LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của Th.S Đinh Thảo Quyên - Giảng viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Các dữ liệu và kết quả trình bày trong khóa luận
là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả khóa luận
Lê Thị Toàn
1
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời tri ân chân thành tới Th.S Đinh Thảo Quyên – người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu, đặc biệt là sự đóng
góp những ý kiến giúp tôi có thể hoàn thành khóa luận một cách trọn vẹn nhất.
Cùng với đó, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy, Cô Khoa Tâm lý học
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể các bạn sinh viên Khoa Tâm lý
học đã luôn sẵn lòng và tích cực hỗ trợ tôi trong quá trình tiến hành nghiên cứu thực
tiễn giúp tôi thu thập được những số liệu định lượng và định tính quan trọng để có thể
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những người cô, người bạn và gia
đình đã luôn hiện diện và ủng hộ tôi thời gian qua để tôi vững vàng hơn trong việc
hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Trong giới hạn về khả năng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi vẫn còn nhiều
thiếu sót nên rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô để tôi có thể
hoàn thiện và phát triển đề tài về sau.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Lê Thị Toàn
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nội dung viết tắt
ĐLC 1 Độ lệch chuẩn
ĐTB 2 Điểm trung bình
ĐRL 3 Điểm rèn luyện
4 ĐHSP TP.HCM Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân bố mẫu nghiên cứu ................................................................. 44
Bảng 2.2. Phân chia mức độ tự chấp nhận dựa trên giá trị trung bình ............. 47
Bảng 2.3. Hệ số tin cậy của thang đo ............................................................... 47
Bảng 2.4. Mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh ................................................................... 48
Bảng 2.5. Một số khía cạnh nổi bật trong tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm
lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh ............................... 50
Bảng 2.6. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các giới tính ..................... 53
Bảng 2.7. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các năm học ........................ 54
Bảng 2.8. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các học lực.......................... 54
Bảng 2.9. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các kết quả rèn luyện ......... 55
Bảng 2.10. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận cao .......................................... 56
Bảng 2.11. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận thấp ........................................ 57
Bảng 2.12. Các yếu tố tác động đến tự chấp nhận ........................................... 59
4
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1. Phân bố mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường
ĐHSP TP.HCM ................................................................................................ 49
Biểu đồ 2.2. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Khi quyết định đặt mục tiêu cho
chính mình thì việc cố gắng để đạt được hạnh phúc quan trọng hơn là cố gắng
để chứng tỏ bản thân” ....................................................................................... 51
Biểu đồ 2.3. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Tôi nghĩ rằng ai thành công trong
những việc họ làm là người có giá trị đặc biệt” ............................................... 52
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thay đổi nhanh chóng trong sự biến động của văn hóa – xã hội tác động
không nhỏ đến những cảm nhận của đời sống con người. Con người dễ rơi vào bế tắc,
khủng hoảng và gặp những rối nhiễu tâm lý hơn khi tự mình họ không chấp nhận
được thực tại. Với những khó khăn gặp phải, những thất vọng, những oán trách,... mỗi
người có thể mơ tưởng một thực tế khá hơn thực tại này, mong muốn bản thân khác
đi, luôn muốn được sống thật với những gì mình là. Tuy nhiên, con người lại chịu tác
động từ những định kiến và lề luật cứng nhắc, từ những trải nghiệm cá nhân trong
việc bị bắt lỗi, bị xét đoán, bị từ chối đã khiến họ hành xử khác đi. Có thể nói, một
trong những nhu cầu sâu xa nhất trong trái tim con người là được tôn trọng, được đón
nhận. Điều quan trọng là việc cá nhân tin rằng mình đáng quý và thật sự có giá trị bất
kể những lỗi lầm hay thất bại, bởi khi là chính mình thì họ mới không cần phải đóng
giả một ai đó khác, họ can đảm và tự do hơn trong việc thể hiện những gì rất thật của
bản thân. Điểm khởi đầu để có một cuộc sống khỏe mạnh về tinh thần đó là việc chấp
nhận thực tại, chấp nhận chính mình như những gì mình là. Chỉ khi chấp nhận chính
mình với một cái tôi cá vị về mặt tâm lý và hiện tại, cá nhân mới có thể cảm nhận
hạnh phúc trong sự tồn tại của đời sống con người. Vậy việc một cá nhân ý thức sự
tự chấp nhận, hòa giải với chính mình, đón nhận mọi sự như chính nó được thể hiện
như thế nào?
Theo quan đểm của Albert Ellis, tự chấp nhận vô điều kiện được xem là một
thành tố thay thế cho lòng tự trọng, phát triển trong liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý
(REBT - Rational Emotive Behavior Therapy), ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc “cá nhân chấp nhận những sự kiện bên trong, hướng đến sự tồn tại như một
tiến trình (ongoing process) – một cá nhân có quá khứ, hiện tại và tương lai; bất kì
một sự đánh giá nào về bản thân đều chỉ áp dụng cho một thời điểm nhất định và
không có tính liên tục”.
Với sự quan trọng của mình, tự chấp nhận vô điều kiện được rất nhiều sự quan
tâm, chú ý của các nhà tâm lý học trên thế giới. Nhiều công trình nghiên cứu về mối
liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện và các thành tố trong đời sống tâm lý của con
người như tự chấp nhận vô điều kiện và các yếu tố sức khỏe tâm lý (Unconditional
6
Self-Acceptance and Psychological Health) (Chamberlain & Haaga, 2001), nghiên
cứu của Thompson và Waltz về mối liên hệ giữa chánh niệm, lòng tự trọng và tự chấp
nhận vô điều kiện (Mindfulness, Self-Esteem and Unconditional Self-Acceptance)
(Thompson & Waltz, 2007) hay nghiên cứu về niềm tin phi lý và tự chấp nhận vô
điều kiện (Irrational Beliefs and Unconditional Self-Acceptance) (Davies, 2008). Bên
cạnh đó, kết quả của những nghiên cứu khác đều cho thấy vai trò quan trọng của tự
chấp nhận vô điều kiện, trong đó ý nghĩa sâu xa là việc cá nhân từng bước tìm cách
thấu hiểu chính mình và cuộc sống chứ không phải kiểm soát, đề từ đó dần xây dựng
lòng tin nhằm tìm ra hướng giải quyết thích hợp cho mình và cho người khác.
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào xem xét về
tự chấp nhận, cụ thể là ở thanh niên sinh viên. Trong khi đó, sinh viên là lứa tuổi đang
trong giai đoạn với những biến động rất riêng của đời người, đối diện với rất nhiều
những khó khăn, những tác động từ gia đình, xã hội và từ chính những trải nghiệm cá
nhân. Tâm lý học - một khoa học đặc thù nhằm phục vụ và hướng đến sự phát triển
đời sống con người, các bạn sinh viên đang chọn theo học Tâm lý học hướng đến việc
có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn về đời sống tâm lý con người, trên mọi phương
diện và ở các mức độ khác nhau. Giá trị cuối cùng, có thể là cao nhất nơi những người
theo học là giúp chính bản thân người học hiểu được về chính mình, tự rèn luyện, tự
điều chỉnh mình theo hướng tích cực nhất (Huỳnh Văn Sơn, 2016). Liệu rằng các sinh
viên đang theo học ngành Tâm lý học có sự tự chấp nhận ở mức độ nào, đâu là những
yếu tố nào tác động đến việc sinh viên tự chấp nhận bản thân?
Nhằm cung cấp thêm một phần lý thuyết cũng như góc nhìn khoa học, rõ ràng
hơn về tự chấp nhận của lứa tuổi thanh niên sinh viên nói chung, sinh viên theo học
Tâm lý học nói riêng, đề tài “Tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh” được xác lập.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên ngành Tâm lý học Khoa Tâm lý
học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó tìm hiểu sâu hơn
một số yếu tố liên quan đến tự chấp nhận và đề xuất một số giải pháp giúp sinh viên
nâng cao tự chấp nhận.
7
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên từ năm 1 đến năm 4 đang theo học ngành Tâm lý học (hệ chính quy)
tại Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh năm học 2018-
2019.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Tự chấp nhận của sinh viên ngành Tâm lý học Khoa Tâm lý học Trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Mức độ tự chấp nhận của đa số sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh ở mức trung bình.
- Có sự khác biệt ý nghĩa về sự tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học
Trường ĐHSP TP.HCM dựa trên các tham số năm học, thành tích học tập.
- Trong các yếu tố tác động, tự chấp nhận có mối liên hệ nhiều với các yếu tố
thuộc về giá trị bản thân của sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa tổng quan về đề tài và cơ sở lý luận liên quan, bao gồm: lòng tự
trọng, tự chấp nhận, tự chấp nhận vô điều kiện, đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh.
- Thực hiện tìm hiểu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học
Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh qua khảo sát và phỏng vấn.
6. Giới hạn nghiên cứu
6.1. Về nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu về tự chấp nhận (self-acceptance) trong bảng hỏi Tự
chấp nhận vô điều kiện (USAQ - The Unconditional Self-Acceptance Questionaire)
của Chamberlain & Haaga xây dựng năm 2001 được phát triển dưới tiếp cận của
Albert Ellis.
6.2. Về khách thể:
Đề tài tiến hành khảo sát trên 274 sinh viên, phỏng vấn 8 sinh viên từ năm 1 đến
năm 4 đang theo học chuyên ngành Tâm lý học, hệ chính quy tại Khoa Tâm lý học
Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
8
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Với mục đích xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về tự chấp nhận của sinh viên
Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, phương pháp
nghiên cứu tài liệu được tiến hành bằng cách tập hợp các tài liệu có liên quan, phân
tích thành từng đơn vị kiến thức và khái quát thành hệ thống kiến thức riêng biệt phù
hợp cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp này được tiến hành bằng việc phát bảng hỏi tự chấp nhận vô điều
kiện đến sinh viên nhằm khảo sát về mức độ tự chấp nhận của sinh viên và sự khác
biệt trong các tham số.
7.2.2. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lý và phân tích các số liệu
thu thập từ bảng hỏi thông qua chương trình SPSS 20.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc
Phương pháp này được tiến hành bằng việc xây dựng hệ thống một số câu hỏi
mở liên quan đến đề tài nhằm tìm hiểu thông tin, góc nhìn của người trong cuộc về tự
chấp nhận.
7.2.4. Phương pháp phân tích dữ liệu theo chủ đề (thematic analysis)
Phương pháp phân tích dữ liệu theo chủ đề được tiến hành bằng việc mã hóa nội
dung phỏng vấn, phân tích thông tin theo các chủ đề nhất định nhằm xác định được
các nội dung liên quan đến tự chấp nhận theo quan điểm của sinh viên.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHẤP NHẬN CỦA SINH VIÊN
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về tự chấp nhận của sinh viên
1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1. Nghiên cứu về tự chấp nhận nói chung
Khái niệm về cái tôi và những khía cạnh của nó được các nhà tâm lý học quan
tâm từ rất sớm. Tự chấp nhận đã được quan tâm trong tâm lý học về lý thuyết, nghiên
cứu và đo lường nổi trội lên từ những năm đầu thế kỉ 20. Tâm lý học nhân văn là lý
thuyết tâm lý đầu tiên nhấn mạnh, cân nhắc một cách rất nghiêm túc đối với giá trị và
ý nghĩa của tự chấp nhận trong tâm lý học. Các nhà tâm lý học nhân văn tiêu biểu như
Carl Roger, Abraham Maslow, Rollo May.
Những bằng chứng đầu tiên trong nghiên cứu của Ryff (1989) “Thái độ tích cực
đối với bản thân” được xem xét như một phần để định nghĩa tự chấp nhận và đo lường
lòng tự trọng. Những năm cuối thập niên 1940, các nghiên cứu về tự chấp nhận đa số
chịu ảnh hưởng dưới góc độ nhân văn đều cho thấy mức độ tự chấp nhận cao có mối
liên hệ tích cực với cảm xúc tích cực, làm hài lòng những mối quan hệ xã hội, thành
tích và điều chỉnh những sự kiện tiêu cực trong đời sống (Williams & Lynn, 2010).
Theo thời gian, tự chấp nhận tiếp tục được nhấn mạnh trong một số hình thức
của Liệu pháp nhận thức - hành vi (CBT - Cognitive Behavior Therapy), đặc biệt
trong Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý (REBT - Rational Emotion Behavior
Therapy). Năm 1962, Albert Ellis đã đề xuất nhấn mạnh đến sự tự chấp nhận vô điều
kiện và xem đó là một khái niệm cốt lõi, một phần không thể thiếu trong liệu pháp
nhận thức hành vi. Sau đó tự chấp nhận được đẩy mạnh lên làm nền tảng của Liệu
pháp hành vi biện chứng (DBT - Dialectical Behavior Therapy) và Liệu pháp chấp
nhận và chú tâm (ACT - Acceptance and Commitment Therapy) (Szentagotai &
David, 2013).
Những nghiên cứu đầu tiên phản hồi về mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều
kiện và chấp nhận người khác vô điều kiện trong một dân số ngẫu nhiên từ những
sinh viên khỏe mạnh và người lớn cho đến những bệnh nhân hay những tù nhân.
Trong khi các nghiên cứu về sau cố gắng nhấn mạnh đến mối liên hệ của tự chấp nhận
10
với các yếu tố khác của hạnh phúc tâm lý (psychological well-being), sự khác biệt
giữa tự chấp nhận và lòng tự trọng (Sheere, 1949; Berger, 1952; Suinn, 1961).
Năm 2005, David và Szentagotai đã nghiên cứu một thực nghiệm đóng góp cho
quan điểm rằng tự chấp nhận là điều cốt lõi để đạt được hạnh phúc. Nghiên cứu này
cũng tin chắc rằng lý thuyết của liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý về tự chấp nhận có
thể đóng góp những giá trị nền tảng, không chỉ cho việc nâng cao hiểu biết về hạnh
phúc mà còn là việc làm thế nào để đạt được và duy trì hạnh phúc (David &
Szentagotai, 2013).
Nghiên cứu của Macinnes (2006) đã tìm hiểu về mối liên hệ giữa các khái niệm
lòng tự trọng và tự chấp nhận với sức khỏe tâm lý (Self-esteem and self-acceptance:
An examination into their relationship and their effect on psychological health). Kết
quả cho thấy, so với dân số chung mẫu nghiên cứu có mức độ tự chấp nhận và lòng
tự trọng thấp; mức độ lo âu, trầm cảm và bệnh lý tâm lý (psychological ill health) cao
hơn (Macinnes, 2006).
Bernard và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về tự chấp nhận trong giáo dục và
tham vấn cho người trẻ (Self-Acceptance in the Education and Counseling of Young
People). Năm 2007, ông xây dựng các bài học trong việc giáo dục học sinh về tự chấp
nhận (Lesson to Teach Self-Acceptane). Năm 2012, Bernard đã thực hiện một nghiên
cứu trên 254 sinh viên của 4 trường học khác nhau tại Victoria, Úc. Để phát triển tự
chấp nhận trong giáo dục và tham vấn cho học sinh, Bernard đã thiết kế bảng khảo
sát dành cho trẻ em và thanh thiếu niên về tự chấp nhận (Bernard, 2012a). Ông đã đưa
ra một vài lời khuyên tự giúp đỡ dành cho lứa tuổi học sinh trong việc tăng cường tự
chấp nhận (Self-Help Tips for Strengthening Your Self-Acceptance) (Bernard, 2012b).
Năm 2013, để giúp các em học sinh phát triển tự chấp nhận, ông đã xây dựng hệ thống
bài tập nâng cao sự tự nhận thức qua các phản hồi (Bernard, Vernon, Terjesen &
Kurasaki, 2013).
Dù là một khái niệm trung tâm của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý nhưng tự
chấp nhận vô điều kiện lại chưa được kiểm chứng một cách đầy đủ qua các thực
nghiệm. Theo đó, một nghiên cứu được Popov và cộng sự (2016) xây dựng trong bối
cảnh thực nghiệm để kiểm tra sự ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức
khỏe tâm thần (Unconditional Self-Acceptance and Mental Health in Ego-provoking
11
experimental context) qua các yếu tố như mức độ tự chấp nhận, kiểu phản hồi và sự
hài lòng đối với phản hồi (Popov, Radanovic & Biro, 2016).
Năm 2017, Ciuhan và Dumitru đã tiến hành nghiên cứu trên mẫu 300 thanh thiếu
niên Rumani (Unconditional Self-Acceptance, Functional and Dysfunctional
Negative Emotions, and Self-Esteem as Predictors for Depression in Adolescents: a
Brief Pilot Study Conducted in Romania). Kết quả cho thấy mối tương quan giữa tự
chấp nhận vô điều kiện, lòng tự trọng và cảm xúc tiêu cực loạn chức năng (functional
and dysfunctional negative emotions) của họ với mức độ trầm cảm của thanh thiếu
niên tuổi từ 14 đến 17 tại Rumani (Ciuhan & Dumitru, 2017).
Trong vòng ba thập kỉ qua, một lượng lớn các nghiên cứu về tự chấp nhận đã
được tiến hành trên thế giới. Từ đó cũng cung cấp, bổ sung thêm các bằng chứng ấn
tượng có liên quan đến tầm quan trọng của tự chấp nhận cho sức khỏe tâm thần và
cảm nhận hạnh phúc trong đời sống tâm lý con người.
1.1.1.2. Nghiên cứu về tự chấp nhận và sự thể hiện bản thân
Lứa tuổi thanh niên sinh viên đối mặt với những áp lực trong việc thể hiện bản
sắc cá nhân với những người bạn, cụ thể là trong những kết nối có tính xã hội. Một
nghiên cứu của Aricak và cộng sự (2015) tìm hiểu cách tự chấp nhận và giá trị tác
động như thế nào đến việc sinh viên thể hiện chân thực bản sắc cá nhân trực tiếp và
gián tiếp “như chính họ là” (Mediating effect of self-acceptance between values and
offline/online identity expressions among college students). Kết quả thể hiện rằng sự
tự do là một giá trị có ý nghĩa ảnh hưởng đến xu hướng của người tham gia trong việc
thể hiện bản sắc cá nhân trực tiếp và gián tiếp. Đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy
sự tự do, giá trị lãng mạn, phẩm giá con người, xã hội và giá trị nghề nghiệp có một
chút ảnh hưởng tích cực nhưng không trực tiếp trên tính chân thực trong việc thể hiện
bản sắc cá nhân; trong khi giá trị vật chất, tinh thần và giá trị trí tuệ có một chút ảnh
hưởng tiêu cực không trực tiếp (Aricak, Dundar & Saldana, 2015).
Một nghiên cứu khác của Denmark (1973) đã xác định tự chấp nhận cũng có
mối liên hệ với sự thể hiện bản thân. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng người lãnh đạo với
điểm tự chấp nhận vô điều kiện cao được đánh giá là hiệu quả nhất trên địa vị của họ
(Szentagotai & David, 2013).
12
Năm 2016, một nghiên cứu của Popov và cộng sự được thực hiện để tìm hiểu về
ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức khỏe tâm thần qua các chỉ số trong
bối cảnh thực nghiệm khơi dậy cái tôi (Unconditional Self-Acceptance and Mental
Health in Ego-provoking experimental context). Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu
là 188 sinh viên, các nhà nghiên cứu đã minh hoạ cuộc nói chuyện trước đám đông,
sau đó các sinh viên tham gia có thời gian chuẩn bị trước, trình bày và nhận được các
phản hồi (tích cực, tiêu cực và trung tính) một cách ngẫu nhiên (Popov, Radanovic &
Biro, 2016).
1.1.1.3. Nghiên cứu về tự chấp nhận trong mối quan hệ với người khác
Bên cạnh khái niệm về “tự chấp nhận vô điều kiện”, Albert Ellis có một quan
điểm tương đồng, đó là “chấp nhận người khác vô điều kiện” (unconditional others
acceptance). Ông định nghĩa rằng “chấp nhận người khác mà không cần bất kì điều
kiện tiên quyết nào, không xem xét hành vi, quan điểm hay cách ứng xử của họ như
thế nào” (Ellis, 1994). Ellis đã nhận định rằng yếu tố chính của một mối quan hệ có
hiệu quả, xét riêng trong mối quan hệ chính là tư duy hợp lý của mỗi người; người
chấp nhận bản thân và người khác một cách vô điều kiện, đó là một điểm khởi đầu tốt
đẹp để xây dựng và phát triển mối quan hệ. Ông cho rằng chìa khóa cho cả hai trong
việc tìm kiếm và duy trì một mối quan hệ yêu thương là việc chấp nhận người khác
một cách hoàn toàn mà không có bất kì sự mâu thuẫn nào trong tư tưởng, học cách để
yêu mến sự tự do và sự khác biệt của mỗi cá nhân.
Những năm đầu của thế kỉ 20, các nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu về mối liên hệ
giữa tự chấp nhận và chấp nhận người khác. Trong nghiên cứu của Sheerer (1949) đã
tìm ra sự mối liên hệ giữa thái độ của tự chấp nhận và chấp nhận người khác, đây là
một trong những nghiên cứu đầu tiên về tự chấp nhận vô điều kiện tập trung giải thích
rằng cái tôi là một điểm tựa (anchor) ảnh hưởng đến góc nhìn và thái độ của chúng ta
đối với người khác (Williams & Lynn, 2010). Có các nghiên cứu phản hồi về sự liên
hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện và chấp nhận người khác vô điều kiện trong một
dân số ngẫu nhiên từ những sinh viên khỏe mạnh và người lớn cho đến những bệnh
nhân hay những tù nhân (Sheerer, 1949). Hầu hết các nghiên cứu chủ yếu quan sát
một mối quan hệ giữa cảm nhận về bản thân và với người khác dựa trên kinh nghiệm
13
lâm sàng, chỉ một số nghiên cứu gần đây mới cố gắng nghiên cứu mối quan hệ này
một cách có hệ thống.
Trên cơ sở nghiên cứu của Sheerer, một nghiên cứu được xây dựng trên mẫu là
sinh viên của Trường Đại học Chicago nhằm tìm hiểu mối quan hệ về thái độ đối với
bản thân và người khác (The relation between expressed acceptance of self and
expressed acceptance of others) dưới ảnh hưởng từ tư tưởng của Carl Rogers. Trong
nghiên cứu này, thay vì khái quát từ những kinh nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên
cứu đã cố gắng để đo lường thái độ của cá nhân đối với bản thân và người khác dựa
trên việc sử dụng thang đánh giá. Kết quả cho thấy nghiên cứu có ý nghĩa tích cực,
đóng góp bằng chứng cho thấy có mối liên hệ cao giữa chấp nhận bản thân và chấp
nhận người khác (Berger, 1952).
Nếu một người không thể hiện diện với chính mình thì không thể hiện hiện thật
sự với người khác. Tự chấp nhận trong tâm điểm giao tiếp giúp mối tương giao với
mọi người luôn được đặt trên nền tảng của sự chân thành, yêu thương và sẵn sàng đón
nhận.
1.1.1.4. Nghiên cứu về tự chấp nhận và lòng tự trọng
Ryff đã xây dựng công trình nghiên cứu đầu tiên xem xét về mối liên hệ giữa
lòng tự trọng và tự chấp nhận. Qua tiểu thang đo SPWB (Scales of Psychological
Well-being, Self-Acceptance Subscale) cho thấy lòng tự trọng có mối liên hệ khá cao
(r = 0.62) với tự chấp nhận.
Trong cấu trúc của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý, suốt những năm làm việc
Albert Ellis đã trình bày về khái niệm lòng tự trọng (cao và thấp). Đến năm 1996,
trong cuốn “Liệu pháp tâm lý”, Ellis đã đưa ra và nhấn mạnh đến khái niệm tự chấp
nhận vô điều kiện và xem đó như là một khái niệm thay thế cho lòng tự trọng. Các
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rất nhiều lợi ích có mục đích của lòng tự trọng cao
(như tăng thành tích, mối quan hệ tốt hơn) không chứng minh được những kết quả
này một cách khách quan. Lòng tự trọng cao có thể dẫn đến ái kỉ nếu đi cùng bởi một
cảm giác rằng một người không chỉ tốt và có giá trị mà còn có giá trị “hơn” và đặc
biệt hơn người khác. Nếu sự tự đánh giá của một người quá tốt về sự thể hiện khách
quan và nhận thức của người khác, có thể đó là kết quả không thuận lợi xét về tính
lâu dài, bao gồm cả sự từ chối bởi bạn bè, đồng nghiệp. Theo đó, một quan điểm có
14
tính thuận lợi cao về bản thân bị đe dọa trong một vài thói quen có liên quan với hành
vi bạo lực (Falkenstein & Haaga, 2013).
Theo Chamberlain và Haaga trong nghiên cứu về tự chấp nhận và sức khỏe tâm
lý họ đã tìm thấy mức độ tương đồng tương đối cao trong đo lường giữa lòng tự trọng
và tự chấp nhận. Haaga nhận định rằng một vài điểm trong thang đo lòng tự trọng của
Rosenberg (1965) vẫn có yếu tố “có điều kiện” trong những phát biểu và nhận thấy
thiếu sự tự chấp nhận ở những người tham gia (Chamberlain & Haaga, 2001).
Các khái niệm về lòng tự trọng và tự chấp nhận được xác định là tương tự nhau
(similar) nhưng không đồng nghĩa (not synonymous). Lòng tự trong có liên quan chặt
chẽ hơn về sự ảnh hưởng, mức độ lòng tự trọng cao biểu thị mức độ trầm cảm thấp.
