intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kinh tế thị trường - sự hình thành và phát triển

Chia sẻ: Phan Văn Thành | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:35

152
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường-sự hình thành và phát triển có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế. Một mặt, cho ta thấy được tính khách quan của nền kinh tế thị trường, và sự cần thiết phải phát triển kinh tế Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước ở nước ta hiện nay, thấy được những gì đã đạt được và chưa đạt được của Việt nam . Mặt khác, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về nền kinh...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kinh tế thị trường - sự hình thành và phát triển

  1. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Kinh tế thị trường 1
  2. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Câu hỏi của bài tiểu luận : ”trình bày những hiểu biết về kinh tế th ị trường? ưu và những khuyết tật c ủa nền kinh t ế thị trường?” Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế . Sau đại hôị Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi mới :phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa- đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường-sự hình thành và phát triển có ý nghĩa vô cùng to lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế. Một mặt, cho ta thấy được tính khách quan của nền kinh tế thị trường, và sự cần thiết phải phát triển kinh tế Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước ở nước ta hiện nay, thấy được những gì đã đạt được và chưa đạt được của Việt nam . Mặt khác, giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về nền kinh tế nước nhà, đồng thời thấy được vai trò to lớn của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, những giải pháp nhằm đưa nước ta tiến nhanh lên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới mà lớn hơn thế còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng vấn đề đặt ra là: Thực hiện mô hình này bằng cách nào để hạn chế tiêu cực, tăng tích cực giúp cho kinh tế nước ta ngày càng phát triển sánh vai cùng các cường quốc năm châu khác? để hi ểu r õ h ơn v ề n ền kinh tế thi tr ư ờng là g ì s ự ảnh hư ởng c ủa chúng ra sao th ì ch úng ta đi v ào n ội dung c ủa b ài. B. NỘI DUNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG I.1. Khái niệm kinh tế thị trường là gì? Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua - bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường( người bán cần tiền, người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội trong đó, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào việc kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của thị trường Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các quan hệ kinh tế trong quá trình phát triển sản xuất xuất hiện đều được tiền tệ hoá, các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm và dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng mua bán, là hàng hóa 2
  3. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Ngoài ra khi nói về khái niệm về kinh tế thị trường thì chúng ta còn có thêm hai quan điểm khác nhau nữa được đưa ra trong hội thảo về "kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa" do hội đồng lý luận trung ưng tổ chức: Một là, xem "Kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hóa Ilàm người phân phối các nguồn lực chủ yếu; lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là phương thức tổ chức vận hành kinh tế - xã hội, không tốt mà cũng không xấu. Tốt hay xấu là do người sử dụng nó. Theo quan điểm này, kinh tế thị trường là vật "trung tính", là "công nghệ sản xuất" ai sử dụng cũng được Hai là, xem "Kinh tế thị trường " là một loại kinh tế - xã hội - chính trị, nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm trù hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không chỉ phải cá nhân riêng lẻ, đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay giai cấp này; có hại cho tầng lớp, giai cấp khác Tóm lại: Kinh tế thị trường là một trong những phương thức tồn tại (phương thức hoạt động) của nền kinh tế mà trong đó các quan hệ kinh tế đều được biểu hiện thông qua quan hệ hàng hoá - thị trường (tức là mọi vấn đề của sản xuất và tiêu dùng đều được thông qua việc mua bán trên thị trường). Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá và vì thế nó hoàn toàn khác với kinh tế tự nhiên - là nền kinh tế quan hệ dưới dạng hiện vật, chưa có trao đổi. I.2. Tính quy luật và sự hình thành kinh tế thị trường Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình xã hội hoá sản xuất thông qua các quá trình sau: I.2.1. Tổ chức phân công và phân công lại lao động xã hội Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hoá lao động và theo đó là chuyên môn hóa sản xuất thành những ngành nghề khác nhau Do có phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hoặc một vài thứ sản phẩm. Song nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều thứ khác nhau, để th ỏa mãn nhu cầu đòi hỏi cần có sự trao đổi sản phẩm giữa họ với nhau Tổ chức xã hội hoá của sản xuất thể hiện ở chỗ do phân công lao động xã hội, nên sản phẩm của người này trở nên cần thiết cho người khác, cầu cho xã hội Phân công xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng, mối quan hệ giữa các ngành,các vùng ngày càng chặt ch ẽ. T ừ đó xoá b ỏ tính tự túc, tự cấp, bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động Sự phân công lao động diễn ra trong nội bộ ngành; trong các ngành với nhau Do sự phát triển như vũ bão của khoa học - công nghệ, mối liên hệ gi ữa các phân xưởng, giữa các công đoạn trong nội bộ xí nghiệp ngày càng mật thiết, tinh vi hơn; hàng vạn công nhân, công trình sư, các nhà khoa h ọc ph ải hi ệp đ ồng th ống nhất, cùng nhau nỗ lực mới làm cho hoạt động sản xuất tiến hành trôi chảy đ ược, phạm vi phân công hợp tác đã vượt xa quá trình gia công trực ti ếp đ ối t ượng lao động, và trở thành quá trình toàn bộ bao gồm nghiên c ứu khoa h ọc phát minh sáng chế, thiết kế lập chương trình, tự động điều khiển, sử lý thông tin, ch ế tạo, bảo dưỡng thiết bị….Đồng thời tình hình đòi hỏi ngày càng nhiều những xí nghi ệp khác nhau cung cấp máy móc thiết bị, linh ki ện, nguyên li ệu, còn s ản ph ẩm s ản 3
  4. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại xuất ra phải chuyển nhanh ngay đến những thị trường có lợi ngày càng xa hơn. Điều đó cho thấy tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng xã hội hoá Cách mạng khoa học - công nghệ sau chiến tranh đã đẩy quá trình phân công xã hội tư bản và chuyên môn hoá lên đến trình độ sâu r ộng ch ưa t ừng th ấy. Hình thành sự phân công giữa các bộ phận lấy thành quả khoa học làm c ơ sở, làm cho chuyên môn hoá sản phẩm ngày càng sâu sắc, hình thành chuyên môn hoá linh ki ện, chuyên môn hoá công nghệ, chuyên môn hoá kỹ thuật, bảo dưỡng thi ết b ị và hậu cần sản xuất. Liên hệ kinh tế giữa các xí nghiệp ngày càng m ật thi ết, làm tăng cường tính phụ thuộc lẫn nhau, quá trình sản xuất của xí nghi ệp cá bi ệt hoàn toàn dung hợp thành một quá trình sản xuất thống nhất Chuyên môn hoá ngày càng phát triển thì quan hệ hợp tác giữa các xí nghiệp, các khu vực ngày càng mật thiết, hiệp tác trao đổi th ương ph ẩm trên th ị trường phát triển thành quan hệ hiệp tác ngày càng bền vững Phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất trên th ế gi ới cũng m ở rộng nhanh. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, các nước ngày càng liên h ệ ch ặt chẽ với nhau, lệ thuộc vào nhau, sự giao lưu tư bản, trao đổi m ậu d ịch ngày càng phong phú. I.2.2. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất Sở hữu là hình thức xã hội lịch sử nhất định của sự chiếm hữu Các hình thức sở hữu: Hình thức đầu tiên là công h ữu, sau đó do s ự phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của riêng, xuất hiện tư hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở mức độ, quy mô và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát tri ển của lực l ượng sản xuất và lợi ích của chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn, công h ữu th ể hi ện thông qua sở hữu của nhà nước, sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân th ể hi ện ở t ư bản t ư h ữu lớn, tư hữu nhỏ. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó phát sinh tất yếu do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất cũng như quá trình xã hội hoá nói chung đòi hỏi. Đồng thời, nhằm thoả mãn nhu cầu, lợi ích ngày càng tăng và kh ắc ph ục sự bất lực, yếu kém của chủ thể kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh. S ở hữu hỗn hợp hình thành thông qua hợp tác, liên doanh, liên kết tự nguyện, phát hành mua bán cổ phiếu Sở hữu nhà nước: là hình thức sở hữu mà nhà nước là đại di ện cho nhân dân sở hữu những tài nguyên, tài sản, những tư li ệu sản xuất chủ yếu và nh ững của cải của đất nước. Sở hữu nhà nước nghĩa là nhà n ước là chủ sở hữu, còn quyền sử dụng giao cho các tổ chức, đơn vị kinh tế và các cá nhân để phát tri ển một cách hiệu quả nhất Sở hữu tập thể: là sở hữu của những chủ thể kinh tế (cá nhân người lao động) tự nguyện tham gia. Sở hữu tập thể biểu hiện ở sở hữu tập thể các hợp tác xã trong nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, vận tải,…. ở các nhóm, t ổ, đ ội và các công ty cổ phần Sở hữu hỗn hợp: là hình thức phù hợp, linh hoạt và hi ệu quả trong th ời kì quá độ. Mỗi chủ thể có thể tham gia một hoặc nhiều đơn vị tổ chức kinh tế, khi thấy có lợi Sở hữu tư nhân của sản xuất nhỏ: là sở hữu về tư liệu sản xuất c ủa bản thân người lao động. Chủ thể của sở hữu này là nông dân, cá th ể, th ợ th ủ công, tiểu thương. Họ vừa là chủ sở hữu đồng thời là người lao đ ộng. ở quy mô và phạm vi rộng hơn là tư hữu của tiểu chủ, chủ trang trại có lao động Sở hữu tư nhân tư bản: là hình thức sở hữu của các nhà tư bản vào các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của nền kinh tế 4
  5. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại I.2.3. Quá trình tiến hành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công ngh ệ làm xuất hiện các thị trường mới Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất là cuộc cách mạng k ỹ thuật diễn ra vào nửa sau của thế kỉ XVIII. Cuộc cách mạng làm xuất hiện công cụ máy móc để thaythế công cụ thủ công. Đại công nghiệp máy móc đã d ẫn đến s ự biến đổi to lớn trong cơ cấu ngành nghề thúc đẩy sự phát tri ển to lớn c ủa l ực lượng sản xuất xã hội cũng như nền chính trị xã hội đã dẫn đến sự ra đ ời c ủa ch ủ nghĩa tư bản trên phạm vi thế giới Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai nổ ra vào n ửa sau thế kỉ XIX. Cuộc cách mạng lần này có tiêu chí chủ yếu là vận dụng rộng rãi sức đi ện và sự phát minh ra động cơ đốt trong, khiến cho loài người bước vào th ời đại đi ện khí hoá. Mở ra con đường tự động hoá sản xuất. Cuộc cách mạng đẩy quá trình xã h ội hoá sản xuất của các nước tư bản chủ nghĩa lên trình độ cao hơn, quan h ệ kinh t ế quốc tế mở rộng nhanh chóng Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba n ổ ra sau chi ến tranh th ế giới II. Tiêu chí chủ yếu của cuộc cách mạng nàylà sự phát tri ển và áp d ụng r ộng rãi kỹ thuật nguyên tử và điện tử. Khoa học - công nghệ trở thành l ực l ượng s ản xuất trực tiếp, mở đầu thời đại tự động hoá toàn bộ Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thúc đẩy sự xã hội hàng lo ạt ngành nghề mới và làm cho những ngành nghề cũ được cải tạo. Cu ộc cách m ạng làm cho cơ cấu ngành nghề của các nước có sự thay đổi lớn. Trong thời kì kinh t ế tăng trưởng nhanh sau chiến tranh, công nghiệp hoá dầu là tổ h ợp ngành ngh ề m ới, có tác dụng quan trọng. Ngày nay những ngành nghề mới xuất hi ện nhờ có sự phát triển sâu sắc của cách mạng khoa học - công nghệ đã không ch ỉ có m ột hai ngành mà xuất hiện hàng loạt ngành công nghiệp mới như công nghi ệp đi ện tử, công nghiệp quang học, công nghiệp nguyên tử, công nghi ệp sinh vật, công nghi ệp ch ế biến, công nghiệp tầu vũ trụ….. phát triển mạnh mẽ. Sự xuất hi ện các tổ hợp ngành nghề mới, các ngành nghề cũ không bị xoá bỏ, mà được c ải t ạo m ột cách triệt để. Việc sử dụng rộng rãi máy dệt không có thoi, đầu máy hơi n ước, sự phát triển rộng rãi của lò luyện thép điện và đúc gang thép liên hoàn, sự tăng v ọt c ủa h ệ thống máy công cụ điều khiển và người máy công nghi ệp… .Tất cả những cái đó khiến cho các ngành công nghiệp cũ như: dệt, xe lửa, gang thép, máy công c ụ… đều đổi mới về chất lượng. Sự phát triển của cách m ạng khoa h ọc - công ngh ệ giúp cho các ngành nghề mới và các ngành nghề cũ ngày càng kết h ợp ch ặt chẽ v ới nhau. Các ngành mới lấy công nghiệp truyền thống làm chỗ dựa và th ị tr ường ch ủ yếu cho sự phát triển của mình, các ngành cũ thì dựa vào các ngành c ải tạo k ỹ thuật mà tăng thêm sức mạnh mới Mặt khác cách mạng khoa học - công nghệ còn tạo ra m ột loạt thị tr ường mới như: thị trường công nghệ, thị trường vốn, thị trường lao đ ộng, th ị tr ường tài chính tiền tệ…Tất cả những thị trường này đều có mối quan hệ m ật thi ết với nhau, và sự phát triển của chúng đều phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học - công nghệ I.2.4. Sự phát triển phân công và trao đổi ở phạm vi quốc tế Do phân công lao động nên mỗi người chỉ sản xuất m ột hay m ột vài s ản phẩm nhất định. Song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng c ủa mỗi người c ần có nhi ều loại sản phẩm. Vì vậy, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào nhau. Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động được mở rộng thì dần dần xuất hiện trao đổi hàng hoá Quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xu ất, làm cho họ tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, người sản xuất 5
  6. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản ph ẩm lao động cho nhau Từ 1980 đến nay, xu hướng toàn cầu hoá phát triển m ạnh m ẽ, lôi cu ốn nhiều nước ở khắp các châu lục trên thế giới vào thị trường quốc tế. Đặc trưng của hiện tượng này là sự chuyển động nguồn tư bản quốc tế khổng l ồ, s ự hình thành các công ty xuyên quốc gia và làn sóng người di cư. S ự tác đ ộng c ủa toàn c ầu hoá sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị, xã hội, tư pháp ho ạt động mang tính khu vực và quốc tế ra đời Khi cách mạng công cụ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển thì sẽ tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp mới ra đời thúc đẩy các ngành, lĩnh v ực kinh tế và hệ thống giao thông vận tải phát triển đồng bộ. Sự phát tri ển đó phá v ỡ tính tự cấp,tự túc, mở rộng thị trường giao lưu, trao đổi hàng hoá không ch ỉ trong ph ạm vi quốc gia mà còn diễn ra trên thị trường khu vực và thế giới. Lúc này nhu cầu tiêu dùng của dân cư không chỉ được đáp ứng bằng năng lực sản xuất của từng qu ốc gia riêng lẻ, mà còn được cung cấp từ các nước khác trên thế giới và khu vực Sự phân bố không đều về tài nguyên, khí hậu và môi trường dẫn đ ến s ự khác nhau về trình độ phát triển, thu nhập, mức sống vật chất và tinh thần. Đây là nguyên nhân của những làn sóng di dân từ vùng có m ật độ dân số cao, đi ều ki ện kiếm việc làm khó khăn, thu nhập thấp, đời sống khó khăn đến nơi có dân c ư thưa thớt, dễ kiếm việc làm, thu nhập cao, môi trường sống tốt hơn. Đi ều đó di ễn ra thường xuyên trong quá trình phát triển của xã hội loài người Mặt khác con người phải tìm các biện pháp khắc phục tình trạng khan hiếm tài nguyên bằng cách giao thương, trao đổi, mua bán hàng hoá tiêu dùng và các lo ại tài nguyên khoáng sản nhằm khai thác nguồn lực dư thừa c ủa các n ước để kh ắc phục tình trạng khan hiếm, thiếu hụt nguồn lực của n ước mình. Nh ững yếu t ố này tạo nên xu thế tất yếu phục vụ cho nhu cầu phát tri ển c ủa tất c ả các qu ốc gia trên thế giới. Bởi vì trên thế giới không có một quốc gia nào có đầy đủ các yếu tố nguồn lực để tự mình xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững Như vậy toàn cầu hoá kinh tế nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm và phân bố tài nguyên không đều, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng c ủa con người ngày càng cao và s ố lượng dân cư ngày một nhiều. Nhưng nhiệm vụ đó chỉ được di ễn ra khi mà khoa học - công nghệ và lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao Do thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, sự bùng nổ thông tin và tự động hoá ở trình độ cao, xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xu ất đã t ạo đi ều ki ện hình thành các công ty xuyên quốc gia và xu hướng sáp nhập các công ty nh ỏ thành các công ty có quy mô khổng lồ để tăng khả năng cạnh tranh, nhằm đ ộc chi ếm vai trò chi phối thị trường quốc tế và khu vực đang ngày một tăng nhanh I.3. Các bước phát triển của kinh tế thị trường I.3.1. Từ nền kinh tế tự nhiên chuyển sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn Mặc dù có những đặc điểm riêng, nhưng tất cả các ph ương th ức s ản xu ất tiền tư bản chủ nghĩa đều có nét chung là nền kinh tế tự nhiên. Trong n ền kinh t ế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế. Nền kinh tế tự nhiên do nhi ều đ ơn v ị kinh t ế thuần nhất hợp thành và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ việc để tạo ra những sản phẩm cuối cùng Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nông nghiệp là ngành sản xuất cơ bản, công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa vào lao động chân tay là chủ yếu, chỉ có trong một số trang tr ại c ủa đ ịa ch ủ ho ặc ph ường hội mới có hiệp tác lao động giản đơn. Trong nền kinh tế dưới chế độ phong kiến, phân công lao động kém phát triển, cơ cấu ngành đơn điệu, m ới ch ỉ có m ột số 6
  7. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại ngành nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng, có tính chất tự cung, tự cấp Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng giản đơn. điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của phân công xã h ội. Phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá. Xu hướng phát triển của phân công xã hội là biến việc sản xuất không những từng sản phẩm riêng bi ệt, mà vi ệc s ản xuất từng bộ phận của sản phẩm, từng thao tác trong chế bi ến sản phẩm thành những ngành công nghiệp riêng biệt. Công nghiệp chế biến tách kh ỏi công nghi ệp khai thác và mỗi ngành công nghiệp đó lại chia thành nhi ều lo ại và phân lo ại nh ỏ. Chúng sản xuất ra dưới hình thức hàng hoá - những sản phẩm riêng bi ệt và đem trao đổi với những sản phẩm của các ngành sản xuất khác. Chính sự phát tri ển ngày càng sâu rộng đó của phân công xã hội là nhân t ố ch ủ yếu d ẫn đ ến hình thành thị trường trong nước. Hình thành nên những khu vực nhà n ước chuyên môn hoá và dẫn đến sự trao đổi không những giữa sản phẩm với sản phẩm công ngh ệ, mà c ả giữa các sản phẩm nhà nước với nhau Sự phát triển của công nghiệp và nông nghiệp, sự hình thành trung tâm công nghiệp, sức hút của chúng đối với dân cư ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nông thôn, thúc đẩy nông nghiệp hàng hoá phát triển Những người sản xuất ở những vùng khác nhau có những điều ki ện t ự nhiên khác nhau, có khả năng và ưu thế trong sản xuất những sản ph ẩm khác nhau có hiệu quả hơn. ngay trong một vùng, một địa phương, những người sản xuất cũng có những khả năng, điều kiện và kinh nghiệm sản xuất khác nhau. Mỗi người sản xuất chỉ tập trung sản xuất sản phẩm nào mà mình có ưu th ế, đem sản ph ẩm của mình trao đổi (mua và bán) lấy những sản phẩm c ần thi ết cho s ản xu ất và đ ời sống của mình. Họ trở thành những người sản xuất hàng hoá. Trao đ ổi, mua bán, thị trường, tiền tệ ra đời và phát triển Sản xuất hàng hoá ra đời, lúc đầu dưới hình thức sản xuất hàng hoá nh ỏ, giản đơn, nhưng là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại I.3.2. Từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang nền kinh tế tự do c ổ điển Quá trình chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế tự do c ổ điển được thực hiện qua ba giai đoạn phát triển cả về lực lượng sản xuất, c ả về quan hệ sản xuất mới thích ứng với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất Kỹ thuật thủ công dựa trên lao động hiệp tác giản đơn: Hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa dựa trên c ơ sở kỹ thuật thủ công, v ới quy mô lớn hơn so với tổ chức sản xuất phường hội và sản xuất nh ỏ cá th ể. Trong giai đoạn hiệp tác giản đơn, công nhân phụ thuộc vào nhà tư bản v ề kinh t ế nh ưng vẫn còn độc lập về mặt kỹ thuật. Để tổ chức hiệp tác lao động, b ước đ ầu tiên phải tập trung tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó tập trung sức lao động.Tập trung hiệp tác lao động đòi hỏi phải có sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân, bảo đảm sự nhịp nhàng trong hoạt động sản xuất đạt đến m ục đích chung. V ới sản xuất quy mô lớn, trong hiệp tác giản đơn, phải mua cả đống nguyên li ệu và buôn bán hàng hoá, do đó đã làm xuất hiện một mạng lưới mua gom nguyên liệu và bán lẻ hàng hoá, từ đó thúc đẩy việc sản xuất và trao đổi sâu rộng trong xã h ội. Hiệp tác giản đơn đã bước đầu làm xuất hiện sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, nâng cao năng suất lao động xã hội lên rất nhiều. Việc hiệp tác gi ản đơn làm xuất hiện sản xuất lớn về mặt quy mô là một bước ngoặt rất quan trọng từ sản xu ất nh ỏ lên sản xuất lớn Phân công công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa: 7
  8. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Sự phát triển của hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới hi ệp tác có phân công, làm xuất hiện các công trường thủ công tư bản ch ủ nghĩa. Công trường thủ công là hình thức xí nghiệp tư bản thực hi ện sự hi ệp tác có phân công dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công. Công trường thủ công hình thành b ằng cách t ập hợp những thợ thủ công khác nghề, hoặc những thợ thủ công cùng ngh ề vào trong một xưởng để cùng sản xuất ra một loại hàng hoá Đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật của công trường thủ công là: Quá trình sản xuất được phân chia thành những giai đoạn, những công vi ệc bộ phận đ ể có sản phẩm hoàn chỉnh, trên cơ sở đó mỗi công nhân chỉ chuyên làm m ột công vi ệc bộ phận. Đặc điểm của sự phân công này là chuyên môn hoá hẹp. Cơ sở kỹ thuật vẫn là thủ công với công cụ chuyên dùng, phân ph ối sản xuất theo kinh nghiệm cổ truyền nên chủ yếu dựa vào tay nghề khéo léo của công nhân. Cơ cấu tổ chức của công trường thủ công là những người lao đ ộng b ộ ph ận, sử dụng công cụ chuyên dùng thích ứng, hợp thành lao động tập thể Đại công nghiệp cơ khí: Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển vững chắc. Do đó, trong quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản tự tạo cho nó một c ơ sở kỹ thuật tương ứng là máy móc, đưa chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn công trường thủ công lên giai đo ạn đại công nghiệp cơ khí. Máy móc được sử dụng phổ bi ến trong xã h ội thông qua cuộc cách mạng công nghiệp. Đó là cuộc các mạng kỹ thuật thay thế lao động th ủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Công cuộc c ơ khí hoá ở m ột ngành d ẫn đ ến việc thúc đẩy quá trình cơ khí hoá ở một ngành có liên quan. C ơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ở các ngành liên quan. C ơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ngành giao thông vận tải… cơ khí hoá bắt đầu từ ngành công nghiệp nhẹ đến các ngành công nghiệp nặng. Máy móc và đại công nghiệp có tác dụng chủ yếu làm năng su ất lao động xã hội tăng vọt, xã hội hoá lao động và sản xu ất ngày càng cao, m ở r ộng th ị trường, thúc đẩy sự ra đời của các trung tâm công nghi ệp và những thành th ị l ớn; đồng thời, tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật 8
