ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Người thực hiện: Nguyễn Hà Trang
Khóa: QH2015-L
Lớp: K60CLC
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Anh Đức
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Bộ môn: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................. 6
2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................... 6
3. Mục đích của Khóa luận ................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Khóa luận .......................... 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................ 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu .................................. 7
5.1. Về cơ sở khoa học: .................................................................... 7
5.2. Về phương pháp nghiên cứu: .................................................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Khóa luận .................................... 8
7. Kết cấu của Khóa luận .................................................................... 8
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
............................................................................................................................... 9
1.1. Sơ lược về sự hình thành của Viện kiểm sát nhân dân ................ 9
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 ................................. 10
1.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 ................................. 13
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ................................. 14
1.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2001 ................................. 15
1.1.5. Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013 ................................. 17
1.1.6. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay............................................ 18
2
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
1.2. Vị trí và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân ....................... 19
1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hành chính ............................................................................................... 25
1.4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân . 28
1.4.1. Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. ..... 28
1.4.2. Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào
ở địa phương 30
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM .......................... 33
2.1. Những thay đổi trong quan điểm về vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong pháp luật tố tụng hành chính .................................................. 33
2.2. Những điểm mới về vai trò của Viện kiểm sát trong luật tố tụng
hành chính 2015 .............................................................................................. 41
2.2.1. Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp
trong tố tụng hành chính ............................................................................. 41
2.2.2. Phát biểu của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp
trong tố tụng hành chính ............................................................................. 44
2.2.3. Kiểm sát hoạt động thu thập chứng cứ và chứng minh trong
tố tụng hành chính ....................................................................................... 46
2.2.4. Kiểm sát thi hành án hành chính .......................................... 48
2.3. Điểm mới về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 ................................................................. 50
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN .................................................................................... 53
3.1. Kiến nghị chung về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành
chính 54
3
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
3.2. Kiến nghị về trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hành
chính 55
3.3. Kiến nghị về cải cách hành chính trong tổ chức và hoạt động của
hệ thống Viện kiểm sát nhân dân .................................................................... 56
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và rèn luyện tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội và hơn hai tháng làm khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về đề tài “Vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính”, em đã nhận được sự nhiệt
tình giúp đỡ của các thầy, cô giảng viên, cán bộ ban, phòng chức năng của Khoa
Luật. Bằng lòng biết ơn chân thành nhất, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến tất cả các thầy, cô trong Khoa, cũng như các thầy cô của Bộ môn Luật Hiến
pháp và Luật Hành chính đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập và
hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy giáo –
ThS. Nguyễn Anh Đức đã quan tâm sát sao, giúp đỡ và chỉ bảo, hướng dẫn em
có thể hoàn thiện Khóa luận tốt nghiệp một cách tốt nhất trong thời gian qua.
Em cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè và gia đình đã luôn động viên,
khích lệ và tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện để em có thể
hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2019
Người viết
Nguyễn Hà Trang
5
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân là một bước ngoặt đánh dấu cho
vấn đề kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Sựra đời của ngành kiểm sát nhân dân nhằm góp phần bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa, đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm.
Do đó, việc xác định rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt đống tố
tụng nói chung là vô cùng cần thiết, để từ đó có thể có cái nhìn cũng như phát
huy khả năng hoạt động của bộ máy Viện kiểm sát một cách triệt để. Đặc biệt là
trong tố tụng hành chính, vai trò của Viện kiểm sát càng cần được khẳng định
và làm rõ, để hoạt động xét xử hành chính được phát huy một cách hiệu quả
nhất cũng như giám sát quá trình thực thi pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề này đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu, cũng như có
nhiều bài viết liên quan đến vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát nhân
dân trong hoạt động tố tụng nói chung và trong lĩnh vực tố tụng hành chính nói
riêng. Tuy nhiên, vẫn còn ít những nghiên cứu tổng thể về vai trò của Viện kiểm
sát trong hoạt động tố tụng hành chính.
3. Mục đích của Khóa luận
Khóa luận nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính như thẩm quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như các phương thức đảm bảo thực thi những vai trò
này của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính. Đồng thời phân tích,
làm rõ những thực trạng, những ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp luật về
vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính. Trên cơ sở đó, Khóa luận
cũng đưa ra một số đề xuất và giải pháp chung, cụ thể nhằm nâng cao vai trò
6
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử hành chính nói riêng và
trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Khóa luận
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chỉ dừng lại ở việc phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận về
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật có liên quan đến vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính. Trong đó, trọng tâm là xem
xét, đánh giá Luật tố tụng hành chính và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu
5.1. Về cơ sở khoa học:
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước
và pháp luật, các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Đồng thời sử dụng nền tảng là các học thuyết, quan điểm khoa
học pháp lí về vai trò của cơ quan Viện kiểm sát.
5.2. Về phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác –
Lenin, phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Ngoài ra, Khóa luận cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể khác như: phương pháp lôgic, các phương pháp so sánh, đối chiếu, …
7
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Khóa luận
- Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực tiễn quá trình tiếp tục
đổi mới vị trí pháp lí, vai trò và việc hoàn thiện mô hình hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính.
- Góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ
án hành chính. Đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án
được khách quan, đúng pháp luật.
- Khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho
các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn, đồng thời có thể được sử
dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý.
- Đề tài là nguồn tài liệu để phản ánh một số vấn đề từ thực tế giúp cho
liên ngành Viện kiểm sát - Tòa án nghiên cứu khi ban hành các thông tư, hướng
dẫn các vấn đề còn bất cập trong việc áp dụng, thực hiện Bộ luật tố tụng hành
chính trong thời gian tới. Đồng thời, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn thiện Bộ luật tố tụng
hành chính, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hành chính được thực hiện
nghiêm chỉnh và thống nhất trong toàn quốc.
7. Kết cấu của Khóa luận
Ngoài phần Lời nói đầu, mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tham khảo,
Khóa luận gồm 3 chương.
Chương I: Khái quát chung về Viện kiểm sát nhân dân
Chương II: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính
theo pháp luật Việt Nam
Chương III: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân
8
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Việt Nam là một nước theo hệ thống Xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước
được xây dựng trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực
hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện là Hội đồng nhân dân
các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, mọi quyền lực đều tập trung ở
Quốc hội. Tuy nhiên, Quốc hội lại không trực tiếp thực thi quyền lực mà giao
cho các cơ quan nhà nước các quyền lực riêng biệt để thực hiện những nhiệm vụ
của mình, trong đó Viện kiểm sát nhân dân được giao chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp nói chung và thực hành quyền
công tố trong tố tụng hình sự. Như vậy có thể nói, Viện kiểm sát nhân dân là cơ
quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1. Sơ lược về sự hình thành của Viện kiểm sát nhân dân
Năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám thành công rực
rỡ, nước ta giành lấy được chính quyền, độc lập và tự do. Chính quyền của ta
bấy giờ vẫn còn non trẻ, chưa thể hoàn toàn gánh vác cũng như giải quyết được
những vấn đề sau cuộc Tổng khởi nghĩa và một Nhà nước mới cần phải đối mặt.
Dưới tình hình rối ren trong nước lúc bấy giờ, cần có một cơ quan công tố được
thành lập để giải quyết những vấn đề tồn đọng cũng như kiểm soát các hành vi
của người dân. Trên thế giới, cơ quan công tố đã xuất hiện từ rất sớm, vào
khoảng đầu thế kỉ 13 tại Pháp với tư cách là cơ quan đại diện của nhà Vua, có
nhiệm vụ phát hiện và đưa các vụ việc vi phạm pháp luật của nhà Vua đến Toà
án để xử lý và tác động sao cho quyết định của Toà án có lợi cho Nhà nước.
Căn cứ vào vị trí của cơ quan công tố trong bộ máy Nhà nước, chúng ta có thể
thấy mô hình Viện công tố được chia làm ba nhóm: nhóm các nước mà Viện
kiểm sát hay cơ quan công tố nằm trong cơ cấu của Bộ tư pháp (điển hình như
Mỹ, Pháp, Nhật, Hà Lan…); nhóm các nước mà cơ quan công tố nằm hoàn toàn
trong thành phần của hệ thống tư pháp được đặt tại các Tòa án, nhưng độc lập 9
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
với Tòa án về mặt chức năng (ví dụ như Tây Ban Nha, Bungaria…) và cuối
cùng là nhóm gồm các nước có Viện kiểm sát hay cơ quan công tố là một hệ
thống riêng biệt, trực thuộc Quốc hội hoặc trực thuộc Nguyên thủ quốc gia (điển
hình như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và một số nước châu Mỹ - Latin...).
Vào thời Pháp thuộc, Viện công tố đã được thành lập ở nước ta và vẫn tiếp tục
duy trì sau cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cơ cấu hệ thống tổ chức
của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, và vẫn chịu sự ảnh hưởng của Pháp.
Hiến pháp năm 1946 tuy không đề cập đến Viện công tố nhưng trong cơ cấu của
Toà án có các Công tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh Nhà nước trước
phiên toà trong các vụ án hình sự. Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, từ năm
1958, Viện công tố được tách ra khỏi Toà án nhưng trực thuộc Chính phủ và
hình thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với Toà án từ Trung ương
tới địa phương và hoạt động chủ yếu của Viện công tố vẫn là hoạt động công tố
trước Toà án. Sau này, do yêu cầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc là pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, nên
theo quy định của Hiến pháp năm 1959 một loại hình cơ quan Nhà nước mới
trong bộ máy Nhà nước được hình thành.
Có thể nói, tổ chức cơ quan viện kiểm sát nhân dân của nước ta đã trải
qua những bước phát triển khác nhau phù hợp với nhận thức, mức độ phát triển
của xã hội và đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đặt ra đối với từng giai đoạn
lịch sử. Quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân có thể
được phân theo các giai đoạn lịch sử khác nhau như sau:
1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký ban hành nhiều Sắc lệnh về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp. Một trong số các Sắc lệnh đầu tiên là Sắc lệnh số 33A ngày 14/09/1945,
có quy định mỗi khi bắt người phải thông báo ngay cho ông Biện lý biết (tức
Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố). [35]
10
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Trong thời gian từ năm 1946 đến năm 1959, Nhà nước ta không thành lập
cơ quan thực hành quyền công tố riêng. Hoạt động điều tra không chỉ nằm trong
một Cơ quan điều tra mà còn ở nhiều bộ phận khác: Kiểm soát viên Kiểm lâm,
Hoả xa, Thương chính và tất cả các viên chức mà pháp luật giao phó nhiệm vụ
cho tư pháp công an đối với những việc phạm pháp riêng cho từng ngành (Điều
3 sắc lệnh số 131). Trong cơ cấu Toà án, các Thẩm phán được chia làm hai loại:
- Các Thẩm phán xét xử do Chánh án Toà thượng thẩm đứng đầu.
- Các Thẩm phán công tố viên (Thẩm phán buộc tội) hợp thành một
đoàn thể độc lập (công tố viện) với các Thẩm phán xét xử do
Chưởng lý đứng đầu. [29]
Vào cuối những năm 50, tổ chức của Viện công tố lại được kiện toàn và
tăng cường một bước quan trọng. Viện công tố đã được tổ chức thành hệ thống
gồm:
- Viện công tố Trung ương
- Viện công tố thành phố, tỉnh
- Viện công tố huyện và các đơn vị hành chính tương đương;
- Viện công tố quân sự các cấp. [35]
Đây là bước phát triển quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Viện
công tố, tiến tới việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân vào giữa năm 1960.