Tự chấp nhận dường như có liên quan chặt chẽ với cảm nhận chung về hạnh phúc tâm
lý và hữu ích hơn khi thực hiện các công việc lâm sàng liên quan đến các vấn đề tâm
lý chung (Macinnes, 2006).
Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý nhìn nhận lòng tự trọng cao hay thấp đều là
sự không khỏe mạnh (unhealthy), cho dù mức độ ấy phản ánh một sự đánh giá tổng
quát về giá trị của một người, sau cùng sẽ dẫn đến sự rối loạn cảm xúc và vì thế lòng
tự trọng là có hại cho sức khỏe tâm thần. Theo đó, giải pháp của A. Ellis cho vấn đề
này là mọi người cần từ bỏ sự tìm kiếm đối với lòng tự trọng và quá trình tự đánh giá
đi kèm với nó, thay vào đó làm việc theo hướng tự chấp nhận vô điều kiện. Năm 1996,
trong cuốn “Liệu pháp tâm lý”, ông đã đưa ra và nhấn mạnh đến khái niệm tự chấp
nhận vô điều kiện và chọn lựa đó như một khái niệm thay thế và là một nhân tố “lành
mạnh hơn” so với lòng tự trọng (Chamberlain & Haaga, 2001a).
1.1.1.5. Nghiên cứu về tự chấp nhận và sức khỏe tâm lý/tâm thần
Năm 2001, Chamberlain & Haaga đã thực hiện một nghiên cứu phi lâm sàng
trên 107 người trưởng thành (tuổi từ 19 đến 81) để tìm hiểu về mối mối liên hệ của tự
chấp nhận vô điều kiện và các chỉ số sức khỏe tâm lý (Unconditional Self-Acceptance
and Psychological Health) như hạnh phúc, sự hài lòng đối với cuộc sống. Nghiên cứu
này đã cho thấy một cách bao quát viễn cảnh của hạnh phúc trong tâm lý học và thảo
luận về vai trò của tự chấp nhận vô điều kiện trong cảm nhận hạnh phúc, đồng thời
nó cũng chỉ ra sự khác biệt giữa tự chấp nhận và lòng tự trọng (Chamberlain & Haaga,
2001).
15
Albert Ellis cho rằng khi một người được giải phóng khỏi những lo âu, những
cảm giác về sự không xứng đáng và thoát ra khỏi nỗi sợ bị chỉ trích, bị chối bỏ thì
người ấy được tự do khám phá và tiếp tục theo đuổi những điều thật sự khiến họ hạnh
phúc (Ellis, 1962).
a. Tự chấp nhận và hạnh phúc
Bản chất của hạnh phúc và cuộc sống tốt đẹp đã được con người quan tâm hàng
thiên niên kỉ nay quan niệm rằng cho dù có chuyện gì thì không phải chỉ “sống” mà
là “sống tốt” đã trở thành tâm điểm tư duy ở cả Tây phương và Đông phương (Kesebir
& Diener, 2008). Các nghiên cứu vào những năm cuối thập niên 1940 đã nhận định
rằng mức độ tự chấp nhận cao có mối liên hệ với cảm xúc tích cực, sự hài lòng về
những mối quan hệ xã hội, thành tích và khả năng điều chỉnh những sự kiện tiêu cực
của cuộc đời (Williams & Lynn, 2010).
Theo Ellis, hạnh phúc lâu dài có khả năng liên quan đến việc theo đuổi và đạt
được mục tiêu mà khi đó các cảm xúc đau đớn giảm, sự dễ chịu và hài lòng được tối
đa hóa, điều đó tạo nên những mối quan hệ sâu sắc và sự mãn nguyện cũng như sự
xuất sắc trong công việc và những hoạt động khác (Bernard, 2011). Năm 2005, một
nghiên cứu của David và Szentagotai đã có những thực nghiệm đóng góp cho quan
điểm về vai trò của tự chấp nhận đối với hạnh phúc và tin chắc rằng lý thuyết của Liệu
pháp hành vi cảm xúc hợp lý có thể đóng góp nền tảng không chỉ cho việc hiểu biết
về hạnh phúc mà còn là việc làm thế nào để đạt được hạnh phúc và duy trì nó
(Szentagotai & David, 2013).
Mặc dù có những thay đổi trong việc tiếp cận cũng như nghiên cứu về hạnh phúc
và cảm nhận hạnh phúc từ đầu đến gần cuối thế kỉ 20. Khuynh hướng tâm lý học tích
cực đạt đỉnh cao vào khoảng cuối những năm 90, trong đó nhìn nhận mối liên hệ giữa
tự chấp nhận và hạnh phúc là một phần của việc khái niệm hóa những mối quan tâm
của các nhà tâm lý.
b. Tự chấp nhận và chủ nghĩa cầu toàn
Nghiên cứu trên mẫu gồm 94 sinh viên của Flett và cộng sự (2003) đã tìm hiểu
mối liên hệ giữa các khía cạnh của chủ nghĩa hoàn hảo, tự chấp nhận vô điều kiện và
tự báo cáo về trầm cảm (Dimensions of Perfectionism, Unconditional Self-Acceptance
and Depression). Những phát hiện trong nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người cầu
16
toàn tự đánh giá mình dựa vào cảm nhận tạm thời về giá trị bản thân, và như vậy, họ
dễ bị tổn thương dẫn đến sự đau khổ tâm lý khi trải qua những sự kiện tiêu cực, cảm
nhận về giá trị bản thân của họ không được khẳng định. Theo đó, người cầu toàn đánh
giá bản thân trong những điều kiện của giá trị toàn thể, dễ bị tổn thương (vulnerable)
với những phản ứng cảm xúc tiêu cực có thể ảnh hưởng đến những mục tiêu của họ
và khi phải đương đầu với những sự kiện không khẳng định giá trị của họ (Flett,
Davies & Hewitt, 2003).
Năm 2007, Scott đã thực hiện một nghiên cứu để tìm hiểu sự tác động của chủ
nghĩa cầu toàn và tự chấp nhận vô điều kiện trên trầm cảm (The effect of perfectionism
and unconditional self-acceptance on depression), nghiên cứu trên mẫu phi lâm sàng
gồm 134 người tham gia. Kết quả cho thấy tự chấp nhận vô điều kiện làm trung gian
trong sự tác động của chủ nghĩa cầu toàn mang tính bắt buộc xã hội đối với trầm cảm.
Trong đó, cấu trúc cốt lõi của chủ nghĩa cầu toàn có thể có hậu quả tiêu cực, dẫn đến
mức độ thấp của sự chấp nhận bản thân vô điều kiện, và từ đó dễ dẫn đến trầm cảm
(Scott, 2007).
Trong rất nhiều khía cạnh, sự khác biệt giữa tự chấp nhận có điều kiện và vô
điều kiện theo Hamachek (1978) để phân biệt giữa người cầu toàn nhiễu tâm là những
người có nhu cầu được chấp nhận, đòi hỏi sự thành công với những người cầu toàn
bình thường là những người theo đuổi sự xuất sắc và tìm kiếm sự chấp nhận của người
khác không bởi những nhu cầu chung chung nhưng là thỏa mãn ước muốn và sở thích
mà không có những hậu quả tiêu cực (Jibeen, 2016).
Trong sự trưởng thành về tâm lý, sự tự chấp nhận hướng đến việc cá nhân ý thức
một cách đầy đủ và trọn vẹn về mình với tất cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực,
những ưu điểm và hạn chế cũng như việc nhìn nhận rằng mình dễ mắc sai lầm, thiếu
sót và bản thân cần điều chỉnh để hoàn thiện mình mà không phán xét hay tức giận
với chính mình.
c. Tự chấp nhận và các niềm tin phi lý
Trong một nghiên cứu phi lâm sàng trên 102 người trưởng thành của Davies
(2006) để tìm hiểu về mối quan hệ giữa đo lường về niềm tin phi lý, tự chấp nhận vô
điều kiện, lòng tự trọng và thang tính cách Big 5 (Big-5 personality dimensions). Kết
quả cho thấy, tự chấp nhận vô điều kiện có mối liên hệ cao với lòng tự trọng. Trong
17
lý thuyết nền tảng (key tenets) của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý, cá nhân có
điểm số tự chấp nhận vô điều kiện cao sẽ có điểm thấp về niềm tin phi lý, khi lòng tự
trọng đã được loại trừ. Bên cạnh đó, tự chấp nhận đã được tìm thấy có ý nghĩa trong
mối liên hệ nghịch với yếu tố nhiễu tâm, niềm tin phi lý đã được tìm thấy có mối liên
hệ thuận với yếu tố nhiễu tâm và tính cởi mở của thang tính cách Big-5 (Davies,
2006).
Davies (2007) đã tiếp tực thực hiện một nghiên cứu để tìm hiểu về mối liên hệ
hệ nhân quả giữa niềm tin phi lý và tự chấp nhận vô điều kiện trên mẫu phi lâm sàng
là 106 người sử dụng kỹ thuật mồi (priming technique). Nghiên cứu chỉ ra rằng
những người tham gia mồi với những phát biểu về niềm tin phi lý dẫn đến việc giảm
tự chấp nhận trong khi những người tham gia mồi với những phát biểu về niềm tin
hợp lý dẫn đến việc tăng tự chấp nhận vô điều kiện. Ngược lại, những người tham
gia mồi với các phát biểu về tự chấp nhận vô điều kiện không dẫn đến sự tăng trong
những suy nghĩ hợp lý và những người tham gia mồi với phát biểu về tự chấp nhận
có điều kiện không dẫn đến sự gia tăng trong suy nghĩ phi lý. Đây cũng là nghiên
cứu đầu tiên cung cấp bằng chứng về mối liên hệ nhân quả giữa suy nghĩa hợp lý/phi
lý và tự chấp nhận vô điều kiện/có điều kiện (Davies, 2007a). Tiếp theo đó, Davies
lại thực hiện hai nghiên cứu trên sinh viên đại học, một nghiên cứu tương quan (mẫu
là 158) và một nghiên cứu thực nghiệm (mẫu là 128), ông nhận thấy rằng việc cá nhân
cần thành tích, cần sự tán thưởng và tự hạ thấp là những niềm tin phi lý quan trọng
của thái độ chung. Nhu cầu về sự thoải mái, nhu cầu về sự công bằng và những sự hạ
thấp khác được tìm thấy là ít có ảnh hưởng đến cá nhân (Davies, 2007b).
Một nghiên cứu của T. Jibeen (2016) trên 150 sinh viên tuổi từ 18 đến 25 để tìm
hiểu về vai trò điều tiết của tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng trong mối liên
hệ với niềm tin không dung thứ sự thất vọng và đau khổ tâm lý (Unconditional Self-
Acceptance and Self-Esteem in Relation to Frustration Intolerance Beliefs &
Psychological Distress) đã chứng minh mối liên hệ cho thấy tự chấp nhận vô điều
kiện và lòng tự trọng có khả năng điều tiết với các yếu tố trong niềm tin không dung
thứ sự thất vọng bao gồm quyền lợi, thành tích, không chấp nhận cảm xúc (emotional
intolerance), không chấp nhận sự khó chịu (discomfort intolerance) và đau khổ tâm
lý. Tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng có mối liên hệ nghịch ở mức trung
18
bình với đau khổ tâm lý và niềm tin không dung thứ sự thất vọng. Nghiên cứu này
cũng đã làm sáng tỏ và mở rộng cho những nghiên cứu trước về những niềm tin phi
lý và đau khổ tâm lý bằng cách kết hợp sự tập trung trên tính khác biệt cá nhân trong
tự chấp nhận và lòng tự trọng (Jibeen, 2016)
Năm 2017, Milburn và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu trên 433 người
tham gia nhằm để tìm hiểu về mối quan hệ giữa các khái niệm của niềm tin phi lý, tự
chấp nhận và khuynh hướng tha thứ (Empirical Investigation of the Relationship
Between Irrationality, Self-Acceptance and Dispositional Forgiveness). Kết quả cho
thấy mối mối liên hệ nghịch mức vừa và cao giữa niềm tin phi lý và khuynh hướng
tha thứ. Ngược lại, tự chấp nhận vô điều kiện có mối liên hệ thuận có ý nghĩa với
khuynh hướng tha thứ. Phân tích hồi quy trong nghiên cứu đã chỉ ra rằng kiểu niềm
tin phi lý và tự chấp nhận có thể dự báo khuynh hướng tha thứ của bản thân, người
khác và tình huống. Khám phá này đã hỗ trợ thêm về kinh nghiệm cho giả thuyết của
Milburn khi ông cho rằng việc giữ những niềm tin phi lý cản trở quá trình tha thứ và
mức độ tự chấp nhận của một người dự báo khuynh hướng tha thứ của người ấy
(Milburn, Porada & Sammut, 2017).
Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng giữa tự chấp nhận vô điều kiện và niềm tin phi
lý luôn có mối mối liên hệ nghịch. Một người có những niềm tin phi lý sẽ cản trở họ
trong việc chọn lựa mục tiêu, chấp nhận bản thân với toàn bộ giá trị và khả năng phát
triển của một con người.
d. Tự chấp nhận và các rối loạn tâm thần
Có rất nhiều các nghiên cứu được thực hiện để xác định mối liên hệ giữa tự chấp
nhận và các chỉ số sức khỏe tâm thần như trầm cảm, lo âu, các rối loạn tâm thần.
Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý cho rằng sự đánh giá của cá nhân (tích cực
hay tiêu cực) và sự đánh giá tổng thể về giá trị của một người dựa trên những thành
tích đạt được là một sự phi lý và dễ dẫn đến các vấn đề tâm lý. Hầu hết các đau khổ
tâm lý đều có liên quan tới sự tập trung quá mức, nhạy cảm với những lời chỉ trích,
tức giận, cầu toàn và một số trong chúng là các vấn đề tâm bệnh. Trong nghiên cứu
của Chamberlain và Haaga về tự chấp nhận vô điều kiện và sức khỏe tâm lý đã tìm
thấy mối mối liên hệ nghịch giữa tự chấp nhận vô điều kiện với lo âu, trầm cảm
(Chamberlain & Haaga, 2001a).
19
Một nghiên cứu của Macinnes (2006) về mối liên hệ và ảnh hưởng của tự chấp
nhận vô điều kiện và lòng tự trọng trên sức khỏe tâm lý (Self-esteem and self-
acceptance: An examination into their relationship and their effect on psychological
health). Nghiên cứu này được thực hiện trên 58 người tham gia đã được chẩn đoán
một vài vấn đề về sức khỏe tâm thần nghiêm trọng, họ cũng được đánh giá về mức độ
lòng tự trọng, tự chấp nhận, trầm cảm, lo âu và hạnh phúc tâm lý. Kết quả cho thấy,
so với dân số chung, mẫu nghiên cứu có mức độ tự chấp nhận và lòng tự trọng thấp;
mức độ lo âu, trầm cảm và bệnh lý tâm lý (psychological ill health) cao hơn
(Macinnes, 2006).
Theo Falkenstein và Haaga (2013) trong tác phẩm đo lường và nét đặc trưng của
tự chấp nhận vô điều kiện (Measuring and Characterizing Unconditional Self-
Acceptance) chỉ ra rằng hạnh phúc phi lý (irrational happiness) có điểm đặc trưng là
những hành vi không thích ứng, có cảm xúc tiêu cực loạn chức năng, những mục tiêu
và giá trị luôn đặt ra một cách khuôn khổ và cứng nhắc. Trong đó, sự tự hạ thấp được
xem là nguyên nhân của những căng thẳng và đau khổ. Còn tự chấp nhận, một cách
độc lập với lòng tự trọng có liên hệ với lo âu thấp, ái kỉ thấp, trầm cảm thấp, niềm tin
phi lý thấp và một khả năng tuyệt vời để đạt được sự khách quan về hành vi và sự tử
tế của bản thân trong phản ứng với những lời chỉ trích. Người có điểm tự chấp nhận
vô điều kiện cao cho thấy sự hiện hữu với ít buồn, lo lắng, tức giận, cầu toàn hay phi
lý. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện với các rối loạn lâm sàng
phần lớn chưa được kiểm chứng (Falkenstein & Haaga, 2013).
Một nghiên cứu thực nghiệm của Popov và cộng sự (2016) được thực hiện trên
188 sinh viên để tìm hiểu sự ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức khỏe
tâm thần. Các nhà nghiên cứu đã thiết kế các thực nghiệm gần như được sử dụng trên
một mặt bằng chung và dự đoán được những người tham gia với mức độ tự chấp nhận
vô điều kiện thấp, không hài lòng với phản hồi sẽ có điểm cao hơn cho các triệu chứng
rối nhiễu tâm lý (lo âu và trầm cảm) (Popov và cộng sự, 2016).
Đầu thế kỉ 20 các nghiên cứu trên thế giới tập trung tìm hiểu về mối liên hệ giữa
tự chấp nhận và chấp nhận người khác. Về sau, các nghiên cứu về tự chấp nhận ngày
càng được mở rộng và sâu hơn, không chỉ dừng lại trong các nghiên cứu tương quan
để tìm hiểu về mối liên hệ giữa tự chấp nhận với các yếu tố như trầm cảm, lo âu, niềm
20
tin phi lý, chủ nghĩa cầu toàn mà còn phát triển các nghiên cứu thực nghiệm để xác
định vai trò của tự chấp nhận đối với các vấn đề và đau khổ tâm lý.
1.1.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở Việt Nam
Tự đánh giá bản thân là thái độ của con người hướng tới năng lực, khả năng và
giá trị của mình. Hàng loạt công trình nghiên cứu về tự đánh giá được các nhà Tâm
lý học Việt Nam tìm hiểu qua các giai đoạn lứa tuổi như nghiên cứu về “Tự đánh giá
của học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội” của tác giả Đỗ Ngọc Khanh (2005), đề tài
“Khả năng tự đánh giá các phẩm chất ý chí của học sinh trung học phổ thông” được
nghiên cứu bởi Bùi Thị Hồng Thắm (2010).
Năm 2007, công trình nghiên cứu “Khảo sát việc tự đánh giá của sinh viên tại
thành phố Hồ Chí Minh” của Ngô Thị Đẹp và Dư Thống Nhất đã được thực hiện trên
234 sinh viên đang theo học tại một số Trường Đại học tại thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu này đo lường mức độ tự đánh giá của sinh viên tham gia từ các mức độ
từ cao xuống thấp trong đó sự tự đánh giá cao nhất là những đặc điểm mang tính đạo
đức của bản thân, tiếp theo là những đặc điểm về sự nỗ lực của bản thân trong học tập
và cao thứ ba là những đặc điểm về khả năng chia sẻ của bản thân (Ngô Thị Đẹp và
Dư Thống Nhất, 2014). Các nghiên cứu đã tìm hiểu về các quan niệm tự đánh giá trên
thế giới, so sánh và xây dựng thang đo phù hợp để có thể đo lường được mức độ tự
đánh giá của người Việt, bước đầu là tự đánh giá của học sinh sinh viên.
Tác giả Nguyễn Thanh Hương trong “Báo cáo chuyên đề Sức khỏe tâm thần của
thanh thiếu niên Việt Nam” đã đánh giá mức độ và các yếu tố ảnh hưởng đến lòng tự
trọng của thanh thiếu niên Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy điểm trung bình
đánh giá lòng tự trọng của vị thành niên và thanh niên tại thời điểm nghiên cứu thấp
hơn đáng kể so với mức điểm trung bình của nghiên cứu trước. Tuy nhiên, nhóm tác
giả nhận định điều này không hẳn phản ánh rằng thanh thiếu niên ngày nay có lòng
tự trọng kém hơn so với những năm về trước mà có thể là do trong bối cảnh phát triển
của xã hội và trước những áp lực của già trường, gia đình và xã hội; vì thế vị thành
niên và thanh niên ngày nay kì vọng nhiều hơn về bản thân mình, về những điều các
em phải đạt được để khẳng định bản thân. Tỉ lệ thanh thiếu niên có lòng tự trọng cao
tăng dần theo độ tuổi và trình độ học vấn, kết quả không tìm ra sự khác biệt có ý nghĩa
21
về giới tính và môi trường sinh sống của nhóm khách thể (Nguyễn Thanh Hương,
2010).
Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng tìm hiểu mối liên hệ giữa lòng tự trọng với các
đặc điểm về dân số - kinh tế - xã hội, biến số trạng thái tâm lý, hành vi cá nhân, môi
trường gia đình, quan hệ bạn bè và môi trường xung quanh. Nghiên cứu xác định
những yếu tố nguy cơ ảnh hưởng là cảm giác buồn chán, có sử dụng internet, đang
hút thuốc. Trong khi đó, các yếu tố bảo vệ lòng tự trọng là việc tập thể dục thường
xuyên, tự đánh giá có sức khỏe tốt, gắn kết mạnh với gia đình, có mối quan hệ tốt với
cha và là thành viên của tổ chức xã hội (Nguyễn Thanh Hương, 2010).
Nghiên cứu của tác giả Trương Thị Khánh Hà (2015) với đề tài “Thích ứng thang
đo hạnh phúc chủ quan dành cho vị thành niên” đã được thực hiện trên mẫu là 861
khách thể từ 15 đến 18 tuổi đang theo học Trung học phổ thông tại Hà Nội, Huế, Hồ
Chí Minh và nghiên cứu của Hoàng Thị Trang (2015) về “Cảm nhận hạnh phúc của
sinh viên” trên mẫu 555 sinh viên theo học tại các trường Đại học ở Hà Nội và Hải
phòng. Kết quả cho thấy trong ba mặt của hạnh phúc chủ quan (cảm xúc, tâm lý và
xã hội) học sinh và sinh viên có cảm nhận hạnh phúc tâm lý cao nhất và cảm nhận
hạnh phúc xã hội thấp nhất. Theo Trương Thị Khánh Hà, mức độ cảm nhận hạnh phúc
thì nhóm trẻ vị thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh là cao nhất, thấp nhất là học
sinh tại Hà Nội. Về giới tính có sự khác biệt, các em nam có cảm nhận hạnh phúc cao
hơn nữ nhưng chỉ ở lớp 9 cuối cấp, các em lớp 12 cả hai giới đều cảm nhận hạnh phúc
đều ở mức thấp (Trương Thị Khánh Hà, 2015; Hoàng Thị Trang, 2015).
Trong mối liên hệ với sự tự chấp nhận, cá nhân luôn có sự thể hiện lòng trắc ẩn
với bản thân thì cũng sẽ không đưa ra những phán xét tiêu cực. Một nghiên cứu định
lượng “Đánh giá lòng tự trắc ẩn: Một nghiên cứu định lượng ở sinh viên Việt Nam”
của Trần Thu Hương và Trần Minh Điệp nhằm đánh giá về lòng tự trắc ẩn trên mẫu
là 529 sinh viên thuộc các Trường Đại học ở Việt Nam (cả ba miền Bắc, Trung, Nam).
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng để sinh viên đạt tới sự tự trắc ẩn thì thành tố được
sinh viên thực hành nhiều nhất là chánh niệm, còn thành tố nhân ái với bản thân trong
cuộc sống thì sinh viên ít thực hành (Trần Thu Hương và Trần Minh Điệp, 2017).
Tác giả Nguyễn Minh Quân trong đề tài nghiên cứu về “Giá trị bản thân của
sinh viên Trường ĐHSP TP.HCM” đã xác định rằng 300 sinh viên trong mẫu nghiên
22
cứu có giá trị bản thân tổng quát và giá trị bản thân tạm thời ở mức độ khá. Trong giá
trị bản thân tổng quát, mong muốn sự xứng đáng cá nhân cao hơn sự tự đánh giá về
năng lực của bản thân. Còn trong mối liên hệ với lòng tự trọng, nghiên cứu cho thấy
sinh viên có lòng tự trọng ở mức trung bình, có xu hướng tương ứng với giá trị bản
thân tổng quát. Kết quả cũng đã tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa của các tham số như
khối ngành, giới tính, năm học, kết quả rèn luyện, thành tích đạt được, điều kiện kinh
tế và sự khác biệt tôn giáo trong việc xác định giá trị bản thân. Bên cạnh đó các tham
số học lực, kết quả rèn luyện và thành tích đạt được có sự khác biệt ý nghĩa về giá trị
bản thân tổng quát (Nguyễn Minh Quân, 2018).
Qua các nghiên cứu đã thực hiện tại Việt Nam, các khía cạnh của cái tôi đã được
các nhà Tâm lý học quan tâm nhiều đến là sự tự đánh giá, lòng tự trọng, lòng tự trắc
ẩn, sự tự đánh giá, giá trị bản thân, cảm nhận hạnh phúc chủ quan. Tuy nhiên, đề tài
về tự chấp nhận vẫn còn khá mới tại Việt Nam khi chưa có công trình nào đề cập đến.
Điều này cho thấy nghiên cứu về sự tự chấp nhận của con người Việt Nam nói chung,
của sinh viên nói riêng, đặc biệt là sinh viên theo học ngành Tâm lý học cần được
quan tâm và tăng cường hơn nữa.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Lòng tự trọng (self-esteem)
Tự chấp nhận được nhà Tâm lý học A. Ellis xây dựng dựa trên nền của khái
niệm về lòng tự trọng.
