ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

------------------

NGUYỄN PHƯƠNG ANH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TRẺ EM TRONG LĨNH VỰC

LAO ĐỘNG VÀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH 2016

1

HÀ NỘI, 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

------------------

NGUYỄN PHƯƠNG ANH

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TRẺ EM TRONG LĨNH VỰC

LAO ĐỘNG VÀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH 2016

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: GS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ

2

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan đề tài: “Pháp luật về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động và hôn nhân gia đình” là một công trình nghiên cứu độc lập dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế. Ngoài ra không có bất cứ sự sao chép của người khác. Các số liệu, kết quả trình bày trong báo cáo là hoàn toàn trung thực, em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm, kỷ luật của bộ môn và nhà trường đề ra nếu như có vấn đề xảy ra.

NGƯỜI CAM ĐOAN

3

Nguyễn Phương Anh

MỤC LỤC

Trang bìa phụ

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục bảng

MỞ ĐẦU ...................................................................................................................................................... 8

CHƯƠNG 1 ............................................................................................................................................... 12

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ TRẺ EM TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH .................................................................................................................... 12

1.1.

Khái niệm pháp luật bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực Lao động: ..................................................... 12

1.2.

Khái niệm pháp luật bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực Hôn nhân gia đình: ...................................... 12

1.3.

Khái niệm trẻ em: ........................................................................................................................ 12

1.4.

Pháp luật và nguyên tắc quốc tế về quyền trẻ em ..................................................................... 13

1.4.1.

Pháp luật quốc tế về quyền trẻ em: .................................................................................... 13

1.4.2.

Nguyên tắc quốc tế về quyền trẻ em: ................................................................................. 14

1.5.

Bảo vệ trẻ em trong pháp luật lao động: .................................................................................... 16

1.5.1.

Khái niệm lao động trẻ em: ................................................................................................. 16

1.5.2. Một số khái niệm liên quan đến lao động trẻ em: .............................................................. 17

1.5.3.

Phân biệt “lao động trẻ em” và “trẻ em tham gia làm việc” .............................................. 18

1.5.4.

Nguyên nhân và tác động tiêu cực của lao động trẻ em: ................................................... 20

1.6.

Bảo vệ trẻ em trong pháp luật hôn nhân gia đình: ..................................................................... 24

1.6.1. Một số khái niệm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình: .......................................................... 24

1.6.2.

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con: ........................................................................ 26

1.6.3.

Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với con: ............................................................... 27

1.6.4.

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn: ................................................. 28

CHƯƠNG 2 ............................................................................................................................................... 31

THỰC TRẠNG BẢO VỆ TRẺ EM TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG VÀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH .................................................................................................................................................................... 31

2.1.

Thực trạng lao động trẻ em tại Việt Nam: .................................................................................. 31

2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động: ................ 33

2.2.1.

Quy định tại Bộ luật lao động: ............................................................................................ 34

4

2.2.2.

Quy định tại Bộ luật Hình sự: ............................................................................................. 37

2.2.3.

Các văn bản dưới luật: ........................................................................................................ 37

2.2.4. Một số chương trình, kế hoạch hành động cấp Quốc Gia: .................................................. 39

2.2.5.

Giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về lao động trẻ em:....................................... 40

2.3.

Thực trạng vấn đề bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực Hôn nhân gia đình: .......................................... 41

2.4. Quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân gia đình: .. 43

2.4.1.

Quy định về độ tuổi kết hôn: ............................................................................................... 43

2.4.2.

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con: ....................................................................... 44

2.4.3.

Quyền của trẻ em trong vấn đề nuôi con nuôi: ................................................................... 52

CHƯƠNG 3 ............................................................................................................................................... 54

GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN BẢO VỆ TRẺ EM TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG VÀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH ....................................................................................................... 54

3.1. Giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động: .............................. 54

3.1.1.

Sự cần thiết của việc hoàn thiện chế độ pháp lý về vấn đề lao động trẻ em: ...................... 54

3.1.2.

Hoàn thiện pháp luật về hệ thống pháp lý: .......................................................................... 55

3.1.3.

Bổ sung các quy định về thanh tra, kiểm tra, cơ chê giám sát phát hiện, đánh giá thực hiện . ............................................................................................................................................. 56

3.1.4. Một số giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao nhận thức của người dân: .................................... 56

3.2. Giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình: ........... 57

Sự cần thiết của việc hoàn thiện chế độ pháp lý nhằm bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực hôn

3.2.1. nhân gia đình: ...................................................................................................................................... 57

3.2.2.

Hoàn thiện hệ thống pháp lý: .............................................................................................. 59

3.2.3. Một số giải pháp hỗ trợ nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ trẻ em ..................................... 59

KẾT LUẬN ................................................................................................................................................ 61

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 63

5

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ Lao động - Thương binh và xã hội Bộ LĐTBXH

Công ước về tuổi lao động tối thiểu, 1973 Công ước 138

Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa Công ước 182

bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999

Tổ chức lao động Quốc tế ILO

Lao động trẻ em LĐTE

Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ MICS

6

Quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc UNICEF

DANH MỤC BẢNG

Số hiệu Trang

Bảng 1.5 18

Bảng 2.1 Bảng 2.2 32 36

Tên bảng Số giờ làm việc của trẻ em bị coi là lao động trẻ em Lao động trẻ em Thời giờ làm việc của lao động chưa thành niên Kết hôn sớm ở trẻ em 42

7

Bảng 2.3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Bảo vệ trẻ em luôn là vấn đề được nhà nước quan tâm. Vào năm 1991, Việt

Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về

quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Nằm trong chính sách chung về bảo vệ, chăm sóc,

giáo dục trẻ em, vấn đề phòng ngừa, giảm thiểu lao động trẻ em và bảo vệ trẻ em

trong gia đình đã được đề cập từ lâu và trong những năm gần đây được Nhà nước

ngày quan tâm nhiều hơn. Việc Việt Nam là một nước đang phát triển càng đặt ra

rất nhiều vấn đề liên quan đến bảo vệ trẻ em trong xã hội bởi lẽ nguyên nhân của

nhiều vấn đề liên quan đến trẻ em thường xuất phát từ sự nghèo đói và nhu cầu

phát triển của các gia đình.

Lao động trẻ em là một vấn đề rất phức tạp, do đó cần có những chính sách

và hành động của thể để đảm bảo trẻ em được phát triển đầy đủ, không phải tham

gia lao động quá mức dưới độ tuổi cho phép. Ở Việt Nam, số lượng lao động trẻ

em vẫn còn cao, tình trạng sử dụng lao động trẻ em có xu hướng ngày càng tăng.

Nhiều trẻ phải có hoàn cảnh khó khăn đã phải sớm tham gia lao động với mong

muốn có được một cuộc sống tốt hơn. Trong thời gian qua đã có rất nhiều cá nhân,

đơn vị nhất là các cơ sở tư nhân thực hiện chưa tốt các quy định của pháp luật về

bảo vệ lao động chưa thành niên. Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát

cũng chưa được thực hiện thường xuyên, việc xử lý vi phạm còn bị coi nhẹ, nhận

thức của người dân về vấn đề này vẫn chưa cao khiến cho nhiều doanh nghiệp, hộ

gia đình sử dụng trẻ em để lao động. Việc tuyên truyền phổ biến kiến thức về vấn

đề này còn chưa được sâu rộng. Đây là một thực trạng đáng chú ý hiện nay.

Ngoài ra, ở Việt Nam nói riêng và nhiều nước Châu Á nói chung, với quan

niệm giáo dục thì cần phải nghiêm khắc, “yêu cho roi cho vọt”, vấn đề bạo lực

giữa cha mẹ với con cái thì được xã hội chấp nhận và khá phổ biến. Rất nhiều ông

8

bố bà mẹ coi việc đánh đập, chửi mắng con cái khi chúng mắc lỗi là cần thiết để

chúng nhận ra sai lầm và sửa chữa. Trên thực tế cách làm này phần nào phù hợp

với tâm lý của người Việt và đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên, trong xã

hội ngày nay, khi những chuẩn mực tiến bộ về quyền con người đã và đang phổ

biến trên thế giới thì những tư tưởng, cách làm này cần được sớm loại bỏ. Đặc biệt,

là những trường hợp bạo lực với con cái vượt ra ngoài phạm vi giáo dục - một tình

trạng ngày càng gia tăng thì cần phải bị trừng trị nghiêm khắc. Những vấn đề khác

liên quan đến hôn nhân và gia đình như kết hôn sớm cũng cần bị loại bỏ. Mặc dù

pháp luật Việt Nam có quy định khá cụ thể về việc bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực

hôn nhân và gia đình, tuy nhiên, ở nhiều nơi, tình trạng trẻ em bị bạo hành bởi

chính người thân của mình, bị ép kết hôn sớm hay chưa thật sự được cha mẹ quan

tâm và bị thờ ơ, bỏ mặc vẫn còn xuất hiện rất nhiều. Bảo vệ trẻ em trong chính gia

đình là điều mà rất nhiều nhà làm luật, những nhà hoạt động và toàn thể xã hội

mong muốn hướng tới.

Chính vì những lý do đó, em quyết định chọn vấn đề “Pháp luật về bảo vệ

trẻ em trong lĩnh vực lao động và hôn nhân gia đình” làm đề tài cho khóa luận

tốt nghiệp của mình.

2. Mục đích của khóa luận:

Khóa luận làm rõ một số khái niệm, các nội dung cơ bản về lao động trẻ em,

xóa bỏ lao động trẻ em trong pháp luật Việt Nam và một số công ước mà Việt Nam

là thành viên, xác định nguyên nhân của vấn nạn lao động trẻ em. Phân tích các

quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này, từ đó nêu ra những bất cập,

hạn chế và có những giải pháp hoàn thiện pháp luật.

Ngoài ra, khóa luận còn phân tích tình hình bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực hôn

nhân và gia đình, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ về quyền và

nghĩa vụ của cha mẹ với con cái theo Luật hôn nhân và gia đình. Trên cơ sở phân

9

tích đánh giá tình hình thực tế và thực trạng bảo vệ trẻ em trong Luật hôn nhân à

gia đình, xác định những hạn chế còn tồn đọng để có những giải pháp cụ thể góp

phần bảo vệ trẻ em.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu đưa ra cái nhìn cụ thể về quyền trẻ

em tại Việt Nam, đặc biệt là vấn đề bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động và hôn

nhân gia đình. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy phạm pháp luật cụ thể

nhằm bảo vệ trẻ em trong các lĩnh vực luật lao động và hôn nhân gia đình; thực

tiễn áp dụng của những quy định đó hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận đề cập đến những vấn đề lý luận, thực

tiễn pháp lý về việc xóa bỏ lao động trẻ em ở Việt Nam theo luật lao động năm

2012, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con theo Luật hôn nhân và gia đình

năm 2014. Bên cạnh đó khóa luận cũng đề cập đến những thực trạng hiện nay về

vấn đề bảo vệ trẻ em, những điểm bất cập trong quy định của pháp luật và một số

giải pháp để giải quyết những bất cập trên.

 Phạm vi về thời gian: theo thực tiễn, các báo cáo và pháp luật từ

năm 2012 đến nay.

 Phạm vi về không gian: nghiên cứu pháp luật và thực tiễn về bảo

vệ trẻ em trong lĩnh vực lao đông và hôn nhân gia đình tại Việt

Nam.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:

Phương pháp luận: Khóa luận sử dụng lý luận chung về lao động, hôn nhân

gia đình, pháp luật về bảo vệ trẻ em theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam

ví dụ như:

Pháp luật Quốc tế:

- Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989,

- Các điều ước quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em như: Công ước số 138

10

năm 1973 của ILO về tuổi lao động tối thiểu; Công ước 182 về cấm và

hành động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ

nhất

Pháp luật Việt Nam:

- Hiến pháp năm 2013,

- Bộ luật lao động năm 2012

- Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

- Luật nuôi con nuôi năm 2016

- Các thông tư, nghị định quy định về việc bảo vệ trẻ em

- Đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo vệ trẻ em.

Ngoài ra khóa luận còn sử dụng những phương pháp nghiên cứu như:

Phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp và các phương pháp khác kết

hợp giữa lý luận với thực tiễn từ đó tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp

luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, xem xét nội dung quy định của pháp luật

11

về nguyên tắc bảo vệ quyền lời của trẻ em với thực tiễn đời sống xã hội.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ TRẺ EM TRONG

PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VÀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

1.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực Lao động:

Pháp luật bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động là những quy định được đặt

ra trong hệ thống quy phạm pháp luật với mục đích phòng ngừa, ngăn chặn và xử

lý những hành vi sử dụng người dưới 18 tuổi tham gia vào những công việc nặng

nhọ, độc hại, gây nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực, trí tuệ,

tinh thần, đạo đức và xã hội; hoặc phải làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ,

khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập và vui chơi.

1.2. Khái niệm pháp luật bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực Hôn nhân gia đình:

Pháp luật bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực Hôn nhân và gia đình là những quy

định được đặt ra trong hệ thống quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực Hôn nhân và

gia đình ví dụ như: Luật hôn nhân và gia đình, Luật nuôi con nuôi, Luật phòng

chống bạo lực gia đình nhằm mục đích bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành

mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi bạo hành trẻ em,… và những

hành vi có ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.

1.3. Khái niệm trẻ em:

Trong em có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy theo góc độ

tiếp cận của từng lĩnh vực cụ thể. Về mặt sinh học, “trẻ em” là con người ở giữa

giai đoạn từ khi sinh và tuổi dậy thì. Dưới góc độ pháp lý, trẻ em được xác định

theo độ tuổi tùy thuộc vào sự quy định của mỗi quốc gia.

Trong Luật Quốc tế, trẻ em được được định nghĩa là những người dưới 18

tuổi: Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia quy định tuổi

thành niên sớm hơn. (Điều 1, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, 1989).

Công ước số 182 của ILO cũng quy định “Trong phạm vi Công ước này, thuật ngữ

12

“trẻ em” được áp dụng để chỉ tất cả những người dưới 18 tuổi” (Điều 1).

