CHƯƠNG 3

LỢI ÍCH VÀ CHI PHÍ, CUNG VÀ CẦU

Trong chương này và chương kế tiếp chúng ta xem xét những công cụ kinh tế vi mô cơ bản sử dụng để phân tích các chính sách và các tác động môi trường. Điểm chính của phương pháp kinh tế đối với việc ra quyết định là đánh giá lợi ích và chi phí của các hoạt động. Các hoạt động kinh tế, bao gồm hoạt động môi trường, bao giờ cũng có hai mặt hay có sự đánh đổi: một mặt chúng tạo ra giá trị, còn mặt khác là tốn kém chi phí. Chúng ta phải đo lường các lợi ích và chi phí, sau đó đánh giá sự đánh đổi này cho mỗi hoạt động. Đầu tiên chúng ta xem xét vấn đề giá trị, sau đó là các khoản chi phí. GIÁ SẴN LÒNG TRẢ (WTP) Khái niệm cơ bản trong kinh tế học là các cá nhân có sự ưa thích về hàng hóa và dịch vụ; khi phải lựa chọn, họ có thể nói được là họ thích hàng hóa này hơn hàng hóa khác, hoặc thích một nhóm hàng hóa này hơn nhóm hàng hóa khác. Trong nền kinh tế hiện đại, có hàng nghìn dịch vụ và hàng hóa khác nhau, vì vậy trong các ví dụ ở chương này, chúng ta chỉ xem xét vào một hàng hóa duy nhất, đó là trái táo. Giá trị của hàng hóa này đối với một người là cái mà họ sẵn lòng trả và có thể từ bỏ để có nó. Từ bỏ cái gì? Nó có thể là bất cứ cái gì mà họ phải từ bỏ đi để lấy hàng hóa, nhưng chúng ta sẽ nói về sức mua là để dễ phân tích. Vì vậy, giá trị của một món hàng đối với một người nào đó chính là giá họ sẵn lòng trả cho món hàng ấy. Cái gì quyết định cho giá sẵn lòng trả của một người để giành lấy được một loại hàng hóa hay dịch vụ, hoặc một tài sản môi trường? Đó là một phần câu hỏi về vấn đề giá trị của cá nhân. Có người sẵn sàng từ bỏ nhiều thứ để viếng thăm Canadian Rockies còn những người khác thì không. Có người sẵn sàng chi trả một số tiền lớn để có môi trường sống yên tĩnh, còn người khác thì không. Có người đánh giá cao việc cố gắng bảo tồn môi trường sống của các loại cây và động vật hiếm, còn người khác thì không. Cũng rõ ràng là tài sản có ảnh hưởng đến giá sẵn lòng trả; một người càng giàu thì họ càng có khả năng chi trả cho các loại hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn. Giá sẵn lòng trả (WTP), nói cách khác, cũng phản ánh khả năng chi trả. Ví dụ: Giá sẵn lòng trả cho táo sạch – một thực nghiệm Các nhà kinh tế có thể suy ra WTP từ hành động của con người khi họ mua hàng hóa và dịch vụ. Giả sử bạn ngồi ở một tiệm tạp hóa và phỏng vấn người ở khu vực hàng trái cây và rau quả. Bạn chọn một khách hàng mà họ sẽ mua táo sạch và hỏi người những câu hỏi như sau:

1. Nhà bạn có táo sạch không? (giả sử câu trả lời là không) 2. Bạn sẵn lòng trả bao nhiêu cho một kg táo sạch hơn là không có nó? (giả sử người

khách hàng trả lời là 4,50 đôla1)

1 Mỗi món hàng tất nhiên được ấn định giá trên mỗi đơn vị. Người mua hàng biết được giá này. Điều mà người phỏng vấn đang hỏi là sự suy nghĩ của người được hỏi về việc họ chịu trả những mức giá khác nhau trên mỗi đơn vị được mua. Loại trao đổi này thường diễn ra ở chợ nơi mà người mua và người bán thương lượng về số lượng và giá.

Barry Field & Nancy Olewiler

1

3. Bây giờ bạn đã mua kilogram táo sạch đầu tiên rồi; vậy bạn sẽ sẵn lòng trả cho trái

táo thứ hai là bao nhiêu?

4. Bạn sẽ sẵn lòng trả cho những kilogram táo thêm vào là bao nhiêu? (Tiếp tục hỏi

cho đến khi câu trả lời là 0)

Giá sẵn lòng trả của người tiêu dùng đối với táo

$

5

4

3

WTP $5,00 4,50 4,00 3,50 3,00 2,50 2,00 1,50 1,00 0,50 0

2 Số kg/tuần 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

1

0 10 1 4 5 2 3 6 7 8 9

Số kg táo

Dữ liệu WTP từ 0 đến 5 đôla được biểu diễn bên trái của hình. Dữ liệu WTP được minh họa thành các hình chữ nhật đại diện cho mỗi kg được mua thêm vào. WTP giảm khi số đơn vị tiêu thụ gia tăng.

Hình 3-1 trình bày dữ liệu dưới dạng đồ thị và bảng Hình 3-1: Bảng dữ liệu giá sẵn lòng trả cho táo sạch Những ví dụ sau mô tả mối quan hệ cơ bản của kinh tế học: Khái niệm về giá sẵn lòng trả giảm dần.

Khi số đơn vị mua tăng, giá sẵn lòng trả cho từng đơn vị hàng hóa tăng thêm thường giảm xuống.

Sẽ bất tiện khi làm việc với các đồ thị có dạng bậc như hình 3-1. Nếu chúng ta giả định rằng con người có thể tiêu thụ từng phần nhỏ của hàng hóa và các giá trị là số nguyên, thì chúng ta sẽ có được đường giá sẵn lòng trả là một đường liên tục, giống như ở hình 3-2. Trong đồ thị này chúng ta có thể chọn ra từng điểm để minh họa. Nó cho thấy rằng ở mức số lượng là 4 đơn vị, giá sẵn lòng trả cho một đơn vị thêm nữa (cái thứ tư) là 3 đôla/kg. Giá sẵn lòng trả của một người cho 8 đơn vị là bao nhiêu? Câu trả lời là: 1 đôla/kg. Có sự khác biệt rất quan trọng giữa tổng giá sẵn lòng trả (Total WTP) và giá sẵn lòng trả biên (Marginal WTP), bởi đó là vấn đề mà chúng ta sẽ tiếp tục đề cập đến ở các chương sau. Giả định một người mua 2 kg táo; dọc theo đường WTP, anh ta có thể sẽ sẵn lòng trả 3,50 đôla cho kg thứ ba. Đó là giá sẵn lòng trả biên, trường hợp này là đối với kilogram thứ ba.