Lòng tự trọng được các nhà Tâm lý học quan tâm và nghiên cứu từ rất lâu trên
thế giới. Một hướng tiếp cận sớm nhất để can thiệp vào lòng tự trọng là định nghĩa
của William James khi xem lòng tự trọng như là năng lực cá nhân, ông nhấn mạnh
lòng tự trọng như một loại hành động có hiệu quả nhất định, hơn là một thái độ hay
niềm tin, đó là sự tự cảm nhận của mỗi người về chính mình trong thế giới và phụ
thuộc vào những gì người ấy có được cũng như làm được trong đời. Dưới góc độ này,
lòng tự trọng được xem xét là sự không ổn định, nó cần được duy trì qua mức độ
thành công trong những lĩnh vực quan trọng của mỗi cá nhân (Lâm Lai Hưng, 2013).
Năm 1969, trong cuốn Tâm lý học về lòng tự trọng, Nathaniel Branden đã đề
cập đến lòng tự trọng như là sự xứng đáng khi nhận định rằng con người có một nhu
cầu cơ bản để cảm thấy mình có giá trị nhưng việc đó chỉ đạt được bằng năng lực
23
hành động. Điều ấy đòi hỏi một ý thức về sự hiệu quả và giá trị của cá nhân, đó là
tổng hợp của sự tự tin và sự tôn trọng chính mình. Và khi ấy, lòng tự trọng là một
niềm tin rằng một người là có năng lực để sống và xứng đáng được sống (Lâm Lai
Hưng, 2013).
Hướng tiếp cận của Mary H. Guindon và cộng sự thì nhìn nhận năng lực và sự
xứng đáng là hai thành tố chính của lòng tự trọng. Mối quan hệ tương tác giữa hai
thành phần này chính là điều kiện để hình thành và phát triển lòng tự trọng (Lâm Lai
Hưng, 2013). Có thể thấy, nền tảng của một lòng tự trọng đúng đắn là sự hoạt động
với vai trò ngang bằng nhau của các thành tố trong việc phát triển những năng lực,
nhận thức của mình đồng thời là cảm nhận về giá trị, chấp nhận và tin rằng mình xứng
đáng hưởng thụ những giá trị cuộc sống qua việc tôn trọng bản thân.
Tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị (2008) cũng xem xét
lòng tự trọng dưới góc độ của năng lực và sự xứng đáng khi nhận định: “Lòng tự trọng
dựa trên cơ sở của sự tự đánh giá và biểu hiện ở đó, còn mỗi một thành phần riêng
lẻ của tự đánh giá ảnh hưởng đến chính mức độ về lòng tự trọng của nhân cánh, tự
đánh giá chung của nhân cách đó để có thể được phân ra các đánh giá từng phần
như tự đánh giá về các phẩm chất trí tuệ, giao tiếp và xúc cảm” (Nguyễn Thạc và
Phạm Thành Nghị, 2008).
Có thể thấy, lòng tự trọng được sử dụng để đề cập đến việc cá nhân tự đánh giá
đối với các sự kiện và trải nghiệm có giá trị. Với vai trò tự đánh giá của mình, lòng tự
trọng thể hiện cách cá nhân nhìn nhận và xem xét các thuộc tính, khả năng cũng như
các đặc điểm nhân cách khác nhau của bản thân.
1.2.2. Tự chấp nhận (self-acceptance) và tự chấp nhận vô điều kiện
(unconditional self-acceptance)
1.2.2.1. Tự chấp nhận
Tự chấp nhận đã được quan tâm tìm hiểu nhiều năm trên thế giới, các nhà tâm
lý theo khuynh hướng Tâm lý học tích cực nhìn nhận tự chấp nhận vô điều kiện là
điều cốt lõi trong quan điểm về hạnh phúc. Tuy nhiên, khái niệm và đặc điểm của tự
chấp nhận vẫn còn hạn chế.
24
Hayes và cộng sự (2004) cho rằng: “Chấp nhận bao gồm một thái độ/cách nhìn
của sự nhận thức và hành động không phán xét, đón nhận những trải nghiệm của suy
nghĩ, cảm xúc và cảm giác cơ thể như chúng là”.
Theo Seltzer (2008): “Sự tự chấp nhận thật sự là chấp nhận bản thân mình bất
kể năng lực, điều kiện hay điều ngoại lệ nào”. Morgado và các cộng sự (2014) định
nghĩa: “Sự tự chấp nhận là sự chấp nhận toàn bộ những đặc điểm của một cá nhân
bất kể tích cực hay tiêu cực”.
Theo Từ điển Merriam-Webster: “Sự tự chấp nhận là trạng thái chấp nhận và
công nhận khả năng, giới hạn của một ai đó”.
Trong tâm lý học nhân văn, C. Rogers đặt mối quan tâm lớn của ông trên sự tự
chấp nhận và nhận định rằng “Tự chấp nhận là sự khởi đầu khi con người hiện hữu
được nhìn một cách toàn bộ và trọn vẹn. Trong quá trình làm việc của mình, Rogers
đặt trọng tâm và nhấn mạnh đến sự tự chấp nhận. Tiền đề nền tảng cho điều này là
những lý thuyết tổng quát về tâm lý học nhân văn trong việc giúp cá nhân đạt được
tiềm năng của chính mình như một con người. Ông tin rằng mối tương giao
(interrelationship) với người khác có thể cải thiện khi một người đạt được sự chấp
nhận với chính mình, ông cũng cho rằng tự chấp nhận là một yếu tố của tiến trình
chữa lành (therapeutic process) và như một thành phần của cảm nhận hạnh phúc (well-
being). Đó được xem là chìa khóa trong sự mãn nguyện (contentment) và sự tự do cá
nhân từ những cảm xúc tiêu cực (Rogers, 1951). Còn theo Maslow, “Tự chấp nhận là
một tiến trình hoặc một chuyến hành trình của sự tự khám phá (self-discovery) trong
mục tiêu hướng tới tự hiện thực hóa (self-actualization) thì cá nhân được yêu cầu để
hiểu bản thân” (Hoffman, Lopez & Moats, 2013).
Trên phương diện của chủ nghĩa hạnh phúc, Maslow cho rằng tự chấp nhận
(cùng với việc chấp nhận người khác và thiên nhiên) là một trong những đặc điểm
quan trọng của những người tự hiện thực hóa. Cá nhân có đời sống lành mạnh khi tìm
thấy sự tích cực đối với việc chấp nhận bản thân và sự tự nhiên nơi họ mà không có
sự phiền muộn hay phàn nàn. Rogers có một quan điểm tương đồng về tầm quan trọng
của tự chấp nhận khi ông nhìn nhận đó là một trong hai yếu tố của một tiến trình chữa
lành và như một thành phần của cảm nhận hạnh phúc (Szentagotai & David, 2013).
25
1.2.2.2. Tự chấp nhận vô điều kiện
Khái niệm “Tự chấp nhận vô điều kiện” xuất hiện trong hàng loạt các công trình
nghiên cứu của Albert Ellis suốt nhiều năm qua. Tự chấp nhận vô điều kiện bao gồm
việc hiểu biết rằng bản thân mỗi chúng ta là sự tồn tại phức tạp, những điều khách
quan bên ngoài luôn thay đổi, bản chất của chấp nhận là nhìn nhận rằng chúng ta có
thể sai lầm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa rằng hành vi của mỗi cá nhân không
thể là đối tượng để đánh giá. Tự chấp nhận vô điều kiện cho phép con người đánh giá
hành động và những đặc điểm của họ, khuyến khích sự đánh giá ấy như một cách thức
thay đổi và hoàn thiện bản thân, nhưng không phải là chính họ, không phải là bản chất
của họ (Bernard, 2011).
Carl Rogers đã từng nói rằng, nếu mỗi người có thể sống, một cách rất cởi mở
và trong suốt, tất cả tâm tình phức tạp hay thay đổi và đôi khi mâu thuẫn trong mối
liên hệ ấy, mọi sự sẽ tốt đẹp. Tự chấp nhận là hướng về việc sống trong mối liên hệ
cởi mở, thân thiện, gần gũi với tất cả trải nghiệm của bản thân; đón nhận tất cả những
trải nghiệm của mình, sống gần với chúng và trong chúng khi mọi sự xảy ra (Rogers,
1961). Đề cập đến ứng xử của một người đối với bản thân và người khác, A. Maslow
nhận định rằng con người cần học để trở nên như trẻ nhỏ nhìn thế giới với cặp mắt
mở rộng, ngây thơ và không phê phán, chỉ ghi nhận và quan sát mọi việc mà không
tranh luận hoặc đòi hỏi nó phải khác đi, cùng một cách ấy người đó thực hiện bản ngã
nhìn bản tính người nơi chính mình và nơi mọi người.
Trong cuốn “On Becoming a Person” – một cuốn sách ghi chép về những trải
nghiệm của C. Rogers với vai trò là một nhà Tâm lý trị liệu, ông đã nhấn mạnh rằng
có một mối liên hệ mật thiết giữa sự cởi mở đối với kinh nghiệm nội tâm của cá nhân
và thế giới bên ngoài, đặc biệt là sự cởi mở và chấp nhận đối với tha nhân. Khi một
người có khả năng chấp nhận kinh nghiệm bản thân, người ấy cũng bắt đầu chấp nhận
kinh nghiệm của người khác, người ấy đánh giá cao trải nghiệm của chính mình cũng
như của người khác (Rogers, 1961).
Trong lý thuyết về tự chấp nhận và sự thành công của mối quan hệ, Broder nhìn
nhận rằng tự chấp nhận vô điều kiện cho phép một người tin tưởng nguồn lực nội tại
(internal resources) của họ như một nguồn lực tri thức và hướng dẫn tốt nhất. Mỗi cá
nhân trong một mối quan hệ đều xác định mức độ tự chấp nhận trong cuộc sống của
26
người ấy. Bằng cách đánh giá một cách rất riêng, mỗi cá nhân với góc nhìn chủ quan
của mình về cách họ nhìn nhận bản thân như một phần của mối quan hệ cặp đôi trong
tất cả sự liên quan và các khía cạnh phù hợp của cuộc sống (Broder, 2013).
Trong một nghiên cứu của Windy Dryden (2013) về tự chấp nhận và lòng tự trắc
ẩn (Self-Acceptance and Self-Compassion), ông đã phân tích cụm từ “Tự chấp nhận
vô điều kiện” gồm 3 thành tố sau: “Cái tôi”, “Sự chấp nhận” và “Vô điều kiện”.
(1) Cái tôi (the “self”): Có rất nhiều định nghĩa về cái tôi. Tuy nhiên thay
vì sử dụng những định nghĩa thì Dryden đã liệt kê những yếu tố cấu thành định nghĩa
cái tôi ấy. Cái tôi vô cùng phức tạp. Nó bao gồm đặc điểm, tính cách, hành động, cảm
xúc, suy nghĩ, hình ảnh, cảm giác và những khía cạnh thực thể. Sự phức tạp là một
đặc tính dùng để định nghĩa cái tôi và cùng với những khía cạnh nội tại luôn biến đổi
liên tục khác thì cái tôi không thể được đánh giá một cách hiệu quả. Bên cạnh đó còn
có 3 yếu tố tạo nên cái tôi khác: (a) là tính nhân văn, (b) là ta có thể phạm sai lầm.
Chúng ta có khuynh hướng thiên về cái sai và sự thiên vị này là không thể bỏ được.
Như Maxie C. Maultsby đã từng nói, loài người có một khuynh hướng phạm lỗi không
thể chữa trị được. Và (c) là vì ta là độc nhất. Chưa từng và sẽ không bao giờ có một
“bạn” khác. Ngay cả khi một người được nhân bản thì bản sao của người ấy cũng sẽ
có những trải nghiệm khác với chính họ và vì vậy sự độc nhất của cá nhân ấy cũng
không bị ảnh hưởng.
(2) Sự chấp nhận (acceptance): Theo Dryden, chấp nhận là “nhận thức về
sự tồn tại của điều gì đó đang hiện diện ở hiện tại”. Vì vậy, nó không bao gồm sự
đánh giá, kể cả khía cạnh tích cực hay tiêu cực của bản thân như một con người và nó
cũng không ngăn chặn những thay đổi trong những điều đã được chấp nhận.
(3) Vô điều kiện (unconditional): là nhìn nhận mọi điều mà không đi kèm
bất kì điều kiện nào hay phụ thuộc vào điều gì.
Khi tổng hợp lại 3 khía cạnh này ta có được định nghĩa như sau: “Sự tự chấp
nhận vô điều kiện bao gồm nhận thức của một cá nhân về việc bản thân là một con
người, độc nhất, phức tạp, thay đổi liên tục và có thể phạm sai lầm và điều này đúng
dưới bất kì tình huống nào có thể xảy ra. Như thể “cái tôi” của bạn không thể được
đánh giá một cách hiệu quả nhưng có thể được chấp nhận vô điều kiện dựa trên cơ
sở của những thành tố trên” (Dryden, 2013).
27
Tự đánh giá tổng quát được đặt trên nền các câu hỏi hợp lý khi cho rằng tất cả
mọi người đều có những điểm mạnh và hạn chế, và không có sự rõ ràng có tính hợp
lý nào tronng việc đo lường toàn bộ giá trị của một người từ cao đến thấp. Theo đó,
A. Ellis không chấp nhận bất kì khái niệm nào để định nghĩa một cách phổ quát
(universalistic definition) rằng ý nghĩa của việc trở thành một người tốt hay xấu. Sự
hữu ích của việc tự đánh giá tổng quát còn đặt nghi vấn về việc nó có dẫn đến những
tổn thương về cảm xúc. Cụ thể hơn, một sự tự đánh giá tổng quát cao có ngụ ý rằng
sự đánh giá ấy có thể tụt xuống nếu sự thể hiện ở tương lai thất bại bởi nó được xây
dựng trên nền của một quá khứ mà mức độ tự đánh giá đã cao.
Albert Ellis (1977) đã định nghĩa: “Tự chấp nhận vô điều kiện là việc cá nhân
chấp nhận bản thân một cách trọn vẹn và vô điều kiện bất kể sự cư xử của bản thân
là thông minh (intelligently), đúng đắn (correctly), thành thạo (competently) hay
không và cho dù có được người khác ghi nhận (approval), tôn trọng (respect) hoặc
yêu thương (love) họ hay không” (Martha & Haaga, 2013).
Điểm cốt lõi trong tư tưởng của Ellis trong Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý về
tự chấp nhận vô điều kiện là sự khẳng định của giá trị con người cao hơn và vượt ra
khỏi giới hạn có tính hành vi. Trong quan điểm này, chúng ta không thể đưa ra một
đánh giá tổng thể để định nghĩa một người hay định nghĩa giá trị của họ. Giá trị cá
nhân không thể được định nghĩa bởi những điều thay đổi. Arbold Lazarus (1977) đã
gọi đó là “một trạng thái vô ngã của sự hiện hữu” (an egoless state of being).
1.3. Đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên
1.3.1. Khái niệm thanh niên sinh viên
Các khái niệm về sinh viên của các tác giả Việt Nam đề cập như sau:
“Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng Latinh, “student” có nghĩa là người
làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó dùng nghĩa tương
đương với “student” trong tiếng Anh, “etudiant” trong tiếng Pháp và trong tiếng Nga
để chỉ những người theo học ở bậc đại học và được phân biệt với trẻ em đang học
trường phổ thông là các học sinh “learner”” (Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị,
2008).
“Thanh niên sinh viên là những người trưởng thành còn đang theo học ở các
trường Đại học và Cao đẳng. Họ là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những
28
người đang trong quá trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia ở một lĩnh vực
nhất định của xã hội, là những người trẻ tích cực, năng động, nhạy cảm với những
thay đổi của xã hội và dễ thích nghi với sự thay đổi đó” (Huỳnh Văn Sơn, Trần Thị
Thu Mai và Nguyễn Thị Tứ, 2012).
“Sinh viên là những người đang chuẩn bị cho một hoạt động mang lại lợi ích
vật chất hay tinh thần của xã hội. Các hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học, sản
xuất hay hoạt động xã hội của họ đều phục vụ việc chuẩn bị tốt nhất cho hoạt động
mang tính nghề nghiệp của mình sau khi kết thúc quá trình học trong các trường
nghề” (Dương Thị Diệu Hoa, 2015)
Có thể thấy, các khái niệm của các tác giả nói trên theo thời gian đều tập trung
vào chức năng và nhiệm vụ của sinh viên, cụ thể là hoạt động học tập nhằm lĩnh hội
tri thức hướng đến hoạt động nghề nghiệp tương lai. Theo đó, đa phần sinh viên nằm
trong độ tuổi từ 18 đến 25 trùng với nhóm đối tượng được gọi là thanh niên sinh viên
trong sự phát triển lứa tuổi. Có một số tác giả khác cho rằng việc định rõ giới hạn tuổi
cho thanh niên sinh viên theo lứa tuổi là vô cùng khó khăn, vì thế việc xác định giai
đoạn thanh niên sinh viên được bắt đầu từ sau tuổi học sinh trung học phổ thông đến
khi chấm dứt hoạt động học tập của sinh viên năm nào còn phụ thuộc vào thời gian
các trường Đại học, Cao đẳng đào tạo.
Sự phát triển về thể chất đã đạt đến mức hoàn thiện cả về cấu tạo và chức năng
ở tuổi thanh niên sau giai đoạn dậy thì với nhiều biến động. Với sự thay đổi hoạt động
chủ đạo và môi trường sống, thanh niên sinh viên dần xác lập vai trò và chức năng
trong vị thế xã hội riêng biệt của mình. Tuổi này xuất hiện như một giai đoạn độc lập,
cũng là giai đoạn cuối cùng của sự tự xác định bản thân và là giai đoạn đầu của sự
phát triển nghề nghiệp tương lai. Đây cũng là giai đoạn mà con người hình thành rõ
nét hệ thống giá trị, thế giới quan, nhân sinh quan cũng như các tiêu chuẩn về ý thức
nghề nghiệp.
Ở tuổi thanh niên sinh viên, sự can thiệp từ người lớn dần hạn chế, cá nhân có
khả năng tự quyết định nhiều vấn đề trong cuộc sống bản thân, xây dựng một cuộc
sống độc lập hơn trong việc xác định vị trí, vai trò của mình trong xã hội, với địa vị
là một người trưởng thành. Tuổi thanh niên đánh dấu sự trưởng thành về mặt nhận
thức, thái độ, hành vi trong đời sống gia đình, các lĩnh vực nghề nghiệp và xã hội. Xã
29
hội nhìn nhận sinh viên với tư cách là một công dân thực thụ của đất nước với đầy đủ
quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật. Không chỉ thế, việc sinh viên chọn nghề và học
những tri thức, kỹ năng, các nguyên tắc đạo đức cơ bản của nghề; nâng cao năng lực
chuyên môn, rèn luyện các phẩm chất trong việc thực hành nghề nghiệp đã chuẩn bị
cho một đội ngũ những chuyên gia theo các nghề nghiệp khác nhau trong cấu trúc của
tầng lớp tri thức xã hội.
Như vậy, thanh niên sinh viên là những người trưởng thành đang theo học tại
các trường Đại học, Cao đẳng nhằm chuẩn bị cho sự trở thành những chuyên gia trong
những lĩnh vực nghề nghiệp nhất định mang lại lợi ích vật chất và tinh thần cho xã
hội.
1.3.2. Một số hoạt động của thanh niên sinh viên
Hoạt động chủ yếu của lứa tuổi thanh niên sinh viên là hoạt động học tập chuẩn
bị cho đường hướng nghề nghiệp tương lai. Việc học ở Đại học, Cao đẳng không chỉ
giúp sinh viên lĩnh hội tri thức trong nghề mà là cơ hội để họ phát triển và hoàn thiện
nhân cách của mình. Bên cạnh đó, các hoạt động cơ bản của thanh niên sinh viên cũng
có những tính chất và đặc trưng riêng.
1.3.2.1. Hoạt động học tập
Trong các hoạt động cơ bản của sinh viên, hoạt động học tập với vai trò chủ đạo
có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển các đặc điểm tâm lý của sinh viên, đến sự lĩnh
hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cũng như các phương thức của hoạt động nhận thức. Với
tính chất đặc trưng ở bậc Đại học, Cao đẳng nhằm đào tạo những chuyên gia, trí thức
cho đất nước nên hoạt động học tập dần mang tính chuyên ngành, phạm vi hẹp hơn,
sâu sắc hơn.
Hoạt động học tập của sinh viên không đơn thuần là sự lĩnh hội các tri thức khoa
học phổ thông mà là quá trình học tập nghề nghiệp. Đối tượng học tập chủ yếu của
sinh viên trong hoạt động học tập chính là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và những
phẩm chất của nghề với tính đa dạng và hệ thống khoa học nhất định. Qua đó thúc
đẩy sự phát triển về trí tuệ, phẩm chất và năng lực chuyên môn của người làm việc
chuyên nghiệp ở tương lai về những lĩnh vực nhất định.
Hoạt động học tập của sinh viên có tính nghiên cứu cao vì khi học ở Đại học,
Cao đẳng sinh viên chủ yếu làm việc với các tài liệu khoa học, phương pháp chính là
30
tự học. Quan điểm này xuất phát từ thực tiễn về lý luận tri thức nhân loại, đó là một
kho tàng khổng lồ ngày một tăng lên với tốc độ nhanh chóng. Trong hệ thống tri thức
đó, chỉ những ai biết cách tự học, tự chiếm lĩnh tri thức thì mới có được kiến thức.
Điều này thể hiện ở việc sinh viên cần ý thức rằng mình là chủ thể của hoạt động học
tập để bản thân phải là người tổ chức, định hướng, cụ thể hóa quá trình học tập, bao
gồm giải quyết các nhiệm vụ học tập tự đề ra, hoàn thiện các hành động học tập, tự
kiểm tra và đánh giá kết quả. Học tập ở sinh viên có tính độc lập, tự do cao qua việc
sinh viên được toàn quyền quyết định việc học của mình theo nhu cầu của giảng viên,
vì thế điểm cốt lõi trong việc học của sinh viên là sự tự ý thức về học tập của họ.
Trong điều kiện đó, sự tự ý thức và tính kỷ luật tự giác là nhân tố quyết định sự thành
công trong việc học ở giai đoạn này (Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị, 2008;
Dương Thị Diệu Hoa, 2015; Trương Thị Khánh Hà, 2016).
Động cơ học tập ở sinh viên rất phong phú và thường bộc lộ rõ tính hệ thống,
bao gồm: động cơ nhận thức, động cơ nghề nghiệp, động cơ xã hội, động cơ tự khẳng
định và động cơ cá nhân. Thứ bậc của các động cơ này có sự biến đổi trong quá trình
học tập và khác biệt giữa các sinh viên. Ở sinh viên, động cơ học tập có thể bị chi
phối bởi các yếu tố xuất phát từ chính chủ thể như nhu cầu, hứng thú, tâm thế, niềm
tin, lý tưởng; nó cũng có thể từ phía ngoài chủ thể như mong đợi/yêu cầu của gia đình,
xã hội. Bên cạnh đó, động cơ học tập cũng có thể nảy sinh bởi hoàn cảnh, điều kiện
của chính hoạt động học mang lại như nội dung học tập, phương pháp dạy học và
nhân cách của người giáo viên, các thiết bị hỗ trợ học tập (Vũ Thị Nho, 1999; Huỳnh
Văn Sơn, Trần Thị Thu Mai và Nguyễn Thị Tứ, 2012). Có thể thấy, hiệu quả của hoạt
động học tập ở sinh viên chịu ảnh hưởng bởi hệ thống động cơ học tập cá nhân. Đó
chính là những lí do thức đẩy sinh viên tham gia vào hoạt động học một cách tích cực,
chủ động và gặt hái được thành quả tốt hơn.
Như vậy, hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập trí tuệ cao và đòi
hỏi sự nỗ lực, sự tự ý thức, tính tự giác và kỷ luật cao. Đây là một hoạt động trí tuệ có
cường độ cao và tính lựa chọn rõ rệt. Đó là sự chuẩn bị trực tiếp các yếu tố tâm lý cần
thiết để bước vào môi trường lao động nghề nghiệp.
31
1.3.2.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học
Do tính chất đặc trưng ở bậc đại học, song song với hoạt động học tập là hoạt
động nghiên cứu khoa học. Hoạt động này đã được hình thành từ các lứa tuổi trước
nhưng vẫn còn mờ nhạt. Chỉ đến tuổi sinh viên, với sự đòi hỏi trong học tập về lý luận
và thực tiễn đối với những người thực hành nghề, những chuyên gia tương lai thì hoạt
động nghiên cứu dần trở thành hình thức học tập được quan tâm và chiếm vị trí ngày
càng quan trọng.
Nghiên cứu khoa học là một dạng hoạt động tự học bậc cao. Sinh viên là người
phát hiện các vấn đề và tìm cách giải quyết vấn đề bằng các phương pháp khoa học.
Nhiều công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên có tính giá trị khoa học và thực
tiễn cao, được ứng dụng để giải quyết các vấn đề an sinh xã hội (Trương Thị Khánh
Hà, 2016).
Hoạt động nghiên cứu khoa học phát huy những tố chất của một người trí thức
lao động chuyên nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Với bản chất
là hoạt động nhận thức tạo ra những giá trị mới thông qua phương pháp tìm tòi, phát
hiện,… nghiên cứu khoa học trang bị cho sinh viên hệ thống quan điểm, phương pháp
luận và những phẩm chất – năng lực của một con người làm việc có phương pháp và
đam mê sáng tạo (Huỳnh Văn Sơn và cộng sự, 2012). Qua hoạt động nghiên cứu khoa
học sinh viên phát triển khả năng tư duy sâu sắc, sáng tạo trong việc tiếp nhận những
nguồn dữ liệu, những thành tựu khoa học, ứng dụng những giá trị ấy vào khoa học
xoay quanh những vấn đề thực tiễn cuộc sống.
