đến việc nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh, thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển mô hình doanh nghiệp một
chủ sở hữu là nhà nước sang mô hình công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để phù
hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Tại Việt Nam, theo quan điểm của Đảng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đáp ứng cơ chế thị trường, huy động vốn từ các
thành phần kinh tế. Đảng và nhà nước khẳng định cổ phần hóa không nhằm mục đích
tư nhân hóa. Cổ phần hóa hướng tới việc tháo gỡ khó khăn về vốn, cơ chế hoạt động,
16
không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước.
Thuật ngữ cổ phần hóa xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980, đầu những
năm 1990 gắn với công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Có hai luồng ý kiến
trái ngược nhau về cổ phần hóa ở nước ta. Một bên cho rằng cổ phần hóa ở Việt Nam
không khác gì quá trình tư nhân hóa. Đa số cho rằng, cổ phần hóa ở Việt Nam không
phải tư nhân hóa. Khi luật doanh nghiệp 2005 còn hiệu lực, ông Hồ Xuân Hùng- phó
trưởng ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương đã khẳng định: “Cổ phần
hóa các doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn không phải tư nhân hóa. Với những doanh
nghiệp nhà nước nắm giữ trên 50% vốn sau khi cổ phần, thì theo luật doanh nghiệp
nó vẫn là doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy không nên băn khoăn nó là tư nhân hay là
nhà nước”.
Trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa, đã có rất nhiều khái niệm về cổ phần
hóa được đưa ra.
Ông Đỗ Mai Thành cho rằng “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc nhà
nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản doanh nghiệp của mình cho các cá nhân
hay tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân
viên của chính doanh nghiệp nhà nước thông qua đấu thầu công khai hay thông qua
thị trường chứng khoán để hình thành nên các công ty cổ phần” [30, 85].
Hay một khái niệm khác: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển
đổi doanh nghiệp nhà nước từ một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước thành doanh
nghiệp đa sở hữu, theo đó tùy vị trí và tính chất cụ thể của doanh nghiệp trong nền
kinh tế quốc dân mà nhà nước vẫn giữ vai trò chi phối hoặc không cần giữ vai trò chi
phối nữa” [16, 84].
Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không phải quá trình tư nhân
hóa mà là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Nhà nước sẽ chuyển
một phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nước cho cá nhân, tổ chức khác như người
lao động trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp nhằm đa dạng hóa các chủ
sở hữu cho doanh nghiệp, góp phần tạo sự năng động và hiệu quả trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà
nước, phát huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ
được giao. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động
17
thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản
thuộc sở hữu nhà nước ngày càng tăng lên, tạo sự bình đẳng giữa khu vực kinh tế nhà
nước và khu vực kinh tế ngoài nhà nước.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam có những đặc điểm:
Thứ nhất, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là biện pháp chuyển doanh
nghiệp từ sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần- đa sở hữu. Doanh nghiệp
được cổ phần hóa sẽ không chỉ có một chủ sở hữu độc quyền quyết định mọi vấn đề
về đầu tư, kinh doanh mà sẽ có các chủ sở hữu- các cổ đông đã đóng góp vốn, mua
cổ phần tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần. Đây là hình thức chuyển đổi loại
hình doanh nghiệp từ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là nhà nước sang
công ty cổ phần. Doanh nghiệp sau khi cổ phần phải hoạt động tuân thủ các quy định
của luật doanh nghiệp.
Ba là, Quá trình cổ phần hóa được tiến hành thông qua hình thức nhà nước bán
một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Khi tiến hành cổ phần
hóa, doanh nghiệp nhà nước tiến hành phát hành và chào bán cổ phần. Doanh nghiệp
nhà nước sẽ lựa chọn các hình thức phát hành cổ phần khác nhau căn cứ vào nhu cầu
nắm giữ cổ phần chi phối trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nếu muốn nắm giữ
cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước lựa chọn hình thức bán một phần vốn nhà
nước hiện có hay phát hành thêm cổ phần để huy động vốn. Nếu không có nhu cầu
nắm giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước có thể bán toàn bộ vốn nhà nước
hiện có để các nhà đầu tư tự quyết định phần trăm nắm giữ cổ phần của mình có tính
đến những giới hạn mà quy định pháp luật đặt ra.
Bản chất của cổ phần hóa:
Bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được xem xét trên 3 khía
cạnh:
Về bản chất pháp lý: Quá trình cổ phần hóa là thay đổi chủ sở hữu, biến doanh
nghiệp một chủ là nhà nước thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu khác nhau bằng
cách bán một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp cho những
18
người khác. Những người này trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp theo tỷ lệ tài
sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Các chủ sở hữu có quyền và nghĩa
vụ pháp lý, được hưởng lợi tức và các quyền tham gia hoạt động quản lý doanh nghiệp
tương đương với phần vốn góp đã mua.
Về bản chất chính trị: Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không phải quá
trình tư nhân hóa toàn bộ nền kinh tế mà là quá trình tư nhân hóa một phần. Nhà nước
vẫn giữ phần vốn góp nhất định thậm chí là chi phối trong doanh nghiệp sau cổ phần
hóa. Theo luật doanh nghiệp 2005, sau khi cổ phần hóa, nhà nước vẫn nắm giữ trên
50% tổng vốn góp thì doanh nghiệp vẫn là doanh nghiệp nhà nước và nhà nước vẫn
nắm giữ vai trò chi phối, quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, với luật doanh nghiệp mới
2014, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoàn toàn là công ty cổ phần, không còn là
doanh nghiệp nhà nước, mọi hoạt động điều hành, quản lý, ra quyết định đều phải
tuân theo các quy định của luật doanh nghiệp về công ty cổ phần. Tuy nhiên, hình
thái sở hữu nhà nước vẫn tồn tại. Nó chỉ không còn nắm giữ vai trò chi phối, vị trí
quyết định trong doanh nghiệp mà thôi. Cổ phần hóa không xóa bỏ sở hữu nhà nhà
nước mà chỉ giảm mức độ sở hữu nhà nước.
Về bản chất thương mại: Cổ phần hóa là việc mua bán cổ phiếu. Người bán là
doanh nghiệp mong muốn thu thêm tiền để tăng vốn chủ sở hữu. Họ buộc phải chia
nhỏ quyền lực của mình và san sẻ nó cho các chủ sở hữu khác. Người mua cổ phần
hướng đến việc hưởng lợi tức từ cổ phần mình đầu tư vào. Khi nắm giữ tỷ lệ cổ phần
nhất định, người mua cổ phần được gia tăng quyền lợi của mình khi tham gia vào
hoạt động quản lý, biểu quyết các vấn đề của doanh nghiệp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những điểm khác với tính
quy luật chung của các nước, bởi:
- Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong
quá trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác
với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển khi doanh nghiệp
nhà nước là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của
sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm
19
trong cơ chế bao cấp và kế hoạch của nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường,
khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát
triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.
- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức
và hoạt động theo yêu vầu và kế hoạch của nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực
hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân
và tuân theo quy luật thị trường.
- Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác
với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai
đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội trong và ngoài doanh nghiệp
để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.
Như vậy, chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là một
trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết những tồn tại về tình trạng sản
xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước – vấn đề đang gây trở
ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nước ta có những đặc thù, khác biệt nhất định về
đối tượng cổ phần hóa, chính sách, quy trình cổ phần hóa, vấn đề xác định giá trị
doanh nghiệp, xử lý các khoản nợ tồn đọng,... sẽ được đề cập ở phần nội dung sau.
1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu tất yếu khi nước ta bước
vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân mà quan trọng nhất là từ những hạn chế trong hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước và lợi ích mà cổ phần hóa đem lại.
Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Doanh nghiệp nhà nước được thành lập ngay sau khi miền Bắc được giải
phóng. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã góp phần tích cự vào sự nghiệp giải
phóng miền Nam. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất, cơ chế bao cấp, nền kinh
tế tự cung tự cấp đã triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh. Mục đích của việc thành
20
lập doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo ra tích lũy cho ngân sách nhà nước, tạo việc
làm cho người lao động nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước không đáp
ứng được mục tiêu này.
Sự yếu kém trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ nhiều
nguyên nhân:
- Do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài. Cơ chế kinh tế này
coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, xem nhẹ quy luật kinh tế thị
trường nên hạch toán doanh nghiệp mang tính hình thức, đội ngũ cán bộ quản lý quan
liêu, nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước không
hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu cảu thị trường và thực tế, thái độ lao động của
doanh nghiệp nhà nước mang tính ỷ lại, năng suất lao động thấp.
- Do sự yếu kém của đội ngũ công nhân, cán bộ quản lý và trình độ công nghệ.
Công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên không thể
cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp không có tích lũy nội bộ.
- Trình độ quản lý vĩ mô nền kinh tế và doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Hệ
thống chính sách pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, hiệu lực thấp gây khó khăn cho
doanh nghiệp. Pháp luật còn nhiều kẽ hở gây nên tình trạng kém hiệu quả trong quản
lý tài chính, kế toán, kiểm toán, thanh tra. Nhà nước không nắm được thực trạng hoạt
động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước không xác định rõ quyền lợi, trách
nhiệm của người lao động, người lao động không có trách nhiệm, không quan tâm
đến quản lý sử dụng tài sản doanh nghiệp, tham nhũng, tiêu cực phổ biến trong doanh
nghiệp.
Mặc dù được sắp xếp, đổi mới nhưng đến nay, đầu tư của các doanh nghiệp
nhà nước vẫn còn dàn trải, nhiều tập đoàn, tổng công ty đầu tư ra ngoài ngành vào
bất động sản, ngân hàng, tài chính, thị trường chứng khoán, đầu tư chéo vào các lĩnh
vực khác hàng chục tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2013 theo chỉ đạo của Chính phủ các
doanh nghiệp nhà nước đã thoái vốn ngoài được 4.180 tỷ đồng nhưng mới đạt được
19% trong tổng vốn đã đầu tư ngoài ngành là 22.000 tỷ đồng. Vì vậy, việc thoái vốn
trong những năm tới của các doanh nghiệp nhà nước cần sự cố gắng rất lớn mới có
thể hoàn thành mục tiêu đề ra. Khi thị trường bất động sản bị đóng băng, thị trường
21
chứng khoán giảm sút mạnh, tình hình trong nước và quốc tế gặp khó khăn đã khiến
cho tình trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước giảm sút, nợ đọng, nợ
xấu tăng lên đột biến. Tính đến cuối năm 2012, nợ phải trả của các doanh nghiệp nhà
nước tăng nhanh với hơn 1,3 triệu tỷ đồng (chiếm 56% tổng nguồn vốn), lớn hơn 1,46
lần vốn chủ sở hữu và chiếm 70% nợ xấu của các ngân hàng thương mại, nợ phải thu
của các doanh nghiệp nhà nước cũng tăng lên: 275.975 tỷ đồng trong đó, nợ khó đòi
là 13.490 tỷ đồng.
Doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ một nguồn lực rất lớn của nền kinh tế
(chiếm 33,5% vốn sản xuất kinh doanh, 50% vốn đầu tư từ nhà nhà nước, 60% vốn
tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% vốn ODA,...) nhưng hơn 50% doanh
nghiệp nhà nước vẫn thuộc loại vừa và nhỏ, trình độ công nghệ, năng suất lao động
và hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Tỷ suất
lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2005-2011 chỉ đạt
5,8%, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong cùng giai đoạn đạt
9,5%, gấp 1,6 lần so với doanh nghiệp nhà nước.
Tình trạng độc quyền trong kinh doanh đã khiến cho hoạt động của nhiều
doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp, thiếu động lực cạnh tranh, giá cả lên xuống
không phù hợp với cơ chế thị trường gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mô hình quản
lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, lúng túng, chưa rõ
ràng trong việc phân công, phân cấp và tổ chức thực hiện giữa chức năng sản xuất
kinh doanh và hoạt động công ích phi lợi nhuận. Năng lực quản trị doanh nghiệp chưa
được nâng cao và chậm được đổi mới. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà
nước trong việc quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chồng
chéo; việc thanh tra, kiểm tra và cơ chế dân chủ, công khai, minh bạch trong quản trị
đối với doanh nghiệp nhà nước bị buông lỏng, tình trạng tham nhũng, lãng phí chậm
được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời đã gây thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của
nhà nước điển hình là các vụ tham nhũng tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt
Nam (Vinashin), Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines), Công ty cho thuê tài
chính II,...
Với những hạn chế đó của doanh nghiệp nhà nước, việc tái cấu trúc doanh
22
nghiệp nhà nước nói chung và việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nói riêng là
một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô
hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay.
Vai trò của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy vai trò to lớn của quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước. Kết quả cổ phần hóa của các nước trên thế giới đã tiến hành
cổ phần hóa đã khẳng định chắc chắn điều đó.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước xử lý quan hệ sản xuất để phát triển lực
lượng sản xuất, tạo mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cổ phần
hóa cải tạo lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất mới phát triển, giải quyết
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đem lại sự đổi mới tư duy,
hiệu quả sử dụng phương tiện sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động.
Cổ phần hóa góp phần tích cực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nguồn vốn thu được từ cổ phần hóa góp phần vào đổi mới công nghệ, đào tạo,
nâng cao chất lượng lao động thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
huy và tận dụng những ưu điểm của lực lượng sản xuất, cải thiện quan hệ sản xuất.
Cổ phần hóa là đòn bẩy để các doanh nghiệp tích cực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường
để tìm kiếm lợi nhuận.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước góp phần làm thay đổi tư duy xã hội chủ
nghĩa theo chế độ bao cấp lỗi thời lạc hậu, thay vào đó là tư duy năng động, nhạy bén
trước tình hình biến đổi của kinh tế thế giới. Chế độ kinh tế một chủ sở hữu là nhà
nước thực hiện chính sách bao cấp đã lỗi thời, bộc lộ những hạn chế trong kìm hãm
sự phát triển của kinh tế xã hội. Thay đổi nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa dạng loại hình kinh tế, đa dạng sở
hữu thúc đẩy quá trình tìm kiếm lợi nhuận trước những thách thức khó khăn của nền
kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp dịch vụ, đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà
nước.
Cổ phần hóa góp phần làm chuyển dịch các thành phần kinh tế. Trước cổ phần
hóa, doanh nghiệp hoàn toàn thuộc thành phần kinh tế nhà nước, nhà nước nắm giữ
23
vốn và quyết định mọi hoạt động sống còn của doanh nghiệp. Sau cổ phần hóa, với
sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế từ việc nắm giữ cổ phần trong doanh nghiệp,
tỷ lệ sở hữu cổ phần sẽ quyết định doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào.
Nếu sở hữu của tập thể người lao động chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tập thể. Nếu sở hữu nhà nước chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế nhà nước. Trường hợp sở hữu tư bản tư nhân chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy, cổ phần hóa đã làm thành phần kinh tế nhà
nước giảm đi về mặt quy mô, thay vào đó là sự gia tăng quy mô của các thành phần
kinh tế khác, góp phần vào sự chuyển dịch thành phần kinh tế.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm đa dạng hóa sở hữu vốn nhà nước,
xác định được rõ phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và vốn của các nhà đầu tư khác,
từ đó gắn được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà đầu tư với hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời vốn, tài sản nhà nước trong các doanh
nghiệp cổ phần hóa được đánh giá lại theo quy định, làm minh bạch được tài chính
doanh nghiệp, làm rõ được công nợ, xử lý được nhiều tồn đọng về vốn, tài sản, đất
đai để từ đó có phương án sử dụng hợp lý hơn.
Cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty, tăng
cường huy động vốn đầu tư từ xã hội, cải tiến khoa học kỹ thuật công nghệ, xóa bỏ
tư tưởng nhà nước bao cấp của công nhân viên, tạo ý thức làm việc tốt hơn cho công
nhân viên trong công ty, xóa bỏ cơ chế quản lý cứng nhắc, yếu kém và khắc phục tình
trạng lãi giả, lỗ thật còn đang tồn tại trong doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa là cơ
hội để doanh nghiệp tự chủ kinh doanh, bố trí lại cơ cấu tổ chức trong công ty, tinh
giảm biên chế và có cơ hội để phát triển kinh doanh, tìm kiếm khách hàng mới và
nâng cao năng suất lao động. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ giải quyết được
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, góp phần xã hội hóa lực
lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi cổ phần hóa, người lao động sẽ
gắn bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh
nghiệp và được hưởng thù lao và lợi nhuận dựa trên chính sức lực mà mình bỏ ra.
Phương thức quản lý được thay đổi sẽ tạo nên sự năng động, tự chủ hơn trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
Cổ phần hóa là một yếu tố thúc đẩy sự hành thành và phát triển thị trường
24
chứng khoán, tạo nên một lĩnh vực hoạt động kinh tế năng động, đưa nền kinh tế Việt
Nam hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Các đợt chào bán cổ phần sẽ góp phần
làm thông tin công ty được công khai tạo sự cạnh tranh, phát triển hướng tới mục tiêu
tìm kiếm lợi nhuận. Cổ phần hóa là giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn
lực trong và ngoài nước. Việc huy động các nguồn lực đặc biệt là nguồn vốn của các
cá nhân, tổ chức giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu
tư, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài
nước, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế.
Ưu điểm của công ty cổ phần
Ngay từ tên gọi ”cổ phần hóa”, quá trình này đã gắn với kết quả chuyển đổi
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Vậy tại sao hình thức công ty cổ phần
lại được lựa chọn làm mục tiêu chuyển đổi mà không phải một hình thức công ty khác
như công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, ...? Phân tích những ưu điểm
của công ty cổ phần ta sẽ trả lời được câu hỏi trên.
Công ty cổ phần được định nghĩa theo luật doanh nghiệp 2014 như sau:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không
hạn chế số lượng tối đa;
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật doanh
nghiệp.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn [29,
25
85].
Thông qua khái niệm trên, ta thấy mô hình công ty cổ phần có rất nhiều ưu
điểm như:
Đầu tiên, công ty cổ phần là một chủ thể pháp lý độc lập, có tư cách pháp nhân.
Điều đó cho phép công ty cổ phần có các quyền và nghĩa vụ nhất định. Công ty cổ
phần có tư cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập. Bằng tài sản của mình, công ty cổ phần
tự mình tham gia vào các hoạt động với nhiều mục đích khác nhau mà mục đích lợi
nhuận luôn được đặt lên hàng đầu. Trong quá trình hoạt động, công ty tự chịu trách
nhiệm về các giao dịch, các khoản nợ bằng tài sản của mình. Người tiến hành giao
dịch chỉ là người đại diện cho quyền và nghĩa vụ của công ty. Bản chất, công ty phải
chịu trách nhiệm với các giao dịch ấy. Tài sản của công ty được hình thành từ nguồn
vốn góp của các cổ đông. Các cổ đông góp vốn thành lập công ty, vốn góp ấy là tài
sản riêng của công ty, các cổ đông chỉ được hưởng các lợi ích nhất định từ phần vốn
mình đóng góp theo quy định của pháp luật.
Ưu điểm thứ hai của công ty cổ phần là chế độ trách nhiệm hữu hạn của các
cổ đông. Các cổ đông góp vốn hình thành công ty cổ phần. Phần vốn góp ấy là giới
hạn rủi ro tài chính của các cổ đông trên tổng vốn của công ty. Trách nhiệm của cổ
đông được hạn chế trong phạm vi số vốn mà họ đóng góp. Vì không có quyền với tài
sản của công ty nên các cổ đông không phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của
công ty. Khi có một nghĩa vụ tài chính phát sinh, công ty phải tự mình thực hiện nghĩa
vụ ấy bằng tài sản của mình. Bên có quyền đối với nghĩa vụ ấy chỉ có quyền yêu cầu
công ty thực hiện nghĩa vụ mà không được yêu cầu các cổ đông của công ty thực hiện
bởi các cổ đông không phải chủ thể liên quan đến nghĩa vụ ấy. Các cổ đông sẽ không
bao giờ mất nhiều hơn số vốn ban đầu họ bỏ ra. Đó là điểm khác biệt lớn của công ty
cổ phần nói riêng và các công ty đối vốn nói chung so với các công ty đối nhân là
doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh. Tính chất trách nhiệm hữu hạn đã thu
hút các nhà đầu tư đầu tư vào công ty cổ phần.
Ưu điểm thứ ba của công ty cổ phần là cấu trúc vốn linh hoạt. Mọi hoạt động,
quyết định của công ty cổ phần đều dựa trên cơ cấu vốn của các cổ đông. Quyền lực
trong công ty cổ phần sẽ thuộc về người nắm giữ tỷ lệ cổ phần cao trong công ty. Quy
mô vốn sẽ quyết định tiềm lực của của công ty. Nó liên quan mật thiết đến khả năng
26
huy động vốn nợ phục vụ sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu đã có.
Cổ phần của công ty được chuyển nhượng linh hoạt, tự do như mua bán, tặng cho,
thừa kế. Công ty cổ phần cho phép các cổ đông tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho các cổ đông khác hay cho người khác không phải cổ đông công ty trừ một
số hạn chế nhất định trong 3 năm đầu thành lập công ty hay với cổ phần ưu đãi. Các
cổ đông tiến hành chuyển nhượng trực tiếp hay thông qua sàn giao dịch chứng khoán
đối với các công ty có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán. Phương thức
này là phổ biến với công ty có quy mô vốn lớn. Việc mua bán cổ phiếu trên sàn giao
dịch chứng khoán diễn ra hàng ngày, hàng giờ, vì thế nó làm tỷ lệ sở hữu cổ phần
trong công ty cũng thay đổi liên tục. Việc chuyển nhượng cổ phần ít làm ảnh hưởng
đến cơ cấu quản lý, tổ chức của công ty ngoại trừ các giao dịch lớn tạo nên tính ổn
định trong hoạt động của công ty. Bên cạnh đó, công ty cổ phần được phép tự do huy
động các nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Công ty được phát hành các loại
cổ phiếu, trái phiếu để thu hút vốn đầu tư, mở rộng quy mô vốn, … Khác với công ty
trách nhiệm hữu hạn bị giới hạn trong việc phát hành cổ phiếu.
