TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
-----------o0o------------
CHU THỊ LAN ANH
TINH THẦN YÊU NƢỚC
TRONG NGỌC ĐƯỜNG THI VĂN TẬP
CỦA NGUYỄN XUÂN ÔN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên nghành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. AN THỊ THÚY
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hƣớng dẫn của giảng viên - ThS. An Thị Thúy
đã tận tình giúp đỡ, hƣớng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ văn đặc biệt là các thầy cô trong tổ văn học Việt Nam -
Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong 4 năm
học nói chung và trong quá trình nghiên cứu khóa luận nói riêng.
Mặc dù có nhiều cố gắng song với trình độ và kiến thức còn hạn chế
của ngƣời viết, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận đƣợc sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn sinh viên để bài
khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả khóa luận
Chu Thị Lan Anh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình học tập,
nghiên cứu của tôi cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Ngữ văn
trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hƣớng dẫn tận tình của
giảng viên - Thạc sĩ An Thị Thúy
Trong quá trình làm khóa luận, tôi có tham khảo những tài liệu có liên
quan đã đƣợc hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Khóa luận không có sự
trùng lặp với các công trình khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả khóa luận
Chu Thị Lan Anh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 5
6. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 7
1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội và tƣ tƣởng thời đại ............................................ 7
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội ......................................................................... 7
1.1.2. Tƣ tƣởng thời đại..................................................................................... 9
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng .......................................................... 11
1.2.1. Cuộc đời ................................................................................................ 11
1.2.2. Sự nghiệp văn chƣơng ........................................................................... 14
1.3. Vị trí của Nguyễn Xuân Ôn trong dòng văn học yêu nƣớc nửa cuối thế kỉ
XIX .................................................................................................................. 15
CHƢƠNG 2. NGỌC ĐƯỜNG THI VĂN TẬP - KHÚC CA THẤM ĐƢỢM
TINH THẦN YÊU NƢỚC ............................................................................. 19
2.1. Biểu hiện của tinh thần yêu nƣớc trong Ngọc Đường thi văn tập ........... 19
2.1.1. Ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với đất nƣớc ................................ 19
2.1.2. Nỗi căm giận với kẻ thù ........................................................................ 26
2.1.3. Ý chí và hành động quyết tâm cứu nƣớc .............................................. 39
2.1.4. Tình yêu thiên nhiên đất nƣớc............................................................... 43
2.2. Một số bút pháp nghệ thuật thể hiện cảm hứng yêu nƣớc trong
Ngọc Đường thi văn tập .................................................................................. 47
2.2.1. Bút pháp hiện thực ................................................................................ 48
2.2.2. Bút pháp châm biếm, trào phúng .......................................................... 50
2.2.3. Bút pháp trữ tình ................................................................................... 54
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử của đất nƣớc Việt Nam là lịch sử của bốn ngàn năm dựng
nƣớc và giữ nƣớc. Truyền thống dân tộc kiên cƣờng, bất khuất ấy đã làm nên
cuộc kháng chiến chống Pháp hào hùng mà cố thủ tƣớng Phạm Văn Đồng đã
nói “Một thời khổ nhục nhƣng vĩ đại”. Ngƣợc dòng thời gian trở về với những
biến cố lịch sử, chúng ta thấy khí thế quật cƣờng của cha ông vƣợt qua bao
khó khăn gian khổ từ buổi đầu chống Pháp đến khi toàn thắng. Triều đình
Huế lúc bấy giờ hèn nhát đã quỳ gối đầu hàng giặc. Nhân dân yêu nƣớc
không can tâm chịu mất nƣớc mà đứng lên khởi nghĩa. Phong trào diễn ra
mạnh nhƣ vũ bão, tuy chƣa đủ sức “nhấn chìm bọn bán nƣớc và cƣớp nƣớc”
(Hồ Chí Minh) nhƣng đó chính là tiếng súng báo hiệu một thời kì bão táp
cách mạng sẽ diễn ra sôi nổi
Trong cuộc đấu tranh ấy, không thể không kể đến các phong trào của
các sĩ phu yêu nƣớc. Nếu ở Nam Kì nổi bật vai trò lãnh đạo của Nguyễn Hữu
Huân, ở Bắc Kì là Nguyễn Quang Bích thì ở Trung Kì phong trào gắn liền với
tên tuổi của Nguyễn Xuân Ôn - một nhà nho, một văn thân chống Pháp tiêu
biểu nửa cuối thế kỉ XIX
Việt Nam là đất nƣớc của những anh hùng vừa làm thơ, vừa đánh giặc.
Do vậy, ngoài vai trò một lãnh tụ kháng chiến, Nguyễn Xuân Ôn còn là một
nhà thơ. Số lƣợng sáng tác tuy không nhiều nhƣng ông đã có đóng góp lớn
cho nên văn học dân tộc với tập thơ văn giàu giá trị đó là Ngọc Đường thi văn
tập. Tác phẩm là chân dung con ngƣời cá nhân Nguyễn Xuân Ôn - một nhà
nho yêu nƣớc nhiệt thành và một trái tim thi sĩ giàu rung cảm yêu thƣơng.
Khi tìm hiểu về Nguyễn Xuân Ôn, giới nghiên cứu lịch sử tập trung
vào các phƣơng diện: một nhà nho yêu nƣớc, một sĩ phu chống Pháp… Bên
cạnh đó, giới nghiên cứu còn khẳng định “An Tĩnh Hiệp thống quân vụ đại
1
thần” là một nghệ sĩ tài hoa. Phƣơng diện này, ông đã kí thác trong Ngọc
Đường thi văn tập
Nhữ Bá Sĩ đã từng nói “Ôi! Văn chƣơng là cái hiện trạng một thời làm
nên nó” và thơ ca còn là sự rung cảm kì diệu của tâm hồn ngƣời nghệ sĩ. Bởi
vậy, thơ ca chính là nơi gửi gắm tâm sự, nỗi lòng, cảm xúc của thi nhân.
Những nỗi niềm sâu kín, những băn khoăn trăn trở đều là nguyên nhân bên
trong khiến ngƣời nghệ sĩ tìm đến với thơ văn. Chúng ta từng cảm nhận đƣợc
nỗi buồn trong thơ Ức Trai, Nguyễn Du, Tú Xƣơng, Nguyễn Khuyến hay nỗi
niềm chua xót thân phận trong thơ Hồ Xuân Hƣơng… Theo đó, văn chƣơng
là mảnh đất màu mỡ nuôi dƣỡng tâm hồn ngƣời nghệ sĩ và phản ánh chân
dung tâm hồn của chính họ. Vì vậy tìm hiểu thơ văn Nguyễn Xuân Ôn chúng
ta sẽ thấy rõ hơn, đúng đắn hơn con ngƣời cũng nhƣ tấm lòng yêu nƣớc của
ông.
Hơn nữa, tìm hiểu sáng tác của Nguyễn Xuân Ôn cũng giúp chúng ta
hiểu thêm về tâm trạng lớp nhà nho chống Pháp cuối thế kỉ XIX và sáng tác
của lớp sĩ phu cùng thời nhƣ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn
Quang Bích… Nghiên cứu đề tài “Tinh thần yêu nƣớc trong Ngọc Đường thi
văn tập của Nguyễn Xuân Ôn” góp phần tái hiện chân dung và tài năng nghệ
thuật của nhà thơ. Đó chính là lí do khiến chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề
tài này.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Xuân Ôn là một trong những tác giả tiêu biểu, một nhà thơ,
nhà văn, một trí thức Nho học có tên tuổi trong khuynh hƣớng văn học yêu
nƣớc chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX. Chúng tôi có thể điểm qua một số
cuốn sách và công trình nghiên cứu viết về ông nhƣ sau:
Đầu tiên phải kể đến công trình của Nhiều tác giả, “Giáo trình lịch sử
văn học Việt Nam”, (1965), đã có sự nghiên cứu kĩ lƣỡng về con ngƣời, nhân
2
cách Nguyễn Xuân Ôn để rồi đi tới khẳng định: “Nguyễn Xuân Ôn cũng
khăng khăng một “Lòng son giết giặc chết không phai” (Thuật hoài) và khi
tên khâm sứ tra gạn thì ném ngay vào mặt nó câu nói khí phách “Tôi muốn
giết chết hết cả lũ xâm lƣợc nhà ông” (tiểu sử Nguyễn Xuân Ôn)” [37;6].
Thứ hai, là Nguyễn Lộc trong “Giáo trình văn học Việt Nam (Nửa
cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX)”, (1976) ông nhận xét: “Nét quán xuyến
trong toàn bộ thơ văn Nguyễn Xuân Ôn là tinh thần yêu nƣớc thiết tha, là ý
chí bất khuất, không gì lay chuyển đƣợc. Từ những sáng tác đầu tiên của ông
trong thời gian trƣớc khi thi đậu và làm quan, những nhân tố của tƣ tƣởng tích
cực ấy đã biểu hiện rất rõ” [684;7].
Thứ ba, là Trần Quang Diệm, ngƣời đã bỏ ra rất nhiều công sức
nghiên cứu về cuộc đời cũng nhƣ con ngƣời của Nguyễn Xuân Ôn, trong Lời
bạt “Ngọc Đường thi văn tập” (1977) viết: “… Ngoài ra các bài bày trận lợi
hại trù tính sự nghi, thích yếu và cƣơng trực, có phong cách của các bài tâu
bàn của Lục Tuyên Công ngày xƣa. Đến nhƣ những ý niệm thƣơng đời ghét
tục, gõ mái chèo, thề dẹp giặc thi lƣu lệ trên giấy mực, không bài nào là
không có. Bởi vì khí phách cƣơng trực lớn lao, bẩm thụ tự ở trời sinh, vì thế
thốt ra lời nói, có thể làm khuôn phép cho đời sau, chẳng những xƣng hùng
trong thi đàn mà thôi… Ngàn năm sau ngƣời ta thƣởng thức văn chƣơng của
tiên sinh, còn nhƣ thấy tiên sinh…” [74;3].
Đây đƣợc coi là công trình nghiên cứu và tổng hợp lại đƣợc những
sáng tác của Nguyễn Xuân Ôn có giá trị vô cùng to lớn.
Thứ tƣ, ta không thể bỏ qua nhà nghiên cứu Đinh Xuân Lâm khi viết
“Lời giới thiệu thơ văn Nguyễn Xuân Ôn”, (1977) đã khái quát về giá trị to
lớn của các tập thơ văn, ông cho rằng: “Thơ văn Ngọc Đƣờng đến với chúng
ta ngày nay nhƣ một bài học lớn giàu tính thời sự về tinh thần yêu nƣớc chống
giặc ngoại xâm, chống thỏa hiệp đầu hàng, nhƣ một bài ca hùng tráng về
3
những tình cảm cao đẹp đã đƣợc hình thành và phát triển trong lịch sử dựng
nƣớc và giữ nƣớc oai hùng của dân tộc” [74;5].
Tiếp theo có thể kể đến tác giả Hà Minh Đức trong cuốn “Thơ ca hiện
đại Việt Nam”, (1998) ông khẳng định: “Nhà thơ yêu nƣớc Nguyễn Xuân Ôn
vừa là nhà thơ yêu nƣớc, vừa là ngƣời chiến sĩ với tấm lòng sắt đá kiên trung
một lòng giữ nƣớc diệt thù:
Vinh nhục thân này đâu dám kể
Lòng son giết giặc chết không phai
Có thể thấy đó là lời nhận xét vô cùng xác đáng về tài năng và nhân
cách Nguyễn Xuân Ôn. Khi đi sâu vào phân tích thơ văn Nguyễn Xuân Ôn ta
mới thấy hết điều đó.
Ngoài ra, các tác giả cuốn “Giáo trình tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”, (2003)
đã viết: “Từ 1858 đến cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang kháng chiến
chống Pháp rầm rộ…Nguyễn Xuân Ôn mang tƣ tƣởng yêu nƣớc nhiệt thành
và chí căm thù giặc sục sôi” [23;2].
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã phần nào nhìn
nhận ở góc độ này hay góc độ khác con ngƣời Nguyễn Xuân Ôn và Ngọc
Đường thi văn tập của ông. Tuy nhiên các tác giả chƣa có sự nhìn nhận một
cách tổng thể hệ thống về con ngƣời và thơ văn Nguyễn Xuân Ôn. Điều đó
cũng là dễ hiểu, bởi đó là những công trình luận bàn về lịch sử của cả một giai
đoạn hoặc bàn về một khuynh hƣớng văn học.
Kế thừa những khám phá tìm tòi của những ngƣời đi trƣớc, coi đó là
định hƣớng quan trọng, chúng tôi tiếp tục tìm hiểu về con ngƣời và giá trị thơ
văn Nguyễn Xuân Ôn”. Với tấm lòng yêu kính các bậc tiền nhân và yêu quý
thơ văn của họ, chúng tôi mạnh dạn đƣa ra những kiến giải của mình, hi vọng
góp đƣợc một tiếng nói nhằm hiểu sâu sắc hơn Nguyễn Xuân Ôn và sáng tác
thơ văn của ông.
4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này, khóa luận hƣớng tới ba nhiệm vụ sau:
- Thấy đƣợc tƣ tƣởng yêu nƣớc trong thơ văn Nguyễn Xuân Ôn nói riêng
cũng nhƣ có cái nhìn toàn diện về thơ văn Nguyễn Xuân Ôn nói chung qua
Ngọc Đường thi văn tập
- Góp phần hiểu thêm về tầng lớp sĩ phu chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX và
thơ văn của họ
- Làm phong phú thêm vốn tri thức về thơ văn yêu nƣớc chống Pháp cuối thế
kỉ XIX và văn học chống ngoại xâm củadân tộc, góp phần tích cực cho giảng
dạy văn học sau này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Khóa luận tập trung vào tập Ngọc Đường thi văn tập của Nguyễn Xuân Ôn.
Chúng tôi sử dụng và trích dẫn thơ văn Nguyễn Xuân Ôn chủ yếu lấy từ cuốn
“Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn” do Đinh Xuân Lâm giới thiệu, Nxb. Văn học, Hà
Nội, (1977).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tinh thần yêu nƣớc trong Ngọc Đường thi văn tập của Nguyễn Xuân Ôn
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tìm hiểu vấn đề này chúng tôi sử dụng kết hợp một số phƣơng pháp
chính sau:
- Phƣơng pháp thống kê, phân loại
- Phƣơng pháp phân tích, so sánh
- Phƣơng pháp tổng hợp
6. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận đƣợc triển khai theo 2 chƣơng
Chƣơng 1. Những vấn đề chung
5
Chƣơng 2. Ngọc Đường thi văn tập - khúc ca thấm đƣợm tinh thần yêu nƣớc
6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội và tƣ tƣởng thời đại
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
Dân tộc Việt Nam từ xƣa vốn đã có truyền thống lịch sử của bốn ngàn
năm dựng nƣớc và giữ nƣớc. Và khi nói về Việt Nam bạn bè quốc tế từng
đánh giá: “Việt Nam là một dân tộc làm thơ và đánh giặc. Tổ quốc Việt Nam
nhỏ bé nhƣng đã phải trải qua biết bao cuộc đấu tranh xâm lƣợc anh hùng mà
hào hùng. Chính những năm tháng lịch sử đầy biến động ấy ngƣời Việt Nam
càng trở nên đẹp hơn bao giờ hết”.
Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng
chấm dứt thời kì nghìn năm Bắc thuộc. Tiếp sau đó, cha ông ta đã đánh thắng
giặc phƣơng Bắc với những chiến công hiển hách. Đến giữa thế kỉ XIX chủ
nghĩa tƣ bản phƣơng Tây phát triển lên chủ nghĩa thực dân, mở rộng phạm vi
thuộc địa sang các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á. Việt Nam cũng không
nằm ngoài sự kiện đó. Ngày 31/8/1858, thực dân Pháp chính thức nổ súng vào
cửa biển Đà Nẵng mở màn cho cuộc chiến tranh phi nghĩa và báo hiệu hàng
loạt những thay đổi lớn trong đời sống dân tộc. Cuộc kháng chiến chống Pháp
trở thành một sự kiện nổi bật trong lịch sử dân tộc.
Kế thừa những truyền thống yêu nƣớc bất khuất từ ngàn năm, con
ngƣời Việt Nam đứng lên đấu tranh với tƣ cách một ngƣời dân mất nƣớc
quyết chiến với kẻ thù để giữ gìn độc lập dân tộc. Trong khí thế đấu tranh sôi
nổi của nhân dân thì triều đình Huế phản động và mục nát đến tận xƣơng tủy.