  9. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại I.3.3. Từ nền kinh tế thị trường tự do chuyển sang n ền kinh t ế th ị tr ường h ỗn hợp Xuất phát từ những khuyết tật của cơ chế thị trường: Do chạy theo lợi nhuận cho nên các doanh nghiệp thường gây ô nhiễm môi trường, thường khai thác tài nguyên một cách bừa bãi dẫn tới làm m ất cân bằng sinh thái mà doanh nghiệp không phải đền bù một khoản thiệt hại nào Cơ chế thị trường dễ làm xuất hiện căn bệnh: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát và suy thoái Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, dễ phát sinh nh ững tiêu cực xã hội Kinh tế thị trường là một bước phát triển sau của kinh tế tự nhiên và khi kinh tế hàng hoá phát triển tới trình độ cao thì đó chính là kinh t ế th ị tr ường. Trong cơ chế thị trường thì do những khuyết tật của nó dẫn đến phá vỡ cân đối c ủa n ền kinh tế, gây lãng phí nhiều nguồn lực: tư liệu sản xuất, lao động, tạo ra sự phân hóa xã hội. Vì vậy nhà nước phải có vai trò nhất định để khắc ph ục những nh ược điểm trên Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kì tự do cạnh tranh thì kinh tế thị trường phát triển theo tư tưởng lý thuyết bàn tay vô hình thì nhà n ước không can thiệp kinh tế. điều đó dẫn đến việc khủng hoảng kinh tế sau này (1929 - 1933). Vì vậy đã xuất hiện lý thuyết kinh tế của Keyes yêu cầu nhà n ước phải can thiệp kinh tế và đến năm 1948 đã xuất hiện lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp trong đó có sự kết hợp của hai nhân tố: sự điều tiết c ủa thị trường (Bàn tay vô hình) và sự can thiệp của chính phủ (Bàn tay hữu hình) và cả hai nhân tố này đ ều tác đ ộng vào nền kinh tế Nhà nước có chức năng: Định hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật ch ất kỹ thuật Thiết lập về một khuôn khổ về pháp luật, xây dựng hệ thống cơ sở nhất quán tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho kinh tế phát triển Hạn chế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường Trực tiếp đầu tư một số lĩnh vực của nền kinh tế: những ngành kinh tế công cộng, năng lượng, cầu nhiều vốn…. Quản lý và bảo vệ tài sản công, kiểm kê, kiểm soát hoạt động kinh t ế - xã hội Phân phối hợp lý các nguồn lực sản xuất I.4. Các nhân tố của cơ chế thị trường Một nền kinh tế muốn vận hành được thì trước tiên phải dựa vào c ơ chế thị trường có nghĩa là phải dựa vào bộ máy tự động của cả cung, c ầu, giá cả hàng hoá, với môi trường cạnh tranh, động lực là lợi nhu ận. Các b ộ ph ận h ợp thành c ơ chế thị trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau, như là nh ững khâu trong guồng máy. Giá cả là cái nhân của thị trường, cung cầu là trung tâm và c ạnh tranh là linh hồn là sức mạnh của thị trường I.4.1. Cung - cầu hàng hoá: Cầu hàng hóa: là số lượng hàng hoá hay dịch vụ mà người mua có kh ả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong cùng một thời gian Cung hàng hoá: là số lượng hàng hoá ho ặc dịch v ụ mà người bán có kh ả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định Như vậy để có cầu hàng hoá phải có ba điều kiện: mong muốn mua, có khả năng mua và mức giá 9
  10. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Để có cung hàng hoá cũng phải có ba điều ki ện: mong mu ốn sản xu ất, có khả năng sản xuất và mức giá Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả của hàng hoá giảm. Và ng ược l ại khi c ầu lớn hơn cung thì giá cả của hàng hóa sẽ tăng. Và đến khi cung v ề hàng hoá nào đó trên thị trường vừa đúng bằng cầu của hàng hoá thì lúc đó cung - c ầu ở tr ạng thái cân bằng, xác định mức giá cả là giá cả cân bằng. Song vì cung và c ầu luôn bi ến động nên cân bằng cung - cầu luôn biến động theo. Giá c ả th ị tr ường c ủa hàng hoá là do tương quan của cung và cầu trên thị trường quyết định. Nhưng đ ồng th ời khi giá cả biến động thì nó cũng tác động tới việc thu hẹp hay m ở rộng quy mô s ản xuất. Những tác động của cung - cầu đối với thị trường: Quan hệ cung cầu góp phần đính chính giá cả th ị tr ường và lập l ại, khôi phục lại sự cân đối của nền kinh tế Quan hệ cung - cầu còn trực tiếp làm ảnh hưởng tới lợi ích kinh t ế c ủa người sản xuất và người tiêu dùng; người bán và người mua I.4.2. Giá cả Giá cả trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu về một lo ại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó, sự biến động của giá cả sẽ tác động đ ến người bán và ng ười mua: Cụ thể khi cầu cao hơn cung thì người bán sẽ tăng giá, đi ều đó s ẽ thúc đ ẩy cho người sản xuất mở rộng quy mô để làm tăng cung. Trong trường h ợp ngược lại cung lớn hơn cầu thì người bán phải giảm giá xuống. Khi đó người sản xuất sẽ giảm quy mô để giảm cung và cuối cùng cân đối gi ữa quan hệ cung - c ầu đ ược tái lập để lập lại cân bằng mới Chức năng của giá cả: Giá cả có chức năng thông tin (nghĩa là các tin tức về giá c ả trên th ị tr ường sẽ giúp cho các đơn vị kinh tế, các cá nhân người lao động đưa ra những quyết định về sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của mình Giá cả có chức năng phân bố các nguồn lực: khi giá biến động tăng gi ảm thì các nguồn lực của sản xuất sẽ dịch chuyển giữa các ngành Giá cả có chức năng thúc đẩy đổi m ới những ti ến b ộ k ỹ thuật công ngh ệ. Trong sản xuất, người ta luôn luôn tìm cách giảm bớt hao phí lao đ ộng xã h ội c ần thiết. Để từ đó dẫn tới giảm giá thành để thu được lợi nhuận siêu ngạch (là ph ần giá người sản xuất thu được nhiều hơn người sản xuất khác nhờ ti ến b ộ khoa h ọc - kỹ thuật) Giá cả có chức năng thực hiện phân phối và phân phối lại thu nh ập qu ốc dân cũng như thu nhập cá nhân thông qua chính sách giá cả Giá cả có chức năng thực hiện việc lưu thông hàng hoá. Khi giá c ả bi ến động thì sẽ tác động tới hành vi người tiêu dùng và qua đó tác đ ộng vào l ưu thông hàng hoá làm thay đổi nhu cầu người tiêu dùng I.4.3. Cạnh tranh Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các xí nghiệp, các tổ chức kinh tế trong vi ệc tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh là m ột t ất y ếu c ủa n ền kinh tế thị trường Các chức năng của cạnh tranh: Cạnh tranh có thể điều chỉnh một cách nhanh chóng các hành vi s ản xu ất tiêu dùng của xã hội Cạnh tranh thúc đẩy sự tiến bộ của kỹ thuật Cạnh tranh thoả mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng 10
  11. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Cạnh tranh tạo chính sách cho việc phân phối thu nhập ban đ ầu nghĩa là các doanh nghiệp nào thắng trong cạnh tranh thì sẽ thu được lợi nhuận h ơn đ ối phương Các loại cạnh tranh gồm có: Cạnh tranh trong nước và cạnh tranh trên thị trường nước ngoài Cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau theo ba h ướng: giá cả, chất lượng hàng hoá và thực hiện các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng Cạnh tranh giữa một bên là những người bán và một bên là nh ững ng ười mua Cạnh tranh giữa những người mua với nhau. Trên thương tr ường không có chuyện "đơn phương độc mã" mà là "buôn có bạn, bán có phường" Cạnh tranh kích thích tính năng động, tính tự ch ủ c ủa các doanh nghi ệp, vì thế nó làm cho kinh tế thị trường phát triển rất năng động (hoàn toàn khác v ới n ền kinh tế tự nhiên, nền kinh tế trong thời kì bao cấp) Cạnh tranh huy động được mọi nguồn lực của xã hội vào vi ệc phát tri ển kinh tế Cạnh tranh thúc đẩy được cải tiến kỹ thuật và sử dụng công nghệ mới Cạnh tranh hiệu quả là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo sự phân bổ tối ưu các nguồn lực và hệ quả mà nó mang lại là năng suất tối ưu.Cạnh tranh thúc đẩy các nguồn lực di chuyển tới nơi nào có hiệu quả nhất bởi người sản xuất muốn sử dụng chúng để đem lại lợi nhuận càng nhiều, càng tốt I.4.4. Tiền tệ Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá chung cho các loại hàng hóa khác. Nó biểu hiện chung của giá trị, nó bi ểu hi ện tính ch ất xã hội của lao động và là quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá Chức năng của tiền tệ: Là thước đo giá trị (đây là chức năng cơ bản của ti ền tệ): ti ền dùng đ ể đo lường và biểu hiện giá trị của hàng hoá, mọi hàng hoá đ ều đ ược bi ểu hi ện giá tr ị của nó bằng tiền. Tiền tệ được coi như