Động cơ tham gia nghiên cứu khoa học của thanh niên sinh viên rất đa dạng
trong đó động cơ chủ yếu là nhận thức khoa học. Sinh viên mong muốn mở rộng nhãn
quan khoa học, hoàn thiện tri thức và đóng góp sức lực của mình trong việc giải quyết
các vấn đề. Động cơ này được hình thành từ năm nhất Đại học dưới sự tác động của
giảng viên làm nảy sinh nhu cầu tìm tòi những thông tin mới (Nguyễn Thạc và Phạm
Thành Nghị, 2008). Bên cạnh đó, động cơ của việc tự khẳng định bản thân thông qua
nghiên cứu khoa học cũng góp phần thúc đẩy sinh viên tham gia hoạt động nghiên
cứu khoa học.
Sinh viên thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học dưới sự hỗ trợ, hướng dẫn
của giảng viên để học và bắt đầu từ những phương pháp, bước tiến cơ bản nhất là việc
32
tham gia vào các buổi hội thảo chuyên đề, các hội nghị khoa học, tìm tòi, xác định,
tham khảo và khám phá ra những điều cần thực hiện để mang lại những ý nghĩa trong
các chủ đề mà sinh viên quan tâm.
Để hoạt động nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả, thanh niên sinh viên cần xây
dựng cho mình những kỹ năng cần thiết như kỹ năng tìm kiếm và trích dẫn tài liệu
tham khảo, kỹ năng đánh giá ý nghĩa các tài liệu, kỹ năng so sánh và vận dụng các
phương pháp, tích lũy, kỹ năng phân tích và tổng hợp. Bên cạnh đó, chất lượng của
một công trình nghiên cứu khoa học không chỉ phụ thuộc vào kỹ năng của sinh viên
mà còn dựa vào một số yếu tố khác công tác giảng dạy của giáo viên, kế hoạch tổ
chức và hỗ trợ sinh viên nghiên cứu cùng với các phương tiện hỗ trợ. Tuy nhiên,
không thể bỏ qua những phẩm chất của người nghiên cứu trong việc thực hiện nghiên
cứu khoa học, đó chính là tinh thần trách nhiệm và lòng yêu mến của người nghiên
cứu với nghiên cứu khoa học.
Như vậy, hoạt động nghiên cứu khoa học làm tăng khả năng tư duy, nhận thức
khoa học, thúc đẩy tính tích cực trí tuệ và sự sáng tạo của thanh niên sinh viên; giúp
cá nhân rèn luyện những phẩm chất nhân cách, hình thành tính độc lập trong nhiệm
vụ nghề nghiệp, lĩnh hội tri thức khoa học và liên kết để giải quyết những vấn đề thực
tiễn.
1.3.2.3. Hoạt động chính trị xã hội
Một trong những hoạt động đặc trung ở tuổi sinh viên là hoạt động chính trị - xã
hôi. Sinh viên là một tổ chức xã hội quan trọng của đất nước, là những người có trí
tuệ nhạy bén, nhạy cảm đối với tình hình kinh tế, chính trị xã hội trong và ngoài nước
nên hoạt động chính trị - xã hội cũng là nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên sinh
viên (Vũ Thị Nho, 1999). Vì thế, việc tham gia các hoạt động chính trị xã hội có ý
nghĩa đối với sự phát triển nhân cách toàn diện, đây cũng là biểu hiện của sự trưởng
thành về mặt xã hội của sinh viên.
Các hình thức của hoạt động chính trị xã hội được tổ chức hết sức đa dạng và
phong phú. Sinh viên tham gia các hoạt động của tập thể Trường lớp, các tổ chức
Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên hay các hoạt động có tính chính trị xã hội mở rộng
hơn. Việc tham gia vào các hoạt động này ở sinh viên xuất phát từ nhiều động cơ khác
33
nhau, từ việc thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, thể hiện bản thân, hoàn thiện nhân cách cho
đến việc đóng góp cho xã hội.
Việc tham gia hoạt động chính trị xã hội là cơ hội cho sinh viên được trải nghiệm
mình, thúc đẩy sự phát triển và dần hoàn thiện nét nhân cách cá nhân. Từ đó, sinh
viên có khả năng nâng cao nhận thức, phát triển những phẩm chất cần thiết trong hoạt
động lao động sau này.
1.3.2.4. Hoạt động giao tiếp
Không thể không đề cập đến hoạt động giao tiếp – cửa ngõ bao trùm lên tất cả
các hoạt động đa dạng, phong phú ở tuổi thanh niên sinh viên. Trong hoạt động giao
tiếp, sự tích cực, chủ động giao tiếp của sinh viên trong các mối quan hệ xã hội đan
xen, những mối quan hệ xã hội này mang tính phức hợp giữa cá nhân sinh viên với
bạn bè, giảng viên, với các nhóm – tổ chức xã hội. Hoạt động này chiếm vị trí quan
trọng và là động lực trong sự hình thành và phát triển đời sống tâm lý, đó cũng là môi
trường, cơ hội giúp sinh viên rèn luyện, phát triển các phẩm chất, hình thành các kỹ
năng giao tiếp trong đời sống cũng như những kỹ năng cơ bản hỗ trợ cho nghề nghiệp
sau này.
1.3.2.5. Hoạt động kinh tế
Lứa tuổi thanh niên học sinh không thể không đề cập đến hoạt động kinh tế, là
hoạt động ngày càng thu hút nhiều sinh viên tham gia. Hoạt động này được thúc đẩy
bởi nhiều động cơ của sinh viên khác nhau như động cơ thu nhập kinh tế, thực tập
hay nâng cao hiểu biết, trải nghiệm. Việc tham gia hoạt động có những lợi ích nhất
định cho sinh viên nhưng cũng đi kèm những trở ngại cho quá trình học tập nghề của
họ.
1.3.2.6. Hoạt động văn-thể-mỹ
Thanh niên sinh viên tham gia vào các câu lạc bộ, đội nhóm mang các màu sắc
khác nhau như văn học, nghệ thuật, thể thao, khoa học,… qua đó sinh viên xây dựng
và mở rộng các mối quan hệ xã hội, rèn luyện và phát triển bản thân, tự khẳng định
mình qua những trải nghiệm và lưu giữ những khoảng thời gian của tuổi trẻ năng động
đầy nhiệt huyết.
Nhìn chung, các dạng hoạt động của thanh niên sinh viên có những nét đặc trưng
riêng qua sự khác biệt về chất so với lứa tuổi thanh niên học sinh trước đó. Để có thể
34
phát triển bản thân qua từng hoạt động, sinh viên cần thích nghi được với sự thay đổi
trong hoàn cảnh sống (môi trường sinh hoạt, học tập, những mối quan hệ xã hội mở
rộng), nội dung, phương pháp học tập, tổ chức ở cấp bậc Đại học, Cao đẳng có những
yêu cầu và đòi hỏi nhất định. Sự thích nghi này nhanh hay chậm, hiệu quả như thế
nào còn tùy thuộc vào từng cá nhân sinh viên với những khác biệt rất riêng trong đặc
điểm tâm lý và môi trường cụ thể, tuy nhiên luôn cần một thời gian nhất định.
Các hoạt động của thanh niên sinh viên có mối quan hệ, tương tác lẫn nhau. Với
mục đích chung là hình thành những phẩm chất và năng lực nghề nghiệp. Sinh viên
tham gia với hệ thống động cơ đa dạng nhằm lĩnh hội và vận dụng những thông tin
phù hợp trong việc giải quyết các nhiệm vụ của thực tiễn học tập và đời sống. Qua
từng hoạt động, sinh viên thể hiện những phẩm chất, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo với
mức độ khác nhau nhưng tất cả đều đóng góp vào quá trình hình thành và phát triển
nhân cách, là sự chuẩn bị cho đội ngũ thực hành nghề chuyên nghiệp trong tương lai.
1.3.3. Đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh viên
1.3.3.1. Đặc điểm nhận thức Nhận thức của thanh niên có những biến đổi về chất so với tuổi thiếu niên, thanh
niên mong muốn dùng tri thức của mình để cải tạo thế giới và đã bước đầu tìm cách
giải quyết các vấn đề thực tiễn do cuộc sống đặt ra. Từ năm nhất đến năm tư, sinh
viên đã chuyển từ quan điểm tuyệt đối sang quan điểm tương đối, tiếp theo là tự mình
lựa chọn các quan điểm, ý tưởng và niềm tin phù hợp với mình. Perry coi khía cạnh
phát triển trí tuệ đó là đặc điểm đặc trưng trong nhận thức của tuổi thanh niên (Trương
Thị Khánh Hà, 2014).
Theo Jean Piaget, lứa tuổi thanh thiếu niên đã hình thành tư duy thao tác hình
thức. Đến giai đoạn thanh niên sinh viên, tư duy sau hình thức được hình thành nhằm
đáp ứng các yêu cầu mới từ cuộc sống. Một số nhà nghiên cứu cho rằng tư duy sau
hình thức thực chất là sự tổ chức lại về tư duy. Trong giai đoạn này, tư duy trừu tượng
và tư duy logic đã phát triển ở trình độ cao với sự phối hợp của nhiều thao tác tư duy.
Mặt khác, tư duy của sinh viên thường linh hoạt cho phép lĩnh hội nhanh nhạy, sắc
bén mọi vấn đề. Điều này dẫn đến khả năng tìm tòi và nghiên cứu của sinh viên khá
phát triển. Thêm vào đó, sinh viên phát triển nhu cầu khám phá tri thức, hướng đến
cái mới dẫn đến sự thôi thúc phản biện của họ. Sinh viên còn phát triển khả năng
35
tưởng tượng đến đỉnh cao thông qua hoạt động sáng tạo nghệ thuật (Huỳnh Văn Sơn
và cộng sự, 2012).
Hoạt động nhận thức của sinh viên là tìm hiểu những môn học, những chuyên
ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu, gắn kết chặt chẽ với nghiên cứu khoa
học, không tách rời hoạt động nghề nghiệp của người chuyên gia. Sinh viên không
chỉ dừng lại ở việc kế thừa một cách hệ thống những thành tựu khoa học đã có, đi từ
việc nhận thức dựa trên kinh nghiệm cá nhân để tiến dần đến việc chấp nhận những
chân lý mà còn thể hiện qua mong muốn làm sáng tỏ những giá trị khoa học trong
việc tiệm cận với những thành tựu khoa học đương đại và có tính cập nhật, thời sự.
Đó là những giá trị khoa học mà sự phát triển nhận thức của sinh viên nhận được
thông qua những trải nghiệm.
Có thể thấy, hoạt động nhận thức của sinh viên là hoạt động trí tuệ đích thực,
căng thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt, phạm vi rất đa dạng, có sự phối
hợp của nhiều thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái
quát hóa.
1.3.3.2. Đời sống xúc cảm – tình cảm
Tuổi sinh viên là thời kì phát triển tích cực nhất của những loại tình cảm cấp cao
như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình bạn, tình yêu. Đặc
điểm của các loại tình cảm này là có tính hệ thống và bền vững hơn so với thời kì
trước đó. Những tình cảm này biểu hiện rất phong phú trong hoạt động và đời sống
của sinh viên (Vũ Thị Nho, 1999).
Tình cảm trí tuệ làm cho sinh viên chủ động hơn trong việc tích lũy và chiếm
lĩnh tri thức. Hoạt động học tập ở đại học khai phá nơi sinh viên nhu cầu khám phá
và say mê học hỏi những giá trị khoa học mà cá nhân có cơ hội được tiếp cận, sự say
mê ấy không chỉ dừng lại với chuyên ngành và nghề nghiệp đã chọn qua việc chủ
động tìm hiểu, đào sâu tri thức ở giảng đường, thư viện, báo cáo chuyên đề, hội thảo
khoa học, tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học mà còn mở rộng tri thức qua việc
kết nối các mạng lưới xã hội, học tập từ khoa khác, trường khác và học trên các
phương tiện truyền thông.
Sinh viên là người yêu vẻ đẹp của con người ở hành vi, phong thái đạo đức cũng
như vẻ đẹp thẩm mỹ ở các sự vật hiện tượng của thiên nhiên. Qua việc tham gia vào
36
các hoạt động có tính nghệ thuật, các hoạt động xã hội, sinh viên dần cảm nhận những
vẻ đẹp về người, về vật một cách sâu sắc và rõ rệt hơn, có những “triết lý” cho cái
đẹp của mình theo chiều hướng khá ổn định.
Tình bạn ở tuổi sinh viên tiếp tục phát triển theo chiều sâu và làm phong phú
thêm đời sống tinh thần, tâm hồn và nhân cách của sinh viên. Bạn bè ở thời trung học
phổ thông vẫn được sinh viên lưu giữ và có vị trí quan trọng dù việc gặp gỡ, giao tiếp
hạn chế. Bên cạnh đó, những năm tháng trên giảng đường đại học sinh viên cũng xây
dựng thêm những mối quan hệ bạn bè không kém phần bền vững sâu sắc.
Tình yêu là một chủ đề rất đặc trưng ở tuổi sinh viên, khi sự phát triển của lứa
tuổi đang dần hoàn thiện và dần đạt đến hình thái chuẩn mực cùng với những biểu
hiện phong phú, đặc sắc của nó. Trong tình yêu, sinh viên có sự phát triển mạnh mẽ
mang tính định hướng và khá sâu sắc, tình cảm này chiếm một vị trí quan trọng ảnh
hưởng đến các hoạt động của sinh viên. Tình yêu sinh viên đạt đến sự chuẩn mực, có
tác dụng tích cực trong việc giúp sinh viên thỏa mãn được nhu cầu tinh thần qua việc
giúp đỡ nhau trong học tập, cùng vượt qua những khó khăn, có người bầu bạn tâm
tình. Tuy nhiên, tình yêu tuổi này cũng gặp phải những vấn đề như mâu thuẫn giữa
việc cân bằng học tập và giải trí, giữa mong muốn tiến xa hơn trong mối quan hệ và
sự phù hợp của các điều kiện cá nhân (Vũ Thị Nho, 1999; Huỳnh Văn Sơn và cộng
sự, 2012).
1.3.3.3. Đặc điểm nhân cách
Nhân cách của sinh viên phát triển khá toàn diện và phong phú. Những phẩm
chất, đặc điểm của nhân cách đều phát triển mạnh mẽ và dần hoàn thiện như sự tự ý
thức, tự đánh giá, lòng tự trọng, sự tự tin, định hướng giá trị và thế giới quan của cá
nhân. Tất cả đều có ý nghĩa rất lớn đối với việc sinh viên tự giáo dục, tự hoàn thiện
bản thân theo hướng tích cực.
a. Đặc điểm sự tự ý thức, tự đánh giá
Một đặc điểm tâm lý chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển của thanh niên
sinh viên là sự tự ý thức. Tự ý thức là một đặc điểm tâm lý quan trọng của thanh niên
sinh viên. Đây là một trình độ phát triển cao của ý thức, giúp sinh viên không chỉ ý
thức về các phẩm chất và năng lực của bản thân một cách đơn thuần như tuổi thiếu
niên, mà còn ý thức bản thân với tư cách là một thành viên của xã hội: Tôi là ai, sẽ
37
làm gì, có những mục tiêu, ước mơ gì, có lập trường ra sao trước tác động của những
người xung quanh,… Từ đó sinh viên hiểu biết rõ hơn về bản thân và có những thái
độ, hành vi, cử chỉ để chủ động hướng những hoạt động theo những yêu cầu của xã
hội.
Một trong các thành tố có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển tự ý thức của
thanh niên sinh viên là sự tự đánh giá. Tự đánh giá là một trong những phẩm chất
quan trọng, một trình độ phát triển cao của nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định
hướng, điều chỉnh hoạt động, hành vi của chủ thể nhằm đạt được mục tiêu, lý tưởng
sống một cách tự giác. Nó giúp con người không chỉ biết người mà còn “biết mình”.
Tự đánh giá ở tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng nhận
thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về chính
mình, chỉ ra được mức độ nhân cách tồn tại ở bản thân, từ đó có thái độ, hành vi, hoạt
động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển. Tự đánh
giá của sinh viên vừa có ý nghĩa tự ý thức, tự giáo dục (Vũ Thị Nho, 1999). Tuổi
thanh niên sinh viên, với những nhiệm vụ và mục tiêu phía trước để sẵn sàng cho cuộc
sống của người trưởng thành, việc hình thành tự đánh giá tích cực là rất cần thiết.
Dựa trên một số công trình nghiên cứu, mức độ tự đánh giá các lĩnh vực của sinh
viên có sự khác biệt. Trong khi đánh giá sự ổn định xúc cảm của bản thân ở mức thấp;
sinh viên tự đánh giá trí nhớ, tốc độ phản ứng, lòng tự tin và kĩ năng định hướng vào
người khác của mình ở mức độ trung bình. Mức độ tự đánh giá cao nhất ở sinh viên
bao gồm năng lực tự nhận thức, tự hiểu biết (Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị,
2008).
Tự ý thức, tự đánh giá là cơ sở của sự tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo
định hướng giá trị về nhân cách và mục tiêu nghề nghiệp tương lai. Sự phát triển mạnh
mẽ các phẩm chất này trong nhân cách của sinh viên tạo điều kiện đáp ứng các yêu
cầu khác trong học tập và cuộc sống, từ đó thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện nhân
cách.
b. Sự phát triển nhu cầu
Trong sự phát triển nhu cầu ở thanh niên sinh viên thì nhu cầu xã hội ở sinh viên
phát triển về chất mạnh mẽ, nếu thiếu đi sự giao tiếp trong đời sống sinh viên sẽ có
thể ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành và phát triển kỹ năng sống cũng như các
38
đặc điểm nhân cách của cá nhân. Sự phát triển nhu cầu này được dựa trên thang bậc
nhu cầu của Abraham Maslow.
Nhu cầu được tôn trọng vẫn tiếp tục phát triển một cách sâu sắc hơn trên bình
diện các mối quan hệ khác nhau và có sự chuyển biến theo hướng bình đẳng. Nhu cầu
tự thể hiện được phát triển mạnh vào lứa tuổi thanh niên sinh viên, điều này thôi thúc
họ thể hiện chính mình trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống (Huỳnh Văn
Sơn và cộng sự, 2012).
c. Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên
Định hướng giá trị phát triển mạnh vào cuối tuổi thiếu niên, đầu thanh niên khi
họ phải đứng trước việc chọn nghề, chọn chuyên ngành khác nhau ở trường đại học,
cao đẳng. Một nghiên cứu của Nguyễn Quang Uẩn và các cộng sự năm 1995 cho thấy
trong hệ thống giá trị chung, sinh viên Việt Nam đánh giá cao các giá trị: hòa bình, tự
do, tình yêu, công lý, việc làm, niềm tin, gia đình, nghề nghiệp, tình nghĩa, sống có
mục đích, lòng tự trọng. Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết với xu
hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của cá nhân (Vũ Thị Nho, 1999).
Định hướng giá trị là một mặt hết sức cơ bản trong đời sống tâm lý của thanh
niên nói chung và sinh viên nói riêng. Đó là những giá trị được chủ thể nhận thức và
đánh giá cao. Nó có ý nghĩa định hướng, điều khiển, điều chỉnh thái độ, hành vi lối
sống của chủ thể để vươn tới những giá trị đó. Bản thân mỗi sinh viên cần chú trọng
việc tự rèn luyện nhân cách, tự phát triển và tự giáo dục bản thân để trở thành những
người có ý thức, có trình độ, có phẩm chất đạo đức và lập trường tư tưởng vững vàng
(Trương Thị Khánh Hà, 2014).
Sự tự đánh giá của tuổi thanh niên không chỉ phụ thuộc vào những gì các em đạt
được, mà còn phụ thuộc vào định hướng giá trị của các em, đặc biệt là định hướng giá
trị về nhân cách của bản thân.
d. Sự hình thành thế giới quan
Tuổi thanh niên là giai đoạn quyết định đối với sự hình thành thế giới quan của
con người vì chính vào giai đoạn này, sự phát triển thể chất, nhận thức và tình cảm cá
nhân đã đạt đến độ chín muồi. Mặc dù trình độ phát triển nhận thức, năng lực tư duy
trừu tượng và phạm vi hứng thú của thanh niên là khác nhau, nhưng nhìn chung họ
đều có xu hướng suy ngẫm về thế giới và hình thành quan điểm của riêng mình.
39
Theo Erikson, việc lựa chọn thế giới quan ở tuổi thanh niên có vai trò vô cùng
quan trọng. Sự bất ổn trong hệ thống các quan điểm về thế giới, về bản thân và xã hội
không cho phép con người tìm được vị trí của mình trong các mối quan hệ phức tạp
và không tạo ra sự phát triển nhân cách toàn diện (Trương Thị Khánh Hà, 2014). Tuổi
thanh niên là giai đoạn ổn định dần về nhân cách qua việc tích lũy tri thức về thế giới,
về bản thân và xã hội tích hợp lại thành hệ thống, gắn bó chặt chẽ tạo nên thế giới
quan tương đối bền vững, ổn định. Cấu trúc tâm lý mới quan trọng của tuổi thanh niên
là “tự xác định” bản thân và hình thành thế giới quan qua việc hình thành hệ thống
những quan điểm bền vững đối với bản thân và thế giới.
1.4. Tự chấp nhận của sinh viên
Trong sự phát triển về lứa tuổi, thanh niên sinh viên đã hoàn thiện các khía cạnh
về giải phẫu sinh lý để có thể đảm bảo khả năng sống. Trong lĩnh vực nhận thức và
nhân cách, giai đoạn này đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của những nét tâm lý
như tự ý thức và tự đánh giá về bản thân qua các yếu tố về năng lực, phẩm chất cá
nhân. Trong bối cảnh văn hóa xã hội, thanh niên sinh viên là những người đứng trước
ngưỡng cửa cuộc sống của người trưởng thành, lứa tuổi này có sự háo hức lẫn lo âu
với những nhiệm vụ và mục tiêu lớn lao ở tương lai, vì thế sinh viên cần có đủ sự tự
tin, biết chấp nhận bản thân để phát triển mình và đạt được sự lành mạnh hơn trong
đời sống cá nhân.
1.4.1. Khái niệm về tự chấp nhận của sinh viên
Dựa trên khái niệm và những đặc điểm về tự chấp nhận đã được xác lập, nghiên
cứu đề xuất định nghĩa về tự chấp nhận của sinh viên như sau:
“Tự chấp nhận của sinh viên là việc sinh viên chấp nhận mình là một người đáng
quý, chấp nhận những nét tính cách tích cực và tiêu cực, những ưu điểm và hạn chế
của bản thân ngang qua việc chấp nhận những suy nghĩ, cảm xúc, cách ứng xử và trải
nghiệm của chính mình một cách hoàn toàn và vô điều kiện cho dù có được người
khác tán thành, tôn trọng, chấp nhận và yêu thương hay không”
1.4.2. Vai trò của tự chấp nhận trong đời sống của sinh viên
Chamberlain và Haaga (2001) khi tìm hiểu về mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô
điều kiện và phản ứng của sinh viên đối với những phản hồi tiêu cực, kết quả đã chỉ
ra rằng sinh viên có điểm tự chấp nhận cao thì sẽ khách quan hơn trong đánh giá sự
40
thể hiện của bản thân và ít nghiêng về sự chê bai người đã phê bình họ (Chamberlain
và Haaga, 2001a).
Trong nghiên cứu của Thompson và Waltz (2003) khi tìm hiểu về mối liên hệ
giữa chánh niệm với tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng trên các sinh viên
ngành Tâm lý học tại Đại học Montana (Mindfulness, Self-esteem and Unconditional
Self-acceptance). Kết quả cho thấy chánh niệm có mối liên hệ tích cực với tự chấp
nhận vô điều kiện và lòng tự trọng của sinh viên. Các nhà nghiên cứu nhận định, thông
qua chánh niệm, sinh viên học cách chấp nhận những suy nghĩ, cảm xúc và tình huống
của bản thân hơn là ra sức chống trả với những gì không thể thay đổi và không còn
đánh giá giá trị của mình dựa trên tiêu chuẩn của người khác (Thompson & Walts,
2007).
Flett và cộng sự (2003) đã xây dựng nghiên cứu tìm hiểu mối liên hệ giữa tự
chấp nhận vô điều kiện với các khía cạnh của chủ nghĩa cầu toàn và tự báo cáo về
trầm cảm trên sinh viên. Kết quả đã chỉ ra rằng tự chấp nhận vô điều kiện của sinh
viên có mối liên hệ tiêu cực với các khía cạnh của chủ nghĩa cầu toàn (hướng vào bản
thân, hướng vào người khác và chủ nghĩa cầu toàn mang tính bắt buộc xã hội). Bên
cạnh đó, sự tự chấp nhận ở sinh viên làm trung gian điều tiết mối liên hệ giữa khía
cạnh chủ nghĩa cầu toàn mang tính bắt buộc xã hội (socially prescribed
perfectionism), của niềm tin không dung thứ sự thất vọng (frustration intolerance
beliefs) và trầm cảm (Flett và cộng sự, 2003).
