ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

Nguyễn Thị Ngàn

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2012-L

HÀ NỘI, 2016

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

-----------------------

Nguyễn Thị Ngàn

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CỔ PHẦN HÓA

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2012-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: THS. NGUYỄN ĐĂNG DUY

HÀ NỘI, 2016

2

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng em. Các kết

quả nêu trong khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các

số liệu, ví dụ và trích dẫn trong khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung

thực.

Vậy, em viết lời cam đoan này đề nghị Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

xem xét để em có thể bảo vệ khóa luận tốt nghiệp.

Em xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

3

Nguyễn Thị Ngàn

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 7 Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ............................................................................................................. 10 1.1. Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước ..................................................... 10 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước .................................................... 10

1.1.2. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường................................................................................................................13 1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ................................ 16 1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ............................... 16 1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước .................... 20

Chương 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY .......................................................... 28 2.1. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ................. 29 2.2. Đối tượng, điều kiện cổ phần hóa ............................................................. 32 2.3. Các hình thức cổ phần hóa .................................................................... 35 2.4. Đối tượng mua cổ phần .......................................................................... 36 2.5. Xử lý tài chính khi cổ phần hóa ............................................................ 40 2.6. Xác định giá trị doanh nghiệp .................................................................. 42 2.7. Bán cổ phần lần đầu ............................................................................... 50 2.8. Chính sách đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa ............................. 52 Chương 3. THỰC TRẠNG THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................................................................... 53

3.1. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam qua các giai đoạn ................ 53 3.1.1. Giai đoạn 1990- 2001 ........................................................................... 53 3.1.2. Giai đoạn 2002- 2010 ........................................................................... 55 3.1.3. Giai đoạn 2011 đến nay ....................................................................... 57 3.1.4. Đánh giá toàn bộ quá trình cổ phần hóa đến nay .............................. 67

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước……………………………………………………………………………75

3.2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước về cổ phần hóa giai đoạn 2016 2020…………………………………………………………………......75

4

3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam....................................................................................................... 78 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 87

5

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 89

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chính phủ CP:

Hội đồng Bộ trưởng HĐBT:

Phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu IPO:

Nghị định NĐ:

Hỗ trợ phát triển chính thức ODA:

Quyết định QĐ:

Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương TPP:

Thông tư TT:

Thủ tướng TTg:

6

Tổ chức Thương mại Thế giới WTO:

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương, chính sách lớn của

Đảng và nhà nước ta trong suốt 30 năm qua. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận

kinh tế quan trọng trong nền kinh tế, được nhà nước giao phó nhiều nhiệm vụ đồng

thời được nhà nước tạo điều kiện, cơ hội về vốn, nguồn lực để phát triển. Tuy nhiên,

trên thực tế, doanh nghiệp nhà nước không tận dụng được những lợi thế của mình,

ngược lại còn bộc lộ nhiều hạn chế, tính không hiệu quả so với các thành phần kinh

tế khác. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu để khắc phục những

thiếu sót của bộ phận doanh nghiệp nhà nước, khi nền kinh tế nước ta chuyển từ tập

trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá

trình này nhằm đa dạng hóa hình thức sở hữu, đổi mới phương thức quản lý đồng thời

nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mở ra triển vọng xây dựng thị trường vốn

lành mạnh, phong phú, tạo điều kiện cơ cấu lại nền kinh tế. Cổ phần hóa không nhằm

xóa bỏ bộ phận doanh nghiệp nhà nước, ngược lại, tăng cường vai trò chủ đạo của

doanh nghiệp nhà nước, nâng cao chất lượng doanh nghiệp nhà nước nói riêng và

chất lượng nền kinh tế nói chung.

Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã có những bước đi mạnh mẽ

từ những năm đầu thí điểm 1990 cho đến tận hôm nay, khi cổ phần hóa hóa đang dần

bước vào giai đoạn cuối hoàn thành. Hàng loạt văn bản pháp lý đã được ban hành để

hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện cổ phần hóa ở tất cả các cấp, ngành, địa phương.Tư

tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước về cổ phần hóa được quán triệt

sâu sắc trong tất cả các văn bản, các nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, XI, XII.

Nhận thấy được tầm quan trọng của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước cùng những thành tựu, hạn chế mà nước ta đạt được trong quá trình cổ phần hóa

suốt 30 năm qua, em đã chọn đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình là:

“Những vấn đề pháp lý về cổ phầGHGGn hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam”.

7

Việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý và thực tiễn thi hành pháp luật cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nước hiện nay có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết, để từ đó rút ra

những kinh nghiệm, đưa ra những kiến nghị nhằm thúc đẩy, hoàn thiện tiến trình cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước, hướng tới mục tiêu hoàn thành quá trình cổ phần

hóa các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý về cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam, thấy được những thành tựu đạt được

cũng như những khó khăn, hạn chế mà các doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa

gặp phải. Từ đó, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp

luật và thi hành. Khóa luận đi sâu nghiên cứu và khẳng định sự đúng đắn của các chủ

trương, chính sách cổ phần hóa của Đảng và nhà nước.

Việc nghiên cứu và phân tích những vấn đề khái quát cơ bản về doanh nghiệp

nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được khóa luận thực hiện dưới góc

độ pháp luật, thông qua phân tích các quy định pháp luật hiện hành về cổ phần hóa,

cũng như thực trạng tiến hành cổ phần hóa ở các doanh nghiệp. Từ đó khóa luận chỉ

ra những điểm bất cập trong các quy phạm pháp luật và đề xuất các kiến nghị, giải

pháp hoàn thiện.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước tại Việt Nam trong 30 năm qua.

Khóa luận nghiên cứu và phân tích những khái quát cơ bản về doanh nghiệp

nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; phân tích các quy định pháp luật

hiện hành về cổ phần hóa, phân tích thực trạng tiến hành cổ phần hóa và đề xuất các

kiến nghị, giải pháp hoàn thiện.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em tiến hành khai thác thông tin từ các sách,

báo, tạp chí, và luận văn nhằm tìm kiếm số liệu của các bộ, ngành, doanh nghiệp, số

liệu của Tổng cục thống kê. Tham khảo các công trình nghiên cứu về cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nước của các tác giả trong nước. Đối chiếu, so sánh, thống kê, hệ

8

thống, đưa ra những tổng hợp, phân tích về vấn đề nghiên cứu.

5. Bố cục của khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa

luận gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

Chương 2: Nội dung pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt

Nam hiện nay.

Chương 3: Thực trạng thi hành và giải pháp hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa

9

doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam hiện nay.

Chương 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1.1. Khái quát về Doanh nghiệp nhà nước

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước

Doanh nghiệp nhà nước là một khái niệm hoàn toàn không mới khi hình thái

doanh nghiệp này không thể thiếu trong bất kỳ nền kinh tế của các nước trên thế giới.

Ngân hàng thế giới 1991 định nghĩa về doanh nghiệp nhà nước như sau: “Doanh

nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh tế mà quyền sở hữu hay quyền kiểm soát thuộc

về Chính phủ, và phần lớn thu nhập của chúng được tạo ra từ việc bán hàng hóa và

dịch vụ”.

Đối với Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng được đề cập trong

nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên khái niệm doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

không bất biến mà có sự thay đổi trong từng thời kỳ.

Theo điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh ban hành kèm theo Nghị định

số 50/HĐBT ngày 22/03/1988 và quy chế về thành lập, giải thể doanh nghiệp nhà

nước ban hành kèm Nghị định 338/HĐBT ngày 20/11/1991 thì “Doanh nghiệp Nhà

nước là tổ chức kinh doanh do Nhà nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách

chủ sở hữu”.

Doanh nghiêp nhà nước hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã

hội của nhà nước. Khái niệm này không cụ thể, chỉ khẳng định sự can thiệp trực tiếp

và toàn diện của nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp.

Khái niệm doanh nghiệp nhà nước được đề cập lần đầu trong luật doanh nghiệp

nhà nước 1995. Theo đó, “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu

tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích,

nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà

nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về

toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý” [26, 84].

Quan niệm này về cơ bản giống với các văn bản pháp lý trước đó, tập trung đề cập

10

đến vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động kinh doanh, công ích vì mục

tiêu kinh tế xã hội. Với khái niệm này, doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động trên

mọi lĩnh vực, ngành nghề bởi vai trò quan trọng của nó.

Trải qua nhiều lần sửa đổi luật, khái niệm doanh nghiệp nhà nước cũng có

những thay đổi theo. Theo luật doanh nghiệp nhà nước 2003, “Doanh nghiệp nhà

nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn

góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công

ty trách nhiệm hữu hạn” [27, 84]. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có

các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh

trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi,

có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Luật doanh nghiệp nhà

nước 2003 đã liệt kê các đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp nhà nước. Khái niệm này

đã cụ thể hơn khi khẳng định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước

sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần chi phối, vốn góp chi phối thay vì chỉ là

doanh nghiệp do nhà nước đầu tư vốn như trước. Doanh nghiệp nhà nước được tổ

chức dưới nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với các mô hình doanh nghiệp trong nền

kinh tế thị trường như công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu

hạn.

Năm 2005, luật doanh nghiệp mới ra đời thay thế luật doanh nghiệp năm 2000

và luật doanh nghiệp nhà nước 2003. Luật doanh nghiệp 2005 đã thống nhất, không

có sự phân biệt đối xử đối với tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở

hữu, thành phần kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là doanh nghiệp

trong đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ [28, 85]. Như vậy, đối tượng thuộc

diện doanh nghiệp nhà nước được mở rộng dưới mọi hình thức chỉ cần doanh nghiệp

có trên 50% vốn điều lệ thuộc sở hữu nhà nước.

Luật doanh nghiệp 2014 đã thu hẹp đối tượng thuộc diện doanh nghiệp nhà

nước khi định nghĩa “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ

100% vốn điều lệ” [29, 85]. Đây là một thay đổi lớn trong quan niệm về doanh nghiệp

nhà nước phù hợp với nền kinh tế hiện nay. Theo đó, nhà nước giảm dần sự can thiệp

vào hoạt động của doanh nghiệp bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà

nước và vốn đầu tư tư nhân. Sự thay đổi định nghĩa này đem lại sự bình đẳng trong

11

kinh doanh giữa các thành phần doanh nghiệp, đặc biệt đem lại sự công bằng cho

doanh nghiệp dân doanh. Mặt khác, định nghĩa mới về doanh nghiệp nhà nước có thể

thúc đẩy quá trình cổ phần hóa và thoái vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà

nước hiện này- theo luật sư Nguyễn Hưng Quang. Theo tiến sĩ Lê Đăng Doanh: “Việc

giảm danh nghĩa và pháp lý số doanh nghiệp nhà nước có thể có lợi trong quá trình

đàm phán hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”. Sự thay đổi khái niệm

doanh nghiệp nhà nước đã giúp doanh nghiệp tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh

và đầu tư. Doanh nghiệp bắt buộc phải năng động, sáng tạo để có thể tồn tại và đứng

vững trên thị trường. Với sự thay đổi này, hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp nhà

nước sẽ diễn ra nhanh hơn. Tổ chức và điều hành doanh nghiệp sau tái cơ cấu sẽ có

những thay đổi tích cực khi có só sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý,

giữa quản lý của chủ sở hữu với điều hành hoạt động kinh doanh, giữa quản lý điều

hành với kiểm tra kiểm soát, đồng thời cơ cấu tổ chức được bố trí hợp lý, gọn nhẹ,

tinh giản được lao động gián tiếp. Sự phân biệt đối xử trên thực tế giữa các thành

phần kinh tế dần được xóa bỏ, tạo sự cạnh tranh bình đẳng.

Tuy nhiên cũng có những ý kiến khác cho rằng sự thay đổi định nghĩa về doanh

nghiệp nhà nước dẫn đến những hệ quả liên quan đến doanh nghiệp có cổ phần chi

phối là nhà nước như:

- Sự thay đổi này không làm giảm bớt số lượng doanh nghiệp nhà nước đang

tồn tại trên thực tế ở những doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước,

đồng thời cũng không hạn chế được những vấn đề của doanh nghiệp nhà nước. Năm

2011, số doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước là 1.217 doanh nghiệp chiếm

1/3 tổng số doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Thực tế, những

doanh nghiệp này vẫn được coi là doanh nghiệp nhà nước, nhà nước vẫn sử dụng để

thực hiện mục tiêu chính sách, vẫn thuộc quyền kiểm soát của nhà nước, vẫn tồn tại

sự độc quyền, áp đặt của cổ đông nhà nước, cách thức quản trị doanh nghiệp không

thay đổi,...

- Khi doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước không còn là doanh

nghiệp nhà nước sẽ dẫn đến việc nhà nước không mấy quan tâm đến loại doanh nghiệp

này. Vì vậy, doanh nghiệp không có cách tiếp cận đúng, không có các nỗ lực, các

biện pháp, chính sách cải cách phù hợp, dẫn đến phó mặc các doanh nghiệp này cho

12

những người đại diện cổ đông nhà nước.

- Không coi doanh nghiệp có cổ phần chi phối nhà nước là doanh nghiệp nhà

nước là đi ngược lại với thông lệ quốc tế. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, sau làn

sóng tư nhân hóa từ những năm 1980, các doanh nghiệp nhà nước ở những nước này

chủ yếu là những doanh nghiệp do nhà nước sở hữu cổ phần chi phối, thậm chí gồm

cả những doanh nghiệp có cổ phần dưới mức chi phối nhưng nhà nước vẫn nắm quyền

kiểm soát [13, 83].

Vậy, cần hiểu và vận dụng khái niệm mới về doanh nghiệp nhà nước một cách

khách quan, linh hoạt để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà

nước, đồng thời tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị

trường hiện nay.

1.1.2. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sở hữu toàn dân là tư tưởng chi phối,

doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước đóng vai trò chủ

đạo trong mọi khu vực, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhà nước

thuộc sở hữu nhà nước, được điều hành, kiểm soát về mọi phương diện bởi nhà nước.

Vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước luôn được xác định và định hướng

bởi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước cũng như

kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là chủ trương nhất quán của Đảng tại các kỳ đại

hội. Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khóa IX năm 2001 nêu rõ ”Doanh nghiệp nhà

nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà

nước định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ

yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Nghị quyết Hội

nghị Trung ương 3 khóa IX xác định ”Tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt

và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ

yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực sản phẩm

của nền kinh tế”. Đại hội X có sự điều chỉnh nhất định về vị trí của doanh nghiệp

nhà nước, đó là ”Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp nhà nước và tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất

tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích”.

13

Đại hội XI chỉ khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà không khẳng định

rõ ràng, trực tiếp và cụ thể về vai trò, vị trí của doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trong

nền kinh tế như Hội nghị trung ương 3 khóa IX và các văn kiện khác trước đây.

Trên thực tế, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang được sắp xếp, đổi mới theo

hướng thu hẹp dần, giảm bớt ở nhiều vị trí không cần đến sự hiện diện doanh nghiệp

nhà nước, kể cả diện hoạt động- phạm vi ngành, lĩnh vực có doanh nghiệp nhà nước

và mật độ hiện diện của doanh nghiệp nhà nước- số lương doanh nghiệp nhà nước

cùng kinh doanh trong ngành, lĩnh vực. Số ngành, lĩnh vực nhà nước giữ 100% vốn

đã giảm từ 43 ngành, lĩnh vực năm 2002 xuống 20 ngành, lĩnh vực năm 2011. Số

doanh nghiệp nhà nước từ 12.600 doanh nghiệp năm 1991 còn 3265 doanh nghiệp

năm 2011, trong đó, số doanh nghiệp sở hữu 100% vốn của nhà nước từ 5.655 doanh

nghiệp năm 2001 còn 1.254 doanh nghiệp năm 2013.

Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nhiều vị trí quan trọng có ảnh hưởng lớn đến

nhiều ngành, lĩnh vực và nền kinh tế. Cuối năm 2011, có 452 doanh nghiệp thuộc lĩnh

vực quốc phòng an ninh và hoạt động công ích chiếm 34,5%. Số doanh nghiệp còn

lại hoạt động kinh doanh và giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực hạ tầng. Đây là những

vị trí quan trọng cần có doanh nghiệp nhà nước để phát triển. Những vị trí này chủ

yếu do các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nắm giữ. Các Doanh nghiệp nhà

nước chủ yếu thông qua các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước giữ vai trò chi

phối hoặc có ảnh hưởng đến các ngành, lĩnh vực quan trọng như điện, than, xăng dầu,

bưu chính viễn thông, .... Doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm gần 1% tổng số doanh

nghiệp cả nước nhưng lại có các sản phẩm dịch vụ quan trọng trong nền kinh tế như

hệ thống lưới điện quốc gia đã vươn tới những vùng sâu, vùng xa, đưa tỷ lệ hộ sử

dụng điện cả nước đạt 97,5%. Doanh nghiệp nhà nước cung ứng gần như toàn bộ

than, phần lớn thép, xi măng cho nền kinh tế, cung ứng 85% sản lượng xăng dầu, 100%

vận tải đường sắt, 98% lượng vận tải hàng không nội địa, 56% dịch vụ tài chính, tín

dụng; 70% lượng gạo xuất khẩu, 80% lượng phân bón hóa học, 95% khách hàng sử

dụng dịch vụ viễn thông của 2 tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam- VNPT và

tập đoàn viễn thông quân đội- Vietel. Năm 2012, Chính phủ đánh giá tình hình tài

chính và kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước phát triển tương

14

đối ổn định, hơn 80% doanh nghiệp làm ăn có lãi, các tập đoàn, tổng công ty nhà

nước đạt tổng doanh thu hơn 1.621 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2011, lợi

nhuận trước thuế đạt 127,5 nghìn tỷ đồng.

Do nắm giữ các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế nên Doanh nghiệp nhà

nước giữ vị trí độc quyền ở một số ngành, lĩnh vực mang tính chất độc quyền tự nhiên

và độc quyền do cạnh tranh không lành mạnh mà ra. Nguyên nhân của thực trạng này

là do nhà nước thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp nhà nước độc lập

thành các tổng công ty, sáp nhập các tổng công ty thành các tập đoàn kinh tế.

Doanh nghiệp nhà nước được dùng để điều tiết vĩ mô, ổn định thị trường, bình

ổn nền kinh tế. Vai trò này được nhấn mạnh đặc biệt trong thời ký kế hoạch hóa tập

trung, bao cấp trước đây. Hiện nay, Doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục thể hiện vai

trò này, tuy nhiên, quy mô và mức độ giảm đi rất nhiều. Năm 2008- 2009, doanh

nghiệp nhà nước được sử dụng nguồn vốn nhà nước hoặc nguồn vốn tự huy động để

tăng đầu tư, chống suy giảm kinh tế. Năm 2011- 2012, doanh nghiệp nhà nước được

sử dụng để thực hiện chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bằng cách

cắt giảm đầu tư và chi tiêu, không tăng giá bán sản phẩm, dịch vụ (than, điện, xăng

dầu, sắt thép,..) theo yêu cầu của nhà nước. Tuy nhiên với nền kinh tế thị trương hiện

nay, vai trò điều tiết vĩ mô không còn phù hơp. Việc lạm dụng vai trò này làm thị

trường bọ bóp méo, tạo sự bất bình đẳng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, vị trí, vai

trò của doanh nghiệp nhà nước được định vị lại với nhận thức đúng đắn về kinh tế

nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không biểu hiện ở số lượng đông đảo

doanh nghiệp nhà nước, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế hay tổng sản phẩm quốc

nội, không phải ở việc doanh nghiệp nhà nước phải luôn luôn làm công cụ vật chất

để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô hay doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ

những vị trí then chốt trong nền kinh tế với toàn bộ là sở hữu nhà nước. Vai trò chủ

đạo của kinh tế nhà nước phải là ở việc doanh nghiệp nhà nước đi đầu ứng dụng tiến

bộ khoa học công nghiệp, đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội.

Doanh nghiệp nhà nước góp phần bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà

nước. Doanh nghiệp nhà nước tạo lập, dẫn dắt, thúc đẩy hình thành, phát tiển nền

tảng hạ tầng kinh tế cơ bản và thiết yếu, tạo đà cho phát triển kinh tế xã hội, thúc đầy

15

cạnh tranh và hội nhập. Doanh nghiệp nhà nước làm công cụ khắc phục những thất

bại hoặc thiếu hụt của thị trường khi có các lĩnh vực, ngành nghề không có thị trường,

các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không tham gia hay do độc quyền tự nhiên,

chưa hình thành được thị trường cạnh tranh. Doanh nghiệp nhà nước làm công cụ hỗ

trợ với các chính sách điều tiết kinh tế, ổn đinh kinh tế vĩ mô được áp dụng trong

những trường hợp đặc biệt như khủng hoảng, suy giảm, lạm phát cao, ...

Doanh nghiệp nhà nước góp phần tạo ra vị thế chủ đạo cho kinh tế nhà nước

dựa trên ngành, lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước hoạt động, mức độ sở hữu của nhà

nước ở các doanh nghiệp nhà nước và tổng sở hữu nhà nước trong ngành, lĩnh vực

hoạt động chính hay quy mô của doanh nghiệp nhà nước.

1.2. Khái quát về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Theo quan điểm của nhiều quốc gia đã tiến hành cổ phần hóa như Trung Quốc,

Liên Xô cũ, quá trình cổ phần hóa nằm trong quá trình lớn hơn là tư nhân hóa. Tư

nhân hóa theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc là “Sự biến đổi tương quan giữa nhà

nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước ưu tiên thị trường. Nền kinh

tế tư nhân được khuyến khích phát triển, hạn chế sự can thiệp trực tiếp của nhà nước

vào nền kinh tế” [16, 84].

Quan điểm cổ phần hóa của Trung Quốc dựa trên tư tưởng cơ bản của chủ

nghĩa Mác- Lenin coi cổ phần hóa là một bộ phận quan trọng trong chuyển đổi doanh

nghiệp nhà nước, với mục tiêu tìm kiếm hiệu quả kinh doanh chứ không phải tìm

kiếm các hình thức sở hữu khác nhau.

Quan niệm cổ phần hóa của các nước đều hướng đến việc nâng cao hiệu quả

sản xuất kinh doanh, thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển mô hình doanh nghiệp một

chủ sở hữu là nhà nước sang mô hình công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu để phù

hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

Tại Việt Nam, theo quan điểm của Đảng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đáp ứng cơ chế thị trường, huy động vốn từ các

thành phần kinh tế. Đảng và nhà nước khẳng định cổ phần hóa không nhằm mục đích

tư nhân hóa. Cổ phần hóa hướng tới việc tháo gỡ khó khăn về vốn, cơ chế hoạt động,

16

không nhằm thu hẹp sở hữu nhà nước.

Thuật ngữ cổ phần hóa xuất hiện ở Việt Nam cuối những năm 1980, đầu những

năm 1990 gắn với công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Có hai luồng ý kiến

trái ngược nhau về cổ phần hóa ở nước ta. Một bên cho rằng cổ phần hóa ở Việt Nam

không khác gì quá trình tư nhân hóa. Đa số cho rằng, cổ phần hóa ở Việt Nam không

phải tư nhân hóa. Khi luật doanh nghiệp 2005 còn hiệu lực, ông Hồ Xuân Hùng- phó

trưởng ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương đã khẳng định: “Cổ phần

hóa các doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn không phải tư nhân hóa. Với những doanh

nghiệp nhà nước nắm giữ trên 50% vốn sau khi cổ phần, thì theo luật doanh nghiệp

nó vẫn là doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy không nên băn khoăn nó là tư nhân hay là

nhà nước”.

Trong tiến trình thực hiện cổ phần hóa, đã có rất nhiều khái niệm về cổ phần

hóa được đưa ra.

Ông Đỗ Mai Thành cho rằng “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc nhà

nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản doanh nghiệp của mình cho các cá nhân

hay tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân

viên của chính doanh nghiệp nhà nước thông qua đấu thầu công khai hay thông qua

thị trường chứng khoán để hình thành nên các công ty cổ phần” [30, 85].

Hay một khái niệm khác: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển

đổi doanh nghiệp nhà nước từ một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước thành doanh

nghiệp đa sở hữu, theo đó tùy vị trí và tính chất cụ thể của doanh nghiệp trong nền

kinh tế quốc dân mà nhà nước vẫn giữ vai trò chi phối hoặc không cần giữ vai trò chi

phối nữa” [16, 84].

Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không phải quá trình tư nhân

hóa mà là quá trình đa dạng hóa chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Nhà nước sẽ chuyển

một phần hoặc toàn bộ phần vốn của nhà nước cho cá nhân, tổ chức khác như người

lao động trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp nhằm đa dạng hóa các chủ

sở hữu cho doanh nghiệp, góp phần tạo sự năng động và hiệu quả trong hoạt động

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà

nước, phát huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ

được giao. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động

17

thêm vốn, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm cho tài sản

thuộc sở hữu nhà nước ngày càng tăng lên, tạo sự bình đẳng giữa khu vực kinh tế nhà

nước và khu vực kinh tế ngoài nhà nước.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam có những đặc điểm:

Thứ nhất, Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là biện pháp chuyển doanh

nghiệp từ sở hữu nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần- đa sở hữu. Doanh nghiệp

được cổ phần hóa sẽ không chỉ có một chủ sở hữu độc quyền quyết định mọi vấn đề

về đầu tư, kinh doanh mà sẽ có các chủ sở hữu- các cổ đông đã đóng góp vốn, mua

cổ phần tham gia vào quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Hai là, Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh

nghiệp 100% vốn nhà nước sang công ty cổ phần. Đây là hình thức chuyển đổi loại

hình doanh nghiệp từ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là nhà nước sang

công ty cổ phần. Doanh nghiệp sau khi cổ phần phải hoạt động tuân thủ các quy định

của luật doanh nghiệp.

