ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MỸ LINH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI
Chuyên ngành: Luật Kinh Doanh Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2013-L Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Đăng Duy
Hà Nội – 2017
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 5
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài. ................................................................ 5
3.Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 6
4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 6
5.Cơ cấu của luận văn. ................................................................................................ 6
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................ 7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT CỨU
TRỢ XÃ HỘI. ............................................................................................................. 7
1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI. .......................................... 7
1.1. Khái niệm cứu trợ xã hội ...................................................................................... 7
1.2. Đặc điểm của hoạt động cứu trợ xã hội. .............................................................. 8
1.2.1. Đối tượng của hoạt động cứu trợ xã hội. .......................................................... 8
1.2.2. Đối tượng được trợ cấp không phải đóng góp vào quỹ tài chính ..................... 9
1.3. Vai trò và mục tiêu của cứu trợ xã hội ............................................................... 10
1.3.1. Vai trò của cứu trợ xã hội ................................................................................ 10
1.3.2. Mục tiêu của cứu trợ xã hội ............................................................................ 11
1.4. Những quan điểm cơ bản trong cứu trợ xã hội .................................................. 11
2.KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI. .......................................... 13
2.1. Khái niệm pháp luật cứu trợ xã hội .................................................................... 13
2.2. Những đặc trưng cơ bản của pháp luật cứu trợ xã hội ....................................... 15
3.CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ CỨU TRỢ XÃ HỘI. ................. 16
3.1. Nguyên tắc mức trợ cấp cứu trợ xã hội không phụ thuộc vào sự đóng góp, thu
nhập hoặc mức sống trước khi phát sinh nhu cầu cứu trợ mà phụ thuộc vào nhu cầu
chi tiêu, tình trạng tài sản thực tế của đối tượng.(17) .................................................. 17
3.2. Nguyên tắc cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tượng với khả năng đáp ứng
nhu cầu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội (18) ................................................. 18
2
3.3. Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động CTXH.(19) .......................... 19
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ
HỘI TẠI VIỆT NAM ................................................................................................ 20
1.CÁC CHỦ TRƯƠNG,CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CỨU
TRỢ XÃ HỘI. ........................................................................................................... 20
2.PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI. .......................................... 36
2.1.Về đối tượng và điều kiện hưởng cứu trợ xã hội ................................................ 36
2.1.1. Đối tượng và điều kiện được cứu trợ xã hội thường xuyên ............................ 36
Bảng 1.(21) .................................................................................................................. 40
Bảng 2(22) ................................................................................................................... 42
Bảng 3(23) ................................................................................................................... 42
2.1.2.Đối tượng và điều kiện được cứu trợ xã hội đột xuất: ..................................... 44
2.2. Các hình thức cứu trợ xã hội .............................................................................. 47
2.2.1. Cứu trợ bằng tiền ............................................................................................. 47
2.2.2. Cứu trợ bằng hiện vật ...................................................................................... 48
2.3.Các chế độ cứu trợ xã hội .................................................................................... 49
2.3.1.Cứu trợ xã hội thường xuyên. .......................................................................... 49
2.3.2. Cứu trợ xã hội đột xuất: .................................................................................. 52
2.3.Nguồn kinh phí, tài chính thực hiện cứu trợ xã hội ............................................ 61
2.4.1.Nguyên tắc sử dụng nguồn tài chính: ............................................................... 64
2.4.2. Các biện pháp để huy động nguồn lực cứu trợ xã hội..................................... 64
3.CƠ CẤU TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỨU TRỢ XÃ HỘI VIỆT NAM. .............. 66
CHƯƠNG 3: NHỮNG BẤT CẬP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ............................................................ 69
1.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN,HẠN CHẾ
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG CỨU TRỢ Ở VIỆT NAM.... 69
2.KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG CỨU TRỢ
XÃ HỘI. .................................................................................................................... 76
2.1.Hệ thống an sinh xã hội Đức (24) ......................................................................... 77
2.2.Công tác bảo trợ xã hội ở Liên Bang Nga (25) ..................................................... 77
2.4.Hệ thống an sinh xã hội Nhật Bản (26) ................................................................. 78
3
2.6.Công tác cứu trợ xã hội của Trung Quốc (27) ....................................................... 79
3.GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM.......................................................................................................................... 79
3.1. Yêu cầu đối với hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội ......................................... 79
3.1.1. Nhận thức đúng vai trò của cứu trợ xã hội ở nước ta hiện nay: ...................... 79
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật CTXH phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất
nước ........................................................................................................................... 80
3.1.3.Hoàn thiện pháp luật CTXH nhằm mở rộng hơn nữa đối tượng CTXH hướng
tới mục tiêu bao quát toàn bộ dân số. ........................................................................ 81
3.1.4.Hoàn thiện pháp luật CTXH phải hướng tới thiết lập được pháp luật CTXH
tiến bộ, kế thừa thành tựu lập pháp, khắc phục những hạn chế của pháp luật CTXH
hiện hành. .................................................................................................................. 82
3.2. Một số giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội ............................. 82
3.2.1. Về đối tượng và điều kiện hưởng CTXH. ....................................................... 83
3.2.2. Về chế độ áp dụng đối với các đối tượng hưởng CTXH ................................ 86
3.2.3. Nguồn kinh phí thực hiện CTXH .................................................................... 87
3.2.4.Trong công tác tổ chức thực hiện. .................................................................... 87
3.3.5.Ban hành Luật cứu trợ xã hội ........................................................................... 89
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 91
4
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Cứu trợ xã hội (CTXH) là một trong những thiết chế quan trọng của hầu
hết các quốc gia nhằm giúp đỡ những người “yếu thế” trong xã hội khắc phục
cuộc sống khó khăn và sớm ổn định,hòa nhập vào cộng đồng.
Dựa theo tình hình hiện nay,khi kinh tế thị trường ngày một phát triển
mạnh,thúc đẩy sản xuất,tăng sức cạnh tranh,nâng cao năng suất thì bên cạnh
đó xã hội nước ta còn tồn tại rất nhiều hạn chế,rủi ro đối với môi trường sống
như:thiên tai-bão lũ,ô nhiễm môi trường ngày càng nhiều;đặc biệt sự phân
hóa giàu nghèo,bất bình đẳng trong xã hội ngày càng thể hiện rõ rệt.Chính vì
vậy,CTXH là nội dung cần được quan tâm và nghiên cứu cấp thiết hơn bao
giờ hết.
Ngoài ra,trong công tác CTXH Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều
thành tựu đáng kể,tuy nhiên trong quá trình thực hiện các quy định của pháp
luật CTXH hiện hành vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định,chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển xã hội cũng như độ bao phủ tới các đối tượng.Vì
vậy,việc nghiên cứu nội dung của CTXH nhằm mục đích tìm ra những hạn
chế,khe hở và đề ra những biện pháp khắc phục ,xây dựng và hoàn thiện pháp
luật CTXH ở nước ta.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Thứ nhất,nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động CTXH và
pháp luật cứu trợ xã hội (PLCTXH) như:khái niệm,bản chất,mục tiêu,nội
dung…
Thứ hai,phân tích và đánh giá thực trạng các quy định về CTXH với các
nội dung cơ bản như đối tượng CTXH,điều kiện hưởng CTXH,tổ chức thực
hiện…
Thứ ba,chỉ ra những kết quả đạt được cũng như các nội dung còn hạn chế
của pháp luật hiện hành về CTXH cần được hoàn thiện.Từ đó,đưa ra những
5
giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật CTXH ở nước
ta.
3.Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích,tổng hợp:nghiên cứu,phân tích,tiếp thu có chọn
lọc các nghiên cứu khoa học có giá trị của các nhà nghiên cứu đi trước,cũng
như các quy định pháp luật của các nước trên thế giới trong một số nội dung
nhất định.
Phương pháp so sánh:sử dụng trong các trường hợp phân biệt một số khái
niệm và trong trường hợp cần thiết so sánh nội dung cụ thể của pháp luật
CTXH Việt Nam với quy định pháp luật các nước trên thế giới.
Phương pháp khảo sát thực tiễn:Tìm hiểu,thu thập các số liệu về công tác
CTXH qua các năm gần đây.Qua đó cung cấp cho luận văn những số liệu
minh chứng thuyết phục và có tính khoa học cao.
4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu những nội dung cơ bản của hoạt động
CTXH và PLCTXH.
5.Cơ cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu,kết luận,danh mục tài liệu tham khảo,luận văn gồm
3 chương:
Chương 1:Những vấn đề lý luận về cứu trợ xã hội và pháp luật về cứu
trợ xã hội
Chương 2:Thực trạng chính sách và pháp luật cứu trợ xã hộ
Chương 3:Những bất cập và phương hướng hoàn thiện pháp luật CTXH
ở Việt Nam.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI
VÀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI.
1.NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI.
1.1. Khái niệm cứu trợ xã hội
Hoạt động cứu trợ xã hội là hoạt động của cộng đồng xuất phát từ bản
chất nhân văn cao đẹp giữa người với người, khi bất kỳ ai đó không may lâm
vào cảnh hoạn nạn khó khăn. Không giống như bảo hiểm xã hội hay ưu đãi xã
hội, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính rộng khắp về phạm vi và về chủ
thể. Trong cứu trợ xã hội, mỗi thành viên thực hiện vai trò riêng của mình.
Tuy nhiên hoạt động cứu trợ xã hội không chỉ là của cá nhân, tổ chức đơn
thuần trong xã hội mà là trách nhiệm chính của Nhà nước. Với tư cách là đại
diện của xã hội, Nhà nước có trách nhiệm cao nhất trong viêc tổ chức các hoạt
động cứu trợ xã hội bởi Nhà nước có chức năng xã hội là bảo vệ cuộc sống
của các công dân trong cộng đồng luôn được ổn định. Quan tâm đến các đối
tượng cần cứu trợ là một vấn đề tất yếu trong quá trình phát triển lịch sử của
Nhà nước.
Tại Việt Nam, cứu trợ xã hội đang là một trong những vấn đề được Đảng
và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nhất là trong thời gian vừa qua, có không ít
những vùng miền tại đất nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai hay
những thảm họa môi trường. Thông qua việc ban hành hang loạt các văn bản,
Nhà nước đã và đang tạo một hành lang pháp lý cho hoạt động cứu trợ xã hội
được thực hiện trên thực tế. Các chính sách, pháp luật về cứu trợ xã hội do
nhà nước ban hành, xây dựng là cơ sở quan trọng để các tổ chức, cơ quan, cá
nhân tiến hành các hoạt động cứu trợ xã hội. Đó là những quy phạm đảm bảo
sự công bằng, minh bạch, đúng đắn và khẳng định tính hợp pháp của hoạt
động này.
7
Cứu trợ xã hội do đó là một thuật ngữ thường xuyên được các sách báo,
tạp chí nhắc đến và đưa ra bàn luận nhưng cho đến hiện nay thuật ngữ này
vẫn chưa được ghi nhận một cách chính thức trong hệ thống các văn bản pháp
luật của nước ta. Vậy cứu trợ xã hội là gì?
Có thể hiểu theo nghĩa thông thường, cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của xã
hội bằng nguồn tài chính của Nhà nước và cộng đồng đối với các thành viên
găp khó khăn, bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống như thiên tai, hỏa hoạn, bị tàn
tật, già yếu…dẫn đến mức sống quá thấp, lâm vào cảnh neo đơn-túng quẫn,
nhằm giúp họ đảm bảo được điều kiện sống tối thiểu, vượt qua cơn khốn khó
và vươn lên trong cuộc sống bình thường.
Xem xét dưới góc độ an sinh xã hội, cứu trợ xã hội được xem là một hình
thức quan trọng, là chế độ đảm bảo xã hội đối với các thành viên trong cộng
đồng, nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài
trong cuộc sống. Việc đảm bảo này thông qua các hoạt động cung cấp tài
chính, tiền bạc, vật phẩm, các điều kiện vật chất khác trong một thời hạn hoặc
trong suốt quá trình sống (suốt cuộc đời) của đối tượng.
Cứu trợ xã hội được coi như là “lưới đỡ cuối cùng” trong hệ thống các
lưới đỡ an sinh xã hội. Nó được coi là chế độ đảm bảo cộng đồng mang tính
nhân đạo, nhân văn rất cao, thể hiện tình người rõ rệt.
1.2. Đặc điểm của hoạt động cứu trợ xã hội.
1.2.1. Đối tượng của hoạt động cứu trợ xã hội.
Đối tượng của cứu trợ xã hội có thể là gia đình, có thể là cá nhân. Họ là
những người hoặc nhóm người vì một lý do nào đó rơi vào hoàn cảnh yếu thế,
thiệt thòi hơn những người khác trong xã hội, cần có sự giúp đỡ, cứu tế từ
Nhà nước và cộng đồng để đảm bảo cuộc sống bình thường.
Khi xem xét đối tượng được cứu trợ xã hội, cần phải nhìn nhận từ cả
phương diện kinh tế và xã hội.
Về phương diện kinh tế, đối tượng được cứu trợ là những người không
may gặp rủi ro, khó khăn, bất hạnh trong cuộc sống khiến cho mức thu nhập
8
của họ thấp hơn nhiều so với mức sống tối thiểu chung của cộng đồng, thậm
chí khiến cho cuộc sống của họ rơi vào tình cảnh bị đe dọa.
Về phương diện xã hội, đối tượng được cứu trợ là những người gặp bất
hạnh trong cuộc sống cần có sự nâng đỡ, trợ giúp cả về vật chất và tinh thần,
không phân biệt vị thế và thành phần xã hội, để đảm bảo cuộc sống bình
thường, không bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Có thể nói, đối tượng của cứu trợ xã hội rất đa dạng, bao gồm:
Những người tàn tật trong cộng đồng: là những người bị khiếm khuyết -
một hay nhiều bộ phận hoặc chức năng biểu hiện dưới các dạng tật khác nhau,
làm suy giảm khả năng lao động.
Những người già yếu từ cộng đồng: chủ yếu là những người già cô đơn -
không nơi nương tựa ,thiếu thốn về thu nhập và sinh hoạt.
Đối tượng tiếp theo là trẻ em: trẻ em là mầm non của đất nước, luôn -
được toàn xã hội quan tâm, nhất là một số bộ phận trẻ em rơi vào tình cảnh
bất hạnh và dễ tổn thương.
Ngoài các nhóm đối tượng nêu trên, còn có các nhóm đối tượng khác -
như người bị nhiễm HIV/AIDS, người lang thang xin ăn, những người nghiện
hút ma túy, những người hoạt động mại dâm… Trong thời gian gần đây, các
tệ nạn xã hội đang có điều kiện thuận lợi để phát triển khiến cho số lượng
nhóm người này tăng lên nhanh chóng.
Ngoài các cá nhân yếu thế, dễ bị tổn thương trong cộng đồng thì đối
tượng được hưởng cứu trợ xã hội còn được xác định theo hộ gia đình, chẳng
hạn như hộ gia đình rất nghèo, các hộ gia đình rất khó khăn…
1.2.2. Đối tượng được trợ cấp không phải đóng góp vào quỹ tài chính
Nguồn quỹ dùng cho hoạt động cứu trợ xã hội được lấy từ thuế hoặc từ
đóng góp của cộng đồng. Điều này là ngược lại với bảo hiểm xã hội. Trong
bảo hiểm xã hội, nguồn quỹ được bên tham gia bảo hiểm đóng góp là chủ
yếu. Những tổ chức cá nhân muốn được nhận bảo hiểm bắt buộc phải tham
gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm chỉ có một phần là từ sự hỗ trợ
9
của Nhà nước. Nguồn quỹ bảo hiểm sẽ được dùng để bù đắp hoặc thay thế
phần thu nhập bị giảm hay mất đi của người tham gia bảo hiểm khi gặp phải
những biến cố theo quy luật “số đông bù số ít”.
Đối với trợ cấp xã hội, người được trợ cấp hoàn toàn không phải đóng
góp vào quỹ tài chính nào. Mức trợ cấp tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể và
được xác định dựa vào việc thẩm tra đánh giá thu nhập, tài sản và hoàn cảnh
của người được xét trợ cấp. Trợ cấp cũng có thể là bằng tiền hoặc hiện vật,
khác với bảo hiểm xã hội hầu như chỉ toàn bằng tiền.
1.3. Vai trò và mục tiêu của cứu trợ xã hội
1.3.1. Vai trò của cứu trợ xã hội
Vai trò của cứu trợ xã hội tùy thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia cũng như nguyên nhân cụ thể gây tổn thương cho người dân nước
đó. Nhìn chung, cứu trợ xã hội bao gồm những vai trò cơ bản sau:
Một là, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của những cá nhân và nhóm dân cư
yếu thế, dễ bị tổn thương trong cộng đồng, từ đó giúp họ đối phó với những
khủng hoảng bất ngờ, vượt qua được những khó khăn để tồn tại.
Hai là, góp phần phòng ngừa và giảm thiểu các khả năng dễ bị tổn
thương của những cá nhân và nhóm dân cư yếu thế. Điều này được thể hiện rõ
qua hoạt động trợ giúp xã hội, hoạt động này thường tập trung vào nhóm dân
cư bị thua thiệt nhất hoặc dễ bị tổn thương nhất trong cộng đồng, từ đó giúp
họ thoát ra khỏi cảnh nghèo đói, khó khăn dai dẳng trong cuộc sống… ví dụ
như phụ cấp gia đình có thể giúp trẻ em trong các gia đình hộ nghèo không bị
mất cơ hội đến trường…
Ba là, góp phần làm cho hệ thống an sinh xã hội được toàn diện hơn. Cứu
trợ xã hội đã khắc phục được hạn chế của bảo hiểm xã hội (chưa có tính phổ
cập; không thể bao trùm hết cả bộ phận dân cư cũng như chỉ mới đưa ra mức
hỗ trợ hạn chế), nó cung cấp bảo vệ bổ sung, đảm bảo tất cả mọi người trong
xã hội đều được giúp đỡ khi gặp rủi ro.
10
Bốn là, góp phần phát triển một xã hội hài hòa và bền vững, đưa những
người được cứu trợ ra khỏi hoàn cảnh khó khăn, thoát khỏi tâm lý mặc cảm,
vươn lên hòa nhập vào cộng đồng .Từ đó giúp phát triển tăng trưởng và phát
triển nền kinh tế.
1.3.2. Mục tiêu của cứu trợ xã hội
Hoạt động cứu trợ xã hội nhắm đến các mục tiêu sau:
Chuyển nhượng các nguồn lực cho các cá nhân, hộ gia đình rơi vào tình
trạng túng quẫn và dễ bị tổn thương nhất. Từ đó giúp họ đảm bảo được mức
sống tối thiểu và cải thiện điều kiện sống.
Làm giảm sự chênh lệch mức sống cả về vật chất lẫn tinh thần giữa các
thành viên trong xã hội, không để ai rơi vào hoàn cảnh cùng cực tuyệt vọng
hoặc bị bỏ rơi; xây dựng lối sống tốt đẹp giàu lòng nhân ái-nhân văn giữa con
người với nhau; xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp văn minh.
1.4. Những quan điểm cơ bản trong cứu trợ xã hội
Cứu trợ xã hội thường được nhắc đến thông qua hai hoạt động: cứu tế xã
hội và trợ giúp xã hội. Cứu tế xã hội là sự trợ giúp của cộng đồng bằng hiện
vật, có tính tức thời, khẩn cấp và ở mức độ cần thiết cho người được trợ cấp
khi họ rơi vào hoàn cảnh bần cùng, khó khăn, không còn khả năng tự lo liệu
cuộc sống như: người già không nơi nương tựa; người không còn khả năng
lao động, không có bất kỳ một nguồn thu nhập nào đảm bảo cuộc sống hàng
ngày… Còn trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng xã hội, bằng
các phương tiện thích hợp để người được trợ giúp có thể phát huy được khả
năng tự lo liệu cho cuộc sống, cho bản thân hòa nhập trở lại với cuộc sống
cộng đồng.
Cứu trợ xã hội được dành cho tất cả mọi người. Hay nói cách khác, mỗi
người trong xã hội đều có quyền hưởng cứu trợ xã hội khi cần thiết. Mỗi cá
nhân đều có quyền sống, làm việc và hưởng thụ các thành quả của xã hội như
tất cả các thành viên khác. Tuy nhiên, có nhiều biến cố bất ngờ khiến cho các
cá nhân, hộ gia đình có thể rơi vào tình trạng cực kì vất vả, khó khăn không
11
tìm được phương cách để sinh sống. Nhà nước và toàn thể cộng đồng thực
hiện hoạt động cứu trợ để quyền con người của các cá nhân và các nhóm dân
cư yếu thế luôn được đảm bảo. Hoạt động này không chỉ đơn thuần là một sự
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau mà còn thể hiện sự tôn trọng quyền con người của
toàn xã hội đối với mọi cá nhân, thể hiện được một thuộc tính của xã hội văn
minh.(1)
Nhà nước là chủ thể chính của cứu trợ xã hội. Với bản chất nhân đạo và
vai trò to lớn của cứu trợ xã hội, hầu hết các nước đều thừa nhận cần thiết
phải tổ chức cứu trợ xã hôi cho người dân. Nhà nước với pháp luật và nguồn
ngân sách của mình định hướng và tổ chức việc thực hiện cứu trợ xã hội. Cụ
thể là Nhà nước có trách nhiệm chính trong việc phân bổ các nguồn lực và thu
nhập, chi tiêu ngân sách cho các chương trình cứu trợ thường xuyên và đầu tư
tập trung vào các cơ sở hạ tầng cũng như các hoạt động dịch vụ.(2)
Xã hội hóa hoạt động cứu trợ xã hội là xu hướng tất yếu hiện nay. Có thể
thấy rằng chỉ Nhà nước là không thể đảm bảo đủ các nguồn lực, đặc biệt là
nguồn lực tài chính để thực hiện cứu trợ xã hội. Do đó, chính phủ phải làm
cho công chúng nhận thức được lợi ích của việc hướng các nguồn lực vào
người nghèo, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng. Chẳng hạn bằng cách
thực hiện tốt các chương trình việc làm ở khu vực nông thôn hoặc tổ chức
việc di dân từ trung tâm thành phố ra các thành phố vệ tinh xung quanh. Nhờ
đó, các vấn đề thất nghiệp và tệ nạn xã hội sẽ được hạn chế.
Bản thân các đối tượng được cứu trợ cũng phải có trách nhiệm đối với
bản thân và cộng đồng. Theo quan điểm này, cứu trợ xã hội được thực hiện
theo hướng là đưa “cần câu” chứ không phải đưa “xâu cá”. Những đối tượng
được hưởng cứu trợ xã hội phải tự khẳng định mình, tránh tư tưởng ỷ lại,
trông chờ vào sự giúp đỡ của xã hội, của cộng đồng. Trước khi được cứu trợ,
các đối tượng được cứu trợ cần phải cố gắng bằng tiềm lực còn lại để lo liệu
cải thiện khó khăn trong cuộc sống.
12
Cứu trợ xã hội là cơ sở để phát triển xã hội bền vững. Tăng trưởng kinh tế
đôi khi có những yếu tố làm hạn chế sự công bằng và bình đẳng trong xã hội.
Chính vì vậy, cứu trợ xã hội là chính sách xã hội quan trọng làm cơ sở để đảm
bảo vừa phát triển kinh tế vừa thực hiện công bằng và ổn định xã hội.
2.KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI.
2.1. Khái niệm pháp luật cứu trợ xã hội
Do đất nước Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mặc dù
thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp nhưng điều kiện khí hậu lại khắc
nghiệt, nhiều thiên tai, bão lũ… khiến cuộc sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Bên cạnh đó, lịch sử đất nước ta lại trải qua các cuộc chiến tranh khốc
liệt để lại hậu quả nặng nề cho nhiều người, nhiều gia đình. Khi chiến tranh
kết thúc, đất nước bước vào quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thì lại
phát sinh những vấn đề phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội hay một bộ phận
không nhỏ những người lao động trình độ hạn chế, không thích ứng kịp với
sự thay đổi của nền kinh tế thị trường…
Từ thực tế đó, nhằm mục tiêu duy trì sự ổn định và phát triển đất nước,
Đảng và Nhà nước đã đặt hoạt động cứu trợ xã hội lên hàng đầu, là phương
sách quan trọng trong chiến lược phát triển ổn định lâu dài. Đó cũng là kết
quả tất yếu của sự kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái cao đẹp của dân
tộc, thể hiện sự liên kết gắn bó chặt chẽ giữa các thành viên trong cộng đồng
với nhau, mỗi người đều hướng tới những người khác.