Chúng hoàn toàn không dựa vào sức của nhân dân để chống giặc nên chỉ
kháng cự một cách yếu ớt rồi quay lại làm tay sai cho giặc. Vua tôi nhà
Nguyễn thỏa hiệp bán nƣớc cầu vinh. Chúng đẩy nhân dân vào cuộc sống
khốn khó, lầm than để đổi lấy hƣ danh.
7
Một lần nữa, nhân dân ta lại phải cầm gƣơm giáo đứng lên chống lũ
xâm lăng. Cuộc kháng chiến chống Pháp trong thời đại mới không những đấu
tranh chống thực dân cƣớp nƣớc mà còn chống cả triều đình phong kiến mục
ruỗng không còn đủ sức lãnh đạo và cầm quyền. Lúc này ngƣời dân chính
thức lại bƣớc lên vũ đài chính trị. Mặc dù vẫn “chƣa phải nhân dân nắm
quyền lãnh đạo tất cả các cuộc kháng Pháp nhƣng tiêu biểu cho tinh thần đấu
tranh chống giặc ngoại xâm hàng nghìn năm của dân tộc, tiêu biểu cho tinh
thần đấu tranh bền bỉ gan dạ, tinh thần anh dũng bất khuất, tinh thần chịu
thƣơng chịu khó của dân tộc thì đúng là nhân dân lao động Việt Nam”. Nếu
thời xa xƣa, tầng lớp ngƣời nông dân có Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, sau đó
có anh hùng áo vải Lê Lợi, Nguyễn Huệ sẵn sàng đứng lên đánh đuổi giặc
ngoại xâm thì đến hôm nay, trƣớc nguy cơ mất nƣớc họ đã đứng lên kháng
chiến kháng Pháp cùng những sĩ phu yêu nƣớc - bộ phận ƣu tú nhất của giai
cấp phong kiến trong quá trình phân hóa.
Ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp đánh vào Đà Nẵng, trong khi
triều đình còn đang lúng túng chƣa biết xử trí ra sao thì lòng dân đã sôi sục nhƣ
dầu trong chảo nóng, nhất là nhân dân Nam bộ. Bằng chứng là hàng loạt các
cuộc nổi dậy nổi lên nhƣ nấm mọc sau mƣa. Thực dân Pháp đánh ra ngoài Bắc
và miền Trung thì phong trào chống giặc ở Trung và Bắc cũng không kém gì
Nam bộ. Cả nƣớc hừng hực khí thế kháng Pháp. Từ Bắc chí Nam, các sĩ phu
yêu nƣớc lãnh đạo nhân dân đứng lên nổi dậy khởi nghĩa. Ngoài Bắc có đốc
học Phạm Văn Nghị chiêu mộ quân sĩ trợ chiến cho Quảng Nam, Sơn Tây có
phong trào của Lãnh Cồ, Lê Quán Chí, Bắc Ninh có phong trào của Dƣơng
Khải…Trong Nam ở Gia Định, Gò Công, Tân An có cuộc nổi dậy của Trƣơng
Định, Đồng Tháp Mƣời có Thiên Lộ Dƣơng, Bến Tre, Sa Đéc, Trà Vinh…
Phong trào chống thực dân Pháp sôi nổi rầm rộ khắp nƣớc khi kinh
thành Huế thất thủ. Vua Hàm Nghi ra sơn phòng xuống chiếu Cần Vƣơng.
8
Phong trào Cần Vƣơng nổ ra mạnh mẽ với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhƣ:
khởi nghĩa của Mai Xuân Thƣởng, Bùi Điền ở Bình Định; Trần Văn Dự,
Nguyễn Huy Hiệu ở Quảng Nam; Phan Đình Phùng, Lê Ninh ở Hà Tĩnh;
Phạm Bành, Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa và ở Nghệ An có Lên Doãn Nhạ,
Nguyễn Xuân Ôn… Nhân dân ta chiến đấu anh dũng, quật cƣờng nhƣng thế
nƣớc không cứu vãn nổi khi thực dân Pháp thực hiện chiến dịch tằm ăn dâu.
Dù cuộc chiến tranh của nhân dân ta là chính nghĩa nhƣng do nhiều nguyên
nhân cuối cùng đều dẫn đến thất bại. Đặc biệt triều đình nhà Nguyễn lại liên
tục nhún nhƣờng khi kí với Pháp hàng loạt các hiệp ƣớc, thƣơng ƣớc xác lập
sự có mặt hợp pháp của chúng trên đất nƣớc ta. Tiêu biểu phải kể đến hai hiệp
ƣớc năm 1883 và 1884 chính thức công nhận nền đô hộ của Pháp trên toàn cõi
Việt Nam. Sau đó, thực dân Pháp tiến hành củng cố bộ máy chính quyền, tiến
hành chƣơng trình khai thác thuộc địa. Hệ quả tất yếu là một xã hội thực dân
nửa phong kiến hình thành thay thế cho hình thái xã hội phong kiến.
1.1.2. Tư tưởng thời đại
Giai đoạn cuối thế kỉ XIX là giai đoạn lịch sử đất nƣớc Việt Nam có
những biến đổi hết sức to lớn. Thực dân Pháp xâm lƣợc, biến nƣớc ta thành
một nƣớc xã hội thực dân nửa phong kiến nửa thuộc địa. Chế độ phong kiến
Việt Nam cùng với hệ tƣ tƣởng Nho giáo ngày càng tỏ ra bất lực trƣớc yêu
cầu của công cuộc chống giặc ngoại xâm vì nền độc lập dân tộc
Lúc này, ở Việt Nam diễn ra sự va chạm giữa hai nền văn minh Á - Âu,
giữa văn hóa Nho giáo và văn hóa Kitô giáo, giữa tƣ tƣởng Nho giáo với các
triết thuyết và khoa học phƣơng Tây. Trƣớc sự va chạm đó, đời sống tƣ tƣởng
của Việt Nam nhiều đặc trƣng riêng so với tƣ tƣởng của các giai đoạn trƣớc đó,
đồng thời nó tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam.
Triều đại nhà Nguyễn lên ngôi đã đƣa Nho giáo lên vị trí là hệ tƣ tƣởng
thống trị độc tôn trong đời sống tinh thần dân tộc. Triều Nguyễn đã xác lập
9
nền tảng tƣ tƣởng quan trọng nhất cho triều đại mình. Cùng với sự triển khai,
củng cố hệ tƣ tƣởng Nho giáo và mọi thiết chế chính trị, xã hội, các giá trị
Nho học đƣợc củng cố trở lại thành rƣờng cột đạo đức xã hội và đời sống xã
hội đƣợc sắp đặt theo trật tự Nho giáo ngày càng vững chắc.
Nho giáo đƣợc củng cố mạnh mẽ trong xã hội, Phật giáo, Đạo giáo
ngày càng suy giảm và đi vào đời sống dân chúng trên phƣơng diện tôn giáo.
Điều đó khiến cho đời sống tƣ tƣởng chính thống có phần nghèo nàn hơn so
với thế kỉ trƣớc. Và đến cuối thế kỉ XIX, cuộc xâm chiếm bành trƣớng của
thực dân Pháp vào Việt Nam đã khiến cho bức tƣờng thành ý thức hệ Nho
giáo bị lung lay tận gốc rễ. Nho giáo tỏ ra bất lực trong vai trò là đƣờng lối
dẫn dắt dân tộc bảo vệ đất nƣớc trƣớc một kẻ thù hoàn toàn mới về ý thức hệ
và nền văn hóa
Do tác động của bối cảnh lịch sử, những vấn đề đƣợc đặt ra là vấn đề
về chính trị tôn giáo với xã hội mới, giữa đƣờng lối bảo thủ với canh tân…
Đặc biệt, cuối thế kỉ XIX, hệ tƣ tƣởng Nho học suy vi cực độ. Biểu
hiện qua những chủ trƣơng chính sách phản động của triều đình nhà Nguyễn
mục nát không thể cứu vãn nổi. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ hệ tƣ
tƣởng Nho giáo chính thống có sự rạn nứt nghiêm trọng. Một bên là tƣ tƣởng
đầu hàng, một bên là tƣ tƣởng chiến đấu giữ nƣớc. Phong kiến Việt Nam đã
yếu đuối lại không dám dựa vào sức dân nên đã thất bại thảm hại. Khuynh
hƣớng tích cực cũng lại chƣa thoát khỏi hệ tƣ tƣởng phong kiến nên cuối cùng
cũng thất bại.
Nhƣ vậy, rõ ràng biến cố lịch sử trong nửa cuối thế kỉ XIX đã làm phân
hóa hệ tƣ tƣởng phong kiến Việt Nam. Điều này đã tác động không nhỏ đến
quan điểm sáng tác cũng nhƣ nội dung phản ánh trong các tác phẩm văn học
nghệ thuật. Và Nguyễn Xuân Ôn tất nhiên cũng không tránh khỏi những ảnh
hƣởng của tƣ tƣởng thời đại ấy.
10
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chƣơng
1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Xuân Ôn sinh ngày 23 tháng 3 năm Ất Dậu (10 tháng 5 năm
1825) tại làng Quần Phƣơng, xã Lƣơng Điền, tổng Thái Xá, huyện Đông
Thành, (nay thuộc xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An)
Từ nhỏ, vốn thông minh, ham học, ngay từ hồi còn thanh niên ông đã
nổi tiếng hay chữ, học rộng nhớ nhiều, nhƣng vì ông sinh ra trong một gia
đình nhà Nho nghèo, cha là học trò không đỗ đạt gì, mẹ mất sớm, phải đến ở
với bà nội, mãi đến khi tuổi đã lớn mới có điều kiện đi học. Năm Giáp Thìn
(1844), ông đỗ tú tài lúc 18 tuổi, nhƣng rồi lận đận mãi đến năm 42 tuổi, ông
mới đỗ Cử nhân khoa Đinh Mão (1867), và bốn năm sau ông mới đỗ Tiến sĩ
khoa Tân Mùi (1871) cùng khoa với Nguyễn Khuyến và Phó bảng Lê Doãn
Nhã, ngƣời bạn đồng hƣơng sau này cộng tác đắc lực với ông trong cuộc khởi
nghĩa. Cuộc đời Nguyễn Xuân Ôn có thể chia làm 3 giai đoạn :
Thứ nhất, đó là giai đoạn ra làm quan cho nhà Nguyễn. Bƣớc chân vào
quan lộ lúc tuổi đã luống, những tƣởng đƣờng mây từ nay rộng mở, ông hăm
hở có dịp đƣợc đem những điều sở đắc của mình ra giúp nƣớc cứu dân trong
cơn nƣớc nhà đang nguy ngập trƣớc sức tấn công ngày càng hung bạo của chủ
nghĩa đế quốc Pháp. Nhƣng ngay từ đầu ông đã thất vọng. Với bản tính cƣơng
trực không chịu cúi mình chiều chuộng bọn quan trên, ông bị chúng bắt kéo
dài thời gian tập sự ba năm tại kinh đô Huế (nay là thành phố Huế) rồi mới
đƣợc bổ đi làm tri phủ Quảng Ninh - tỉnh Quảng Bình (nay là huyện Quảng
Ninh, tỉnh Bình - Trị - Thiên), ở đấy, biết có lệ bắt dân phải nạp gạo củi hàng
tháng, ông liền gửi sớ về kinh hạch tội khiến các viên quan cai trị địa phƣơng
phải vội vàng bỏ lệ đó và xin ông thôi gửi sớ về triều. Sau đó, một lần vì bắt
tội một giáo sĩ ngƣời Pháp (ông này dùng lọng vàng, màu chỉ dành riêng cho
vua, trong lúc đi giảng đạo, ông bị vua Tự Đức khi ấy đang có chủ trƣơng hòa
11
nghị với thực dân Pháp nên đã đổi ông vào làm đốc học tỉnh Bình Định (nay
thuộc tỉnh Nghĩa Bình). Ở Bình Định một thời gian, ông vào Huế giữ chức
ngự sử. Chứng kiến cảnh bọn quan lại bất tài ở kinh, chỉ lo chuyện tham
nhũng, lo tranh giành quyền vị vào lúc vận mệnh Tổ quốc đang nhƣ “trứng để
đầu đẳng”, thực dân Pháp sau khi đã nuốt trôi sáu tỉnh Nam Kì đang ráo riết
xúc tiến âm mƣu đánh chiếm miền Bắc nƣớc ta, ông lại lên tiếng kịch liệt phê
phán, chỉ trích khiến bọn chúng đem lòng thù ghét, cuối cùng chúng đã tìm
cách đẩy ông vào làm án sát ở tỉnh Bình Thuận (nay thuộc tỉnh Thuận Hải) cực
nam Trung kì hồi đó là nơi tiếp giáp với đất Nam kì, khi ấy đã bị thực dân Pháp
chiếm đóng nên có nhiều khó khăn trong việc giao thiệp với bọn thực dân Pháp
đang ngày đêm cố tình khiêu khích kiếm chuyện. Vào đến đây, sau khi điều tra
nắm rõ tình hình, Nguyễn Xuân Ôn đã nhiều lần báo cáo về triều đình âm mƣu
của Pháp và liên tục vạch mặt lên án chúng. Nhƣng đƣờng lối của triều đình lúc
bấy giờ với Pháp chủ yếu là thƣơng thuyết cầu hòa nên để tránh chuyện lôi thôi
xảy ra, triều đình vội điều ông ra Quảng Bình. Năm Kỷ Mão (1879), Nguyễn
Xuân Ôn lại gửi tấu sớ về kinh trình bày mọi điều lợi hại bấy giờ (nhấn mạnh
việc nên chọn những ngƣời có dũng lƣợc để làm rƣờng cột). Năm Nhâm Ngọ,
Tự Đức thứ 35 (1882), ông lại gửi tấu sớ xin đƣợc đi kinh kí miền thƣợng du,
để chọn nơi lập đồn điền và sơn phòng. Năm 1882, nghe tin thành Hà Nội thất
thủ lần thứ 2, khi này Nguyễn Xuân Ôn đã đổi về làm Án sát Quảng Bình, liền
bài tâu xin đƣợc về quê để tập hợp tráng đinh chống Pháp và động viên tinh
thần của nhân dân… Nhìn chung, đa phần các tấu sớ của ông đều phản đối chủ
trƣơng hòa nghị và trình bày những phƣơng cách nhƣ: lựa chọn ngƣời hiền tài
giao phó việc chấn chỉnh võ bị, lập đồn điền và sơn phòng, khuyến khích việc
cày cấy, bớt tiêu dùng sa sỉ… Buồn vì các tấu sớ của mình bị triều đình làm
ngơ, bản thân lại bị cách chức (1883) nên khi về đến quê nhà, Nguyễn Xuân
Ôn liền tự mình tổ chức việc kháng Pháp.
12
Thứ hai, giai đoạn về quê kháng Pháp. Tháng Năm năm Ất Dậu (Đêm
4, sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885), kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi
xuất bôn rồi hạ dụ Cần Vƣơng, ông đƣợc phụ chính Tôn Thất Thuyết (thay
mặt vua) cử làm An Tĩnh hiệp thống quân vụ đại thần có nhiệm vụ thống lĩnh
nghĩa quân hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh giúp vua cứu nƣớc. Ông cùng Nguyễn
Nguyên Thành, Lê Doãn Nhạ, Đinh Nhật Tân lập chiến khu ở xã Đông Thành
thuộc huyện Yên Thành (Nghệ An). Ở vùng núi đó, Nguyễn Xuân Ôn chọn
một thung lũng làm nơi xây dựng Đại đồn Đồng Thông. Đại đồn rộng khoảng
30 ha chung quanh có núi non bao bọc. Từ đây có thể đi ngƣợc lên phía Tây
vào sâu đến núi Trọc cao gần 500m, hoặc có thể vƣợt qua dốc Lội đi về phía
Tây Bắc vào vùng Động Đình, Nhà Đũa, nơi mà chủ soái Lê Lợi và tƣớng
Đinh Lễ ém quân vào cuối năm 1424 để tám tháng sau kéo về xuôi đánh
thắng Thành Trài và bị quân Minh chiếm đóng vào tháng 6 năm 1425, giải
phóng Nghệ An. Buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân lên đến khoảng hai ngàn
ngƣời, hầu hết là nông dân trai tráng, có nhiều ngƣời chỉ huy quân giỏi nhƣ
Đề Kiều, Đề Mậu, Đề Nhục, Lãnh Tƣ, Đốc Nhạn… Ở đây, nghĩa quân ngày
đêm luyện tập võ nghệ, rèn vũ khí và sản xuất lƣơng thực. Kể từ đó, căn cứ
Đông Thông đã góp phần không nhỏ trong công cuộc chống Pháp lúc bấy giờ.
