KIỂM SOÁT CHUYỂN GIÁ CỦA DOANH NGHIỆP FDI Ở VIỆT NAM
Trần Thị Thanh Hà*
1 – Lâm Thị Thanh Huyền**
TÓM TT: Sau hơn 30 năm mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Việt Nam đã trở thành điểm
sáng trên bản đồ đầu tư thế giới với ngày càng nhiều các công ty đa quốc gia (viết tắt là MNC - Multinational
Coporation) đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực cho nền kinh tế,
các MNC cũng đã và đang bộc lộ những vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn thu của ngân sách, đến
môi trường cạnh tranh, đó là hiện tượng chuyển giá, trốn thuế, tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi thật, gây thất
thu ngân sách, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp trong nước, tác động không
tốt đến môi trường thu hút đầu tư. Thực trạng này đòi hỏi cần phải có những giải pháp phù hợp để kiểm
soát chuyển giá và chuyển lợi nhuận, ngăn ngừa trốn lậu thuế của các công ty này trong điều kiện hội nhập.
Từ khóa: Kiểm soát; chuyển giá, doanh nghiệp FDI, Việt Nam
ABSTRACT: After over 30 years opening to attract forgrein direct investment ( FDI), Vietnam has become
a bright spot on the war investment map with more and more multinational corporations (for short MNC)
strongly invest in Vietnam. However, beside from all the positive contributions to the economy, MNCs have
been also exposing problems that have negative impact on these revenue of the budget, to the competitive
environment, it’s price transfer phenomenon, taxes evasion creation fake losses and real interest status,
cause loss budget and establish unfair competition with the domestic enterprises, have a bad effect on the
investment attracting environment. This circumstance demands suitable solutions to control price transfer
and profits tranfer, to prevent tax evasion of these companies in the context of integration.
Keywords: control, price transfer, FDI enterprises, international business
1. KHÁI NIỆM ĐẶC ĐIỂM CỦA HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ
Theo Tổng cục Thuế, Tạp chí Thuế nhà nước (2018), thì “chuyển giá là thuật ngữ để chỉ các MNC lợi
dụng giá cao hơn hay thấp hơn nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình, không tính đến quyền lợi của các
nước”. Một số tài liệu khác thì đưa ra khái niệm: chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối
với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong MNC qua biên giới không theo
giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các MNC trên toàn cầu. Hay, chuyển giá là hành vi mang tính
phổ biến toàn cầu, khi các MNC tiến hành đầu tư vào một quốc gia khác, bằng các “thủ thuật” tác động vào
giá cả, “né” chính sách thuế nhằm thu lợi nhuận cao nhất…
Từ một số cách tiếp cận về khái niệm chuyển giá, theo tác giả, thể thấy một số đặc điểm tiêu biểu
trong hành vi chuyển giá như sau:
(i) Chuyển giá vừa một phương pháp để tránh thuế thu nhập doanh nghiệp hợp pháp, đồng thời
thể được sử dụng như thủ đoạn để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, lợi dụng quyền tự định đoạt
* Học viện Tài chính, 58 Lê Văn Hiến, Hà Nội, Việt Nam.
** Học viện Tài chính, 58 Lê Văn Hiến, Hà Nội, Việt Nam
830 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION
giá mua, giá bán, đã xuất hiện hiện tượng chuyển giá để mua lỗ của các công ty không có quan hệ liên kết
nhằm làm giảm số thuế phải nộp, hoặc chuyển giá để tạo lãi giả trên thị trường chứng khoán. Các nhóm lợi
ích này sử dụng chuyển giá như một thủ thuật để gia tăng lợi ích nhóm, không tạo ra giá trị mới cho xã hội.