là sản phẩm của lao động Là phương tiện lưu thông: tiền là vật môi giới trong quan hệ lưu thông hàng hoá Là phương tịên cất giữ giá trị: tiền được rút khỏi lĩnh v ực l ưu thông và mang vào cất trữ. Khi cần lại đem mua hàng và tiền được xem như m ột thứ c ủa cải của xã hội Là phương tiện thanh toán: tiền được dùng để chi trả sau khi một công vi ệc đã hoàn thành hoặc dùng để trả nợ Chức năng tiền tệ thế giới: trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau và tiền lúc này phải là vàng, bạc, ngoại tệ mạnh… I.4.5. Lợi nhuận Trong kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi ph ối ho ạt đ ộng c ủa người kinh doanh. Lợi nhuận đưa các doanh nghi ệp đến các khu v ực s ản xu ất các hàng hoá mà người tiêu dùng cần nhiều hơn, bỏ qua các khu vực có ít người tiêu dùng. Lợi nhuận cũng đưa các nhà doanh nghiệp đến vi ệc sử dụng kỹ thu ật sản xuất hiệu quả nhất. Như vậy, hệ thống thị trường luôn phải dùng lãi và lỗ để quyết định ba vấn để: sản xuất cái gì?, sản xuất như thế nào?, sản xuất cho ai? Lợi nhuận chính là mục tiêu kinh tế cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị tr ường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong mu ốn chi phí cho các đầu vào ít nhất và bán hàng hoá v ới giá cao nh ất đ ể sau khi tr ừ đi 11
  12. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại các chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất gi ản đơn mà còn tái s ản xu ất m ở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng c ường vị trí c ủa mình trên thị trường Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình kinh doanh kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu c ầu thị trường, chu ẩn bị và tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, đến khâu tổ chức bán hàng và d ịch v ụ cho thị trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh I.5. Các quy luật của kinh tế thị trường I.5.1. Quy luật giá trị Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị Quy luật giá trị là quy luật chi phối cơ chế thị trường và chi phối các quy luật kinh tế khác, các quy luật kinh tế khác là biểu hiện yêu cầu của quy luật giá trị mà thôi Quy luật giá trị quyết định giá cả hàng hoá, dịch vụ, mà giá c ả là tín hi ệu nhạy bén nhất của cơ chế thị trường Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa ph ải đ ược ti ến hành trên cơ sở của việc hao phí lao động xã hội cần thiết: Trong sản xuất nó đòi hỏi người sản xuất luôn luôn có ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết Trong lĩnh vực sản xuất :Đối với việc sản xuất m ột thứ hàng hóa riêng bi ệt thì yêu cầu của quy luật giá trị được biểu hiện ở chỗ: hàng hoá của người sản xuất muốn bán được trên thị trường, muốn được xã hội thừa nhận thì lượng giá tr ị c ủa một hàng hoá cá biệt phải phù hợp với thời gian lao đ ộng xã h ội c ần thi ết. Đ ối v ới một loại hàng hoá thì yêu cầu quy luật giá trị thể hi ện là tổng giá tr ị c ủa hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội Trong lĩnh vực trao đổi : Việc trao đổi phải tiến hành theo nguyên tắc ngang giá. Quy luật giá trị biểu hiện sự hoạt động c ủa mình thông qua s ự vận đ ộng c ủa giá cả xung quanh giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá tr ị, giá tr ị là c ơ s ở c ủa giá c ả, những hàng hoá có hao phí lao động lớn thì giá tr ị c ủa nó l ớn d ẫn đ ến giá c ả cao và ngược lại. Đối với mỗi hàng hoá thì giá cả hàng hoá có th ể bằng ho ặc nh ỏ h ơn hoặc lớn hơn giá trị nhưng đối với toàn bộ hàng hóa của xã hội thì chúng ta luôn luôn có tổng giá cả hàng hóa bằng tổng giá trị Tác dụng của quy luật giá trị: quy luật giá trị tự phát điều tiết việc sản xuất và lưu thông hàng hóa thông qua sự biến động của cung - c ầu th ể hi ện qua giá c ả trên thị trường I.5.2. Quy luật cung cầu Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hoá được sản xuất và đưa ra th ị trường để thực hiện (để bán). cung do sản xuất quyết định, nó không đ ồng nhất với sản xuất Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã h ội. Do đó, cầu không đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là nhu c ầu t ự nhiên, nhu c ầu bất kì theo nguyện vọng tiêu dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán Cung - Cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động l ẫn nhau trên thị trường, ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung - c ầu t ồn t ại và hoạt động một cách khách quan. Cung - cầu tác động lẫn nhau: 12
  13. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hoá. những hàng hoá nào đ ược tiêu thụ thì mới được tái sản xuất. Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng c ầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, hình thức, quy cách và giá cả của nó Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực ti ếp đến giá c ả. Đây là s ự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Nếu nhận th ức được chúng thì chúng ta vận dụng để tác động đến ho ạt động sản xu ất kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho quá trình tái sản xuất xã hội. Nhà n ước có th ể v ận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các bi ện pháp kinh t ế nh ư: giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi c ơ cấu tiêu dùng. Đ ể tác động vào các hoạt động kinh tế theo quy luật cung - c ầu, duy trì nh ững t ỷ l ệ cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý I.5.3. Quy luật canh tranh Cạnh tranh là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm người, gi ữa người mua và người bán hay giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Hai nhóm này tác đ ộng lẫn nhau với tư cách là một thể thống nhất, m ột hợp lực. ở đây cá nhân ch ỉ tác động với tư cách là một bộ phận, một lực lượng xã h ội, là m ột nguyên t ử c ủa m ột khối. Chính dưới hình thái đó mà cạnh tranh đã vạch rõ cái tính chất xã hội c ủa sản xuất và tiêu dùng Bên canh tranh yếu hơn cả cũng đồng thời là cái bên mà ở đó m ỗi cá nhân đều hoạt động một cách độc lập với đông đảo những người cạnh tranh v ới mình và thường thường là trực tiếp chống lại những người đó. Chính vì sự ph ụ thu ộc lẫn nhau giữa một người cạnh tranh cá biệt với những người khác l ại càng thêm rõ ràng. Trái lại bên mạnh hơn bao giờ cũng đương đầu với đối phương với tư cách là một chỉnh thể ít nhiều thống nhất Người mua làm cho giá thị trường càng thấp, càng tốt. M ỗi người ch ỉ quan tâm đến đồng nghiệp trong chừng mực thấy đi với họ có lợi hơn việc chống lại họ Khi một bên yếu hơn bên kia thì hành động chung sẽ chấm dứt, m ỗi người sẽ tự lực xoay sở lấy. Nếu một bên chiếm ưu thế thì mỗi người bên đó đều s ẽ được lợi, tất cả diễn ra như là họ cùng nhau thực hiện độc quyền chung vậy Cạnh tranh như một tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. C ạnh tranh có tác dụng san bằng các giá cả mấp mô để có giá cả trung bình, giá tr ị th ị tr ường và giá cả sản xuất đều hình thành từ cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các ngành Tóm lại: Trong cơ chế thị trường, quy luật cạnh tranh như m ột công c ụ, phương tiện gây áp lực cực mạnh thực hiện yêu cầu của quy luật giá trị, c ạnh tranh trong một cơ chế vận động chứ không phải cạnh tranh nói chung I.5.4. Quy luật lưu thông tiền tệ Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định lượng ti ền c ần cho l ưu thông. Lượng tiền cần cho lưu thông chính bằng tỷ số gi ữa tổng giá c ả hàng hoá với tốc độ lưu thông tư bản Trong thực tế: lượng tiền cần cho lưu thông bằng tỷ số gi ữa tổng giá c ả hàng hóa trừ đi tổng tiền khấu trừ, trừ đi tổng giá c ả bán ch ịu c ộng v ới t ổng ti ền thanh toán với tốc độ lưu thông tư bản Quy luật lưu thông tiền tệ tuân theo các nguyên lý sau: Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá quyết định Tiền đại diện cho người mua, hàng đại diện cho người bán. Lưu thông ti ền tệ có quan hệ chặt chẽ với tiền - hàng, mua - bán, giá cả - tiền tệ 13