Pháp luật Việt Nam quy định: Trẻ em là người dưới 16 tuổi. (Điều 1, Luật

Trẻ em, 2016). Như vậy, Việt Nam ghi nhận độ tuổi trẻ em cần được pháp luật bảo

vệ là dưới 16 tuổi (thấp hơn so với độ tuổi được quy định bởi các Công ước Quốc

tế). Ngoài Luật Trẻ em năm 2016, trong hệ thống pháp luật Việt Nam còn quy định

về vấn đề trẻ em ở các ngành luật khác nhau: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Dân

sự, Luật Hình sự, Luật Lao động,… Bên cạnh khái niệm trẻ em, pháp luật Việt

Nam còn có khái niệm “người chưa thành niên”: Người chưa thành niên là người

chưa đủ mười tám tuổi. (Khoản 1, Điều 21, Bộ luật Dân sự, 2015)

1.4. Pháp luật và nguyên tắc quốc tế về quyền trẻ em

1.4.1. Pháp luật quốc tế về quyền trẻ em:

Pháp luật quốc tế hiện nay có khoảng hơn 80 văn kiện quốc tế (Công ước,

tuyên ngôn, chương trình…) trực tiếp hoặc gián tiếp quy định hoặc có liên quan

đến việc bảo vệ quyền trẻ em. Một số văn kiện quốc tế về quyền trẻ em có thể kể

đến như:

- Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1924: Đây là văn kiện quốc tế

đầu tiên về quyền trẻ em. Năm 1924 Hội quốc liên đã chấp thuận thông qua Tuyên

ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em do Hiệp hội quốc tế về quỹ cứu trợ trẻ em soạn

thảo trên cơ sở Hiến chương về quyền trẻ em năm 1923. Trong Tuyên bố này, vấn

đề quyền trẻ em được liệt kê cụ thể theo 5 nhóm quyền như: (1) Trẻ em phải được

phát triển một cách bình thường cả về thể chất và tinh thần; (2) Trẻ đói phải được

cho ăn, trẻ ốm phải được chữa trị, trẻ lạc hậu phải được giúp đỡ, trẻ phạm tội phải

được giáo dục, trẻ mồ côi và lang thang phải có nơi trú ẩn và phải được chăm sóc;

(3) Khi xảy ra tai họa, trẻ em là người đầu tiên được cứu trợ; (4) Trong đời sống,

trẻ em phải có quyền được kiếm sống và phải được bảo vệ chống lại mọi hình thức

bóc lột; (5) Trẻ em phải được nuôi dưỡng theo nhận thức rằng, tài năng của chúng

13

phải phục vụ cho đồng bào mình.

- Tuyên ngôn về quyền trẻ em: Tuyên ngôn được Liên hợp quốc thông qua

ngày 20/11/1959, đưa ra những nguyên tắc tiến bộ hơn với phương châm loài

người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có; các quyền trẻ em

cũng được mở rộng hơn so với Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1924.

Trẻ em được hưởng các quyền trên đây không phân biệt mầu da, giới tính, tín

ngưỡng, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội. Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959

chỉ mang tính chất khuyến nghị nên chỉ có giá trị về mặt chính trị và đạo đức,

không có giá trị pháp lý bắt buộc.

- Công ước về quyền trẻ em năm 1989: Công ước này được Liên hợp quốc

thông qua 20/11/1989 và có hiệu lực từ 2/9/1990. Công ước về quyền trẻ em năm

1989 là Công ước đầu tiên đề cập toàn diện các quyền của trẻ em theo hướng tiến

bộ, thừa nhận mọi trẻ em đều có quyền được sống, được phát triển, được tham gia

và được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt. Công ước là văn bản có tính chất

ràng buộc pháp lý đối với các quốc gia thành viên trong việc bảo vệ và thực hiện

quyền trẻ em trên toàn thế giới. Việt nam là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn

Công ước. Hiện nay, Công ước có 192 quốc gia thành viên.

- Ngoài ra còn còn có một số Công ước, văn kiện quốc tế khác có đề cập đến

từng lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em như: Công ước về trấn áp buôn bán người và

bóc lột mại dâm; Quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối

với người chưa thành niên; Công ước La hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác giữa các

nước về con nuôi nước ngoài; Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công

ước về quyền trẻ em, buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm

trẻ em; Công ước số 138 năm 1973 của ILO về tuổi lao động tối thiểu; Công ước

182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi

tệ nhất…

14

1.4.2. Nguyên tắc quốc tế về quyền trẻ em:

Theo Công ước về quyền trẻ em mà Việt Nam đã phê chuẩn năm 1990,

xuyên suốt Công ước là 4 nguyên tắc cơ bản về quyền trẻ em:

- Không phân biệt đối xử trong việc đảm bảo thực hiện quyền trẻ em: Tất cả

các quyền đều áp dụng cho tất cả trẻ em, không có ngoại lệ. Nhà nước có nghĩa vụ

bảo vệ trẻ em chống lại bất kỳ hình thức phân biệt, đối xử nào và có những biện

pháp tích cực để đẩy mạnh quyền trẻ em. Trẻ em phải được đối xử như nhau,

không bị phân biệt bởi bất kì lý do nào “Các quốc gia thành viên phải tôn trọng và

bảo đảm những quyền của trẻ em mà không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào,

bất kể trẻ em, cha mẹ hay người giám hộ pháp lý của trẻ em đó thuộc chủng tộc,

màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc quốc gia, dân tộc hay xã hội, tài

sản, khuyết tật, xuất thân gia đình và những mối tương quan khác” (Điều 2)

- Dành cho trẻ em những lợi ích tốt đẹp nhất: Tất cả các hành động của cơ

quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, tổ chức, cá nhân có liên quan đến trẻ em cần

tính đến đầy đủ lợi ích tốt nhất của trẻ em. Nhà nước phải đem lại cho trẻ em sự

chăm sóc đầy đủ trong trường hợp cha mẹ hoặc những người khác có trách nhiệm

không làm được việc ấy. “Trong tất cả những hành động liên quan đến trẻ em, dù

do cơ quan phúc lợi xã hội công hay tư nhân, tòa án, các nhà chức trách hành chính

hay những cơ quan lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối

quan tâm hàng đầu” (Điều 3)

- Trẻ em có quyền được xác lập và thể hiện ý kiến riêng của mình: trẻ em có

quyền tự do phát biểu ý kiến về tất cả mọi vấn đề có ảnh hưởng đến mình và những

ý kiến đó phải được coi trọng. Nhà nước phải tạo điều kiện và cơ hội cho trẻ em

nói lên ý kiến của mình trong quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính có ảnh

hưởng đến trẻ em hoặc thông qua người đại diện phù hợp với pháp luật quốc gia.

“Các quốc gia thành viên phải đảm bảo cho trẻ em có đủ khả năng hình thành các

15

quan điểm riêng của mình được quyền tự do phát biểu những quan điểm đó về tất

cả các vấn đề có ảnh hưởng đến các em và những quan điểm của các em phải được

coi trọng một cách phù hợp với độ tuổi và độ trưởng thành của các em” (Điều 12)

- Quyền tồn tại và phát triển cuộc sống: Quyền được sống còn bao gồm

Quyền được sống cuộc sống bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản

nhất để tồn tại và phát triển thể chất. Đó là mức sống đầy đủ, có nơi ở, ăn uống đủ

chất, được chăm sóc sức khỏe. Trẻ em phải được khai sinh sau khi ra đời. “Các

Quốc gia thành viên công nhận rằng mọi trẻ em đều có quyền cố hữu được sống.

Các quốc gia thành viên phải đảm bảo đến mức tối đa có thể được sự sống còn và

phát triển của trẻ em” (Điều 6)

- Quyền tồn tại và phát triển cuộc sống: Quyền được sống còn bao gồm

Quyền được sống cuộc sống bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản

nhất để tồn tại và phát triển thể chất. Đó là mức sống đầy đủ, có nơi ở, ăn uống đủ

chất, được chăm sóc sức khỏe. Trẻ em phải được khai sinh sau khi ra đời. “Các

Quốc gia thành viên công nhận rằng mọi trẻ em đều có quyền cố hữu được sống.

Các quốc gia thành viên phải đảm bảo đến mức tối đa có thể được sự sống còn và

phát triển của trẻ em” (Điều 6)

1.5. Bảo vệ trẻ em trong pháp luật lao động:

1.5.1. Khái niệm lao động trẻ em:

“Lao động” là hoạt động có mục đích của con người nhằm tác động, biến đổi

các vật chất tự nhiên thành những vật phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu sinh tồn của

con người. Từ đó có thể hiểu lao động trẻ em là lao động của người còn ở lứa tuổi

trẻ em đã phải đi làm cho bản thân và cho sự sống của gia đình.

Trong luật pháp quốc tế, “lao động trẻ em” là thuật ngữ thường dùng để chỉ

tình trạng một người dưới 18 tuổi phải làm các công việc có hại đến tinh thần, thể

chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách của các em; hoặc phải làm việc từ độ tuổi nhỏ

khiến cho các em mất đi cơ hội học tập và phát triển[13]. Theo Công ước Quốc tế

16

về quyền trẻ em năm 1989: “Lao động trẻ em là người lao động chưa đủ 18 tuổi

trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi trưởng thành sớm

hơn”. Theo quan điểm của Tổ chức lao động Quốc tế (ILO), “Lao động trẻ em là

thuật ngữ chỉ tình trạng trẻ em (những người dưới 18 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián

tiếp tham gia làm những công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng

xấu đến sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc

phải làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian

cần thiết để học tập và vui chơi”.

Pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về khái niệm “lao động trẻ em”.

Tuy nhiên, gắn với khái niệm “người chưa thành niên”, pháp luật Việt Nam định

nghĩa “người lao động chưa thành niên”: Người lao động chưa thành niên là người

lao động dưới 18 tuổi (Điều 161, Bộ luật Lao động 2012). Như vậy, có thể nói,

pháp luật Việt Nam đã bao hàm lao động trẻ em trong khái niệm người lao động

chưa thành niên.

1.5.2. Một số khái niệm liên quan đến lao động trẻ em:

Lao động trẻ em được nhận diện thông qua các tiêu chí về độ tuổi, thời giờ

làm việc, loại công việc và nơi làm việc được xem là nguy hại cho người dưới 18

tuổi theo là Công ước số 138 năm 1973 của ILO về tuổi lao động tối thiểu và Công

ước số 182 năm 1999 của ILO về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các

hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.

a. Tuổi lao động tối thiểu:

Công ước số 138 của ILO quy định tuổi lao động tối thiểu, bao gồm tuổi tối

thiểu cơ bản, tuổi tối thiểu áp dụng với công việc nguy hại; tuổi tối thiểu áp dụng

với công việc nhẹ. Theo đó, độ tuổi lao động tối thiểu được ILO quy định như sau:

 Tuổi tối thiểu chung: Không dưới 15 tuổi; hoặc Không dưới 14 tuổi

17

(đối với các nước đang phát triển)

 Tuổi tối thiểu áp dụng với các công việc nặng nhọc, độc hại, nguy

hiểm: Không dưới 18 tuổi; hoặc Không dưới 16 tuổi (sức khỏa, an

toàn và phẩm hạnh phải được đảm bảo)

 Tuổi tối thiểu áp dụng với các công việc nhẹ: 13-15 tuổi; hoặc 12-14

tuổi (đối với các nước đang phát triển)

b. Các loại công việc:

Các loại công việc được chia làm công việc nhẹ và công việc nguy hại.

Trong đó, công việc nhẹ được định nghĩa là những công việc trẻ em có thể thực

hiện mà không ảnh hưởng tới sức khỏe và sự an toàn, hoặc không cản trở việc học

tập hoặc đào tạo nghề của các em.

Công việc nguy hại là một trong những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.

Đây là những công việc có thể có hại cho sức khỏe, sự an toàn hoặc đạo đức của

thanh thiếu niên do tính chất nguy hiểm độc hại hoặc được tiến hành trong những

điều kiện có nguy cơ đặc biệt cao đối với các em.

c. Những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất:

Những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất được định nghĩa cụ thể tại Điều

3 Công ước số 182 về Những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất của ILO. Theo

đó, những hành vi như: nô lệ, buôn bán và vận chuyển trẻ em, gán nợ, lao động nô

lệ và lao động cưỡng bức, trong đó có tuyển mộ cưỡng bức trẻ em tham gia vào

các xung đột vũ trang; sử dụng, mua bán hay chào mời trẻ em tham gia vào hoạt

động mại dâm, sản xuất các sản phẩm phim ảnh khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu

dâm; các hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt cho việc sản xuất, tàng trữ, buôn bán và

vận chuyển chất ma tuý; những công việc có khả năng làm hại đến sức khỏe, an

toàn hay đạo đực của trẻ em, do bản chất công việc hay do hoàn cảnh, điều kiện

tiến hành công việc thì được coi là “những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất”.

18

1.5.3. Phân biệt “lao động trẻ em” và “trẻ em tham gia làm việc”

Không phải tất cả các công việc do trẻ em thực hiện đều bị coi là lao động

trẻ em. Hiện nay chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa “lao động trẻ em” và “trẻ em

tham gia làm việc”, tuy nhiên, hai khái niệm này có thể được phân biệt dựa trên

các tiêu chí: Loại công việc và nơi làm việc; Công việc nặng nhọc, độc hại, nguy

hiểm; Các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất khác; và Thời giờ làm việc. Trẻ em

và người chưa thành niên là lao động trẻ em nếu vi phạm bất kỳ một tiêu chí nào

trong các tiêu chí trên.

Theo “Điều tra đánh giá các mục tiêu về trẻ em và phụ nữ” (MICS) năm

2014, trẻ em tham gia vào “lao động trẻ em” khi: (1) thực hiện các hoạt động kinh

tế với thời gian vượt ngưỡng thời gian cho phép đối với độ tuổi quy định; (2) làm

việc trong môi trường nguy hiểm; (3) làm công việc nhà với thời gian vượt ngưỡng

thời gian cho phép đối với độ tuổi tương ứng. Khảo sát quốc gia về lao động trẻ em

năm 2012 (Bộ LĐTBXH) chỉ xem xét những trẻ em thuộc hai hình thức (1) và (2)

của MICS 2014 là lao động trẻ em.

Bảng 1.5: Số giờ làm việc của trẻ em bị coi là lao động trẻ em:

Trẻ em tham gia lao động trẻ em Trẻ em tham gia lao động trẻ em (ILO –

(UNICEF – hoạt động kinh tế và các hoạt động kinh tế)

công việc trong gia đình)

Trẻ từ 5-11 tuổi thực hiện các hoạt động Trẻ từ 5-11 tuổi thực hiện các hoạt động

kinh tế ít nhất 1 giờ hoặc làm công việc kinh tế ít nhất 1 giờ trong một tuần

nhà ít nhất 28 giờ trong một tuần

Trẻ từ 12-14 tuổi thực hiện các hoạt Trẻ từ 12-14 tuổi thực hiện các hoạt

động kinh tế ít nhất 14 giờ hoặc làm động kinh tế ít nhất 14 giờ trong một

công việc nhà ít nhất 28 giờ trong một tuần

tuần

19

Trẻ từ 15-17 tuổi thực hiện các hoạt Trẻ từ 15-17 tuổi thực hiện các hoạt

động kinh tế hoặc làm công việc nhà ít động kinh tế ít nhất 43 giờ trong một

nhất 43 giờ trong một tuần tuần

Trẻ em ở bất kỳ độ tuổi nào làm việc Trẻ em ở bất kỳ độ tuổi nào làm việc

trong điều kiện nguy hiểm trong điều kiện nguy hiểm

Nguồn: Báo cáo phân tích tình hình trẻ em năm 2016 – UNICEF

Khác với “lao động trẻ em”, “trẻ em tham gia làm việc” đề cập đến những

công việc trẻ có thể làm, góp phần vào sự phát triển lành mạnh mà không gây ảnh

hưởng đến sức khỏe, tinh thần, trí tuệ của trẻ. Trẻ em tham gia làm việc không

những không gây ảnh hưởng tiêu cực lên sự phát triển của trẻ mà còn giúp trẻ tăng

cường kỹ năng sống cho các em. Nếu lao động trẻ em hướng tới lợi nhuận, trẻ em

phải liên tục làm việc để tăng năng suất lao động, tạo ra hàng hóa, vật chất thì trẻ

em tham gia làm viêc lại hướng đến việc rèn luyện kỹ năng sống, tạo cho trẻ những

kỹ năng cần thiết vì các hoạt động này đều là những công việc tự nguyện, những

công việc trong gia đình.