Popov và cộng sự (2016) đã trình bày kết quả nghiên cứu về sự ảnh hưởng của
tự chấp nhận vô điều kiện trên sức khỏe tâm thần của sinh viên. Nghiên cứu này dự
đoán về về vai trò của tự chấp nhận vô điều kiện trong phản ứng buồn chán và lo lắng
của sinh viên đối với các tình huống căng thẳng. Đồng thời, nghiên cứu cũng cho thấy
tự chấp nhận vô điều kiện sẽ có những ảnh hưởng khác nhau đếu các chỉ số sức khỏe
tâm thần trên sinh viên với phản hồi hài lòng khác nhau. Đối với yếu tố lo âu, sinh
viên có điểm tự chấp nhận thấp ít hài lòng đối với phản hồi tích cực mà họ nhận được
và cũng lo lắng hơn khi so sánh với những sinh viên khác. Mặt khác, sinh viên có
mức độ tự chấp nhận thấp nhưng hài lòng hơn với phản hồi, lo lắng chỉ xuất hiện
trong trường hợp ở những người nhận được phản hồi tiêu cực nhiều hơn. Đối với yếu
tố trầm cảm, sinh viên có mức tự chấp nhận thấp không hài lòng với phản hồi thì buồn
41
chán hơn trong việc so sánh chúng với những người có điểm tự chấp nhận cao hơn
(trong cả hai trường hợp của việc nhận được phản hồi trung tính và tích cực). Trong
khi đó, sinh viên có mức độ tự chấp nhận thấp nhưng hài lòng với phản hồi nhận được
thì buồn chán hơn với phản hồi tiêu cực mà họ nhận được khi so sánh với những người
có điểm tự chấp nhận cao hơn. Đồng thời khi sinh viên hài lòng với phản hồi, nhưng
mức độ tự chấp nhận vô điều kiện thấp thì có nghĩa họ cũng có điểm cao trong thang
đo trầm cảm (Popov và cộng sự, 2016).
Có thể thấy, sinh viên có sự tự chấp nhận cao sẽ hài lòng trong cuộc sống, hạnh
phúc, có khả năng tự bảo vệ mình khi trải nghiệm những tình huống thất bại mà cá
nhân không thể lường trước được, luôn sẵn sàng và cởi mở với những trải nghiệm của
bản thân, đón nhận chính mình và cuộc sống trên tinh thần của sự khám phá, hiểu biết
để trưởng thành; còn các sinh viên có sự tự chấp nhận thấp sẽ dẫn đến các vấn đề về
cầu toàn, lo âu, tức giận và triệu chứng trầm cảm. Đồng thời, sinh viên có thể nâng
cao tự chấp nhận và ít phản ứng gay gắt với những kinh nghiệm tức thì của mình qua
chánh niệm, khi đó cá nhân biết tập trung tâm trí vào những trải nghiệm của bản thân,
duy trì sự chú ý ở giây phút hiện tại với thái độ không phán xét.
42
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Những năm gần đây, các nhà tâm lý học trên thế giới đang ngày càng quan tâm
và tiến hành nhiều công trình nghiên cứu về tự chấp nhận vô điều kiện, các nghiên
cứu được thực hiện trên mẫu đa dạng ở người trưởng thành, học sinh sinh viên. Tuy
nhiên, tại Việt Nam lĩnh vực nghiên cứu về tự chấp nhận này vẫn còn khá mới.
Là nguồn gốc của tự chấp nhận vô điều kiện, thuật ngữ lòng tự trọng đã được
nghiên cứu từ rất lâu. Có nhiều quan điểm để đánh giá lòng tự trọng với nhiều khía
cạnh, đa chiều hơn như năng lực hay sự xứng đáng, đặc biệt là mối liên hệ giữa hai
yếu tố này. Cùng với khuynh hướng Tâm lý học tích cực, Albert Ellis (1977) – người
sáng lập Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý đã đề ra khái niệm “Tự chấp nhận vô điều
kiện” như một thành tố thay thế cho “lòng tự trọng” trên một quan điểm đặc trưng
duy nhất và vươn xa hơn đến ý tưởng về sự hạnh phúc, đó là sự khẳng định về giá trị
con người cao hơn và vượt ra khỏi giới hạn hành vi ứng xử.
Theo đó, các nhà tâm lý học đã tìm hiểu và nghiên cứu về mối mối liên hệ giữa
mức độ tự chấp nhận vô điều kiện với các yếu tố như sự thể hiện bản sắc cá nhân,
cảm nhận hạnh phúc, những niềm tin phi lý cũng như các vấn đề về sức khỏe tâm
lý/tâm thần. Khi đó, tự chấp nhận vô điều kiện được hiểu là việc cá nhân chấp nhận
bản thân một cách trọn vẹn và vô điều kiện bất kể sự cư xử của bản thân là thông
minh, đúng đắn, thành thạo hay không và cho dù có được người khác ghi nhận, tôn
trọng hoặc yêu thương họ hay không.
Đối với sinh viên, tự chấp nhận hướng đến việc cá nhân chấp nhận rằng mình là
người thật sự có giá trị, đón nhận những trải nghiệm, ý thức rằng là con người thì dễ
mắc sai lầm, chưa hoàn hảo, nhiều khi thể hiện tốt nhưng đôi khi cũng sai; chấp nhận
bản thân luôn luôn và vô điều kiện mà không có bất kì sự phán xét nào.
43
CHƯƠNG 2
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TỰ CHẤP NHẬN
CỦA SINH VIÊN NGÀNH TÂM LÝ HỌC – KHOA TÂM LÝ HỌC
TRƯỜNG ĐHSP TP.HCM
2.1. Thể thức nghiên cứu
2.1.1. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ sinh viên theo học chuyên ngành Tâm
lý học (hệ chính quy) tại Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM năm học 2018-
2019. Sinh viên được hướng dẫn trả lời nội dung trong phiếu khảo sát. Tổng số phiếu
thu về đạt yêu cầu là 274 phiếu. Phân bố mẫu nghiên cứu được trình bày ở bảng 2.1.
Bảng 2.1. Phân bố mẫu nghiên cứu
Tiêu chí Số lượng Tỉ lệ (%)
Nam 40 14,6
Giới tính Nữ 227 82,8
Khác 7 2,6
Năm nhất 74 27
Năm hai 74 27 Năm học Năm ba 52 19
Năm tư 74 27
Xuất sắc 10 3,6
Giỏi 112 40,9 Điểm trung bình Khá 140 51,1
Trung bình 12 4,4
Xuất sắc 39 14,2
Tốt 146 53,3 Điểm rèn luyện Khá 82 29,9
Trung bình 7 2,9
44
2.1.2. Công cụ nghiên cứu
Công cụ nghiên cứu chính của đề tài là Bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện
(USAQ) của Chamberlain & Haaga (2001). Bên cạnh đó, một công cụ khác là Bộ câu
hỏi phỏng vấn bán cấu trúc dành cho sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP
TP.HCM.
2.1.2.1. Quy trình thích nghi và thiết kế công cụ
Bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện được xin phép bản quyền từ tác giả, sau đó
chuyển ngữ và dịch ngược. Người nghiên cứu tự điều chỉnh một số từ sử dụng và cách
viết câu sao cho phù hợp mà không làm mất đi ý nghĩa của mệnh đề được nêu ra.
Qua nghiên cứu về khái niệm, vai trò, mối liên hệ của tự chấp nhận vô điều kiện
và các yếu tố khác như hạnh phúc, lòng tự trắc ẩn, niềm tin phi lý và sức khỏe tâm lý/
tâm thần. Bộ câu hỏi phỏng vấn bán cấu trúc dành cho sinh viên Tâm lý học được
thiết kế với những câu hỏi mở nhằm thu thập thông tin về các khía cạnh của tự chấp
nhận dưới góc nhìn, quan điểm và trải nghiệm của 8 sinh viên ngành Tâm lý học tham
gia nghiên cứu.
2.1.2.2. Mô tả công cụ
a. Bảng hỏi tự chấp nhận
Phiếu khảo sát Tự chấp nhận vô điều kiện của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường
ĐHSP TP.HCM bao gồm 2 phần:
Phần A: Thông tin cá nhân của người tham gia, gồm: giới tính, năm học, điểm
trung bình và điểm rèn luyện.
Phần B: Nội dung bảng hỏi gồm 20 câu hỏi đo lường mức độ sinh viên chấp
nhận bản thân vô điều kiện (Chamberlain & Haaga, 2001). Các câu hỏi được trải dài
trên thang đo từ 1 đến 7 với các giá trị tương ứng:
(1) Gần như luôn luôn sai
(2) Thường sai
(3) Thường sai nhiều hơn đúng
(4) Số lần đúng và sai bằng nhau
(5) Thường đúng nhiều hơn sai
(6) Thường đúng
(7) Gần như luôn luôn đúng
45
b. Bảng phỏng vấn tự chấp nhận
Phần A: Thu thập thông tin ban đầu về sức khỏe, cảm xúc cũng như các thông
tin về trải nghiệm trong gia đình, học tập và sự kiện đặc biệt của người tham gia trong
thời gian gần.
Phần B: Nội dung phỏng vấn tìm hiểu về quan điểm và trải nghiệm của người
tham gia qua một số câu hỏi về cách họ định nghĩa, nhận định về tự chấp nhận, những
chia sẻ của họ về quá trình tự chấp nhận, quan điểm của họ về một người tự chấp nhận
cao/thấp, những yếu tố tác động đến tự chấp nhận cũng như vai trò của tự chấp nhận
trong đời sống cá nhân.
2.1.2.3. Cách xử lí và đánh giá
a. Bảng hỏi tự chấp nhận vô điều kiện
Phần A: Thông tin cá nhân của sinh viên trong phiếu khảo sát, số liệu được sử
dụng để thống kê tính tần số, không tính điểm.
Phần B: 20 câu hỏi được tính như sau:
(a). Sẽ tính điểm ngược: 7=1, 6=2, 3=5, 4=4 với 11 câu hỏi, bao gồm: 1, 4, 6, 7,
9, 10, 12, 13, 14, 15, 19. Có nghĩa rằng, điểm số cao bằng mức độ tự chấp nhận thấp.
(b). Tính điểm bằng với điểm được cho: 1=1, 7=7 và tương tự, bao gồm: 2, 3, 5,
8, 11, 16, 17, 18, 20. Có nghĩa rằng, điểm số cao cho thấy mức độ tự chấp nhận cao.
(c). Tính tổng tất cả các câu thành phần
Trong nghiên cứu đâu tiên của Haaga, điểm trung bình của nhóm sinh viên là
82,78 với độ lệch chuẩn là 17,28. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu vĩ mô nào sử
dụng Bảng hỏi tự chấp nhận vô điều kiện nên không thể xác định được thang điểm về
tự chấp nhận. Việc xử lý và đánh giá điểm của bảng hỏi đang được các nhà nghiên
cứu thực hiện trên mẫu quy mô hơn (Falkenstein & Haaga, 2013).
Vì thế, điểm tổng được người nghiên cứu quy đổi thành 7 mức độ như sau: lấy
điểm tổng cao nhất (140) trừ điểm tổng thấp nhất (20) và chia cho số mức độ được
lựa chọn (7), kết quả ghi nhận trên 7 mức độ với số điểm tương ứng dưới bảng 2.2:
46
Bảng 2.2. Phân chia mức độ tự chấp nhận dựa trên điểm trung bình
Mức 1 Mức 3 Mức 4 Mức 5 Mức 7 Mức 2 Mức 6 (Rất (Khá (Trung (Khá (Rất (Thấp) (Cao) thấp) thấp) bình) cao) cao)
Điểm 20 đến 38 đến 55 đến 72 đến 89 đến 106 đến 123 đến
tổng 37 54 71 88 105 122 140
b. Bảng hỏi phỏng vấn
Thông tin buổi phỏng vấn được ghi chép thành văn bản.
Quá trình xử lý kết quả phỏng vấn như sau:
- Tìm kiếm những thông tin liên quan đến mục tiêu ban đầu và lợi ích cuộc phỏng
vấn hướng đến để mã hóa. Nếu có các vấn đề mới phát sinh sẽ được ghi nhận thêm
trong quá trình mã hóa.
- Xác định các sự kiện, đặc điểm, ý nghĩa, các hoạt động, các từ/cụm từ, hành vi
được đề cập và phân loại thành các “mã” hoặc “từ ngữ”.
- Phân biệt hoặc tích hợp các sự kiện, nhóm các thông tin ghi chép được thành
các đơn vị/nhóm có ý nghĩa theo chủ đề để rút ra kết luận.
- Quá trình xử lý được thực hiện cho đến khi bản ghi chép không còn gì mới và
một số mã đã nổi bật lên, mối liên kết giữa các mã đã được hình thành.
2.1.2.4. Độ tin cậy của thang đo
Bảng 2.3 dưới đây trình bày độ tin cậy của bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện.
Hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha là 0,7 đạt mức tốt.
Bảng 2.3. Hệ số tin cậy của thang đo
Hệ số tin cậy Thang đo Số câu (Cronbach’s Alpha)
Bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện 20 0,704
47
2.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm
lý học Trường ĐHSP TP.HCM
2.2.1. Kết quả khảo sát tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học
Trường ĐHSP TP.HCM trên toàn mẫu
Bảng 2.4. Mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP
TP.HCM
Mức Xếp loại Tổng điểm Tần số Tỉ lệ (%) độ
1 Rất thấp 20 đến 37 0 0
2 Thấp 38 đến 54 2 0,7
3 Khá thấp 55 đến 71 41 15
4 Trung bình 72 đến 88 146 53,3
5 Khá cao 89 đến 105 76 27,7
6 Cao 106 đến 122 8 2,9
7 Rất cao 123 đến 140 1 0,4
Kết quả thống kê ở bảng 2.4 cho thấy 274 sinh viên tham gia trả lời 20 câu hỏi
về tự chấp nhận vô điều kiện: chỉ có 0,4% sinh viên có mức độ tự chấp nhận ở mức
rất cao, có 2,9% sinh viên ở mức cao, 27,7% sinh viên ở mức khá cao, 53,3% ở mức
trung bình, 15% ở mức khá thấp và 0,7% ở mức thấp, không có bất kì sinh viên nào
trong mẫu nghiên cứu có mức tự chấp nhận rất thấp.
Như vậy, sự tự chấp nhận của đa số sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP
TP.HCM ở mức trung bình. Trung bình điểm tổng của tự chấp nhận trên mẫu là 83,32
thuộc mức trung bình, trong đó tổng điểm thấp nhất là 52 và cao nhất là 129 với độ
lệch chuẩn là 12,17. Biểu đồ 2.1 phân bố mức độ tự chấp nhận của sinh viên tập trung
ở mức trung bình đến khá cao.
48
0 %
0,7 %
15 %
53,3 %
27,7 %
2,9 %
0,4 %
Biểu đồ 2.1. Phân bố mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường
ĐHSP TP.HCM
Dưới quan điểm của A. Ellis, chấp nhận mình một cách trọn vẹn và vô điều kiện
trong việc nhìn nhận rõ sự sinh động của bản thân, chọn sống hạnh phúc và hạn chế
những nỗi đau không cần thiết, tập trung vào sự trưởng thành, chấp nhận chính mình
mà không chịu bất kì sự tác động của đánh giá nào khác. Trong quá trình phát triển,
thanh niên sinh viên là giai đoạn có sự tự ý thức ngày càng được nâng cao, cá nhân
dần khám phá và có sự tự đánh giá về bản thân một cách rõ ràng hơn. Sinh viên Tâm
lý học là những người được tiếp cận với tri thức khoa học về đời sống tâm lý con
người, về các chiều kích sâu hơn trong tiến trình khám phá bản thân. Vì thế, sự tiếp
cận ấy cũng góp phần vào việc sinh viên mở rộng và đi sâu hơn trong việc xác định
mục đích và ý nghĩa cuộc sống của mình, khởi đi từ việc lắng nghe bản thân và học
cách đón nhận mình với tất cả những trải nghiệm, những ưu khuyết điểm, những tiềm
năng và giới hạn của bản thân.
Tỉ lệ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM có
xu hướng phân bố thiên về mức trung bình – khá cao, điều này cũng thể hiện một
khuynh hướng tích cực của sinh viên Tâm lý học trong việc họ đang tiến dần đến sự
tự chấp nhận hoàn toàn và vô điều kiện.
49
Bảng 2.5. Một số khía cạnh nổi bật trong tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý
Trường ĐHSP TP.HCM
Biểu hiện ĐTB ĐLC
Khi tôi quyết định đặt mục tiêu cho chính mình thì việc
cố gắng để đạt được hạnh phúc quan trọng hơn là cố 5,47 1,56
gắng để chứng tỏ bản thân.
Điểm số Tôi tin rằng tôi có giá trị, đơn giản chỉ vì tôi là một con cao nhất 5,26 1,70 người.
Khi tôi nhận một phản hồi tiêu cực, tôi xem đó như 5,01 1,33 một cơ hội để cải thiện hành vi và biểu hiện của mình.
Tôi nghĩ rằng ai thành công trong những việc họ làm 2,39 1,36 là người có giá trị đặc biệt.
Điểm số Tôi đặt cho mình những mục tiêu với hy vọng khi đạt 3,08 1,48 thấp nhất được thì tôi có thể cho mọi người thấy giá trị của mình.
Tôi cảm thấy một số người có giá trị hơn những người 3,27 1,64 khác.
Kết quả trên ghi nhận quan điểm “thường đúng nhiều hơn sai” với các mệnh đề
của tự chấp nhận vô điều kiện thể hiện việc đa số sinh viên Tâm lý tập trung và hướng
đến việc đạt được hạnh phúc hơn là thể hiện hoặc đánh giá chính mình, cảm nhận của
sinh viên về giá trị nguyên bản và ý thức của họ trong việc nhìn nhận sự phản hồi,
đánh giá của người khác trong đời sống thường ngày. Cũng trên bảng 2.5 cho thấy
các mệnh đề ngược với sự tự chấp nhận như việc nhìn nhận, so sánh và định giá trị
của một người dựa trên thành công, mong đợi sự ghi nhận từ người khác hầu hết được
sinh viên Tâm lý nhận định những điều ấy “thường sai nhiều hơn đúng”. Điều này
cho thấy các sinh viên đều ý thức được giá trị của sự tồn tại hợp lý và chấp nhận mình
qua việc không đánh giá bản thân trong bất kì điều kiện hay sự thể hiện nào của mình.
50
Biểu đồ 2.2 dưới đây thể hiện khuynh hướng của sinh viên Tâm lý trong việc
nhìn nhận ý nghĩa của sự tự chấp nhận là hướng đến cảm nhận hạnh phúc hơn là
chứng tỏ mình khi đặt mục tiêu cá nhân.
Biểu đồ 2.2. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Khi quyết định đặt mục tiêu cho chính
mình thì việc cố gắng để đạt được hạnh phúc quan trọng hơn là cố gắng để chứng
tỏ bản thân”
Kết quả trên cho thấy, phân bố lựa chọn hướng đến hạnh phúc hơn nhiều hơn
việc chứng tỏ bản thân, thống kê chỉ ra đa số sinh viên chọn câu trả lời thường đúng,
luôn đúng và đúng nhiều hơn sai. Điều này thể hiện việc sinh viên Tâm lý dần ý thức
rõ ràng hơn nhu cầu và mong muốn của bản thân mỗi khi đặt mục tiêu cho chính mình
trong cuộc sống đó là hướng đến hạnh phúc hơn là chứng tỏ bản thân với người xung
quanh.
Trong điều kiện về mối quan tâm của A. Ellis với sự phát triển, duy trì và điều
trị các vấn đề về cảm xúc, ông rất hứng thú trong việc tìm hiểu và khám phá xem điều
gì khiến con người vui vẻ. Ông nhận định rằng việc cá nhân cảm nhận hạnh phúc
trong điều kiện của cảm giác hài lòng và có thể đạt được qua sự tham gia tích cực của
họ vào các hoạt động, và đó chỉ là hạnh phúc ngắn hạn dựa trên nền của sự hài lòng
51
tạm thời. Trong khí đó, hạnh phúc thật sự là khi con người có những cảm xúc dương
tính với những trải nghiệm của mình, đó là kết quả đáp ứng những tiềm năng, sự phấn
đấu của cá nhân để hướng tới sự xuất sắc và tự hiện thực hóa.
Cũng trong việc nhìn nhận sự tự chấp nhận, biểu đồ 2.3 dưới đây thể hiện khuynh
hướng định giá trị không dựa trên sự thành công của sinh viên Khoa Tâm lý.
Biểu đồ 2.3. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Tôi nghĩ rằng ai thành công trong
những việc họ làm là người có giá trị đặc biệt”
Kết quả của khuynh hướng sinh viên có định giá trị của một người dựa trên sự
thành công hay không phân bố tập trung ở lựa chọn cho rằng điều đó thường sai, sai
nhiều hơn đúng nhưng cũng có gần 20% sinh viên chọn đúng và sai bằng nhau. Điều
này cho thấy khuynh hướng chung của sinh viên Tâm lý trong việc định giá trị của
một người không dựa trên sự thành công hay dựa vào năng lực thông qua thành tích
và sự công nhận từ bên ngoài để đánh giá về giá trị bản thân nhưng đặt trên nền của
sự hiện hữu như một người có giá trị.
Trong “The Value of Human Being” Bernard đã xác định rằng việc định giá trị
(valuing) của một người trong nhìn nhận việc được sống hay được tồn tại đã được
nhiều nhà triết học hiện sinh như Paul Tillich, Robert S. Hartman khi xem nó là một
giải pháp hợp lý cho vấn đề của giá trị bản thân khi cá nhân cảm nhận mình như một
52
con người có đầy đủ giá trị, bao gồm những phẩm chất đẹp và những thành tích tốt,
xứng đáng được nhận đối xử tôn trọng và yêu thương bởi người khác (Bernard, 2013).
Đi sâu vào cấu trúc của giá trị bản thân, có những lĩnh vực mà tại đó cá nhân sẽ xác
định cho mình một giá trị nhất định. Jennifer Crocker cho rằng nếu cá nhân đánh giá
mình dựa trên sự thành công hay thấy bại sẽ dẫn tới sự căng thẳng và đau khổ tâm lý.
Việc đặt giá trị bản thân vào sự thành công khiến cá nhân không thể duy trì được cảm
giác về giá trị bản thân bởi những thất bại là một trong những nguyên nhân dẫn đến
các vấn đề về sức khỏe tâm thần như trầm cảm, rối loạn ăn uống (Crocker, Luhtanen,
Cooper & Bouvrette, 2003).
2.2.2. Kết quả so sánh tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường
ĐHSP TP.HCM dựa trên các tham số nghiên cứu
2.2.2.1. Giới tính
Bảng 2.6. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các giới tính
Giới tính ĐTB ĐLC Trị số F Sig N
40 84,05 15,80 Nam
Tự chấp 227 83,01 11,45 0,95 0,39 Nữ nhận
7 89,14 11,14 Khác
Từ bảng 2.6, kết quả kiểm nghiệm ANOVA cho giá trị sig = 0,39 và trị số F là
0,95, điều này thể hiện rằng không có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê về tự chấp
nhận giữa các nhóm giới tính của sinh viên Tâm lý học tham gia nghiên cứu.
Kết quả này cho thấy các nhóm sinh viên nam, nữ và khác đều có sự tự chấp
nhận ở mức trung bình. Sự chênh lệch về trung bình điểm tổng không đủ thể hiện sự
khác biệt giữa các nhóm giới tính. Bên cạnh dó, sự chênh lệch về mẫu đại diện cũng
có thể ảnh hưởng đến kết quả so sánh. Điều này củng cố nhận định về kết quả trong
các nghiên cứu về tự chấp nhận của sinh viên trên thế giới cũng đều cho thấy không
có ý nghĩa (Aricak, Dundar & Saldana, 2015; Jibeen, 2016; Milburn, Porada &
Sammut, 2017).
53
2.2.2.2. Năm học
Bảng 2.7. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các năm học
Năm học ĐTB ĐLC Trị số F Sig N
Năm nhất 83,5 12,9 74
Năm hai 82,03 10,72 74 Tự chấp 0,4 0,75 nhận Năm ba 83,88 12,56 52
Năm tư 84,03 12,64 74
Bảng 2.7 mô tả kết quả kiểm định ANOVA về tự chấp nhận của sinh viên Tâm
lý học với tham số các năm học. Trị số F = 0,4 và giá trị sig là 0,75 cho thấy không
có sự khác biệt ý nghĩa giữa các sinh viên từ năm nhất đến năm tư.
Tri thức là một nguồn lực lớn cho sinh viên trong hành trình khám phá và hiểu
về chính mình. Sinh viên theo các năm học ngày càng có nhiều cơ hội hơn trong việc
tiếp cận tri thức về khoa học tâm lý một cách đầy đủ và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, kết
quả điểm trung bình tổng của sinh viên từ năm 1 đến năm 4 của Khoa Tâm lý học
Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chính Minh có mức độ tự chấp nhận là trung
bình. Có thể nhận định, việc được tiếp cận với kiến thức tâm lý học trải qua các năm
được đào tạo chưa thật sự thúc đẩy sinh viên Tâm lý trong việc chấp nhận bản thân.
Đây cũng là định hướng cho các nghiên cứu tiếp nối về sau để tìm hiểu tự chấp nhận
có thể chịu ảnh hưởng và phát triển dựa trên các yếu tố khác.
