
Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa Tư Bản
Harry M. Cleaver, Jr.
Dịch Viên: Nhân Thụy
Godwin chống lại vấn đề Việc Làm
Trước khi tiếp tục đến với những nhà kinh tế cổ điển vĩ đại tiếp theo, chúng ta nên chú ý rằng
trong khi Smith dường như có thể chấp nhận quan điểm rằng hầu hết những người công nhân bị
trả lương thấp, giờ làm việc quá nhiều, thì những nhà kinh tế học khác thì không. Bởi vì ông ta
thấy rõ ràng giai cấp công nhân phản đối rất quyết liệt và những phản đối của họ cũng lặp lại và
trùng khớp với một số ít các nhà trí thức. Trong số đó đặt biệt nổi tiếng là tác giả William Godwin
(1756-1836). Godwin là một nhà phê bình xã hội quan trọng vào đầu thế kỷ 19. Ông kết hôn cùng
Mary Wollestonecraft - một trong những người ủng hộ mạnh mẽ cho quyền của người phụ nữ, và
con gái họ -- Mary, kết hôn với nhà thơ Shelly, sau này cô nổi tiếng với quyển tiểu thuyết
Frankenstein. Những bài viết về các vấn đề xã hội của Godwin được rất nhiều người biết đến và
ông được biết đến như một nhà phê bình chủ nghĩa tư bản có nhiều ảnh hưởng.
Một trong những bài phân tích quan trọng của Godwin là Phóng Sự Điều Tra Về Sự Công Bình
Chính Trị được in năm 1793. Trong đó, ông chỉ trích những nhà tư bản đã khiến cho đời sống của
hầu hết mọi người phải lệ thuộc vào công việc, và cho rằng nếu như xã hội được tổ chức tốt hơn
thì mọi người có thể sống tốt hơn, khoẻ mạnh hơn, giàu có hơn với công việc làm ít giờ hơn.
Trong chương 2 tập 8 của quyển Phóng Sự Điều Tra, Godwin viết rằng:
"Mong mỏi của hầu hết mọi người trong xã hội là số lượng lao động tay chân và trong ngành công
nghiệp đang được sử dụng - và đặc biệt một phần trong số đó không bị ảnh hưởng bởi sự lựa
chọn của riêng ta nhưng phụ thuộc vào những điều cần thiết đối với công việc của anh ta - nên
giảm ngay ở mức độ có thể"

Ông cho rằng, sự giảm thiểu như vậy là hoàn toàn có thể chặn bước phát triển của chế độ chủ
nghĩa tư bản hiện hành. Sau khi đưa ra nhiều giải pháp mà trong đó có bàn đến lao động hiện tại
là quá thừa thải, trong chương 6 Godwin quả quyết rằng:
"Từ phát thảo cho sẳn, ta thấy dường như giờ lao động của mỗi 20 người trong một cộng đồng có
thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu cuộc sống cho số người còn lại. Nếu số lao động này chia nhỏ ra, thì
nó có thể chiếm một phần hai mươi số thời gian của mỗi người. Hãy tính thử ngành công nghiệp
mà trong đó một người lao động có được 10 tiếng một ngày rồi phải trừ đi thời gian họ nghĩ ngơi,
ăn cơm, thì mỗi người trong xã hội chỉ cần thuê lao động tay chân trong nửa giờ đồng hồ là có thể
đáp ứng đủ nhu cầu của toàn xã hội. Có ai sẽ chịu lùi bước trong ngành nghề? Có ai thấy được
ngành công nghiệp đang hoạt động liên tục trong thành phố, và ai sẽ tin rằng trong ngành công
nghiệp mà mỗi công nhân chỉ làm có nửa tiếng một ngày thì niềm vui mang đến cho mọi người có
thể nhiều hơn hiện tại hay không? Liệu có thể nào chờ được một bức tranh về sự tự do và ưu việt
phong phú và đầy màu sắc này hay không, một bức tranh mà trong đó mỗi người sẽ có thể tự do
phát huy năng lực của mình mà không cảm thấy chính tâm hồn mình trẻ trung ra bởi sự hâm mộ
và hy vọng một điều gì đó?"
Linh Mục Thomas Malthus
Linh Mục Thomas Robert Malthus (1766-1834) là con của một vị tu sĩ người Anh thuộc tầng lớp
thượng lưu và là nhà kinh tế học đầu tiên của học viện, đang giảng dạy tại trường Đại Học Đông
Ấn - trực thuộc công ty Đông Ấn, chuyên đào tạo các viên chức cho công ty này. Không còn nghi
ngờ gì nủa, Malthus đã quá nổi tiếng với tác phẩm Luận Về Quy Luật Dân Số của ông, trong đó
ông đưa ra những lập luận chống lại những nỗ lực để cải biến số phận của người nghèo (dù cho là
có hưởng lương hay không) bằng cách tăng thu nhập và ông cũng chống lại những quan điểm
(như quan điểm của Godwin - xem phần trên) cho rằng có thể giảm thiểu thời gian làm việc cho
người công nhân. Chúng ta sẽ xem xét đến những lập luận của ông ta lần lượt theo hai điểm như
vậy.