Toàn bộ hoạt động điều tra trong giai đoạn này đều thuộc quyền kiểm soát, điều
hành của Công tố Viện, mà trực tiếp là Biện lý, Phó Biện lý và trên hết là
Chưởng lý ở Toà thượng thẩm. Quy định này của pháp luật cho thấy hoạt động
điều tra thực chất là hoạt động công tố (nhưng ở giai đoạn tiền công tố), giúp cơ
quan công tố thay mặt Nhà nước buộc tội người phạm tội trước Toà án. Các
nhân viên và cơ quan có thẩm quyền điều tra không theo sự chỉ đạo của cơ quan
chủ quản hành chính mà đều dưới sự chỉ đạo của Công tố Viện; đồng thời, pháp
luật cũng có quy định bảo đảm để các cơ quan này phải tuân theo sự chi đạo đó,
11
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
như Điều 13 sắc lệnh số 131 đã ghi nhận: “Việc bổ sung, thăng thưởng và trừng
phạt hành chính những uỷ viên Tư pháp công an không phải là Thẩm phán viên
đều làm sau khi hỏi ý kiến của Biện lý và Chưởng lý”. [14]
Hoạt động điều tra ở giai đoạn đầu (từ 1945 – 1950) có hình thức là điều
tra ban đầu và điều tra thẩm cứu. Thẩm quyền điều tra của các nhân viên và cơ
quan có trách nhiệm điều tra ngày càng được hình thành rõ nét hơn. Tuy nhiên,
việc điều tra đối với một số đối tượng có đặc quyền miễn trừ tư pháp như Thẩm
phán, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Đại biểu Quốc hội... thì thẩm quyền điều tra thuộc
về Công tố Viện; đồng thời, pháp luật cũng giành quyền chủ động cho Chưởng
lý Toà thượng thẩm trong việc điều tra của Công tố Viện.
Về tổ chức, thời kỳ đầu, Công tố Viện được tổ chức trong hệ thống Toà
án. Những năm 50, theo sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950, Thông tư số 21/TTg
ngày 07/6/1950, cơ quan công tố chịu sự điều khiển, chi phối của ủy ban kháng
chiến hành chính trên cùng địa hạt về đường lối công tố chung và mệnh lệnh
riêng về từng vụ việc. Đến kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá I (họp từ ngày
16/4/1958 đến ngày 29/4/1958) đã quyết định hệ thống Toà án và hệ thống
Công tố trực thuộc Hội đồng Chính phủ và có trách nhiệm, quyền hạn ngang với
một Bộ. Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959 quy định nhiệm vụ và tổ chức của
Viện Công tố. Ngày 6/8/1959, Viện trưởng Viện công tố Trung ương ban hành
Thông tư số 601/TCCB giải thích và hướng dẫn thi hành văn bản trên, quy định
về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố. Theo quy định của các văn
bản này, hệ thống các cơ quan công tố được thành lập từ trung ương đến cấp
huyện và trở thành hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập, không còn trực thuộc
Bộ Tư pháp, không còn chịu sự chỉ đạo cụ thể và trực tiếp của Ủy ban hành
chính cùng cấp ở địa phương. Nhiệm vụ cụ thể của Viện công tố theo quy định
tại Điều 1 Nghị định số 256/TTg là có nhiệm vụ điều tra và truy tố trước Toà án
những kẻ phạm pháp về hình sự. [14]
12
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
1.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội thông qua ngày 31/12/1959 đã có
những sửa đổi căn bản về tổ chức bộ máy nhà nước so với Hiến pháp 1946. Tên
Viện công tố được thay thế bằng Viện kiểm soát nhân dân, lần đầu tiên quy định
về chế định Viện kiểm sát nhân dân, trong đó xác định vị trí, chức năng, nhiệm
vụ và các nguyên tắc cơ bản cho việc thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân
dân. Viện kiểm soát nhân dân cùng với Toà án nhân dân là các cơ quan tư pháp,
độc lập trong tổ chức quyền lực nhà nước. Theo quy định của Hiến pháp năm
1959 thì Viện kiểm sát nhân dân các cấp được tổ chức thành một hệ thống nhất,
độc lập với cơ quan xét xử và cơ quan hành chính, chỉ chịu trách nhiệm và báo
cáo trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Những quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà
khoá II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 15/7/1960 và được Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Lệnh số 20-L/CTN ngày 26/7/1960 công bố đã đánh dấu sự ra đời của
hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy Nhà nước ta.
Theo quy định tại Điều 4 của Luật này thì các Viện kiểm sát nhân dân
gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương
và các Viện kiểm sát quân sự. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương gồm có :
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành
chính tương đương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã
hoặc đơn vị hành chính tương đương, Viện kiểm sát nhân dân ở các khu vực tự
trị.
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết
định, thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội
13
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa phương, kiểm sát việc
tuân theo những luật của nhân viên cơ quan nhà nước và công
dân;
- Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Toà
án nhân dân những người phạm pháp về hình sự;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ
quan Công an và của cơ quan Điều tra khác;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, trong việc xét xử của Toà án
nhân dân và trong việc chấp hành các bản án;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các
trại giam;
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan
trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. [21,
điều 3]
1.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Sau khi đất nước được hoàn toàn thống nhất, Nhà nước ta đã ban hành
Hiến pháp năm 1980, so với Hiến pháp năm 1959 thì vai trò vị trí của Viện
kiểm sát nhân dân đã được khẳng định rõ hơn và có những điểm bổ sung mới,
đặc biệt trong Hiến pháp năm 1980 đã nhấn mạnh đến chức năng “thực hành
quyền công tố” của Viện kiểm sát, cụ thể ở điều 138 lần đầu tiên quy định về
việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát.
Để cụ thể hoá những quy định trên đây về Viện kiểm sát nhân dân trong
Hiến pháp năm 1980, Quốc hội khoá VII đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1981 và được sửa đổi bổ sung vào năm 1989, so với Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, thì Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1981 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được sửa đổi bổ sung
vào năm 1989 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn rất nhiều về nhiệm vụ, quyền hạn
14
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và
thực hiện công tác kiểm sát chung.
Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát có tính độc lập tương đối so với
công tác kiểm sát, nhưng thực chất cũng là nhằm tăng cường hiệu quả công tác
kiểm sát, đồng thời, tạo thế chủ động cho ngành Kiểm sát trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm; tránh làm oan cho người vô tội…
Với quy định “Viện trưởng Viện kiểm sát thấy cần thiết phải trực tiếp
điều tra”, hoạt động điều tra thẩm cứu (với ý nghĩa đi sâu nghiên cứu, điều tra;
xét kỹ một vụ án) trong thời kỳ này đã chú trọng đến công tác điều tra, xác minh
những vụ án “mang tính chất minh oan” cho người đã bị kết án. Pháp luật tố
tụng hình sự giai đoạn này đã giành quyền chủ động cho Viện trường Viện kiểm
sát các cấp trong việc điều tra vụ án. [14]
1.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2001
Sau một thời gian có hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 tỏ ra
không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước lúc bấy giờ. Tình hình
thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để
thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân. Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI của
Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, xây
dựng Hiến pháp năm 1992, một Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đất nước. Việc
cải cách bộ máy Nhà nước cũng được ưu tiên đặt lên hàng đầu, được xác định
bằng phương hướng cơ bản: quán triệt yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước, tìm tòi những thiết chế mới bảo đảm thực hiện được
nguyên tắc "quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Phương hướng này đòi
hỏi phải thể chế hóa đầy đủ các quyền tự do dân chủ, cũng như xây dựng được
mối quan hệ đúng đắn giữa các ba nhánh quyền lực nhà nước là lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
15
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Trên mục tiêu đó, về mặt cơ cấu tổ chức, sau khi ban hành Hiến pháp
năm 1992, cơ bản Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã kiện toàn và đổi mới một
bước quan trọng. Với cơ cấu tổ chức như vậy, trong hoạt động Viện kiểm sát
nhân dân đã đạt được những kết quả nhất định, tạo nên một số chuyển biến tích
cực trong hoạt động tư pháp của nước ta cùng với các cơ quan nhà nước khác
thực hiện một cách có hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Cụ
thể là:
Điều 137 Hiến pháp 1992 quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các
Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan
chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm
sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách
nhiệm do luật định.”
Hiến pháp 1992 từ điều 137 đến 140 quy định tính chất, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn Viện kiểm sát nhân dân không có gì thay đổi so với hai
bản hiến pháp trước, tuy nhiên lại có sự thay đổi nhất định về tổ chức và trách
nhiệm. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
ban hành năm 1992 cụ thể hoá quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thành lập Uỷ ban kiểm sát. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm
có: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao do Viện trưởng cử và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát
16
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Viện trưởng cử và trình
Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn. Một số vấn đề quan
trọng trước đây do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết
định được chuyển cho Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Uỷ
ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Các quy định trên về Viện kiểm sát nhân dân cho chúng ta thấy rằng: Hiến pháp
1992 một mặt vẫn đề cao chế độ làm việc theo nguyên tắc thủ trưởng và trực
thuộc một chiều để đề cao tính độc lập của Viện kiểm sát, mặt khác phải kết
hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể khi Viện kiểm sát quyết định
những vấn đề quan trọng (điều 138 Hiến pháp 1992). Đồng thời Hiến pháp 1992
cũng xác định tính chất giám sát của Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các
cấp đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. [15]
1.1.5. Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013
Qua gần 10 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã trải qua
nhiều sự thay đổi lớn và đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi sâu sắc và phức tạp, việc
sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là yêu cầu khách quan và cần thiết vì Hiến pháp
1992 đã không thể đáp ứng được những yêu cầu của đất nước thời kì này. Ngày
25/12/2001, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Hiến pháp 1992 (sửa
đổi), tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và
bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Năm 2002 đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng về chức năng, nhiệm vụ
và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu của công cuộc cải cách
17
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
tư pháp và những quy định mới của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001). [3] Theo đó, nội dung điều 137 về Viện kiểm sát nhân dân không còn
quy định chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính,
kinh tế, xã hội mà chỉ còn “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”. Trước đây, theo quy định của Hiến pháp năm 1992, chức năng
kiểm sát chung được giao cho Viện Kiểm sát. Theo đó, Viện Kiểm sát thực hiện
chức năng kiểm sát các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan từ cấp Bộ
trở xuống, kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị
vũ trang và công dân. Tuy nhiên đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) thì Viện kiểm sát không còn thực hiện chức năng kiểm sát chung nữa và
chỉ còn tập trung vào thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Tuy nhiên, có rất nhiều người không đồng ý quan điểm bỏ đi chức năng
kiểm sát chung của Viện kiểm sát, cho rằng Viện kiểm sát thực hiện rất tốt chức
năng này, kịp thời phát hiện tội phạm và giải quyết được nhiều sai phạm trong
thời gian giữ chức năng kiểm sát chung [30]. Bên cạnh đó, không thiếu ý kiến
của các luật sư rằng cần bỏ đi chức năng này của Viện kiểm sát. Bởi nếu để
Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát chung này thì lại quá bao trùm và
gây sự chồng chéo với chức năng kiểm tra của các cơ quan khác, nhất là với hệ
thống thanh tra nhà nước. Từ đó, có khả năng cao sẽ dẫn đến những tiêu cực
trong công tác kiểm sát, ảnh hưởng đến sự nghiêm minh và công bằng của Viện
kiểm sát. [2]
1.1.6. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay
Năm 2013, đất nước ta tiến hành sửa đổi Hiến pháp lần thứ sáu, được
Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua vào sáng ngày 28 tháng
11 năm 2013, có hiệu lực pháp lý đến bây giờ. Trên cơ sở bản Hiến pháp 2013
này, Nhà nước cũng tiến hành sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân,
Quốc hội ban hành văn bản Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014. Văn
18
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
bản luật này đã đạt bước tiến mới về kỹ thuật lập pháp, đã quy định một cách
hoàn thiện hơn các vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trên cơ sở pháp điển hoá các văn bản Luật, Pháp lệnh hiện hành và
nhiều quy định của các văn bản dưới luật, khắc phục tình trạng nhiều văn bản
tản mạn, chồng chéo, trùng lặp với các luật về tố tụng, bảo đảm tính thống nhất,
ổn định của hệ thống pháp luật; nâng cao hiệu lực pháp lý các quy định của
pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân.