1.5.4. Nguyên nhân và tác động tiêu cực của lao động trẻ em:

a. Nguyên nhân của lao động trẻ em:

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến lao động trẻ em, có thể phân chia thành 2

loại: “nguyên nhân bên trong” và “nguyên nhân bên ngoài”. Nguyên nhân bên

trong bao gồm các yếu tố xuất phát từ gia đình, ví dụ như: tình trạng đói nghèo,

thất nghiệp, ly hôn của cha mẹ. Những nguyên nhân bên ngoài là những yếu tố xá

hội tác động đến trẻ em, có thể kể đến như: hệ thống giáo dục yếu kém, khủng

hoảng kinh tế, nhận thức và quan niệm của xã hội về lao động trẻ em,… Theo

“Điều tra quốc gia về lao động trẻ em năm 2012”, ở Việt Nam có 3 nguyên nhân

chủ yếu dẫn đến lao động trẻ em: vấn đề kinh tế; vấn đề giáo dục; vấn đề về nhận

thức, tâm lý.

 Vấn đề kinh tế: có thể nói, đói nghèo là nguyên nhân hàng đầu dẫn

20

đền lao động trẻ em. Trẻ em thường phải lao động sớm nếu gia đình đang ở trong

tình trạng khó khăn. Vì mục tiêu lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp lựa chọn việc thuê

trẻ em làm việc với lý do trẻ em sẽ có giá nhân công rẻ, dễ phục tùng và khéo léo

hơn người lớn trong một số công việc. Ở nhiều nơi trên thế giới, đông dân và đói

nghèo dẫn đến tình trạng các chính sách an sinh xã hội không thể đáp ứng được

nhu cầu của người dân và lẽ đương nhiên, lao động trẻ em ra đời để giải quyết điều

tất yếu đó.

 Vấn đề giáo dục: Hệ thống giáo dục một số nước chưa được đầu tư

đầy đủ dẫn đến trẻ không có điều kiện tiếp cận với giáo dục, chương trình giáo dục

thiếu phù hợp cũng là nguyên nhân khiến cho một số trẻ em không thích đi học,

học kém. Trong trường hợp này, nhiều trẻ em sẽ có nguy cơ bỏ học và tìm việc làm

 Vấn đề về nhận thức, tâm lý: Nhiều cha mẹ cho rằng trẻ em cần phải

làm việc sớm và đóng góp vào kinh tế gia đình (trong một số trường hợp, ví dụ như

ở các làng nghề, là để duy trì nghề truyền thống của gia đình) dẫn đến trẻ buộc

phải tham gia hoạt động kinh tế. Sự phân biệt đối với phụ nữ và trẻ em gái, đặc biệt

trong vấn đề học tập, dẫn đến một số trẻ em gái phải thôi học sớm để lao động.

Ngoài ra, một số trẻ mong muốn tự lập, thể hiện ở việc muốn đi làm, đi học nghề

tuy nhiên không được định hướng rõ ràng nên rất dễ bị lợi dụng, trở thành lao động

trẻ em.

Ngoài 3 nguyên nhân chính kể trên, lao động trẻ em còn là hậu quả của

những bất cập, hạn chế trong hệ thống chính sách, pháp luật về phòng ngừa, giảm

thiểu lao động trẻ em. Tổ chức thực thi còn thiếu hiệu quả, mới chỉ điều chỉnh quan

hệ lao động ở khu vực kinh tế chính thức. Vấn đề đô thị hóa nhanh, nhiều gia đình

quyết định di cư từ nông thôn ra thành thị, dẫn đến những trường hợp lao động trẻ

em trong một số gia đình di cư nghèo. Một số cha mẹ sau khi ly thân hoặc ly hôn

nhưng thiếu trách nhiệm với con đã dẫn đến một số trẻ em bỏ học sớm, đi lang

thang và tự kiếm sống.

21

b. Tác động tiêu cực của lao động trẻ em:

Mặc dù lao động trẻ em có thể giúp gia đình trẻ giải quyết được nhu cầu vật

chất trước mắt nhưng về lâu dài, tình trạng này sẽ gây ảnh hưởng đến bản thân trẻ,

gia đình và xã hội.

 Những tác động tiêu cực lên bản thân trẻ:

Về thể chất: Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương về mặt thể chất hơn so

với người lớn khi tham gia lao động. Để các em làm việc ở độ tuổi quá sớm có thể

gây ra những tác động nghiêm trộng đến thể chất của các em. Có thể kể ra một số

các mỗi nguy hại đối với trẻ em khi tham gia lao động trẻ em: không có đủ kiến

thức bảo vệ bản thân trong môi trường làm việc, điều kiện vệ sinh kém, thiếu các

thiết bị bảo hộ lao động cần thiết (do các thiết bị này được thiết kế với cỡ lớn phù

hợp với những người thành niên). Ngoài ra, việc liên tục làm những công việc

không phù hợp với lứa tuổi có thể khiến cho các em gặp phải những căn bệnh như

suy dinh dưỡng, những bệnh liên quan đến lao động, tai nạn lao động nhưng không

được tiếp cận với những dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe. Những rủi ro về sức

khoẻ là đặc biệt lớn khi trẻ em phải làm các công việc không được luật pháp cho

phép.

Về tâm lý: Bên cạnh những tác động về thể chất, trẻ em tham gia lao động

sớm có thể phải đối mặt với việc bị đối xử bất công, phân biệt đối xử, có thể suy

giảm lòng tự tôn, khiến trẻ thiếu tự tin. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt là khi rơi

vào các tình huống lao động trẻ em tồi tệ nhất như phải làm nô lệ hoặc nô dịch;

tham gia xung đột vũ trang; làm mại dâm; sản xuất, vận chuyển ma tuý…hậu quả

tâm lý gây ra cho lao động trẻ em có thể rất nặng nề như: khó hòa nhập xã hội; có

thái độ bạo lực, trầm cảm, thậm chí có ý định tự hủy hoại bản thân... Thậm chí

nhiều em còn bị lạm dụng tình dục, trở thành nạn nhân của ngành “công nghiệp

tình dục”.

Về nhận thức: Trẻ em tham gia lao động sớm đồng nghĩa với việc các em sẽ

22

bị hạn chế, khó khăn hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội tiên tiên tiến để

tiếp thu, nâng cao kỹ năng sống. Vì còn bị hạn chế về nhận thức và kinh nghiệm

sống nên khi phải đối mặt với những ảnh hưởng về tâm lý, trẻ sẽ có khả năng dễ sa

ngã vào những tệ nạn xã hội, gặp khó khăn trong giao tiếp xã hội.

Về giáo dục: Lao động trẻ em tác động tiêu cực đến việc hưởng thụ quyền

học tập của trẻ. Khi trẻ em tham gia lao động sớm thì các em sẽ không còn nhiều

thời gian cho việc học tập. Làm việc nặng nhọc hoặc nhiều thời gian là một trong

những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc giảm khả năng tiếp thu trong quá trình

học tập, từ đó thành tích học tập bị sút giảm, bị thụt lùi so với bạn bè và gặp khó

khăn trong việc hòa nhập vào môi trường học tập từ đó trẻ sẽ chán học và có khả

năng bỏ học sớm.

 Tác động tiêu cực với gia đình, cộng đồng và xã hội:

Lao động trẻ em không chỉ gây nên những tác động tiên cực đến bản thân trẻ

mà còn gây ra những hậu quả nặng nề cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Trẻ em

phải nghỉ học sớm để tham gia lao động là tác nhân lớn khiến cho các em không

được tham gia học tập, đào tạo những kỹ năng nghề nghiệp cần thiết. Chính vì vậy,

sau khi trưởng thành, các em sẽ khó có cơ hội cạnh tranh và tìm một công việc với

mức lương ổn định hơn so với những bạn được đào tạo bài bản. Việc làm bấp

bênh và thu nhập thấp dẫn đến nghèo đói, thất nghiệp trong các gia đình và cộng

đồng có lao động trẻ em. Vì vậy, có thể nói lao động trẻ em góp phần làm gia tăng

tình trạng nghèo đói, thất nghiệp trong gia đình và ở cộng đồng.

Tình trạng lao động trẻ em tạo ra những trở ngại lớn cho sự phát triển của

quốc gia, do nó tác động tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực. Một quốc gia

mà lao động trẻ em còn phổ biến sẽ có chất lượng nguồn nhân lực thấp, trong đó

lao động phổ thông (lao động chân tay) là chủ yếu[3]. Trong khi đó, xu thế của

nền kinh tế thế giới hiện nay đòi hỏi cần phải có lực lượng lớn lao động tri thức để

23

có thể đóng góp cho ngành công nghiệp.

Ngoài ra, như đã đề cập đến ở phần trên, trẻ em tham gia lao động sớm sẽ rất

dễ sa ngã vào các tệ nạn xã hội, điều này không chỉ ảnh hưởng đến bản thân trẻ

mà còn gây nên những hệ lụy đến an ninh trật tự. Bản thân trẻ khi đó sẽ trở thành

gánh nặng cho toàn thể xã hội.

1.6. Bảo vệ trẻ em trong pháp luật hôn nhân gia đình:

1.6.1. Một số khái niệm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình:

a. Khái niệm gia đình:

Gia đình có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau dưới các góc độ khác

nhau. Theo quan niệm truyền thống, gia đình như một tế bào của xã hội, là một

nhóm xã hội thu nhỏ có sự đan xen giữa các yếu tố sinh học, kinh tế, văn hóa, tâm

lý,… Mọi người trong gia đình có sự liên quan mật thiết đến nhau chính vì vậy mà

người trong gia đình có thể gắn bó yêu thương lẫn nhau vô điều kiện. Dưới góc

nhìn nhân chủng học, “gia đình là một thiết chế xã hội liên kết con người lại với

nhau nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống và chăm sóc con cái. Đó là sự liên kết

ít nhất là hai người dựa trên cơ sở huyết thống, hôn nhân hoặc nhận con nuôi. Dưới

góc nhìn pháp luật, “ Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau qua hôn

nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và

quyền giữa họ với nhau”. Như vậy theo định nghĩa này, những người trong gia

đình có thể cùng hoặc không cùng huyết thống, tuy nhiên đều cần phải có sự ràng

buộc nhau về nghĩa vụ và trách nhiệm.

b. Khái niệm cha mẹ, con:

Quan hệ giữa cha mẹ và con về mặt pháp lý chỉ được phát sinh khi được sự

chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cha mẹ bao gồm cha mẹ đẻ và

cha mẹ nuôi. Dưới góc độ pháp lý, khái niệm cha, mẹ, con luôn gắn liền với những

sự kiện pháp lý nhất định. Cha đẻ, mẹ đẻ trong mối quan hệ với con là người trực

24

tiếp sinh ra người con, có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Theo quy định của luật Hôn nhân gia đình, những trường hợp được xem là

con chung của vợ chồng như sau: Con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân; Vợ có

thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng sau khi ly hôn mới sinh con; Vợ có thai trong

thời kỳ hôn nhân nhưng sau khi người chồng chết mới phát hiện mình có thai và

sinh con; Vợ chồng chưa đăng ký kết hôn mà có con và thừa nhận đó là con chung.

Khái niệm con được xác định trong một số trường hợp đặc biệt: “Con trong giá thú”

và “Con ngoài giá thú”. Theo đó, con trong giá thú là con có cha mẹ đã đăng ký kết

hôn hợp pháp. Có những trường hợp hai người chung sống với nhau như vợ chồng

nhưng không đăng ký kết hôn, không phải là vợ chồng hợp pháp, như vậy con sinh

ra sẽ được coi là con ngoài giá thú.

Khái niệm con đẻ, con nuôi: Con đẻ trong mối quan hệ với cha mẹ là người

được cha mẹ sinh ra có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Con đẻ

được xác định dựa trên yếu tố thời kỳ hôn nhân, sự kiện sinh đẻ, sự thừa nhận của

cha mẹ và con. Khái niệm con nuôi được xuất phát từ sự kiện nhận nuôi con nuôi.

Đó là quan hệ cha mẹ - con được xác lập không bằng con đường sinh sản mà theo

nguyện vọng của các đương sự và theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền. Việc nuôi con nuôi chỉ có thể được xác lập do sự bày tỏ ý chí của người

nuôi và người được nuôi hoặc người đại diện của người được nuôi theo trình tự

pháp luật.

Ngoài ra, Luật Hôn nhân – gia đình năm 2014 còn quy định về vấn đề mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo. Đây là một quy định mới, phù hợp với sự phát triển

của khoa học kỹ thuật và mong muốn của nhiều người. Trong trường hợp này, khi

người vợ không thể mang thai thì có thể nhờ đến người mang thai hộ, đứa trẻ sẽ

được hình thành từ trứng của người vợ với tinh trùng của người chồng. Đứa trẻ này

sẽ được coi là con đẻ của hai vợ chồng khi sự thụ tinh là kết quả của cả hai vợ

chồng và người mang thai hộ chỉ đóng vai trò giúp đỡ, hỗ trợ cho sự ra đời của đứa

25

trẻ.