Giá sẵn lòng trả biên diễn tả giá sẵn lòng trả của một người cho một đơn vị dịch vụ hay hàng hóa tăng thêm.

Barry Field & Nancy Olewiler

2

Hình 3-2: Giá sẵn lòng trả trong trường hợp hàm số liên tục

$

5

4 b

3

2 a

1

1 0 10 2 5 6 3 4 7 8 9

Soá kg taùo

Dữ liệu từ hình 3-1 đựơc biến đổi thành đường thẳng do người tiêu dùng được phép mua từng phần nhỏ của các đơn vị. Tổng giá sẵn lòng trả (WTP) cũng được biểu diễn cho 4 kg táo. Nó là tổng diện tích a cộng b

Tổng giá sẵn lòng trả được đo là phần diện tích nằm dưới đường WTP từ 0 đến số lượng được tiêu dùng. Ví dụ dưới đây cho thấy cách tính tổng WTP. Ví dụ: Ước tính tổng giá sẵn lòng trả (WTP) cho táo sạch Giả sử một người tiêu thụ 4 kg táo/tuần Tính tổng giá sẵn lòng trả (WTP) từ biểu đồ thanh ở hình 3-1. Tổng giá sẵn lòng trả là tổng chiều cao của các hình chữ nhật nằm giữa trục gốc và số lượng 4 kg. Tổng là 4,50 + 4,00 + 3,50 + 3,00 = 15,00 đôla Tính tổng giá sẵn lòng trả trong phiên bản của đường sẵn lòng chi trả ở hình 3-2. Tổng giá sẵn lòng trả là toàn bộ phần diện tích nằm dưới đường giá sẵn lòng trả từ điểm gốc đến điểm 4 kg.

Sử dụng phương pháp hình học đơn giản để tính. Tổng giá sẵn lòng trả cho 4 kg là diện tích a cộng diện tích b.

Diện tích a là hình chữ nhật có chiều cao là 3$ và rộng là 4: ta có 3$

4 = 12$

Diện tích b là hình tam giác có chiều cao là 2$ = (5$ - 3$) và cạnh đáy bằng 4 = (4 – 0).

Giá trị của diện tích b là [

(2$

4$)] = 4$.

Diện tích a + b = 16$ = tổng giá sẵn lòng trả. Vấn đề: Tại sao diện tích a cộng diện tích b trong hình 3-2 lớn hơn một ít so với tổng giá sẵn lòng trả được tính theo biểu đồ hình thanh ở hình 3-1? Câu trả lời là biểu đồ hình thanh là ước lượng xấp xỉ của đường liên tục. Sử dụng số nguyên và không sử dụng đường liên

Barry Field & Nancy Olewiler

3

là hệ số cắt và

tục sẽ cho giá trị thấp của tổng giá sẵn lòng trả. Vì thế chúng ta sẽ tiếp tục sử dụng đường liên tục. Cầu Có cách khác để biểu diễn mối quan hệ giá sẵn lòng trả biên. Đây chính là đường cầu. Đường cầu cá nhân cho thấy số lượng hàng hóa hay dịch vụ mà cá nhân này có nhu cầu (nghĩa là: mua và tiêu thụ) ở một mức giá cho sẵn. Thông tin từ hình có thể giúp cung cấp cho ta mối quan hệ đại số của đường cầu. Số lượng cầu giảm xuống khi giá táo tăng lên. Với QD là lượng cầu, là độ dốc của phương trình. Khi đó hàm số đường cầu có dạng chung là:

QD =

- P

Hệ số cắt có thể tìm thấy ở hình 3-1 hoặc hình 3-2 tại mức giá mà lượng cầu là 0. Đó là tại mức giá bằng 5$. Độ dốc của phương trình là sự thay đổi lượng cầu chia cho sự thay đổi mức giá . Nhìn vào số liệu trong hình 3-1, chúng ta thấy rằng cứ mỗi đơn vị sản phẩm tăng lên thì giá giảm đi 50 cent. Vì vậy độ dốc của chúng là -2. Hàm số cầu của táo lúc này sẽ là QD = 10 – 2P. Tuy nhiên, đường cầu của táo, theo qui định trong kinh tế học (đường thẳng trong hình 3-2) có giá nằm ở trục tung và lượng cầu nằm ở trục hoành. Điều này có nghĩa là chúng ta tìm ra lời giải cho phương trình QD = - P dưới dạng P hơn là QD. Nó được gọi là đường cầu nghịch đảo và mối quan hệ hàm số nói chung là

P =

/

- (1/ ) QD

vào phương trình ta có P = 5 – 0,5QD. Đây là phương trình

Thay thế các giá trị và được minh họa ở hình 3-2. Đường cầu của táo là đường thẳng, nhưng trong thực tế có thể là đường cong. Mối quan hệ tuyến tính của đường cầu hàm ý là số lượng cầu thay đổi đồng nhất với giá hàng hóa. Tuy nhiên đối với nhiều hàng hóa thì điều này có thể không đúng. Ví dụ xem xét trường hợp hàng hóa là nước. Ở các mức giá thấp và tỷ lệ tiêu thụ cao, nghiên cứu cho thấy rằng với việc tăng giá ở một lượng tương đối nhỏ sẽ dẫn đến việc giảm đáng kể lượng cầu. Ở những mức giá cao và lượng cầu thấp, việc tăng giá sẽ có ảnh hưởng nhỏ hơn nhiều; nó sẽ tạo ra lượng cầu giảm ở mức ít hơn. Đây là đường cầu nó lõm về phía gốc; tương đối phẳng ở mức giá thấp và dốc lên ở mức giá cao. Hình 3-3 minh họa đường cầu đối với nước.

Barry Field & Nancy Olewiler

4

Hình 3-3: Đường cầu đối với nước

$ Giá/ m3)

30

20

Nước sử dụng (m3)

10

0 100 200 300 400 500

Đường cầu phi tuyến cho thấy một mức tăng nhỏ trong giá có thể dẫn đến lượng nước sử dụng giảm mạnh khi giá ở mức thấp. Việc tăng giá từ 10$ lên 20$/m3 sẽ giảm việc sử dụng nước từ 400 xuống 200 m3. Nhưng việc tăng thêm 10$ nữa, từ 20$ đến 30$, sẽ làm giảm lượng tiêu thụ chỉ 50 m3, từ 200 đến 150.