  14. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại Kinh tế hàng hoá trên một ý nghĩa nhất định có thể gọi là kinh tế ti ền t ệ, quyết định cơ chế lưu thông tiền tệ Mặt khác cơ chế lưu thông tiền tệ còn phụ thuộc vào c ơ chế xuất nhập khẩu, cơ chế quản lý kim loại quý, cơ chế kinh doanh tiền của ngân hàng Nếu quy luật canh tranh, quy luật cung - c ầu làm giá hàng hoá vận đ ộng, san bằng thì quy luật lưu thông tiền tệ giữa mối liên hệ cân bằng giữa hàng và tiền Ngoài ra còn một số loại quy luật khác như: quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm, quy luật khủng hoảng kinh tế , quy luật tâm lý… cũng ảnh hưởng đến cơ chế thị trường II.Phân tích những yếu tố trong nền kinh tế thị trường II.1Người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường Người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường và kinh tế chỉ huy phải đưa ra nhiều loại quyết định giống nhau: họ mua thực phẩm, quần áo, nhà cửa, phương tiện đi lại và giải trí trong giới hạn khả năng tài chính của mình, và họ mong muốn có khả năng mua nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, người tiêu dùng có vai trò quan trọng hơn trong cơ chế hoạt động tổng quát của nền kinh tế thị trường so với vai trò của họ trong nền kinh tế chỉ huy. Thực tế là các nền kinh tế thị trường đôi khi được miêu tả như là các hệ thống thuộc “chủ quyền của người tiêu dùng” vì các quyết định chi tiêu hàng ngày theo sự lựa chọn của người tiêu dùng sẽ quyết định một phần lớn đến việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ gì trong nền kinh tế. Điều này xảy ra như thế nào? Giá cả và thu nhập của người tiêu dùng Một yếu tố kinh tế khác mà người tiêu dùng phải xem xét cẩn thận khi mua hàng hóa và dịch vụ chính là mức thu nhập của họ. Hầu hết mọi người đều có thu nhập từ công việc mà họ thực hiện dù họ là bác sĩ, thợ mộc, giáo viên, thợ sửa ống nước, công nhân lắp ráp hay thư ký trong các cửa hàng bán lẻ. Một số người cũng nhận được thu nhập từ việc cho thuê hoặc bán đất và các tài nguyên thiên nhiên khác mà họ sở hữu dưới hình thức lợi nhuận từ một công việc kinh doanh hoặc một doanh nghiệp, hoặc từ lãi tiền gửi tiết kiệm hoặc từ các khoản đầu tư khác. Sau này chúng ta sẽ mô tả về cách xác định những khoản thu nhập đó; nhưng những điểm quan trọng là: 1) trong một nền kinh tế thị trường, các tài nguyên cơ bản được dùng để tạo ra các hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng do các cá nhân và gia đình sở hữu; 2) các khoản tiền nhận được, hay thu nhập, mà các gia đình thu được từ các nguồn lực sản xuất đó, tăng hay giảm – và sự biến động đó có tác động trực tiếp đến số tiền mà người tiêu dùng sẵn sàng chi tiêu cho những hàng hóa và dịch vụ mà họ cần, và tiếp theo là đến mức sản lượng của công ty bán ra những sản phẩm đó. Ví dụ, hãy xem xét một nhân viên vừa mới nghỉ hưu và vì vậy chỉ có thu nhập bằng khoảng 60% số tiền mà bà ta nhận được khi còn đi làm. Bà ta sẽ giảm bớt việc mua nhiều hàng hóa và dịch vụ – đặc biệt là những thứ liên quan đến công việc như trả tiền đi lại và quần áo tại nơi làm việc – nhưng bà có thể tăng chi tiêu cho một vài sản phẩm khác như báo chí và giải trí vốn đòi hỏi phải có thêm thời gian rảnh rỗi mới dùng được, có lẽ bao gồm cả đi du lịch để tham quan những thắng cảnh mới và thăm bạn bè cũ. Giống như ở nhiều nước hiện nay, nếu số lượng người đến tuổi về hưu tăng lên nhanh chóng, những cách thức chi tiêu thay đổi nói trên sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ giá cả thị trường và mức sản xuất đối với những sản phẩm này, và nhiều sản phẩm khác mà người nghỉ hưu có xu hướng sử dụng nhiều hơn những người khác, như dịch vụ y tế. Để đáp ứng, một số doanh nghiệp sẽ quyết định sản xuất thêm 14
  15. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại các sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng nhu cầu của người nghỉ hưu – chừng nào việc đó vẫn còn đem lại lợi nhuận cho các công ty sản xuất ra chúng. Tóm lại, dù người tiêu dùng già hay trẻ; nam hay nữ; giàu, nghèo hay trung lưu; mỗi đồng đô-la, pê-xô, bảng, ơ-rô, ru-pi, đi-na hoặc yên mà họ chi tiêu chính là tín hiệu – một kiểu bỏ phiếu về phương diện kinh tế, nói cho người sản xuất biết họ cần phải sản xuất loại hàng hóa và dịch vụ gì. Chi tiêu của người tiêu dùng đại diện cho nguồn cầu căn bản đối với các sản phẩm được bán trên thị trường, ảnh hưởng phân nửa đến việc xác định giả cả thị trường của hàng hóa và dịch vụ. Nửa còn lại dựa trên quyết định của các doanh nghiệp về việc sản xuất cái gì và như thế nào. LẠM PHÁT VÀ CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: Một trong những vấn đề hóc búa nhất mà các xã hội phải đối mặt trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường là lạm phát. Tuy nhiên, đó là thách thức mà các xã hội đó phải vượt qua nếu muốn được hưởng những lợi ích vật chất mà nền kinh tế thị trường có thể mang lại. Chính xác thì lạm phát là gì? Đó là sự tăng lên của mức giá trung bình của hàng hóa và dịch vụ được sản xuất và tiêu thụ trong một nền kinh tế. Lạm phát thường xảy ra trong một nền kinh tế thị trường vì một trong hai lý do sau: hoặc là người dân tăng chi tiêu nhanh hơn mức người sản xuất có thể tăng sản lượng hàng hóa và dịch vụ, hoặc có một sự sụt giảm về lượng cung hàng hóa và dịch vụ cho người tiêu dùng và/hoặc người sản xuất, do đó làm giá cả tăng lên. Lạm phát đôi khi được mô tả là sự tăng lên về lượng tiền so với sự giảm đi về số lượng hàng hóa. Lạm phát gây ra khó khăn đối với các nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, bởi vì sự tự do hóa giá cả – xóa bỏ sự quản lý của chính phủ về giá cả – là một bước đi căn bản để tiến tới một nền kinh tế thị trường. Kết quả đầu tiên của sự tự do hóa giá cả là có thể tiên đoán – một đợt tăng giá đối với các hàng loạt hàng hóa vẫn bị thiếu hụt kinh niên. Vì sao? Bởi vì chính phủ cố ý giữ giá những sản phẩm này ở mức thấp nên cầu luôn vượt quá cung, hoặc do các sai lệch về kinh tế khác và những sự không hiệu quả gây ra bởi những người ra quyết định trong chính phủ. Ngoài ra, nếu người dân đang giữ một lượng tiền lớn vào thời điểm nền kinh tế chuyển đổi (vì lượng tiền cần để mua hàng rất ít) thì áp lực của lạm phát thậm chí lại càng gia tăng. Tuy nhiên, phần thưởng cho việc trải qua cuộc lạm phát tất yếu này trong giai đoạn chuyển đổi lại rất lớn. Không bị kìm hãm bởi chính phủ, cơ chế thị trường về cung và cầu có thể bắt đầu hoạt động. Giá cả cao phát tín hiệu về nhu cầu cao và thị trường, thay vì chậm chạp như lúc đầu, đã có phản ứng bằng việc tăng sản xuất. Tiền của người dân có thể đã mất giá trị, nhưng số tiền mà họ có lúc này có giá trị thật và người tiêu dùng có thể mua các hàng hóa đang bắt đầu xuất hiện trong các cửa hàng. Cùng với cung hàng hóa tăng lên, giá cả trở nên ổn định và không còn thấy những dòng người xếp hàng vì người tiêu dùng nhận ra rằng sẽ ngày càng có 15
  16. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại thêm nhiều loại hàng hóa phong phú tiếp tục được bán ra. Các doanh nghiệp và nhà đầu tư phản ứng trước sự tự do kinh tế mới bằng việc khởi sự công việc kinh doanh mới và cạnh tranh với nhau trong việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ, do đó tạo ra công việc, mở rộng lượng cung và làm giá cả ổn định hơn. Yếu tố then chốt trong sự chuyển đổi này là chính phủ từ bỏ vai trò của mình trong việc áp đặt giá cả và cho phép các lực lượng thị trường là cung và cầu xác lập giá cả đối với hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ. Khi một thị trường tự do như vậy hình thành, lạm phát có thể vẫn kéo dài nhưng vấn đề này dễ quản lý hơn nhiều và bớt đi tính đe dọa so với những ngày đầu khó khăn của quá trình chuyển đổi. Sự tàn phá và đau khổ do một cơn bùng nổ tăng giá gây ra trong một nền kinh tế chuyển đổi (được gọi là siêu lạm phát) rất rõ ràng đối với tất cả mọi người. Tuy nhiên, mức lạm phát thấp hơn điển hình trong nền kinh tế thị trường có thể trở thành vấn đề hay không? Liệu mọi người có giàu lên chăng khi không có lạm phát và giá cả cũng như thu nhập vẫn thấp như cách đây 100 năm? Chưa chắc. Nếu