2.2.2.3. Học lực
Bảng 2.8. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các học lực
Học lực ĐTB ĐLC Trị số F Sig N
Xuất sắc 80,1 14,77 10
Giỏi 84,44 13,35 112 Tự chấp 0,83 0,48 nhận Khá 82,51 11,15 140
Trung bình 12 85 9,78
54
Kiểm nghiệm ANOVA trên bảng 2.8 cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa về
tự chấp nhận của sinh viên Tâm lý học giữa các nhóm học lực dựa trên kết quả học
tập học kì gần nhất, với trị số F là 0,83 và sig = 0,48. Sự chênh lệch về trung bình
tổng điểm tự chấp nhận của sinh viên với các mức độ học lực khác nhau từ trung bình
đến xuất sắc không tạo nên sự khác biệt trong nghiên cứu.
2.2.2.4. Điểm rèn luyện
Bảng 2.9. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các kết quả rèn luyện
ĐRL ĐTB ĐLC Trị số F Sig N
Xuất sắc 81,54 13,11 39
Tốt 146 83,61 12,71 Tự chấp 2,07 0,1 nhận Khá 84,48 10,21 82
Trung bình 73,57 13,6 7
Bảng 2.9 cho kết quả với sig = 0,1 và trị số F là 2,07, kiểm định ANOVA cho
thấy không có sự khác biệt về mức độ tự chấp nhận với kết quả rèn luyện của sinh
viên Tâm lý học.
Tại môi trường Đại học, các hình thức hoạt động xã hội dành cho lứa tuổi thanh
niên sinh viên rất đa dạng phong phú. Qua việc tích cực tham gia các hoạt động trải
nghiệm hay thiện nguyện giúp sinh viên trưởng thành hơn trong quá trình rèn luyện
bản thân trên nhiều mặt: đạo đức, trí tuệ, thể chất và kỹ năng làm việc. Cơ sở để tích
lũy điểm rèn luyện dựa trên việc sinh viên tham gia các hoạt động xã hội nhiều hay
ít, điều này không tác động đến việc cá nhân chấp nhận mình như thế nào.
2.3. Kết quả phỏng vấn về tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học
Trường ĐHSP TP.HCM
Đề tài tiến hành thực hiện phỏng vấn bán cấu trúc trên 8 sinh viên chuyên ngành
Tâm lý học từ năm 1 đến năm 4 đã ghi nhận được những góc nhìn, quan điểm và trải
nghiệm của các sinh viên trong việc tự chấp nhận. Kết quả này đề cập đến các chủ đề
nổi trội được sinh viên chấp nhận cũng như không chấp nhận, quan điểm của sinh
viên Tâm lý học về các yếu tố tác động đến sự tự chấp nhận.
55
2.3.1. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận cao
Kết quả phỏng vấn cho thấy mỗi sinh viên tham gia phỏng vấn có 1 đến 2 chủ
đề thuộc về bản thân mà họ tự chấp nhận cao. Bảng 2.10 dưới đây biểu thị các khía
cạnh được sinh viên Tâm lý chấp nhận mình ở mức cao (7-9/10):
Bảng 2.10. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận cao
STT Chủ đề Tần số
1 Bộc lộ cảm xúc 6
2 Năng lực 4
3 Tính cách 4
4 Thể hiện giới tính 4
5 Xu hướng tính dục 3
Trong các chủ đề ấy, nổi bật lên ở mức cao là việc sinh viên chấp nhận việc bản
thân đang trải nghiệm những cảm xúc tiêu cực như buồn, lo lắng, sợ hãi “Em chấp
nhận những cảm xúc lo lắng, sợ hãi của bản thân” cũng như việc sinh viên cho phép
mình được bộc lộ cách chân thật các cảm xúc ấy “Em cho phép bản thân bộc lộ những
cảm xúc với điều em đang trải nghiệm”. Cùng với đó, năng lực và tính cách của bản
thân cũng được sinh viên Tâm lý chấp nhận ở mức cao qua việc họ ý thức cách rõ
ràng về những tiềm năng cũng như hạn chế của mình “Em chấp nhận bản thân với
ngưỡng năng lực của mình”, sinh viên chấp nhận những phẩm chất tích cực và cả
những giới hạn; chấp nhận sự khác biệt và đa dạng trong tính cách của bản thân “Em
chấp nhận những mặt khác nhau của mình”. Điều này thúc đẩy sinh viên biết sẵn sàng
và cởi mở hơn trong việc đón nhận những trải nghiệm cũng như sự nỗ lực của bản
thân để đạt đến điều cao nhất mình có thể, ý thức rằng mình – một cách rất riêng biệt
về tính cách đã làm hết sức trong khả năng của mình và hài lòng với những gì mình
nhận được mà không phàn nàn, trách cứ hay tự lên án chính mình.
Một chủ đề khác cũng được sinh viên chấp nhận bản thân cao là hai khía cạnh
về giới tính. Một là chấp nhận xu hướng tính dục của bản thân với những trải nghiệm
rất riêng qua thời gian “Em chấp nhận mình có cảm giác bị thu hút bởi hai giới”, đón
56
nhận xu hướng ấy như một điều hết sức tự nhiên mà không than phiền hay oán trách
để rồi tự do hơn trong việc thể hiện mình “Em tự do hơn trong việc thể hiện giới tính
và xu hướng tính dục của mình”. Hai là thể hiện giới tính của bản thân như “Em xác
định rằng mình thật sự là con gái và tự do thể hiện sự nữ tính của mình”, tự do và
thoải mái hơn trong việc lựa chọn trang phục và cách ứng xử theo giới tính mà bản
thân muốn “Em thoải mái mặc đồ theo kiểu em thích”.
Quá trình tự chấp nhận của mỗi một người trải qua nhiều giai đoạn để hướng
đến sự chấp nhận bản thân một cách trọn vẹn và vô điều kiện, vì thế bắt đầu từ sự
quay trở về với bản thân, lắng nghe chính mình qua những cảm nhận và phản ứng
cảm xúc.
2.3.2. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận thấp
Kết quả phỏng vấn ghi nhận các sinh viên tham gia có ít nhất một chủ đề thuộc
về bản thân mà họ gặp khó khăn trong việc chấp nhận mình. Bảng 2.11 mô tả các chủ
đề sinh viên có mức tự chấp nhận thấp (2-5/10):
Bảng 2.11. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận thấp
STT Chủ đề Tần số
1 Hành vi/cách cư xử 9
2 Ngoại hình 6
3 Quá khứ 4
4 Tính cách 3
5 Kinh tế 3
Một chủ đề mà sinh viên Tâm lý gặp trở ngại trong việc tự chấp nhận thấp là
cánh ứng xử/những hành vi của bản thân trong đời sống như “Em chưa chấp nhận
được việc mình lâu lâu có những hành vi xấu”. Các bạn sinh viên cảm thấy khó chịu
với cách mình hành xử “Em cảm giác rất khó chịu với những điều mình đang làm”
khi những điều mình làm lại mâu thuẫn với điều bản thân nghĩ/cảm hay mong muốn
thể hiện “Em không chấp nhận cách mình ứng xử trong mối quan hệ thân thiết, có
nhiều điều em không muốn làm nhưng lại cứ làm, cũng không chấp nhận em sẽ lùi về
57
sau để nhìn mối quan hệ một cách sáng suốt hơn”. Sinh viên vẫn có sự mâu thuẫn khi
trong ngoài không đồng nhất, có sự đòi hỏi bản thân ở cách ứng xử tới mức khó chịu
và bất mãn với chính mình khi cứ hành xử như vậy.
Một chủ đề khác được sinh viên đề cập đến trong sự tự chấp nhận thấp là ngoại
hình của họ. Một số sinh viên chưa chấp nhận những đặc điểm về ngoại hình của mình
về chiều cao, cân nặng hoặc những khiếm khuyết của cơ thể như “Em vẫn muốn mình
đẹp hơn, bớt mập hơn”, “Em chưa hoàn toàn chấp nhận được những khác biệt về
ngoại hình của bản thân” hay “Em vẫn chưa thích vẻ ngoài nữ tính của mình”. Sinh
viên bày tỏ sự không hài lòng về ngoại hình của mình khi nhận thấy bản thân chưa
thoải mái, né tránh việc nói và thể hiện cũng như nhìn nhận sự “không đẹp” ấy ảnh
hưởng đến công việc “Em chưa chấp nhận lắm ngoại hình của mình vì thấy nó ảnh
hưởng lên công việc của em”. Sinh viên đã xây dựng cho mình những tiêu chuẩn về
cái đẹp, trong đó bao gồm cả vẻ đẹp về ngoại hình. Đối với một số sinh viên, ngoại
hình là một trong những thước đo được sử dụng để tự đánh giá bản thân và người
khác. Ở tuổi thanh thiếu niên, việc tự đánh giá ngoại hình của bản thân có tác động
mạnh mẽ nhất đến lòng tự trọng tổng quát so với các lĩnh vực khác (Crocker và cộng
sự, 2003).
Cùng với đó, sinh viên cũng gặp khó khăn trong việc chấp nhận những tổn
thương, kí ức buồn mà mình từng trải nghiệm, những tính cách và cả điều kiện kinh
tế của bản thân. Sinh viên cảm thấy mình chưa đủ can đảm để đối diện với những kí
ức đau buồn, những sang chấn trong quá khứ; cảm thấy khó chấp nhận và không muốn
tin rằng những điều ấy tồn tại khi “Em cảm thấy mình khó chấp nhận việc bản thân
trải qua những kí ức buồn”, “Em chưa thật chấp nhận việc mình bị bạo lực và cảm
nhận mình bị chối bỏ”. Tính cách của mỗi người có ưu có khuyết, sinh viên dễ dàng
hơn trong việc ghi nhận mình có những nét tính cách tốt nhưng lại khó chấp nhận
những nét tính cách thể hiện sự khác biệt nhiều so với số đông xung quanh như “Em
không chấp nhận rằng mình không phải là một người cởi mở, sẵn sàng đương đầu
với thử thách” hay “Em chưa chấp nhận được tính cách khó gần của mình với một
mối quan hệ mới”. Một vài sinh viên cũng nhìn nhận rằng mình nhiều khi quên và
chưa chấp nhận tình trạng kinh tế của mình như “Em chưa chấp nhận rằng điều kiện
kinh tế mình không có, nhiều khi quên mất”.
58
Maslow đã nhấn mạnh rằng sự lành mạnh của cá nhân tìm thấy sự tích cực đối
với việc chấp nhận bản thân và sự tự nhiên nơi họ mà không có sự bất mãn (chagrin)
hay phàn nàn (Szentagotai & David, 2013). Hệ quả của việc sinh viên không chấp
nhận những chiều kích thuộc về bản thân đó chính là cá nhân ở trong một vòng lặp
do chính mình tạo nên, khó chịu khiến đời sống luôn bất an và mâu thuẫn. Sinh viên
rèn luyện sự tự chấp nhận cần đặt trên nền tảng của việc ý thức và tin rằng trong chính
họ luôn tiềm tàng một nguồn sống, một sức mạnh, một vị thế, một phẩm giá mà bất
cứ sự thay đổi nào của lịch sử trải nghiệm cũng không thể thay đổi bản chất sự hiện
hữu và sống động của bản thân.
2.3.3. Các yếu tố tác động đến tự chấp nhận của sinh viên
Con người, trong sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình luôn chịu sự
tác động bởi các yếu tố về di truyền và môi trường xã hội. Tự chấp nhận – một yếu tố
quan trọng trong sự trưởng thành và hiện thực hóa cá nhân, phỏng vấn ghi nhận kết
quả sinh viên tâm lý chia sẻ những trải nghiệm cũng như những quan điểm của họ về
các yếu tố tác động đến mức độ tự chấp nhận của một người dưới góc độ hai chiều:
tăng và giảm tự chấp nhận.
Bảng 2.12. Các yếu tố tác động đến tự chấp nhận
STT Chủ đề Tần số
Cách giáo dục/cư xử trong gia đình 1 10
Mối tương giao thân thiết (bạn bè, người quan trọng) 2 9
3 Sự tự nhận thức của cá nhân 7
4 Trải nghiệm cá nhân 5
5 Sự can đảm của cá nhân 5
6 Tích lũy tri thức 4
7 Niềm tin tôn giáo 3
Trong các yếu tố tác động đến sự tự chấp nhận theo quan điểm của các bạn sinh
viên tham gia phỏng vấn, nổi bật lên là cách thức cá nhân được giáo dục trong gia
đình, cách ứng xử giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là cha mẹ đối với cá
59
nhân khi họ còn là trẻ nhỏ: “Cách giáo dục của cha mẹ ảnh hưởng rất nhiều, trẻ sẽ
biết chấp nhận mình khi phụ huynh cho các em được bộc lộ cảm xúc và những suy
nghĩ của mình”, “Điều ảnh hưởng đến tự chấp nhận nhiều nhất là cách giáo dục của
cha mẹ khi họ dạy trẻ biết nhìn về bản thân, biết như thế nào là đúng – sai”, điều ấy
luôn được sinh viên nhấn mạnh đến tính “nhất” và “rất nhiều” từ gia đình. Qua phương
thức giáo dục và ứng xử trong gia đình, tự chấp nhận của một người ở mức cao khi
trong gia đình họ được bố nhắc nhở và dạy bảo cách nhẹ nhàng: “Gia đình chấp nhận
những thiếu sót, sai lầm của con, biết nhắc nhở, tư vấn cho con”, “Thái độ của cha
mẹ ứng xử với con là rất quan trọng đến cảm nhận của trẻ về mình”; ngược lại với sự
tích cực ấy là việc “Cha mẹ khắt khe, phủ nhận những điều con làm khiến trẻ không
dám tin và học cách chấp nhận được” sẽ khiến một người rất khó chấp nhận mình.
Điều này cho thấy rõ hơn tính chất các mối quan hệ trong gia đình thể hiện qua cách
các thành viên tương tác, ứng xử với nhau sẽ ảnh hưởng đến quá trình lớn lên cũng
như quá trình hình thành và phát triển đời sống tâm lý của trẻ, lên sự hình thành những
định hướng giá trị, những nét tính cách, kiểu khí chất, năng lực cũng như xu hướng
của cá nhân trong đời sống (nhu cầu, động cơ, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan và
niềm tin) ở tuổi trưởng thành.
Tất cả sinh viên tham gia phỏng vấn đều cho rằng gia đình là một yếu tố tác động
mạnh mẽ lên sự tự chấp nhận của một người. Quan điểm của Nguyễn Khắc Viện đã
nhấn mạnh rằng gia đình có một vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi cá nhân từ
khi còn là đứa trẻ cho đến lúc trưởng thành. Bởi gia đình là cái nôi của tình yêu
thương, là nơi bắt đầu trong việc thiết lập các mối quan hệ xã hội đầu tiên, đây cũng
là nền tảng của sự hình thành và phát triển nhân cách sau này (Nguyễn Khắc Viện,
1994). Cũng theo đó, Crocker đã nhận định rằng tình yêu và cách ứng xử trong gia
đình có vai trò quan trọng trong sự phát triển giá trị bản thân của con người (Crocker
và cộng sự, 2003).
Một yếu tố khác là cách thức các mối tương giao thân thiết (như bạn bè, những
người quan trọng) đối với cá nhân cũng tác động đến sự tự chấp nhận của người ấy.
Khi một người được người khác chấp nhận, lắng nghe, động viên, khuyến khích, khen
ngợi và ghi nhận những gì người ấy làm hay thể hiện thì đó là bước đầu tiên để họ
học cách chấp nhận chính mình: “Những lời khen, động viên, khuyến khích, ghi nhận
60
của người khác giúp người đó biết chấp nhận những khả năng và hạn chế của mình”
hay “Mỗi người nên có sự hỗ trợ của bạn bè thân thiết vì được lắng nghe, được hỗ
trợ để hiểu và chấp nhận mình tốt hơn”. Cũng trong các mối tương giao thân thiết ấy
cá nhân cũng nhạy cảm hơn với những lời nói, ánh mắt, lời nhận xét và thái độ của
người khác như “Những lời nói, ánh mắt dò xét của người đó khiến em cảm thấy mình
đang bị đánh giá”.
Crocker đã nhận định rằng giá trị của sinh viên có thể được dựa trên sự công
nhận từ những người khác. Tuy nhiên, sự công nhận này không phải sự công nhận
thực sự mà xuất phát từ việc cá nhân tin rằng người khác nghĩ về họ. Sự xác định giá
trị bản thân phụ thuộc vào sự thể hiện trong những mối quan hệ thân thiết trước những
tình huống cụ thể thông qua sự ảnh hưởng đến nhận thức của họ về mối quan hệ đó
(Crocker và cộng sự, 2003). Trên cơ sở lý luận về tự chấp nhận, đó là việc cá nhân
chấp nhận bản thân một cách trọn vẹn và đầy đủ với những gì thuộc về mình mà
không dựa trên sự đánh giá, khen ngợi, ghi nhận hay yêu thương từ người khác. Tuy
nhiên, kết quả nghiên cứu định lượng ở trên cho thấy đa số sinh viên Khoa Tâm lý
Trường ĐHSP TP.HCM có tự chấp nhận ở mức trung bình nên việc các sinh viên
tham gia phỏng vấn nhận định rằng đây là một yếu tố lớn tác động đến mức độ tự
chấp nhận của một người là một điều phù hợp.
Cùng với đó, yếu tố thuộc về bản thân mỗi người như sự tự nhận thức, sự trải
nghiệm, sự can đảm và sự tích lũy tri thức của cá nhân cũng tác động đến mức độ tự
chấp nhận của họ. Yếu tố về sự tự nhận thức giúp một người nâng cao sự tự chấp nhận
qua việc họ biết quay về ngồi lại với bản thân, tự vấn và cách họ tự đánh giá về những
điều hiện tại của mình khi “Họ biết dành thời gian để tự vấn bản thân” hay “Dành
thời gian ngồi lại để suy nghĩ giúp người ta nâng cao tự chấp nhận”. Sự trải nghiệm
đối với mức độ tự chấp nhận của một người được nhấn mạnh khi sinh viên cho rằng
“Người sống nhiều, trải nghiệm nhiều, đọc nhiều, hiểu nhiều thì tự chấp nhận sẽ cao”
hay “Người càng trải nghiệm thì càng học cách chấp nhận mình hơn”, có khi đau khổ
là yếu tố thúc đẩy cá nhân đạt đến tự chấp nhận “Trải nghiệm nhiều khiến cá nhân
đau khổ, điều ấy thúc đẩy họ thoát ra khỏi đau khổ là hướng đến việc tự chấp nhận”.
Yếu tố về sự can đảm được sinh viên đề cập đến như một tinh thần sẵn sàng của mỗi
người trong việc đối diện với những điều không mong muốn, đương đầu với những
61
khó khăn trong cuộc sống và can đảm quay về với chính mình để nhận ra và đi qua
những tổn thương ngang qua việc rèn luyện sự tự chấp nhận: “Về phía bản thân, cá
nhân người ấy đủ dũng cảm đối diện lại với những trải nghiệm”, “Can đảm quay về
với bản thân để nhìn về và hiểu mình, có như vậy mới biết chấp nhận mình”. Sinh
viên cũng cho rằng việc tích lũy cho mình những tri thức cũng góp phần nâng cao sự
tự chấp nhận của một người: “Sinh viên có thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ tri thức để học
cách chấp nhận mình”, “Nếu biết vận dụng kiến thức thì có thể nâng cao tự chấp
nhận”; như vậy tác động của nguồn lực tri thức trên tự chấp nhận của cá nhân là giúp
họ hiểu sâu hơn về bản thân và học cách chấp nhận mình trọn vẹn hơn.
Bên cạnh đó không thể không đề cập đến một nguồn lực thúc đẩy sự tự chấp
nhận của cá nhân là tôn giáo: “Tôn giáo có tác động lớn đến tự chấp nhận của một
người”. Trong nghiên cứu của mình, Crocker đã tìm thấy mức độ mà cá nhân thể hiện
niềm tin với tôn giáo mình đang theo đuổi có mối liên hệ tích cực đến lòng tự trọng
thông qua niềm tin rằng con người được yêu thương, quý trọng và có vai trò duy nhất
trong mắt Đấng Tối Cao (Crocker và cộng sự, 2003). Niềm tin tôn giáo là nơi cho con
người điểm tựa, dạy cá nhân biết đón nhận trọn vẹn con người mình với những gì
mình là bằng cả sự trân quý và yêu thương bản thân, cho họ biết và thấy cái hiện hữu
trong mình để hướng đến một cuộc sống bình an, tràn đầy niềm tin, niềm hy vọng và
tình yêu thương.
62
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Kết quả nghiên cứu cho thấy tự chấp nhận của sinh viên Tâm lý học Trường
ĐHSP TP.HCM ở mức trung bình. Đối chiếu với các tham số nghiên cứu, không tìm
thấy sự khác biệt có ý nghĩa nào về tự chấp nhận giữa các giới tính, các năm học, các
học lực và các kết quả rèn luyện.
Phương pháp phỏng vấn cũng đã ghi nhận được kết quả cho thấy sinh viên chấp
nhận mình đang trải nghiệm những cảm xúc và bộc lộ chúng một cách chân thực ở
mức cao, đồng thời cũng tự chấp nhận tốt các chủ đề thuộc về năng lực, tính cách cá
nhân, chấp nhận xu hướng tính dục của mình và sự tự do trong việc thể hiện giới tính.
Ngược lại, sinh viên tự chấp nhận thấp ở những chủ đề thuộc về phản ứng hành vi,
ngoại hình, những trải nghiệm đau buồn trong quá khứ, tính cách và điều kiện kinh tế
của bản thân. Việc chưa chấp nhận bản thân khiến cá nhân luôn bị giằng co, mâu
thuẫn và bất an trong đời sống của mình.
Bên cạnh đó, khi tìm hiểu về các yếu tố tác động đến tự chấp nhận của một
người, hầu hết các sinh viên đều cho rằng yếu tố về gia đình, trong đó cách thức cha
mẹ giáo dục con cái ở tuổi nhỏ cũng như cách ứng xử của các thành viên tác động đến
tự chấp nhận của cá nhân nhiều nhất. Cùng với đó là cảm giác của cá nhân khi được
những người thân thiết (bạn bè, người quan trọng) đón nhận, khen ngợi, khích lệ và
yêu thương hoặc ngược lại cũng tác động nhiều đến sự tăng trưởng hay làm giảm tự
chấp nhận của họ. Về phía bản thân, các nhận định về sự tự nhận thức, trải nghiệm
của cá nhân, sự tích lũy tri thức và sự can đảm của một người cũng giúp họ biết cách
chấp nhận mình. Niềm tin tôn giáo cũng là một yếu tố nâng cao tự chấp nhận của sinh
viên.
Với các kết quả được ghi nhận, một vài điểm nổi bật trong tự chấp nhận của sinh
viên tâm lý đã được xác đinh, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra và cần được tìm
hiểu sâu hơn trong các nghiên cứu sau.
63
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Kết quả nghiên cứu lý luận về tự chấp nhận của sinh viên
Trong hướng tiếp cận của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý, tự chấp nhận là
một thành tố “lành mạnh hơn” thay thế cho lòng tự trọng, đó là việc cá nhân chấp
nhận bản thân một cách trọn vẹn và vô điều kiện cho dù cách họ cư xử là thông minh,
đúng đắn, thuần thục hay không và cho dù họ có được người khác tán thưởng, tôn
trọng hoặc yêu thương hay không.
Cấu trúc tự chấp nhận vô điều kiện sinh viên bao gồm “cái tôi”, “sự chấp nhận”
và “vô điều kiện”. Trong đó, mỗi sinh viên hiểu rằng mình là sự tồn tại vô cùng phức
tạp với tất cả những đặc điểm, tính cách, sự thể hiện của suy nghĩ, cảm xúc, hành vi
của bản thân; hiểu rằng mình là con người có tốt có xấu, có ưu có khuyết, có thể phạm
sai lầm, chưa hoàn hảo, có khi thể hiện tốt nhưng đôi khi cũng sai và ẩn sâu trong
chính mình luôn là sự tốt đẹp, có những tiềm năng cho sự phát triển; và cuối cùng đó
là hiểu rằng sự tồn tại của mỗi người trên thế giới này là duy nhất, chưa từng và sẽ
không bao giờ tìm được một “bạn” nào khác, tính duy nhất ấy trong sự hiện hữu và
trong chính những trải nghiệm rất riêng của mỗi người.
Sự chấp nhận và vô điều kiện thể hiện trong việc sinh viên nhận thức được sự
tồn tại của điều gì đang hiện diện ở hiện tại mà không phán xét hay đánh giá, chấp
nhận mình như mình là, đón nhận trọn vẹn con người mình với những gì tích cực và
tiêu cực, với những điểm mạnh và hạn chế của mình, tin rằng mình đáng quý, có giá
trị và hài lòng với bản thân dẫu sự thể hiện ấy có hiệu quả và có được người khác
khen ngợi hay yêu thương.
Tự chấp nhận của sinh viên đã được xem xét và nghiên cứu trên thế giới dưới
nhiều góc độ trong mối mối liên hệ với sự thể hiện bản thân, mối quan hệ với người
khác, lòng tự trọng, lòng tự trắc ẩn và các yếu tố về sức khỏe tâm thần như cảm nhận
hạnh phúc, giá trị bản thân, niềm tin phi lý, chủ nghĩa cầu toàn.
Với tầm quan trọng của mình, tự chấp nhận làm nền tảng của hạnh phúc. Hạnh
phúc và bình yên khi sinh viên hiểu rằng mình có thể mắc những sai lầm nhưng không
trở thành lỗi (error), mình có thể chưa làm tốt (fail) mà không phải là thất bại (failure),
mình có thể có những hành động xấu nhưng không phải là một người xấu, sinh viên
64
không đánh giá bản thân trong bất kì điều kiện hay sự thể hiện nào của họ, thay vào
đó chấp nhận mình một cách trọn vẹn trong điều kiện về sự tồn tại và hiện hữu của
mình.