1.2. Vị trí và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp
tạo thành quyền lực thống nhất của Nhà nước, được quy định tại khoản 3 Điều 2:
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”. Mục đích thực hiện quyền tư pháp là xử lý mọi hành vi vi phạm pháp
luật, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh, bổ sung, thay đổi
hoặc chấm dứt các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do Tòa án thực hiện
bằng thủ tục tố tụng chặt chẽ, dân chủ, công khai và công bằng, nhằm khôi phục,
duy trì trật tự pháp luật, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân bị xâm phạm, góp phần bảo đảm pháp luật được tôn trọng và chấp hành
nghiêm minh. Theo quy định hiện nay, Viện kiểm sát được coi là một hệ thống
cơ quan Nhà nước độc lập với các cơ quan hành pháp, tư pháp. Tư pháp là một
dạng quyền lực nhà nước mang tính xét xử. Quyền tư pháp là quyền xét xử và
việc xét xử là Tòa án, nhân danh nhà nước giải quyết tranh chấp, giải quyết
xung đột xã hội bằng việc xét xử, thông qua thủ tục xét xử do luật định. Chỉ có
Tòa án cơ quan xét xử, nên việc coi Viện kiểm sát là một cơ quan thuộc nhánh
tư pháp có không thỏa đáng. Viện kiểm sát các cấp chịu sự lãnh đạo chỉ đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, nên có khả năng rất cao trong
việc loại trừ sự lạm dụng quyền hạn hành chính, kép kín, cục bộ địa phương …
Tuy nhiên, Viện kiểm sát lại được Nhà nước trao cho quyền lực công, đại diện
19
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
cho Nhà nước thực hành quyền công tố,nhưng lại không phải quyền phân định
đúng sai phải trái như Tòa án, do đó, không có lý do nào lại xếp Viện kiểm sát
vào nhánh tư pháp. Bản thân việc phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh
là để có thể phân định được quyền lực một cách rõ ràng nhất, nên việc độc lập
với các nhánh quyền lực còn lại dẫn đến một sự mâu thuẫn. Việc Viện kiểm sát
được nhà nước trao quyền lực công, đại diện cho nhà nước thì đã không thể có
được sự độc lập cần có như mục tiêu ban đầu khi lập ra Viện kiểm sát. Mà bản
chất của quyền lực công kia lại là quyền thực hành, sử dụng quyền lực để thực
hiện nhiệm vụ của mình, nên ta có thể xem xét việc xếp Viện kiểm sát vào
nhánh quyền lực hành pháp.
Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được xác lập rõ ràng trong Hiến pháp
2013 (được quy định tại Điều 107) và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014, Nghị quyết số 82/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội và
Nghị quyết số 953/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt
động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung,
cũng như nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
“Điều 107.
1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp.
2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các
Viện kiểm sát khác do luật định.
3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”
20
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
(Theo Hiến pháp 2013)
Bên cạnh đó, luật Tổ chức Viện kiểm sát cũng có quy định về chức năng,
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân như sau:
“Điều 2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp
phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.”
Viện kiểm sát nhân dân là một bộ phận quan trọng trong Bộ máy nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân được thể hiện rõ ràng hơn nhờ việc quy định cụ thể về chức
năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của
pháp luật. Điều 3 và 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng những
công tác sau đây:
“Điều 3. Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân
dân
1. Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
21
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự.
2. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
a) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;
b) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
quyền con người, quyền công dân trái luật.
3. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân
dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định;
b) Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp
hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự;
c) Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra;
d) Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;
22
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm
rõ tội phạm, người phạm tội;
e) Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến
hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối
với người phạm tội;
g) Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về
tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật;
h) Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy
tố;
i) Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
k) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm
sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
l) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người
phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 4. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân
dân
1. Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi
tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết
vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy
định của pháp luật.
[…]
23
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
3. Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát
nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo
đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp
thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp
hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định trong hoạt động tư pháp;
b) Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp;
c) Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp;
kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi
phạm pháp luật và tội phạm;
d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến
nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi,
quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong
hoạt động tư pháp;
đ) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp;
giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền;
e) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp
theo quy định của pháp luật.”
Chính sự phân công trách nhiệm rõ ràng của Nhà nước đối với Viện kiểm
sát nhân dân góp phần làm nâng cao hiệu quả và phát huy được tối đa vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong cả chức năng công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp. Hai chức năng này của Viện kiểm sát luôn có mối quan hệ khăng khít,
bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
24
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
lĩnh vực quản lý Nhà nước về kinh tế - hành chính có tính phòng ngừa, ngăn
chặn, răn đe cao và có mối quan hệ trực tiếp đến hiệu quả đấu tranh chống tội
phạm vì khả năng phát hiện tội phạm lớn và loại bỏ những hành vi coi thường
pháp luật, đặc biệt những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng chỉ bị xử lý nội
bộ, xử lý hành chính… Kết quả hoạt động kiểm sát trong lĩnh vực quản lý Nhà
nước về kinh tế, hành chính là một nguồn thông tin vô cùng quan trọng cho
Viện kiểm sát chủ động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, như
quyết định khởi tố vụ án, truy cứu trách nhiệm hình sự của những người phạm
tội, ngăn chặn hậu quả của tội phạm một cách kịp thời, chủ động trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm; không phải là tình trạng thụ động chờ để “tiếp
nhận tin báo, tố giác tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố
do cơ quan Nhà nước chuyển đến và có trách nhiệm chuyển ngay các thông tin,
tài liệu đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền” (theo khoản 2 điều
146 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015). Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
và nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát đã tạo cho Viện kiểm sát
có những lợi thế hơn bất kỳ cơ quan Nhà nước nào trong công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng. [9]
1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hành chính
Hiến pháp 2013 và Bộ luật Tố tụng hành chính 2015 đều khẳng định Viện
kiểm sát nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Để có thể thực hiện cũng như sử dụng những quyền năng, biện pháp một cách
hiệu quả nhất, Nhà nước đã trao cho Viện kiểm sát nhân dân những nhiệm vụ và
quyền hạn nhất định.
Thuật ngữ "nhiệm vụ", theo Đại Từ điển tiếng Việt được hiểu là "công
việc phải làm, gách vác" hay "công việc phải làm vì một mục đích và trong một
thời gian nhất định". Theo cách giải thích này thì nhiệm vụ nói chung là chỉ một
công việc có tính chất bắt buộc phải được thực hiện trong một khoảng thời gian
25
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
nhất định đối với chủ thể có trách nhiệm thực hiện nó. Nhiệm vụ của một chủ
thể xuất phát từ tư cách của chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham
gia và được pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng tồn tại quan hệ xã hội
khác nhau thì quy định của pháp luật để xác định nhiệm vụ với mỗi chủ thể
cũng không giống nhau [11]. Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân là những hoạt động cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân trong
một khoảng thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
để thực hiện nhiệm vụ được giao trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp
luật.
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính nói riêng là nhiệm
vụ cụ thể do Nhà nước đặt ra và được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật liên
quan khác mà Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hiện bằng những giải
pháp, hình thức và phương thức nhất định trong quá trình giải quyết vụ việc
hành chính, cụ thể là:
“Điều 22. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng
1. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng
Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân.
2. Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
[…].”
26
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)
Về khái niệm "quyền hạn" được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho
phép. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí
công tác và trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của
pháp luật (theo Đại Từ điển tiếng Việt). Quyền hạn thường gắn chủ thể với một
cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với
cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của cơ
quan, tổ chức đó [11]. Quyền hạn của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải
quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn
của người có thẩm quyền là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm
vi thẩm quyền của người đó.
Quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong Tố tụng hành chính nói
riêng cũng được quy định rõ ràng, cụ thể ở các bộ luật, luật và các văn bản liên
quan khác, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành
chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp
luật.
“Điều 25. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính
1. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành
chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp
luật.
2. Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc
việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án;
thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
3. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi 27
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm sát
kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú cử người giám hộ đứng
ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người đó.”
(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)
1.4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí,
chức năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân
dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù nhằm bảo đảm
cho các Viện kiểm sát hoạt động có hiệu quả cao hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những nguyên tắc đó
được quy định ở Điều 108, 109 Hiến pháp năm 2013 và Điều 7 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Đó là nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh
đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan
nhà nước nào ở địa phương.
1.4.1. Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo
đảm tính thống nhất của pháp chế. Các cơ quan nhà nước ở địa phương một mặt
trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ chủ quản, mặt khác lại trực thuộc Hội đồng nhân
dân hoặc ủy ban nhân dân địa phương. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc
phụ thuộc hai chiều. Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta không được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều nêu trên, mà theo nguyên tắc tập
trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Theo nguyên tắc này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa
28
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 109 Hiến pháp 2013 và
Điều 7 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014). Viện trưởng, Phó viện
trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Phó viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự quân khu và khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát
nhân dân đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tố cao bổ nhiệm, miễn
nhiệm và cách chức (Điều 9 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).
[31]
“Điều 7. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh vi
phạm pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên
có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ quyết định trái pháp luật của Viện trưởng Viện
kiểm sát cấp dưới. […]
Điều 109 Hiến pháp 2013 quy định
1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. […]”.
Như vậy, tất cả các Viện kiểm sát nhân dân từ trên xuống dưới tạo thành
một hệ thống thống nhất. Mọi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, dù ở cấp
nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân phải chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát do
mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện trưởng 29
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của toàn
ngành kiểm sát trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành bảo
đảm cho các cấp kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện nâng cao
hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát.
1.4.2. Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa
phương
Trong tổ chức và hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân không lệ
thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. Nguyên tắc này có
mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung, thống nhất lành đạo trong ngành.