thu nhập của Robert và Maria tăng gấp 10 lần và giá cả của mọi thứ cũng tăng lên như vậy thì họ chẳng khấm khá hơn so với trước đó. Lý do mà người dân trong nền kinh tế thị trường quan tâm đến lạm phát trong những khoảng thời gian ngắn hơn là vì khi giá cả tăng lên, thu nhập và sự giàu có được phân phối lại theo một cách tùy ý không liên quan đến sản lượng hoặc năng suất của công nhân và các công ty. Ví dụ, giả sử Robert và Maria đã mua một ngôi nhà và vay tiền để trả với lãi suất là 10%. Sau đó, tỷ lệ lạm phát tăng từ 5% lên 15%. Họ sẽ có lợi từ những sự thay đổi này vì số tiền mà họ trả nợ sẽ không có giá trị bằng số tiền khi họ vay ban đầu để mua ngôi nhà. Nói cách khác, số tiền đó không đủ để mua được số hàng hóa và dịch vụ như lúc ban đầu. Đó là tin vui cho Robert và Maria nhưng lại là tin xấu đối với những người cho họ vay tiền. Cũng tương tự như vậy, những ai có lương hưu cố định (hoặc nhận được các khoản tiền cố định khác theo một hợp đồng dài hạn) sẽ bị ảnh hưởng bởi lạm phát, trong khi những người phải thanh toán theo yêu cầu của những hợp đồng đó lại có lợi. Những người để dành tiền và các nhà đầu tư cũng bị ảnh hưởng vì lạm phát làm giảm giá trị của số tiền của họ. Ngược lại, những người có thể phải trả nợ hoặc thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng khác bằng đồng tiền bị lạm phát thì thường có lợi, trừ khi lãi suất và các khoản thanh toán khác được phép điều chỉnh theo mức lạm phát. Các quốc gia cần tiền tiết kiệm và các khoản tiền vay để đầu tư thêm cho tư liệu sản xuất – nhà xưởng, nhà máy và công nghệ mới. Do đó, bằng việc làm ảnh hưởng đến người tiết kiệm, lạm phát có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng về lâu dài của một quốc gia. Và thậm chí nhìn rộng ra, lạm phát làm cho hoạt động kinh doanh và kinh tế khó dự đoán hơn, do đó khiến cho đầu tư vào các nước khác có lạm phát thấp hoặc không có lạm phát trở nên hấp dẫn hơn. Liệu một công ty sẽ xây dựng một nhà máy ở một nước có tỷ lệ lạm phát không dự đoán được thay đổi trong khoảng từ 10% đến 15%, hay ở một địa điểm có tỷ lệ lạm phát trước đây ổn định trong khoảng từ 2% đến 5%? Câu trả lời là ở địa điểm sau. Như 16
  17. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại vậy, lạm phát làm cho số người bị thua thiệt trở nên nhiều hơn so với số người được lợi bằng cách phá hủy môi trường kinh tế đối với tất cả các cá nhân và doanh nghiệp. Vì tất cả những lý do này, chính sách ổn định giá của chính phủ phải cân bằng được giữa nhu cầu khuyến khích tăng trưởng kinh tế và sự đòi hỏi phải kiểm soát được lạm phát. II.2Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường: Như chúng ta đã thấy, sự thành công của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào việc thỏa mãn khách hàng bằng cách sản xuất những sản phẩm mà họ muốn, và bán các hàng hóa và dịch vụ với giá cả có thể cạnh trạnh được với các doanh nghiệp khác. Để làm được điều này các doanh nghiệp cần phải giải đáp một cách cẩn thận một trong những vấn đề quan trọng nhất mà mọi cơ chế kinh tế phải đối mặt: đó là làm thế nào để một xã hội có thể sản xuất hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả nhất? Trong nền kinh tế thị trường, điều đó có nghĩa là làm sao đạt được giá trị đầu ra tối đa từ các yếu tố đầu vào mà các nhà sản xuất sử dụng Ví dụ :Sản xuất xe đạp:Hãy xét trường hợp một công ty đang nghiên cứu sản xuất và bán xe đạp. Trước khi bắt đầu một công việc kinh doanh như vậy, bất kỳ doanh nghiệp hoặc công ty nào cũng phải cân nhắc hàng loạt các vấn đề. Trước tiên, tiềm năng và bản chất nhu cầu của khách hàng đối với loại xe đạp mới này là gì? Liệu có một thị trường lớn, duy nhất cho các xe đạp thông thường không? Hay là thị trường xe đạp được chia thành nhiều thị trường nhỏ hơn, hay thị trường ngách, cho các loại xe đạp đặc biệt dành cho trẻ em, các loại xe đạp đua hoặc xe đạp leo núi chuyên dụng? Một xu hướng mới, như sự xuất hiện xu hướng bất ngờ của cái gọi là “xe đạp biểu diễn” mà những người khéo léo có thể dùng để biểu diễn nhào lộn, cũng có thể hấp dẫn các nhà sản xuất mới – những người thấy có cơ hội để kiếm lợi nhuận. Mặt khác, các nhà cung cấp tiềm năng có thể đơn giản cảm thấy rằng họ chỉ cần phát triển những kỹ thuật sản xuất cải tiến đối với loại xe đạp thông thường, hoặc sản xuất với giá nhân công thấp hơn là các công ty có thể bán với giá thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trên thị trường mà vẫn có lợi nhuận. Không chỉ có rất nhiều loại xe đạp để sản xuất, mà còn có rất nhiều cách để sản xuất ra chúng – từ việc sử dụng một dây chuyền lắp ráp tự động hiện đại để sắp xếp hàng ngàn các bộ phận giống nhau và lắp thành xe đạp, tới việc sử dụng nhiều lao động hơn và ít máy móc hơn để thiết kế và sản xuất các loại xe đạp chuyên dụng. Một lần nữa, công ty đưa ra các quyết định trong cơ chế thị trường phải cân nhắc một số loại giá khác nhau để có thể tăng hay giảm tùy theo phản ứng của người mua và bán sản phẩm đó. Ví dụ, giá cả của các yếu tố đầu vào mà các công ty phải trả tất nhiên là đóng một vai trò lớn trong việc xác định bao nhiêu thép, nhôm, lao động, máy móc và các nguyên liệu khác mà công ty sẽ sử dụng để sản xuất xe đạp của mình. Nếu giá thép tăng lên và giá nhôm giảm xuống, rất nhiều công ty xe đạp sẽ tìm cách sử dụng nhiều nhôm hơn và ít thép đi. Tương tự, nếu lương của công nhân tăng mạnh, các công ty sẽ thấy nên tìm cách sử dụng máy hoặc vốn nhiều hơn và sử dụng ít lao động hơn. Ví dụ, công ty có thể quyết định mua nhiều máy nâng hàng hơn và giảm nhân công trong việc vận chuyển nguyên vật liệu trong các nhà kho. Hoặc công ty có thể sử dụng nhiều máy móc hơn để hàn những mối hàn thông thường và 17
  18. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại lặp lại ở xe đạp của mình và do đó thuê ít công nhân hàn hơn. (Kết quả là số công nhân trong các nhà máy sản xuất máy hàn để sử dụng trong các nhà máy sản xuất xe đạp sẽ tăng lên). Bất kỳ công việc kinh doanh mạo hiểm nào như vậy đều kéo theo nhiều yếu tố may rủi: mẫu thiết kế xe đạp mới có thể thất bại trong việc hấp dẫn khách hàng, hoặc chi phí sản xuất có thể cao đến mức không ngờ, khiến giá các mặt hàng xe đạp của công ty đó không được thị trường chấp nhận. Các công ty phải hoàn toàn lãnh chịu các rủi ro thất bại – và thu được những thành quả kinh tế nếu họ có kế hoạch tốt và công việc kinh doanh xe đạp của họ thành công. Sự cân nhắc giữa rủi ro và thắng lợi của các cá nhân và các công ty tư nhân cho thấy vai trò quan trọng của chính phủ trong mọi nền kinh tế thị trường, đó là bảo vệ quyền sở hữu tài sản tư nhân và thực thi luật pháp về hợp đồng. Quyền sở hữu phải được xác định rõ trong luật pháp, và các chủ doanh nghiệp và các nhà đầu tư phải được đối xử như nhau theo luật và các quy định thương mại dù họ là công dân của nước đó hay người nước ngoài. Chỉ khi nào quyền tự do sở hữu không sợ bị chính quyền đe dọa tước đoạt, hay bị các nhóm thế lực bóc lột, thì các cá nhân và các công ty mới sẵn sàng chịu rủi ro về tiền bạc để đầu tư vào việc kinh doanh mới hoặc mở rộng kinh doanh. Ngoài ra, họ cũng phải chắc chắn rằng hệ thống luật pháp của nhà nước sẽ giải quyết mọi tranh chấp hợp đồng trên một cách công bằng và nhất quán. Tóm lại, mọi doanh nghiệp, dù là trong nước hay của nước ngoài, đều phải sẵn sàng đương đầu với những bất ổn của nền kinh tế trong việc kinh doanh của mình – nhưng không thể bị đương đầu với sự bất trắc về luật pháp hoặc chính trị đối với tính hợp pháp của doanh nghiệp của họ. Cạnh tranh và năng suất Việc một công ty thực hiện các điều chỉnh khi giá cả các yếu tố đầu vào thay đổi là một phần quan trọng trong việc đảm bảo sản xuất có hiệu quả và cạnh tranh với các công ty khác sản xuất các sản phẩm tương tự. Các công ty không giảm được chi phí sản xuất của mình có thể cố gắng tính giá cao hơn cho các sản phẩm của mình; nhưng điều này sẽ không thực hiện được nếu các công ty khác có thể sản xuất hàng hóa với chất lượng tương tự với chi phí lại thấp