Ba là, Quá trình cổ phần hóa được tiến hành thông qua hình thức nhà nước bán

một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Khi tiến hành cổ phần

hóa, doanh nghiệp nhà nước tiến hành phát hành và chào bán cổ phần. Doanh nghiệp

nhà nước sẽ lựa chọn các hình thức phát hành cổ phần khác nhau căn cứ vào nhu cầu

nắm giữ cổ phần chi phối trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nếu muốn nắm giữ

cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước lựa chọn hình thức bán một phần vốn nhà

nước hiện có hay phát hành thêm cổ phần để huy động vốn. Nếu không có nhu cầu

nắm giữ cổ phần chi phối, doanh nghiệp nhà nước có thể bán toàn bộ vốn nhà nước

hiện có để các nhà đầu tư tự quyết định phần trăm nắm giữ cổ phần của mình có tính

đến những giới hạn mà quy định pháp luật đặt ra.

Bản chất của cổ phần hóa:

Bản chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được xem xét trên 3 khía

cạnh:

Về bản chất pháp lý: Quá trình cổ phần hóa là thay đổi chủ sở hữu, biến doanh

nghiệp một chủ là nhà nước thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu khác nhau bằng

cách bán một phần hay toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp cho những

18

người khác. Những người này trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp theo tỷ lệ tài

sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Các chủ sở hữu có quyền và nghĩa

vụ pháp lý, được hưởng lợi tức và các quyền tham gia hoạt động quản lý doanh nghiệp

tương đương với phần vốn góp đã mua.

Về bản chất chính trị: Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không phải quá

trình tư nhân hóa toàn bộ nền kinh tế mà là quá trình tư nhân hóa một phần. Nhà nước

vẫn giữ phần vốn góp nhất định thậm chí là chi phối trong doanh nghiệp sau cổ phần

hóa. Theo luật doanh nghiệp 2005, sau khi cổ phần hóa, nhà nước vẫn nắm giữ trên

50% tổng vốn góp thì doanh nghiệp vẫn là doanh nghiệp nhà nước và nhà nước vẫn

nắm giữ vai trò chi phối, quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, với luật doanh nghiệp mới

2014, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoàn toàn là công ty cổ phần, không còn là

doanh nghiệp nhà nước, mọi hoạt động điều hành, quản lý, ra quyết định đều phải

tuân theo các quy định của luật doanh nghiệp về công ty cổ phần. Tuy nhiên, hình

thái sở hữu nhà nước vẫn tồn tại. Nó chỉ không còn nắm giữ vai trò chi phối, vị trí

quyết định trong doanh nghiệp mà thôi. Cổ phần hóa không xóa bỏ sở hữu nhà nhà

nước mà chỉ giảm mức độ sở hữu nhà nước.

Về bản chất thương mại: Cổ phần hóa là việc mua bán cổ phiếu. Người bán là

doanh nghiệp mong muốn thu thêm tiền để tăng vốn chủ sở hữu. Họ buộc phải chia

nhỏ quyền lực của mình và san sẻ nó cho các chủ sở hữu khác. Người mua cổ phần

hướng đến việc hưởng lợi tức từ cổ phần mình đầu tư vào. Khi nắm giữ tỷ lệ cổ phần

nhất định, người mua cổ phần được gia tăng quyền lợi của mình khi tham gia vào

hoạt động quản lý, biểu quyết các vấn đề của doanh nghiệp.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những điểm khác với tính

quy luật chung của các nước, bởi:

- Các doanh nghiệp mà Việt Nam thực hiện cổ phần hóa được hình thành trong

quá trình thực hiện công hữu hóa, tập thể hóa nền kinh tế trước đây. Điều này khác

với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước phát triển khi doanh nghiệp

nhà nước là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất đã vượt quá tầm của

sở hữu tư nhân, đòi hỏi phải mở rộng quan hệ sở hữu.

- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa vốn tồn tại lâu năm

19

trong cơ chế bao cấp và kế hoạch của nhà nước và mới làm quen với cơ chế thị trường,

khác với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa ở các nước là đã tồn tại và phát

triển trong cơ chế thị trường, cạnh tranh.

- Các doanh nghiệp mà nước ta tiến hành cổ phần hóa chủ yếu được tổ chức

và hoạt động theo yêu vầu và kế hoạch của nhà nước, khác với các doanh nghiệp thực

hiện cổ phần hóa ở các nước là tổ chức và hoạt động vì lợi nhuận tối đa của bản thân

và tuân theo quy luật thị trường.

- Lý do chính của chủ trương cổ phần hóa ở nước ta là các doanh nghiệp nhà

nước hoạt động kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, khác

với lý do thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp ở các nước phát triển là chuyển từ giai

đoạn tập trung tư bản sang giai đoạn tập trung vốn xã hội trong và ngoài doanh nghiệp

để nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất trong cạnh tranh.

Như vậy, chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là một

trong những giải pháp quan trọng nhằm giải quyết những tồn tại về tình trạng sản

xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước – vấn đề đang gây trở

ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình

cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nước ta có những đặc thù, khác biệt nhất định về

đối tượng cổ phần hóa, chính sách, quy trình cổ phần hóa, vấn đề xác định giá trị

doanh nghiệp, xử lý các khoản nợ tồn đọng,... sẽ được đề cập ở phần nội dung sau.

1.2.2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu tất yếu khi nước ta bước

vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu này xuất phát từ

nhiều nguyên nhân mà quan trọng nhất là từ những hạn chế trong hoạt động của doanh

nghiệp nhà nước và lợi ích mà cổ phần hóa đem lại.

Những hạn chế của doanh nghiệp nhà nước hiện nay

Doanh nghiệp nhà nước được thành lập ngay sau khi miền Bắc được giải

phóng. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã góp phần tích cự vào sự nghiệp giải

phóng miền Nam. Tuy nhiên, sau khi đất nước thống nhất, cơ chế bao cấp, nền kinh

tế tự cung tự cấp đã triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh. Mục đích của việc thành

20

lập doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo ra tích lũy cho ngân sách nhà nước, tạo việc

làm cho người lao động nhưng trên thực tế, các doanh nghiệp nhà nước không đáp

ứng được mục tiêu này.

Sự yếu kém trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước xuất phát từ nhiều

nguyên nhân:

- Do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài. Cơ chế kinh tế này

coi kinh tế quốc doanh dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, xem nhẹ quy luật kinh tế thị

trường nên hạch toán doanh nghiệp mang tính hình thức, đội ngũ cán bộ quản lý quan

liêu, nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước không

hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu cảu thị trường và thực tế, thái độ lao động của

doanh nghiệp nhà nước mang tính ỷ lại, năng suất lao động thấp.

- Do sự yếu kém của đội ngũ công nhân, cán bộ quản lý và trình độ công nghệ.

Công nghệ lạc hậu dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao nên không thể

cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp không có tích lũy nội bộ.

- Trình độ quản lý vĩ mô nền kinh tế và doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Hệ

thống chính sách pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn, hiệu lực thấp gây khó khăn cho

doanh nghiệp. Pháp luật còn nhiều kẽ hở gây nên tình trạng kém hiệu quả trong quản

lý tài chính, kế toán, kiểm toán, thanh tra. Nhà nước không nắm được thực trạng hoạt

động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước không xác định rõ quyền lợi, trách

nhiệm của người lao động, người lao động không có trách nhiệm, không quan tâm

đến quản lý sử dụng tài sản doanh nghiệp, tham nhũng, tiêu cực phổ biến trong doanh

nghiệp.

Mặc dù được sắp xếp, đổi mới nhưng đến nay, đầu tư của các doanh nghiệp

nhà nước vẫn còn dàn trải, nhiều tập đoàn, tổng công ty đầu tư ra ngoài ngành vào

bất động sản, ngân hàng, tài chính, thị trường chứng khoán, đầu tư chéo vào các lĩnh

vực khác hàng chục tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2013 theo chỉ đạo của Chính phủ các

doanh nghiệp nhà nước đã thoái vốn ngoài được 4.180 tỷ đồng nhưng mới đạt được

19% trong tổng vốn đã đầu tư ngoài ngành là 22.000 tỷ đồng. Vì vậy, việc thoái vốn

trong những năm tới của các doanh nghiệp nhà nước cần sự cố gắng rất lớn mới có

thể hoàn thành mục tiêu đề ra. Khi thị trường bất động sản bị đóng băng, thị trường

21

chứng khoán giảm sút mạnh, tình hình trong nước và quốc tế gặp khó khăn đã khiến

cho tình trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước giảm sút, nợ đọng, nợ

xấu tăng lên đột biến. Tính đến cuối năm 2012, nợ phải trả của các doanh nghiệp nhà

nước tăng nhanh với hơn 1,3 triệu tỷ đồng (chiếm 56% tổng nguồn vốn), lớn hơn 1,46

lần vốn chủ sở hữu và chiếm 70% nợ xấu của các ngân hàng thương mại, nợ phải thu

của các doanh nghiệp nhà nước cũng tăng lên: 275.975 tỷ đồng trong đó, nợ khó đòi

là 13.490 tỷ đồng.

Doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ một nguồn lực rất lớn của nền kinh tế

(chiếm 33,5% vốn sản xuất kinh doanh, 50% vốn đầu tư từ nhà nhà nước, 60% vốn

tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% vốn ODA,...) nhưng hơn 50% doanh

nghiệp nhà nước vẫn thuộc loại vừa và nhỏ, trình độ công nghệ, năng suất lao động

và hiệu quả sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Tỷ suất

lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2005-2011 chỉ đạt

5,8%, trong khi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong cùng giai đoạn đạt

9,5%, gấp 1,6 lần so với doanh nghiệp nhà nước.

Tình trạng độc quyền trong kinh doanh đã khiến cho hoạt động của nhiều

doanh nghiệp nhà nước đạt hiệu quả thấp, thiếu động lực cạnh tranh, giá cả lên xuống

không phù hợp với cơ chế thị trường gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mô hình quản

lý các tập đoàn, tổng công ty nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, lúng túng, chưa rõ

ràng trong việc phân công, phân cấp và tổ chức thực hiện giữa chức năng sản xuất

kinh doanh và hoạt động công ích phi lợi nhuận. Năng lực quản trị doanh nghiệp chưa

được nâng cao và chậm được đổi mới. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà

nước trong việc quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chồng

chéo; việc thanh tra, kiểm tra và cơ chế dân chủ, công khai, minh bạch trong quản trị

đối với doanh nghiệp nhà nước bị buông lỏng, tình trạng tham nhũng, lãng phí chậm

được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời đã gây thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của

nhà nước điển hình là các vụ tham nhũng tại Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt

Nam (Vinashin), Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines), Công ty cho thuê tài

chính II,...

Với những hạn chế đó của doanh nghiệp nhà nước, việc tái cấu trúc doanh

22

nghiệp nhà nước nói chung và việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nói riêng là

một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và chuyển đổi mô

hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay.

Vai trò của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy vai trò to lớn của quá trình cổ phần hóa

doanh nghiệp nhà nước. Kết quả cổ phần hóa của các nước trên thế giới đã tiến hành

cổ phần hóa đã khẳng định chắc chắn điều đó.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước xử lý quan hệ sản xuất để phát triển lực

lượng sản xuất, tạo mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Cổ phần

hóa cải tạo lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất mới phát triển, giải quyết

mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đem lại sự đổi mới tư duy,

hiệu quả sử dụng phương tiện sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng hoạt động.

Cổ phần hóa góp phần tích cực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước. Nguồn vốn thu được từ cổ phần hóa góp phần vào đổi mới công nghệ, đào tạo,

nâng cao chất lượng lao động thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát

huy và tận dụng những ưu điểm của lực lượng sản xuất, cải thiện quan hệ sản xuất.

Cổ phần hóa là đòn bẩy để các doanh nghiệp tích cực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường

để tìm kiếm lợi nhuận.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước góp phần làm thay đổi tư duy xã hội chủ

nghĩa theo chế độ bao cấp lỗi thời lạc hậu, thay vào đó là tư duy năng động, nhạy bén

trước tình hình biến đổi của kinh tế thế giới. Chế độ kinh tế một chủ sở hữu là nhà

nước thực hiện chính sách bao cấp đã lỗi thời, bộc lộ những hạn chế trong kìm hãm

sự phát triển của kinh tế xã hội. Thay đổi nền kinh tế quan liêu, bao cấp sang nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa dạng loại hình kinh tế, đa dạng sở

hữu thúc đẩy quá trình tìm kiếm lợi nhuận trước những thách thức khó khăn của nền

kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang công nghiệp dịch vụ, đẩy mạnh quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà

nước.

Cổ phần hóa góp phần làm chuyển dịch các thành phần kinh tế. Trước cổ phần

hóa, doanh nghiệp hoàn toàn thuộc thành phần kinh tế nhà nước, nhà nước nắm giữ

23

vốn và quyết định mọi hoạt động sống còn của doanh nghiệp. Sau cổ phần hóa, với

sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế từ việc nắm giữ cổ phần trong doanh nghiệp,

tỷ lệ sở hữu cổ phần sẽ quyết định doanh nghiệp đó thuộc thành phần kinh tế nào.

Nếu sở hữu của tập thể người lao động chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần

kinh tế tập thể. Nếu sở hữu nhà nước chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh

tế nhà nước. Trường hợp sở hữu tư bản tư nhân chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành

phần kinh tế tư bản tư nhân. Như vậy, cổ phần hóa đã làm thành phần kinh tế nhà

nước giảm đi về mặt quy mô, thay vào đó là sự gia tăng quy mô của các thành phần

kinh tế khác, góp phần vào sự chuyển dịch thành phần kinh tế.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm đa dạng hóa sở hữu vốn nhà nước,

xác định được rõ phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và vốn của các nhà đầu tư khác,

từ đó gắn được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà đầu tư với hiệu quả hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời vốn, tài sản nhà nước trong các doanh

nghiệp cổ phần hóa được đánh giá lại theo quy định, làm minh bạch được tài chính

doanh nghiệp, làm rõ được công nợ, xử lý được nhiều tồn đọng về vốn, tài sản, đất

đai để từ đó có phương án sử dụng hợp lý hơn.

Cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty, tăng

cường huy động vốn đầu tư từ xã hội, cải tiến khoa học kỹ thuật công nghệ, xóa bỏ

tư tưởng nhà nước bao cấp của công nhân viên, tạo ý thức làm việc tốt hơn cho công

nhân viên trong công ty, xóa bỏ cơ chế quản lý cứng nhắc, yếu kém và khắc phục tình

trạng lãi giả, lỗ thật còn đang tồn tại trong doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa là cơ

hội để doanh nghiệp tự chủ kinh doanh, bố trí lại cơ cấu tổ chức trong công ty, tinh

giảm biên chế và có cơ hội để phát triển kinh doanh, tìm kiếm khách hàng mới và

nâng cao năng suất lao động. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước sẽ giải quyết được

mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, góp phần xã hội hóa lực

lượng sản xuất, thu hút thêm nguồn lực sản xuất. Khi cổ phần hóa, người lao động sẽ

gắn bó, có trách nhiệm với công việc hơn, họ trở thành người chủ thực sự của doanh

nghiệp và được hưởng thù lao và lợi nhuận dựa trên chính sức lực mà mình bỏ ra.

Phương thức quản lý được thay đổi sẽ tạo nên sự năng động, tự chủ hơn trong quá

trình sản xuất kinh doanh.

Cổ phần hóa là một yếu tố thúc đẩy sự hành thành và phát triển thị trường

24

chứng khoán, tạo nên một lĩnh vực hoạt động kinh tế năng động, đưa nền kinh tế Việt

Nam hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Các đợt chào bán cổ phần sẽ góp phần

làm thông tin công ty được công khai tạo sự cạnh tranh, phát triển hướng tới mục tiêu

tìm kiếm lợi nhuận. Cổ phần hóa là giải pháp quan trọng nhằm huy động các nguồn

lực trong và ngoài nước. Việc huy động các nguồn lực đặc biệt là nguồn vốn của các

cá nhân, tổ chức giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu

tư, đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài

nước, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời kỳ hội nhập kinh

tế quốc tế.

Ưu điểm của công ty cổ phần

Ngay từ tên gọi ”cổ phần hóa”, quá trình này đã gắn với kết quả chuyển đổi

doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Vậy tại sao hình thức công ty cổ phần

lại được lựa chọn làm mục tiêu chuyển đổi mà không phải một hình thức công ty khác

như công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, ...? Phân tích những ưu điểm

của công ty cổ phần ta sẽ trả lời được câu hỏi trên.

Công ty cổ phần được định nghĩa theo luật doanh nghiệp 2014 như sau:

Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:

- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;

- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không

hạn chế số lượng tối đa;

- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của

doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;

- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,

trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật doanh

nghiệp.

Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận

đăng ký doanh nghiệp.

Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn [29,

25

85].

Thông qua khái niệm trên, ta thấy mô hình công ty cổ phần có rất nhiều ưu

điểm như:

Đầu tiên, công ty cổ phần là một chủ thể pháp lý độc lập, có tư cách pháp nhân.

Điều đó cho phép công ty cổ phần có các quyền và nghĩa vụ nhất định. Công ty cổ

phần có tư cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập. Bằng tài sản của mình, công ty cổ phần

tự mình tham gia vào các hoạt động với nhiều mục đích khác nhau mà mục đích lợi

nhuận luôn được đặt lên hàng đầu. Trong quá trình hoạt động, công ty tự chịu trách

nhiệm về các giao dịch, các khoản nợ bằng tài sản của mình. Người tiến hành giao

dịch chỉ là người đại diện cho quyền và nghĩa vụ của công ty. Bản chất, công ty phải

chịu trách nhiệm với các giao dịch ấy. Tài sản của công ty được hình thành từ nguồn

vốn góp của các cổ đông. Các cổ đông góp vốn thành lập công ty, vốn góp ấy là tài

sản riêng của công ty, các cổ đông chỉ được hưởng các lợi ích nhất định từ phần vốn

mình đóng góp theo quy định của pháp luật.

Ưu điểm thứ hai của công ty cổ phần là chế độ trách nhiệm hữu hạn của các

cổ đông. Các cổ đông góp vốn hình thành công ty cổ phần. Phần vốn góp ấy là giới

hạn rủi ro tài chính của các cổ đông trên tổng vốn của công ty. Trách nhiệm của cổ

đông được hạn chế trong phạm vi số vốn mà họ đóng góp. Vì không có quyền với tài

sản của công ty nên các cổ đông không phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của

công ty. Khi có một nghĩa vụ tài chính phát sinh, công ty phải tự mình thực hiện nghĩa

vụ ấy bằng tài sản của mình. Bên có quyền đối với nghĩa vụ ấy chỉ có quyền yêu cầu

công ty thực hiện nghĩa vụ mà không được yêu cầu các cổ đông của công ty thực hiện

bởi các cổ đông không phải chủ thể liên quan đến nghĩa vụ ấy. Các cổ đông sẽ không

bao giờ mất nhiều hơn số vốn ban đầu họ bỏ ra. Đó là điểm khác biệt lớn của công ty

cổ phần nói riêng và các công ty đối vốn nói chung so với các công ty đối nhân là

doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh. Tính chất trách nhiệm hữu hạn đã thu

hút các nhà đầu tư đầu tư vào công ty cổ phần.

Ưu điểm thứ ba của công ty cổ phần là cấu trúc vốn linh hoạt. Mọi hoạt động,

quyết định của công ty cổ phần đều dựa trên cơ cấu vốn của các cổ đông. Quyền lực

trong công ty cổ phần sẽ thuộc về người nắm giữ tỷ lệ cổ phần cao trong công ty. Quy

mô vốn sẽ quyết định tiềm lực của của công ty. Nó liên quan mật thiết đến khả năng

26

huy động vốn nợ phục vụ sản xuất kinh doanh bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu đã có.

Cổ phần của công ty được chuyển nhượng linh hoạt, tự do như mua bán, tặng cho,

thừa kế. Công ty cổ phần cho phép các cổ đông tự do chuyển nhượng cổ phần của

mình cho các cổ đông khác hay cho người khác không phải cổ đông công ty trừ một

số hạn chế nhất định trong 3 năm đầu thành lập công ty hay với cổ phần ưu đãi. Các

cổ đông tiến hành chuyển nhượng trực tiếp hay thông qua sàn giao dịch chứng khoán

đối với các công ty có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán. Phương thức

này là phổ biến với công ty có quy mô vốn lớn. Việc mua bán cổ phiếu trên sàn giao

dịch chứng khoán diễn ra hàng ngày, hàng giờ, vì thế nó làm tỷ lệ sở hữu cổ phần

trong công ty cũng thay đổi liên tục. Việc chuyển nhượng cổ phần ít làm ảnh hưởng

đến cơ cấu quản lý, tổ chức của công ty ngoại trừ các giao dịch lớn tạo nên tính ổn

định trong hoạt động của công ty. Bên cạnh đó, công ty cổ phần được phép tự do huy

động các nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Công ty được phát hành các loại

cổ phiếu, trái phiếu để thu hút vốn đầu tư, mở rộng quy mô vốn, … Khác với công ty

trách nhiệm hữu hạn bị giới hạn trong việc phát hành cổ phiếu.

Ưu điểm cuối cùng là tính chuyên môn cao trong cơ cấu tổ chức hoạt động.

Bộ máy hoạt động của công ty cổ phần được phân cấp rõ ràng với chức năng chuyên

môn cao. Đại hội đồng cổ đông có quyền lực cao nhất- nơi tập trung mọi quyết định

của tất cả các cổ đông. Hội đồng quản trị thay mặt cổ đông giám sát hoạt động của

công ty. Ban giám đốc tiến hành các hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận cho

công ty, chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị. Ngoài ra, ban kiểm soát kiểm soát

tính pháp lý trong mọi hoạt động của công ty, độc lập với hội đồng quản trị, chỉ chịu

trách nhiệm trước cổ đông. Sự phân cấp rõ ràng giúp công ty cổ phần hoạt động hiệu

quả, hài hòa.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu, là chủ trương, chính

sách lớn của Đảng và nhà nước ta. Quá trình này sẽ đem lại nhiều cải thiện cho nền

kinh tế cả nước, khắc phục những khó khăn, hạn chế của nền kinh tế tập trung bao

cấp trước kia. Lợi ích của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được chứng minh

không chỉ trên lý thuyết mà ngay trong thực tế triển khai tại các nước trên thế giới và

27

ngay tại Việt Nam.

Chương 2

NỘI DUNG PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP

NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành được 30 năm.

Trong thời gian đó, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã ra đời để quy định,

hướng dẫn việc tiến hành cổ phần hóa. Văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là các nghị

định do chính phủ ban hành. Từ năm 1990- thời điểm cổ phần hóa chính thức được

tiến hành đến nay, chính phủ đã ban hành 10 nghị định quy định trực tiếp về cổ phần

hóa và hàng loạt các thông tư, văn bản hướng dẫn liên quan. Mỗi nghị định được ban

hành đều gắn với một giai đoạn cổ phần hóa nhất định, phù hợp với bối cảnh kinh tế,

xã hội lúc bấy giờ. Nhìn chung, nghị định sau đều có xu hướng khắc phục những hạn

chế, thiếu sót của nghị định trước đó nhằm hướng đến việc hoàn thiện các quy định

về cổ phần hóa, góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa đạt hiệu quả hơn.

Thời điểm hiện nay, Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 về chuyển

doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định

59/2011/NĐ-CP), Nghị định 189/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 về sửa đổi bổ sung

một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về

chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định

189/2013/NĐ-CP) và Nghị định 116/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 về sửa đổi bổ

sung một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về

chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần (gọi tắt là Nghị định

116/2015/NĐ-CP) là 3 văn bản pháp lý cao nhất quy định vấn đề cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước tại Việt Nam. Ba văn bản này đã đề cập đến những nội dung quan

trọng nhất về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Giai đạn 2011- 2015, Chính phủ,

thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định quan trọng phục vụ cho

công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước như: tiêu chí danh mục phân loại doanh

nghiệp nhà nước, quy định về tập đoàn kinh tế nhà nước và tổng công ty nhà nước,

giám sát, kiểm tra, thanh tra, đối với doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành

pháp luật và tuân thủ các quyết định của chủ sở hữu, quy chế công bố thông tin cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước, ... Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ra quyết đinh

số 51/2014/QĐ-TTg về một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước

28

tại doanh nghiệp và hướng dẫn thực hiện. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành nghị

định về điều lệ tổ chức và hoạt động của 13/14 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (Dầu

khí, Dệt may, Hóa chất, Điện lực, Công nghiệp than khoáng sản, Công nghiệp cao su,

Đường sắt, Hàng không, Hàng hải, Lương thực miền bắc, Lương thực miền nam, Đầu

tư và kinh doanh vốn nhà nước, Viễn thông quân đội). Thủ tướng Chính phủ cũng đã

phê duyệt đề án tái cơ cấu 20/20 tập đoàn, tổng công ty nhà nước thuộc thẩm quyền.

Nghị định số 59/2011/NĐ-CP tiếp tục hoàn thiện cơ chế cổ phần hóa gắn với

thị trường, ngăn ngừa thất thoát tài sản nhà nước, nâng cao tính công khai, minh bạch,

tăng cường sự giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với công tác cổ phần

hóa. Để triển khai Nghị định 59/2011/NĐ-CP, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số

202/2011/TT-BTC hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi

thực hiện cổ phần hóa và Thông tư số 196/2011/TT-BTC hướng dẫn bán cổ phần lần

đầu và quản lý, sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp 100% vốn Nhà

nước thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần. Nghị định 59/2011/NĐ-CP và các

Thông tư hướng dẫn đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu đặt ra đối với công tác cổ phần

hóa doanh nghiệp nhà nước, khắc phục những vướng mắc chủ yếu của Nghị định số

109/2007/NĐ-CP trước đây. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện có những

vướng mắc xuất phát từ quy định của Nghị định 59/2013/ NĐ-CP về xác định giá trị

doanh nghiệp và xử lý công nợ khiến cho số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa còn ít,

tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm trễ. Do đó, cần có giải pháp

khắc phục kịp thời để nâng cao hiệu quả công tác cổ phần hóa doanh nghiệp 100%

vốn Nhà nước. Vì vậy, nghị định 189/2011/NĐ-CP và nghị định 116/2015/NĐ-CP

đã được Chính phủ thông qua để hoàn thiện các quy định về cổ phần hóa doanh nghiệp

nhà nước.