Tổng cầu/Giá sẵn lòng trả Đường cầu cá nhân/đường giá sẵn lòng trả biên đối với hàng hóa hay dịch vụ là một cách để khái quát hóa khả năng và thái độ tiêu dùng cá nhân của một người đối với hàng hóa đó. Những mối quan hệ sẽ khác nhau giữa các cá nhân, bởi vì thị hiếu và sở thích của họ không giống nhau. Người với thu nhập cao thì tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn. Khi nghiên cứu các vấn đề thực về chính sách kiểm soát ô nhiễm và chất lượng môi trường, các nhà kinh tế học thường tập trung mối quan tâm của họ vào cách cư xử của các nhóm người hơn là các cá nhân đơn lẻ. Mối quan tâm chính là tổng cầu hay giá sẵn lòng trả của một nhóm người đã được xác định rõ.

Đường tổng cầu đối với một hàng hóa thị trường là tổng theo trục hoành các đường cầu cá nhân thường được nhóm theo khu vực địa lý (ví dụ như thành phố, tỉnh hoặc một quốc gia).

Hình 3-4 minh họa cách xây dựng đường tổng cầu của táo sạch. Giả sử chỉ có 2 khách hàng là Alice và Bruce. Hai người này đại diện cho những loại người tiêu dùng khác nhau ở vùng Vancouver. Alice thật sự thích táo sạch, trong khi Bruce thì chẳng quan tâm lắm đến chúng; anh ta chỉ thích nó như với táo thường khác. Alice có đường cầu được biểu thị như là Hình 3-2. Đường cầu của Bruce thì dốc đứng hơn so với đường cầu của Alice, chứng tỏ anh ta có sở thích khác.

Barry Field & Nancy Olewiler

5

Hình 3-4: Đường tổng cầu của táo sạch

5 4 3 2 1

5 4 3 2 1

5 4 3 2 1

2

4

6

8

10

2

4

6

8

10

2

4

6

8

10 12 14 15

Táo

Táo

Táo

(a) (b) (c) $ $

Đường cầu của Alice

Đường cầu của Bruce

Đường cầu tổng

Trên đây là đường cầu của hai người khác nhau. Đường cầu của Alice (a) chứng tỏ cô thích táo sạch. Bruce (b) thì ít thích hơn. Vì đường cầu của Bruce dốc hơn, chứng tỏ anh ta sẽ mua ít hơn Alice với các mức giá dưới $5/kg. Đường cầu tổng được tạo nên bằng cách cộng các lượng mà Alice và Bruce muốn mua tại mỗi mức giá cho sẵn. Tại mức giá $3/kg, Alice mua 4 còn Bruce mua 2, tổng số là 6 kgs. Nếu giá là $1/kg, tổng cầu sẽ là 12 kgs.

Quy tắc để vẽ đường tổng cầu của các cá nhân là chọn một mức giá nào đó, rồi cộng các mức cầu ở mức giá ấy. Tiến trình này được thể hiện rõ ở hình 3-4. Khi giá táo là 3$, nhu cầu của thị trường là 6 kg táo. Chúng ta có thể làm phép tính tương tự đối với các giá khác. Cho mức giá 1$. Alice sẽ mua 8 kg và Bruce mua 4 kg, tổng cộng có 12 kg. Lặp lại điều này cho tất cả các giá sẽ tạo ra đường tổng cầu biểu diễn ở biểu đồ (c). Bảng 3-1 biểu diễn số liệu cầu của Alice, Bruce và tổng cầu của họ. Trong thị trường thực, chúng ta tất nhiên phải cộng nhiều đường cầu cá nhân hơn nữa. Nhưng quy tắc tổng hợp vẫn giữ nguyên: ở mỗi mức giá, cộng tất cả các số lượng mà mỗi khách hàng muốn mua. Bảng 3-1: Cách tính đường tổng cầu đối với táo sạch

Giá ($/kg) 0 1 2 3 4 5

Lượng cầu của Alice (kg/tuần) 10 8 6 4 2 0 QD = 10 - 2P

Lượng cầu của Bruce (kg/tuần) 5 4 3 2 1 0 QD = 5 - P

Tổng cầu (kg/tuần) 15 12 9 6 3 0 QD = 15 - 3P

Đường cầu

Tổng cầu là tổng của hai đường cầu cá nhân của các khách hàng

Tổng hợp các đường cầu cá nhân: Cách tính theo đại số

Như Bảng 3-1 trình bày, đường tổng cầu có thể tính được bằng cách cộng dồn đường cầu cá nhân của Alice và của Bruce.

Đường cầu đối với táo sạch của Alice: QD = 10 - 2P Đường cầu đối với táo sạch của Bruce: QD = 5 – P Đường tổng cầu: QD = 15 - 3P

Đường tổng cầu nghịch đảo là P = 5 – QD/ 3. Phương trình này được minh họa ở biểu đồ (c) của Hình 3-4.