(ii) Hành vi chuyển giá được thực hiện trong nội bộ MNC. Vì các MNC có sự liên kết chặt chẽ, thống
nhất trong cơ cấu tổ chức, điều hành sản xuất kinh doanh nên việc chuyển giá diễn ra rất dễ dàng. Hoạt động
của các MNC có sự chuyên môn hóa cao trong các khâu sản xuất nên các giao dịch giữa các công ty con
của MNC hay công ty con với công ty mẹ trong MNC xảy ra thường xuyên với các mức giá khác nhau rất
khó kiểm soát pháp luật quốc gia từng nước không thể điều chỉnh, nên việc chuyển giá không thuận
lợi hơn là thực hiện trong nội bộ MNC.
(iii) Đối tượng hướng đến của hành vi chuyển giá chính giá cả. Việc mua bán với ai giá cả của sản
phẩm như thế nào là do các công ty tự quyết định. Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh tự do định đoạt nên
các MNC thể bán sản phẩm với các mức giá cao hơn hoặc thấp hơn giá thị trường, việc so sánh, định giá
để phát hiện và chứng minh hành vi chuyển giá của MNC là rất khó khăn cho các nước tiếp nhận đầu tư.
(iv) Chuyển giá là một chiến lược kinh tế của MNCs nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận sau thuế. Mặc
dù giá bán của sản phẩm, dịch vụ khác nhau giữa các công ty tại mỗi quốc gia cụ thể, nhưng MNC là một thể
thống nhất về tổ chức với chiến lược kinh doanh chung. Tổng lợi nhuận họ thu về không đổi, nhưng sẽ làm
tổng số thuế phải nộp thay đổi. Các MNC sẽ chuyển lợi nhuận từ nước đánh thuế thu nhập doanh nghiệp cao
sang nước đánh thuế thu nhập doanh nghiệp thấp, khiến các quốc gia tiếp nhận đầu tư chỉ thu được một phần
thuế hoặc không thu về được đồng thuế nào, thậm chí các doanh nghiệp FDI còn được lỗ cho năm sau.
Bằng cách này, các MNC sẽ tránh được một khoản thuế lớn mà lẽ ra họ phải nộp vào ngân sách nước chủ nhà,
tiết kiệm được hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm, mà không cần phải thêm vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh.
2. CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI THUẾ ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP FDI Ở VIỆT NAM
Hiện nay, để thu hút FDI, nước ta đã ban hành nhiều chính sách phù hợp với từng giai đoạn nhằm điều
chỉnh các hoạt động đầu nước ngoài, gần đây nhất Luật Đầu năm 2014 được đánh giá là khá hoàn
thiện, đặc biệt là những lĩnh vực ngành nghề ưu đãi đầu tư, điều kiện nguyên tắc ưu đãi theo hướng có chọn
lọc, tập trung vào các ngành sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại các dự án sản xuất quy lớn, các
dự án đầu tại khu vực nông thôn có sử dụng nhiều lao động, các sản phẩm công nghệ hỗ trợ, các dự án
sử dụng phương thức xã hội hóa...
Đặc biệt, trong những năm gần đây, với sự nỗ lực trong công tác quản lý thuế, quản lý các giao dịch
liên kết của Chính phủ Việt Nam, nhiều chính sách mới đã được ban hành những tác động tích cực
nhất định đến hoạt động đầu của nhiều doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Điển hình thể kể đến Nghị
định số 20/2017/NĐ-CP, ngày 24/02/2017 quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên
kết. Riêng về chính sách thuế hiện nay đang áp dụng 30 lĩnh vực khuyến khích đầu 37 lĩnh vực đặc
biệt ưu đãi đầu tư...Nhìn chung, các chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam khá thuận
lợi cho các doanh nghiệp với mặt bằng thuế suất khá thấp so với các quốc gia khác.