Các nội dung chính về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được đề cập

trong 3 nghị định trên sẽ được phân tích cụ thể trong chương 2 của khóa luận này.

2.1. Mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Điều 1 nghị định 59/2011/NĐ-CP đã khẳng định mục tiêu cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước hiện nay là:

- Chuyển đổi những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn

sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu. Tất cả các doanh nghiệp nhà nước

29

không thuộc diện nhà nước phải nắm giữ 100% vốn đều có thể tiến hành cổ phần hóa.

Quá trình cổ phần hóa sẽ chuyển đổi doanh nghiệp từ một chủ sang đa chủ sở hữu mà

hình thức phổ biến nhất là loại hình công ty cổ phần. Vấn đề quan trọng là xác định

doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn nhà nước là những doanh

nghiệp nào?

- Huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng

lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu

quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bên ạnh nhiệm vụ cơ cấu lại nguồn vốn trong

doanh nghiệp thì nhiệm vụ huy động mở rộng nguồn lực vốn của doanh nghiệp là

nhiệm vụ quan trọng. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi của mọi cá nhân, tổ chức trong

và ngoài nước sẽ nâng cao tiềm lực tài chính của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả

của nền kinh tế.

Mục tiêu này được Đảng và nhà nước nhấn mạnh thống nhất từ nghị định

187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty

cổ phần (gọi tắt là nghị định 187/2004/NĐ-CP) đến nay.

Hai mục tiêu lớn của cổ phần hóa là chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước từ một

chủ thành đa chủ và huy động vốn. Ngoài ra còn có những mục tiêu liên quan được

đề cập ở các văn bản pháp lý trước đó như nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của

doanh nghiệp; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp

để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước, doanh nghiệp; phát huy vai trò làm

chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu

tư đối với doanh nghiệp, phát triển thị trường chứng khoán ..... Những mục tiêu đó

mang tính bản chất tất yếu dù không được đề cập trong nghị định 59/2011/NĐ-CP.

Cùng với nghị định 59/2011/NĐ-CP, ngày 17/07/2012, Thủ tướng Chính phủ

đã ra quyết định 929/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước,

trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2011- 2015” (Gọi tắt

là quyết định 929/QĐ-TTg). Cổ phần hóa là một phương thức phổ biến trong tiến

trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, Quyết định 929/QĐ-TTg cũng là một

văn bản pháp lý quan trọng trong tiến trình cổ phần hóa giai đoạn 2011- 2015. Văn

30

bản này khẳng định:

Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế và tổng công

ty nhà nước nhằm:

- Doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào ngành, lĩnh vực then

chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an

ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng

vật chất quan trọng để nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế

vĩ mô.

- Nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đối với doanh

nghiệp kinh doanh, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm dịch vụ

công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với doanh nghiệp hoạt động

công ích.

Cổ phần hóa là một nhiệm vụ quan trọng được nhấn mạnh tại quyết định

929/QĐ-TTg. Đó là đẩy mạnh cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp

nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sở hữu. Đối với những tập đoàn

kinh tế, tổng công ty nhà nước, thực hiện cơ cấu lại danh mục đầu tư và ngành nghề

kinh doanh, tập trung vào những ngành nghề kinh doanh chính. Đẩy nhanh thực hiện

theo nguyên tắc thị trường việc thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào các ngành không

phải kinh doanh chính.

Tiến hành cổ phần hóa phải đảm bảo những yêu cầu nhất định, đó là: nhà nước,

doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm hài hòa lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp,

nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp; thực hiện cổ phần hóa công khai,

minh bạch, theo nguyên tắc thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín nội

bộ doanh nghiệp, gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán.

Doanh nghiệp cổ phần hóa phải thực hiện công khai, minh bạch các thông tin

về doanh nghiệp, về phương án cổ phần hóa, tình hình quản lý và sử dụng đất đai, lao

động. Doanh nghiệp cổ phần hóa có tình hình tài chính đáp ứng đủ điều kiện niêm

yết phải xây dựng phương án, lộ trình niêm yết theo quy định của luật chứng khoán.

Thông tin phải được công bố công khai đến các nhà đầu tư.

Điều 10 nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định nguyên tắc kế thừa quyền và

31

nghĩa vụ của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Doanh nghiệp cổ phần hóa phải sắp xếp,

sử dụng tối đa số lao động tại thời điểm quyết định cổ phần hóa và giải quyết chế độ

cho người lao động nghỉ việc, thôi việc. Công ty cổ phần có nghĩa vụ kế thừa mọi

trách nhiệm đối với người lao động từ doanh nghiệp cổ phần hóa chuyển sang, có

quyền tuyển chọn, bố trí sử dụng lao động và phối hợp với cơ quan liên quan giải

quyết chế độ cho người lao động. Doanh nghiệp cổ phần hóa phối hợp với cơ quan

có liên quan kiểm tra, xử lý những vấn đề tài chính để xác định giá trị phần vốn nhà

nước tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần được

sử dụng toàn bộ tài sản, nguồn vốn đã nhận bàn giao để tổ chức sản xuất kinh doanh,

kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa đã bàn

giao. Trường hợp sau khi bàn giao sang công ty cổ phần mới phát sinh khoản truy

thu, xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật của doanh nghiệp trong thời gian là doanh

nghiệp 100% vốn nhà nước thì phải làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể để thực hiện

việc bồi thường, nộp phạt, xử lý kỷ luật. Đây là vướng mắc rất lớn, khó giải quyết

trên thực tế tiến hành.

Những mục tiêu, yêu cầu của cổ phần hóa được đề cập rõ ràng đã giúp quá

trình cổ phần hóa được nhận thức thống nhất, đảm bảo cổ phần hóa hiệu quả, tránh

tình trạng lạm dụng, đi lệch với đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước, góp

phần vào sự thành công của tiến trình cổ phần hóa từ giai đoạn đầu đến nay.

2.2. Đối tượng, điều kiện cổ phần hóa

Việc xác định đối tượng cổ phần hóa là một yêu cầu bắt buộc khi tiến hành cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Điều 2 nghị định 59/2011/NĐ-CP chỉ ra 3 đối tượng

thuộc diện cổ phần hóa.

Một là, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ

100% vốn điều lệ là công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế, Tổng công nhà nước (kể cả

ngân hàng thương mại nhà nước). Giai đoạn từ năm 2011, cổ phần hóa tập trung vào

các tổng công ty, tập đoàn kinh tế- những đối tượng phức tạp đòi hỏi phải có sự chuẩn

bị kỹ lưỡng từ trước. Các công ty con, công ty thành viên của các tập đoàn kinh tế,

tổng công ty đã tiến hành cổ phần hóa giai đoạn trước đó chính là tiền đề, cơ sở để

tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ tiến tới hoàn thành cổ phần hóa toàn diện.

Hai là, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100%

32

vốn điều lệ là doanh nghiệp thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính

Phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là một số lượng

lớn các doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại hiện nay. Mỗi bộ, ngành, địa phương đều

nắm giữ trong tay số lượng lớn doanh nghiệp. Với cơ chế quản lý hành chính, việc

đảm bảo hoạt động hiệu quả cho các doanh nghiệp này là khó có thể thực hiện. Cổ

phần hóa các doanh nghiệp nêu trên sẽ giải phóng một lượng lớn nguồn lực cho nhà

nước, góp phần gia tăng ngân sách nhà nước, đồng thời tạo tính tự chủ cho doanh

nghiệp, đem lại hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp.

Ba là, Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chưa chuyển thành công ty trách

nhiệm hữu hạn một thành viên. Số lượng doanh nghiệp tồn tại dưới hình thức này còn

lại rất ít nhưng cũng không thể loại trừ nó ra khỏi đối tượng cổ phần hóa vì bản thân

doanh nghiệp đang nắm giữ số lượng lớn vốn và tài sản của nhà nước.

Đối tượng cổ phần hóa giai đoạn 2011 đến nay có sự thay đổi đáng kể so với

các nghị định trước. Đối tượng cổ phần hóa đã được thu hẹp lại. Điều đó hoàn toàn

phù hợp với thực tế khi mà năm 2010 là năm hoàn thành cơ bản cổ phần hóa theo

mục tiêu đề ra. Từ năm 2011 đến nay, cổ phần hóa là giai đoạn giải quyết các vấn đề

chưa kịp tiến hành trong giai đoạn trước mà tập trung là việc chưa cổ phần hóa các

tập đoàn kinh tế, tổng công ty và các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước khác. Đây

đều là những doanh nghiệp nhà nước quan trọng có quy mô vốn lớn, đòi hỏi quá trình

cổ phần hóa thận trọng. Các giai đoạn trước năm 2011 là quá trình cổ phần hóa mở

rộng và cơ bản nằm trong tiến trình cổ phần hóa được đặt ra vì vậy, đối tượng cổ phần

hóa có diện rộng với số lượng và hình thức đa dạng.

Việc xác định doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn là vấn

đề hết sức quan trọng. Vấn đề đó đã được xác định trong quyết định mới nhất, Quyết

định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/06/2014 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại

doanh nghiệp nhà nước (Gọi tắt là quyết định 37/2014/QĐ-TTg). Theo đó, nhà nước

nắm giữ 100% vốn điều lệ đối với những doanh nghiệp hoạt động trong 16 lĩnh vực

quan trọng sau:

- Trực tiếp thực hiện nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, an ninh.

- Sản xuất, cung ứng vật liệu nổ công nghiệp.

33

- Sản xuất, cung ứng hóa chất độc.

- Truyền tải, điều độ hệ thống điện quốc gia, thủy điện đa mục tiêu và điện hạt

nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh.

- Quản lý, khai thác hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, đô thị, điều

hành giao thông vận tải đường sắt quốc gia, đô thị.

- Quản lý, khai thác các cảng hàng không, sân bay có vai trò, vị trí quan trọng

đối với quốc phòng, an ninh; dịch vụ bảo đảm hoạt động bay.

- Bảo đảm hàng hải.

- Cung ứng dịch vụ bưu chính công ích.

- Xổ số kiến thiết.

- Xuất bản.

- In, đúc tiền.

- Đo đạc bản đồ phục vụ quốc phòng, an ninh.

- Quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi, thủ nông liên tỉnh, liên huyện,

kè đá lấn biển.

- Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.

- Tín dụng chính sách phục vụ phát triển kinh tế- xã hội.

- Những doanh nghiệp thành viên có vai trò chủ yếu trong hoạt động sản xuất

kinh doanh, chiến lược phát triển, nắm giữ các bí quyết kinh doanh, công nghệ mà

tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần thiết nắm giữ 100% vốn đề thực hiện các nhiệm

vụ ngành nghề kinh doanh chính được giao.

Những lĩnh vực hoạt động trên nhà nước phải nắm giữ 100% vốn trong các

doanh nghiệp vì đó là những lĩnh vực quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến trật tự xã hội,

quốc phòng an ninh. Nhưng quy định này một phần đã tạo nên tình trạng độc quyền

của doanh nghiệp nhà nước, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong

thời gian tới, liệu số lượng ngành, lĩnh vực đòi hỏi nhà nước nắm giữ 100% vốn có

nên tiếp tục thu hẹp lại để phát huy vai trò của các thành phần kinh tế khác?

Ngoài các doanh nghiệp hoạt động trong 16 lĩnh vực trên, các doanh nghiệp

34

nhà nước còn lại đều thuộc diện tiến hành cổ phần hóa. Quyết định 37/2014/QĐ-TTg

cũng phân loại rõ những doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa, nhà nước nắm

giữ từ 75% tổng số cổ phần trở lên, từ 65% đến dưới 75% tổng số cổ phần, trên 50%

đến dưới 65% tổng số cổ phần. Đây là căn cứ để xác định vai trò chi phối của nhà

nước trong doanh nghiệp sau cổ phần hóa, là cơ sở để các doanh nghiệp nhà nước xác

định phương thức cổ phần hóa phù hợp.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đặt mục tiêu hoàn thành vào năm 2010.

Tuy nhiên, mục tiêu đó không thể hoàn thành và cổ phần hóa phải tiếp tục vào giai

đoạn tiếp theo. Từ năm 2011, tiến trình cổ phần hóa tập trung vào các tập đoàn lớn,

các tổng công ty vẫn đang tồn tại dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Giai

đoạn này nhằm hoàn thiện quá trình cổ phần hóa, giải quyết những vẫn đề chưa kịp

giải quyết trong giai đoạn trước đó. Vì vậy, đối tượng cổ phần hóa được xác định rất

cụ thể. Quyết định 929/QĐ-TTg cũng đã nhấn mạnh lại đối tượng tiến hành cổ phần

hóa nói riêng và đối tượng tái cơ cấu nói chung trong giai đoạn 2011- 2015 là các tập

đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.

Các doanh nghiệp thuộc đối tượng cổ phần hóa quy đinh trong khoản 1 điều 1

nghị định 59/2011/NĐ-CP đều có thể tiến hành cổ phần hóa. Thuộc đối tượng cổ phần

hóa là điều kiện cần để doanh nghiệp cổ phần hóa. Tuy nhiên để tiến hành cổ phần

hóa, doanh nghiệp phải đảm bảo điều kiện nhất định. Đây là điều kiện đủ để doanh

nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa. Doanh nghiệp nhà nước phải đảm bảo không

thuộc diện nhà nước cần nằm giữ 100% vốn điều lệ. Đây là điều kiện cơ bản nhất đã

được nhấn mạnh ở mục tiêu cũng như nguyên tắc tiến hành cổ phần hóa. Đồng thời,

Doanh nghiệp phải còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại

giá trị doanh nghiệp. Nếu không đáp ứng được điều kiện này, doanh nghiệp nhà nước

buộc phải cơ cấu theo phương thức khác như cho hợp nhất, sáp nhập, thậm chí tiến

hành cho doanh nghiệp phá sản.

2.3. Các hình thức cổ phần hóa

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành theo nhiều hình thức:

Thứ nhất, Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm

cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Hình thức này áp dụng cho các doanh nghiệp mà nhà

nước giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định trong doanh nghiệp thường là cổ phần chi phối

35

và doanh nghiệp đang có hoạt động hiệu quả, có nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất

nhằm thu hút vốn ngoài xã hội đầu tư, phát triển, tăng vốn hoạt động cho doanh

nghiệp.

Thứ hai, Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp

vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ.

Hình thức này được áp dụng cho những doanh nghiệp vừa cần huy động thêm vốn

vừa cơ cấu lại quyền sở hữu về vốn và phương thức quản lý doanh nghiệp. Tỷ lệ nắm

giữ cổ phần bị thay đổi, nhà nước có thể nắm giữ cổ phần chi phối hoặc không.

Thứ ba, Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa

bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ để chuyển

thành công ty cổ phần, nhà nước không còn nắm giữ cổ phần tại công ty.

Các phương thức này được quy định tại điều 4 nghị định 59/2011/NĐ-CP. Về

bản chất các phương thức cổ phần hóa này được quy định ổn định trong các nghị định

về cổ phần hóa ở các giai đoạn khác nhau. Mục đích tăng vốn được nhấn mạnh trong

cả 3 phương thức cổ phần hóa. Đây là mục tiêu quan trọng đi đôi với mục tiêu cơ cấu

lại nguồn vốn trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Mục tiêu này đã được nhấn mạnh hơn

so với các giai đoạn trước.

Mỗi hình thức cổ phần hóa đều có những ưu, nhược điểm riêng. Nhưng sự đa

dạng trong hình thức sẽ tạo thêm cho doanh nghiệp nhiều sự lựa chọn phù hợp với

ngành nghề kinh doanh, loại hình doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại, mục đích chủ

sở hữu để tiến hành cổ phần hóa. Nó cũng quyết định đến vai trò của nhà nước trong

doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Nhà nước có thể nắm giữ cổ phần thậm chí cổ phần

chi phối hoặc không còn cổ phần trong doanh nghiệp.

2.4. Đối tượng mua cổ phần

Bán cổ phần lần đầu là một bước quan trọng khi tiến hành cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước. Việc bán cổ phần lần đầu được thực hiện theo các phương thức

khác nhau như: đấu giá công khai, bảo lãnh phát hành hay thỏa thuận trực tiếp [10,

83].

Đối tượng mua cổ phần là một nội dung quan trọng cần được xác định khi tiến

hành cổ phần hóa. Điều 6 nghị định 59/2011/NĐ-CP đã quy định chi tiết vấn đề này.

36

Các đối tượng có quyền mua cổ phần phải đáp ứng những điều kiện nhất định.

Đối tượng đầu tiên là các nhà đầu tư trong nước. Đó có thể là cá nhân người

Việt Nam hoặc các tổ chức được thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam.

Trường hợp này loại trừ khả năng tổ chức, cá nhân là nhà đầu tư chiến lược được quy

đinh thành một đối tượng riêng. Nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần của

doanh nghiệp cổ phần hóa với số lượng không hạn chế. Đối với trường hợp doanh

nghiệp sau khi cổ phần hóa tiến hành niêm yết ngay tại sở giao dịch chứng khoán thì

trong số lượng cổ phần bán ra công chúng phải quy định số cổ phần tối đa và tối thiểu

đặt mua để đảm bảo điều kiện niêm yết cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Thành

viên ban chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian, các nhân

viên thực hiện tư vấn, định giá, kiểm toán đấu giá bán cổ phần của doanh nghiệp cổ

phần hóa không được mua cổ phần để đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong thông

tin cổ phần hóa, tránh tình trạng lợi dụng thông tin nội bộ để đầu cơ. Các công ty con,

công ty liên kết trong cùng tập đoàn, tổng công ty và tổ hợp công ty mẹ- công ty con

của doanh nghiệp cổ phần hóa cũng thuộc đối tượng không được mua cổ phần để hạn

chế tình trạng cổ phần hóa mang tính nội bộ, sở hữu chéo trong các tập đoàn, tổng

công ty.

Người lao động là một trong các đối tượng thuộc nhóm 1 được mua cổ phần

của doanh nghiệp cổ phần hóa. Đã có nhiều quy định về việc ưu đãi cho người lao

động mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa. Nghị định 64/2002/NĐ-CP quy

định: người lao động được mua tối đa 10 cổ phiếu cho mỗi năm làm việc với giá giảm

30% so với mệnh giá (mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu) và phải nắm giữ trong 3 năm.

Như vậy, sau 3 năm, người lao động có thể bán cổ phiếu của mình, tức là bán đi quyền

làm chủ, để trở lại thân phận làm thuê. Rõ ràng, chủ trương bán cổ phiếu cho người

lao động sau 3 năm nắm giữ không đạt được mục đích đảm bảo lợi ích lâu dài cho

người lao động. Nghị định 187/2007/NĐ-CP quy định: người lao động được mua 100

cổ phiếu cho mỗi năm làm việc với giá ưu đãi giảm 40% so với giá đấu thầu thành

công bình quân bán cho nhà đầu tư khác. Lấy giá đấu thầu thành công làm chuẩn là

chưa bảo vệ lợi ích vủa người lao động vì nếu họ mua vào lúc giá thị trường chứng

khoán lên cao thì giảm 40% so với giá đấu thầu thành công bình quân, họ vẫn phải

trả với giá cao hơn mệnh giá cổ phiếu. Một điểm bất cập của nghị định này là không

37

quy định người lao động phải giữ cổ phiếu trong 3 năm, có nghĩa là cho phép họ bán

ngay cổ phiếu của mình. Quy định như vậy liệu là không thuận lợi cho người lao

động, khi người lao động dễ để mất cơ hội làm chủ của mình khi cổ phiếu được giá?

Điều 48 nghị định 59/2011/NĐ- CP đề ra chính sách ưu đãi cho người lao động trong

doanh nghiệp cổ phần hóa có tiến bộ hơn nhiều so với trước: “Người lao động có tên

trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm công bố giá trị doanh

nghiệp cổ phần hóa được mua tối đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại

khu vực nhà nước với giá bán bằng 60% giá đấu thành công thấp nhất (Trường hợp

đấu giá công khai trước) hoặc bằng 60% giá bán thành công thấp nhất cho các nhà

đầu tư chiến lược (Đối với trường hợp bán cho nhà đầu tư chiến lược trước). Người

lao động cam kết làm việc lâu dài cho doanh nghiệp trong thời hạn ít nhất 3 năm (kể

từ ngày doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu) sẽ

được mua thêm cổ phần ưu đãi theo quy định: Mua thêm theo mức 200 cổ phần/1

năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 2.000 cổ phần

cho một người lao động. Riêng người lao động là các chuyên gia giỏi, có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cao làm việc tại doanh nghiệp được mua thêm theo mức 500

cổ phần/1 năm cam kết làm việc tiếp trong doanh nghiệp nhưng tối đa không quá

5.000 cổ phần cho một người lao động [10, 83]. Các quy định ưu đã cho người lao

động vẫn tập trung tính theo số năm làm việc tại doanh nghiệp nhà nước. Điều này là

không phù hợp với trình độ, chuyên môn, năng lực của người lao động.

Nghị định 116/2015/NĐ- CP đã bổ sung chính sách ưu đãi cho người lao động

trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Theo đó, những doanh nghiệp thực hiện cổ phần

hóa đã tiến hành các thủ tục cần thiết theo phương án cổ phần hóa đã được cấp có

thẩm quyền phê duyệt nhưng chưa thực hiện được IPO trong thời gian 90 ngày kể từ

ngày có quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa thì doanh nghiệp được bán

trước cổ phần cho người lao động, tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp với giá bán

cổ phiếu bằng 60% giá khởi điểm trong phương án cổ phần hóa đã được cấp có thẩm

quyền phê duyệt. Người lao động còn được hưởng các ưu đãi khác đối với giá mua

cổ phần ưu đãi, được hưởng các quyền lợi về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các

chế độ khác. Điều 48 của nghị định cũng có hướng giải quyết cụ thể đối với các cổ

phần mà người lao động mua của doanh nghiệp khi doanh nghiệp thực hiện tái cơ cấu

38

dẫn đến chấm dứt hợp đồng lao động, thôi việc, mất việc, trường hợp người lao động

chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn. Chênh lệch giữa giá bán cho người lao

động, cho tổ chức công đoàn (nếu có) so với mệnh giá cổ phần được trừ vào giá trị

phần vốn nhà nước khi quyết toán tại thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển

thành công ty cổ phần. Những quy định mới về ưu đãi dành cho người lao động đã

tạo điều kiện cho người lao động được thực sự thực hiện quyền làm chủ của mình

trong doanh nghiệp, góp phần phát huy vai trò, hiệu quả trong lao động sản xuất.

Đối tượng thứ 2 được mua cổ phần là nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước

ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần

của doanh nghiệp cổ phần hóa phải mở tài khoản tiền gửi tại một tổ chức cung ứng

dịch vụ thanh toán theo quy định của pháp luật Việt Nam về ngoại hối. Các quy định

cho người nước ngoài mua cổ phần đã có thay đổi tích cực. Các nghị định trước đó

luôn có những hạn chế về tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí,

trong giai đoạn đầu cổ phần hóa, nhà đầu tư nước ngoài không được mua cổ phần, họ

bị loại ra khỏi doanh sách đối tượng được nắm giữ cổ phần. Những quy định đó đã

hạn chế sự đầu tư của thành phần đầu tư nước ngoài trong khi đây là một nguồn lực

lớn có quy mô về vốn, tài chính và tiềm lực lớn hơn rất nhiều so với nguồn lực trong

nước. Sự mở rộng đối tượng mua cổ phần tại thời điểm hiện nay đã làm tăng tính hiệu

quả của cổ phần hóa, tạo động lực phát triển cổ phần hóa.

Đối tượng thứ 3 được mua cổ phần là nhà đầu tư chiến lược. Nhà đầu tư chiến

lược là nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có năng lực tài chính và có

cam kết bằng văn bản của người có thẩm quyền trong việc gắn bó lợi ích lâu dài với

doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp sau cổ phần hóa về chuyển giao công nghệ mới,

đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp, cung ứng

nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm. Việc lựa chọn nhà đầu tư

chiến lược phải được xây dựng thành phương án xác định tiêu chí của nhà đầu tư

chiến lược, phương thức bán và số lượng cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược để

cơ quan có thẩm quyền quyết định. Nhà đầu tư chiến lược tại mỗi doanh nghiệp cổ

phần hóa tối đa là 3. Tùy thuộc vào từng phương thức bán cổ phần mà giá bán cổ

phần cho nhà đầu tư chiến lược sẽ bị thay đổi. Nhà đầu tư chiến lược không được

chuyển nhượng số cổ phần mua trong thời hạn tối thiểu 5 năm kể từ ngày công ty cổ

39

phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Trường hợp đặc biệt phải

chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được Đại hội đồng cổ

đông chấp thuận. Đây là một quy định cần thiết đảm bảo sự ổn định trong cơ cấu vốn,

cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Nghị định 116/2015/NĐ-CP đã có quy định mới về cơ cấu vốn cổ phần lần

đầu. Cụ thể, Nghị định mới chỉ quy định chung về cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến

lược và nhà đầu tư khác, thay cho quy định cụ thể cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến

lược và nhà đầu tư khác không thấp hơn 25% vốn điều lệ (trừ trường hợp quy định),

số cổ phần bán cho các nhà đầu tư khác không thấp hơn 50% số cổ phần nêu trên.