Trong chiến đấu, Nguyễn Xuân Ôn mặc dù tuổi cao sức yếu song ông vẫn nêu
cao gƣơng dũng cảm, luôn luôn xung phong đi trƣớc làm cho khí thế nghĩa
quân vô cùng phấn chấn. Ông đã nhiều lần bị thƣơng nặng nhƣng vẫn giữ
vững quyết tâm chiến đấu đến cùng. Kết hợp vào đó, ông lại nhiều lần cƣơng
quyết cự tuyệt sự dụ dỗ mua chuộc của Pháp và tay sai. Những việc đó khiến
ngƣời đƣơng thời rất cảm mến ông, uy tín của ông trong văn thân sĩ phu cũng
nhƣ trong nhân dân ngày càng lớn. Cũng chính bởi lí do ấy mà thực dân Pháp
đã đày ông đi thật xa, hoàn toàn cách li với những bạn chiến đấu cũ, hoàn
toàn cách biệt ra khỏi môi trƣờng hoạt động cách mạng. Nhƣng không lâu sau
ngày 20 tháng 5 năm Mậu Tí (1888) ông bị bắt giải về kinh thành Huế.
13
Giai đoạn thứ ba, là thời gian ông bị bắt giam và mất. Sau khi Nguyễn
Xuân Ôn bị bắt giam, giặc Pháp và tay sai đẩy mạnh khủng bố, quê hƣơng
ông bị đốt phá tan tành, gia đình ông tan nát, mỗi ngƣời chốn chánh một nơi.
Ngày 2 tháng 4 năm Đinh Hợi (25 tháng 7 năm 1887), nhờ chỉ điểm, quân
Pháp bất ngờ tập kích Đồng Nhân (nay là thôn Đông Đức, xã Mã Thành,
huyện Yên Thành) nơi ông đang nằm dƣỡng thƣơng sau trận Xóm Hổ. Bị đột
kích bất ngờ, không kịp tự sát, ông bị đối phƣơng bắt đƣợc rồi lần lƣợt trải
qua các nhà lao ở Diễn Châu (Nghệ An), Vinh, Hải Dƣơng, Huế. Dù đã bắt
đƣợc ông, các chỉ huy Pháp vẫn xua quân đi bắt bớ các nghĩa quân nhằm dập
tắt cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo. Trong thời gian bị cầm cố khổ sở, năm
Mậu Tí (1888) thời vua Đồng Khánh, ông có gửi Lời Trình về Bộ kêu oan về
việc ông tuân theo dụ Cần Vƣơng của vua Hàm Nghi, mà bị kết án là đã tham
gia “đảng ngụy”, đồng thời gửi thƣ cho các bạn đồng liêu của ông ở kinh nhờ
có lời bênh vực cho mình. Tuy vậy, đến khi vua Thành Thái lên thay (1889),
Nguyễn Xuân Ôn mới đƣợc ân xá nhƣng không cho về quê vì sợ ông lại tổ
chức kháng Pháp. Bị quản thúc ở Huế, chẳng bao lâu sau năm 1889 ông lâm
bệnh nặng rồi mất, thọ 64 tuổi.
1.2.2. Sự nghiệp văn chương
Sáng tác trong suốt thời gian dài từ khi còn là một anh học trò nghèo,
trải qua một thời gian làm quan đầy biến cố, tiếp theo là một thời kì oanh liệt
giƣơng cao cờ chống Pháp và cuối cùng là tới những ngày thất bại bị giam giữ
trong nhà tù của đế quốc phong kiến và tay sai. Sự nghiệp thơ văn của ông để
lại cho chúng ta ngày bao gồm các sáng tác bằng chữ Hán:
- Ngọc Đƣờng thi tập, gồm 311 bài thơ.
- Ngọc Đƣờng văn tập, gồm 22 bài văn xuôi cùng một số câu đối.
Ngoài ra còn có một số ít bài thơ Nôm không có trong hai tập trên,
nhƣng từ trƣớc đến nay vẫn đƣợc nhân dân yêu thích truyền tụng
14
Thơ Nguyễn Xuân Ôn, lúc ông còn đèn sách thƣờng thể hiện ý chí,
hoài bão của một ngƣời đầy tráng khí muốn đƣợc giúp nƣớc, cứu đời. Tiêu
biểu là bài Bột hứng (Cảm hứng bột phát), Trung dạ khởi tư (Nửa đêm nảy ra
ý nghĩ),Tiểu hữu nhân (Trách bạn), Độc Trang Chu dưỡng sinh thiên cảm
hoài (Cảm hoài khi đọc Thiên Dưỡng sinh của Trang Tử)…
Đến khi ra làm quan, dù là chức quan nhỏ, ông vẫn “nguyện giá
trƣờng phong phá hải đào” (nguyện cƣỡi gió lớn phá tam sóng biển). Tiêu
biểu là bài: Đắc chỉ bổ Quảng Ninh tri phủ, hậu bản độ đường quan hồi tác
(Làm lúc đượcchỉ vua bố cức Tri Phủ Quảng Ninh), Thuật hoài (Thuật ý
nghĩ của mình)…
Gặp buổi thực dân Pháp xâm lƣợc, ông dùng ngòi bút của mình để
châm biếm, đả kích những tiêu cựu, nói lên nỗi phẫn uất của mình vì đất nƣớc
cứ mất dần vào tay ngoại bang, ca ngợi khí phách dũng cảm và hi sinh của
quân dân, khẳng định chỗ yếu mạnh của cả hai bên, tỏ rõ một tinh thần quyết
đánh và tin tƣởng vào chiến thắng. Tiêu biểu là bài: Nhân duyệt quán đoàn
dũng ở xã Mỹ Lộc, giản Bang biện cử nhân Võ Bá Liêm, Trường An hoài cổ
(Nhớ cảnh cũ Trường An), Cảm thuật (Cảm khái thuật ra)…
Nhìn chung, thơ văn ông thƣờng theo sát những vấn đề thời sự, chính
trị, biểu hiện rõ tình cảm, ý chí của ông. Đó là tiếng nói chân thành, là tấm
lòng thiết tha của một con ngƣời yêu nƣớc, suốt đời gắn bó với vận mệnh Tổ
quốc và độc lập của dân tộc. Về mặt nghệ thuật, thơ văn ông đều mộc mạc,
chân chất không chạm trổ hay đẽo gọt mĩ miều.
1.3. Vị trí của Nguyễn Xuân Ôn trong dòng văn học yêu nƣớc nửa cuối
thế kỉ XIX
Nhân dân ta nói chung và nhân dân Nam Bộ nói riêng luôn có truyền
thống yêu nƣớc, đƣợc tôi luyện qua nhiều cuộc chiến đấu chống giặc ngoại
xâm suốt hàng nghìn năm lịch sử nên rất nhạy bén về cảm quan yêu nƣớc,
15
không sợ hi sinh, không tiếc xƣơng máu, sẵn sàng đứng lên đánh giặc cứu
nƣớc. Cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX là những
trang sử rực rỡ về lòng yêu nƣớc của nhân dân ta mà nhất là của ngƣời dân
Nam Bộ. Trong phong trào ấy chúng ta phải kể đến vai trò vô cùng quan
trọng của các sĩ phu yêu nƣớc, tiêu biểu ở đây là Nguyễn Xuân Ôn.
Thực dân Pháp xâm lăng đã làm cho hàng ngũ phong kiến bị phá vỡ tan
rã thành nhiều mảnh. Ngoài triều đình Huế mê muội, bọn địa chủ phong kiến
hám lợi cầu vinh thì vẫn còn một số đông các trí thức phong kiến ý thức đƣợc
trách nhiệm của mình với dân với nƣớc. Tuy nhiên, mặc dù cùng đứng trong
hàng ngũ sĩ phu yêu nƣớc nhƣng thái độ và hành động với thời cuộc của mỗi
ngƣời mỗi khác. Mâu thuẫn dân tộc cấp bách đang cần đƣợc giải quyết thì
một bộ phận trí thức vẫn tự mê hoặc mình bằng lí trí trung thời và trung hiếu
với chế độ quân thần đã mục nát, an nhiên lãnh cảm trƣớc sự lâm nguy của
đất nƣớc. Tuy ý thức hệ phong kiến đã lỗi thời nhƣng nó vẫn còn cố hữu và
có sức ảnh hƣởng vô cùng mạnh mẽ trong tƣ tƣởng của họ. Triều đình nhà
Nguyễn cũng không còn đủ bản lĩnh và tƣ cách để lãnh đạo nhân dân. Bởi
vậy, một số sĩ phu khác thiếu nghị lực, ý chí đã chọn lối sống ẩn dật, trốn
tránh sự đời, không màng thế sự hoặc mơ mộng hão huyền về một xã hội
phong kiến Nghiêu Thuấn đã từng tồn tại nay lùi sâu vào quá khứ. Có ngƣời
cũng bày tỏ thái độ bất mãn trƣớc hiện thực đất nƣớc nhƣng lại chỉ khoanh tay
đứng nhìn mà không hành động.
Trái lại, khác với biểu hiện của các sĩ phu trên, Nguyễn Xuân Ôn - một
trí thức phong kiến yêu nƣớc thấy rõ quyền lợi của phong kiến cũng chỉ là
quyền lợi làm cho tay sai đế quốc. Và luôn ý thức đƣợc trách nhiệm của mình,
ông tiếp thu và kế thừa truyền thống yêu nƣớc của dân tộc, sống gần gũi, tin
tƣởng vào nhân dân, hăng hái cùng nhân dân chống giặc cứu nƣớc. Cả cuộc
đời mình ông đã chiến đấu hết mình bằng cả nhiệt thành yêu nƣớc và tấm
lòng trung trinh trong sáng
16
Cũng chung bầu không khí u ám dƣới ách thống trị hà khắc của thực
dân Pháp, giống nhƣ phần đông các nhà Nho lúc bấy giờ, Nguyễn Xuân Ôn
cũng dùng ngòi bút của mình để “chở đạo, tải đạo” quyết liệt đấu tranh trên
mặt trận văn hóa, tƣ tƣởng. Tấc lòng riêng tƣ của Nguyễn Đình Chiểu:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
(Than đạo)
cũng trở thành tƣ tƣởng chung của hầu hết các nhà Nho đƣơng thời. Tƣ tƣởng
ấy đã tạo thành một dòng chảy xuyên suốt trong văn chƣơng nửa cuối thế kỉ
XIX với các sáng tác của hàng loạt các tác giả tiêu biểu nhƣ Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Quang Bích và Nguyễn Xuân Ôn cũng là
một tên tuổi lớn với các tập thơ không nằm ngoài dòng chảy ấy. Là một sĩ phu
tiêu biểu đất Trung kì, Nguyễn Xuân Ôn xứng đáng là tấm gƣơng sáng về một
con ngƣời dám hi sinh vì Tổ quốc, chiến đấu ngoan cƣờng, anh hùng bất
khuất, sẵn sàng xả thân vì nghĩa.
Có thể nói, trong phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Nam
bộ cuối thế kỉ XIX lúc bấy giờ, Nguyễn Xuân Ôn có vai trò hết sức to lớn.
Trƣớc hết, bản thân ông chính là một lãnh tụ trực tiếp của phong trào yêu
nƣớc cuối thế kỉ XIX xuất thân từ tầng lớp phong kiến. Song ông đã kịp thời
bắt rễ đƣợc với phong trào yêu nƣớc của các sĩ phu trên khắp đất nƣớc không
chịu khom lƣng quỳ gối đầu hàng mà dũng cảm đứng lên chống lại tƣ tƣởng
thỏa hiệp đầu hàng của triều đình và lãnh đạo nhân dân kháng chiến bảo vệ
độc lập dân tộc. Ông đã lấy phƣơng châm “Xã tắc lâm nguy, thất phu hữu
trách” làm phƣơng châm hành động của mình. Ông chính là linh hồn của cao
trào chống Pháp Nam bộ cuối thế kỉ XIX.
17
Tóm lại, lịch sử dân tộc đã ghi nhận vai trò to lớn của ông. Mặc dù
phong trào do ông lãnh đạo cuối cùng vẫn đi đến thất bại nhƣng tấm gƣơng
tiết liệt, nhất là thơ văn đầy tinh thần chiến đấu của ông sẽ còn sống mãi
trong đời sống tinh thần dân tộc Việt Nam nói chung và ngƣời dân Nam bộ
nói riêng.
18
CHƢƠNG 2. NGỌC ĐƯỜNG THI VĂN TẬP - KHÚC CA THẤM
ĐƢỢM TINH THẦN YÊU NƢỚC
2.1. Biểu hiện của tinh thần yêu nƣớc trong Ngọc Đường thi văn tập
Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn là tiếng nói chân thành, là tấm lòng thiết tha
của một con ngƣời suốt đời gắn bó với vận mệnh của Tổ quốc, với độc lập
của dân tộc từ tuổi tráng niên đầy mơ ƣớc cao đẹp đến lúc tuổi già sức yếu
vẫn không ngừng phấn đấu, cả đến lúc sa cơ lọt vào nanh vuốt của bè lũ cƣớp
nƣớc và bán nƣớc vẫn không thôi tin tƣởng vào một ngày nào đó kẻ thù bị
tiêu diệt, đất nƣớc lại sáng tƣơi,vẫn mong đợi vào “tấm lòng cứu nƣớc” của
đồng bào đồng chí. Chính vì vậy mà từ toàn bộ thơ văn của ông toát lên một
tinh thần yêu nƣớc mãnh liệt. Tinh thần yêu nƣớc mãnh liệt đó đã đƣợc biểu
hiện sâu sắc và phong phú qua nhiều mặt, cụ thể:
2.1.1. Ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với đất nước
Trƣớc tiên đó là niềm hoài bão lớn lao của một ngƣời luôn luôn có ý
thức sâu sắc về tài đức của mình và thiết tha mong muốn đƣợc đem tài đức đó
ra phục vụ nhân dân, đất nƣớc. Ngay từ khi còn là một thƣ sinh dùi mài kinh
sử chờ ngày phong vân gặp hội, những nhân tố lịch sử đó đã thể hiện rõ qua
các sáng tác đầu tiên của ông. Khác với nhiều bạn cùng tuổi và cùng thời chỉ
lo cặm cui học tập một mai thi đỗ ra làm quan để đƣợc vinh thân phì gia,
ngƣời thanh niên họ Nguyễn đã từng bao phen băn khoăn, suy nghĩ, trăn trở
về vai trò của mình trong xã hội, nghĩa vụ với dân với nƣớc:
Thiên địa sinh ngô hữu ý vô,
Sinh ngô chung tất hậu ư ngô
(Bột hứng)
(Sinh ta trời có ý chi không,
Hậu đãi vì ta chắc sẵn lòng)
Ông cho rằng việc mình đƣợc sinh ra và có mặt trong vũ trụ này là
duyên số là ý trời sắp đặt, do vậy phải sống làm sao cho xứng đáng với trời
19
đất, không phụ ý trời, sẵn sàng xả thân vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc,
hạnh phúc nhân dân. Trƣớc Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Công Trứ từng ngạo
nghễ “Vũ trụ phận sự phi nội mạc” (Mọi việc trong trời đất này chẳng có việc
gì không phải phận sự của ta). Và nếu nhƣ Nguyễn Công Trứ ý thức về vai trò
cá nhân mình là sự hiện diện của một con ngƣời có tài một cách kiêu ngạo,
danh vọng thì Nguyễn Xuân Ôn lại khiêm nhƣờng rất mực. Ông ý thức đƣợc
tài đức của mình với một niềm tin vào bản thân sẽ có đủ bản lĩnh trƣớc thời
cuộc để đảm nhận những nhiệm vụ mà thời thế định sẵn cho mình một cách
xứng đáng:
Quân tử thân danh đơn bút duyên
Nam nhi phận sự nhất tang hồ.