Ưu điểm cuối cùng là tính chuyên môn cao trong cơ cấu tổ chức hoạt động.
Bộ máy hoạt động của công ty cổ phần được phân cấp rõ ràng với chức năng chuyên
môn cao. Đại hội đồng cổ đông có quyền lực cao nhất- nơi tập trung mọi quyết định
của tất cả các cổ đông. Hội đồng quản trị thay mặt cổ đông giám sát hoạt động của
công ty. Ban giám đốc tiến hành các hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận cho
công ty, chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị. Ngoài ra, ban kiểm soát kiểm soát
tính pháp lý trong mọi hoạt động của công ty, độc lập với hội đồng quản trị, chỉ chịu
trách nhiệm trước cổ đông. Sự phân cấp rõ ràng giúp công ty cổ phần hoạt động hiệu
quả, hài hòa.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu, là chủ trương, chính
sách lớn của Đảng và nhà nước ta. Quá trình này sẽ đem lại nhiều cải thiện cho nền
kinh tế cả nước, khắc phục những khó khăn, hạn chế của nền kinh tế tập trung bao
cấp trước kia. Lợi ích của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được chứng minh
không chỉ trên lý thuyết mà ngay trong thực tế triển khai tại các nước trên thế giới và
27
ngay tại Việt Nam.
Chương 2
NỘI DUNG PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành được 30 năm.
Trong thời gian đó, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã ra đời để quy định,
hướng dẫn việc tiến hành cổ phần hóa. Văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là các nghị
định do chính phủ ban hành. Từ năm 1990- thời điểm cổ phần hóa chính thức được
tiến hành đến nay, chính phủ đã ban hành 10 nghị định quy định trực tiếp về cổ phần
hóa và hàng loạt các thông tư, văn bản hướng dẫn liên quan. Mỗi nghị định được ban
hành đều gắn với một giai đoạn cổ phần hóa nhất định, phù hợp với bối cảnh kinh tế,
xã hội lúc bấy giờ. Nhìn chung, nghị định sau đều có xu hướng khắc phục những hạn
chế, thiếu sót của nghị định trước đó nhằm hướng đến việc hoàn thiện các quy định
về cổ phần hóa, góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa đạt hiệu quả hơn.
Thời điểm hiện nay, Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 về chuyển
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định
59/2011/NĐ-CP), Nghị định 189/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 về sửa đổi bổ sung
một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định
189/2013/NĐ-CP) và Nghị định 116/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 về sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định
116/2015/NĐ-CP) là 3 văn bản pháp lý cao nhất quy định vấn đề cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước tại Việt Nam. Ba văn bản này đã đề cập đến những nội dung quan
trọng nhất về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Giai đạn 2011- 2015, Chính phủ,
thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định quan trọng phục vụ cho
công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước như: tiêu chí danh mục phân loại doanh
nghiệp nhà nước, quy định về tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước,
giám sát, kiểm tra, thanh tra, đối với doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành
pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu, quy chế công bố thông tin cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, ... Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ra quyết đinh
số 51/2014/QĐ-TTg về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước
28
tại doanh nghiệp và hướng dẫn thực hiện. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành nghị
định về điều lệ tổ chức và hoạt động của 13/14 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (Dầu
khí, Dệt may, Hóa chất, Điện lực, Công nghiệp than khoáng sản, Công nghiệp cao su,
Đường sắt, Hàng không, Hàng hải, Lương thực miền bắc, Lương thực miền nam, Đầu
tư và kinh doanh vốn nhà nước, Viễn thông quân đội). Thủ tướng Chính phủ cũng đã
phê duyệt đề án tái cơ cấu 20/20 tập đoàn, tổng công ty nhà nước thuộc thẩm quyền.
Nghị định số 59/2011/NĐ-CP tiếp tục hoàn thiện cơ chế cổ phần hóa gắn với
thị trường, ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước, nâng cao tính công khai, minh bạch,
tăng cường sự giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với công tác cổ phần
hóa. Để triển khai Nghị định 59/2011/NĐ-CP, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
202/2011/TT-BTC hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi
thực hiện cổ phần hóa và Thông tư số 196/2011/TT-BTC hướng dẫn bán cổ phần lần
đầu và quản lý, sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp 100% vốn Nhà
nước thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần. Nghị định 59/2011/NĐ-CP và các
Thông tư hướng dẫn đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với công tác cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, khắc phục những vướng mắc chủ yếu của Nghị định số
109/2007/NĐ-CP trước đây. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện có những
vướng mắc xuất phát từ quy định của Nghị định 59/2013/ NĐ-CP về xác định giá trị
doanh nghiệp và xử lý công nợ khiến cho số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa còn ít,
tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm trễ. Do đó, cần có giải pháp
khắc phục kịp thời để nâng cao hiệu quả công tác cổ phần hóa doanh nghiệp 100%
vốn Nhà nước. Vì vậy, nghị định 189/2011/NĐ-CP và nghị định 116/2015/NĐ-CP
đã được Chính phủ thông qua để hoàn thiện các quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước.
Các nội dung chính về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được đề cập
trong 3 nghị định trên sẽ được phân tích cụ thể trong chương 2 của khóa luận này.
2.1. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Điều 1 nghị định 59/2011/NĐ-CP đã khẳng định mục tiêu cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước hiện nay là:
- Chuyển đổi những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn
sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Tất cả các doanh nghiệp nhà nước
29
không thuộc diện nhà nước phải nắm giữ 100% vốn đều có thể tiến hành cổ phần hóa.
Quá trình cổ phần hóa sẽ chuyển đổi doanh nghiệp từ một chủ sang đa chủ sở hữu mà
hình thức phổ biến nhất là loại hình công ty cổ phần. Vấn đề quan trọng là xác định
doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn nhà nước là những doanh
nghiệp nào?
- Huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng
lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên ạnh nhiệm vụ cơ cấu lại nguồn vốn trong
doanh nghiệp thì nhiệm vụ huy động mở rộng nguồn lực vốn của doanh nghiệp là
nhiệm vụ quan trọng. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi của mọi cá nhân, tổ chức trong
và ngoài nước sẽ nâng cao tiềm lực tài chính của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả
của nền kinh tế.
Mục tiêu này được Đảng và nhà nước nhấn mạnh thống nhất từ nghị định
187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty
cổ phần (gọi tắt là nghị định 187/2004/NĐ-CP) đến nay.
Hai mục tiêu lớn của cổ phần hóa là chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước từ một
chủ thành đa chủ và huy động vốn. Ngoài ra còn có những mục tiêu liên quan được
đề cập ở các văn bản pháp lý trước đó như nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của
doanh nghiệp; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp
để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước, doanh nghiệp; phát huy vai trò làm
chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu
tư đối với doanh nghiệp, phát triển thị trường chứng khoán ..... Những mục tiêu đó
mang tính bản chất tất yếu dù không được đề cập trong nghị định 59/2011/NĐ-CP.
Cùng với nghị định 59/2011/NĐ-CP, ngày 17/07/2012, Thủ tướng Chính phủ
đã ra quyết định 929/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước,
trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011- 2015” (Gọi tắt
là quyết định 929/QĐ-TTg). Cổ phần hóa là một phương thức phổ biến trong tiến
trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, Quyết định 929/QĐ-TTg cũng là một
văn bản pháp lý quan trọng trong tiến trình cổ phần hóa giai đoạn 2011- 2015. Văn
30
bản này khẳng định:
Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế và tổng công
ty nhà nước nhằm:
- Doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào ngành, lĩnh vực then
chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an
ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng
vật chất quan trọng để nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế
vĩ mô.
- Nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với doanh
nghiệp kinh doanh, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm dịch vụ
công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với doanh nghiệp hoạt động
công ích.
Cổ phần hóa là một nhiệm vụ quan trọng được nhấn mạnh tại quyết định
929/QĐ-TTg. Đó là đẩy mạnh cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp
nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sở hữu. Đối với những tập đoàn
kinh tế, tổng công ty nhà nước, thực hiện cơ cấu lại danh mục đầu tư và ngành nghề
kinh doanh, tập trung vào những ngành nghề kinh doanh chính. Đẩy nhanh thực hiện
theo nguyên tắc thị trường việc thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào các ngành không
phải kinh doanh chính.
Tiến hành cổ phần hóa phải đảm bảo những yêu cầu nhất định, đó là: nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm hài hòa lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp,
nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp; thực hiện cổ phần hóa công khai,
minh bạch, theo nguyên tắc thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín nội
bộ doanh nghiệp, gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
Doanh nghiệp cổ phần hóa phải thực hiện công khai, minh bạch các thông tin
về doanh nghiệp, về phương án cổ phần hóa, tình hình quản lý và sử dụng đất đai, lao
động. Doanh nghiệp cổ phần hóa có tình hình tài chính đáp ứng đủ điều kiện niêm
yết phải xây dựng phương án, lộ trình niêm yết theo quy định của luật chứng khoán.
Thông tin phải được công bố công khai đến các nhà đầu tư.
Điều 10 nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định nguyên tắc kế thừa quyền và
31
nghĩa vụ của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Doanh nghiệp cổ phần hóa phải sắp xếp,
sử dụng tối đa số lao động tại thời điểm quyết định cổ phần hóa và giải quyết chế độ
cho người lao động nghỉ việc, thôi việc. Công ty cổ phần có nghĩa vụ kế thừa mọi
trách nhiệm đối với người lao động từ doanh nghiệp cổ phần hóa chuyển sang, có
quyền tuyển chọn, bố trí sử dụng lao động và phối hợp với cơ quan liên quan giải
quyết chế độ cho người lao động. Doanh nghiệp cổ phần hóa phối hợp với cơ quan
có liên quan kiểm tra, xử lý những vấn đề tài chính để xác định giá trị phần vốn nhà
nước tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần được
sử dụng toàn bộ tài sản, nguồn vốn đã nhận bàn giao để tổ chức sản xuất kinh doanh,
kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa đã bàn
giao. Trường hợp sau khi bàn giao sang công ty cổ phần mới phát sinh khoản truy
thu, xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp trong thời gian là doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước thì phải làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể để thực hiện
việc bồi thường, nộp phạt, xử lý kỷ luật. Đây là vướng mắc rất lớn, khó giải quyết
trên thực tế tiến hành.
Những mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa được đề cập rõ ràng đã giúp quá
trình cổ phần hóa được nhận thức thống nhất, đảm bảo cổ phần hóa hiệu quả, tránh
tình trạng lạm dụng, đi lệch với đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước, góp
phần vào sự thành công của tiến trình cổ phần hóa từ giai đoạn đầu đến nay.
2.2. Đối tượng, điều kiện cổ phần hóa
Việc xác định đối tượng cổ phần hóa là một yêu cầu bắt buộc khi tiến hành cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Điều 2 nghị định 59/2011/NĐ-CP chỉ ra 3 đối tượng
thuộc diện cổ phần hóa.
Một là, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ
100% vốn điều lệ là công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công nhà nước (kể cả
ngân hàng thương mại nhà nước). Giai đoạn từ năm 2011, cổ phần hóa tập trung vào
các tổng công ty, tập đoàn kinh tế- những đối tượng phức tạp đòi hỏi phải có sự chuẩn
bị kỹ lưỡng từ trước. Các công ty con, công ty thành viên của các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty đã tiến hành cổ phần hóa giai đoạn trước đó chính là tiền đề, cơ sở để
tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ tiến tới hoàn thành cổ phần hóa toàn diện.
Hai là, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100%
32
vốn điều lệ là doanh nghiệp thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
Phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là một số lượng
lớn các doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại hiện nay. Mỗi bộ, ngành, địa phương đều
nắm giữ trong tay số lượng lớn doanh nghiệp. Với cơ chế quản lý hành chính, việc
đảm bảo hoạt động hiệu quả cho các doanh nghiệp này là khó có thể thực hiện. Cổ
phần hóa các doanh nghiệp nêu trên sẽ giải phóng một lượng lớn nguồn lực cho nhà
nước, góp phần gia tăng ngân sách nhà nước, đồng thời tạo tính tự chủ cho doanh
nghiệp, đem lại hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp.
Ba là, Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chưa chuyển thành công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên. Số lượng doanh nghiệp tồn tại dưới hình thức này còn
lại rất ít nhưng cũng không thể loại trừ nó ra khỏi đối tượng cổ phần hóa vì bản thân
doanh nghiệp đang nắm giữ số lượng lớn vốn và tài sản của nhà nước.
Đối tượng cổ phần hóa giai đoạn 2011 đến nay có sự thay đổi đáng kể so với
các nghị định trước. Đối tượng cổ phần hóa đã được thu hẹp lại. Điều đó hoàn toàn
phù hợp với thực tế khi mà năm 2010 là năm hoàn thành cơ bản cổ phần hóa theo
mục tiêu đề ra. Từ năm 2011 đến nay, cổ phần hóa là giai đoạn giải quyết các vấn đề
chưa kịp tiến hành trong giai đoạn trước mà tập trung là việc chưa cổ phần hóa các
tập đoàn kinh tế, tổng công ty và các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước khác. Đây
đều là những doanh nghiệp nhà nước quan trọng có quy mô vốn lớn, đòi hỏi quá trình
cổ phần hóa thận trọng. Các giai đoạn trước năm 2011 là quá trình cổ phần hóa mở
rộng và cơ bản nằm trong tiến trình cổ phần hóa được đặt ra vì vậy, đối tượng cổ phần
hóa có diện rộng với số lượng và hình thức đa dạng.
Việc xác định doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn là vấn
đề hết sức quan trọng. Vấn đề đó đã được xác định trong quyết định mới nhất, Quyết
định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/06/2014 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại
doanh nghiệp nhà nước (Gọi tắt là quyết định 37/2014/QĐ-TTg). Theo đó, nhà nước
nắm giữ 100% vốn điều lệ đối với những doanh nghiệp hoạt động trong 16 lĩnh vực
quan trọng sau:
- Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, an ninh.
- Sản xuất, cung ứng vật liệu nổ công nghiệp.
33
- Sản xuất, cung ứng hóa chất độc.
- Truyền tải, điều độ hệ thống điện quốc gia, thủy điện đa mục tiêu và điện hạt
nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh.
- Quản lý, khai thác hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, đô thị, điều
hành giao thông vận tải đường sắt quốc gia, đô thị.
- Quản lý, khai thác các cảng hàng không, sân bay có vai trò, vị trí quan trọng
đối với quốc phòng, an ninh; dịch vụ bảo đảm hoạt động bay.
- Bảo đảm hàng hải.
- Cung ứng dịch vụ bưu chính công ích.
- Xổ số kiến thiết.
- Xuất bản.
- In, đúc tiền.
- Đo đạc bản đồ phục vụ quốc phòng, an ninh.
- Quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi, thủ nông liên tỉnh, liên huyện,
kè đá lấn biển.
- Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.
- Tín dụng chính sách phục vụ phát triển kinh tế- xã hội.
- Những doanh nghiệp thành viên có vai trò chủ yếu trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, chiến lược phát triển, nắm giữ các bí quyết kinh doanh, công nghệ mà
tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần thiết nắm giữ 100% vốn đề thực hiện các nhiệm
vụ ngành nghề kinh doanh chính được giao.
Những lĩnh vực hoạt động trên nhà nước phải nắm giữ 100% vốn trong các
doanh nghiệp vì đó là những lĩnh vực quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội,
quốc phòng an ninh. Nhưng quy định này một phần đã tạo nên tình trạng độc quyền
của doanh nghiệp nhà nước, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong
thời gian tới, liệu số lượng ngành, lĩnh vực đòi hỏi nhà nước nắm giữ 100% vốn có
nên tiếp tục thu hẹp lại để phát huy vai trò của các thành phần kinh tế khác?
Ngoài các doanh nghiệp hoạt động trong 16 lĩnh vực trên, các doanh nghiệp
34
nhà nước còn lại đều thuộc diện tiến hành cổ phần hóa. Quyết định 37/2014/QĐ-TTg
cũng phân loại rõ những doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, nhà nước nắm
giữ từ 75% tổng số cổ phần trở lên, từ 65% đến dưới 75% tổng số cổ phần, trên 50%
đến dưới 65% tổng số cổ phần. Đây là căn cứ để xác định vai trò chi phối của nhà
nước trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa, là cơ sở để các doanh nghiệp nhà nước xác
định phương thức cổ phần hóa phù hợp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đặt mục tiêu hoàn thành vào năm 2010.
Tuy nhiên, mục tiêu đó không thể hoàn thành và cổ phần hóa phải tiếp tục vào giai
đoạn tiếp theo. Từ năm 2011, tiến trình cổ phần hóa tập trung vào các tập đoàn lớn,
các tổng công ty vẫn đang tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Giai
đoạn này nhằm hoàn thiện quá trình cổ phần hóa, giải quyết những vẫn đề chưa kịp
giải quyết trong giai đoạn trước đó. Vì vậy, đối tượng cổ phần hóa được xác định rất
cụ thể. Quyết định 929/QĐ-TTg cũng đã nhấn mạnh lại đối tượng tiến hành cổ phần
hóa nói riêng và đối tượng tái cơ cấu nói chung trong giai đoạn 2011- 2015 là các tập
đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.
Các doanh nghiệp thuộc đối tượng cổ phần hóa quy đinh trong khoản 1 điều 1
nghị định 59/2011/NĐ-CP đều có thể tiến hành cổ phần hóa. Thuộc đối tượng cổ phần
hóa là điều kiện cần để doanh nghiệp cổ phần hóa. Tuy nhiên để tiến hành cổ phần
hóa, doanh nghiệp phải đảm bảo điều kiện nhất định. Đây là điều kiện đủ để doanh
nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa. Doanh nghiệp nhà nước phải đảm bảo không
thuộc diện nhà nước cần nằm giữ 100% vốn điều lệ. Đây là điều kiện cơ bản nhất đã
được nhấn mạnh ở mục tiêu cũng như nguyên tắc tiến hành cổ phần hóa. Đồng thời,
Doanh nghiệp phải còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại
giá trị doanh nghiệp. Nếu không đáp ứng được điều kiện này, doanh nghiệp nhà nước
buộc phải cơ cấu theo phương thức khác như cho hợp nhất, sáp nhập, thậm chí tiến
hành cho doanh nghiệp phá sản.
2.3. Các hình thức cổ phần hóa
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành theo nhiều hình thức:
Thứ nhất, Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm
cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Hình thức này áp dụng cho các doanh nghiệp mà nhà
nước giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định trong doanh nghiệp thường là cổ phần chi phối
35
và doanh nghiệp đang có hoạt động hiệu quả, có nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất
nhằm thu hút vốn ngoài xã hội đầu tư, phát triển, tăng vốn hoạt động cho doanh
nghiệp.
Thứ hai, Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ.
Hình thức này được áp dụng cho những doanh nghiệp vừa cần huy động thêm vốn
vừa cơ cấu lại quyền sở hữu về vốn và phương thức quản lý doanh nghiệp. Tỷ lệ nắm
giữ cổ phần bị thay đổi, nhà nước có thể nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không.
Thứ ba, Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa
bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ để chuyển
thành công ty cổ phần, nhà nước không còn nắm giữ cổ phần tại công ty.
Các phương thức này được quy định tại điều 4 nghị định 59/2011/NĐ-CP. Về
bản chất các phương thức cổ phần hóa này được quy định ổn định trong các nghị định
về cổ phần hóa ở các giai đoạn khác nhau. Mục đích tăng vốn được nhấn mạnh trong
cả 3 phương thức cổ phần hóa. Đây là mục tiêu quan trọng đi đôi với mục tiêu cơ cấu
lại nguồn vốn trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Mục tiêu này đã được nhấn mạnh hơn
so với các giai đoạn trước.
Mỗi hình thức cổ phần hóa đều có những ưu, nhược điểm riêng. Nhưng sự đa
dạng trong hình thức sẽ tạo thêm cho doanh nghiệp nhiều sự lựa chọn phù hợp với
ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại, mục đích chủ
sở hữu để tiến hành cổ phần hóa. Nó cũng quyết định đến vai trò của nhà nước trong
doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nhà nước có thể nắm giữ cổ phần thậm chí cổ phần
chi phối hoặc không còn cổ phần trong doanh nghiệp.
2.4. Đối tượng mua cổ phần
Bán cổ phần lần đầu là một bước quan trọng khi tiến hành cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước. Việc bán cổ phần lần đầu được thực hiện theo các phương thức
khác nhau như: đấu giá công khai, bảo lãnh phát hành hay thỏa thuận trực tiếp [10,
83].
Đối tượng mua cổ phần là một nội dung quan trọng cần được xác định khi tiến
hành cổ phần hóa. Điều 6 nghị định 59/2011/NĐ-CP đã quy định chi tiết vấn đề này.
36
Các đối tượng có quyền mua cổ phần phải đáp ứng những điều kiện nhất định.
Đối tượng đầu tiên là các nhà đầu tư trong nước. Đó có thể là cá nhân người
Việt Nam hoặc các tổ chức được thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam.
Trường hợp này loại trừ khả năng tổ chức, cá nhân là nhà đầu tư chiến lược được quy
đinh thành một đối tượng riêng. Nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần của
doanh nghiệp cổ phần hóa với số lượng không hạn chế. Đối với trường hợp doanh
nghiệp sau khi cổ phần hóa tiến hành niêm yết ngay tại sở giao dịch chứng khoán thì
trong số lượng cổ phần bán ra công chúng phải quy định số cổ phần tối đa và tối thiểu
đặt mua để đảm bảo điều kiện niêm yết cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Thành
viên ban chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian, các nhân
viên thực hiện tư vấn, định giá, kiểm toán đấu giá bán cổ phần của doanh nghiệp cổ
phần hóa không được mua cổ phần để đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong thông
tin cổ phần hóa, tránh tình trạng lợi dụng thông tin nội bộ để đầu cơ. Các công ty con,
công ty liên kết trong cùng tập đoàn, tổng công ty và tổ hợp công ty mẹ- công ty con
của doanh nghiệp cổ phần hóa cũng thuộc đối tượng không được mua cổ phần để hạn
chế tình trạng cổ phần hóa mang tính nội bộ, sở hữu chéo trong các tập đoàn, tổng
công ty.