1.6.2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con:

Để có thể tạo ra một môi trường tốt nhất giúp con cái phát triển, cha mẹ cần

phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ đối với con. Theo luật Hôn nhân gia đình

năm 2014, chúng ta có thể chia nghĩa vụ và quyền của cha mẹ thành 2 nhóm:

Nghĩa vụ và quyền về nhân thân: Cha mẹ có nghĩa vụ phải thương yêu con,

tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành

mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức và trở thành người con hiếu thảo của gia đình,

công dân có ích cho xã hội. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân

sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Trong

trường hợp con chưa thành niên hoặc con đã thành niên những mất năng lực hành

vi dân sự, cha mẹ có nghĩa vụ phải trở thành người giám hộ hoặc đại diện theo quy

định của Bộ luật dân sự. Cha mẹ không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở

giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động

của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc

không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp

luật, trái đạo đức xã hội. Tuy vậy, không phải tất cả cha mẹ đều có đầy đủ quyền

với con của mình; trong một số trường hợp, cha mẹ có thể bị hạn chế quyền đối với

con chưa thành niên. Ví dụ như khi: cha mẹ bị kết án về một trong các hành vi cố ý

xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con; khi vi phạm nghiêm trọng nghĩa

vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con…

Nghĩa vụ và quyền về tài sản: Quan hệ tài sản của cha mẹ đối với con có thể

chia thành 2 nhóm: quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ tài sản khác. Nghĩa vụ cấp

dưỡng được pháp luật quy định gắn liền với nhân thân của cha mẹ và không thể

thay thế hay chuyển giao cho người khác. Các quan hệ tài sản khác bao gồm: nghĩa

vụ và quyền quản lý, định đoạt tài sản của con chưa thành niên, bồi thường thiệt

26

hại do con chưa thành niên gây ra…

1.6.3. Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với con:

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con phát sinh dựa trên 2 sự kiện: sự

kiện sinh đẻ hoặc sự kiện nhận con nuôi.

a. Phát sinh dựa trên sự kiện sinh đẻ:

Sinh đẻ tự nhiên: Theo quy định của Luật hôn nhân gia đình, con được sinh

ra trong thời kỳ hôn nhân thì được coi là con chung của hai vợ chồng. Con được

mang thai trong thời kỳ hôn nhân cũng được coi là con chung của hai vợ chồng.

Như vậy, nếu người vợ sinh con sau khi ly hôn mà chưa kết hôn với người khác thì

con đó cũng được coi là con chung của hai vợ chồng. Trong trường hợp cha mẹ

không thừa nhận con thì cần phải có chứng cứ, yêu cầu và được Tòa án chấp nhận.

Sinh đẻ nhờ sự can thiệp của y học: việc sinh con nhờ vào sự can thiệp của

y học có thể được chia làm hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là khi cha mẹ

thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo hay thụ tinh trong ống

nghiệm. Phương pháp này thường áp dụng cho những cặp vợ chồng vô sinh hoặc

mẹ đơn thân. Những người này sẽ có quyền và nghĩa vụ đối với đứa trẻ đó theo

quy định của pháp luật. Trường hợp thứ hai là khi con được sinh ra nhờ phương

pháp mang thai hộ. “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ

tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà

người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh

sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh

trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai

để người này mang thai và sinh con.” Luật hôn nhân gia đình chỉ thừa nhận vấn đề

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Đứa trẻ được sinh ra nhờ phương pháp mang

thai hộ sẽ là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được

sinh ra. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cũng sẽ phát sinh kể từ thời điểm

con được sinh ra.

27

b. Phát sinh dựa trên sự kiện nhận con nuôi:

Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con

nuôi (cha mẹ nuôi) với người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được

nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với

đạo đức xã hội. Đó là quan hệ cha mẹ - con được xác lập không bằng con đường

sinh sản mà theo nguyện vọng của các đương sự và theo quyết định của cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền.

Để được nhận con nuôi, người nuôi phải là cá nhân (không thể là một pháp

nhân, một hộ gia đình …). Đó có thể là vợ và chồng hoặc một cá nhân độc thân.

Về mặt lý thuyết, cá nhân đang có vợ (chồng) có thể nhận con nuôi mà không cần

có sự tham gia hoặc sự đồng ý của vợ (chồng). Người nhận nuôi phải có năng lực

hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe,

kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Không đang

bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ với con chưa thành niên; có tư cách đạo đức

tốt; Không đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở

chữa bệnh; Không đang chấp hành hình phạt tù… Người được nhận làm con nuôi

phải là trẻ em dưới 16 tuổi hoặc là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu được

cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi hoặc được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm

con nuôi. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả

hai người là vợ chồng. Để việc nuôi con nuôi được pháp luật công nhận, để quan

hệ giữa người được nhận nuôi và người nhận nuôi phát sinh quan hệ về quyền và

nghĩa vụ, việc nhận nuôi phải tuân thù theo các quy định của pháp luật về điều kiện

nhận con nuôi, thủ tục nhận con nuôi… Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi với

con nuôi sẽ phát sinh kể từ khi đăng ký nhận con nuôi và quan hệ pháp luật giữa

hai bên được xác lập.

1.6.4. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn:

Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân (về mặt pháp lý) ngay trong lúc

28

cả vợ và chồng đều còn sống. Đây là biện pháp cuối cùng mà luật cho phép thực

hiện trong trường hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng hoảng mà

không thể được khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác. Sau khi ly hôn, vợ

chồng vẫn phải có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên

hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao

động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền ngang nhau trong việc được trực tiếp nuôi

con. Vợ chồng thỏa thuận với nhau về việc nuôi con cũng như quyền và nghĩa vụ

của cha mẹ đối với con, trong trường hợp không thể thỏa thuận được thì sẽ nhờ đến

tòa án giải quyết. Hai bên đều có quyền ngang nhau trong vấn đề thăm nom sau khi

ly hôn hoặc yêu cầu đổi người trực tiếp nuôi dưỡng. Điều này có nghĩa là người

trực tiếp nuôi con không có quyền cản trở người còn lại thăm nom con sau ly hôn.

Quyền thăm nom là một trong những điều kiện cơ bản bảo đảm cho việc

thực hiện quyền cha mẹ trong trường hợp cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con.

Gắn chặt với quyền cha mẹ, quyền thăm nom bao hàm cả quyền giám sát việc

trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con.

Quyền thăm nom được thực hiện theo ý chí của người có quyền chứ không bị ràng

buộc vào các thoả thuận với người nuôi con. Tuy nhiên, trong trường hợp người

không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh

hưởng xấu đến việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con, thì người trực tiếp nuôi

con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm con của người đó.

Ngoài ra, người không trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu tòa án xem xét

và thay đổi người trực tiếp nuôi con nhằm đảm bảo quyền lợi của con. Thay đổi

người trực tiếp nuôi con có thể hiểu là việc khởi kiện yêu cầu tòa án thay đổi quyền

nuôi con mà trước đó trong quyết định cho phép ly hôn của tòa án phán quyết cho

một bên (vợ hoặc chồng) có quyền nuôi bây giờ yêu cầu đổi lại cho bên kia. Người

có quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn sẽ bị thay đổi khi có thỏa thuận về việc

29

thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con hoặc người đang trực

tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,

giáo dục con. Trong một số trường hợp, khi cả cha và mẹ đều không có đủ điều

kiện trực tiếp nuôi con thì có thể giao con cho một người khác nuôi dưỡng. Việc

quyết định ai là người nuôi dưỡng đứa trẻ đều phải xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ

quyền lời về mọi mặt cho đứa trẻ đó.

Ngoài những quyền đã nêu trên, người không trực tiếp nuôi con còn phải có

nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi ly hôn. “Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ

đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không

sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong

trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có

khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn,

túng thiếu”. Cấp dưỡng là nghĩa vụ bắt buộc đối với người không trực tiếp nuôi

con. Nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn tránh nghĩa vụ này thì tùy vào mức độ

vi phạm có thể bị xử lý hành chính, dân sự hoặc hình sự theo quy định của pháp

luật hiện hành. Trong trường hợp giải quyết ly hôn do vợ hoặc chồng mất tích thì

nghĩa vụ cấp dưỡng không được đặt rabởi người mất tích đó không có khả năng

thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trên thực tế gây ảnh hưởng và không đảm bảo được

quyền và lợi ích hợp pháp của đứa con do không được hưởng khoản cấp dưỡng nào

từ người mất tích cho các nhu cầu, quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản. Phương thức

cấp dưỡng được xác định ưu tiên qua sự thỏa thuận giữa các bên bằng văn bản

hoặc bằng miệng và được ghi nhận trong bản án của Tòa án, có thể bao gồm: cấp

dưỡng theo định kỳ hoặc cấp dưỡng một lần. Tương tự như cách xác định phương

thức cấp dưỡng, mức cấp dưỡng ưu tiên do các bên tự thỏa thuận bằng văn bản

hoặc bằng miệng và được ghi nhận trong bản án của Tòa án. Cấp dưỡng có thể

được thực hiện bằng tiền hoặc hiện vật. Cấp dưỡng bằng tiền là hình thức cấp

dưỡng thông dụng nhất. Trong trường hợp có thỏa thuận khác thì việc cấp dưỡng

30

có thể được thực hiện bằng hiện vật.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG BẢO VỆ TRẺ EM TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG VÀ

HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

2.1. Thực trạng lao động trẻ em tại Việt Nam:

Theo Điều tra quốc gia về lao động trẻ em năm 2012, Việt Nam có hơn 2,8

triệu trẻ em tham gia hoặt động kinh tế, trong đó số lao động trẻ em lên đến 1,75

triệu trẻ, chiếm 9,6 phần trăm dân số trẻ em và khoảng 62% tổng số trẻ em hoạt

động kinh tế ở Việt Nam. Tỷ lệ động trẻ em có thời giam làm việc dưới 42 giờ/tuần

là 87,6 phần tram và tỷ lệ lao động trẻ em có thời giam làm việc trên 42 giờ/tuần là

32,4 phần trăm. Trong số đó:

 14,9 phần trăm trẻ em từ 5 đến 11 tuổi tham gia các hoạt động kinh tế

ít nhất 01 giờ

 10,2 phần trăm trẻ em từ 12-14 tuổi tham gia các hoạt động kinh tế từ

14 giờ trở lên

 6,8 phần trăm trẻ em từ 15-17 tuổi tham gia hoạt động kinh tế từ 43

giờ trở lên.

Có 16,4 phần trăm trẻ em từ 5-17 tuổi tham gia hoạt động kinh tế hoặc làm

các công việc nhà vượt ngưỡng thời gian và được cho là lao động trẻ em. Đặc biệt

trong đó có 7,8 phần trăm trẻ em trong độ tuổi này đang phải làm việc trong điều

kiện nguy hiểm, độc hại. Lao động trẻ em có nguy cơ phải làm những công việc

thuộc danh mục những công việc cấm lao động chưa thành niên và điều kiện lao

động có hại là khoảng hơn 1.300 ngàn em, chiếm 75% tổng số lao động trẻ em trên

cả nước. Thống kê MICS năm 2014 và Điều tra Quốc gia về Lao động trẻ em năm

2012 chỉ ra xu hướng tỷ lệ lao động trẻ em tăng từ 10% lên tới 12,1%. Trẻ em ở độ

tuổi càng lớn thì tỷ lệ các em làm việc trong môi trường nguy hiểm càng cao, cụ

thể từ độ tuổi 5-11, 12-14 và 15-17 lần lượt là 9,7% - 29,3% - 61% (Điều tra Quốc

31

gia về Lao động trẻ em năm 2012) và 3,7% - 10,6% - 15,7% (MICS 2014) [4].

Bảng 2.1: Lao động trẻ em

(Phần trăm trẻ em từ 5-17 tuổi tham gia hoạt động kinh tế hoặc làm việc nhà,

phần trăm làm việc trong môi trường nguy hiểm và phần trăm tham gia vào lao

động trẻ em trong tuần trước điều tra, Việt Nam, 2014)

Trẻ em tham gia hoạt

Trẻ em làm việc nhà trong

Trẻ em làm

Tỷ

lệ

động kinh tế trong tuần

tuần trước điều tra với

việc

trong

chung lao

trước điều tra với tổng số

tổng số giờ

môi trường

động

trẻ

giờ lao động

nguy hiểm

em

Dưới

Bằng hoặc

Dưới

Bằng hoặc

ngưỡng

cao hơn

ngưỡng

cao hơn

thời gian

ngưỡng thời

thời gian

ngưỡng thời

tương ứng

gian tương

tương ứng

gian tương

với tuổi

ứng với tuổi

với tuổi

ứng với tuổi

Giới tính

Nam

18,6

11,9

76,0

0,4

8,6

16,6

Nữ

18,2

12,3

82,1

0,9

7,0

16,2

Đi học

16,9

10,4

79,4

0,4

5,7

13,6

Không

35,9

32,0

74,0

3,3

32,7

50,1

Khu vực

Thành thị

10,6

7,5

72,5

0,3

3,3

9,6

Nông thôn

21,7

14,0

81,7

0,8

9,7

19,3

Dân tộc của chủ hộ

Kinh/Hoa

17,3

9,2

78,4

0,3

4,5

11,7

Dân tộc

23,6

26,1

82,0

2,6

23,8

39,3

thiểu số

(Nguồn: Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ, Việt Nam, 2014)

Theo Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ (MICS) ở Việt Nam

2014, lao động trẻ em là thực tế đang tồn tại ở nhiều ngành nghề, nhất là trong lĩnh

32

vực nông nghiệp, diễn ra chủ yếu ở các vùng nông thôn và trẻ em hầu hết phải làm

việc không được trả lương. 12,1 phần trăm trẻ em từ 5-17 tuổi tham gia hoạt động

kinh tế vượt quá ngưỡng thời gian tương ứng với tuổi. Tỷ lệ trẻ em 5-17 tuổi tham

gia hoạt động kinh tế vượt quá ngưỡng số giờ tương ứng với tuổi không có sự khác

biệt lớn giữa nam và nữ. Tuy nhiên, có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng, trong

khi vùng thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng chỉ ở mức 3,0 phần trăm, thì tỷ lệ này

ở vùng cao nhất là Trung du và miền núi phía Bắc lên tới 25,5 phần trăm; tỷ lệ này

ở khu vực nông thôn cao hơn thành thị (14,0 phần trăm so với 7,5 phần trăm);

nhóm dân tộc thiểu số cao hơn nhóm Kinh/Hoa (9,2 phần trăm so với 26,1 phần

trăm); trẻ em không đi học (chiếm 32 phầm trăm) cao hơn gấp 3 lần tỷ lệ trẻ em đi

học (10,4 phần trăm). [28]

Những con số trên tuy chưa thể phản ánh chính xác nhất tính hình lao động

trẻ em hiện nay tại Việt Nam vì còn chưa có những tổng hợp thống nhất về những

hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất như: nô lệ, trẻ em trong thương mại tình dục

hoặc trẻ em buôn bán ma túy … và những báo cáo này được tiến hành thu thập,

điều tra từ năm 2012 – 2014. Tuy nhiên, những báo cáo trên cũng thể hiện tình

trạng đáng lo ngại về lao động trẻ em hiện nay.

2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề bảo vệ trẻ em trong lĩnh

vực lao động:

Hệ thống văn bản chính sách, pháp luật của Việt Nam về phòng ngừa, giảm

thiểu lao động trẻ em bao gồm Hiến pháp 2013 và một số luật chuyên ngành, trong

đó tiêu biểu là Bộ luật Lao động 2012, Luật Trẻ em 2016 và Bộ luật Hình sự 2015.

