VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
L Ê H Ồ N G S Ơ N
LÊ HỒNG SƠN
CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN VỊ XUYÊN,
TỈNH HÀ GIANG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2010
L U Ậ N Á N T I Ế N S Ĩ L Ị C H S Ử
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - NĂM 2016
K H Ó A I I I
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ HỒNG SƠN
CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN VỊ XUYÊN,
TỈNH HÀ GIANG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
HÀ NỘI - NĂM 2016
PGS.TS. NGUYỄN VĂN NHẬT
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của cá nhân tôi,
chưa được công bố dưới bất cứ hình thức nào, những số liệu được đưa
ra để chứng minh và đánh giá là trung thực, có cơ sở. Ngoài ra, một số
nhận xét, đánh giá hoặc số liệu của các tác giả, cơ quan, tổ chức khác
cũng được luận án sử dụng, thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.
Tác giả
Lê Hồng Sơn
i
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Văn Nhật,
người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tác giả hết sức trân trọng sự
giúp đỡ quý báu của các thầy, cô giáo trong Khoa Sử học, Học viện Khoa
học Xã hội trong quá trình học tập, nghiên cứu. Tác giả chân thành cảm ơn
tới các vị nguyên lãnh đạo huyện, các anh chị lãnh đạo các phòng ban thuộc
Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, các đồng
nghiệp tại NXB Giáo dục Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật đã tạo
điều kiện về thời gian, nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình sưu tầm tài
liệu, nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tác giả trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ,
động viên của người thân, bạn bè trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
ii
hoàn thành bản luận án này.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội nói chung .......................... 8
1.2. Các công trình đề cập đến lĩnh vực kinh tế - xã hội tại địa phương ......... 13
1.3. Những nội dung luận án kế thừa .............................................................. 22
1.4. Những nội dung luận án cần tiếp tục giải quyết ...................................... 22
CHƯƠNG 2. CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2000
2.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến kinh tế, xã hội
huyện Vị Xuyên……. ................................................................................... 24
2.2. Chuyển biến về kinh tế ................................................................. ……….38
2.3. Chuyển biến về xã hội ................................................................ ............. 55
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 68
CHƯƠNG 3. CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
3.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến của huyện Vị Xuyên
khi bước vào thế kỷ XXI ......................................................................................... 70
3.2. Chuyển biến về kinh tế ........................................................................ 75
3.3. Chuyển biến về xã hội......................................................................................... 97
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 119
CHƯƠNG 4. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
4.1. Nhận xét ................................................................................................ 121
4.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................ 131
4.3. Một số đề xuất ........................................................................................... 135
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 152
PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 168
iii
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, BẢN ĐỒ TRONG LUẬN ÁN
Hình/
Nội dung STT Trang
Biểu đồ/ Bản đồ
1 Hình 2.1. 30 Quy mô dân số và gia tăng dân số huyện Vị Xuyên thời kì 2000 - 2009
2 Hình 3.1
79, 80 Tổng sản lượng lương thực huyện Vị Xuyên 2001 - 2010 và diễn biến bình quân lương thực đầu người qua một số năm
3 Hình 3.2. 92
Diễn biến tỷ trọng lĩnh vực công nghiệp - xây dựng trong tổng GDP huyện Vị Xuyên qua một số năm
Tỷ lệ hộ nghèo (2000 - 2010) 4 Hình 3.3. 107
5 Phụ lục 1. Bản đồ tỉnh Hà Giang, năm 2010 169
6 Phụ lục 2. 170
Bản đồ hành chính huyện Vị Xuyên (năm 2010)
7 Phụ lục 3. Bản đồ dân cư huyện Vị Xuyên 171
8 Phụ lục 4. 172
Bản đồ phân định xã, thị trấn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi huyện Vị Xuyên theo trình độ phát triển, đến năm 2010
iv
9 Phụ lục 5 . 173 Biểu đồ cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên từ năm 2000 đến năm 2010
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
STT Nội dung Trang
Bảng
1 Bảng 2.1. Tổng đàn gia súc qua một số năm 44
2 Bảng 3.1 77
Cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên từ 2000 đến 2010
3 Bảng 3.2. 81
Diện tích gieo trồng cây lúa, ngô từ 2001 đến 2010
4 Bảng 3.3. 82
Diện tích và sản lượng cây chè từ 2001 đến 2010
5 Bảng 3.4. 84, 85
Số lượng đàn gia súc chủ yếu ở huyện Vị Xuyên những năm 2001 - 2010
6 Phụ lục 6. 174
Diện tích, dân số và mật độ dân số huyện Vị Xuyên năm 2009
7 Phụ lục 7.
Hiện trạng sử dung đất năm 2010 huyện Vị Xuyên 175, 176
8 Phụ lục 8. 177
v
Hiện trạng ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (2000 - 2010)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng 12 năm 1986
là một mốc đánh dấu quan trọng có ý nghĩa bước ngoặt trong đổi mới tư
duy, lý luận về kinh tế - xã hội. Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã
chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp
sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi
mới của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành
lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình
thành và phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp
trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh
chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Việc
gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo
đạt nhiều kết quả tích cực.
Thực tiễn của công cuộc đổi mới ở Việt Nam cho thấy, việc tăng
trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Bài học và kinh
nghiệm của các quốc gia phát triển cho thấy nếu tăng trưởng kinh tế mà
không giải quyết tốt các vấn đề xã hội thì sẽ dẫn đến sự mất cân đối trong
đời sống xã hội, thậm chí dẫn đến khủng hoảng. Công cuộc đổi mới ở Việt
Nam là một sự biến cải xã hội toàn diện trong các quan hệ kinh tế, trong cơ
cấu xã hội, trong hệ thống giá trị. Quá trình này tạo nên sự vượt trội về chất
ở các chỉ tiêu kinh tế, xã hội so với thời kỳ bao cấp.
Lịch sử địa phương là một bộ phận quan trọng của lịch sử dân tộc.
Nghiên cứu lịch sử địa phương tức là nghiên cứu về các đơn vị hành chính
lớn nhỏ của một quốc gia, nhằm khai thác nét độc đáo, đặc thù của địa
phương, những giá trị vật chất, văn hoá tinh thần, với những đóng góp quý
1
báu để xây dựng truyền thống, góp phần bổ sung hoàn chỉnh lịch sử dân tộc.
Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo và đường lối phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước, bộ mặt kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang nói
chung, huyện Vị Xuyên nói riêng đã từng bước được thay đổi.
Năm 1976, một năm sau ngày thống nhất đất nước, Tuyên Quang và
Hà Giang được sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên, cái tên chung Hà Tuyên đã
gắn bó đất và người hai tỉnh suốt chiều dài 16 năm. Ngày 1 tháng 10 năm
1991, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, tỉnh Hà Tuyên chính thức được
chia tách để tái lập hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Mục đích của việc
chia tỉnh là nhằm phát huy được mọi tiềm năng của từng địa phương, đẩy
mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo nâng cao đời sống đồng
bào các dân tộc.
Sau ngày tái lập, tỉnh Hà Giang có những bước đi phù hợp, khẳng
định sự phát triển với những kết quả tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực của kinh tế -
xã hội và đời sống nhân dân.
Xác định là tỉnh vùng cao biên giới, một trong những tỉnh nghèo nhất
nước, điểm xuất phát thấp, bởi vậy nghị quyết của các kỳ đại hội từ XI đến
XV Đảng bộ tỉnh Hà Giang đều xuyên suốt, chỉ rõ: Phát huy cao độ nội lực
tranh thủ cao nhất sự ủng hộ giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, từng bước vượt
khó, thoát nghèo, tất cả vì sự phát triển của Hà Giang, vì cuộc sống của
nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
Huyện Vị Xuyên có vị trí quan trọng đối với tỉnh Hà Giang nói riêng
và cả nước nói chung, phía bắc giáp huyện Quản Bạ, phía tây giáp tỉnh Vân
Nam (Trung Quốc) và huyện Hoàng Su Phì, phía đông giáp thành phố Hà
Giang và huyện Na Hang (nay thuộc huyện Lâm Bình, Tuyên Quang), phía
nam giáp huyện Bắc Quang. Vị Xuyên là huyện rộng lớn nhất trong tỉnh, là
điểm đầu của quốc lộ 2 thông với Trung Quốc qua cửa khẩu quốc gia Thanh
Thuỷ (nay là cửa khẩu quốc tế).
Toàn huyện có 24 đơn vị hành chính, gồm 22 xã và 2 thị trấn, có đường
2
biên giới quốc gia dài 32,6 km, là nơi chung sống của 18 dân tộc anh em.
Huyện được đánh giá là một trong những huyện động lực về phát triển kinh
tế của tỉnh Hà Giang.
Nhân dân Vị Xuyên có truyền thống đấu tranh cách mạng. Huyện đã
được Đảng, Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trong thời kì đổi mới xây dựng đất nước, nhân dân các dân tộc Vị Xuyên đã
đoàn kết, sát cánh bên nhau, phát triển kinh tế, xã hội, củng cố an ninh biên
giới, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xoá đói giảm nghèo, từng bước đưa huyện
phát triển hoà nhập chung với sự phát triển của tỉnh và đất nước.
Hơn nữa, Vị Xuyên lại có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, tài nguyên
phong phú, nguồn lao động khá dồi dào, đường lối chính sách phát triển
kinh tế hợp lý, được sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh… nguồn lực quan
trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng phát triển.
Hiện nay, Vị Xuyên là huyện có tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng
tăng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng theo hướng tăng dần tỷ trọng
các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong
cơ cấu GDP, các ngành kinh tế có bước phát triển tiến bộ. Tình hình phát
triển văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến, chú trọng nhiều hơn đến chất
lượng cuộc sống, hạ dần tỷ lệ hộ đói nghèo, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững, an ninh - quốc phòng được củng cố... Để đạt được kết quả đó,
Đảng bộ và nhân dân Vị Xuyên đã nỗ lực phấn đấu hết mình trong việc
thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng đã đề ra.
Trên cơ sở thực tiễn như vậy, việc đặt vấn đề nghiên cứu về quá trình
phát triển kinh tế, xã hội địa phương huyện Vị Xuyên là rất cần thiết, có ý
nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn. Trước hết, bởi cấp huyện có vị trí
quan trọng trong hệ thống tổ chức các đơn vị hành chính lãnh thổ quốc gia.
Trong khi đó, huyện Vị Xuyên lại có vị trí chiến lược đối với việc bảo vệ an
ninh và chủ quyền quốc gia trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay
và là một huyện miền núi - biên giới giáp với Trung Quốc. Hơn nữa, việc
3
nghiên cứu và nhận diện đầy đủ sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện
Vị Xuyên từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, từ chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội đến quá trình thực hiện, thành quả và những
hạn chế trong chỉ đạo và hoạt động kinh tế, xã hội của địa phương này, không
chỉ góp phần vào việc phát huy những mặt tốt, những lợi thế và khắc phục
những mặt còn hạn chế, mà còn từ đó phần nào có thể đưa ra những khuyến
nghị, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng địa phương Vị
Xuyên ngày càng phát triển, văn minh, mà còn sẽ góp phần làm sáng tỏ một
phần trong bức tranh tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang trong giai
đoạn hiện nay.
Từ xuất phát điểm như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề “Chuyển biến
kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang từ năm 1986 đến năm 2010”
làm đề tài luận án Tiến sĩ lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ những chuyển biến về kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên
trong thời gian từ năm 1986 đến năm 2010.
- Phân tích những thành công, hạn chế của quá trình phát triển kinh tế -
xã hội huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến năm 2010, rút ra những nhận xét,
đánh giá và đưa ra những đề xuất cho sự phát triển trong thời gian tiếp theo.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Trên cơ sở tiến hành sưu tầm và xử lý các nguồn tài liệu liên quan
đến đề tài luận án, chúng tôi tập trung giới thiệu về các yếu tố tác động đến
chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên, bao gồm: vị trí địa lý và điều
kiện tự nhiên của địa phương; điều kiện kinh tế, xã hội và dân cư; tình hình
quốc tế và trong nước; cũng như chủ trương, đường lối phát triển kinh tế -
xã hội của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Hà Giang từ thời điểm đất nước tiến
4
hành công cuộc Đổi mới.
- Dựng lại quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên
tỉnh Hà Giang từ năm 1986 đến năm 2010 trên hai góc độ phát triển kinh tế
và phát triển xã hội theo hai giai đoạn 1986-2000 và 2001-2010.
-Từ việc phân tích những nội dung quan trọng về chuyển biến kinh tế,
xã hội ở huyện Vị Xuyên trong khung nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số
nhận xét về vấn đề nghiên cứu, cả trên góc độ những thành công đã đạt
được cũng như những hạn chế đã mắc phải trong quá trình thực hiện đường
lối đổi mới; đồng thời làm rõ thêm về nguyên nhân của những thành công
và hạn chế đó, cũng như đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần vào việc đẩy
mạnh công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án có đối tượng nghiên cứu là sự chuyển biến kinh tế, xã hội
của huyện Vị Xuyên trong thời kỳ từ năm 1986, khi cả nước bắt đầu thực
hiện sự nghiệp đổi mới, đến năm 2010.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài giới hạn trong địa bàn huyện Vị Xuyên của tỉnh
Hà Giang, địa giới hành chính huyện gồm 22 xã và 2 thị trấn, với đặc điểm
là huyện miền núi biên giới có sự phân chia theo trình độ phát triển.
Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu quá trình huyện Vị Xuyên
thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội từ năm 1986 (năm
bắt đầu công cuộc đổi mới) đến năm 2010 (năm tổng kết 25 năm đổi mới).
Nghiên cứu kinh tế - xã hội là mảng đề tài rộng. Luận án chủ yếu tập
trung nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế về cơ cấu kinh tế và kinh tế ngành
(nông - lâm nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, thương
mại, dịch vụ); giới hạn chuyển biến xã hội về y tế, giáo dục, văn hoá thông
5
tin, lao động việc làm và thực hiện các chính sách xã hội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Về cơ sở lý luận, chúng tôi xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, xã hội,
nhất là quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về kinh tế, xã hội thời
kỳ đổi mới.
- Về phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện chủ yếu là sử
dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, phân
tích, tổng hợp và điền dã.
5. Nguồn tài liệu
- Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc, các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước về kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới; đồng thời chúng tôi
còn dựa vào các văn kiện, các chỉ thị, nghị quyết, các báo cáo tổng kết của
Đảng bộ tỉnh Hà Giang, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên... Đây
là những tài liệu mang tính chất cơ sở lý luận, định hướng phát triển chung.
- Nhóm tài liệu gốc về kinh tế - xã hội địa phương như: thống kê số
liệu của các sở, ban ngành liên quan như Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tài
nguyên và Môi trường, Cục Thống kê tỉnh Hà Giang, Phòng Thống kê
huyện Vị Xuyên… Đặc biệt là những báo cáo hằng năm về tình hình kinh tế
- xã hội của Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên và Đảng bộ huyện Vị Xuyên
từ năm 1986 đến năm 2010. Đây là nhóm tài liệu hết sức quan trọng giúp
chúng tôi dựng lên bức tranh tổng thể của kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên,
từ đó triển khai nghiên cứu ở mức độ sâu hơn. Những phân tích, đánh giá về
quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên về căn bản dựa trên
số liệu được xử lý từ nhóm tài liệu này.
- Một số tài liệu có tính chất là những công trình nghiên cứu về lịch
sử địa phương như: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang (3 tập), Lịch sử Đảng
6
bộ huyện Vị Xuyên (1939 - 2000), Hà Giang 20 năm tái lập và phát triển
(1991- 2011)...; các luận văn, bài viết được đăng tải trên các tạp chí, báo,
cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang, cổng thông tin điện tử huyện Vị
Xuyên đề cập đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang nói
chung và của huyện Vị Xuyên nói riêng giúp chúng tôi có thêm những
thông tin cần thiết cũng như những nhận định có thể tham khảo.
- Ngoài ra, để phục vụ cho việc nghiên cứu luận án, chúng tôi cũng đã
thực hiện nhiều chuyến điền dã ở địa phương để nắm tình hình cũng như thu
thập tài liệu. Kết quả của công tác điền dã, đặc biệt là những phỏng vấn hồi
cố giúp chúng tôi có thêm nguồn tư liệu cũng như cái nhìn phong phú, đa
chiều đối với đề tài luận án.
6. Những đóng góp mới của Luận án
- Luận án nghiên cứu một cách hệ thống và tái hiện chân thật quá
trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên (Hà Giang) trong giai
đoạn từ năm 1986 đến năm 2010.
- Qua việc đánh giá, phân tích chuyển biến kinh tế, xã hội ở huyện Vị
Xuyên trong những năm từ 1986 đến 2010, luận án nêu lên và làm rõ những
thành tựu và hạn chế cần được tiếp tục rút kinh nghiệm nhằm đưa ra những
giải pháp thích hợp để phát huy thế mạnh và khắc phục hạn chế.
- Luận án hoàn thành sẽ cung cấp thêm nguồn tư liệu phục vụ việc
nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy lịch sử, địa lý địa phương.
7. Kết cấu Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án
được kết cấu thành 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.
- Chương 2: Chuyển biến về kinh tế, xã hội từ năm 1986 đến năm 2000.
- Chương 3: Chuyển biến về kinh tế, xã hội từ năm 2001 đến năm 2010.
7
- Chương 4: Nhận xét và một số đề xuất.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Từ trước đến nay vấn đề kinh tế - xã hội cả nước nói chung, ở các địa
phương nói riêng, được các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu khoa học
thuộc nhiều chuyên ngành quan tâm. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam trong những năm qua có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt việc đầu
tư phát triển kinh tế địa phương đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định
là nhiệm vụ hàng đầu, mang tính lâu dài và tất yếu trên bước đường xây
dựng, phát triển đất nước.
1.1. Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội nói chung
Trong các công trình nghiên cứu về các vấn đề kinh tế - xã hội thời
kỳ đổi mới, đầu tiên phải kể đến là tác phẩm Đổi mới kinh tế - xã hội thành
tựu, vấn đề và giải pháp, Phạm Xuân Nam (Chủ biên), NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1991. Cuốn sách đã phân tích các lĩnh vực chủ yếu của đời
sống kinh tế - xã hội nước ta sau 4 năm thực hiện đường lối đổi mới do
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, qua đó nêu lên những
thành tựu đã đạt được, chỉ ra những vấn đề tồn đọng từ lâu hoặc mới nảy
sinh và đề xuất một số kiến nghị về giải pháp sắp tới nhằm góp phần vào
việc xây dựng, hoàn thiện cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội nước ta đến năm 2000.
Cuốn sách Đổi mới kinh tế và phát triển, Vũ Tuấn Anh (Chủ biên),
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994 đã chỉ ra những nét chính của quá
trình đổi mới các chính sách kinh tế, vai trò của nhà nước trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, tác động của quá trình đổi mới kinh tế đối với
8
tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, những chuyển biến của cơ cấu xã hội, xu hướng phân tầng xã
hội dưới ảnh hưởng của đổi mới chính sách kinh tế…
Nguyễn Trọng Phúc trong cuốn Một số kinh nghiệm của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000, đã phân tích đặc điểm nước ta trong thời kỳ quá
độ, tổng kết một số chủ trương của Đảng và những thành tựu tiêu biểu mà
chúng ta đã đạt được, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm của Đảng
trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước.
Sách Kinh tế Việt Nam đổi mới: Những phân tích và đánh giá quan
trọng của Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ Quang Việt, Trần Vân, NXB Thống kê,
Hà Nội, 2002 đã hệ thống hoá số liệu tổng hợp và chi tiết trên phạm vi cả
nước và từng vùng, lãnh thổ, phân tích kinh tế về tốc độ tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, thành phần kinh tế, khu vực thể
chế, vùng lãnh thổ và hoạt động tài chính.
Năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Một
số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay do Tạ Ngọc Tấn
làm Chủ biên. Cuốn sách là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài khoa
học trọng điểm cấp Nhà nước KX.04.14/06-14 “Biến đổi cơ cấu xã hội
Việt Nam”. Sách gồm 4 phần trong đó nội dung chính được tập trung ở
phần 2 - Những tác động của biến đổi cơ cấu xã hội đến sự phát triển kinh
tế - xã hội trong những năm tới và phần 3- Xu hướng biến đổi cơ cấu xã
hội Việt Nam và những dự báo trong thời gian tới. Các tác giả cuốn sách
mong muốn đưa ra những đánh giá cơ bản về thực trạng biến đổi cơ cấu xã
hội nước ta trong thời gian qua, làm rõ những tác động khách quan qua lại
giữa những biến đổi cơ cấu xã hội với sự vận động, phát triển của các lĩnh
vực đời sống đất nước. Ngoài ra cuốn sách cũng đưa ra những dự báo về
xu hướng biến đổi và một số nét dự báo về mô hình tương lai của cơ cấu
9
xã hội Việt Nam trong thời gian tới.
Năm 2012, cuốn sách Lịch sử Việt Nam - Tập 4 của các tác giả Lê
Mậu Hãn (Chủ biên), Nguyễn Đình Lê, Trương Thị Tiến, NXB Giáo dục,
Hà Nội, được xuất bản. Theo các tác giả, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Về kinh tế, thành tựu nổi bật
nhất là những thiết chế mới của nền kinh tế đã hình thành, phù hợp với quy
luật khách quan, đem lại động lực mới cho sự phát triển… dẫn đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cao hơn là dẫn đến sự tăng trưởng vượt trội
của nền kinh tế so với trước đổi mới. Về xã hội, các tác giả cuốn sách cho
rằng: Từ giữa thập kỷ 90 trở đi, công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ trọng tâm
là đổi mới kinh tế đã tiến tới đổi mới trên tất cả các lĩnh vực: hệ thống chính
trị, văn hoá, giáo dục, y tế…; kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết các vấn
đề xã hội.
Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, cũng có những cuốn sách đề cập
đến nội dung về kinh tế, xã hội. Tác phẩm Một số vấn đề kinh tế - xã hội
các tỉnh miền núi phía Bắc do Viện Dân tộc học thực hiện, NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1987, tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu bước
đầu lý giải một số vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội tại các tỉnh miền núi
phía Bắc như vấn đề dân tộc, dân cư và lao động, vấn đề xác định, đánh giá
những thế mạnh của miền núi và việc khai thác phát huy những thế mạnh,
các tiềm năng kinh tế ở khu vực này. Bên cạnh những vấn đề đó là việc xây
dựng, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới, phát triển văn hoá - giáo
dục… Ở trang 44 - 45 (chương I) của sách, các tác giả đã xác định rõ vai trò
cấp huyện “không chỉ là đơn vị hành chính mà còn thành đơn vị kinh tế - xã
hội”: xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi và xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, cân đối nông - lâm nghiệp, bố trí lao động, liên kết kinh tế, tổ chức
thực hiện định canh định cư, lưu thông phân phối, văn hoá, giáo dục, y tế…
đều đặt trong quan hệ của huyện. Chương IV làm sáng tỏ những hạn chế
trong phát triển văn hoá, giáo dục miền núi. Chương V đề cập đến vấn đề
kết hợp đúng đắn giữa xây dựng kinh tế với bảo đảm an ninh quốc phòng.
10
Cuốn sách Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở
miền núi, Bế Viết Đẳng (Chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, NXB Văn hoá
dân tộc, Hà Nội 1996 là kết quả chắt lọc từ đề tài KX.04-11 mang tên “Luận
cứ khoa học cho việc hoàn thiện các chính sách đối với dân tộc thiểu số
trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi”, nội dung đề cập đến quan
điểm, đường lối chính sách dân tộc, những vấn đề cấp bách về thực trạng
phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở
miền núi. Đồng thời, các tác giả cũng đề xuất những ý kiến tham khảo cho
việc hoạch định những chính sách đối với các dân tộc thiểu số miền núi
trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi
phía Bắc, Khổng Diễn (Chủ biên), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996 là
kết quả thu được từ những cuộc điều tra, điền dã dân tộc học trong một số
năm kết hợp với các tài liệu thống kê dân số ở Trung ương và địa phương,
cung cấp bức tranh khái quát nhưng rất phong phú và đa dạng về nhiều
mặt: điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, dân cư, dân số, kinh tế, văn
hoá và mối quan hệ giữa các dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam.
Trên một khía cạnh khác, các tác giả Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa
(Chủ biên), Nguyễn Đình Phan, Dương Thị Thanh Mai trong sách Phát
triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 đã nêu lên thực
trạng kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi hiện nay cũng như
tính cấp thiết phải đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời
đề ra các định hướng phát triển, một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy bản sắc văn hoá, ổn định
chính trị, an ninh quốc gia, đoàn kết các dân tộc và miền núi theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và đối với từng khu vực
cụ thể thuộc vùng dân tộc miền núi Việt Nam nói riêng. Sách cũng làm nổi
bật cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
11
tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa ra kinh
nghiệm của một số nước trong việc phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc
và miền núi.
Tương tự có thể kể đến Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội các
tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2006.
Sách do Bộ Công nghiệp phối hợp với các ngành kinh tế, các địa phương,
các doanh nghiệp trong Vùng thu thập thông tin xuất bản. Sách gồm 2
phần: Phần 1 - giới thiệu khái quát tiềm năng, định hướng phát triển kinh
tế - xã hội vùng trung du và miền núi phía Bắc; Phần 2 - giới thiệu tiềm
năng, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương trong
Vùng. Từ trang 227 đến trang 263 là nội dung về mục tiêu, định hướng
phát triển các ngành Nông nghiệp, Giao thông vận tải, Giáo dục - Đào tạo,
Ngân hàng, Điện lực, Thương mại và Bưu điện của Hà Giang. Những chuyển
đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam do Trung tâm Nghiên cứu tài
nguyên và môi trường - Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện, NXB Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội, 2008. Sách tập hợp những bài viết của các học giả, nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước về những đề tài đang mang tính thời sự ở
Việt Nam như quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sự thay đổi các mối
quan hệ lao động, thành quả phát triển trong thời kì mở cửa ở vùng cao
Việt Nam v.v…
Nhìn chung, những tài liệu thuộc nhóm chủ đề trên có thể thống kê
nhiều hơn, song đây là những nghiên cứu tổng hợp, chủ yếu đưa ra những
nhận định khái quát ở tầm vĩ mô về tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực
miền núi nói chung. Những công trình nghiên cứu nói trên mang tính định
hướng cũng như góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề tổng quan về kinh tế -
xã hội của đất nước nói chung và ở khu vực miền núi phía Bắc nói riêng
dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Thông qua kết quả nghiên cứu của nhóm tài
liệu này, chúng tôi có được cơ sở lý luận cũng như có cái nhìn tổng quát
nhất về quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam thời kỳ Đổi mới để từ
đó tiếp cận đối tượng nghiên cứu cụ thể mà đề tài luận án đã đặt ra là huyện
12
Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
1.2. Các công trình đề cập đến lĩnh vực kinh tế - xã hội tại địa phương
Tác phẩm Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn tỉnh Hà
Giang (1900 - 1998) của Phạm Văn Nhần, Lê Xuân Mát, Ngô Huy Chương,
NXB Lao động, Hà Nội 1999 đề cập đến quá trình hình thành và phát triển
đội ngũ công nhân và tổ chức công đoàn Hà Giang, những đóng góp của
công nhân và công đoàn Hà Giang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm 2000, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên phát hành bản Quy
hoạch tổng thể kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên thời kỳ 2000 - 2010. Bản quy
hoạch nêu rõ định hướng phát triển kinh tế - xã hội huyện trong mối quan hệ
chặt chẽ với định hướng phát triển chung của tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng, dịch vụ, công
nghiệp trên cơ sở khai thác có hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh của
huyện; phát triển các ngành, các lĩnh vực có lợi thế so sánh… Các báo cáo
hằng năm, báo cáo trong những nhiệm kỳ đại hội về tình hình kinh tế - xã
hội của huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến nay của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân
dân tỉnh Hà Giang, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên là sự tổng
kết tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh, của huyện.
Năm 2001, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên đã cho xuất
bản sách Lịch sử Đảng bộ huyện Vị Xuyên (1939 - 2000). Cuốn sách đã
trình bày một cách tương đối đầy đủ về quá trình ra đời và lãnh đạo nhân
dân đấu tranh trong sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ huyện cũng như quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương trong hơn 60 năm, từ năm
1939 đến năm 2000.
Cuốn sách Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển
(1891 - 2001) của Hoàng Trung Luyến, Khổng Đức Thiêm, Trình Năng
Chung, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001 đề cập về địa lý và con
13
người Hà Giang, về Hà Giang trong tiến trình lịch sử dân tộc và quá trình
hình thành tỉnh Hà Giang, tình hình kinh tế - xã hội, chính sách khai thác và
bóc lột của thực dân Pháp (1891 - 1930) và nhân dân và các dân tộc Hà
Giang trong các thời kỳ lịch sử từ năm 1930 đến năm 2001.
Là một tỉnh miền núi nên vấn đề dân tộc cũng được chú ý. Năm 2004,
cuốn sách Các dân tộc ở Hà Giang của Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (đồng
Chủ biên), NXB Thế giới, Trung tâm Thông tin Văn hoá các dân tộc được
xuất bản. Sách trình bày khái quát vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, kinh tế, tài
nguyên thiên nhiên, nguồn gốc lịch sử, sự phân bố dân cư, đặc điểm các dân
tộc của tỉnh Hà Giang theo nhóm ngôn ngữ: các dân tộc nhóm ngôn ngữ
HMông - Dao, Tày - Thái, Tạng - Miến, ngôn ngữ Hán, ngôn ngữ Việt -
Mường v.v..
Cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang - tập 3 (1975 - 2005) xuất
bản năm 2009 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang phản ánh chặng
đường 30 năm, trong đó có 16 năm (1975 – 1991) tỉnh Hà Giang hợp nhất
với tỉnh Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, tiếp đó 14 năm (1991 - 2005) là
giai đoạn Hà Giang được tái lập. Đây là giai đoạn tiếp tục sự nghiệp đổi mới
toàn diện của đất nước của Đảng trong điều kiện tỉnh còn nhiều khó khăn,
thách thức. Cuốn sách đã làm nổi bật sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong
việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, lãnh đạo nhân dân các dân tộc
trong tỉnh từng bước vượt qua khó khăn thử thách, giành nhiều thắng lợi
quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội, cũng như ghi nhận những đóng góp
to lớn của nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang, trong đó có huyện Vị Xuyên,
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sách Ngành lao động - thương binh và xã hội Hà Giang - 65 năm xây
dựng và phát triển (1945 - 2010) của Tạ Nam Tiến, Nguyễn Thanh Long,
Phạm Ngọc Dũng..., NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2010, giới
thiệu quá trình hình thành, sự phát triển và những thành tựu đạt được của
ngành Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hà Giang qua các giai đoạn
14
1945 - 1975, 1976 - 1991, 1991 - 2010.
Nhân dịp kỷ niệm 20 năm tỉnh Hà Giang được tái lập (1991 - 2011),
tháng 10-2011, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Giang đã xuất bản cuốn sách
mang tên Tỉnh Hà Giang 20 năm tái lập và phát triển (1991 - 2011). Nội
dung sách viết về quá trình phấn đấu và trưởng thành theo từng giai đoạn từ
khi tái lập tỉnh đến nay, nêu rõ những thành tựu trong phát triển kinh tế, văn
hoá qua 20 năm cũng như những bài học kinh nghiệm của 20 năm phát triển
đó. Cùng năm 2011 có cuốn sách Lịch sử Đảng bộ Quân sự tỉnh Hà Giang
(1945 - 2010) do Đảng bộ Quân sự tỉnh Hà Giang xuất bản, giới thiệu sự
hình thành và phát triển của Đảng bộ quân sự tỉnh qua các thời kì, quá trình
tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền để xây dựng thế trận chiến tranh nhân
dân trong thời chiến, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân trong thời bình, chỉ đạo hoạt động xây dựng, chiến đấu của lực
lượng vũ trang Hà Giang trong hai cuộc kháng chiến và thời kỳ bảo vệ
Tổ quốc, đổi mới đất nước.
Tháng 4-2011, tại Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Uỷ ban nhân dân
tỉnh Hà Giang và Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam tổ
chức Hội thảo khoa học và Diễn đàn đầu tư "Vì Hà Giang phát triển". Hội
thảo và Diễn đàn đầu tư nhằm giúp tỉnh Hà Giang quảng bá, giới thiệu
những tiềm năng, lợi thế và tìm ra các cơ chế, chính sách ưu đãi khuyến
khích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Các báo cáo, tham luận của các nhà
khoa học tại Hội thảo được tập hợp trong kỷ yếu đã nêu bật những tiềm
năng, lợi thế trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, văn hoá của địa
phương để từ đó kiến nghị những giải pháp phát triển toàn diện Hà Giang.
Tháng 3-2015, Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Ban Kinh tế Trung ương và
Tỉnh Hà Giang đã tổ chức Hội thảo “Phát triển kinh tế, xã hội tỉnh Hà Giang
trong mối liên kết vùng Đông Bắc và Tây Bắc”. Hội thảo được nghe các ý
kiến tham luận của đại diện Ban chỉ đạo Tây Bắc, Ban Kinh tế Trung ương,
15
Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ
Văn hóa - Thể thao và Du lịch, các chuyên gia, các nhà quản lý. Tại hội
thảo, nhiều ý kiến cho rằng: So với các tỉnh thuộc vùng biên giới như Lạng
Sơn hoặc Lào Cai, thì cơ sở hạ tầng của tỉnh Hà Giang còn bộc lộ nhiều
điểm lạc hậu làm hạn chế quá trình lưu thông hàng hoá và con người giữa
Hà Giang với các địa phương vùng miền trong nước cũng như với nước láng
giềng. Do đó, một trong những đột phá quan trọng để phát triển kinh tế, xã
hội tỉnh Hà Giang là phát triển cơ sở hạ tầng. Hà Giang cần tập trung quan
tâm đến chiến lược với tầm nhìn dài hạn về phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh; ban hành các cơ chế, chính sách về thu hút đầu tư để phát triển kinh tế
- xã hội một cách bền vững; xúc tiến việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang; các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản
phẩm chủ yếu cấp tỉnh, đảm bảo phát huy vị trí của Hà Giang là tỉnh kết nối
giữa Đông Bắc và Tây Bắc nhằm tận dụng phát huy các lợi thế và tiềm năng
của Hà Giang và các địa phương trong vùng; làm rõ vị trí, vai trò của đường
biên giới với tỉnh Hà Giang, một số giải pháp phát triển thương mại biên
giới tuyến biên giới đất liền của tỉnh; đánh giá tiềm năng du lịch, công tác
lãnh chỉ đạo, quy hoạch và thực hiện quy hoạch; phát triển sản phẩm du lịch
tâm linh, tín ngưỡng; đa dạng hóa các mặt hàng lưu niệm, quà tặng du lịch;
đánh giá thực trạng ngành nông nghiệp và tiềm năng phát triển công nghiệp
dược liệu; phát triển chăn nuôi bò vàng; phát triển mạnh các khu kinh tế
biên mậu, liên kết chặt chẽ du lịch với nông lâm nghiệp trong Vùng miền
núi và trung du Bắc Bộ.
Cũng không thể không nhắc tới chuyên khảo Nguồn nhân lực cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở miền núi phía Bắc nước ta của Vi Thái
Lang, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015. Cuốn sách tổng kết, đánh giá
sự vận động, phát triển của các yếu tố của lực lượng sản xuất ở khu vực
miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc, đặc biệt là vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực nơi đây; trên cơ sở đó làm rõ những vấn đề đang đặt ra, tìm
16
hướng giải quyết, đồng thời khuyến nghị một số giải pháp có tính định
hướng để thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực miền núi trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tiếp đó là những nội dung liên quan về huyện Vị Xuyên và tỉnh Hà
Giang được đề cập qua các bài viết trên các tạp chí. Có thể kể đến Vị Xuyên
nâng cao chất lượng dạy và học của Vũ Đăng Bút, tạp chí Dân tộc và thời
đại số 68 - 2004 nói về những thành tích của giáo dục Vị Xuyên trong việc
không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. Bài báo tập trung phân tích
những nguyên nhân đưa đến thành tích đó là do đã duy trì nghiêm túc các
quy chế chuyên môn trong việc dạy và học, có các hình thức phong phú để
thúc đẩy phong trào thi đua trở thành giáo viên giỏi, học sinh giỏi. Đặc biệt,
một số tạp chí đã xây dựng các chuyên trang về tỉnh Hà Giang, trong đó có
nội dung về huyện Vị Xuyên. Đầu tiên là tạp chí Đông Nam Á (tháng 9-
2004) dành gần 30 trang với chủ đề “Giáo dục và Đào tạo Hà Giang - thành
tựu và đổi mới”. Nội dung của chuyên trang này đề cập đến toàn bộ các cấp
học của các huyện trong tỉnh Hà Giang. Ngành giáo dục và đào tạo Vị
Xuyên: Một chặng đường phát triển của Tống Duy Khuyên là một bài trong
số đó. Tác giả bài viết đã nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ giáo dục trong sự
nghiệp phát triển con người, đáp ứng nguồn nhân lực mới, đưa ra những số
liệu khẳng định giáo dục Vị Xuyên có những chuyển biến tích cực, những
thành tích đã đạt được của thầy và trò huyện Vị Xuyên trong việc thực hiện
lời Bác dạy “thi đua Dạy tốt - Học tốt”. Tuy nhiên, tác giả cũng thẳng thắn
chỉ ra một số tồn tại cần khắc phục. Đó là chất lượng giáo dục toàn diện
chưa vững chắc, giáo dục mũi nhọn chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu giáo
viên và cơ sở vật chất… Năm 2004, tạp chí Du lịch Việt Nam số 11 đã dành
nhiều trang viết về du lịch Vị Xuyên. Đầu tiên là Điểm đến thân thiện của
du khách của Đàm Văn Bông, nêu bật những lợi thế của Vị Xuyên về điều
kiện tự nhiên, về sản vật, ẩm thực, lễ hội… để du lịch Vị Xuyên từng bước
nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc, thân thiện và cởi mở đón du khách.
17
Tiếp đến là hai bài Hấp dẫn Vị Xuyên giới thiệu và các thắng cảnh nơi đây
và Định hướng khai thác tiềm năng du lịch văn hoá tộc người ở Vị Xuyên
của Mai Thanh Sơn đề cập đến các giá trị của văn hoá vật thể và phi vật thể
của huyện, chỉ ra các biện pháp để khai thác mặt mạnh phát triển du lịch và
không quên lưu ý đến việc giữ gìn bảo tồn các giá trị văn hoá đó.
Tương tự như vậy, tháng 3-2005, tạp chí Đông Nam Á tiếp tục thực
hiện chuyên đề mang tên “Hà Giang chào xuân mới 2005”, với nội dung là
những nét đẹp của thiên nhiên, những điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã
hội của mảnh đất biên cương này. Trong số này, có bài Vị Xuyên - nơi mùa
đông không còn ở lại của Quế Nga. Bài viết đã tập trung chứng minh những
thành tựu về kinh tế - xã hội những năm vừa qua, từ việc chuyển dịch dần
cơ cấu ngành kinh tế, hình thành các khu chuyên canh, thu nhập, mức sống
của nhân dân đến chỉ số GDP không ngừng tăng của huyện. Tạp chí Dân tộc
học, số 2-2005, tác giả Viên Thị Mừng có bài Nghề nấu rượu thóc truyền
thống của người Tày ở xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Bài viết
miêu tả các công đoạn làm rượu của người Tày ở đây. Tại Hà Giang, duy
nhất chỉ có đồng bào ở xã Tùng Bá (huyện Vị Xuyên) có bí quyết nấu loại
rượu này: Rượu nấu thóc đã được hấp chín, ủ men lá, sau khi chưng cất cách
thuỷ sẽ được một loại rượu trong như nước mưa, sóng sánh vàng, mùi thơm
hấp dẫn. Bài viết Thương mại và du lịch Hà Giang trên đà phát triển và hội
nhập của Nguyễn Đình Bảy, tạp chí Thương mại, số 10, 2006 nêu lên sự phát
triển của Thương mại - Du lịch Hà Giang giai đoạn 2001 - 2005, mục tiêu,
nhiệm vụ và các giải pháp phát triển thương mại - dịch vụ năm 2006 - 2010.