Người lao động là một trong các đối tượng thuộc nhóm 1 được mua cổ phần
của doanh nghiệp cổ phần hóa. Đã có nhiều quy định về việc ưu đãi cho người lao
động mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa. Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy
định: người lao động được mua tối đa 10 cổ phiếu cho mỗi năm làm việc với giá giảm
30% so với mệnh giá (mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu) và phải nắm giữ trong 3 năm.
Như vậy, sau 3 năm, người lao động có thể bán cổ phiếu của mình, tức là bán đi quyền
làm chủ, để trở lại thân phận làm thuê. Rõ ràng, chủ trương bán cổ phiếu cho người
lao động sau 3 năm nắm giữ không đạt được mục đích đảm bảo lợi ích lâu dài cho
người lao động. Nghị định 187/2007/NĐ-CP quy định: người lao động được mua 100
cổ phiếu cho mỗi năm làm việc với giá ưu đãi giảm 40% so với giá đấu thầu thành
công bình quân bán cho nhà đầu tư khác. Lấy giá đấu thầu thành công làm chuẩn là
chưa bảo vệ lợi ích vủa người lao động vì nếu họ mua vào lúc giá thị trường chứng
khoán lên cao thì giảm 40% so với giá đấu thầu thành công bình quân, họ vẫn phải
trả với giá cao hơn mệnh giá cổ phiếu. Một điểm bất cập của nghị định này là không
37
quy định người lao động phải giữ cổ phiếu trong 3 năm, có nghĩa là cho phép họ bán
ngay cổ phiếu của mình. Quy định như vậy liệu là không thuận lợi cho người lao
động, khi người lao động dễ để mất cơ hội làm chủ của mình khi cổ phiếu được giá?
Điều 48 nghị định 59/2011/NĐ- CP đề ra chính sách ưu đãi cho người lao động trong
doanh nghiệp cổ phần hóa có tiến bộ hơn nhiều so với trước: “Người lao động có tên
trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh
nghiệp cổ phần hóa được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại
khu vực nhà nước với giá bán bằng 60% giá đấu thành công thấp nhất (Trường hợp
đấu giá công khai trước) hoặc bằng 60% giá bán thành công thấp nhất cho các nhà
đầu tư chiến lược (Đối với trường hợp bán cho nhà đầu tư chiến lược trước). Người
lao động cam kết làm việc lâu dài cho doanh nghiệp trong thời hạn ít nhất 3 năm (kể
từ ngày doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu) sẽ
được mua thêm cổ phần ưu đãi theo quy định: Mua thêm theo mức 200 cổ phần/1
năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 2.000 cổ phần
cho một người lao động. Riêng người lao động là các chuyên gia giỏi, có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao làm việc tại doanh nghiệp được mua thêm theo mức 500
cổ phần/1 năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá
5.000 cổ phần cho một người lao động [10, 83]. Các quy định ưu đã cho người lao
động vẫn tập trung tính theo số năm làm việc tại doanh nghiệp nhà nước. Điều này là
không phù hợp với trình độ, chuyên môn, năng lực của người lao động.
Nghị định 116/2015/NĐ- CP đã bổ sung chính sách ưu đãi cho người lao động
trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Theo đó, những doanh nghiệp thực hiện cổ phần
hóa đã tiến hành các thủ tục cần thiết theo phương án cổ phần hóa đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt nhưng chưa thực hiện được IPO trong thời gian 90 ngày kể từ
ngày có quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa thì doanh nghiệp được bán
trước cổ phần cho người lao động, tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp với giá bán
cổ phiếu bằng 60% giá khởi điểm trong phương án cổ phần hóa đã được cấp có thẩm
quyền phê duyệt. Người lao động còn được hưởng các ưu đãi khác đối với giá mua
cổ phần ưu đãi, được hưởng các quyền lợi về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các
chế độ khác. Điều 48 của nghị định cũng có hướng giải quyết cụ thể đối với các cổ
phần mà người lao động mua của doanh nghiệp khi doanh nghiệp thực hiện tái cơ cấu
38
dẫn đến chấm dứt hợp đồng lao động, thôi việc, mất việc, trường hợp người lao động
chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn. Chênh lệch giữa giá bán cho người lao
động, cho tổ chức công đoàn (nếu có) so với mệnh giá cổ phần được trừ vào giá trị
phần vốn nhà nước khi quyết toán tại thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển
thành công ty cổ phần. Những quy định mới về ưu đãi dành cho người lao động đã
tạo điều kiện cho người lao động được thực sự thực hiện quyền làm chủ của mình
trong doanh nghiệp, góp phần phát huy vai trò, hiệu quả trong lao động sản xuất.
Đối tượng thứ 2 được mua cổ phần là nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước
ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần
của doanh nghiệp cổ phần hóa phải mở tài khoản tiền gửi tại một tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật Việt Nam về ngoại hối. Các quy định
cho người nước ngoài mua cổ phần đã có thay đổi tích cực. Các nghị định trước đó
luôn có những hạn chế về tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí,
trong giai đoạn đầu cổ phần hóa, nhà đầu tư nước ngoài không được mua cổ phần, họ
bị loại ra khỏi doanh sách đối tượng được nắm giữ cổ phần. Những quy định đó đã
hạn chế sự đầu tư của thành phần đầu tư nước ngoài trong khi đây là một nguồn lực
lớn có quy mô về vốn, tài chính và tiềm lực lớn hơn rất nhiều so với nguồn lực trong
nước. Sự mở rộng đối tượng mua cổ phần tại thời điểm hiện nay đã làm tăng tính hiệu
quả của cổ phần hóa, tạo động lực phát triển cổ phần hóa.
Đối tượng thứ 3 được mua cổ phần là nhà đầu tư chiến lược. Nhà đầu tư chiến
lược là nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có năng lực tài chính và có
cam kết bằng văn bản của người có thẩm quyền trong việc gắn bó lợi ích lâu dài với
doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp sau cổ phần hóa về chuyển giao công nghệ mới,
đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp, cung ứng
nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việc lựa chọn nhà đầu tư
chiến lược phải được xây dựng thành phương án xác định tiêu chí của nhà đầu tư
chiến lược, phương thức bán và số lượng cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược để
cơ quan có thẩm quyền quyết định. Nhà đầu tư chiến lược tại mỗi doanh nghiệp cổ
phần hóa tối đa là 3. Tùy thuộc vào từng phương thức bán cổ phần mà giá bán cổ
phần cho nhà đầu tư chiến lược sẽ bị thay đổi. Nhà đầu tư chiến lược không được
chuyển nhượng số cổ phần mua trong thời hạn tối thiểu 5 năm kể từ ngày công ty cổ
39
phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Trường hợp đặc biệt phải
chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được Đại hội đồng cổ
đông chấp thuận. Đây là một quy định cần thiết đảm bảo sự ổn định trong cơ cấu vốn,
cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Nghị định 116/2015/NĐ-CP đã có quy định mới về cơ cấu vốn cổ phần lần
đầu. Cụ thể, Nghị định mới chỉ quy định chung về cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến
lược và nhà đầu tư khác, thay cho quy định cụ thể cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến
lược và nhà đầu tư khác không thấp hơn 25% vốn điều lệ (trừ trường hợp quy định),
số cổ phần bán cho các nhà đầu tư khác không thấp hơn 50% số cổ phần nêu trên.
Đây là một quy định tích cực, không còn sự hạn chế trong tỷ lệ nắm giữ cổ phần,
doanh nghiệp hoàn toàn tự do trong quá trình huy động vốn. Các nguồn lực vốn được
tự do phát huy vai trò của mình.
2.5. Xử lý tài chính khi cổ phần hóa
Đây là bước thực hiện trước khi xác định giá trị doanh nghiệp. Khi có quyết
định cổ phần hóa, doanh nghiệp tiến hành kiểm kê, phân loại tài sản, các nguồn vốn
và quỹ mà doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng. Doanh nghiệp tiến hành lập báo cáo
tài chính, phối hợp với cơ quan quản lý thuế và các cơ quan có thẩm quyền liên quan
để kiểm tra, quyết toán, xử lý các vấn đề tài chính tồn tại.
Nội dung này đã được quy đinh chi tiết tại chương 2 trong nghị định
59/2011/NĐ-CP về xử lý tài chính khi cổ phần hóa. Các tài sản được phân loại cụ thể
để xác định tài sản đó có được tính vào giá trị doanh nghiệp hay không để có các
hướng xử lý riêng cho từng loại. Cụ thể:
Tài sản cho thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết, tài sản không phải
của doanh nghiệp thì không tính vào giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tiến
hành kế thừa hoặc thanh lý các hợp đồng liên quan đến các tài sản đó. Đối với tài sản
không cần dùng, ứ đọng, chờ thành lý, doanh nghiệp tiến hành thanh lý, nhượng bán.
Những tài sản này không được tính vào giá trị doanh nghiệp và phải tiến hành chuyển
giao cho các cơ quan theo quy định. Tuy nhiên, cũng có những tài sản không được
loại trừ khỏi giá trị doanh nghiệp như nhà cửa, vật kiến trúc, ….
Các khoản nợ phải thu: Doanh nghiệp tiến hành đối chiếu, xác nhận các khoản
40
nợ phải thu, tiến hành thu hồi các khoản nợ đến hạn. Đối với các khoản nợ khó đòi,
tiến hành xử lý theo quy định. Những khoản nợ không có đủ hồ sơ pháp lý chứng
minh khách nợ còn nợ hoặc không có khả năng thu hồi theo quy định thì không được
loại trừ ra ngoài giá trị doanh nghiệp, doanh nghiệp phải làm rõ nguyên nhân để xử
lý theo nguyên tắc sau: Xác định trách nhiệm xử lý bồi thường của tập thể, cá nhân
có liên quan đến khoản nợ phải thu không xác định được khách nợ, phần tổn thất còn
lại được xử lý theo quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng. Hoàn
thiện hồ sơ, tiếp tục theo dõi để xử lý thu hồi đối với những khoản nợ không chứng
minh được là không có khả năng thu hồi.
Các khoản nợ phải trả: Theo điều 16, nghị định 59/2011/NĐ-CP, Doanh
nghiệp cũng tiến hành đối chiếu, xác nhận các khoản nợ phải trả, phải thanh toán các
khoản nợ đến hạn. Các khoản nợ phải được xử lý theo thỏa thuận hoặc chuyển thành
vốn góp cổ phần. Riêng đối với nợ thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước, doanh
nghiệp phải thanh toán trước khi cổ phần hóa hoặc doanh nghiệp sau cổ phần hóa
phải kể thừa.
Các khoản dự phòng, lỗ, lãi được xử lý theo điều 17 nghị định 59/2011/NĐ-
CP. Nghị định 116/2015/NĐ-CP đã có những điều chỉnh trong nội dung này. Các
khoản dự phòng được dùng để bù đắp các tổn thất, số còn lại tính vào giá trị phần vốn
nhà nước. Quỹ dự phòng rủi ro ngân hàng, bảo hiểm được để lại doanh nghiệp và tính
vào giá trị phần vốn nhà nước. Quỹ dự phòng tài chính để bù lỗ, bù đắp thổn thất, số
còn lại tính vào giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Các khoản lãi để bù lỗ,
bù đắp tổn thất, số còn lại được phân phối theo quy định.
Vốn đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp như vốn góp liên doanh, liên kết,
góp vốn cổ phần, góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hay các hình thức
đầu tư dài hạn khác. Các khoản đầu tư dài hạn của doanh nghiệp tại doanh nghiệp
khác, doanh nghiệp có thể kế thừa, chuyển giao cho doanh nghiệp khác hoặc bán phần
vốn góp đó trước khi xác định giá trị doanh nghiệp.
Quỹ phúc lợi, Quỹ khen thưởng. Số dư trong các quỹ này sau khi bù đắp các
khoản chi vượt quá chế độ cho người lao động thì được chia cho người lao động đang
41
làm việc tại doanh nghiệp.
Số dư quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp được hạch toán tăng vốn nhà nước tại
doanh nghiệp.
Tại thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ phần, doanh
nghiệp tiếp tục thực hiện điều chỉnh số liệu trong sổ kế toán, xử lý các khoản nợ, tài
sản không tính vào giá trị doanh nghiệp, tiếp tục xử lý các tồn tại tài chính, định giá
lại các khoản đầu tư chứng khoán. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp hoàn thành lập báo cáo tài chính,
kiểm toán báo cáo tài chính, đề nghị cơ quan thuế kiểm tra, quyết toán thuế,… Thời
hạn này, nghị định 116/2015/NĐ-CP đã kéo dài thêm 30 ngày thay vì chỉ có 30 ngày
như nghị định 59/2011/NĐ để đảm bảo tính thực hiện được trên thực tế. Nếu phát
sinh khoản chênh lệch tăng, giảm thì tiến hành xử lý theo điều 21 nghị định
59/2011/NĐ-CP.
2.6. Xác định giá trị doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp là vấn đề quan trọng bậc nhất khi tiến hành cổ
phần hóa. Trên thực tế, nó đã gặp phải nhiều vấn đề, vướng mắc. Các nghị định liên
tục thay đổi phần lớn đều nhằm hoàn thiện tối đa vấn đề này.
Bước đầu, doanh nghiệp xác định vấn đề liên quan đến tổ chức tư vấn định giá
xác định giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thuê hoặc tự mình thực hiện.
Doanh nghiệp tự xác định giá trị doanh nghiệp phải báo cáo với cơ quan có thẩm
quyền quyết định giá trị doanh nghiệp.
Những trường hợp bắt buộc phải thuê tổ chức tư vấn định giá xác định giá trị
doanh nghiệp là doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở
lên hoặc giá trị vốn nhà nước theo sổ kế toán từ 10 tỷ đồng trở lên theo quy định tại
khoản 1 điều 22 nghị định 59/2011/NĐ-CP.
Khi có trên 2 tổ chức tư vấn định giá thì lựa chọn theo phương thức đấu thầu.
Quy định này theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp là nguyên nhân làm chậm quá
trình cổ phần hóa của doanh nghiệp. Phần lớn các hợp đồng tư vấn xác định giá trị
doanh nghiệp có giá trị không lớn, nhưng phải tổ chức đấu thầu đang làm hạn chế quá
trình cổ phần hóa của doanh nghiệp. Đến nay, đối tượng thực hiện cổ phần hoá chủ
42
yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, trong đó có các công ty mẹ, các tập đoàn kinh
tế, tổng công ty Nhà nước, nên để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp
này trong thời gian tới, Chính phủ đã quyết định điều chỉnh quy định về lựa chọn tổ
chức tư vấn định giá tại nghị định 116/2015/NĐ-CP. Theo đó, đối với các gói thầu tư
vấn định giá có giá trị không quá 3 tỷ đồng, thì cơ quan có thẩm quyền quyết định
phương án cổ phần hóa có thể lựa chọn hình thức chỉ định thầu để lựa chọn tổ chức
tư vấn định giá trong danh sách do Bộ Tài chính công bố; trường hợp xét thấy cần
phải tổ chức đấu thầu, thì thực hiện đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Đối với các gói thầu tư vấn không thuộc quy định này, cơ quan có thẩm quyền quyết
định phương án cổ phần hóa quyết định tổ chức đấu thầu lựa chọn đơn vị thực hiện
tư vấn định giá theo quy định. Đây là một nguyên tắc quan trọng để lựa chọn tổ chức
tư vấn định giá. Nội dung sửa đổi này đã tạo điều kiện để việc lựa chọn đơn vị tư vấn
được thuận lợi hơn, tránh kéo dài thời gian cổ phần hóa.
Tổ chức có chức năng định giá có thể là công ty kiểm toán, công ty chứng
khoán, doanh nghiệp thẩm định giá trong nước và nước ngoài. Vấn đề xác định quyền,
nghĩa vụ và điều kiện của tổ chức tư vấn định giá được quy định chi tiết tại điều 22
nghị đinh 59/2011/NĐ-CP. Cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án cổ phần
hóa lựa chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa theo quy định của pháp luật. Đối với các
Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước và một số doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực đặc biệt (như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, hàng không, khai thác than,
dầu khí, khai thác mỏ quý hiếm khác), khi thực hiện cổ phần hóa mà phương án cổ
phần hóa thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì Bộ trưởng các
Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lựa chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa
(lựa chọn tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, lựa chọn tư vấn xây dựng
phương án cổ phần hóa).
Căn cứ Hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp do tổ chức tư vấn định giá xây
dựng (hoặc do doanh nghiệp cổ phần hóa tự xây dựng), Ban Chỉ đạo cổ phần hóa
doanh nghiệp có trách nhiệm thẩm tra về trình tự, thủ tục, tuân thủ các quy định của
pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp, trình cơ quan có thẩm quyền quyết định
43
giá trị doanh nghiệp quyết định. Cơ quan này có trách nhiệm xem xét, quyết định
đồng thời gửi hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp cho tổ chức kiểm toán trong trường
hợp bắt buộc.
Kiểm toán là một khâu quan trọng khi tiến hành xem xét kết quả xác định giá
trị doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có quy mô lớn vốn nhà nước trên 500 tỷ đồng,
hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề đặc thù như bảo hiểm, ngân hàng, bưu chính
viễn thông, hàng không, khai thác than, dầu khí, khai thác mỏ quý hiếm khác; các
công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp khác
theo yêu cầu của Thủ tướng chính phủ. Khi nhận được kết quả xác định giá trị doanh
nghiệp, cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp phải gửi văn bản và
hồ sơ đề nghị cơ quan kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán kết quả tư vấn định
giá và xử lý các vấn đề tài chính trước khi chính thức công bố giá trị doanh nghiệp
cổ phần hóa. Đó là quy định tại nghị định 59/2011/NĐ-CP. Thực tế, số lượng doanh
nghiệp có vốn Nhà nước trên 500 tỷ đồng khá nhiều, nên trường hợp các doanh nghiệp
này cùng thực hiện cổ phần hóa, thì việc kiểm toán sẽ không đảm bảo theo đúng thời
hạn quy định, dẫn tới kéo dài thời gian. Để tháo gỡ vấn đề này, Nghị định
189/2013/NĐ-CP đã điều chỉnh quy định theo hướng, Kiểm toán Nhà nước thực hiện
kiểm toán các đối tượng: công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế nhà nước; công ty mẹ
thuộc tổng công ty nhà nước và các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khác
khi có yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ…
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, xem xét và kết quả kiểm toán (nếu có), cơ quan
có thẩm quyền công bố giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp cổ phần hóa cũng được
điều chỉnh giá trị doanh nghiệp đã công bố khi có những nguyên nhân khách quan
làm ảnh hưởng đến giá trị những tài sản của doanh nghiệp hoặc sau 18 tháng kể từ
thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp mà doanh nghiệp chưa thực hiện việc bán cổ
phần theo nghị định 189/2013/NĐ-CP thay vì 12 tháng theo nghị định 59/2011/NĐ-
CP, ngoại trừ các trường hợp đặc thù theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ do
các doanh nghiệp cổ phần hóa giai đoạn này có quy mô lớn và phải xử lý các vấn đề
tài chính, đất đai nên việc đảm bảo thời gian 12 tháng là khó thực hiện.
Kết quả công bố giá trị doanh nghiệp là cơ sở để xác định quy mô vốn điều lệ,
44
cơ cấu cổ phần phát hành lần đầu và giá khởi điểm để thực hiện đấu giá bán cổ phần.
Xác định giá trị doanh nghiệp gồm 2 phương pháp chính là phương pháp tài
sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể lựa chọn các
phương pháp xác định khác.
Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản.
Trong phương pháp định giá này, việc xác định giá trị thực tế của doanh
nghiệp là yếu tố cơ bản. Giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hóa là giá trị toàn
bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa có tính tính đến khả
năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận
được [10, 79].
Giá trị thực tế vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hóa là giá trị thực tế của
doanh nghiệp sau khi trừ các khỏan nợ phải trả, số dư quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi
và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp.
Khoản 3 điều 28 nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định: Đối với các tổ chức tài
chính, tín dụng khi xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản được sử
dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài sản vốn bằng tiền, các khoản
công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá đối với tài sản cố định, các khoản
đầu tư dài hạn, chi phí dở dang liên quan đến chi phí đền bù, giải tỏa, san lấp mặt
bằng và giá trị quyền sử dụng đất theo chế độ Nhà nước quy định. Với quy định này,
doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hóa phải đối chiếu toàn bộ công nợ. Tuy nhiên,
việc đối chiếu toàn bộ công nợ là khó khăn. Trên thực tế, các doanh nghiệp hiện nay
chỉ đối chiếu được 60%- 70%, việc đối chiếu toàn bộ công nợ mất nhiều thời gian
nên làm chậm tiến độ cổ phần hóa của doanh nghiệp. Nghị định 189/2013/NĐ-CP đã
có quy định linh hoạt hơn. Theo đó, trong một số trường hợp như thời điểm cổ phần
hóa không trùng với thời điểm kiểm kê khóa sổ kế toán lập báo cáo tài chính, doanh
nghiệp quy mô lớn, đối tượng công nợ nhiều thì đến thời điểm xác định giá trị doanh
nghiệp mà vẫn còn một số khoản công nợ (phải thu, phải trả) có đầy đủ hồ sơ nhưng
chưa được đối chiếu, xác nhận theo quy định tại Nghị định này thì phải giải trình rõ
các khoản nợ, xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan. Đồng thời, phải
hoàn tất việc đối chiếu công nợ trước thời điểm doanh nghiệp cổ phần hóa được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu và báo cáo cơ quan có thẩm quyền
45
quyết định giá trị doanh nghiệp xem xét, quyết định theo giá trị đang theo dõi trên sổ
sách kế toán. Ngoài ra, phải công bố công khai trong quyết định phê duyệt giá trị
doanh nghiệp cũng như phương án cổ phần hóa làm cơ sở bán đấu giá cổ phần. Tại
thời điểm doanh nghiệp cổ phần hóa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
lần đầu, khi lập báo cáo tài chính để bàn giao từ doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
sang công ty cổ phần, nếu các khoản công nợ này vẫn chưa được đối chiếu, xác nhận
thì xem xét, xử lý theo các hướng:
- Đối với nợ phải trả doanh nghiệp đã làm đủ thủ tục đối chiếu nợ nhưng không
xác nhận được chủ nợ thì được hạch toán ghi tăng vốn nhà nước tương ứng và công
ty cổ phần mới có trách nhiệm lưu trữ hồ sơ, tiếp tục kế thừa, theo dõi để thực hiện
nghĩa vụ trả nợ khi chủ nợ yêu cầu. Căn cứ hồ sơ tài liệu hợp pháp liên quan và yêu
cầu của chủ nợ, công ty cổ phần mới thực hiện trả nợ và hạch toán vào chi phí trong
kỳ;
- Đối với nợ phải thu doanh nghiệp đã làm thủ tục đối chiếu nhưng vẫn chưa
đối chiếu được thì phải xem xét, xử lý trách nhiệm bồi thường đối với tập thể, cá nhân
có liên quan. Giá trị khoản nợ còn lại (sau khi bù trừ khoản bồi thường của các cá
nhân, tập thể, quỹ dự phòng nợ phải thu khó đòi) được hạch toán vào chi phí sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa. Công ty cổ phần mới có trách nhiệm lưu
trữ hồ sơ, tiếp tục kế thừa, theo dõi để đôn đốc thực hiện thu nợ.