Cải cách thuế giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam đã được những kết quả như: chính sách thuế
không có sự phân biệt, đối xử giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp
FDI, bình đẳng về nghĩa vụ thuế cho tất cả các nhà đầu tư; tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng
một bước tiến quan trọng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài [5]. Tuy nhiên, các chính
sách ưu đãi thuế đang nghiêng theo hướng ưu đãi địa bàn hơn là theo lĩnh vực. Các ngành dịch vụ có giá trị
gia tăng cao chưa có cơ chế ưu đãi hợp lý. Trên thực tế, thời gian hoàn thành thủ tục đầu tư kéo dài hơn rất
nhiều so với quy định, đặc biệt tại khâu xin giấy phép (thời gian có thể kéo dài đến 2-3 tháng); chưa có sự
831
PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION
đồng nhất, phối hợp giữa các cơ quan, dẫn đến chồng chéo trong thủ tục. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp
nước ngoài đang gặp khó trong việc tiếp cận các thông tin giới thiệu đầu tư, hướng dẫn các thủ tục về đăng
ký dự án và thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam.
Ngoài ra, chính sách thuế đã rất mở, ưu đãi đầu tư tập trung vào các chính sách thuế, các ngành nghề
trên địa bàn, các thủ tục cấp phép đầu thuận lợi những quan tâm hàng đầu của các nhà đầu nước
ngoài khi thực hiện hoạt động đầu trực tiếp tại Việt Nam, nhưng đồng thời doanh nghiệp lại có “kẽ hở” để
chuyển giá. Một số quy định nhằm kiểm soát vấn đề này đã được triển khai. Tuy nhiên, theo nhìn nhận của
nhà đầu tư thì vô hình chung các quy định lại làm khó doanh nghiệp. Chẳng hạn, có một số điểm khác biệt
trong quy định ở Việt Nam dường như nghiêm ngặt hơn, ví dụ như khống chế chi phí lãi vay được trừ. Bên
cạnh đó hiện tượng áp dụng cứng nhắc, không thống nhất các địa phương đang làm nản lòng nhà đầu tư.
3. THỰC TRẠNG CHUYỂN GIÁ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP FDI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Theo Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính), từ năm 2012 đến năm 2016, quy mô hoạt động sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp FDI ở Việt Nam luôn duy trì tăng trưởng ở mức cao (Bảng 1).
Bảng 1. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp FDI các năm 2012-2016 (Đơn vị: %)
Chỉ tiêu 2012/2011 2013/2012 2014/2013 2015/2014 2016/2015
Tăng trưởng doanh thu 30 26 15 21,2 21,7
Tăng trưởng tài sản 21 21 17 20,9 18,6
Tăng trưởng vốn đầu tư
của chủ sở hữu 33 22 9 17,2 15,5
Nguồn: Cục Tài chính doanh nghiệp (2018)
Bên cạnh đó, khả năng sinh lời của doanh nghiệp này cũng rất khả quan. Theo đó, tỷ suất lợi nhuận
trước thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) năm 2016 đạt mức cao là 16,3%, cao hơn mức 13,82% của năm
2015. Bên cạnh đó, tỷ suất lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA) của doanh nghiệp FDI năm 2016 là 5,82%,
tăng so với mức 4,79% của năm 2015 (Bảng 2).
Bảng 2. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp FDI các năm 2012-2016 (Đơn vị: %)
Chỉ tiêu 2012 2013 2014 2015 2016
ROE trước thuế 9,8 14,4 14,6 13,8 16,3
ROA sau thuế 3,6 5,7 5,48 4,8 5,8
Nguồn: Cục Tài chính doanh nghiệp (2018)
Tuy nhiên, tỷ lệ doanh nghiệp FDI lỗ lũy kế đến hết năm 2016 61%, cao hơn các năm từ 2012-2015
(Bảng 3).