Nguyên tắc này nhằm tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân dân thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm
chỉnh và thống nhất. Nguyên tắc này được đặt ra nhằm đảm bảo sự công bằng,
vô tư, khách quan và nghiêm túc của cơ quan giám sát, đảm bảo thực thi cũng
như chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh theo như những gì pháp luật quy định.
Nội dung nguyên tắc Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất kỳ
cơ quan nhà nước nào ở địa phương thể hiện ở chỗ: Các Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi
phối bởi các cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện kiểm sát nhân
dân chỉ phụ thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy
phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ và cũng như trực tiếp thực hiện theo chỉ thịcủa Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó cũng có nghĩa là các cơ quan nhà nước
ở địa phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân.
30
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Thừa nhận nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở
địa phương cũng cần lưu ý là, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm
báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn của các đại biểu Hội
đồng nhân dân về tình hình chấp hành pháp luật ở địa phương và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương. Mặt khác, qua thực tiễn hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng có quyền kiến nghị với Hội đồng nhân dân
về việc phòng ngừa tội phạm và những biểu hiện vi phạm pháp luật để bảo đảm
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. [31]
Những nguyên tắc này đảm bảo được phần nào sự vô tư và độc lập của
Viện kiểm sát trong khi thực hiện vai trò của mình. Nguyên tắc tập trung, thống
nhất được thực hiện có hiệu quả rõ ràng trên thực tế. Nếu Viện kiểm sát nhân
dân các địa phương không thống nhất, đồng bộ trong việc yêu cầu các cơ quan
tư pháp địa phương cùng cấp khắc phục, sửa chữa các việc làm vi phạm pháp
luật trong hoạt động tư pháp thì không thể thực hiện tốt được các chức năng
giám sát, những việc sai phạm của các cơ quan không thể kịp thời sửa chữa, giải
quyết có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng hơn. Viện kiểm sát nhân dân
các địa phương không báo cáo kết quả công tác, không tranh thủ sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Cấp uỷ địa phương cũng như không tranh thủ sự hỗ trợ kinh phí
hoạt động, sự chỉ đạo của Hội đồng nhân dân địa phương cùng cấp trong việc
yêu cầu các cơ quan tư pháp địa phương cùng cấp khắc phục, sửa chữa các việc
làm vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp thì các kiến nghị, kháng nghị
của Viện kiểm sát nhân dân địa phương sẽ trở nên ít hiệu quả, ít có tác dụng
giáo dục, phòng ngừa sâu rộng.
31
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
KẾT LUẬN
Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng chính đó là quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Đặc biệt, trong tố tụng hành chính, Viện kiểm sát
nhân có nhiệm vụ chủ yếu là kiểm sát hoạt động tư pháp, giám sát việc tuân
theo pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền cũng như đảm bảo sự tham gia
cũng như chấp hành đầy đủ và nghiêm túc của những người tham gia vào hoạt
động tố tụng hành chính.
32
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Luật Tố tụng hành chính được Quốc hội khóa XIII thông qua tại Kỳ họp
thứ 10, ngày 25/11/2015 (sau đây gọi là Luật Tố tụng hành chính 2015) gồm 23
chương, 372 điều với nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng; trong đó, đáng chú ý
có nhiều quy định mới, bổ sung về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hành chính. Trong phần này, người viết sẽ phân tích những quy định về
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm làm rõ vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính theo Luật Tố tụng hành
chính 2015.
Viện kiếm sát nhân dân có vai trò quan trọng trong một vụ án hành chính,
góp phần đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình xét xử, cũng như hạn
chế được những vi phạm thủ tục hành chính hay việc tuân theo pháp luật. Trong
pháp luật Việt Nam, vai trò của Viện kiểm sát dường như đóng một phần không
nhỏ vào trong quá trình xét xử của vụ án hành chính và tham gia vào một vụ án
hành chính. Cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân thường sẽ giám sát việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử
việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho
đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án liệu có đúng với quy định của
pháp luật hay không.
2.1. Những thay đổi trong quan điểm về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong pháp luật tố tụng hành chính
Hiện nay, đang có rất nhiều luồng ý kiến trái chiều xoay quanh vấn đề về
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính, dân sự. Vai trò của
Viện kiểm sát luôn là chủ đề nóng được đưa ra bàn luận nhiều trong mỗi kỳ họp.
Trong đó, nổi bật nhất là hai luồng ý kiến của các đại biểu Quốc hộ cho rằng
Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng, trong khi đó phần ý kiến còn lại lại
33
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
phản bác nhận định này và khẳng định rằng, Viện kiểm sát hãy nên làm đúng
vai trò của mình với tư cách là một cơ quan kiểm sát.
Có ý kiến cho rằng, từ trước đến nay, Viện kiểm sát nhân dân vẫn đang
thực hiện nhiệm vụ với vai trò là một cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện
chức năng kiểm sát xét xử. Viện kiểm sát hoàn thành rất xuất sắc ở vai trò này
nên không cần thiết phải sửa đổi nó và mong muốn vẫn tiếp tục duy trì. [16]
Một ý kiến khác lại cho rằng, trong tố tụng hành chính và cả tố tụng dân
sự, Viện kiểm sát chỉ có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp chứ không phải
là một bên có quyền có ý kiến phân xử vụ kiện. Vai trò đó hoàn toàn khác với
vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự. Do đó, không nên coi Viện kiểm
sát là cơ quan tiến hành tố tụng mà nên gọi thẳng tên là cơ quan kiểm sát. Khái
niệm cơ quan tiến hành tố tụng chỉ nên sử dụng trong tố tụng hình sự mà ở đó,
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án là các cơ quan thực hiện công
quyền trong từng giai đoạn tố tụng để nhân danh Nhà nước điều tra, truy tố, xét
xử. ý kiến này được khá nhiều người tán đồng và mong muốn sửa đổi. Bản thân
người viết cũng rất đồng tình với quan điểm trên. Vì trong một vụ án hành chính,
nếu Viện kiểm sát can thiệp quá sâu vào vụ án như từ trước tới nay, có thể gây
ra một số sự bất công cũng như sự nhập nhằng trong việc giải quyết một vụ án
hành chính.
Đầu tiên, Viện kiểm sát với tư cách một thiết chế quyền lực nhà nước:
chức năng kiểm sát hoạt động xét xử hành chính. Chức năng kiểm sát hoạt động
xét xử của Viện kiểm sát nhân dân, trong đó có xét xử hành chính, được khẳng
định một cách rõ ràng trong Hiến pháp. Kiểm sát xét xử vốn là một nội dung
trong hoạt động kiểm sát chung. Đây là hoạt động đặc thù của Viện kiểm sát,
vốn chỉ tồn tại ở các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy, sự cần
thiết có một cơ quan độc lập, tập trung, đứng ra giám sát hoạt động của các cá
nhân, tổ chức trong xã hội bắt nguồn từ nguyên lý tổ chức quyền lực nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Nếu như trong quốc gia tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, 34
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
việc giám sát các hoạt động của công quyền được đảm nhiệm bởi Tòa án, thông
qua tố tụng hành chính, thì trong hệ thống tổ chức quyền lực xã hôi chủ nghĩa,
sự thiếu vắng vai trò của Tòa án trong kiểm soát hoạt động của các cơ quan nhà
nước – mà chủ yếu là bộ máy hành chính – đã dẫn đến một khả năng “bù đắp”
bởi sự tồn tại của chức năng kiểm sát chung – một trong những đối tượng kiểm
sát quan trọng là cơ quan hành chính. Theo quan sát của các học giả phương
Tây, “từ góc độ lịch sử cho thấy, thiết chế Viện kiểm sát chỉ tồn tại trong những
hệ thống hành chính của các nước xã hội chủ nghĩa, nơi vắng bóng vai trò của
Tòa án hành chính, hoặc có Tòa án hành chính nhưng chỉ phôi thai hay không
được coi trọng lắm”. [36]
Dẫu nguyên lý tổ chức không thay đổi nhưng cho đến nay, chức năng
kiểm sát chung của Viện kiểm sát đã bị bãi bỏ do trùng lặp với những hoạt động
khác như thanh tra, kiểm tra của cơ quan hành chính, giám sát của cơ quan
quyền lực. Riêng có kiểm sát xét xử là vẫn được duy trì. Lý giải điều này, theo
một số luật gia, việc duy trì kiểm sát xét xử bắt nguồn từ tình hình thực tiễn của
nước ta. Kiểm sát xét xử vẫn còn cần thiết khi hoạt động xét xử đang còn gặp
nhiều khó khăn, do những nguyên nhân khách quan để lại (ví dụ: chiến tranh,
thất lạc các giấy tờ chứng cứ) và cả nguyên nhân chủ quan (trình độ hạn chế của
thẩm phán, của người đi kiện – đặc biệt trong các phiên tòa dân sự, khi đương
sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ). Chính vì vậy, vai trò giám sát của Viện
kiểm sát trong những phiên tòa này thực sự cần thiết để đảm bảo tính hợp pháp
và tính vô tư trong xét xử của Tòa án. [12, tr.26]
Tuy nhiên, liệu rằng kiểm sát xét xử có được coi là cần thiết trong thời
điểm hiện nay hay không? Liệu rằng chức năng này có thể dẫn đến khả năng
can thiệp vào hoạt động xét xử hành chính hay không? Câu trả lời phụ thuộc
vào hoạt động cũng như những uy quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong quá
trình xét xử vụ án hành chính.
35
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Thứ nhất, Viện kiểm sát hiện diện hầu khắp trong các giai đoạn của quá
trình tố tụng hành chính. Về nguyên tắc, có những vụ án bắt buộc phải có mặt
Viện kiểm sát. Ở cấp xử sơ thẩm, Viện kiểm sát bắt buộc phải tham gia vào các
vụ án do chính cơ quan này khởi kiện, những vụ án trong đó đương sự là người
chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần, những vụ án
liên quan đến việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính đặc biệt như
đưa vào trại giáo dưỡng v.v.. Ở cấp phúc thẩm, Viện kiểm sát sẽ tiếp tục hiện
diện trong những vụ việc mà Viện kiểm sát đã tham gia từ giai đoạn sơ thẩm.
Riêng với cấp xử giám đốc thẩm và tái thẩm, sự có mặt của Viện kiểm sát là bắt
buộc.
Thứ hai, không chỉ hiện diện hầu khắp trong các vụ xét xử hành chính,
mà Viện kiểm sát còn có những thẩm quyền quan trọng có thể gây áp lực hoặc
thậm chí can thiệp trực tiếp vào hoạt động này. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử,
Viện kiểm sát có quyền đề nghị chuyển giao để kiểm tra hồ sơ tố tụng hay có
quyền yêu cầu Tòa án tiến hành các biện pháp điều tra bổ sung, nếu Viện kiểm
sát cho rằng cần thiết, như: xác minh, thu thập chứng cứ, giám định … Trong
trường hợp đặc biệt, Viện kiểm sát còn có thể tự mình tiến hành điều tra. Tại
phiên tòa, sự tham gia của Viện kiểm sát là trực tiếp: không chỉ kiểm soát diễn
tiến phiên tòa mà còn có thể đề nghị triệu tập bổ sung nhân chứng, người giám
định hay phiên dịch. Cũng như thế, Viện kiểm sát có quyền cung cấp những
chứng cứ bổ sung ngay tại phiên tòa. Đặc biệt là trong giai đoạn thẩm vấn, đại
diện của Viện kiểm sát nhân dân có quyền đặt câu hỏi, tham gia xét hỏi trực tiếp.