Barry Field & Nancy Olewiler

6

LỢI ÍCH Từ lợi ích có ngụ ý rõ ràng là ở tình trạng tốt hơn; nếu người nào được lợi từ một việc gì đó, nghĩa là tình trạng của họ được cải thiện. Ngược lại, nếu họ ở trạng thái tệ hơn, thì có thể họ đã mất đi một phần lợi ích. Làm thế nào suy ra được lợi ích của một người là bao nhiêu? Hãy đưa cho họ một món gì đó để họ đánh giá. Làm thế nào để biết họ đánh giá món hàng đó? Dựa vào việc họ sẵn lòng từ bỏ, hay sẵn lòng trả tiền cho món ấy. Cùng với cách suy luận này, thì lợi ích mà một người có được từ một điều gì đó sẽ bằng với số tiền mà họ sẵn lòng trả. Tính lôgic của định nghĩa về lợi ích này là rất cao. Có nghĩa là ta có thể sử dụng đường cầu thông thường để tìm ra lợi ích. Lấy ví dụ, trong hình 3-5 có hai đường cầu, và có hai số lượng được biểu thị trên trục hoành. Giả sử ta muốn ước lượng tổng lợi ích của hai nhóm người có đường cầu như trong hình vẽ, khi số lượng của món hàng tăng lên từ q1 đến q2. Theo cách lập luận trước, lợi ích được đo bằng giá sẵn lòng trả, và tổng giá sẵn lòng trả được đo bằng phần diện tích nằm dưới đường cầu, tức là phần dưới đường cầu, giới hạn bởi q1 và q2 trong hình vẽ. Do đó, đối với đường cầu nằm thấp hơn (D2) thì lợi ích do gia tăng lượng tiêu dùng là diện tích b, trong khi lợi ích của đường cầu (D1) là diện tích a+b. Lôgic này xem ra hợp lý. Người có đường cầu D1 đánh giá giá trị vật này cao hơn; nên họ sẵn lòng trả nhiều tiền hơn là người có đường cầu D2. Đây chính là lôgic cơ bản của kinh tế môi trường. Nó hỗ trợ cho câu hỏi làm thế nào ta có thể đánh giá các tác động của những chương trình môi trường và của các chính sách do các địa phương, tỉnh thành, và chính phủ thực hiện. Sức mạnh của lôgic này là ở chỗ: nó dựa vào một khái niệm rõ về giá trị mà người ta gán cho sự vật. Tuy nhiên cách tư duy này cũng có nhược điểm. Cầu (đồng thời cũng là lợi ích) rất khó đo lường khi gắn với vấn đề môi trường, như ta sẽ thấy ở chương 7. Các đường cầu cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi khả năng chi trả và sự ưa thích. Lấy ví dụ, trong hình 3-5, đường cầu thấp có thể đại diện cho nhóm người có thu nhập thấp hơn là nhóm có đường cầu nằm cao. Lập luận này có thể đưa ta đến kết luận rằng việc gia tăng số lượng từ q1 đến q2 đã tạo ra một lợi ích mà người thu nhập thấp đánh giá nó thấp hơn người có thu nhập cao. Điều này không hẳn đã như vậy. Người nghèo hơn có thể cũng có mức hữu dụng biên rất cao đối với món hàng này, có thể còn cao hơn của người giàu, nhưng họ không thể thể hiện hết các giá trị thành giá sẵn lòng trả bởi vì khả năng chi trả của họ thấp hơn. Nên nhớ rằng thu nhập là yếu tố xác định vị trí của một đường cầu. Vì vậy dù tính lôgic của khái niệm là không bàn cãi, ta vẫn cần cẩn thận khi sử dụng, đặc biệt khi liên hệ với các nhóm người có các mức thu nhập khác nhau.

Barry Field & Nancy Olewiler

7

Hình 3-5: Tổng lợi ích và tổng giá sẵn lòng trả

$

a D1

D2 b

Tổng lợi ích được đo bằng giá sẵn lòng trả. Tổng giá sẵn lòng trả là phần diện tích nằm dưới đường cầu. Để tính tổng lợi ích của lượng tăng từ q1 đến q2, khu vực nằm dưới đường D1 là phần diện tích a cộng với b; dưới đường D2 là diện tích b. Những người đặt giá trị cho món hàng cao hơn thì sẽ sẵn lòng trả nhiều hơn và cũng nhận được lợi ích lớn hơn từ việc tăng sản lượng.

Số lượng 0 q1 q2

Có một vấn đề tồn tại khác đối với việc sử dụng đường cầu thông thường để đo lường lợi ích. Đường cầu của một cá nhân đối với một hàng hóa rõ ràng chịu ảnh hưởng bởi mức độ mà anh ta biết về hàng hóa đó. Một người sẽ không sẵn lòng trả tiền cho một món hàng nếu họ không biết là nó có tồn tại hay không. Chúng ta không hiểu hết những tác động của việc suy thoái môi trường; hơn thế, quan điểm của con người về tầm quan trọng của các loại tác động này lại thay đổi tùy theo phương tiện thông tin, các tài liệu khoa học v.v. Trong một số trường hợp, chúng ta nên cẩn thận khi lấy các đường cầu tại một thời điểm, mà các đường cầu này bị ảnh hưởng bởi đủ các yếu tố có thực và không thực, để làm thành thước đo lợi ích của các hoạt động môi trường. CHI PHÍ Mặt kia của vấn đề là chi phí. Bất kỳ quá trình sản xuất nào cũng cần nhiều loại nhập liệu – lao động, máy móc, năng lượng, nguyên liệu, thiết bị xử lý chất thải v.v. Đánh giá giá trị các nhập liệu này là rõ ràng đối với các xí nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường: giá trị của chúng là giá mua trên thị trường. Tuy nhiên, cần hiểu từ chi phí theo một nghĩa rộng hơn. Chi phí sản xuất là chi phí lẽ ra để sản xuất bằng những nhập liệu này nếu như các nhập liệu đó không được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm mà ta đang nói đến. Chi phí này gọi là chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội

Chi phí cơ hội là khái niệm cơ bản trong kinh tế học.

Chi phí cơ hội để sản xuất một sản phẩm nào đó là giá trị tối đa của các sản phẩm khác lẽ ra đã được sản xuất nếu ta không sử dụng tài nguyên để làm ra sản phẩm hiện hành.