Bảng 3. Doanh nghiệp FDI báo lỗ lũy kế các năm 2012-2016 (Đơn vị: %)
Chỉ tiêu 2012 2013 2014 2015 2016
Tỷ lệ doanh nghiệp báo lỗ năm báo cáo 48 45 44 51 50
Tỷ lệ doanh nghiệp lỗ lũy kế 59 51 52 59 61
Tỷ lệ doanh nghiệp lỗ mất vốn 15 14 14 17 16
Nguồn: Cục Tài chính doanh nghiệp (2018)
832 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION
Bảng 3 cho thấy, số lượng doanh nghiệp FDI báo lỗ hàng năm là từ 44% đến 51% (đặc biệt năm 2015
51% và năm 2016 là 50% trên số lượng doanh nghiệp có báo cáo). Đồng thời, tốc độ tăng của quy mô đầu tư
hoạt động của các doanh nghiệp báo lỗ và doanh nghiệp lỗ lũy kế cao hơn tốc độ tăng về số lượng doanh nghiệp
báo lỗ và doanh nghiệp lỗ lũy kế cho thấy, tình trạng chuyển giá của khu vực FDI ngày càng gia tăng, phức tạp.
Bên cạnh hiện tượng chuyển giá từ Việt Nam ra nước ngoài của nhóm doanh nghiệp FDI, còn xuất
hiện hiện tượng chuyển giá, chuyển lợi nhuận ngược (từ nước ngoài vào Việt Nam) của một bộ phận doanh
nghiệp FDI trong nước được hưởng ưu đãi lớn về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và thời gian miễn,
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều này thể hiện qua số liệu về tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn
chủ sở hữu (ROE) bình quân của doanh nghiệp FDI trong một số ngành qua các năm luôn duy trì ở mức rất
cao, như: “Linh kiện điện tử, máy vi tính, thiết bị ngoại vi”, “Viễn thông, phần mềm” (ROE trước thuế trên
30%)... (Cục Tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính, 2018).
Giao dịch liên kết một phần của thương mại toàn cầu. Từ năm 2016, quan chức năng áp dụng
biện pháp quản lý rủi ro, việc thanh tra chống chuyển giá được tăng cường đẩy mạnh. Năm 2016, sau khi
thanh tra 329 doanh nghiệp giao dịch liên kết, quan chức năng truy thu 607 tỷ đồng giảm lỗ hơn
5.000 tỷ đồng. Năm 2017, cơ quan chức năng thanh tra chống chuyển giá đã tiến hành thanh tra 734 doanh
nghiệp có hoạt động giao dịch liên kết. Cơ quan chức năng truy thu, truy hoàn và phạt 2.270 tỷ đồng, giảm
lỗ của doanh nghiệp hơn 7.100 tỷ đồng [5].
Từ những đặc điểm và thực trạng trên, theo tác giả, biểu hiện chuyển giá phổ biến Việt Nam của các
MNC trong những năm qua đó là:
Thứ nhất, chuyển giá thông qua góp vốn đầu tư. Việt Nam, lợi dụng sự yếu kém về trình độ và khâu
quản lý, các MNC thường góp vốn bằng máy móc thiết bị hiện đại, trong khi các chuyên gia của Việt
Nam chưa đủ trình độ để thẩm định giá, nên giá của các loại máy móc, thiết bị được đem vào góp vốn sẽ
được các công ty của MNC định giá cao hơn so với giá thị trường. Do giá trị máy móc và thiết bị cao, nên
mức độ khấu hao tài sản hữu hình cũng tăng lên tương ứng làm giảm mức lợi nhuận thu về, trong khi doanh
nghiệp phải chi một khoản không nhỏ cho việc quảng cáo sản phẩm làm cho doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ kéo
dài. Điều này dẫn đến việc bên liên kết sẽ không đủ tiềm lực để duy trì việc kinh doanh buộc phải bán
lại phần vốn góp cho doanh nghiệp của MNC. Với tiềm lực tài chính dồi dào của MNCs, hàng loạt công
ty liên doanh của Việt Nam đã phải mất hết vốn, công ty liên kết trở thành công ty 100% vốn nước ngoài.