Năm 2007, tạp chí Dân tộc và thời đại số 100 (3-2007) cũng dành hẳn
30 trang với chủ đề “Xuân về trên đất Hà Giang” để phản ánh sự thay đổi
của kinh tế - xã hội Hà Giang thời gian qua, từ quy mô cấp tỉnh cho đến
những nội dung cụ thể của từng huyện, từng ngành. Đó là hiệu quả từ
Chương trình 135, các chương trình chính sách dành cho đồng bào các dân
tộc của tỉnh… Trong chủ đề này có bài Đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo ở
18
huyện Vị Xuyên. Bài viết khẳng định sự thành công trong việc triển khai
chương trình 135 đến huyện, đem lại cho Vị Xuyên những tiền đề quan
trọng trong việc xoá đói giảm nghèo, làm nền tảng cho những bước phát
triển mới. Kế đó là một số bài viết như Vị Xuyên làm du lịch, báo Bắc Ninh
(5-7-2007) giới thiệu việc chú trọng đẩy mạnh phát triển dịch vụ - du lịch và
coi đó là mục tiêu để chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Bài báo nêu rõ: Để phát
triển du lịch - dịch vụ có hiệu quả và bền vững, từng bước hội nhập với khu
vực phía Bắc, huyện tập trung phát triển lợi thế tài nguyên du lịch, dịch vụ,
vừa đầu tư khai thác đa dạng hoá các loại hình du lịch dịch vụ, gồm du lịch
văn hoá - lịch sử, du lịch lễ hội truyền thống, du lịch sinh thái, làng nghề,
dịch vụ tắm nước nóng chữa bệnh, dịch vụ khám chữa bệnh; du lịch khám
phá mạo hiểm và du lịch tâm linh… Vị Xuyên trên đường hội nhập của Thanh
Như - tạp chí Dân tộc và phát triển (tháng 4-2008) giới thiệu về tiềm năng
du lịch của huyện Vị Xuyên, từ cảnh quan sinh thái đến những nét đẹp của
văn hoá tộc người xứ này. Tác giả cũng thẳng thắn chỉ ra, mặc dù có nhiều
thuận lợi về du lịch nhưng thách thức với Vị Xuyên là không nhỏ, các tiềm
năng du lịch chưa được khai thác triệt để. Vị Xuyên nói riêng và toàn tỉnh
Hà Giang nói chung đều có xuất phát điểm du lịch thấp, vốn đầu tư vào các
điểm, các địa danh du lịch còn thiếu.
Cuối cùng là những nội dung được đề cập qua một số luận văn. Một
là, Ảnh hưởng tín dụng ưu đãi ngân hàng chính sách xã hội đến giảm tỉ lệ
nghèo tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (luận văn Thạc sĩ Kinh tế) của
Nguyễn Văn Châu bảo vệ tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh
doanh - Đại học Thái Nguyên năm 2009. Ngoài việc đề cập đến một số nội
dung về cơ sở lý luận về đói nghèo và chính sách chung của Chính phủ, luận
văn tập trung làm rõ thực trạng tín dụng ưu đãi và ảnh hưởng của tín dụng
ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội đến giảm tỉ lệ nghèo tại huyện
Vị Xuyên trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2008, đánh giá hiệu quả,
mức độ ảnh hưởng, những tồn tại và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm
19
nâng cao hiệu quả tín dụng ưu đãi đến xoá đói giảm nghèo. Hai là, Nghiên
cứu phát triển kinh tế xã hội huyện Vị Xuyên, Hà Giang thời kì đổi mới
(luận văn Thạc sĩ Địa lí) của Bùi Phương Thuý bảo vệ tại Đại học Sư phạm
- Đại học Thái Nguyên năm 2010. Luận văn đã vận dụng cơ sở lí luận địa lí
kinh tế - xã hội và tổ chức lãnh thổ để đánh giá hiện trạng phát triển kinh tế
- xã hội huyện Vị Xuyên trong thời kì đổi mới, chủ yếu từ năm 2000 đến
năm 2009, cũng như đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển kinh
tế - xã hội huyện Vị Xuyên hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Ba là,
luận văn Thạc sĩ Kinh tế mang tên Sinh kế bền vững cho các hộ dân tộc
thiểu số sống tại các vùng định canh, định cư - tình huống huyện Vị Xuyên,
tỉnh Hà Giang của Nguyễn Hồng Hạnh bảo vệ tại Đại học Kinh tế TP. Hồ
Chí Minh, năm 2013. Dựa trên những phân tích về thực trạng sinh kế của
các hộ dân tại các điểm nghiên cứu, tác giả đã đề xuất những giải pháp
nhằm đem lại sinh kế bền vững cho họ, bao gồm: hướng dẫn kỹ thuật trồng
trọt, chăn nuôi với hình thức là thực hành trên nương rẫy, đồng ruộng; tập
huấn sử dụng vốn hiệu quả; đa dạng hoá hoạt dộng sinh kế thông qua đào
tạo nghề và giới thiệu việc làm; vận động bà con sinh đẻ có kế hoạch; cải
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng v.v… Bốn là, Phát triển tài nguyên rừng gắn
với giảm nghèo ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, luận văn Thạc sĩ Địa lý
của Nguyễn Thị Thu Hiền bảo vệ tại Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên, 2013. Với thời gian nghiên cứu từ 2005 đến 2012, luận văn đánh
giá việc phát triển rừng và vai trò của nó đối với giảm nghèo cũng như đề xuất
một số giải pháp nhằm phát triển tài nguyên rừng và giảm nghèo, nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân ở huyện Vị Xuyên, tình Hà Giang, trọng
tâm là các xã có nhiều diện tích rừng và nhiều hộ nghèo sống dựa vào rừng.
Các luận văn nói trên cung cấp cho chúng tôi một số tư liệu cũng như
những nhận định, đánh giá trên những khía cạch khách nhau có liên quan ít
nhiều đến nội dung luận án, từ đó chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn
20
đề đã đặt ra.
Có thể nói, nhóm tài liệu nghiên cứu về tình hình kinh tế - xã hội Hà
Giang nói chung và Vị Xuyên nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với đề tài luận án. Đây là nhóm công trình gắn với nội dung mà chúng tôi
tập trung nghiên cứu. Các công trình trên đây ở những khía cạnh khác nhau
đã đề cập đến vấn đề kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi phía Bắc nói
chung cũng như của tỉnh Hà Giang và huyện Vị Xuyên nói riêng. Tuy nhiên,
nhìn nhận một cách khách quan thì nhóm tài liệu này không nhiều và những
nội dung đề cập trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu chính của luận án rất
ít ỏi. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu mà các công trình nói trên mang lại:
tình hình kinh tế, xã hội Hà Giang, tiềm năng và định hướng phát triển; các
chính sách của nhà nước và của địa phương đối với Hà Giang trong đó có
Vị Xuyên… luận án kế thừa và đặt đối tượng nghiên cứu trong bối cảnh
chung đó. Thông qua những công trình đó, chúng tôi nắm bắt được bức
tranh chung về kinh tế, xã hội Hà Giang và cả Vị Xuyên, từ đó triển khai
nghiên cứu được thuận lợi hơn. Tuy nhiên, điều hạn chế là ở chỗ những
nghiên cứu trực tiếp về Vị Xuyên rất khiêm tốn và tản mạn. Đối tượng
nghiên cứu của luận án được đề cập trong những công trình này chỉ trên một
vài khía cạnh khác nhau và mức độ đề cập cũng hạn chế tùy thuộc vào giới
hạn mà tiêu đề các công trình đó đặt ra. Đây chính là điểm làm tăng giá trị
đóng góp của luận án, nhưng cũng tạo ra nhiều khó khăn trong quá trình tập
hợp tư liệu nghiên cứu. Có thể nói, cho đến nay chưa có một công trình
khoa học lịch sử nào đi sâu nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về sự chuyển
biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên trong thời kỳ từ năm 1986 đến năm
2010, để trên cơ sở đó tổng kết đánh giá, và rút ra những bài học của quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội của huyện miền núi biên giới
phía Bắc Tổ quốc. Đây chính là lý do và cơ sở để chúng tôi lựa chọn hướng
21
nghiên cứu này làm đề tài luận án.
1.3. Những nội dung luận án kế thừa
Trong luận án, chúng tôi kế thừa những nội dung sau:
- Điều kiện tự nhiên như vị trí địa lí và lãnh thổ, địa hình - thổ nhưỡng,
khí hậu - thuỷ văn cũng như dân cư và nguồn lao động hay cơ sở hạ tầng vật
chất kĩ thuật… là những vấn đề đã được các nhà khoa học khảo sát nghiên
cứu trong nhiều năm qua và kết quả của nó được thừa nhận.
- Một số đặc điểm về kinh tế, xã hội của vùng đất và con người
Vị Xuyên được rút ra dựa trên những điều kiện tự nhiên cũng như từ lịch sử
hình thành và phát triển của vùng đất và con người nơi đây.
- Tình hình kinh tế - xã hội trước năm 1986 đã được đề cập qua một số
sách, báo như đã nêu.
- Một số số liệu về kinh tế, xã hội từ năm 1986 đến năm 2010 về huyện
Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang mà các công trình đã đề cập trong từng vấn đề
cụ thể.
1.4. Những nội dung luận án cần tiếp tục giải quyết
Cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện về lĩnh vực chuyển biến kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên từ năm
1986 đến năm 2010. Các công trình nghiên cứu về các vấn đề kinh tế - xã
hội Việt Nam trong thời kì đổi mới của các nhà lãnh đạo, nhà khoa học chỉ
mang tính khái quát, định hướng chung cho sự phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước trên tất cả các vùng miền mà ít đi vào nghiên cứu cụ thể từng vùng,
từng địa phương. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu của địa phương
mặc dù đã đề cập đến nhiều khía cạnh về kinh tế - xã hội của huyện nhưng
chỉ tập trung vào những nội dung như nông nghiệp, giáo dục, du lịch… và
trong khoảng thời gian rất ngắn, mức độ ít, phân tích chưa sâu. Hơn nữa
những công trình thuộc dạng này không nhiều và khá tản mạn. Bên cạnh đó,
các công trình đề cập đến đường lối, chính sách đổi mới phát triển kinh tế -
22
xã hội chỉ mang tính chất cung cấp thông tin, dữ liệu mà không đưa ra được
những đánh giá, nhận định mang tính tổng quát về tình hình kinh tế, xã hội
huyện Vị Xuyên giai đoạn 1986 - 2010.
Bản thân các công trình nghiên cứu của các tác giả Trung ương và địa
phương chỉ đề cập, tìm hiểu, đánh giá vấn đề ở góc độ chính trị, địa lí,
kinh tế… và nếu là vấn đề lịch sử thì chỉ là trong phạm vi hẹp, ở một mức
độ cụ thể mà chưa có cái nhìn tổng thể về quá trình chuyển biến kinh tế,
xã hội của huyện Vị Xuyên, cũng như chưa làm rõ được những đặc điểm
riêng, đặc trưng của huyện Vị Xuyên trong tương quan với các huyện trong
tỉnh Hà Giang và vùng núi phía Bắc.
Do thiếu tính tổng thể và chỉ phân tích những khía cạnh cụ thể của các
vấn đề kinh tế, xã hội trong huyện mà các công trình nghiên cứu chưa nêu
rõ được đặc điểm của kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên thời kỳ đổi mới cũng
như vai trò của nó với sự phát triển chung của tỉnh Hà Giang và vùng núi
phía Bắc. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành quả
nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi sẽ sử dụng một cách phù hợp vào
việc làm rõ thêm những luận điểm, những nội dung mà luận án hướng tới về
sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên trong khung thời gian
23
nghiên cứu đặt ra.
CHƯƠNG 2
CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2000
2.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến kinh tế, xã hội
huyện Vị Xuyên
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Vị Xuyên là một huyện miền núi thuộc khu vực trung tâm của tỉnh Hà
Giang, có toạ độ địa lý nằm trong khoảng 22o29’30’’B đến 23o 02’30’’B và
104o02’30’’Đ đến 105o09’30’’Đ, phía Bắc giáp với huyện Quản Bạ, phía
Nam giáp huyện Bắc Quang, phía Đông Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía
Đông giáp huyện Bắc Mê, phía Tây Nam giáp huyện Hoàng Su Phì, phía
Tây giáp huyện Ma Li Pho (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc).
Vị Xuyên là nơi đầu nguồn của sông Lô trên lãnh thổ Việt Nam. Sông
bắt nguồn từ Vân Nam - Trung Quốc và chảy vào địa phận Hà Giang tại xã
Thanh Thủy (Vị Xuyên). Sông chảy theo hướng Bắc - Nam, đoạn qua địa
bàn huyện dài 70 km; diện tích lưu vực khoảng 8700km2, có chế độ thủy
chế phức tạp và có sự khác biệt lớn giữa mùa khô và mùa mưa. Huyện Vị
Xuyên còn là nơi có sông Miện chảy qua xã Thuận Hòa và sông Nậm Điêng
chảy qua xã Minh Tân. Hệ thống suối, ao hồ khá phát triển đã đáp ứng nhu
cầu xây dựng thủy điện nhỏ, sản xuất và sinh hoạt. Tuy vậy, vào mùa khô
nhiều nơi bị thiếu nước nghiêm trọng, nhất là các xã vùng cao.
Nằm trong phạm vi của đới khí hậu gió mùa ẩm, khí hậu Vị Xuyên có
hai mùa rõ rệt, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều; mùa đông lạnh kéo dài, khô
hạn. Nhiệt độ trung bình năm 230C, biên độ dao động nhiệt độ trong năm là
120C, tháng nóng nhất là tháng 6 và tháng 7, tháng lạnh nhất từ giữa tháng
12 đến tháng 1; số giờ nắng trung bình năm trên 1200 giờ. Lượng mưa trung
24
bình khá lớn 3000 - 4000 mm/năm. Độ ẩm trung bình 84%, độ ẩm cao ở hầu
hết các mùa trong năm, lớn nhất vào tháng 7, tháng 8 (trên 87%) và thấp
nhất vào tháng 3 (80%).
Nhìn chung, huyện Vị Xuyên có điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát
triển nền nông lâm nghiệp đa dạng. Tuy nhiên, cũng có một số bất lợi như
sương muối trong mùa đông, mùa hè mưa nhiều nên thường xảy ra lụt lội, lũ
quét ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Về địa hình, huyện Vị Xuyên nằm trong vùng núi thấp của tỉnh Hà
Giang, địa hình phức tạp, chia cắt mạnh. Độ cao trung bình của huyện trên
500 m so với mực nước biển, độ dốc lớn tạo ra các tiểu vùng mang đặc điểm
riêng biệt:
- Tiểu vùng núi cao: Bao gồm các xã Lao Chải, Xín Chải, Thanh Đức,
Thanh Thủy, Thượng Sơn, Quảng Ngần, Cao Bồ, Phương Tiến, vùng này có
độ cao trung bình trên 1.000 m, thuận lợi cho phát triển các cây đặc sản như
chè Shan, quế, thảo mộc, chăn nuôi đại gia súc và phát triển nghề rừng.
- Tiểu vùng núi trung bình: Bao gồm các xã Trung Thành, Bạch Ngọc,
Ngọc Minh, Ngọc Linh, Minh Tân, Thuận Hòa, Việt Lâm, Linh Hồ, vùng này
có độ cao trung bình từ 500 - 800 m, thuận lợi cho phát triển các loại cây
công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, chè, chăn nuôi gia súc và trồng rừng.
- Tiểu vùng thung lũng và núi thấp: Bao gồm các xã Tùng Bá, Phong
Quang, Kim Linh, Phú Linh, Kim Thạch, Đạo Đức, Thị trấn Vị Xuyên, Thị
trấn Việt Lâm, vùng này có độ cao trung bình dưới 500 m, thuận lợi cho phát
triển lúa nước, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày, phát triển chăn nuôi và và
hình thành các khu cụm công nghiệp. [175; tr.4]
Về thổ nhưỡng, chủ yếu địa bàn huyện là đất nâu đỏ trên đá mắc ma
bazơ và trung tính, đất nâu đỏ trên đá vôi, đất đỏ vàng, ngoài ra còn có đất
25
phù sa ven các sông, suối, đất thung lũng dốc tụ, đất mùn vàng nhạt trên núi
cao có diện tích không đáng kể. Nhìn chung, đất có dinh dưỡng tốt thích
hợp với cây ăn quả, hoa màu và cây công nghiệp, cây trồng rừng.
Về mặt tài nguyên, Vị Xuyên nằm trong vùng sinh khoáng Đông Bắc
Việt Nam nên có nhiều tiềm năng về các loại khoáng sản phục vụ phát triển
kinh tế. Qua khảo sát thăm dò của các nhà địa chất bước đầu đã phát hiện
12 mỏ và điểm quặng với một số khoáng sản có giá trị thương mại quy mô
địa phương. Đó là khoáng sản kim loại quặng sắt (xã Tùng Bá) trữ lượng
223 triệu tấn, hàm lượng sắt 36,69%; mangan (xã Linh Hồ); chì - kẽm (Na
Sơn – xã Tùng Bá) trữ lượng 1,6 triệu tấn; vàng sa khoáng ở Bình Vàng -
Đạo Đức. Khoáng sản phi kim loại: cao lanh (xã Tùng Bá); sét (Hồ Noong –
xã Phú Linh) 1,6 triệu m3; đá vôi có nhiều ở Thanh Thủy; than bùn ở Hồ
Noong - Phú Linh có trữ lượng khoảng 88,45 nghìn m3, đang khai thác để
sản xuất phân vi sinh; nước khoáng nóng (xã Quảng Ngần) có nhiệt độ trung
bình khoảng 610C. Vị Xuyên còn có một số mỏ khoáng sản đã phát hiện
nhưng chưa có đánh giá chi tiết về chất lượng và trữ lượng như: thủy
ngân, quặng Acsen, đá quý [130; tr. 34-35].
Bên cạnh đó, hệ thống sông suối thuộc lưu vực sông Lô phân bố tương
đối đều, có độ dốc lớn là điều kiện phát triển thủy điện nhỏ. Dự án thủy điện
Nậm Ngần với công suất lắp máy 13,5 MW và tổng số vốn 251 tỷ đồng, sản
lượng điện trung bình 60,27 triệu KWh/năm trực tiếp phục vụ điện cho sản
xuất và sinh hoạt cho các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên. Ngoài ra, hàng loạt
các công trình thủy điện nhỏ như: Việt Lâm, Suối Sửu, Bản Kiếng,
Nậm Má... đã và đang được xây dựng sẽ là nguồn cung cấp điện cho cộng
đồng các dân tộc, sống trong điều kiện trên núi cao và phân tán.
Là một huyện miền núi, Vị Xuyên có diện tích rừng khá lớn, trong đó
diện tích đất lâm nghiệp có rừng 85196,36 ha, chiếm 56,8% diện tích đất tự
nhiên trong đó diện tích rừng sản xuất có 14283,22 ha; diện tích rừng phòng
26
hộ 41684,39 ha, diện tích rừng đặc dụng 29228,75 ha. Độ che phủ rừng luôn
đạt trên 50%. Diện tích rừng trồng tập trung 15942,24 ha; trong đó trồng
mới 2231,10 ha. Các loài gỗ quý: pơ mu, ngọc am, lát, nghiến, thông đá,
chò chỉ,...; các loài thực vật đặc hữu: cây Vù Hương, Bồ an, Bồ đề lá bời
bời; các loài cây dược liệu quý: sa nhân, thảo quả, quế, đỗ trọng... huyện
còn có thế mạnh về cây công nghiệp dài ngày (chè, cam), cây ăn quả và cây
đặc sản. Trên địa bàn huyện còn có Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Côn Lĩnh II.
Rừng có vai trò rất lớn bảo vệ môi trường, cung cấp nguyên liệu phục vụ
công nghiệp, xây dựng, y tế và là những điểm du lịch sinh thái. Tài nguyên
động vật tương đối phong phú, có nhiều loài quý hiếm: gấu ngựa, gà lôi, đại
bàng,... Tuy nhiên, diện tích rừng bị suy giảm trong những thập niên qua,
giảm cả về phẩm chất cây cũng như tỷ lệ các cây có giá trị cao. Cùng với đó
là tập quán săn bắn bừa bãi nên hầu hết các loài thú quý hiếm đã bị suy giảm
về cả số loài và cá thể. [175; tr.6]
Với tất cả những đặc điểm trên, có thể thấy bên cạnh những khó khăn
về điều kiện tự nhiên thì Vị Xuyên vẫn có nhiều tiềm năng, lợi thế có thể
khai thác phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Chính những thuận lợi này đã
và đang góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân trong huyện,
cũng như hoàn thiện bộ mặt kinh tế chung của toàn huyện.