Đây là một quy định tích cực, không còn sự hạn chế trong tỷ lệ nắm giữ cổ phần,

doanh nghiệp hoàn toàn tự do trong quá trình huy động vốn. Các nguồn lực vốn được

tự do phát huy vai trò của mình.

2.5. Xử lý tài chính khi cổ phần hóa

Đây là bước thực hiện trước khi xác định giá trị doanh nghiệp. Khi có quyết

định cổ phần hóa, doanh nghiệp tiến hành kiểm kê, phân loại tài sản, các nguồn vốn

và quỹ mà doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng. Doanh nghiệp tiến hành lập báo cáo

tài chính, phối hợp với cơ quan quản lý thuế và các cơ quan có thẩm quyền liên quan

để kiểm tra, quyết toán, xử lý các vấn đề tài chính tồn tại.

Nội dung này đã được quy đinh chi tiết tại chương 2 trong nghị định

59/2011/NĐ-CP về xử lý tài chính khi cổ phần hóa. Các tài sản được phân loại cụ thể

để xác định tài sản đó có được tính vào giá trị doanh nghiệp hay không để có các

hướng xử lý riêng cho từng loại. Cụ thể:

Tài sản cho thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết, tài sản không phải

của doanh nghiệp thì không tính vào giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tiến

hành kế thừa hoặc thanh lý các hợp đồng liên quan đến các tài sản đó. Đối với tài sản

không cần dùng, ứ đọng, chờ thành lý, doanh nghiệp tiến hành thanh lý, nhượng bán.

Những tài sản này không được tính vào giá trị doanh nghiệp và phải tiến hành chuyển

giao cho các cơ quan theo quy định. Tuy nhiên, cũng có những tài sản không được

loại trừ khỏi giá trị doanh nghiệp như nhà cửa, vật kiến trúc, ….

Các khoản nợ phải thu: Doanh nghiệp tiến hành đối chiếu, xác nhận các khoản

40

nợ phải thu, tiến hành thu hồi các khoản nợ đến hạn. Đối với các khoản nợ khó đòi,

tiến hành xử lý theo quy định. Những khoản nợ không có đủ hồ sơ pháp lý chứng

minh khách nợ còn nợ hoặc không có khả năng thu hồi theo quy định thì không được

loại trừ ra ngoài giá trị doanh nghiệp, doanh nghiệp phải làm rõ nguyên nhân để xử

lý theo nguyên tắc sau: Xác định trách nhiệm xử lý bồi thường của tập thể, cá nhân

có liên quan đến khoản nợ phải thu không xác định được khách nợ, phần tổn thất còn

lại được xử lý theo quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng. Hoàn

thiện hồ sơ, tiếp tục theo dõi để xử lý thu hồi đối với những khoản nợ không chứng

minh được là không có khả năng thu hồi.

Các khoản nợ phải trả: Theo điều 16, nghị định 59/2011/NĐ-CP, Doanh

nghiệp cũng tiến hành đối chiếu, xác nhận các khoản nợ phải trả, phải thanh toán các

khoản nợ đến hạn. Các khoản nợ phải được xử lý theo thỏa thuận hoặc chuyển thành

vốn góp cổ phần. Riêng đối với nợ thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước, doanh

nghiệp phải thanh toán trước khi cổ phần hóa hoặc doanh nghiệp sau cổ phần hóa

phải kể thừa.

Các khoản dự phòng, lỗ, lãi được xử lý theo điều 17 nghị định 59/2011/NĐ-

CP. Nghị định 116/2015/NĐ-CP đã có những điều chỉnh trong nội dung này. Các

khoản dự phòng được dùng để bù đắp các tổn thất, số còn lại tính vào giá trị phần vốn

nhà nước. Quỹ dự phòng rủi ro ngân hàng, bảo hiểm được để lại doanh nghiệp và tính

vào giá trị phần vốn nhà nước. Quỹ dự phòng tài chính để bù lỗ, bù đắp thổn thất, số

còn lại tính vào giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Các khoản lãi để bù lỗ,

bù đắp tổn thất, số còn lại được phân phối theo quy định.

Vốn đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp như vốn góp liên doanh, liên kết,

góp vốn cổ phần, góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hay các hình thức

đầu tư dài hạn khác. Các khoản đầu tư dài hạn của doanh nghiệp tại doanh nghiệp

khác, doanh nghiệp có thể kế thừa, chuyển giao cho doanh nghiệp khác hoặc bán phần

vốn góp đó trước khi xác định giá trị doanh nghiệp.

Quỹ phúc lợi, Quỹ khen thưởng. Số dư trong các quỹ này sau khi bù đắp các

khoản chi vượt quá chế độ cho người lao động thì được chia cho người lao động đang

41

làm việc tại doanh nghiệp.

Số dư quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp được hạch toán tăng vốn nhà nước tại

doanh nghiệp.

Tại thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ phần, doanh

nghiệp tiếp tục thực hiện điều chỉnh số liệu trong sổ kế toán, xử lý các khoản nợ, tài

sản không tính vào giá trị doanh nghiệp, tiếp tục xử lý các tồn tại tài chính, định giá

lại các khoản đầu tư chứng khoán. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được cấp giấy

chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp hoàn thành lập báo cáo tài chính,

kiểm toán báo cáo tài chính, đề nghị cơ quan thuế kiểm tra, quyết toán thuế,… Thời

hạn này, nghị định 116/2015/NĐ-CP đã kéo dài thêm 30 ngày thay vì chỉ có 30 ngày

như nghị định 59/2011/NĐ để đảm bảo tính thực hiện được trên thực tế. Nếu phát

sinh khoản chênh lệch tăng, giảm thì tiến hành xử lý theo điều 21 nghị định

59/2011/NĐ-CP.

2.6. Xác định giá trị doanh nghiệp

Xác định giá trị doanh nghiệp là vấn đề quan trọng bậc nhất khi tiến hành cổ

phần hóa. Trên thực tế, nó đã gặp phải nhiều vấn đề, vướng mắc. Các nghị định liên

tục thay đổi phần lớn đều nhằm hoàn thiện tối đa vấn đề này.

Bước đầu, doanh nghiệp xác định vấn đề liên quan đến tổ chức tư vấn định giá

xác định giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thuê hoặc tự mình thực hiện.

Doanh nghiệp tự xác định giá trị doanh nghiệp phải báo cáo với cơ quan có thẩm

quyền quyết định giá trị doanh nghiệp.

Những trường hợp bắt buộc phải thuê tổ chức tư vấn định giá xác định giá trị

doanh nghiệp là doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở

lên hoặc giá trị vốn nhà nước theo sổ kế toán từ 10 tỷ đồng trở lên theo quy định tại

khoản 1 điều 22 nghị định 59/2011/NĐ-CP.

Khi có trên 2 tổ chức tư vấn định giá thì lựa chọn theo phương thức đấu thầu.

Quy định này theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp là nguyên nhân làm chậm quá

trình cổ phần hóa của doanh nghiệp. Phần lớn các hợp đồng tư vấn xác định giá trị

doanh nghiệp có giá trị không lớn, nhưng phải tổ chức đấu thầu đang làm hạn chế quá

trình cổ phần hóa của doanh nghiệp. Đến nay, đối tượng thực hiện cổ phần hoá chủ

42

yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, trong đó có các công ty mẹ, các tập đoàn kinh

tế, tổng công ty Nhà nước, nên để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp

này trong thời gian tới, Chính phủ đã quyết định điều chỉnh quy định về lựa chọn tổ

chức tư vấn định giá tại nghị định 116/2015/NĐ-CP. Theo đó, đối với các gói thầu tư

vấn định giá có giá trị không quá 3 tỷ đồng, thì cơ quan có thẩm quyền quyết định

phương án cổ phần hóa có thể lựa chọn hình thức chỉ định thầu để lựa chọn tổ chức

tư vấn định giá trong danh sách do Bộ Tài chính công bố; trường hợp xét thấy cần

phải tổ chức đấu thầu, thì thực hiện đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu thầu.

Đối với các gói thầu tư vấn không thuộc quy định này, cơ quan có thẩm quyền quyết

định phương án cổ phần hóa quyết định tổ chức đấu thầu lựa chọn đơn vị thực hiện

tư vấn định giá theo quy định. Đây là một nguyên tắc quan trọng để lựa chọn tổ chức

tư vấn định giá. Nội dung sửa đổi này đã tạo điều kiện để việc lựa chọn đơn vị tư vấn

được thuận lợi hơn, tránh kéo dài thời gian cổ phần hóa.

Tổ chức có chức năng định giá có thể là công ty kiểm toán, công ty chứng

khoán, doanh nghiệp thẩm định giá trong nước và nước ngoài. Vấn đề xác định quyền,

nghĩa vụ và điều kiện của tổ chức tư vấn định giá được quy định chi tiết tại điều 22

nghị đinh 59/2011/NĐ-CP. Cơ quan có thẩm quyền quyết định phương án cổ phần

hóa lựa chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa theo quy định của pháp luật. Đối với các

Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước và một số doanh nghiệp hoạt động trong

lĩnh vực đặc biệt (như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, hàng không, khai thác than,

dầu khí, khai thác mỏ quý hiếm khác), khi thực hiện cổ phần hóa mà phương án cổ

phần hóa thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ thì Bộ trưởng các

Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân

dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lựa chọn tổ chức tư vấn cổ phần hóa

(lựa chọn tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, lựa chọn tư vấn xây dựng

phương án cổ phần hóa).

Căn cứ Hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp do tổ chức tư vấn định giá xây

dựng (hoặc do doanh nghiệp cổ phần hóa tự xây dựng), Ban Chỉ đạo cổ phần hóa

doanh nghiệp có trách nhiệm thẩm tra về trình tự, thủ tục, tuân thủ các quy định của

pháp luật về xác định giá trị doanh nghiệp, trình cơ quan có thẩm quyền quyết định

43

giá trị doanh nghiệp quyết định. Cơ quan này có trách nhiệm xem xét, quyết định

đồng thời gửi hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp cho tổ chức kiểm toán trong trường

hợp bắt buộc.

Kiểm toán là một khâu quan trọng khi tiến hành xem xét kết quả xác định giá

trị doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có quy mô lớn vốn nhà nước trên 500 tỷ đồng,

hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề đặc thù như bảo hiểm, ngân hàng, bưu chính

viễn thông, hàng không, khai thác than, dầu khí, khai thác mỏ quý hiếm khác; các

công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp khác

theo yêu cầu của Thủ tướng chính phủ. Khi nhận được kết quả xác định giá trị doanh

nghiệp, cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp phải gửi văn bản và

hồ sơ đề nghị cơ quan kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán kết quả tư vấn định

giá và xử lý các vấn đề tài chính trước khi chính thức công bố giá trị doanh nghiệp

cổ phần hóa. Đó là quy định tại nghị định 59/2011/NĐ-CP. Thực tế, số lượng doanh

nghiệp có vốn Nhà nước trên 500 tỷ đồng khá nhiều, nên trường hợp các doanh nghiệp

này cùng thực hiện cổ phần hóa, thì việc kiểm toán sẽ không đảm bảo theo đúng thời

hạn quy định, dẫn tới kéo dài thời gian. Để tháo gỡ vấn đề này, Nghị định

189/2013/NĐ-CP đã điều chỉnh quy định theo hướng, Kiểm toán Nhà nước thực hiện

kiểm toán các đối tượng: công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế nhà nước; công ty mẹ

thuộc tổng công ty nhà nước và các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khác

khi có yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ…

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, xem xét và kết quả kiểm toán (nếu có), cơ quan

có thẩm quyền công bố giá trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp cổ phần hóa cũng được

điều chỉnh giá trị doanh nghiệp đã công bố khi có những nguyên nhân khách quan

làm ảnh hưởng đến giá trị những tài sản của doanh nghiệp hoặc sau 18 tháng kể từ

thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp mà doanh nghiệp chưa thực hiện việc bán cổ

phần theo nghị định 189/2013/NĐ-CP thay vì 12 tháng theo nghị định 59/2011/NĐ-

CP, ngoại trừ các trường hợp đặc thù theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ do

các doanh nghiệp cổ phần hóa giai đoạn này có quy mô lớn và phải xử lý các vấn đề

tài chính, đất đai nên việc đảm bảo thời gian 12 tháng là khó thực hiện.

Kết quả công bố giá trị doanh nghiệp là cơ sở để xác định quy mô vốn điều lệ,

44

cơ cấu cổ phần phát hành lần đầu và giá khởi điểm để thực hiện đấu giá bán cổ phần.

Xác định giá trị doanh nghiệp gồm 2 phương pháp chính là phương pháp tài

sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể lựa chọn các

phương pháp xác định khác.

Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản.

Trong phương pháp định giá này, việc xác định giá trị thực tế của doanh

nghiệp là yếu tố cơ bản. Giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hóa là giá trị toàn

bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa có tính tính đến khả

năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận

được [10, 79].

Giá trị thực tế vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hóa là giá trị thực tế của

doanh nghiệp sau khi trừ các khỏan nợ phải trả, số dư quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi

và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp.

Khoản 3 điều 28 nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định: Đối với các tổ chức tài

chính, tín dụng khi xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản được sử

dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài sản vốn bằng tiền, các khoản

công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá đối với tài sản cố định, các khoản

đầu tư dài hạn, chi phí dở dang liên quan đến chi phí đền bù, giải tỏa, san lấp mặt

bằng và giá trị quyền sử dụng đất theo chế độ Nhà nước quy định. Với quy định này,

doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hóa phải đối chiếu toàn bộ công nợ. Tuy nhiên,

việc đối chiếu toàn bộ công nợ là khó khăn. Trên thực tế, các doanh nghiệp hiện nay

chỉ đối chiếu được 60%- 70%, việc đối chiếu toàn bộ công nợ mất nhiều thời gian

nên làm chậm tiến độ cổ phần hóa của doanh nghiệp. Nghị định 189/2013/NĐ-CP đã

có quy định linh hoạt hơn. Theo đó, trong một số trường hợp như thời điểm cổ phần

hóa không trùng với thời điểm kiểm kê khóa sổ kế toán lập báo cáo tài chính, doanh

nghiệp quy mô lớn, đối tượng công nợ nhiều thì đến thời điểm xác định giá trị doanh

nghiệp mà vẫn còn một số khoản công nợ (phải thu, phải trả) có đầy đủ hồ sơ nhưng

chưa được đối chiếu, xác nhận theo quy định tại Nghị định này thì phải giải trình rõ

các khoản nợ, xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan. Đồng thời, phải

hoàn tất việc đối chiếu công nợ trước thời điểm doanh nghiệp cổ phần hóa được cấp

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu và báo cáo cơ quan có thẩm quyền

45

quyết định giá trị doanh nghiệp xem xét, quyết định theo giá trị đang theo dõi trên sổ

sách kế toán. Ngoài ra, phải công bố công khai trong quyết định phê duyệt giá trị

doanh nghiệp cũng như phương án cổ phần hóa làm cơ sở bán đấu giá cổ phần. Tại

thời điểm doanh nghiệp cổ phần hóa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

lần đầu, khi lập báo cáo tài chính để bàn giao từ doanh nghiệp 100% vốn nhà nước

sang công ty cổ phần, nếu các khoản công nợ này vẫn chưa được đối chiếu, xác nhận

thì xem xét, xử lý theo các hướng:

- Đối với nợ phải trả doanh nghiệp đã làm đủ thủ tục đối chiếu nợ nhưng không

xác nhận được chủ nợ thì được hạch toán ghi tăng vốn nhà nước tương ứng và công

ty cổ phần mới có trách nhiệm lưu trữ hồ sơ, tiếp tục kế thừa, theo dõi để thực hiện

nghĩa vụ trả nợ khi chủ nợ yêu cầu. Căn cứ hồ sơ tài liệu hợp pháp liên quan và yêu

cầu của chủ nợ, công ty cổ phần mới thực hiện trả nợ và hạch toán vào chi phí trong

kỳ;

- Đối với nợ phải thu doanh nghiệp đã làm thủ tục đối chiếu nhưng vẫn chưa

đối chiếu được thì phải xem xét, xử lý trách nhiệm bồi thường đối với tập thể, cá nhân

có liên quan. Giá trị khoản nợ còn lại (sau khi bù trừ khoản bồi thường của các cá

nhân, tập thể, quỹ dự phòng nợ phải thu khó đòi) được hạch toán vào chi phí sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa. Công ty cổ phần mới có trách nhiệm lưu

trữ hồ sơ, tiếp tục kế thừa, theo dõi để đôn đốc thực hiện thu nợ.

Để xác định giá trị thực tế, doanh nghiệp căn cứ vào số liệu theo sổ kế toán,

tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản, giá trị trường của tài sản,

giá trị quyền sử dụng đất được giao, giá trị tiền thuê đất, giá trị lợi thế kinh doanh của

doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.

Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa gồm giá trị thương

hiệu, tiềm năng phát triển. Đây là một điểm mới của nghị định 59/2011/NĐ-CP khi

loại bỏ giá trị lợi thế về vị trí địa lý ra khỏi giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong thời gian trước đây, việc xác định giá trị lợi thế về vị trí địa lý đã gây ra nhiều

bất cập và vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa.

Điều 33 nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định về việc xác định giá trị vốn đầu

tư dài hạn. Theo đó, giá trị vốn đầu tư dài hạn được xác định trên cơ sở tỷ lệ vốn đầu

46

tư của doanh nghiệp trên vốn điều lệ hoặc tổng vốn thực góp, giá trị vốn chủ sở hữu

tại các doanh nghiệp khác theo báo cáo tài chính. Đặc biệt, nếu giá trị vốn đầu tư dài

hạn của doanh nghiệp thấp hơn giá trị ghi trên sổ kế toán thì xác định theo giá trị ghi

trên sổ kế toán. Nghị định 116/2015/NĐ-CP đã có quy định mới về vấn đề này. Nếu

giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp tại doanh nghiệp khác thấp hơn giá trị ghi

trên sổ kế toán, thay vì tính theo giá ghi trên sổ sách như trước, hiện nay, giá trị ấy

được xác định theo giá trị thực tế xác định lại. Với sự thay đổi này, việc xác định theo

giá trị thực tế sẽ thuận lợi và hiệu quả hơn.

Giá trị vốn góp của doanh nghiệp cổ phần hóa vào công ty cổ phần đã niêm

yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán được xác định theo giá đóng cửa

của cổ phiếu giao dịch trên thị trường chứng khoán tại thời điểm gần nhất với thời

điểm thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp. Trường hợp cổ phiếu của công ty cổ

phần đã niêm yết trên thị trường Upcom mà không có giao dịch trong vòng 30 ngày

trước thời điểm tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp thì được xác định theo quy định

tại điểm a, điểm b, điểm c khoản 1, Điều 33 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP và khoản

5, Điều 1 Nghị định này. Đối với giá trị vốn góp vào công ty cổ phần chưa niêm yết,

chưa đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán thì căn cứ kết quả xác định của

cơ quan tư vấn, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp xem xét trình cơ quan có

thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp quyết định.

Xác định giá đất là một vấn đề lớn và gặp phải rất nhiều vấn đề.

Trên thực tế, chính sách xác định giá đất nói chung và xác định giá đất để tính

vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa nói riêng đã nhiều lần thay đổi. Năm 2004,

theo điều 63, Nghị định 181/2004/NĐ-CP về thi hành luật đất đai không cho phép

doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa lựa chọn hình thức nhà nước giao đất hay cho

thuê đất, trước đây là hình thức nào thì theo đó mà xử lý, nhưng giá trị đất phải tính

theo giá đất phù hợp giá thị trường.

Chỉ 18 ngày sau, Nghị định 187/2004/NĐ-CP lại quy định doanh nghiệp thực

hiện cổ phần hóa được lựa chọn hình thức được nhà nước giao đất hay cho thuê đất,

khi lựa chọn hình thức thuê đất của nhà nước thì không tính giá trị quyền sử dụng đất

vào tài sản doanh nghiệp. Khi lựa chọn hình thức được nhà nước giao đất thì phải

47

tính giá trị đất vào tài sản doanh nghiệp và giá trị đất được tính theo bảng giá đất của

nhà nước (Điều 19). Đây là, một cách tiếp cận khác hẳn so với Nghị định

181/2004/NĐ-CP.

Sau đó, năm 2006, Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 sửa đổi lại cả

hai nghị định trên theo một phương án dung hòa: điều 6 quy định doanh nghiệp cổ

phần hóa được lựa chọn hình thức sử dụng đất nhưng “giá trị đất phải phù hợp thị

trường”…

Xác định theo bảng giá thì tạo lợi ích cho doanh nghiệp, tạo đà cho doanh

nghiệp sau cổ phần hóa có vốn mà phát triển. Nhưng cách nhìn khác là cổ phần hóa

phải sòng phẳng, đưa giá trị đất về đúng giá trị thật trên thị trường để tránh tiêu cực

từ chuyện lợi dụng sự chênh lệch giá đất, làm lệch lạc mục tiêu phát triển doanh

nghiệp. Tính sát giá thị trường thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sau khi cổ phần hóa

phải do chính hoạt động sản xuất kinh doanh tự tạo ra chứ không thể trông cậy vào

đất.

Hiện nay, Luật Đất đai 2013 đã quy định rõ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước là một trong những trường hợp phải quyết định giá đất cụ thể theo giá thị trường.

Luật này cũng đã đưa ra quy trình chung tiến bộ hơn cho việc quyết định giá.

Nghị định 189/2013/NĐ-CP đã khắc phục bất cập trong công tác quản lý, sử

dụng đất đai tại các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua, góp phần đẩy nhanh

tiến độ và nâng cao chất lượng của công tác cổ phần hóa. Nghị định 189/2013/NĐ-

CP quy định: Đối với diện tích đất doanh nghiệp cổ phần hóa đã được giao đất và nộp

tiền sử dụng đất cho ngân sách nhà nước hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng

đất hợp pháp để sử dụng vào mục đích xây dựng nhà để bán, xây dựng kết cấu hạ

tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê thì phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất

tính vào giá trị doanh nghiệp...

Đối với diện tích đất sử dụng cho các công trình công cộng có hành lang bảo

vệ an toàn theo quy định của pháp luật về đất đai cũng được xem xét, loại trừ theo

quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

Đối với diện tích đất đã giao cho doanh nghiệp và doanh nghiệp đã sử dụng

để góp vốn thành lập pháp nhân mới thì cơ quan có thẩm quyền quyết định phê duyệt

48

phương án cổ phần hóa xem xét xử lý theo nguyên tắc: Chuyển giao cho doanh nghiệp

100% vốn nhà nước khác làm đối tác nếu được các đối tác góp vốn trong pháp nhân

mới chấp thuận và doanh nghiệp tiếp tục kế thừa tính vào giá trị doanh nghiệp cổ

phần hóa theo nguyên tắc quy định tại Điều 33 Nghị định này. Đối với diện tích đất

còn lại (sau khi loại trừ diện tích đất quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 và khoản

5 Điều này) doanh nghiệp cổ phần hóa thực hiện hình thức thuê đất có thời hạn theo

quy định của pháp luật về đất đai và không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa

lý khi xác định giá trị doanh nghiệp. Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất

vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là giá đất sát với giá chuyển nhượng quyền sử

dụng đất có mục đích sử dụng tương tự thực tế trên thị trường do ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác định. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện

chuyển mục đích sử dụng đất đã được giao thì phải nộp thêm khoản tiền chênh lệch

giá trị quyền sử dụng đất theo mục đích chuyển đổi.

Quy định này nhằm khắc phục bất cập trong việc xác định giá trị quyền sử

dụng đất trong thời gian qua để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa. Theo phương án

này, đối với các diện tích đất doanh nghiệp đã được giao, nay chuyển sang cho thuê

thì giá trị quyền sử dụng đất giao còn lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp

được xác định là số tiền doanh nghiệp đã trả trước tiền thuê đất cho một khoảng thời

gian nhất định theo mặt bằng giá thuê đất khi doanh nghiệp hoàn tất thủ tục thuê đất

với cơ quan quản lý tại địa phương, không ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước và lợi

ích kinh tế của doanh nghiệp. Đối với diện tích đất doanh nghiệp thực hiện thuê đất

thì thực hiện trả tiền thuê đất hàng năm theo cơ chế đã được quy định tại Nghị định

số 121/2010/NĐ-CP và không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa lý vì giá thuê

đất đã sát giá thị trường.

Đặc biệt, Nghị định 189/2013/NĐ-CP cũng quy định rõ: Đối với các doanh

nghiệp đã hoàn thành cổ phần hóa hoặc đang thực hiện cổ phần hóa trước ngày Nghị

định 189/2013/ NĐ-CP có hiệu lực thi hành thì tiếp tục thực hiện giao đất, thuê đất

và tính giá trị quyền sử dụng đất theo phương án đã được phê duyệt, không thực hiện

điều chỉnh. Đối với các doanh nghiệp đã xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý đất thuê

vào giá trị doanh nghiệp và hạch toán tăng phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp khi

xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa được cấp có thẩm quyền công bố giá trị

49

doanh nghiệp theo quy định trước ngày Nghị định 59/2011/NĐ-CP có hiệu lực thì

được khấu trừ giá trị lợi thế vị trí địa lý vào tiền thuê đất phải nộp của doanh nghiệp

cổ phần hóa. Đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa theo Nghị định 109/2007/ NĐ-

CP mà chưa tính giá trị lợi thế vị trí địa lý thì được áp dụng Nghị định số 59/2011/NĐ-

CP không phải tính bổ sung giá trị lợi thế vị trí địa lý và điều chỉnh vốn Nhà nước tại

doanh nghiệp.

Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp dòng tiền chiết khấu.