Để xác định giá trị thực tế, doanh nghiệp căn cứ vào số liệu theo sổ kế toán,
tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản, giá trị trường của tài sản,
giá trị quyền sử dụng đất được giao, giá trị tiền thuê đất, giá trị lợi thế kinh doanh của
doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa gồm giá trị thương
hiệu, tiềm năng phát triển. Đây là một điểm mới của nghị định 59/2011/NĐ-CP khi
loại bỏ giá trị lợi thế về vị trí địa lý ra khỏi giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong thời gian trước đây, việc xác định giá trị lợi thế về vị trí địa lý đã gây ra nhiều
bất cập và vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa.
Điều 33 nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định về việc xác định giá trị vốn đầu
tư dài hạn. Theo đó, giá trị vốn đầu tư dài hạn được xác định trên cơ sở tỷ lệ vốn đầu
46
tư của doanh nghiệp trên vốn điều lệ hoặc tổng vốn thực góp, giá trị vốn chủ sở hữu
tại các doanh nghiệp khác theo báo cáo tài chính. Đặc biệt, nếu giá trị vốn đầu tư dài
hạn của doanh nghiệp thấp hơn giá trị ghi trên sổ kế toán thì xác định theo giá trị ghi
trên sổ kế toán. Nghị định 116/2015/NĐ-CP đã có quy định mới về vấn đề này. Nếu
giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp tại doanh nghiệp khác thấp hơn giá trị ghi
trên sổ kế toán, thay vì tính theo giá ghi trên sổ sách như trước, hiện nay, giá trị ấy
được xác định theo giá trị thực tế xác định lại. Với sự thay đổi này, việc xác định theo
giá trị thực tế sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn.
Giá trị vốn góp của doanh nghiệp cổ phần hóa vào công ty cổ phần đã niêm
yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán được xác định theo giá đóng cửa
của cổ phiếu giao dịch trên thị trường chứng khoán tại thời điểm gần nhất với thời
điểm thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp. Trường hợp cổ phiếu của công ty cổ
phần đã niêm yết trên thị trường Upcom mà không có giao dịch trong vòng 30 ngày
trước thời điểm tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp thì được xác định theo quy định
tại điểm a, điểm b, điểm c khoản 1, Điều 33 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP và khoản
5, Điều 1 Nghị định này. Đối với giá trị vốn góp vào công ty cổ phần chưa niêm yết,
chưa đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán thì căn cứ kết quả xác định của
cơ quan tư vấn, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp xem xét trình cơ quan có
thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp quyết định.
Xác định giá đất là một vấn đề lớn và gặp phải rất nhiều vấn đề.
Trên thực tế, chính sách xác định giá đất nói chung và xác định giá đất để tính
vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa nói riêng đã nhiều lần thay đổi. Năm 2004,
theo điều 63, Nghị định 181/2004/NĐ-CP về thi hành luật đất đai không cho phép
doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa lựa chọn hình thức nhà nước giao đất hay cho
thuê đất, trước đây là hình thức nào thì theo đó mà xử lý, nhưng giá trị đất phải tính
theo giá đất phù hợp giá thị trường.
Chỉ 18 ngày sau, Nghị định 187/2004/NĐ-CP lại quy định doanh nghiệp thực
hiện cổ phần hóa được lựa chọn hình thức được nhà nước giao đất hay cho thuê đất,
khi lựa chọn hình thức thuê đất của nhà nước thì không tính giá trị quyền sử dụng đất
vào tài sản doanh nghiệp. Khi lựa chọn hình thức được nhà nước giao đất thì phải
47
tính giá trị đất vào tài sản doanh nghiệp và giá trị đất được tính theo bảng giá đất của
nhà nước (Điều 19). Đây là, một cách tiếp cận khác hẳn so với Nghị định
181/2004/NĐ-CP.
Sau đó, năm 2006, Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 sửa đổi lại cả
hai nghị định trên theo một phương án dung hòa: điều 6 quy định doanh nghiệp cổ
phần hóa được lựa chọn hình thức sử dụng đất nhưng “giá trị đất phải phù hợp thị
trường”…
Xác định theo bảng giá thì tạo lợi ích cho doanh nghiệp, tạo đà cho doanh
nghiệp sau cổ phần hóa có vốn mà phát triển. Nhưng cách nhìn khác là cổ phần hóa
phải sòng phẳng, đưa giá trị đất về đúng giá trị thật trên thị trường để tránh tiêu cực
từ chuyện lợi dụng sự chênh lệch giá đất, làm lệch lạc mục tiêu phát triển doanh
nghiệp. Tính sát giá thị trường thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sau khi cổ phần hóa
phải do chính hoạt động sản xuất kinh doanh tự tạo ra chứ không thể trông cậy vào
đất.
Hiện nay, Luật Đất đai 2013 đã quy định rõ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước là một trong những trường hợp phải quyết định giá đất cụ thể theo giá thị trường.
Luật này cũng đã đưa ra quy trình chung tiến bộ hơn cho việc quyết định giá.
Nghị định 189/2013/NĐ-CP đã khắc phục bất cập trong công tác quản lý, sử
dụng đất đai tại các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua, góp phần đẩy nhanh
tiến độ và nâng cao chất lượng của công tác cổ phần hóa. Nghị định 189/2013/NĐ-
CP quy định: Đối với diện tích đất doanh nghiệp cổ phần hóa đã được giao đất và nộp
tiền sử dụng đất cho ngân sách nhà nước hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất hợp pháp để sử dụng vào mục đích xây dựng nhà để bán, xây dựng kết cấu hạ
tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê thì phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất
tính vào giá trị doanh nghiệp...
Đối với diện tích đất sử dụng cho các công trình công cộng có hành lang bảo
vệ an toàn theo quy định của pháp luật về đất đai cũng được xem xét, loại trừ theo
quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Đối với diện tích đất đã giao cho doanh nghiệp và doanh nghiệp đã sử dụng
để góp vốn thành lập pháp nhân mới thì cơ quan có thẩm quyền quyết định phê duyệt
48
phương án cổ phần hóa xem xét xử lý theo nguyên tắc: Chuyển giao cho doanh nghiệp
100% vốn nhà nước khác làm đối tác nếu được các đối tác góp vốn trong pháp nhân
mới chấp thuận và doanh nghiệp tiếp tục kế thừa tính vào giá trị doanh nghiệp cổ
phần hóa theo nguyên tắc quy định tại Điều 33 Nghị định này. Đối với diện tích đất
còn lại (sau khi loại trừ diện tích đất quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 và khoản
5 Điều này) doanh nghiệp cổ phần hóa thực hiện hình thức thuê đất có thời hạn theo
quy định của pháp luật về đất đai và không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa
lý khi xác định giá trị doanh nghiệp. Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất
vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là giá đất sát với giá chuyển nhượng quyền sử
dụng đất có mục đích sử dụng tương tự thực tế trên thị trường do ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác định. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện
chuyển mục đích sử dụng đất đã được giao thì phải nộp thêm khoản tiền chênh lệch
giá trị quyền sử dụng đất theo mục đích chuyển đổi.
Quy định này nhằm khắc phục bất cập trong việc xác định giá trị quyền sử
dụng đất trong thời gian qua để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa. Theo phương án
này, đối với các diện tích đất doanh nghiệp đã được giao, nay chuyển sang cho thuê
thì giá trị quyền sử dụng đất giao còn lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
được xác định là số tiền doanh nghiệp đã trả trước tiền thuê đất cho một khoảng thời
gian nhất định theo mặt bằng giá thuê đất khi doanh nghiệp hoàn tất thủ tục thuê đất
với cơ quan quản lý tại địa phương, không ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước và lợi
ích kinh tế của doanh nghiệp. Đối với diện tích đất doanh nghiệp thực hiện thuê đất
thì thực hiện trả tiền thuê đất hàng năm theo cơ chế đã được quy định tại Nghị định
số 121/2010/NĐ-CP và không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa lý vì giá thuê
đất đã sát giá thị trường.
Đặc biệt, Nghị định 189/2013/NĐ-CP cũng quy định rõ: Đối với các doanh
nghiệp đã hoàn thành cổ phần hóa hoặc đang thực hiện cổ phần hóa trước ngày Nghị
định 189/2013/ NĐ-CP có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện giao đất, thuê đất
và tính giá trị quyền sử dụng đất theo phương án đã được phê duyệt, không thực hiện
điều chỉnh. Đối với các doanh nghiệp đã xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý đất thuê
vào giá trị doanh nghiệp và hạch toán tăng phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp khi
xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa được cấp có thẩm quyền công bố giá trị
49
doanh nghiệp theo quy định trước ngày Nghị định 59/2011/NĐ-CP có hiệu lực thì
được khấu trừ giá trị lợi thế vị trí địa lý vào tiền thuê đất phải nộp của doanh nghiệp
cổ phần hóa. Đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa theo Nghị định 109/2007/ NĐ-
CP mà chưa tính giá trị lợi thế vị trí địa lý thì được áp dụng Nghị định số 59/2011/NĐ-
CP không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa lý và điều chỉnh vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp.
Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp dòng tiền chiết khấu.
Theo điều 34, nghị định 59/2011/NĐ-CP, giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại
doanh nghiệp xác định dựa vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai
và việc đầu tư vốn vào doanh nghiệp khác.
Phương pháp này thường áp dụng với các doanh nghiệp có ngành nghề kinh
doanh chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây
dựng,..., có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 5 năm liền kề
trước cổ phần hóa cao hơn lãi suất trả trước của trái phiếu chính phủ kỳ hạn từ 10
năm trở lên tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Căn cứ xác định giá trị doanh nghiêp là: Báo cáo tài chính của doanh nghiệp
trong 5 năm liền kề trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, phương án hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong 3 đến 5 năm sau khi cổ phần hóa,
lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm ở thời điểm gần nhất.
2.7. Bán cổ phần lần đầu
Sau khi hoàn tất xác định giá trị doanh nghiệp và có kết quả công bố giá trị
doanh nghiệp, doanh nghiệp tiến hành bán cổ phần lần đầu. Cơ quan có thẩm quyền
quyết định quy mô, cơ cấu vốn điều lệ của doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Trường hợp giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp lớn hơn mức
vốn điều lệ cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp không thuộc
diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối thì cơ quan có thẩm quyền quyết định phê
duyệt phương án cổ phần hóa xác định điều chỉnh vốn điều lệ theo nhu cầu thực tế.
Trường hợp phát hành thêm cổ phiếu, vốn điều lệ được xác định bằng giá trị
thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và giá trị cổ phần phát hành thêm tính
50
theo mệnh giá cổ phiếu.
Trên cơ sở vốn điều lệ đã được xác định, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định
cơ cấu vốn cổ phần lần đầu. Cụ thể về cổ phần nhà nước nắm giữ, cổ phần bán cho
nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác, cổ phần bán ưu đãi cho tổ chức công đoàn,
cho người lao động. Các doanh nghiệp quy mô lớn có vốn nhà nước trên 500 tỷ đồng
hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề đặc thù (Bảo hiểm, ngân
hàng, bưu chính viễn thông, hàng không, khai thác than, dầu khí, khai thác mỏ quý
hiếm khác) và các công ty mẹ thuộc các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước thì
tỷ lệ cổ phần đấu giá bán cho các nhà đầu tư do Thủ tướng Chính phủ hoặc cơ quan
được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền xem xét, quyết định cụ thể.
Bán cổ phần lần đầu được thực hiện với nhiều phương thức như:
- Phương thức đấu giá công khai khi không có sự phân biệt nhà đầu tư tổ chức,
nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư trong nước và nước ngoài;
- Phương thức bảo lãnh phát hành với sự cam kết đảm bảo của tổ chức có chức
năng bảo lãnh về việc thực hiện phân phối hết số lượng cổ phần bán ra ngoài. Nếu
không bán hết, tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm mua hết số cổ phần còn lại theo giá
bảo lãnh đã cam kết.
- Phương thức thỏa thuận trực tiếp theo kết quả thương thảo giữa ban chỉ đại
cổ phần hóa hoặc tổ chức được ban chỉ đạo cổ phần hóa ủy quyền với từng nhà đầu
tư. Giá bán ở đây là giá bán thương thảo trực tiếp không thấp hơn giá khởi điểm hoặc
giá đầu thầu thành công thấp nhất.
Đối với số lượng cổ phần không bán hết, ban chỉ đại cổ phần hóa tiến hành
tiếp tục chào bán công khai hoặc điều chỉnh cơ cấu vốn điều lệ của doanh nghiệp theo
quy định tại điều 59/2011/NĐ-CP.
Việc bán cổ phần phải hoàn thành trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày quyết định
phê duyệt phương án cổ phần hóa. Số tiền thu được từ cổ phần hóa được sử dụng để
thanh toán chi phí cổ phần hóa, chi phí giải quyết chính sách đối với lao động dôi dư,
số còn lại để lại cho công ty cổ phần theo tỷ lệ tương ứng theo điều 42, nghị định
59/2011/NĐ-CP.
Kể từ ngày hoàn thành bán cổ phần, doanh nghiệp tiến hành đại hội đồng cổ
51
đông, thông qua điều lệ công ty, đăng ký doanh nghiệp lần đầu. Đối với doanh nghiệp
nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần, cơ quan được phân công thực hiện quyền sở hữu vốn
nhà nước tại doanh nghiệp cử người làm đại diện phần vốn tại doanh nghiệp.
2.8. Chính sách đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa
Theo điều 47, nghị định 59/2011/NĐ-CP, Doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần
hóa được hưởng các ưu đãi nhất định như:
- Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền
quản lý và sử dụng của doanh nghiệp cổ phần hóa thành sở hữu của công ty cổ phần.
- Được miễn lệ phí cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi chuyển từ
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần
- Được ưu tiên kế thừa các quyền và lợi ích hợp pháp về sử dụng đất theo quy
định của pháp luật về đất đai.
- Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật như các công trình
văn hóa, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng, nhà trẻ để đảm bảo phúc lợi cho người
52
lao động trong công ty cổ phần.
Chương 3
THỰC TRẠNG THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam qua các giai đoạn
Năm 1986, Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới. Trước năm 1990, doanh
nghiệp bước đầu được chủ động trong tổ chức sản xuất, kinh doanh, thoát dần khỏi
chế độ tập trung bao cấp với các quyết định số 217/1988/QĐ-HĐBT ngày 14/11/1987,
Quyết định số 50/1988/QĐ-HĐBT ngày 22/3/1988 và sau đó là Quyết định
195/HĐBT ngày 2/12/1988 bổ sung quyết định số 217/HĐBT. Tuy nhiên, trên thực
tế, quyền tự chủ của doanh nghiệp quốc doanh vẫn bị hạn chế, cơ chế bao cấp xin cho
vẫn chi phối các hoạt động của doanh nghiệp quốc doanh. Đến cuối năm 1989, cả
nước có khoảng trên 12.000 doanh nghiệp quốc doanh với quy mô chủ yếu là vừa,
nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, hiệu quả hoạt động thấp.
3.1.1. Giai đoạn 1990- 2001
Chính sách cổ phần hóa chính thức bắt đầu tư năm 1990. Giai đoạn này, nước
ta đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hai hướng: Một là giao khoán, bán,
cho thuê, cho phá sản; hai là cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn không
hiệu quả, doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn và xây dựng, củng
cố các doanh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả, tạo sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế. Quyết định số 143/1990/HĐBT ngày 10/3/1990 về việc thí điểm cổ phần hóa
một vài doanh nghiệp quốc quanh, Quyết định số 315/HĐBT ngày 1/9/1990, Nghị
định số 388/HĐBT ngày 10/11/1991 về quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp
quốc doanh, Quyết định số 90/1994/QĐ-TTg ngày 7/3/1994 và Quyết định số
91/1994/QĐ-TTg ngày 7/3/1994-TTg về việc thí điểm thành lập các tập đoàn kinh
doanh, Nghị định số 28/1996/NĐ-CP này 7/5/1996 và Nghị định số 44/1998/NĐ-CP
ngày 29/6/1998 về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần đã thể hiện quyết
tâm đẩy mạnh đánh giá, tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.
Ngày 10/5/1990, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định số 143/HĐBT lựa
chọn một số doanh nghiệp nhỏ và vừa để thử nghiệm chuyển đổi thành mô hình công
53
ty cổ phần. Quyết đinhh 143/HĐBT xác định rõ doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa
là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn và quan trọng thì chưa áp dụng cổ
phần hóa. Quyết định hướng dẫn trình tự, cách thức tiến hành cổ phần hóa, hướng
dẫn cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động của bộ máy công ty cổ phần. Có thể nói
quyết định 143/HĐBT đã xác định được mục tiêu, đối tượng, hình thức, trình tự tiến
hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Những doanh nghiệp được chọn cổ phần
hóa là những doanh nghiệp kinh doanh có lãi, tự nguyện đăng ký chuyển sang công
ty cổ phần theo Quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 và Chỉ thị số 84 ngày 4/8/1993.
Kết quả trong 2 năm 1990- 1991, có 2 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Đến đầu năm
1996 có 5 doanh nghiệp gồm 3 doanh nghiệp trung ương và 2 doanh nghiệp địa
phương cổ phần hóa. Đó là:
1. Công ty Đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Công ty phát triển hàng hải thuộc
Bộ Giao thông, cổ phần hóa xong vào tháng 7/1993
2. Công ty cơ điện lạnh thuộc Sở Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, cổ
phần hóa xong vào tháng 10/1993
3. Nhà máy giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ- 10/1994
4. Xí nghiệp thức ăn chăn nuôi thuộc Bộ Công nghiệp- 7/1995
5. Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long An thuộc tỉnh Long An- 7/1995
Đánh giá chung về giai đoạn này cho thấy: “Các văn pháp luật được ban hành
nhìn chung chưa hoàn chỉnh: trình tự, thủ tục tiến hành cổ phần hóa quy định chưa
cụ thể, pháp luật không dự liệu hết tình hình có thể xảy ra, bị ràng buộc bởi cơ chế
xin cho. Khi tiến hành, doanh nghiệp gặp nhiều lúng túng, mất nhiều thời gian xin ý
kiến chỉ đạo, hiệu quả không cao, người lao động chưa được tạo điều kiện mua cổ
phần, hướng dẫn hoạt động doanh nghiệp sau cổ phần hóa không rõ ràng. Chính sách
cổ phần hóa không được phổ biến rộng rãi nên việc hiểu rõ mục tiêu, lợi ích của cổ
phần hóa bị hạn chế nên hiệu quả cổ phần hóa không cao” [17, 84].
Năm 1996, Chính phủ quyết định tiến hành thử cổ phần hóa ở quy mô rộng
với Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996. Nghị định 28/CP chỉ rõ: Tất cả doanh nghiệp
nhà nước nằm trong diện nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư đều
được phép cổ phần hóa để chuyển thành công ty cổ phần. Doanh nghiệp nhà nước
54
được chọn cổ phần hóa phải là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, có phương án kinh
doanh có hiệu quả. Với Nghị định 28/CP lần đầu tiên có quy định một cách có hệ
thống từ mục đích, yêu cầu, đối tượng đến phương thức tiến hành, chế độ ưu đãi đối
với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Tốc độ cổ phần
hóa diễn ra nhanh hơn. Trong 2 năm 1996- 1997, có 25 doanh nghiệp nhà nước được
chuyển thành công ty cổ phần. Diện doanh nghiệp cổ phần hóa đã mở rộng ra 3 bộ và
9 tỉnh, quy mô doanh nghiệp cổ phần hóa lớn hơn.
Số lượng doanh nghiêp nhà nước đã giảm mạnh, từ 12.000 đơn vị năm 1990
xuống còn 7.000 đơn vị năm 1995. Trong giai đoạn này đã có 548 doanh nghiệp nhà
nước được cổ phần hóa. Tuy nhiên, tỷ trọng GDP của doanh nghiệp nhà nước đã tăng
từ 32,5% năm 1990 lên 42,2% năm 1995 thể hiện sự lấn át của doanh nghiệp nhà
nước đối với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.
Tiến độ cổ phần hóa chậm, do trước khi có luật doanh nghiệp, cổ phần hóa diễn ra
còn dè dặt, lạ lẫm. Cổ phần hóa giai đoạn này cũng không tránh khỏi những hạn chế
nhất định. Đối tượng doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa chỉ là doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng vốn khá nhỏ trong tổng vốn nhà nước đầu tư vào
các doanh nghiệp. Đối tượng được mua cổ phần cũng bị giới hạn là tổ chức, cá nhân
trong nước mà không mở rộng ra nhà đầu tư nước ngoài. Thủ tục tiến hành cổ phần
hóa còn rườm rà, mất nhiều thời gian. Việc xác định giá trị doanh nghiệp cứng nhắc
với sự tham gia bắt buộc của cơ quan kiểm toán gây tốn kém. Ưu đãi dành cho người
lao động còn hạn chế.
Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, ngày 29/06/1998, Chính phủ ban hành nghị
định số 44/1998/NĐ-CP về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nghị định này đã
khắc phục những tồn tại của các giai đoạn trước, thay đổi cơ bản chính sách cổ phần
hóa. Giai đoạn 1998- 2001 tăng tốc với 548 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần
hóa.
3.1.2. Giai đoạn 2002- 2010
Đây là giai đoạn Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức lại và cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước. Trong giai đoạn này, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị
định như Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002, Nghị định 187/2004/NĐ-CP
ngày 16/11/2004, nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về việc chuyển
55
doanh nghiệp nhà nước 100% vốn chủ sở hữu thành công ty cổ phần đã mở ra giai
đoạn mới của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước so với giai đoạn trước chỉ làm thí
điểm. Nghị quyết trung ương 3 khóa IX năm 2001 coi việc đẩy mạnh cổ phần hóa
những doanh nghiệp không cần nắm giữ 100% vốn nhà nước là khâu quan trọng để
tạo bước chuyển cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước. Giai đoạn này đã cổ phần hóa 3.944 doanh nghiệp nhà nước, tăng gấp 6 lần so
với giai đoạn 1990- 2000. Tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong GDP đã giảm
mạnh. Năm 2010, kinh tế nhà nước chỉ còn chiếm 33,74% GDP.
Giai đoạn 2001- 2007 cổ phần hóa được 3.273 doanh nghiệp, năm 2002, số
lượng doanh nghiệp cổ phần hóa giảm nhẹ là 164 doanh nghiệp. Đặc biệt giai đoạn
2003- 2006 cổ phần hóa được 2.649 doanh nghiệp (trong đó năm 2003 là 621 doanh
nghiệp, năm 2004 là 856 doanh nghiệp, năm 2005 là 813 doanh nghiệp và năm 2006
là 359 doanh nghiệp) được coi là thời kỳ bùng nổ cổ phần hóa với mức bình quân 1
năm rất cao phản ánh xu hướng kinh tế thị trường tương đối rõ nét sau khi có luật
doanh nghiệp năm 2000 và chuẩn bị cho mở cửa, hội nhập sâu rộng khi Việt Nam gia
nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Kết quả đạt được là nhờ vào các động
lực cổ phần hóa từ chủ trương của Nghị quyết đại hội Đảng VIII, IX, Nghị quyết hội
nghị trung ương 3 khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả của doanh nghiệp nhà nước ban hành cuối năm 2001. Đặc biệt, các cơ chế chính
sách trong các nghị định ban hành giai đoạn này thiên về khuyến khích, động viên
doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa như xác định giá trị doanh nghiệp, xác định giá
trị đất đai, vị trí địa lý, uy tín, thương hiệu,... gắn với giá trị doanh nghiệp được đơn
giản hóa, dựa chủ yếu vào giá trị sổ sách, chưa gắn với thị trường đã tạo động lực
mạnh thúc đẩy mạnh mẽ cổ phần hóa ở những năm đầu giai đoạn này.
Nhìn chung, nhiều doanh nghiệp đã kinh doanh có hiệu quả sau khi cổ phần
hóa trên cả 3 phương diện tài chính, mức độ thỏa mãn của khách hàng và mức độ
thỏa mãn của người lao động. Tuy nhiên, thực tế cổ phần hóa vẫn còn nhiều vẫn đề
hạn chế. Đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp hậu cổ phần hóa hầu như rất ít thay đổi so
với thời điểm trước cổ phần hóa và do đó, không giúp tăng đáng kể chất lượng của
các quyết định tài chính, sản xuất kinh doanh và nhân sự. Xuất hiện tình trạng lựa
56
chọn ngược: các nhà đầu tư của khu vực tư nhân chỉ quan tâm đến các doanh nghiệp
hoặc bộ phận doanh nghiệp có tiềm năng phát triển hậu cổ phần hóa hoặc được định
giá quá thấp so với giá tị thực.
Từ năm 2008, tiến độ cổ phần hóa bị chậm lại. Từ năm 2008 đến năm 2011
chỉ có 117 doanh nghiệp được cổ phần hóa, chỉ tương đương với số doanh nghiệp
được cổ phần hóa trong năm 2007. Đến năm 2011, tổng số có 3.976 doanh nghiệp
nhà nước và bộ phận doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành cổ phần hóa, chuyển sang
hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, trong đó, doanh nghiệp địa phương chiếm
58%, doanh nghiệp thuộc các bộ, ngành chiếm 30%, các tập đoàn, tổng công ty chiếm
12%. Số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước còn lại đến năm 2011 là 1.309 doanh
nghiệp, trong đó, doanh nghiệp của địa phương chiếm 54%, doanh nghiệp thuộc các
bộ, ngành chiếm 27%, các tập đoàn, tổng công ty chiếm 19%.
3.1.3. Giai đoạn 2011 đến nay
Giai đoạn 2011 đến nay thực hiện cổ phần hóa nhằm thúc đẩy tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước. Giai đoạn này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 26
nghị định, 11 quyết định, chỉ thị có liên quan đến cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Đây là giai đoạn triển khai thực hiện một trong ba nội dung quan trọng của nghị quyết
trung ương ba khóa XI là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
Với quyết tâm đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế với 3 trụ cột là tái cơ cấu đầu
tư công, tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Thủ
tướng Chính phủ đã thông qua Quyết định 929/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai
đoạn 2011-2015 với 3 mục tiêu: tái cơ cấu về tổ chức, tái cơ cấu về tài chính, tái cơ
cấu về quản trị.
Quá trình cổ phần hóa giai đoạn này tập trung vào các tập đoàn kinh tế, các
tổng công ty. Vì vậy quá trình cổ phần hóa đối diện với nhiều vấn đề cả những vấn
đề chung của doanh nghiệp cổ phần hóa và cả những vấn đề riêng của loại hình doanh
nghiệp có quy mô lớn.
Các vấn đề chung về cổ phần hóa tiếp tục phải giải quyết như: tình trạng doanh
nghiệp sau cổ phần hóa vẫn chưa thoát ra khỏi phương thức hoạt động của doanh
57
nghiệp nhà nước cũ, chưa đột phá mạnh về tư duy, hành động trong quản trị, điều
hành, năng lực quản lý, khả năng cạnh tranh, tính công khai, minh bạch, khó tìm được
cổ đông chiến lược, cách lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, vai trò cổ đông nhà nước bị
quá lạm dụng,...
Các vấn đề đặc thù khi cổ phần hóa tập đoàn kinh tế và tổng công ty là:
- Tập đoàn kinh tế, tổng công ty là những doanh nghiệp có quy mô lớn, có tài
sản lớn, nhiều vốn nhà nước, nắm giữ các ngành, lĩnh vực kinh doanh quan trọng,
nhạy cảm, liên quan đến vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước, an ninh, quốc phòng,
công ích. Tập đoàn kinh tế và tổng công ty có cấu trúc đa dạng, nhiều tầng nấc, gồm
nhiều doanh nghiệp thành viên, lợi ích không đồng nhất, thậm chí đối lập nhau. Tập
đoàn kinh tế và tổng công ty đều được coi là nòng cốt, xương sống của doanh nghiệp
nhà nước và kinh tế nhà nước.
- Cổ phần hóa tập đoàn kinh tế, tổng công ty có thể tiến hành theo 2 hình thức.
Một là cổ phần hóa toàn bộ tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Hai là chỉ cổ phần hóa các
doanh nghiệp thành viên để chuyển sang mô hình công ty mẹ- công ty con. Hiện nay,
hình thức thứ 2 được áp dụng phổ biến để cổ phần hóa tổng công ty. Trước hết, cổ
phần hóa các doanh nghiệp thành viên, sau đó mới cổ phần hóa công ty mẹ. Hình
thức này chỉ thay đổi ở bên dưới, các công ty con, cháu, công ty liên kết, chưa tiến
hành đối với doanh nghiệp phía trên là công ty mẹ. Vì vậy, nhiều tập đoàn kinh tế,
tổng công ty không có chuyển biến mạnh mẽ, sức ỳ vẫn lớn. Hình thức cổ phần hóa
này chỉ phù hợp với giai đoạn trước năm 2011 khi tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
chưa được tập trung. Giai đoạn hiện nay, hình thức cổ phần hóa thứ nhất được áp
dụng nhiều hơn với cả tổng công ty và tập đoàn kinh tế như Tập đoàn Tài chính Bảo
hiểm Bảo Việt và Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam.
- Nhà nước can thiệp quá sâu vào quyền của công ty mẹ khi cổ phần hóa các
doanh nghiệp thành viên sẽ làm khó cho công ty mẹ thực hiện các kế hoạch chiến
lược, sử dụng quyền của mình tại các công ty con, công ty liên kết.
Theo số liệu thống kê trong giai đoạn 2011- 2013, cả nước đã sắp xếp được
180 doanh nghiệp. Trong đó có 99 doanh nghiệp được cổ phần hóa trong đó năm
2011 được 12 doanh nghiệp, năm 2012 được 13 doanh nghiệp, riêng năm 2013 cổ
58
phần hóa 74 doanh nghiệp. Đây hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô lớn, phạm vi
hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành, tài chính phức tạp. Quá trình cổ phần hóa giai
đoạn này diễn ra chậm. Trong 2 năm 2014- 2015 theo đề án tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước phải thực hiện cổ phần hóa 432 doanh nghiệp trong đó đã có 348 doanh
nghiệp thành lập ban chỉ đạo cổ phần hóa, 274 doanh nghiệp đang xác định giá trị
doanh nghiệp, đã công bố 123 doanh nghiệp. Năm 2014, 143 doanh nghiệp đã hoàn
thành cổ phần hóa. Số doanh nghiệp cần hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2015 là
289 doanh nghiệp. Việc phải tiến hành cổ phần hóa 289 doanh nghiệp nhà nước trong
năm 2015 đã làm nảy sinh nhiều thách thức: vừa phải hoàn thành tiến độ và kế hoạch
cổ phần hóa, vừa phải đảm bảo chất lượng cổ phần hóa, trong đó nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến chất lượng cổ phần hóa là tạo ra động lực mới nhờ đổi mới quản trị
doanh nghiệp và sự đột phá do có sự tham gia của nhân tố nhà đầu tư chiến lược. Quý
I/2015 đã hoàn thành cổ phần hóa 27 doanh nghiệp.
Vốn của doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được bảo toàn, năng lực tài chính
được đảm bảo. Vốn chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước năm
2013 là 959.796 tỷ đồng, tăng 4,1% so với năm 2012. Giá trị tổng tài sản của các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2013 đạt 218.95 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2012.
Tỷ trọng đóng góp vào GDP của khối doanh nghiệp nhà nước đạt mức 32,4% năm
2013. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tương
đối ổn định, doanh thu năm 2013 đạt 1.471.018 tỷ đồng, tạo việc làm cho khoảng trên
1,2 triệu lao động. Nhìn chung, tổng lợi nhuận của toàn khối doanh nghiệp nhà nước
có xu hướng tăng lên mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm xuống, cơ cấu
tài sản và vốn chủ sở hữu tiếp tục tăng lên. Tuy nhiên, quy mô nợ của các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước vẫn rất cao, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước diễn
ra chậm chạp, các vấn đề đối với quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai
đoạn 2000- 2010 vẫn chưa được giải quyết trong giai đoạn này.
Năm 2014- 2015 gắn với tiến trình cổ phần hóa tiềm năng của 3 công ty lớn là
công ty Dịch vụ Viễn thông di động Việt Nam (MobiFone), Tổng công ty Hàng hải
Việt Nam (Vinalines) và Tập đoàn Công nghiệp Than- khoáng sản Việt Nam
(Vinacomin).
Với giá trị sở hữu khoảng 3,4 tỷ USD, MobiFone hiện nắm giữ 21% thị phần
59
thị trường điện thoại di động của Việt Nam. MobiFone và Vinaphone là 2 công ty
con chiếm 19% thị phần của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT).
MobiFone cổ phần hóa cuối năm 2015. Sau cổ phần hóa, nhà nước chỉ còn nắm giữ
20% cổ phần. Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) hiện là công ty hàng hải
quốc doanh của Việt Nam. Vinalines đã gặp nhiều khó khăn tài chính sau sự kiện
tham nhũng và khoản nợ lên tới 4 tỷ USD do tình trạng quản lý tài chính yếu kém.
Để trả nợ, Vinalines đã bán cổ phần tại nhiều đơn vị của mình, bao gồm cảng biển.
Vinacomin đã hoàn thành thoái vốn trong lĩnh vực tài chính, cụ thể là thoái vốn tại
công ty bảo hiểm SHB, ngân hàng SHB, công ty Bảo hiểm Hàng không, công ty
chứng khoán SHB và công ty tài chính Vinacomin. Các đơn vị tiến hành cổ phần hóa
là Tổng công ty Khoáng sản- Vinacomin, Tổng công ty điện lực- than khoáng sản,
Tổng công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc- Vinacomin, Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên Cơ khí Đóng tàu- Vinacomin và công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên Môi trường- Vinacomin.
Các bộ, ngành, địa phương đã có những báo cáo cụ thể về kết quả đạt được
trong quá trình cổ phần hóa giai đoạn này. Cụ thể
Bộ xây dựng
Tháng 10/2012, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1428/QĐ- TTg về việc
kết thúc thí điểm Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị, theo đó đã
chuyển 7 Tổng công ty là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và 2 Tổng công ty cổ
phần về trực thuộc Bộ Xây dựng. Do việc ổn định lại công tác tổ chức, hoạt động sản
xuất kinh doanh của các Tổng công ty nên tiến độ cổ phần hóa còn chậm so với kế
hoạch cổ phần hóa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tính đến hết năm 2012,
Bộ Xây dựng chỉ hoàn thành cổ phần hóa 1 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Lắp
máy Việt Nam.
Tính đến đầu năm 2013, Bộ Xây dựng còn 14 Công ty mẹ - Tổng công ty và
17 công ty con trực thuộc các Tổng công ty phải cổ phần hóa. Trong năm 2013, Bộ
Xây dựng đã thực hiện cổ phần hóa được 12 doanh nghiệp gồm: 5 Công ty mẹ- Tổng
công ty (Viglacera, Viwaseen, Xây dựng Hà Nội, Xây dựng Bạch Đằng và Tổng công
ty xây dựng và phát triển hạ tầng) và 7 Công ty con (3 doanh nghiệp thuộc Tổng công
ty Xây dựng và Phát triển Hạ tầng, 2 doanh nghiệp thuộc tổng công ty Đầu tư Phát
60
triên Nhà và Đô thị và 2 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty VNCC).
Trong 9 tháng đầu năm 2014, Bộ Xây dựng đã rà soát, đẩy mạnh công tác cổ
phần hóa, đồng loạt triển khai tại 19 doanh nghiệp gồm 9 công ty mẹ- Tổng công ty
và 10 công ty con cổ phần hóa cùng công ty mẹ. Bộ xây dựng đã thành lập ban chỉ
đạo và phê duyệt kế hoạch cổ phần hóa của 9/9 tổng công ty, hoàn thành phê duyệt
giá trị doanh nghiệp và đang thẩm định phương án cổ phần hóa của 1 tổng công ty và
2 công ty con, đang xác định giá trị doanh nghiệp tại 5 tổng công ty và tiến hành xử
lý tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp tại 4 tổng công ty.
Nhìn chung giai đoạn 2011-2015, “số lượng doanh nghiệp của Bộ Xây dựng
phải thực hiện cổ phần hóa không nhiều nhưng đều có qui mô lớn với giá trị doanh
nghiệp từ 1.000 tỷ đồng đến gần 20.000 tỷ đồng, trong đó có 14 Công ty mẹ - Tổng
công ty. Dự kiến đến cuối năm 2015, về cơ bản Bộ Xây dựng sẽ hoàn thành công tác
cổ phần hóa và không còn doanh nghiệp nhà nước” [3, 83].
Đến năm 2015, Bộ Xây dựng sẽ hoàn thành công tác cổ phần hóa toàn bộ các
doanh nghiệp nhà nước trực thuộc. Đề thực hiện được mục tiêu trên, Bộ xây dựng đã
đề ra các giải pháp như:
- Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức của cán bộ lãnh đạo, người lao động trong
doanh nghiệp trong công tác cổ phần hóa thông qua các hình thức chỉ đạo bằng văn
bản, tổ chức hội thảo, cuộc họp phổ biến,..., quy định việc thực hiện kế hoạch cổ phần
hóa là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của lãnh đạo
doanh nghiệp
- Thực hiện cổ phần hoá các công ty con đồng thời với các công ty mẹ để rút
ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí và lựa chọn được phương án cổ phần hóa phù hợp
hơn.
- Phê duyệt kế hoạch, tiến độ cổ phần hóa cụ thể, bao gồm mốc thời gian cho
từng bước công việc, thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc, đánh giá mức độ hoàn thành
tiến độ cổ phần hóa theo kế hoạch đề ra.
- Chỉ đạo các doanh nghiệp chủ động chuẩn bị hồ sơ, tài liệu pháp lý để cổ
phần hóa, áp dụng các biện pháp xử lý linh hoạt, hiện hữu, dứt điểm đối với các doanh
61
nghiệp đang gặp khó khăn lớn về tài chính, lao động.
- Thường xuyên chỉ đạo, phối hợp với doanh nghiệp cổ phần hóa giải quyết
các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình cổ phần hóa, nhất là đối với doanh
nghiệp có nhiều tài sản là đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị, ... khi xác định giá trị
doanh nghiệp.
- Chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan như bộ Tài chính, Bộ kế hoạch
và đầu tư, Ủy ban nhân dân các tỉnh,... để giải quyết các vấn đề vướng mắc khi cổ
phần hóa như việc xác định giá trị doanh nghiệp, phương án sử dụng đất, phương án
cổ phần hóa.
- Tăng cường quan tâm, hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát đối với các doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
- Chỉ đạo các đơn vị chủ động rà soát và lập kế hoạch, lộ trình bán tiếp phần
vốn nhà nước tại các công ty cổ phần xét thấy không cần thiết nắm giữ.
Bộ xây dựng đã đưa ra các kiến nghị để giải quyết những khó khăn, vướng
mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện: Sửa đổi một số quy định tại nghị
định số 59/2011/NĐ-CP theo hướng doanh nghiệp cổ phần hóa được giữ lại quỹ dự
phòng giảm giá các khoản nợ phải thu khi xác định giá trị doanh nghiệp, có phương
pháp xác định giá đối với các khoản đầu tư vào doanh nghiệp chưa niêm yết, doanh
nghiệp bị sàn giao dịch hủy niêm yết phù hợp với thị trường, sử dụng lợi nhuận bình
quân của 10 năm trước khi cổ phần hóa để tính lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp,
không định giá lại các khoản đầu tư tài chính khi thực hiện bàn giao vốn nhà nước
sang công ty cổ phần.
Bộ xây dựng đã đưa ra các kiến nghị để giải quyết những khó khăn, vướng
mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện: Sửa đổi một số quy định tại nghị
định số 59/2011/NĐ-CP theo hướng doanh nghiệp cổ phần hóa được giữ lại quỹ dự
phòng giảm giá các khoản nợ phải thu khi xác định giá trị doanh nghiệp, có phương
pháp xác định giá đối với các khoản đầu tư vào doanh nghiệp chưa niêm yết, doanh
nghiệp bị sàn giao dịch hủy niêm yết phù hợp với thị trường, sử dụng lợi nhuận bình
quân của 10 năm trước khi cổ phần hóa để tính lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp,
không định giá lại các khoản đầu tư tài chính khi thực hiện bàn giao vốn nhà nước
62
sang công ty cổ phần.
Bộ xây dựng đã đưa ra các kiến nghị để giải quyết những khó khăn, vướng
mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện: Sửa đổi một số quy định tại nghị
định số 59/2011/NĐ-CP theo hướng doanh nghiệp cổ phần hóa được giữ lại quỹ dự
phòng giảm giá các khoản nợ phải thu khi xác định giá trị doanh nghiệp, có phương
pháp xác định giá đối với các khoản đầu tư vào doanh nghiệp chưa niêm yết, doanh
nghiệp bị sàn giao dịch hủy niêm yết phù hợp với thị trường, sử dụng lợi nhuận bình
quân của 10 năm trước khi cổ phần hóa để tính lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp,
không định giá lại các khoản đầu tư tài chính khi thực hiện bàn giao vốn nhà nước
sang công ty cổ phần.
Bộ công thương
Trong năm 2015, Bộ Công Thương thực hiện cổ phần hóa 7 doanh nghiệp
trong đó có 3 Tổng công ty: Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam;
Công ty Giấy Việt Nam; Công ty Máy và Thiết bị công nghiệp và 4 Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Điện
máy và Đầu tư; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xây lắp và Vật liệu xây
dựng V; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thực phẩm và Đầu tư công
nghệ Fococev, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vật liệu xây dựng và
Xây lắp thương mại BMC. Đối với 3 Công ty, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
phương án cổ phần hóa, Bộ Công Thương chỉ đạo thực hiện bán cổ phần lần đầu
trong Quý I năm 2016. Còn đối với 4 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên,
chỉ duy nhất Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vật liệu xây dựng và Xây
lắp thương mại BMC, Bộ đang chỉ đạo Công ty xác định giá trị doanh nghiệp và hoàn
thành cổ phần hóa trong Quý 1 năm 2016. Còn 3 Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên đã triển khai bán cổ phần lần đầu và hoàn thành cổ phần hóa trong năm
2015 hoặc tháng 1 năm 2016. Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) là tập đoàn kinh
tế nhà nước đầu tiên thực hiện cổ phần hóa cũng đã hoàn thành thoái vốn ở 7 đơn vị
với tổng số tiền 204,1 tỷ đồng. Hiện nay, Vinatex đang chỉ đạo thoái vốn tiếp tại một
số lĩnh vực như chứng khoán, ngân hàng, tài chính để lành mạnh hóa và minh bạch
tài sản khi chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần.