Để hoạt động cứu trợ xã hội của nước ta ngày càng phát triển, thu hút sự
tham gia đông đảo của tầng lớp nhân dân và các tổ chức chính trị -xã hội khác
như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội chữ Thập đỏ Việt Nam… Nhà nước đã
giao cho Bộ lao động-Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm chính về quản
lý nhà nước đối với các hoạt động cứu trợ xã hội, đồng thời ban hành những
chính sách, pháp luật tạo tiền đề cho cứu trợ xã hội trở thành một trong những
cơ chế bảo vệ quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội nước ta. Chính sách,
pháp luật về cứu trợ xã hội đã trở thành một bộ phận của chính sách, pháp luật
13
an sinh xã hội nói chung. Ở nước ta, chính sách cứu trợ xã hội được thể chế
hóa bằng những quy định pháp luật để điều chỉnh hoạt động cứu trợ xã hội,
trong đó xác định rõ đối tượng và điều kiện hưởng cứu trợ, các chế độ cứu
trợ, nguồn kinh phí thực hiện cứu trợ…
Vì vậy, pháp luật cứu trợ xã hội là tổng thể các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành, quy định các đối tượng, điều kiện, chế độ trợ cấp cụ thể
và trách nhiệm của nhà nước, cộng đồng trong việc góp phần đảm bảo vào ổn
định cuộc sống cho các thành viên trong xã hội gặp rủi ro, khó khăn, bất
hạnh.
Qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội, pháp luật về cứu trợ xã hội
ngày càng được hoàn thiện hơn. Hiện nay, điều chỉnh các hoạt động cứu trợ
xã hội có các văn bản pháp luật chủ yếu sau:
Nghị định của Chính phủ số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính -
sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội;(3)
Nghị định của Chính phủ số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 sửa -
đổi,bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP;(4)
Thông tư của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội số 09/2007/TT- -
BLĐTBXH ngày 13/7/2007 hướng dẫn một số điều của Nghị định số
67/2007/NĐ-CP;(5)
Thông tư của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội số 26/2008/TT- -
BLĐTBXH ngày 10/11/2008 sửa đổi,bổ sung một số điều của Thông tư số
09/2007/TT-BLĐTBXH;(6)
Thông tư liên tịch của Bộ lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Nội -
vụ số 32/2009/TTLT-BLĐTBXH-BNV ngày 21/9/2009 hướng dẫn nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức và định mức cán bộ, nhân viên của cơ sở bảo trợ xã
hội công lập.(7)
Nghị định của Chính phủ số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 quy định -
điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã
hội;(8)
14
Thông tư của Bộ lao động-Thương binh và xã hội số 07/2009/TT- -
BLĐTBXH ngày 30/3/2009 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định
số 68/2008/Đ-CP(9)
Nghị định của Chính phủ số 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 về tổ -
chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện;(10)
Thông tư của Bộ Nội vụ số 09/2008/TT-BNV ngày 31/12/2008 hướng -
dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 148/2007/NĐ-CP(11)
Nghị định của Chính phủ số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 quy -
định chính sách trợ giúp xã hội với đối tượng bảo trợ xã hội.(12)
Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 của Chính phủ về chính -
sách cứu trợ xã hội.(13)
Nghị định số 168/NĐ-CP ngày 20/9/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều -
cho Nghị định số 07/2000/NĐ-CP(14)
Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp -
các đối tượng bảo trợ xã hội.(15)
Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 sửa đổi, bổ sung một số -
điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP.(16)
Ngoài ra, còn nhiều văn bản pháp luật khác nhau của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Ủy bán nhân dân các cấp về công tác cứu trợ xã hội.
Pháp luật về cứu trợ xã hội hiện nay so với các giai đoạn trước tỏ ra tiến
bộ hơn, phản ánh trình độ phát triển kinh tế-xã hội của nước ta. Với việc ban
hành các quy định về cứu trợ xã hội, Đảng và Nhà nước đang thể hiện sự
quan tâm đến công tác cứu trợ xã hội nói nhằm thực hiện mục tiêu: đưa chính
sách cứu trợ đến với mọi cá nhân, hộ gia đình gặp khó khăn, bất hạnh, tạo
điều kiện tối đa để người dân tiếp cận với các chính sách xã hội một cách
thuận tiện nhất.
2.2. Những đặc trưng cơ bản của pháp luật cứu trợ xã hội
Thứ nhất, đối tượng tham gia quan hệ cứu trợ xã hội bao gồm nhà nước,
tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Không giống như chế độ bảo hiểm xã
15
hội, kinh phí dùng vào việc đảm bảo cho quan hệ cứu trợ được thự hiện, chủ
yếu là từ sự đóng góp của nhà nước cùng sự ủng hộ, quyên góp của cộng
đồng.
Thứ hai, đối tượng hưởng cứu trợ xã hội là mọi thành viên trong xã hội
khi có các sự kiện pháp lý xảy ra do nguyên nhân khách quan, chủ quan khác
nhau. Nếu như đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội chỉ là những người tham gia
bảo hiểm thì đối tượng được hưởng cứu trợ rộng hơn nhiều bao gồm cả người
già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, người tàn tật, người tâm thần,
người gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng
khác…
Thứ ba, mức hưởng trợ cấp phụ thuộc vào hoàn cảnh thực tế của từng đối
tượng, mức độ rủi ro mà không tính đến sự đóng góp của đối tượng được thụ
hưởng. Có thể nói, cứu trợ xã hội là hoạt động mang tính chất từ thiện giúp
cho các đối tượng yếu thế trong xã hội lâm vào hoàn cảnh khó khăn hay gặp
rủi ro, bất hạnh. Do đó, người được hưởng cứu trợ xã hội trên cơ sở trách
nhiệm của cộng đồng mà không có bất cứ sự đóng góp nào miễm là thoả mãn
các điều kiện để thụ hưởng.
Thứ tư, tính chất của trợ cấp cứu trợ xã hội mang tính linh hoạt, đa dạng
phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, phụ thuộc vào sự ủng hộ, quyên góp của
cá nhân, tổ chức và cộng đồng tại thời điểm trợ cấp. Do đó, tuỳ từng đối
tượng khác nhau mà có các chế độ trợ cấp khác nhau.
3.CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA CHẾ ĐỘ CỨU TRỢ XÃ HỘI.
Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật CTXH là những tư tưởng chủ đạo
xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm CTXH trong việc điều
chỉnh các quan hệ CTXH. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật CTXH
Việt Nam thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
trong vấn đề đảm bảo quyền con người, từng bước cải thiện đời sống của mỗi
thành viên xã hội, phát triển kinh tế-xã hội thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh.
16
Là bộ phận cấu thành của pháp luật an sinh xã hội, chế độ CTXH cũng
đảm bảo thực hiện các nguyên tắc chung của hệ thống an sinh như nguyên tắc
đảm bảo thực hiện đối với mọi thành viên trong xã hội, nguyên tắc nhà nước
thống nhất quản lý …Tuy nhiên với đặc thù riêng của mình về đối tượng, hình
thức thực hiện, mục đích trợ cấp…nên chế độ CTXH xác định những nguyên
tắc riêng của mình, cụ thể là một số nguyên tắc sau:
3.1. Nguyên tắc mức trợ cấp cứu trợ xã hội không phụ thuộc vào sự đóng
góp, thu nhập hoặc mức sống trước khi phát sinh nhu cầu cứu trợ mà
phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu, tình trạng tài sản thực tế của đối
tượng.(17)
Quyền được hưởng an sinh xã hội nói chung và hưởng CTXH nói riêng là
quyền của công dân trong xã hội. Mọi thành viên trong xã hội không phân
biệt địa vị xã hội, trình độ văn hóa, giới tính…khi gặp khó khăn, bất hạnh bản
thân và gia đình không tự khắc phục được thì được hưởng trợ giúp xã hội.
Mức trợ cấp xã hội không phụ thuộc vào thu nhập, tài sản của đối tượng trước
khi có biến cố rủi ro xảy ra, mà phụ thuộc vào nhu cầu của đối tượng cần
CTXH cũng như khả năng đáp ứng của Nhà nước và cộng đồng. Nguyên tắc
này xuất phát từ mục đích của CTXH, theo đó các khoản trợ cấp không nhằm
bù đắp hay thế thu nhập của đối tượng, cũng không nhằm đảo bảo cuộc sống
với những yêu cầu định trước mà chỉ nhằm giúp cho đối tượng thoát ra khỏi
tình trạng cuộc sống bị đe dọa, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
Tuy nhiên, trên thực tế nguyên tắc này trong CTXH không có nghĩa là
cào bằng, ai cũng như ai mà phải dựa trên mức độ rủi ro, hoàn cảnh khác
nhau…mà quyết định mức cứu trợ khác nhau. Vì vậy, pháp luật CTXH đã
phân loại đối tượng CTXH để đưa ra chế độ CTXH thường xuyên và chế độ
CTXH đột xuất.
Có thể nói, đây là nguyên tắc xuyên suốt bao trùm toàn bộ nội dung của
hoạt động CTXH trong hệ thống ASXH. Khác với nội dung bảo hiểm xã hội
17
hay ưu đãi xã hội thì vấn đề đóng góp vật chất hay sức người không được đặt
ra đối với các đối tượng hưởng CTXH.
3.2. Nguyên tắc cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tượng với khả năng
đáp ứng nhu cầu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội (18)
Các nghiên cứu về an sinh xã hội cho thấy các quốc gia càng phát triển
thì mức độ và đối tượng CTXH càng phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên ở Việt
Nam, với tình trạng đất nước còn nghèo, GDP bình quân đầu người năm 2006
đạt 740USD, năm 2009 đạt 1060 USD; trong khi đó, GDP bình quân đầu
người năm 2004 của Thái Lan 2.262 USD, Philipin là 1.030 USD, Indonesia
là 1.146 USD. Việt Nam chỉ cao hơn Lào 286 USD và Campuchia 368 USD
nên an sinh xã hội nói chung và CTXH nói riêng vẫn còn nhiều mới mẻ và
chưa được sự quan tâm thích đáng của Nhà nước trong một thời gian dài. Hơn
nữa, do những đặc thù của Việt Nam về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị
xã hội mà nhu cầu CTXH ở Việt Nam là rất lớn.Với tỷ lệ số hộ đói nghèo, số
người tàn tật không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, tình trạng ô nhiễm môi
trường và biến đổi khí hậu hiện nay…thì số lượng đối tượng cần trợ giúp
đang là bài toán nan giải trên con đường phát triển đất nước.Vì vậy, thưc hiện
CTXH phải cân đối giữa nhu cầu thực tế của đối tượng với khả năng đáp ứng
và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội. Theo quy định của Luật ngân sách
Nhà nước, ngoài các khoản trợ giúp do ngân sách Trung ương chi trả thì các
địa phương trích từ 2-5% các nguồn thu của địa phương làm quỹ dự phòng
cho các hoạt động phòng chống thiên tai, hỏa hoạn… Nguồn chi các địa
phương khác nhau thì mức độ CTXH cho các đối tượng là khác nhau.Tuy
nhiên, mức trợ cấp CTXH cũng phải đảm bảo được nhu cầu tối thiểu nhằm
duy trì được cuộc sống cho mọi đối tượng hoặc thoát khỏi hoàn cảnh nguy
nan trước mắt.
Với tầm quan trọng như vậy nên trong quá trình thực hiện công tác
CTXH nhà nước luôn luôn phải quan tâm và quán triệt thực hiện nguyên tắc
trên. Nếu mức CTXH cao hơn so với khả năng đáp ứng thì sẽ không đảm bảo
18
thực hiện, thậm chí còn tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nguồn cứu trợ. Nếu
mức trợ cấp quá thấp thì không đảm bảo được mục đích cứu trợ là “lưới đỡ
kinh tế cuối cùng” giúp đỡ người dân.
3.3. Nguyên tắc đa dạng hóa, xã hội hóa các hoạt động CTXH.(19)
Xuất phát từ các đối tượng CTXH khác nhau mà hình thức, mức độ cứu
trợ cũng khác nhau. Có những đối tượng là nguyên nhân từ thiên nhiên như
hạn hán, lũ lụt…; có những đối tượng do hoàn cảnh như trẻ em mồ côi, người
mắc các tệ nạn; có những đối tượng do điều kiện sức khỏe như người tàn
tật…nên các mức và hình thức cứu trợ từ đó cũng rất đa dạng và phong phú.
Có đối tượng cần cứu khỏi chết đói, chết rét, bệnh tật…nhưng có đối tượng
cần trợ giúp thường xuyên để duy trì cuộc sống trong thời gian dài…Hay
trong cùng một nhóm hưởng cứu trợ nhu cầu cũng khác nhau, chẳng hạn như
có thiên tai, bão lụt thì người cần tiền để dựng lại nhà ở, người cần lương thực
để chống đói.
Bên cạnh tính đa dạng của hoạt động cứu trợ thì yếu tố xã hội hóa cũng
rất được quan tâm khi thực hiện hoạt động CTXH trên thực tế. Xã hội hóa
hoạt động cứu trợ được hiểu đó là sự tham gia của toàn xã hội vào công tác
CTXH. Mỗi cá nhân sống trong cộng đồng đều phải có trách nhiệm với các
thành viên khác và với chính mình trên cơ sở sự yêu thương, che chở, đùm
bọc lẫn nhau. Nhà nước giữ vai trò trung tâm, khuyến khích và tạo điều kiện
để bất cứ cá nhân, tổ chức nào có lòng từ thiện đều có thể tham gia vào các
hoạt động CTXH. Thời gian gần đây, việc xã hội hóa hoạt động CTXH đã
được phát huy hiêu quả, hàng loạt các hoạt động được tổ chức như: “ủng hộ
đồng bào lũ lụt”, chương trình “vì người nghèo”, “ủng hộ nạn nhân chất độc
màu da cam…”. Có thể nói CTXH thể hiện rõ nét nhất nguyên tắc xã hội hóa
so với các bộ phận khác trong hệ thống an sinh xã hội.
19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT CỨU
TRỢ XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
1.CÁC CHỦ TRƯƠNG,CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI.
Từ xưa đến nay, dù ở thời nào, hoạt động cứu trợ ở nước ta luôn được đặt
lên hàng đầu và được xác định là một phương sách quan trọng để duy trì sự
ổn định và phát triển. Đảng và Nhà nước ta thường xuyên đề ra những chính
sách cứu trợ tuy có khác nhau ở từng thời kỳ.
Trước cách mạng tháng 8 cứu trợ xã hội được thể hiện dưới các hình
thức:
Lập ra quỹ ruộng quỹ thóc công dành cho các phụ nữ góa và trẻ em mồ
côi, dành cho những người nghèo khốn khó (chẳng hạn như những quả phụ
điền, cô nhi điền, trợ sưu điền, nghĩa điền)
Lập ra các phường hôi theo quan hệ than tộc, quan hệ láng giềng hay
quan hệ lập nghiệp khi các thành viên trong xã hội không may rơi vào hoàn
cảnh khó khăn (chả hạn như hội vạn chài, hội gặt lúa, hội dệt vải, hội hiếu…)
Tổ chức các hội cứu, các hội tương tế để bênh vực cho công nhân các
hội tế bần từ thiện.
Kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái cao đẹp của dân tộc, Đảng và
Nhà nước đã xác định cứu trợ xã hội là một trong những cơ chế bảo vệ quan
trọng trong hệ thống an sinh xã hội ở nước ta, được đặt song song với cơ chế
bảo hiểm xã hội. Ngay từ những ngày đầu đất nước giành độc lập, mặc dù đất
nước vẫn còn nhiều khó khăn thiếu thốn, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm
đến nỗi thống khổ của tầng lớp dân nghèo thông qua một loạt những hoạt
động như:
- Đảng và Nhà nước kêu gọi phá kho thóc Nhật chia cho người nghèo
- Phát động phong trào nhường cơm, sẻ áo, “hũ gạo cứu đói”
20
- Giảm tô, giảm tức và chia ruộng cho người nghèo, người neo đơn, tàn tật
- Thành lập nhà cứu tế để đáp ứng cho nhu cầu thực hiện cứu tế cho xã hội.
Giai đoạn 1945 -1975: đây là giai đoạn đất nước tập trung hết sức người,
sức của cho công cuộc giải phóng đất nước để chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược. Ở đầu giai đoạn này, cứu trợ xã hội tập trung chủ yếu
vào việc “diệt giặc đói” với mục tiêu không để người dân chết đói. Bộ cứu tế
đã ra đời và ban hành Nghị định ngày 10/9/1945 về việc đặt nguyên tắc đặt
cứu trợ kinh tế và thành lập ra một cơ quan cứu tế tại các cơ sở y tế địa
phương. Sau đó, ủy ban tối cao về tiếp tế và cứu trợ được thành lập theo Sắc
lệnh số 67/SL ngày 29/11/1945 của Chính phủ lâm thời. Đặc biệt ngày
9/11/1946 bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua,
trong đó tại Điều 14 có ghi nhận về quyền cứu trợ xã hội. Từ đây quyền được
giúp đỡ về vật chất và tinh thần của những đối tượng bị thiệt thòi trong xã hội
đã trở thành quyền hiến định.
Từ những năm 1945 trở đi, do yêu cầu của công cuộc kháng chiến nên
các chế độ cứu trợ xã hội tập trung chủ yếu vào người già cô đơn, trẻ em mồ
côi không nơi nương tựa và đối tượng là nạn nhân của chiến tranh. Một số
văn bản pháp luật tiêu biểu cho thời kỳ này là: Thông tư 123/TTG ngày
30/3/1959 của Thủ tướng vê việc thành lập quỹ nghĩa thương, thôn g tư
202/CP ngày 26/11/1966 của Hội đồng chính phủ về chính sách đối với người
già cả, trẻ mồ côi không nơi nương tựa và người tàn tật…Trợ cấp cứu trợ xã
hội đã có tác dụng ổn định đời sống của toàn dân , tạo tâm lý yên tâm để sản
xuất, xây dựng miền Bắc, làm hậu phương vững chắc để chi viện cho miền
Nam.
Giai đoạn 1975 đến nay: Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ
(tháng 4/1975), cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới-giai
đoạn cả nước độc lập thống nhất, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.Tuy
nhiên do ảnh hưởng hậu quả nặng nề của chiến tranh cùng với những tiêu cực
của cuộc khủng hoảng kinh tế những năm 80 đã làm cho đối tượng cứu trợ xã
21
hội tăng lên, gánh nặng cho chính sách cứu trợ xã hội. Nhìn chung, các quy
định cứu trợ xã hội đầu giai đoạn này phải giảm giá trị thực tế, các đối tượng
cứu trợ phải trông chờ vào các biện pháp tương trợ cộng đồng khác.
Từ năm 1986 đến nay: pháp luật về cứu trợ xã hội của nước ta có nhiều
tiến bộ hơn. Đặc biệt là sau đại hội lần thứ VI của Đảng – đại hội mở ra thời
kỳ đổi mới sâu sắc, toàn diện trên đất nước ta. Nhà nước đã thực hiện rất
nhiều chính sách nhằm hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội để phù hợp với
tình hình mới. Trong giai đoạn này, có khá nhiều văn bản pháp luật về cứu trợ
xã hội được ban hành, trong đó có một số văn bản pháp luật có giá trị pháp lý
cao, đặc biệt có ý nghĩa đối với các đối tượng cứu trợ xã hội như: Pháp lệnh
người tàn tật số 06/1998/PL-UBTVQH ngày 30/7/1998, Pháp lệnh người cao
tuổi UBTVQH thông qua ngà 28 tháng 4 năm 2000.
Bên cạnh đó, với mục tiêu “tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội”chúng ta đã ưu tiên nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển
dịch vụ phúc lợi xã hội cơ bản: Y tế, giáo dục, nước sạch…do vậy đời sống
vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân, trong đó có nhóm người yếu thế
đã từng bước được nâng lên. Đi cùng với đầu tư phát triển phúc lợi xã hội một
loạt chính sách hỗ trợ trực tiếp cũng được triển khai thực hiện như: chính sách
cứu trợ đột xuất, thường xuyên, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, các hoạt động cứu trợ xã hội cũng dần dần được luật hóa với nhiều văn
bản pháp luật, thông tư, nghị định và bộ luật lao động quy định về cứu trợ xã
hội thường xuyên, đột xuất, quy định về việc trợ giúp dành cho người già, trẻ
em đặc biệt khó khăn. Cụ thể là một hệ thống văn bản pháp quy đã được xây
dựng như: Pháp lệnh người tàn tật được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông
qua ngày 28/4/2000, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP 09/03/2000 của Chính phủ
về chính sách cứu trợ xã hội;
Điều 6 Nghị định số 55/1999/NĐ-CP ngày 10 tháng 07 năm 1999 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh về người tàn
tật; Điều 6, điều 9 Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2002
22
của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh
Người cao tuổi; Nghị định số 120/2003/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2003
của Chính phủ về việc sửa đổi Điều 9 của Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày
26 tháng 03 năm 2002 của Chính phủ quy định và hướng dẫn thi hành môt số
quy định của Pháp lệnh Người cao tuổi; Điều 5 quyết định số 38/2004/QĐ-
TTG ngày 17 tháng 3 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách trợ
giúp kinh phí cho gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi và trẻ em
bị bỏ rơi; Quyết định số 16/2004 /QĐ-TTG ngày 5 tháng 2 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ về việc trợ giúp đối với hộ gia đình có từ 02 người trở lên
không tự phục vụ được do chịu hậu quả chất độc hóa học của Mỹ sử dụng
trong chiến tranh Việt Nam; các khoản 1, 2, 3 Điều 1 và khoản 1, 2, 3 Điều 2
Quyết định số 313/2005/QĐ-TTG ngày 02 tháng 12 năm 2005 của Thủ tướng
chính phủ về một số chế độ đối với những người nhiễm HIV/AIDS và những
người trực tiếp quản lý, điều trị chăm sóc những người nhiễm HIV/AIDS
trong các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước…và gần đây nhất là Nghị định
số 67/2007/NĐ-CP ngày 15/04/2007 về chính sách cứu trợ xã hội đã thay thế
các nghị định trên…
Trải qua nhiều khó khăn thiếu thốn của đất nước nhưng hoạt động cứu trợ
ở nước ta vẫn ngày càng phát triển và đi vào ổn định. Theo đánh giá chung,
Việt Nam được coi là nước có những cam kết mạnh mẽ về sự phát triển xã
hội. So với nhiều nước trong khu vực Việt Nam là nước có chương trình cứu
trợ khá toàn diện.Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của
xã hội, cơ chế cứu trợ xã hội ở nước ta luôn được củng cố và tăng cường, góp
phần tạo điều kiện giúp đỡ những người nghèo, yếu thế có thể vượt qua
những khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn lên hòa
nhập với trong cộng đồng. Với sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước, của xã hội, cơ chế cứu trợ xã hội của nước ta luôn được củng cố và tăng
cường, góp phần tạo điều kiện giúp những người nghèo yếu thế có thể vượt
qua khó khăn trong cuộc sống, hạn chế những mặc cảm và tự vươn lên trong
23
cuộc sống hòa nhập với cộng đồng. Theo số liệu của Bộ lao động Thương
binh và Xã hội, số tiền ngân sách chi ra cho những hoat động này (chỉ tính
riêng năm 2000) là 648,8 tỷ và những năm sau đó vẫn tiếp tục tăng. Riêng
trong hai năm 2000-2001 đã đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho gần 800
nghìn người lao động, khoảng 16% số người mắc phải tệ nạn xã hội được tập
trung cải tạo và dạy nghề giúp họ trở lại con đường làm ăn lương thiện.
Người chết do thiên tai được hỗ trợ tiền thuốc chữa bệnh, hộ gia đình mất
nhà mất tài sản, phương tiện sản xuất, thiếu đói…đều có chính sách trợ giúp
của Nhà nước. Đối với người già cô đơn không nơi nương tựa , trẻ em mồ côi,
người tàn tật nặng không có người nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp xã hội
thường xuyên của xã, phường hoặc được đưa vào nuôi dưỡng tập trung trong
các cơ sở Bảo trợ xã hội. Ngoài ra, họ còn được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn
phí, giáo dục, chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc làm…và đặc
biệt nhận được sự chăm sóc của cộng đồng xã hội. Hệ thống chính sách ngày
càng hoàn thiện đã thể hiện sự công bằng-bình đẳng trong xã hội.
Là một đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, lại bị
ảnh hưởng của thiên tai và biến đổi khí hậu, đang trong quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa nhanh nên hiện nay số người cần trợ giúp xã hội của Việt Nam
rất lớn, chiếm hơn 20% dân số cả nước. Trong đó có khoảng 9,2 triệu người
cao tuổi, 7,2 triệu người khuyết tật, 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, gần
5% hộ nghèo, 1,8 triệu hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất hàng năm do
thiên tai, hỏa hoạn, mất mùa, 234 nghìn người nhiễm HIV được phát hiện,
204 nghìn người nghiện ma tuý, khoảng 30 nghìn nạn nhân bị bạo lực, bạo
hành trong gia đình; ngoài ra, còn nhiều phụ nữ, trẻ em bị ngược đãi, bị buôn
bán, bị xâm hại hoặc lang thang kiếm sống trên đường phố.(20)
Giai đoạn 2011-2015: kinh tế đất nước có khó khăn, thách thức, song
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều giải pháp để bảo đảm an sinh xã hội, trong
đó có lĩnh vực trợ giúp xã hội tiếp tục là điểm sáng. Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI xác định: “Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và
24
công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo, cải thiện điều
kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân”. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày
01/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề chính
sách xã hội giai đoạn 2012-2020 cũng nhấn mạnh: “Nâng cao hiệu quả công
tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ
thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng
ngân sách Nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ
sở trợ giúp xã hội, phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt
tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai
các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ em mồ côi, người khuyết tật, nhất là
mô hình nhà dưỡng lão”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và các Nghị quyết của Quốc
hội, công tác trợ giúp xã hộ thời gian qua đã đạt được những kết quả chính
như sau:
Thứ nhất, đã xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật, chính sách tạo
cơ sở pháp lý cho thực hiện tốt chính sách trợ giúp xã hội. Đến nay, đã có trên
10 Bộ luật, luật; 7 Pháp lệnh và hơn 30 Nghị định, Quyết định của Chính phủ;
hơn 40 Thông tư, thông tư liên tịch và nhiều văn bản có nội dung liên quan
quy định khuôn khổ pháp luật, chính sách trợ giúp xã hội. Trong đó có những
văn bản quan trọng như Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật
Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, Luật Phòng chống bạo lực gia đình,
Nghị định số 67/2007/NĐ-CP, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP, Nghị định số
136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo
trợ xã hội....