2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội và dân cư
Lịch sử hình thành, phát triển vùng đất và con người tỉnh Hà Giang nói
chung, huyện Vị Xuyên nói riêng gắn liền với lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Từ xa xưa, Vị Xuyên thuộc huyện Nguyên Bình - Tuyên Quang. Thời
nhà Lê, huyện Nguyên Bình được đổi thành châu Vị Xuyên thuộc phủ
Tường Yên tỉnh Tuyên Quang. Đến năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) cắt phần
đất nằm ở hữu ngạn sông Lô thành lập huyện mới lấy tên là huyện Vĩnh Tuy
(sau đổi thành huyện Bắc Quang). Phần đất còn lại là huyện Vị Xuyên với 5
27
tổng và 31 xã. Ngày 20-8-1891 thực dân Pháp đã chia Đạo quan binh 2
thành 3 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang. Toàn bộ phủ Tường Yên
trong đó có châu Vị Xuyên nằm trong địa phận của tỉnh Hà Giang. Về sau
huyện này lại được chia thành 2 huyện Vị Xuyên và Hoàng Su Phì. Tháng
12-1962, một số xã thuộc phía Bắc của huyện Vị Xuyên (xã Quyết Tiến,
Quản Bạ, Thanh Vân, Cao Tả Trung, Nghĩa Thuận, Thái An, Đông Hà)
được sáp nhập với một số xã thuộc huyện Đồng Văn để thành lập huyện
Quản Bạ. Đến cuối năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số
136/HĐBT ngày 18-11-1983 tách 10 xã phía đông của huyện Vị Xuyên (các
xã: Phú Nam, Đường Âm, Yên Phú, Yên Cường, Thượng Tân, Giáp Trung,
Lạc Nông, Minh Ngọc, Minh Sơn, Yên Định) để thành lập huyện Bắc Mê.
Năm 1976, Hà Giang sáp nhập với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, Vị
Xuyên trở thành huyện của tỉnh Hà Tuyên, từ 1991 trở lại là huyện của tỉnh
Hà Giang. Năm 2006, 3 xã Kim Thạch, Kim Linh, Phú Linh của thị xã Hà
Giang được sáp nhập về huyện Vị Xuyên và 2 xã Phương Độ, Phương
Thiện được sáp nhập về thị xã Hà Giang (nay là thành phố Hà Giang). Như
vậy, sau một thời gian tách nhập, huyện Vị Xuyên hiện nay gồm 24 đơn vị
hành chính, với 2 thị trấn và 22 xã, diện tích gần 1500 km2, trong đó có 5 xã
biên giới giáp Trung Quốc với tổng chiều dài biên giới là 32,6 km. Trung
tâm huyện lỵ là thị trấn Vị Xuyên, nằm cách thành phố Hà Giang 20 km về
phía Nam, cách thủ đô Hà Nội 265 km về phía Bắc. Huyện Vị Xuyên nằm
gần như ở trung tâm của tỉnh Hà Giang, là nơi chuyển tiếp từ vùng cao núi
đá phía bắc và vùng núi thấp phía nam, có diện tích rộng lớn gần như ôm
gọn thành phố Hà Giang và quốc lộ 2 chạy từ cửa khẩu Thanh Thủy qua địa
bàn huyện dài 30 km. Vị trí địa lý như vậy cho phép huyện Vị Xuyên trở
thành đầu mối giao lưu kinh tế - xã hội với các địa phương khác trong tỉnh,
trong cả nước và với Trung Quốc; đồng thời còn có vị trí chính trị, an ninh
quốc phòng quan trọng của tỉnh Hà Giang và khu vực biên giới phía bắc
28
Tổ quốc.
Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng về phát triển kinh tế và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng do điều kiện miền núi còn nhiều
khó khăn, nguồn lực dành cho phát triển kinh tế còn thấp nên huyện Vị
Xuyên vẫn là một huyện nghèo của tỉnh Hà Giang.
Huyện Vị Xuyên có cơ cấu dân tộc khá đa dạng, với khoảng 17 dân tộc
anh em cùng sinh sống: Tày, Kinh, Dao, Mông, Nùng, Giấy, Pà Thẻn, Hoa,
Lô Lô,... và các dân tộc khác. Trong cơ cấu dân tộc của Vị Xuyên hiện nay
người Tày chiếm tỉ lệ lớn nhất (36,1%), sau đó là các dân tộc Dao (22,9%),
Kinh (15,2%), Mông (11,0%), Nùng (7,1%), Hoa (1,4%) và các dân tộc khác
chiếm 6,3%. Giữa các dân tộc có sự chênh lệch về trình độ phát triển, trình
độ học vấn và mức sống. Dù vậy, mỗi dân tộc vẫn giữ nét đặc trưng riêng
trong đời sống văn hoá truyền thống, làm phong phú, đa dạng bản sắc văn
hoá của cộng đồng các dân tộc trong tỉnh.
Các dân tộc có sự phân bố đa dạng: dân tộc Kinh tập trung chủ yếu ở
thị trấn Vị Xuyên, thị trấn Việt Lâm và các xã vùng thấp: Đạo Đức, Ngọc
Linh, Việt Lâm, Trung Thành; dân tộc Tày chủ yếu ở thị trấn Vị Xuyên, các
xã Thuận Hòa, Tùng Bá, Phú Linh, Linh Hồ, Việt Lâm, Trung Thành; dân
tộc Mông phân bố chủ yếu ở các xã vùng cao như Minh Tân, Thuận Hòa,
Lao Chải, Bạch Ngọc; dân tộc Dao chủ yếu ở các xã Minh Tân, Phương
Tiến, Cao Bồ, Thượng Sơn, Quảng Ngần.
Theo số liệu thống kê năm 2009, huyện Vị Xuyên có diện tích
1495,25 km2, dân số 96.250 người, chiếm 18,9 % diện tích và 13,6 % dân
số của tỉnh Hà Giang. Trong đó, dân số nông thôn 84270 người (chiếm
87,6 %), ở thành thị 11.898 người (chiếm 12,4 %). Những năm gần đây tỷ
lệ gia tăng dân số tự nhiên của huyện giảm dần. Năm 2000 tỷ lệ gia tăng dân
29
số là 1,63%, đến năm 2009 chỉ còn 1,2%. (Hình 2.1)
Hình 2.1. Quy mô dân số và gia tăng dân số huyện Vị Xuyên thời kì 2000 - 2009
Nguồn: Xử lý từ niên giám thống kê Vị Xuyên qua các năm.
Theo số liệu của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở, mật độ dân số
trung bình của huyện năm 2009 là 64 người/km2; dân cư phân bố không
đồng đều giữa các xã, thị trấn. Dân số phân bố tập trung tại các xã, thị trấn
đã bước đầu phát triển ven quốc lộ 2 và cận TP. Hà Giang: thị trấn Vị
Xuyên 434 người/km2, thị trấn Việt Lâm 303 người/km2, xã Đạo Đức 114
người/km2, xã Việt Lâm 109 người/km2, xã Phú Linh 105 người/km2.
Những nơi dân cư tập trung thưa thớt chủ yếu là các xã vùng biên giới, vùng
cao, vùng sâu, xa như: Quảng Ngần 26 người /km2, Thanh Đức 32 và Bạch
Ngọc 32 người/km2, Cao Bồ 33 người/km2. [130; tr.37]
Như vậy, dân số càng đông, chất lượng nguồn lao động càng cao thì có
điều kiện tốt để hình thành, phát triển cơ cấu kinh tế đa dạng, có chất lượng
với những ngành, lĩnh vực có khả năng bứt phá, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, sự đa dạng về dân tộc cũng tạo ra sự phân hoá về phát triển
30
con người. Các dân tộc thiểu số thường cư trú ở các địa bàn vùng núi, điều
kiện kinh tế khó khăn, trình độ giáo dục thấp, vấn đề chăm sóc sức khoẻ chưa
được tốt, có nơi còn du canh du cư, do vậy, đời sống và trình độ phát triển của
người dân nơi đây thấp hơn so với các dân tộc sống ở vùng đồng bằng.
Với truyền thống vắn hoá, truyền thống cách mạng, nhân dân các dân tộc
trong huyện cần cù sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, kế
thừa và phát huy những kinh nghiệm, thành quả đã đạt được trong lao động,
huyện Vị Xuyên sẽ có điều kiện để phát huy mạnh mẽ kinh tế, xã hội trong
thời gian tới.
2.1.3. Bối cảnh quốc tế và trong nước
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986), sự nghiệp đổi
mới của cả nước nói chung và tỉnh Hà Giang nói riêng phát triển trong điều
kiện thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Sau khi chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào tình trạng thoái trào. Các
mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại, đan xen với nhau, có mặt trở nên
sâu sắc hơn. Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, những xung đột vũ
trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, khủng bố vẫn diễn ra ở nhiều nơi và ngày càng tăng. Cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, là
động lực thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và năng
suất lao động, làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế thế giới, nhưng cũng đặt ra
thách thức lớn đối với tất cả các nước. Từ xã hội công nghiệp hiện đại, nhân
loại phải đối mặt với những vấn đề cấp thiết mang tính toàn cầu, đòi hỏi
phải có sự hợp tác của toàn thế giới mới có thể giải quyết được. Khu vực
châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động, tiềm lực kinh tế ngày càng
mạnh. Xu hướng tự do hóa và liên kết trong khu vực phát triển nhanh, đặc
31
biệt trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Sự phát triển không đồng đều giữa
các nước vẫn là một xu hướng không thể đảo ngược. Từ những thay đổi của
tình hình thế giới, trong quan hệ quốc tế đã và đang nổi lên những xu thế
chủ yếu sau đây: Hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển vì lợi ích của
các dân tộc và quốc gia và vì lợi ích chung của toàn nhân loại; các quốc gia
ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển và tập trung mọi nguồn lực vào ưu
tiên phát triển kinh tế; các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự
cường, hợp tác và đấu tranh luôn là hai mặt cùng tồn tại.
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới Việt Nam đã ra khỏi
khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển
biến theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được đầu tư nâng cấp, mở rộng, nguồn lực
phát triển kinh tế được huy động. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, kinh
tế tăng trưởng liên tục. Việt Nam đã thực hiện có kết quả chủ trương phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy được tiềm năng của các thành
phần kinh tế.
Với bối cảnh chung như trên, sau thời kỳ gián đoạn, quan hệ Việt -
Trung dần dần được cải thiện và chính thức bình thường hoá từ năm 1991.
Điều này tác động lớn đến các tỉnh biên giới phía Bắc và Hà Giang nói
chung, Vị Xuyên nói riêng có thêm điều kiện để phát triển.
2.1.4. Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng,
Nhà nước và của tỉnh Hà Giang
Tháng 12-1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã họp. Với tính
thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội
xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát cho việc phát triển kinh tế,
xã hội của nước ta là: Ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tực
32
xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, được Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) thông qua, đã chỉ rõ
định hướng phát triển, vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế
quốc dân, “Kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công
nghiệp với cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ” [59; tr. 319].
Tiếp theo, Đại hội VIII của Đảng (1996), trên cơ sở đánh giá những thành
công và hạn chế sau 10 năm đổi mới, xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế
giai đoạn 1996 - 2000 là: “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền
vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội…,cải thiện đời
sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế” [59; tr. 545],
đồng thời Đại hội cũng xác định mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước trong thời kỳ quá độ. Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đến
năm 2001, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề
ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đã cơ bản hoàn thành cho phép
chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về văn hoá, xã hội, Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu và mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội trong 5 năm
(1991 - 1995): “Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn
hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và
tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế” [59; tr. 279]. Trong Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội
cũng nêu rõ nhiệm vụ và phương hướng phát triển văn hoá và các vấn đề xã
hội là nhằm phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo những điều kiện
để con người phát triển một cách toàn diện. Đến Đại hội VIII (1996), chủ
33
trương giải quyết các vấn đề xã hội được tập trung vào việc thanh toán nạn
mù chữ và hoàn thành cơ bản phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, giảm
nhịp độ phát triển dân số, giải quyết việc làm, hoàn thành căn bản định canh
định cư, xoá đói giảm nghèo.
Cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều
quyết định, chương trình mục tiêu..., trong đó quan trọng và có ý nghĩa nhất
là Chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
miền núi và vùng sâu, vùng xa. Giai đoạn đầu, Chương trình 135 chủ yếu
nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn xuống dưới 25% vào
năm 2005, tăng tỷ lệ trẻ em nhập học lên đến 70%, mở rộng đào tạo cho
người nghèo trong sản xuất, kiểm soát dịch bệnh và cung cấp nước sạch,
xây dựng đường và phát triển chợ nông thôn. Người hưởng lợi từ Chương
trình 135 chủ yếu là nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Phần lớn các xã được
hưởng lợi từ Chương trình 135 thuộc khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống.
Với sự đầu tư vốn lớn từ các chương trình, dự án phát triển kinh tế đối
với khu vực dân tộc thiểu số của Chính phủ, bộ mặt kinh tế của huyện Vị
Xuyên từ cuối những năm 90 thế kỷ XX đã có những chuyển biến tích cực
và thực sự khởi sắc từ những năm 2000.
Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ Hà Giang đã thông
qua các nghị quyết, chỉ thị về chính sách về phát triển các lĩnh vực xã hội
phù hợp với địa phương, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống
xã hội.
Quán triệt quan điểm, đường lối của Đại hội Đảng lần thứ VII, Đại hội
lần thứ XI Đảng bộ tỉnh Hà Giang (1-1992) đã xác định 5 mục tiêu lớn về
kinh tế xã hội trong những năm 1992 - 1995 là: Phát triển kinh tế theo
hướng cơ cấu nông - lâm - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; lấy kinh tế
đồi rừng, phát triển công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc để làm chuyển
34
biến nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, gắn phát triển kinh
tế nông - lâm nghiệp với xây dựng nông thôn mới; hạ mức tăng dân số, khắc
phục tình trạng xuống cấp của lĩnh vực văn hoá, giáo dục nhằm từng bước
ổn định đời sống kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí và tạo thế đi lên trong
những năm tới.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XI đề ra 10 chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 1995. Đảng bộ cũng đã xác định rõ 3
vùng kinh tế của tỉnh. Đó là:
- Vùng cao núi đá: gồm các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh,
Quản Bạ.
- Vùng cao núi đất gồm 2 huyện Xín Mần, Hoàng Su Phì và một số
xã của huyện Bắc Quang, Vị Xuyên và Bắc Mê.
- Vùng thấp gồm thị xã Hà Giang, huyện Bắc Quang, Vị Xuyên,
Bắc Mê.
Có thể nói việc xác định 3 vùng kinh tế với những cây trồng, vật nuôi
thích hợp là sự cụ thể hoá tư tưởng chỉ đạo đối với đổi mới cơ cấu kinh tế
nông - lâm nghiệp.
Đường lối đổi mới của Đảng, chính sách phát triển kinh tế của Nhà
nước được Đảng bộ tỉnh… vận dụng sáng tạo vào điều kiện địa phương
bằng những mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, những chính
sách, biện pháp cụ thể, đã có tác động lớn đến khả năng thu hút các nguồn
lực cho phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế.
Những năm cuối thế kỉ XX (1996 - 2000), thực hiện các nghị quyết
của Trung ương Đảng (khoá VIII), các chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ra các nghị quyết quan
trọng để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp phát triển kinh tế như: Nghị quyết về
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2
35
(khoá VIII) về ứng dụng khoa học công nghệ; Nghị quyết về chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khoá
VIII) về phát huy nội lực, cần kiệm để xây dựng công nghiệp hoá - hiện
đại hoá, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2000;
Nghị quyết về thực hiện Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị về phát triển nông
nghiệp, nông thôn.
Như vậy, các yếu tố này là điều kiện có tính quyết định đến sự hình
thành và phát triển cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Sự ổn định, minh bạch, đồng
bộ của thể chế kinh tế (nhất là các chính sách đầu tư, tài chính) sẽ góp phần
phát triển cơ cấu kinh tế làm giảm hoặc làm tăng lên các tác động tích cực
và tiêu cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ chế quản lí sẽ tác động
lên cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư, tạo ra cân đối lực lượng lao động và thu
nhập giữa các vùng, giảm bớt khoảng cách chênh lệch mức sống giữa thành
thị và nông thôn.
Chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến năm
2010 chịu sự tác động thường xuyên của nhiều yếu tố, trong đó có những
yếu tố tự nhiên như điều kiện địa hình, địa chất, khí hậu, thổ nhưỡng và có
những yếu tố thuộc về xã hội như đặc điểm dân tộc, dân cư. Ngoài ra còn có
những yếu tố tác động hết sức quan trọng là chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước đối với khu vực miền núi, khu vực dân tộc thiểu số, các
chính sách về xóa đói giảm nghèo...
Huyện Vị Xuyên là một vùng dân tộc thiểu số, miền núi và biên giới.
Đây là vùng chiếm số đông các dân tộc thiểu số sinh sống, có tốc độ tăng
trưởng kinh tế tốt nhưng do xuất phát điểm thấp nên quy mô của nền kinh tế
còn nhỏ bé, tình trạng đói nghèo còn ở mức cao và phổ biến, lệ thuộc nhiều
vào sự đầu tư của các cấp. Đặc biệt, do có đường biên giới với nước ngoài
nên nơi đây là những địa bàn nhạy cảm về chính trị, buộc phải đặt vấn đề
36
phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo an ninh - quốc phòng. Tuy nhiên,
nơi đây vẫn là vùng có nhiều tiềm năng và cơ hội để phát triển. Là nơi có địa
bàn lớn, có nhiều dân tộc, có tuyến biên giới dài, có tuyến quốc lộ quan
trọng chạy qua, do vậy, huyện cần quan tâm đến quản lý và sử dụng có hiệu
quả hạ tầng xã hội, hạ tầng giao thông, hạ tầng thông tin để tạo sự thúc đẩy,
lan tỏa hình thành các mạng lưới liên kết vùng phát triển kinh tế hiệu quả và
bền chặt.
Mặc dù kinh tế có phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng đất
đai, tài nguyên khoáng sản, thế mạnh về con người, lợi thế về địa lý. Chính
vì thế Vị Xuyên chưa phát huy được vai trò của huyện động lực như mong
muốn. Sự phát triển và thành tựu của các lĩnh vực chủ yếu dọc trục quốc
lộ 2, chủ yếu địa bàn thị trấn, thị tứ, chủ yếu ở những nơi được tập trung chỉ
đạo thường xuyên và liên tục của huyện và của tỉnh… Điều này cho thấy
yếu tố tự nhiên và xã hội của Vị Xuyên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
thực hiện các chính sách về dân tộc cũng như tăng trưởng kinh tế. Việc triển
khai thực hiện các chương trình, dự án lớn ở huyện Vị Xuyên luôn phải tính
đến việc khắc phục những khó khăn của điều kiện tự nhiên cũng như khả
năng tiếp nhận của người dân trên địa bàn huyện.