Như vậy, trong giai đoạn 2011 – 2015, Bộ Công Thương hoàn thành công tác
63
sắp xếp, cổ phần hóa 15 doanh nghiệp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Trong
đó có 5 doanh nghiệp có nhà đầu tư chiến lược là các Tập đoàn và các Tổng công ty.
Các nhà đầu tư chiến lược này thì phần lớn là nhà đầu tư trong nước, chưa thu hút
được các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tham gia mua cổ phần của các doanh
nghiệp thuộc Bộ. Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho biết: “đến năm
2015, đã có 287 trên tổng số 299 doanh nghiệp Nhà nước của ngành Công Thương
được cổ phần hóa xong. Riêng trong giai đoạn 2011-2015, Bộ hoàn thành công tác
xắp xếp, cổ phần hóa 15 doanh nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ” [2, 83].
Tuy nhiên, trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Công Thương đã có những chỉ đạo quyết liệt trong công tác tái cơ cấu, sắp xếp doanh
nghiệp Nhà nước, lãnh đạo các Tập đoàn, Tổng công ty đã có nhiều nỗ lực, cố gắng
nhưng nhìn chung, công tác cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chưa
đạt kết quả cao. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán vẫn còn ảm đạm, một số
doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về tài
chính, công nợ, đất đai, tài sản. Bộ trưởng khẳng định: “Tái cơ cấu không chỉ là nhiệm
vụ trọng tâm mà còn là sự sống còn của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh
tế sâu, rộng của Việt Nam” [2, 83].
Giai đoạn 2016 – 2020, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tái
cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, đáng chú ý
nhất là sẽ tập trung cổ phần hóa, thoái vốn của các tập đoàn, Tổng công ty “đầu tàu”
trong nền kinh tế gồm Dầu khí, Điện lực, Than Khoáng sản, Hóa chất, Thuốc lá….
Giai đoạn 2014- 2015, quá trình cổ phần hóa được đề cập với tinh thần quyết
liệt với nhiều giải pháp đồng bộ, đột phá từ nhận thức đến cơ chế, chính sách, đối
tượng, lộ trình, trách nhiệm và tổ chức thực hiện.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu chuyển thành công ty cổ phần tất cả doanh
nghiệp thuộc diện cổ phần hóa. Những doanh nghiệp có điều kiện thì thực hiện phát
hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) theo quy định hiện hành. Những doanh
nghiệp chưa có điều kiện IPO ngay thì chuyển thành công ty cổ phần với các cổ đông
64
là Nhà nước.
Để hỗ trợ quá trình cổ phần hóa, nhiều chính sách tài chính mới được triển
khai, như: xóa nợ cho 4 nhóm đối tượng doanh nghiệp nhà nước; cho phép thoái vốn
dưới mệnh giá hoặc dưới giá trị sổ sách và cố gắng bảo toàn vốn ở mức cao nhất,
không thoái bằng mọi giá, phân loại lĩnh vực đang đầu tư có lãi, lĩnh vực đang lỗ để
có từng biện pháp thích hợp, lĩnh vực càng để càng mất thì bán nhanh; Nới “room”
cho nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại doanh nghiệp và hạ mức trần cổ phần do
nhà nước nắm giữ trong doanh nghiệp cổ phần hóa; phân định rõ nhiệm vụ công ích,
nhiệm vụ chính trị và kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước; nghiên cứu đề xuất
mức lương hợp lý cũng như kiểm soát chặt chẽ tuyển chọn lao động trong doanh
nghiệp nhà nước. Hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước và đại diện
chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp.
Trường hợp không thực hiện được tiến độ cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước
theo kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì Hội đồng thành viên các tập
đoàn, tổng công ty Nhà nước, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty các doanh nghiệp
Nhà nước và Ban lãnh đạo doanh nghiệp phải làm rõ nguyên nhân khách quan, chủ
quan, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan xử lý chậm quá trình cổ
phần hóa và thoái vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, báo cáo cấp có thẩm quyền
xem xét, xử lý theo quy định. Đồng thời, Bộ trưởng các bộ quản lý ngành, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc chậm hoàn
thành kế hoạch đã được phê duyệt theo quy định.
Năm 2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 15/NQ-CP ngày 6/3/2014 về
một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn các doanh nghiệp nhà nước (Gọi
tắt là nghị quyết số 15). Nghị quyết quy định:
- Kiên quyết truy xét trách nhiệm đối với các lãnh đạo bộ, ngành, địa phương,
đơn vị, thực hiện không đúng tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh
nghiệp
- Cho phép các doanh nghiệp nhà nước được thoái vốn với giá thấp hơn mệnh
65
giá hoặc bán cổ phần dưới giá trị sổ sách.
Nghị quyết số 15/NQ-CP đã thể hiện quyết tâm đẩy mạnh cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước của chính phủ, các bộ, ngành và địa phương. Từ đầu năm 2014, Bộ
giao thông vận tải đã liên tiếp tiến hành IPO các tổng công ty thuộc ngành, Bộ xây
dựng cũng đẩy mạnh IPO các doanh nghiệp do bộ quản lý. Các địa phương cũng đẩy
mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể, tại thành phố Hồ Chí
Minh đã xây dựng kế hoạch cổ phần hóa 29 doanh nghiệp lớn. Vào ngày 13/3/2014,
lãnh đạo 29 doanh nghiệp đã ký cam kết hoàn thành cổ phần hóa trước tháng 12/2015.
Thành phố Hà Nội cũng đã đặt mục tiêu sắp xếp cổ phần hóa 27 doanh nghiệp thuộc
thành phố quản lý trong năm 2014. Trong đó, cổ phần hóa 11 doanh nghiệp, 9 bộ
phần doanh nghiệp.
Giai đoạn 2011- 2015, tiến trình cổ phần hóa diễn ra còn chậm do nhiều
nguyên nhân như:
Tư duy về cổ phần hóa không thay đổi khi vẫn cho rằng doanh nghiệp nhà
nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo, nếu giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước sẽ làm
giảm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước nói riêng và khu vực kinh tế nhà
nước nói chung. Mặt khác, một số lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ tư duy lo
ngại sẽ mất hoặc giảm quyền kiểm soát doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ
phần nên chưa tập trung cho cổ phần hóa, chủ động làm chậm lại quá trình cổ phần
hóa. Người đứng đầu doanh nghiệp là những người có quyền quyết định đến quyết
tâm cổ phần hóa hay làm chậm lại quá trình cổ phần hóa. Giai đoạn này, họ có nhiều
lý do hơn có thể nêu ra về khó khăn, trở ngại, vấn đề cần cân nhắc để kéo lùi thời
gian cổ phần hóa như kinh tế suy giảm, thị trường chứng khoán chưa khởi sắc, vấn
đề định giá doanh nghiệp,... Tâm lý của những người đứng đầu doanh nghiệp là vấn
đề không mới và không chỉ riêng Việt Nam mới xuất hiện vấn đề này.
Cơ chế, chính sách chưa ban hành kịp thời. Doanh nghiệp cổ phần hóa trong
giai đoạn này đa phần là các doanh nghiệp có quy mô vừa, lớn và rất lớn. Quy mô
này làm cho hoạt động cổ phần hóa trở nên phức tạp, đặc biệt trong việc định giá
doanh nghiệp. Các tập đoàn kinh tế và tổng công ty buộc phải tái cơ cấu trước khi
tiến hành cổ phần hóa như phải sắp xếp lại sản xuất, tái cơ cấu lại ngành nghề kinh
doanh, thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính, cơ cấu lại tổ chức, bộ máy,
66
cán bộ, lao động, ... Tuy nhiên, các văn bản pháp lý không được ban hành kịp thời
khiến các doanh nghiệp bối rối trong việc tiến hành. Từ đó là chậm lại quá trình cổ
phần hóa.
Tình hình kinh tế vĩ mô biến động mạnh, thị trường chứng khoán không thuận
lợi, bong bóng chứng khoán vỡ năm 2008 ảnh hưởng đến giai đoạn này. Kinh tế vĩ
mô không thuận lợi, kinh tế suy giảm ảnh hưởng lớn đến cầu của thị trường, từ đó
ảnh hưởng đến IPO các doanh nghiệp cổ phần hóa. Mặt khác, giai đoạn này, Chính
phủ và các bộ ngành tập trung nhiều nỗ lực vào điều hành ổn định kinh tế vĩ mô vì
thế cũng ảnh hưởng đến các nỗ lực thực hiện cổ phần hóa và tiến độ cổ phần hóa.
3.1.4. Đánh giá toàn bộ quá trình cổ phần hóa đến nay
Nhìn chung, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước từ năm 1990 đến nay đã đạt
được một số kết quả nhất định: Tổng số doanh nghiêp cổ phần hóa tính đến hết năm
2013 là 4.065, tính đến tháng 9/2014 là 4.136 doanh nghiệp, trong đó bao gồm 3.650
doanh nghiệp và 415 bộ phận doanh nghiệp. Số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
tính đến hết năm 2013 là 949 doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp nhà nước đã tập
trung hơn nữa vào những ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng mà nhà nước nắm
giữ.
Các cơ chế, chính sách về cổ phần hóa tiếp tục được hoàn thiện theo hướng
tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện. Quá trình cổ phần hóa đã tạo nhiều tác
động tích cực đối với doanh nghiệp cổ phần hóa và toàn bộ khu vực doanh nghiệp
nhà nước.
Đối với doanh nghiệp, cổ phần hóa đem lại tính năng động, tích cực hơn trong
quản trị, điều hành, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động.
Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa đã làm giảm đáng kể số
lượng doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, từ 12.000 doanh nghiệp nhà nước năm 1990
xuống còn 909 doanh nghiệp cuối năm 2013. Nhờ đó thu hẹp ảnh hưởng của khu vực
doanh nghiệp nhà nước, phân bổ lại nguồn của nền kinh tế, chuyển dịch một số nguồn
lực từ khu vực doanh nghiệp nhà nước như tài chính, tín dụng, nhân lực, đất đai, ...
sang khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài để sử dụng có hiệu suất, hiệu quả hơn. Thông qua đó tạo điều kiện thúc
67
đẩy sự tham gia của 2 khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài vào phát
triển kinh tế đất nước. Có thể thấy, tuy tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong
GDP giảm từ 40% xuống còn 28% nhưng với sự tăng trưởng mạnh hơn của khu vực
kinh tế tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài nên nền kinh tế vẫn đảm bảo tốc độ
tăng trưởng khá cao.
Tuy nhiên, nếu so sánh với kế hoạch đặt ra thì tiến trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước nhìn chung vẫn diễn ra chậm. Giai đoạn 2002- 2010, số lượng doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hóa chỉ bằng 1/3 so với kế hoạch đặt ra. Giai đoạn 2011-
2015, theo kế hoạch phải cổ phần hóa được 531 doanh nghiệp. Nhưng giai đoạn 2011-
2013 mới cổ phần hóa được 99 doanh nghiệp, chiếm 18,6% kế hoạch. Vậy năm 2014-
2015 phải cổ phần hóa 432 doanh nghiệp còn lại. Như vậy, từ năm 2011 đến hết tháng
9/2014, cổ phần hóa được 170 doanh nghiệp chỉ đạt 32% kế hoạch giai đoạn 2011-
2015. Đánh giá về 432 doanh nghiệp nhà nước phải cổ phần hóa từ năm 2014 đến hết
năm 2015, ông Trần Văn Dũng- Chủ tịch Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội cho rằng
“Đó là một mục tiêu lớn, cần nhiều sự nỗ lực và sáng tạo để thực thi. Theo đó, cùng
với việc có chính sách phù hợp về định giá doanh nghiệp nhà nước, xử lý chế độ của
người lao động thì theo tôi, cần đa dạng hình thức bán vốn của doanh nghiệp nhà
nước và xây dựng lộ trình bán hợp lý, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Một điểm
quan trọng khác cũng cần được lưu ý trong cổ phần hóa là mục tiêu đại chúng hóa
doanh nghiệp nhà nước có tầm quan trọng số 1, vì thế, không nên đặt nặng việc bán
theo giá nào, mà cần tôn trọng quy luật cung cầu và hãy để thị trường xác định giá
mua – bán”.
Mục tiêu đặt ra giai đoạn này không thể hoàn thành khi những doanh nghiệp
phải tiến hành cổ phần hóa đều là những doanh nghiệp lớn, việc định giá, xử lý lao
động dôi dư, xử lý nợ thuế,... rất phức tạp. Tình hình kinh tế khó khăn, thị trường
chứng khoán chưa phục hồi ảnh hưởng tiêu cực đến việc bán cổ phần ra bên ngoài.
Bên cạnh đó, chính bản thân doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự minh bạch hóa mọi
quy trình cổ phần hóa nên nhà đầu tư còn e ngại khi quyết định đầu tư. Mặt khác, tuy
đã cổ phần hóa nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn muốn giữ vị trí chi phối của mình
68
trong nền kinh tế.
Một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa vẫn chưa thoát khỏi cơ
chế tập trung quan liêu về tài chính, tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý, tức là, doanh
nghiệp chưa thực sự hoạt động tuân theo quy luật khách quan của kinh tế thị trường.
Các cổ đông thiểu số trong Công ty cổ phần chưa thực sự phát huy vai trò làm
chủ của mình. Cổ đông thiểu số như người lao động còn có tư tưởng “làm công, ăn
lương” là chính; còn cổ đông thiểu số bên ngoài chỉ quan tâm đến cổ tức và giá cả cổ
phiếu trên thị trường. Vì vậy, chưa phát huy được tác động tích cực của những nhân
tố mới đối với hoạt động quản trị doanh nghiệp.
Các hạn chế lớn trong quá trình cổ phần hóa là:
Thứ nhất, chính sách và quy trình cổ phần hóa vẫn dựa trên tư duy cũ.
Từ khâu định giá tài sản doanh nghiệp, cho đến tổ chức quản lý sau khi doanh
nghiệp đã cổ phần hóa đều tồn tại nhiều vấn đề. Việc xử lý các vấn đề tài chính trước,
trong và sau cổ phần hóa còn nhiều bất cập như: Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ
phần hóa chưa đúng, gây thất thoát và lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình
cổ phần hóa. Giá trị doanh nghiệp bị xác định thấp, phần lớn cổ phần rơi vào tay một
nhóm người. Bên cạnh đó là tình trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu. Việc xử lý
các khoản nợ tồn đọng gặp nhiều khó khăn, mất thời gian do thiếu sự phối hợp chặt
chẽ, đồng bộ giữa các ngân hàng, thuế, tài chính. Chất lượng định giá doanh nghiệp
của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm định giá trị có độ tin cậy thấp,. Quy chế lựa
chọn, giám sát hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quy định
rõ, chưa gắn trách nhiệm của tổ chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần. Quy trình
cổ phần hóa từ xây dựng đến thực hiện đề án chưa sát thực tế, còn rườm rà, phức tạp
nên kéo dài thời gian cổ phần hóa. Trung bình thời gian cổ phần hóa một doanh nghiệp
mất 437 ngày, tổng công ty là 554 ngày. Sau khi cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp
vẫn hoạt động như cũ, quản lý nhà nước vẫn chi phối mọi hoạt động kể cả với doanh
nghiệp mà vốn nhà nước chưa tới 30% vốn điều lệ. Bộ máy quản lý cũ trong nhiều
doanh nghiệp vẫn chiếm giữ 80%.
Thứ hai, tốc độ cổ phần hóa chậm
Quá trình cổ phần hóa diễn ra chậm hơn so với yêu cầu đặt ra do cả nguyên
69
nhân khách quan lẫn chủ quan như tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới và
những khó khăn của kinh tế trong nước đã ảnh hưởng đến thị trường tài chính, chứng
khoán và kế hoạch bán cổ phần ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hóa
cũng như thoái vốn đầu tư. Một số bộ ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công
ty nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt và tích cực tổ chức triển khai phương án sắp xếp,
cổ phần hóa và thoái vốn. Đối tượng sắp xếp, cổ phần hóa hiện nay hầu hết là các
doanh nghiệp có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành nghề, tài
chính phức tạp nên cần có nhiều thời gian chuẩn bị, xử lý. Việc thực hiện cổ phần
hóa doanh nghiệp có quy mô lớn cần sự tham gia của nhiều nhà đầu tư lớn, có tiềm
lực tài chính và năng lực quản trị, đầu tư tốt. Cùng với đó, chưa có những chuyển
biến rõ nét về việc giảm đầu mối quản lý các doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng minh
bạch thông tin các doanh nghiệp nhà nước vẫn dậm chân tại chỗ. Các thông tin về
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chỉ được biết đến rất chậm qua các báo cáo
tổng hợp của Chính phủ thay vì các bản báo cáo tài chính chi tiết như các doanh
nghiệp niêm yết. Một số bộ, ngành, địa phương chưa vào cuộc thực hiện tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước một cách quyết liệt nên vẫn còn tình trạng chậm trễ.
Thứ ba, Quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hóa không hiệu quả
Cổ phần hóa làm đa dạng hóa sở hữu, giảm tính ưu thế của sở hữu nhà nước.
Cổ phần hóa chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần với cấu trúc quản
trị hiện đại. Sau cổ phần hóa, quản trị doanh nghiệp tiếp tục được cải thiện theo hướng
hiện đại. Tuy nhiên, trên thực tế, quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp sau cổ
phần hóa nhìn chung chưa có nhiều chuyển biến, thay đổi rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp
vẫn áp dụng các phương thức, biện pháp quản trị của doanh nghiệp nhà nước trước
đây. Bản thân doanh nghiệp dù đã tiến hành xong cổ phần hóa nhưng không nhận
thức được tầm quan trọng của vấn đề thay đổi mô hình quản trị cũng như tâm lý “ngại
thay đổi” và “dựa dẫm” nên vẫn rập khuôn áp dụng mô hình quản trị cũ. Điều này
được lý giải là do phần lớn các chức danh quản lý như giám đốc, phó giám đốc và kế
toán trưởng vẫn do những người cũ nắm giữ. Phần lớn cổ phần của các vị trí quan
trong khác cũng do người trong nội bộ doanh nghiệp nắm giữ. Những “con người cũ”
với “tâm lý cũ” nên còn chậm thay đổi là không thể tránh khỏi.
Mặc dù có những doanh nghiệp đã thực hiện và áp dụng các quy trình, cách
70
thức quản trị mới nhưng cách làm còn mang nặng tính hình thức, chưa chú trọng vào
chất lượng thực sự. Không phải doanh nghiệp nào cũng áp dụng đầy đủ quy trình của
việc hoạch định chiến lược như nghiên cứu thị trường, đánh giá các yếu tố kinh tế,
phân tích điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp, lập dự thảo các phương án chiến
lược,... hay không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiện đầy đủ quy trình trong hoạt
động tuyển dụng nhân sự, đảm bảo thực hiện đầy đủ lợi ích cho người lao động….
Nguyên nhân thứ nhất là do các doanh nghiệp chỉ làm cho có hình thức, làm đẹp cho
hình ảnh của doanh nghiệp nhằm thu hút các cổ đông đầu tư chứ không phải mục
đích nâng cao chất lượng quản lý thực sự cho doanh nghiệp. Nguyên nhân thứ hai là
do các quy trình, yêu cầu của hoạt động quản trị chặt chẽ và phức tạp, đòi hỏi đầu tư
nhiều thời gian và công sức để thực hiện khiến cho một số công ty phải lược bỏ bớt
một vài nội dung để đơn giản hóa quy trình dẫn đến tính hình thức. Thêm vào đó, yếu
tố tài chính cũng là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp. Không còn được Nhà
nước trợ giúp, không còn những khoản ưu đãi về tài chính nên không phải doanh
nghiệp nào cũng sẵn sàng bỏ ra một khoản kinh phí lớn (điều tra, lên kế hoạch, thực
hiện, kiểm soát…) để đảm bảo cho chất lượng của hoạt động quản trị. Ngoài ra, kinh
nghiệm quản trị còn non yếu cũng là nguyên nhân khiến hoạt động quản trị tại doanh
nghiệp mới chỉ ở mức “bề nổi” chứ chưa thực sự đi vào “chiều sâu”.
Hoạt động quản trị chưa cho thấy tính mới, sáng tạo và khoa học. Nguyên nhân
là do bộ máy quản lý của doanh nghiệp phần lớn vẫn là các cá nhân cũ với tư tưởng
cũ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chưa có thói quen thuê chuyên gia tư vấn quản trị,
thuê những người quản lý có tài năng nên đã phần nào làm giảm sức sáng tạo, tính tư
duy và khách quan trong hoạt động điều hành doanh nghiệp nhất là đối với các hoạt
động quản trị cơ bản như quản trị chiến lược, quản trị tài chính và quản trị nhân sự.
Hoạt động quản trị còn nhiều hạn chế một phần là do các doanh nghiệp trước
đây nhận được quá nhiều sự hỗ trợ từ phía Nhà nước nên sau cổ phần hóa, việc thay
đổi các chức danh lãnh đạo, xóa bỏ các đặc quyền về mặt pháp lý và tài chính cũng
khiến năng lực quản trị của doanh nghiệp giảm sút. Cụ thể, do không còn nằm trong
khu vực kinh tế Nhà nước nữa, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc vay vốn để
đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh do vấp phải sự lo ngại từ các ngân hàng Thương
mại. Nhà nước không thể đứng ra bảo lãnh nợ cho các doanh nghiệp này được nữa
71
cũng như khi các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, rất khó
để nhận được các gói cứu trợ cũng như các biện pháp bổ sung vốn từ Nhà nước. Do
xuất phát điểm là thành phần kinh tế Nhà nước nên tính chủ động, sáng tạo và hiệu
quả làm việc của một số doanh nghiệp chưa cao dẫn đến khó cạnh tranh với các doanh
nghiệp cổ phần hóa khác mà nền tảng là các doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, nhiều
doanh nghiệp đang phải vật lộn trong cuộc cạnh tranh khốc liệt hiện nay.