Thứ hai, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách trợ giúp xã hội thường
xuyên.Tính đến cuối năm 2015, cả nước đã giải quyết trợ cấp xã hội hàng
tháng cho trên 2,643 triệu đối tượng. Trong đó: người cao tuổi trên 80 tuổi
25
không có lương hưu 1.454 ngàn người; người cao tuổi cô đơn thuộc hộ nghèo
85 ngàn người; người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng 896 ngàn người; trẻ
em mồ côi không có nguồn nuôi dưỡng 45 ngàn trẻ; người đơn thân nuôi con
thuộc hộ nghèo 113 ngàn người; ngoài ra, còn khoảng 50 ngàn đối tượng
khác. Kinh phí chi trợ cấp xã hội hàng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế và hỗ trợ
chi phí mai táng cho các đối tượng khoảng 13 nghìn tỷ đồng/năm.
Thứ ba, bảo đảm ổn định đời sống dân sinh khi gặp thiên tai, hỏa hoạn và
các nguyên nhân bất khả kháng. Từ năm 2011 đến nay, các địa phương đã chủ
động bố trí ngân sách địa phương, huy động cộng đồng và các nhà hảo tâm hỗ
trợ hàng hóa, lương thực với trị giá hàng ngàn tỷ đồng cho các cá nhân và gia
đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai, tai nạn giao thông hoặc các lý do bất khả
kháng khác. Tính đến ngày 31/12/2014, Chính phủ đã hỗ trợ 180.224 tấn gạo
cho 26 lượt tỉnh để thực hiện cứu đói cho 2.469.443 lượt hộ/8.618.121 nhân
khẩu thiếu lương thực.
Thứ tư, đã từng bước quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp
xã hội và dịch vụ trợ giúp xã hội. Hiện nay, cả nước có 408 cơ sở trợ giúp xã
hội, gồm 194 cơ sở công lập và 214 cơ sở ngoài công lập, được thành lập,
hoạt động, kiện toàn theo quy định tại Nghị định số 68/2008/NĐ-CP, Nghị
định số 81/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Trong đó, có 31 cơ sở chăm sóc
người cao tuổi, 71 cơ sở chăm sóc người khuyết tật, 139 cơ sở chăm sóc trẻ
em, 102 cơ sở tổng hợp, 31 cơ sở chăm sóc người tâm thần, 34 Trung tâm
công tác xã hội với khoảng 10.000 cán bộ, nhân viên.
Thực hiện Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/03/2010 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn
2010-2020; đến nay, cả nước có 34 tỉnh, thành phố thành lập, xây dựng mô
hình trung tâm công tác xã hội, trong đó có trên 20 tỉnh, thành phố xây dựng
mô hình trung tâm công tác xã hội trên cơ sở nâng cấp, chuyển đổi cơ sở bảo
trợ xã hội. 100% tỉnh, thành phố đã thành lập mạng lưới cộng tác viên công
tác xã hội từ nhiều chương trình, đề án khác nhau với tổng số gần 100 nghìn
26
cộng tác viên. Các chương trình, giáo trình đào tạo công tác xã hội trình độ
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đã được hoàn thiện, ban hành và
triển khai đào tạo tại 55 trường cao đẳng, đại học có đào tạo công tác xã hội
trên cả nước; có 3 trường đào tạo tiến sỹ, thạc sỹ công tác xã hội, Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã phê duyệt Đề án đào tạo thạc sỹ công tác xã hội do Tổ chức
CFSI và Học viện châu Á tài trợ; 11 trường cao đẳng, đại học đã đào tạo hệ
vừa học, vừa làm cho 13.000 cán bộ trình độ đại học, 1.092 cán bộ trình độ
cao đẳng và 7.024 cán bộ trình độ trung cấp công tác xã hội; các tỉnh/thành
phố đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho 40.000 lượt cán bộ, nhân viên
công tác xã hội.
Tổng kết lại, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách pháp luật
trên nhiều phương diện khác nhau để hoàn thiện và thúc đẩy “cứu trợ xã hội”
được toàn diện hơn. Cụ thể như sau:
Thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo
Đói nghèo là vấn đề kinh tế, xã hội sâu sắc. Xoá đói, giảm nghèo là một
trong những vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản lâu dài, là một chính sách quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác xoá
đói, giảm nghèo. Đặc biệt từ năm 1986, khởi đầu công cuộc đổi mới, một mặt
Đảng khuyến khích mọi người trong các thành phần kinh tế làm giàu hợp
pháp, mặt khác tích cực chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo trong cả nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (6-
1993) đã chỉ rõ: “Trợ giúp người nghèo chủ yếu bằng cách cho vay vốn,
hướng dẫn cách làm ăn. Hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo ở từng địa
phương trên cơ sở dân giúp dân, Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn
tài trợ nhân đạo trong nước và quốc tế. Phấn đấu tăng số hộ giàu đi đôi với
xoá đói giảm nghèo”.
Chủ trương xoá đói, giảm nghèo của Đảng đã trở thành cuộc vận động
lớn, khởi đầu ở thành phố Hồ Chí Minh (1992), tiếp đến là các tỉnh đồng bằng
27
sông Cửu Long, các tỉnh Khu IV, Khu V cũ, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ…
Đến tháng 12-1995 cả 53 tỉnh, thành phố trong cả nước đều có chương trình
xoá đói, giảm nghèo, trong đó 49 tỉnh, thành phố đã thành lập ban chỉ đạo xoá
đói, giảm nghèo ở cấp tỉnh, huyện, xã. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính
phủ đã chú trọng xây dựng các nguồn lực cho xoá đói, giảm nghèo: nguồn lực
về lao động và đất đai; nguồn lực về vốn; thực hiện chuyển giao công nghệ
giúp đỡ hộ đói, nghèo tổ chức cuộc sống; thực hiện các chính sách xã hội
khác đối với người đói, nghèo như hỗ trợ người nghèo về y tế, về giáo dục,
khai trương Ngân hàng phục vụ người nghèo (nay là Ngân hàng chính sách xã
hội).
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng chủ
trương: “Thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng
căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số…”. Xoá đói, giảm nghèo
được xác định là một trong 11 chương trình quốc gia. Thực hiện chủ trương
của Đảng, ngày 23-7-1998, Chính phủ ra Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg
phê duyệt Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo giai đoạn 1998-2000
với mục tiêu và nhiều giải pháp cụ thể. Tiếp đó, ngày 31-7-1998, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương
trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng
sâu, vùng xa (gọi tắt là Chương trình 135). Phong trào xoá đói, giảm nghèo
được đẩy mạnh với nhiều mô hình gia đình, thôn, bản, xã, huyện xoá đói,
giảm nghèo có hiệu quả đã được nhân rộng như: mô hình tín dụng - tiết kiệm,
mô hình xã hội hoá hỗ trợ nhà ở cho người nghèo, mô hình “một mái nhà, một
bể nước, một con bò”, mô hình dạy nghề ngắn hạn miễn phí, mô hình liên
thông xuất khẩu lao động…, các dự án thuộc Chương trình quốc gia xoá đói,
giảm nghèo theo Quyết định số 133 của Thủ tướng Chính phủ đã đi vào hoạt
động và đạt hiệu quả rõ rệt.
Nhận thức về xoá đói, giảm nghèo cũng có những tiến bộ, từ chỗ không
chấp nhận có sự phân hoá giàu - nghèo đã đi đến chủ trương khuyến khích
28
mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp
dần khoảng cách về trình độ phát triển, mức sống giữa các vùng, các dân tộc,
các tầng lớp dân cư, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho
sự phát triển xã hội.
Tổng kết 20 năm đổi mới (1986-2006), Đảng ta đã khẳng định: “Công tác
xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn
quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm
2005. Còn theo chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ
nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002; nếu tính
theo chuẩn mới (2 đôla/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là
27,5%”. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là
“Hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ hộ nghèo
vào năm 2015”. Cũng theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã về đích
trước 10 năm so với mục tiêu xoá đói, giảm nghèo trong thực hiện Mục tiêu
Thiên niên kỷ. Cũng chính nhờ năng lực lãnh đạo phát triển xã hội của Đảng
mà xét về năng lực giảm nghèo của các quốc gia (gọi tắt là CPM) thì Việt
Nam được xếp thứ 27 trong số 101 nước đang phát triển, có năng lực tốt hơn
trong xoá đói, giảm nghèo, trên cả một số nước trong khu vực như Inđônêxia,
Malaixia, Philíppin, Thái Lan….
Tuy nhiên, những vấn đề bức xúc và thách thức hiện nay đối với xoá đói,
giảm nghèo là: chưa gắn chặt giữa tăng trưởng với giảm nghèo. Vấn đề nâng
cao năng lực thị trường cho người nghèo, biến họ thành chủ thể, chủ động và
tích cực trong phát triển kinh tế chưa được quan tâm đúng mức. Người nghèo
chưa chủ động tham gia vào thị trường; kết quả xoá đói, giảm nghèo chưa
vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo đã thoát nghèo nhưng nằm sát chuẩn nghèo rất lớn
(70-80%), chỉ cần gặp rủi ro là họ lại rơi vào nghèo đói; tỷ lệ tái nghèo còn
cao (7-10%), bất bình đẳng về thu nhập và mức sống giữa các vùng, các tầng
lớp dân cư còn lớn và có xu hướng gia tăng. “Chênh lệch thu nhập giữa nông
thôn và thành thị gấp trên 2 lần (năm 2002 gấp 2,26 lần; năm 2004 gấp 2,15
29
lần; năm 2006 gấp 2,09 lần). 90% hộ nghèo sống ở nông thôn và tỷ lệ hộ
nghèo ở nông thôn còn cao (18% so với 14,75% hộ nghèo của cả nước), đặc
biệt hộ nghèo là người dân tộc thiểu số chiếm tới 36% tổng số hộ nghèo cả
nước, chủ yếu là vùng miền núi phía bắc và Tây Nguyên, là địa bàn rất khó
khăn cho công tác xoá đói giảm nghèo”.
Thực hiện chính sách ưu đãi người có công:
Chăm sóc, ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ là trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, mà còn thể hiện truyền thống và đạo lý
của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Vì vậy,
từ trước tới nay, trong bất luận hoàn cảnh nào, Đảng và Nhà nước cũng luôn
luôn xác định chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với Tổ
quốc là một trong những chính sách lớn có vị trí rất quan trọng trong chiến
lược con người. Đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã từng
bước sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách, chế độ ưu đãi đối với thương
binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng. Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) nhấn mạnh: “Quan tâm chăm
sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách
mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn
dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn, trả nghĩa để
chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với
cách mạng”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ: “có chính
sách thích đáng đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh”.
Ngày 10-9-1994, Chủ tịch nước ban hành Pháp lệnh quy định danh hiệu
vinh dự Nhà nước: Bà mẹ Việt Nam anh hùng và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt
động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt
động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng gọi chung là Pháp lệnh
ưu đãi người có công với cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Đảng từng bước sửa đổi,
30
bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, tổ
chức thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ theo pháp lệnh về người có
công.
Công tác chăm sóc người có công đã được xã hội hoá, phong trào “Đền
ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn”, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng đã trở thành nét đẹp trong các tầng lớp nhân dân, các tổ chức chính trị,
xã hội. Việc chăm sóc người có công với cách mạng và trợ giúp người có đời
sống khó khăn được duy trì và mở rộng. Đến năm 1998, khi ngân sách Nhà
nước có khả năng đáp ứng, Chính phủ đã trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
khoá X ban hành Pháp lệnh số 08/1998/PL-UBTVQH10 sửa đổi điều 21 của
pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Ngày 11-12-1998, Chủ tịch
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra Lệnh số 08/L-CTN công bố
Pháp lệnh sửa đổi điều 21 của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.
Trên cơ sở đó, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số
19/2000/PL-UBTVQH10 (sửa đổi lần 2) điều 21 của Pháp lệnh ưu đãi người
có công với cách mạng.
Từ năm 2005, trước tình hình kinh tế - xã hội đất nước phát triển, đòi hỏi
chính sách ưu đãi người có công phải bám sát thực tiễn cuộc sống, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu trình Chính phủ, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội bổ sung, sửa đổi Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.
Ngày 29-6-2005, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng, sửa đổi, bổ sung (số 26/2005/PL-
UBTVQH11). Theo đó, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi đã mở rộng
từ 7 đối tượng ở Pháp lệnh cũ lên 13 đối tượng. Pháp lệnh sửa đổi năm 2005
còn bổ sung chế độ mai táng phí đối với một số đối tượng có công hưởng trợ
cấp, phụ cấp hằng tháng; bổ sung chế độ đối với người có công sau khi chết,
thân nhân của họ tiếp tục được hưởng một khoản trợ cấp; bổ sung chế độ đối
với bố mẹ, vợ hoặc chồng, người có công nuôi dưỡng liệt sĩ được hưởng trợ
cấp tiền tuất hằng tháng không phụ thuộc tuổi đời; thân nhân hai liệt sĩ được
31
hưởng trợ cấp nuôi dưỡng; bổ sung chế độ bảo hiểm y tế và mai táng phí đối
với người hoạt động kháng chiến và người có công giúp đỡ cách mạng hưởng
trợ cấp một lần; quy định người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá
học là người có công với cách mạng.
Ngày 26-6-2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2006/NĐ-CP,
theo đó, ngoài chế độ trợ cấp, người hoạt động kháng chiến còn được hưởng
các ưu đãi khác như bảo hiểm y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ, phục hồi
chức năng lao động, cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình…, con đẻ
của họ được hưởng chế độ ưu đãi trong giáo dục và đào tạo.
Hơn 20 năm đổi mới đất nước cũng là hơn 20 năm Đảng từng bước đổi
mới và hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công. Nghị quyết Đại hội X của
Đảng (4-2006) chỉ rõ: “Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có công với
nước; vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa; nâng
cao mức sống về vật chất, tinh thần của người có công ngang bằng hoặc cao
hơn mức sống trung bình của dân cư. Trợ giúp nạn nhân chất độc da cam…”.
Ngày 14-12-2006, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có Chỉ thị số 07-CT/TW,
về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thương binh, liệt sĩ, người có
công và phong trào “đền ơn đáp nghĩa”. Đồng thời để tiếp tục hoàn thiện
chính sách ưu đãi người có công, ngày 18-6-2007, Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội đã ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, sửa đổi, bổ
sung lần thứ ba. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng có Thông tư số
25/2007/TT-BLĐTBXH, ngày 15-11-2007, hướng dẫn bổ sung việc thực hiện
chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó quy định: người có
công giúp đỡ cách mạng trong kháng chiến được Nhà nước tặng huân
chương, huy chương kháng chiến đã chết mà chưa được hưởng chế độ ưu đãi
thì thân nhân của họ được hưởng trợ cấp một lần như quy định đối với thân
nhân người có công với cách mạng chết trước ngày 1-1-1995 (quy định tại
khoản 7 mục B Bảng số 01 kèm theo Nghị định số 32/2007/NĐ-CP ngày 2-3-
2007 của Chính phủ).
32
Tiếp đó, ngày 7-4-2009, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban
hành Thông tư số 08/2009/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều kiện, tiêu chuẩn
giải quyết chế độ đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá
học và con đẻ của họ. Theo đó điều kiện để hưởng chế độ ưu đãi người hoạt
động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học là: đã công tác, chiến đấu, phục
vụ chiến đấu từ tháng 8-1961 đến 30-4-1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ đã
sử dụng chất độc hoá học; mắc một trong những bệnh, tật, dị dạng, dị tật có
liên quan đến phơi nhiễm chất độc hoá học/điôxin theo Quyết định số
09/2008/QĐ-BYT ngày 20-2-2008 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Danh
mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hoá
học/điôxin.
Phong trào “đền ơn đáp nghĩa” được khởi nguồn từ năm 1947 đến nay,
nhân dân cả nước đã có nhiều hoạt động phong phú, thiết thực thể hiện đạo lý
“uống nước nhớ nguồn” của dân tộc và trở thành nét đẹp trong đời sống văn
hoá của nhân dân ta. Cũng từ phong trào “đền ơn đáp nghĩa” đã có hơn 300
nghìn gia đình chính sách được tặng “nhà tình nghĩa”, hơn 600 nghìn sổ tiết
kiệm được gửi đến các gia đình chính sách còn khó khăn, hàng chục nghìn
“vườn cây tình nghĩa”, “ao cá tình nghĩa”… được trao tặng, tổng giá trị các
hoạt động tình nghĩa tới hàng nghìn tỷ đồng.
“Trong điều kiện vừa chống lạm phát vừa chống suy giảm kinh tế, hằng
năm, Nhà nước vẫn dành hơn 10 nghìn tỷ đồng thực hiện chế độ ưu đãi một
lần hoặc thường xuyên cho 8,2 triệu người có công; thực hiện các chính sách
bảo hiểm y tế, miễn giảm học phí trong giáo dục, cấp đất, làm nhà, hỗ trợ vốn
sản xuất, kinh doanh và nhiều chế độ ưu đãi đặc thù khác… Từ năm 2008 đến
nay, tuy điều kiện kinh tế có khó khăn, nhưng phong trào "đền ơn đáp nghĩa"
vẫn tiếp tục phát triển, cả nước đã trao tặng gần 10 nghìn nhà tình nghĩa, sửa
chữa hơn 8.000 nhà, tặng hơn 21 nghìn sổ tiết kiệm, vận động “Quỹ đền ơn
đáp nghĩa” được hàng trăm tỷ đồng; gần 10 nghìn xã, phường (đạt tỷ lệ gần
95%) được uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố công nhận làm tốt công tác
33
thương binh, liệt sĩ”. Một thành tựu khá nổi bật nữa là chế độ trợ cấp ưu đãi
xã hội đã có sự đổi mới căn bản. Gắn liền với lộ trình cải cách tiền lương, bảo
hiểm xã hội, mức trợ cấp ưu đãi xã hội được điều chỉnh trên cơ sở mức tiêu
dùng bình quân của toàn xã hội, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Năm 2007, nguồn lực tài chính dành
riêng ưu đãi xã hội là 13.000 tỷ đồng, năm 2008 là 15.000 tỷ đồng, năm 2009
là 17.000 tỷ đồng (riêng năm 2009 cùng với nguồn lực tài chính từ địa
phương, nguồn huy động từ xã hội hoá, chi ưu đãi xã hội đối với người có
công lên tới 20.000 tỷ đồng)”14.
Chăm sóc nâng cao sức khoẻ nhân dân
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được Đảng chú trọng nên đạt kết
quả tốt, góp phần hạ thấp tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh
dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến
trước đây, khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Mạng
lưới y tế được mở rộng, đặc biệt là y tế cơ sở. Tính đến hết năm 2004, cả
nước có 13.149 cơ sở y tế, tăng 1.370 cơ sở so với năm 1986; có 99.300 y,
bác sĩ, tăng 35.600 người so với năm 1986. Số y tá có 49.000 người; nữ hộ
sinh có 17.500 người, tăng 2.400 người so với năm 1986. Bình quân 1 vạn
dân có 24,4 giường bệnh; 11,8 y, bác sĩ, tăng 1,4 người so với năm 1986. Số
xã, phường có bác sĩ tăng lên đáng kể, nếu năm 1997 mới có 2.413, thì năm
2000 số xã, phường có bác sĩ đã lên tới 5.366. Chế độ khám, chữa bệnh cho
người nghèo, khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được
triển khai thực hiện.Việc phòng, chống HIV/AIDS được đẩy mạnh hơn. Tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 33,4% năm 2000 xuống dưới
25% năm 2005… Tuổi thọ bình quân của dân số nước ta từ 63 tuổi năm 1990
tăng lên 67,8 năm 2000, 71,5 tuổi năm 2005 và 72 tuổi năm 2007.
Thực hiện chính sách an sinh xã hội
Chính sách an sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản
của quốc gia hướng vào bảo vệ, bảo đảm an toàn cho các thành viên trong xã
34
hội trong các trường hợp rủi ro dẫn đến bị giảm hoặc bị mất thu nhập, hoặc
phải tăng chi phí đột xuất do nhiều nguyên nhân khác nhau - gọi là “rủi ro xã
hội”. An sinh xã hội dựa trên nguyên tắc chia sẻ trách nhiệm và công bằng xã
hội, là một trong những chỉ báo quan trọng của một xã hội phát triển. Xã hội
càng phát triển, đời sống con người càng phong phú, nhu cầu đáp ứng về an
sinh xã hội càng đa dạng và tăng lên. Các nhu cầu về an sinh xã hội cơ bản
bao gồm: bảo hiểm xã hội; duy trì mức thu nhập đủ sống khi gặp rủi ro; tiếp
cận dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nước sạch sinh hoạt…).
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm
phát triển hệ thống an sinh xã hội với những chính sách cụ thể nhằm phòng
ngừa và khắc phục rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác cho
mọi người, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (4-2006) đề ra chủ trương: “Xây
dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân”. Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu khoá X một lần nữa nhấn mạnh:
“từng bước mở rộng và cải thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là
của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng nghèo”.
Thực hiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với kinh tế thị trường, tạo
cơ hội cho mọi người tiếp cận các chính sách an sinh xã hội, nhất là bảo hiểm
xã hội (bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp), giảm nghèo và hoà nhập xã hội nhóm yếu
thế (trợ giúp xã hội )…, chính là thực hiện công bằng xã hội, hướng vào phát
triển con người, tạo động lực tăng trưởng và phát triển bền vững, đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tư cho chính sách an sinh xã hội cũng
chính là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển.
Nhìn tổng thể, chính sách trợ giúp xã hội ở Việt Nam đã đạt được thành
quả góp phần bảo đảm an sinh xã hội cho người dân. Hệ thống trợ giúp xã hội
35
tuy đã hình thành nhưng chưa được hoàn thiện theo cách tiếp cận hệ thống,
đồng bộ, toàn diện, bao phủ hết đối tượng, gắn kết chặt chẽ trong mối tương
quan với an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, phát triển các dịch vụ xã hội
cơ bản và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về phát triển trợ giúp xã
hội, nhất là trong điều kiện Việt Nam là nước đang phát triển có thu nhập
trung bình.
2.PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI.
Ở Việt Nam, dù thuật ngữ “An sinh xã hội” mới chỉ xuất hiện từ những
năm 70 trong một số cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của một số học giả
Sài gòn nhưng cứu trợ xã hội chắc chắn đã xuất hiện từ rất lâu trong truyền
thống tinh thần “lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt. Hiện nay, cứu trợ xã
hội được nhà nước Việt nam đặc biệt quan tâm và là một trong những chính
sách lớn của Nhà nước, thể hiện qua Nghị định số 07/2000/NĐ-CP quy định
về đối tượng được hưởng, chế độ hưởng cũng như các hình thức cứu trợ .
2.1.Về đối tượng và điều kiện hưởng cứu trợ xã hội
Theo pháp luật hiện hành, đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội được
chia thành hai loại theo hai chế độ: cứu trợ xã hội thường xuyên và cứu trợ xã
hội đột xuất.
2.1.1. Đối tượng và điều kiện được cứu trợ xã hội thường xuyên
Chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên là sự hỗ trợ, giúp đỡ về mặt vật chất
và tinh thần mang tính lâu dài cho những người thuộc diện cứu trợ xã hội
nhằm giúp đỡ họ ổn định cuộc sống, hoà nhập vào cộng đồng. Tuỳ từng đối
tượng cứu trợ xã hội khác nhau mà pháp luật quy định chế độ trợ cấp cụ thể.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, đối tượng cứu trợ xã hội thường
xuyên bao gồm 9 nhóm đối tượng sau:
Trẻ em mồi côi và người có hoàn cảnh tương tự như trẻ em mồ côi
Người cao tuổi bao gồm người cao tuổi cô đơn thuộc hộ gia đình nghèo
và người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con, cháu,
người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo.
36
Người từ 85 tuổi trở lên không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã
hội.
Người tàn tật không có khả năng lao động hoặc không có khả năn tự
phục vụ
Người mắc bệnh tâm thần hoặc tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã
được các cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa
thuyên giảm.
Người nhiễm HIV/AIDS không có khả năng lao động và thuộc hộ gia
đình nghèo.
Gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi.