Dù vậy, là địa bàn có nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế như
khoáng sản, thủy điện, tài nguyên thiên nhiên phong phú, có vị trí đối nội
đối ngoại trọng điểm của tỉnh, có nhiều giá trị văn hóa lịch sử và tâm linh,
trong tương lai Vị Xuyên hoàn toàn có thể là nơi khai thác tài nguyên tốt
phục vụ cho đời sống của người dân địa phương. Mặt khác, Vị Xuyên là
mảnh đất giàu truyền thống, kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ
biên giới phía Bắc. Nhân dân các dân tộc Vị Xuyên trong những năm qua
luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm vượt lên nghèo khó,
hòa nhập với nhân dân trong tỉnh Hà Giang và cả nước. Đây chính là điều
37
kiện quan trọng đảm bảo cho sự thành công khi triển khai thực hiện các
chính sách của Đảng và Nhà nước đối với khu vực miền núi trọng điểm như
huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
2.2. Chuyển biến về kinh tế
2.2.1. Bước đầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Huyện Vị Xuyên là một địa bàn có tầm quan trọng chiến lược của tỉnh
Hà Giang nói chung và khu vực biên giới Việt - Trung nói riêng. Trong
cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc trước sự xâm lược của
Trung Quốc, quân dân huyện Vị Xuyên đã anh dũng chiến đấu cùng với
nhân dân của tỉnh Hà Tuyên và các tỉnh biên giới phía Bắc đánh bại âm mưu
của kẻ thù, bảo vệ an ninh vùng biên của đất nước. Sau cuộc chiến năm
1979, huyện Vị Xuyên tiếp tục phải chịu nhiều thiệt hại trước sự đánh phá
của kẻ thù. Ngày 7 tháng 5 năm 1981, Trung Quốc dùng pháo cối hạng nặng
bắn phá các xã Lao Chải, Thanh Thủy, Minh Tân, Phương Tiến sau đó dùng
bộ binh đánh chiếm các cao điểm 1800A, 1800B, 1875, 1558. Từ ngày 7
đến 23 tháng 5 năm 1981, Trung Quốc bắn sang khu vực biên giới huyện Vị
Xuyên hơn 9.000 quả đạn pháo là chết 2 người dân, 11 người bị thương, 189
ngôi nhà bị phá hủy [10; tr. 162-163]. Trước tình hình đó, huyện Vị Xuyên
được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Tuyên đã kịp thời đề ra các biện pháp ổn
định tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; tiến hành kiểm tra bố trí lại lực lượng
chiến đấu ở tuyến trước, tổ chức cho nhân dân sơ tán về tuyến sau. Tháng 5
năm 1982, Chính phủ quyết định cho giải thể một số xã ở vùng biên, tách
nhập một số thôn vào các xã khác để phù hợp với thế trận chiến đấu
(giải thể xã Thanh Hương, sáp nhập các thôn của xã Thanh Hương vào
Thanh Đức và Xín Chải, tách một số thôn của xã Phương Tiến vào xã
38
Thanh Thủy).
Đến năm 1984, Trung Quốc lại tiến hành chiến tranh xâm lấn biên giới,
tăng cường kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống Việt Nam. Trung
Quốc sử dụng quân đoàn 14 và một số sư đoàn độc lập thuộc đại quân khu
Côn Minh tấn công dồn dập vào biên giới Hà Tuyên và chủ yếu tập trung ở
Vị Xuyên. Chiến trường Bắc Vị Xuyên trở thành chiến trường nóng bỏng
nhất cả nước [10; tr. 169]. Cho đến năm 1985, quân Trung Quốc vẫn tìm mọi
cách quấy phá an ninh của ta. Không chỉ về quân sự, quân Trung Quốc còn tìm
cách phá hoại về kinh tế, chính trị, văn hóa, phao tin đồn nhảm gây hoang
mang trong nội bộ ta [149; tr. 4]. Để đối phó với tình hình trên, huyện Vị
Xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân
về âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, đề cao tinh thần cảnh giác trong mọi tình
huống, gắn chặt lực lượng an ninh với việc củng cố quốc phòng toàn dân.
Từ cuối năm 1985 đến đầu năm 1986, thực hiện chủ trương chung trong tỉnh
Hà Giang, huyện Vị Xuyên đã gom các nhóm cư dân ở vùng biên di dời vào
sâu trong nội địa, tổ chức cư trú tạm thời cho nhân dân trong một khu vực
hoàn chỉnh có chính quyền, tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng; đồng thời
đảm bảo đất đai để sản xuất tạo điều kiện ổn định cuộc sống của bà con
nhân dân. Đối với những lao động trẻ, khỏe có thể bám trụ lại vùng biên vừa
sản xuất, vừa chiến đấu được tập trung lại trong các địa bàn nhất định để
thuận tiện cho việc quản lý, sinh hoạt, củng cố công tác an ninh [149; tr. 4].
Năm 1986 là năm đầu tiên trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm
1986 - 1990 với 3 chương trình kinh tế lớn là: Chương trình sản xuất lương
thực, phực phẩm; Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng; Chương trình sản
xuất hàng xuất khẩu. Đối với Vị Xuyên lúc này vẫn gặp nhiều khó khăn
trong bối cảnh chiến sự vẫn thường xuyên xảy ra, quân và dân ở đây ở trong
điều kiện vừa sản xuất vừa chiến đấu. Nhiều vùng đất canh tác ở biên cương
bị bỏ hoang do đạn pháo kích của quân Trung Quốc gây ra, số dân bám trụ
39
sản xuất không được bao nhiêu, số lui vào nội địa việc bố trí sản xuất, đời
sống còn chưa ổn định. Cơ sở vật chất phục vụ sản xuất chưa được củng cố
và tăng thêm, vật tư nhà nước cung cấp không đáp ứng đủ theo nhu cầu
[149; tr. 1]. Nhiệm vụ quan trọng đặt lên hàng đầu trong lúc này của huyện
Vị Xuyên là: Tăng cường củng cố quốc phòng toàn dân, toàn diện, xây dựng
làng xã, huyện pháo đài vững chắc, thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh
giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Đập tan mọi âm mưu, thủ
đoạn và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của bọn phản động Trung Quốc
[149; tr. 2].
Về cơ bản, kinh tế huyện Vị Xuyên giai đoạn đầu đổi mới (1986 -
1990) chỉ có nông - lâm nghiệp nếu xét theo cơ cấu các ngành kinh tế. Nông
nghiệp là trọng tâm, là chủ đạo trong tất cả các giải pháp, kế hoạch mà
huyện đưa ra nhằm thực hiện những chủ trương của tỉnh và của Đảng, Nhà
nước. Những lĩnh vực về công nghiệp, dịch vụ vẫn chưa có gì đáng kể.
Từ sau khi tỉnh Hà Tuyên được chia tách1, huyện Vị Xuyên bắt đầu
thực hiện đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, nhưng vẫn chỉ
mới tập trung vào ngành nông - lâm nghiệp. Huyện đã xác định lại cơ cấu
vùng sản xuất, xác định cơ cấu cây trồng, chuyển nền sản xuất tự cung tự
cấp sang sản xuất hàng hóa; từ điều kiện tự nhiên, đất đai của từng vùng để
xác định hình thành vùng sản xuất hàng hóa như vùng chè, quế, vùng cây ăn
quả, thâm canh lương thực [155; tr. 3]. Việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nông lâm - nghiệp có 7/23 xã chuyển biến tích cực. Điển hình
là xã Trung Thành có 756 hộ, thu nhập bình quân 2 triệu đồng/người/năm.
[155; tr. 4].
Từ năm 1995 trở đi vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngoài việc tiếp
tục nhấn mạnh đến kinh tế nông - lâm nghiệp thì bắt đầu đề cập đến phát
1 Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 9 năm 1991 đã ra nghị quyết về việc chia tách một số tỉnh, trong đó tỉnh Hà Tuyên chia thành 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang.
40
triển ngành tiểu thủ công nghiệp. Phương hướng từ năm 1995 đến năm 2000
mà huyện Vị Xuyên vạch ra là: "Tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế vùng nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, trọng tâm
là phát triển và mở rộng diện tích cây chè, cà phê, cây ăn quả, cây lâm
nghiệp thành vùng tập trung phục vụ cho công nghiệp chế biến... Thâm
canh lúa nước, ngô để đảm bảo lương thực tại chỗ" [155; tr. 8].
Với phương hướng mới đó, từ năm 1996 trở đi, cơ cấu ngành kinh tế
của huyện Vị Xuyên đã bớt đơn điệu hơn giai đoạn trước. Thay vì chỉ thuần
túy nông, lâm nghiệp, lúc này ngành tiểu thủ công nghiệp đã có một vị trí
nhất định trong cơ cấu kinh tế ngành của huyện, mặc dù còn chiếm vị trí hết
sức khiêm tốn. Đến cuối năm 1996, lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp của huyện
Vị Xuyên bắt đầu phát triển, tập trung ở một số ngành nghề chính như: khai
thác, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất dụng cụ cầm tay, sản xuất đồ gỗ...
Đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại địa bàn, trong năm đã khai thác được
3.407m3 đá hộc, sản xuất được 2.948.000 viên gạch chỉ, 937 tấn vôi củ,
830m3 gỗ xây dựng, 3.907 nông cụ các loại. Giá trị tổng sản lượng thủ công
nghiệp đạt 5.564,7 triệu đồng, tăng 109,2% so với năm 1995 [156; tr. 6]. So
với con số giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp năm 1996 đạt 112.268,8 triệu
đồng [156; tr. 1] thì giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp còn chênh lệch
rất lớn.
Dù vậy, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn cho thấy vai trò ngày
càng quan trọng trong cơ cấu phát triển kinh tế của huyện Vị Xuyên. Trước
năm 1997, kế hoạch cho phát triển lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp
gần như không được đề cập vì khả năng cũng như thực tế phát triển của lĩnh
vực này rất thấp và yếu kém. Lĩnh vực công nghiệp lần đầu tiên được đề cập
đến trong phương hướng phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên năm
1997. Đó là "đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế
41
biến, sản xuất vật liệu xây dựng, công cụ cầm tay. Tiếp tục đầu tư cho nhân
dân vay vốn lắp đặt máy chế biến chè mi ni, máy chưng cất dầu sả, xây
dựng các dự án vừa và nhỏ để thu hút người lao động tạo ra sản phẩm cho
người lao động" [156; tr. 5]. Có thể nói đây là một bước tiến mới trong việc
vạch kế hoạch phát triển kinh tế ở địa phương.
2.2.2. Sự phát triển của các ngành kinh tế
2.2.2.1. Nông - lâm nghiệp
Kinh tế nông - lâm nghiệp luôn được xác định là lĩnh vực trọng tâm,
quan trọng hàng đầu của Vị Xuyên, nhất là trong thời gian đầu thực hiện
hiện công cuộc đổi mới. Ngay từ năm 1986, phương hướng nhiệm vụ chủ
yếu của huyện Vị Xuyên được xác định là: "Đẩy mạnh phát triển sản xuất
nông nghiệp toàn diện. Trọng tâm là sản xuất lương thực, thực phẩm trên
cơ sở thâm canh, gắn với việc sản xuất nông lâm kết hợp, củng cố quan hệ
sản xuất ở nông thôn. Phát triển thêm một bước sản xuất các mặt hàng xuất
khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản (chè, lạc, ngô) và các mặt hàng lâm
sản (mây song và các mặt hàng mây tre đan lát) bằng các hình thức tổ chức
sản xuất, thu mua thích hợp" [149; tr. 2].
Trong sản xuất nông nghiệp, các loại cây lương thực được hết sức chú
trọng, đặc biệt là cây lúa và cây ngô được xem là hai cây chủ lực. Mặc dù đã
chủ động đề ra kế hoạch đưa diện tích, sản lượng của cây lúa, ngô tăng lên,
nhưng do điều kiện là huyện biên giới, chiến sự vẫn tiếp tục xảy ra ác liệt,
nên những chỉ tiêu về sản xuất lương thực nhìn chung đều không thực hiện
được theo như kế hoạch đặt ra. Cho đến năm 1990, tổng sản lượng lương
thực quy thóc của huyện Vị Xuyên mới đạt được con số 18.315 tấn, bình
quân 1 nhân khẩu là 305 kg/năm [151; tr. 3]. Con số này vẫn còn thấp hơn
chỉ tiêu dự kiến đạt được năm 1986 (kế hoạch dự kiến đưa bình quân lương
42
thực lên 320,8kg/người).
Năm 1990 là năm kết thúc kế hoạch 1986 - 1990. Đối với Vị Xuyên
tình hình kinh tế - chính trị diễn ra phức tạp, giá cả thị trường không ổn định
ảnh hưởng đến đời sống sản xuất và đời sống của nhân dân [151; tr. 1].
Trong lĩnh vực sản xuất nông - lâm nghiệp, phần lớn kết quả đạt được xấp xỉ
chỉ tiêu đặt ra, một số ít đạt hoặc vượt. Chẳng hạn diện tích gieo trồng lúa đạt
103% kế hoạch so với năm 1989; tương tự cây ngô đạt 106%. Tuy nhiên
năng suất và sản lượng lại không đạt như kế hoạch.
Cho đến đầu thập niên 90, cây lúa và cây ngô vẫn là cây lương thực chính
của huyện Vị Xuyên. Trên địa bàn huyện vẫn có một vài loại cây khác được
trồng nhưng không phổ biến và năng suất cũng không cao (ví dụ như cây lạc).
Dù vậy, cả năng suất và sản lượng chưa thực sự cao và có phần giảm sút nếu
so với năm 1989. Nguyên nhân được chỉ ra là do năm 1990, huyện Vị Xuyên
gặp thời tiết bất lợi, vụ Đông Xuân có rét đậm kéo dài, mưa lũ gây thiệt hại
nặng dẫn đến diện tích gieo trồng một số xã như Tùng Bá, Thuận Hòa... bị thu
hẹp. Mặt khác, việc đầu tư cho cây của người nông dân còn ít (như về giống
lúa, phân bón...) trong khi đó giá phân đạm tăng đột ngột, hàng nông sản giá
thu mua thấp nên sức mua để đầu tư cho nông nghiệp của người dân hạn chế
[151; tr. 3].
Việc thực hiện chủ trương khoán trong nông nghiệp đã phần nào có tác
dụng tích cực đối với tình hình sản xuất của toàn huyện, tuy nhiên mức độ phổ
biến vẫn chưa cao. Toàn huyện có 122 hợp tác xã thì mới chỉ có 63 hợp tác xã
thực hiện công tác khoán vào thời điểm năm 1990. Hơn nữa, việc giao đất
chưa thật công bằng dẫn đến tình trạng lấn chiếm đất đai, ban quản trị điều
hành còn lúng túng. Trong khi công tác dịch vụ phục vụ nông nghiệp hoạt
động yếu chưa đáp ứng được yêu cầu [151; tr. 3].
Chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò và lợn. Cho đến năm 1990, đàn lợn nuôi
theo mô hình quốc doanh không còn tồn tại nữa do thiếu vốn đầu tư, chỉ còn
43
phát triển dưới hình thức hộ gia đình. Tổng đàn lợn có 20.875 con (đạt 95,88%
kế hoạch), đàn trâu có 16.597 con (đạt 93,66% kế hoạch), đàn bò có 573 con
(đạt 99,68% kế hoạch) [151; tr. 4]. So với năm 1985, số lượng đàn gia súc
tăng lên với tốc độ chậm, tương ứng với tốc độ phát triển của sản xuất lương
thực (xem Bảng 2.1).
(đơn vị tính: con)
Bảng 2.1. Tổng đàn gia súc qua một số năm
Đàn gia súc Năm 1985 Năm 1990
Lợn 20.110 20.875
Trâu 15.800 16.597
Nguồn: [149; tr.5 và 151; tr. 4].
Bò 300 573
Trong sản xuất lâm nghiệp, ngay từ năm 1985 Vị Xuyên đã xem trồng
rừng và bảo vệ rừng là một việc làm cấp bách, nhằm tăng nhanh diện tích
phủ xanh đất trống đồi trọc, theo tinh thần sản xuất nông lâm kết hợp. Lĩnh
vực lâm nghiệp thời gian này được chia thành bốn nhóm nhiệm vụ rõ nét, đó
là: trồng rừng tập trung, chăm sóc rừng, tu bổ rừng và khai thác lâm sản.
Năm 1985, huyện Vị Xuyên thực hiện nhiệm vụ trồng rừng tập trung ước
đạt 400 ha, trong đó quốc doanh trồng được 200 ha, còn lại do các hợp tác xã
thực hiện. Số lượng trồng rừng phân tán cũng khá lớn, năm 1985 đạt khoảng
1.000 ha. Diện tích rừng trồng phân tán một phần do quốc doanh, còn lại là cán
bộ công nhân viên, học sinh, bộ đội đóng trên địa bàn thực hiện. Việc chăm
sóc và tu bổ rừng cũng được thực hiện do quốc doanh và các hợp tác xã thực
hiện, ngoài ra còn huy động thêm lực lượng học sinh, bộ đội [149; tr. 9]. Riêng
khai thác lâm sản đều do quốc doanh thực hiện, vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
vừa sử dụng để xuất khẩu. Năm 1985, khai thác gỗ tròn được 1.700m3, ngoài
44
ra còn có các loại khác như tre, vầu, mây song.
So với năm 1985, lĩnh vực lâm nghiệp năm 1990 có phần chững lại, hoạt
động không hiệu quả. Diện tích trồng rừng tập trung năm 1990 chỉ thực hiện
được 20 ha (bằng 6,9% kế hoạch đặt ra). Phần lớn trồng rừng chủ yếu là do hộ
gia đình thực hiện. Báo cáo tình hình năm 1990 của huyện Vị Xuyên đã đánh
giá: "Sản xuất lâm nghiệp thuộc khu vực quốc doanh trong năm 1990 gặp
nhiều khó khăn, vốn do nhà nước cấp rất muộn cho nên đơn vị không có vốn.
Đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn... Việc khai thác lâm sản và bảo vệ
rừng còn kém hiệu quả, nhất là các khu rừng ở xã Minh Tân, Phong Quang,
Thanh Thủy, Phương Tiến... bị khai thác khối lượng rất lớn, các biện pháp
ngăn chặn mang lại hiệu quả kém, nhiều tổ chức và cá nhân trốn thuế và trốn
nộp tiền nuôi rừng" [151; tr. 4-5].
Tháng 12 năm 1991, Đại hội Đảng bộ huyện Vị Xuyên (khóa XVIII)
đã xác định nhiều phương châm, biện pháp quan trọng nhằm đưa kinh tế Vị
Xuyên phát triển lên một bước mới, trong đó nhấn mạnh: “Thúc đẩy sản
xuất nông - lâm nghiệp, thủ công nghiệp và chăn nuôi theo hướng sản xuất
hàng hóa, ổn định đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo” [10; tr. 185].
Với việc định hướng các lĩnh vực theo sản xuất hàng hóa nên từ năm 1991
trở đi, mạng lưới dịch vụ nông nghiệp ngày càng được bổ sung, củng cố để
đáp ứng yêu cầu của ngành nông nghiệp.
Trước hết là dịch vụ thủy lợi. Đến năm 1993, huyện đã chủ động phục
vụ nước tưới cho 2 vụ sản xuất, có kế hoạch quản lý điều hành 16 công trình
thủy lợi trên địa bàn. Các cơ sở dịch vụ nông nghiệp đã hướng dẫn nhân dân
tổ chức nạo vét được 755 km kênh mương, đào đắp trên 35.000 m3 đất đá,
sửa chữa 75 phai đập; thực hiện khảo sát lập dự toán sửa chữa lớn cho 8
công trình thủy lợi. Mạng lưới dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp được tổ
chức tương đối tốt và đã phục vụ phân bón, vật tư cho các cơ sở được 42.239
45
kg đạm urê, 223.648 kg lân, 3.171 kg kali, 5.153 phân NPK... Trạm bảo vệ
thực vật đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu giống lúa mới Chiêm đen, ngô lai Q2
đến từng hợp tác xã [154; tr. 4].
Nhờ sự hỗ trợ từ các lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp, trong các năm 1993
- 1994, sản lượng lương thực đã có sự tăng trưởng hơn so với năm 1990 nhưng
vẫn chưa thực sự bền vững và bứt phá. Năm 1993, sản lượng lương thực đạt
20.335 tấn, so với năm 1992 tăng lên 28-29%, nhưng năm 1994 đạt thấp
hơn với 20.140 tấn. Trong khi đó, năng suất 2 loại cây lương thực chủ lực
có sự tăng lên khá đều đặn. Năm 1990 năng suất cây lúa đạt 19,78 tạ/ha, năm
1992 là 21,24 tạ/ha, năm 1993 tăng lên 26,8 tạ/ha và năm 1994 là 28,4 tạ/ha.
Năng suất cây ngô năm 1990 đạt 11,5 tạ/ha, năm 1992 10,1 tạ/ha và năm
1993 - 1994 đạt 18,25 tạ/ha. Bình quân lương thực quy thóc theo đầu người
tăng từ 238 kg/người năm 1992 đã tăng lên 285-295 kg/người năm 1993 -
1994 [155; tr. 3]. Con số này vẫn thấp hơn so với mức đạt được năm 1985.