Vẫn tồn tại các vấn đề khó khăn cần giải quyết như lao động dôi dư, lao động
giỏi nhảy việc, lao động lâu năm làm việc còn kém hiệu quả. Nguyên nhân của vấn
đề này là do chính sách tiền lương và khen thưởng vẫn còn hạn chế, chưa tạo ra sự
kích thích và hấp dẫn đối với người lao động, chưa chặt chẽ sử dụng yếu tố năng lực,
hiệu quả công việc thực tế của người lao động.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như:
- Nhận thức chưa đúng, thậm chí sai lệch về quản trị doanh nghiệp, coi cải
thiện quản trị doanh nghiệp là cải thiện quản lý điều hành sản xuất kinh doanh như
cải thiện về quản lý tài chính, nhân sự, tiền lương, sản xuất thương mại,... Trong khi
đó, cải thiện quản trị doanh nghiệp là áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp
hiện đại theo thông lệ kinh tế thị trường. Ví dụ theo quy tắc của OECD đó là tạo điều
kiện để cổ đông thực hiện quyền cổ đông và bảo vệ quyền của cổ đông; đối xử bình
đẳng với mọi cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số; các bên liên quan được tiếp cận
các thông tin phù hợp, đầy đủ, tin cậy, kịp thời và thường xuyên, tăng cường minh
bạch hóa và công bố thông tin quan trọng của doanh nghiệp, tăng cường trách nhiệm
và tính giải trình của Hội đồng quản trị, đảm bảo để Hội đồng quản trị hoạt động vì
lợi ích cao nhất của doanh nghiệp và của cổ đông.
Cách sử dụng quyền của cơ quan quản lý nhà nước đối với phần vốn của mình
tại doanh nghiệp không đúng với bản chất của người đại diện phần vốn góp. Tư duy
cũ về quản lý hành chính đối với phần vốn nhà nước vẫn chưa thoát ra khi tại doanh
nghiệp nhà nước, nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chi phối. Người đại diện phần vốn
nhà nước thường là các cơ quan hành chính nên họ có xu hướng áp dụng biện pháp
quản lý hành chính vào doanh nghiệp mà họ quản lý. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì tư duy quản lý hành chính
72
khác biệt với quy luật kinh tế thị trường.
- Nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến các doanh nghiệp sau cổ phần hóa
và quản trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp này. Nhà nước chỉ tập trung vào doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước và thông qua giải pháp cổ phần hóa. Có rất nhiều văn bản
được ban hành để thực hiện cổ phần hóa. Ngược lại, có rất ít văn bản hướng dẫn và
chỉ đạo triển khai thực hiện nhằm cải thiện quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp
có cổ phần chi phối hay kiểm soát của nhà nước ở giai đoạn sau cổ phần hóa. Nhiệm
vụ đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường đã trở thành vấn đề
cấp thiết sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007. Tuy nhiên, không có việc ban
hành các văn bản hướng dẫn và việc triển khai thực hiện cũng rất chậm.
- Các biện pháp tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước còn thiên về khu vực doanh
nghiệp có 100% vốn nhà nước, chưa chú trọng các biện pháp cải cách các doanh
nghiệp sau cổ phần hóa, nhất là các doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ cổ phần chi
phối. Các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan đổi mới doanh nghiệp
nhà nước mới chỉ quan tâm đến kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho
thuê mà chưa quan tâm đến quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hóa, quản lý phần vốn
nhà nước đặc biệt là doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước.
Thứ tư, thiếu cổ đông chiến lược
Khi tiến hành cổ phần hóa, việc tìm kiếm cổ đông chiến lược là một bước cần
thiết. Đó là những nhà đầu tư có khả năng khỏa lấp một số tồn tại của doanh nghiệp
nhà nước trước cổ phần hóa như yếu kém năng lực quản trị, điều hành hoặc đem lại
những đột phá cho doanh nghiệp về công nghệ, thị trường, ... Doanh nghiệp thiếu cổ
đông chiến lược do:
- Doanh nghiệp cổ phần hóa theo cơ chế nội bộ, cổ phần phân tán, thiếu tập
trung, thiếu cổ đông lớn. Tình trạng này xảy ra ở giai đoạn đầu cổ phần hóa với những
doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Đến nay, hình thức cổ phần hóa này đã dần được khắc
phục.
- Nhà nước giữ cổ phần chi phối nên sự chi phối, quyền lực và đặc điểm chi
phối của cổ đông nhà nước đã ngăn cản sự tham gia của cổ đông chiến lược. Khi nhà
đầu tư nhận thấy họ không có vị trí, không có tiếng nói trong doanh nghiệp họ đầu tư
73
thì họ khó có thể tham gia để chia sẻ ý tưởng, phương pháp quản trị, hoạt động đầu
tư, công nghệ,... để tạo ra sự thay đổi tầm chiến lược đối với doanh nghiệp. Trường
hợp bán cổ phần lần đầu ra công chúng của Tập đoàn Công nghiệp than và Khoáng
sản Việt Nam với 3 Tổng công ty có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng là một ví dụ, khi
không thu hút được nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư mua số lượng lớn, do tỷ lệ
nắm giữ của nhà nước tại các đơn vị này đều ở mức 98%- 99%.
- Thiếu cơ chế tìm kiếm, thu hút cổ đông chiến lược đối với doanh nghiệp nhà
nước sau cổ phần hóa. Chủ sở hữu phần vốn nhà nước chưa chủ động và năng động
tìm kiếm cổ đông chiến lược để thay thế vai trò thụ động của cổ đông nhà nước.
- Việc bán vốn nhà nước với tỷ lệ % quá thấp so với vốn điều lệ và bán theo
phương thức đấu giá lẻ tẻ thay vì bán đấu giá cả lô cổ phần nên khó thu hút những
nhà đầu tư lớn trong thời gian qua.
Thứ năm, giải quyết vấn đề người lao động sau cổ phần hóa
Giải quyết lao động dôi dư của doanh nghiệp sau cổ phần hóa là vấn đề không
đơn giản, thậm chí ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và không
thể giải quyết một sớm một chiều mà cần có sự đầu tư nghiên cứu. Trước hết, căn cứ
vào phương án cổ phần hoá về sắp xếp lao động, các doanh nghiệp cần đánh giá thực
trạng của doanh nghiệp mình để có kế hoạch sắp xếp lại lao động, dự kiến số lao động
tiếp tục làm việc tại công ty, số lao động tiếp tục tuyển dụng thêm hay giải quyết số
lao động dôi dư, từ đó lập ra quỹ hỗ trợ kinh phí đào tạo lại theo quy định của Chính
phủ.
Một trong số những vấn đề cần được quan tâm trong quá trình cổ phần hoá là
số lao động dôi dư sau khi doanh nghiệp chuyển đổi được giải quyết chế độ chính
sách, họ sẽ về đâu? Khi mất việc làm, dù được giải quyết đầy đủ chế độ theo quy định
Nhà nước nhưng những lao động dôi dư không dễ kiếm việc làm trong một thời gian
ngắn, vì hầu hết lực lượng này tay nghề yếu, trình độ năng lực hạn chế, không đáp
ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp, đặc biệt, người lao
động vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình cũ, tư duy và tác phong cũ. Bên cạnh đó, có
một số công ty sau cổ phần hoá lại hoạt động kém hiệu quả, dẫn đến phá sản, nên
người lao động tại doanh nghiệp bị mất việc làm. Vì thế, giải quyết số lao động dôi
74
dư sau cổ phần hoá là vấn đề nan giải đối với nhiều doanh nghiệp. Trước đây, số lao
động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá được đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới
trong công ty do được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đến nay, doanh
nghiệp không còn được hỗ trợ nữa, khiến cho khả năng giải quyết vấn đề này trong
hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa bị hạn chế.
Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sở hữu, người sử dụng
lao động muốn cơ cấu lại lao động đã gặp phải vướng mắc vì nhiều người lao động
không muốn rời khỏi doanh nghiệp nên việc đàm phán lại hợp đồng lao động gặp
nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với số lượng lao động cũ có hợp đồng không xác định
thời hạn. Một khó khăn nữa đối với việc giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá
là các cổ đông không muốn chi trả trợ cấp một lần cho những lao động này vì sợ giảm
cổ tức của mình.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
3.2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước về cổ phần hóa giai đoạn 2016- 2020
Để khắc phục những hạn chế trong giai đoạn trước, đẩy mạnh quá trình cổ
phần hóa giai đoạn 2016- 2020, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa
phương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh,
cùng với cổ phần hóa, tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp một cách toàn diện, từ mô
hình tổ chức quản lý, ngành nghề sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư,
nguồn nhân lực, thị trường, ... Bên cạnh đó, tiếp tục quán triệt sâu rộng về quan điểm,
mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình cổ phần hóa, coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm cần
khẩn trương và kiên quyết hoàn thành. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước có kết quả cổ phần hóa thấp cần nghiêm túc rút kinh nghiệm,
xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, có biện pháp phù hợp để khắc phục, góp
phần hoàn thành mục tiêu chung. Các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước cần bám sát đề án cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ và khẩn trương nhiệm
vụ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Đối với những doanh nghiệp chưa có kế hoạch
cổ phần hóa, thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, tổng
công ty căn cứ tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước ban hành tại
75
quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, rà soát,
bổ sung doanh nghiệp cần cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước và lộ trình triển khai, trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để thực hiện. Đối với một số doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực công ích như môi trường đô thị, cấp, thoát nước, nếu các nhà đầu tư
có nhu cầu nắm giữ đa số vốn điều lệ thì khuyến khích, với điều kiện doanh nghiệp
cam kết cung cấp tốt các dịch vụ công ích này.
Trên cơ sở ý kiến chủ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã đề ra
một số giải pháp cần tập trung thực hiện:
- Quán triệt sâu sắc các nghị quyết, kết luận của Đảng và các cơ chế, chính
sách pháp luật có liên quan của nhà nước về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tập trung triển khai nghị quyết số 15/NQ-
CP ngày 6/3/2014 của Chính phủ, quyết định số 51/2014.QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về một số nội dung về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch, niêm
yết trên thị trường chứng khoán của doanh nghiệp nhà nước và chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại thông báo số 334/TB-VPCP tại hội nghị giao ban về tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước tháng 8/2014.
- Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nghiêm túc thực
hiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh đề đạt, vượt mức kế hoạch năm 2014, đồng thời
tái cơ cấu doanh nghiệp một cách toàn diện, từ mô hình tổ chức quản lý, ngành nghề
sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư, nguồn nhân lực, thị trường,... Đặc
biệt quan tâm việc tạo ra sản phẩm mới, tăng năng suất lao động, hạ giá thành để nâng
cao sức cạnh tranh, tiếp tục quán triệt sâu rộng về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và
lộ trình cổ phần hóa.
- Hoàn thiện cơ chế chính sách để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước như sửa đổi quy định về bán, giao doanh nghiệp, hoàn thiện chính
sách đối với người lao động dôi dư trong doanh nghiệp sắp xếp, chuyển đổi.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các
tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả và
76
tiến độ thực hiện đề án tái cơ cấu doanh nghiệp.
- Thực hiện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn tại một số doanh
nghiệp lớn đã cổ phần hóa đang có vốn nhà nước về tổng công ty đầu tư kinh doanh
vốn nhà nước theo quy định.
- Thực hiện các giải pháp tái cấu trúc thị trường chứng khoán theo tinh thần
quyết định số 1826/QĐ-TTg ngày 6/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ qua đó hỗ trợ
thu hút và khuyến khích nhà đầu tư tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp. Các đơn
vị thực hiện tốt chế độ báo cáo về tình hình triển khai cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước, kịp thời báo cáo các cấp có thẩm quyền xử lý những khó khăn, vướng mắc,
phát sinh trong quá trình thực hiện, đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra.
Các giải pháp cần được quan tâm đến như:
- Cải cách cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước theo hướng tập trung và chuyên
nghiệp. Chuyển đổi mạnh mẽ việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước dưới dạng
quản lý vốn thay vì trực thuộc chính phủ, các bộ, hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh. Mỗi
một công ty quản lý vốn sẽ phụ trách một lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ công nào đó.
Các quỹ quản lý vốn nên đặt dưới sự quản lý tạm thời của một ủy ban cải cách doanh
nghiệp nhà nước có vai trò tương đương một bộ trong Chính phủ. Ủy ban này sẽ thực
hiện việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước để giảm quy mô và số lượng các
doanh nghiệp nhà nước về một mức mục tiêu nào đó, chẳng hạn, tỷ trọng đóng góp
vào GDP chỉ còn dưới 10% vào năm 2020.
- Cải cách hệ thống trách nhiệm và khuyến khích trong việc quản trị doanh
nghiệp nhà nước theo hướng người đại diện vốn chủ sở hữu là người giám sát của
nhà nước, người điều hành doanh nghiệp nhà nước được hưởng lợi ích theo cơ chế
thị trường. Người giám sát sẽ có trách nhiệm giám sát hoạt động của doanh nghiệp
nhà nước hoặc được bổ nhiệm làm thành viên hội đồng quản trị của doanh nghiệp
nhà nước. Để đảm bảo người được bổ nhiệm trong hội đồng quản tị của doanh nghiệp
nhà nước làm việc vì lợi ích của nhà nước thì người được bổ nhiệm không được nhận
lương hay tiền của doanh nghiệp. Trong khi đó, chế độ lương bổng cho giám đốc
hoặc ban điều hành của doanh nghiệp nhà nước sẽ do hội đồng quản trị đề xuất thông
qua hội nghị cổ đông hàng năm. Lương cho giám đốc, ban điều hành cần đảm bảo
77
tính cạnh tranh trên thị trường.
- Doanh nghiệp nhà nước phải là khu vực tiên phong về minh bạch thông tin.
Cần áp dụng các chuẩn mực tài chính kế toán và công khai hóa thông tin của các
thông tin của các công ty niêm yết đối với các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh
nghiệp nhà nước cũng cần công khai các mục tiêu chính sách, chỉ rõ các chi phí thực
hiện để theo đuổi các mục tiêu phi thương mại cũng như các khoản nhận hỗ trợ từ
Chính phủ. Bản thân Chính phủ hàng năm cũng cần làm một báo cáo hợp nhất về
hoạt động của toàn bộ các công ty quản lý vốn và các doanh nghiệp nhà nước trực
thuộc các công ty quản lý vốn.
3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
Thứ nhất, Điều chỉnh mục tiêu, tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn này, khai thác những lợi thế của đất nước và các nguồn đầu tư bên
ngoài để đưa đến mô hình kinh tế hợp lý. Quá trình cổ phần hóa phải dựa trên quan
điểm tiết kiệm ngân sách nhà nước, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải giải pháp cho
những yếu kém trong nền kinh tế nhà nước.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới sự thu hút và tập trung
nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế. Khi đó, các khâu trong quá trình cổ phần hóa
sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp cổ phần,
cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn đề nhân sự khác,... đảm bảo doanh
nghiệp hoạt động tốt hơn, có lợi cho người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh
tế.
Cổ phần hóa phải hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
nhằm góp phần tăng cường chất lượng hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế, qua đó thúc
đẩy quá trình cải thiện năng lực cạnh tranh và tái cơ cấu nền kinh tế nói chung. Tuy
nhiên, không nên chạy theo tiến độ cổ phần hóa bằng mọi giá. Tốc độ cổ phần hóa
luôn bị ảnh hưởng bởi yếu tố kinh tế- xã hội bên ngoài. Ví dụ như giai đoạn 2011-
2015 là giai đoạn hậu suy thoái kinh tế, nền kinh tế mới bắt đầu phục hồi chậm từ đó
ảnh hưởng đến lượng cổ phần IPO hay bán ra được từ các doanh nghiệp cổ phần hóa.
Mặt khác, cổ phần hóa trong bối cảnh tái cơ cấu đòi hỏi phải tiến hành tái cơ cấu
78
doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa. Cần dành thời gian cho tái cơ cấu doanh nghiệp
thay vì chạy theo tiến độ, hoàn thành cổ phần hóa ngay. Cuối cùng, điều quan trọng
đối với doanh nghiệp cổ phần hóa không chỉ là hoàn thành cổ phần hóa, đăng ký
doanh nghiệp thành công ty cổ phần, mà chủ yếu ở việc quản trị doanh nghiệp, hiện
đại hóa doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh. Điều này cần nhiều thời gian hơn.
Thứ hai, Thay đổi mô hình quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải xác định rõ ai là chủ sở hữu thực tế
của công ty cổ phần, chủ sở hữu phải gắn với trách nhiệm của công ty như thế nào?
Ai đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước trong công ty cổ phần?
Cần vận dụng quy chế quản trị công ty nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh
bạch và lành mạnh. Cần lựa chọn giám đốc phù hợp với quy chế quản trị công ty,
sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính công ty. Nhà nước cần hoàn chỉnh cơ
chế quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Cụ thể là cần xác định được chủ sở hữu
Nhà nước một cách rõ ràng, tách bạch bộ máy quản lý nhà nước với bộ máy thực hiện
quyền chủ sở hữu. Nhà nước chỉ tham gia với tư cách cổ đông. Định hướng phát triển
doanh nghiệp phải do đại hội cổ đông quyết, nhằm tăng quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, tính sáng tạo trong kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế -
xã hội. Điều này cũng sẽ hạn chế được tình trạng "bình cũ rượu mới" ở các doanh
nghiệp sau cổ phần hóa như hiện nay. Bên cạnh việc trao quyền tự chủ cho doanh
nghiệp, thì các doanh nghiệp sau cổ phần hóa cũng phải đặc biệt chú ý tới công tác
quản trị nhân sự. Cần có chính sách tuyển dụng theo cơ chế thị trường, có chính sách
đãi ngộ phù hợp để có thể tuyển dụng và giữ được các chuyên gia, những nhà quản
lý giỏi. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần có chính sách đào tạo đội ngũ nhằm liên
tục nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên đáp ứng kịp thời các yêu cầu đổi mới của
nền kinh tế và thị trường.
Cần nhanh chóng thay đổi cơ chế quản lý, giám sát, kiểm tra đối với doanh
nghiệp nhà nước, xóa bỏ ngay cơ chế bộ chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước,
nhanh chóng thành lập cơ quan ngang bộ, chuyên trách quản lý các doanh nghiệp nhà
nước.
Cho phép các địa phương tiếp nhận vốn thu hồi được từ việc tiến hành cổ phần
79
hóa các doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương quản lý và thành lập để địa phương
tăng cường nguồn thu ngân sách phục vụ sự nghiệp đầu tư phát triển địa phương mình.
Hiện nay Chính phủ quy định các doanh nghiệp nhà nước ở địa phương khi cổ phần
hóa đều phải chuyển phần vốn thu hồi do bán cổ phần cho SCIC quản lý, mặc dù vốn
này trước đây do ngân sách địa phương đầu tư. Đây là một vướng mắc trong cơ chế
quản lý vốn sau cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở địa phương mà các địa phương
đều gặp phải khi tiến hành cổ phần hóa. Do đó, thời gian qua, nhiều địa phương không
mặn mà với việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước do địa phương mình quản
lý và đầu tư. Hơn nữa, hiện tổng vốn chủ sở hữu hiện nay của khu vực doanh nghiệp
nhà nước cả nước là hơn 1 triệu tỷ đồng, nhưng trong đó, riêng 32 doanh nghiệp của
khối doanh nghiệp trung ương quản lý đã chiếm đến 94% vốn chủ sở hữu và chiếm
đến 95% tổng doanh thu của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước cả nước. Như vậy,
vốn nhà nước ở các doanh nghiệp địa phương là rất nhỏ. Do đó, trong thời gian tới,
chính phủ nên cho phép phần vốn thu hồi sau cổ phần hóa, thoái vốn của các doanh
nghiệp nhà nước địa phương sẽ do địa phương quản lý.
Thứ ba, Đổi mới nhận thức về cổ phần hóa.
Cổ phần hóa không phải chỉ để chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty
cổ phần, kết thúc ở đăng ký doanh nghiệp thành công ty cổ phần mà là một quá trình.
Sau cổ phần hóa phải tiếp tục tiến hành thoái vốn nhà nước, quản trị doanh nghiệp,
hiện đại hóa công ty cổ phần. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước phải thay đổi
theo từng giai đoạn. Khi có sự mở cửa, hội nhập, có sự cạnh tranh minh bạch giữa
các khu vực kinh tế thì vai trò của kinh tế nhà nước hay doanh nghiệp nhà nước buộc
phải xem xét lại, có thể trở thành không quan trọng. Việc bán cổ phần cho người lao
động, nhà nước có nên chấp nhận thực tế là việc giữ lại hay bán đi cổ phần là quyền
của người lao động? Ở giai đoạn sau cổ phần hóa, việc chuyển nhượng cổ phần là
thuộc quyền của cổ đông, miễn là họ tuân thủ pháp luật, điều lệ và không vi phạm
các quy định về cạnh tranh và chống độc quyền. Đối với những doanh nghiệp nhà
nước có quy mô lớn như tập đoàn kinh tế, tổng công ty hoạt động trong những ngành,
lĩnh vực quan trọng, việc cổ phần hóa cần phải có sự chọn lọc và bước đi phù hợp với
điều kiện của đất nước cũng như định hướng phát triển kinh tế của Đảng. Việc cổ
80
phần hóa không thể thực hiện ồ ạt mà phải được tiến hành theo nhiều giai đoạn phù
hợp với kế hoạch và lộ trình giảm dần tỷ lệ vốn nhà nước. Phải có hướng dẫn cụ thể
và các bước triển khai thận trọng khi cổ phần hóa.
Thứ tư, Việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược phải được nhìn nhận từ 2 phía là
nhà đầu tư và doanh nghiệp cổ phần hóa.