Ngã niên tuy thiếu tâm nhưng tráng,
Phú quý nan dân đại trượng phu
(Bột hứng)
(Thân danh quân tử riêng cậy bút
Phận sự nam nhi một cánh cung
Tuổi dẫu còn non hăng hái sẵn,
Giàu sang khôn đắm dạ hào hùng)
(Cảm hứng bột phát)
Vƣợt qua tất cả để hƣớng tới sự hoàn thiện, thơ văn Nguyễn Xuân Ôn
không ngạo nghễ ngang tàng mà có cái khảng khái của con ngƣời có chí khí
và tâm tình, của con ngƣời mơ ƣớc đƣợc giãi bày. Mọi suy nghĩ, nỗi lòng của
ông đều vì nhân, vì nghĩa nên dƣờng nhƣ hai chữ “kiên trung” luôn bám sát
và ăn sâu vào trong tiềm thức của ông. Có thể nói đó là điều suy nghĩ lớn,
thƣờng trực trong tâm trí của Nguyễn Xuân Ôn suốt trong thời kì còn ở nhà.
Nó luôn luôn canh cánh, theo đuổi ông nhƣ hình với bóng, trực chờ trong cả
nhứng đêm ngủ không yên giấc. Thật hiếm thấy có ngƣời thanh niên trẻ nào
20
lại có đƣợc tấm lòng yêu nƣớc và ý thức trách nhiệm vì dân vì nƣớc luôn rạo
rực nhƣ Nguyễn Xuân Ôn:
Thử tâm na đắc như tùng bách
Tự phụ phong trần nại đắc kiên
(Trung dạ khởi tư)
(Lòng ta mong sánh bách tùng,
Phong trần vẹn chữ kiên trung chẳng sờn)
(Nửa đêm nảy ra ý nghĩ)
Xƣa nay, các nhà thơ trung đại, các bậc hiền nhân quân tử luôn lấy hình
ảnh cây bách, cây tùng để biểu tƣợng cho cốt cách ngay thẳng, khí phách hiên
ngang bất khuất của mình. Ta từng bắt gặp hình ảnh cây tùng mang bóng
dáng kẻ sĩ trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…Và ở đây, Nguyễn
Xuân Ôn cũng sánh lòng mình nhƣ cây bách, cây tùng để khẳng định phẩm
chất kiên trung và bản lĩnh quật cƣờng, ngang tàng của ngƣời quân tử, đồng
thời qua đó kín đáo gửi gắm những nỗi niềm tâm sự của riêng mình: muốn
trọn nghĩa kiên trung,một lòng dốc sức mang hết tài đức, tâm sức ra phục vụ
cho dân cho nƣớc. Trong bài Tửu hứng ông viết:
Nhân tu tự tín bình sinh sự,
Hủy dự hoàn tha bất động tâm
(Mọi việc bình sinh ta tự tín,
Khen chê mặc quách dạ như không)
(Tửu hứng)
Ý thức trách nhiệm và tấm lòng đau đáu vì dân vì nƣớc ấy cũng hòa
vào chén rƣợu với ông bạn thân cùng uống. Nguyễn Xuân Ôn khẳng định
ngƣời ta phải tự tin về việc làm bình sinh cứu nƣớc cứu đời của mình, còn
việc khen chê bình phẩm của ngƣời đời không cần quan tâm, cũng chẳng nên
động lòng. Việc trách bạn đối với ông cũng là dịp để bày tỏ ý thức trách
nhiệm của mình đồng thời cũng để khẳng định chí khí của bản thân mình:
21
Nam tử hào hùng ưng đáo để,
Ná tương tâm sự loạn phù vân
(Tiễu hữu nhân)
(Sao cho vẹn tiếng hào hùng,
Phù vân đâu để loạn lòng nam nhi)
(Trách bạn)
Nguyễn Xuân Ôn cho rằng đã là đấng nam nhi, là bậc quân tử trong
thiên hạ phải hào hùng, tu thân dƣỡng tín chất, phải có đủ cả đức lẫn tài, kiên
định hiên ngang đứng giữa trời đất chứ không đƣợc để vƣớng lòng bởi những
phù phiếm. Chƣa bao giờ ông để những gì thuộc về cá nhân riêng tƣ cản trở
bƣớc đƣờng thực hiện chí nam nhi. Chỉ có tấc lòng yêu nƣớc thiết tha nên
Nguyễn Xuân Ôn mới ý thức đƣợc vai trò trách nhiệm của mình với xã hội
nhƣ việc nhất thiết phải làm. Cùng thời với ông, Nguyễn Quang Bích cũng tự
xác định nhiệm vụ cho mình:
Kì khu mạc phụ lộ hành nan
Đồ báo dư sinh thệ thốn đan
Đầu thượng quân thân thiên nhật chiếu
Giang sơn đáo sứ hộ bình an
(Gập ghềnh nào sợ bƣớc gian nan
Cứu nƣớc thân già dạ sắt son
Trung hiếu trên đầu trời chiếu rọi
Giang sơn che chở đƣợc bình an)
(Đi rừng núi,tự an ủi)
Không phải ai cũng có đƣợc những suy tƣ trăn trở ấy mà chỉ có đƣợc từ
những ngƣời có tâm trong sáng. Tấc lòng yêu nƣớc thƣơng dân lo lắng ngày
đêm chúng ta cũng bắt gặp trong thơ Nguyễn Trãi:
22
Bui một tấc lòng ƣu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nƣớc triều dâng
(Thuật hứng V)
Song không cùng thời cuộc với Nguyễn Trãi, trong cái xã hội tù túng
ngột ngạt của chế độ phong kiến Việt Nam từ giữa thế kỉ XIX đang khủng
hoảng suy vong trầm trọng, một con ngƣời có đủ cả tài năng đức độ nhƣ
Nguyễn Xuân Ôn đâu dễ có đƣợc điều kiện để thực hiện hoài bão của đời
mình. Những cái nhỏ nhặt tầm thƣờng nhƣ nghèo đói, bệnh tật không sá kể
chi đối với ngƣời có tu dƣỡng, đƣợc rèn luyện. Cái đáng nói, đáng lên án ở
đây lại chính là triều đình nhà Nguyễn mục ruỗng cùng cực với bao thể chế
tàn khốc nhằm tỏa chiết tài năng, phẩm giá con ngƣời. Nguyễn Xuân Ôn nhận
đƣợc từ cái xã hội ấy chính là những ngày tháng thấm thoắt trôi qua, tuổi
tráng niên đã tới mà trên con đƣờng lý tƣởng vẫn chƣa hề dấn bƣớc. Chính
điều đó đã khiến Nguyễn Xuân Ôn sót ruột, băn khoăn nhƣng nỗi sót ruột,
niềm băn khoăn ở đây không hề dẫn tới tâm trạng bi quan tiêu cực hay chán
nản rũ bỏ mà ngƣợc lại ông thể hiện một sự mong muốn chính đáng đƣợc
hành động và phục vụ nhân dân, đất nƣớc:
Tráng tuế phương lai hiềm dĩ thệ,
Thiếu niên nhất khứ hận nan phùng.
Thử sinh vị liễu công danh trái
Khủng phụ đương sơ lục xạ bồng
(Đông nhật cảm hoài)
(Trai tơ mấy lúc thành ông,
Tuổi thơ đi khỏi sao mong trở về
Công danh chƣa trọn lời thề
Tên bồng e phụ những gì mới sinh)
(Ngày mùa đông cảm hoài)
23
“Công danh trái” (nợ công danh) hay nam nhi chí (chí làm trai) đều là
những hoài bão, những nhiệm vụ hiển nhiên tồn tại trong tƣ tƣởng của kẽ sĩ
xƣa nhƣng hành động của mỗi ngƣời lại chứng tỏ những chữ ấy đƣợc hiểu
theo những cách khác nhau. Ở nƣớc ta, không ít kẻ có học thậm chí đỗ đạt
cao, hết lòng phục vụ triều đình trong những cuộc đàn áp khởi nghĩa nông
dân, hoặc theo gƣơng triều đình cung phụng ngoại bang, giúp chúng giày xéo
giang sơn mà vẫn lấy làm thanh thản, còn dùng cả văn chƣơng để mỹ hóa
hành động của mình, và hiển nhiên họ coi đó là chí làm trai, là cách trả món
nợ công danh. Song đó là một cách hiểu mù quáng đầy sai lầm của những kẻ
hèn nhát, bạc nhƣợc ngu muội. Ngƣợc lại, Nguyễn Xuân Ôn với tâm tuệ
thông tỏ, ông đã dành cả cuộc đời và văn thơ để thể hiện chí làm trai của mình
đó là hƣớng vào giải quyết những vấn đề trọng đại của đất nƣớc đƣơng thời.
Tâm sự mộc mạc, chân chính trên của Nguyễn Xuân Ôn ta bắt gặp một nỗi
lòng tƣơng tự trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam tử còn vƣơng nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu)
Thực tế xã hội và thực tế cuộc sống càng về sau càng cay nghiệt tất
không khỏi có lúc làm cho con ngƣời ta cảm thấy thất vọng, chán nản nhƣng
nỗi thất vọng đó chỉ thoáng qua để rồi sau đó là cả một ƣớc mơ sôi nổi:
Quân tử hữu cùng bi phiếm lạm,
Anh hùng vô dụng hối trần ai.
Tiêu dao vị giải Trang sinh ý,
Vạn lí bằng phong phụ tráng hoài
(Độc Trang Chu Dưỡng sinh thiên cảm hoài)
24
(Vận cùng quân tử lỡ làng,
Trần ai tiếc nỗi dở dang anh hùng.
Tiêu dao chƣa hiểu thấu cùng.
Cánh bằng vạn dặm phụ lòng nam nhi)
(Cảm hoài khi đọc thiên Dưỡng sinh
của ông Trang Tử)
Cho nên chúng ta cũng không lấy gì làm lạ và dễ dàng thông cảm với
nỗi hân hoan, sự vui mừng khi ông đỗ đạt ra làm quan, bƣớc đầu thực hiện
ƣớc mơ hoài bão cứu nƣớc giúp đời của mình. Năm 1873, khi đƣợc bổ đi giữ
chức tri phủ Quảng Ninh, một chức vụ tuy nhỏ bé trong bộ máy quan liêu
nặng nề triều Nguyễn, nhƣng dù sao theo ông vẫn là chỗ để thi thố tài năng,
miễn là có quyết tâm và chí khí:
Thử gian thượng hữu phu thi xứ
Nguyện giá trường phong phá hải đào
(Đắc chỉ bổ Quảng Ninh tri phủ,
hậu bản bộ đường quan hồi tác).
(Từ đây có chốn vƣơn đôi cánh
Cƣỡi gió tung bay đạp sóng trào)
(Làm lúc được chỉ vua bổ chức tri phủ
Quảng Ninh, hầu quan bản bộ về)
Nhƣ vậy, sau bao năm dùi mài kinh sử mong mỏi chờ đợi lận đận trong
vòng trƣờng ốc nay đỗ đạt làm quan,dải gấm về làng Nguyễn Xuân Ôn hăm
hở, vui sƣớng khi từ nay đƣợc đem hết tâm sức, năng lực, những điều sở đắc
của mình ra giúp nƣớc cứu dân trong cơn nƣớc nhà đang nguy ngập trƣớc sức
tấn công ngày càng hung bạo của kẻ thù. Ông coi chốn quan trƣờng là nơi để
ông vẫy vùng “vƣơn đôi cánh” ra để “cƣỡi gió tung bay” lấn lƣớt kẻ cƣớp
nƣớc và bè lũ tham quan bán nƣớc bạc nhƣợc.
25
Có thể khẳng định rằng Nguyễn Xuân Ôn là một sĩ phu yêu nƣớc nhiệt
thành, luôn ý thức đƣợc trách nhiệm của cá nhân đối với vận mệnh của quốc
gia dân tộc.
2.1.2. Nỗi căm giận với kẻ thù
Xƣa nay, tinh thần yêu nƣớc không chỉ đƣợc thể hiện ở việc ý thức
đƣợc trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân đối với đất nƣớc mà yêu nƣớc còn là
tiếng nói đầy căm giận, uất hận đối với kẻ thù và cụ thể ở đây là với bọn đề
quốc và phong kiến tay sai. Nguyễn Xuân Ôn với lý tƣởng thi cử đỗ đạt ra
làm quan nay đã đƣợc thỏa mong ƣớc dù mãi tới lúc đã bốn mƣơi tám tuổi
ông mới đỗ Tiến sĩ khoa Tân vị (1871). Bƣớc chân vào quan trƣờng lúc tuổi
đã luống, lúc này tình hình nƣớc nhà rối ren, đảo lộn làm cho những ngƣời
quan tâm đến thời cuộc nhƣ ông phải băn khoăn lo ngại. Giặc Pháp tham lam
và hung bạo ngày càng lấn lƣớt, sau khi nuốt gọn sáu tỉnh Nam Kì nay lại
đang ráo riết xúc tiến âm mƣu tìm cách chiếm luôn cả hai miền Trung - Bắc
để biến toàn bộ nƣớc ta thành một thuộc địa độc chiếm. Vận mệnh Tổ quốc
đang nhƣ “trứng để đầu đẳng”, trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn hèn nhát,
bạc nhƣợc chỉ sau một giai đoạn chống cự ngắn ngủi ban đầu đã nhanh chóng
đi từ nhƣợng bộ này tới nhƣợng bộ khác đối với kẻ thù của dân tộc. Song
song với đó là ngoan cố thi hành chính sách cầu hòa không điều kiện bất chấp
làn sóng phản kháng ngày một dâng cao trong các tầng lớp nhân dân, kể cả
một bộ phận của giai cấp phong kiến quý tộc. Trong hoàn cảnh phức tạp, rối
ren đó, niềm hi vọng sẽ có thể thi thố để có đƣợc “chí tang bồng” của Nguyễn
Xuân Ôn không có điều kiện để thực hiện. Với bản tính cƣơng trực không
chịu cúi mình chiều chuộng bọn quan trên, lại đƣợc chứng kiến cảnh bọn
quan lại bất tài và tham nhũng chỉ lo tranh giành quyền vị, bóc lột bòn rút của
dân nghèo ông đã liên tiếp gửi về triều đình một loạt các bài sớ, điều trần đề
cập tới những vấn đề cấp bách trƣớc mắt cần làm để chống giặc xâm lƣợc
cƣớp nƣớc và bại trừ quan tham bán nƣớc hại dân.
26
Trong bài Tâu về việc trình bày mọi điều lợi hại thời bấy giờ (1879),
ông đã có những lời đề nghị thiết thực về cách dùng ngƣời, chọn ngƣời làm
trụ cột cho đất nƣớc: “Trong triều thì dùng những ngƣời cƣơng quyết để làm
rƣờng cột, bên ngoài thì chọn những ngƣời tài lƣợc để vững giậu phên. Đừng
cho ngƣời chăm việc giấy mực, nhỏ nhen là tận tâm, đừng cho ngƣời luật lệ
tinh thông là đắc lực, đừng cho ngƣời cẩn nguyệt là hay, đừng cho những
ngƣời khắc nghiệt là giỏi”. Về cách cai trị, ông viết: “Tiết kiệm của cải để
quân nhu đƣợc dồi dào, bớt sƣu thuế để sức dân đƣợc thƣ thái, đừng chỉ chăm
bóc lột sức dân mà làm yếu sức bảo vệ, đừng chỉ cậy vàng lụa mà trễ nải việc
giáp binh. Bao nhiêu phƣơng pháp tự cƣờng, tự trị đều phải làm gấp”. Có thể
thấy dù mới làm quan không đƣợc bao lâu nhƣng nhận thấy tình hình đất
nƣớc đang khủng hoảng về mọi mặt, nhất là đƣờng lối chiến đấu, Nguyễn
Xuân Ôn đã ngay lập tức trình lên những bài tấu sớ với lời lẽ vô cùng thống
thiết, lý luận vô cùng xác đáng nhằm khắc phục kịp thời tình trạng rối ren đó
của đất nƣớc. Không chỉ dừng lại ở việc trình bày mọi điều lợi hại của thời
cuộc lúc bấy giờ mà ngay từ đầu năm Kỷ Mão ông đã nói rõ ý kiến của mình
về âm mƣu của giặc và các công việc cần làm. Trong Tâu điều trần việc nên
làm (1883), sau khi nêu lên bốn đề nghị cụ thể là “hợp các tỉnh nhỏ làm thành
trấn lớn”, “dời các tỉnh thành”, “bớt tiêu dùng để xung vào quân nhu”, “dứt
việc hòa hảo để khích lệ lòng ngƣời”, nhằm tăng cƣờng lực lƣợng quốc
phòng, ông đã dùng ngòi bút của mình để kịch liệt đả phá tâm lý sợ giặc, phục
giặc lúc đó đang trên đà phát triển trong triều đình nhà Nguyễn cũng nhƣ
trong giới quan lại phong kiến. Với truyền thống giết giặc cứu nƣớc, bảo vệ
đất nƣớc anh hùng bất khuất của dân tộc và căn cứ vào thực tiễn lịch sử hồi
đó, ông rút ra một kết luận đầy chí lí và có ý nghĩa tích cực đối với phong trào
chống Pháp đƣơng thời: sở dĩ ta thua Pháp là vì “chỗ yếu của ta bị chúng lợi
dụng, chớ không phải hoàn toàn là do chỗ mạnh của chúng mà ta không địch
27
nổi”. Để cuối cùng khẳng định đầy tin tƣởng “tiêu trừ cái thói hèn nhát, cổ
vũ cái chí giết thù, việc thiên hạ còn có thể làm được”, qua đó chứng minhh
rằng một dân tộc nhỏ bé vẫn có thể thắng đƣợc những kẻ thù lớn mạnh với
điều kiện có “ngƣời điều khiển” tức là có lãnh đạo, có tổ chức.