Các hoạt động dịch vụ vật tư nông nghiệp ngày càng đáp ứng đầy đủ
nhu cầu về phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ sản xuất. Riêng năm 1996, các
cơ sở đã cung cấp 100 tấn đạm urê, 300 tấn NPK, 1.000 tấn lân, lân vi sinh
790 tấn, 10 tấn kali, 500 kg thuốc trừ sâu. Bên cạnh đó còn tổ chức nhân dân
tiến hành nạo vét được 40 km kênh mương, xây dựng và tu sửa 5 hạng mục
công trình thủy lợi Ngọc Thượng (Ngọc Linh), Lùng Chang (Linh Hồ),
Hồng Tiến (Tùng Bá), Nà Rốc (Phương Tiến), Thôn Châng (Phương Thiện)
với tổng số vốn là 289.989.470 đồng, trong đó nhân dân đóng góp
77.407.045 đồng đảm bảo tưới tiêu thường xuyên cho hơn 4.000 ha lúa
[156; tr. 4]. Đóng góp của lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp góp phần quan
trọng trong việc tăng năng suất cũng như sản lương thực của huyện Vị
Xuyên. Lấy thời điểm năm 1991 để so sánh với kết quả đạt được năm 1996
thì có sự thay đổi khá ấn tượng thông qua các số liệu. Diện tích lúa ruộng
năm 1996 là 4.621 ha, tăng 393 ha so với năm 1991 (tốc độ bình quân là
46
1,8%). Diện tích cây ngô năm 1996 là 2.441 ha, tăng 246 ha so với 1991.
Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1996 đạt 22.130 tấn, tăng gần 53%
so với năm 1991. Bình quân lương thực đầu người/năm đã tăng lên 300kg
năm 1995 và 291 năm 1996 [157; tr. 4]. Đến năm 2000, tổng sản lượng lương
thực tăng lên 27.019,4 tấn, vượt 3,2% kế hoạch đề ra và tăng 13,7% so với
năm 1999. Bình quân lương thực đầu người/năm vượt xa so với các năm
trước đạt 324kg/người (vượt 6% kế hoạch đề ra), tăng 13% so với năm 1999
[161; tr. 1-2]. Với sự phát triển của sản xuất lương thực, huyện Vị Xuyên đã
ổn định cân đối nguồn lương thực tại chỗ và có dự trữ hàng năm.
Chăn nuôi được xem là thế mạnh của huyện Vị Xuyên. Huyện xác định
đây là một ngành kinh tế mang lại giá trị cao. Năm 1992 đàn trâu của Vị
Xuyên đạt số lượng hơn 18.000 con, năm 1994 đạt 20.220 con, bình quân
tăng trưởng 5-6%. Đàn bò năm 1992 đạt 527 con, năm 1994 tăng lên 867
con. Đàn dê năm 1994 có 9.383 con tăng, 4.000 con so với năm 1992. Đàn
lợn có 24.651 con năm 1994, tăng bình quân 4-5%/năm. Ngoài ra, Vị Xuyên
còn phát triển khá mạnh nghề nuôi cá. Diện tích nuôi cá từ 50 ha năm 1992
đã tăng lên 150 ha năm 1994. Nhiều hộ gia đình phát triển nuôi cá lồng,
nuôi ba ba, cá trê phi [155; tr. 3-4]... Có thể thấy ngành chăn nuôi của huyện
Vị Xuyên trong những năm đầu thập niên 1990 có sự tăng trưởng khá nhanh
chóng và ổn định hơn so với giai đoạn 1985 - 1990. Rõ nhất chính là sự tăng
lên khá nhanh của đàn gia súc cũng như chủng loại vật nuôi. Đàn trâu năm
1995 có 21.000 con, năm 1996 có 21.540 con (tăng từ 16,3 - 17%). Đàn bò
năm 1996 có 932 con, tăng 1,12 lần so với năm 1991. Đàn dê năm 1996 có
16.100 con, tăng 86,5% so với năm 1991. Đàn lợn năm 1996 có 26.297 con
tăng 16,7% so với năm 1991. Đến năm 2000, ngành chăn nuôi ở Vị Xuyên
đã có sự chuyển biến khá ổn định. Nguồn vốn hỗ trợ cho vay trâu bò được
tổ chức thực hiện có hiệu quả, phần lớn các hộ đói nghèo đã được hỗ trợ
vốn mua trâu đảm bảo sức kéo cho sản xuất. Tổng đàn trâu năm 2000 có
47
23.700 con, tăng 1,6% so với năm 1999. Trong số đó, các hộ đói nghèo mua
được trâu bằng nguồn vốn vay là 464 con. Tổng đàn bò năm 2000 là 1.450
con, tăng 0,3% so với năm 1999 [161; tr. 2].
Bên cạnh các loại cây lương thực chủ lực, đặc biệt là từ sau khi tái lập
tỉnh Hà Giang, cơ cấu cây nông nghiệp của Vị Xuyên đã ngày càng phong
phú hơn với sự mở rộng của các loại cây phi nông nghiệp. Các loại cây công
nghiệp và cây ăn quả có sự phát triển khá mạnh, bước đầu có thâm canh,
nhất là cây chè đã hình thành vùng sản xuất tập trung. Trong các loại cây
công nghiệp lâu năm, cây chè có thế mạnh nhất ở Vị Xuyên. Trong 5 năm từ
năm 1991 đến năm 1995 diện tích trồng chè đạt tốc độ bình quân
163,8%/năm. Sản lượng chè búp khô đạt 802 tấn năm 1995, tăng gần 3 lần
so với năm 1991. Đến năm 2000, cây chè liên tục phát triển cả về diện tích,
năng suất cũng như chất lượng. Diện tích cây chè của Vị Xuyên đạt 3.338
ha (năm 2000 trồng mới thêm được 484 ha, gấp 3,1 lần so với năm 1999),
chiếm trên 30% diện tích chè toàn tỉnh Hà Giang. Trong đó, diện tích chè
thu hoạch là 1.920 ha, sản lượng chè búp tươi đạt 6.118 tấn, tăng 6,6% so
với năm 1999 [161; tr. 2].
Cây cà phê là loại cây mới được trồng ở Vị Xuyên từ 1993 - 1994.
Tuy mới chỉ trồng với diện tích khá khiêm tốn 231 ha năm 1995 nhưng cũng
đã hứa hẹn một hướng đi mới nhiều tiềm năng. Các loại cây ăn quả như
cam, quýt cũng đạt tốc độ tăng trưởng nhanh không kém, từ 1991 đến 1995
tốc độ trồng mới hằng năm đạt 163,5%. Sản lượng quả năm 1995 đạt 3.768
tấn, tăng 87% so với năm 1991 [157; tr. 4].
Đối với lâm nghiệp, trong những năm 1992 - 1995, lĩnh vực này có sự
chuyển biến tích cực rõ nét. Nổi bật nhất và mang lại hiệu quả rõ rệt là công
tác giao rừng cho người dân. Đến năm 1995, Vị Xuyên đã giao 22.317 ha
rừng cho 11.737 hộ gia đình quản lý. Việc trồng rừng tập trung thực hiện
được 261,6 ha, tiến hành khoanh nuôi 5.095 ha rừng. Thực hiện Quyết định
48
số 327/CT về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc,
rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ), trên địa bàn huyện có 8 dự án triển khai,
trong đó chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ khoanh nuôi, bảo vệ rừng, trồng
cây đặc sản như quế, chè, hỗ trợ nhân dân vay vốn phát triển sản xuất. Nhờ
đó tình trạng phát rừng làm nương đã giảm hẳn (năm 1992 có 1.300 ha lúa
nương, năm 1993 giảm còn 1.100 ha). Nhiều sản phẩm từ rừng, từ vườn
rừng đã trở thành hàng hóa [155; tr. 4-5]. Năm 1996, diện tích rừng của Vị
Xuyên là 70.413 ha, trong đó rừng tự nhiên là 66.325 ha, độ che phủ đạt
47% diện tích đất rừng. Công tác giao đất và rừng được triển khai tới 11.526
hộ gia đình với diện tích 45.700 ha, chiếm 65% đất lâm nghiệp. Quyết định
327-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã đem lại hữu ích thực sự với
ngành lâm nghiệp địa phương trong bảo vệ và phát triển rừng, tạo thêm việc
làm và thu nhập cho người lao động. Tuy vậy, đánh giá chung thì lâm
nghiệp chuyển biến còn chậm, tình trạng đốt nương làm rẫy, du canh, du cư
vẫn còn. Từ năm 1998 trở đi, tình hình sản xuất lâm nghiệp ngày càng bài
bản và có hiệu quả hơn trước. Đến năm 2000, huyện Vị Xuyên đã hoàn
chỉnh cơ bản việc giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình chăm sóc quản lý.
Huyện đã cho đo đạc và cấp giấy chứng nhận sử dụng đất lâm nghiệp thay
thế cho sổ lâm bạ tại 16/23 xã. Đây là việc làm phù hợp với nguyện vọng
của người dân, cũng như tình hình thực tế, do đó đã góp phần tích cực trong
việc đẩy nhanh tốc độ phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Trồng rừng tập trung
năm 2000 được 540 ha vượt 63% so với kế hoạch đề ra, các chỉ tiêu về
chăm sóc rừng, bảo vệ, khoanh nuôi và phục hồi rừng đều đạt kết quả tốt, độ
che phủ rừng toàn huyện đạt 47%, tăng 1% so với năm 1999.
2.2.2.2. Tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp
Thực tế là ngành công nghiệp của Vị Xuyên phải đến năm 2000 trở lại
đây mới bắt đầu phát triển, còn những năm đầu của sự nghiệp đổi mới vẫn
49
chưa có gì đáng kể, chủ yếu là sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Các ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là như rèn đúc nông cụ (liềm, hái, cào phân),
sản xuất vật liệu xây dựng (khai thác đá, nung vôi, nung gạch...), khai thác
mây tre... Tổng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp năm 1985 thu được từ
lĩnh vực này của Vị Xuyên còn rất thấp và đơn điệu.
Trong 10 năm (1985 - 1995), tình hình phát triển của tiểu thủ công
nghiệp không có sự chuyển biến lớn. Các sản phẩm làm ra vẫn là những mặt
hàng vật liệu xây dựng thô sơ, giản đơn, không đa dạng. Hầu hết những báo
cáo về kinh tế - xã hội của huyện Vị Xuyên từ năm 1985 đến năm 1995
không đề cập nhiều đến sự phát triển của lĩnh vực này, do đóng góp của nó
đối với nền kinh tế quá thấp. Năm 1993, sản xuất thủ công nghiệp chỉ phát
triển một số nơi thuộc khu vực trung tâm huyện lỵ. Đáng kể nhất về sản
phẩm là: vôi đạt 1.890 tấn, gạch đạt 360 vạn viên, khai thác đá các loại đạt
5.700m3, cát sỏi 2.200m3 [154; tr. 6].
Từ năm 1996 trở đi, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở Vị Xuyên
bắt đầu có những chuyển biến tích cực hơn, nhưng chưa thực sự nổi bật. Giá
trị sản xuất của công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 1996 đạt 5.564,7
triệu đồng, tăng 109,2% so với năm 1995, trong đó hơn một nửa là sản xuất
vật liệu xây dựng, còn lại là đóng góp của hoạt động sản xuất công cụ cầm
tay, xay xát lương thực, đồ gỗ xây dựng... So với lĩnh vực nông lâm nghiệp
thì giá trị của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp còn hết sức khiêm tốn
(năm 1995, giá trị sản xuất của nông lâm nghiệp đạt 112.268,8 triệu đồng),
nhìn chung chưa thể hiện là ngành nghề mũi nhọn, công nghệ còn lạc hậu,
giá trị sản lượng thấp so với tiềm năng [157; tr. 6]. Đến năm 2000, công
nghiệp có bước phát triển mới, đó là mở rộng ngành công nghiệp nhẹ như
chế biến các loại nông sản, chế biến chè khô.
Sự chuyển biến chủ yếu là về mặt sản lượng cũng như giá trị sản lượng
50
đối với toàn bộ nền kinh tế của huyện Vị Xuyên. Năm 1998, nhóm ngành
sản xuất vật liệu xây dựng đã sản xuất được 3 triệu viên gạch, vôi cục 1.266
tấn, đá xây dựng 14.400m3 (tăng 188% so với 1997)... đáp ứng được nhu
cầu xây dựng trong huyện. Ngành công nghiệp nhẹ chế biến chè khô đã sản
xuất được 970 tấn, chế biến gỗ đạt 125m3 (tăng 420% kế hoạch giao), chế
biến lương thực đạt 9.000 tấn (tăng 18% so với năm 1997) [158; tr. 7]. Năm
2000, hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được mở rộng
với quy mô khá lớn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về xây dựng cơ sở hạ
tầng trong địa bàn và các khu vực khác trong tỉnh. Sản phẩm chè khô chế
biến năm 2000 đạt 1.200 tấn vượt 14,3% kế hoạch giao, tăng 30,4% so với
năm 1999, chế biến lương thực 11.000 tấn tăng 10% so với 1999, sản xuất
trên 7 triệu viên gạch [161; tr. 2-3]...
Giá trị của lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng ngày càng được
nâng lên trong tổng giá trị sản xuất toàn huyện. Năm 1997 lĩnh vực công
nghiệp, xây dựng chiếm 13% trong tổng GDP của huyện, năm 1998 là 15%,
năm 1999 là 16% và năm 2000 tăng lên 18% [158; tr. 2, 161; tr. 1]. Các
công trình xây dựng năm 1998 vẫn tiếp tục được đầu tư ở khu vực cửa khẩu
Thanh Thủy, các trạm biến áp và hệ thống nâng áp, nâng cấp đài phát thanh
huyện, hệ thống cơ sở vật chất và trụ sở làm việc của trạm y tế, trường học
và một số xã. Cũng từ 1998 trở đi, huyện Vị Xuyên thực hiện chủ trương
"Đại công trường xây dựng" của tỉnh Hà Giang bằng chương trình kiên cố
hóa kênh mương, bê tông hóa đường liên thôn. Cùng với nguồn vốn hỗ trợ
từ Trung ương, tỉnh, huyện Vị Xuyên đã tập trung huy động mọi nguồn lực,
đặc biệt là sự tham gia đóng góp của nhân dân để thực hiện xây dựng cơ sở
hạ tầng. Đến năm 2000, tổng số vốn đầu tư vào xây dựng của Vị Xuyên là
17.159,4 triệu đồng tăng 18% so với 1999. Số công trình được xây dựng năm
51
2000 là 97, trong đó chuyển tiếp 16 công trình, làm mới 81 công trình. Cũng
trong năm 2000, có 53 công trình đã hoàn thành, được đưa vào sử dụng; các
công trình còn lại tiếp tục hoàn thiện theo đúng tiến độ đề ra [161; tr. 4].
2.2.2.3. Thương mại, dịch vụ
Vào những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 (thế kỷ XX), lĩnh
vực thương mại ở huyện Vị Xuyên, về căn bản là những hoạt động mang tính
chất trao đổi, dịch vụ còn rất hạn chế. Nguyên nhân là những hoạt động phân
phối lưu thông vẫn do nhà nước đảm nhiệm, chi phối. Sự tham gia của khu
vực tư nhân là chưa đáng kể.
Những năm đầu đổi mới, công tác thu mua, phân phối vẫn được tiến
hành theo kế hoạch với sự hỗ trợ của tỉnh Hà Giang, chủ yếu vẫn là các mặt
hàng lương thực, vật tư nông nghiệp... Hoạt động thương nghiệp cũng được
chính quyền huyện Vị Xuyên tiến hành sắp xếp lại và phân rõ trách nhiệm
cũng như phạm vi hoạt động. Kế hoạch phát triển kinh tế năm 1986 được
huyện Vị Xuyên đề ra là:"Trên cơ sở liên doanh, liên kết kinh tế, sử dụng
đầy đủ các nguồn khả năng của các ngành, tạo thành mối quan hệ thống
nhất mua bán kinh doanh phục vụ trên địa bàn huyện. Nhằm đáp ứng nhu
cầu các mặt hàng tiêu dùng nội bộ phục vụ sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu.
Đồng thời đáp ứng một phần nhu cầu cần thiết hàng xuất khẩu làm nghĩa vụ
với tỉnh" [149; tr. 14-15]. Các mặt hàng mua vào và bán ra do bộ phận
thương nghiệp tổng hợp thực hiện gồm: thịt lợn hơi, trâu, bò, gỗ, đường các
loại... Các loại mặt hàng bán ra phục vụ người dân gồm: thịt các loại, đường
các loại, mì chính, nước mắm, muối, xà phòng, dầu hỏa, vải... Bộ phận kinh
doanh mua bán chủ yếu kinh doanh các mặt hàng như bông vải sợi, các mặt
hàng phục vụ đời sống, sản xuất. Từ năm 1990, hoạt động phân phối lưu
thông nhìn chung có tiến bộ nhưng còn rất chậm chạp. Mặc dù hoạt động
thương nghiệp quốc doanh đã sắp xếp lại bộ máy tổ chức, con người, mạng
52
lưới kinh doanh nhưng vẫn chưa làm chủ được thị trường, chất lượng hàng
hóa chưa tốt dẫn tới các đơn vị đều làm ăn thua lỗ không nộp được ngân
sách theo kế hoạch, làm mất cân đối giữa thu và chi [149; tr. 7]. Kết quả
hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế phần nhiều không đạt hiệu quả
nên phần lớn ngân sách phải xin trợ cấp từ tỉnh.
Từ sau Đại hội Đảng bộ huyện Vị Xuyên khóa XIX (tháng 4-1996),
lĩnh vực thương mại, dịch vụ đã có những sắc thái mới tiến bộ hơn. Theo
đó, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo các đơn vị sản xuất kinh doanh tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về lỗ - lãi; mạnh dạn đổi mới cơ chế thương nghiệp và thị
trường tạo nên giá cả hợp lý, có nhiều hàng hóa phục vụ sản xuất và đời
sống nhân dân” [10; tr. 192]. Chủ trương hợp lý đã tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển. Tình hình buôn bán của người
dân ở 2 thị trấn Vị Xuyên và Việt Lâm sôi động hơn. Hoạt động trao đổi,
mua bán của người dân không chỉ tập trung ở 2 chợ trung tâm mà đã phát
triển thêm các chợ mới như Tùng Bá, Minh Tân, Thượng Sơn. Ban quản lý
chợ cửa khẩu Thanh Thủy được thành lập, bước đầu đi vào hoạt động có
hiệu quả. Các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân nhìn chung đã đáp ứng
được các mặt hàng phục vụ sản xuất và tiêu dùng cần thiết của người dân.
Công tác điều hành, kiểm soát giá cả thị trường có kết quả tốt nên giá cả ổn
định, các ngành chức năng tăng cường hoạt động chống buôn lậu, hàng giả,
kiểm tra chất lượng hàng hóa, cấp giấy phép kinh doanh đúng quy trình, tạo
môi trường kinh doanh lành mạnh. Tình hình hoạt động của lĩnh vực thương
mại, dịch vụ của huyện Vị Xuyên từng bước khởi sắc hơn nhờ có sự quyết
tâm của cấp ủy và chính quyền trong việc đổi mới, chuyển dịch trong cơ cấu
kinh tế. Năm 1997, Công ty Thương mại tổng hợp huyện Vị Xuyên được
thành lập và đi vào hoạt động ngày càng có hiệu quả. Sau hơn một năm
thành lập, công ty đã xây dựng được mạng lưới thương nghiệp ở cơ sở khá
53
vững chắc, hoạt động tốt, đảm bảo cung cấp đủ các mặt hàng thiết yếu cho
nhân dân. Đến năm 1998, toàn huyện Vị Xuyên có 6 doanh nghiệp nhà
nước, 1 doanh nghiệp tư nhân và 577 hộ tham gia các hoạt động dịch vụ.
Hoạt động thương mại, dịch vụ vẫn tập trung chủ yếu ở trung tâm huyện lỵ,
thị trấn Việt Lâm và các chợ nông thôn [158; tr. 8]. Mặc dù có những bước
tiến hơn hẳn so với những năm trước, nhưng tình hình chung của lĩnh vực
thương mại và dịch vụ vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Đáng chú ý là chưa
khai thác được hết năng lực của cửa khẩu Thanh Thủy; quá trình chuyển đổi
các hợp tác xã rất chậm (năm 1998 chỉ có 3/125 hợp tác xã chuyển đổi) dẫn
tới các hoạt động dịch vụ vật tư nông nghiệp, vật tư kỹ thuật chưa đáp ứng
được yêu cầu sản xuất của nông dân, chưa đáp ứng được mục tiêu chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi [158; tr. 9].