“Điều 89. Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định
5. Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho
rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc
trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám
định tư pháp.
36
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Điều 93. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng
cứ
[…] 4. Trường hợp Viện kiểm sát có yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ
thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện theo quy định tại khoản
3 Điều này.”
Cũng ở giai đoạn này, Viện kiểm sát nắm quyền lực rất lớn: đọc kết luận
của mình, trong đó nêu rõ nhận định chủ quan, đường hướng xét xử của vụ án.
Vai trò của đại diện Viện kiểm sát không chỉ dừng lại ở việc trình bày kết luận
của mình trước Hội đồng xét xử, mà Viện kiểm sát còn có quyền kháng nghị
theo tất cả các thủ tục phúc thẩm, tái thẩm, giám đốc thẩm. Đó là điều khác biệt
so với pháp luật nuớc ngoài – vai trò kháng nghị chỉ dành cho đương sự. Hiệu
lực của kháng nghị là bắt buộc, bởi Tòa án luôn luôn phải tiến hành các thủ tục
xét xử tiếp theo nếu bản án bị kháng nghị.
Kiểm sát xét xử bảo đảm cho việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động của
Tòa án, tuy nhiên, Viện kiếm sát lại có quyền kháng nghị bản án hay phán quyết
của Tòa. Như vậy, liệu có khả năng tồn tại việc Viện kiểm sát gây áp lực, gián
tiếp thay đổi kết luận của bản án bằng việc sử dụng quyền kháng nghị này của
mình? Nếu như quyền kháng nghị này được sử dụng một cách chính xác, nó
không những làm tăng hiệu quả xét xử, hạn chế tối đa được những án oan sai
mà còn làm gia tăng niềm tin của đương sự vào Viện kiểm sát nhân dân. Nhưng
nếu sử dụng những quyền hạn này sai mục đích thì có thể can thiệp trực tiếp vào
hoạt động xét xử của Tòa án, do đó sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến nguyên tắc
độc lập xét xử của Tòa án. Do vậy, sự tồn tại của chức năng này liệu không thực
sự cần thiết, đặc biệt khi mà vẫn có nhiều con đường khác để kiểm sát sự tuân
thủ pháp luật trong hoạt động xét xử cũng như để bảo vệ quyền lợi của đương
sự, ví dụ: thông qua quyền kháng cáo của đương sự, thông qua kháng nghị của
Tòa án cấp trên, thông qua chức năng giám sát tư pháp của cơ quan quyền lực
nhà nước. Vậy nên, Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính chỉ nên giữ vai trò 37
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
là cơ quan kiểm sát hoạt động việc tuân thủ pháp luật và thủ tục hành chính
trong vụ án hành chính.
Cùng với đó, vai trò của Viện Kiểm sát còn thể hiện ở một khía cạnh
quan trọng khác với tư cách người khởi kiện trong vụ án hành chính. Theo Điều
18 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án hành chính, “đối với các quyết định hành
chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần, nếu không có ai
khởi kiện thì VKS có quyền khởi tố vụ án hành chính và có trách nhiệm cung
cấp chứng cứ”. Tuy nhiên, Luật Tố tụng hành chính hiện hành chỉ quy định
trong trường hợp cần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự thì Viện Kiểm sát có quyền kiến nghị Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người đó có trách nhiệm cử
người giám hộ hoặc đề nghị một tổ chức đảm nhận việc giám hộ cho họ khi
khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án (khoản 3 Điều 23 Luật Tố tụng hành
chính 2010 và khoản 3 điều 25 Luật Tố tụng hành chính 2015).
“Điều 25. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính
[…] 3. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm sát
kiến nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú cử người giám hộ đứng
ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người đó.”
Quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát có lẽ xuất phát từ chức
năng của Viện Kiểm sát là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trừng trị tất cả các
hành vi vi phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội.
Nhưng bên cạnh mục tiêu đó, quyền khởi kiện của Viện kiểm sát trong vụ án
hành chính có thể làm dấy lên những hoài nghi về tính độc lập của Tòa án trong
38
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
giải quyết vụ án hành chính. Hơn nữa, cả về lý thuyết cũng như thực tiễn, quyền
khởi kiện vụ án hành chính của Viện kiểm sát có vẻ rất khó khả thi.
Trước tiên, và quan trọng nhất, nếu Viện kiểm sát đứng ra khởi tố vụ án
hành chính, nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án sẽ bị xâm phạm một phần, bởi
lẽ trong trường hợp này, Viện kiểm sát sẽ vừa là người khởi kiện, vừa là người
giám sát quá trình xét xử trong một vụ án. Nếu thực hiện chức năng kiểm sát xét
xử, Viện kiểm sát sẽ có quyền can thiệp vào quá trình điều tra, thậm chí áp dụng
các biện pháp điều tra độc lập, có quyền xét hỏi, kết luận về vụ việc – trong khi
đó chính Viện kiểm sátlại đang đóng vai trò là một bên khởi kiện.Tình thế này
có thể so sánh với tình thế trong vụ án hình sự, khi mà “Viện kiểm sát vừa là
chủ thể buộc tội, một bên của tố tụng, vừa lại đứng ra kiểm sát xét xử”. Thẩm
phán hành chính có lẽ khó xét xử công tâm, độc lập nếu một bên trong vụ kiện
đồng thời chính là người giám sát tiến trình xét xử. Tình trạng “vừa đá bóng vừa
thổi còi” đương nhiên sẽ làm tổn hại đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
Hơn nữa, quyền khởi kiện của Viện kiểm sát rất khó thực hiện trên thực
tiễn. Có lẽ hạn chế này nảy sinh từ những khó khăn được thể hiện ngay trên các
văn bản pháp luật. Theo quy định về tố tụng hành chính, trước khi khởi kiện vụ
án hành chính ra Tòa án, người khởi kiện phải bắt buộc thực hiện thủ tục khiếu
nại hành chính. Đây là điều kiện không thể thiếu để thụ lý vụ án [23, Khoản 1
Điều 2 và mục c Khoản 1 Điều 3]. Có thể hiểu rằng Tòa án sẽ không thể thụ lý
vụ kiện nếu như Viện kiểm sát không khiếu nại. Tòa án sẽ vi phạm quy định của
pháp luật về điều kiện thụ lý vụ án hành chính nếu như thụ lý vụ kiện mà không
có khiếu nại của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, trên thực tế quyền hạn này của Viện
kiểm sát rất ít khi được thực hiện. Bởi lẽ, để có thể đại diện cho những đối
tượng kể trên Viện kiểm sát phải biết chắc chắn không có bất kì ai khác đại diện
cho họ thực hiện quyền khởi kiện. Chỉ khi hết thời hiệu khởi kiện của vụ án mới
có thể xác định được là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có
nguyện vọng muốn khởi kiện hay là không có người đại diện nào đứng ra khởi
39
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
kiện vụ án hành chính. Do đó, việc quy định Viện kiểm sát chỉ kiến nghị cử
người giám hộ cho nhóm người này là một bước đổi mới quan trọng và cần thiết.
Không những thế quyền khởi kiện vụ án hành chính của Viện kiểm sát có thể
được thực hiện dễ dàng hơn trong điều kiện Viện kiểm sát còn thực hiện chức
năng kiểm sát chung. Bởi Viện kiểm sát có thể dễ dàng phát hiện các trường
hợp vi phạm và xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân – đặc biệt là
những người thuộc diện cần bảo vệ của các cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà
nước trong quá trình kiểm sát các hành vi vi phạm pháp luật của những đối
tượng trên. Nhưng khi chức năng kiểm sát chung bị bãi bỏ theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, thì
quyền khởi kiện vụ án hành chính của Viện kiểm sát cũng ít nhiều mất đi tính
khả thi. Hơn nữa, khi tước đi quyền kiểm sát chung của Viện kiểm sát, Nhà
nước cũng đã đặt ra những thiết chế pháp luật khác để có thể bảo vệ cho nhóm
người yếu thế trong xã hội, ví dụ như cơ quan, đoàn thể, hiệp hội… quyền khởi
kiện của họ sẽ do những tổ chức, đoàn thể này đại diện cho họ thực hiện.
Về nguyên tắc, chức năng kiểm sát xét xử và khởi kiện vụ án hành chính
của Viện kiểm sát đều nhằm mục đích bảo đảm pháp chế và bảo vệ quyền lợi
của người dân, đặc biệt là nhóm người yếu thế trong xã hội. Nhưng khởi kiện vụ
án hành chính không những ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa
hành chính mà còn không khả thi. Do đó, những tác động của các quyền hạn
của Viện kiểm sát cần phải được xem xét và cân nhắc trên cả bình diện lý thuyết
và thực tiễn. Bởi hơn tất cả, Tòa án chính là “người” bảo vệ công lý, niềm tin về
công lý nên được đặt trên nhất và cuối cùng, bởi lẽ “nếu như Tòa án là thành trì
cuối cùng của việc bảo vệ tự do cá nhân, thì Tòa án cũng là thành trì cuối cùng
chống lại những sự vi phạm Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan và nhân
viên nhà nước - một thành trì cuối cùng của sự hạn chế quyền lực của Nhà
nước.”
40
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
2.2. Những điểm mới về vai trò của Viện kiểm sát trong luật tố tụng hành
chính 2015
Trải qua nhiều năm, kinh tế đất nước càng phát triển, đời sống nhân dân
càng được cải thiện, kéo theo đó là những thay đổi không ngừng về đời sống
pháp luật. Những quy định cũ đã có phần không phù hợp với bước tiến của xã
hội, đòi hỏi nó phải có sự thay đổi cần thiết, nhất định để phù hợp với tình hình
xã hội hiện đại ngày nay. Đặc biệt là về hành chính, những thủ tục rườm rà và
quy định đã phần nào không đáp ứng được nhu cầu của người dân trong việc
giải quyết các vụ án hành chính, do đó sự thay đổi, cải cách Luật Tố tụng hành
chính là điều cần thiết.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 gồm có 23 chương, 372 điều (tăng 05
chương và 107 điều so với Luật Tố tụng hành chính năm 2010), khắc phục
những hạn chế, vướng mắc, bất cập, kế thừa những quy định còn phù hợp; đồng
thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới về tố
tụng hành chính, bảo đảm các quy định của Luật tố tụng hành chính không làm
cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên.Luật Tố tụng hành chính 2015 đã ghi nhận những điểm mới khác
biệt với luật cũ cả về vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân.Sự khác biệt về vai trò của Viện kiểm sát trong việc tham gia vào vụ án
hành chính cũng là một bước đột phá quan trọng của những nhà làm luật trong
việc nhìn nhận sự cần thiết của Viện kiểm sát cũng như việc tham gia của họ
vào quá trình xét xử vụ án hành chính.
2.2.1. Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố
tụng hành chính
Luật Tố tụng hành chính 2015 có quy định về sự có mặt của Viện kiểm
sát nhân dân tại phiên tòa như sau:
“Điều 156. Sự có mặt của Kiểm sát viên
41
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
1. Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có
nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành
xét xử.
2. Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp
tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết thì người này
được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu.”