Barry Field & Nancy Olewiler

8

Có lý do để dùng từ “tối đa” ở đây. Những nhập liệu dùng để sản xuất một loại sản phẩm nào đó có thể được sử dụng để sản xuất các sản phẩm và dịch vụ khác. Chi phí cơ hội bao gồm chi phí tiền mặt, nhưng còn rộng hơn nữa. Một số nhập liệu thực tế được sử dụng trong sản xuất nhưng lại không được xem là chi phí bằng tiền. Ví dụ, những người tình nguyện hốt rác trên đường hay trong các công viên có chi phí cơ hội: đó là họ có thể dùng thời gian này để làm việc khác có tiền. Song quan trọng hơn là nhiều quá trình sản xuất đưa chất thải vào môi trường và gây thiệt hại môi trường. Đây chính là chi phí cơ hội của việc sản xuất mặc dù chúng không thể hiện bằng tiền trong bảng báo cáo thu nhập của công ty. Chi phí cơ hội rất cần thiết khi cần phải ra những quyết định liên quan đến việc chọn lựa cách sử dụng một tài nguyên cho mục đích này hay mục đích khác. Đối với một tổ chức công quyền với một ngân sách nhất định, thì chi phí cơ hội của một chính sách là giá trị của những chính sách khác mà họ có thể thực hiện. Còn đối với một người tiêu dùng chi phí cơ hội của thời gian đi tìm một món hàng nào đó chính là giá trị cao nhất của một việc làm khác mà họ có thể có. Làm thế nào để đo lường chi phí cơ hội? Thường không thiết thực nếu đo lường theo số lượng các vật chất khác lẽ ra đã được sản xuất. Chúng ta cũng thường không có đủ thông tin để đo lường giá trị của các sản phẩm lẽ ra đã được sản xuất. Nên trong thực tế, ta đo lường chi phí cơ hội bằng các giá trị của những nhập liệu sử dụng trong sản xuất. Để làm việc này, ta phải đảm bảo là các giá trị của nhập lượng là chuẩn xác. Nếu thị trường bị biến dạng ta có thể dùng giá mờ (shadow price) để đo lường chi phí cơ hội. Giá mờ đo lường chi phí thực trong điều kiện thị trường hoạt động hoàn hảo. Ví dụ, lao động tình nguyện phải được định giá theo mức lương hiện hành mặc dù trong thực tế khoản này không phải chi trả. Nếu không có thị trường, như trường hợp của môi trường, thì ta phải tính ra một giá trị nào đó. Phần 2 sẽ đề cập một số kỹ thuật đánh giá. Một khi các nhập lượng được hạch toán và đánh giá chính xác, thì tổng giá trị này có thể được xem là chi phí cơ hội của sản xuất. Đây là công việc cực kỳ quan trọng đối với các nhà kinh tế môi trường. Đường chi phí Thông tin chi phí có thể được tổng kết thành các đường chi phí, đó là việc miêu tả các chi phí sản xuất bằng đồ thị. Và cũng như trường hợp giá sẵn lòng trả, chúng ta sẽ phân biệt giữa chi phí biên (MC) và tổng chi phí (TC) của quá trình sản xuất:  Chi phí biên đo lường lượng chi phí gia tăng khi tăng thêm một đơn vị sản phẩm.  Tổng chi phí là chi phí sản xuất ra tổng số lượng sản phẩm. Xét đường chi phí trong hình 3-6, là chi phí mà một vườn táo cung cấp táo sạch cho thị trường. Hình vẽ cũng có dạng tương tự như các hình trước, với số lượng sản phẩm trên trục hoành và số tiền trên trục tung. Biểu đồ ở trên cùng biểu diễn chi phí biên dưới dạng bậc thang. Biểu đồ này cho thấy phải tốn 1,67$ để sản xuất ra đơn vị sản phẩm đầu tiên. Nếu công ty muốn tăng sản phẩm lên 2 đơn vị thì phải chi thêm 2$ cho đơn vị thứ hai. Đơn vị thứ ba thêm vào sẽ làm tăng thêm 2,33$ cho tổng chi phí, và cứ tiếp tục như thế. Đo lường bằng chi phí biên phân phối chuẩn, nó là các khoản chi phí thêm vào, hay là khoản tăng thêm của tổng chi phí, khi sản lượng tăng lên một đơn vị. Như vậy khi giảm sản xuất từ năm còn bốn đơn vị sẽ làm giảm tổng chi phí 3$, đây chính là chi phí biên của đơn vị sản phẩm thứ năm.

Barry Field & Nancy Olewiler

9

Đường dạng bậc thang không tiện cho phân tích nên ta giả định là xí nghiệp có thể sản xuất ra từng lượng sản phẩm nhỏ với giá trị số nguyên. Giả định này sẽ cho ta đường chi phí biên liên tục, như trong biểu đồ (b) của hình 3-6. Để dễ tính toán, đường chi phí biên sẽ lại là đường thẳng. Chúng ta có thể sử dụng đường chi phí biên để xác định tổng chi phí sản xuất. Tổng chi phí là diện tích dưới đường chi phí biên. Ví dụ từ hình 3-6 minh họa cách tính tổng chi phí. Ví dụ: Tính tổng chi phí từ đường chi phí biên của táo Tổng chi phí để sản xuất ra 5 đơn vị sản lượng là bao nhiêu?

1. Sử dụng đường chi phí biên bậc thang, cộng phần diện tích của các thanh từ 0 đến 5 đơn vị. Đơn vị đầu tiên = 1,67$, đơn vị thứ hai bằng 2,00$, đơn vị thứ ba bằng 2,33$, đơn vị thứ tư bằng 2,67$, đơn vị thứ năm bằng 3,00$. Tổng chi phí = 11,67$. 2. Sử dụng đường MC tuyến tính, tính phần diện tích bên dưới đường thẳng từ 0 đến 5 đơn vị. Đó là phần hình chữ nhật (diện tích a), cộng với hình tam giác (diện tích b). Diện tích a có đường cao = 1,67$ và dài = 5, tổng chi phí là 8,35$. Diện tích b có đáy là 5 và đường cao là 1,33$ (3 – 1,67). Diện tích của b là (5 1,33$) = 3,32$. Tổng chi phí là 11,67$.

Barry Field & Nancy Olewiler

10

Hình 3-6: Tổng chi phí và chi phí biên của táo

(a)

(a) $

4

2 1,67

3

1

Sản lượng táo 0 1 2 3 4 5 6 7

$

MC (b) 4

3

2 1,67

b

1 a

0 1 2 3 4 5 6 7 Sản lượng táo

Đường chi phí biên của vườn táo. Biểu đồ (a) mô tả chi phí biên bằng chiều cao của mỗi thanh, biểu đồ (b) là hàm tuyến tính của cùng số liệu. Tổng chi phí là phần diện tích nằm dưới đường chi phí biên. Nếu sản xuất 5 đơn vị táo, tổng chi phí được tính bằng tổng của các thanh từ thứ nhất đến thanh thứ năm ở biểu đồ (a) hoặc bằng tổng diện tích a cộng b ở biểu đồ (b). Tổng chi phí của 5 đơn vị là 11,67$

CUNG VÀ ĐƯỜNG CHI PHÍ BIÊN, TỔNG CUNG Chi phí sản xuất biên là yếu tố chính trong việc xác định hành vi cung của các công ty trong trường hợp cạnh tranh. Đường chi phí biên của một cong ty là đường cung, chỉ ra số lượng hàng hóa mà xí nghiệp muốn cung cấp ở các mức giá khác nhau. Xét biểu đồ (a) trong hình 3-7 cho trường hợp vườn táo. Giả sử vườn này có thể bán sản phẩm ở giá 2$. Vườn này sẽ tối đa hóa lợi nhuận bằng cách sản xuất ra lượng sản phẩm mà chi phí biên của sản phẩm cuối là bằng 2$, nghĩa là với lượng sản phẩm là 2 kg. Ở các mức sản lượng thấp hơn mức này, thì nhà vườn còn có thể tăng được lợi nhuận bằng cách tăng sản lượng. Còn ở các mức sản lượng cao hơn mức này, thì chi phí biên để sản xuất một đơn vị sản phẩm cao hơn giá, do vậy để tối đa hóa lợi nhuận nhà vườn nên giảm sản xuất.

