Lịch sử cần sự thật
Kmạnh tng thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc,
quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều
quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng
và giữ gìn một cách trung thực.
Hồi đầu năm nay đã rlên skiện một nữ nghiên cứu sinh người Việt tại Mỹ tên
Đào Ngọc Bích viết bài cho BBC nói rằng Việt Nam là t Trung Quốc mà ra(!)
để rồi ngay sau đó bị đông đảo luận trong ngoài nước "đánh" cho tả tơi, rơi
rụng. Không chỉ vậy, chính cô cựu sinh viên Đại học Ngoại ngữ Hà Nội này, trong
ntự lực bào chữa cho mình, đã "đổ tại" quá trình đào tạo môn lịch sử khi còn
ở Việt Nam.
Mới đây luận lại được một phen bức xúc nữa khi một vị giáo sư người Trung
Quốc tên Vương Hàn Lĩnh cho rằng "k tnăm 1885 về trước Việt Nam là
thuộc quốc của Trung Quốc".
Thực ra không phải chỉ một mình Bích hay ông Lĩnh mà còn khá đông đảo
người Việt Nam và Trung Quốc đều chưa hiểu đúng về lịch sử của đất nước mình,
đặc biệt là lịch sử liên quan đến mối quan hệ lâu đời của hai quốc gia dân tộc "núi
liền núi, sông liền sông" này. nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiểu biết
lịch sử "lệch lạc" như vậy nhưng một nguyên nhân sâu xa nm những "góc
khuất" trong sử sách khi nói về nguồn cội dân tộc của mỗi nước.
Vẫn biết, kẻ mạnh thường thắng kyếu, và sthôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc,
quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan
trọng tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và gigìn
một cách trung thực.
Với tinh thần đó, người viết bài này xin được nêu lên một vài điều suy nghĩ lâu
nay để mọi người cùng suy ngẫm nhằm tìm ra một lời giải.
Một là, vcội nguồn dân tộc, thnói không chỉ truyền thuyết mà csử sách
(của cả Trung Quốc và Việt Nam) dù nhiều điều chưa được làm sáng thoặc
chưa thỏa đáng, cũng cho thấy rằng nước Việt Nam ngày nay một thực thể
thống nhất duy nhất còn lại của Bách Việt - một tên gọi chung cho nhiều tộc người
Việt đã từng định ng ngàn m trước Công nguyên trên vùng lãnh thrộng
lớn từ bờ Nam Sông Dương Tử xuống miền Bắc Việt Nam ngày nay, phía Tây
giáp Tân Cương, phía Đông giáp biển Thái Bình Dương.
Ssách cũng cho thấy Người Hán "nam tiến" với thế mạnh của kỵ binh nhưng đã
phải mất hàng ngàn năm (quãng giữa thiên niên kthứ 2 trước CN đến đầu thiên
niên kthứ nhất sau CN) để xâm chiếm, chinh phục đồng hóa hầu hết các bộ
tộc hoặc vương quốc có tên tuổi của người Bách Việt (xem bản đồ minh họa*). Đó
là một quá trình kéo dài với biết bao biến cố lịch sử phức tạp mà trong đó có nhiều
sự kiện đã blãng quên hoặc bị xuyên tạc, thậm chí bị "tráo đổi" tùy theo mục đích
của các triều đại phong kiến thống trị trong c thời kỳ khác nhau, đặc biệt là thi
nhà Hán và nhà Đường.
Tuy nhiên một thực tại không thể bác bỏ là, riêng Lạc Việt mặc dù bcác triều
đại phong kiến Hán Hoa thay nhau thống trị tnăm 179 TCN đến 905 nhưng vẫn
tồn tại và phát triển với cách một quốc gia dân tộc độc lập như ngày nay. Sử
sách thường gọi đó là "thời k1.000 m Bắc thuộc" mặc dù đã rất nhiều cuộc
khởi nghĩa lớn nhỏ của người Việt liên tục nỗ ra trong suốt quá trình đó.
thnói, đó là quá trình lịch sử tang thương của Bách Việt nói chung, nhưng
cũng là trang shào hùng đối với dân tộc Việt Nam nói riêng. Stồn tại và phát
triển của Việt Nam không phải là trường hợp ngẫu nhiên mà là kết cục của cả quá
trình đấu tranh sinh tồn của người Bách Việt nói chung mà các thế hệ người Việt
Nam nói riêng cội nguồn Bách Việt nói chung không bao giờ được phép lãng
quên.