Theo điều 34, nghị định 59/2011/NĐ-CP, giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại

doanh nghiệp xác định dựa vào khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai

và việc đầu tư vốn vào doanh nghiệp khác.

Phương pháp này thường áp dụng với các doanh nghiệp có ngành nghề kinh

doanh chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây

dựng,..., có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 5 năm liền kề

trước cổ phần hóa cao hơn lãi suất trả trước của trái phiếu chính phủ kỳ hạn từ 10

năm trở lên tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.

Căn cứ xác định giá trị doanh nghiêp là: Báo cáo tài chính của doanh nghiệp

trong 5 năm liền kề trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, phương án hoạt

động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong 3 đến 5 năm sau khi cổ phần hóa,

lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 5 năm ở thời điểm gần nhất.

2.7. Bán cổ phần lần đầu

Sau khi hoàn tất xác định giá trị doanh nghiệp và có kết quả công bố giá trị

doanh nghiệp, doanh nghiệp tiến hành bán cổ phần lần đầu. Cơ quan có thẩm quyền

quyết định quy mô, cơ cấu vốn điều lệ của doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Trường hợp giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp lớn hơn mức

vốn điều lệ cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp không thuộc

diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối thì cơ quan có thẩm quyền quyết định phê

duyệt phương án cổ phần hóa xác định điều chỉnh vốn điều lệ theo nhu cầu thực tế.

Trường hợp phát hành thêm cổ phiếu, vốn điều lệ được xác định bằng giá trị

thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và giá trị cổ phần phát hành thêm tính

50

theo mệnh giá cổ phiếu.

Trên cơ sở vốn điều lệ đã được xác định, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định

cơ cấu vốn cổ phần lần đầu. Cụ thể về cổ phần nhà nước nắm giữ, cổ phần bán cho

nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác, cổ phần bán ưu đãi cho tổ chức công đoàn,

cho người lao động. Các doanh nghiệp quy mô lớn có vốn nhà nước trên 500 tỷ đồng

hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề đặc thù (Bảo hiểm, ngân

hàng, bưu chính viễn thông, hàng không, khai thác than, dầu khí, khai thác mỏ quý

hiếm khác) và các công ty mẹ thuộc các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước thì

tỷ lệ cổ phần đấu giá bán cho các nhà đầu tư do Thủ tướng Chính phủ hoặc cơ quan

được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền xem xét, quyết định cụ thể.

Bán cổ phần lần đầu được thực hiện với nhiều phương thức như:

- Phương thức đấu giá công khai khi không có sự phân biệt nhà đầu tư tổ chức,

nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư trong nước và nước ngoài;

- Phương thức bảo lãnh phát hành với sự cam kết đảm bảo của tổ chức có chức

năng bảo lãnh về việc thực hiện phân phối hết số lượng cổ phần bán ra ngoài. Nếu

không bán hết, tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm mua hết số cổ phần còn lại theo giá

bảo lãnh đã cam kết.

- Phương thức thỏa thuận trực tiếp theo kết quả thương thảo giữa ban chỉ đại

cổ phần hóa hoặc tổ chức được ban chỉ đạo cổ phần hóa ủy quyền với từng nhà đầu

tư. Giá bán ở đây là giá bán thương thảo trực tiếp không thấp hơn giá khởi điểm hoặc

giá đầu thầu thành công thấp nhất.

Đối với số lượng cổ phần không bán hết, ban chỉ đại cổ phần hóa tiến hành

tiếp tục chào bán công khai hoặc điều chỉnh cơ cấu vốn điều lệ của doanh nghiệp theo

quy định tại điều 59/2011/NĐ-CP.

Việc bán cổ phần phải hoàn thành trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày quyết định

phê duyệt phương án cổ phần hóa. Số tiền thu được từ cổ phần hóa được sử dụng để

thanh toán chi phí cổ phần hóa, chi phí giải quyết chính sách đối với lao động dôi dư,

số còn lại để lại cho công ty cổ phần theo tỷ lệ tương ứng theo điều 42, nghị định

59/2011/NĐ-CP.

Kể từ ngày hoàn thành bán cổ phần, doanh nghiệp tiến hành đại hội đồng cổ

51

đông, thông qua điều lệ công ty, đăng ký doanh nghiệp lần đầu. Đối với doanh nghiệp

nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần, cơ quan được phân công thực hiện quyền sở hữu vốn

nhà nước tại doanh nghiệp cử người làm đại diện phần vốn tại doanh nghiệp.

2.8. Chính sách đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa

Theo điều 47, nghị định 59/2011/NĐ-CP, Doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần

hóa được hưởng các ưu đãi nhất định như:

- Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền

quản lý và sử dụng của doanh nghiệp cổ phần hóa thành sở hữu của công ty cổ phần.

- Được miễn lệ phí cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi chuyển từ

doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần

- Được ưu tiên kế thừa các quyền và lợi ích hợp pháp về sử dụng đất theo quy

định của pháp luật về đất đai.

- Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật như các công trình

văn hóa, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng, nhà trẻ để đảm bảo phúc lợi cho người

52

lao động trong công ty cổ phần.

Chương 3

THỰC TRẠNG THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam qua các giai đoạn

Năm 1986, Việt Nam bước vào giai đoạn đổi mới. Trước năm 1990, doanh

nghiệp bước đầu được chủ động trong tổ chức sản xuất, kinh doanh, thoát dần khỏi

chế độ tập trung bao cấp với các quyết định số 217/1988/QĐ-HĐBT ngày 14/11/1987,

Quyết định số 50/1988/QĐ-HĐBT ngày 22/3/1988 và sau đó là Quyết định

195/HĐBT ngày 2/12/1988 bổ sung quyết định số 217/HĐBT. Tuy nhiên, trên thực

tế, quyền tự chủ của doanh nghiệp quốc doanh vẫn bị hạn chế, cơ chế bao cấp xin cho

vẫn chi phối các hoạt động của doanh nghiệp quốc doanh. Đến cuối năm 1989, cả

nước có khoảng trên 12.000 doanh nghiệp quốc doanh với quy mô chủ yếu là vừa,

nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, hiệu quả hoạt động thấp.

3.1.1. Giai đoạn 1990- 2001

Chính sách cổ phần hóa chính thức bắt đầu tư năm 1990. Giai đoạn này, nước

ta đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước theo hai hướng: Một là giao khoán, bán,

cho thuê, cho phá sản; hai là cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn không

hiệu quả, doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn và xây dựng, củng

cố các doanh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả, tạo sự bình đẳng giữa các thành phần

kinh tế. Quyết định số 143/1990/HĐBT ngày 10/3/1990 về việc thí điểm cổ phần hóa

một vài doanh nghiệp quốc quanh, Quyết định số 315/HĐBT ngày 1/9/1990, Nghị

định số 388/HĐBT ngày 10/11/1991 về quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp

quốc doanh, Quyết định số 90/1994/QĐ-TTg ngày 7/3/1994 và Quyết định số

91/1994/QĐ-TTg ngày 7/3/1994-TTg về việc thí điểm thành lập các tập đoàn kinh

doanh, Nghị định số 28/1996/NĐ-CP này 7/5/1996 và Nghị định số 44/1998/NĐ-CP

ngày 29/6/1998 về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần đã thể hiện quyết

tâm đẩy mạnh đánh giá, tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.

Ngày 10/5/1990, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định số 143/HĐBT lựa

chọn một số doanh nghiệp nhỏ và vừa để thử nghiệm chuyển đổi thành mô hình công

53

ty cổ phần. Quyết đinhh 143/HĐBT xác định rõ doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa

là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp lớn và quan trọng thì chưa áp dụng cổ

phần hóa. Quyết định hướng dẫn trình tự, cách thức tiến hành cổ phần hóa, hướng

dẫn cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động của bộ máy công ty cổ phần. Có thể nói

quyết định 143/HĐBT đã xác định được mục tiêu, đối tượng, hình thức, trình tự tiến

hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Những doanh nghiệp được chọn cổ phần

hóa là những doanh nghiệp kinh doanh có lãi, tự nguyện đăng ký chuyển sang công

ty cổ phần theo Quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 và Chỉ thị số 84 ngày 4/8/1993.

Kết quả trong 2 năm 1990- 1991, có 2 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Đến đầu năm

1996 có 5 doanh nghiệp gồm 3 doanh nghiệp trung ương và 2 doanh nghiệp địa

phương cổ phần hóa. Đó là:

1. Công ty Đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Công ty phát triển hàng hải thuộc

Bộ Giao thông, cổ phần hóa xong vào tháng 7/1993

2. Công ty cơ điện lạnh thuộc Sở Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, cổ

phần hóa xong vào tháng 10/1993

3. Nhà máy giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ- 10/1994

4. Xí nghiệp thức ăn chăn nuôi thuộc Bộ Công nghiệp- 7/1995

5. Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long An thuộc tỉnh Long An- 7/1995

Đánh giá chung về giai đoạn này cho thấy: “Các văn pháp luật được ban hành

nhìn chung chưa hoàn chỉnh: trình tự, thủ tục tiến hành cổ phần hóa quy định chưa

cụ thể, pháp luật không dự liệu hết tình hình có thể xảy ra, bị ràng buộc bởi cơ chế

xin cho. Khi tiến hành, doanh nghiệp gặp nhiều lúng túng, mất nhiều thời gian xin ý

kiến chỉ đạo, hiệu quả không cao, người lao động chưa được tạo điều kiện mua cổ

phần, hướng dẫn hoạt động doanh nghiệp sau cổ phần hóa không rõ ràng. Chính sách

cổ phần hóa không được phổ biến rộng rãi nên việc hiểu rõ mục tiêu, lợi ích của cổ

phần hóa bị hạn chế nên hiệu quả cổ phần hóa không cao” [17, 84].

Năm 1996, Chính phủ quyết định tiến hành thử cổ phần hóa ở quy mô rộng

với Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996. Nghị định 28/CP chỉ rõ: Tất cả doanh nghiệp

nhà nước nằm trong diện nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư đều

được phép cổ phần hóa để chuyển thành công ty cổ phần. Doanh nghiệp nhà nước

54

được chọn cổ phần hóa phải là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, có phương án kinh

doanh có hiệu quả. Với Nghị định 28/CP lần đầu tiên có quy định một cách có hệ

thống từ mục đích, yêu cầu, đối tượng đến phương thức tiến hành, chế độ ưu đãi đối

với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Tốc độ cổ phần

hóa diễn ra nhanh hơn. Trong 2 năm 1996- 1997, có 25 doanh nghiệp nhà nước được

chuyển thành công ty cổ phần. Diện doanh nghiệp cổ phần hóa đã mở rộng ra 3 bộ và

9 tỉnh, quy mô doanh nghiệp cổ phần hóa lớn hơn.

Số lượng doanh nghiêp nhà nước đã giảm mạnh, từ 12.000 đơn vị năm 1990

xuống còn 7.000 đơn vị năm 1995. Trong giai đoạn này đã có 548 doanh nghiệp nhà

nước được cổ phần hóa. Tuy nhiên, tỷ trọng GDP của doanh nghiệp nhà nước đã tăng

từ 32,5% năm 1990 lên 42,2% năm 1995 thể hiện sự lấn át của doanh nghiệp nhà

nước đối với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế.

Tiến độ cổ phần hóa chậm, do trước khi có luật doanh nghiệp, cổ phần hóa diễn ra

còn dè dặt, lạ lẫm. Cổ phần hóa giai đoạn này cũng không tránh khỏi những hạn chế

nhất định. Đối tượng doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa chỉ là doanh

nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng vốn khá nhỏ trong tổng vốn nhà nước đầu tư vào

các doanh nghiệp. Đối tượng được mua cổ phần cũng bị giới hạn là tổ chức, cá nhân

trong nước mà không mở rộng ra nhà đầu tư nước ngoài. Thủ tục tiến hành cổ phần

hóa còn rườm rà, mất nhiều thời gian. Việc xác định giá trị doanh nghiệp cứng nhắc

với sự tham gia bắt buộc của cơ quan kiểm toán gây tốn kém. Ưu đãi dành cho người

lao động còn hạn chế.

Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, ngày 29/06/1998, Chính phủ ban hành nghị

định số 44/1998/NĐ-CP về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Nghị định này đã

khắc phục những tồn tại của các giai đoạn trước, thay đổi cơ bản chính sách cổ phần

hóa. Giai đoạn 1998- 2001 tăng tốc với 548 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần

hóa.

3.1.2. Giai đoạn 2002- 2010

Đây là giai đoạn Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức lại và cổ phần

hóa doanh nghiệp nhà nước. Trong giai đoạn này, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị

định như Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002, Nghị định 187/2004/NĐ-CP

ngày 16/11/2004, nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 về việc chuyển

55

doanh nghiệp nhà nước 100% vốn chủ sở hữu thành công ty cổ phần đã mở ra giai

đoạn mới của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước so với giai đoạn trước chỉ làm thí

điểm. Nghị quyết trung ương 3 khóa IX năm 2001 coi việc đẩy mạnh cổ phần hóa

những doanh nghiệp không cần nắm giữ 100% vốn nhà nước là khâu quan trọng để

tạo bước chuyển cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước. Giai đoạn này đã cổ phần hóa 3.944 doanh nghiệp nhà nước, tăng gấp 6 lần so

với giai đoạn 1990- 2000. Tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong GDP đã giảm

mạnh. Năm 2010, kinh tế nhà nước chỉ còn chiếm 33,74% GDP.

Giai đoạn 2001- 2007 cổ phần hóa được 3.273 doanh nghiệp, năm 2002, số

lượng doanh nghiệp cổ phần hóa giảm nhẹ là 164 doanh nghiệp. Đặc biệt giai đoạn

2003- 2006 cổ phần hóa được 2.649 doanh nghiệp (trong đó năm 2003 là 621 doanh

nghiệp, năm 2004 là 856 doanh nghiệp, năm 2005 là 813 doanh nghiệp và năm 2006

là 359 doanh nghiệp) được coi là thời kỳ bùng nổ cổ phần hóa với mức bình quân 1

năm rất cao phản ánh xu hướng kinh tế thị trường tương đối rõ nét sau khi có luật

doanh nghiệp năm 2000 và chuẩn bị cho mở cửa, hội nhập sâu rộng khi Việt Nam gia

nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Kết quả đạt được là nhờ vào các động

lực cổ phần hóa từ chủ trương của Nghị quyết đại hội Đảng VIII, IX, Nghị quyết hội

nghị trung ương 3 khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu

quả của doanh nghiệp nhà nước ban hành cuối năm 2001. Đặc biệt, các cơ chế chính

sách trong các nghị định ban hành giai đoạn này thiên về khuyến khích, động viên

doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa như xác định giá trị doanh nghiệp, xác định giá

trị đất đai, vị trí địa lý, uy tín, thương hiệu,... gắn với giá trị doanh nghiệp được đơn

giản hóa, dựa chủ yếu vào giá trị sổ sách, chưa gắn với thị trường đã tạo động lực

mạnh thúc đẩy mạnh mẽ cổ phần hóa ở những năm đầu giai đoạn này.

Nhìn chung, nhiều doanh nghiệp đã kinh doanh có hiệu quả sau khi cổ phần

hóa trên cả 3 phương diện tài chính, mức độ thỏa mãn của khách hàng và mức độ

thỏa mãn của người lao động. Tuy nhiên, thực tế cổ phần hóa vẫn còn nhiều vẫn đề

hạn chế. Đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp hậu cổ phần hóa hầu như rất ít thay đổi so

với thời điểm trước cổ phần hóa và do đó, không giúp tăng đáng kể chất lượng của

các quyết định tài chính, sản xuất kinh doanh và nhân sự. Xuất hiện tình trạng lựa

56

chọn ngược: các nhà đầu tư của khu vực tư nhân chỉ quan tâm đến các doanh nghiệp

hoặc bộ phận doanh nghiệp có tiềm năng phát triển hậu cổ phần hóa hoặc được định

giá quá thấp so với giá tị thực.

Từ năm 2008, tiến độ cổ phần hóa bị chậm lại. Từ năm 2008 đến năm 2011

chỉ có 117 doanh nghiệp được cổ phần hóa, chỉ tương đương với số doanh nghiệp

được cổ phần hóa trong năm 2007. Đến năm 2011, tổng số có 3.976 doanh nghiệp

nhà nước và bộ phận doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành cổ phần hóa, chuyển sang

hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, trong đó, doanh nghiệp địa phương chiếm

58%, doanh nghiệp thuộc các bộ, ngành chiếm 30%, các tập đoàn, tổng công ty chiếm

12%. Số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước còn lại đến năm 2011 là 1.309 doanh

nghiệp, trong đó, doanh nghiệp của địa phương chiếm 54%, doanh nghiệp thuộc các

bộ, ngành chiếm 27%, các tập đoàn, tổng công ty chiếm 19%.

3.1.3. Giai đoạn 2011 đến nay

Giai đoạn 2011 đến nay thực hiện cổ phần hóa nhằm thúc đẩy tái cơ cấu doanh

nghiệp nhà nước. Giai đoạn này, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 26

nghị định, 11 quyết định, chỉ thị có liên quan đến cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

Đây là giai đoạn triển khai thực hiện một trong ba nội dung quan trọng của nghị quyết

trung ương ba khóa XI là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.

Với quyết tâm đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế với 3 trụ cột là tái cơ cấu đầu

tư công, tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Thủ

tướng Chính phủ đã thông qua Quyết định 929/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án tái cơ cấu

doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai

đoạn 2011-2015 với 3 mục tiêu: tái cơ cấu về tổ chức, tái cơ cấu về tài chính, tái cơ

cấu về quản trị.

Quá trình cổ phần hóa giai đoạn này tập trung vào các tập đoàn kinh tế, các

tổng công ty. Vì vậy quá trình cổ phần hóa đối diện với nhiều vấn đề cả những vấn

đề chung của doanh nghiệp cổ phần hóa và cả những vấn đề riêng của loại hình doanh

nghiệp có quy mô lớn.

Các vấn đề chung về cổ phần hóa tiếp tục phải giải quyết như: tình trạng doanh

nghiệp sau cổ phần hóa vẫn chưa thoát ra khỏi phương thức hoạt động của doanh

57

nghiệp nhà nước cũ, chưa đột phá mạnh về tư duy, hành động trong quản trị, điều

hành, năng lực quản lý, khả năng cạnh tranh, tính công khai, minh bạch, khó tìm được

cổ đông chiến lược, cách lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, vai trò cổ đông nhà nước bị

quá lạm dụng,...

Các vấn đề đặc thù khi cổ phần hóa tập đoàn kinh tế và tổng công ty là:

- Tập đoàn kinh tế, tổng công ty là những doanh nghiệp có quy mô lớn, có tài

sản lớn, nhiều vốn nhà nước, nắm giữ các ngành, lĩnh vực kinh doanh quan trọng,

nhạy cảm, liên quan đến vị trí, vai trò của kinh tế nhà nước, an ninh, quốc phòng,

công ích. Tập đoàn kinh tế và tổng công ty có cấu trúc đa dạng, nhiều tầng nấc, gồm

nhiều doanh nghiệp thành viên, lợi ích không đồng nhất, thậm chí đối lập nhau. Tập

đoàn kinh tế và tổng công ty đều được coi là nòng cốt, xương sống của doanh nghiệp

nhà nước và kinh tế nhà nước.

- Cổ phần hóa tập đoàn kinh tế, tổng công ty có thể tiến hành theo 2 hình thức.

Một là cổ phần hóa toàn bộ tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Hai là chỉ cổ phần hóa các

doanh nghiệp thành viên để chuyển sang mô hình công ty mẹ- công ty con. Hiện nay,

hình thức thứ 2 được áp dụng phổ biến để cổ phần hóa tổng công ty. Trước hết, cổ

phần hóa các doanh nghiệp thành viên, sau đó mới cổ phần hóa công ty mẹ. Hình

thức này chỉ thay đổi ở bên dưới, các công ty con, cháu, công ty liên kết, chưa tiến

hành đối với doanh nghiệp phía trên là công ty mẹ. Vì vậy, nhiều tập đoàn kinh tế,

tổng công ty không có chuyển biến mạnh mẽ, sức ỳ vẫn lớn. Hình thức cổ phần hóa

này chỉ phù hợp với giai đoạn trước năm 2011 khi tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

chưa được tập trung. Giai đoạn hiện nay, hình thức cổ phần hóa thứ nhất được áp

dụng nhiều hơn với cả tổng công ty và tập đoàn kinh tế như Tập đoàn Tài chính Bảo

hiểm Bảo Việt và Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam.

- Nhà nước can thiệp quá sâu vào quyền của công ty mẹ khi cổ phần hóa các

doanh nghiệp thành viên sẽ làm khó cho công ty mẹ thực hiện các kế hoạch chiến

lược, sử dụng quyền của mình tại các công ty con, công ty liên kết.

Theo số liệu thống kê trong giai đoạn 2011- 2013, cả nước đã sắp xếp được

180 doanh nghiệp. Trong đó có 99 doanh nghiệp được cổ phần hóa trong đó năm

2011 được 12 doanh nghiệp, năm 2012 được 13 doanh nghiệp, riêng năm 2013 cổ

58

phần hóa 74 doanh nghiệp. Đây hầu hết là các doanh nghiệp có quy mô lớn, phạm vi

hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành, tài chính phức tạp. Quá trình cổ phần hóa giai

đoạn này diễn ra chậm. Trong 2 năm 2014- 2015 theo đề án tái cơ cấu doanh nghiệp

nhà nước phải thực hiện cổ phần hóa 432 doanh nghiệp trong đó đã có 348 doanh

nghiệp thành lập ban chỉ đạo cổ phần hóa, 274 doanh nghiệp đang xác định giá trị

doanh nghiệp, đã công bố 123 doanh nghiệp. Năm 2014, 143 doanh nghiệp đã hoàn

thành cổ phần hóa. Số doanh nghiệp cần hoàn thành cổ phần hóa trong năm 2015 là

289 doanh nghiệp. Việc phải tiến hành cổ phần hóa 289 doanh nghiệp nhà nước trong

năm 2015 đã làm nảy sinh nhiều thách thức: vừa phải hoàn thành tiến độ và kế hoạch

cổ phần hóa, vừa phải đảm bảo chất lượng cổ phần hóa, trong đó nhân tố quan trọng

ảnh hưởng đến chất lượng cổ phần hóa là tạo ra động lực mới nhờ đổi mới quản trị

doanh nghiệp và sự đột phá do có sự tham gia của nhân tố nhà đầu tư chiến lược. Quý

I/2015 đã hoàn thành cổ phần hóa 27 doanh nghiệp.

Vốn của doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được bảo toàn, năng lực tài chính

được đảm bảo. Vốn chủ sở hữu của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước năm

2013 là 959.796 tỷ đồng, tăng 4,1% so với năm 2012. Giá trị tổng tài sản của các tập

đoàn, tổng công ty nhà nước năm 2013 đạt 218.95 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2012.

Tỷ trọng đóng góp vào GDP của khối doanh nghiệp nhà nước đạt mức 32,4% năm

2013. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước tương

đối ổn định, doanh thu năm 2013 đạt 1.471.018 tỷ đồng, tạo việc làm cho khoảng trên

1,2 triệu lao động. Nhìn chung, tổng lợi nhuận của toàn khối doanh nghiệp nhà nước

có xu hướng tăng lên mặc dù số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm xuống, cơ cấu

tài sản và vốn chủ sở hữu tiếp tục tăng lên. Tuy nhiên, quy mô nợ của các tập đoàn,

tổng công ty nhà nước vẫn rất cao, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước diễn

ra chậm chạp, các vấn đề đối với quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai

đoạn 2000- 2010 vẫn chưa được giải quyết trong giai đoạn này.

Năm 2014- 2015 gắn với tiến trình cổ phần hóa tiềm năng của 3 công ty lớn là

công ty Dịch vụ Viễn thông di động Việt Nam (MobiFone), Tổng công ty Hàng hải

Việt Nam (Vinalines) và Tập đoàn Công nghiệp Than- khoáng sản Việt Nam

(Vinacomin).

Với giá trị sở hữu khoảng 3,4 tỷ USD, MobiFone hiện nắm giữ 21% thị phần

59

thị trường điện thoại di động của Việt Nam. MobiFone và Vinaphone là 2 công ty

con chiếm 19% thị phần của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT).

MobiFone cổ phần hóa cuối năm 2015. Sau cổ phần hóa, nhà nước chỉ còn nắm giữ

20% cổ phần. Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) hiện là công ty hàng hải

quốc doanh của Việt Nam. Vinalines đã gặp nhiều khó khăn tài chính sau sự kiện

tham nhũng và khoản nợ lên tới 4 tỷ USD do tình trạng quản lý tài chính yếu kém.

Để trả nợ, Vinalines đã bán cổ phần tại nhiều đơn vị của mình, bao gồm cảng biển.

Vinacomin đã hoàn thành thoái vốn trong lĩnh vực tài chính, cụ thể là thoái vốn tại

công ty bảo hiểm SHB, ngân hàng SHB, công ty Bảo hiểm Hàng không, công ty

chứng khoán SHB và công ty tài chính Vinacomin. Các đơn vị tiến hành cổ phần hóa

là Tổng công ty Khoáng sản- Vinacomin, Tổng công ty điện lực- than khoáng sản,

Tổng công ty Công nghiệp mỏ Việt Bắc- Vinacomin, Công ty trách nhiệm hữu hạn

một thành viên Cơ khí Đóng tàu- Vinacomin và công ty trách nhiệm hữu hạn một

thành viên Môi trường- Vinacomin.