Trong quyển Luận của mình, Malthus đưa ra nhiều lập luận với những vấn đề tổng quát, ông cho
rằng khuynh hướng sinh sản của con người tỷ lệ thuận với thu nhập mà họ làm ra và chỉ có thể

hạn chế khuynh hướng này khi giảm thu nhập. Hơn nửa ông cho rằng với cách tính toán như hiện
nay thì khả năng phát triển nguồn lương thực sẽ có thể hoàn toàn kiểm soát sự phát triển của dân
và tránh nạn đói xảy ra, trừ phi có chiến tranh hay dịch bệnh. Trong chương mở đầu của cuốn
Luận, ông viết:
"Giả sử như quan điểm của tôi được thừa nhận, tôi cho rằng con người hoàn toàn có khả năng tạo
ra lương thực đủ sống cho họ hơn là do trái đất cung cấp. Khi không được kiểm soát thì dân số sẽ
gia tăng theo cấp số nhân. Còn lương thực đủ để cung cấp cho họ thì lại gia tăng theo cấp số
cộng. Với sự hiểu biết ít ỏi về những con số này chỉ thấy được khả năng rộng lớn của trái đất mà
thôi khi so sánh hai nguồn cung cấp thực phẩm với nhau. Theo quy luật tự nhiên mà cho rằng tạo
hoá có thể cung cấp đủ lượng lương thực cho con người, thì những hệ quả do hai nguồn lực không
cân này mang lại phải được hiệu chỉnh cho bằng nhau. Điều này cũng có nghĩa là phải kiểm soát
dân số một cách liên tục và chặc chẽ khi đối mặt với vấn đề khó khăn về nguồn sống. Ở đâu đó
phải khắc phục vấn đề này và phần lớn nhân loại phải nhận thức được vấn đề này."
Lập luậm này có hai điểm chính quan trọng: thứ nhất và cũng là tổng quát nhất, là cung cấp cho
các nhà tư bản một thứ vũ khí mang tính trí tuệ có thể chống lại những nổ lực của người công
nhân đòi tăng lương dưới bất kỳ hình thức nào; thứ hai và chi tiết hơn, là việc vận dụng những lý lẽ
của Malthus trong việc công kích Luật Tế Bần của nước Anh mà bộ luật này có hại hơn là có lợi.
Thật vậy, những lập luận của Malthus qua nhiều năm số người biết đến nó cũng giảm hẳn và khi
đọc kỹ lại sẽ phát hiện ra những lập luận gần đây chống lại việc trợ cấp xã hội vào cuối thế kỷ 20
cũng đã được thay đổi từ những gì đã được đặt ra từ 200 trước.
Malthus công kích Luật Tế Bần
Một mặt Malthus cho rằng bỏ tiền ra nuôi những người nghèo không có lương cũng chỉ làm họ có
điều kiện để kết hôn nhiều thêm mà thôi, sinh con đẻ cái nhanh hơn, làm việc ít hơn và trở thành
gánh nặng cho xã hội. Mặt khác, cũng vấn đề đó ông cho rằng chính những người nghèo có
lương phải gánh vác cái gánh nặng ấy - phần còn lại của tầng lớp lao động. Trong chương 5 của
quyển Luận, ông viết:

"Luật Tế Bần của nước Anh có khuynh hướng làm suy giảm những điều kiện sống nói chung của
người nghèo theo hai cách. Đầu tiên rõ ràng là làm gia tăng dân số mà không gia tăng nguồn
thực phẩm gì thêm.
Người nghèo có thể lập gia đình nhưng có thể tự nuôi gia đình hoặc hoàn toàn không. Do vậy
trong một phạm vi nào đó người ta cho rằng họ lại tiếp tục duy trì cái nghèo, và, trong trường hợp
dân số gia tăng, do số lượng thực phẩm của quốc gia đó cung cấp cho người nghèo phải giảm đi,
cho nên rõ ràng những người lao động không được trợ cấp chỉ sẽ mua được một phần thực phẩm
nhỏ hơn trước và kết quả là họ phải chạy vạy khắp nơi xin trợ cấp.