Không dừng lại ở đó, trong các bài Tâu xin kinh lý miền thượng du
(1882), Tâu xin đình hoãn án kiện vàtrù tính thời sự ( 1883), Tâu xin về quê
nhà để tập hợp và vỗ về nhân dân (1882), tờ Biểu tạ về việc cha mẹ được
phong tặng (1878), các ý kiến xác đáng trên còn đƣợc nhắc lại nhiều lần,
nhƣng trƣớc sau đều vấp phải thái độ bảo thủ của triều đình đớn hèn sẵn sàng
quỳ gối trƣớc giặc nƣớc. Cho nên tinh thần yêu nƣớc của ông lúc này đã đƣợc
bộc lộ kịch liệt ra ngoài bằng một nỗi căm giận đầy uất hận đối với bọn giặc
cƣớp nƣớc, kết hợp chặt chẽ với một lòng khinh bỉ pha lẫn đau xót đối với bè
lũ bán nƣớc. Dƣới ngọn bút bừng bừng chính nghĩa, mài sắc cảnh giác của
ông, bản chất của bọn giặc Pháp hiện rõ với tất cả những âm mƣu xảo trá, đê
hèn, những hành động gian ác. Và mỗi việc làm, mỗi hành động của ông đều
nhằm thẳng vào kẻ thù. Nhân duyệt đoàn dũng ở một địa phƣơng, ông làm thơ
gửi bạn ca ngợi nhiệt tình cứu nƣớc của nhân dân, đồng thời cũng vạch trần
âm mƣu đen tối của kẻ thù:
Xuân nhĩ dương di hám hải quan,
Tư hoàng cộng phấn hãn bang giang
(Vãng hạt nội Mỹ lộc xã duyệt đoàn dũng,
giản bang biện cử nhân Võ Bá Liêm)
(Giặc Pháp lăm le cửa biển Đông,
Muôn ngƣời giữ nƣớc một lòng chung)
(Nhân duyệt quân đoàn dũng ở xã Mỹ lộc,
làm gửi cho viên bang biện là ông cử Võ Bá Liêm)
28
Thái độ của Nguyễn Xuân Ôn với giặc Pháp đƣợc bộc lộ một cách kín
đáo nhƣng không kém phần mạnh mẽ, quyết liệt:
Hòa - lan tiện thị tây phương giáo,
Quỷ loại thiên tòng thử địa đa
(Mạnh đông du Thập tháp ngẫu thuật)
(Hòa - lan cùng giáo phƣơng Tây đó,
Đất ấy cùng hay lắm quỷ ma)
(Tháng mười chơi Tháp Mười ngẫu nhiên làm ra)
Ông chỉ rõ thực dân cƣớp nƣớc thực chất là bọn “quỷ ma” tàn bạo.
Ngoài ra ông còn gọi chúng là “mấy thằng Tây” (Cảm tác), là “mọi rợ
phƣơng tây ngu xuẩn”… Chừng ấy thôi cũng đủ để cho ta thấy đƣợc thái độ
căm thù giặc sâu sắc của ông.
Lo sợ văn hóa cổ truyền, thuần phong mĩ tục tốt đẹp của dân tộc bị mai
một trƣớc sự tấn công hung bạo của văn hóa thực dân nhà thơ họ Nguyễn bày
tỏ nỗi lo ngại khôn nguôi:
Khả tích thiên nhiên văn hiến quốc
Khước duyên ca vũ phá trừ hưu
(Tiếc thay non nƣớc ngàn thu,
Mảng vui múa hát cơ đồ nát tan)
(Thu nhật cảm tác)
Và không chỉ dừng lại ở mặt phản ánh tình hình, đề đạt nguyện vọng,
mà lúc cần thiết đã có cách xử lý cứng rắn, quyết liệt: ông đã cho bắt về hỏi
tội tên giáo sĩ Pháp dám ngang nhiên dùng lọng vàng dành riêng cho nhà vua,
lúc đi giảng đạo và buộc hắn phải cam đoan về sau không dám xúc phạm đến
lễ nghi phong tục nƣớc Nam nữa. Ngay sự có mặt hàng ngày của kẻ thù với
tiếng nói, y phục, lối sống phong tục khác biệt đối với một nhà nho chịu ảnh
hƣởng mạnh mẽ trong khuôn khổ lễ giáo Khổng Mạnh cũng là một sự sỉ
nhục, một thử thách lớn:
29
Thanh sam bị phát ngôn nan hiểu,
Tổ phục văn thân tục dị đồng
(Châu trung tác)
(Áo xanh tóc xõa lời khôn hiểu,
Mặt trắng minh hoa tục khác nhau)
(Làm ở trong thuyền)
Thêm vào đó, bất bình trƣớc tình cảnh thực dân Pháp nhƣ bầy rợ tàn
bạo phá hoại từ vật chất đến tinh thần, trƣớc những chính sách xâm lƣợc trắng
trợn của thực dân Pháp, chứng kiến cảnh đất đai của Tổ quốc bị cắt xé, nhà
yêu nƣớc họ Nguyễn đau xót vô vàn. Với ông, tội ác của quân cƣớp nƣớc đối
với nhân dân ta to lớn vô cùng, không thể dung tha:
Thiên lý bang kì thống địa dư,
Bách niên lăng tẩm biến khâu khư.
Y thiên lâu lỗ tinh chiên xứ
Phác địa lư diên ối tận dư
(Trường an hoài cổ,1)
(Đế đô ngàn dặm nắm dƣ đồ,
Lăng tẩm trăm năm hóa đống gò.
Lầu gác chọc trời nơi lộn mửa,
Xóm làng chật đất biến tàn tro)
(Trường An nhớ thuở xưa)
Căm giận sâu sắc bè lũ cƣớp nƣớc, Nguyễn Xuân Ôn không thể chấp
nhận đƣợc bất cứ một điều gì nhắc tới hay liên quan đến kẻ thù. Tiếng kèn
binh của đội quân chiếm đánh pháp ngày đêm vang lên ngay trong thành cấm
cũng khiến nỗi lòng đau xót mất nƣớc của ông tăng lên gấp bội:
30
Thái vận vị lai ƣng sĩ mệnh,
Thành trung nạp muộn thích tiêu già
(Cảm tác)
(Vận chưa nay, hãy chờ thời,
Buồn nghe thành cấm nổi bài kèn Tây)
Rồi ngay đến tiếng súng bắn đì dùng dòng dã ngày đêm trong doanh
trại giặc, chuyện xe sắt chạy trên các nẻo đƣờng kinh thành cũng làm cho vị
nho sĩ yêu nƣớc cảm thấy nhục nhã, đau khổ nhƣ bị xúc phạm:
Doanh xá liên triêu oanh hỏa pháo,
Nhai cù tận nhật tẩu kim xa
(Trường an hoài cổ)
(Doanh trại súng đồng kêu suốt sáng,
Phố phƣờng xe sắt chạy luôn trƣa)
(Trường an nhớ thuở xưa)
Với lý tƣởng giúp dân cứu nƣớc cùng lòng căm thù giặc sâu sắc của
mình, Nguyễn Xuân Ôn đã không ít lần viết tấu sớ dâng lên triều đình. Qua
các bài tấu sớ, các bản điều trần với nội dung trình bày những việc cần làm để
chống giặc giữ nƣớc, mọi âm mƣu thủ đoạn xảo trá của kẻ thù đƣợc che đậy
dƣới bất cứ vỏ bọc nào đều bị bóc trần, mổ xẻ dƣới ngòi bút chính nghĩa của
ông và tất cả đều đƣợc lôi ra phơi bày dƣới ánh sáng.
Trong bài Tâu về việc trình bày mọi điều lợi hại thời bấy giờ ông viết:
“… Bọn mọi rợ nhƣ muông sói, lòng tham của chúng không khi nào
thỏa mãn… Hiện nay, đối với việc giao thiệp với ngƣời Pháp, ngƣời bàn
thƣờng nói rằng sự thế bắt buộc phải nhƣ thế, ta phải lo tính từ từ mới đƣợc…
Ta tính việc chống nó rất chậm mà nó tính việc đánh ta rất gấp, nó phòng
ngừa ta rất nghiêm ngặt mà ta phòng ngừa nó rất sơ sài… Phƣơng chi nƣớc ta
bây giờ, ta không có quyền làm chủ, hành động gì cũng bị chúng khống chế”.
31
Ông còn gay gắt, kịch liệt lên án chính sách hòa hảo tai hại của triều đình,
vạch rõ âm mƣu giặc Pháp đã xảo quyệt lợi dụng chính sách sai lầm ngu muội
đó của vua quan phong kiến để hòng phục vụ cho ý đồ xảo trá của chúng:
“Chúng nó vƣợt muôn dặm biển khơi hiểm trở để đồ mƣu cƣớp nƣớc
đất đai của mình, dụng tâm đến mực nào, mà mình lại muốn lấy ý đồ tốt mà
đối đãi với nó đƣợc! Từ khi ta hòa hảo với chúng nó, Phan Thanh Giản một
lần qua mà mất ngay sáu tỉnh, Lê Tuấn chƣa về mà bốn tỉnh đã mất. Sau đó
xứ thần nhiều lần đi khó nhọc uổng công. Không những mất của vô ích mà
còn làm cho nó biết ta không có phƣơng sách gì khác, nên mƣu đồ đánh ta lại
càng gấp hơn… Giặc Pháp nhƣ con ong, con rết có nọc độc, con hùm con sói
không thân ai, làm sao mà tin đƣợc” (Bài tâu điều trần các việc nên làm)
Ngòi bút của Nguyễn Xuân Ôn không chỉ đƣợc sử dụng chủ yếu và
rộng rãi vào việc đả kích lên án bè lũ thực dân cƣớp nƣớc mà còn chĩa mũi
nhọn vào bọn quan lại phong kiến triều Nguyễn. Bấy giờ, trƣớc sức tấn công
hung bạo của tƣ sản Pháp, trong nội bộ giai cấp phong kiến thống trị đã diễn
ra sự phân hóa, và sự phân hóa này càng về sau càng kịch liệt. Đại bộ phận
hàng ngũ phong kiến thống trị kể cả vua Tự Đức, vốn mang nặng tƣ tƣởng
thất bại chủ nghĩa ngay từ đầu. Với đầu óc thông tuệ, tỉnh táo, ngay từ đầu
ông đã thấy đƣợc âm mƣu của giặc, do vậy sau khi điều tra nắm rõ tình hình
Nguyễn Xuân Ôn đã nhiều lần báo cáo về triều âm mƣu của giặc Pháp và tha
thiết đề nghị triều đình có biện pháp đối phó tích cực. Nhƣng đƣờng lối của
triều đình đối với Pháp lúc bấy giờ chủ yếu là thƣơng thuyết cầu hòa, ngu dại
tƣởng rằng bằng cách đó thì có thể lấy lòng bọn Pháp để chuộc lại sáu tỉnh
Nam kì đã bị chúng nuốt trôi từ năm 1867. Nhằm bảo vệ quyền lợi ích kỉ,
thiển cận của giai cấp, chúng đã nhanh chóng đi từ nhƣợng bộ này đến
nhƣợng bộ khác “ đầu hàng đế quốc, thỏa hiệp với đế quốc, và đến cả câu kết
với đế quốc để cứu nƣớc” (Về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam).
32
Nhƣng tất cả những lời đề nghị xuất phát từ một tinh thần cảnh giác yêu nƣớc
sâu sắc, từ một tình cảm thƣơng dân nồng nàn ấy của ông đều vấp phải sự
lãnh đạm đáng giận của một triều đình đã quá ƣ mục nát và mang nặng tƣ
tƣởng thất bại và sẵn sàng bán mình cho kẻ thù dân tộc:
Dân giáo sao theo bọn ngoại dương,
Mười năm binh hỏa hại dân lương
Triều đình hòa hảo thên bày chuyện,
Biên quận lo toan khéo vẽ tuồng.
Nào sợ giúp đời không Quản, Cát,
Ngán thay bán nước có Uông, Hoàng.
Đối người còn nói lời gian dối,
Mặt mũi nào mà đối chủ trương.
(Nghe bốn trấn thất thủ cảm tác)
Nƣớc mất nhà tan chúng vẫn dửng dƣng thờ ơ vui cƣời nhƣ không hề
có chuyện xảy ra:
Khước đắc cung trung ngôn tiếu bảo
Đình tiền bồ bặc thị hà vi?
(Cƣời nói trong cung nghe rả rích,
Lom khom sân trƣớc để làm chi)
(Lễ sóc vọng bái)
Để rồi run sợ trƣớc sự phẫn nộ của nhân dân cả nƣớc đang sục sôi
quyết tâm đánh giặc cứu nƣớc, bọn quan lại đã cố ngụy trang bằng chủ trƣơng
“chủ hòa” tai hại của chúng dƣới nhiều chiêu bài khác nhau nhƣ “thủ để hòa,
duy thủ, trì cứu…”. Tất cả những lập luận, ý kiến đó chỉ nhằm che đậy một
thực tế đau xót và đáng trách là bè lũ phong kiến hèn nhát đều sợ giặc và sẵn
sàng khuất phục trƣớc giặc. Nguyễn Xuân Ôn đã nhìn thấu mọi hành động
giảo hoạt của chúng. Dƣới ngòi bút của mình, khi châm biếm sâu cay, khi trực
33
diện phê phán bừng bừng nghĩa khí thì bẽ lũ bán nƣớc dần hiện nguyên hình
xấu xa, đê tiện dƣới ánh sáng rực rỡ của chủ nghĩa yêu nƣớc:
Triều đình trù toán phân hòa cục,
Biên khổn quy khôi lộng hý trường
(Triều đình hòa hảo thêm bày chuyện,
Biên quận lo toan khéo vẽ tuồng)
(Làm khi nghe bốn trấn thất thủ)
Không chỉ bóc trần sự ngu dốt đớn hèn mà ông còn vạch rõ đƣờng lối
ngoại giao nặng nề “biếu ngọc, dâng lụa” của lũ vua quan thối nát đó tất yếu
sẽ dẫn tới những hành động tội lỗi:
Chí đề kim bạch thao qua giáp,
Khởi lự quan thường dịch nhuế vi
(Những mƣu vàng lụa vùi gƣơm giáo,
Nào tƣởng mũ xiêm thành vẩy mai)
(Cảm thuật)
Và ông thẳng thắn lên án, phê phán bọn quan lại triều đình ham sống sợ
chết không quan tâm đến sự tồn vong của đất nƣớc. Trƣớc vấn nạn lớn của
dân tộc, thực dân Pháp kéo quân ra đánh Bắc Kì lần thứ hai, bọn bán nƣớc
vẫn ngu muội dồn hết sức lực vào việc đàn áp nhân dân, mặt khác vẫn ngoan
cố bƣng tai bịt mắt để tiếp tục cuộc sống xa hoa hƣởng lạc trên xƣơng máu
của nhân dân cả nƣớc:
Khoát luận cao đàm phụ đế triều,
Quận thành xa mã cách hiêu hiêu
(Nói khoác bàn rộng luống phụ đời
Nghêng ngang xe ngựa ngán cho ai)
(Cảm thuật II)
Không chỉ có ở Ngọc Đường thi tập mà Ngọc Đường văn tập cũng là
nơi tác giả viết nênnhững bản cáo trạng tố cáo tội ác đẫm máu của quan lại
phong kiến đã tiếp tay đắc lực cho bè lũ xâm lƣợc tàn sát nhân dân:
34
Trước đây, những người ra đầu thú ở phủ và tỉnh, nhà tan của hết mới
được thoát về, người nghèo khổthì không khỏi chết đói ở ngục. Bọn quan lại
thêu dệt yêu sách, trăm hình ngàn trạng, thật dân chúng có tội tình gì mà cực
đến thế!... Những người đầu mục hưởng ứng việc nghĩa, bà con phải liên can,
gia sản phải tịch thu, cho rằng đó là chiếu luật mà sử án. Cần vương báo
quốc mà lại phạm tội chết, tôi thật không biết cái thứ luật ấy có tự bao giờ
(Thư gửi các ông quan quen biết ở kinh).