Thứ hai, chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ. Hiện tượng phổ biến trong các hợp đồng
chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp FDI giá cả cao hơn nhiều so với mua công nghệ của các
nước phát triển. MNC rất hạn chế chuyển giao những công nghệ mới, tính cạnh tranh cao cho các chi
nhánh của họ ở nước ngoài vì sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt chước, cải biến công
nghệ của các doanh nghiệp trong nước. Khi chuyển giao công nghệ, các MNC sẽ được thu phí bản quyền.
Đây một loại phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản cố định hình, nên mặc việc kinh
doanh thường xuyên thua lỗ, bên liên kết chịu thiệt hại nặng nề về kinh tế, nhưng doanh nghiệp của MNC
vẫn nhận đủ tiền từ bản quyền chuyển giao công nghệ và chi phí bản quyền thì ngày càng tăng cao.
Thứ ba, chuyển giá thông qua việc nâng giá đầu vào nguyên vật liệu, hàng hóa mua từ công ty mẹ
chính quốc. Cụ thể: Với nhóm doanh nghiệp FDI sản xuất hàng hóa tiêu thụ nội địa, hàng hóa tiêu thụ trong
nước rất khó tùy tiện tăng giá so với mặt bằng chung nên họ phải tìm mọi cách để nâng chi phí đầu vào sản
xuất. Lỗ hổng để nâng giá dễ nhất là điều chỉnh con số ở thiết bị vật tư, nguyên liệu, định mức tiêu hao vật
trên một đơn vi sản phẩm, chi phí phân bổ từ công ty mẹ ở nước ngoài. Theo đó, chi phí tăng sẽ kéo giảm
lợi nhuận, doanh nghiệp giảm hoặc không lãi, thậm chí lỗ sẽ giảm trốn được trách nhiệm nộp thuế
thu nhập doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp của MNC đều thực hiện chiêu thức này. Điển hình như
tại Công ty Coca Cola Việt Nam. Theo Cục thuế TP.Hồ Chí Minh,Coca Cola Việt Nam luôn khai lỗ
833
PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION
chi phí nguyên phụ liệu, trong đó chủ yếu là hương liệu được nhập trực tiếp từ Công ty mẹ với giá rất cao,
chiếm trên 70% giá vốn, biệt năm 2006-2007, chi phí nguyên phụ liệu lên đến 80%-85% giá vốn. Với
Coca-Cola từ khi bắt đầu hoạt động ở Việt Nam năm 1992, Công ty này liên tục báo lỗ cho đến cuối năm
2012. Việc thua lỗ của Coca-Cola Việt Nam không phải do tăng trưởng doanh số yếu, thực tế sản lượng của
công ty vẫn tăng trưởng trên 25% mỗi năm [6].
Đến thời điểm tháng 12/2012, tổng số lỗ lũy kế của Coca-Cola Việt Nam lên đến 3.768 tỉ đồng, vượt
quá số vốn đầu tư ban đầu 2.950 tỷ đồng. Như vậy, về mặt kỹ thuật, lẽ ra Coca-Cola Việt Nam đã phải phá
sản. Tuy nhiên, thay vì đóng cửa hay thu hẹp quy mô hoạt động, năm 2014 Coca-Cola tiếp tục đầu tư thêm
210 triệu USD để mở rộng kinh doanh Việt Nam. Sau nhiều nỗ lực đấu tranh của phía Việt Nam, đến năm