Các bộ, ngành, địa phương đã có những báo cáo cụ thể về kết quả đạt được

trong quá trình cổ phần hóa giai đoạn này. Cụ thể

Bộ xây dựng

Tháng 10/2012, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1428/QĐ- TTg về việc

kết thúc thí điểm Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị, theo đó đã

chuyển 7 Tổng công ty là doanh nghiệp 100% vốn nhà nước và 2 Tổng công ty cổ

phần về trực thuộc Bộ Xây dựng. Do việc ổn định lại công tác tổ chức, hoạt động sản

xuất kinh doanh của các Tổng công ty nên tiến độ cổ phần hóa còn chậm so với kế

hoạch cổ phần hóa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tính đến hết năm 2012,

Bộ Xây dựng chỉ hoàn thành cổ phần hóa 1 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Lắp

máy Việt Nam.

Tính đến đầu năm 2013, Bộ Xây dựng còn 14 Công ty mẹ - Tổng công ty và

17 công ty con trực thuộc các Tổng công ty phải cổ phần hóa. Trong năm 2013, Bộ

Xây dựng đã thực hiện cổ phần hóa được 12 doanh nghiệp gồm: 5 Công ty mẹ- Tổng

công ty (Viglacera, Viwaseen, Xây dựng Hà Nội, Xây dựng Bạch Đằng và Tổng công

ty xây dựng và phát triển hạ tầng) và 7 Công ty con (3 doanh nghiệp thuộc Tổng công

ty Xây dựng và Phát triển Hạ tầng, 2 doanh nghiệp thuộc tổng công ty Đầu tư Phát

60

triên Nhà và Đô thị và 2 doanh nghiệp thuộc Tổng công ty VNCC).

Trong 9 tháng đầu năm 2014, Bộ Xây dựng đã rà soát, đẩy mạnh công tác cổ

phần hóa, đồng loạt triển khai tại 19 doanh nghiệp gồm 9 công ty mẹ- Tổng công ty

và 10 công ty con cổ phần hóa cùng công ty mẹ. Bộ xây dựng đã thành lập ban chỉ

đạo và phê duyệt kế hoạch cổ phần hóa của 9/9 tổng công ty, hoàn thành phê duyệt

giá trị doanh nghiệp và đang thẩm định phương án cổ phần hóa của 1 tổng công ty và

2 công ty con, đang xác định giá trị doanh nghiệp tại 5 tổng công ty và tiến hành xử

lý tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp tại 4 tổng công ty.

Nhìn chung giai đoạn 2011-2015, “số lượng doanh nghiệp của Bộ Xây dựng

phải thực hiện cổ phần hóa không nhiều nhưng đều có qui mô lớn với giá trị doanh

nghiệp từ 1.000 tỷ đồng đến gần 20.000 tỷ đồng, trong đó có 14 Công ty mẹ - Tổng

công ty. Dự kiến đến cuối năm 2015, về cơ bản Bộ Xây dựng sẽ hoàn thành công tác

cổ phần hóa và không còn doanh nghiệp nhà nước” [3, 83].

Đến năm 2015, Bộ Xây dựng sẽ hoàn thành công tác cổ phần hóa toàn bộ các

doanh nghiệp nhà nước trực thuộc. Đề thực hiện được mục tiêu trên, Bộ xây dựng đã

đề ra các giải pháp như:

- Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức của cán bộ lãnh đạo, người lao động trong

doanh nghiệp trong công tác cổ phần hóa thông qua các hình thức chỉ đạo bằng văn

bản, tổ chức hội thảo, cuộc họp phổ biến,..., quy định việc thực hiện kế hoạch cổ phần

hóa là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của lãnh đạo

doanh nghiệp

- Thực hiện cổ phần hoá các công ty con đồng thời với các công ty mẹ để rút

ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí và lựa chọn được phương án cổ phần hóa phù hợp

hơn.

- Phê duyệt kế hoạch, tiến độ cổ phần hóa cụ thể, bao gồm mốc thời gian cho

từng bước công việc, thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc, đánh giá mức độ hoàn thành

tiến độ cổ phần hóa theo kế hoạch đề ra.

- Chỉ đạo các doanh nghiệp chủ động chuẩn bị hồ sơ, tài liệu pháp lý để cổ

phần hóa, áp dụng các biện pháp xử lý linh hoạt, hiện hữu, dứt điểm đối với các doanh

61

nghiệp đang gặp khó khăn lớn về tài chính, lao động.

- Thường xuyên chỉ đạo, phối hợp với doanh nghiệp cổ phần hóa giải quyết

các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình cổ phần hóa, nhất là đối với doanh

nghiệp có nhiều tài sản là đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị, ... khi xác định giá trị

doanh nghiệp.

- Chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan như bộ Tài chính, Bộ kế hoạch

và đầu tư, Ủy ban nhân dân các tỉnh,... để giải quyết các vấn đề vướng mắc khi cổ

phần hóa như việc xác định giá trị doanh nghiệp, phương án sử dụng đất, phương án

cổ phần hóa.

- Tăng cường quan tâm, hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát đối với các doanh nghiệp

nhà nước và doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

- Chỉ đạo các đơn vị chủ động rà soát và lập kế hoạch, lộ trình bán tiếp phần

vốn nhà nước tại các công ty cổ phần xét thấy không cần thiết nắm giữ.

Bộ xây dựng đã đưa ra các kiến nghị để giải quyết những khó khăn, vướng

mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện: Sửa đổi một số quy định tại nghị

định số 59/2011/NĐ-CP theo hướng doanh nghiệp cổ phần hóa được giữ lại quỹ dự

phòng giảm giá các khoản nợ phải thu khi xác định giá trị doanh nghiệp, có phương

pháp xác định giá đối với các khoản đầu tư vào doanh nghiệp chưa niêm yết, doanh

nghiệp bị sàn giao dịch hủy niêm yết phù hợp với thị trường, sử dụng lợi nhuận bình

quân của 10 năm trước khi cổ phần hóa để tính lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp,

không định giá lại các khoản đầu tư tài chính khi thực hiện bàn giao vốn nhà nước

sang công ty cổ phần.

Bộ xây dựng đã đưa ra các kiến nghị để giải quyết những khó khăn, vướng

mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện: Sửa đổi một số quy định tại nghị

định số 59/2011/NĐ-CP theo hướng doanh nghiệp cổ phần hóa được giữ lại quỹ dự

phòng giảm giá các khoản nợ phải thu khi xác định giá trị doanh nghiệp, có phương

pháp xác định giá đối với các khoản đầu tư vào doanh nghiệp chưa niêm yết, doanh

nghiệp bị sàn giao dịch hủy niêm yết phù hợp với thị trường, sử dụng lợi nhuận bình

quân của 10 năm trước khi cổ phần hóa để tính lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp,

không định giá lại các khoản đầu tư tài chính khi thực hiện bàn giao vốn nhà nước

62

sang công ty cổ phần.

Bộ xây dựng đã đưa ra các kiến nghị để giải quyết những khó khăn, vướng

mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện: Sửa đổi một số quy định tại nghị

định số 59/2011/NĐ-CP theo hướng doanh nghiệp cổ phần hóa được giữ lại quỹ dự

phòng giảm giá các khoản nợ phải thu khi xác định giá trị doanh nghiệp, có phương

pháp xác định giá đối với các khoản đầu tư vào doanh nghiệp chưa niêm yết, doanh

nghiệp bị sàn giao dịch hủy niêm yết phù hợp với thị trường, sử dụng lợi nhuận bình

quân của 10 năm trước khi cổ phần hóa để tính lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp,

không định giá lại các khoản đầu tư tài chính khi thực hiện bàn giao vốn nhà nước

sang công ty cổ phần.

Bộ công thương

Trong năm 2015, Bộ Công Thương thực hiện cổ phần hóa 7 doanh nghiệp

trong đó có 3 Tổng công ty: Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam;

Công ty Giấy Việt Nam; Công ty Máy và Thiết bị công nghiệp và 4 Công ty trách

nhiệm hữu hạn một thành viên: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Điện

máy và Đầu tư; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xây lắp và Vật liệu xây

dựng V; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thực phẩm và Đầu tư công

nghệ Fococev, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vật liệu xây dựng và

Xây lắp thương mại BMC. Đối với 3 Công ty, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

phương án cổ phần hóa, Bộ Công Thương chỉ đạo thực hiện bán cổ phần lần đầu

trong Quý I năm 2016. Còn đối với 4 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên,

chỉ duy nhất Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Vật liệu xây dựng và Xây

lắp thương mại BMC, Bộ đang chỉ đạo Công ty xác định giá trị doanh nghiệp và hoàn

thành cổ phần hóa trong Quý 1 năm 2016. Còn 3 Công ty trách nhiệm hữu hạn một

thành viên đã triển khai bán cổ phần lần đầu và hoàn thành cổ phần hóa trong năm

2015 hoặc tháng 1 năm 2016. Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) là tập đoàn kinh

tế nhà nước đầu tiên thực hiện cổ phần hóa cũng đã hoàn thành thoái vốn ở 7 đơn vị

với tổng số tiền 204,1 tỷ đồng. Hiện nay, Vinatex đang chỉ đạo thoái vốn tiếp tại một

số lĩnh vực như chứng khoán, ngân hàng, tài chính để lành mạnh hóa và minh bạch

tài sản khi chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty cổ phần.

Như vậy, trong giai đoạn 2011 – 2015, Bộ Công Thương hoàn thành công tác

63

sắp xếp, cổ phần hóa 15 doanh nghiệp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Trong

đó có 5 doanh nghiệp có nhà đầu tư chiến lược là các Tập đoàn và các Tổng công ty.

Các nhà đầu tư chiến lược này thì phần lớn là nhà đầu tư trong nước, chưa thu hút

được các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tham gia mua cổ phần của các doanh

nghiệp thuộc Bộ. Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho biết: “đến năm

2015, đã có 287 trên tổng số 299 doanh nghiệp Nhà nước của ngành Công Thương

được cổ phần hóa xong. Riêng trong giai đoạn 2011-2015, Bộ hoàn thành công tác

xắp xếp, cổ phần hóa 15 doanh nghiệp theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính

phủ” [2, 83].

Tuy nhiên, trong thời gian qua, mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ

Công Thương đã có những chỉ đạo quyết liệt trong công tác tái cơ cấu, sắp xếp doanh

nghiệp Nhà nước, lãnh đạo các Tập đoàn, Tổng công ty đã có nhiều nỗ lực, cố gắng

nhưng nhìn chung, công tác cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chưa

đạt kết quả cao. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán vẫn còn ảm đạm, một số

doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về tài

chính, công nợ, đất đai, tài sản. Bộ trưởng khẳng định: “Tái cơ cấu không chỉ là nhiệm

vụ trọng tâm mà còn là sự sống còn của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh

tế sâu, rộng của Việt Nam” [2, 83].

Giai đoạn 2016 – 2020, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tái

cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn của doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, đáng chú ý

nhất là sẽ tập trung cổ phần hóa, thoái vốn của các tập đoàn, Tổng công ty “đầu tàu”

trong nền kinh tế gồm Dầu khí, Điện lực, Than Khoáng sản, Hóa chất, Thuốc lá….

Giai đoạn 2014- 2015, quá trình cổ phần hóa được đề cập với tinh thần quyết

liệt với nhiều giải pháp đồng bộ, đột phá từ nhận thức đến cơ chế, chính sách, đối

tượng, lộ trình, trách nhiệm và tổ chức thực hiện.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu chuyển thành công ty cổ phần tất cả doanh

nghiệp thuộc diện cổ phần hóa. Những doanh nghiệp có điều kiện thì thực hiện phát

hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) theo quy định hiện hành. Những doanh

nghiệp chưa có điều kiện IPO ngay thì chuyển thành công ty cổ phần với các cổ đông

64

là Nhà nước.

Để hỗ trợ quá trình cổ phần hóa, nhiều chính sách tài chính mới được triển

khai, như: xóa nợ cho 4 nhóm đối tượng doanh nghiệp nhà nước; cho phép thoái vốn

dưới mệnh giá hoặc dưới giá trị sổ sách và cố gắng bảo toàn vốn ở mức cao nhất,

không thoái bằng mọi giá, phân loại lĩnh vực đang đầu tư có lãi, lĩnh vực đang lỗ để

có từng biện pháp thích hợp, lĩnh vực càng để càng mất thì bán nhanh; Nới “room”

cho nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần tại doanh nghiệp và hạ mức trần cổ phần do

nhà nước nắm giữ trong doanh nghiệp cổ phần hóa; phân định rõ nhiệm vụ công ích,

nhiệm vụ chính trị và kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước; nghiên cứu đề xuất

mức lương hợp lý cũng như kiểm soát chặt chẽ tuyển chọn lao động trong doanh

nghiệp nhà nước. Hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước và đại diện

chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp.

Trường hợp không thực hiện được tiến độ cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước

theo kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì Hội đồng thành viên các tập

đoàn, tổng công ty Nhà nước, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty các doanh nghiệp

Nhà nước và Ban lãnh đạo doanh nghiệp phải làm rõ nguyên nhân khách quan, chủ

quan, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan xử lý chậm quá trình cổ

phần hóa và thoái vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, báo cáo cấp có thẩm quyền

xem xét, xử lý theo quy định. Đồng thời, Bộ trưởng các bộ quản lý ngành, Thủ trưởng

cơ quan ngang bộ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc chậm hoàn

thành kế hoạch đã được phê duyệt theo quy định.

Năm 2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 15/NQ-CP ngày 6/3/2014 về

một số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn các doanh nghiệp nhà nước (Gọi

tắt là nghị quyết số 15). Nghị quyết quy định:

- Kiên quyết truy xét trách nhiệm đối với các lãnh đạo bộ, ngành, địa phương,

đơn vị, thực hiện không đúng tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh

nghiệp

- Cho phép các doanh nghiệp nhà nước được thoái vốn với giá thấp hơn mệnh

65

giá hoặc bán cổ phần dưới giá trị sổ sách.

Nghị quyết số 15/NQ-CP đã thể hiện quyết tâm đẩy mạnh cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước của chính phủ, các bộ, ngành và địa phương. Từ đầu năm 2014, Bộ

giao thông vận tải đã liên tiếp tiến hành IPO các tổng công ty thuộc ngành, Bộ xây

dựng cũng đẩy mạnh IPO các doanh nghiệp do bộ quản lý. Các địa phương cũng đẩy

mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể, tại thành phố Hồ Chí

Minh đã xây dựng kế hoạch cổ phần hóa 29 doanh nghiệp lớn. Vào ngày 13/3/2014,

lãnh đạo 29 doanh nghiệp đã ký cam kết hoàn thành cổ phần hóa trước tháng 12/2015.

Thành phố Hà Nội cũng đã đặt mục tiêu sắp xếp cổ phần hóa 27 doanh nghiệp thuộc

thành phố quản lý trong năm 2014. Trong đó, cổ phần hóa 11 doanh nghiệp, 9 bộ

phần doanh nghiệp.

Giai đoạn 2011- 2015, tiến trình cổ phần hóa diễn ra còn chậm do nhiều

nguyên nhân như:

Tư duy về cổ phần hóa không thay đổi khi vẫn cho rằng doanh nghiệp nhà

nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo, nếu giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước sẽ làm

giảm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước nói riêng và khu vực kinh tế nhà

nước nói chung. Mặt khác, một số lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ tư duy lo

ngại sẽ mất hoặc giảm quyền kiểm soát doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ

phần nên chưa tập trung cho cổ phần hóa, chủ động làm chậm lại quá trình cổ phần

hóa. Người đứng đầu doanh nghiệp là những người có quyền quyết định đến quyết

tâm cổ phần hóa hay làm chậm lại quá trình cổ phần hóa. Giai đoạn này, họ có nhiều

lý do hơn có thể nêu ra về khó khăn, trở ngại, vấn đề cần cân nhắc để kéo lùi thời

gian cổ phần hóa như kinh tế suy giảm, thị trường chứng khoán chưa khởi sắc, vấn

đề định giá doanh nghiệp,... Tâm lý của những người đứng đầu doanh nghiệp là vấn

đề không mới và không chỉ riêng Việt Nam mới xuất hiện vấn đề này.

Cơ chế, chính sách chưa ban hành kịp thời. Doanh nghiệp cổ phần hóa trong

giai đoạn này đa phần là các doanh nghiệp có quy mô vừa, lớn và rất lớn. Quy mô

này làm cho hoạt động cổ phần hóa trở nên phức tạp, đặc biệt trong việc định giá

doanh nghiệp. Các tập đoàn kinh tế và tổng công ty buộc phải tái cơ cấu trước khi

tiến hành cổ phần hóa như phải sắp xếp lại sản xuất, tái cơ cấu lại ngành nghề kinh

doanh, thoái vốn đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính, cơ cấu lại tổ chức, bộ máy,

66

cán bộ, lao động, ... Tuy nhiên, các văn bản pháp lý không được ban hành kịp thời

khiến các doanh nghiệp bối rối trong việc tiến hành. Từ đó là chậm lại quá trình cổ

phần hóa.

Tình hình kinh tế vĩ mô biến động mạnh, thị trường chứng khoán không thuận

lợi, bong bóng chứng khoán vỡ năm 2008 ảnh hưởng đến giai đoạn này. Kinh tế vĩ

mô không thuận lợi, kinh tế suy giảm ảnh hưởng lớn đến cầu của thị trường, từ đó

ảnh hưởng đến IPO các doanh nghiệp cổ phần hóa. Mặt khác, giai đoạn này, Chính

phủ và các bộ ngành tập trung nhiều nỗ lực vào điều hành ổn định kinh tế vĩ mô vì

thế cũng ảnh hưởng đến các nỗ lực thực hiện cổ phần hóa và tiến độ cổ phần hóa.

3.1.4. Đánh giá toàn bộ quá trình cổ phần hóa đến nay

Nhìn chung, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước từ năm 1990 đến nay đã đạt

được một số kết quả nhất định: Tổng số doanh nghiêp cổ phần hóa tính đến hết năm

2013 là 4.065, tính đến tháng 9/2014 là 4.136 doanh nghiệp, trong đó bao gồm 3.650

doanh nghiệp và 415 bộ phận doanh nghiệp. Số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước

tính đến hết năm 2013 là 949 doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp nhà nước đã tập

trung hơn nữa vào những ngành, lĩnh vực then chốt, quan trọng mà nhà nước nắm

giữ.

Các cơ chế, chính sách về cổ phần hóa tiếp tục được hoàn thiện theo hướng

tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện. Quá trình cổ phần hóa đã tạo nhiều tác

động tích cực đối với doanh nghiệp cổ phần hóa và toàn bộ khu vực doanh nghiệp

nhà nước.

Đối với doanh nghiệp, cổ phần hóa đem lại tính năng động, tích cực hơn trong

quản trị, điều hành, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động.

Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa đã làm giảm đáng kể số

lượng doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, từ 12.000 doanh nghiệp nhà nước năm 1990

xuống còn 909 doanh nghiệp cuối năm 2013. Nhờ đó thu hẹp ảnh hưởng của khu vực

doanh nghiệp nhà nước, phân bổ lại nguồn của nền kinh tế, chuyển dịch một số nguồn

lực từ khu vực doanh nghiệp nhà nước như tài chính, tín dụng, nhân lực, đất đai, ...

sang khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài để sử dụng có hiệu suất, hiệu quả hơn. Thông qua đó tạo điều kiện thúc

67

đẩy sự tham gia của 2 khu vực kinh tế tư nhân trong nước và nước ngoài vào phát

triển kinh tế đất nước. Có thể thấy, tuy tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong

GDP giảm từ 40% xuống còn 28% nhưng với sự tăng trưởng mạnh hơn của khu vực

kinh tế tư nhân trong nước và đầu tư nước ngoài nên nền kinh tế vẫn đảm bảo tốc độ

tăng trưởng khá cao.

Tuy nhiên, nếu so sánh với kế hoạch đặt ra thì tiến trình cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước nhìn chung vẫn diễn ra chậm. Giai đoạn 2002- 2010, số lượng doanh

nghiệp nhà nước cổ phần hóa chỉ bằng 1/3 so với kế hoạch đặt ra. Giai đoạn 2011-

2015, theo kế hoạch phải cổ phần hóa được 531 doanh nghiệp. Nhưng giai đoạn 2011-

2013 mới cổ phần hóa được 99 doanh nghiệp, chiếm 18,6% kế hoạch. Vậy năm 2014-

2015 phải cổ phần hóa 432 doanh nghiệp còn lại. Như vậy, từ năm 2011 đến hết tháng

9/2014, cổ phần hóa được 170 doanh nghiệp chỉ đạt 32% kế hoạch giai đoạn 2011-

2015. Đánh giá về 432 doanh nghiệp nhà nước phải cổ phần hóa từ năm 2014 đến hết

năm 2015, ông Trần Văn Dũng- Chủ tịch Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội cho rằng

“Đó là một mục tiêu lớn, cần nhiều sự nỗ lực và sáng tạo để thực thi. Theo đó, cùng

với việc có chính sách phù hợp về định giá doanh nghiệp nhà nước, xử lý chế độ của

người lao động thì theo tôi, cần đa dạng hình thức bán vốn của doanh nghiệp nhà

nước và xây dựng lộ trình bán hợp lý, phù hợp với nhu cầu của thị trường. Một điểm

quan trọng khác cũng cần được lưu ý trong cổ phần hóa là mục tiêu đại chúng hóa

doanh nghiệp nhà nước có tầm quan trọng số 1, vì thế, không nên đặt nặng việc bán

theo giá nào, mà cần tôn trọng quy luật cung cầu và hãy để thị trường xác định giá

mua – bán”.

Mục tiêu đặt ra giai đoạn này không thể hoàn thành khi những doanh nghiệp

phải tiến hành cổ phần hóa đều là những doanh nghiệp lớn, việc định giá, xử lý lao

động dôi dư, xử lý nợ thuế,... rất phức tạp. Tình hình kinh tế khó khăn, thị trường

chứng khoán chưa phục hồi ảnh hưởng tiêu cực đến việc bán cổ phần ra bên ngoài.

Bên cạnh đó, chính bản thân doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự minh bạch hóa mọi

quy trình cổ phần hóa nên nhà đầu tư còn e ngại khi quyết định đầu tư. Mặt khác, tuy

đã cổ phần hóa nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn muốn giữ vị trí chi phối của mình

68

trong nền kinh tế.

Một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa vẫn chưa thoát khỏi cơ

chế tập trung quan liêu về tài chính, tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý, tức là, doanh

nghiệp chưa thực sự hoạt động tuân theo quy luật khách quan của kinh tế thị trường.

Các cổ đông thiểu số trong Công ty cổ phần chưa thực sự phát huy vai trò làm

chủ của mình. Cổ đông thiểu số như người lao động còn có tư tưởng “làm công, ăn

lương” là chính; còn cổ đông thiểu số bên ngoài chỉ quan tâm đến cổ tức và giá cả cổ

phiếu trên thị trường. Vì vậy, chưa phát huy được tác động tích cực của những nhân

tố mới đối với hoạt động quản trị doanh nghiệp.

Các hạn chế lớn trong quá trình cổ phần hóa là:

Thứ nhất, chính sách và quy trình cổ phần hóa vẫn dựa trên tư duy cũ.

Từ khâu định giá tài sản doanh nghiệp, cho đến tổ chức quản lý sau khi doanh

nghiệp đã cổ phần hóa đều tồn tại nhiều vấn đề. Việc xử lý các vấn đề tài chính trước,

trong và sau cổ phần hóa còn nhiều bất cập như: Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ

phần hóa chưa đúng, gây thất thoát và lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình

cổ phần hóa. Giá trị doanh nghiệp bị xác định thấp, phần lớn cổ phần rơi vào tay một

nhóm người. Bên cạnh đó là tình trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu. Việc xử lý

các khoản nợ tồn đọng gặp nhiều khó khăn, mất thời gian do thiếu sự phối hợp chặt

chẽ, đồng bộ giữa các ngân hàng, thuế, tài chính. Chất lượng định giá doanh nghiệp

của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm định giá trị có độ tin cậy thấp,. Quy chế lựa

chọn, giám sát hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quy định

rõ, chưa gắn trách nhiệm của tổ chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần. Quy trình

cổ phần hóa từ xây dựng đến thực hiện đề án chưa sát thực tế, còn rườm rà, phức tạp

nên kéo dài thời gian cổ phần hóa. Trung bình thời gian cổ phần hóa một doanh nghiệp

mất 437 ngày, tổng công ty là 554 ngày. Sau khi cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp

vẫn hoạt động như cũ, quản lý nhà nước vẫn chi phối mọi hoạt động kể cả với doanh

nghiệp mà vốn nhà nước chưa tới 30% vốn điều lệ. Bộ máy quản lý cũ trong nhiều

doanh nghiệp vẫn chiếm giữ 80%.

Thứ hai, tốc độ cổ phần hóa chậm

Quá trình cổ phần hóa diễn ra chậm hơn so với yêu cầu đặt ra do cả nguyên

69

nhân khách quan lẫn chủ quan như tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới và

những khó khăn của kinh tế trong nước đã ảnh hưởng đến thị trường tài chính, chứng

khoán và kế hoạch bán cổ phần ra công chúng của các doanh nghiệp cổ phần hóa

cũng như thoái vốn đầu tư. Một số bộ ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công

ty nhà nước chưa chỉ đạo quyết liệt và tích cực tổ chức triển khai phương án sắp xếp,

cổ phần hóa và thoái vốn. Đối tượng sắp xếp, cổ phần hóa hiện nay hầu hết là các

doanh nghiệp có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành nghề, tài

chính phức tạp nên cần có nhiều thời gian chuẩn bị, xử lý. Việc thực hiện cổ phần

hóa doanh nghiệp có quy mô lớn cần sự tham gia của nhiều nhà đầu tư lớn, có tiềm

lực tài chính và năng lực quản trị, đầu tư tốt. Cùng với đó, chưa có những chuyển

biến rõ nét về việc giảm đầu mối quản lý các doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng minh

bạch thông tin các doanh nghiệp nhà nước vẫn dậm chân tại chỗ. Các thông tin về

hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chỉ được biết đến rất chậm qua các báo cáo

tổng hợp của Chính phủ thay vì các bản báo cáo tài chính chi tiết như các doanh

nghiệp niêm yết. Một số bộ, ngành, địa phương chưa vào cuộc thực hiện tái cơ cấu

doanh nghiệp nhà nước một cách quyết liệt nên vẫn còn tình trạng chậm trễ.