Căm ghét tột cùng trƣớc thái độ cũng nhƣ bản chất của bọn tham quan
song Nguyễn Xuân Ôn cũng vô cùng đau xót trƣớc những cảnh chƣớng tai gai
mắt khi bọn quan lại phong kiến đua nhau xu nịnh, ôm chân giặc, học đòi nói
tiếng Tây, mặc đồ Tây, theo đạo…
Tự cổ thánh thần tư hoạt hạ,
Đương kim hiền tuấn tụng Chỉ - thu
(Thuật hoài II)
(Từ trƣớc thánh thần than mọi rợ
Mà nay hiền tuấn đọc Giê - xu)
(Thuật lại ý nghĩ của mình)
Trong khi các sĩ phu yêu nƣớc đang cảm thấy đau xót hổ thẹn tột cùng
“ngƣớc mắt trông non sông đâu đâu cũng đáng đau lòng”:
Cử mục giang hà tận khả thương,
Thao thao xa mã cánh hà đương
(Thu nhật cảm tác)
(Trông vời non nƣớc chạnh lòng thƣơng,
Xe ngựa lao xao luống bẽ bàng)
(Ngày thu cảm tác)
thì bọn quan lại triều đình - bọn cầu đầu cả một đất nƣớc lại a dua sẵn
sàng từ bỏ phong tục tập quán vốn có lâu đời của dân tộc học để chạy theo
Tây hóa, học đòi múa rối, nói tiếng tây:
35
Liệt thành dĩ tác thù ly vực,
Cách bích do văn khối lỗi trường
(Thu nhật cảm tác II)
(Bên vách rập rình trò múa rối’
Đầu thành bập bẹ tiếng Tây dƣơng)
(Ngày mùa thu cảm hoài, II)
Đứng trƣớc sự sa đọa tinh thần của bọn quan lại triều đình, sự dửng
dƣng trƣớc cảnh nƣớc mất nhà tan, kẻ thù đè đầu cƣỡi cổ nhân dân, đua đòi
hám Tây lố lăng ông băn khoăn tự hỏi:
Khả quái y quan văn vật địa,
Nhi kim Hồ phục dĩ thành quần
(Ngán nỗi đất này xiêm áo cũ,
Mà nay lũ lƣợt diện đồ Tây)
(Cảm tác V)
Nhƣng đâu chỉ dừng lại ở đó, tệ hại và đáng lên án hơn nữa là chúng
còn trâng tráo tìm cách lấy lòng quân cƣớp nƣớc, nịnh bợ, ngày tết nguyên
đán còn lũ lƣợt kéo nhau đi mừng tuổi vợ giặc - một hành động ngu xuẩn và
nhục nhã:
Pháp tục bất tri thiên tuế hạ
Không lao quan cái hướng cô bà
(Mậu tí niên nguyên đán cảm tác, II)
(Mừng tuổi, Pháp nào hay tục ấy,
Hoài công mũ lọng tới cô bà)
(Ngày nguyên đán năm Mậu tí, cảm tác II)
Không chỉ kịch liệt lên án, phê phán những hành động ngu muội,
những chính sách dốt nát của chúng mà ông còn thống thiết trách móc chúng,
đối với kẻ thù thì xu nịnh, luồn cúi nhƣng đối với đồng bào cùng nƣớc lại lên
mặt vênh váo ra sức đè nén, bóc lột:
36
Cân quắc dĩ an vi thiếp phụ,
Như bà bạch nhật hướng nhân kiêu
(Cảm thuật II)
(Đã cam khăn yếm thân tỳ thiếp,
Sao lại ban ngày vác mặt kiêu)
Với bản tính cƣơng trực ngay thẳng và tấm lòng yêu nƣớc sâu sắc nay
lại phải chứng kiến cảnh nƣớc nhà rơi vào tay giặc, bọn quan lại bán nƣớc cầu
vinh, Nguyễn Xuân Ôn dũng cảm ném thẳng vào mặt bọn bán nƣớc những lời
mắng chửi đầy thống khoái. Châm biếm không xong, trách móc cũng không
chuyển rồi lòng đầy phẫn nộ, ông đã lột trần chân tƣớng phản bội đầy gian
ngoan xảo quyệt của chúng một cách bất ngờ và đích đáng. Dƣới ngòi bút của
ông, những lời đả kích thật sâu cay:
Nhung xa đáo xứ ưng gia tế,
Mạc bả hầu quan đối phụ nhân
(Văn duyệt binh)
(Đến đâu xe cộ nên che kín,
Mặt khỉ phô chi gái họ cƣời)
(Nghe nói duyệt binh)
Nguyễn Xuân Ôn gọi chúng là lũ “mặt khỉ” thẳng thừng không e sợ.
Song không chỉ dừng lại ở đó ông còn tiếp tục dùng ngòi bút sắc sảo tấn công
trực tiếp vào bản chất khốn nạn của chúng:
Kịch liên kim tử hoàng hoàng giả
Khước tự my sang kĩ nhất ban
(Vàng tía loẹt lòe thƣơng những kẻ,
Khác gì con đĩ mắc giang mai)
(Ngẫu nhiên cảm hứng làm thơ)
Bên cạnh việc sử dụng ngòi bút sắc sảo của mình để tố cáo tội ác của
triều đình nhà Nguyễn hèn yếu lỗi thời hay để phê phán đả kích bọn quan lại
37
đầu hàng phản phúc nói chung mà còn dũng cảm tấn công tên đầu sỏ bấy giờ
là vua bù nhìn Tự Đức. Không trực diện, thẳng thừng mà ở đây lời lẽ phê
phán đƣợc sử dụng rất khôn khéo, kín đáo gửi gắm qua những tâm tƣ lắng
đọng oán trách đau buồn song không phải vì thế mà kém phần sâu cay chua
chát,vẫn kich liệt gay gắt:
Lương tướng vị ưng hiềm điểu tận,
Anh quân hà tất giới cầm hoang
(Tƣớng giỏi hiềm gì câu điểu tận,
Vua hiền khôn sợ tiếng cầm hoang)
(Cảm tác II)
Giặc Pháp sau khi nuốt gọn sáu tỉnh Nam kì đang ráo riết nhòm ngó hai
miền Trung Bắc còn lại của Tổ quốc, vận mệnh đất nƣớc đang nguy khốn, thế
mà Tự Đức vẫn ngày tháng mải miết săn bắn, dong chơi không màng đến
quốc gia xã tắc. Và với tấm lòng ƣu thời mẫn thế, gắn bó suốt đời với thời
cuộc, Nguyễn Xuân Ôn đau xót để rồi cuối cùng không nén đƣợc lòng, ông
đứng lên phản cáo, giáng những đòn chí tử xé toạc bộ mã vàng son lộng lẫy.
Ông vạch trần thực chất cái cốt cách bù nhìn xấu xa ti tiện của chúng không
những ngƣời ngƣời đều căm giận mà cả đến loài vật cũng khinh bỉ:
Dương kham xưng chủy dân hà lạc,
Tượng khả đầu bôi cảnh vật bi
(Sóc vọng bái,1)
(Voi còn biết giận nên gieo chén,
Dân có gì vui bảo giết dê)
(Lễ sóc vọng bái,1)
Nhƣ vậy, có thể thấy bên cạnh một ý thức trách nhiệm của cá nhân đối
với đất nƣớc còn sục sôi một lòng căm thù giặc đầy uất hận, sâu sắc và mãnh
liệt đối với kẻ thù mà chỉ ở trong những con ngƣời hết lòng vì dân vì nƣớc
38
nhƣ Nguyễn Xuân Ôn mới có đƣợc. Yêu nƣớc thƣơng dân là thế song cái
triều đình đớn hèn nhu nhƣợc không dám trụ chung với một khí phách cƣơng
trực cứng cỏi khảng khái nên đã ra dụ cách chức cho ông về quê. Tƣởng rằng
nhƣ vậy ông sẽ nản lòng nhụt chí từ và an phận thủ thƣờng nhƣng ngƣợc lại,
với lòng căm thù giặc đến tột cùng, ông đã giƣơng cao ngọn cờ chính nghĩa
ngay trên mảnh đất quê hƣơng và lần này không chỉ dừng lại ở việc dùng ngòi
bút để đấu tranh đả kích mà đó còn là cả một ý chí và quyết tâm cứu nƣớc đến
cùng. Càng nặng lòng với quê hƣơng bao nhiêu thì trái tim thi sĩ lại càng căm
giận bấy nhiêu. Là ngƣời có nhân cách lớn, Nguyễn Xuân Ôn đã vƣợt qua hạn
chế giai cấp và thời đại mình để đứng về chính nghĩa. Ông xứng đáng là nhà
văn, nhà thơ, nhà chính trị yêu nƣớc vĩ đại và nhiệt thành.
2.1.3. Ý chí và hành động quyết tâm cứu nước
Mặc dù bị cách chức phải lui về quê song Nguyễn Xuân Ôn chƣa bao
giờ thôi từ bỏ ƣớc nguyện thực hiện chí nam nhi của mình. Nhà yêu nƣớc họ
Nguyễn vẫn luôn luôn chú tâm đến công cuộc cứu dân cứu nƣớc bởi tiếng nói
yêu nƣớc là ý thức chung của mỗi con ngƣời Việt Nam, nhất là ở “Cuối thế kỉ
XIX sự tham gia vào các cuộc đấu tranh để giành lại độc lập dân tộc chiếm
hết quảng đại năng lực của quần chúng nhân dân”. Nguyễn Xuân Ôn tiếp tục
bộc lộ lòng yêu nƣớc của mình bằng một quyết tâm hành động đến cùng. Ông
đã sáng suốt đặt “ái quốc” lên trên “trung quân” và dứt khoát đứng về phía
kháng chiến cùng nhân dân giành lại đất nƣớc. Mặc dù đã tuổi cao sức yếu
nhƣng ý chí của Ngọc Đƣờng tiên sinh cũng phải khiến cho lớp tráng niên lúc
bấy giờ kiêng nể, ông luôn đi đầu trong hàng chiến đấu:
Lạc nhật huy qua chí khí cao,
Tam niên bách chiến bất tằng lao
(Cảm thuật IV)
(Vẫy giáo trời chiều chí khí cao,
Ba năm trăm trận chịu gian lao)
(Cảm khái mà thuật ra IV)
39
Cái chí khí cao vút trời chiều đất Nam đó đƣợc xây dựng trên một nền
móng tƣ tƣởng nhận thức sâu sắc về tính chất chính nghĩa của công việc mình
làm. Chẳng thế mà Nguyễn Xuân Ôn đã từng tâm sự với ngƣời bạn thân cùng
uống rƣợu về ý thức làm những việc “bình sinh” của mình. Với ông đƣợc
hành động, đƣợc xả thân giúp nƣớc cứu đời mang lại ấm no hạnh phúc cho
nhân dân thì điều đó không bao giờ phi nghĩa:
Nhất phiến cô trung thiên địa bạch,
Lưỡng gian chính khí nhạc hà lưu
(Cảm thuật IV)
(Một mảnh lòng chung trời đất tỏ,
Đôi vừng chính khí núi sông bao)
(Cảm khái mà thuật ra IV)
“Mảnh lòng chung” sáng rực “chính khí” ấy chính là ngọn đèn chỉ lối,
là cơ sở giúp Nguyễn Xuân Ôn luôn tỉnh táo thông tuệ trƣớc kẻ thù. Ông ra
lời kêu gọi quần chúng nhân dân đứng lên cứu lấy vận mệnh đất nƣớc và hành
động quyết liệt cao quý đó của ông đã đƣợc sự ủng hộ nhiệt thành của nhân
dân quần chúng: “… muôn chúng đồng lòng, tuy ngƣời nông dân ở nơi thảo
dã, kẻ sĩ ở chốn bồng môn, không một ai có lời nào khác” (Thư gửi các ông
quan quen biết ở kinh)
Với quyết tâm giết giặc đến cùng, Nguyễn Xuân Ôn thề không đội trời
chung với thực dân Pháp. Ông luôn mong ƣớc:
Đầu bút hữu hoài không khẳng khái,
Giang sơn hà nhật đổ thanh di
(Thuật hoài III)
(Vứt bút luống ôm lòng khẳng khái,
Non sông yên lặng ngóng trông hoài)
(Thuật lại nỗi lòng III)
40
Cùng chung tƣ tƣởng nhân nghĩa cũng nhƣ quan điểm sáng tác với
Nguyễn Đình Chiểu dùng văn chƣơng làm vũ khí đấu tranh với kẻ thù “Đâm
mấy thằng gian bút chẳng tà”, hay thế hệ sau này là Sóng Hồng cũng kế thừa
quan điểm ấy:
Dùng ngòi bút làm đòn xoay chế độ,
Mỗi vần thơ bom đạn phá cƣờng quyền
Hình ảnh “ngọn bút” ở đây có thể hiểu là sự nghiệp văn chƣơng, sự
nghiệp sáng tác thơ văn. Dẫu ngòi bút bừng bừng chính nghĩa của ông đã từng
bao phen chĩa thẳng mũi nhọn vào thực dân và phong kiến tay sai khiến
chúng khiếp sợ nhƣng đứng trƣớc vận nƣớc nguy vong, Ngọc Đƣờng muốn từ
bỏ tất cả, sẵn sàng “vứt bút” để theo nghiệp “binh đao”, toàn tâm toàn sức
hƣớng vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy
giờ thì đó là một quyết định, một sự lựa chọn đúng đắn và hợp thời.
Là con ngƣời chính nghĩa suốt đời gắn vận mình với sự nghiệp đất
nƣớc nên tâm can nhà thơ họ Nguyễn luôn cháy bỏng một tinh thần yêu nƣớc
trung trinh. Mặc dù cuộc kháng chiến ngày càng khó khăn, khi sa cơ lỡ vận bị
quân thù bắt, ông không khỏi có lúc hoài nghi kém tin tƣởng vào vận mệnh
tƣơng lai của đất nƣớc:
Man man trường dạ hà thờ đán,
Triển chuyển vi hàn thấu cát y
(Đông dạ bất mị cảm tác)
(Đêm dài đằng đẵng bao giờ tỏ,
Lành lạnh hơi sƣơng ngấm áo xồng)
(Đêm mùa đông không ngủ được)
Nhƣng đó chỉ là những giây phút thoáng qua để rối tiếp sau đó là một
niềm tin tƣởng, hi vọng vào một tƣơng lai tƣơi sáng hơn:
Đông chí dương sinh xuân hựu đáo,
Sơn mai ngạn liễu ám phùng nghinh
(Đông nhật thuật hoài)
41
(Đông chí dƣơng sinh xuân lại đến,
Đón chào mai nở liễu buông cành)
(Gặp mùa đông thuật lại ý nghĩ của mình)
Ông luôn củng cố niềm tin của mình:
Bang giao ưng hữu hồi xuân nhật,
Mạc tá phù trầm phụ thử sinh
(Hữu sở tư II)
(Non nƣớc xuân về đành có lúc,
Nổi chìm chi phụ kiếp thân mình)
(Lòng thương nhớ II)
Và từ niềm tin tƣởng, hi vọng sâu lắng bất diệt vào một vận nƣớc tốt
đẹp ấy, cuối cùng tác giả mạnh mẽ, tự tin khẳng định tấm lòng trung kiên một
lòng với nƣớc với dân của mình:
Thử nhân vinh nhục hà tu quải,
Địch khái đan thầm tử bất suy
(Thuật hoài)
(Vinh nhục thân này chi sá kể,
Lòng son giết giặc chết không phai)
(Thuật nỗi lòng)
Nỗi lòng này dƣờng nhƣ đã phảng phất trong thơ xƣa với quan niệm
“Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao” (Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn), hay
đó còn là sự đồng điệu của cả một thế hệ lúc bấy giờ. Giống nhƣ một lời
tuyên hệ cảm tử nhẹ nhàng, cả đội ngũ sĩ phu yêu nƣớc lúc bấy giờ cùng nhau
gánh vác vận mệnh Tổ quốc và đối diện với sự xoay vần của tạo hóa:
Vũ trụ trong khi có việc,
Giamg sơn đâu đấy không người.