Với quy định trên chúng ta có thể thấy Luật Tố tụng hành chính năm
2015 kế thừa Luật Tố tụng hành chính năm 2010 ở hai điểm: Một là, kiểm sát
viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công phải có mặt tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hành chính; hai là, trường hợp kiểm sát viên bị thay
đổi tại phiên tòa hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên tòa xét xử, nhưng có
kiểm sát viên dự khuyết thì người này được tham gia phiên tòa xét xử tiếp vụ án
nếu họ có mặt tại phiên tòa từ đầu. Tuy nhiên, Luật Tố hành tụng chính năm
2015 có một điểm sửa đổi so với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm
2010 là trong trường hợp kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng
cấp phân công vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử
như bình thường thay vì phải hoãn phiên tòa như quy định trước đây. Như vậy,
dường như việc có mặt hay không có mặt của kiểm sát viên trong một vụ án
hành chính dường như đã trở nên không quá quan trọng. Quy định này được đặt
ra nhằm bảo đảm tiến độ giải quyết vụ án hành chính được xét xử một cách kịp
thời, theo đúng quy định về thời hạn tố tụng.
Điều 224 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định về sự có mặt của kiểm
sát viên trong phiên tòa phúc thẩm
“Điều 224. Sự có mặt của Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công có
nhiệm vụ tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa
khi Kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị.
42
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
2. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia
phiên tòa, nhưng có Kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu
thì người này được thay thế Kiểm sát viên vắng mặt tham gia phiên tòa
xét xử vụ án.”
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có điểm kế thừa quy định của Luật Tố
tụng hành chính năm 2010 ở điểm quy định kiểm sát viên được phân công có
nhiệm vụ tham gia phiên tòa phúc thẩm nếu vắng mặt hoặc không thể tiếp tục
tham gia phiên tòa, nhưng có kiểm sát viên dự khuyết tham gia phiên tòa từ đầu
thì người này được thay thế kiểm sát viên vắng mặt tham gia phiên tòa xét xử
vụán. Tuy nhiên, nếu như Điều 194 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 trước
đây quy định trong trường hợp kiểm sát viên vắng mặt nếu không có kiểm sát
viên dự khuyết tham dự phiên tòa ngay từ đầu thay thế thì bắt buộc phải hoãn
phiên tòa, trong khi đó theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015 trong trường
hợp kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa khi
kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị. Tương
tự với thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị, theo khoản 4 Điều 243 thì: “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng
cấp tham gia phiên họp phúc thẩm và phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng
cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định. Hội đồng
xét xử quyết định hoãn phiên họp khi Kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp
Viện kiểm sát có kháng nghị”. Với quy định trên có thể hiểu, nếu kiểm sát
viênvắng mặt nhưng vụ án hành chính phát sinh do có sự kháng cáo của đương
sự mà không phải là kháng nghị của Viện kiểm sát thì trong trường hợp này vẫn
tiến hành xét xử bình thường mà không cần phải hoãn phiên tòa.
Về sự có mặt của kiểm sát viên tại phiên tòa giám đốc thẩm thì Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 vẫn tiếp tục kế thừa quy định của Luật Tố tụng hành
chính năm 2010 khi Điều 267 quy định “Phiên tòa giám đốc thẩm phải có sự
tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp”. Quy định này cũng được áp dụng tương
43
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
tự tại thủ tục tái thẩm. Bên cạnh đó, đối với thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết
định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì theo quy định tại
Điều 290 về thành phần tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao để xem xét kiến nghị, đề nghị thì nêu rõ “Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao tham dự phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao để xem xét kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định tại khoản 4 Điều 287 của Luật này”.
[24] Quy định này làm tăng quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát khi được
tham gia vào việc xem xét kiến nghị để quyết định có hay không tái thẩm vụ án
hành chính, có thể làm tăng khả năng tái thẩm cao hơn cho vụ án hành chính đó.
[12,tr.26]
2.2.2. Phát biểu của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố tụng
hành chính
So với quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2010, quy định của
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính có sự sửa đổi quan trọng.
“Điều 190. Phát biểu của Kiểm sát viên
Sau khi những người tham gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, Kiểm
sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.
Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu
ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.”
(Theo điều 190 Luật Tố tụng hành chính 2015)
44
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Như vậy, theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, kiểm sát
viên được quyền phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án hành chính. Việc sửa
đổi này hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ, kiểm sát viên là người kiểm sát việc giải quyết
vụ án ngay từ khi vụ án hành chính được khởi kiện, kiểm sát viên cũng được
quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án nên họ là người nắm rõ bản chất vụ việc hơn bất
cứ ai. Do đó, quan điểm của kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án cũng được
xem như nguồn tham khảo, đánh giá về tính hợp pháp của đối tượng khiếu kiện.
Bên cạnh điểm mới như trên, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 còn bổ sung
thêm quy định: “Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn
bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án” nhằm đảm bảo việc
hoàn tất hồ sơ vụ việc theo đúng quy định của pháp luật cũng như chấp nhận
quan điểm của kiểm sát viên như nguồn tham khảo có giá trị.
“Điều 240. Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm
Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp
xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm.
Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu
ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án.”
(Theo Luật Tố tụng hành chính 2015)
Đối với việc phát biểu của kiểm sát viên trong phiên tòa phúc thẩm, Luật
Tố tụng hành chính năm 2015 kế thừa những quy định trước đây của Luật Tố
tụng hành chính năm 2010 khi quy định “Sau khi những người tham gia tố tụng
phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
ở giai đoạn phúc thẩm” và khoản 4 Điều 243 quy định phát biểu của kiểm sát
viên tại phiên họp phúc thẩm đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị “Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên
45
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
họp phúc thẩm và phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị
trước khi Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định. Hội đồng xét xử quyết định
hoãn phiên họp khi Kiểm sát viên vắng mặt trong trường hợp Viện kiểm sát có
kháng nghị”. Tương tự như quy định ở cấp xét xử sơ thẩm, Luật Tố tụng hành
chính năm 2015 đã bổ sung thêm quy định “Ngay sau khi kết thúc phiên tòa,
Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ
án”.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm và tái thẩm, đại diện của Viện kiểm sát
không chỉ phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án hành chính như trước mà
còn có thể phát biểu ý kiến về quyết định kháng nghị theo quy định mới của
Luật Tố tụng hành chính 2015. Việc bổ sung này tăng thêm một nguồn thông tin
quan trọng giúp cho Hội đồng xét xử dễ dàng xem xét việc kháng nghị có căn
cứ hay không, để từ đó quyết định việc chấp nhận hay không chấp nhận kháng
nghị và đưa ra phán quyết đúng với sự thật khách quan của vụ án. [24]
Tuy nhiên trên thực tế, quyền phát biểu ý kiến về việc giải quyết kháng
cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát hầu như không được sử dụng trong các vụ án
hành chính. Hầu hết trong các phiên tòa vụ án hành chính, đại diện của Viện
kiểm sát chỉ phát biểu ý kiến của mình về vấn đề việc tuân theo pháp luật tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính của thẩm phán, Hội đồng xét
xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án
cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là hoàn toàn đúng với quy
định của pháp luật.
2.2.3. Kiểm sát hoạt động thu thập chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
hành chính
Viện kiểm sát với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hành chính góp phần giúp cho hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án,
đương sự được diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Vì vậy,
46
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 tiếp tục dành một số điều khoản quy định về
vấn đề này, trong đó chủ yếu tập trung tại Chương VI về chứng cứ, chứng minh.
“Điều 84. Xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ
[…]
6. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu,
chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng nghị bản án hoặc
quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì Viện
kiểm sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc kháng
nghị.”
Đối với việc xác minh và thu thập chứng cứ, khoản 6 Điều 84 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015 kế thừa quy định trước đây của Luật Tố tụng hành
chính năm 2010 khi quy định “Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác minh,
thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng
nghị bản án hoặc quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm thì Viện kiểm sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo
đảm cho việc kháng nghị”; bên cạnh đó, việc kiểm sát hoạt động thu thập chứng
cứ, chứng minh có những điểm mới sau:
Thứ nhất, đối với hoạt động trưng cầu giám định và yêu cầu giám định,
khoản 5 Điều 89 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã bổ sung quy định Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được quyền yêu cầu giám định lại trong
trường hợp đặc biệt.
“Điều 89. Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định
[…]
5. Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho
rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc
trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
47
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám
định tư pháp.”
Thứ hai, đối việc bảo vệ chứng cứ, khoản 2 Điều 97 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015 quy định “Trường hợp người làm chứng bị đe dọa, khống chế
hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự
thật thì Tòa án có quyền quyết định buộc người có hành vi đe dọa, khống chế
hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc
người làm chứng. Trường hợp hành vi đó có dấu hiệu tội phạm thì Tòa án yêu
cầu Viện kiểm sát xem xét về trách nhiệm hình sự”, đã có sự khác biệt rất lớn
khi so sánh với khoản 2 điều 91 Luật Tố tụng hành chính 2010: “… Trường hợp
hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì Toà án
chuyển cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét về trách nhiệm hình sự”.
Có thể thấy, quy định mới đã có sự cụ thể, rõ ràng và chi tiết hơn giúp cho Tòa
án thuận lợi trong công tác xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật
nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính được kịp thời, đúng pháp luật.
[24]
2.2.4. Kiểm sát thi hành án hành chính
Thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính theo
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 có bước sửa đổi quan trọng khi cho phép
Tòa án được quyền ra quyết định buộc thi hành án hành chính. Chính vì vậy mà
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân cũng được bổ sung thêm quy định mới tại
khoản 2 Điều 312 của luật này:
“Điều 312. Yêu cầu, quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của
Tòa án
[…]
2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu
của người được thi hành án, Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định buộc
48
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
thi hành án hành chính. Quyết định buộc thi hành án phải được gửi cho người
phải thi hành án, người được thi hành án, thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp
của người phải thi hành án và Viện kiểm sát cùng cấp. Thủ trưởng cơ quan cấp
trên trực tiếp của người phải thi hành án có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc và
xử lý trách nhiệm của người phải thi hành án theo quy định của pháp luật.
Quyết định buộc thi hành án cũng phải gửi cho cơ quan thi hành án dân sự nơi
Tòa án đã xét xử sơ thẩm để theo dõi việc thi hành án hành chính theo quyết
định của Tòa án.
3. Chính phủ quy định cụ thể về thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án
hành chính và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết
định của Tòa án.”
Ngoài ra, quy định về kiểm sát thi hành án hành chính cũng được Luật Tố
tụng hành chính 2015 kế thừa và phát huy:
“Điều 315. Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án bảo
đảm việc thi hành bản án, quyết định kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật.
Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa
vụ thi hành án hành chính và cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan,
tổ chức phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án để có biện pháp tổ chức
thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án.”
Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính
là một trong những biện pháp bảo đảm thi hành án hành chính do Viện kiểm sát
nhân dân các cấp trực tiếp thực hiện. Cơ chế bảo đảm thi hành phán quyết của
Tòa án về vụ án hành chính là hệ thống các yếu tố có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau làm cơ sở cho việc thi hành phán quyết của Tòa án về vụ án hành chính
[28, tr.445 – 446]. Việc quy định quyết định buộc thi hành án phải được gửi cho 49
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Viện kiểm sát cùng cấp giúp kịp thời thực hiện công tác kiểm sát để phát hiện ra
các sai phạm trong hoạt động thi hành án, từ đó đề ra những biện pháp, kiến
nghị nhằm bảo đảm cho bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
được thi hành nghiêm chỉnh và kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người được thi hành án.Việc quy định này làm tăng khả năng chấp hành thi
hành án cao hơn so với trước đây, do có thêm một cơ quan chức năng đảm
nhiệm nhiệm vụ này.