1.2. Kết quả nghiên cứu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm
lý học Trường ĐHSP TP.HCM
Nghiên cứu thực hiện khảo sát trên 274 và phỏng vấn 8 sinh viên Khoa Tâm lý
học Trường ĐHSP TP.HCM đã cho một số kết quả như sau:
Tự chấp nhận vô điều kiện của đa số sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP
TP.HCM tập trung ở mức trung bình. Khi xem xét tự chấp nhận với các tham số
nghiên cứu bao gồm giới tính, năm học, kết quả học tập và điểm rèn luyện, kết quả
ghi nhận rằng không có sự khác biệt ý nghĩa về tự chấp nhận so với các tham số ấy.
Kết quả phỏng vấn ghi nhận sinh viên Khoa Tâm lý học có sự tự chấp nhận cao
ở các khía cạnh về những trải nghiệm và bộc lộ cảm xúc, chấp nhận năng lực và tính
cách của bản thân, chấp nhận xu hướng tính dục và sự thể hiện giới tính của mình.
Trong khi đó, sinh viên chấp nhận thấp ở các khía cạnh về ngoại hình, những trải
nghiệm tổn thương trong quá khứ và những tính cách khác biệt của bản thân.
Trong các yếu tố tác động đến sự tự chấp nhận, sinh viên tham gia phỏng vấn
nhấn mạnh đến việc cách thức cha mẹ giáo dục con cái và tính chất mối liên hệ giữa
các thành viên trong gia đình; tự chấp nhận cũng chịu sự tác động bởi các nhận xét,
đánh giá, ghi nhận và thái độ của những người thân thiết đối với cá nhân. Về phía bản
thân, sinh viên cho rằng các đặc điểm của cá nhân như sự tự nhận thức, sự trải nghiệm,
sự tích lũy tri thức và sự can đảm của cá nhân tác động đến mức độ tự chấp nhận. Bên
cạnh đó, yếu tố về niềm tin tôn giáo được nhìn nhận như một nguồn lực lớn giúp cá
nhân nâng cao sự tự chấp nhận của mình.
Những vai trò của tự chấp nhận được sinh viên Tâm lý tập trung nhấn mạnh là
hướng đến sự hiểu sâu sắc hơn về chính mình, định vị và phát triển bản thân tốt hơn,
phát triển các chiều kích khác như niềm tin vào bản thân, nâng cao lòng tự trắc ẩn và
sự can đảm, thoải mái hơn trong việc thể hiện bản thân, biết yêu thương mình hơn và
cũng biết quản lý cảm xúc tốt hơn. Các sinh viên cũng nhìn nhận khi biết tự chấp nhận
thì tăng độ hài lòng với cuộc sống, tăng khả năng đương đầu với khó khăn. Không chỉ
65
như thế, tự chấp nhận còn thúc đẩy cá nhân thiết lập và phát triển các mối quan hệ
bền vững hơn và cũng hướng đến sự chấp nhận người khác.
Đối chiếu kết quả nghiên cứu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm
lý học Trường ĐHSP TP.HCM với các giả thuyết cho thấy:
- Sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM có sự tự chấp nhận vô
điều kiện ở mức độ trung bình. Kết quả này trùng khớp với giả thuyết 1 được đưa ra
trong đề tài đã cho thấy sinh viên Khoa Tâm lý học sinh viên Tâm lý học biết chấp
nhận bản thân nhưng chưa thật sự chấp nhận một cách hoàn toàn và vô điều kiện. Từ
đó, một trong những hệ quả của việc chưa chấp nhận chính mình này là sự bất an, xáo
trộn, mâu thuẫn trong cảm nhận và thể hiện, ảnh hưởng đến sự tự đánh giá, được ghi
nhận/tán thành, tôn trọng và yêu thương từ người khác. Kết quả này tạo nên mối nghi
ngại trong việc nhận định về sự tự chấp nhận của sinh viên Tâm lý từ đó mở ra định
hướng giúp nâng cao sự tự chấp nhận nơi sinh viên.
- Kiểm định đã chỉ ra rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa tự chấp nhận
với tham số giới tính, năm học, học lực và kết quả rèn luyện. Điều này không trùng
khớp với giả thuyết nghiên cứu 2 của đề tài khi tác giả nhận định rằng sinh viên Khoa
Tâm lý các năm học sẽ có sự khác biệt về mức độ tự chấp nhận cũng như các sinh
viên có thành tích học tập khác nhau sẽ có mức độ tự chấp nhận khác nhau. Kết quả
này cho thấy các sinh viên Khoa Tâm lý không tự đánh giá bản thân dựa trên những
thành tích đạt được và việc trang bị về kiến thức tâm lý học trong quá trình học tập
chưa thúc đẩy sự tự chấp nhận của sinh viên. Vấn đề này cần được quan tâm để xây
dựng và phổ biến các giá trị của tự chấp nhận đến với sinh viên trong quá trình đào
tạo và cung cấp tri thức về tâm lý học, để từ đó sinh viên biết ứng dụng tri thức nhiều
và sâu hơn trong việc hướng đến việc hiểu và khám phá bản thân.
- Kết quả phỏng vấn đã tìm thấy mối liên hệ giữa tự chấp nhận và giá trị bản
thân. Trong 7 lĩnh vực xác định giá trị bản thân theo Crocker và cộng sự (2003) bao
gồm năng lực học tập, ngoại hình, sự công nhận từ người khác, sự cạnh tranh, sự hỗ
trợ từ gia đình, niềm tin tôn giáo và phẩm chất đạo. Kết quả này cho thấy tự chấp
nhận của sinh viên có liên hệ với 4/7 lĩnh vực thuộc về giá trị bản thân, đó là sự hỗ
trợ từ gia đình, sự công nhận từ người khác, ngoại hình và niềm tin tôn giáo. Do giới
hạn về số lượng mẫu phỏng vấn nên kết quả này chưa đủ để kiểm nghiệm giả thuyết
66
3 đã đặt ra. Nhận định này cho thấy cần được tiến hành các nghiên cứu hệ thống và
quy mô hơn về tự chấp nhận trong mối liên hệ với giá trị bản thân.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với sinh viên
Sinh viên Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM cần chủ động và tích cực
hơn trong việc vận dụng kiến thức tâm lý được đào tạo để nhận ra, hiểu và khám phá
bản thân hướng đến chấp nhận mình cách trọn vẹn và vô điều kiện. Nâng cao ý thức
về trí tuệ, ước muốn và những cảm giác của thân thể, của trạng thái tâm lý, học cách
biết ơn vì tất cả những điều mình đang trải nghiệm. Người nghiên cứu sử dụng một
số bài tập chánh niệm như một giải pháp giúp sinh viên biết quay trở về nhìn nhận
mọi điều thuộc về bản thân, can đảm đối diện những điều mình né tránh, cởi mở và
sẵn lòng hòa giải với chính mình, không lên án hay phán xét và tập nhìn mọi sự với
đôi mắt tích cực (Trần Thị Giồng, 2010.2018; Bernard, 2012b.2013).
Sinh viên thực hành chánh niệm qua một vài nhịp lặng trong ngày bằng cách
dừng mọi hoạt động, chú tâm vào giây phút hiện tại, lắng nghe cơ thể và cảm xúc của
mình lên tiếng, trò chuyện với chính mình về những cảm nhận. Cuối ngày, viết nhật
kí hay ghi chú mô tả về một ngày sống: Từ khi thức dậy cho đến giây phút thực hiện,
có những việc gì đã xảy ra, những người đã gặp gỡ, những nơi đã đến; và trong một
chuỗi những biến cố vừa qua, điều gì hay hình ảnh nào còn đọng lại rất rõ ràng trong
tâm trí; khi điều đó xảy ra, cảm nhận của bản thân như thế nào, đã làm, đã nghĩ hay
đã nói gì. Sau khi nhận tất cả những gì đã diễn ra mà không có bất kì sự nhận xét hay
đánh giá nào, hãy dừng lại, ngồi đó và trò chuyện với bản thân về điều ấy. Sinh viên
cũng có thể kể tên/viết ra những tình huống mà họ nhận thấy mình có xu hướng chấp
nhận toàn bộ bản thân cho dù người khác có đánh giá hay bày tỏ thái độ như thế nào.
Trong quá trình rèn luyện tự chấp nhận, hiệu quả của các bài tập phụ thuộc vào
sự cam kết thực hiện của sinh viên trong một tinh thần cởi mở với chính mình. Quan
trọng hơn, mỗi bài tập đều cần sinh viên ở lại trong sự tĩnh lặng, điều này giúp sinh
viên có một cái nhìn sáng và trong hơn về chính mình. Sự tĩnh lặng sẽ giúp sinh viên
can đảm đối diện với bản thân, gặp được chính mình trong những gì rất thật cũng như
nhận ra những tác động của môi trường bên ngoài. Sự tĩnh lặng để ngồi lại với bản
thân còn giúp cá nhân phục hồi sức khỏe thể chất và năng lượng tinh thần.
67
Để tiến sâu hơn trong quá trình rèn luyện và nâng cao sự tự chấp nhận sinh viên
cần có ý chí và sự can đảm, ý chí để bền bỉ và liên lỉ trong việc ngồi lại và trò chuyện
với chính mình, sự can đảm để đối diện và học cách đón nhận những trải nghiệm của
bản thân mà không hề phán xét. Từ đó giảm bớt sự tác động bởi các yếu tố bên ngoài
như thái độ, sự đánh giá của người khác hoặc việc có được họ khen ngợi và ghi nhận
hay không.
Trên nền tảng là sự tự chấp nhận, sinh viên cũng hướng đến việc chấp nhận sự
khác biệt của mỗi người, đón nhận người khác với tất cả những gì họ là, không phải
những gì họ thể hiện về mặt hành vi.
2.2. Đối với Khoa Tâm lý học Trường ĐHSP TP.HCM
Sự rèn luyện để nâng cao tự chấp nhận của sinh viên Tâm lý không phải là sự
loay hoay của sinh viên với chính mình nhưng còn cần rất nhiều sự thúc đẩy và tạo
điều kiện từ Khoa, từ các Thầy, Cô.
Về phía Ban chủ nhiệm Khoa Tâm lý học, có thể xây dựng và phát triển tự chấp
nhận thành một học phần tự chọn tự do để sinh viên có cơ hội được tiếp cận về tự
chấp nhận một cách có hệ thống và thực hành nó như một thói quen trí tuệ và thói
quen tình cảm (intelligent and emotional habit).
Trong môi trường đào tạo về tâm lý học, với những bộ môn riêng của mình các
Thầy Cô có thể trở thành nguồn lực giúp sinh viên nâng cao tự chấp nhận qua những
bài tập, tổ chức các hoạt động liên quan đến tự chấp nhận để giúp sinh viên hiểu và ý
thức rõ hơn tầm quan trọng, ý nghĩa của tự chấp nhận trong đời sống, nhờ đó giúp
sinh viên không chỉ nâng cao tri thức nền tảng về tâm lý học mà còn thúc đẩy tính
tích cực của sinh viên trong việc tìm hiểu, khám phá bản thân và tập chấp nhận toàn
bộ con người mình. Đồng thời, khi đánh giá sinh viên, giáo viên giúp sinh viên sử
dụng tự chấp nhận như một lối tư duy mỗi khi đối diện với những trải nghiệm trong
quá trình học tập như thuyết trình, làm việc nhóm, thi cử (Bernard và cộng sự, 2013).
2.3. Đối với các nhà nghiên cứu
Công cụ bảng hỏi tự chấp nhận vô điều kiện được sử dựng trong nghiên cứu này
đã xin phép bản quyền từ chính tác giả (Chamberlain & Haaga), dịch chuyển ngữ và
đưa vào khảo sát. Tuy nhiên đây là thang đo nhưng chưa được thích ứng vì thế vẫn
cần được kiểm nghiệm về nội dung và cách đánh giá.
68
Đề tài về tự chấp nhận vẫn còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Vì thế, các nhà nghiên
cứu sau có thể tiếp tục phát triển đề tài về lý luận qua việc xây dựng và phát triển hệ
thống khái niệm tự chấp nhận, các yếu tố tác động cũng, vai trò của tự chấp nhận
trong đời sống con người. Theo đó, đề tài còn có thể mở rộng nghiên cứu trên khách
thể là các giai đoạn thanh thiếu niên, người trưởng thành, người già hay trên các nhóm
khách thể đặc biệt như trẻ em mồ côi, nhóm các bệnh nhân. Đặc biệt hơn, các nhà
nghiên cứu có thể thực hiện các đề tài nghiên cứu tìm hiểu về mối liên hệ giữa tự chấp
nhận với các yếu tố về sức khỏe tâm lý/tâm thần, giá trị bản thân, niềm tin phi lý, cảm
nhận hạnh phúc, lòng tự trắc ẩn qua việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu phù
hợp (nghiên cứu tương quan, thực nghiệm, nghiên cứu trường hợp,…).
2.4. Đối với các nhà thực hành tâm lý
Trên nền tảng các lý thuyết và kĩ thuật trong thực hành tâm lý, các chuyên viên
tâm lý có thể đưa khái niệm tự chấp nhận đến với thân chủ của mình lồng ghép trong
các phiên làm việc hoặc như một sự đề xuất và hướng dẫn họ thực hành tự chấp nhận.
Dưới tiếp cận theo Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý, tự chấp nhận cần thiết trong
việc giúp đỡ các cá nhân, đặc biệt là thanh niên sinh viên có các vấn đề tâm lý liên
quan đến cảm xúc như lo âu, trầm cảm, các vấn đề về hình ảnh bản thân, ý niệm về
nhân sinh quan, những niềm tin, các giá trị và khó khăn khác trong cuộc sống (học
tập, công việc, mối quan hệ).
Trong đó, nhà tâm lý giúp cá nhân tin rằng họ là một người đáng quý
(worthwhile) bởi vì họ là con người, không phải bởi vì người ấy làm bất cứ điều gì
tốt hoặc được người khác ghi nhận nhưng đơn giản chỉ vì bản thân hiện hữu (exists).
Nhà thực hành tâm lý hướng đến việc thúc đẩy cá nhân thể hiện những bản sắc riêng
của mình với thái độ không phán xét, đánh giá hay định giá bản thân; để họ chỉ đơn
thuần chấp nhận sự thật rằng mình hiện hữu, rằng tốt hơn cho họ khi sống và tận
hưởng cuộc sống. Một khi cá nhân được giúp đỡ để khoan dung đầy đủ về tất cả
những gì thuộc về con người mình, đạt đến sự tự chấp nhận hơn là chỉ dừng lại ở việc
tự đánh giá (Bernard, 2013).
Không chỉ dừng lại trong làm việc cá nhân, tự chấp nhận cũng có thể được đưa
vào thực hành trong can thiệp nhóm qua việc nhà tâm lý đặt sự tăng trưởng về tự chấp
nhận của mỗi cá nhân trong nhóm như một mục tiêu của quá trình can thiệp.
69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
Hoàng Thị Trang. (2015). Cảm nhận hạnh phúc của sinh viên. Luận văn Thạc sĩ
Tâm lý học. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Hà Nội.
Huỳnh Văn Sơn. Trần Thị Thu Mai và Nguyễn Thị Tứ. (2012). Giáo trình tâm
lý học Sư phạm Đại học. TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Sư phạm Tp. HCM.
Huỳnh Văn Sơn. (2016). Giáo trình Tâm lý học đại cương. TP. Hồ Chí Minh:
NXB Đại học Sư phạm TP.HCM.
Lâm Lai Hưng. (2013). Lòng tự trọng. Bản tin Tâm lý học Đông Tây, 3.
Ngô Thị Đẹp và Dư Thống Nhất. (2014). Khảo sát việc tự đánh giá của sinh viên
tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ.
Nguyễn Minh Quân. (2018). Giá trị bản thân của sinh viên Trường Đại học Sư
phạm TP.HCM. Khóa luận tốt nghiệp Chuyên ngành Tâm lý học.
Nguyễn Thanh Hương. (2010). Báo cáo chuyên đề Sức khỏe tâm thần của thanh
thiếu niên Việt Nam. Hà Nội.
Nguyễn Thạc và Phạm Thành Nghị. (2008). Tâm lý học Sư phạm Đại học. Hà
Nội: NXB Đại học Sư phạm.
Trần Thị Giồng. (2010). Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. Hồ Chí Minh:
NXB Phương Đông.
Trần Thị Giồng. (2018). Tôi không đi qua tôi để lại gì? Đồng Nai: NXB Đồng
Nai.
Trần Thu Hương và Trần Minh Điệp. (2017). Đánh giá lòng tự trắc ẩn: Một
nghiên cứu định lượng ở sinh viên Việt Nam. Tạp chí Tâm lý học, 10 (223).
Trương Thị Khánh Hà. (2015). Thích ứng thang đo hạnh phúc chủ quan dành
cho vị thành niên. Tạp chí Tâm lý học, (5).
Rogers, C., (1961). On Becoming a Person (Tô Thị Ánh và Vũ Trọng Ứng dịch,
1992).
Vũ Thị Nho. (1999). Tâm lý học phát triển. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
70
B. Tiếng Anh
Aricak, O. T., Dundar, S., Saldana, M. (2015). Mediating effect of self-
acceptance between values and offline/online identity expressions among
college students. Computers in Human Behavior, 49, 362-374.
Berger, E. M. (1952). The relation between expressed acceptance of self and
expressed acceptance of others. Journal of Abnormal and Social Psychology,
47 (4), 778-782.
Bernard, M. E. (2012a). The Chil and Adolescent survey of positive self-
acceptance. Melbourne Graduate School of Education. University of
Melbourne.
Bernard, M. E. (2012b). The Character strength of self-acceptance: I accept
myself no matter what. East Melbourne, VIC: The Bernard Group.
Bernard, M. E. (2013). I accept myself no matter what. Oakleigh, VIC: The
Australian Scholarship Group.
Bernard, M. E., Vernon, A., Terjesen, M., & Kurasaki, R. (2013). Self-
Acceptance in the Education and Counseling of Young People. The Strength
of Self-Acceptance: Theory, Pratice and Research. 155-178. New York:
Springer.
Broder, M. S. (2013). Self-Acceptance and Successful Relationship. The
Strength of Self-Acceptance: Theory, Pratice and Research, 65-72, New
York: Springer.
Ciuhan, G. C., Dumitru, I. E. (2017). Unconditional Self-Acceptance, Functional
and Dysfunctional Negative Emotions, and Self-Esteem as Predictors for
Depression in Adolescents: a Brief Pilot Study Conducted in Romania.
Journal of Experiential Psychotherapy, 20 (4).
Chamberlain, J. M., & Haaga, D. A. F. (2001a). Unconditional Self-Acceptance
and Psychological Health. Journal of Rational-Emotive & Cognitive-
Bahavior Therapy, 19, 163-176.
Chamberlain, J. M., & Haaga, D. A. F. (2001b). Unconditional Self-Acceptance
and responses to negative feedback. Journal of Rational-Emotive &
Cognitive-Bahavior Therapy, 19, 177-189.
71
Crocker, J., & Luhtanen, R. K. (2003a). Level of Self-esteem and Contingencies
self-worth: Unique effects on academic, social, and financial problems in
college students. Personality and Social Psychology Bulletin, 29, 701-712.
Crocker, J., Luhtanen, K. R., Cooper, M. L., & Bouvrette, A. (2003a).
Contingencies self-worth in college students: Theory and Measurement.
Journal of Personality and Social Psychology, 85 (5), 894-908.
Davies, M. F. (2006). Irrational beliefs and unconditional self-acceptance. I.
Correlational evidence linking to features of REBT. Journal of Rational-
Emotive & Cognitive-Bahavior Therapy, 24, 113-124.
Davies, M. F. (2007a). Irrational beliefs and unconditional self-acceptance. II.
Experimental evidence linking to key features of REBT. Journal of Rational-
Emotive & Cognitive-Bahavior Therapy, 25, 89-101.
Davies, M. F. (2007b). Irrational beliefs and unconditional self-acceptance. III.
The relative importance of different types of irrational belief. Journal of
Rational-Emotive & Cognitive-Bahavior Therapy, 26, 102-118.
Diener, E., Richard E. ., & Oishi, S. (2002). Subjective Well-being: The Science
of Happiness and Life Satisfaction. Handbook of Possitive Psychology. 63-
73. Oxford University Press.
Dryden, W. (2013). Self-Acceptance and Self-Compassion. The Strength of Self-
Acceptance: Theory, Pratice and Research, 107-120. New York: Springer.
Ellis, A., Bernard, M.E. (2013). The Value of Human Being. The Strength of
Self-Acceptance: Theory, Pratice and Research (pp. 65-72). New York:
Springer.
Falkenstein, M. J., and Haaga, D. A. F. (2013). Measuring and Characterizing
Unconditional Self-Acceptance. The Strength of Self-Acceptance: Theory,
Pratice and Research, 139-151. New York: Springer.
Flett, G. L., Davis, R. A., & Hewitt, P. L. (2003). Dimensions of Perfectionism,
Unconditional Self-Acceptance and Depression. Journal of Rational-
Emotive & Cognitive-Behavior Therapy, 21 (2), 119-138.
72
Hoffman, L., Lopez, A. J., & Moats, M. (2013). Humanistic Psychology and
Self-Acceptance. The Strength of Self-Acceptance: Theory, Pratice and
Research (pp. 3-15). New York: Springer.
Jeffcoat, T., & Hayes, S. C. (2013). Psychologically Flexible Self-Acceptance.
The Strength of Self-Acceptance: Theory, Pratice and Research, 73-90. New
York: Springer.
Jibeen, T. (2016). Unconditional Self-Acceptance and Self-Esteem in Relation
to Frustration Intolerance Beliefs & Psychological Distress. Journal of
Rational-Emotive & Cognitive-Behavior Therapy. New York: Springer.
Kernis, M. H. (2006). Self-esteem issues and answer. New York: Psychology
Press.
Macinnes, D. L. (2006). Self-esteem and self-acceptance: An examination into
their relationship and their effect on psychological health. Journal of
Psychiatric and Mental Health Nursing, 13 (5), 483-489.
Milburn, M., Porada, K., & Sammut, S. (2017). Empirical Investigation of the
Relationship Between Irrationality, Self-Acceptance and Dispositional
Forgiveness. Journal of Rational-Emotive & Cognitive-Bahavior Therapy.
New York: Springer.
Popov, S., Radanovic, J., & Biro, M. (2015). Self-Evaluation and Mental Health:
An Experimental Assessment. Journal of Evidence-Based Psychotheraoies,
15 (2), 219-236.
Popov, S., Radanovic, J., Biro, M. (2016). Unconditional Self-Acceptance and
Mental Health in Ego-provoking experimental context. Suvremena
Psihologija, 19 (1), 71-80.
Thompson, B. L., & Walts, J. A. (2007). Mindfulness, Self-esteem and
Unconditional Self-acceptance. Journal of Rational-Emotive & Cognitive-
Behavior Therapy, 26 (2), 119-126. New York: Springer.
Scott, J. (2007). The effect of perfectionism and unconditional self-acceptance
on depression. Journal of Rational-Emotive & Cognitive-Bahavior Therapy,
25 (1), 35-64.
73
Szentagotai, A., & David, D. (2013). Self-Acceptance and Happiness. The
Strength of Self-Acceptance: Theory, Practice and Research (pp. 121-133).
New York: Springer.
Xu, W., Rodriguez, M. A., Zhang, Q., & Liu, X. (2014). The Mediating Effect
of Self-Acceptance in the Relationship Between Mindfulness and Peace of
Mind. Mindfulness, 6 (4), 797-802. New York: Springer Link.
Wlliams, J. C., & and Lynn, S. J. (2010). Acceptance: A historical and
Conceptual Review. Binghamton: State University of New York.
74
PHỤ LỤC 1: PHIẾU KHẢO SÁT
Bản Tiếng Anh và minh chứng quyền sử dụng từ tác giả
David A. F. Haaga, Ph.D.
Department of Psychology
Asbury Building
American University
Washington, DC 20016-8062
Phone 202-885-1718
Fax 202-885-1023
dhaaga@american.edu
Dear Colleague:
Thank you for your interest in the Unconditional Self-Acceptance
Questionnaire, developed by my former student John Chamberlain. You have our
(John’s and my) permission to use this scale in clinical work or research, to xerox it
as much as you want, etc. We would of course appreciate apt citation in any
publications resulting from such research. The best citation for the scale is:
Chamberlain, J. M., & Haaga, D. A. F. (2001). Unconditional self-acceptance
and psychological health. Journal of Rational-Emotive & Cognitive-Behavior
Therapy, 19, 163-176.
Administration Instructions
(a) The original USAQ was included as appendix A pp. 175-176 of JRECBT
vol. 19 (2001).
(b) We later revised the measure based on item analyses, and it probably makes
sense to use the revised measure henceforth [see Chamberlain, J. M., & Haaga, D. A.
F. (2001). Unconditional self-acceptance and responses to negative feedback.
Journal of Rational-Emotive & Cognitive-Behavior Therapy, 19, 177-189.
75
The revised version, which is enclosed, differs from the original in that the wording
was changed for items 1, 8, 16.