Barry Field & Nancy Olewiler

11

Hình 3-7: Xây dựng đường tổng cung từ các đường chi phí sản xuất biên

5 4 3 2 1

5 4 3 2 1

5 4 3 2 1

4

6

2

4

6

10

2

4

6

8

10

8 Lượng táo

8 Lượng táo

Lượng táo

2 2 2

(a) (b) (c) $ $ $

Đường cung của vườn 1

Đường cung của vườn 2

Đường tổng cung

Đường chi phí biên là đường cung của vườn. Vườn luôn sản xuất tại mức sản lượng mà giá bằng chi phí biên nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Biểu đồ (a) và (b) thể hiện đường cung của hai vườn táo, Biểu đồ (c) thể hiện đường tổng cung hình thành bằng cách cộng sản lượng của hai vườn tại từng mức giá. Với mức giá 4$/kg, vườn 1 cung cấp 8 kg, vườn 2 cung cấp 2 kg, tạo ra tổng cung là 10 kg.

Các nhà kinh tế nghiên cứu các đường cung của ngành, cũng như của các xí nghiệp. Đường cung hay đường chi phí biên của một ngành là đường cung của các xí nghiệp sản xuất ra cùng một loại sản phẩm. Ta gọi đây là tổng cung, cũng tương tự như khái niệm tổng cầu đã đề cập.

Đường tổng cung của các xí nghiệp sản xuất ra cùng một loại sản phẩm là tổng các đường cung của các xí nghiệp ấy theo trục hoành.

Giả sử chúng ta có hai vườn táo. Biểu đồ (b) trình bày đường chi phí biên của vườn thứ hai. Cung thị trường là tổng các đường chi phí biên của các vườn. Nguyên tắc cũng giống như khi xây dựng đường tổng cầu cho hàng hóa tư nhân. Hãy chọn một mức giá, rồi cộng các số lượng được cung cấp ở mức giá ấy. Đây là tổng theo trục hoành. Biểu đồ (c) trong hình 3-7 đại diện cho đường tổng cung. Lấy ví dụ, ở mức giá 2$, vuờn thứ nhất cung cấp 2 đơn vị, vườn hai không cung cấp (bởi vì giá thấp hơn chi phí sản xuất tối thiểu của họ) vì thế đường tổng cung ở giá này là hai đơn vị. Để hoàn tất đường tổng cung ta lấy nhiều mức giá khác nhau, rồi cộng dồn các số lượng cung cấp của mỗi vườn. Ví dụ, ở mức giá 4$, vườn 1 cung cấp 8 đơn vị và vườn 2 cung cấp 2 đơn vị, tổng mức cung cấp như thế là 10 đơn vị.

Các đường chi phí biên có thể diễn tả theo phương pháp đại số. Bảng 3-2 cho số liệu của từng vườn và tổng cung.

Bảng 3-1: Cách tính đường tổng cung táo sạch

Giá ($/kg) 1 2 3 4 5 Đường cung

Lượng cung của vườn 1 (kg/tuần) 0 2 5 8 11 QS = 3P - 4

Lượng cung của vườn 2 (kg/tuần) 0 0 1 2 3 QS = P - 2

Tổng cung (kg/tuần) 0 2 6 10 14 QS = 4P – 6

Đường chi phí biên của 2 vườn táo được cộng lại để tạo đường tổng cung. Người sản xuất tối đa hóa lợi nhuận sẽ đặt giá thị trường bằng với chi phí biên của nó. Tại mỗi mức giá, các cột kế tiếp cho thấy số lượng cung của mỗi nhà cung cấp và tổng cung.

Barry Field & Nancy Olewiler

12

Xây dựng đường chi phí biên bằng đại số

Từ dữ liệu của bảng 3-2 và các biểu đồ miêu tả ở hình 3-7, chúng ta có thể minh họa đường chi phí biên của mỗi công ty. Đường chi phí biên (MC) được biểu diễn bởi các các đường cung theo giá và cho rằng mỗi nhà sản sản xuất tối đa hóa lợi nhuận bằng cách đặt giá bằng với chi phí biên (như là ghi chú trong bảng). Đường MC của vuờn thứ nhất MC: = 4/3 + 1/3 QS Đường MC của vườn thứ hai MC: = 2 + QS Đường MC tổng: MC: = 3/2 + ¼QS