2.3. Điểm mới về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân 2014
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 khẳng định rõ hơn vị trí
của Viện kiểm sát là thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước, có nhiệm vụ
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Bên
cạnh đó, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định rõ phạm vi,
nội dung, mục đích của từng chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp. Luật quy định, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố
trong các giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, trong tương trợ tư pháp về hình sự; thực
hành quyền công tố bắt đầu từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố. Đối với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, do Luật hiện hành
chưa quy định hoặc quy định chưa rõ nên Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014
đã bổ sung các quy định về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố; kiểm sát trong giai đoạn truy tố; kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tương trợ
tư pháp.Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 cũng đã phân định các
trường hợp Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị hoặc quyền kiến nghị.
Luật hiện hành đã quy định quyền kháng nghị, quyền kiến nghị nhưng chưa
phân định rõ trong trường hợp nào thì Viện kiểm sát kháng nghị, và trong
trường hợp nào thì kiến nghị. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
50
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
nêu rõ, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị trong trường hợp hành vi, bản
án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có
vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân,
lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Viện kiểm sát
thực hiện quyền kiến nghị trong trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng
hoặc khi phát hiện cơ quan, tổ chức hữu quan có sơ hở, thiếu sót trong hoạt
động quản lý. Luật cũng quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong việc giải quyết, trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát,
bảo đảm hiệu lực, hiệu quả khi Viện kiểm sát thực hiện các quyền này trên thực
tế (Điều 5).
Luật Tổ chức Viện kiểm sát 2014 quy định 04 cấp Viện kiểm sát, bao
gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện. Trong đó Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao là cấp kiểm sát mới, có nhiệm vụ thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao, cụ thể: Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao có quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm, kiểm sát
xét xử thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Việc tăng thêm một cấp Viện kiểm
sát được kỳ vọng sẽ góp phần hạn chế được những vụ án oan sai, những vi
phạm trong thủ tục xét xử, bảo đảm tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn giải
quyết công việc theo đúng quy định của pháp luật và bảo đảm dân chủ, công
khai, minh bạch và hiệu quả trong mọi hoạt động tố tụng. [27]
KẾT LUẬN
Tóm lại, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã kế thừa và phát huy được
những quy định cơ bản về vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng
51
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
hành chính của Luật Tố tụng hành chính năm 2010; đồng thời, sửa đổi và bổ
sung thêm nhiều quy định mới phù hợp với sự phát triển của đất nước cũng như
phù hợp với tính thời sự của xã hội hiện đại. Đây là những sửa đổi, bổ sung
quan trọng giúp Viện kiểm sát thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ của mình trong
hoạt động tố tụng hành chính được quy định tại Điều 22 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015 “Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
52
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN
Trước những yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ngành kiểm
sát nhân dân phải tiếp tục đổi mới toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực
công tác, nhằm tổ chức thực hiện tốt hơn hai chức năng: thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Trải qua nhiều năm thi hành Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và Luật tố tụng hành chính, cũng
như các văn bản pháp luật liên quan khác đã góp phần quan trọng vào việc hoàn
thiện và khẳng định sự cần thiết của bộ máy tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Sự
ra đời của Luật Tố tụng hành chính đã càng làm nổi bật hơn vai trò của Viện
kiểm sát. Luật này giúp cho việc giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện hành chính
trở nên dễ dàng hơn, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Luật Tố tụng hành
chính 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn nữa so với Luật Tố
tụng hành chính 2010 để phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp của Nhà nước.
Trên lĩnh vực kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành
chính và các việc khác theo quy định của pháp luật, toàn ngành kiểm sát đã chủ
động bố trí lực lượng cán bộ, tập trung kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết các vụ
án, vụ việc, trong đó chú trọng kiểm sát các bản án, quyết định của tòa án; tích
cực, chủ động tham gia các phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ án hành chính, vụ
việc dân sự ở các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm theo quy định
của pháp luật. Qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án, vụ việc, viện kiểm sát
đã kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu khắc phục nhiều vi phạm pháp luật, đồng thời
tổng hợp tình hình và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền đưa ra được các
biện pháp giải quyết các vấn đề tồn tại, việc khiếu kiện bức xúc, kéo dài; giúp
53
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
cho các cơ quan nhà nước thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước trong các
lĩnh vực kinh tế, xã hội [5]. Ngành kiểm sát cũng đã thực hiện nhiều biện pháp
tăng cường công tác kiểm sát việc thi hành các bản án, quyết định của tòa án;
phối hợp cùng cơ quan thi hành án khắc phục tình trạng chậm thi hành của các
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Bên cạnh đó cũng đồng
thời có nhiều đổi mới trong việc giải quyết các đơn, thư khiếu nại thuộc thẩm
quyền của Viện kiểm sát; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp giải quyết
nhiều vấn đề khiếu nại phức tạp, bị kéo dài trong các cơ quan tư pháp. [4]
Sự cố gắng cũng như nỗ lực hoàn thiện hơn nữa của Viện kiểm sát là
không thể phủ nhận, tuy nhiên không thể phủ nhận vẫn còn tồn tại những
khuyết điểm, khó khăn và thách thức lớn đối với nền kiểm sát của nước ta.
Chúng ta cần phải khắc phục được những vướng mắc, tồn tại đó để tiến đến
mục tiêu “xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người”.Vì lẽ đó, người viết có một số kiến nghị
nhằm mục đích hoàn thiện hơn nữa về mặt pháp luật của Viện kiểm sát như sau:
3.1. Kiến nghị chung về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính
Hiện nay, theo Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định, Viện kiểm sát là
người nắm vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật, giám sát thực hiện các thủ
tục khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án hành chính. Trong các phiên tòa, Viện
kiểm sát hầu như đều thực hiện tốt vai trò của mình, cũng như quyền phát biểu ý
kiến và kiểm soát hoạt động, phưỡng thức diễn ra phiên tòa. Tuy nhiên, trên
thực tế, Viện kiểm sát vẫn chưa thực sự vận dụng tốt quyền phát biểu ý kiến về
việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị của mình. Ý kiến của Viện kiểm sát vốn
cũng được xem như một nguồn tham khảo có giá trị cho việc giải quyết vụ án
hành chính, tuy nhiên, Viện kiểm sát hầu như chỉ thực hiện quyền phát biểu ý
kiến của mình về vấn đề tuân thủ pháp luật trong quá trình thực hiện phiên tòa.
Điều này làm người viết cảm thấy rằng, nếu như vậy thì quyền hạn này của
Viện kiểm sát có còn cần thiết nữa hay không? Hơn nữa, trong một vụ án hành
54
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
chính, có lẽ nên có cơ chế kiểm soát việc thực hiệnquyền hạn của Viện kiểm sát
về vấn đề này. Viện kiểm sát nên tập trung vào vấn đề kiểm sát việc tuân theo
pháp luật về thử tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính của Hội
đồng xét xử, cũng như giám sát việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố
tụng và giám sát thi hành án đối với người bị kết án. Như vậy, không những
Viện kiểm sát thực hiện tốt vai trò của mình mà cũng không làm “phí” quyền
hạn của mình.
Về vai trò của Viện kiểm sát trong việc giám sát thi hành án hành chính
cũng cần được nâng cao và tiếp tục phát huy hơn nữa. Việc Viện kiểm sát tham
gia vào quá trình công tác thi hành án góp phần đảm bảo được việc bản án đã có
hiệu lực pháp luật được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ. Viện kiểm sát
cần nâng cao hơn nữa về chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án.
Kiểm sát chặt chẽ việc phân loại các bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật
để kiến nghị với cơ quan thi hành án thi hành đối với các bản án, quyết định có
điều kiện thi hành thì tiến hành thi hành án. Cần phối hợp chặt chẽ với Cơ quan
thi hành án báo cáo với Cơ quan có thẩm quyền xử lý dứt điểm những việc
không có điều kiện thi hành… Khẩn trương tiếp tục rà soát những bản án, quyết
định còn nhận thức khác nhau để kiến nghị và đề ra các biện pháp khắc phục.
Viện kiểm sát cùng Cơ quan thi hành án cùng đôn đúc người bị kết án phải chấp
hành án, giảm thiểu được tối đa việc trốn tránh thực hiện, cũng như gây cản trở
cho công tác giám sát và thi hành án. [7]
3.2. Kiến nghị về trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Bản chất công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp cho thấy, công tác của ngành kiểm sát mang tính chuyên môn, nghiệp vụ
nhưng có ý nghĩa chính trị, xã hội và tính nhân văn rất sâu sắc. Do đó, các Kiểm
sát viên cần được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cao, cũng như nâng cao tinh
thần trách nhiệm tham gia đầy đủ vào các vụ án hành chính. Mặc dù hiện nay
pháp luật có quy định, Tòa án có thể tiếp tục xét xử mà không có mặt Kiểm sát
55
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
viên nhưng việc có mặt của đại diện Viện kiểm sát trên tòa vẫn có sự ảnh hưởng
nhất định. Sự hiện diện của Kiểm sát viên trong phiên tòa không chỉ là tăng
thêm phần nghiêm túc mà còn kiểm soát được hoạt động diễn ra phiên tòa có
đúng thủ tục theo quy định của pháp luật hay không.
Để thực hiện được việc này, mục tiêu được đặt ra là cần xây dựng đội ngũ
cán bộ kiểm sát trong sạch, vững mạnh, có năng lực đáp ứng yêu cầu của tình
hình mới. Vì vậy, cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát cả về
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác theo tiêu chí "Vững về
chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ
cương và trách nhiệm”, đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hóa cán bộ trong thời kỳ
mới. Như vậy, việc tiến hành đổi mới công tác, xây dựng đội ngũ cán bộ phải
tiến hành đồng bộ, theo một lộ trình thích hợp và có trọng tâm. Cần xây dựng
chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lâu dài, có lộ trình cụ thể, xác định rõ mục
đích và những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài cho công tác này. Bên cạnh đó,
việc xây dựng những chính sách khuyến khích cán bộ đi học nhằm nâng cao
trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học..; chính sách đào tạo
cán bộ trẻ, trong diện quy hoạch là điều cần thiết để xây dựng và tạo động lực
thúc đẩy cho lớp cán bộ trẻ học tập, nâng cao trình độ.
3.3. Kiến nghị về cải cách hành chính trong tổ chức và hoạt động của hệ thống
Viện kiểm sát nhân dân
Việc tiến hành cải cách hành chính cũng là một cách để động viên cán bộ
công chức phát huy sáng kiến, cải tiến phương pháp làm việc và ra sức thi đua
hoàn thành các chỉ tiêu nhiệm vụ kế hoạch công tác đề ra. Để có thể thực hiện
được mục tiêu này cũng như hoàn thiện các kế hoạch được đề ra, việc cải cách
hành chính của Viện kiểm sát có thể thực hiện theo một số đề nghị, phương
hướng sau:
56
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
Đầu tiên là quán triệt nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán
bộ công chức thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng và pháp luật Nhà
nước, các chỉ đạo của ngành và địa phương về công tác cải cách hành chính. Cải
cách hành chính phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.Có thể tổ chức các
buổi học, giao lưu nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm của cán bộ công chức
về vấn đề này.
