
14
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 20, Số 1, Tháng 6 – 2020
Liên quan giữa tải lượng HBV DNA và HBeAg
ở thai phụ có HBsAg dương tính
Nguyễn Văn Giang* Vũ Thị Nhung**
Liên quan giữa tải lượng HBV DNA
và lây truyền HBV giữa mẹ và con
Nhiễm vi rút viêm gan, đặc biệt là vi rút
viêm gan B (HBV) là một vấn đề mang
tính toàn cầu. Theo thống kê của tổ chức Y
tế thế giới năm 2015 đã có khoảng 3,5%
dân số trên thế giới nhiễm HBV với 257
triệu người bị viêm gan mạn tính. Người
viêm gan mạn tính có nguy cơ bị xơ gan,
ung thư gan và tử vong, họ cũng là những
nguồn lây nhiễm nguy hiểm cho người
khác.5,18,29 Theo bản đồ dịch tễ của WHO,
Việt Nam nằm trong vùng có tỉ lệ nhiễm
viêm gan B mạn tính rất cao từ 10- 20%,
trong đó, tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm
HBV từ 7,5%- 17%.29
Khi không thực hiện phòng lây truyền
bằng vắc xin và miễn dịch thụ động, khả
năng lây truyền vi rút viêm gan B từ mẹ
sang con rất cao. Xét nghiệm xác định
người nhiễm HBV là HbsAg dù có hay
không có triệu chứng lâm sàng. Ở những
người vi rút HBV đang sao chép thường
có kháng nguyên HBeAg trong huyết
thanh. Giai đoạn vi rút nhân lên là bằng
chứng cho biết tính lây nhiễm cao.
Nếu mẹ có HbeAg (+) /HbsAg (+) thì
nguy cơ lây nhiễm khi sinh từ 70% đến
90%. Nếu mẹ có HbeAg (-) /HBsAg (+)
thì nguy cơ lây nhiễm khi sinh là 10-40%
Đây là đường lây nhiễm nguy hiểm nhất
vì trẻ bị lây truyền trong thai kỳ thì 85 -
95% trẻ nhiễm HBV sẽ có diễn tiến thành
mạn tính nhưng nếu nhiễm HBV khi đã
trưởng thành thì chỉ 5% diễn tiến thành
mạn tính. Trong những người nhiễm
HBV mạn tính có 5-10% diễn tiến đến
*Bv. Hùng Vương DĐ: 0917333190
ngiang302@gmail.com
**Bv. Hùng Vương DĐ: 0903383005
bsvtnhung@yahoo.com.vn
ung thư gan, 30% tiến triển thành xơ gan
và suy gan mất bù. Cuối cùng sẽ là tử
vong.6,13 Vì vậy, ở Việt Nam, năm 2014
bộ Y tế khuyến cáo việc sử dụng thuốc
ức chế vi rút cho thai phụ có tải lượng
HBV DNA >106 copies/ml từ 28 tuần đến
sau sinh để làm giảm nguy cơ lây truyền
viêm gan từ mẹ sang con.3
Năm 2016 cả Hiệp hội nghiên cứu bệnh
gan Hoa kỳ (AASLD) và Hiệp hội nghiên
cứu bệnh gan Châu Á Thái bình dương
(APASL) đều đồng thuận khuyến cáo
điều trị thuốc kháng vi rút cho những thai
phụ có tải lượng HBV DNA ≥10 ⁶copies/
ml bắt đầu từ tuần 28-32 thai kỳ; thuốc
khuyến cáo lựa chọn là tenofovir,
telbivudine, lamivudine.
Theo kết quả nghiên cứu ở nhiều nơi trên
thế giới, trước khi sử dụng rộng rãi các
biện pháp ngừa sau tiếp xúc, trẻ sơ sinh
bị nhiễm HBV từ người mẹ mang HBsAg
vào khoảng 25% nếu như kèm theo
HBeAg (-) và tăng lên 70-90% nếu
HBeAg (+),23 nhưng từ khi sử dụng thuốc
chủng ngừa và HBIG (Hepatitis B
immune globulin) ngay sau sanh, tiếp tục
hoàn thành chương trình tiêm chủng, tỉ lệ
trẻ bị nhiễm HBV chỉ còn khoảng 0,7 -
1,1%. Tuy nhiên, đối với người mẹ mang
nồng độ HBV DNA cao, dù cho trẻ có
được chủng ngừa và dùng HBIG sớm,
đúng cách vẫn có thể bị nhiễm HBV.1,28
Trong một nghiên cứu trên 138 trẻ sinh ra
từ mẹ có HBsAg (+), Wiseman30 nhận
thấy tỉ lệ thất bại của tiêm phòng là 9%,
tất cả xảy ra trên các bà mẹ có HBeAg
(+) và HBV DNA > 8log10 copies/ml.
Nghiên cứu của H.Zou27 cho thấy tỉ lệ
chủng ngừa thất bại cao nhất ở nhóm mẹ
có HBV DNA >10⁸copies/ml với 7,6%
so với nhóm < 6, 6–6,99, 7–7,99 log10 là
0%, 3,2% và 6,7%.