Hộ gia đình có 2 người trở lên tàn tật nặng, không có khả năng tự phục
vụ hoặc có từ 2 người mắc bệnh tâm thần phân liệt, rối loạn tâm thần đã được
cơ quan y tế chuyên khoa tâm thần chữa trị nhiều lần nhưng chưa thuyên
giảm.
Người đơn thân thuộc hộ gia đình nghèo, đang nuôi con nhỏ dưới 16
tuổi, trường hợp con đang đi học văn hóa, học nghề được áp dụng dưới 18
tuổi.
Như vậy, so với các quy định trước đây nhóm đối tượng hưởng chế độ
cứu trợ xã hội thường xuyên đã tăng lên 9 đối tượng so với 4 đối tượng đã
quy định trong Nghị định số 07/2000/NĐ-CP. Sau đây, chúng ta sẽ nghiên
cứu nội dung cụ thể của nhóm đối tượng đầu tiên này:
Trẻ em mồ côi và người có hoàn cảnh tương tự giống trẻ em mồ côi đó là:
- Trẻ em mồ côi cả cha lẫn mẹ, mất nguồn nuôi dưỡng
- Trẻ em bị bỏ rơi, mất nguồn nuôi dưỡng
- Trẻ em mồ côi cha hoặc mẹ nhưng người còn lại là mẹ hoặc cha mất
tích theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc không đủ năng lực, khả năng để
nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.
- Trẻ em có cha và mẹ, hoặc cha hoặc mẹ đang trong thời gian chấp hành
hình phạt tù tại trại giam, không có người nuôi dưỡng.
37
- Trẻ em nhiễm HIV/AIDS thuộc hộ gia đình nghèo.
- Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng đang đi
học văn hóa, học nghề có hoàn cảnh như trẻ em nêu trên .
Đây là nhóm đối tượng đầu tiên được quan tâm trong nhóm đối tượng
cứu trợ xã hội thường xuyên. Điều này cũng dễ hiểu bởi nhận thức của nhân
loại nói chung và của Việt Nam nói riêng thì trẻ em được coi là tương lai của
đất nước. Chính vì vậy, quyền trẻ em đã trở thành quyền hiến định, ghi nhận
tại Điều 65 – Hiến pháp 1992 “trẻ em được gia đình, nhà trường và xã hội bảo
vệ chăm sóc và giáo dục”. Tuy nhiên, một số trẻ em do hoàn cảnh nhất định
cần đến sự giúp đỡ của Nhà nước, cộng đồng, xã hội. Trẻ em mồ côi sống
trong điều kiện rất khó khăn, không được chăm sóc đầy đủ, phải lao động
kiếm sống, ít có điều kiện đến trường, phải sống trong cảnh nghèo đói. Theo
kết quả tổng hợp báo cáo của Bộ lao động-Thương binh và xã hội cho biết:
“từ năm 2001 đến nay con số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đã giảm xuống 1,7
triệu em trong giai đoạn 2005-2007 và có xu hướng ổn định, không tăng đến
năm 2008. Ngoài ra còn có 1.8 triệu em trong các hộ nghèo. Đây là các đối
tượng rất cần được sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng nhằm giúp các
em sớm hòa nhập vào cuộc sống và đảm bảo phát triển đầy đủ, toàn diện. Tuy
nhiên, quy định này cũng bộc lộ nhiều hạn chế nhất định. Điều kiện xác định
đối tượng hưởng cứu trợ xã hội là trẻ em từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đang
đi học văn hóa, học nghề (khoản 1 điều 4 Nghị định 67/2007/NĐ-CP) là
không phù hợp, bởi các lí do sau:
Theo quy định tại Điều 6 bộ luật Lao động thì người đủ từ 15 tuổi trở
lên có thể tham gia quan hệ lao động
Hiện nay, với các điều kiện kinh tế, sức khỏe trẻ em nói chung đã tham
gia quan hệ lao động dưới các hình thức khác nhau trong độ tuổi từ 12-13 trở
lên và thậm chí ở một số gia đình khó khăn các em là trụ cột gia đình. Chính
vì vậy, trong khi nguồn ngân sách cho cứu trợ xã hội chưa đủ mức độ bao phủ
thì việc lựa chọn đúng đối tượng cứu trợ, đúng người là cần thiết nhất.
38
Người cao tuổi: vấn đề người cao tuổi đã và đang trở thành vấn đề xã hội
của nhiều quốc gia quan tâm. Quan tâm chăm sóc người già nói chung và
người già cô đơn không người nuôi dưỡng là trách nhiệm của gia đình, Nhà
nước và toàn xã hội, nhất là đối với Việt Nam, một đất nước có truyền thống
tôn trọng người già. Theo quy định của pháp luật hiện hành, những người cao
tuổi sau thuộc diện hưởng chế độ cứu trợ xã hội:
Người cao tuổi cô đơn thuộc hộ nghèo
Người cao tuổi còn vợ hoặc chồng nhưng già yếu, không có con cháu,
người thân thích để nương tựa, thuộc hộ gia đình nghèo.
Bằng quy định này, Nhà nước đã giúp không ít các đối tượng người già
duy trì ổn định cuộc sống lúc cuối đời.Tuy nhiên, căn cứ vào quy định trên ta
thấy tiêu chí quan trọng của người cao tuổi được hưởng cứu trợ xã hội là “cao
tuổi” và “hộ nghèo”.
Các đối tượng trên được quy định mức độ trợ cấp của chế độ trợ cấp
thường xuyên trong Nghị định 67/2007/NĐ-CP với các điều khoản sau:
Điều 7.
Quy định mức chuẩn để xác định mức trợ cấp xã hội hàng tháng là -
120.000 đồng (hệ số 1); khi mức sống tối thiểu của dân cư thay đổi thì mức
chuẩn trợ cấp xã hội cũng được điều chỉnh theo cho phù hợp.
Các mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất đối với từng nhóm đối -
tượng bảo trợ xã hội quy định tại Nghị định này như sau:
39
Bảng 1.(21)
Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội
sống tại cộng đồng do xã, phường, quản lý.
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
Hệ Trợ TT Đối tượng số cấp
1 -Đối tượng tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở lên .
-Đối tượng quy định tại khoản 2 ,khoản 3 Điều 4 và đối
tượng không có khả năng lao độn quy địn h tại khoản 4 1,0 120 Điều 4.
2 -Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi
;từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật ;bị nhiễm HIV/AIDS.
-Đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 4 tàn tật nặng.
-Đối tượng quy định tại khoản 5 ,khoản 6 Điều 4.
-Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con 1,5 180 dưới 18 tháng tuổi ,từ 18 tháng tuổi trở lên bị tàn tật hoặc
bị nhiễm HIV/AIDS.
3 -Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi
bị tàn tật nặng,bị nhiễm HIV/AIDS.
-Đối tượng không có khả năng tự phục vụ quy định tại
khoản 4 Điều 4
-Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 2 người tàn tật
nặng. 2.0 240 -Đối tượng quy định tại khoản 9 Điều 4 đang nuôi con
dưới 18 tháng tuổi hoặc bị tàn tật hoặc bị nhiễm
HIV/AIDS.
4 Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em
dưới 18 tháng tuổi trên 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị 2,5 300 nhiễm HIV/AIDS.
40
5 -Đối tượng quy định tại khoản 7 Điều 4 nhận nuôi trẻ em
dưới 18 tháng tuổi bị tàn tật hoặc bị nhiễm HIV/AIDS.
-Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 3 người bi tàn 3,0 360
tật nặng
6 Đối tượng quy định tại khoản 8 Điều 4 có 4 người bị tàn 4,0 480 tật nặng
41
Bảng 2(22)
Mức trợ cấp xã hội hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã hội
sống trong các nhà xã hội tại cộng đồng do xã, phường quản lý.
(Đơn vị tính: nghìn/đồng)
Hệ Trợ Đối tượng TT số cấp
1 Đối tượng quy định tại khoản 1 ,khoản 2,khoản 6 Điều 4 2,0 240
Bảng 3(23)
Mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng thấp nhất cho các đối tượng bảo trợ xã
hội sống tại các cơ sở bảo trợ xã hội.
(Đơn vị tính: nghìn đồng)
Hệ Trợ TT Đối tượng số cấp
1 -Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở
lên 2,0 240
-Đối tượng quy định tại khoản 2,khoản 4 Điều 4
2 -Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 dưới 18 tháng tuổi
-Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 từ 18 tháng tuổi trở
lên tàn tật;bị nhiễm HIV/AIDS 2,5 300
-Đối tượng quy định tại khoản 5,khoản 6 Điều 4
Điều 8. Các đối tượng nêu trên tại khoản 1,2,3,4,5,6; trẻ em mồ côi; trẻ
em bị bỏ rơi được gia đình, cá nhân nêu tại khoản 7 nuôi dưỡng; người tàn tật
trong hộ gia đình nêu tại khoản 8; trẻ em là con của người đơn thân nêu tại
khoản 9 Điều 4 Nghị định này được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quy định tại
Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ ban
hành Điều lệ Bảo hiểm y tế hoặc được khám, chữa bệnh không phải trả tiền
42
tại các cơ sở công lập theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 36/2005/NĐ-CP
ngày 17 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Điều 9.
- Trẻ em từ 13 tuổi trở lên sống tại các cơ cở bảo trợ xã hội, nhà xã hội tại
cộng đồng, không còn học văn hóa thì được giới thiệu đến các cơ sở dạy nghề
để học nghề theo quy định hiện hành của Nhà nước.
- Trẻ em mồ côi đã đến tuổi trưởng thành nhưng không tiếp tục học văn
hóa, học nghề; người tàn tật đã phục hồi chức năng; người tâm thần đã ổn
định đang ở cơ sở bảo trợ xã hội được đưa trở về địa phương (nơi đối tượng
sinh sống trước khi được đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội). Ủy ban nhân dân cấp
xã và gia đình có trách nhiệm tiếp nhận và tạo điều kiện cho họ có việc làm,
ổn định cuộc sống.
- Trẻ em bị bỏ rơi sống tại cơ sở bảo trợ xã hội đã đến tuổi trưởng thành
nhưng không tiếp tục học văn hóa ,học nghề thì cơ sở bảo trợ xã hội và địa
phương nơi cơ sở bảo trợ xã hội đặt trụ sở có trách nhiệm hỗ trợ tạo việc làm
và nơi ở và tiếp tục cho hưởng trợ cấp cho đến khi ổn định được cuộc sống
,nhưng không quá 24 tháng.
Điều 10. Ngoài được hưởng khoản trợ cấp hàng tháng theo quy định tại
Điều 7 Nghị định này, các đối tượng được nêu tại các khoản 1,2,3,4,5,6; trẻ
em mồ côi; trẻ em bị bỏ rơi được gia đình, cá nhân nêu tại khoản 7 nuôi
dưỡng; người tàn tật không có khả năng tự phục vụ trong hộ gia đình nêu tại
khoản 8; trẻ em là con của người đơn thân nêu tại khoản 9 Điều 4 Nghị định
này còn được hưởng thêm các khoản trợ giúp sau:
- Các đối tượng đang học văn hóa, học nghề được miễn giảm học phí;
được cấp sách vở, đồ dùng học tập theo quy định của pháp luật.
- Khi chết được hỗ trợ kinh phí mai tang 2.000.000/ người.
- Các đối tượng ở cơ sở bảo trợ xã hội thuộc Nhà nước quản lý ngoài các
khoản trợ giúp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này còn được:
43
Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng phục vụ cho sinh hoạt đời sống
thường ngày.
Trợ cấp mua thuốc chữa bệnh thông thường;riêng người nhiễm
HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội mức 150.000/người/năm.
Trợ cấp vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với đối tượng nữ trong độ tuổi
sinh đẻ.
Điều 11. Căn cứ điều kiện cụ thể của địa phương, đơn vị, Chủ tịch ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Bộ trưởng các bộ, Thủ
trưởng các ngành, đoàn thể ở Trung ương (có cơ sở bảo trợ xã hội) quyết định
mức trợ cấp, trợ giúp cho các đối tượng bảo trợ xã hội thuộc quyền quản lý
cho phù hợp, nhưng không thấp hơn các mức quy định trên.
2.1.2.Đối tượng và điều kiện được cứu trợ xã hội đột xuất:
Cứu trợ xã hội đột xuất là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về điều
kiện sinh sống cho các thành viên trong cộng đồng khi gặp các rủi ro khó
khăn bất ngờ khiến cho cuộc sống của họ tạm thời bị đe dọa, nhằm giúp họ
vượt qua sự hụt hẫng, ổn định cuộc sống và sớm trở lại hòa nhập với cộng
đồng. Theo Nghị định số 67/2007/NĐ-CP quy định đối tượng được cứu trợ
như sau:
Đối tượng được trợ giúp cứu trợ đột xuất (một lần) là những người, hộ -
gia đình gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc những lý do bất khả kháng
khác gây ra, bao gồm:
Hộ gia đình có người chết, mất tích;
Hộ gia đình có người bị thương nặng;
Hộ gia đình có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy, hỏng nặng;
Hộ gia đình bị mất phương tiện sản xuất-lâm vào cảnh thiếu đói
Hộ gia đình phải di dời khẩn cấp do nguy cơ sạt lở đất, lũ quyét;
Người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú dẫn đến bị thương nặng, gia đình
không biết để chăm sóc.
Người lang thang xin ăn trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú.
44
Uỷ ban nhân dân cấp xã, bệnh viện, cơ quan, đơn vị đứng ra tổ chức mai
táng cho người gặp rủi ro ngoài vùng dân cư bị chết, gia đình không biết để
mai táng.
Chế độ trợ cấp cho các đối tượng thuộc diện cứu trợ thường xuyên
được quy định trong Nghị định số 67/2007/NĐ-CP như sau:
Theo điều 12 mức độ cứu trợ cấp cứu đột xuất thấp nhất đối với các đối
tượng quy định tại Điều 6 của Nghị định này như sau:
Đối với hộ gia đình:
Có người chết, mất tích: 3.000.000/người.
Có người bị thương nặng:1.000.000/người.
Có nhà bị đổ, sập, trôi, cháy hỏng nặng: 5.000.000/hộ
Hộ gia đình phải di dời khẩn cấp do nguy cơ sạt lở đất, lũ quét:
5.000.000/hộ
Đối với cá nhân:
Trợ giúp cứu đói: 15kg/người/tháng; trong thời gian từ 1 đến 3 tháng.
Người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị thương nặng, gia đình không
biết chăm sóc: 1.000.000/người.
Người lang thanh xin ăn trong thời gian tập trung để đưa về nơi cư trú:
10.000/người /ngày nhưng không quá 30 ngày. Trường hợp đặc biệt cần phải
kéo dài thì thời gian đươc hưởng trợ cấp tối đa không quá 3 tháng và mức trợ
cấp bằng mức trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng tại cơ sở bảo trợ xã hội.
Đối với người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị giết, gia đình không biết
mai táng đươc Ủy ban nhân dân cấp xã, bệnh viện, cơ quan, đơn vị tổ chức
mai táng thì các cơ quan, đơn vị đứng ra mai táng được hỗ trợ kinh phí mai
táng thấp nhất là 2.000.000 đồng.
Điều 13. Hộ gia đình có người lao động chính bị chết, mất tích; hộ gia
đình bị mất phương tiện sản xuất; hộ gia đình có nhà bị đổ sập, trôi, cháy,
hỏng nặng, lâm vào cảnh bị đói do thiếu lương thực, ngoài khoản trợ cấp nêu
45
trên tại Điều 12 Nghị định này, được xem xét trợ giúp thêm các khoản sau
cho đến khi hộ thoát khỏi hộ nghèo:
Miễn giảm học phí cho người đang học văn hóa, học nghề.
Được cấp thẻ bảo hiểm y tế hoặc khám chữa bệnh miễn phí tại các cơ
sở chữa bệnh Nhà nước.
Được vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất.
Điều 14.Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quyết định mức trợ giúp cụ thể đối với trường hợp nêu tại mục d khoản 1
Điều 6 cho phù hợp với tình hình thực tế và khả năng huy động nguồn lực của
địa phương.
Nhà nước khuyến khích các địa phương nâng mức trợ cấp, trợ giúp cao
hơn mức thấp nhất quy định tại Điều 12 Nghị định này.
Cứu trợ xã hội và Bảo hiểm xã hội đều là các nhánh của An sinh xã hội.
Chúng đều là những chính sách xã hội quan trọng của mỗi quốc gia. Chúng có
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và góp phần ổn định cuộc sống
cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội, từ đó góp phần ổn định và an toàn
cho xã hội. Qua đây, chúng ta sẽ tìm hiểu và so sánh qua đối tượng của Cứu
trợ xã hội và Bảo hiểm xã hội.
Chúng ta có thể so sánh qua đối tượng cứu trợ xã hội và đối tượng của
bảo hiểm xã hội.Cùng là những mảng chính trong hệ thống chính sách của an
sinh xã hội,cứu trợ xã hội và bảo hiểm xã hội đều thực hiện mục tiêu tạo ra
mạng lưới bảo vệ an toàn cho các thành viên trong xã hội khi gặp điều kiện
rủi ro,yếu thế trong cuộc sống;cả hai hoạt động trên đều dựa vào nguồn quỹ
tập trung hoặc quỹ thành phần và đều nằm dưới sự quản lý của Nhà
nước.CTXH và BHXH đều mang hình thức thực hiện phân phối lại thu nhập
trong xã hội;nội dung và phạm vi điều chỉnh của chính sách phụ thuộc chủ
yếu vào điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.Bên
cạnh điểm giống nhau thì BHXH và CTXH còn có những điểm khác nhau đó
là:về đối tượng của BHXH thì thu nhập bị giảm hoặc mất của người lao động
46
khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động,mất việc làm.;còn CTXH-thành viên
gặp khó khăn,bất hạnh,ruit ro trong cuộc sống như thiên tai,hỏa hoạn,bị tàn
tật,già yếu…dẫn đến cuộc sống túng quẫn không đảm bảo điều kiện sống tối
thiểu.Đối tượng hưởng của BHXH mang phạm vi hẹp gồm người tham gia
bảo hiểm xã hội và người thứ ba;còn CTXH lại có phạm vi rộng gồm những
người gặp rủi ro,bất hạnh trong cuộc sống.BHXH có tính pháp lý cao được
các nước luật hóa tương đối thống nhất trên cơ sở các khuyến cáo của Tổ
chức lao động quốc tế (ILO);còn CTXH tính pháp lý luô bị hạn chế do đối
tượng rộng nên phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi
nước.Về đặc điểm:người muốn được hưởng BHXH thig phải có hai yếu tố
một là phải đóng góp phí bảo hiểm,hai là rủi ro khi xảy ra;CTXH-người được
trợ cấp không nhất thiết phải tham gia hình thành nên quỹ.BHXH mang tính
chất bắt buộc đối với người lao động và người sử dụng lao động;còn CTXH ít
mang tính chất bắt buộc thiên về mảng nhân đạo,đạo đức.
2.2. Các hình thức cứu trợ xã hội
2.2.1. Cứu trợ bằng tiền
Cứu trợ xã hội bằng tiền là việc thực hiện giúp đỡ dưới hình thức tiền mặt
cho người được cứu trợ. Hình thức cứu trợ này có nhiều ưu điểm những có
các hạn chế. Các khoản viện trợ bằng tiền tạo cơ hội cho người nhận có nhiều
lựa chọn hơn và mang lại cho người nhận mức thỏa mãn cao hơn với bất kỳ
một mức thu nhập nào so với cứu trợ bằng hiện vật. Song mức cứu trợ bằng
tiền được xác định như thế nào cho hợp lý không phải điều dễ dàng.
Ví dụ: Với các cá nhân, hộ gia đình gặp nạn do thiên tai hoặc những lí do
bất khả kháng , thành phố Đà Nẵng sẽ hộ trợ 2 triệu đồng/người cho gia đình
có người chết hoặc mất tích. 3-5 triệu đồng/hộ bị cháy, sập trôi nhà và hộ phải
di dời khẩn cấp. Nhà bị hư hỏng nặng ,Tp hỗ trợ 1,5 -2 triệu đồng.
Việc xác định mức tiền cứu trợ quả thật là không dễ dàng đối với Nhà
nước và các cơ quan chức năng tham gia hoạt động cứu trợ.Ví dụ như cùng
chung một hoàn cảnh bị thiên tai,bão lũ nhưng có hộ gia đình bị thiệt hại ít và
47
có hộ gia đình bị thiệt hại nhiều mất cả người lẫn của.Tuy nhiên các ban
nghành,cơ quan chức năng không thể nào đi sâu hết chi tiết hoàn cảnh của
từng gia đình một để xem xét và quyết định mức tiền trợ cấp.Mức tiền trợ cấp
thì luôn có một mức chung cho từng hoàn cảnh,từng gia đình.Ngoài ra,còn
tồn tại rất nhiều trường hợp vô lý của từng địa phương khi dân nhận tiền trợ
cấp ủng hộ nhưng lại bị cơ quan ban ngành địa phương thu lại :tiêu biểu như
vụ việc trưởng thôn đến thu lại tiền hàng trợ cấp của dân tại thị xã Ba Đồn-
Quảng Bình
2.2.2. Cứu trợ bằng hiện vật
Bên cạnh các khoản cứu trợ bằng tiền mặt, người được cứu trợ có thể
nhận cứu trợ bằng hiện vật. Đó là các vật phẩm, hàng hóa được cấp phát và
các dịch vụ mà Nhà nước và cộng đồng xã hội trợ giúp.
Ví dụ:
- Các chương trình cứu trợ đồng bào miền Trung bị lũ lụt bằng quần áo
,thức ăn, thuốc men và các nhu yếu sản phẩm.
- Với các gia đình bị mất phương tiện sản xuất, lâm vào hoàn cảnh thiếu
đói, TP Đà nẵng hỗ trợ 10kg/khẩu/tháng (hộ chính sách được
12kg/khẩu/tháng) trong thời gian tối đa 3 tháng. TP cũng sẽ hỗ trợ những
người thiếu đói giáp hạt 8kg gạo/tháng/khẩu (hộ chính sách 10kg/khẩu/tháng)
trong thời gian tối đa 2 tháng.
Có thể thấy so với BHXH thì hính thức của CTXH có điểm giống
nhau:Nhà nước là chủ thể chính thực hiện chính sách.Điểm khác nhau:BHXH
là hệ thống mang tính chất chia sẻ rủi ro,việc tri trả bảo hiểm xã hội chủ yếu
căn cứ vào mức đóng góp các bên tham gia bảo hiểm xã hội,quỹ bảo hiểm xã
hội hình thành với cơ chế đóng góp ba bên là chủ yếu,chi trả các chế độ bảo
hiểm xã hội chỉ yếu được thực hiện định kì với phương thức thành toàn chủ
yếu bằng tiền.CTXH có đặc điểm riêng đó là.mọi thành viên trong xã hội đều
được cứu trợ xã hội khi cần thiết,đó là các biến cố bất ngờ khiến cho các cá
nhân gia đình có thể rơi vào tình trạng không thể lo liệu được cuộc sống bản
48
thân và những người phụ thuộc hoặc rơi vào hoàn cảnh cực kì vất vả khó
khăn,cứu trợ xã hội có cả hình thức cứu trợ bằng tiền và vật.
2.3.Các chế độ cứu trợ xã hội
Chế độ cứu trợ xã hội là những lợi ích mà cá nhân thuộc diện cứu trợ xã
hội được hưởng từ Nhà nước và cộng đồng mà nghĩa vụ phải đóng góp không
đặt ra. Tuy nhiên, mức độ hưởng chế độ cứu trợ xã hội không phải là cào
bằng, áp dụng cho mọi người hưởng như nhau mà phải đáp ứng những điều
kiện nhất định theo quy định pháp luật hiện hành. Xuất phát từ đối tượng
hưởng cứu trợ xã hội khác nhau, pháp luật hiện hành thực hiện hai nội dung
chính là chế độ cứu trợ xã hội thường xuyên và chế độ cứu trợ xã hội đột
xuất.
2.3.1.Cứu trợ xã hội thường xuyên. Như đã nêu ở phần trước, cứu trợ xã hội thường xuyên là sự hỗ trợ, giúp
đỡ về mặt vật chất và tinh thần mang tính lâu dài cho những người thuộc diện
cứu trợ xã hội nhằm giúp đỡ họ ổn định cuộc sống, hoà nhập vào cộng đồng.
*Về bản chất
Bản chất chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên là giải pháp cụ thể, hợp
phần chính của cứu trợ xã hội và do Nhà nước là chủ thể chính thực hiện.
Như vậy, có thể hiểu: “Chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên là hợp phần
của chính sách cứu trợ xã hội được cụ thể các biện pháp, giải pháp bảo đảm
của Nhà nước để giúp đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn khắc phục khó khăn trước mắt và lâu dài. Việc đảm bảo này thông qua
việc cung cấp nguồn tài chính hàng tháng, dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe,
giáo dục và các dịch vụ cứu trợ xã hội thường xuyên khác.
*Mục tiêu
Mục tiêu tổng thể của chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên là hướng
tới giải quyết vấn đề công bằng, ổn định và phát triển bền vững về chính trị,
kinh tế và xã hội của quốc gia. Mục tiêu cụ thể nhằm giúp đối tượng bảo trợ
49
xã hội bảo đảm các điều kiện sống ổn định, an toàn, hòa nhập, tham gia đóng
góp vào quá trình phát triển xã hội.