Thứ hai là thực hiện cải cách hành chính đi đôi với cải cách tư pháp. Tiếp
tục đẩy mạnh cải cách hành chính, trong đó lấy việc cải cách thủ tục hành chính
làm trọng tâm. Khẩn trương tiến hành rà soát các thủ tục hành chính trên tất cả
các lĩnh vực thuộc quyền giám sát của Viện kiểm sát, góp phần hoàn thiện thủ
tục hành chính ở đơn vị theo hướng đơn giản, đồng bộ, công khai minh bạch,
phục vụ nhân dân.
Thứ ba là xây dựng và hoàn chỉnh quy trình giải quyết công việc thật sự
nhanh, gọn, quy định rõ ràng chức trách, nhiệm vụ của từng phòng, từng chức
danh công việc. Nhất là quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn, thời gian trong
việc thực hiện các biện pháp công tác kiểm sát từ khi tiếp nhận thụ lý đến khi
giải quyết xong vụ việc thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
Thứ tư là tăng cường, nâng cao sự phối hợp hoạt động giữa các phòng
nghiệp vụ và Viện kiểm sát các cấp để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc, tham mưu cho Ban cán sự Đảng – Ban lãnh đạo Viện kiểm sát cấp trên đề
xuất cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bãi bỏ các thủ tục hành chính không
phù hợp, tạo thuận lợi tối đa cho công dân khi đến trình bày, khai báo công việc.
Đội ngũ cán bộ cần phải được thường xuyên rà soát, sắp xếp bố trí theo năng
lực, trình độ để chắc chắn đảm bảo được hiệu quả, hiệu suất công việc.
Thứ năm là đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác cải
cách hành chính. Viện kiểm sát các cấp cần xây dựng và ứng dụng các phần
mềm quản lý hành chính để việc theo sát những vụ việc hành chính, cũng như
57
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
đảm bảo thiết thực, hiệu quả phục vụ tốt công tác chỉ đạo điều hành. Xây dựng
và kiến tạo những phần mềm quản lý trên điện thoại thông minh, để người dân
có thể trực tiếp báo cáo lên cán bộ công chức và từ đó kịp thời xử lý các sai
phạm.
Thứ sáu, tích cực hơn nữa trong công tác triển khai xây dựng đội ngũ cán
bộ, Kiểm sát viên “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật,
công tâm và bản lĩnh; kỷ cương và trách nhiệm”. Nâng cao chất lượng giáo dục,
chính trị tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng kiến thức về mọi
mặt và đề cao trách nhiệm cho mỗi cán bộ, Đảng viên để thực hiện tốt lời dạy
của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ Kiểm sát phải công minh chính trực, khách
quan, thận trọng, khiêm tốn”. Đẩy mạnh việc học hỏi, thực hiện tinh thần“Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Viện kiểm sát các cấp cần
tăng cường các công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và
khắc phục những thiếu sót còn tồn tại nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác. Kiên quyết và kỉ luật nghiêm minh đối với những hành vi và cá nhân cán bộ,
Kiểm sát viên gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân. Tổ chức những buổi kiểm tra,
sát hạch đội ngũ cán bộ để thúc đẩy tinh thần trách nhiệm, cũng như ý thức tự
nâng cao kiến thức của mình để tránh trường hợp bị khiển trách hay ảnh hưởng
đến công tác.
Cuối cùng là thường xuyên đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành nhằm kịp
thời nắm bắt và giải quyết các vấn đề phát sinh trong hoạt động kiểm sát. Tăng
cường công tác tổng kết thực tiễn và thông báo rút kinh nghiệm, trao đổi nghiệp
vụ để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác.Ví dụ như, mỗi cuối tuần hoặc cuối
tháng sẽ có buổi tổng kết những công việc đã thực hiện trong tuần qua, tháng
qua để từ đó kịp thời rút ra những kinh nghiệm, nhận xét và tìm ra cách khắc
phục những điểm yếu đó. [17]
58
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
KẾT LUẬN
Viện kiểm sát đóng vai trò rất quan trọng trong tố tụng hành chính. Việc
Viện kiểm sát tham gia vào trong một vụ án hành chính góp phần đảm bảo cho
vụ án được diễn ra một cách nghiêm túc, đúng thủ tục và diễn ra suôn sẻ. Vai
trò của Viện kiểm sát đang ngày càng được quan tâm nhiều hơn, được thể hiện
rõ ràng ở các văn bản luật và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Đặc biệt
là Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Luật này đã kế thừa những quy định cơ
bản nhất về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành
chính của Luật Tố tụng hành chính năm 2010; đồng thời, sửa đổi, bổ sung thêm
nhiều quy định mới phù hợp với hoàn cảnh và tình hình hiện nay. Người viết
nhận thấy và đồng ý với quan điểm đây là những sửa đổi, bổ sung quan trọng
giúp Viện kiểm sát thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong hoạt động tố tụng
hành chính được quy định tại Điều 22 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 “Viện
kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
59
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban tuyên truyền – Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình (2015),
Những điểm mới của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014,
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Thái Bình.
2. Báo VNExpress (2002), Cơ quan nào đảm nhiệm chức năng kiểm sát
chung của VKS?.
https://vnexpress.net/phap-luat/co-quan-nao-se-dam-nhan-chuc-nang-
kiem-sat-chung-1985915.html
3. Lê Thị Bắc (2015), Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp
Việt Nam từ 1959 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà
Nẵng
http://vksdanang.gov.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=print/55-
nam-thanh-lap-nganh-KSND/Vien-kiem-sat-nhan-dan-qua-cac-ban-Hien-phap-
Viet-Nam-tu-1959-den-nay-4581
4. Nguyễn Hòa Bình (2013), Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của
ngành kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới, Tạp chí Cộng sản
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=20
677&print=true
5. Bộ chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
6. Nguyễn Ngọc Điệp (2016), Bình luận khoa học Luật Tố tụng hành
chính năm 2015, Nhà xuất bản lao động, TP. Hồ Chí Minh.
7. Lê Ngọc Duy, Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của
quản lý hành chính trong cơ quan Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng
60
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
yêu cầu cải cách tư pháp, Khoa Nhà nước và pháp luật, Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội, Hà Nội.
http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/120/137
8. Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Nxb. ĐHQGHN, 2005.
9. Nguyễn Minh Đức, Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo
tinh thần cải cách tư pháp, Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, Hà Nội.
http://tks.edu.vn/WebThongTinKhoaHoc/Detail/685?idMenu=119
10. Trần Ngọc Đường (2013), Viện kiểm sát nhân dân trong cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước nhân sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Báo Điện
tử Đại biểu nhân dân.
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=69&ItemId=278381&Group
Id=2258
11. Phùng Thanh Hà (2014), Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật (Đại học Quốc gia Hà Nội), Hà Nội.
12. Nguyễn Ngọc Khánh, Về một số điều của Luật Tổ chức viện Kiểm sát
và thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử các vụ án hành chính,
kinh tế và lao động, Tạp chí Kiểm sát, số 3/2002, tr. 26.
13. Trương Đắc Linh, Một số ý kiến về đổi mới tổ chức Viện kiểm sát
trong chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
http://vksndtc.gov.vn/khac-123
14. Lại Thị Loan, Quá trình hình thành và phát triển của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao qua các thời kỳ, Trường Đại học
kiểm sát Hà Nội, Hà Nội.
61
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/236
15. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hoàn cảnh ra đời và nội dung Hiến pháp
1992.
http://mattran.org.vn/Home/DatnuocVN/VietNam/CHXHCNVN1-2.htm
16. Nghĩa Nhân, Tranh luận về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng
hành chính, dân sự,
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_
Detail.aspx?ItemID=2414
17. Lê Ngọc Phước (2017), Một số giải pháp nhằm nâng cao vị trí, vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống chính trị nói chung và hệ
thống các cơ quan tư pháp nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia
Lai.
http://vksnd.gialai.gov.vn/index.php/news/Sang-kien-nganh-KSND-tinh-
Gia-Lai/Mot-so-giai-phap-nham-nang-cao-vi-tri-vai-tro-cu-a-Vie-n-kie-m-sa-t-
nhan-dan-trong-he-tho-ng-chi-nh-tri-noi-chung-va-he-tho-ng-ca-c-co-quan-tu-
pha-p-noi-rieng-646/
18. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
19. Quốc hội (2010), Bộ luật Tố tụng hành chính.
20. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính 2015.
21. Quốc hội (1960), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
22. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
23. Quốc hội (2006), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
(sửa đổi, bổ sung).
62
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
24. Lê Việt Sơn – Đoàn Thị Viễn Hà (2017), Vai trò của VKSND trong
Tố tụng hành chính theo luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tạp chí
Kiểm sát số 5/2016.
25. Trần Đình Sơn (2013), Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992:
Nên giao lại cho Viện Kiểm sát chức năng kiểm sát chung, Báo
Daklak.
http://baodaklak.vn/channel/3482/201305/gop-y-du-thao-sua-doi-hien-
phap-nam-1992-nen-giao-lai-cho-vien-kiem-sat-chuc-nang-kiem-sat-chung-
2238238/ .
26. Tia Sáng (2013), Quyền kiểm sát chung Chính phủ, nên giao lại cho
Viện Kiểm sát?
http://tiasang.com.vn/-dien-dan/quyen-kiem-sat-chung-chinh-phu-nen-
giao-lai-cho-vien-kiem-sat-6035
27. Văn Tình, Những nội dung mới của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân (sửa đổi).
http://duthaoonline.quochoi.vn/DuThao/Lists/TT_TINLAPPHAP/View_
Detail.aspx?ItemID=2223
28. Phạm Hồng Thái – Nguyễn Hoàng Anh (2012), Giáo trình Luật Tố
tụng hành chính Việt Nam, ĐHQGHN, Hà Nội.
29. Trần Đại Thắng, Lịch sử hình thành và phát triển của Viện công tố -
Tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân, giai đoạn 1945-1950, Tạp chí
kiểm sát in số 01/2005.
30. Nguyễn Thị Thủy, Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư
pháp, Thông tin khoa học – Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Hà Nội.
http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/87
63
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang
31. Mai Văn Thùy (2011), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật (Đại học
Quốc gia Hà Nội), Hà Nội.
32. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Những nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
http://tks.edu.vn/WebKiemSatVienCanBiet/Detail/22?idMenu=84
33. Đào Trí Úc (2011), Về viện kiểm sát ở Việt Nam, Trang web Người
bảo vệ quyền lợi, TP. Hồ Chí Minh.
34. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
35. Trần Thế Vượng, Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát.
36. André LEGRAND, Gérard MARCOU et Bertil WENNERGREN,
«Ombudsmans et prokuratures», in Le contrôle de l’administration en
Europe de l’Est et de l’Ouest, Institut de recherches juridiques
comparatives, Edition du CNRS, 1985, p.99.
64