Scoring Instructions
A. Reverse the scoring (7=1, 6 = 2, etc.) of the 11 items worded in such a way that
higher frequency = lower self-acceptance. These are: 1, 4, 6, 7, 9, 10, 12, 13, 14, 15,
19
B. Use direct scoring (1 = 1, 7= 7, etc.) for the other 9 items, which are worded
such that higher freq. = higher self-acceptance.
C. Sum the item scores.
76
Unconditional Self-Acceptance Questionnaire
INSTRUCTIONS: Please indicate how often you feel each statement below is
true or untrue of you. For each item, write the appropriate number (1 to 7) on the
line to the left of the statement, using the following key:
More Equally More
Often Often Often
Almost Untrue True True Almost
Always Usually Than And Than Usually Always
Untrue Untrue True Untrue Untrue True True
___________________________________________________________
1 2 3 4 5 6 7
____ 1. When someone compliments me for something, I care more about
how it makes me feel about myself than about what it tells me about my strengths or
abilities.
_____2. I feel worthwhile even if I am not successful in meeting certain goals
that are important to me.
_____3. When I receive negative feedback, I take it as an opportunity to
improve my behavior or performance.
_____4. I feel that some people have more value than others.
_____5. Making a big mistake may be disappointing, but it doesn’t change
how I feel about myself overall.
_____6. Sometimes I find myself thinking about whether I am a good or bad
person.
_____7. To feel like a worthwhile person, I must be loved by the people who
are important to me.
77
_____8. When I am deciding on goals for myself, trying to gain happiness is
more important than trying to prove myself.
_____9. I think that being good at many things makes someone a good person
overall.
_____10. My sense of self-worth depends a lot on how I compare with other
people.
_____11. I believe that I am worthwhile simply because I am a human being.
_____12. When I receive negative feedback, I often find it hard to be open to
what the person is saying about me.
_____13. I set goals for myself that I hope will prove my worth.
_____14. Being bad at certain things makes me value myself less.
_____15. I think that people who are successful in what they do are especially
worthwhile people.
_____16. To me, praise is more important for pointing out to me what I'm
good at than for making me feel valuable as a person.
_____17. I feel I am a valuable person even when other people disapprove of
me.
_____18. I avoid comparing myself to others to decide if I am a worthwhile
person.
_____19. When I am criticized or when I fail at something, I feel worse about
myself as a person.
_____20. I don’t think it’s a good idea to judge my worth as a person.
78
Bản Tiếng Việt
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC
PHIẾU KHẢO SÁT
Chào bạn,
Tôi là Lê Thị Toàn, là sinh viên năm 4 – Chuyên ngành Tâm lý học, Khoa Tâm
lý học, Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM. Tôi đang thực hiện khóa luận Tốt nghiệp
với đề tài “Tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm
Tp. HCM”. Bảng hỏi phía dưới được gửi đến bạn nhằm hiểu rõ hơn cách bạn nhìn
nhận cuộc sống qua những giá trị đối với bản thân.
Việc tham gia bảng hỏi là hoàn toàn mang tính tự nguyện. Mọi thông tin đều
được bảo mật và phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Bạn có quyền không trả lời một số câu hoặc dừng lại hoàn toàn nếu các câu hỏi
khiến bạn cảm thấy không thoải mái.
Xin chân thành cảm ơn sự tham gia cộng tác của bạn!
Mọi thắc mắc và cần sự hỗ trợ, xin liên hệ qua email: toanlethi.vn@gmail.com
A. THÔNG TIN CHUNG
1. Giới tính Nam Nữ Khác
2. Năm học 1 2 3 4
3. Học lực Xuất sắc Giỏi Khá Trung bình Yếu
4. Điểm rèn luyện Xuất sắc Tốt Khá Trung bình Yếu
79
B. NỘI DUNG BẢNG HỎI
(Chamberlain, J. M & Haaga, D. A. F 2001)
Hướng dẫn: Bạn hãy xem xét và chỉ ra tần suất mà bạn cảm thấy những câu
dưới đây đúng hoặc không đúng với mình theo mức độ tương ứng. Với mỗi câu,
Bạn hãy viết một con số phù hợp (từ 1-7) vào bên phải cuối câu. Từ 1 đến 7 có mức
độ như sau:
Thường đúng
Thường sai
Gần như luôn luôn đúng
Thường sai nhiều hơn đúng
Số lần đúng và sai bằng nhau
Thường đúng nhiều hơn sai
Gần như luôn luôn sai
1 2 3 4 5 6 7
STT Nội dung Mức độ
Khi ai đó khen ngợi tôi về điều gì, tôi quan tâm việc điều đó làm tôi cảm
1 thấy như thế nào về chính mình hơn là điều đó nói gì về sức mạnh hay
khả năng của tôi.
Tôi cảm thấy có giá trị ngay cả khi tôi không thành công trong việc đạt 2 được những mục tiêu quan trọng.
Khi tôi nhận một phản hồi tiêu cực, tôi xem đó như một cơ hội để cải 3 thiện hành vi và biểu hiện của mình.
4 Tôi cảm thấy một số người có giá trị hơn những người khác.
Phạm một lỗi lầm lớn có thể thất vọng, nhưng nhìn chung nó không làm 5 thay đổi cách tôi cảm nhận về chính mình.
6 Thỉnh thoảng tôi suy nghĩ không biết mình là người tốt hay người xấu.
Để cảm nhận mình là một người có giá trị, tôi phải được yêu bởi những 7 người quan trọng đối với tôi.
80
Khi tôi quyết định đặt mục tiêu cho chính mình thì việc cố gắng để đạt 8 được hạnh phúc quan trọng hơn là cố gắng để chứng tỏ bản thân.
Tôi nghĩ rằng giỏi làm nhiều thứ khiến người ta trở thành một người tốt. 9
Ý nghĩa của tôi về giá trị bản thân tùy thuộc rất nhiều vào việc tôi so sánh 10 mình với người khác như thế nào.
11 Tôi tin rằng tôi có giá trị, đơn giản chỉ vì tôi là một con người.
Khi tôi nhận một phản hồi tiêu cực, tôi thường nhận thấy rất khó để cởi 12 mở với những gì người đó đang nói về tôi.
Tôi đặt cho mình những mục tiêu với hy vọng khi đạt được thì tôi có thể 13 cho mọi người thấy giá trị của mình.
Thể hiện không tốt trong một vài việc nhất định khiến tôi đánh giá bản 14 thân kém đi.
Tôi nghĩ rằng ai thành công trong những việc họ làm là người có giá trị 15 đặc biệt.
Đối với tôi, lời khen ngợi để chỉ ra những điều tôi làm tốt quan trọng hơn 16 những lời khen để làm tôi cảm thấy có giá trị.
Tôi cảm nhận mình là một người có giá trị dù cả khi người khác không 17 đồng tình với tôi.
Tôi tránh so sánh chính mình với người khác để xem mình có giá trị hay 18 không.
Khi tôi bị chỉ trích hoặc thất bại về điều gì đó, tôi cảm thấy thật tệ về 19 chính mình.
20 Tôi nghĩ đó không phải là một ý hay khi phán xét giá trị của bản thân tôi.
81
LỜI CẢM ƠN
Cảm ơn bạn đã đóng góp ý kiến khảo sát cho đề tài “Tự chấp nhận của sinh viên
Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM”. Mọi thông tin bạn cung cấp
đều được bảo mật và phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Là sinh viên đang theo học Tâm lý học – một khoa học đặc thù nhằm phục vụ
và hướng đến sự phát triển đời sống con người, người nghiên cứu rất quan tâm đến
những giá trị của sự tự chấp nhận (self-acceptance), cách những bạn đang theo học
Tâm lý học nhìn nhận cuộc sống qua những giá trị đối với bản thân.
Sự đóng góp, cộng tác của bạn trong việc thực hiện đề tài này là nguồn dữ liệu
quý giá cung cấp cho người nghiên cứu những giá trị trong sự tự chấp nhận qua việc
chấp nhận thực tại, chấp nhận chính mình. Ở một hay nhiều chiều kích của đời sống,
khi theo học Tâm lý học, mỗi sinh viên dần dần nhận ra rằng chỉ khi chấp nhận chính
mình với một cái tôi cá vị về mặt tâm lý và hiện tại, cá nhân mới có thể cảm nhận sự
hạnh phúc trong sự tồn tại của đời sống con người.
Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn sự cộng tác đóng góp của bạn!
Nếu có thắc mắc hoặc cần sự hỗ trợ tiếp nối trong thời gian tới, bạn vui lòng liên
hệ:
Người thực hiện khóa luận: toanlethi.vn@gmail.com
Giảng viên hướng dẫn: quyendt@hcmue.edu.vn
82
PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ KẾT QUẢ THỐNG KÊ
Bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện
Câu 3 Khi tôi nhận một phản hồi tiêu cực, tôi xem đó như một cơ hội để cải thiện hành vi và biểu hiện của mình. Câu 4 Tôi cảm thấy một số người có giá trị hơn những người khác. Câu 1 Khi ai đó khen ngợi tôi về điều gì, tôi quan tâm việc điều đó làm tôi cảm thấy như thế nào về chính mình hơn là điều đó nói gì về sức mạnh hay khả năng của tôi. Câu 5 Phạm một lỗi lầm lớn có thể thất vọng, nhưng nhìn chung nó không làm thay đổi cách tôi cảm nhận về chính mình. Statistics Câu 2 Tôi cảm thấy có giá trị ngay cả khi tôi không thành công trong việc đạt được những mục tiêu quan trọng.
N Valid Missing
274 0 3.43 3.00 3 1.416 274 0 4.21 4.00 6 1.639 274 0 5.01 5.00 6 1.334 274 0 3.27 3.00 2 1.640 274 0 4.47 5.00 6 1.644 Mean Median Mode Std. Deviation
Câu 6 Thỉnh thoảng tôi suy nghĩ không biết mình là người tốt hay người xấu. Câu 9 Tôi nghĩ rằng giỏi làm nhiều thứ khiến người ta trở thành một người tốt. Câu 8 Khi tôi quyết định đặt mục tiêu cho chính mình thì việc cố gắng để đạt được hạnh phúc quan trọng hơn là cố gắng để chứng tỏ bản thân. Câu 10 Ý nghĩa của tôi về giá trị bản thân tùy thuộc rất nhiều vào việc tôi so sánh mình với người khác như thế nào.
N Valid Missing
Câu 7 Để cảm nhận mình là một người có giá trị, tôi phải được yêu bởi những người quan trọng đối với tôi. 274 0 3.49 3.00 2 1.784 274 0 5.47 6.00 6 1.359 274 0 4.03 4.00 4 1.601 274 0 4.48 5.00 6 1.775 Mean Median Mode Std. Deviation 274 0 3.86 4.00 2 1.812
83
Bảng hỏi Tự chấp nhận vô điều kiện
Statistics
Câu 11 Tôi tin rằng tôi có giá trị, đơn giản chỉ vì tôi là một con người. Câu 12 Khi tôi nhận một phản hồi tiêu cực, tôi thường nhận thấy rất khó để cởi mở với những gì người đó đang nói về tôi. Câu 15 Tôi nghĩ rằng ai thành công trong những việc họ làm là người có giá trị đặc biệt. Câu 13 Tôi đặt cho mình những mục tiêu với hy vọng khi đạt được thì tôi có thể cho mọi người thấy giá trị của mình. Câu 14 Thể hiện không tốt trong một vài việc nhất định khiến tôi đánh giá bản thân kém đi.
N Valid Missing
Mean Median Mode Std. Deviation 274 0 5.26 6.00 6 1.700 274 0 3.95 4.00 4 1.569 274 0 3.08 3.00 2 1.480 274 0 3.57 3.00 2 1.545 274 0 2.89 3.00 2 1.356
Statistics
Câu 19 Khi tôi bị chỉ trích hoặc thất bại về điều gì đó, tôi cảm thấy thật tệ về chính mình. Câu 17 Tôi cảm nhận mình là một người có giá trị dù cả khi người khác không đồng tình với tôi. Câu 18 Tôi tránh so sánh chính mình với người khác để xem mình có giá trị hay không. Câu 20 Tôi nghĩ đó không phải là một ý hay khi phán xét giá trị của bản thân tôi.
N Valid Missing
Câu 16 Đối với tôi, lời khen ngợi để chỉ ra những điều tôi làm tốt quan trọng hơn những lời khen để làm tôi cảm thấy có giá trị. 274 0 4.85 5.00 6 1.428 274 0 4.98 5.00 6 1.406 274 0 4.66 5.00 6 1.714 274 0 3.37 3.00 2 1.562 274 0 4.99 5.00 6 1.391 Mean Median Mode Std. Deviation
84
Các kết quả kiểm nghiệm
a. Tự chấp nhận giữa các giới tính
Descriptives
USA
N
Mean
Std.
Std.
95% Confidence Interval for
Minimum
Maximu
Deviation
Error
Mean
m
Lower
Upper Bound
Bound
40 84.0500 15.79671 2.49768
78.9980
89.1020
52.00
117.00
Nam
227 83.0088 11.45093
.76002
81.5112
84.5065
52.00
129.00
Nữ
7 89.1429 11.40802 4.31183
78.5922
99.6935
73.00
99.00
LGBT
274 83.3175 12.16904
.73516
81.8702
84.7648
52.00
129.00
Total
ANOVA
USA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Between Groups
280.636
2
.947
.389
Within Groups
40146.740
140.318 148.143
Total
40427.376
271 273
b. Tự chấp nhận giữa các năm học
Descriptives
USA
N
Mean
Std.
Std.
95% Confidence Interval for
Minimum Maximum
Deviation
Error
Mean
Lower Bound Upper Bound
Năm nhất
83.5000
12.90455 1.50012
80.5103
86.4897
52.00
129.00
74
82.0270
10.72058 1.24624
79.5433
84.5108
52.00
105.00
Năm hai
74
83.8846
12.55522 1.74110
80.3892
87.3800
58.00
112.00
Năm ba
52
84.0270
12.63933 1.46929
81.0987
86.9553
56.00
117.00
Năm tư
74
Total
274
83.3175
12.16904
.73516
81.8702
84.7648
52.00
129.00
ANOVA
USA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
179.676
3
.402
.752
Between Groups
40247.700
Within Groups
59.892 149.066
40427.376
270 273
Total
85
c. Tự chấp nhận giữa các học lực
Descriptives
USA
N
Mean
Std.
Std. Error
95% Confidence
Minimum Maximum
Deviation
Interval for Mean
Lower
Upper
Bound
Bound
Xuất sắc
80.1000 14.76821
4.67012
69.5355
90.6645
59.00
101.00
10
84.4375 13.34624
1.26110
81.9385
86.9365
52.00
129.00
Giỏi
112
82.5071 11.14683
.94208
80.6445
84.3698
56.00
113.00
Khá
140
85.0000
9.77938
2.82307
78.7865
91.2135
67.00
103.00
Trung bình
12
83.3175 12.16904
.73516
81.8702
84.7648
52.00
129.00
Total
274
ANOVA
USA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
369.921
3
.831
.478
Between Groups
40057.455
Within Groups
123.307 148.361
40427.376
270 273
Total
d. Tự chấp nhận giữa các kết quả rèn luyện
Descriptives
USA
N
Mean
Std.
Std.
95% Confidence Interval
Minimum Maximum
Deviation
Error
for Mean
Lower
Upper
Bound
Bound
Xuất sắc
39
81.5385 13.11055 2.09937
77.2885
85.7884
59.00
113.00
Tốt
146
83.6096 12.71132 1.05200
81.5304
85.6888
52.00
129.00
Khá
82
84.4756 10.21162 1.12768
82.2319
86.7193
64.00
114.00
Trung bình
7
73.5714 13.59972 5.14021
60.9938
86.1491
58.00
96.00
Total
274
83.3175 12.16904
.73516
81.8702
84.7648
52.00
129.00
ANOVA
USA
Sum of Squares
df
Mean Square
F
Sig.
Between Groups
910.772
3
2.074
.104
Within Groups
39516.604
303.591 146.358
Total
40427.376
270 273
86
PHỤ LỤC 3: BỘ CÂU HỎI PHỎNG VẤN
(bán cấu trúc)
Tên sinh viên: Sinh viên năm:
Ngày phỏng vấn: Thời gian phỏng vấn:
A. Thông tin ban đầu
1. Sức khỏe, cảm xúc trong thời gian gần đây
2. Sẽ nói gì khi nhắc đến:
2.1. Gia đình
2.2. Học tập
2.3. Trải nghiệm/Sự kiện đặc biệt
B. Nội dung phỏng vấn
1. Tự chấp nhận là gì?
2. Nhận định như thế nào về tự chấp nhận của bản thân (mức độ, thể hiện)
3. Đời sống của một người tự chấp nhận cao/thấp thể hiện như thế nào?
4. Điều gì tác động đến tự chấp nhận của một người?
5. Vai trò của tự chấp nhận đối với cá nhân?
6. Chia sẻ về quá trình tự chấp nhận của bản thân?
7. Khi nói tới tự chấp nhận, muốn nhấn mạnh/lưu ý điều gì nhất?
8. Nếu nói về tự chấp nhận của sinh viên theo học Tâm lý học, bạn nghĩ đến
điều gì?
87
PHỤ LỤC 4: KẾT QUẢ PHỎNG VẤN
Nhóm Chủ đề Nội dung được lặp lại
Cho phép mình bộc lộ những cảm xúc thật
Cho phép bản thân bộc lộ những cảm xúc tương ứng
với những điều mình trải nghiệm
Bộc lộ cảm Chấp nhận việc mình đang có những cảm xúc tiêu cực xúc Ý thức và cho phép mình bộc lộ những nỗi buồn
Chấp nhận cảm xúc lo lắng, sợ hãi của bản thân
Chấp nhận cảm xúc của mình
Chấp nhận năng lực của mình, hiểu rằng có những
điều mình chỉ có khả năng làm tới đó thôi
Chấp nhận những hạn chế của bản thân Năng lực
Chấp nhận rằng năng lực của mình chưa đủ tầm Chấp nhận
Chấp nhận bản thân với ngưỡng năng lực của mình bản thân
Chấp nhận mình có những nét tính cách tốt
Chấp nhận nhiều nhất là những tính cách của mình Tính cách Chấp nhận những nét tính cách của bản thân
Chấp nhận những mặt khác nhau của mình
Tự do thể hiện sự nữ tính của mình
Chấp nhận về sự thể hiện giới tính của mình Thể hiện giới
tính Thoải mái mặc đồ theo kiểu mình thích
Thoải mái trong việc thể hiện giới tính
Chấp nhận xu hướng tính dục của bản thân Xu hướng
tính dục Chấp nhận việc mình bị thu hút bởi hai giới
88
Dần hiểu và chấp nhận việc mình yêu cả nam và nữ
Chưa chấp nhận việc mình lâu lâu có những hành vi
xấu
Chưa thật chấp nhận mình có nhu cầu về tình dục cao
Chưa chấp nhận được mình có những ham muốn
Cảm giác rất khó chịu với điều mình đang làm
Chưa chấp nhận cách mình ứng xử trong mối quan hệ
thân thiết, nhiều điều không muốn nhưng lại cứ làm Hành vi
Không chấp nhận việc mình sẽ lùi về sau để nhìn mối
quan hệ một cách sáng suốt
Bản thân vẫn còn những phản ứng chưa thật điềm tĩnh
như mình muốn
Chưa chấp Suy nghĩ, cảm xúc và cách mình làm không đồng nhất nhận
Vẫn cứ làm thieo điều mình nghĩ phải thế dù lòng
chẳng muốn
Muốn mình đẹp hơn, bớt mập hơn
Chưa thoải mái khi lựa chọn trang phục khi đi ra ngoài
Đạt được thành tích khiến bản thân cảm thấy bù đắp
được những khuyết điểm bên ngoài
Ngoại hình Chưa hoàn toàn chấp nhận được những khác biệt về
ngoại hình của bản thân
Vẫn chưa thích vẻ ngoài nữ tính của mình
Chưa chấp nhận lắm ngoại hình của mình vì thấy nó
ảnh hưởng lên công việc
Còn chưa chấp nhận mình có những tổn thương nên
khó để chia sẻ điều ấy với người khác
89
Quá khứ Khó chấp nhận việc bản thân trải qua những kí ức
buồn
Chưa thật chấp nhận mình bị bạo lực và cảm nhận bị
chối bỏ Chưa chấp
Chọn cách né tránh những kỉ niệm buồn đau nhận
Không chấp nhận rằng mình không phải là một người
cởi mở, sẵn sàng đương đầu với thử thách
Chưa chấp nhận được tính cách khó gần của mình với Tính cách một mối quan hệ mới
Không chấp nhận được việc mình không dám cho
người khác biết quá rõ về mình
Chưa chấp nhận rằng điều kiện kinh tế mình không có Kinh tế Nhiều khi quên mất là nhà mình không có điều kiện
Phụ huynh cho các em được bộc lộ cảm xúc và những
suy nghĩ của mình
Cách giáo dục của cha mẹ khi họ dạy trẻ biết nhìn vể
bản thân, biết như thế nào là đúng sai rõ ràng
Cách giáo dục của cha mẹ ảnh hưởng rất nhiều đến Các yếu tố Cách cư xử,
việc người đó học cách chấp nhận mình tác động giáo dục
đến tự trong gia Chịu ảnh hưởng từ cách họ được giáo dục trong gia
chấp nhận đình đình từ nhỏ
Người được gia đình giáo dục tốt thì cũng biết chấp
nhận mình nhiều hơn
Thái độ của cha mẹ ứng xử với con là rất quan trọng
đến cảm nhận của trẻ về mình
90
Gia đình chấp nhận những thiếu sót, sai lầm của con
thì sẽ rất tốt cho trẻ
Cha mẹ khắt khe, phủ nhận những điều con làm khiến
trẻ không dám tin và học cách chấp nhận được
Cách cư xử của cha mẹ là yếu tố ảnh hưởng nhất đến
tự chấp nhận của một người
Phụ huynh nếu biết nhắc nhở, tư vấn cho con thay vì
phán xét khi con có những thiếu sót sẽ giúp trẻ lớn lên
và biết chấp nhận mình hơn
Khi được người khác chấp nhận qua những quan tâm,
bao bọc, chia sẻ với nhau và cá nhân dần chấp nhận
mình để ổn hơn
Người khác phản ứng, bày tỏ thái độ, nhận xét khiến
cá nhân cũng tự đánh giá mình thấp
Những lời khen, động viên, khuyến khích, ghi nhận
của người khác giúp người đó biết chấp nhận những
Những người khả năng và hạn chế của mình
thân thiết Những lời nói, ánh mắt dò xét của người đó khiến en (bạn bè, cảm thấy mình đang bị đánh giá người quan Có những người bạn lắng nghe và chấp nhận mình thì trọng) mình cũng biết chấp nhận mình hơn
Ngoài sự nỗ lực của cá nhân thì vẫn rất cần những
người bạn bè ở bên
Nên có sự hỗ trợ của bạn bè thân thiết để được lắng
nghe, được hỗ trợ để hiểu và chấp nhận mình tốt hơn
Được người khác đón nhận làm mình cảm thấy được
yêu thương
91
Dù là góp ý, phê bình nhưng nếu xuất phát từ tình
thương thì cũng giúp cá nhân học cách chấp nhận
mình tốt hơn
Khả năng tự nhận thức của cá nhân
Việc họ biết dành thời gian để tự vấn bản thân
Dành thời gian ngồi lại để duy nghĩ
Tác động nhiều nhất đến tự chấp nhận là nhận thức Các yếu tố của người đó tác động Tự nhận thức
Biết quay trở về với chính mình thì sẽ học cách chấp đến tự của cá nhân
nhận mình chấp nhận
Năng lực tự nhận thức của cá nhân để nhận biết bản
thân có gì
Cá nhân nhìn nhận như thế nào về ứng xử, thái độ của
người khác đối với mình
Người sống nhiều, trải nghiệm nhiều, đọc nhiều, hiểu
nhiều thì tự chấp nhận sẽ cao
Khi người ta trải nghiệm, lăn lộn càng nhiều thì càng
có nhiều bài học hơn nên sẽ chấp nhận bản thân cao
hơn Các yếu tố
tác động Trải nghiệm Trải nghiệm nhiều khiến cá nhân đau khổ, điều ấy thúc
đến tự cá nhân đẩy họ thoát ra khỏi đau khổ là hướng đến việc tự chấp
chấp nhận nhận
Không trải nghiệm thì không biết rằng tự chấp nhận
có tồn tại
Người càng trải nghiệm thì càng học cách chấp nhận
mình hơn
92
Sự chuẩn bị về tri thức giúp họ ứng phó tốt hơn
Sinh viên có thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ tri thức để học
cách chấp nhận mình Sự tích lũy Kiến thức giúp cá nhân vượt qua những khó khăn tốt tri thức hơn
Nếu biết vận dụng kiến thức thì có thể nâng cao tự
chấp nhận
Cá nhân can đảm đối diện với những điều không mong
muốn
Dám đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống
và học cách chấp nhận
Sự can đảm Can đảm quay về với bản thân để nhìn về và hiểu
của cá nhân mình, có như vậy mới biết chấp nhận mình
Can đảm để đủ dũng cảm đối diện với những trải
nghiệm
Dám đối diện với những tổn thương của mình để học
cách chấp nhận
Tôn giáo như một điểm tựa khi tuyệt vọng như một sợi
dây giữ họ lại với cuộc sống và đi qua khó khăn
Niềm tin tôn Tôn giáo có tác động lớn đến tự chấp nhận của một
giáo người
Tôn giáo giúp cá nhân thấy và biết cái hiện hữu trong
mình