Theo truyền thuyết thì nguồn gốc tổ tiên của Việt Nam bắt nguồn từ H Động
Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) bt đầu bằng Thời đại Hồng Bàng của
Kinh Dương Vương (có ch ghi cụ thể năm 2789 TCN). Thuyết này trùng khớp
với các câu chuyện cổ tích vÂu Cơ-Lạc Long Quân, các Vua Hùng, mối tình M
Châu-Trọng Thủy và chiếc nỏ thần v.v...
Câu dân ca Việt cổ "Công cha như núi Thái Sơn (gần Hồ Động Đình), nghĩa mẹ
như nước trong nguồn chảy ra..." cũng là một sự trùng hợp. Truyền thuyết này
cũng được kiểm chứng bằng một số kết quả nghiên cứu quả khảo cổ, nhân chủng
ngôn ngữ, qua c di chđồ đá, trống đồng, nghề trồng lúa nước và những
khác biệt gen di tuyền v.v...
Kết hợp cả truyền thuyết và csta thể nhận thấy trong suốt quá trình "Nam
tiến" và "Đông tiến" của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt,
Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Man Việt, Di Việt v.v.... đều không thoát khỏi
bthôn tính đồng hóa...., để cuối cùng đều biến thành "người Hoa" hiện đại.
Nhưng riêng Lạc Việt vẫn tồn tại, thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây,
Quảng Đông và Bắc Bộ ngày nay.
Theo dòng lịch sử, ta còn thy một thực tế đã từng có rất nhiều người gốc Bách
Việt tham gia vào b máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác
nhau nhưng đã chọn Lạc Việt (sau là Chân Lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để
chống lại Vương triều trung ương (nHồ QLy, Bôn, chẳng hạn);
rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam.Cũng
đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc
nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
S cận đại Trung Quốc cũng cho thấy, cho mãi đến những năm 1940 danh từ "dân
tộc Việt" mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung
Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cm kthị giữa các
cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người "từ phương Bắc".
Bản thân người viết bài này hồi nhỏ đã có dịp học tập tại Quảng Tây nới có gần 20
triệu người dân tộc Choang (còn gọi là Tráng) vốn là hhàng của tộc Việt, mới
đây trong chuyến du lịch mấy tĩnh phía Nam Trung Quốc đã được dịp "kiểm
nghiệm"điều này qua chuyện trò với một số người bản địa. Tin tức cũng cho thấy
người Đài Loan gần đây đã viện dẫn đến yếu tố "người bản địa" Man Việt trong
cuộc đấu tranh bảo vệ sự tồn tại độc lập với Đại lục. Nhiều thông tin, dữ liệu của
các nhà nghiên cứu Bách Việt học quốc tế ng đáng được xem xét để góp phần
làm sáng thơn về nguồn gốc dân tộc nhân văn của của Việt Nam và khu vực
Đông Á và Đông Nam Á nói chung.
Thiết nghĩ, những sử liệu và skiện trên đây ít nhiều tự chúng đã nói lên những sự
thật khách quan xung quanh những "góc khuất" trong cổ sử và chính sliên quan
đến cội nguồn dân tộc và quan hgiữa hai nước Việt-Trung. Khách quan nói
đó hướng đi tích cực cho mc đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị bình đẳng
lâu dài giữa hai nước và trong khu vực nói chung.
Hai là, vnhân n, tuy chdựa vào các nguồn sử sách cổ để lại tthời "1.000
năm Bắc thuộc", ta cũng thể thấy Việt Nam là kết tinh, là đại diện của Bách
Việt. Về góc độ văn hoá, kcả phong tục tập quán, ngôn ngữ, Việt Nam và Trung
Quốc ngày nay rất nhiều điểm tương đồng, đồng thời cũng rất nhiều điểm
khác biệt. Đặc điểm này nếu được hiểu và vn dụng một cách đúng đắn sẽ c
dụng tích cực cho việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa hai
nước, chứ không có gì là không tốt như một số người có thể nghĩ.
Tuy nhiên trên thực tế không được như vậy vì quá nhiều sự thật đã bxuyên
tạc, những gtrị đã b"tráo đổi" trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm
qua mà trong đó phần lợi bao giờ cũng nghiêng vphía kẻ mạnh.