*Nguyên tắc thực hiện
Nguyên tắc chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên gồm:
Tuân thủ hệ thống chính trị.
Bảo đảm tính khoa học
Bảo đảm tính hiệu lực
Bảo đảm tính hiệu quả
Bảo đảm tính công bằng
Bảo đảm tính công khai, minh bạch
Bảo đảm sự ổn định bền vững
Bảo đảm sự chia sẻ trách nhiệm.
*Nhân tố ảnh hưởng
Những nhân tố ảnh hưởng chính sách bao gồm:
Các nhân tố từ đối tượng hưởng lợi (quy mô, phân bố đối tượng, nhu
cầu trợ giúp của các đối tượng; và năng lực cá nhân của đối tượng thụ hưởng)
Các nhân tố từ cơ chế, công cụ chính sách (hệ thống hóa các văn bản
pháp luật, năng lực hoạch định chính sách và tổ chức thực thi chính sách của
các cơ quan và hệ thống các công cụ chính sách)
Nhân tố thuộc về chính trị, kinh tế văn hóa và xã hội.
*Nội dung
Chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên được hình thành từ nhu cầu thực
tế của đối tượng. Các chính sách bộ phận bao gồm:
Chính sách trợ cấp xã hội
Chính sách trợ giúp y tế.
Chính sách trợ giúp giáo dục, đào tạo.
Một số chính sách khác như dậy nghề, tạo việc làm, vay vốn, hỗ trợ cải
thiện hoặc làm mới nhà ở, nước sạch vệ sinh môi trường.
50
*Công cụ thực hiện
Chính sách cứu trợ xã hội thường xuyên được thực hiện thông qua các
công cụ cơ bản: Công cụ hành chính và tổ chức (văn bản chính sách, kế hoạch
chính sách, tổ chức bộ máy và cán bộ); công cụ tài chính; công cụ giáo dục và
tâm lý; công cụ kỹ thuật nghiệp vụ của chính sách.
Quyền lợi cơ bản của đối tượng CTXH thường xuyên là được trợ cấp
hàng tháng. Mức trợ cấp được xác định dựa trên nhu cầu tối thiểu của đối
tượng và khả năng đáp ứng của Nhà nước và điều kiện cụ thể của từng địa
phương. Các địa phương có thể tự quyết định mức trợ giúp cho đối tượng
hưởng CTXH nhưng không được thấp hơn mức tối thiểu do Nhà nước quy
định hiện nay. Quy định này của pháp luật nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu
nhất cho đối tượng được hưởng CTXH, đồng thời tránh sự tùy tiện của các
địa phương trong công tác thực hiện chế độ cứu trợ.
Mức trợ cấp hàng tháng hiện nay theo quy định của Nghi định số 13/NĐ-
CP ngày 27/2/2010 là 180.000 đồng/tháng/đối tượng (hệ số 1), tùy từng đối
tượng cụ thể và điều kiện sinh hoạt mà quy định hệ số khác nhau. Như vậy,
mức trợ cấp hiện tại đã được tăng lên 50% so với mức quy định trước đây
(Nghị định 67/2007/NĐ-CP đối tượng trợ cấp được hưởng 120.000
đồng/tháng). Các đối tượng khác nhau, nhu cầu khác nhau thì được hưởng
mức trợ cấp khác nhau. Quy định này tránh được hiện tượng cào bằng, bình
quân áp dụng cho mọi đối tượng được hưởng trợ cấp.
Ngoài ra, đối tượng CTXH thường xuyên còn được cấp thẻ bảo hiểm y tế
hoặc khám chữa bệnh không phải trả tiền ở các cơ sở y tế công lập; hỗ trợ học
văn hóa, học nghề; hỗ trợ kinh phí mai táng khi chết; riêng các đối tượng
thuộc diện đặc biệt khó khăn không thể tự lo được cho cuộc sống thì được
xem xét tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc nhà xã hội tại cộng đồng. Các
đối tượng sống tại cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước, ngoài các chế độ trên
còn được hưởng:
51
Trợ cấp để mua sắm tư trang, vật dụng sinh hoạt đời sống hàng ngày.
Trợ cấp để mua thuốc chữa bệnh thông thường, riêng người nhiễm
HIV/AIDS được hỗ trợ điều trị nhiễm trùng cơ hội mức 250.000
đồng/năm/người.
Trợ cấp vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với đối tượng nữ trong độ tuổi
sinh đẻ.
Như vậy, chế độ CTXH thường xuyên ngày được nâng lên đảm bảo đáp
ứng nhu cầu tối thiều hàng ngày của đối tượng hưởng. Bên cạnh đó, Nhà
nước không chỉ giúp đỡ các đối tượng hưởng đơn thuần về mặt kinh tế mà
còn góp phần tạo điều kiện giúp các đối tượng có điều kiện vươn lên, hòa
nhập cuộc sống.
2.3.2. Cứu trợ xã hội đột xuất:
Cứu trợ xã hội đột xuất là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về điều
kiện sinh sống cho các thành viên trong cộng đồng khi gặp các rủi ro khó
khăn bất ngờ khiến cho cuộc sống của họ tạm thời bị đe dọa, nhằm giúp họ
vượt qua sự hụt hẫng, ổn định cuộc sống và sớm trở lại hòa nhập với cộng
đồng.
Công tác cứu trợ đột xuất bao gồm tổng hợp tất cả các hoạt động liên
quan đến CTĐX cho các đối tượng, từ khâu xây dựng chính sách, huy động
nguồn lực đế khâu tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách. Trong công tác
CTĐX thì khâu huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện cứu trợ được coi là
khâu có ý nghĩa quan trọng nhất, kết quả của nó có ý nghĩa quyết định đến
thành công hay thất bại của CTĐX.
*Nội dung của CTĐX:
Với cách hiểu về CTĐX như trên, có thể thấy CTĐX sẽ bao gồm những
nội dung chủ yếu sau đây:
Cứu trợ về đời sống nhân dân (ăn, ở, mặc…) sau thiên tai. Công việc
cứu trợ về đời sống cho nhân dân sau thiên tai là một trong những công việc
khá quan trọng của CTĐX. Nó giữ vai trò giúp cho đời sống của nhân dân
52
vùng thiên tai (về cả vật chất và tinh thần), tạo điều kiện ban đầu để người
dân có thể nhanh chóng ổn định lại cuộc sống, tiếp tục lao động sản xuất.
Cứu giúp nhân dân bị tai nạn ở những vùng xảy ra chiến tranh. Mặc dù
chiến tranh đã lùi xa chúng ta hơn 30 năm nhưng công việc CTĐX cho nhân
dân ở những vùng xảy ra chiến tranh vẫn luôn luôn được Đảng và Nhà nước
ta đặc biệt quan tâm, sẵn sàng mỗi khi có tình huống xảy ra. Đây là một hoạt
động vô cùng quan trọng mà vai trò của nó chắc không ai có thể phủ nhận
được, nó không những có ý nghĩa về mặt kinh tế-xã hội mà còn có ý nghĩa về
cả chính trị -an ninh-quốc phòng.
Hỗ trợ khi có đói giáp hạt (phần lớn là do hậu quả thiên tai…) Trước
đây trong thời kì chiến tranh, đói giáp hạt là một hiện tượng phổ biến, là hậu
quả của nhiều biến cố (cả chiến tranh, cả thiên tai) chiếm đến phần lớn công
việc của CTĐX. Từ khi chiến tranh kết thúc, đói giáp hạt vẫn là một hiện
tượng tuy không còn phổ biến nhưng vẫn thường xuyên xảy ra một cách cục
bộ ở nơi này hay nới khác trên đất nước ta mà phần lớn là đói giáp hạt do hậu
quả của thiên tai. Chính vì vậy, hỗ trợ khi có đói giáp hạt vẫn là một nội dung
công việc của CTĐX.
*Nguyên tắc của cứu trợ đột xuất:
CTĐX cần phải coi trọng những nguyên tắc:
Nắm chắc tình hình, luôn có kế hoạch dự phòng sát với từng vùng, từng
địa phương.
Việc cứu trợ phải nhanh chóng, kịp thời, đúng đối tượng, đúng chính
sách đến tận tay người cần cứu trợ.
Cứu trợ tập trung vào những vùng tổn thất nặng, cứu trợ cho những
người không có khả năng tự cứu mình, không bình quân dàn đều, cứu trợ để
nâng đỡ vượt khó khăn, không cứu trợ để ỷ lại.
Là trách nhiệm của cả 3 phía: Nhà nước, cộng đồng xã hội và người
cần cứu trợ, trong đó chú ý phát huy sức mạnh cộng đồng, cứu trợ kịp thời tại
chỗ ngay sau khi có thiên tai…
53
Nhân tố ảnh hưởng đến CTXHĐ
Điều kiện tự nhiên:đối với nước ta,điều kiện tự nhiên là nhân tố có
ảnh hưởng rất lớn đối với công tác CTXH.Bao gồm:điều kiện về thời tiết và
điều kiện về địa hình.
Đặc điểm về thời tiết,khí hậu:Việt nam là một quốc gia nằm trong khu
vực khí hậu nhiệt đới gió mùa,khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt:mùa mưa và mùa
khô.Đặc biệt tỏng những năm gần đây thời tiết diễn biến có xu hướng khó
lường một mặt do thay đổi khí hậu toàn cầu,mặt khác do rừng bị tàn phá nặng
nề,môi trường sinh thái chuyển biến theo hướng xấu nên thiên tai xảy ra càng
nhiều hơn,với cường độ và mức tàn phá ngày càng lớn gây mất mác lớn về
người và tài sản cũng như các công tình công cộng .Đối tượng phải CTĐX
hàng năm rất lớn và đa dạng .Công tác CTĐX mặc dù luôn coi trọng khâu
nắm tình hình để tổ chức thực hiện nhưng trước những diễn biến đó công tác
CTĐX cũng gặp nhiều khó khăn và thường ở trong tình trạng bị động.
Đặc điểm về địa hình:nước ta với diện tích không lớn nhưng trải dài từ
Bắc xuống Nam .Địa hình hẹp và tương đối phức tạp hàng năm đều có thiên
tai xảy ra ở nhiều địa phương,đặc biệt là ở khu vực miền núi phía bắc,miền
trung,tây nguyên và ĐBSCL gây thiệt hại về người và tài sản ,mùa màng ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân và sự phát triển kinh tế của đất
nước.Với điều kiện địa hình như vậy,công tác triển khai cứu trợ thường gặp
rất nhiều khó khăn ,không chủ động đáp ứng không kịp thời yêu cầu của nhân
dân.Như vậy,có thể nói đối với nước ta ,điều kiện tự nhiên là nhân tố có tác
động rất lớn đối với CTĐX –chủ yếu là tác động tiêu cực.Những tác động này
đã và sẽ làm cho công tác CTĐX gặp nhiều khó khăn.Do đó mà trong thời
gian tới Bộ LĐTBXH cũng như các cơ quan chức năng khác cần phối hợp
chặt chẽ với chính quyền các địa phương để chủ động nắm tình hình và
khuyến nghị với Chính phủ các chính sách về đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng
,khắc phục những khó khăn về điều kiện địa hình,phát triển kinh tế cho các
54
vùng có địa hình hiểm trở và phức tạp ,tạo điều kiện tốt cho các hoạt động
cứu trợ và tăng khả năng tự phòng chống thiên tai cho các địa phương.
Các điều kiện kinh tế-xã hội:Nếu như điều kiện tự nhiên là những
nhân tố tác động khách quan thì điều kiện kinh tế-xã hội lại là những nhân tố
có ảnh hưởng chủ quan tới công tác CTĐX mà chúng ta hoàn toàn có thể điều
tiết được.Các điều kiện kinh tế-xã hội chủ yếu là:điều kiện về cơ sở hạ
tầng;quá trình đô thị hóa;phong tục tập quán;cơ chế-chính sách đầu tư ;chính
sách hỗ trợ sản xuất…
Cơ sở hạ tầng:Trong những năm qua mặc dù Đảng và Nhà nước đã chú
trọng rất nhiều tới vấn đề phát triển hạ tầng ,đặc biệt là cơ sở hạ tầng cho các
xã nghèo ,vùng đồng bào dân tộc thiểu số,vùng sâu,vùng xa;vùng biên giới
hải đảo.Nhiều chương trình,dự án đã được xây dựng và thực hiện bước đầu về
cơ bản đã thu được những thành quả đáng kể nhưng do nguồn vốn còn hạn
chế ,quá trình tổ chức thực hiện ,quản lý còn chưa tốt cho nên tới nay cơ sở hạ
tầng phần lớn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội
.Do cơ sở hạ tầng chưa phát triển theo yêu cầu nên kinh tế nhiều vùng vẫn còn
nghèo,khả năng tự ứng phó với các điều kiện tự nhiên không có.Do đó,khi
thiên tai ,dịch họa xảy ra thì để lại những tổn thất rất nặng nề và công tác tổ
chức di dời và cứu trợ gặp rất nhiều khó khăn,ảnh hưởng đến kết quả của
công tác cứu trợ.
Quá trình đô thị hóa:Do yêu cầu phát triển của CNH-HĐH và đô thị
hóa là quá trình tất yếu diễn ra ở các quốc gia muốn tăng trưởng và phát
triển.Trong quá trình phát triển CNH-HĐH ở nước ta hiện nay,vấn đề đô thị
hóa đã trở thành một hiện tượng kinh tế-xã hội bức xúc.Rõ ràng không ai có
thể phủ nhận được lợi ích của quá trình CNH-HĐH.Nhờ có quá trình CNH-
HĐH mà bộ mặt của nhiều vùng đã đổi thay từng giờ ,đời sống của nhân dân
được cải thiện đáng kể.Bên cạnh đó,nó còn tồn tại một số mặt trái đó là:quá
trình CNH-HĐH tất yếu kéo theo quá trình đô thị hóa ,đô thị hóa càng tăng thì
55
đất đai cho sản xuất nông càng bị thu hẹp.Việc mất đất canh tác là một hụt
hẫng lớn đối với người nông dân,nhất là đối với những gia đình trong nhiều
đời nay đã gắn bó với ruộng đồng ,với nghề nông.Đất đai bị thu hẹp làm cho
những người nông dân nghèo chỉ còn được trông chờ một diện tích nhỏ để sản
xuất cho nên khi có thiên tai xảy ra thì những bộ phận gia đình của bộ phận
dân cư này có nguy cơ mất trắng toàn bộ diện tích sản xuất càng cao dẫn đến
nguy cơ thiếu đói Như vậy,có thể thấy quá trình đô thị hóa tuy phần lớn có tác
động tích cực đến công tác CTĐX.CNH-HĐH và đô thị hóa làm cho kinh tế
phát triển,cơ sở hạ tầng được đầu tư ,cải tạo và nâng cấp;tăng khả năng tạo
nguồn và tự phòng chống rủi ro cho nhân dân làm cho công tác CTĐX được
dễ dàng và thuận lợi hơn nhưng mặt khác chúng ta cũng phải có biện pháp để
dè chừng quá trình này không để nó diễn ra một cách tự phát
Phong tục tập quán:Nước ta đất trât,người đông;sản xuất nông nghiệp
vẫn chiếm tỷ trọng lớn GDP.Người dân Việt Nam đã quen với thói quen sản
xuất nhỏ ,tự cung tự cấp,đặc biệt là ở khu vực nông thôn,vùng dồng bào dân
tộc thiểu số.Với phong tục,thói quen sản xuất như vậy lại trong điều kiện khắc
nghiệt ,bất thường cơ sở hạ tầng yếu kém nên khi xảy ra thiên tai thì người
dân rất dễ có khả năng mất hết ,mất trắng mùa màng và hoàn toàn có thể rơi
vào tình trạng thiếu đói chứ chưa kể bình thường đã có nhiều người ở nhiều
vùng,địa phương thường xuyên bị thiếu đói giáp hạt do nhiều nguyên nhân
khác nhau.Chính vì vậy,phong tục tập quán lạc hậu đang là yếu tố cản trở sự
phát triển kinh tế-xã hội nói chung ,đồng thời làm tăng gánh nặng cho công
tác cứu trợ.
Chính sách hỗ trợ sản xuất:trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh
tranh gay gắt,cộng thêm điều kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt,trong khi ở
các nước phát triển Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân trong
sản xuất nông nghiệp ,thậm chí bảo hộ sản xuất nông nghiệp.Vì vậy mà người
nông dân của họ ít phải đối mặt với những khó khăn và có khả năng chịu
đựng cao mỗi khi khó khăn xảy ra,công tác cứu trợ ít phải thực hiện.Còn ở
56
nước ta,một quốc gia dang phát triển,gần 80% dân số phụ thuộc vào sản xuất
nông nghiệp ,nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu,đời sống nhân dân còn nhiều
khó khăn thì Chính phủ lại chưa có những chính sách hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp thích đáng thêm vào đó là những diễn biến phức tạp của điều kiện tự
nhiên cho nên đời sống của nhân dân rất khó khăn ,hàng năm số người bị
thiếu đói giáp hạt còn rất cao.Mỗi năm ngân sách Nhà nước phải chi đến hàng
ngàn tỷ đồng cho việc cứu trợ cho những đối tượng này,làm tăng nguồn ngân
sách cứu trợ,ảnh hưởng đến chất lượng cứu trợ.
Kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển đổi và những mặt trái
của nó.Từ khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan lieu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình hình kinh tế ,xã
hội đã có nhiều những chuyển biến sâu rộng.Kinh tế càng phát triển,sự phân
hóa và cách biệt mức sống giữa thành thị và nông thôn,giữa các vùng,các địa
phương giữa các khu vực và ngành kinh tế ,cũng như giữa các tầng lớp dân cư
xã hội ngày một sâu sắc.Tình trạng”kẻ ăn không hết,người lần không
ra”không phải không phổ biến trong bức tranh đời sống xã hội nước ta hiện
nay.Phân hóa giàu nghèo có xu hướng làm tăng đối tượng yếu thế ,dễ bị tổn
thương,dễ gặp rủi ro khi có những biến cố đột xuất như thiên tai;dịch họa và
cuối cùng làm tăng số đối tượng CTĐX.Cùng với sự phân hóa và cách biệt
mức sống giữa các tầng lớp dân cư ,kinh tế thị trường cũng làm cho phong tục
tập quán ,lối sống của người dân có nhiều thay đối.Với những biểu hiện mặt
trái hết sức tiêu biểu của kinh tế thị trường như vậy nên mỗi khi trong cộng
đồng có một hoặc một số cá nhân không may rơi vào tình trạng khó khăn ,bần
cùng,cần giúp đỡ thì kết quả là họ không nhận được sự giúp đỡ gì hoặc nhận
được nhưng sự giúp đỡ qua loa-hình thức.Đây cũng chính là những cản trở
đối với công tác CTĐX.Khi xảy ra những hiện tượng trên hoạt động cứu trợ
sẽ không nhận được sự ủng hộ nhiệt tình từ phía cộng đồng,xã hội.CTĐX sẽ
bị thiếu thốn cả về nhận lực và vật lực ,hiệu quả CTDXD sẽ bị hạn chế.
57
Vai trò của CTĐX:
Thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội nước ta :nước ta là một nước xã
hội chủ nghĩa.Tất cả mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước đều nhằm xây
dựng một Nhà nước của dân,do dân và vì dân,tất cả lợi ích thuộc về nhân
dân,nhân dân là chủ thể duy nhất.Mọi nỗ lực của Đảng đều nhằm mục đích
sao cho nhân dân ngày càng có cuộc sống tốt hơn.Khi một bộ phận dân cư
gặp hoạn nạn,khó khăn ,Nhà nước tổ chức cứu giúp nhân dân đảm bảo công
bằng xã hội .Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng đó là trách nhiệm cũng như
nghĩa vụ của mình.Bởi vậy có thể nói:CTĐX chính là một hoạt động thể hiện
tính ưu việt của chế độ xã hội nước ta.
Phù hợp với truyền thống của người Việt Nam:mỗi khi có thiên tai,dịch
họa xảy ra thì tất cả cộng đồng đều chung tay ,góp sức giúp nhau khắc phục
hậu quả,sớm ổn định đời sống và sản xuất.Và càng ngày truyền thống này
càng được phát huy thể hiện những nghĩa cả cao đẹp và tinh thần đoàn kết dân
tộc của dân tộc ta.Điều này được thể hiện khá rõ qua những thành công của
hàng loạt các chương trình như:tấm lòng vàng,quỹ từ thiện,ủng hộ đồng bào
lũ lụt…Bởi vậy,CTĐX là hoạt động vừa thể hiện truyền thống của người Việt
Nam vừa là hoạt động nhằm phát huy những truyền thống này.Nhờ hoạt động
cứu trợ này lòng tin,tính đoàn kết trong nhân dân ngày càng được tăng cường
và củng cố.
Phòng ngừa,giảm thiểu và khắc phục hậu quả thiên tai:Đúng như trên
khái niệm CTĐX trình bày:CTĐX là sự giúp đỡ các điều kiện sinh sống của
Nhà nước ,cộng đồng và xã hội cho những thành viên khi họ gặp phải những
khó khăn,rủi ro bất ngờ như thiên tai ,dịch họa,hỏa hoạn,tai nạn..nhằm giúp
họ nhanh chóng khắc phục hậu quả thiên tai,ổn định cuộc sống và hòa nhập
trở lại cộng đồng.Khi thiên tai,dịch họa chưa xảy ra ,CTĐX giúp cho các đối
tượng tăng khả năng phòng ngừa và đối phó với những hậu quả xấu do thiên
tai,dịch họa gây ra như:xây dựng hệ thống đê điều,kè cống,trồng rừng chắn
gió,di dời dân đến nơi an toàn;khi thiên tai xảy ra ,CTĐX giúp cho các đối
58
tượng giảm nhẹ ảnh hưởng của chúng,thoát khỏi nơi nguy hiểm và khi thiên
tai đã xảy ra rồi.CTĐX tham gia hỗ trợ các đối tượng,nhanh chóng ổn định lại
cuộc sống,tái sản xuất trờ lại và hòa nhập với cộng đồng.
Góp phần giảm bớt khó khăn trước mắt,chênh lệch mức sống và xóa
đói giảm nghèo.CTĐX là hoạt động nhằm vào những đối tượng khó khăn
nhất trong những thời điểm nguy kịch.CTĐX nhằm đáp ứng nhu cầu của
những đối tượng này trong những lúc cần thiết nhất,góp phần giảm bớt khó
khăn trước mắt.Mặt khác,những người phải CTĐX phần lớn là người nghèo-
đối tượng yếu thế trong xã hội ,không có hoặc có rất ít khả năng phòng bị và
đối phó với các điều kiện khách quan bất lợi.CTĐX giúp đỡ những đối tượng
này cũng tức là CTĐX đã phần nào thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo là
chương trình đòi hỏi thực hiện theo một quá trình lâu dài và bền bỉ với sự hỗ
trợ và giúp đỡ từ nhiều phía cộng với nỗ lực của chính bản thân những người
nghèo.
Góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội:thực hiện CTĐX là
một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm cứu giúp những đối tượng
khó khăn ,tạo cho họ những cơ hội ban đầu để có một cuộc sống tốt hơn,phát
triển kinh tế gia đình.Bởi vậy,có thể nói công tác CTĐX là hoạt động góp
phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội.
Kinh phí cụ thể:
Ngân sách nhà nước cân đối hàng năm, ngân sách tỉnh, huyện tự cân
đối.
Do các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước ủng hộ.
Trợ giúp của nước ngoài, tổ chức quốc tế hỗ trợ trực tiếp cho địa
phương hoặc thông qua chính phủ, các đoàn thể xã hội.
Trường hợp các nguồn kinh phí trên không đủ thực hiện CTĐX thì Chủ
tịch Ủy ban Nhân dân Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo thủ
tướng chính phủ, xem xét quyết định.
59
Trong tương lai, phần đóng góp huy động từ cộng đồng và xã hội có
xu hướng tăng lên nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Bởi vì
càng ngày đời sống nhân dân ngày càng được tăng lên; cộng thêm công tác
tuyên truyền, vận động phát huy truyền thống tương thân tương ái, lá lành
đùm lá rách của dân tộc.
Về quá trình tổ chức thực hiện, căn cứ theo những nguyên tắc của
hoạt động cứu trợ, CTĐX là một công việc đòi hỏi nhanh chóng, kịp thời. Đòi
hỏi sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau; giữa các Bộ
nghành với nhau, thống nhất từ trung ương tới các cấp cơ sở vùng bị thiệt hại.
Theo đó, quá trình tổ chức thực hiện được tổ chức như sau:
Chính quyền cấp cơ sở nơi có thiên tai xảy ra, căn cứ vào chỉ đạo cấp
trên tiến hành xác định, lập danh sách đối tượng; kế hoạch và tình hình huy
động nguồn lực trình cấp trên xem xét giải quyết.
Theo báo cáo cấp cơ sở, cấp trên xem xét, lập kế hoạch và tổ chức thực
hiện.