Thư hai, số lượng thực phẩm cung cấp cho nhà tế bần lệ thuộc vào một phần của xã hội mà phần
đó nhìn chung không được xem xét quan tâm đến như phần mang giá trị nhiều nhất làm giảm đi
phần của những thành viên chăm chỉ và xứng đáng khác, và với phương thức như vậy làm chúng
trở nên phụ thuộc hơn. Nếu muốn người nghèo trong nhà tế bần có một cuộc sống tốt hơn, thì
bằng cách tăng giá trị cung cấp lương thực thì việc phân phối lượng với số tiền trợ cấp xã hội có
khuynh hướng hạn chế điều kiện sống của những người không sống trong nhà tế bần."
Nói tóm lại, ông ấy cho rằng giúp đỡ những người nghèo chỉ thêm phí thời gian; nó cũng chỉ làm
cho toàn thể tầng lớp lao động trở nên lười biếng thêm. Hãy so sánh điều này với những ý kiến
gần đầy chống lại vấn đề trợ cấp xã hội cũng như so sánh những người công nhân phải trả thuế
thu nhập với những người được hưởng trợ cấp. (Hoặc giả như trong trường hợp giữa những người
phải trả thuế an ninh xã hội với những người được hưởng từ số tiền đó).
Malthus cũng nói thêm rằng tốc độ sản xuất hàng hoá không theo kịp tốc độ phát triển dân số --
điều này cũng đã được David Ricardo và những người khác tiếp thu, và ông đưa ra lý lẽ này dựa
trên sự nhận thức của ông về sự gia giảm lợi nhuận biên do việc cày cấy trồng trọt trong những
mảnh đất màu mở đã bị chuyển sang những mảnh đất kém màu mở hơn trong nhiều nước giống
như Anh. Một trong những gì mà lập luận của Malthus không đề cập đến - và sau này cũng xãy ra
tương tự với Ricardo, là năng xuất nông nghiệp gia tăng một cách đáng kể trên những mảnh đất
như thế, và gia tăng đủ để nuôi sống cả phần dân số lớn hơn nhiều như họ nghĩ, và có thể cung

cấp tốt hơn thế nữa. ("Tốt hơn" ở đây bỏ qua vấn đề về chất lượng của các thực phẩm sản xuất
hàng loạt do những thương nhân nông phẩm đã thương mại hoá chúng).
Malthus chống đối lại Godwin và quan điểm về giảm giờ làm việc
Bất cứ ai chịu khó đọc kỹ cả quyển Luận của Malthus đều sẽ nhận ra rằng rất nhiều phần trong
quyển sách này chống lại những phê bình về tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là William Godwin. Lời lẽ
công kích chính của Malthus là về việc loại bỏ những quan điểm trọng tâm của Godwin về chế độ
tư bản và việc chống lại "quy luật tự nhiên" (Natural Law).
"Sai lầm lớn nhất của những nổ lực của ngài Godwin trong toàn bộ tác phẩm của ông ta chính là
quy kết tất cả những điều xấu xa tội lỗi trong cái xã hộ này cho chế độ xã hội. Các quy định về
chính trị và những quy định về quản lý tài sản đối với ông ta như một thứ nguồn gốc của tất cả
mọi tội lỗi, của cả một ổ những tội ác làm suy thoái con người. Nếu như trường hợp này là được
cho là đúng, thì nổ lực của ông ta dường như cũng chẳng phải là một việc vô vọng nhằm loại bỏ
những thứ xấu xa ra khỏi thế giới, và lý lẽ đó dường như là một công cụ hợp lý và thích đáng cho
một mục đích to lớn. Nhưng sự thật ở đây chính là, chế độ xã hội dường như là những nguyên
nhân gây ra những tội ác cho con người, tuy nhiên trong thực tế khi được so sánh với những
nguyên nhân bẩn thỉu sâu xa hơn thế thì chúng chỉ ở mức độ vừa phải và mang tính thiển cận và
mang vẽ bề ngoài mà thôi, đơn thuần như những cộng lông vũ nỗi trên mặt nước vậy, mà chính
những nguyên nhân sâu xa đó mới làm vẫn đục những dòng chảy và làm cho dòng chảy cuộc
sống con người trở nên hỗn độn."
Lưu ý: phê phán về chế độ tư bản sẽ được tiếp tục lặp lại từ những bài phê bình của những người
chống đối tư bản chủ nghĩa như Karl Marx đến những bài của những người đưa ra chủ trương cải
cách như những Nhà Lập Ra Thể Chế (xem phần sau).
Bắt đầu chương 10, Malthus đã công kích những yêu cầu của Godwin về sự công bằng xã hội và
Malthus dùng lý thuyết dân số của mình để tranh cải rằng không có chổ cho những âm mưu kế
hoạch tồn tại được.