Đến năm 2000, hoạt động thương mại, dịch vụ có tăng trưởng khá và
chiếm vị trí ngày càng cao trong tổng thu nhập toàn huyện nhưng chất lượng
vẫn chưa cải thiện nhiều. Hoạt động chủ yếu vẫn là tập trung mở rộng thị
trường tiêu thụ các sản phẩm chè khô, nâng cao năng lực trao đổi hàng hóa
ở cửa khẩu Thanh Thủy, duy trì hoạt động các chợ nông thôn làm mạng lưới
trao đổi hàng hóa như chợ Thuận Hòa, Bạch Ngọc, Thượng Sơn... Bên cạnh
đó, huyện tăng cường kêu gọi đầu tư mở rộng khu du lịch ở các xã Quảng
Ngần, Tùng Bá, Đạo Đức, Phương Độ... Tỷ trọng thương mại, dịch vụ trong
GDP của huyện chiếm 18% năm 1998 đã tăng lên 23,5% năm 2000. Tuy vậy,
sự tăng trưởng này chưa thực sự vững chắc cũng như chất lượng chưa cao.
Hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, thị trường nông thôn chưa phát
triển, nhiều nơi còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Cây chè là cây kinh tế
mũi nhọn nhưng chưa được đầu tư nâng cao chất lượng để tăng nhanh giá trị
hàng hóa, tỷ lệ diện tích chè thâm canh còn ở mức thấp nên chưa khai thác
hết tiềm năng lợi thế loại cây này. Kinh tế vùng cửa khẩu được khôi phục và
54
phát triển nhưng ở còn khiêm tốn so với tiềm năng.
2.3. Chuyển biến về xã hội
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã xác định: Trình độ phát
triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng
những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế. Ngay trong
khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp
đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố quan trọng để
phát triển sản xuất. Tiếp đó, Đại hội VII (1991) tiếp tục làm rõ mục tiêu và
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội giai đoạn
1991-1995: “Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa,
xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất
và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền
đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt các chính sách xã hội là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế” [59; tr. 279]. Trong chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng đã nêu rõ nhiệm vụ và
phương hướng phát triển văn hóa và các vấn đề xã hội là nhằm phát huy
nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo những điều kiện để con người được
phát triển một cách toàn diện.
2.3.1. Y tế, giáo dục và các hoạt động văn hóa thông tin, tuyên truyền
Là huyện miền núi có địa hình phức tạp, các mặt của đời sống xã hội
của Vị Xuyên còn rất nhiều khó khăn, ở mức độ rất thấp so với mặt bằng
chung của cả nước, và nhất là trong bối cảnh cuộc chiến tranh biên giới vừa
kết thúc. Huyện Vị Xuyên đã xác định công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân
dân là vấn đề hết sức quan trọng, không chỉ bảo đảm cho hoạt động sản
xuất, chiến đấu mà còn góp phần quan trọng trong việc bài trừ mê tín dị
đoan vẫn còn khá nặng nề trong nhân dân vào những năm đầu đổi mới.
Công tác y tế vì thế được quan tâm xây dựng thành mạng lưới từ tuyến
55
huyện về đến các xã và được củng cố thường xuyên. Đội ngũ cán bộ ngành y
được tăng cường để đảm bảo số lượng phục vụ nhân dân. Các trạm xá ở
nhiều xã được quan tâm tu bổ và đảm bảo thuốc men cho nhu cầu khám
chữa bệnh của người dân ở một số xã như Tùng Bá, Việt Lâm, Linh Hồ,
Lao Chải… Nếu như vào năm 1985, toàn huyện Vị Xuyên xây dựng được
cơ sở khám chữa bệnh với 150 giường, trong đó 50 giường của bệnh viện,
10 giường ở phòng khám khu vực và 90 giường ở các trạm xá [149; tr. 18].
Thì đến năm 1990, hệ thống cơ sở khám chữa bệnh đã ngày càng tăng lên và
quy củ hơn với 25 cơ sở y tế trong toàn huyện, trong đó có 1 bệnh viện, 1
phòng khám đa khoa và các trạm y tế xã. Năm 1992, huyện có 1 trung tâm
điều trị tại huyện lỵ Vị Xuyên, 20 xã có cán bộ y tế hoạt động. Toàn huyện
có 17/20 xã có trạm y tế, có 3 phòng khám đa khoa khu vực với 180 giường
bệnh; số cán bộ đang công tác là 112, trong đó 12 bác sĩ, 57 y sĩ [152; tr. 6].
Mặc dù ngành y tế của Vị Xuyên còn nhiều khó khăn, thiếu thốn về
cơ sở vật chất và cán bộ khoa học - kỹ thuật nhưng sự cố gắng của hệ thống
chính trị cũng như nỗ lực của cán bộ trong ngành y tế đã mang lại những
thay đổi lớn trong quan niệm về chăm sóc sức khỏe của người dân, đặc biệt
là đồng bào dân tộc thiểu số. Điểm nổi bật của công tác y tế huyện Vị Xuyên
trong những năm đầu đổi mới là đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao khả
năng phòng chống các dịch bệnh. Hoạt động tiêm chủng mở rộng cho trẻ em
được tuyên truyền sâu rộng và ngày càng đi vào nề nếp góp phần quan trọng
trong việc loại trừ những dịch bệnh phổ biến.
Hằng năm, việc thực hiện chương trình tiêm chủng ở huyện đạt 67-
75% [155; tr. 6]. Với sự mở rộng của mạng lưới y tế, công tác khám chữa
bệnh cho người dân ngày càng nâng cao hiệu quả và trở thành chỗ dựa vững
chắc đối với người dân khi có bệnh. Năm 1993, trên địa bàn huyện đã có
36.000 lượt người khám bệnh tăng 31% so với năm 1992; điều trị trên
10.000 lượt bệnh nhân tăng 30% so với 1992, trong đó điều trị nội trú trên
56
2.500 lượt, điều trị ngoại trú trên 7.300 lượt; đã thực hiện được 218 ca phẫu
thuật, tăng 172 ca so với 1992 [154; tr. 11]. Đến năm 1995, toàn huyện có
22/23 xã có cán bộ y tế thường trực, trung tâm y tế của huyện có 65 giường
bệnh, hằng năm điều trị và khám chữa bệnh cho 40.000 - 50.000 lượt người
[155; tr. 6]. Tuy vậy, do điều kiện cả về kinh tế, kỹ thuật và trình độ còn có
nhiều hạn chế nên một số bệnh dịch vẫn xảy ra trên địa bàn huyện và dẫn
đến tử vong, chẳng hạn như năm 1990 có 31 trường hợp bị ho gà, 121 người
bị nhiễm mô cầu não và đã tử vong 18 người tại xã Thuận Hòa; các bệnh sốt
rét, bướu cổ vẫn còn tồn tại khá phổ biến (năm 1992 có 24,58% người bị sốt
rét, 3.041 bị bướu cổ/6.288 người đi khám [152; tr. 6]).
Những năm 1996 - 2000, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe người dân ở
huyện Vị Xuyên đã có những bước chuyển biến tích cực hơn với sự củng
cố, nâng cấp cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ được tăng cường. Chỉ tính riêng
năm 1996, huyện đã xây thêm được 8 nhà trạm, trung tâm y tế huyện và các
trạm y tế xã được trang bị đầy đủ thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế tối thiểu,
đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Cũng trong năm
1996, huyện Vị Xuyên đã tổ chức tiêm, uống vắcxin cho 10.461 cháu đạt
99.12%; tiêm, uống vắcxin cho phụ nữ từ 13 - 35 được 6.829 người, điều trị
sốt rét 9.793 người, bướu cổ 3.950 người; khám và điều trị các bệnh thông
thường 82.297 lượt người [156; tr. 9-10]... Việc tổ chức tiêm, uống vắcxin
phòng bệnh cho trẻ em được quan tâm, tuyên truyền và triển khai thực hiện
nghiêm túc, bình quân trong giai đoạn 1996 - 2000 tỷ lệ này đạt trên 98%.
Hệ thống y tế từ huyện đến xã đã thực hiện thăm khám và điều trị tốt các
bệnh thông thường. Từ năm 1995 đến năm 2000 trên địa bàn huyện Vị
Xuyên không xảy ra các bệnh dịch lớn [10; tr. 193].
Về công tác kế hoạch hóa gia đình, một trong những nội dung quan
trọng trong lĩnh vực chuyển biến xã hội, bảo đảm cho quá trình phát triển
bền vững thì ngay từ năm 1986, vấn đề này đã được quan tâm thực hiện có
57
hiệu quả. Năm 1985, tỷ lệ tăng dân số của huyện Vị Xuyên là 2.1% và năm
1986 giảm xuống còn 1.8% [149; tr. 18]. Dù các cấp chính quyền đã có
nhiều cố gắng trong việc đã tuyên truyền và thực hiện một số biện pháp kế
hoạch hóa gia đình nhưng tỷ lệ sinh trong những năm tiếp theo có xu hướng
tăng lên (năm 1992 là 2.86%). Để thực hiện có hiệu quả chính sách về kế
hoạch hóa gia đình, huyện Vị Xuyên đã tổ chức có hiệu quả chặt chẽ công
tác tuyên truyền, vận động các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện
các biện pháp kế hoạch hoá gia đình. Do đó, từ 1992 trở đi, tỷ lệ tăng dân số
hằng năm của huyện Vị Xuyên bắt đầu có xu hướng giảm, cụ thể: năm 1992
là 2,86%, năm 1993 là 2.75%, năm 1994 là 2.32% [155; tr. 6], đến năm
2000, tỷ lệ tăng dân số chỉ còn 1.63% [161; tr. 2].
Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em ở Vị Xuyên ngày
càng sâu sát và thiết thực hơn. Năm 1998, huyện Vị Xuyên đã triển khai
thực hiện khá tốt chương trình phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em ở 10
xã với nguồn kinh phí là 70.040.000 đồng, chương trình chăm sóc trẻ em
khó khăn 3 xã, cấp phát thuốc cho 202 cháu, quyên góp sách vở, áo quần
cho trẻ em các xã vùng sâu, vùng xa [158; tr. 10]. Nhằm nâng cao nhận thức
của cộng đồng về vấn đề quan trọng này, Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên
đã tổ chức nhiều lớp truyền thông về bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở nhiều xã.
Phối hợp với ngành lao động - thương binh và xã hội, Trung tâm y tế huyện
tổ chức khám cho các cháu dị tật về mắt, tay vào năm 1999. Chương trình
phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ dưới 5 tuổi được triển khai và duy trì
thường xuyên ở 23/23 xã thị trấn của huyện. Huyện Vị Xuyên đã cố gắng để
giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, năm 1998 có giảm nhẹ (1%) so với
năm 1997 nhưng tỷ lệ này vẫn còn khá cao 37% [158; tr. 10]. Đây là một
vấn đề bức xúc mà huyện Vị Xuyên cần phải tập trung nhiều nguồn hỗ trợ
cũng như khả năng tại chỗ để giải quyết, vì trẻ em là tương lai của đất nước.
Về giáo dục, mặc dù đời sống người dân còn rất nhiều khó khăn và
58
trong giai đoạn này vẫn còn phải chịu tác động lớn bởi chiến sự vùng biên
nhưng công tác giáo dục thế hệ trẻ vẫn được huyện quan tâm thường xuyên.
Hệ thống giáo dục các cấp được củng cố để đáp ứng yêu cầu của công tác
dạy và học. Năm 1985, toàn huyện Vị Xuyên có 1 trường phổ thông trung
học, 21 trường phổ thông cơ sở, 1 trường bổ túc văn hóa cán bộ thanh niên
dân tộc và 22 lớp mẫu giáo với 9.049 học sinh. Bình quân tỷ lệ người đi học
ở huyện Vị Xuyên vào thời điểm này là trong 5-6 người thì có 1 người đi
học [9; tr. 13]. Với sự quan tâm của cấp uỷ Đảng và chính quyền huyện Vị
Xuyên, hệ thống cơ sở giáo dục trong những năm đầu đổi mới từng bước
được kiện toàn, củng cố để phục vụ nhu cầu học tập của con em trong
huyện, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Kết thúc năm học 1989-1990,
toàn huyện có 1 trường phổ thông trung học, 22 trường phổ thông cơ sở
(299 lớp, trong đó cấp I là 257 lớp với 6.731 học sinh, cấp II: 42 lớp với 962
học sinh), 1 trường dân tộc nội trú (4 lớp với 88 học sinh), 1 trường sư phạm
9+1 (43 giáo sinh), 7 cơ sở nhà trẻ mẫu giáo (nhà trẻ 20 nhóm lớp với 326
cháu, mẫu giáo 25 lớp với 600 cháu). Bên cạnh đó còn có các lớp xóa mù
chữ với 615 học viên [150; tr. 10]. Mặc dù được quan tâm nhưng do điều
kiện còn khó khăn nên chất lượng và số lượng của giáo dục bị ảnh hưởng.
Đánh giá của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên năm 1990 cho thấy: “Tình
hình hiện nay trong toàn huyện có chiều hướng đi xuống rõ rệt về cơ sở vật
chất nhà trường, số lượng, chất lượng trong học tập và giảng dạy” [151; tr.
9]. Riêng năm 1989 đã có 944 học sinh bỏ học do điều kiện kinh tế khó
khăn, các bậc phụ huynh không muốn cho con đi học mặc dù Huyện ủy, Ủy
ban nhân dân huyện đã tạo điều kiện để các xã củng cố nhà trường song
mức độ có hạn [151; tr. 9]. Đây là một vấn đề nan giải mà các cấp ủy Đảng,
chính quyền huyện Vị Xuyên phải tập trung giải quyết trong những năm
tiếp theo.
Công tác xóa mù chữ cho người dân được quan tâm nhưng cho đến
59
năm 1993, tỷ lệ người mù chữ ở Vị Xuyên vẫn còn khá cao. Toàn huyện có
trên 5.000 người trong độ tuổi 15-35 mù chữ, chiếm 30% số người trong độ
tuổi đi học. Mặc dù toàn huyện đã có sự nỗ lực trong việc giảm số lượng
người mù chữ (năm 1993 xóa mù chữ cho 239 người, năm 1994 là 775 người)
nhưng đến năm 1995, con số người mù chữ vẫn là 5.077 người [155; tr. 6].
Bên cạnh đó, nhiều xã vẫn còn trắng về cơ sở giáo dục, nhất là các xã vùng
sâu vùng xa. Năm 1993, toàn huyện có 25 “thôn trắng”, 43 thôn đang chờ
giáo viên, cơ sở vật chất dạy học phần lớn tạm bợ và thiếu thốn, có 1 xã
(Lao Chải) chưa có trường học [153; tr. 6]. Năm 1995 có 23/177 thôn bản
chưa có trường học, đội ngũ giáo viên còn thiếu thốn, theo yêu cầu của công
tác dạy học (năm 1995 huyện Vị Xuyên thiếu 184 giáo viên cấp I và 12 giáo
viên cấp II) [155; tr. 6].
Giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù những khó khăn đối với ngành giáo dục
vẫn còn nhiều nhưng sự nỗ lực của chính quyền và bản thân ngành giáo dục
đã cải thiện phần nào tình hình so với trước đây. Năm học 1995-1996, toàn
huyện đã huy động được 29.8% số cháu trong độ tuổi mầm non đến lớp,
90.08% số học sinh trong độ tuổi đến trường [156; tr. 8]. Ủy ban nhân dân
huyện Vị Xuyên đã chỉ đạo các ngành chức năng, các xã tích cực chuẩn bị
cơ sở vật chất cho năm học mới, tiến hành hội nghị tổng kết công tác giáo
dục cấp huyện và cấp xã để có kế hoạch cho các năm tiếp theo. Với mong
muốn chấn chỉnh lại công tác dạy và học, đặc biệt là quyết tâm cao trong
thay đổi bộ mặt giáo dục của huyện Vị Xuyên, những việc làm quyết liệt
trong năm 1996 đã có những kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Toàn huyện
đã huy động được 197 cháu vào nhà trẻ, 2.619 cháu đi học mẫu giáo, số học
sinh đến tuổi đi học là 17.686 học sinh (đạt tỷ lệ 92.7%, tăng 16.1% so với
năm 1995). Công tác xóa mù chữ có chuyển biến tích cực khi số người huy
động được 2.569 hội viên đạt 128.5%, trong đó đã công nhận xóa mù chữ
cho 1.012 hội viên. Việc điều tra công nhận phổ cập giáo dục tiểu học được
60
ngành giáo dục phối hợp với các bộ phận chức năng thực hiện. Tính đến 30
tháng 12 năm 1996, toàn huyện Vị Xuyên đã có 11/23 xã, thị trấn được công
nhận phổ cập giáo dục tiểu học [156; tr. 9]. Đây là một kết quả rất đáng
khích lệ mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Vị Xuyên nỗ lực phấn
đấu thực hiện trong nhiều năm. Với sự tăng trưởng của kinh tế, công tác
giáo dục của huyện Vị Xuyên cũng được quan tâm đầu tư hơn về cơ sở vật
chất cũng như đội ngũ giáo viên. Nhờ đó, tình hình giáo dục cho đến năm
2000 đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực. Năm học 1998-1999, số
học sinh trong độ tuổi đi học (6-14) đạt 96% (đạt 100% kế hoạch đặt ra và
tăng 1% so với năm học 1997-1998). Công tác “xóa mù” tiếp tục thực hiện
tiến đến hoàn thành xóa mù chữ trên địa bàn huyện. Năm 1998 đã “xóa mù”
cho 504 học viên, phổ cập giáo dục tiểu học được 854 học sinh. Ủy ban
nhân dân huyện đã chỉ đạo các cấp, các ngành liên quan cùng với ngành
giáo dục tăng cường công tác xóa mù chữ cho 2 xã còn lại của huyện là Lao
Chải, Cao Bồ, phấn đấu đến tháng 6 năm 1999 đạt 100% xã trong toàn
huyện thực hiện xong công tác xóa mù chữ [158; tr. 9]. Mục tiêu phấn đấu
phổ cập giáo dục tiểu học đã được hoàn thành vào năm 1999. Từ năm 2000
trở đi, huyện Vị Xuyên tiếp tục phấn đấu duy trì những kết quả đã đạt được,
đồng thời hướng tới mục tiêu cao hơn là nâng cao dân trí, đào tạo sau xóa
mù chữ; tiến tới hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học sơ sở.
Về công tác thông tin, văn hóa và thể dục thể thao, trong những năm
đầu đổi mới, hoạt động của lĩnh vực này còn khá đơn giản. Huyện Vị Xuyên
đã cho củng cố các đội thông tin tuyên truyền cổ động để tuyên truyền chủ
trương đường lối của Đảng cho người dân, tuyên truyền việc thực hiện đời
sống văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, chống các biểu hiện tàn dư của nền văn
hóa cũ. Song song với việc củng cố phong trào văn hóa, văn nghệ quần
chúng ở cơ sở, huyện tăng cường các đội chiếu bóng về cơ sở phục vụ cho
nhân dân. Ngoài ra, cán bộ cấp cơ sở như bí thư, chủ tịch cũng được trang bị
61
đài bán dẫn để tiếp cận được những thông tin mới nhất của Đảng và Nhà
nước phục vụ cho công tác lãnh đạo tại địa phương [7; tr. 13-14, 149; tr. 18].