Ngoài ra, còn một số văn bản dưới luật như quan trọng như Thông tư số

10/2013/QĐ-BLĐTBXH ban hành Danh mục các công việc và nơi làm việc cấm

sử dụng lao động là người chưa thành niên và Thông tư số 11/2013/TT-

BLĐTBXH ban hành Danh mục công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi

33

làm việc. Điều 37 Hiến pháp 2013 nêu rõ: “Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược

đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền

trẻ em”.

2.2.1. Quy định tại Bộ luật lao động:

Bộ luật lao động Việt Nam năm 2012 dành riêng 1 chương (Chương XI) quy

định đối với lao động chưa thành niên. Theo điều 161 Bộ luật lao động năm 2012:

“Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Việc quy định

như vậy có ý nghĩa loại trừ tất cả các trường hợp khác nhau ở độ tuổi lao động đầy

đủ, xác định ranh giới, phạm vi tham gia công việc, tạo điều kiện đảm bảo và có

những phương hướng bảo vệ người lao động chưa thành niên trong quan hệ lao

động và thị trường lao động. Theo Điểu 3 Bộ luật lao động năm 2012, người lao

động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, là người làm việc cho người sử dụng lao động

theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người

sử dụng lao động. Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định độ tuổi lao động tối thiểu

là 15 tuổi, tương ứng với quy định của Công ước số 138 của ILO.

Về việc sử dụng lao động chưa thành niên, tại Điều 162, Bộ luật lao động

năm 2012 quy định:

“1. Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành

niên vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát triển thể lực,

trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành

niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao động.

2. Khi sử dụng người lao động chưa thành niên, người sử dụng lao động phải

lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh, công việc đang làm,

kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ và xuất trình khi cơ quan nhà nước có

thẩm quyền yêu cầu”

Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng lao động chưa thành niên làm các

công việc “phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân

34

cách”. Người sử dụng lao động phải quan tâm đến 3 vấn đề mà người lao động

dưới 18 tuổi dễ bị tổn hại như: thể lực, trí lực và nhân cách. Đồng thời người sử

dụng lao động cũng cần quan tâm đến tiền lương, sức khỏe và học tập của người

lao động trong trường hợp này. Ngoài ra, người sử dụng lao động còn phải lập sổ

theo dõi đối với những lao động chưa thành niên. Điều này nhằm mục đích giúp

người sử dụng lao động nắm bắt được những vấn đề mà người lao động dưới 18

tuổi đang hoặc có thể gặp phải, từ đó có những biện pháp phù hợp để điều chỉnh và

bảo vệ lao động chưa thành niên.

Bộ luật lao động năm 2012 cũng quy định rõ về nguyên tắc sử dụng lao

động chưa thành niên (Điều 163). Theo đó, do người lao động chưa thành niên

nhạy cảm với các yếu tố nguy hiểm, độc hại, dễ sa đà và bị cám dỗ bởi các chất

gây nghiện, lại chưa đủ nhận thức và thiếu kinh nghiệm trong việc phòng tránh,

vậy nên pháp luật nghiêm cấm sử dụng lao động chưa thành niên trong những hoạt

động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc có liên quan đến sản xuất và kinh doanh

cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện. Đối

với những lao động còn trong độ tuổi đi học, chưa hoàn thành giáo dục phổ thông

(dưới 15 tuổi) thì được tạo điều kiện để học văn hóa. Người sử dụng lao động trong

trường hợp này không được phép cản trở hoặc có hành động làm ảnh hưởng đến

việc đi học của lao động chưa thành niên. Ngoài ra, Điều 163 cũng đề cập đến thời

giờ làm việc của những lao động chưa thành niên.

Bảng 2.2: Thời giờ làm việc của lao động chưa thành niên

Tuổi

Thời giờ làm việc

- Không quá 8 giờ 1 ngày và 40 giờ 1 tuần

Từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi

- Được phép làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm

trong một số nghề và công việc theo quy định của

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

- Không được quá 4 giờ trong 01 ngày và 20 giờ

Dưới 15 tuổi

trong 01 tuần

35

- Không được sử dụng làm thêm giờ, làm việc vào

ban đêm

Đối với người lao động từ 13 đến dưới 15 tuổi, pháp luật Việt Nam quy

định những người này chỉ có thể làm các công việc nhẹ theo danh mục do Bộ Lao

động – Thương binh và Xã hội quy định (theo Điều 164 Bộ luật Lao động năm

2012). Đồng thời, người sử dụng lao động và người đại diện hợp pháp phải có hợp

đồng lao động bằng văn bản với sự đồng ý của người lao động.

Bộ luật Lao động năm 2012 cũng quy định về các công việc và nơi làm việc

cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên (Điều 165).

“1. Cấm sử dụng người chưa thành niên làm các công việc sau đây:

a) Mang, vác, nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành

niên;

b) Sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ;

c) Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc;

d) Phá dỡ các công trình xây dựng;

đ) Nấu, thổi, đúc, cán, dập, hàn kim loại;

e) Lặn biển, đánh bắt cá xa bờ;

g) Công việc khác gây tổn hại cho sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức của người

chưa thành niên.

2. Cấm sử dụng người chưa thành niên làm việc ở các nơi sau đây:

a) Dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong đường hầm;

b) Công trường xây dựng;

c) Cơ sở giết mổ gia súc;

d) Sòng bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ,

phòng tắm hơi, phòng xoa bóp;

đ) Nơi làm việc khác gây tổn hại đến sức khoẻ, sự an toàn và đạo đức của

36

người chưa thành niên.

3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định danh mục tại điểm g

khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều này”

Việc ban hành quy định này là rất cần thiết. Một mặt có thể bảo vệ những

lao động chưa đủ 18 tuổi, mặt khác có thể giúp xác định trách nhiệm của người sử

dụng lao động cũng như những cơ quan chức năng có thẩm quyền trong việc bảo

vệ trẻ em.

2.2.2. Quy định tại Bộ luật Hình sự:

So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ Luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ

sung năm 2017 có sự thay đổi với chế tài nghiêm khắc hơn. Theo đó, người nào sử

dụng người dưới 16 tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc

với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định thì bị phạt tiền từ

30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm

hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Phạm tội với tình tiết tăng nặng bị phạt tù từ

03 năm đến 10 năm (Điều 296 quy định về “Tội vi phạm quy định về sử dụng

người lao động dưới 16 tuổi”).

Ngoài quy định trên, Bộ luật Hình sự 2015 còn bao gồm một số tội danh

khác trừng trị những hành vi liên quan đến một số hình thức lao động trẻ em tồi tệ

nhất, cụ thể như Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều

147), Tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa

chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp (Điều 325), Tội mua dâm người dưới 18 tuổi

(Điều 329); một số hành vi sẽ bị coi là tình tiết tăng nặng nếu phạm tội với người

từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi ví dụ như: Tội cưỡng bức lao động (Điều 297), Tội chứa

mại dâm (Điều 327), Tội môi giới mại dâm (Điều 328).

2.2.3. Các văn bản dưới luật:

Để cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện những quy định về lao động chưa

thành niên và lao động trẻ em trong một số luật nêu trên, Chính phủ đã ban hành

37

một số Thông tư, Nghị định ví dụ như: Thông tư số 10/2013/QĐ-BLĐTBXH ban

hành Danh mục các công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa

thành niên và Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH ban hành Danh mục công việc

nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc; Nghị định số 56/NĐ-CP ngày

9/5/2017 quy định chi tiết một số điều về Luật trẻ em, Nghị định số 144/2013/NĐ-

CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ,

chăm sóc trẻ em

Theo Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH, các công việc được sử dụng

người lao động dưới 15 tuổi bao gồm:

Các công việc được sử dụng người dưới 13 tuổi làm việc bao gồm: Diễn

viên: múa; hát; xiếc; điện ảnh; sân khấu kịch, tuồng, chèo, cải lương, múa rối (trừ

múa rối dưới nước); Vận động viên năng khiếu: thể dục dụng cụ, bơi lội, điền kinh

(trừ tạ xích), bóng bàn, cầu lông, bóng rổ, bóng ném, bi-a, bóng đá, các môn võ, đá

cầu, cầu mây, cờ vua, cờ tướng, bóng chuyền.

Các công việc được sử dụng người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi làm việc

bao gồm: (1) Những công việc được sử dụng người dưới 13 tuổi làm việc; (2) Các

nghề truyền thống: chấm men gốm, cưa vỏ trai, vẽ tranh sơn mài, làm giấy dó, nón

lá, se nhang, chẩm nón, dệt chiếu, làm trống, dệt thổ cẩm, làm bún gạo, làm giá đỗ,

làm bánh đa (miến), làm bánh đa Kế; (3) Các nghề thủ công mỹ nghệ: thêu ren,

mộc mỹ nghệ, làm lược sừng, đan lưới vó, làm tranh Đông Hồ, nặn tò he; (4) Đan

lát, làm các đồ gia dụng, đồ thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu tự nhiên như: mây,

tre, nứa, dừa, chuối, bèo lục bình; (5) Nuôi tằm; (6) Gói kẹo dừa.

Ngoài ra, việc sử dụng lao động trẻ em theo pháp luật Việt Nam ngoài xử

phạt hình sự (như Bộ Luật Hình sự đã quy định) thì còn có chế tài xử phạt vi phạm

hành chính. Các hành vi vi phạm và chế tài về vấn đề này được quy định trong

Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 08 năm 2013 của Chính phủ quy định

về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa

38

người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có một điều

riêng (Điều 19 về vi phạm quy định về lao động chưa thành niên: Trong đó có phạt

cảnh cáo đối với người sử dụng lao độnh có hành vi không lập sổ theo dõi khi sử

dụng lao động chưa thành niên hoặc không xuất trình sổ theo dõi khi cơ quan nhà

nước có thẩm quyền yêu cầu) và Nghị định 144/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 của

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo

vệ, chăm sóc trẻ em (Điều 29 về hành vi của cha, mẹ, người giám hộ, người nuôi

dưỡng trẻ em bắt trẻ em làm công việc gia đình quá sức, quá thời gian, ảnh hưởng

đến việc học tập, vui chơi, giải trí, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ em và

một số Điều khác), quy định chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm

về bảo vệ chăm sóc trẻ em, trong đó có cấm lạm dụng lao động trẻ em; cấm sử

dụng trẻ em để mua, bán, vận chuyển hàng hóa, hàng giả, hàng trốn thuế, tiền tệ

trái phép… Ngoài ra còn có Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT-BLĐTBXH-BYT

quy định danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng người lao động

dưới 18 tuổi trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại

dâm như khách sạn, nhà nghỉ, xoa bóp/ massage, hớt tóc, gội đầu, vận chuyển du

lịch…

2.2.4. Một số chương trình, kế hoạch hành động cấp Quốc Gia:

Ngoài những văn bản quy phạm pháp luật đã nêu ở trên, Nhà nước còn lồng

ghép vấn đề hạn chế lao động trẻ em vào những chương trình và kế hoạch hành

động cấp Quốc gia. Trong số đó phải kể đến như: Chương trình hành động quốc

gia vì trẻ em (các giai đoạn 1991-2000, 2000-2010, 2012-2020); Chương trình

hành động quốc gia về bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt giai đoạn 1999-2002,

Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015; Chương trình bảo vệ trẻ

em giai đoạn 2016-2020; Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em

lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong

điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn 2004-2010; Chương trình hành động phòng,

39

chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010; Chương trình

phòng, chống mua bán người (các giai đoạn 2011 – 2015, 2016 – 2020); Chiến

lược Phát triển Giáo dục 2011-2020…

2.2.5. Giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về lao động trẻ em:

Hoạt động giám sát bao gồm thu thập thông tin, dữ liệu, quản lý thông tin,

trao đổi thông tin và sử dụng thông tin để ra quyết định ở các cấp độ khác nhau.

Theo Điều 91 và 92 Luật Trẻ em năm 2016, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ

chức thành viên của Mặt trận và Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam có quyền và

trách nhiệm giám sát các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng, thực hiện đường

lối, chính sách, pháp luật quyền của trẻ em. Ngoài ra hiện còn có nhiều chủ thể

khác tham gia vào hoạt động giám sát lao động trẻ em, trong đó bao gồm cả cơ

quan quản lý nhà nước, đặc biệt là hệ thống cơ quan chuyên trách về bảo vệ, chăm

sóc trẻ em; HĐND, UBND các cấp; các cơ quan và cán bộ ngành giáo dục; hệ

thống các tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động; Liên minh Hợp tác xã Việt

Nam (VCA) và hệ thống các tổ chức đại diện cho người lao động; các Ban thanh

tra nhân dân (được thành lập ở xã, phường, thị trấn và các cơ quan nhà nước, đơn

vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại Điều 12 Luật

Thanh tra 2010)

Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp

luật quy định đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn

của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính

và thanh tra chuyên ngành. Thanh tra lao động (bao gồm thanh tra về lao động trẻ

em) thuộc về thanh tra chuyên ngành, do thanh tra của Bộ Lao động-Thương binh

và Xã hội, Thanh tra Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp và thanh tra của các Sở Lao

động-Thương binh và Xã hội cấp tỉnh thực hiện. Trong cơ cấu tổ chức của Thanh

tra Bộ, các bộ phận liên quan trực tiếp đến thanh tra về lao động trẻ em là các

Phòng Thanh tra chính sách Lao động; Phòng Thanh tra an toàn lao động, vệ sinh

40

lao động và Phòng Thanh tra chính sách về Trẻ em và xã hội.

2.3. Thực trạng vấn đề bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực Hôn nhân gia đình:

Chất lượng chăm sóc có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của trẻ. Tại

Việt Nam, một số lượng lớn trẻ em không nhận được sự chăm sóc và hỗ trợ đầy đủ

từ cha mẹ. Đối tượng này bao gồm các em mất cha hoặc mẹ hoặc cả hai (trẻ mồ

côi), trẻ em lang thang và trẻ em có cha mẹ làm việc xa nhà.[4] Theo MICS 2014,

khoảng 5,2% trẻ em tuổi từ 0-17 không sống cùng cha mẹ ruột của mình; 3,5% cha

mẹ ruột đã mất và 1,3% trẻ em có cha hoặc mẹ ruột đang sống ở nước ngoài. Số

hoạt động trung bình mà người lớn tham gia với trẻ em là 4,5 hoạt động. Trong đó

tỷ lệ bố đẻ tham gia từ 4 hoạt động trở lên chỉ đạt 14,9 phần trăm, 14,2 phần trăm

trẻ em từ 36-59 tháng tuổi không có cha đẻ sống cùng. Tỷ lệ người mẹ tham gia

vào các hoạt động nói trên của trẻ lên tới 45 phần trăm và chỉ 7,7 phần trăm trẻ em

không sống cùng mẹ đẻ. Có 6 phần trăm trẻ em từ 0-59 tháng tuổi bị để cho trẻ

khác trông, và 1,5 phần trăm trẻ bị để ở nhà một mình trong tuần trước thời điểm

điều tra.