Thứ ba, Quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hóa không hiệu quả

Cổ phần hóa làm đa dạng hóa sở hữu, giảm tính ưu thế của sở hữu nhà nước.

Cổ phần hóa chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần với cấu trúc quản

trị hiện đại. Sau cổ phần hóa, quản trị doanh nghiệp tiếp tục được cải thiện theo hướng

hiện đại. Tuy nhiên, trên thực tế, quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp sau cổ

phần hóa nhìn chung chưa có nhiều chuyển biến, thay đổi rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp

vẫn áp dụng các phương thức, biện pháp quản trị của doanh nghiệp nhà nước trước

đây. Bản thân doanh nghiệp dù đã tiến hành xong cổ phần hóa nhưng không nhận

thức được tầm quan trọng của vấn đề thay đổi mô hình quản trị cũng như tâm lý “ngại

thay đổi” và “dựa dẫm” nên vẫn rập khuôn áp dụng mô hình quản trị cũ. Điều này

được lý giải là do phần lớn các chức danh quản lý như giám đốc, phó giám đốc và kế

toán trưởng vẫn do những người cũ nắm giữ. Phần lớn cổ phần của các vị trí quan

trong khác cũng do người trong nội bộ doanh nghiệp nắm giữ. Những “con người cũ”

với “tâm lý cũ” nên còn chậm thay đổi là không thể tránh khỏi.

Mặc dù có những doanh nghiệp đã thực hiện và áp dụng các quy trình, cách

70

thức quản trị mới nhưng cách làm còn mang nặng tính hình thức, chưa chú trọng vào

chất lượng thực sự. Không phải doanh nghiệp nào cũng áp dụng đầy đủ quy trình của

việc hoạch định chiến lược như nghiên cứu thị trường, đánh giá các yếu tố kinh tế,

phân tích điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp, lập dự thảo các phương án chiến

lược,... hay không phải doanh nghiệp nào cũng thực hiện đầy đủ quy trình trong hoạt

động tuyển dụng nhân sự, đảm bảo thực hiện đầy đủ lợi ích cho người lao động….

Nguyên nhân thứ nhất là do các doanh nghiệp chỉ làm cho có hình thức, làm đẹp cho

hình ảnh của doanh nghiệp nhằm thu hút các cổ đông đầu tư chứ không phải mục

đích nâng cao chất lượng quản lý thực sự cho doanh nghiệp. Nguyên nhân thứ hai là

do các quy trình, yêu cầu của hoạt động quản trị chặt chẽ và phức tạp, đòi hỏi đầu tư

nhiều thời gian và công sức để thực hiện khiến cho một số công ty phải lược bỏ bớt

một vài nội dung để đơn giản hóa quy trình dẫn đến tính hình thức. Thêm vào đó, yếu

tố tài chính cũng là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp. Không còn được Nhà

nước trợ giúp, không còn những khoản ưu đãi về tài chính nên không phải doanh

nghiệp nào cũng sẵn sàng bỏ ra một khoản kinh phí lớn (điều tra, lên kế hoạch, thực

hiện, kiểm soát…) để đảm bảo cho chất lượng của hoạt động quản trị. Ngoài ra, kinh

nghiệm quản trị còn non yếu cũng là nguyên nhân khiến hoạt động quản trị tại doanh

nghiệp mới chỉ ở mức “bề nổi” chứ chưa thực sự đi vào “chiều sâu”.

Hoạt động quản trị chưa cho thấy tính mới, sáng tạo và khoa học. Nguyên nhân

là do bộ máy quản lý của doanh nghiệp phần lớn vẫn là các cá nhân cũ với tư tưởng

cũ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chưa có thói quen thuê chuyên gia tư vấn quản trị,

thuê những người quản lý có tài năng nên đã phần nào làm giảm sức sáng tạo, tính tư

duy và khách quan trong hoạt động điều hành doanh nghiệp nhất là đối với các hoạt

động quản trị cơ bản như quản trị chiến lược, quản trị tài chính và quản trị nhân sự.

Hoạt động quản trị còn nhiều hạn chế một phần là do các doanh nghiệp trước

đây nhận được quá nhiều sự hỗ trợ từ phía Nhà nước nên sau cổ phần hóa, việc thay

đổi các chức danh lãnh đạo, xóa bỏ các đặc quyền về mặt pháp lý và tài chính cũng

khiến năng lực quản trị của doanh nghiệp giảm sút. Cụ thể, do không còn nằm trong

khu vực kinh tế Nhà nước nữa, các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc vay vốn để

đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh do vấp phải sự lo ngại từ các ngân hàng Thương

mại. Nhà nước không thể đứng ra bảo lãnh nợ cho các doanh nghiệp này được nữa

71

cũng như khi các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, rất khó

để nhận được các gói cứu trợ cũng như các biện pháp bổ sung vốn từ Nhà nước. Do

xuất phát điểm là thành phần kinh tế Nhà nước nên tính chủ động, sáng tạo và hiệu

quả làm việc của một số doanh nghiệp chưa cao dẫn đến khó cạnh tranh với các doanh

nghiệp cổ phần hóa khác mà nền tảng là các doanh nghiệp tư nhân. Do vậy, nhiều

doanh nghiệp đang phải vật lộn trong cuộc cạnh tranh khốc liệt hiện nay.

Vẫn tồn tại các vấn đề khó khăn cần giải quyết như lao động dôi dư, lao động

giỏi nhảy việc, lao động lâu năm làm việc còn kém hiệu quả. Nguyên nhân của vấn

đề này là do chính sách tiền lương và khen thưởng vẫn còn hạn chế, chưa tạo ra sự

kích thích và hấp dẫn đối với người lao động, chưa chặt chẽ sử dụng yếu tố năng lực,

hiệu quả công việc thực tế của người lao động.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như:

- Nhận thức chưa đúng, thậm chí sai lệch về quản trị doanh nghiệp, coi cải

thiện quản trị doanh nghiệp là cải thiện quản lý điều hành sản xuất kinh doanh như

cải thiện về quản lý tài chính, nhân sự, tiền lương, sản xuất thương mại,... Trong khi

đó, cải thiện quản trị doanh nghiệp là áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp

hiện đại theo thông lệ kinh tế thị trường. Ví dụ theo quy tắc của OECD đó là tạo điều

kiện để cổ đông thực hiện quyền cổ đông và bảo vệ quyền của cổ đông; đối xử bình

đẳng với mọi cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số; các bên liên quan được tiếp cận

các thông tin phù hợp, đầy đủ, tin cậy, kịp thời và thường xuyên, tăng cường minh

bạch hóa và công bố thông tin quan trọng của doanh nghiệp, tăng cường trách nhiệm

và tính giải trình của Hội đồng quản trị, đảm bảo để Hội đồng quản trị hoạt động vì

lợi ích cao nhất của doanh nghiệp và của cổ đông.

Cách sử dụng quyền của cơ quan quản lý nhà nước đối với phần vốn của mình

tại doanh nghiệp không đúng với bản chất của người đại diện phần vốn góp. Tư duy

cũ về quản lý hành chính đối với phần vốn nhà nước vẫn chưa thoát ra khi tại doanh

nghiệp nhà nước, nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần chi phối. Người đại diện phần vốn

nhà nước thường là các cơ quan hành chính nên họ có xu hướng áp dụng biện pháp

quản lý hành chính vào doanh nghiệp mà họ quản lý. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều

đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì tư duy quản lý hành chính

72

khác biệt với quy luật kinh tế thị trường.

- Nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến các doanh nghiệp sau cổ phần hóa

và quản trị doanh nghiệp của các doanh nghiệp này. Nhà nước chỉ tập trung vào doanh

nghiệp 100% vốn nhà nước và thông qua giải pháp cổ phần hóa. Có rất nhiều văn bản

được ban hành để thực hiện cổ phần hóa. Ngược lại, có rất ít văn bản hướng dẫn và

chỉ đạo triển khai thực hiện nhằm cải thiện quản trị doanh nghiệp tại các doanh nghiệp

có cổ phần chi phối hay kiểm soát của nhà nước ở giai đoạn sau cổ phần hóa. Nhiệm

vụ đổi mới quản trị doanh nghiệp theo thông lệ kinh tế thị trường đã trở thành vấn đề

cấp thiết sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2007. Tuy nhiên, không có việc ban

hành các văn bản hướng dẫn và việc triển khai thực hiện cũng rất chậm.

- Các biện pháp tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước còn thiên về khu vực doanh

nghiệp có 100% vốn nhà nước, chưa chú trọng các biện pháp cải cách các doanh

nghiệp sau cổ phần hóa, nhất là các doanh nghiệp nhà nước còn nắm giữ cổ phần chi

phối. Các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan đổi mới doanh nghiệp

nhà nước mới chỉ quan tâm đến kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho

thuê mà chưa quan tâm đến quản trị doanh nghiệp sau cổ phần hóa, quản lý phần vốn

nhà nước đặc biệt là doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước.

Thứ tư, thiếu cổ đông chiến lược

Khi tiến hành cổ phần hóa, việc tìm kiếm cổ đông chiến lược là một bước cần

thiết. Đó là những nhà đầu tư có khả năng khỏa lấp một số tồn tại của doanh nghiệp

nhà nước trước cổ phần hóa như yếu kém năng lực quản trị, điều hành hoặc đem lại

những đột phá cho doanh nghiệp về công nghệ, thị trường, ... Doanh nghiệp thiếu cổ

đông chiến lược do:

- Doanh nghiệp cổ phần hóa theo cơ chế nội bộ, cổ phần phân tán, thiếu tập

trung, thiếu cổ đông lớn. Tình trạng này xảy ra ở giai đoạn đầu cổ phần hóa với những

doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Đến nay, hình thức cổ phần hóa này đã dần được khắc

phục.

- Nhà nước giữ cổ phần chi phối nên sự chi phối, quyền lực và đặc điểm chi

phối của cổ đông nhà nước đã ngăn cản sự tham gia của cổ đông chiến lược. Khi nhà

đầu tư nhận thấy họ không có vị trí, không có tiếng nói trong doanh nghiệp họ đầu tư

73

thì họ khó có thể tham gia để chia sẻ ý tưởng, phương pháp quản trị, hoạt động đầu

tư, công nghệ,... để tạo ra sự thay đổi tầm chiến lược đối với doanh nghiệp. Trường

hợp bán cổ phần lần đầu ra công chúng của Tập đoàn Công nghiệp than và Khoáng

sản Việt Nam với 3 Tổng công ty có vốn điều lệ trên 1.000 tỷ đồng là một ví dụ, khi

không thu hút được nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư mua số lượng lớn, do tỷ lệ

nắm giữ của nhà nước tại các đơn vị này đều ở mức 98%- 99%.

- Thiếu cơ chế tìm kiếm, thu hút cổ đông chiến lược đối với doanh nghiệp nhà

nước sau cổ phần hóa. Chủ sở hữu phần vốn nhà nước chưa chủ động và năng động

tìm kiếm cổ đông chiến lược để thay thế vai trò thụ động của cổ đông nhà nước.

- Việc bán vốn nhà nước với tỷ lệ % quá thấp so với vốn điều lệ và bán theo

phương thức đấu giá lẻ tẻ thay vì bán đấu giá cả lô cổ phần nên khó thu hút những

nhà đầu tư lớn trong thời gian qua.

Thứ năm, giải quyết vấn đề người lao động sau cổ phần hóa

Giải quyết lao động dôi dư của doanh nghiệp sau cổ phần hóa là vấn đề không

đơn giản, thậm chí ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và không

thể giải quyết một sớm một chiều mà cần có sự đầu tư nghiên cứu. Trước hết, căn cứ

vào phương án cổ phần hoá về sắp xếp lao động, các doanh nghiệp cần đánh giá thực

trạng của doanh nghiệp mình để có kế hoạch sắp xếp lại lao động, dự kiến số lao động

tiếp tục làm việc tại công ty, số lao động tiếp tục tuyển dụng thêm hay giải quyết số

lao động dôi dư, từ đó lập ra quỹ hỗ trợ kinh phí đào tạo lại theo quy định của Chính

phủ.

Một trong số những vấn đề cần được quan tâm trong quá trình cổ phần hoá là

số lao động dôi dư sau khi doanh nghiệp chuyển đổi được giải quyết chế độ chính

sách, họ sẽ về đâu? Khi mất việc làm, dù được giải quyết đầy đủ chế độ theo quy định

Nhà nước nhưng những lao động dôi dư không dễ kiếm việc làm trong một thời gian

ngắn, vì hầu hết lực lượng này tay nghề yếu, trình độ năng lực hạn chế, không đáp

ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp, đặc biệt, người lao

động vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình cũ, tư duy và tác phong cũ. Bên cạnh đó, có

một số công ty sau cổ phần hoá lại hoạt động kém hiệu quả, dẫn đến phá sản, nên

người lao động tại doanh nghiệp bị mất việc làm. Vì thế, giải quyết số lao động dôi

74

dư sau cổ phần hoá là vấn đề nan giải đối với nhiều doanh nghiệp. Trước đây, số lao

động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá được đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới

trong công ty do được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và

cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đến nay, doanh

nghiệp không còn được hỗ trợ nữa, khiến cho khả năng giải quyết vấn đề này trong

hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa bị hạn chế.

Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sở hữu, người sử dụng

lao động muốn cơ cấu lại lao động đã gặp phải vướng mắc vì nhiều người lao động

không muốn rời khỏi doanh nghiệp nên việc đàm phán lại hợp đồng lao động gặp

nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với số lượng lao động cũ có hợp đồng không xác định

thời hạn. Một khó khăn nữa đối với việc giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá

là các cổ đông không muốn chi trả trợ cấp một lần cho những lao động này vì sợ giảm

cổ tức của mình.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

3.2.1. Chủ trương, chính sách của nhà nước về cổ phần hóa giai đoạn 2016- 2020

Để khắc phục những hạn chế trong giai đoạn trước, đẩy mạnh quá trình cổ

phần hóa giai đoạn 2016- 2020, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành, địa

phương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh,

cùng với cổ phần hóa, tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp một cách toàn diện, từ mô

hình tổ chức quản lý, ngành nghề sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư,

nguồn nhân lực, thị trường, ... Bên cạnh đó, tiếp tục quán triệt sâu rộng về quan điểm,

mục tiêu, nhiệm vụ, lộ trình cổ phần hóa, coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm cần

khẩn trương và kiên quyết hoàn thành. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế,

tổng công ty nhà nước có kết quả cổ phần hóa thấp cần nghiêm túc rút kinh nghiệm,

xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, có biện pháp phù hợp để khắc phục, góp

phần hoàn thành mục tiêu chung. Các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế,

tổng công ty nhà nước cần bám sát đề án cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chỉ đạo quyết liệt, chặt chẽ và khẩn trương nhiệm

vụ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Đối với những doanh nghiệp chưa có kế hoạch

cổ phần hóa, thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, tổng

công ty căn cứ tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước ban hành tại

75

quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ, rà soát,

bổ sung doanh nghiệp cần cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước và lộ trình triển khai, trình

Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để thực hiện. Đối với một số doanh nghiệp hoạt động

trong lĩnh vực công ích như môi trường đô thị, cấp, thoát nước, nếu các nhà đầu tư

có nhu cầu nắm giữ đa số vốn điều lệ thì khuyến khích, với điều kiện doanh nghiệp

cam kết cung cấp tốt các dịch vụ công ích này.

Trên cơ sở ý kiến chủ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã đề ra

một số giải pháp cần tập trung thực hiện:

- Quán triệt sâu sắc các nghị quyết, kết luận của Đảng và các cơ chế, chính

sách pháp luật có liên quan của nhà nước về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và

nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tập trung triển khai nghị quyết số 15/NQ-

CP ngày 6/3/2014 của Chính phủ, quyết định số 51/2014.QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ về một số nội dung về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch, niêm

yết trên thị trường chứng khoán của doanh nghiệp nhà nước và chỉ đạo của Thủ tướng

Chính phủ tại thông báo số 334/TB-VPCP tại hội nghị giao ban về tái cơ cấu doanh

nghiệp nhà nước tháng 8/2014.

- Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nghiêm túc thực

hiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh đề đạt, vượt mức kế hoạch năm 2014, đồng thời

tái cơ cấu doanh nghiệp một cách toàn diện, từ mô hình tổ chức quản lý, ngành nghề

sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, đầu tư, nguồn nhân lực, thị trường,... Đặc

biệt quan tâm việc tạo ra sản phẩm mới, tăng năng suất lao động, hạ giá thành để nâng

cao sức cạnh tranh, tiếp tục quán triệt sâu rộng về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và

lộ trình cổ phần hóa.

- Hoàn thiện cơ chế chính sách để đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước như sửa đổi quy định về bán, giao doanh nghiệp, hoàn thiện chính

sách đối với người lao động dôi dư trong doanh nghiệp sắp xếp, chuyển đổi.

- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với hoạt động của các

tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả và

76

tiến độ thực hiện đề án tái cơ cấu doanh nghiệp.

- Thực hiện chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn tại một số doanh

nghiệp lớn đã cổ phần hóa đang có vốn nhà nước về tổng công ty đầu tư kinh doanh

vốn nhà nước theo quy định.

- Thực hiện các giải pháp tái cấu trúc thị trường chứng khoán theo tinh thần

quyết định số 1826/QĐ-TTg ngày 6/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ qua đó hỗ trợ

thu hút và khuyến khích nhà đầu tư tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp. Các đơn

vị thực hiện tốt chế độ báo cáo về tình hình triển khai cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước, kịp thời báo cáo các cấp có thẩm quyền xử lý những khó khăn, vướng mắc,

phát sinh trong quá trình thực hiện, đảm bảo thực hiện đúng kế hoạch đề ra.

Các giải pháp cần được quan tâm đến như:

- Cải cách cơ chế đại diện chủ sở hữu nhà nước theo hướng tập trung và chuyên

nghiệp. Chuyển đổi mạnh mẽ việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước dưới dạng

quản lý vốn thay vì trực thuộc chính phủ, các bộ, hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh. Mỗi

một công ty quản lý vốn sẽ phụ trách một lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ công nào đó.

Các quỹ quản lý vốn nên đặt dưới sự quản lý tạm thời của một ủy ban cải cách doanh

nghiệp nhà nước có vai trò tương đương một bộ trong Chính phủ. Ủy ban này sẽ thực

hiện việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước để giảm quy mô và số lượng các

doanh nghiệp nhà nước về một mức mục tiêu nào đó, chẳng hạn, tỷ trọng đóng góp

vào GDP chỉ còn dưới 10% vào năm 2020.

- Cải cách hệ thống trách nhiệm và khuyến khích trong việc quản trị doanh

nghiệp nhà nước theo hướng người đại diện vốn chủ sở hữu là người giám sát của

nhà nước, người điều hành doanh nghiệp nhà nước được hưởng lợi ích theo cơ chế

thị trường. Người giám sát sẽ có trách nhiệm giám sát hoạt động của doanh nghiệp

nhà nước hoặc được bổ nhiệm làm thành viên hội đồng quản trị của doanh nghiệp

nhà nước. Để đảm bảo người được bổ nhiệm trong hội đồng quản tị của doanh nghiệp

nhà nước làm việc vì lợi ích của nhà nước thì người được bổ nhiệm không được nhận

lương hay tiền của doanh nghiệp. Trong khi đó, chế độ lương bổng cho giám đốc

hoặc ban điều hành của doanh nghiệp nhà nước sẽ do hội đồng quản trị đề xuất thông

qua hội nghị cổ đông hàng năm. Lương cho giám đốc, ban điều hành cần đảm bảo

77

tính cạnh tranh trên thị trường.

- Doanh nghiệp nhà nước phải là khu vực tiên phong về minh bạch thông tin.

Cần áp dụng các chuẩn mực tài chính kế toán và công khai hóa thông tin của các

thông tin của các công ty niêm yết đối với các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh

nghiệp nhà nước cũng cần công khai các mục tiêu chính sách, chỉ rõ các chi phí thực

hiện để theo đuổi các mục tiêu phi thương mại cũng như các khoản nhận hỗ trợ từ

Chính phủ. Bản thân Chính phủ hàng năm cũng cần làm một báo cáo hợp nhất về

hoạt động của toàn bộ các công ty quản lý vốn và các doanh nghiệp nhà nước trực

thuộc các công ty quản lý vốn.

3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam

Thứ nhất, Điều chỉnh mục tiêu, tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.

Điều chỉnh phương hướng đầu tư từ ngân sách nhà nước nhằm sử dụng có hiệu

quả nguồn vốn này, khai thác những lợi thế của đất nước và các nguồn đầu tư bên

ngoài để đưa đến mô hình kinh tế hợp lý. Quá trình cổ phần hóa phải dựa trên quan

điểm tiết kiệm ngân sách nhà nước, đầu tư khôn ngoan, chứ không phải giải pháp cho

những yếu kém trong nền kinh tế nhà nước.

Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước phải hướng tới sự thu hút và tập trung

nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế. Khi đó, các khâu trong quá trình cổ phần hóa

sẽ thay đổi, từ việc định giá doanh nghiệp, cơ cấu vốn điều lệ doanh nghiệp cổ phần,

cơ cấu cổ đông, tổ chức bộ máy, đến những vấn đề nhân sự khác,... đảm bảo doanh

nghiệp hoạt động tốt hơn, có lợi cho người lao động, nhà đầu tư và cho cả nền kinh

tế.

Cổ phần hóa phải hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp

nhằm góp phần tăng cường chất lượng hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế, qua đó thúc

đẩy quá trình cải thiện năng lực cạnh tranh và tái cơ cấu nền kinh tế nói chung. Tuy

nhiên, không nên chạy theo tiến độ cổ phần hóa bằng mọi giá. Tốc độ cổ phần hóa

luôn bị ảnh hưởng bởi yếu tố kinh tế- xã hội bên ngoài. Ví dụ như giai đoạn 2011-

2015 là giai đoạn hậu suy thoái kinh tế, nền kinh tế mới bắt đầu phục hồi chậm từ đó

ảnh hưởng đến lượng cổ phần IPO hay bán ra được từ các doanh nghiệp cổ phần hóa.

Mặt khác, cổ phần hóa trong bối cảnh tái cơ cấu đòi hỏi phải tiến hành tái cơ cấu

78

doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa. Cần dành thời gian cho tái cơ cấu doanh nghiệp

thay vì chạy theo tiến độ, hoàn thành cổ phần hóa ngay. Cuối cùng, điều quan trọng

đối với doanh nghiệp cổ phần hóa không chỉ là hoàn thành cổ phần hóa, đăng ký

doanh nghiệp thành công ty cổ phần, mà chủ yếu ở việc quản trị doanh nghiệp, hiện

đại hóa doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh. Điều này cần nhiều thời gian hơn.

Thứ hai, Thay đổi mô hình quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại.

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải xác định rõ ai là chủ sở hữu thực tế

của công ty cổ phần, chủ sở hữu phải gắn với trách nhiệm của công ty như thế nào?

Ai đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước trong công ty cổ phần?

Cần vận dụng quy chế quản trị công ty nhằm tạo ra môi trường đầu tư minh

bạch và lành mạnh. Cần lựa chọn giám đốc phù hợp với quy chế quản trị công ty,

sớm đào tạo và bố trí các giám đốc tài chính công ty. Nhà nước cần hoàn chỉnh cơ

chế quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Cụ thể là cần xác định được chủ sở hữu

Nhà nước một cách rõ ràng, tách bạch bộ máy quản lý nhà nước với bộ máy thực hiện

quyền chủ sở hữu. Nhà nước chỉ tham gia với tư cách cổ đông. Định hướng phát triển

doanh nghiệp phải do đại hội cổ đông quyết, nhằm tăng quyền tự chủ, tự chịu trách

nhiệm, tính sáng tạo trong kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh tế -

xã hội. Điều này cũng sẽ hạn chế được tình trạng "bình cũ rượu mới" ở các doanh

nghiệp sau cổ phần hóa như hiện nay. Bên cạnh việc trao quyền tự chủ cho doanh

nghiệp, thì các doanh nghiệp sau cổ phần hóa cũng phải đặc biệt chú ý tới công tác

quản trị nhân sự. Cần có chính sách tuyển dụng theo cơ chế thị trường, có chính sách

đãi ngộ phù hợp để có thể tuyển dụng và giữ được các chuyên gia, những nhà quản

lý giỏi. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần có chính sách đào tạo đội ngũ nhằm liên

tục nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên đáp ứng kịp thời các yêu cầu đổi mới của

nền kinh tế và thị trường.

Cần nhanh chóng thay đổi cơ chế quản lý, giám sát, kiểm tra đối với doanh

nghiệp nhà nước, xóa bỏ ngay cơ chế bộ chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước,

nhanh chóng thành lập cơ quan ngang bộ, chuyên trách quản lý các doanh nghiệp nhà

nước.

Cho phép các địa phương tiếp nhận vốn thu hồi được từ việc tiến hành cổ phần

79

hóa các doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương quản lý và thành lập để địa phương

tăng cường nguồn thu ngân sách phục vụ sự nghiệp đầu tư phát triển địa phương mình.