Từ phía nhà đầu tư, đó là những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, thực sự quan
tâm đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp, họ có khả năng công nghệ, thị trường,
có kinh nghiệm, đáp ứng những yêu cầu phát triển doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Từ phía doanh nghiệp cổ phần hóa, xem xét những doanh nghiệp nào cần nhà
đầu tư chiến lược. Không phải mọi doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều cần nhà đầu tư
chiến lược. Cổ đông chiến lược cần cho những doanh nghiệp có vấn đề về chiến lược,
thị trường, công nghệ, cần cải thiện quản trị doanh nghiệp, cần tạo ra động lực mới
và mạnh hơn cho sự phát triển. Những doanh nghiệp đang hoạt động tốt, có hiệu quả
nếu không tìm được ngay nhà đầu tư chiến lược thì cứ tiến hành cổ phần hóa, sau đó
thoái vốn nhà nước tiếp hoặc phát hành thêm cổ phiếu để tìm nhà đầu tư chiến lược
Thứ năm, Hoàn thiện, cập nhật hệ thống văn bản pháp luật về cổ phần hóa.
Các bộ, ngành nhanh chóng ban hành các quyết định hướng dẫn triển khai nghị
quyết số 15/NQ-CP để làm cơ sở triển khai đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước. Đồng thời, Chính phủ cần sớm ban hành các cơ chế, chính sách làm cơ sở pháp
lý cho việc quản lý doanh nghiệp nhà nước như: quy chế quản trị công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên sở hữu nhà nước, quy chế về nhà quản trị tại doanh nghiệp
nhà nước 100% vốn sở hữu, doanh nghiệp nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ,
quy định về cổ phần hóa bộ phận các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Thiết
nghĩ, nước ta có nên xây dựng luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước? Vì cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước là vấn đề lớn, làm thay đổi sở hữu nhà nước tại
doanh nghiệp nhà nước, thay đổi vị trí kinh tế nhà nước trong phạm vi ngành và nền
kinh tế. Việc ban hành luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là cần thiết để tạo
nền tảng pháp lý cao hơn, vững chắc hơn cho cổ phần hóa những doanh nghiệp có
quy mô lớn, những doanh nghiệp quan trọng, doanh nghiệp trong các ngành đặc thù
81
như an ninh, quốc phòng, ...
Chính phủ ban hành quy định rõ nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước: nhiệm
vụ kinh tế- xã hội và nhiệm vụ kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ nên hoạt động trong
những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không muốn làm. Ngay cả với các lĩnh vực này,
chính phủ có thể cân nhắc mua các dịch vụ tương tự từ các nhà cung ứng của khu vực
tư nhân. Từ đó xây dựng hai bộ tiêu chí để đánh giá kết quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước. Hiện nay do chưa phân biệt rõ hai chức năng này trong hạch toán
dễ dẫn đến các tiêu cực, làm méo mó thị trường.
Thứ sáu, Hoàn thiện chính sách với người lao động.
Lập quỹ hỗ trợ người lao động vay mua cổ phiếu. Có thể khẳng định cổ phần
hóa không phải là tư nhân hóa mà là tập thể hóa, liên hiệp hóa, hợp tác hóa. Vấn đề
cốt lõi của quá trình cổ phần hóa là đem lại lợi ích cho người lao động trực tiếp của
doanh nghiệp, cho nhà nước, cho nhà đầu tư trên cơ sở nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi thực hiện chủ trương cổ
phần hóa, người lao động ở nước ta vẫn phải làm việc với những điều kiện lao động,
sản xuất khó khăn và tiền công thấp, vì vật họ không có tiền dư để mua cổ phiếu? Vì
vậy, nhà nước có nên lập một quỹ hỗ trợ cho công nhân vay mua cổ phiếu? Như vậy,
câu hỏi “Cổ phần hóa để đem lại lợi ích cho ai?” sẽ được giải quyết. Trong các nghị
định của chính phủ về chủ trương cổ phần hóa, không một nghị định nào về việc lập
quỹ hỗ trợ cho người lao động vay mua cổ phiếu mà chỉ có một vài ưu đãi. Quỹ hỗ
trợ cho người lao động vay mua cổ phần được hình thành từ nhiều nguồn và nguồn
quan trọng là lấy từ giá trị tư liệu sản xuất của chính doanh nghiệp được cổ phần hóa.
Quỹ hỗ trợ cho người lao động vay mua cổ phiếu lấy từ một phần giá trị tư liệu sản
xuất là việc nên làm, không những không ảnh hưởng đến sản xuất mà còn tạo ra niềm
tin, sự phấn khởi cho người lao động. Từ đó, khiến họ quan tâm, nhiệt huyết hơn cho
hoạt động của doanh nghiệp.
Thực hiện đồng bộ các chính sách đối với người lao động sau cổ phần hóa. Có
thể nhận thấy rằng, các chế độ giải quyết lao động dôi dư tuy đã được Nhà nước quan
tâm song chủ yếu mới tập trung vào mục tiêu giải quyết cho người lao động rời khỏi
doanh nghiệp mà chưa chú ý đến việc tạo điều kiện và cơ hội cho lao động dôi dư tìm
82
việc làm mới, để người lao động yên tâm khi rời khỏi doanh nghiệp. Vì vậy, để tháo
gỡ những vướng mắc này, Nhà nước cần có chính sách để xử lý lao động dôi dư, có
nguồn tài chính để thực hiện chính sách này trước khi cổ phần hoá theo hướng:
Chính sách đối với người lao động phải phù hợp với thực tế, quyền lợi cần
được bảo đảm, nhất là đối tượng lao động không bố trí được việc làm được hưởng
các quyền lợi như: được mua cổ phần ưu đãi, hưởng quỹ phúc lợi khen thưởng còn
dư tại thời điểm cổ phần hoá công bằng như những người lao động tiếp tục được làm
việc tại công ty cổ phần, chế độ bảo hiểm xã hội được hưởng theo thời gian đã đóng.
Cần có chính sách kích cầu lao động như hỗ trợ vốn ban đầu cho những người
kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các chương trình tạo
công ăn việc làm cho người lao động, xuất khẩu lao động, qua đó giảm sức ép về dư
thừa lao động, chuyển dịch lao động dư thừa ở doanh nghiệp sau cổ phần hoá sang
khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt chính sách giảm
cung về lao động, bao gồm các chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách
di dân sang khu vực ít bị sức ép dư thừa lao động.
Doanh nghiệp khi cổ phần hoá phải luôn kịp thời cập nhật các thông tin, văn
bản pháp quy của Nhà nước quy định cho các doanh nghiệp cổ phần để thực hiện
đúng quy định của pháp luật và điều hành công ty được tốt, đồng thời bảo đảm được
quyền lợi của người lao động và các cổ đông. Cần thu thập thông tin, học hỏi kinh
nghiệm tốt, các mô hình hay của các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hoá về giải
quyết lao động dôi dư để phổ biến cho người lao động hiểu rõ hơn các chế độ chính
sách. Đồng thời, phải thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát việc thực
hiện chính sách đối với người lao động để kịp thời ngăn chặn tình trạng thực hiện
không đúng theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp cần chủ động tháo gỡ các
khó khăn, vướng mắc theo đặc thù riêng của mỗi doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi
dưỡng cho người lao động và cán bộ quản lý công ty về quyền của cổ đông, của các
cơ quan quản lý trong công ty, trình tự, thủ tục thông qua các quyết định quan trọng
của công ty nhằm làm cho cổ đông nắm được các quy định pháp lý, tránh tình trạng
xung đột trong nội bộ công ty hoặc tình trạng chỉ là “chủ hình thức” của các cổ đông
nhỏ trong công ty sau chuyển đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt
83
động của công ty sau cổ phần hóa.
Phát huy dân chủ, tinh thần chủ động, sáng tạo, đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm
của người lao động và cổ đông trong công ty. Người lao động nắm cổ phần của công
ty với tư cách là người chủ doanh nghiệp nên hành vi của họ cần được khích lệ. Con
đường căn bản để phát huy đầy đủ tính tích cực của người lao động là chủ động tạo
điều kiện cho họ tham gia vào việc phân phối quyền sở hữu tài sản của công ty. Cụ
thể là thông qua mối quan hệ giữa cống hiến lao động, thù lao lao động của người lao
động với hiệu quả kinh doanh của công ty. Làm cho họ đồng thời trở thành người lao
động và người chủ sở hữu của doanh nghiệp, thực hiện sự thống nhất hữu cơ giữa
nhân lực và tài lực.
Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc giải quyết lao động dôi dư,
vì tổ chức công đoàn thực hiện những công việc như: tổ chức tuyên truyền cho người
lao động, cổ đông về chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá, các chế độ
chính sách đối với công ty cổ phần để người lao động hiểu rõ mục đích, yêu cầu,
quyền lợi, trách nhiệm của người lao động, nhằm tạo ra sự nhất trí cao trong công ty
để thực hiện cổ phần hóa đạt kết quả tốt. Nghị định 59/2011/NĐ-CP của Chính phủ
quy định công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp được sử dụng nguồn quỹ công đoàn tại
doanh nghiệp cổ phần hóa (theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật Công đoàn; không
huy động, vay vốn) để mua cổ phần ưu đãi nhưng không quá 3% vốn điều lệ. Số cổ
phần ưu đãi này do tổ chức công đoàn nắm giữ nhưng không được chuyển nhượng.
Công đoàn có thể sử dụng một phần cổ tức của cổ phần này hỗ trợ cho người lao động
được đào tạo lại hoặc tìm việc làm mới.
Thứ bảy, Hoàn thiện các quy định pháp luật về cổ phần hóa
Các quy định liên quan đến cổ phần hóa hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc
đòi hỏi cần có sự thay đổi và hoàn thiện hơn nữa.
Một là vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp. Xác định giá trị doanh nghiệp là
một vấn đề quan trọng với rất nhiều vướng mắc. Các nghị định hướng dẫn tiến hành
cổ phần hóa đến nay đã cố gắng hoàn thiện các quy định về xác định giá trị doanh
nghiệp nhưng trên thực tế, những bất cập vẫn phát sinh. Thiết nghĩ, trong thời gian
tới, Chính phủ nên có những sửa đổi về vấn đề này để tiến trình cổ phần hóa đạt hiệu
84
quả hơn.
Theo nghị định 59/2011/NĐ- CP, các khoản đầu tư tài chính tại các doanh
nghiệp chưa niêm yết được định giá theo phương pháp vốn chủ sở hữu. Phương pháp
này hoàn toàn không phản ánh được tính thị trường của các khoản đầu tư nên việc
định giá doanh nghiệp khó đảm bảo tính xác thực và minh bạch. Vậy, thay vì sử dụng
phương pháp vốn chủ sở hữu như hiện nay, các khoản đầu tư vào doanh nghiệp chưa
niêm yết, doanh nghiệp bị hủy niêm yết nên có phương pháp định giá khác hợp lý
hơn.
Theo quy định hiện hành, với khoản vốn góp bằng ngoại tệ, khi xác định giá
trị doanh nghiệp thì được định giá lại theo tỷ giá hiện thời, trong khi doanh nghiệp
nhận góp vốn đã vốn hóa khoản vốn này theo tỷ giá tại thời điểm nhận vốn góp, dẫn
đến khoản chênh lệch tăng do đánh giá lại giá trị ngoại tệ. Việc này không được đơn
vị nhận góp vốn thừa nhận vì tạo nguồn vốn ảo cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Vậy, các khoản vốn góp bằng ngoại tệ nên được định giá lại theo cơ chế nào?
Bên cạnh đó, khi xử lý tài chính, điều 15, nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định,
doanh nghiệp phải hoàn nhập dự phòng các khoản phải thu khó đòi không đủ điều
kiện để loại trừ ra khỏi giá trị doanh nghiệp. Điều này dẫn tới sau khi cổ phần hóa,
công ty cổ phần không có nguồn quỹ để bù đắp cho những tổn thất xảy ra đối với các
khoản nợ phải thu khó đòi tồn tại từ giai đoạn là doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa,
tại thời điểm bàn giao doanh nghiệp, trong khi các tài sản khác không định giá lại, thì
chính sách hiện hành quy định doanh nghiệp phải định giá lại các khoản đầu tư tài
chính là không phù hợp về tính chất tài chính. Bất hợp lý này có thể dẫn tới phải điều
chỉnh lại quy mô vốn điều lệ của công ty cổ phần, trong khi xử lý việc này rất phức
tạp. Để tránh việc điều chỉnh lại quy mô vốn điều lệ của công ty cổ phần, Bộ Tài
chính nên xem xét và đề xuất Chính phủ ban hành cơ chế không định giá lại các khoản
đầu tư tài chính khi thực hiện bàn giao vốn nhà nước sang công ty cổ phần.
Một vấn đề nữa trong xác định giá trị doanh nghiệp là việc tính lợi thế kinh
doanh căn cứ vào lợi nhuận bình quân 3 năm gần nhất như quy định tại thông tư
2002/2011/TT- BTC hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi
thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy
định tại Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ là không hợp
85
lý vì chưa phản ánh đúng lợi thế kinh doanh do khoản thời gian quá ngắn, không phù
hợp với doanh nghiệp kinh doanh những sản phẩm có tính chất chu kỳ. Vậy có nên
sử dụng lợi nhuận bình quân của 10 năm trước khi cổ phần hóa để tính lợi thế kinh
doanh của doanh nghiệp? Điều này sẽ phản ánh hợp lý hơn giá trị doanh nghiệp.
Hai là xác định đối tượng mua cổ phần. Các văn bản pháp luật về cổ phần hóa
nên tiếp tục hoàn thiện các quy định về đối tượng mua cổ phần, tạo điều kiện để nhà
đầu tư chiến lược thực hiện một cách hiệu quả vai trò của mình trong doanh nghiệp
sau cổ phần. Với những quy định hiện hành, các nhà đầu tư không quá mặn mà trong
việc đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước khiến việc tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược,
bán cổ phần gặp nhiều khó khăn. Tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi mua cổ phần
của người lao động để họ thực sự phát huy vai trò làm chủ của mình.
Ba là xử lý đối với các khoản nợ khó đòi. Theo nghị 59/2011/NĐ- CP, các
khoản nợ khó đòi không được loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp mà phải tiến hành xác
định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức. Quy định như vậy sẽ tạo ra giá trị ảo của doanh
nghiệp khi việc xác định trách nhiệm và thu hồi khoản nợ đó là rất khó khăn. Vậy
nên, quy định này nên được thay đổi cho phù hợp hơn.
Bốn là vấn đề giá trị thương hiệu. Các văn bản liên quan đến cổ phần hóa luôn
xác định giá trị thương hiệu là một bộ phận trong giá trị doanh nghiệp- giá trị lợi thế
kinh doanh của doanh nghiệp. Sau đó, giá trị thương hiệu được giải thích bao gồm
nhãn hiệu và tên thương mại. Trên thực tế, thương hiệu không phải là một loại tài sản
được ghi nhận trong luật sở hữu trí tuệ. Các quy định pháp luật có nên loại bỏ khái
niệm này, thay vào đó, trực tiếp quy định các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu và tên
thương mại hay không?
Cuối cùng là vấn đề sở hữu vốn nhà nước trong doanh nghiệp. Quyết định
37/2014/QĐ- TTg đã quy định 16 lĩnh vực mà nhà nước phải nắm giữ 100% vốn
trong các doanh nghiệp. Xem xét lại các lĩnh vực đó, liệu có nên thu hẹp hơn nữa các
lĩnh vực này để thúc đẩy quá trình giải phóng nguồn vốn nhà nước, huy động có hiệu
86
quả các nguồn vốn từ bên ngoài?
KẾT LUẬN
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là giải pháp cơ bản và quan trọng trong
quá trình sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước nói riêng và toàn nền
kinh tế nói chung nhằm đa dạng loại hình doanh nghiệp, đa dạng nguồn vốn sở hữu,
phát triển có hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động,
có hiệu quả, phát huy vai trò làm chủ của người lao động và các nhà đầu tư, tăng
cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp. Do vậy, chủ trương cổ phần hóa
cần được tiếp tục đẩy mạnh, phát triển, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các thành
phần kinh tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khóa luận đã đề cập đến những vấn đề cơ bản như:
- Khái quát chung về doanh nghiệp nhà nước, vị trí, vai trò của doanh nghiệp
nhà nước trong nền kinh tế.
- Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đặc điểm, vai trò
của cổ phần hóa và sự tất yếu phải cổ phần hóa.
- Phân tích những quy định hiện hành về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
- Phân tích những thành tựu đạt được, những hạn chế gặp phải trong quá trình
cổ phần hóa.
- Đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện nhằm thúc đẩy quá trình cổ
phần hóa.
Nghiên cứu, lựa chọn đề tài “Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước tại Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp, em mong muốn đưa ra
những ý kiến phân tích lý luận và thực tiễn trong quá trình cổ phần hóa, đưa ra những
kiến nghị hoàn thiện về mặt pháp luật cũng như thực tiễn thi hành nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức và thông tin trong khi cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước là vấn đề lớn, phức tạp với phạm vi nghiên cứu rộng nên khóa luận
không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, em mong nhận được những ý kiến
87
đóng góp từ thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Thạc sĩ Nguyễn Đăng Duy đã dành thời
gian hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Sinh viên
88
Nguyễn Thị Ngàn
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Phạm Thị Vân Anh, TS. Đoàn Hương Quỳnh (2015), Thực trạng và giải pháp
đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tapchitaichinh.vn.
2. Bộ Công thương (2015), Hội nghi tổng kết công tác tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái
vốn doanh nghiệp thuộc Bộ Công thương giai đoạn 2011- 2015, kế hoạch 2016- 2020,
Moit.gov.vn.
3. Bộ Xây dựng (2014), Đánh giá những kết quả trong quá trình thực hiện cổ phần hóa,
đổi mới và thực hiện đề án tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, dl.eub.edu.vn.
4. Chính phủ (1996), Nghị định số 28-CP ngày 07/05/1996 về chuyển một số doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
5. Chính phủ (1997), Nghị định số 25-CP ngày 26/03/1997 sửa đổi một số điều của Nghị
định số 28/CP ngày 07/05/1996 về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công
ty cổ phần.
6. Chính phủ (1998), Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 về chuyển doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
7. Chính phủ (2002). Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/06/2002 về việc chuyển
doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
8. Chính phủ (2004), Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển
công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
9. Chính phủ (2007), Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/06/2007 về chuyển doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
10. Chính phủ (2011), Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 về chuyển doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
11. Chính phủ (2013), Nghị định 189/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhad nước thành công ty cổ phần.
12. Chính phủ (2015), Nghị định 116/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
13. TS. Trần Tiến Cường, Một số vấn đề về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (2015),
89
kinhtetrunguong.vn.
14. Doãn Thị Dung (2010), Thi hành pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật, Khoa luật
(ĐHQGHN), Hà Nội.
15. Thùy Dương (2015), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Khó thể về đích “đúng
hẹn”, Thông tấn xã Việt Nam, Vietnamplus.vn.
16. THS. Hoàng Anh Duy, THS. Lê Việt Anh, trường Đại học Ngoại thương (2013),
Thực trạng quản trị doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa tại Việt Nam, Tạp chí
kinh tế đối ngoại, ieit.edu.vn.
17. Trần Hồng Điệp (2004), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam- Lý luận
và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật, Khoa luật (ĐHQGHN), Hà Nội.
18. Hoàng Thị Hồng Đoan (2012), Thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước trong quá trình cổ phần hóa công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao, Luận
văn Thạc sĩ Luật, Khoa luật (ĐHQGHN), Hà Nội.
19. Hoàng Thị Thu Hiền (2008), Cổ phần hóa Vietcombank- Cơ hội và thách thức, Khóa
luận tốt nghiệp, Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế, Trường đại học ngoại thương,
Hà Nội.
20. Tô Hoàng (2013), Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2011/NĐ-CP
của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
21. Hương Ly (2016), Thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Lại “lỗi hẹn”, báo
VOV, vov.vn.
22. TS. Nguyễn Thị Luyến (2015), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước- “Cú hích” để
phát triển, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Tapchigiaothong.vn.
23. THS. Nguyễn Duy Long (2013), Tiếp tục hoàn thiện chính sách cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, Tạp chí tài chính số 8/2013, Tapchitaichinh.vn.
24. Nguyễn Tiến Long (2014), Những điểm thắt được gỡ trong cơ chế cổ phần hóa mới,
Tinnhanhchungkhoan.vn.
25. Nguyễn Nhâm (2014), Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
tapchicongsan.org.vn.
26. THS. Dương Thu Phương (2014), Nghị định 189/2013/NĐ-CP: Thêm lực đẩy cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Tài chính số 12/2013, tapchitaichinh.vn.
90
27. Quốc hội (1995), Luật Doanh nghiệp nhà nước số 39-L/CTN ngày 20/04/1995.
28. Quốc hội (2003), Luật của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số
14/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về doanh nghiệp nhà nước.
29. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.
30. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, ngày 26/11/2014.
31. Đỗ Mai Thành (2008), Nhìn lại quá trình cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta, Tạp chí Cộng sản số 102/2006.
32. Đinh La Thăng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (2015),
Giải pháp thúc đẩy tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp, nhandan.com.vn.
33. PGS.TS. Trần Đình Thiên và cộng sự (2015), Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước: Các
điểm nghẽn và giải pháp thúc đẩy, dl.ueb.edu.vn.
34. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/07/2012 phê duyệt
đề án ”Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty
nhà nước giai đoạn 2011- 2015”.
35. Nguyễn Gia Trọng (2009), Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước trong quân đội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật (ĐHQGHN), Hà Nội.
36. Hoàng Trung (2015), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước- Một năm nhìn lại,
m.vietnamnet.vn.
37. TS. Trần Văn, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- ngân sách của Quốc Hội (2014),
Những ưu tiên trong tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, duthaoonline.quochoi.vn.
38. Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (2015), Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
giai đoạn 2014- 2015, mof.gov.vn.
39. Viện nghiệp cứu quản lý kinh tế trung ương (2014), Tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà
nước: thực trạng, vấn đề và gợi ý giải pháp thúc đẩy, Trung tâm thông tin- tư liệu- số
91
03/2014, vnep.org.vn.