hơn và bán chúng với giá thấp hơn. Người tiêu dùng sẽ có lợi từ sự cạnh tranh giữa các công ty vì họ mua được sản phẩm tốt hơn với giá thấp hơn. Và nếu phần lớn các hàng hóa và dịch vụ mà họ mua đều được làm ra trong các thị trường mang tính cạnh tranh ở mức độ cao, thì ngân sách của họ sẽ cho phép họ mua nhiều sản phẩm hơn với cùng một khoản thu nhập mà họ kiếm được. Tuy nhiên, thậm chí trong các thị trường cạnh tranh, không phải tất cả các công ty đều chọn sử dụng những nguyên liệu hoặc phương thức sản xuất hoàn toàn giống nhau. Trong rất nhiều trường hợp, các phương thức sản xuất phản ánh những loại xe đạp khác nhau hoặc các sản phẩm khác mà họ lựa chọn sản xuất. Ví dụ, công ty sản xuất xe đạp trẻ em đơn giản hoặc xe đạp cho người lớn để đi làm hàng ngày sẽ có nhiều khả năng muốn sản xuất một số lượng lớn các xe đạp giống nhau và lắp ráp chúng với những nguyên vật liệu được tiêu chuẩn hóa và bằng phương pháp lắp ráp theo dây chuyền. Bằng cách này, họ có thể giữ chi phí sản xuất và giá cả ở mức rất thấp. Mặt khác, các công ty chuyên sản xuất xe đạp đua chuyên dụng có nhiều khả năng sử dụng nhân công và các dụng cụ thiết kế đặc biệt nhiều hơn và các kim loại đắt tiền hơn, nhưng ít sử dụng máy dập và dây chuyền lắp ráp để làm các bộ phận giống nhau. Không có gì ngạc nhiên khi giá của 18
  19. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại xe đạp chuyên dụng luôn cao hơn giá của xe được sản xuất hàng loạt ở các nhà máy lớn. Tất nhiên, lý tưởng nhất là mọi người đều muốn thấy tất cả những thứ mà họ mua đều phải trải qua cạnh tranh gay gắt – do đó giá bán giảm xuống – nhưng lại không muốn có nhiều cạnh tranh của những người khác trong công việc mà họ làm để có được thu nhập – do đó lương bổng của họ vẫn giữ ở mức cao. Nói một cách tổng quát hơn thì mọi người dường như đều thích tiền lương cao và chi phí sản xuất thấp (kể cả chi phí lao động là phần lớn nhất trong chi tiêu của hầu hết các công ty), bởi điều này có nghĩa là mọi người sẽ có thể mua được nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Nhưng không một cơ chế kinh tế nào có thể đảm bảo cùng lúc tiền lương cao và giá cả thấp vì tiền lương của công nhân đại diện cho phần chi phí lao động của công ty trong việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ mà nó sản xuất ra. Nói cách khác chừng nào các chi phí khác và số cầu không thay đổi thì việc nâng tiền lương của mọi người chỉ đơn thuần làm tăng chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, theo thời gian, có nhiều cách để người lao động và các công ty vượt qua sự bế tắc này – đó là, có thu nhập và lợi nhuận cao hơn mà không phải tăng giá bán sản phẩm cho người tiêu dùng và do đó tránh nguy cơ bị đối thủ cạnh tranh loại ra khỏi thị trường. Câu trả lời là tăng năng suất, hay mức sản lượng mà một ngành công nghiệp hoặc một công ty có được từ mỗi công nhân hoặc mỗi đơn vị yếu tố đầu vào được sử dụng để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ. Để tăng năng suất, người lao động và các công ty phải phát triển các sản phẩm mới cho thị trường, hoặc sản xuất hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh với chi phí thấp hơn hoặc với chất lượng tốt hơn. Tóm lại, các sản phẩm của họ phải mới hơn, tốt hơn và rẻ hơn. Mức sản xuất cao hơn biện minh được cho mức lương và mức sống cao hơn. Năng suất cao hơn có nghĩa là sản lượng của mỗi công nhân sẽ cao hơn, từ đó biến thành sự thịnh vượng hơn, điều này có thể được chia thành tiền lương cao hơn và mức sống tốt hơn. Cắt giảm chi phí và sản xuất hiệu quả hơn là những cách để làm tăng năng suất; nhưng trong các nền kinh tế dựa trên công nghệ hiện đại, nghiên cứu và đổi mới lại mang tính quyết định đối với sự ổn định về năng suất và tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia và thế giới. Những công nghệ tiến bộ trong máy tính, viễn thông và mã di truyền sinh học là kết quả của các nghiên cứu, thí nghiệm và thử nghiệm khoa học. Những tiến bộ này diễn ra liên tục trong nền kinh tế thị trường khi các công ty muốn tìm cách phát triển những sản phẩm và dịch vụ mới, hoặc sản xuất ra những sản phẩm hiện tại một cách hiệu quả hơn. Kết quả là các công việc mới đem lại nhiều cơ hội và mang lại sự thịnh vượng cho tất cả mọi người. Đây cũng là cách mà tất cả những người lao động và các doanh nghiệp trong một quốc gia có thể nâng cao vị thế cạnh tranh của họ trong nền kinh tế thế giới, để nâng cao mức sống vật chất của họ qua thời gian. NĂNG SUẤT: YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH ĐỂ NÂNG CAO MỨC SỐNG Mức sống vật chất trong một quốc gia chủ yếu được xác định bằng lượng hàng hóa và dịch vụ mà người dân trong nước đó có thể sản xuất và tiêu dùng. Đó là lý do vì sao các thước đo năng suất lao động cơ bản trong một quốc gia – sản lượng hàng hóa và dịch vụ do một người lao động tạo ra – rất quan trọng: năng suất càng tăng nhanh thì mức sống vật chất cũng tăng 19
  20. Trường Cao Đẳng Kinh tế Đối ngoại nhanh hơn. Bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ tăng năng suất hàng năm ở một số quốc gia công nghiệp hàng đầu trong nửa thế kỷ qua. Khi thoáng nhìn các con số có vẻ bé nhỏ nhưng sự khác biệt có thể rất quan trọng qua thời gian. Ví dụ, tỷ lệ tăng ổn định hàng năm ở mức 3% sẽ làm tăng gấp đôi lượng hàng hóa và dịch vụ đối với người tiêu dùng (tính trên đầu người) trong khoảng 24 năm, trong khi tỷ lệ tăng năng suất ở mức 2% đòi hỏi phải mất 36 năm để làm tăng gấp đôi mức sản lượng nói trên, và với mức tăng năng suất 4% chỉ cần 18 năm để làm việc đó. Đó là những sự khác biệt đủ lớn để người dân nhận biết được, đặc biệt khi mức tăng trưởng ở một số nước lại nhanh so với các nước khác. Năm 2002, Hoa Kỳ ghi nhận mức tăng năng suất cao nhất trong 15 năm là 6,4% trong khi mức sống của người dân Hoa Kỳ vẫn cao hơn ở các nước khác được nêu trong bảng dưới đây. Sự thật là các nước khác đã và đang tăng trưởng nhanh hơn và sắp bắt kịp mức năng suất trung bình ở Hoa Kỳ. Cách thức đuổi kịp, hay hội tụ, không có gì khác thường. Trên thực tế, Hoa Kỳ đã tự bắt kịp và vượt qua các nước giàu hơn trong các thế kỷ trước, mặc dù năng suất và mức sống tiếp tục tăng lên ở các quốc gia như Anh và Pháp. Nói khái quát hơn thì các nước nghèo thường có thể bắt kịp với các nước giàu bằng cách bắt chước các sản phẩm và công nghệ được phát triển ở các nước công nghiệp hóa cao hơn, đôi khi sử dụng chính những sản phẩm và hàng hóa đó mà có lợi hơn vì giá nhân công rẻ hơn hoặc có phương thức sản xuất hiệu quả hơn. Trong một vài thập kỷ, những hoàn cảnh đặc biệt có thể ảnh hưởng đến năng suất. Ví dụ, trong những năm 1950, nhiều quốc gia có tên trong bảng dưới đây nhanh chóng tái thiết nền kinh tế của mình từ đống đổ nát sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, tuy rằng sự tăng trưởng kinh tế mau chóng đó không phải toàn diện. Có nhiều nhân tố khác dẫn đến sự sụt giảm mức tăng trưởng trong giai đoạn sau năm 1973 ở tất cả các nước trong bảng dưới đây cũng như ở hầu hết các nước công nghiệp khác. Một lý do là sự tăng giá dầu thô đột ngột bởi các thành viên trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) – đặc biệt là vào năm 1973 và 1979 – làm cho nhiều nhà máy và công nghệ sử dụng các nhiên liệu từ dầu mỏ trở thành lỗi thời hoặc ít nhất là kém hiệu quả. Với số thiết bị có hiệu quả giảm xuống, công nhân không thể sản xuất nhiều hàng hóa và dịch vụ – dẫn đến giảm năng suất lao động và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Những năm 1970 cũng là khoảng thời gian khi hai bộ phận dân cư – thanh thiếu niên và phụ nữ vốn trước đây ít khi hoặc không bao giờ phải lao động – bắt đầu tìm việc làm với số lượng chưa từng thấy ở rất nhiều nước trong số này. Giống như phần lớn những người lần đầu tiên đi làm, mức năng suất của hai nhóm này lúc đầu thấp hơn những người lao động có kinh nghiệm, làm cho năng suất lao động và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tạm thời 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2