Tổng cung được ký hiệu là QS như trong bảng trên: QS = 4P – 6. Các phương trình này đặt nền tảng cho việc xác định cân bằng thị trường trong chương tiếp theo. CÔNG NGHỆ Yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hình dạng của đường chi phí biên là công nghệ sản xuất. Công nghệ nghĩa là năng lực sản xuất vốn có với phương pháp và máy móc sử dụng. Bất kỳ quá trình sản xuất hiện đại nào cũng sử dụng nhiều loại hàng hóa tư bản (máy móc và thiết bị) có công suất, lao động, qui trình, nguyên liệu khác nhau. Số lượng sản phẩm mà một xí nghiệp sản xuất từ một nhóm nhập liệu tùy thuộc vào năng lực máy móc và nhân lực. Ngay trong cùng một ngành, các đường chi phí biên có thể khác nhau. Một số xí nghiệp có thể cũ hơn, nghĩa là họ làm việc với các thiết bị cũ hơn và có đặc điểm chi phí khác. Các xí nghiệp có cùng thời gian hoạt động cũng có thể có công nghệ sản xuất khác; những quyết định quản lý trong quá khứ có thể đã khiến các xí nghiệp này có các mức chi phí biên khác nhau hôm nay. Khái niệm công nghệ là rất quan trọng trong kinh tế môi trường vì chúng ta dựa vào những thay đổi công nghệ để tìm cách tạo ra sản phẩm dịch vụ và hàng hóa với ít tác động có hại tới môi trường hơn và cũng để xử lý chất thải tốt hơn. Trong một mô hình đơn giản, tiến bộ kỹ thuật cho phép đuờng chi phí dịch chuyển xuống thấp. Tiến bộ kỹ thuật cho phép tạo thêm sản phẩm với chi phí biên thấp hơn. Nó cũng làm giảm tổng chi phí sản xuất. Xem hình 3-8, đường chi phí biên 1 (hay MC1) là chi phí biên của xí nghiệp trước khi có cải tiến kỹ thuật; MC2 là chi phí biên sau khi có một số cải tiến kỹ thuật. Nói cách khác thay đổi công nghệ đã dịch chuyển đường chi phí biên xuống. Chúng ta có thể xác định tổng chi phí sản xuất sẽ giảm bao nhiêu khi có sự thay đổi công nghệ. Xem xét số lượng đầu ra q*, với MC1 thì tổng chi phí để sản xuất số lượng q* được thể hiện bằng diện tích a+b, khi chi phí biên giảm xuống đường MC2 thì tổng số chi phí sản xuất chỉ còn là b. Thay đổi công nghệ sẽ giảm tổng chi phí một lượng tương đương với diện tích a. Thay đổi công nghệ thường không xảy ra khi không có nỗ lực; thường nó cần quá trình nghiên cứu và pháp triển (Rearch and Development – R&D). R&D trong công nghệ môi trường rõ ràng là hoạt động cần được khuyến khích. R&D là một trong các tiêu chuẩn chúng ta cần sử dụng trong việc đánh giá các chính sách môi trường xem chúng có tạo nên khuyến khích cho các cá nhân, các công ty và các ngành để tham gia vào các chương trình R&D đầy triển vọng hay không. Nói một cách đơn giản, khuyến khích thực hiện R&D đồng nghĩa với tiết kiệm chi phí nhờ áp dụng các công nghệ, nguyên liệu và các quy trình sản xuất mới. Tiết kiệm chi phí được biểu diễn trong hình 3-8 (diện tích a) thể hiện chỉ một phần của sự khuyến khích. Đây là những tiết kiệm chi phí sẽ xảy ra hàng năm. Tuy nhiên, tổng các khoản tiết kiệm chi phí hàng năm mới chính là những khuyến khích do việc áp dụng R&D.

Barry Field & Nancy Olewiler

13

Hình 3-8: Tác động của tiến bộ kỹ thuật đối với đường chi phí biên

MC1 $

MC2

a

b

q* Số lượng đầu ra

Tiến bộ cộng nghệ được biểu diễn bằng đường chi phí biên dịch xuống. Lượng q* được sản xuất với công nghệ mới làm giảm tổng chi phí một diện tích là a

NGUYÊN TẮC CÂN BẰNG BIÊN Bây giờ chúng ta sẽ bàn luận về một nguyên tắc kinh tế học đơn giản nhưng rất quan trọng, được sử dụng nhiều trong các chương tiếp theo. Nguyên tắc này được gọi là Nguyên tắc cân bằng biên. Để hiểu được nguyên tắc này, hãy tưởng tượng chúng ta có một công ty sản xuất một sản phẩm nhất định, và hoạt động của công ty được chia ra tại hai nhà máy. Mỗi nhà máy sản xuất ra cùng một sản phẩm vì vậy tổng lượng sản phẩm của công ty sẽ là tổng sản phẩm được sản xuất ra ở cả 2 nhà máy. Nhưng chúng ta hãy giả sử rằng hai nhà máy này được xây dựng ở những thời điểm khác nhau và sử dụng các công nghệ khác nhau. Nhà máy cũ là nhà máy A như trong hình 3-9 với công nghệ cũ hơn sẽ có đường chi phí biên bắt đầu gần điểm gốc và tăng nhanh khi sản xuất gia tăng. Nhà máy mới B trong hình 3-9 sử dụng công nghệ mới sẽ có chi phí biên cao hơn ở mức sản lượng thấp nhưng chi phí sẽ không tăng nhanh khi gia tăng sản xuất. Bây giờ xem xét một tình huống mà ở đó hai nhà máy này muốn sản xuất lượng tổng sản phẩm là 100 đơn vị. Bao nhiêu sản phẩm sẽ được sản xuất ở mỗi nhà máy để có được 100 đơn vị tổng sản phẩm với tổng mức chi phí thấp nhất? Có phải tốt nhất là mỗi nhà máy sẽ sản xuất 50 sản phẩm? Điều này được miêu tả trong hình 3-9 ở mức sản lượng 50 chi phí biên của nhà máy A là 12$ trong khi nhà máy B là 8$. Tổng chi phí sản xuất bao gồm tổng chi phí ở mỗi nhà máy hay (a + b + c) + (d). Nhưng điểm quan trọng ở đây là: Chúng ta có thể hạ thấp chi phí sản xuất 100 sản phẩm bằng cách phân phối lại sản xuất. Giảm sản xuất ở nhà máy A một sản phẩm thì chi phí sẽ giảm 12$. Tăng sản xuất ở nhà máy B lên một sản phẩm thì chi phí sẽ tăng 8$. Công ty vẫn sản xuất 100 sản phẩm nhưng tiết kiệm được 12 – 8 = 4$. Như vậy tổng chi phí của hai nhà máy gộp chung sẽ giảm.

Barry Field & Nancy Olewiler

14

Hình 3-8: Nguyên tắc cân bằng biên

Nhà máy B

Nhà máy A

MCA

12

MCB

c

b

d

a

e

50

62

Số lượng sản xuất

Nhà máy B

38 50 Số lượng sản xuất Nhà máy A Khi có 2 nhà máy khác nhau sản xuất cùng một sản phẩm, công ty sẽ giảm thiếu tổng chi phí sản xuất bằng cách cân bằng chi phí sản xuất biên của 2 nhà máy. Ví dụ, để sản xuất 100 sản phẩm với tổng chi phí thấp nhất khi chi phí biên bằng nhau thì nhà máy có chi phí thấp sẽ sản xuất nhiều hơn (62 sản phẩm) trong khi nhà máy có chi phí cao sẽ sản xuất ít hơn (38 sản phẩm). Kết quả thu được là tổng chi phí sẽ thấp hơn so với khi cả hai nhà máy cùng sản xuất 50 sản phẩm.