Trên thực tế, Việt Nam là một trong những quốc gia thường xuyên
chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai. Những thiệt hại về người, tài sản chúng
ta có thể thấy qua các số liệu dưới đây:
Năm 2004: số người chết là 680 người; người thiếu lương thực hơn 1,4
triệu người
Năm 2005: thiêt hại về tài sản lên tới 5.607 tỷ đồng,tình trạng người
thiếu lương thực trung bình 1-1,5% dân số.
Năm 2006: có 563 người chết,1.970 người bị thương,61.900 nhà bị sập,
số người thiếu đói lên tới 1,6 triệu người.
Năm 2007: thiệt hại về tài sản 7 nghìn tỷ đồng và khiến 1,4 triệu người
rơi vào hoàn cảnh nghèo đói.
Năm 2008: thiệt hại ước tính 10.992 tỷ đồng, 327 người chết, 73 người
mất tích, 214 người bị thương
60
Năm 2009: thiệt hại ước tính 19.1414 tỷ đồng, 365 người chết, 26
người mất tích,786 người bị thương.
Trước một thực trạng trên, đối tượng cần được hưởng chính sách
CTXH là rất lớn. Tuy nhiên, những khó khăn về tài chính và hạn chế trong cơ
chế quản lý nên Nhà nước không đáp ứng được nhu cầu cứu trợ của nhân dân
mà đối tượng phải trông chờ nhiều vào tấm lòng hảo tâm của cộng đồng.
Đánh giá chung: như trên đã phân tích chúng ta thấy, chế độ CTXH
nói chung và CTXH thường xuyên và CTXH đột xuất nói riêng đã có những
thay đổi, chuyển biến nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu thiết thực của người
hưởng CTXH. Mặc dù đối tượng cứu trợ được mở rộng, tình hình thiên tai,
bão lụt xảy ra triền miên nhưng mức trợ cấp đối với cả chế độ CTXH thường
xuyên và CTXH đột xuất đều được nâng lên.Trên thực tế năm 2009 tổng kinh
phí trợ cấp thường xuyên của cả nước là:1,988,811,029,000 đồng; CTXH đột
xuất là: 48.920 tấn gạo và 785 tỷ đồng cho các địa phương nhằm cứu đói và
khắc phục thiên tai; năm 2008 Chính phủ hỗ trợ CTXH đột xuất là 46.600 tấ
gạo và 706 tỷ đồng cho các địa phương nhằm cứu đói và khắc phục thiên tai.
Điều này thể hiện vai trò quan trọng của CTXH trong đời sống xã hội và sự
quan tâm cố gắng của Nhà nước vì cuộc sống của nhân dân.
Tuy nhiên, mức tăng của chế độ trợ giúp hàng tháng hiện nay vẫn còn
thấp, chưa đảm bảo được nhu cầu chi tiêu tối thiểu hàng ngày của đối tượng
CTXH.
2.3.Nguồn kinh phí, tài chính thực hiện cứu trợ xã hội
Nguồn lực tài chính để thực hiện CTXH hiện nay ở nước ta được lấy
từ ngân sách Nhà nước (trung ương và địa phương), từ nhân dân, các tổ chức
đoàn thể và từ sự trợ giúp quốc tế. Nhà nước phân cấp kinh phí để thực hiện
cứu trợ thường xuyên cho các đối tượng được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo
trợ xã hội và hỗ trợ chăm sóc nuôi dưỡng gia đình và công cộng. Nguồn ngân
sách còn được trích lập cho quỹ dự phòng quốc gia và quỹ dự phòng của các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thực hiện cứu trợ khẩn cấp cho các
61
nạn nhân phải chịu thiên tai và trợ cấp cứu đói. Ngoài các cơ sở bảo trợ xã hội
của Nhà nước thì ở nước ta còn có các cơ sở bảo trợ của các tổ chức đoàn thể
các hội tổ chức tôn giáo. Nguồn tài chính cho các cơ sở do chính các tổ chức
đứng ra thành lập tự huy động hoặc được tài trợ. Hiện nay ở nước ta, Nhà
nước khuyến khích thành lập các hội bảo trợ người tàn tật, hội người mù, hội
người cao tuổi, các làng trẻ SOS, trung tâm nuôi dưỡng người già cô đơn, các
doanh nghiệp dành riêng cho người tàn tật; các trường học dành riêng cho trẻ
em câm điếc…Theo thống kê trong số các cơ sở bảo trợ của nước ta hiện nay,
có đến 75% là do Nhà nước cấp kinh phí, còn lại là do tổ chức cá nhân tự cấp
trang trải. Đối với trường hợp có thiên tai gây thiệt hại nghiêm trọng trên diện
rộng ở các tỉnh thành các cơ quan tổ chức quyên góp ủng hộ. Việc quyên góp
này diễn ra trên địa bàn từng xã, phường, thị trấn…và cũng được diễn ra trên
phạm vi toàn quốc. Việc ủng hộ này có thể bằng tiền hoặc hiện vật như gạo,
thuốc men, quần áo, thực phẩm, vật liệu xây dựng nhà ở…sự giúp đỡ của
cộng đồng quốc tế cho hoạt động cứu trợ xã hội ở nước ta được thực hiện
thông qua các dự án nhân đạo từ thiện của liên hợp quốc và các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức quốc tế.
Nguồn ngân sách để thực hiện cứu trợ xã hội của Việt Nam được quy
định trong các điều khoản ở chương V của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP:
Điều 15: Nguồn kinh phí trợ giúp thường xuyên tại cộng đồng; kinh
phí nuôi dưỡng; kinh phí hoạt động bộ máy, kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản
của các cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội tại cộng đồng thuộc cấp nào thì do
ngân sách đó đảm bảo theo phân cấp hiện hành của Luật ngân sách nhà nước
và các văn bản hướng dẫn luật Ngân sách nhà nước.
Điều 16: Cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội tại cộng đồng được tiếp
nhận, sử dụng quản lý các nguồn kinh phí và hiện vật (nếu có) do các tổ chức,
cá nhân đóng góp và giúp đỡ từ thiện; bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng
đối tượng và thanh quyết toán theo chế độ tài chính hiện hành.
62
Điều 17: Nguồn kinh phí để thực hiện CTĐX bao gồm:
Ngân sách địa phương tự cân đối.
Trợ giúp của các tổ chức,cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ trực tiếp
cho địa phương hoặc thông qua Chính phủ, các đoàn thể xã hội.
Trường hợp các nguồn kinh phí trên không đủ thực hiện cứu trợ đột
xuất thì Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo
cáo Bộ lao động –thương binh và xã hội và bộ tài chính để tổng hợp đề xuất
trình Thủ tướng chính phủ xem xét, quyết định hỗ trợ từ nguồn ngân sách
trung ương.
Điều 18.Việc lập dự toán, phân bổ, chấp hành và quyết toán kinh phí
thực hiện chính sách bảo trợ xã hội theo quy định của Luật ngân sách nhà
nước và các văn bản hướng dẫn Luật ngân sách nhà nước.
Trong những năm qua, nguồn kinh phí sử dụng cho các đối tượng
hưởng trợ cấp xã hội cũng tăng khá nhanh, năm 2007 tăng gấp 4 lần năm
2000 ( 550 tỷ đồng so với 123 tỷ đồng), năm 2008 bao phủ hết số đối tượng
của nghị định 67/NĐ-CP thì kinh phí tăng lên khoảng 1500 nghìn tỷ đồng,
bằng 0,5 % ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, quy định trên còn bộc lộ những hạn chế nhất định, đó là
nguồn kinh phí thực hiện CTXH (cả thường xuyên và đột xuất) chủ yếu dựa
vào ngân sách địa phương tự cân đối. Ngân sách địa phương được hình thành
từ các nguồn thu chính của địa phương như thuế, phí và lệ phí…và hàng năm
địa phương được trích lại 2%-5% là quỹ dự phòng để chi phòng chống khắc
phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn…Như vậy, đối với các địa phương khác
nhau thì nguồn thu vào ngân sách sẽ là khác nhau. Các vùng có nhiều đối
tượng CTXH thường xuyên và nhiều thiên tai hỏa hoạn sẽ cần nguồn chi cho
đối tượng cứu trợ xã hội nhiều hơn.
Mặt khác, quy định cho các địa phương tự chủ về mặt tài chính trong
công tác CTXH đột xuất cũng chưa đảm bảo công bằng cho các đối tượng
hưởng CTXH. Đối tượng hưởng CTXH lúc này không phải dựa vào tình trạng
63
thiệt hại thực tế, những nhu cầu tối thiểu giúp họ vượt qua những khó khăn
trước mắt mà phụ thuộc nguồn kinh phí ngân sách có đến đâu.
2.4.1.Nguyên tắc sử dụng nguồn tài chính:
Các nguồn tài chính được sử dụng để chi cho các nguồn trợ cấp cứu
trợ (cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất) và chi cho công tác quản lý
hoạt động cứu trợ phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
- Đảm bảo đúng đối tượng, đúng thời điểm, đáp ứng được mong mỏi của
đối tượng được cứu trợ.
- Cần đảm bảo tính hài hòa
- Xác định chi tiêu cho cứu trợ xã hội cần bao hàm cả giá trị thành tiền
liên quan đến các khoản cứu trợ bằng hiện vật.
2.4.2. Các biện pháp để huy động nguồn lực cứu trợ xã hội
Xây dựng thực hiện tốt các chính sách thuế.
Đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, đầu tư bảo vệ môi trường, đầu tư về
phòng chống thiên tai, cứu nạn.
Nguồn lực của trung ương và địa phương phải sử dụng đúng mục đích,
đúng kế hoạch.
Đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa cứu trợ xã hội bằng các biện pháp sau:
(1) tuyên truyền phổ biến để người dân nâng cao được nhận thức,trách nhiệm
của mình.(2) lồng ghép các chính sách cứu trợ xã hội với các chương trình an
sinh xã hội.
Giáo dục cho tất cả mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nâng cao hơn
nữa hoạt động về vấn đề này.
Có những chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với các tổ chức cá nhân tích
cực tham gia hoạt động cứu trợ xã hội.
Nhà nước cũng như cơ quan các cấp các ngành phải làm tốt công tác
hợp tác quốc tế, đây là cầu nối góp phần thực hiện cứu trợ xã hội.
Nguồn kinh phí này không phải là chủ yếu nhưng trên thực tế trong
những năm qua, chúng ta đã thu được những thành tựu rất đáng khâm phục:
64
năm 1999 nguồn huy động từ cộng đồng cho cứu trợ dân sinh lên đến 100 tỷ
đồng, bằng 1/3 nguồn kinh phí của Chính phủ trợ giúp về dân sinh cho vùng
lũ lụt; trong đợt ủng hộ đồng bào miền trung năm 2009 số tiền ủng hộ qua
Quỹ cứu trợ trung ương là 43.255.004.651 đồng và 410 USD. Các tổ chức, cá
nhân có thể trợ giúp trực tiếp cho các đối tượng CTXH, cũng có thể thông qua
các tổ chức như Quỹ cứu trợ trung ương, Hội chữ thập đỏ…Hình thức cứu trợ
trực tiếp tạo tâm lý an tâm tin tưởng cho người đi cứu trợ, người hưởng cứu
trợ được nhận nguồn cứu trợ nhanh hơn, thủ tục không quá phức tạp…Song,
hình thức cứu trợ này chưa mang tính cộng đồng sâu sắc, bị chi phối nhiều
bởi chủ thể đi cứu trợ, đối tượng hưởng cứu trợ không đồng đều. Đối với các
hình thức hỗ trợ qua các tổ chức hiện nay còn gây nhiều nghi ngại cho người
dân về cách thức sử dụng và quản lý nguồn hỗ trợ đó như thế nào.
Có thể thấy so với nguồn kinh phí của BHXH thì nguồn kinh phí của
CTXH có những điểm giống nhau đó là:đảm bảo công bằng xã hội dựa trên
cơ chế phân phối lại thu nhập;có sự tham gia của ngân sách Nhà nước và cơ
chế nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc điều hành,quản lý và sử
dụng quỹ.Bên cạnh đó là những điểm khác nhau giữa nguồn kinh phí của
BHXH và CTXH.Đầu tiên là nguồn tài chính:BHXH có nguồn tài chính là
nguồn bắt buộc được phát sinh từ người lao động,người sử dụng lao động,nhà
nước,các nguồn khác như tiền lãi từ hoạt động đầu tư…còn có nguồn tự
nguyện chủ yếu hình thành do bên tham gia BHXH đóng góp;nguồn tài chính
của CTXH gồm nguồn từ ngân sách nhà nước,nguồn từ cộng đồng dân cư và
nguồn trợ giúp quốc tế.Về đặc điểm:BHXH không có mục tiêu lợi nhuận ,tính
đa chủ thể,tính công cộng,..CTXH lại có nguồn lực tài chính khá đa dạng .Về
phương tiện:BHXH chủ yếu bằng tiền ít bằng dịch vụ và hiện vật;CTXH tồn
tại song song các phương tiện khác nhau là tiền,dịch vụ,hiện vật.
65
3.CƠ CẤU TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỨU TRỢ XÃ HỘI VIỆT NAM.
Hoạt động CTXH được thực hiện bởi Nhà nước, cộng đồng, cá nhân
nhưng mọi hoạt động cứu trợ đều đặt dưới sự quản lý của Nhà nước. Công tác
CTXH hiện nay đươc tổ chức chỉ đạo từ Trung ương đến cơ sở, vừa theo
ngành dọc, vừa theo vùng lãnh thổ, song đều có mục tiêu nhất quán là giúp đỡ
các đối tượng CTXH.
*Ở Trung ương cơ quan chịu trách nhiệm chính là Bộ Lao động-
Thương binh và xã hội và cơ quan chuyên trách là Cục Bảo trợ xã hội. Bộ lao
động thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động cứu trợ xã hội
thông qua việc nghiên cứu ban hành pháp luật, chính sách chế độ đối với công
tác CTXH. Đồng thời, phối hợp với cán bộ, ban ngành liên quan như Bộ Tài
chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ thủy sản và Ủy ban nhân
dân các tỉnh thuộc thành phố trực thuộc Trung ương xác định mức độ thiệt hại
về dân sinh và thiếu đói do thiên tai, tổng hợp đề xuất mức hỗ trợ từ ngân
sách trung ương trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
*Ở cấp tỉnh cơ quan chịu trách nhiệm chuyên môn chính Sở Lao
động-Thương binh và Xã hội. Sở Lao động –Thương binh và Xã hội thực
hiện:
Xác định mức trợ cấp, trợ giúp cho các đối tượng CTXH trình Chủ tịch
UBND cấp tỉnh quyết định.
Quản lý đối tượng CTXH trên địa bàn; chuyển giao hồ sơ gia đình cá
nhân đang nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi…
Hướng dẫn và kiểm tra, giám sát cấp huyện tổ chức quản lý, thực hiện
các chính sách trợ cấp, trợ giúp trên địa bàn.
Hàng năm Sở Lao động-Thương binh và Xã hội lập kế hoạch kinh phí
trợ cấp CTXH thường xuyên và CTXH đột xuất gửi sở tài chính, sở đầu tư
trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
Lập dự toán và dự kiến phân bố kinh phí CTXH
Lập báo cáo định kỳ, đột xuất cho Bộ Lao động-Thương binh và xã hội
66
Cấp quận, huyện chỉ đạo phòng Lao động-Thương binh và Xã hội thực
hiện
Quản lý đối tượng CTXH trên địa bàn.
Hướng dẫn, kiểm tra cấp xã trong việc xác định và quản lý đối tượng.
Tiếp nhận và thẩm định hồ sơ đề nghị trợ cấp xã hội cấp huyện.
Tổng hợp báo cáo định kỳ và theo yêu cầu đột xuất của cấp trên
Cấp xã, phường
Quản lý đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn.
Thực hiện chi trả trợ cấp xã hội.
Báo cáo cấp huyện về số lượng hưởng TCXH
Thanh toán kinh phí trợ cấp xã hội.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành công tác CTXH được
tổ chức thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa phương. Phân định rõ ràng
trách nhiệm của từng cơ quan cụ thể, đảm bảo hoạt động được thông suốt và
cập nhật thường xuyên.
Tuy nhiên theo cơ cấu tổ chức hiện tại có nhiều bất cập:
Thứ nhất, việc tổ chức, thực hiện quản lý công tác CTXH Nhà nước
giao cho Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội thực hiện, song quản lý tài
chính lại không được chủ động mà phụ thuộc vào Bộ Tài chính, điểm (b)
khoản 1 điều 19 NĐ 67/2007/NĐ-CP quy định Bộ Lao động-Thương binh và
Xã hội “phối hợp với Bộ Tài chính bố trí kinh phí trợ giúp xã hội cho các bộ
nghành, địa phương; kiểm tra việc sử dụng kinh phí thực hiện chính sách cứu
trợ địa phương”. Quy định trên chưa phù hợp bởi lí do:
Bộ Tài chính không thể hiểu rõ và nắm bắt sát sao về chính sách, đối
tượng, mức độ…của các đối tượng CTXH nên không thể căn cứ vào báo cáo
của Bộ lao động-Thương binh và Xã hội trình Chính phủ duyệt mức trợ cấp
cho các đối tượng CTXH được hưởng. Quy định này chỉ mang tính hình thức
mà gây thêm những thủ tục rườm rà trong việc trợ cấp kinh phí cho hoạt độn
g CTXH
67
Nguồn kinh phí thực hiện cứu trợ không chỉ từ ngân sách nhà nước mà
còn từ nhiều nguồn khác nhau có thể thông qua các tổ chức như: mặt trận tổ
quốc, ủy ban phòng chống lụt bão, hội chữ thập đỏ…nếu có sư can thiệp của
Bộ Tài chính không có hiệu quả mà góp phần tăng sự phức tạp, khó quản lý
tình hình CTXH nói chung và tài chính nói riêng.
Thứ hai, quy định trên của pháp luật đối với các cấp, ngành thực hiện
CTXH mới chỉ dừng lại việc theo dõi, thống kê số lượng đối tượn CTXH; lập
báo cáo; lên danh sách…mà thiếu hẳn một bộ phận chuyên môn phụ trách
công tác CTXH từ việc kêu gọi ủng hộ, quản lý quỹ CTXH, tư vấn cho các
đối tượng CTXH…Đây là một hạn chế rất lớn trong công tác tổ chức CTXH
hiện nay. Chình vì vậy các hoạt động ủng hộ CTXH, đặc biệt CTXH đột xuất
trong cộng đồng dân cư chỉ mang tính tự phát theo phong trào như đối với cán
bộ công nhân viên trừ ngày lương, hội đoàn thể kêu gọi ủng hộ vật
chất…Người dân ủng hộ nhưng không rõ khoản đóng góp đến được người
cần cứu trợ là bao nhiêu? sử dụng như thế nào?
68
CHƯƠNG 3
NHỮNG BẤT CẬP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT CỨU TRỢ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN,HẠN
CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG CỨU TRỢ Ở
VIỆT NAM.
Xác định CTXH là một trong những cơ chế bảo vệ quan trọng, Nhà nước
ta đã rất quan tâm đến hoạt động cứu trợ. So với nhiều nước trong khu vực,
Việt nam là nước có chương trình cứu trợ khá toàn diện, đa dạng từ các tổ
chức quyên góp và cứu trợ các trường hợp có thiên tai gây hại, ủng hộ bằng
tiền hoặc hiện vật như gạo, thuốc men, quần áo, thực phẩm, vật liệu xây dựng
nhà ở… cứu trợ khẩn cấp bằng tiền, tài sản và giúp đỡ ổn định chỗ ở ban đầu
cho nạn nhân dịch bệnh hoặc các thảm họa khác; bảo vệ chăm sóc; dạy dỗ trẻ
em tàn tật; tạo điều kiện để trẻ em tàn tật có thể tự lao động; nuôi sống bản
thân; giúp ích cho gia đình, xã hội, sống hòa nhập bình đẳng với cộng đồng;
giúp vốn, phương tiện phát triển kinh tế gia đình, hỗ trợ tài chính, vật chất
trong khám bệnh, chữa bệnh, tặng quà, học bổng và các hình thức hỗ trợ
thường xuyên khác.
Theo báo cáo vào chiều 16/1/2009, Cục bảo trợ Xã hội đã tổ chức Hội
nghị Tổng kết công tác năm 2008 và triển khai chương trình công tác năm
2009. Tham dự có đồng chí Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội
Bùi Hồng Lĩnh, Phùng Ngọc Hùng, cùng đại diện lãnh đạo các đơn vị có liên
quan đến Bộ. Thay mặt lãnh đạo cục, Cục trưởng Nguyễn Trọng Đàm đã trình
bày Báo cáo tình hình thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2008 và Chương trinh
năm 2009 của Cục Bảo trợ Xã hội với một số kết quả, nội dung chủ yếu sau
đây:
*Về mặt xây dựng văn bản: năm qua Cục đã tham mưu xây dựng và
trình ban hành 9 văn bản trong đó có 5 văn bản cấp Chính phủ, 4 văn bản cấp
Bộ. Các văn bản hiện đang còn xây dựng là: Đề án nghiên cứu về luật người 69
khuyết tật, Đề án phát triển nghề công tác xã hội; Thông tư hướng dẫn một số
điều của Nghị định số 68…; góp ý 22 Nghị quyết, quyết định của Thủ tướng
chính phủ và Thông tư của các Bộ, ngành liên quan…
Kết quả giảm nghèo, tính đến cuối năm 2008, tỷ lệ nghèo cả nước còn
khoảng 13,08%, giảm 1,66% so với năm 2007, không đat mục tiêu đặt ra là
giảm xuống còn khoảng 12% do tác động của nhiều yếu tố kinh tế-xã hội,
thiên tai, bão lũ.
*Về trợ giúp đôt xuất: căn cứ đề nghị của địa phương và qua kiểm tra
thực tế,Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã trao đổi thống nhất với các
bộ-ngành liên quan, xem xét đề nghị Chính phủ hỗ trợ lương thực cho các
tỉnh nêu trên 40.000 tấn gạo và 825 tỷ đồng nhằm cứu đói và khắc phục thiên
tai. Đồng thời cũng đã hướng dẫn các địa phương rà soát và thực hiện cứu trợ
kịp thời cho gần 1,4 triệu người dân…
*Về chính sách xã hội: Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện
Nghị định số 67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp các đối tượng xã hội,
đến nay 63/63 tỉnh, hoàn thành việc rà soát, lên danh sách với tổng đối tượng
là khoảng 1.13 triệu người. Trong năm, nhờ việc xây dựng và đưa vào ứng
dụng phần mềm quản lý đối tượng bảo trợ xã hội theo Nghị định 67 nên công
tác quản lý đối tượng bước đầu đã được chuẩn hóa. Ước tính đến nay có
khoảng 90% và đến năm 2009 sẽ có 100% đối tượng thuộc diện trợ cấp theo
nghị định này được hưởng trợ cấp.
*Đối với lĩnh vực người khuyết tât: đến nay đã có 30 tỉnh, thành phố có
kế hoạch và đề án trợ giúp người khuyêt tật (Đề án 329) cấp tỉnh; 24 tỉnh,
thành phố tiến hành khảo sát thống kê người tàn tật, trợ cấp xã hội cho các đối
tượng quy định tại Nghị định 67/2007/NĐ-CP, hướng dẫn thành lập tổ tự lực
của người tàn tật, cấp thẻ bảo hiểm y tế, hỗ trợ giáo dục, đào tạo dạy nghề tạo
việc làm, vay vốn phát triển sản xuất, cải tạo các công trình công cộng, giao
thông để đảm bảo cho người tàn tật tiếp cận…
70
*Về thực hiện Pháp lệnh người cao tuổi và Chương trình hành động
quốc gia về người cao tuổi: đã có gần 3.1 triệu người (40% người cao tuổi)
được hưởng lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc chính sách đối với
người có công và trợ cấp xã hội; trên 57% hộ gia đình có người cao tuổi có
mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng; 93,88%
người cao tuổi được khám, chữa bệnh và được hưởng chăm sóc của gia đình,
trong đó có khoảng 32,6% do nhà nước và các tổ chức hỗ trợ; số còn lại do
tích lũy của hộ hoặc giúp đỡ của cộng đồng dân cư…
*Về công tác xã hội: theo chỉ đạo của chính phủ, Bộ LĐ-TBXH đang
tiếp tục phối hợp cùng các Bộ, ngành hữu quan và các đối tác quốc tế xây
dựng Đề án Phát triển nghề công tác xã hội; Nghiên cứu đổi mới hoạt động
của các Trung tâm bảo trợ xã hội; Trình và chuẩn bị triển khai thực hiện dự án
“Chăm sóc trẻ em và người chưa thành niên có hoàn cảnh đặc biệt” do
UNICEF tài trợ; đôn đốc và hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện
các mô hình “Nhà xã hội” và “Ngôi nhà nhỏ trong các Trung tâm Bảo trợ xã
hội” chăm sóc trẻ em tại một số địa phương. Trong năm 2008 đã triển khai
được mô hình nhà xã hội tại Hà Nội, Hà Tây, Đắc Lắc, TP.HCM, Bình
Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu. Mô hình ngôi nhà nhỏ trong trung tâm BTXH tại
Phú Thọ, Sơn La, Hải Dương, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Khánh Hòa…Báo cáo
cũng đưa ra kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo nước ta
giảm còn 12% ; về trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, đảm bảo 100% đối
tượng có đủ điều kiện và hồ sơ đều được hưởng trợ cấp theo Nghị định
67/2007/NĐ-CP; về đời sống nhân dân: đảm bảo ổn định đời sống, đặc biệt là
vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, người dân vùng bị thiên tai,
đảm bảo không có người dân nào bị thiếu đói do thiếu lương thực. Phát biểu
kết luận hội nghị, cùng với những nhiệm vụ đã được nêu trong báo cáo trên,
Thứ trưởng Bùi Hồng Lĩnh chỉ đạo, trong năm tới ngoài việc tập trung tổ
chức thực hiện tốt Nghị quyết của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền
vững ở các huyện nghèo, công tác bảo trợ xã hội cần đặc biệt quan tâm hơn
71
đến an sinh xã hôi, đặc biệt tập trung vào những vấn đề bức xúc và những đối
tượng yếu thế như người nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người tàn
tật…Cùng với đó, người làm công tác bảo trợ xã hội cũng cần chú trọng nhiều
hơn đến công tác tuyên truyền, phổ biến thực hiện chính sách, biết phát huy
cái tâm, tình cảm và trách nhiệm của mình đối với đất nước và toàn xã hội,
trong công việc cũng cần nâng cao tinh thần đoàn kết, nhân ái, biết phối hợp
chia sẻ để cùng thành công… Có thể nêu ra một vài hoạt động cứu trợ đã
được thực hiện như:
- Hỗ trợ 250 tỷ đồng giúp học sinh tiểu học vùng khó khăn.
Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em khó khăn (PEDC) cho biết: Để tăng
cơ hội đến trường cho trẻ em ở 40 tỉnh khó khăn nhất trong cả nước, từ đầu
năm học 2008-2009 đến nay, PEDC đã chi 250 tỷ đồng, hỗ trợ trực tiếp cho
2,15 triệu học sinh, mỗi em 32.000 đồng để mua các học phẩm tối thiểu: vở,
bút,…với tổng số tiền là 68 tỷ đồng.
Giúp các trường học ở những vùng khó khăn có đầy đủ các vật dụng ,
trang thiết bị tối thiểu để tổ chức dạy và học, PEDC đã dành 8 tỷ đồng hỗ trợ
văn phòng phẩm cho 80 nghìn lớp học bậc tiểu học, mỗi lớp 100.000 đồng;
dành 75 tỷ đồng hỗ trợ Quỹ hỗ trợ nhà trường với mức 8 triệu đồng cho
trường chính và 2,8 triệu đồng cho điểm trường lẻ. Có tất cả 4800 trường tiểu
học và 17.500 điểm trường lẻ được nhận sự trợ giúp này.
Trẻ em dâ tộc thiểu số chuẩn bị vào lớp 1 năm học 2008-2009 được vào
các lớp “chuẩn bị đến trường”. PEDC đã tổ chức 5000 lớp, chủ yếu tại các xã
dân tộc vùng Tây bắc và tây nguyên…Trung bình mỗi lớp được hỗ trợ 8 triệu
đồng.
Bên cạnh đó, mỗi học sinh được hỗ trợ trực tiếp bằng học phẩm: 20.000
đồng/em . Mỗi lớp được hỗ trợ văn phòng phẩm 200.000 đồng. Giáo viên
được nhận phụ cấp 2 tháng.
- Hỗ trợ tiền và gạo cho các địa phương bị ảnh hưởng bão số 6 năm 2008
72
Ngày 9-10 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định 1458/QĐ-TTG về việc
trích 210 tỷ đồng từ nguồn dự phòng ngân sách TW năm 2008 và cấp không
thu tiền 2.200 tấn gạo từ nguồn Dự trữ quốc gia để hỗ trợ các địa phương
khắc phục hậu quả cơn bão số 6.
Theo đó, số tiền và gạo trên được phân bổ cho 4 tỉnh: Bắc Giang 80 tỷ
đồng-1000 tấn gạo, Sơn La 50 tỷ đồng-400 tấn gạo; Quảng Ninh 40 tỷ đồng-
400 tấn gạo; Lạng sơn 40 tỷ đồng và 400 tấn gạo để hỗ trợ dân sinh, mua
giống khôi phục sản xuất, khôi phục cơ sở hạ tầng thiết yếu như trường học,
trạm y tế, thủy lợi, giao thông nông thôn và vệ sinh môi trường, phòng chống
dịch bệnh. Chủ tịch UBND các tỉnh trên chịu trách nhiệm quản lý, phân bổ số
gạo kinh phí hỗ trợ đúng mục đích, đúng đối tượng và đúng quy định hiện
hành. Đồng thời chủ động sử dụng dự phòng ngân sách địa phương và huy
động các nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy định để khắc phục hậu quả
mưa lũ sau bão số 6.
- Vụ thảm họa biển miền Trung-ô nhiễm môi trường biển Fomosa
Tháng 4/2016 Fomosa đã thải hàng nghìn m3 nước thải ra biển mỗi ngày
cùng với đó là hàng trăm tấn hóa chất độc hại gây hậu quả cực kỳ nặng nề và
nguy hiểm cho người dân đồng bào miền Trung.Cá chết hàng loạt,bà con
nông dân sống trong cảnh không có nước sạch để sinh hoạt,bệnh tật tràn lan
khắp nơi.Trước tình hình đó,Đảng và Nhà nước ta đã có những biện pháp,hoạt
động cứu trợ để giúp đỡ bà con vùng biển miền Trung sớm ổn định cuộc sống
,khắc phục những thiệt hại…Tiêu biểu như: Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 772/QĐ-TTg ngày 9/5/2016 hỗ trợ khẩn cấp cho người
dân tại các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế bị ảnh
hưởng do hiện tượng hải sản chết bất thường; Quyết định số 1138/QĐ-TTg
ngày 25/6/2016 về việc tăng thời gian hỗ trợ ngư dân, diêm dân 4 tỉnh miền
Trung theo Quyết định số 772/QĐ-TTg. Theo đó hỗ trợ hộ nông dân, ngư
dân, chủ trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã sản xuất trong lĩnh vực nuôi trồng
thủy sản bị ảnh hưởng do hiện tượng hải sản chết bất thường như cơ chế hỗ
73
trợ thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh; hỗ trợ 15 kg gạo/người/tháng trong thời
gian 6 tháng đối với các nhân khẩu thuộc hộ gia đình chủ tàu và hộ gia đình
của lao động trên tàu; hỗ trợ một lần tối đa 5 triệu đồng/tàu đánh bắt ven bờ
và vùng lộng phải tạm ngừng ra khơi; hỗ trợ 100% lãi suất vay vốn tín dụng
trong thời gian tạm trữ 6 tháng đối với các doanh nghiệp, chủ vựa, tàu dịch vụ
hậu cần nghề cá để thu mua, tạm trữ hải sản từ ngày 5/5/2016 đến ngày
5/7/2016; hỗ trợ không quá 70% giá trị hải sản không đảm bảo an toàn buộc
phải tiêu hủy; hỗ trợ khắc phục hậu quả môi trường. Đến nay, Chính phủ đã
xuất cấp gần 4.182 tấn gạo từ dự trữ quốc gia; Quỹ BVMT Việt Nam đã hỗ
trợ ban đầu cho 4 tỉnh bị ảnh hưởng để xử lý, tiêu hủy cá chết (khoảng 4 tỷ
đồng); Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã hỗ trợ trên 5 tỷ
đồng cho người dân bị thiệt hại.(1)
Tóm lại, so với các quy định trước đây, cả đối tượng hưởng cứu trợ xã
hội thường xuyên và cứu trợ xã hội đột xuất đều được mở rộng một cách đáng
kể. Từ chỗ có 4 nhóm đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội thường xuyên và
7 nhóm đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội đột xuất theo Nghị định số
07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 về chính sách cứu trợ xã hội và Nghị định số
168/2004/NĐ-CP ngày 20/9/2004 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 07/2000/NĐ-
CP, nay đã có 9 nhóm đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội thường xuyên và
8 nhóm đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội đột xuất theo Nghị định số
67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 và Nghị định số 13/2010 /NĐ-CP ngày
27/02/2010 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 67/2007/NĐ-CP. Trong từng nhóm
đối tượng đã được quy định trong các văn bản pháp luật trước đây cũng có sự
mở rộng bằng cách thêm đối tượng cụ thể trong nhóm hoặc giảm bớt những
điều kiện cụ thể mà từng đối tượng phải đáp ứng.
Tuy nhiên, bên cạnh thành công đó thì các chính sách, pháp luật về
cứu trợ xã hội bộc lộ những bất cập lớn như sau:
Thứ nhất, về đối tượng thụ hưởng: Độ bao phủ của pháp luật cứu trợ xã
hội vẫn chưa thực sự được rộng khắp, chưa tạo điều kiện thật thuận lợi cho
74
các đối tượng có điều kiện được tiếp cận, nhất là ở những địa phương có hoàn
cảnh kinh tế khó khăn.
Các điều khoản TGXHTX nêu trong các nghị định mới quan tâm đến
nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về sức khỏe, bệnh tật, trẻ mồ
côi, người già không nơi nương tựa. Một số nhóm đối tượng yếu thế vẫn đang
tiếp tục bị bỏ quên, trong khi các nhóm đối tượng khác mới nảy sinh do
những biến cố kinh tế - xã hội cũng đang cần xem xét để đưa vào danh sách
thụ hưởng.
Việc xác định đối tượng trẻ em (người dưới 16 tuổi) được hưởng cứu trợ
xã hội với việc xác định độ tuổi của người lao động (người đủ 15 tuổi) cũng
chưa có sự thống nhất. Thiết nghĩ những người đã đủ 15 tuổi cần đi làm để tự
nuôi sống bản thân, không nên đưa vào đối tượng được hưởng cứu trợ xã hội,
trừ trường hợp đặc biệt không thể đi làm kiếm sống.
Đây là vấn đề cần nghiên cứu, bàn luận để sớm có cơ sở cho việc chỉnh
sửa, bổ sung diện bao phủ của chính sách đến các nhóm đối tượng cần trợ
giúp.
Thứ hai, về mức trợ giúp và nguồn kinh phí .Mặc dù các quy định về mức
trợ cấp liên tục thay đổi nhưng mức trợ cấp vẫn còn rất thấp, mang tính cào
bằng và sự thay đổi chậm hơn so với biến động giá cả thị trường. Quy định về
nguồn kinh phí dành cho trợ giúp không ngừng được bổ sung mở rộng, huy
động tối đa khả năng tài chính của Nhà nước, địa phương; tuy nhiên cơ chế tự
cân đối ngân sách cũng đang tạo lên sự chênh lệch và khác biệt giữa các địa
phương về phân bổ ngân sách cho hoạt động trợ cấp. Sự tham gia ủng hộ
đóng góp của cá nhân, cộng đồng và các tổ chức xã hội vào ngân sách ngày
càng mở rộng song tính tự nguyện tham gia đóng góp ủng hộ chưa cao.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng, điều kiện chăm sóc và quản lý:Trong thời gian
qua, nhiều văn bản liên quan đến phát triển cơ sở hạ tầng, điều kiện chăm sóc
cho nhóm yếu thế trong xã hội đã được ban hành nhưng do hạn chế điều kiện
kinh tế của trung ương và địa phương, hơn nữa, dân số - nhóm đối tượng cần
75
chăm sóc - quá đông do yếu tố chiến tranh để lại nên sự phát triển cơ sở hạ
tầng và các điều kiện chăm sóc gần như chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, thiếu
thốn nhà cửa, phương tiện và trang thiết bị phục vụ. Công tác quản lý cũng
đang gặp nhiều bất cập do cơ chế quản lý kiểu cũ vẫn còn ảnh hưởng, điều
này tác động không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động TGXHTX. Những vấn đề
này đang đăt ra nhiều thách thức lớn đối với công tác TGXHTX ở nước ta
hiện nay.
Thứ tư, sự phối hợp của các cơ quan tổ chức: Các quy định của pháp luật
về TGXH luôn quan tâm đến sự tham gia của các chủ thể như: Nhà nước, địa
phương, cộng đồng, gia đình, cá nhân đối với hoạt động trợ giúp. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy sự tham gia chồng chéo của các bộ, ngành nên hiệu quả
không cao; một số địa phương chưa chủ động, tích cực tham gia hoạt động trợ
giúp; cán bộ chức năng thực thi sai chính sách trợ giúp; Những vấn đề này
cũng cần được nghiên cứu, giải quyết trong thời gian tới.
Thứ năm, ý thức của đối tượng thụ hưởng cứu trợ xã hội.Một bộ phận
không nhỏ gia đình và cá nhân thụ hưởng chính sách ở một số vùng miền còn
tồn tại tâm thế ỷ lại trông chờ vào sự trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức xã
hội mà không chịu vươn lên trong cuộc sống.
Thứ sáu, chưa có sự giải thích công bằng về điều kiện hưởng cứu trợ xã
hội.Các đối tượng mặc dù đã hội đủ điều kiện được hưởng cứu trợ xã hội
thường xuyên nhưng vì thiếu thiện chí, công tâm hoặc vô trách nhiệm của
những người làm công tác xét duyệt hồ sơ mà vô tình hay hữu ý gạt bỏ một
lượng không nhỏ các đối tượng đủ điều kiện ra ngoài danh sách được hưởng
cứu trợ thường xuyên của địa phương mình.
2.KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ THỰC HIỆN HOẠT ĐỘNG
CỨU TRỢ XÃ HỘI.
Nhằm duy trì ổn định kinh tế - xã hội, nhiều nước trên thế giới đã ban
hành hệ thống pháp luật về an sinh xã hội và không ngừng cải cách hệ thống
pháp luật của mình. Ngày nay, xu hướng cải cách hệ thống an sinh xã hội ở
76
các nước rất khác nhau. Đối với các nước phát triển, nguyên nhân cải cách là
do tỷ lệ người già ngày càng tăng, kéo theo sự gia tăng thâm hụt quỹ lương
hưu và quỹ BHYT...
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cải cách hệ thống an sinh xã hội đối với
nhiều nước đang phát triển là nhằm cơ cấu lại hệ thống an sinh xã hội truyền
thống yếu kém và mở rộng phạm vi. Trong khi đó, các nước chuyển đổi cải
cách hệ thống an sinh xã hội bởi gánh nặng về tài chính đối với chính phủ quá
lớn.
2.1.Hệ thống an sinh xã hội Đức (24)
Được hình thành từ thế kỷ 19 với bốn loại bảo hiểm cơ bản là: BHYT
(1883); Bảo hiểm tai nạn (1884); Bảo hiểm hưu trí (1889); Bảo hiểm thất
nghiệp (1927). Từ năm 1994, nước Đức thực hiện đạo luật về bảo hiểm chăm
sóc sức khoẻ và loại bảo hiểm này trở thành một trong những bộ phận cơ bản
của hệ thống BHXH Đức. Bên cạnh hệ thống bảo hiểm, các hình thức bảo trợ
xã hội khác như: bảo trợ nuôi dưỡng trẻ em, bảo trợ giành cho người già…
cũng được phát triển mạnh mẽ ở Đức.
Do những áp lực lớn về cơ cấu tuổi thọ dân số cũng như gánh nặng hưu trí
vào năm 2001 chính phủ Đức đã ban hành đạo luật cải cách hưu trí mới với
mục tiêu là ổn định các tỷ lệ đóng góp trong quỹ hưu trí. Vào năm 2004, cải
cách hưu trí lại được tiến hành ở Đức với phương châm mang lại sự ổn định
về tài chính cho hệ thống BHXH với việc tăng độ tuổi nghỉ hưu chính thức từ
65 tuổi lên 67 tuổi vào năm 2035 và tiếp tục khẳng định tỷ lệ đóng góp vào hệ
thống hưu trí công cộng ở mức 20% vào năm 2020 và 22% vào năm 2030.
2.2.Công tác bảo trợ xã hội ở Liên Bang Nga (25)
BTXH dựa trên những nguyên tắc nhất định. Một trong những nguyên tắc
cơ bản của BTXH là nguyên tắc đa chủ thể và nguyên tắc đồng tình của các
chủ thể BTXH. Xã hội, công chức, chính quyền địa phương, các đảng phái
chính trị, các đoàn thể xã hội, các tổ chức, các hiệp hội nghề nghiệp, các
doanh nghiệp, các cơ quan, các chủ nhà máy, … đều tham gia vào với tư cách
77
là chủ thể bảo trợ xã hội, bao gồm cả việc đồng tình đóng góp và phân chia
các nguồn lực để thực hiện công tác bảo trợ xã hội.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của BTXH là nguyên tắc tính phổ
biến. BTXH áp dụng cho tất cả các thành viên của xã hội và công dân, đòi hỏi
đảm bảo các điều kiện cho con người được phép tham gia hoạt động lao động,
giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch, an dưỡng, điều kiện nhà ở, phúc lợi
và các đối tượng khác thuộc về hạ tầng xã hội và các loại hình dịch vụ xã hội.
Ngoài ra, BTXH cần được thực hiện trong suốt cuộc đời của một người từ khi
sinh ra cho đến lúc chết.
Tuy nhiên, BTXH được thực hiện theo cách khác nhau với các nhóm xã
hội cụ thể, tầng lớp nhân dân. Điều đó đòi hỏi phải phân biệt phương pháp
tiếp cận trong việc thực hiện BTXH, tùy thuộc vào mức độ tự chủ về kinh tế
của con người, mức độ về khả năng lao động, mức thu nhập và các yếu tố
khác. Phân biệt phương pháp tiếp cận đối với việc tổ chức BTXH cũng là một
trong những nguyên tắc cơ bản. BTXH cho người lao động liên quan đến việc
cung cấp đảm bảo và trợ cấp, tạo điều kiện cho hoạt động sống và lao động
bình thường, cho phép con người thực hiện quyền làm việc, chọn công việc,
nghề nghiệp và chuyên môn. BTXH thực hiện trợ cấp cho người khuyết tật,
cung cấp thu nhập tối thiểu trong trường hợp thất nghiệp, mất thu nhập do bị
khuyết tật tạm thời, bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, khuyết tật,
góa bụa, tuổi già, bảo đảm phục hồi xã hội, y tế, nghề nghiệp.
2.4.Hệ thống an sinh xã hội Nhật Bản (26)
Hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản ra đời từ những năm 1950 và liên
tục được hoàn thiện. Nó đang đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp
phát triển kinh tế Nhật Bản. Những thành tố cơ bản của hệ thống này là dùng
quỹ xã hội để đảm bảo thu nhập cho những người lâm vào tình cảnh đặc biệt;
BHYT; bảo đảm phúc lợi cho những người cao tuổi, người tàn tật và trẻ em
nhỏ tuổi cần sự chăm sóc thường xuyên; trợ cấp xã hội đối với những người
có mức sống thấp hơn mức qui định. Như vậy, có thể thấy an sinh xã hội Nhật
78
Bản bao gồm 3 bộ phận chính: chăm sóc y tế, hưu trí và phúc lợi xã hội khác.
Trong đó, hưu trí là bộ phận chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng chi tiêu của hệ
thống.
2.6.Công tác cứu trợ xã hội của Trung Quốc (27)
Theo Tân Hoa xã: Trang web Bộ Dân chính Trung Quốc ngày 10/6 công
bố thông tin cho biết, nhằm thúc đẩy xây dựng hệ thống cứu trợ xã hội hiện
đại, mới đây, Bộ Dân chính và Bộ Tài chính Trung Quốc cùng công bố "Ý
kiến về đẩy nhanh phát triển công tác xã hội trong lĩnh vực cứu trợ xã hội",
xác định rõ các nội dung như tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu nguyên tắc, lộ trình
nhiệm vụ, biện pháp ủng hộ và bảo đảm, v.v. trong việc đẩy nhanh phát triển
công tác xã hội trong lĩnh vực cứu trợ xã hội.
Bản "Ý kiến" xác định, phấn đấu đến năm 2020, bước đầu hình thành cục
diện các cơ quan phục vụ và người làm công tác xã hội tham gia rộng rãi vào
việc cứu trợ xã hội, các nhân viên công tác cứu trợ xã hội phổ biến vận dụng
quan niệm, kiến thức và phương pháp chuyên môn trong công tác xã hội,
phạm vi che phủ và cộng đồng được hưởng lợi từ công tác xã hội trong lĩnh
vực cứu trợ xã hội được mở rộng rõ rệt, mực độ chuyên nghiệp và hiệu quả
phục vụ không ngừng được tăng cường.
3.GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CỨU TRỢ XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM.
3.1. Yêu cầu đối với hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội
3.1.1. Nhận thức đúng vai trò của cứu trợ xã hội ở nước ta hiện nay:
Nhận thức đúng về vai trò của CTXH nói riêng và an sinh xã hội nói
chung có tầm quan trọng đặc biệt trong xây dựng chính sách,pháp luật về
CTXH ở Việt Nam hiện nay.
Trước hết, CTXH là chính sách xã hội cơ bản của Việt Nam vì con người
và sự phát triển con người. Đối với nước ta, đảm bảo nhu cầu an sinh xã hội
cho mọi người là một trong những mục tiêu xã hội quan trọng thể hiện tính ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng phù hợp với xu thế chung
79
của cộng đồng quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh và công bằng. Thực
hiện tốt các chính sách CTXH sẽ nhằm ổn định cuộc sống của các đối tượng
“yếu thế” và phát triển quốc gia.
Thứ hai, CTXH là công cụ quan trọng thực hiện công bằng xã hội đảm
bảo sự ổn định và phát triển xã hội. Thực tế cho thấy khoảng cách bất bình
đẳng trong một quốc gia càng lớn thì ở quốc gia đó không có sự ổn định và
phát triển. Chính sách CTXH là sự quan tâm, giúp đỡ của nhà nước, tổ chức,
cá nhân đến những đối tượng gặp khó khăn, hoạn nạn trong cuộc sống. Vì
vậy, xây dựng và hoàn thiện pháp luật CTXH luôn hướng tới sự bình đẳng và
ổn định quốc gia
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật CTXH phù hợp với tình hình kinh tế xã hội
của đất nước
Trong quá trình phát triển kinh tế, giải quyết phúc lợi xã hội là nhiệm vụ
hết sức quan trọng và cần phải được quan tâm một cách thường xuyên. Song
khi giải quyết các vấn đề phúc lợi chúng ta cần phải xem xét trong mối quan
hệ với các yếu tố khác, trước hết là kinh tế. Nếu chúng ta thực hiện chế độ
CTXH vượt quá khả năng về kinh tế sớm muộn sẽ đem lại những hậu quả tồi
tệ và ngược lại nếu không xây dựng được các chính sách CTXH phù hợp nó
lại làm cản trở sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội. V ì vậy, xây dựng pháp
luật CTXH chúng ta phải dựa tình hình kinh tế-xã hội nước ta trong từng giai
đoạn cụ thể.
Thứ nhất, nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Bản
thân nền kinh tế thị trường tạo ra động lực cho sự phát triển, tăng trưởng kinh
tế, song cũng gây ra các vấn đề bức xúc, trong đó có một bộ phận dân cư,
người lao động rơi vào tình trạng khó khăn trong cuộc sống, dẫn đến bất công
xã hội và đe dọa sự bình đẳng xã hội. Đảm bảo, sự hài hòa giữa sự phát triển
kinh tế và xã hội là nhiệm vụ rất lớn lao của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
80
Thứ hai, Việt Nam thường xuyên phải chịu hậu quả của thiên tai, bão lụt,
hạn hán với tần suất xuất hiện trong năm càng lớn. Hàng năm có khoảng 700
người chết vì bão lũ và sạt lở, mỗi năm thiệt hại trung bình 3-4 nghìn tỷ đồng
và lên đến 10 tỷ đồng năm 2009. Vì vậy, đối tượng CTXH cần đến sự trợ giúp
của Nhà nước và cộng đồng là rất lớn.
Ngoài ra, yếu tố già hóa dân số cũng được xem xét khi xây dựng và hoàn
thiện pháp luật CTXH trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề người già không chỉ
riêng Việt Nam quan tâm mà còn mang tính toàn cầu. Theo báo cáo của Liên
hợp quốc (2002) cho thấy: người già từ 60 tuổi trở lên chiếm khoảng 10% dân
số thế giới, tỷ lệ này dự kiến tăng lên 21% vào năm 2050. Ngoài ra chiếm
khoảng 12% người già là những người trên 80 tuổi và tỷ lệ này dự kiến sẽ
tăng lên khoảng 19% năm 2050. Ngày càng có nhiều người già thì khả năng
ngân sách nhà nước phải chi cho CTXH cũng phải tăng lên, không chỉ đối với
người già cô đơn mà còn đối với những người sống trên 85 tuổi.
3.1.3.Hoàn thiện pháp luật CTXH nhằm mở rộng hơn nữa đối tượng
CTXH hướng tới mục tiêu bao quát toàn bộ dân số.