Đăng ký khai sinh cho trẻ được xem là một trong những điều kiện quan

trọng đối với bảo vệ trẻ em nhằm bảo vệ trẻ em trong trường hợp vi phạm quyền.

96,1 phần trăm số trẻ em dưới 5 tuổi được đăng ký khai sinh (theo số liệu của

MICS 2014). Trong số đó, tỷ lệ trẻ Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên là

hai vùng có tỷ lệ đăng ký khai sinh thấp nhất lần lượt là 93,2 và 92,1 phần trăm.

Đặc biệt có một thực trạng đáng báo động là trong số trẻ em dưới 5 tuổi chưa được

đăng ký khai sinh có đến 36,1 phần trăm người mẹ nói rằng không biết thủ tục

đăng ký khai sinh.

Một trong những vấn đề ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ là vấn đề

kết hôn sớm. Mặc dù pháp luật Việt Nam có quy định rõ ràng về độ tuổi kết hôn

(nữ từ đủ 18 tuổi, nam từ đủ 20 tuổi) tuy nhiên ở nhiều nơi kết hôn sớm vẫn là vấn

đề nhức nhối. MICS 2014 chỉ ra rằng phụ nữ độ tuổi 15 - 49 có 0,9 phần trăm kết

41

hôn trước 15 tuổi và khoảng 11,2 phụ nữ 20 - 49 tuổi đã từng kết hôn trước lần

sinh nhật thứ 18, 1/10 phụ nữ từ 15-19 tuổi đã kết hôn hoặc chung sống như vợ

chồng. Trẻ em từ những hộ nghèo thường có xu hướng kết hôn sớm hơn các hộ

giàu (tỷ lệ này lần lượt là 26 phần trăm và 2,3 phần trăm). Có khoảng 30 phần trăm

phụ nữ không có bằng cấp đã kết hôn hoặc sống chung như vợ chồng, trong khi đó,

tỷ lệ này ở những phụ nữ có trình độ trung cấp chuyên nghiệp trở lên chỉ chiếm 3

phần trăm.

Bảng 2.3 : Kết hôn sớm ở trẻ em

Kết hôn trước 15 tuổi

Phần trăm phụ nữ 15-49 tuổi kết hôn hoặc

0,9

sống chung như vợ chồng lần đầu trước năm

15 tuổi

Kết hôn trước 18 tuổi

Phần trăm phụ nữ 20-49 tuổi kết hôn hoặc

11,2

sống chung như vợ chồng lần đầu trước năm

18 tuổi

Phụ nữ trẻ (15-19 tuổi) hiện

Phần trăm phụ nữ từ 15-19 tuổi đã kết hôn

10,3

đã kết hôn hoặc chung sống

hoặc chung sống như vợ chồng

như vợ chồng

Nguồn: Báo cáo phân tích tình hình trẻ em 2016 – UNICEF

Ngoài ra, bạo lực gia đình cũng là vấn đề cần phải giải quyết tại Việt Nam.

Rất nhiều ông bố bà mẹ coi việc đánh đập, chửi mắng con cái khi chúng mắc lỗi là

cần thiết để chúng nhận ra sai lầm và sửa chữa; hay coi việc mạt sát, trách móc là

động lực để chúng phấn đấu. Trên thực tế chúng ta đều có thể nhận thấy, cách làm

này phần nào phù hợp với tâm lý của người Việt và đạt được những kết quả nhất

định. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, khi những chuẩn mực tiến bộ về quyền con

người đã và đang phổ biến trên thế giới thì những tư tưởng, cách làm này cần được

sớm loại bỏ. Đặc biệt, là những trường hợp bạo lực với con cái vượt ra ngoài phạm

vi giáo dục - một tình trạng ngày càng gia tăng thì cần phải bị trừng trị nghiêm

42

khắc. Theo kết quả thống kê của Vụ Gia đình - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,

từ năm 2011 tới 2015, trung bình mỗi năm, nước ta xảy ra hơn 31.500 vụ bạo lực

gia đình, như vậy mỗi ngày có 64 phụ nữ và10 trẻ em là nạn nhân của hành vi bạo

lực.

2.4. Quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề bảo vệ trẻ em trong lĩnh

vực hôn nhân gia đình:

2.4.1. Quy định về độ tuổi kết hôn:

Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định rõ ràng và cụ thể về vấn đề

độ tuổi kết hôn. Khoản 1 điều 8 Luật hôn nhân gia đình quy định về độ tuổi kết

hôn: "Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”. "Từ đủ" ở đây có thể

hiểu là kể từ thời điểm đạt độ đủ tuổi luật định (tính tròn năm). Đây là một trong

những điểm mới quan trọng của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014. Trong một thời

gian dài từ Luật Hôn nhân và Gia đình 1959, Luật Hôn nhân và Gia đình 1986,

Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, độ tuổi kết hôn vẫn luôn được duy trì ở mức nam

từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên mới được phép kết hôn. Ví dụ: một người

(nữ) sinh ngày 10/05/2002 thì đến ngày 10/05/2020 mới đủ 18 tuổi và người đó có

thể đăng ký kết hôn sớm nhất vào ngày 10/05/2020. (nếu theo luật cũ thì phải sớm

nhất phải là ngày 11/05/2020). Theo điều 5 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, các

hành vi “Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn” đều là những

hành vi bị cấm. Trong đó, “tảo hôn” là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả

hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật. Việc quy định độ tuổi kết

hôn như vậy phản ánh sự phù hợp với mức độ phát triển tâm sinh lý của con người,

không những thế, việc quy định độ tuổi như vậy còn gắn liền với khả năng phát

triển về tư duy nhận thức, gắn với mức độ độc lập, tự chủ của chủ thể để thực hiện

các chức năng gia đình. Trên thực tế, có rất nhiều vấn đề có thể xảy ra nếu kết hôn

quá sớm ví dụ như: vấn đề về sức khỏe khi sinh con, nhận thức chưa đủ chín chắn,

trưởng thành. Thường thì đến độ tuổi này, nam và nữ mới đạt sự phát triển hoàn

43

thiện về cả thể chất lẫn tinh thần.

2.4.2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con:

Ngoài việc quy định độ tuổi kết hôn, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

còn đặt ra các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái trong đó bao gồm

nhóm các quyền về nhân thân và nhóm các quyền liên quan đến tài sản.

a. Các quyền và nghĩa vụ về nhân thần:

 Quyền và nghĩa vụ khai sinh, đặt họ tên cho con:

Việc khai sinh có ý nghĩa vô cùng lớn đối với một người, vì qua đó người đó

sẽ được Nhà nước công nhận về mặt pháp lý. Từ đó mà các quyền khác mới được

đảm bảo thức hiện. Tuy luật Hôn nhân gia đình năm 2014 không quy định về vấn

đề này nhưng đây cũng là trách nhiệm của cha mẹ. Điều 15 Luật Hộ tịch năm 2014

quy định về đăng ký khai sinh cho con: “Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh

con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ

không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc bà hoặc người thân thích khác

hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh

cho trẻ em”.

Trong trường hợp cha mẹ có hôn nhân hợp pháp, họ tên của hai người sẽ

được điền vào phần cha và mẹ trong giấy khai sinh của con. Trong trường hợp

chưa xác định được cha, mẹ: “Trường hợp chưa xác định được cha thì khi đăng ký

khai sinh họ, dân tộc, quê quán, quốc tịch của con được xác định theo họ, dân tộc,

quê quán, quốc tịch của mẹ; phần ghi về cha trong Sổ hộ tịch và Giấy khai sinh của

trẻ để trống”. “Trường hợp trẻ chưa xác định được mẹ mà khi đăng ký khai sinh

cha yêu cầu làm thủ tục nhận con thì giải quyết theo quy định tại Khoản 3 Điều 15;

phần khai về mẹ trong Sổ hộ tịch và Giấy khai sinh của trẻ em để trống”. (theo

Điều 15 Nghị định 123/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật hộ tịch năm 2014).

Phần họ tên cha sẽ được bổ sung khi người cha tự nguyện nhận con hoặc Tòa án ra

44

quyết định người này là cha của đứa trẻ.

 Quyền và nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và bảo vệ

con:

Quyền và nghĩa vụ này được quy định đầy đủ tại Điều 69 luật Hôn nhân và

gia đình năm 2014: Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ

“1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo

dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người

con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.

2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc

không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa

thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.

4. Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng

hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa

thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có

khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật,

trái đạo đức xã hội.”

Có thể thấy, yêu thương, chăm lo, nuôi dưỡng và bảo về con cái không chỉ là

quyền mà còn là nghĩa vụ của cha mẹ đối với con. “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền

ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành

niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài

sản để tự nuôi mình”. Đây là một trong những quyền bắt buộc và quan trọng nhất

của cha mẹ đối với con cái. Không ai có thể ngăn cản hoặc tước đi quyền yêu

thương, chăm lo và nuôi dưỡng con cái của cha mẹ, trừ một số trường hợp đặc biệt

khi cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con bằng một quyết định hoặc bản án của Tòa

án để bảo đảm lợi ích của đứa trẻ. Nếu vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ yêu thương,

45

chăm sóc và bảo vệ con cái, cha mẹ có thể sẽ bị giới hạn quyền đối với con của

mình. Trong trường hợp bị Tòa án quyết định hạn chế quyền của cha mẹ đối với

con chưa thành niên thì trong thời gian thi hành quyết định của Tòa án, trẻ em

được giúp đỡ, bảo vệ lợi ích. Nếu xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện

trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định

của Bộ luật Dân sự. Vấn đề này được quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và gia

đình năm 2014:

“Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường

hợp sau đây:

a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,

danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ

trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;

b) Phá tán tài sản của con;

c) Có lối sống đồi trụy;

d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.”

Ngoài ra, pháp luật cũng quy định cha mẹ cũng không được phân biệt đối xử

giữa các con (khoản 4 Điều 69 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014). Điều này

nhằm đảm bảo quyền bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em gái, giữa con riêng của

vợ (hoặc chồng) với con chung của hai vợ chồng, giữa con đẻ và con nuôi,... đảm

bảo trẻ em được nuôi dạy và chăm sóc một cách bình đẳng tránh những tổn thương

về mặt tình cảm và tinh thần có thể tạo nên những lỗ hổng về nhân cách hoặc sự

phát triển sau này.

So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật hôn nhân và gia đình năm

2014 bổ sung thêm: “Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc

không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình” và “Giám hộ

hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã

46

thành niên mất năng lực hành vi dân sự”. Các nhà làm luật đã quy định rõ hơn về

đối tượng mà cha mẹ cần chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ đó là “con chưa thành

niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao

động và không có tài sản để tự nuôi mình”.

 Quyền và nghĩa vụ giáo dục con:

Giáo dục là vấn đề cha mẹ cần chú trọng trong việc nuôi dạy con cái. Trẻ em

có quyền được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm

năng của bản thân. Cha mẹ có nghĩa vụ phải giáo dục để con phát triển lành mạnh

về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công

dân có ích cho xã hội. Đây là nghĩa vụ bắt buộc được quy định trong Luật hôn

nhân và gia đình năm 2014.

Điều 72. Nghĩa vụ và quyền giáo dục con

1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho

con học tập.

Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm,

hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà

trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con.

2. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền

tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con.

3. Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện

việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được.

Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ lựa chọn nơi học tập cho con cái phù hợp với

điều kiện gia đình và năng lực của con. Cha mẹ cũng cần phải tạo được một môi

trường sống lành mạnh, môi trường gia đình lành mạnh để con có thể phát huy khả

năng học tập. Khi gặp khó khăn không thể giải quyết được, cha mẹ có thể nhờ đến

sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng, các tổ chức hữu quan trong việc giáo dục

con cái. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có bổ sung thêm quy định cha mẹ cần

47

tôn trọng “quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con”.

Cha mẹ cần phân tích, đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của những

hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đối với con và từ đó có những hành

động để giúp con hiểu được những hoạt động nào tốt cho con, cha mẹ có thể định

hướng cho con tham gia những hoạt động phù hợp với bản thân và thông qua đó có

thể giáo dục con cái về những điều có ích.

 Quyền và nghĩa vụ đại diện cho con:

Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên. Điều 73

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cha mẹ là người đại diện theo

pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự,

trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo

pháp luật”. Quy định này có thể được hiểu là nếu con chưa thành niên hoặc mất

năng lực hành vi dân sự thì cha mẹ sẽ là người đại diện theo pháp luật cho con trừ

trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con. Con chưa thành niên hoặc mất

năng lực hành vi dân sự thường bị hạn chế trong nhiều giao dịch dân sự, ngoài ra,

còn chưa đủ nhận thức để có thể đưa ra những quyết định đúng đắn. Vì vậy, việc

quy định người đại diện hợp pháp cho con là rất cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi

của con chưa thành niên hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự. So với Luật hôn

nhân gia đình năm 2000, Điều 73 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định

rõ ràng hơn về quyền và nghĩa vụ đại diện của cha mẹ, bao gồm thêm các quy định:

“Cha hoặc mẹ có quyền tự mình thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết

yếu của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc

không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình” và “Đối với giao

dịch liên quan đến tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu,

quyền sử dụng, tài sản đưa vào kinh doanh của con chưa thành niên, con đã thành

niên mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự thỏa thuận của cha mẹ”. Việc thỏa

thuận này sẽ giúp cha mẹ có thể biết được những tài sản lớn như vậy của con sẽ

48

được sử dụng vào mục đích gì, mặt khác vì lợi ích của con, sự thỏa thuận này sẽ

đảm bảo những tài sản này được sử dụng một cách hiệu quả nhất và cũng đồng thời

gắn trách nhiệm của cha mẹ vào những giao dịch này.

b. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản:

Ngoài những quyền về nhân thân, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 còn

quy định thêm những quyền và nghĩa vụ về tài sản của cha mẹ đối với con

 Quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng:

Nuôi dưỡng là việc một người đảm bảo nhu cầu vật chất cho người khác để

người này tồn tại và phát triển. Nghĩa vụ nuôi dưỡng sẽ bao gồm cả yếu tố không

gian, có thể hiểu đó là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng và người được nuôi dưỡng

sống cùng nhau. “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc,

nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự

hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Về nguyên

tắc, cha mẹ có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng con từ khi con mới sinh ra cho đến khi

thành niên. Nếu con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,

không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân thì cha

mẹ vẫn có nghĩa vụ phải cấp dưỡng. Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con là

nghĩa vụ có đi có lại nhưng không mang tính chất đồng thời và tính chất đền bù,

ngang giá. Cha mẹ thực hiện việc nuôi dưỡng thông qua việc quan tâm, chăm lo

cho đời sống vật chất của con, đồng thời cung cấp chất dinh dưỡng để cần thiết để

con phát triển. Trẻ em là đối tượng chưa thể tự nuôi dưỡng bản thân, vì vậy, cần có

những người đứng ra nuôi dưỡng và cha mẹ sẽ là những người dành thời gian

chăm lo, chăm sóc cho trẻ.

Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để

đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ

hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa

thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài

49

sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu. Nghĩa vụ cấp dưỡng

không thể thay bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác. Điều

110 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp

dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và

không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc

sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”. Trong một số

trường hợp, nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ phát sinh khi cha mẹ không thể ở bên cạnh

chăm sóc co (do đi làm xa, không có điều kiện chăm sóc con nên phải nhờ người

chăm sóc) thì cha mẹ cần phải gửi tiền cấp dưỡng để lo cho con. Ngoài ra, nghĩa

vụ cấp dưỡng còn phát sinh khi cha mẹ ly hôn. Nuôi con là trách nhiệm của cả cha

và mẹ, không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của hai người. Do sự kiện pháp lý

ly hôn mà con sẽ sống cùng cha hoặc mẹ, bên còn lại phải có nghĩa vụ cấp dưỡng

để đảm bảo cuộc sống của con không gặp quá nhiều khó khăn. Khoản 2 Điều 82

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con

có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi”.

Theo nguyên tắc này, nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con sẽ không phụ

thuộc vào kinh tế của bên trực tiếp nuôi con. Trong trường hợp người trực tiếp

nuôi con không yêu cầu bên còn lại cấp dưỡng, Tòa án cần phải giải thích với họ

việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền và lợi ích hợp pháp của con.

 Các quyền và nghĩa vụ về những tài sản khác giữa cha mẹ và các

con:

Luật hôn nhân và gia đình quy định con còn ở chung với bố mẹ, dù đã thành

niên hay chưa đều có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng này sẽ bao gồm tài sản

được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi

tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác, tài sản được hình

thành từ tài sản riêng của con (Điều 75 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Tuy

có tài sản riêng nhưng con dưới 15 tuổi hoặc con mất hành vi năng lực dân sự vì

50

lợi ích của con, tài sản này sẽ do cha mẹ quản lý.

Việc cha mẹ quản lý tài sản của con khi con chưa đủ 15 tuổi hoặc con mất

hành vi năng lực dân sự trước hết là nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của con. Trẻ

dưới 15 tuổi chỉ được phép thực hiện một số giao dịch nhất định. Ở độ tuổi này, trẻ

còn chưa phát triển hoàn thiện về nhận thức và hành vi, vì vậy chưa đủ khả năng để

quản lý, sử dụng tài sản của mình sao cho hợp lý nhất. Luật hôn nhân và gia đình

năm 2014 đã bổ sung thêm một số quy định về việc cha mẹ quản lý tài sản của con:

“Tài sản riêng của con do cha mẹ hoặc người khác quản lý được giao lại cho con

khi con từ đủ 15 tuổi trở lên hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy

đủ, trừ trường hợp cha mẹ và con có thỏa thuận khác” và “Trong trường hợp cha

mẹ đang quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng

lực hành vi dân sự mà con được giao cho người khác giám hộ thì tài sản riêng của

con được giao lại cho người giám hộ quản lý theo quy định của Bộ luật dân sự”.

Như vậy, khi con đủ 15 tuổi hoặc con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ,

cha mẹ cần phải giao lại cho con tài sản của con cho con nếu không có thỏa thuận

khác giữa hai bên. Quy định này là cần thiết nhằm đảm bảo quyền quản lý, sử dụng

và định đoạt tài sản riêng của con. Trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý

tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của

con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Ngoài ra, cha mẹ còn có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra trong

trường hợp con chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự. “Cha mẹ phải

bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành

vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự” (Điều 74 Luật hôn nhân và gia

đình năm 2014). Đây là trách nhiệm bổ sung của cha và mẹ dựa vào lỗi của cha mẹ

khi thiếu trách nhiệm trong việc trông nom, chăm sóc và giáo dục con chưa thành

niên hoặc con mất năng lực hành vi dân sự.

51

c. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con sau khi ly hôn:

Nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em, Luật hôn nhân và gia đình năm

2014 ghi nhận nguyên tắc giao con dưới 36 tháng tuổi cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng,

trẻ em từ đủ 7 tuổi có quyền được bày tỏ ý kiến mong muốn được sống chung với

cha hoặc mẹ trong trường hợp cha mẹ ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi

con (Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014): “Vợ, chồng thỏa thuận về

người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con;

trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực

tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì

phải xem xét nguyện vọng của con”; “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ

trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom,

chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với

lợi ích của con”.

Ngoài ra, sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ phải trông nom,

chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng

lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi

mình. Trường hợp cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì phải có

nghĩa vụ cấp dưỡng với con mình. Không ai có quyền ngăn cản bên không trực

tiếp nuôi con thực hiện quyền chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của mình.

2.4.3. Quyền của trẻ em trong vấn đề nuôi con nuôi:

Luật Nuôi con nuôi 2010 khẳng định việc cho làm con nuôi quốc tế phải là

giải pháp cuối cùng khi mà đứa trẻ không thể được chăm sóc ở quốc gia nguyên

quán của trẻ em. Điều 5 Luật Nuôi con nuôi có ghi nhận thứ tự ưu tiên lựa chọn gia

đình thay thế cho trẻ ở trong nước trước so với gia đình thay thế ở nước ngoài.

Việc quy định ưu tiên nuôi con nuôi trong nước của Luật nuôi con nuôi sẽ tạo cơ

sở pháp lý nhằm thực hiện tốt quy trình giải quyết nuôi con nuôi trong nước, đảm

bảo trẻ em được sống trong môi trường gốc, gần gũi với đặc điểm và nhu cầu của

52

trẻ.

Luật nuôi con nuôi năm 2010 ghi nhận quyền đưa ra ý kiến về việc làm con

nuôi vào thời điểm nuôi con nuôi tại khoản 1 Điều 21 Luật nuôi con nuôi “Việc

nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm

con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự

hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha

mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định

được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09

tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó”. Điều này phù

hợp với nguyên tắc “Trẻ em có quyền được xác lập và thể hiện ý kiến riêng của

mình” theo Công ước quyền trẻ em. Pháp luật Việt Nam cũng đề ra vấn đề bảo

đảm cho trẻ quyền đảm bảo được biết về nguồn gốc của mình, Điều 11 Luật nuôi

con nuôi quy định con nuôi có quyền được biết về nguồn gốc của mình “Con nuôi

có quyền được biết về nguồn gốc của mình. Không ai được cản trở con nuôi được

biết về nguồn gốc của mình”. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho con nuôi

53

là người Việt Nam ở nước ngoài về thăm quê hương, đất nước.

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN BẢO VỆ TRẺ EM TRONG

LĨNH VỰC LAO ĐỘNG VÀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

3.1. Giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao

động:

Nhìn chung, nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều giải pháp, tăng cường những

chương trình hành động để bảo vệ trẻ em, xóa bỏ lao động trẻ em. Tuy nhiên, các

quy định pháp luật và việc chấp hành những quy định về lao động trẻ em trên thực

tế vẫn còn nhiều vấn đề.

3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện chế độ pháp lý về vấn đề lao động trẻ

em:

Trước hết về mặt thuật ngữ pháp lý, cần có sự thống nhất hoặc phân định rõ

ràng về khái niệm “lao động trẻ em” và “lao động chưa thành niên”. Việc không

phân định rõ ràng sẽ khiến cho người dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông

tin, khiến cho các chuyên gia gặp khó khăn trong việc nghiên cứu và tuyên truyền

nhằm xóa bỏ lao dộng trẻ em.

Chưa có hành lang pháp lý đầy đủ để bảo vệ trẻ em trong vấn đề lao động.

Hiện nay, việc sử dụng LĐTE không phổ biến ở khối kinh tế chính thức có quan hệ

lao động mà chỉ xuất hiện nhiều ở khối kinh tế không chính thức và trong nhóm

không có quan hệ lao động (ví dụ như trẻ em làm việc trong khu vực gia đình). Rất

nhiều mặt hàng, ngành hàng xuất khẩu của ta hiện nay như thủy hải sản xuất khẩu,

trồng trọt... xuất phát từ khu vực kinh tế không chính thức và nguy cơ sử dụng

LĐTE trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng nhiều hơn.

Thiếu văn bản có hiệu lực pháp lý cao, rành để điều chỉnh riêng đối với lao

động trẻ em. Hiện nay, các quy phạm pháp luật về vấn nạn lao động trẻ em nằm rải

rác ở các luật, nghị định, thông tư khác nhau. Ngoài ra, các điều luật cũng chỉ dừng

54

ở mức kêu gọi hoặc diễn giải nội dung các Công ước mà Việt Nam đã ký kết. Ví

dụ như: Điều 37 Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền của trẻ em và người cao

tuổi: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục;

được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi,

bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ

em”. Việc liệt kê như vậy không thể bao quát hết những nguyên tắc cơ bản trong

Công ước về quyền trẻ em.

Thiếu các quy định về cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động lao

động trẻ em. Những quy định về thanh tra, kiểm tra và giám sát cũng mới chỉ

chung chung, chưa có quy định nào cụ thể về thanh tra, kiểm tra, giám sát lao động

trẻ em. Tính đến giữa năm 2019, chưa có hành vi vi phạm nào bị xử lý hình sự mới

chỉ bị xử lý hành chính. Việc thiếu cơ chế giám sát cũng là một nguyên nhân lớn

khiến cho lao động trẻ em có xu hướng tăng, đặc biệt là ở những vùng sâu vùng xa,

quản lý của nhà nước bị buông lỏng.

Cuối cùng, việc truyền thông, giáo dục về vấn đề lao động trẻ em còn chưa

được quan tâm đúng mức. Nhiều người dân hay thậm chí là các doanh nghiệp vẫn

sử dụng lao động trẻ em vì có lợi hơn về mặt kinh tế mà không quan tâm đến việc

hành vi này là hành vi không được pháp luật cho phép. Hay nhiều cha mẹ vẫn cho

con đi lao động ở độ tuổi còn rất nhỏ để có thể đóng góp cho kinh tế của gia đình.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về hệ thống pháp lý:

Thứ nhất, cần thống nhất hoặc phân biệt rõ ràng “lao động trẻ em”, “lao

động chưa thành niên”. Theo Luật trẻ em năm 2016, trẻ em là những người dưới

16 tuổi. Bộ luật lao động năm 2012 lại phân ra nhiều cấp độ để áp dụng luật như

dưới 13 tuổi, từ 15-dưới 18 tuổi, từ đủ 18 tuổi trở lên theo như các Công ước 138

và Công ước 182. Có thể thấy việc quy định độ tuổi của trẻ em là 16 sẽ khiến cho

người sử dụng lao động gặp khó khăn trong việc hiểu rõ luật. Nếu độ tuổi của trẻ

55

em được nâng lên thành 18 tuổi như trong Công ước về quyền trẻ em năm 1989 thì

vấn đề trên sẽ được giải quyết vì khi đó lao động trẻ em và lao động chưa thành

niên về cơ bản sẽ trùng nhau.

Thứ hai, cần điều chỉnh hành lang pháp lý, trong đó có điều chỉnh Bộ luật

Lao động sửa đổi để quản lý giám sát được LĐTE, kể cả trong nhóm không có

quan hệ lao động. Ban hành các quy định về ngăn chặn, xóa bỏ lao động trẻ em ở

các khu vực phi chính phủ, kinh tế hộ gia đình. Ngoài ra còn cần phải tăng cường

các chế tài pháp lý đủ mạnh để răn đe đối với các hành vi sử dụng trẻ em trong các

hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất.

3.1.3. Bổ sung các quy định về thanh tra, kiểm tra, cơ chê giám sát phát hiện,

đánh giá thực hiện

Nhà nước cần tăng cường thanh tra, kiểm tra để nhanh chóng phát hiện, loại

trừ những sai phạm liên quan đến LĐTE, vốn rất phức tạp trong đời sống hiện tại.

Hiện nay chế tài xử lý những vi phạm liên quan tương đối đầy đủ, kể cả về xử lý

hành chính cũng như xử lý hình sự. Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung

năm 2017) đã có chế tài xử lý việc sử dụng lao động chưa thành niên. Nhưng để

phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm về LĐTE thì hệ thống các cơ quan hành

pháp, thanh tra cần tích cực hơn nữa. Thanh tra LĐTE cần phải tiến hành định kỳ

hoặc đột xuất, quy trình tiến hành có thể tiến hành theo các hoạt động thanh tra của

các lĩnh vực khác.

Song song với đó cần tích cực thực hiện khảo sát, tìm ra nguyên nhân đặc

điểm, tính chất và các khía cạnh khác có liên quan của vấn đề, từ đó xác định và

thực hiện những chiến lược, biện pháp can thiệp thích hợp nhằm phòng ngừa và

giảm thiểu lao động trẻ em. Cần có những báo cáo thường kỳ về lao động trẻ em để

các nhà làm luật, các chuyên gia có thể xây dựng các chương trình đảm bảo quyền

lợi của trẻ.

56

3.1.4. Một số giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao nhận thức của người dân:

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về quyền trẻ

em, lao động nhằm tiến tới xóa bỏ lao động trẻ em. Đây là một công việc rất quan

trọng. Cần phổ biến rõ ràng cho người dân về quyền lợi của trẻ em và nghĩa vụ của

bản thân họ thì cả xã hội mới có thể cùng chung tay tiến đến xóa bỏ lao động trẻ

em. Phải phân tích cho họ thấy, lợi ích của việc sử dụng lao động trẻ em, làm kinh

tế cùng với người lớn không thể so sánh với lợi ích các em được học nghề, học

hành để sau này có công việc bền vững. Trách nhiệm của các doanh nghiệp trong

việc phòng ngừa, giảm thiểu LĐTE là rất lớn. Các doanh nghiệp cần có ý thức

chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực lao động.

Tuyên truyền thôi chưa đủ, các cơ quan ban ngành, tổ chức, cá nhân cần có

biện pháp hỗ trợ để các em được đi học nghề, chuyển đổi công việc. Đó là cách

tiếp cận ở một quốc gia còn nhiều hộ nghèo, đang ở mức phát triển trung bình.

Việc được đi học nghề sẽ giúp cho các em có cơ hội tiếp cận giáo dục, có thể kiếm

được một công việc tốt hơn sau này.