Khi chi phí biên của hai nhà máy là khác nhau, sản xuất nên được phân bố lại theo cách giảm sản lượng ở nhà máy có chi phí cao để chuyển dần về nhà máy có chi phí thấp hơn nhằm giảm tổng chi phí. Thực tế, chi phí tổng cộng để sản xuất 100 sản phẩm ở 2 nhà máy sẽ ở mức tối thiểu chỉ khi chi phí biên của 2 nhà máy bằng nhau – đó chính là nguyên tắc cân bằng biên. Trong hình, điều này xảy ra khi số lượng sản phẩm của nhà máy A là 38 sản phẩm và của nhà máy B là 62 sản phẩm. Tổng chi phí bây giờ sẽ là a + (d + e). Mục đích của nguyên tắc cân bằng biên là giảm thiểu chi phí tổng cộng cho sản xuất một lượng sản phẩm nhất định. Mục tiêu này trở thành hiện thực khi sản xuất được phân phối theo cách cân bằng chi phí biên giữa các nguồn sản xuất. Hay nó đơn giản hơn:

Nguyên tắc cân bằng biên đòi hỏi là tổng sản lượng được phân phối giữa các nguồn sản xuất sao cho chi phí sản xuất biên của các nguồn là bằng nhau.

Nguyên tắc này sẽ rất có giá trị khi mà chúng ta giải quyết vấn đề giảm thiểu phát thải từ những nguồn phát thải nhất định, sẽ được giới thiệu ở chương 5 và sử dụng trong phần 4. TÓM TẮT

Chương này giới thiệu sơ lược một số công cụ kinh tế vi mô cơ bản. Các chương sau sẽ dựa vào các ý tưởng này, đặc biệt là nguyên tắc cân bằng biên và trên các đồ thị khi chúng ta nhắc đi nhắc lại các số đo tổng và số đo biên. Khi bắt đầu xem xét các vấn đề thực tế về phân tích môi trường và thiết lập chính sách, chúng ta sẽ dễ dàng chuyển sang vô số các chi tiết mà bỏ quên các khái niệm kinh tế học cơ bản. Những khái niệm kinh tế cơ bản, như trình bày trong chương này, giúp chúng ta nhận định các đặc điểm kinh tế học cơ bản của các vấn đề và giúp triển khai giải pháp cho các vấn đề ấy.

Barry Field & Nancy Olewiler

15

CÁC THUẬT NGỮ CHÍNH

Giá sẵn lòng trả biên Kinh tế vi mô Chi phí cơ hội Giá mờ Tổng chi phí Tổng giá sẵn lòng trả Giá sẵn lòng trả

Khả năng chi trả Tổng cầu Lợi ích Đường cầu Nguyên tắc cân bằng biên Đường cầu nghịch đảo Chi phí biên BÀI TẬP

1. Đường cầu nước đóng chai của Alvin là Qd

A=8 – 5P. Đường cầu của Betty là Qd

B= 6 – P. Hãy tính giá sẵn lòng trả tổng cộng và giá sẵn lòng trả biên của Alvin và Betty cho 4 chai nước đóng chai và hãy minh họa bằng đồ thị.

2. Với cùng các biểu thức như ở câu 1, tính đường tổng cầu cho nước đóng chai, giả sử chỉ có Alvin và Betty là người tiêu thụ. Xây dựng đường tổng cầu nếu như có 5 người như Alvin và 10 người như Betty.

3. Tính toán và vẽ biểu đồ đường cung cho bóng tennis của 3 nhà sản xuất với các đường

MC như sau:

A: MC = 3 + 3QS với Q cho mỗi nhà sản xuất là 1.000 đơn vị sản phẩm B: MC = 4 + 6QS C: MC = 1 + 1QS

4. Nếu giá bóng tennis là 4$ cho mỗi container, thì các nhà sản xuất này có còn sản xuất không? Giải thích tại sao có thể hay tại sao không. Mỗi nhà sản xuất muốn sản xuất thì phải ở mức giá là bao nhiêu?

5. Đường chi phí biên thường phi tuyến như chúng ta giả sử đơn giản trong chương này. Tại sao lại như vậy? Vẽ đường chi phí biên của một công ty mà công ty này không thể gia tăng số lượng sản phẩm vượt quá 500 sản phẩm mỗi tháng.

6. Quay lại câu 3. Nếu thay đổi công nghệ làm dịch chuyển đường chi phí biên của nhà sản xuất B đến gần đường chi phí biên của nhà sản xuất C, hãy tính chi phí tiết kiệm được của nhà sản xuất B ở mức sản lượng là 2 sản phẩm (trong 1.000 sản phẩm). 7. Giả sử 3 nhà sản xuất bóng tennis như câu 4 thuộc cùng một công ty và mỗi nhà sản xuất là một nhà máy của công ty này. Hãy dùng Nguyên tắc cân bằng biên để giải thích làm thế nào công ty xác định được sản lượng cho mỗi nhà máy.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Điều gì sẽ xảy ra với đường tổng cầu khi người tiêu dùng mong chờ giá sản phẩm tăng (hay giảm) trong tương lai? Tình huống này có làm suy yếu lý thuyết được trình bày trong chương này?

2. Lôgic của việc cho lợi ích bằng với giá sẵn lòng trả có thể cho chúng ta kết luận rằng làm sạch không khí mà người thu nhập thấp đang thở có thể tạo ra lợi ích ít hơn so với làm sạch không khí thở của người thu nhập cao. Liệu diều này có làm xói mòn ý tưởng cho rằng lợi ích là bằng với giá sẵn lòng trả? Các nhà kinh tế sẽ giải quyết vấn đề khó xử này như thế nào?

3. Các loại yếu tố nào ảnh hưởng đến hình dạng của đường chi phí biên? Các đường chi

phí biên trong cùng ngành có khác nhau đáng kể không?

4. Hãy giải thích cho một người không học kinh tế tại sao các giá trị biên là rất quan trọng trong phân tích kinh tế học. Bạn sẽ đối đầu như thế nào với lập luận của người này rằng họ không bao giờ quyết định dựa vào sự định giá biên?

Barry Field & Nancy Olewiler

16