Hiện nay Chính phủ quy định các doanh nghiệp nhà nước ở địa phương khi cổ phần

hóa đều phải chuyển phần vốn thu hồi do bán cổ phần cho SCIC quản lý, mặc dù vốn

này trước đây do ngân sách địa phương đầu tư. Đây là một vướng mắc trong cơ chế

quản lý vốn sau cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở địa phương mà các địa phương

đều gặp phải khi tiến hành cổ phần hóa. Do đó, thời gian qua, nhiều địa phương không

mặn mà với việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước do địa phương mình quản

lý và đầu tư. Hơn nữa, hiện tổng vốn chủ sở hữu hiện nay của khu vực doanh nghiệp

nhà nước cả nước là hơn 1 triệu tỷ đồng, nhưng trong đó, riêng 32 doanh nghiệp của

khối doanh nghiệp trung ương quản lý đã chiếm đến 94% vốn chủ sở hữu và chiếm

đến 95% tổng doanh thu của cả khu vực doanh nghiệp nhà nước cả nước. Như vậy,

vốn nhà nước ở các doanh nghiệp địa phương là rất nhỏ. Do đó, trong thời gian tới,

chính phủ nên cho phép phần vốn thu hồi sau cổ phần hóa, thoái vốn của các doanh

nghiệp nhà nước địa phương sẽ do địa phương quản lý.

Thứ ba, Đổi mới nhận thức về cổ phần hóa.

Cổ phần hóa không phải chỉ để chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty

cổ phần, kết thúc ở đăng ký doanh nghiệp thành công ty cổ phần mà là một quá trình.

Sau cổ phần hóa phải tiếp tục tiến hành thoái vốn nhà nước, quản trị doanh nghiệp,

hiện đại hóa công ty cổ phần. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước phải thay đổi

theo từng giai đoạn. Khi có sự mở cửa, hội nhập, có sự cạnh tranh minh bạch giữa

các khu vực kinh tế thì vai trò của kinh tế nhà nước hay doanh nghiệp nhà nước buộc

phải xem xét lại, có thể trở thành không quan trọng. Việc bán cổ phần cho người lao

động, nhà nước có nên chấp nhận thực tế là việc giữ lại hay bán đi cổ phần là quyền

của người lao động? Ở giai đoạn sau cổ phần hóa, việc chuyển nhượng cổ phần là

thuộc quyền của cổ đông, miễn là họ tuân thủ pháp luật, điều lệ và không vi phạm

các quy định về cạnh tranh và chống độc quyền. Đối với những doanh nghiệp nhà

nước có quy mô lớn như tập đoàn kinh tế, tổng công ty hoạt động trong những ngành,

lĩnh vực quan trọng, việc cổ phần hóa cần phải có sự chọn lọc và bước đi phù hợp với

điều kiện của đất nước cũng như định hướng phát triển kinh tế của Đảng. Việc cổ

80

phần hóa không thể thực hiện ồ ạt mà phải được tiến hành theo nhiều giai đoạn phù

hợp với kế hoạch và lộ trình giảm dần tỷ lệ vốn nhà nước. Phải có hướng dẫn cụ thể

và các bước triển khai thận trọng khi cổ phần hóa.

Thứ tư, Việc lựa chọn nhà đầu tư chiến lược phải được nhìn nhận từ 2 phía là

nhà đầu tư và doanh nghiệp cổ phần hóa.

Từ phía nhà đầu tư, đó là những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, thực sự quan

tâm đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp, họ có khả năng công nghệ, thị trường,

có kinh nghiệm, đáp ứng những yêu cầu phát triển doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Từ phía doanh nghiệp cổ phần hóa, xem xét những doanh nghiệp nào cần nhà

đầu tư chiến lược. Không phải mọi doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều cần nhà đầu tư

chiến lược. Cổ đông chiến lược cần cho những doanh nghiệp có vấn đề về chiến lược,

thị trường, công nghệ, cần cải thiện quản trị doanh nghiệp, cần tạo ra động lực mới

và mạnh hơn cho sự phát triển. Những doanh nghiệp đang hoạt động tốt, có hiệu quả

nếu không tìm được ngay nhà đầu tư chiến lược thì cứ tiến hành cổ phần hóa, sau đó

thoái vốn nhà nước tiếp hoặc phát hành thêm cổ phiếu để tìm nhà đầu tư chiến lược

Thứ năm, Hoàn thiện, cập nhật hệ thống văn bản pháp luật về cổ phần hóa.

Các bộ, ngành nhanh chóng ban hành các quyết định hướng dẫn triển khai nghị

quyết số 15/NQ-CP để làm cơ sở triển khai đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà

nước. Đồng thời, Chính phủ cần sớm ban hành các cơ chế, chính sách làm cơ sở pháp

lý cho việc quản lý doanh nghiệp nhà nước như: quy chế quản trị công ty trách nhiệm

hữu hạn một thành viên sở hữu nhà nước, quy chế về nhà quản trị tại doanh nghiệp

nhà nước 100% vốn sở hữu, doanh nghiệp nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ,

quy định về cổ phần hóa bộ phận các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Thiết

nghĩ, nước ta có nên xây dựng luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước? Vì cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước là vấn đề lớn, làm thay đổi sở hữu nhà nước tại

doanh nghiệp nhà nước, thay đổi vị trí kinh tế nhà nước trong phạm vi ngành và nền

kinh tế. Việc ban hành luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là cần thiết để tạo

nền tảng pháp lý cao hơn, vững chắc hơn cho cổ phần hóa những doanh nghiệp có

quy mô lớn, những doanh nghiệp quan trọng, doanh nghiệp trong các ngành đặc thù

81

như an ninh, quốc phòng, ...

Chính phủ ban hành quy định rõ nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước: nhiệm

vụ kinh tế- xã hội và nhiệm vụ kinh doanh. Doanh nghiệp chỉ nên hoạt động trong

những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không muốn làm. Ngay cả với các lĩnh vực này,

chính phủ có thể cân nhắc mua các dịch vụ tương tự từ các nhà cung ứng của khu vực

tư nhân. Từ đó xây dựng hai bộ tiêu chí để đánh giá kết quả hoạt động của doanh

nghiệp nhà nước. Hiện nay do chưa phân biệt rõ hai chức năng này trong hạch toán

dễ dẫn đến các tiêu cực, làm méo mó thị trường.

Thứ sáu, Hoàn thiện chính sách với người lao động.

Lập quỹ hỗ trợ người lao động vay mua cổ phiếu. Có thể khẳng định cổ phần

hóa không phải là tư nhân hóa mà là tập thể hóa, liên hiệp hóa, hợp tác hóa. Vấn đề

cốt lõi của quá trình cổ phần hóa là đem lại lợi ích cho người lao động trực tiếp của

doanh nghiệp, cho nhà nước, cho nhà đầu tư trên cơ sở nâng cao sức cạnh tranh của

doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi thực hiện chủ trương cổ

phần hóa, người lao động ở nước ta vẫn phải làm việc với những điều kiện lao động,

sản xuất khó khăn và tiền công thấp, vì vật họ không có tiền dư để mua cổ phiếu? Vì

vậy, nhà nước có nên lập một quỹ hỗ trợ cho công nhân vay mua cổ phiếu? Như vậy,

câu hỏi “Cổ phần hóa để đem lại lợi ích cho ai?” sẽ được giải quyết. Trong các nghị

định của chính phủ về chủ trương cổ phần hóa, không một nghị định nào về việc lập

quỹ hỗ trợ cho người lao động vay mua cổ phiếu mà chỉ có một vài ưu đãi. Quỹ hỗ

trợ cho người lao động vay mua cổ phần được hình thành từ nhiều nguồn và nguồn

quan trọng là lấy từ giá trị tư liệu sản xuất của chính doanh nghiệp được cổ phần hóa.

Quỹ hỗ trợ cho người lao động vay mua cổ phiếu lấy từ một phần giá trị tư liệu sản

xuất là việc nên làm, không những không ảnh hưởng đến sản xuất mà còn tạo ra niềm

tin, sự phấn khởi cho người lao động. Từ đó, khiến họ quan tâm, nhiệt huyết hơn cho

hoạt động của doanh nghiệp.

Thực hiện đồng bộ các chính sách đối với người lao động sau cổ phần hóa. Có

thể nhận thấy rằng, các chế độ giải quyết lao động dôi dư tuy đã được Nhà nước quan

tâm song chủ yếu mới tập trung vào mục tiêu giải quyết cho người lao động rời khỏi

doanh nghiệp mà chưa chú ý đến việc tạo điều kiện và cơ hội cho lao động dôi dư tìm

82

việc làm mới, để người lao động yên tâm khi rời khỏi doanh nghiệp. Vì vậy, để tháo

gỡ những vướng mắc này, Nhà nước cần có chính sách để xử lý lao động dôi dư, có

nguồn tài chính để thực hiện chính sách này trước khi cổ phần hoá theo hướng:

Chính sách đối với người lao động phải phù hợp với thực tế, quyền lợi cần

được bảo đảm, nhất là đối tượng lao động không bố trí được việc làm được hưởng

các quyền lợi như: được mua cổ phần ưu đãi, hưởng quỹ phúc lợi khen thưởng còn

dư tại thời điểm cổ phần hoá công bằng như những người lao động tiếp tục được làm

việc tại công ty cổ phần, chế độ bảo hiểm xã hội được hưởng theo thời gian đã đóng.

Cần có chính sách kích cầu lao động như hỗ trợ vốn ban đầu cho những người

kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các chương trình tạo

công ăn việc làm cho người lao động, xuất khẩu lao động, qua đó giảm sức ép về dư

thừa lao động, chuyển dịch lao động dư thừa ở doanh nghiệp sau cổ phần hoá sang

khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt chính sách giảm

cung về lao động, bao gồm các chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách

di dân sang khu vực ít bị sức ép dư thừa lao động.

Doanh nghiệp khi cổ phần hoá phải luôn kịp thời cập nhật các thông tin, văn

bản pháp quy của Nhà nước quy định cho các doanh nghiệp cổ phần để thực hiện

đúng quy định của pháp luật và điều hành công ty được tốt, đồng thời bảo đảm được

quyền lợi của người lao động và các cổ đông. Cần thu thập thông tin, học hỏi kinh

nghiệm tốt, các mô hình hay của các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hoá về giải

quyết lao động dôi dư để phổ biến cho người lao động hiểu rõ hơn các chế độ chính

sách. Đồng thời, phải thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát việc thực

hiện chính sách đối với người lao động để kịp thời ngăn chặn tình trạng thực hiện

không đúng theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp cần chủ động tháo gỡ các

khó khăn, vướng mắc theo đặc thù riêng của mỗi doanh nghiệp.

Doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi

dưỡng cho người lao động và cán bộ quản lý công ty về quyền của cổ đông, của các

cơ quan quản lý trong công ty, trình tự, thủ tục thông qua các quyết định quan trọng

của công ty nhằm làm cho cổ đông nắm được các quy định pháp lý, tránh tình trạng

xung đột trong nội bộ công ty hoặc tình trạng chỉ là “chủ hình thức” của các cổ đông

nhỏ trong công ty sau chuyển đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt

83

động của công ty sau cổ phần hóa.

Phát huy dân chủ, tinh thần chủ động, sáng tạo, đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm

của người lao động và cổ đông trong công ty. Người lao động nắm cổ phần của công

ty với tư cách là người chủ doanh nghiệp nên hành vi của họ cần được khích lệ. Con

đường căn bản để phát huy đầy đủ tính tích cực của người lao động là chủ động tạo

điều kiện cho họ tham gia vào việc phân phối quyền sở hữu tài sản của công ty. Cụ

thể là thông qua mối quan hệ giữa cống hiến lao động, thù lao lao động của người lao

động với hiệu quả kinh doanh của công ty. Làm cho họ đồng thời trở thành người lao

động và người chủ sở hữu của doanh nghiệp, thực hiện sự thống nhất hữu cơ giữa

nhân lực và tài lực.

Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc giải quyết lao động dôi dư,

vì tổ chức công đoàn thực hiện những công việc như: tổ chức tuyên truyền cho người

lao động, cổ đông về chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá, các chế độ

chính sách đối với công ty cổ phần để người lao động hiểu rõ mục đích, yêu cầu,

quyền lợi, trách nhiệm của người lao động, nhằm tạo ra sự nhất trí cao trong công ty

để thực hiện cổ phần hóa đạt kết quả tốt. Nghị định 59/2011/NĐ-CP của Chính phủ

quy định công đoàn cơ sở tại doanh nghiệp được sử dụng nguồn quỹ công đoàn tại

doanh nghiệp cổ phần hóa (theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật Công đoàn; không

huy động, vay vốn) để mua cổ phần ưu đãi nhưng không quá 3% vốn điều lệ. Số cổ

phần ưu đãi này do tổ chức công đoàn nắm giữ nhưng không được chuyển nhượng.

Công đoàn có thể sử dụng một phần cổ tức của cổ phần này hỗ trợ cho người lao động

được đào tạo lại hoặc tìm việc làm mới.

Thứ bảy, Hoàn thiện các quy định pháp luật về cổ phần hóa

Các quy định liên quan đến cổ phần hóa hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc

đòi hỏi cần có sự thay đổi và hoàn thiện hơn nữa.

Một là vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp. Xác định giá trị doanh nghiệp là

một vấn đề quan trọng với rất nhiều vướng mắc. Các nghị định hướng dẫn tiến hành

cổ phần hóa đến nay đã cố gắng hoàn thiện các quy định về xác định giá trị doanh

nghiệp nhưng trên thực tế, những bất cập vẫn phát sinh. Thiết nghĩ, trong thời gian

tới, Chính phủ nên có những sửa đổi về vấn đề này để tiến trình cổ phần hóa đạt hiệu

84

quả hơn.

Theo nghị định 59/2011/NĐ- CP, các khoản đầu tư tài chính tại các doanh

nghiệp chưa niêm yết được định giá theo phương pháp vốn chủ sở hữu. Phương pháp

này hoàn toàn không phản ánh được tính thị trường của các khoản đầu tư nên việc

định giá doanh nghiệp khó đảm bảo tính xác thực và minh bạch. Vậy, thay vì sử dụng

phương pháp vốn chủ sở hữu như hiện nay, các khoản đầu tư vào doanh nghiệp chưa

niêm yết, doanh nghiệp bị hủy niêm yết nên có phương pháp định giá khác hợp lý

hơn.

Theo quy định hiện hành, với khoản vốn góp bằng ngoại tệ, khi xác định giá

trị doanh nghiệp thì được định giá lại theo tỷ giá hiện thời, trong khi doanh nghiệp

nhận góp vốn đã vốn hóa khoản vốn này theo tỷ giá tại thời điểm nhận vốn góp, dẫn

đến khoản chênh lệch tăng do đánh giá lại giá trị ngoại tệ. Việc này không được đơn

vị nhận góp vốn thừa nhận vì tạo nguồn vốn ảo cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Vậy, các khoản vốn góp bằng ngoại tệ nên được định giá lại theo cơ chế nào?

Bên cạnh đó, khi xử lý tài chính, điều 15, nghị định 59/2011/NĐ-CP quy định,

doanh nghiệp phải hoàn nhập dự phòng các khoản phải thu khó đòi không đủ điều

kiện để loại trừ ra khỏi giá trị doanh nghiệp. Điều này dẫn tới sau khi cổ phần hóa,

công ty cổ phần không có nguồn quỹ để bù đắp cho những tổn thất xảy ra đối với các

khoản nợ phải thu khó đòi tồn tại từ giai đoạn là doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa,

tại thời điểm bàn giao doanh nghiệp, trong khi các tài sản khác không định giá lại, thì

chính sách hiện hành quy định doanh nghiệp phải định giá lại các khoản đầu tư tài

chính là không phù hợp về tính chất tài chính. Bất hợp lý này có thể dẫn tới phải điều

chỉnh lại quy mô vốn điều lệ của công ty cổ phần, trong khi xử lý việc này rất phức

tạp. Để tránh việc điều chỉnh lại quy mô vốn điều lệ của công ty cổ phần, Bộ Tài

chính nên xem xét và đề xuất Chính phủ ban hành cơ chế không định giá lại các khoản

đầu tư tài chính khi thực hiện bàn giao vốn nhà nước sang công ty cổ phần.

Một vấn đề nữa trong xác định giá trị doanh nghiệp là việc tính lợi thế kinh

doanh căn cứ vào lợi nhuận bình quân 3 năm gần nhất như quy định tại thông tư

2002/2011/TT- BTC hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi

thực hiện chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy

định tại Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ là không hợp

85

lý vì chưa phản ánh đúng lợi thế kinh doanh do khoản thời gian quá ngắn, không phù

hợp với doanh nghiệp kinh doanh những sản phẩm có tính chất chu kỳ. Vậy có nên

sử dụng lợi nhuận bình quân của 10 năm trước khi cổ phần hóa để tính lợi thế kinh

doanh của doanh nghiệp? Điều này sẽ phản ánh hợp lý hơn giá trị doanh nghiệp.

Hai là xác định đối tượng mua cổ phần. Các văn bản pháp luật về cổ phần hóa

nên tiếp tục hoàn thiện các quy định về đối tượng mua cổ phần, tạo điều kiện để nhà

đầu tư chiến lược thực hiện một cách hiệu quả vai trò của mình trong doanh nghiệp

sau cổ phần. Với những quy định hiện hành, các nhà đầu tư không quá mặn mà trong

việc đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước khiến việc tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược,

bán cổ phần gặp nhiều khó khăn. Tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi mua cổ phần

của người lao động để họ thực sự phát huy vai trò làm chủ của mình.

Ba là xử lý đối với các khoản nợ khó đòi. Theo nghị 59/2011/NĐ- CP, các

khoản nợ khó đòi không được loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp mà phải tiến hành xác

định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức. Quy định như vậy sẽ tạo ra giá trị ảo của doanh

nghiệp khi việc xác định trách nhiệm và thu hồi khoản nợ đó là rất khó khăn. Vậy

nên, quy định này nên được thay đổi cho phù hợp hơn.

Bốn là vấn đề giá trị thương hiệu. Các văn bản liên quan đến cổ phần hóa luôn

xác định giá trị thương hiệu là một bộ phận trong giá trị doanh nghiệp- giá trị lợi thế

kinh doanh của doanh nghiệp. Sau đó, giá trị thương hiệu được giải thích bao gồm

nhãn hiệu và tên thương mại. Trên thực tế, thương hiệu không phải là một loại tài sản

được ghi nhận trong luật sở hữu trí tuệ. Các quy định pháp luật có nên loại bỏ khái

niệm này, thay vào đó, trực tiếp quy định các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu và tên

thương mại hay không?

Cuối cùng là vấn đề sở hữu vốn nhà nước trong doanh nghiệp. Quyết định

37/2014/QĐ- TTg đã quy định 16 lĩnh vực mà nhà nước phải nắm giữ 100% vốn

trong các doanh nghiệp. Xem xét lại các lĩnh vực đó, liệu có nên thu hẹp hơn nữa các

lĩnh vực này để thúc đẩy quá trình giải phóng nguồn vốn nhà nước, huy động có hiệu

86

quả các nguồn vốn từ bên ngoài?

KẾT LUẬN

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là giải pháp cơ bản và quan trọng trong

quá trình sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước nói riêng và toàn nền

kinh tế nói chung nhằm đa dạng loại hình doanh nghiệp, đa dạng nguồn vốn sở hữu,

phát triển có hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động,

có hiệu quả, phát huy vai trò làm chủ của người lao động và các nhà đầu tư, tăng

cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp. Do vậy, chủ trương cổ phần hóa

cần được tiếp tục đẩy mạnh, phát triển, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các thành

phần kinh tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Khóa luận đã đề cập đến những vấn đề cơ bản như:

- Khái quát chung về doanh nghiệp nhà nước, vị trí, vai trò của doanh nghiệp

nhà nước trong nền kinh tế.

- Khái quát chung về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đặc điểm, vai trò

của cổ phần hóa và sự tất yếu phải cổ phần hóa.

- Phân tích những quy định hiện hành về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

- Phân tích những thành tựu đạt được, những hạn chế gặp phải trong quá trình

cổ phần hóa.

- Đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện nhằm thúc đẩy quá trình cổ

phần hóa.

Nghiên cứu, lựa chọn đề tài “Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước tại Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp, em mong muốn đưa ra

những ý kiến phân tích lý luận và thực tiễn trong quá trình cổ phần hóa, đưa ra những

kiến nghị hoàn thiện về mặt pháp luật cũng như thực tiễn thi hành nhằm góp phần

nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên, do hạn chế về kiến thức và thông tin trong khi cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước là vấn đề lớn, phức tạp với phạm vi nghiên cứu rộng nên khóa luận

không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, em mong nhận được những ý kiến

87

đóng góp từ thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà

Nội đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường.

Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Thạc sĩ Nguyễn Đăng Duy đã dành thời

gian hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.

Sinh viên

88

Nguyễn Thị Ngàn

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Phạm Thị Vân Anh, TS. Đoàn Hương Quỳnh (2015), Thực trạng và giải pháp

đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tapchitaichinh.vn.

2. Bộ Công thương (2015), Hội nghi tổng kết công tác tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái

vốn doanh nghiệp thuộc Bộ Công thương giai đoạn 2011- 2015, kế hoạch 2016- 2020,

Moit.gov.vn.

3. Bộ Xây dựng (2014), Đánh giá những kết quả trong quá trình thực hiện cổ phần hóa,

đổi mới và thực hiện đề án tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, dl.eub.edu.vn.

4. Chính phủ (1996), Nghị định số 28-CP ngày 07/05/1996 về chuyển một số doanh

nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

5. Chính phủ (1997), Nghị định số 25-CP ngày 26/03/1997 sửa đổi một số điều của Nghị

định số 28/CP ngày 07/05/1996 về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công

ty cổ phần.

6. Chính phủ (1998), Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 về chuyển doanh

nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

7. Chính phủ (2002). Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/06/2002 về việc chuyển

doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.

8. Chính phủ (2004), Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về việc chuyển

công ty nhà nước thành công ty cổ phần.

9. Chính phủ (2007), Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/06/2007 về chuyển doanh

nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.

10. Chính phủ (2011), Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 về chuyển doanh

nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.

11. Chính phủ (2013), Nghị định 189/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013 sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về

chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhad nước thành công ty cổ phần.

12. Chính phủ (2015), Nghị định 116/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của Chính phủ về

chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.

13. TS. Trần Tiến Cường, Một số vấn đề về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (2015),

89

kinhtetrunguong.vn.

14. Doãn Thị Dung (2010), Thi hành pháp luật về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật, Khoa luật

(ĐHQGHN), Hà Nội.

15. Thùy Dương (2015), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Khó thể về đích “đúng

hẹn”, Thông tấn xã Việt Nam, Vietnamplus.vn.

16. THS. Hoàng Anh Duy, THS. Lê Việt Anh, trường Đại học Ngoại thương (2013),

Thực trạng quản trị doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa tại Việt Nam, Tạp chí

kinh tế đối ngoại, ieit.edu.vn.

17. Trần Hồng Điệp (2004), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam- Lý luận

và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật, Khoa luật (ĐHQGHN), Hà Nội.

18. Hoàng Thị Hồng Đoan (2012), Thi hành pháp luật cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước trong quá trình cổ phần hóa công ty Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao, Luận

văn Thạc sĩ Luật, Khoa luật (ĐHQGHN), Hà Nội.

19. Hoàng Thị Thu Hiền (2008), Cổ phần hóa Vietcombank- Cơ hội và thách thức, Khóa

luận tốt nghiệp, Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế, Trường đại học ngoại thương,

Hà Nội.

20. Tô Hoàng (2013), Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2011/NĐ-CP

của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.

21. Hương Ly (2016), Thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Lại “lỗi hẹn”, báo

VOV, vov.vn.

22. TS. Nguyễn Thị Luyến (2015), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước- “Cú hích” để

phát triển, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Tapchigiaothong.vn.

23. THS. Nguyễn Duy Long (2013), Tiếp tục hoàn thiện chính sách cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước, Tạp chí tài chính số 8/2013, Tapchitaichinh.vn.

24. Nguyễn Tiến Long (2014), Những điểm thắt được gỡ trong cơ chế cổ phần hóa mới,

Tinnhanhchungkhoan.vn.

25. Nguyễn Nhâm (2014), Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,

tapchicongsan.org.vn.

26. THS. Dương Thu Phương (2014), Nghị định 189/2013/NĐ-CP: Thêm lực đẩy cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Tài chính số 12/2013, tapchitaichinh.vn.

90

27. Quốc hội (1995), Luật Doanh nghiệp nhà nước số 39-L/CTN ngày 20/04/1995.

28. Quốc hội (2003), Luật của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam số

14/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về doanh nghiệp nhà nước.

29. Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.

30. Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, ngày 26/11/2014.

31. Đỗ Mai Thành (2008), Nhìn lại quá trình cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta, Tạp chí Cộng sản số 102/2006.

32. Đinh La Thăng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (2015),

Giải pháp thúc đẩy tái cơ cấu, cổ phần hóa doanh nghiệp, nhandan.com.vn.

33. PGS.TS. Trần Đình Thiên và cộng sự (2015), Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước: Các

điểm nghẽn và giải pháp thúc đẩy, dl.ueb.edu.vn.

34. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/07/2012 phê duyệt

đề án ”Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty

nhà nước giai đoạn 2011- 2015”.

35. Nguyễn Gia Trọng (2009), Những vấn đề pháp lý về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước trong quân đội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật (ĐHQGHN), Hà Nội.

36. Hoàng Trung (2015), Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước- Một năm nhìn lại,

m.vietnamnet.vn.

37. TS. Trần Văn, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính- ngân sách của Quốc Hội (2014),

Những ưu tiên trong tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, duthaoonline.quochoi.vn.

38. Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (2015), Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước

giai đoạn 2014- 2015, mof.gov.vn.

39. Viện nghiệp cứu quản lý kinh tế trung ương (2014), Tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà

nước: thực trạng, vấn đề và gợi ý giải pháp thúc đẩy, Trung tâm thông tin- tư liệu- số

91

03/2014, vnep.org.vn.