2013 Coca-Cola Việt Nam đã bắt đầu báo lãi và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Chính phủ Việt Nam.
Thứ tư, chuyển giá thông qua việc hạ giá thành, tăng cường quảng cáo, khuyến mại sản phẩm. Cụ thể:
nhóm doanh nghiệp FDI làm hàng xuất khẩu dùng “kỹ thuật” ép giá bán sản phẩm xuống tối thiểu. Ví dụ,
chi phí làm ra một đôi giày xuất khẩu là 10 USD, thị trường châu Âu chấp nhận mua vào với giá 12 USD,
lợi nhuận tạm tính mỗi đôi giày 2 USD phần thu nhập chịu thuế. Thế nhưng, doanh nghiệp lại “biến
hóa” để giá xuất khẩu thấp hơn để giảm thuế. Liên quan đến thuế xuất nhập khẩu, doanh nghiệp FDI đã
trốn thuế bằng cách hàng sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu lòng vòng qua một nước trung gian có thuế suất
thấp, thông qua một nhà thương mại để đưa hàng vào châu Âu… Mục tiêu của hành vi này là nhằm chiếm
lĩnh thị trường trong nước, đè bẹp các đối thủ cạnh tranh khác cùng kinh doanh các loại sản phẩm tương tự.
Đồng thời, gây lỗ nghiêm trọng cho bên liên doanh buộc họ lâm vào tình trạng phá sản và buộc bán lại cổ
phần cho doanh nghiệp của MNC. Trong khi doanh nghiệp MNC chỉ lỗ ảo, do họ không phải nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp, tổng lợi nhuận trong tập đoàn thu về không đổi với tiềm lực tài chính vững mạnh
của mình, sau khi thôn tính đối thủ, họ sẽ có chiến lược kinh doanh mới để bù lỗ.
Thứ năm, chuyển giá thông qua kẽ hở về ưu đãi thuế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi
chuyển giá là có sự chênh lệch thuế do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác, như: miễn, giảm thuế
tiền đề để các doanh nghiệp FDI thực hiện hành vi chuyển giá. Tại Việt Nam, địa phương nào cũng muốn
cấp phép ưu đãi, còn ở cấp độ Nhà nước, thì việc quản lý thuế bị buông lỏng, thiếu giám sát. Sự chênh lệch
về thuế suất giữa các quốc gia, giữa những đối tượng khác nhau trong một quốc gia, những quy định về
mức thuế suất ưu đãi, miễn giảm thuế... đã tạo động cơ tránh thuế, không chỉ với doanh nghiệp FDI mà cả
các doanh nghiệp đầu tư trong nước.
Trong khi chính sách thuế đã rất mở, ưu đãi đầu tư tập trung vào các chính sách thuế, các ngành nghề,
địa bàn, các thủ tục cấp phép đầu tư thuận lợi những quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư nước ngoài khi
thực hiện hoạt động đầu trực tiếp tại Việt Nam, nhưng đồng thời đây cũng lại là “kẽ hở” để doanh nghiệp
thực hiện hành vi chuyển giá.
Thứ sáu, chuyển giá thông qua cung cấp dịch vụ. Việc cung cấp dịch vụ giữa công ty mẹ với các công
ty trong nội bộ tập đoàn và giữa các công ty trong nội bộ tập đoàn với nhau thường rất khó định giá và khó
xác định có thực sự phát sinh hay không. Lợi dụng đặc tính này, trong những năm qua, một số tập đoàn đa
quốc gia đầu vốn vào Việt Nam thực hiện hành vi cung cấp các dịch vụ quản hỗ trợ quản cho
cả tập đoàn (dịch vụ kế toán, tài chính, vấn, quản tài sản…), tính giá dịch vụ mức cao để chuyển
lợi nhuận từ công ty con tại Việt Nam sang công ty mẹ ở nước ngoài nhằm tối thiểu hoá nghĩa vụ thuế của
công ty con tại Việt Nam.
Thứ bảy, chuyển giá thông qua chi trả lãi vay vốn sản xuất, kinh doanh. Một trong những hành vi tương đối
phổ biến của các doanh nghiệp FDI nhằm tránh nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời gian
qua là thực hiện chuyển giá thông qua hình thức vay vốn từ bên liên kết ở nước ngoài và trả lãi suất vay vốn với
mức rất cao. Với phương thức này, lợi nhuận từ doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đã được chuyển sang cho bên