Quyết ra tay vận đất xoay trời
(Lưỡng tấn)
42
Có thể nói ý chí và hành động quyết tâm cứu nƣớc của Nguyễn Xuân Ôn
là một sự phát triển biện chứng từ tƣ duy để dẫn tới hành động và đó là một
hành động vô cùng cao cả đáng khâm phục. Không tìm lối sống ẩn dật chốn
sơn tuyền mơ mộng hão huyền về quá khứ đã qua, không lảng tránh sự thật về
nỗi đau nƣớc mất nhà tan, cũng không chỉ biết khoanh tay đứng nhìn, đau xót
đơn thuần mà cái đƣợc, cái đáng ngợi ca ở Nguyễn Xuân Ôn là việc xác định
và quyết tâm hành động cứu nƣớc đến cùng. Đó là biểu hiện của một con
ngƣời xuất chúng, quảng đại, chính nghĩa.
2.1.4. Tình yêu thiên nhiên đất nước
Từ xƣa đến nay, thiên nhiên luôn là ngƣời bạn tâm giao của các bậc thi
sĩ. Các nhà thơ luôn mƣợn cảnh thiên nhiên để gửi gắm những nỗi niềm tâm
sự sâu lắng của mình. Nguyễn Xuân Ôn cũng không phải là ngoại lệ. Xuất
thân là một nho sinh giàu lòng yêu nƣớc, chịu ảnh hƣởng triệt để của tƣ tƣởng
nho gia nên mọi tâm tƣ tình cảm của ông đều tập trung chủ yếu vào những
vấn đề lớn lao mang tính thời đại của xã hội đƣơng thời. Nhƣng không phải vì
vậy tâm hồn thi nhân của Ngọc Đƣờng tiên sinh lại dửng dƣng vô cảm trƣớc
thiên nhiên tƣơi đẹp, trƣớc cảnh núi sông hùng vĩ thơ mộng của đất nƣớc. Yêu
thiên nhiên là phƣơng diện biểu hiện đầu tiên của lòng yêu nƣớc, là sự rung
cảm của trái tim thi sĩ trƣớc cái đẹp. Tuy nhiên, viết về thiên nhiên, về cảnh
núi sông diễm lệ chỉ là cái cớ, là bức bình phong để ông tự nhắc nhở về nhiệm
vụ cứu nƣớc chƣa đƣợc hoàn thành và cũng là thú vui tinh thần để ông củng
cố thêm lòng tin tƣởng của mình vào vận mệnh và tƣơng lai của đất nƣớc.
Yêu nƣớc nồng nàn, điều này đƣợc biểu hiện từ ý thức trách nhiệm,
lòng căm thù giặc đến ý chí hành động quyết tâm cứu nƣớc đến cùng. Nhƣng
không chỉ dừng lại ở đó, Nguyễn Xuân Ôn còn huy động cả thiên nhiên vào
công cuộc cứu nƣớc. Dƣới ngòi bút của thi sĩ Ngọc Đƣờng cảnh sắc thiên
nhiên hiện lên hùng vĩ tƣơi đẹp:
43
Khách hoạn tam thiên lí,
Hùng châu đệ nhất quan.
Giang sơn tiêu thắng tích,
Vận thủy hiếm kì quan.
Thập cấp cao cao hạ,
Trùng phong khứ khứ hoàn,
Bách tuyền thiên thượng tạc.
Nhất kính thạch trung toàn,
Đạp cước thanh vân lý
Thê thê bích hán gian
(Đồ quá Hải Vân quan, ngẫu thành)
(Đƣờng khách ba ngàn dặm,
Hùng quan nhất cõi trời.
Non sông nêu cảnh đẹp,
Mây nƣớc đậm màu tƣơi.
Núi dốc lên lên xuống
Đèo quanh lại lại đi.
Lƣng trời trăm suối chảy
Giữa đá một đƣờng xoi
Chân đạp từng mây xanh
Mình nƣơng giữa khoảng không)
(Đi đường qua cửa ải Hải Vân ngẫu thành)
Nhắc đến đèo Hải Vân ngƣời ta đều khiếp sợ bởi những vách núi cheo
leo hiểm trở cao ngút ngàn, vậy mà bƣớc vào trang thơ Ngọc Đƣờng tiên sinh
cảnh trí hiện lên đẹp đến lạ lùng. Vừa có nét hoang sơ hùng vĩ lại chứa nét
nên thơ hữu tình. Phong cảnh phóng khoáng hùng vĩ không khỏi khiến ngƣời
ta liên tƣởng đến thi phẩm nổi tiếng Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi. Hay
44
cảnh “lƣng trời trăm suối chảy” ta cũng bắt gặp mạch cảm hứng tƣơng tự
trong Vọng Lư Sơn bộc bố (Xa ngắm núi thác Lư) của Lý Bạch:
Phi lực trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà tuột khỏi mây
(Nƣớc bay thẳng xuống ba nghìn thƣớc
Tƣởng dải ngân hà tuột khỏi mây)
(Xa ngắm núi thác Lư)
Đứng trƣớc cảnh thiên nhiên hùng vĩ là thế nhƣng Ngọc Đƣờng vẫn có
cái nhíu mày trăn trở:
Ta dư đa bạt thiệp,
Quá thử độc bàn hoàn
(Ta nhiều phen lặn lội
Băn khoăn riêng chốn này)
Sự nghiệp cứu nƣớc giúp đời dƣờng nhƣ đã ăn sâu vào trong tiềm thức,
tâm can của Nguyễn Xuân Ôn. Ngắm nhìn cảnh núi Võ Kì hùng tráng nơi quê
nhà ông lại liên tƣởng ngay đến cảnh trống trận giƣơng cờ đổ hồi:
Cẩm phong đặc địa phô la đái.
Văn thạch liên thiên thụ phái tinh
Cốc ủng phong hồi minh cổ hưởng,
Tuyền phi thủy kích tác kim thanh
(Võ Kỳ Sơn I)
(Đỉnh gấm chênh vênh phơi dải lụa,
Đá vằn chót vót dựng cờ mây.
Khe vùng ngọn núi hồi chuông giục
Gió xoáy bên hang nhịp trống bay)
(Vịnh núi Võ Kỳ I)
Viết về thiên nhiên, thơ Nguyễn Xuân Ôn rất mực vui say hào sảng, từ
đó khiến ông thêm tin tƣởng vào công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm của dân tộc:
45
Giang sơn chỉ cố qui nho tướng,
Khán thủ chiêu huy nhất lộ bình
(Võ Kỳ Sơn II)
Non sông phút chốc trao Nho tướng,
Trông nẻo cờ bay sẽ dẹp bình
(Vịnh núi Võ Kì II)
Bản thân là một chiến sĩ, một lãnh tụ cách mạng nhiệt thành, trên con
đƣờng rong ruổi vì nghĩa lớn bao khó khăn mệt nhọc bế tắc Nguyễn Xuân Ôn
đều gửi gắm vào thiên nhiên. Với ông, thiên nhiên trở thành ngƣời bạn tâm
tình tri kỉ xoa dịu đi mọi muộn phiền trăn trở chốn quan trƣờng đầy rẫy những
thị phi. Trong bài thơ Cảm tác ông viết:
Tú phong kì thạch phi bình chướng
Bích thảo phương châu nhập hòa đồ.
Sơn thụy nguyệt minh khan nhiễu thước
Giang phong sương mãn thích đề ô
(Non xinh đá lạ dăng bình chƣớng,
Cỏ biếc cồn thơm rạng họa đồ.
Nguyệt rọi cây rừng xem lũ thƣớc,
Sƣơng đầy bến nƣớc lắng bầy ô)
(Cảm tác)
Hòa mình vào thiên nhiên thật đấy nhƣng tấm lòng thi nhân đâu đƣợc
thảnh thơi đến thế. Ta vẫn thấy phảng phất một nỗi buồn thời cuộc hay nói
đúng hơn đó là một sự chua xót trƣớc hiện thực:
Sầu nhân ỷ các tứ vô đoan,
Nhất phiến thu quang thập dạ hàn.
Thanh nữ giáng đình sương lệnh túc,
Tố nga hạ điện nguyệt quang lan
46
(Ngƣời sầu tựa triện tứ chơi vơi,
Lạnh lẽo đem thu một mảnh trời.
Thanh nữ xuống thềm sƣơng giá ngắt,
Tố nga ngó mặt nguyệt bừng soi)
(Thu tứ)
“Tình đời”, “sự đời” ngao ngán, ta còn thấy tâm trạng của ông đƣợc kín
đáo bộc lộ qua từng lớp từ ngũ trong một số bài thơ khác nhƣ “Xuân nhật”
(Ngày xuân), “Đông nhật” (Ngày mùa đông thuật hoài)…
Hơn bao giờ hết, ta thấy thiên nhiên trong thơ ông đẹp nhƣng đƣợm
một nỗi buồn sâu lắng, một nỗi niềm lo toan trăn trở khôn nguôi. Thiên nhiên
chính là con thuyền vô hình chở bao tâm sự, nối liền bao cảm xúc của tác giả.
Dốc hết tâm sức với sự nghiệp kháng chiến, với xứ mệnh đem lại ấm no hạnh
phúc cho nhân dân, song nhà yêu nƣớc xứ Nghệ vẫn không quên thả hồn
mình vào thiên nhiên. Viết về công cuộc kháng chiến đầy sắc sảo nhạy bén
nhƣng những vần thơ dành cho thiên nhiên đất nƣớc cũng không kém phần mĩ
lệ hùng vĩ. Nguyễn Xuân Ôn xứng đáng là nhà văn - chiến sĩ tiêu biểu thời
bấy giờ.
2.2. Một số bút pháp nghệ thuật thể hiện cảm hứng yêu nƣớc trong
Ngọc Đường thi văn tập
Tác phẩm văn học là chỉnh thể nghệ thuật thống nhất giữa nội dung và
hình thức. Theo Hê - ghen thì “Nội dung chẳng phải là cái gì khác, mà chính
là sự chuyển hóa của hình thức vào nội dung, và hình thức cũng chẳng gì khác
hơn là sự chuyển hóa của nội dung vào hình thức”. Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn
ngoài nội dung sâu sắc thì bên cạnh đó hình thức nghệ thuật cũng khá độc
đáo. Điều này đƣợc thể hiện ở việc tác giả sử dụng rất thành công các bút
pháp nghệ thuật góp phần không nhỏ trong việc làm nổi bật nội dung. Song
trong khóa luận này chúng tôi chỉ xin phép phác thảo sơ lƣợc về bút pháp
nghệ thuật của Ngọc Đường thi văn tập
47
2.2.1. Bút pháp hiện thực
Trong tâm niệm của mình, cũng nhƣ phần lớn các sĩ phu yêu nƣớc khác
cùng thời, Nguyễn Xuân Ôn không hề có ý định làm thơ văn để lƣu lại đời
sau. Nhƣng với tâm hồn thi sĩ bẩm sinh dễ rung cảm trƣớc cái đẹp, cái bi
tráng kết hợp với đó là ý thức sôi sục nhiệt huyết, luôn gắn bó với thời cuộc
nên Nguyễn Xuân Ôn không thể dửng dƣng ngó lơ trƣớc những sự việc xảy ra
xung quanh mình cũng nhƣ không thể không nói lên tƣ tƣởng tình cảm của
mình trƣớc những sự việc đó. Là một nhà yêu nƣớc nhiệt thành, trƣớc tình
cảnh đất nƣớc mất chủ quyền, ngòi bút của Nguyễn Xuân Ôn không gửi vào
mây gió hay lên tiên thoát tục mà thơ ông hƣớng thẳng vào hiện thực tối tăm
thối nát của xã hội đƣơng thời. Chính vì vậy trong quá trình sáng tác, bút pháp
ông sử dụng chủ yếu là hiện thực tố cáo.
Đọc thơ văn Nguyễn Xuân Ôn ngƣời đọc cảm nhận đƣợc một sự chân
thực, chất phác và dƣờng nhƣ mọi điều mắt thấy tai nghe đều đƣợc ông hạ bút
trực tiếp, không cầu kì đẽo gọt hay trạm trổ công phu. Thêm vào đó ý thơ ý
chữ dùng rất tự nhiên song đôi khi cũng rất độc đáo và bất ngờ. Đây chính là
đặc điểm nổi bật trong thơ văn Nguyễn Xuân Ôn.
Bằng tài năng của mình, chỉ với vài chữ lựa chọn tinh tế, chữ tuy ít mà ý
giàu, giản dị mà sâu cay, ông đã lột trần đƣợc cái “thần thái” hèn hạ, nhu
nhƣợc của bè lũ quan lại tay sai vô dụng bất tài:
Ngũ kinh thánh đạo phì nang thác,
Tam truyện nho khoa điếm hốt hà
(Năm kinh đạo thánh gầy nang túi,
Ba truyện khoa nho nhớp hốt hài)
(Cảm thuật II)
Cả cách so sánh của ông cũng hết sức chân chất, mộc mạc. Bị bắt vào
tù, bị giam hãm mất tự do, ông tự ví mình nhƣ một ngƣời vào hàng cá ƣơn lâu
48
nên không còn biết mùi tanh hôi là gì. Trong ngục giam, nhất là khi ốm đau
tác giả lại có cách ví von vô cùng táo bạo để bệnh hóa sự đời. Bản thân ốm
nặng vậy mà ông vẫn liên tƣởng đến việc đời điên đảo. Phải chăng trong con
mắt của ông cái xã hội ngoài kia cũng đang “ốm” đang thối nát tanh hôi đến
ghê rợn:
Thế sự điên nguy như đại thũng,
Nhân tâm chứng tế tự trầm hàn
(Bệnh trung tác)
(Sự thế tƣởng nhƣ thân thũng chƣớng,
Lòng ngƣời giống tựa chứng hàn suy)
(Làm trong khi ốm)
Ngay cả trong những bài thơ chữ Hán ta cũng bắt gặp những lời lẽ rất
đỗi giản dị gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian, ngôn ngữ đại
chúng, bình dị:
Bình dương khuyển dị năng khi hổ,
Thiên thủy hà lương dục kí long
(Hải Dương cấm trung tác I)
(Đồng bằng chó nhãi khinh lờn cọp,
Nƣớc cạn tôm con chế giễu rồng)
(Làm trong nhà giam tỉnh Hải Dương I)
Rồi trong những bài thơ Nôm ít ỏi ta cũng bắt gặp những mẫu ngƣời,
những hình dáng thuần phác bình dân không lẫn vào đâu đƣợc:
Những phường trở đậu trơ đôi mắt,
Mấy lũ can thành đứng chắp tay
(Cảm tác I)
Ngoài ra, ông còn sử dụng cả cách nói lấp lửng, nửa vời để cho ngƣời
đọc tự suy xét về những ý tứ kín đáo mà ông gửi gắm trong đó.
49
Với tài sử dụng hình thức thức thơ ca Đƣờng luật, việc đối ý đối hình
cũng rất điêu luyện:
Viễn tái mã cầu mang bạc phát,
Cao lâu càn quắc ký thanh nga
(Xuân nhật)
(Hú hí mày ngài buôn đứa nhát,
Dãi dầu tóc bạc xót ngƣời xa)
(Ngày xuân)
Chỉ chừng ấy thôi ta cũng thấy nổi bật lên sự đối lập sâu sắc giữa cảnh
ngộ và tâm trạng xót xa của con ngƣời. Ý thơ gây nên ấn tƣợng độc đáo, hồn
thơ cũng vì thế mà trở nên sâu sắc hơn.
Trong các bài tấu sớ dâng lên vua, tính chất chân thực chất phác cũng
biểu hiện rõ ràng. Trong bài “Tâu xin kinh lý miền thƣợng du” tâu về việc xin
đem mọi việc nên làm, mật dâng lên chờ bên trên định đoạt ông viết “… Ôi!
Nó dòm ngó vùng thƣợng du của ta đã lâu rồi. Vùng thƣợng du của các tỉnh
Bình Thuận, Khánh Hòa bọn cố đạo đã qua truyền giáo rồi, vùng An Khê ở
Bình Định dân giáo đã đến ở rồi. Nghe đâu chúng có đơn xin mang theo khí
giới để phòng ngƣời”. Có thể thấy tất cả đều chân thực đến nỗi dù ở bất cứ
thời đại nào khi đọc thơ văn Nguyễn Xuân Ôn cũng đều có thể dễ dàng hình
dung ra mọi việc mà ông đang nhắc đến.