3.2. Giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện bảo vệ trẻ em trong lĩnh vực hôn

nhân và gia đình:

3.2.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện chế độ pháp lý nhằm bảo vệ trẻ em

trong lĩnh vực hôn nhân gia đình:

Khung pháp lý chưa được thực thi đầy đủ hoặc không phát huy tác dụng đối

với một số hình thức kết hôn trẻ em nhất định. Chính phủ không thể kiểm soát tập

tục chung sống như vợ chồng khi chưa đến tuổi và việc kết hôn vẫn diễn ra dù

không có đăng ký kết hôn hoặc kể cả khi đương sự phải nộp phạt. Mặc dù đã có

các quy định về độ tuổi kết hôn tối thiểu nhưng các quy định này lại không phát

huy tác dụng trong một số trường hợp kết hôn trẻ em hoặc chung sống sớm như vợ

chồng. Bên cạnh đó, ở nhiều dân tộc thiểu số vẫn còn tình trạng bất bình đẳng

57

nam-nữ nên việc nhiều trẻ em gái bị gả đi khi còn nhỏ vẫn còn rất phổ biến.

Nhiều khái niệm trong luật hôn nhân gia đình còn chưa được làm rõ, ví dụ,

thế nào là “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo

dục con”, thế nào là “Phá tán tài sản của con” và thế nào là “Có lối sống đồi trụy”

nhằm tránh trường hợp hiểu không đúng dẫn đến sự tùy tiện ra quyết định hạn chế

quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, thậm chí là không đúng quy định

pháp luật. Hay khái niệm hành vi “cản trở”, “gây ảnh hưởng xấu” trong Khoản 3

Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng chưa được giải thích một cách

rõ ràng.

Chưa quy định rõ ràng về mức cấp dưỡng mà bên không trực tiếp nuôi con

phải thực hiện. Hiện tại, mức cấp dưỡng nuôi con được xác định trên cơ sở tự

nguyện, tức là sự thỏa thuận của người cấp dưỡng, người được cấp dưỡng và người

giám hộ của người được cấp dưỡng. Trong trường hợp, các bên không đạt tự

nguyện thỏa thuận về mức cấp dưỡng thì có thể yêu cầu Tòa án xem xét và giải

quyết về mức cấp dưỡng sao cho hợp lý và hợp tình. Trên thực tế, có rất nhiều

trường hợp mức cấp dưỡng thấp hơn nhiều so với nhu cầu cuộc sống. Thêm nữa

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng không có quy định nào về vấn đề thời

hạn ngừng cấp dưỡng. Việc không quy định thời hạn ngừng cấp dưỡng và mức cấp

dưỡng sẽ khiến cho bên trực tiếp nuôi con có thể gặp khó khăn trong việc đảm bảo

cuộc sống của con.

Quy định về hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực phòng, chống bạo lực gia đình vẫn còn nhiều hạn chế và chưa phát huy được

những hiệu quả nhất định. Trên thực tế, rất nhiều trường hợp bạo lực gia đình là do

cha hoặc mẹ không thể làm ra tiền hoặc nghiện rượu, cờ bạc … những người như

vậy sẽ không có khả năng nộp phạt vi phạm hành chính. Thay vào đó người còn lại

sẽ phải đứng ra nộp phạt. Điều này gây ảnh hưởng rất nhiều đến quyền lợi về tài

sản của vợ chồng và cơ quan thi hành án cũng gặp không ít khó khăn trong việc

58

giải quyết. Hình thức xử phạt vi phạm hành chính này sẽ không còn có tác dụng

răn đe, giáo dục người vi phạm mà chỉ khiến cho nạn nhân không muốn tố cáo

hành vi này.

3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp lý:

Thứ nhất, cần hoàn thiện một số quy định của Luật Phòng, chống bạo lực

gia đình, quy định rõ ràng hơn những hành vi bị coi là “bạo lực gia đình” và có sự

tổng hợp các quy định tại những văn bản pháp luật khác nhau về các hành vi để

đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả của các quy phạm pháp luật. Bên cạnh việc chỉ

ra các hành vi thì việc xác định rõ các đối tượng của bạo lực gia đình cũng rất quan

trọng, từ đó có thể xây dựng các biện pháp phòng chống bạo lực gia đình thích hợp.

Có thể bỏ chế tài phạt tiền đối với các hành vi bạo lực gia đình và thay bằng chế tài

lao động công ích trong xử lý vi phạm hành chính trong phòng, chống bạo lực gia

đình. Biện pháp này có thể mang tính khả thi cao hơn vì nó có ý nghĩa giáo dục

tích cực với người có hành vi bạo lực, đồng thời không ảnh hưởng tới quyền lợi

của nạn nhân.

Thứ hai, nên có văn bản hướng dẫn kịp thời các quy định còn chung chung

trong luật Hôn nhân và gia đình nhằm tránh gây khó khăn trong việc áp dụng pháp

luật. Một số các quy định cần có hướng dẫn cụ thể như: mức cấp dưỡng, thời hạn

tạm ngừng cấp dưỡng…

Ngoài ra cần thực hiện các nghiên cứu nhằm hiểu rõ thực trạng trẻ em trong

gia đình hiện nay, từ đó xây dựng những giải pháp, chương trình giúp bảo vệ trẻ

em.

3.2.3. Một số giải pháp hỗ trợ nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ trẻ em

Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về Hôn

nhân và gia đình. Nhà nước cần tăng cường đổi mới truyền thông, giáo dục, tư vấn

cho các bậc cha mẹ, các thành viên trong gia đình và trẻ em kỹ năng sống hòa hợp,

kỹ năng bảo vệ trẻ em, không sao nhãng, không bạo lực, xâm hại trẻ em dưới bất

59

cứ hình thức nào.

Thứ hai, cần có những biện pháp, hành động cụ thể để ngăn chặn nạn tảo

hôn hơn là chỉ tập trung vào phổ biến các biện pháp cấm theo pháp luật và công tác

nâng cao nhận thức, ví dụ như cải thiện khả năng tiếp cận của trẻ em và người

chưa thành niên tới các dịch vụ có chất lượng như giáo dục, thông tin và dịch vụ

sức khỏe tình dục và sinh sản (chăm sóc điều trị và các dịch vụ phòng ngừa như

cung cấp thông tin, tư vấn, dịch vụ và giới thiệu), các dịch vụ bảo vệ trẻ em và

chăm sóc xã hội (công tác xã hội, tư vấn và các dịch vụ tâm lý). Trên thực tế, rất

nhiều trường hợp trẻ phải kết hôn sớm là do có thai, vì vậy, để giảm thiểu nạn tảo

hôn ở Việt Nam cần phải có sự hợp tác của nhiều bên. Trẻ phải được giáo dục giới

tính ở cả gia đình và nhà trường. Song song với đó cần đẩy mạnh truyển thông đến

người dân về những hậu quả có thể xảy ra khi kết hôn sớm.

Cuối cùng, bảo vệ trẻ em cần đi đôi với phát triển kinh tế. Nhà nước cần ban

hành những chính sách để hỗ trợ và phát triển kinh tế, từ đó nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần, góp phần tạo điều kiện tốt nhất cho cha mẹ chăm sóc và bảo vệ

con cái. Trong nhiều gia đình, kinh tế khó khăn là lí do chính dẫn đến hành vi bạo

lực gia đình hoặc sự bỏ mặc, thiếu chăm sóc con cái. Kinh tế khó khăn khiến cha

mẹ phải cố gắng đi làm kiếm thêm thu nhập mà không có thời gian chăm sóc con

cái dẫn đến tình trạng nhiều trẻ bị bỏ rơi, thiếu tình yêu thương của cha mẹ. Chính

vì vậy, nếu Nhà nước có những chính sách hỗ trợ kịp thời để giúp đỡ những gia

đình thuộc diễn khó khăn đó, thì cha mẹ mới có thể thực hiện tốt nhất nghĩa vụ của

60

mình đối với con.

KẾT LUẬN

Trong những năm qua, vấn đề bảo vệ trẻ em luôn được Đảng, Nhà nước và

các ban ngành tập trung quan tâm. Nhiều Bộ luật, Luật, Thông tư, Nghị định đã

được sửa đổi và ban hành với mục đích bảo vệ trẻ em trên tất cả các lĩnh vực trong

cuộc sống. Hiện nay, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đang đạt được

nhiều thành tựu quan trọng.

Trong lĩnh vực lao động trẻ em, cùng với việc gia nhập các công ước Quốc

tế, Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung hệ thông pháp luật và ban hành thêm những văn

bản dưới luật nhằm cụ thể hóa những vấn đề cần thiết để bảo vệ trẻ em. Hệ thống

pháp luật Việt Nam đã có những quy định rất đầy đủ về độ tuổi tối thiểu, các hình

thức trẻ em tồi tệ nhất, những công việc trẻ không được làm, các chế tài xử phạt vi

phạm hành chính hay hình sự hóa các hành vi đối với lao động trẻ em phù hợp với

các Công ước Quốc tế mà Việt Nam tham gia. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn

nhiều trẻ có nguy cơ là nạn nhân của lao động trẻ em, đặc biệt có những trẻ còn

phải lao động thực hiện các công việc nặng nhọc, làm việc trong môi trường độc

hại. Các quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành chưa thực sự bao quát hết

được những vi phạm có thể xảy đến với trẻ em trong lĩnh vực lao động, ví dụ như

những ngành nghề thuộc khu vực kinh tế phi chính thức, kinh tế hộ gia đình.

Những bất cập và hạn chế này đòi hỏi Nhà nước phải có những biện pháp cụ thể,

mạnh tay, tăng tính răn đe; ban hành và triển khai hiệu quả các chính sách phát

triển kinh tế, ổn định thu nhập cho các hộ nghèo, đảm bảo cho trẻ có thể được đi

học, tiếp cận giáo dục một cách đầy đủ.

Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, pháp luật có quy định về quyền và

nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, tạo nền tằng pháp lý để cha mẹ thực hiện quyền

và nghĩa vụ của mình. Ngoài ra pháp luật cũng quy định về việc bảo vệ trẻ em khi

giới hạn độ tuổi kết hôn hay ban hành riêng một luật để bảo đảm quyền lời của trẻ

61

được nhận làm con nuôi. Bên cạnh những điểm tích cực, hệ thống pháp luật hôn

nhân và gia đình còn có những hạn chế nhất định. Nhiều điều luật vẫn còn chung

chung, chưa cụ thể dễ gây nhầm lẫn trong quá trình thực hiện pháp luật. Một số

vấn đề tuy đã được nêu lên trong hệ thống quy phạm pháp luật nhưng việc thực thi

còn chưa được nghiêm túc. Những quy phạm pháp luật hiện tại cũng chưa bao quát

được hết các vấn đề đang xảy ra trên thực tế.

Bên cạnh hệ thống pháp luật, Nhà nước cũng ban hành, thực hiện nhiều

chính sách hỗ trợ, tổ chức các chương trình hành động nhằm bảo vệ trẻ em. Những

chương trình này cũng đã và đang góp phần tuyên truyền, phổ biến quyền trẻ đến

với người dân. Để góp phần thực hiện đảm bảo quyền trẻ em trong xã hội hiện nay

cần có sự chung tay của nhiều chủ thể trong đó bao gồm các cơ quan tư pháp, hệ

thống hỗ trợ - bảo vệ trẻ em cũng như những người làm việc trong đó và các yếu tố

từ gia đình, nhà trường, cộng đồng là những yếu tố then chốt cùng tạo nên một môi

trường thực sự an toàn đối với trẻ em. Trẻ em luôn luôn là đối tượng cần phải được

quan tâm và ưu tiên bảo vệ nhất trong xã hội. Đem đến một môi trường an toàn

62

một cách toàn diện là cách tốt nhất để bảo vệ các em.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2013), Thông tư 10/2013/TT-

BLĐTBXH ngày 10/06/2013 ban hành danh mục các công việc và nơi làm

việc cấm sử dụng người lao động chưa thành niên, Hà Nội.

2. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2013), Thông tư 11/2013/TT-

BLĐTBXH ngày 11/06/2013 ban hành danh mục các công việc nhẹ được sử

dụng người dưới 18 tuổi làm việc, Hà Nội.

3. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, ILO (2019), Tài liệu tập huấn về

phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em, Hà Nội

4. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, UNICEF (2017), Báo cáo phân tích

tình hình trẻ em năm 2016, Hà Nội

5. Bộ Tư pháp (2009), Báo cáo rà soát các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi

6. Bùi Minh Giang (2013), Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau ly hôn theo

pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật (ĐHQGHN), Hà

Nội

7. Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội

8. Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Lao động, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội

9. Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện Quốc

tế về Quyền con người, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội

10. Liên Hợp Quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em, Newyork

11. Nguyễn Thị Vân Anh (2014), Pháp luật Quốc tế và pháp luật Việt Nam về

ngăn ngừa và xóa bỏ lao động trẻ em, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật

63

(ĐHQGHN), Hà Nội

12. Nguyễn Văn Quyền (2014), Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con theo

luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa Luật

(ĐHQGHN), Hà Nội

13. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, ILO (2019), Hướng dẫn phòng

ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em dành cho doanh nghiệp, Hà Nội

14. Quách Thị Quế (2017), Phòng chống lao động trẻ em trong chiến lược bảo

vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Phòng Nghiên cứu Chính sách An sinh xã

hội, Hà Nội

15. Viện Khoa học lao động và Xã hội

16. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội

17. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Hà Nội

18. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, Hà Nội

19. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội

20. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình, Hà Nội

21. Quốc hội (2010), Luật nuôi con nuôi, Hà Nội

22. Quốc hội (2007), Luật phòng chống bạo lực gia đình, Hà Nội

23. Quốc hội (2016), Luật trẻ em, Hà Nội

24. Tổ chức Lao động quốc tế (1973), Công ước số 138 về tuổi lao động tối

thiểu, Geneva

25. Tổ chức Lao động quốc tế (1999), Công ước số 182 về cấm và hành động

ngay lập tức các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, Geneva

26. Tổ chức Lao động quốc tế (2015), Nghiên cứu mới của ILO chỉ ra hiểm họa

lâu dài của lao động trẻ em, Hà Nội

27. Tổng cụ thống kê (2014), Điều tra Quốc gia về lao động trẻ em năm 2012 –

Các kết quả chính, Hà Nội

28. Tổng cục thống kê (2014), Điều tra đánh giá các mục tiêu trẻ em và phụ nữ

64

năm 2013-2014, Hà Nội

29. TS Lưu Bình Nhưỡng (Chủ biên) (2015), Bình luận khoa học Bộ luật lao

động, Nxb Lao động, Hà Nội

30. Trần Nguyên Tú (2020), Pháp luật và nguyên tắc quốc tế về quyền trẻ em,

Hà Nội

31. UNICEF, UNPFA (2018), Chấm dứt kết hôn trẻ em, trao quyền cho trẻ em

65

gái. Tóm tắt thực trạng kết hôn trẻ em ở Việt Nam, Hà Nội