Xây dựng, pháp luật CTXH một mặt vừa phải xem xét yếu tố tài chính,
vừa phải cân nhắc các tiêu chí của đối tượng được hưởng sao cho đảm bảo
nguồn kinh phí trợ cấp và đảm bảo đúng đối tượng. Theo quy định pháp luật
hiện nay về CTXH chúng ta thấy vẫn còn những bất cập như trẻ em mồ côi từ
16-18 tuổi vẫn được hưởng trợ cấp; người cao tuổi thuộc hộ nghèo; người trên
85 tuổi không có lương hưu hoặc bảo hiểm xã hội…N ếu xây dựng tiêu chí
không đúng sẽ dẫn đến tình trạng CTXH không đúng đối tượng. Đối tượng
đáng lý được hưởng lại không được xét (do họ mới chạm mức cận nghèo hoặc
khó tiếp cận các chính sach),trong khi đó các đối tượng khác đủ khả năng tự
mình vươn lê, nhiều trường hợp có kinh tế lại được nhà nước trợ cấp xã hội.
Nếu các quy định của pháp luật CTXH hoàn thiện, chắc chắn độ bao phủ của
CTXH sẽ cao hơn nhiều so với hiện nay.
81
Nội dung này, vừa là định hướng vừa là mục tiêu phấn đấu của bất kỳ
quốc gia nào hướng tới một xã hội công bằng, phát triển văn minh.
3.1.4.Hoàn thiện pháp luật CTXH phải hướng tới thiết lập được pháp
luật CTXH tiến bộ, kế thừa thành tựu lập pháp, khắc phục những hạn
chế của pháp luật CTXH hiện hành.
Thiết lập được pháp luật CTXH vững mạnh, phù hợp đặc điểm riêng
quốc gia và tiếp cận xu hướng tiến bộ chung của pháp luật quốc tế là mong
muốn chung của bất kỳ quốc gia nào.Trên cơ sở những nội dung phân tích
trên, pháp luật CTXH hiện hành còn một số tồn tại như: chưa có văn bản về
CTXH mang tính pháp lý cao; các quy định về đối tượng hưởng chế độ
CTXH chưa chính xác; nhóm người nhận nuôi dưỡng người già; người có
điều kiện khó khăn, người nước ngoài…chưa được hưởng chế độ CTXH theo
pháp luật hiện hành; chế độ CTĐX còn rất đại khái chưa mang tính thuyết
phục theo quan điểm CTXH là “lưới đỡ kinh tế cuối cùng”; cách thức tổ chức
còn thiếu cơ quan chuyên trách về CTXH, nhân sự thực hiện CTXH còn thiếu
về số lượng, yếu về chuyên môn…
Vì vậy,việc hoàn thiện pháp luật CTXH phải dựa trên những hạn chế để
xây dựng các quy định có tính khả thi và phù hợp với tình hình thực tế là hết
sức cần thiết. Đồng thời, kế thừa các thành tựu của pháp luật trước đây và
tham khảo kinh nghiệm các quốc gia trên thế giới cũng rất quan trọng với
chúng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật CTXH.
3.2. Một số giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật cứu trợ xã hội
Từ những đánh giá về những điểm bất hợp lý trong chính sách pháp luật
CTXH,chúng ta đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật
CTXH hiện nay trên cơ sở các nội dung: đối tượng và điều kiện hưởng
CTXH; các chế độ áp dụng đối với các đối tượng hưởng CTXH; nguồn kinh
phí thực hiện; tổ chức thực hiện pháp luật và pháp điển hóa pháp luật CTXH.
82
3.2.1. Về đối tượng và điều kiện hưởng CTXH.
Thứ nhất, mở rộng hơn nữa đối tượng được hưởng CTXH phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ. Điều này được lý giải bởi
pháp luật CTXH của chúng ta hiện nay quy định các điều kiện hưởng trợ giúp
của Nhà nước quá khắt khe, pháp luật chỉ trợ giúp cho các trường hợp “đặc
biệt” khó khăn bao gồm 9 trường hợp theo nghị định số 67/2007/N Đ-CP.
Song thực tế, số đối tượng có hoàn cảnh khó khăn cần sự trợ giúp của Nhà
nước, cộng đồng là rất lớn như trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục,
các đối tượng nghèo…
Mặt khác, mở rộng đối tượng CTXH tức là thể hiện độ bao phủ của chính
sách đến cộng đồng dân cư. Mức độ bao phủ của hoạt động CTXH càng lớn
thì sự ổn định kinh tế-chính trị quốc gia càng đảm bảo. Thực hiện nội dung
này góp phần công bằng xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển ổn định, bền vững.
Các đối tượng nên được bổ sung vào diện hưởng CTXH thường xuyên trước
tiên đó là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn như trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm
hại tình dục, trẻ em bị nhiễm HV/AIDS… Các đối tượng này rất cần sự quan
tâm, chăm sóc của Nhà nước và cộng đồng. Ngoài ra, nhóm đối tượng là cá
nhân, hộ gia đình nhận nuôi dưỡng người già không nơi nương tựa cũng cần
đưa vào đối tượng hưởng chế độ CTXH thường xuyên. Xuất phát từ kinh
nghiệm của các quốc gia trên thế giới cũng như tập quán, truyền thống người
dân Việt Nam cho thấy người già được nuôi dưỡng tại gia đình tỏ ra hiệu quả
hơn nhiều so với mô hình sống tập trung. Do vậy cá nhân, hộ gia đình nhận
nuôi đối tượng này cần được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng.Trong nhóm
đối tượng CTXH đột xuất nên bổ sung cho các cá nhân gặp khó khăn đột xuất
mà không phải do nguyên nhân khách quan như đối tượng là nạn nhân của
bao lực gia đình, nạn nhân của việc buôn bán phụ nữ, trẻ em. Đây là vấn đề
mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay, các đối tượng này hầu hết là phụ
nữ và trẻ em. Khác với đối tượng CTXH đột xuất do nguyên nhân khách
quan, đối tượng CTXH thường xuyên do nguyên nhân chủ quan (đối tượng là
83
nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân buôn bán phụ nữ, trẻ em) họ không
chỉ thiếu thốn về kinh tế mà còn sự hụt hẫng, mất mát lớn lao về mặt tinh
thần. Xét ở góc độ này, các đối tượng là nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn
nhân của việc buôn bán phụ nữ trẻ em đáng thương hơn nhiều so với những
đối tượng CTXH đột xuất bởi các nguyên nhân khách quan. Mặt khác, xem
xét đối tượng này nạn nhân đều là phụ nữ, trẻ em. Quan tâm đến phụ nữ, trẻ
em không chỉ là trách nhiệm của toàn quốc gia mà còn của cả xã hội. Khi trợ
giúp các đối tượng này, bên cạnh việc trợ giúp về mặt kinh tế chúng ta cần có
những trợ giúp về mặt tinh thần như động viên các đối tượng sớm hòa nhập
cộng đồng, tạo điều kiện khám chữa bệnh miễn phí và bảo vệ danh dự cũng
như sức khỏe của họ trước cuộc sống thường nhật. Người nước ngoài, trong
một số trường hợp nhất định cũng nên cho họ hưởng chính sách CTXH đột
xuất của Nhà nước Việt Nam. Mặc dù đề xuất này không đúng cho mọi
trường hợp người nước ngoài sinh sống, làm việc hay du lịch ở Việt Nam
nhưng trong trường hợp vì những lý do bất khả kháng đáp ứng nhu cầu “cấp
cứu” để giúp họ vượt qua những khó khăn trước mắt ban đầu thì Nhà nước
nên có chính sách hỗ trợ. Các hình thức trợ giúp có thể bằng lương thực, quần
áo, vật dụng, thuốc men… hay khoản tiền hỗ trợ chi phí trở về nước…Bằng
quy định này, pháp luật Việt Nam không chỉ đảm bảo thực hiện quyền con
người mà còn thể hiện tinh thần tương thân tương ái truyền thống tốt đẹp của
con người Việt Nam.
Thứ hai, chỉnh sửa lại các điều kiện hưởng CTXH.Xác định được đối
tượng hưởng CTXH đã là điều khó khăn nhưng xây dựng các tiêu chí cho
từng đối tượng để đảm bảo sự công bằng lại càng khó hơn. Đặc biệt, khi
nguồn kinh phí còn hạn hẹp, đối tượng CTXH cần hướng tới sự bao phủ lớn
trong cộng đồng. Vì vậy, rà soát và chỉnh sửa các điều kiện hưởng CTXH của
các đối tượng là rất quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật CTXH trong
giai đoạn hiện nay.Đối với nhóm trẻ em mồ côi và các đối tượng tương tư
theo quy định tại khoản 1 Điều 4 nghị định 67/2007/NĐ-CP để đảm bảo sự
84
thống nhất giữa việc xác định đối tượng trẻ em được hưởng CTXH với việc
xác định độ tuổi của người lao động. Thiết nghĩ, nên hạ độ tuổi của nhóm đối
tượng này xuống dưới 15 tuổi để đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp
luật hiện hành, đồng thời hạn chế đối tượng hưởng CTXH này sẽ giúp Nhà
nước có khoản phúc lợi để tạo cuộc sống cho các đối tượng khó khăn
khác.Đối với quy định của nhóm người của nhóm người cao tuổi cô đơn, yếu
tố sức khỏe nên được xác định là tiêu chí cần thiết khi xét điều kiện hưởng
CTXH. Nếu chỉ căn cứ vào độ tuổi (từ 60); hộ gia đình nghèo thì chúng ta
chưa thể biết được nguồn gốc khó khăn do đâu. Mặt khác, do sự già hóa dân
số hiện nay thì tình trạng người cao tuổi sẽ không phải là ít. Vì vậy, xem xét
yếu tố sức khỏe “không thể tự lao động kiếm sống” là phù hợp với thực
tiễn.Cũng cần bổ sung điều kiện hưởng CTXH của nhóm người trên 85 tuổi
không có lương hưu hoặc bảo hiểm xã hội. Trong trường hợp họ không có các
nguồn trợ cấp từ con cháu hoặc nguồn thu nhập phát sinh bên ngoài như tiền
từ kinh doanh, thuê cửa hàng, tiền tiết kiệm…thì quy định này rất phù hợp và
tạo điều kiện cho người già sống ổn định khoảng thời gian cuối cùng của đời
người. Nhưng trong điều kiện hiện nay nhiều người già không có lương hưu,
không có bảo hiểm xã hội nhưng cuộc sống lại rất khá giả. Do vậy, trong quy
định pháp luật bổ sung điều kiện kinh tế của họ khi bản thân và gia đình
không có điều kiện đảm bảo cuộc sống thường nhật hàng ngày. Tuy nhiên,
trên thực tế việc xác định thu nhập của người già phát sinh từ nguồn trợ cấp
của con cháu, tiền tiết kiệm…là rất khó khăn. Đòi hỏi trách nhiệm cao từ
những người làm nghề xã hội tại địa phương và nhận thức của đối tượng được
hưởng.
Ngoài ra, trong chế độ CTXH đột xuất với các khoản CTXH mang tính
cấp thiết như tiền bạc, lương thực, đồ dùng cho người bị thiên tai, hỏa hoạn là
cần thiết đáp ứng nhu cầu thiếu thốn trước mắt. Tuy nhiên với các quy định
còn mang tính đại khái cho hộ gia đình khi có người bị thương, bị chết, nhà bị
hỏng nặng….cần phải có các quy định cụ thể hơn.
85
Thứ ba, hiện nay khi nói đến CTXH chúng ta mới đề cập đến các đối
tượng khó khăn về kinh tế cần sự trợ giúp đỡ của nhà nước và cộng đồng mà
chưa quan tâm đến những đối tượng thiếu thốn tình cảm, sự chia sẻ từ người
thân và xã hội. Thiết nghĩ, khi xã hội càng phát triển điều kiện kinh tế sẽ bớt
khó khăn, ngoài việc hỗ trợ về kinh tế chúng ta cần trú trọng đến đời sống
tinh thần của người dân, có như vậy quốc gia mới ổn định và phát triển bền
vững. Hiện nay, nhiều người già có điều kiện kinh tế nhưng con cái bận rộn
không chăm sóc được, hay những người thành niên họ rất cần sự động viên
chia sẻ của cộng đồng khi họ vấp ngã. Chi phí cho hoạt động của trung tâm,
nhà dưỡng lão do các gia đình, cá nhân đóng góp.Trong tương lai, xây dựng
những mô hình như nhà dưỡng lão cao cấp cho các đối tượng người già có
điều kiện kinh tế, thành lập các trung tâm tư vấn giúp đỡ những người lầm
lỡ...
3.2.2. Về chế độ áp dụng đối với các đối tượng hưởng CTXH
Nâng mức hưởng trợ cấp cho các đối tượng CTXH thường xuyên là điều
cần thiết trong thời điểm hiện tại. Mặc dù nghị định số 13/2010/N Đ-CP vừa
mới được ban hành và thay đổi mức trợ cấp mới (180.000 đồng/tháng/hệ số 1)
chưa đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu hàng ngày của các đối tượng CTXH. Nên
chăng mức trợ cấp ít nhất bằng chuẩn nghèo áp dụng cho từng thời kỳ, chẳng
hạn chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 là 260.000 đồng/người/tháng (khu vực
thành thị); 200.000 đồng/người/tháng (khu vực nông thôn); giai đoạn 2011-
2015 mức áp dụng là 450.000/người/tháng (khu vực thành thị); 350.000
đồng/người/tháng(khu vực nông thôn). Sở dĩ có thể sử dụng chuẩn nghèo để
xác định mức trợ cấp vì chuẩn nghèo được xác định trên cơ sở mức chi tiêu
tối thiểu. Đối với đối tượng không có thu nhập thì trợ cấp xã hội là thu nhập
chính của họ. Vì vậy,mức trợ cấp phải đảm bảo cho đối tượng hưởng đảm bảo
cuộc sống hàng ngày.
86
3.2.3. Nguồn kinh phí thực hiện CTXH
Thứ nhất,bên cạnh việc duy trì kinh phí thực hiện cứu trợ từ hai nguồn
như hiện nay đó là ngân sách nhà nước và cộng đồng xã hội, chúng ta cần
điều tiết kinh phí từ ngân sách nhà nước cho công tác CTXH một cách hợp lý
hơn. Ngân sách dành cho an sinh xã hội nói chung và CTXH nói riêng quá
thấp, trong khi đầu tư cho phát triển kinh tế lại quá cao chiếm 40% GDP,
trong khi các nước trên thế giới thì dành khoảng 25% cho lĩnh vực này. Theo
luật Ngân sách Nhà nước quy định, kinh phí cho hoạt động CTXH được cấp
trên cơ sở dự toán ngân sách nhà nước giao và khoản dự phòng từ 2-5% trong
tổng số chi phục vụ cho phòng chống lụt bão, hỏa hoạn, nhiệm vụ quan trọng
về an ninh…Vì vậy, trong thời gian tới thiết nghĩ chúng ta nên có cái nhìn
toàn diện phát triển kinh tế đi đôi với ổn định xã hội.Tập trung kinh tế nên
dừng lại ở mức đầu tư 25%-30% như các nước khác đang làm và hướng sang
ổn định xã hội, trong đó có công tác CTXH.
Thứ hai, nên thành lập quỹ CTXH thống nhất để có thể tập trung, khuyến
khích các nguồn đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân và quản lý chi
tiêu đúng mực đích đạt hiệu quả cao nhất. Nhiệm vụ chính của quỹ CTXH là
quản lý nguồn tài chính do ngân sách nhà nước cấp; tập hợp các nguồn thu
ủng hộ, hỗ trợ của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước; đồng thời thực
hiện công tác minh bạch, công khai trong công tác chi liên quan đến CTXH.
Quỹ CTXH nên giao cho Bộ lao động-thương binh và xã hội quản lý tránh
trường hợp đơn vị thực hiện là Bộ lao động-thương binh và xã hội nhưng Bộ
tài chính quản lý tài chính như hiện nay.
Xây dựng được Quỹ CTXH với nguyên tắc hoạt động như trên sẽ giúp
chúng ta hạn chế được rất nhiều bất cập trong công tác thực hiện CTXH.
3.2.4.Trong công tác tổ chức thực hiện.
Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền,vận động toàn dân tham
gia công tác CTXH, trong đó nghiên cứu và đưa vào áp dụng rộng rãi hơn mô
hình “chăm sóc thay thế”. Mô hình “Chăm sóc thay thế” được hiểu là hộ gia
87
đình, cá nhân có điều kiện tự nguyện nhận chăm sóc các đôi tượng CTXH. Ở
nước ta mô hình này cũng bắt đầu xuất hiện quy định chế độ với cá nhân, gia
đình nhận nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi dưới 18 tháng tuổi và trên 18
tháng tuổi bị tàn tật hoặc nhiễm HIV (Thông tư số 09/2007/TT-BLĐTBXH
ngày 13/07/2007).
Khi xây dựng mô hình chăm sóc thay thế,chúng ta cần lưu ý: (i) điều kiện
tiêu chuẩn của cá nhân,hộ gia đình nhận nuôi đối tượng CTXH để tránh
trường hợp trục lợi,lợi dụng không vì mục đích nhân đạo; (ii) đối tượng
CTXH của mô hình này ngoài đối tượng là trẻ em mồ côi,bị bỏ rơi thì cần mở
rộng thêm đối tượng là người già không nơi nương tựa.
Thứ hai,cần nhân rộng hơn nữa mô hình”nhà xã hội” và khuyến khích
phát triển các cơ sở bảo trợ xã hội của tư nhân để khắc phục hiện tượng quá
tải của các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước.Về quy mô,mô hình “nhà xã
hội”gần giống với các cơ sở bảo trợ xã hội hiện nay nhưng nhỏ hơn,được
thành lập tại các địa phương và do địa phương quản lý;kinh phí thành lập do
ngân sách địa phương phối hợp với các tổ chức đoàn thể như hội phụ nữ…sự
ủng hộ của tổ chức,cá nhân…Đối tượng được đưa vào sinh sống tại “nhà xã
hội”phải là những đối tượng đủ điều kiện hưởng trợ cấp CTXH.
Thứ ba,phát triển mạng lưới nhân viên xã hội.Hiện nay,số lượng nhân
viên làm công tác này còn rất thiếu hoặc đã có nhưng yếu về chuyên môn.Vì
vậy,việc bổ sung đội ngũ nhân sự làm nghề xã hội đã được Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay.Bằng việc ban hành Quyết định số
32/2010/QĐ-TTG phê duyệt đề án phát triển nghề công tác xã hội chúng ta
cần phấn đấu trong giai đoạn 2010-2015 đội ngũ làm công tác xã hội tăng
khoảng 10% giai đoạn 2010-2015 tăng 50% mới đáp ứng được nhu cầu hiện
nay của các đối tượng CTXH.Nhân viên xã hội chủ yếu làm các công việc
liên quan đến tham vấn,hỗ trợ các đối tượng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ
CTXH,ngoài ra cũng có thể quy định cho họ một số công việc khác nhằm
thực hiện tốt pháp luật CTXH như kiểm tra,giám sát việc nuôi dưỡng,chăm
88
sóc các đối tượng tại gia đình…Bên cạnh đó,Nhà nước có chính sách thu
nhập hợp lý cho những cán bộ làm công tác này.
3.3.5.Ban hành Luật cứu trợ xã hội
Đây là vấn đề mang tính cấp thiết bởi tính đặc thù của hoạt động CTXH
rất đa dạng về đối tượng,mức độ trợ cấp,đặc biệt khi chúng ta mở rộng đối
tượng CTXH…Mặt khác,trong lĩnh vực CTXH hiện nay có quá nhiều các văn
bản điều chỉnh dẫn đến sự chồng chéo,thiếu đồng bộ.Vì vậy,cần thiết phải có
bộ Luật CTXH.
Việc xây dựng Luật CTXH có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống kinh
tế,chính trị,xã hội nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay.xây dựng Luật
CTXH không chỉ là sự thể chế quan điểm của Đảng và Nhà nước về CTXH
một cách thống nhất và toàn diện mà còn mở ra bước phát triển mới cho
CTXH ,để CTXH ngày càng đạt hiệu quả cao hơn,đáp ứng tốt hơn nhu cầu
của đời sống xã hội.
89
KẾT LUẬN
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước,cộng đồng đối với những đối
tượng yếu thế trong xã hội nhằm giúp họ vượt qua những khó khăn và hòa
nhập cộng đồng.Cùng với việc nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản của
CTXH như:sự ra đời,khái niệm,vai trò,mục tiêu,các vấn đề liên quan…chúng
ta có thể nhìn nhận được một cách tổng thể về pháp luật cứu trợ xã hội ở Việt
Nam.
Việt Nam là một đất nước đang trên đà phát triển,kinh tế - xã hội luôn có
sự thay đổi theo từng giai đoạn;khí hậu khắc nghiệt thường hay xảy ra thiên
tai như hạn hán,lũ lụt…Kéo theo đó là sự phân biệt giàu nghèo trong xã hội
và những hoàn cảnh đáng thương trong cuộc sống cần sự trợ giúp và bao bọc
của cộng đồng.Chính vì vậy,công tác cứu trợ xã hội ở nước ta luôn được đẩy
mạnh và đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể.Bên cạnh những thành công
đạt được,pháp luật cứu trợ xã hội nước ta còn bộc lộ những hạn chế nhất định
và cần được hoàn thiện để được phù hợp với tình hình thực tế.
Hoàn thiện và xây dựng pháp luật CTXH có ý nghĩa không chỉ về mặt lý
luận mà có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống.Đó còn là hoạt động mang tính
nhân văn sâu sắc,đảm bảo tính công bằng,ổn định phát triển của mỗi quốc
gia,thể hiện truyền thống dân tộc của nước ta”lá lành đùm lá rách”.Với những
đề xuất trên,hy vọng trong thời gian tới sẽ góp phần thiết lập pháp luật CTXH
hoàn chỉnh,đồng bộ.
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật An Sinh Xã Hội. (1);(2):- Tiều luận về đề tài cứu trợ xã hội và thực trạng ở Việt Nam.
(3). - Nghị định của Chính phủ số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính
sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội
(4) - Nghị định của Chính phủ số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 sửa
đổi,bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP
(5) - Thông tư của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội số 09/2007/TT-
BLĐTBXH ngày 13/7/2007 hướng dẫn một số điều của Nghị định số
67/2007/NĐ-CP;
(6) - Thông tư của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội số 26/2008/TT-
BLĐTBXH ngày 10/11/2008 sửa đổi,bổ sung một số điều của Thông tư số
09/2007/TT-BLĐTBXH;(
(7) - Thông tư liên tịch của Bộ lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Nội
vụ số 32/2009/TTLT-BLĐTBXH-BNV ngày 21/9/2009 hướng dẫn nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức và định mức cán bộ, nhân viên của cơ sở bảo trợ xã
hội công lập
(8) - Nghị định của Chính phủ số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 quy định
điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã
hội
(9) - Thông tư của Bộ lao động-Thương binh và xã hội số 07/2009/TT-
BLĐTBXH ngày 30/3/2009 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định
số 68/2008/Đ-CP
(10) - Nghị định của Chính phủ số 148/2007/NĐ-CP ngày 25/9/2007 về tổ
chức, hoạt động của quỹ xã hội, quỹ từ thiện
(11) - Thông tư của Bộ Nội vụ số 09/2008/TT-BNV ngày 31/12/2008 hướng
dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 148/2007/NĐ-CP
(12) - Nghị định của Chính phủ số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 quy
định chính sách trợ giúp xã hội với đối tượng bảo trợ xã hội
(13) - Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/3/2000 của Chính phủ về chính
sách cứu trợ xã hội
91
(14) - Nghị định số 168/NĐ-CP ngày 20/9/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều
cho Nghị định số 07/2000/NĐ-CP
(15) - Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp
các đối tượng bảo trợ xã hội
(16) - Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP
(17);(18);(19) Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hà:pháp luật Việt Nam về
cứu trợ xã hội.
(20) Thực trạng thực hiện chính sách trợ giúp xã hội và giải pháp đổi mới giai
đoạn tới của Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và xã hội.
(21);(22);(23) Luận văn “Cứu trợ xã hội ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị
Hồng Nhung.
(24),(25),(26),(27) Kinh nghiệm của các nước về xây dựng pháp luật An sinh
xã hội của TS.Bùi Tiến Lợi.
Web:
1.http://luanvan.co/luan-van/an-sinh-xa-hoi-cuu-tro-xa-hoi-o-viet-nam-18499/
2.http://doc.edu.vn/tai-lieu/de-tai-cuu-tro-xa-hoi-va-thuc-trang-o-viet-nam-
64708/
3.http://luanvan.net.vn/luan-van/de-tai-thuc-trang-va-giai-phap-hoat-dong-
cuu-tro-xa-hoi-o-viet-nam-16300/
4.http://www.xaydungdang.org.vn/Home/vankientulieu/2012/5131/Mot-so-
van-de-ve-chinh-sach-xa-hoi-giai-doan-20122020.aspx
5.http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/sach-chinh-
tri/books-2928201510064846/index-192820151000374665.html
6.http://luanan.nlv.gov.vn/luanan?a=d&d=TTcFfqyxIGvW2011.1.7&e=-------
vi-20--1--img-txIN-------
92