Tóm lại, với việc sử dụng chủ yếu bút pháp hiện thực, Nguyễn Xuân
Ôn đã dựng đƣợc hiện thực xã hội đúng với bản chất thật và những gì vốn đã
là của nó đang tồn tại một cách khách quan. Qua đó ta thấy đƣợc phần nào
tấm lòng yêu nƣớc của tác giả.
2.2.2. Bút pháp châm biếm, trào phúng
Bên cạnh thành công trong việc sử dụng bút pháp hiện thực, Nguyễn
Xuân Ôn còn sử dụng triệt để bút pháp châm biếm. Yêu nƣớc bao nhiêu,
50
Nguyễn Xuân Ôn càng căm ghét, uất hận bè lũ cƣớp nƣớc và bán nƣớc bấy
nhiêu. Và để diễn tả đƣợc hết lòng căm thù sâu sắc ấy thì ngòi bút châm biếm
đả kích đƣợc sử dụng một cách đắc lực hơn bao giờ hết
Nói đến châm biếm ngƣời ta nghĩ ngay tới sự đả kích và nó tồn tại nhƣ
một lƣỡi dao sắc bén, lợi hại của văn chƣơng. Nguyễn Xuân Ôn đã lợi dụng
điểm mạnh đó để sáng tác văn chƣơng. Mỗi vần thơ, câu văn của ông là một
thứ vũ khí tấn công trực diện vào kẻ thù:
Thiên đắc lân bang đa hảo ý,
Biệt vỗ nhĩ trá dữ ngô ngu
(Trường An hoài cổ, II)
(Cũng may xóm bạn nhiều lòng tốt,
Chẳng ngại chi chi chuyện dối lừa)
(Trường An nhớ thuở xưa, II)
Thoáng đọc hai câu thơ trên ta tƣởng chừng nhƣ nhẹ nhàng song càng
đọc kĩ ta mới lại thấm thía đƣợc những ẩn ý sâu cay trong đó. Hai câu thơ đã
vạch trần bản chất trơ tráo, lật lọng của kẻ thù một cách kín đáo tƣởng chừng
nhƣ tác giả đang “khen” mà lại đầy sâu cay:
Phàm tường đáo xứ giai dương chủ,
Thủy tín khai thương ước khả thuyền
(Chu quá Thuận An cảm tác)
(Tàu bè đâu đấy Tây làm chủ,
Mới biết thông thƣơng đƣợc giữ lời)
(Cảm tác khi thuyền qua bến Thuận An)
Nguyễn Xuân Ôn mỉa mai châm chọc bọn quan lại triều đình ngu dốt
dùng chính sách nhƣợng bộ hòa bình hòng mong thực dân Pháp thực hiện
lời hứa. Nhƣng việc thất hứa, bội tín đối với bọn Tây dƣơng nhƣ một lẽ
thƣờng tình trong tính cách của chúng. Ông đã quật thẳng vào mặt chúng
51
những lời lẽ trào phúng đả kích nhất nhƣng trong đó, ngƣời ta vẫn thấy cái
chua chát, xót xa.
Viết về tiếng tiêu, tiếng sáo rộn ràng trong ngày tết nguyên đán, mới
nghe qua tƣởng nhƣ an nhàn vô sự, nhƣng bên trong là cả một sự mỉa mai cay
đắng đối với bọn bù nhìn bán nƣớc hại dân:
Công sanh thiên đắc nhàn vô sự,
Tiêu quản thanh thanh lạc thái hòa
(Mậu tí niên Nguyên đán cảm tác)
(Công đƣờng riêng đƣợc nhàn vô sự,
Vui vẻ sinh ca tiếng dập dìu)
(Ngày nguyên đán năm mậu tí cảm tác)
Dù ngòi bút châm biếm đả kích của Nguyễn Xuân Ôn không “thâm
thúy sâu sắc” nhƣ Nguyễn Khuyến, cũng không “bốp chát độc địa” nhƣ Tú
Xƣơng nhƣng ngôn ngữ của ông luôn tóm đƣợc những nét điển hình của nghệ
thuật châm biếm trào phúng và luôn thể hiện sinh động bản chất của vấn đề:
Thao thao ngoạn khái thành hà sự,
Không hướng tà dương thán bạc đầu
(Sơ thu cảm tác)
(Lêu lổng chơi bời hƣ hỏng hết,
Bóng tà luống thẹn bạc đầu râu)
(Đầu mùa thu cảm thành)
Nhiều khi, bút pháp châm biếm trào phúng còn đƣợc sử dụng dƣới hình
thức là một bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế cuộc đời biến động:
Minh thế văn chương thụ quyến tri,
Thánh hiền trung giáo tổng thành khi
(Cảm thuật III)
52
(Nổi tiếng văn chƣơng đƣợc chúa vời,
Lời hiền nghĩa thánh cũng bằng toi)
(Cảm khái mà thuật ra III)
Một đặc điểm nổi bật trong ngòi bút trào phúng của Nguyễn Xuân Ôn
là thơ ông không bóng gió, cạnh khóe mà nhẹ nhàng, cụ thể. Dƣới ngòi bút
của nhà thơ, từ các trung thần nghĩa sĩ cho đến bọn gian thần mại quốc đều
đƣợc họp mặt đầy đủ, không tên nào lẫn với tên nào:
Hồng Ngư trung tiết cổ do truyền
Nhị Đặng vu kim tứ bách niên
…
Thùy thị sương can băng tháo giả,
Phương danh mạc sử tích nhân chuyên
(Hồng Ngư hoài cổ I)
(Tiết trung truyền mãi đất Hồng Ngƣ
Nhị Đặng bốn trăm năm tới
…
Tiết tháo anh thơm đâu chỉ nhƣợng ngƣời xƣa)
(Non Hồng, biển Ngư nhớ người xưa, I)
Để phục vụ đắc lực cho mục đích đả kích bọn tay sai phong kiến của
mình, Nguyễn Xuân Ôn lôi ra cả Tần Cối đời Tống, Chúc Khâm Minh đời
Đƣờng với sự ô nhục đáng khinh để châm chọc:
Nhất đức cách thiên Tần tể các,
Ngũ kinh tảo địa Chúc công phường
(Thu nhật cảm tác)
(Thấu trời một đức Tần chi khác,
Quét đất năm kinh, Chúc một phƣờng)
(Ngày nùa thu cảm hoài)
53
Nhƣ vậy, dù tấn công trực tiếp hay gián tiếp, lộ liễu hay kín đáo thì
ngòi bút trào phúng của Nguyễn Xuân Ôn vẫn vô cùng lợi hại. Thơ ông khiến
ngƣời đọc hả hê bởi những tiếng cƣời sâu cay song bao trùm, gói ghém trong
đó là một sự chua xót đến tột cùng trƣớc cảnh nƣớc nhà nguy nan.
2.2.3. Bút pháp trữ tình
Nói đến thơ văn không thể không nhắc tới yếu tố trữ tình và chính nhân
tố này đã mang lại thành công cho thơ văn Nguyễn Xuân Ôn. Dùng ngòi bút
làm vũ khí chiến đấu, “đứa con” tinh thần của Nguyễn Xuân Ôn tuyệt nhiên
chan chứa những cảm xúc của một thi nhân ƣu đời mẫn thế.
Dù là viết về nhận thức cá nhân với vận mệnh dân tộc hay tố cáo lên án
kẻ thù, hoặc ngợi ca hi vọng vào tƣơng lai tƣơi sáng của Tổ quốc thì mỗi vần
thơ, câu văn của ông đều chứa chan tình cảm và dạt dào xúc động:
Cẩm phong đặc địa phô la đái,
Văn thạch liên thiên thụ thái tinh.
Cốc ủng phong hồi minh cổ hưởng,
Tuyền phi thủy kích tác kim thanh
(Đỉnh gấm chênh vênh phơi dải lụa,
Đá vằn chót vót dựng cờ mây.
Khe vùng ngọn núi hồi chuông giục
Gió xoáy bên hang dịp trống cay)
(Vịnh núi Võ Kì I)
Nhờ có những rung cảm chân thành sâu sắc, mặn mà đằm thắm, giàu
tình cảm, giàu lòng yêu thƣơng, đã có lúc Nguyễn Xuân Ôn hóa thân vào
nhân vật trữ tình để cất lên tiếng nói:
Sơ thúc vô năng đại phụ hoan,
Nhượng lê nhân hựu khách trùng quan.
…
54
Chiết mai dục bả gia thư kí,
Đường lệ thi thiên độc vị hoàn
(Hoài lệ hữu cảm)
(Ơn cha chƣa kịp chút đền bồi,
Trông cậy em hiền, em cách khơi.
…
Toan bẻ nhành mai gửi thƣ tới,
Câu thơ Đƣờng lệ đọc chƣa rồi)
(Nhớ em cảm động mà làm)
Ở đây, tình cảm ruột thịt riêng tƣ đã hòa vào tình chung tạo nên sự sâu
lắng của tâm trạng tác giả. Màu sắc trữ tình đƣợc biểu hiện rõ ràng nhất thông
qua cái tôi của tác giả. Đó là cái tôi luôn chất chứa nỗi buồn và tâm trạng bi
thiết của ngƣời anh hùng thất thế trƣớc cảnh mây trời bát ngát:
Phong đào vạn lý ky hoài thảm
Vân nguyêt tam canh lũ mộng sầu
(Chu trung tác)
(Sóng cồn muôn dặm lòng quê thảm,
Trăng gió ba gian mộng khách sầu)
(Làm ở trong thuyền)
Tiếng nói trữ tình trong thơ Ngọc Đƣờng còn đƣợc thể hiện qua lối
hành văn giản dị, trong sáng, dồi dào cảm xúc. Cách sử dụng hình thức thƣ
tín, bài sớ, bản điều trần… tất cả đều phóng khoáng, chân thành.
Trong “Thƣ gửi các quan quen biết ở kinh” mở đầu bài viết nhà văn đã
khéo léo dùng ngòi bút trữ tình để múa lên những đƣờng nét kín đáo của một
tâm trạng khi sa cơ lỡ vận “chƣa có ai là ngƣời có nhân mà lại bỏ quên cha
mẹ, chƣa có ai là ngƣời có nghĩa mà lại trễ nải việc vua”
55
Tiếp đó là những lập luận, lời phân trần thấu tình đạt lí “nay, nếu theo
nhƣ công luận của ngƣời xƣa và việc trƣớc đây triều đình đối xử với những
ngƣời khởi nghĩa ở miền nam, lƣợng tình mà tha thứ điều ngu dại, thì việc
chúng tôi làm có thể xét mà tha thứ…”
Một lần nữa có thể khẳng định ngòi bút trữ tình của Nguyễn Xuân Ôn
thực sự đã bộc lộ đƣợc hết những nét tài tình về phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Xuân Ôn.
56
KẾT LUẬN
Con ngƣời, sự nghiệp Nguyễn Xuân Ôn là tấm gƣơng sáng phản chiếu
chân dung con ngƣời Việt Nam cuối thế kỉ XIX:
Mới hay thực đấng anh tài
Tiếng thơm còn để muôn đời dài lâu
Qua việc phân tích, tìm hiểu cảm hứng yêu nƣớc trong Ngọc Đường thi
văn tập của Nguyễn Xuân Ôn chúng ta thấy thầm cảm phục trƣớc tấm gƣơng
anh hùng kiên trung ấy. Cuộc đời ông là cuộc đời của một con ngƣời chính
nghĩa, là tấc lòng trung trinh của đấng nam nhi hết lòng xả thân vì nghĩa lớn.
Dù ở bất kì hoàn cảnh nào trái tim yêu nƣớc của ngƣời anh hùng đất Trung kì
ấy cũng rạo rực thổn thức lòng nhiệt thành Cách mạng. Yêu nƣớc không chỉ
bằng ý thức trách nhiệm vai trò của bản thân, là lên án căm thù giặc mà yêu
nƣớc còn phải là ý chí quyết tâm hành động, là tình yêu thiên nhiên đất nƣớc.
Xuất thân từ giai cấp phong kiến, chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ của Nho
học, lại sống trong giai đoạn suy thoái cuối cùng của chế độ phong kiến và
chứng kiến sự thật lịch sử thực dân Pháp xâm lƣợc, Nguyễn Xuân Ôn đã
không may mắn khi phải gánh chịu bi kịch cũng chính là hệ quả của hoàn
cảnh lịch sử. Triều đình nhà Nguyễn mục nát, phản động bán nƣớc cầu vinh,
phong trào chiến chống Pháp cuối thế kỉ XIX phát triến sôi nổi một thời sau
đó thất bại do chƣa có đƣờng lối kháng chiến và lãnh đạo cách mạng. Tuy vậy
chúng ta vẫn không thể phủ nhận công lao cũng nhƣ tâm huyết mà văn thân
lỗi lạc đất Lam Hồng đã cống hiến.
Ngọc Đường thi văn tập đã thay lời muốn nói của Nguyễn Xuân Ôn với
thời đại. Với 311 bài thơ chữ Hán, 22 bài văn xuôi, 5 bài thơ Nôm tập thơ văn
đã đƣợc đánh giá cao và có một vị trí xứng đáng trong nền văn học truyền
thống. Tập thơ văn là tiếng nói hào hùng và bi thiết của một con ngƣời suốt
đời gắn bó với vận mệnh của đất nƣớc và hạnh phúc của nhân dân. Không chỉ
57
thế, toàn bộ tập Ngọc Đường thi văn tập đã phản ánh một cách chân thực nhất
về tƣ tƣởng và tình cảm của một văn thân lỗi lạc, khảng khái đã chiến đấu đến
hơi thở cuối cùng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Qua đó thể hiện đƣợc giá
trị giáo dục tƣ tƣởng, tình cảm, tác dụng động viên thúc giục hành động đối
với mọi thế hệ. Đến nay, tập thơ văn vẫn còn giữ đƣợc nguyên vẹn giá trị của
nó và Nguyễn Xuân Ôn đã chính thức đứng trong hàng ngũ nhà thơ chiến sĩ
tiêu biểu vừa làm chiến sĩ vừa là thi sĩ
Tuy nhiên, khi tìm hiểu, nghiên cứu thơ văn Nguyễn Xuân Ôn chúng ta
dễ dàng nhận thấy những hạn chế nhất định về cả hai mặt nội dung lẫn hình
thức. Trƣớc hết về mặt hình thức, việc dùng chữ Hán làm phƣơng tiện diễn
đạt chủ yếu không khỏi làm cho phạm vi phổ biến cũng nhƣ phạm vi ảnh
hƣởng của thơ văn Nguyễn Xuân Ôn bị thu hẹp lại, chỉ giới hạn trong tầng
lớp văn thân sĩ phu mà không đi sâu đƣợc vào quần chúng nhân dân lao động.
Về mặt nội dung, mặc dù có tƣ tƣởng khá tiến bộ, không bị “tam cƣơng, ngũ
thƣờng” của phong kiến làm cho mù quáng, ôm chân giặc nhƣng ông vẫn
không hề có ý đánh đổ chế độ phong kiến. Sở dĩ có hạn chế trên là bởi
Nguyễn Xuân Ôn vốn xuất thân từ giai cấp phong kiến lại đƣợc đào tạo, rèn
luyện trong môi trƣờng nho học nên có những hạn chế trên là không thể tránh
khỏi. Song tựu chung lại, thơ văn Nguyễn Xuân Ôn vẫn có những giá trị nhất
định đáng đƣợc ghi nhận.
Hiện tại, thơ văn của ông vẫn chƣa đƣợc số độc giả biết đến nhƣng rồi
mai đây văn học Việt Nam sẽ không dành cho ông vị trí xứng đáng trong
hàng ngũ nhà văn nhà thơ Việt Nam. Nguyễn Xuân Ôn mãi là tấm gƣơng
sáng về hình ảnh ngƣời anh hùng chống giặc ngoại xâm, là thi sĩ nhiệt tình
yêu nƣớc. Hình ảnh của ông sẽ còn sống mãi với nhân dân, với Tổ quốc.
58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Văn Các, (2003), Từ điển Hán - Việt, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Các tác giả, (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc
gia Hà Nội.
3. Trần Quang Diệm, (1977) Thơ văn Nguyễn Xuân Ôn, Nxb. Văn học, Hà
Nội.
4. Hà Minh Đức, Thơ ca hiện đại Việt Nam, (1998) Nxb. Văn học, Hà Nội.
5. Đinh Xuân Lâm, Ngọc Đường thi văn tập, (1977), Nxb. Văn học, Hà Nội.
6. Nhiều tác giả, Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam tập IVA, (1965), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội
7. Nguyễn Lộc, Giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII - hết XIX,
(1976), Nxb. GDHN