Cho đến năm 1990, các hoạt động văn hóa chủ yếu vẫn tập trung vào việc
tuyên truyền cổ động những ngày lễ lớn trong năm. Mặc dù vậy hoạt động
này chưa được triển khai rộng khắp và đầy đủ. “Phong trào tập trung khu
vực huyện lỵ. Chưa tổ chức hoạt động sâu rộng đến cơ sở xã. Mang nặng
hình thức hoạt động tham gia phong trào với tỉnh. Cho nên các hiện tượng
mê tín dị đoan, đón vua, các tục lệ cưới xin ma chay đã phát triển tương đối
rộng rãi” [150; tr. 10]. Từ năm 1991 trở đi, cùng với sự cải thiện ngày càng
đáng kể đời sống kinh tế, các mặt đời sống văn hóa của huyện Vị Xuyên
cũng từng bước có chuyển biến tích cực. Chính quyền và các đoàn thể đã cố
gắng để thực hiện phong phú các hình thức tuyên truyền như panô, áp phích,
thông tin lưu động, truyền thanh về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước, các ngày lễ lớn hay sự kiện quan trọng trong năm. Hệ thống thư viện
và nhà văn hóa được đưa vào hoạt động bước đầu có hiệu quả (nhà văn hóa
có trên 3.000 lượt người đến xem phim, tủ sách thư viện gần 6.000 cuốn).
Các đội văn nghệ cơ sở được thành lập để phục vụ bà con nhân dân. Có 12
xã thành lập được đội văn nghệ và thể thao; huyện có 2 đội bóng chuyền
nam, nữ; các trường học phát triển mạnh phong trào điền kinh trong học
sinh. Đài truyền hình và truyền thanh đã bước đầu đi vào hoạt động. Truyền
hình thường xuyên thu các chương trình qua vệ tinh phản ánh tình hình
trong nước và quốc tế, đài truyền thanh đã thực hiện tiếp âm đài Trung ương
(năm 1993) được 2.040 giờ, tin bài của huyện 112 giờ, chương trình sóng
Trung ương 793 giờ, chương trình địa phương 32 giờ [153; tr. 7]. Đó là
những bước tiến tích cực của các mặt đời sống văn hóa huyện Vị Xuyên
trong những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Dù vậy, do điều kiện giao
thông đi lại khó khăn, kinh tế kém phát triển nên ở những xã vùng sâu, vùng
xa việc thụ hưởng văn hóa gặp rất nhiều hạn chế. Báo cáo của huyện Vị
Xuyên về việc thực hiện các chỉ tiêu cơ bản về kinh tế - xã hội, an ninh -
62
quốc phòng cho biết:“Có xã mấy năm chưa có phim ảnh, công tác truyên
truyền nếp sống mới chưa sâu rộng dẫn tới nhân dân trình độ dân trí chưa
được nâng cao. Qua điều tra tình hình kinh tế xã hội cho thấy toàn huyện có
44,69% dân số được xem phim, 1,09% dân số được xem các đoàn nghệ
thuật” [152; tr. 5]. Những hạn chế này dần được khắc phục trong những
năm tiếp theo. Năm 1995, huyện Vị Xuyên tăng cường thành lập các đội
văn hóa lưu động thường xuyên đến các vùng sâu, vùng xa chiếu phim
tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước. Có 2/3 xã trong huyện thành lập được các đội văn nghệ. Huyện
đã tổ chức tốt ngày hội văn hóa các dân tộc, triển khai thực hiện xây dựng
quy ước nếp sống văn hóa từ huyện đến cơ sở [155; tr. 7].
Từ năm 1996 đến năm 2000, các hoạt động văn hóa - thông tin và thể
dục thể thao trong toàn huyện phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Năm 1996, toàn huyện có 60 đội thể thao với gần 1.000 vận động viên.
Ngành văn hóa - thể thao huyện Vị Xuyên đã tổ chức được 15 trận thi đấu
phục vụ 15.000 lượt người xem. Toàn huyện có 32 đội văn nghệ quần chúng
tổ chức được 48 buổi biểu diễn phục vụ 40.000 lượt người xem, tổ chức 225
buổi chiếu phim phục vụ các thôn bản vùng sâu, vùng xa với 44.000 lượt
người xem [156; tr. 11]. Đến năm 1998, số đội thể dục thể thao của huyện
đạt con số 150 (tăng 67% so với năm 1997), duy trì hoạt động thường xuyên
2 đội thông tin lưu động với số buổi hoạt động là 240 phục vụ 50.000 lượt
người xem. Các buổi biểu diễn văn nghệ quần chúng thường xuyên được
biểu diễn (60 buổi) thu hút 40.000 lượt người xem. Đặc biệt, ngành văn hóa
huyện còn tăng cường phục vụ các buổi thông tin, văn nghệ cho các thôn
bản vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, tiến hành mở rộng giao lưu văn hóa,
củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc [158; tr. 10]. Bên cạnh đó, năm
1996, đài truyền thanh truyền hình của huyện Vị Xuyên cũng đã làm tốt việc
tiếp âm sóng của đài Trung ương, chất lượng truyền thanh và truyền hình
63
được nâng lên đáp ứng nhu cầu nghe nhìn của người dân [156; tr. 11]. Với
sự tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống phát thanh truyền hình, số giờ
tiếp sóng đài trung ương ngày càng tăng đáp ứng kịp thời những nhu cầu
của người dân. Năm 1998, huyện Vị Xuyên đã lắp thêm trạm VTRO tại xã
Bạch Ngọc, nâng tổng số lên 5 trạm VTRO trên địa bàn huyện và 3 trạm thu
phát lại, lắp mới 1 máy phát hình và hệ thống thu tín hiệu qua vệ tinh
kênh VTV3. Nhờ đó, số giờ tiếp sóng và phát sóng Đài truyền hình đã tăng
lên nhiều so với các năm trước, cụ thể: đã phát sóng truyền hình 15.280 giờ
đạt 124% kế hoạch, tỉ lệ phủ sóng truyền hình đạt 67% trên số hộ dân cư,
tiếp và phát âm Đài Tiếng nói Việt Nam và đài địa phương với tổng số
8.700 giờ tăng 64% so với kế hoạch [158; tr. 10]. Đây là những bước tiến
vượt bậc của công tác văn hóa, thông tin ở Vị Xuyên. Bởi vì chỉ trước đó
một vài năm, hoạt động của lĩnh vực này còn khá đơn điệu và nghèo nàn.
Từ năm 1996 trở đi, đời sống văn hóa của người dân Vị Xuyên đã từng
bước thay đổi nhanh chóng với sự đa dạng các loại hình tiếp cận và thụ
hưởng văn hóa, người dân tiếp cận thông tin dễ dàng hơn cả về hình ảnh lẫn
âm thanh. Các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao phát triển rộng và sâu,
thu hút một bộ phận đông đảo đặc biệt là lớp trẻ tham gia, hưởng ứng.
Nhiều đội văn nghệ được thành lập và duy trì thường xuyên hoạt động đã
tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi cho người dân, từ đó càng tin tưởng
hơn vào sự phát triển đi lên của đất nước. Thành quả đó là sự cố gắng vượt
bậc của Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể và sự tham gia ủng hộ của
người dân Vị Xuyên, tạo điều kiện thuận lợi để huyện Vị Xuyên bước vào
thế kỷ XXI.
2.3.2. Lao động, việc làm và việc thực hiện các chính sách xã hội
Lao động - việc làm là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu
đối với sự phát triển và sự ổn định xã hội ở mỗi địa phương. Vì thế, đây
luôn là vấn đề được Đảng bộ, chính quyền huyện Vị Xuyên quan tâm và tìm
64
cách giải quyết. Để thực hiện có hiệu quả vấn đề này, huyện Vị Xuyên đã
tuyên truyền giáo dục cho nhân dân có quan điểm đúng đắn về lao động -
việc làm và thu nhập hợp pháp. Xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ
thuật để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng
giảm dần lao động ở khu vực nông nghiệp nông thôn, tăng tỷ lệ lao động ở
khu vực công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ, du lịch, mở rộng phát
triển thị trường, tạo điều kiện để lao động có việc làm thường xuyên và ổn
định. Việc hướng nghiệp dạy nghề, thực hiện các dự án giải quyết việc làm,
góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân. Tuy nhiên, do
điều kiện là huyện miền núi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số lại chịu ảnh
hưởng trực tiếp từ chiến tranh biên giới nên những năm đầu đổi mới công
tác này chủ yếu tập trung vào việc ổn định đời sống nhân dân, bố trí lại dân
cư vùng biên một cách hợp lý.
Năm 1986, huyện Vị Xuyên đã lên kế hoạch phân bố lại lao động ở các
xã giáp biên và các xã kế cận gồm: Xín Chải, Lao Chải, Phương Tiến, Minh
Tân, Phong Quang đi các các địa điểm đã định ở các xã Đạo Đức, Quảng
Ngần, Việt Lâm, Bạch Ngọc, Ngọc Minh, Linh Hồ, Thượng Sơn. Huyện đã
di chuyển là 800 hộ dân với 4.850 nhân khẩu, 1.695 lao động theo kế hoạch
phân bố lại lao động vùng giáp biên. Đồng thời, huyện đã điều động mỗi xã
bám trụ theo địa hình hợp lý là 300 hộ, 1.650 nhân khẩu, 580 lao động gồm
các xã: Phương Tiến, Phương Độ, Thuận Hòa, Minh Tân. Một số hộ được
điều chuyển ở các huyện lân cận với số lượng 30 hộ, 85 khẩu, 30 lao động.
Ngoài những chi phí do người dân tự túc, nhà nước hỗ trợ cho công việc
điều chuyển lao động với số tiền 2.230.000 đồng, cấp phiếu vải 2,5
mét/người. Những học sinh đã tốt nghiệp cấp II muốn tham gia lao động thì
được tuyển vào các lâm trường, công trường giao thông để tăng thêm đội
ngũ công nhân sản xuất vật chất [149; tr. 19]. Đến năm 1990, đời sống của
người dân ở các xã vùng biên giới đã cơ bản ổn định. Các ngành, các cấp
65
trong huyện đều có biện pháp tích cực giúp đỡ bà con nhân dân bớt khó khăn.
Năm 1990, Ủy ban nhân dân huyện đã chi trợ cấp cho nhân dân bị thiên tai
60 triệu đồng, 22 tấn gạo và 50 mét vải, 5 chăn len, 17 màn [150; tr. 12].
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống nhưng ngoài việc bảo
đảm tốt chế độ chính sách cho các gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có
công với nước, hằng năm huyện Vị Xuyên đều phát động phong trào đóng
góp quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, thăm hỏi, tặng quà các gia đình thương binh,
liệt sĩ. Đến năm 1991, huyện đã giải quyết chế độ cho 1.475 đối tượng
hưởng chính sách xã hội với số tiền 516.715.000 đồng [151; tr. 11]; tiến
hành tu sửa các nghĩa trang liệt sĩ, quy tụ được 236 mộ liệt sĩ về nghĩa
trang liệt sĩ Vị Xuyên, km18 quốc lộ 2, số còn lại sẽ được bố trí mặt bằng
và quy tụ về nghĩa trang trong các năm tiếp theo. Năm 1992, toàn huyện đã
đóng góp được hơn 4.404.000 đồng để lập sổ tiết kiệm tặng các gia đình
liệt sĩ và thương binh nặng; tiến hành quy tập 1.215 mộ về nghĩa trang
km18 [152; tr. 7].
Từ năm 1991 trở đi, bộ mặt đời sống xã hội huyện Vị Xuyên bắt đầu có
những thay đổi quan trọng nhờ sự đầu tư phát triển của các dự án trên địa
bàn, trong đó quan trọng là các dự án định canh, định cư. Đến năm 1993,
trên địa bàn huyện Vị Xuyên có 7 dự án, trong đó có 2 dự án tập trung vào
công tác định canh định cư là Dự án định canh định cư xã Cao Bồ, Dự án
định canh định cư xã Minh Tân. Những dự án này đã góp phần quan trọng
làm thay đổi bộ mặt kinh tế và xã hội ở huyện Vị Xuyên. Với sự phát triển
đi lên của kinh tế, việc chăm sóc các vấn đề xã hội cũng được đầy đủ và tốt
hơn những năm trước. Việc cho vay để giải quyết việc làm được triển khai
nhanh chóng và có hiệu quả. Năm 1996, Vị Xuyên đã cho 159 hộ (609
khẩu) vay với tổng số tiền là 517.600.000 đồng, giải quyết việc làm cho 250
lao động trong lĩnh vực chăn nuôi và trồng cam. Huyện cũng đã huy động
các nguồn lực để cho vay cứu đói 514 hộ (3.142 khẩu) với tổng lương thực
66
là 260.370 kg (tương ứng 80.190.000 đồng). Ngoài ra cũng tiến hành thu nợ
cứu đói của những năm trước được 49.866.380 đồng [156; tr. 11]. Nguồn
vốn hỗ trợ cho vay xóa đói giảm nghèo qua cũng tăng lên qua từng năm.
Năm 1998, vốn vay giải quyết việc làm ở Vị Xuyên tăng lên 615 triệu đồng,
vốn xóa đói giảm nghèo 500 triệu đồng được triển khai ở 3 xã Việt Lâm,
Ngọc Linh, Linh Hồ. Huyện cũng thực hiện tốt chi trả trợ cấp thường xuyên
cho các đối tượng chính sách, trợ cấp đột xuất, hoạn nạn, với số tiền
261 000 đồng [158; tr. 10]. Để công tác cứu trợ các hộ gia đình thiếu đói và
tổ chức cho vay xóa đói giảm nghèo có hiệu quả, năm 1999, huyện Vị
Xuyên đã tiến hành điều tra rà soát các hộ đói giáp hạt đã thực hiện cho vay.
Kết quả cho thấy có 158 hộ tương ứng 894 khẩu, được vay 10kg/khẩu, tổng
số là 8.940 kg. Cũng năm 1999, ngân hàng Vị Xuyên đã giải ngân vốn vay
xóa đói giảm nghèo cho 115 hộ gia đình ở xã Việt Đức, Linh Hồ với số tiền
230 triệu đồng [159; tr. 11].
Từ năm 1996 đến năm 2000, nhờ có sự phát triển nhanh chóng của
kinh tế địa phương, một số công tác mới thuộc lĩnh vực xã hội được triển
khai thực hiện. Công tác bảo hiểm là một lĩnh vực mới và bước đầu thực
hiện khá tốt. Tuy vậy trong quá trình chi trả bảo hiểm vẫn còn có một số đơn
vị chưa thực hiện đầy đủ. Năm 1996, ngành bảo hiểm của Vị Xuyên đã có
nhiều cố gắng để đảm bảo việc chi trả thường xuyên cho 1.867 đối tượng với
số tiền 4.973.588.631 đạt 99.8% kế hoạch. Tuy vậy vẫn còn nhiều đơn vị
thực hiện chế độ nộp bảo hiểm chưa kịp thời, 9/20 đơn vị nợ bảo hiểm,
riêng Công ty chè Việt Lâm còn nợ 215.412.880 đồng [156; tr. 12]. Những
năm tiếp theo ngành bảo hiểm xã hội ở Vị Xuyên đã thực hiện tốt các chế độ
chính sách cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội. Nhìn chung các đơn
vị đều chấp hành tốt việc nộp bảo hiểm xã hội... Tuy nhiên việc chấp hành
thu nộp bảo hiểm xã hội đối với một số đơn vị thực hiện chưa nghiêm túc
như Công ty chè Việt Lâm, Công ty thương mại huyện, Cửa hàng lương
67
thực huyện. [148; tr. 11].
Tiểu kết chương 2
Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới cho đến khi tái lập tỉnh
Hà Giang (1991), kinh tế huyện Vị Xuyên nhìn chung còn gặp nhiều khó
khăn. Sự khó khăn thể hiện hầu như trên tất cả các lĩnh vực từ cơ sở hạ tầng
kinh tế, sự nghèo nàn về cơ cấu mặt hàng nông sản, kinh tế gần như tập
trung vào nông nghiệp. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp hầu như chưa
có gì. Mặt khác, tình hình phức tạp do thời gian chiến tranh ở khu vực biên
giới cùng với sự không thuận lợi của điều kiện tự nhiên đã làm cho bộ mặt
kinh tế của Vị Xuyên không mấy khởi sắc. Cuối năm 1991, tỉnh Hà Giang
được tái lập, Vị Xuyên về căn bản vẫn giữ nguyên địa giới hành chính. Đây
cũng là thời gian mà những chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến
công cuộc đổi mới dần đi vào cuộc sống, vì vậy mà kinh tế của huyện Vị
Xuyên dần được cải thiện theo hướng đi lên. Giai đoạn 1991 - 2000, huyện
Vị Xuyên đẩy mạnh việc đa dạng hóa các mặt hàng nông sản, phát triển
mạnh sản xuất lương thực, tích cực mở rộng các mô hình chăn nuôi nhằm tự
chủ về mặt lương thực, từng bước thực hiện công tác xóa đói và giảm
nghèo. Kinh tế bắt đầu tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế bắt đầu chuyển dịch
theo hướng tích cực, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp bắt đầu được mở
mang, phát triển sản xuất như: chế biến chè, chế biến nông sản, sản xuất vật
liệu xây dựng... Điểm sáng trong những năm cuối thập niên 90 (thế kỷ XX)
mà Vị Xuyên đạt được chính là giảm nhanh số hộ đói nghèo. Đây thực sự là
những kết quả quan trọng mà huyện Vị Xuyên đạt được trong giai đoạn
1986 - 2000, làm nền tảng để kinh tế huyện Vị Xuyên bước sang thiên niên
kỷ mới.
Về mặt xã hội, những năm 1986 - 2000 là giai đoạn mà cả nước mới
bước vào thực hiện công cuộc đổi mới. Huyện Vị Xuyên là một huyện miền
núi còn gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, xuất phát điểm quá thấp cộng với
68
sự thiếu thuận lợi của điều kiện tự nhiên và tàn dư của cuộc chiến tranh biên
giới đã làm cho các mặt đời sống xã hội còn rất nhiều hạn chế. Người dân
còn ở trong tình trạng thiếu thốn về thông tin liên lạc, số lượng người mù
chữ vẫn còn khá lớn, công tác y tế chưa đảm bảo, hệ thống phúc lợi an sinh
xã hội chưa đáng kể, vì vậy đời sống tinh thần của người dân còn nghèo
nàn, lạc hậu. Cho đến những năm 1996-2000, nền kinh tế huyện Vị Xuyên
mới có những chuyển biến thực sự rõ rệt , do đó những vấn đề về mặt xã hội
cũng từng bước được giải quyết. Thành tựu nổi bật nhất là sau nhiều năm nỗ
lực thực hiện công tác phổ cập giáo dục tiểu học, đến năm 2000 mục tiêu
này đã được hoàn thành. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe người dân từng
bước chuyển biến tích cực với sự củng cố, nâng cấp cơ sở vật chất và đội
ngũ cán bộ. Hệ thống nhà trạm, trung tâm y tế huyện và các trạm y tế xã
được xây dựng bài bản và trang bị đầy đủ thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế tối
thiểu, bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Đây là một
69
bước tiến rất lớn so với những năm đầu thời kỳ đổi mới.
CHƯƠNG 3
CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
3.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến của huyện Vị Xuyên
khi bước vào thế kỷ XXI
3.1.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước
Nhân loại bước vào thế kỷ XXI với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương nổi lên là một khu vực năng
động nhất với tốc độ phát triển cao. Toàn cầu hóa và khu vực hóa trở nên
mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, các nước đều thi hành chính
sách mở cửa, gia tăng sự hội nhập vào khu vực và thế giới; tiếp tục điều
chỉnh chính sách để thích nghi với sự cạnh tranh toàn cầu, đồng thời xử lý
mâu thuẫn giữa quá trình toàn cầu hóa với lợi ích và chủ quyền của mỗi
quốc gia. Việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới để tận dụng những
lợi thế do xu thế toàn cầu hóa mang lại, đồng thời phát huy tối đa sức mạnh
nội lực của đất nước đã trở thành yêu cầu khách quan và hợp với quy luật
phát triển của thời đại.
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong những năm đầu thế kỷ XXI. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, mở cửa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trong những năm
đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với
các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ
được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân không ngừng được cải thiện. Thế và lực của đất nước ta mạnh
lên rất nhiều đặc biệt là khi bước vào thế kỷ XXI, cho phép nước ta tiếp tục
70
phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền
vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời, Đảng và Nhà
nước ta tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với
phát triển văn hóa, từng ước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh -
quốc phòng.
3.1.2. Các chính sách về kinh tế, xã hội của Trung ương và của tỉnh
tác động đến chuyển biến của huyện Vị Xuyên
Tháng 4 năm 2001, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã
thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho 10 năm đầu của thế kỷ
XXI, với quan điểm phát triển một nền kinh tế nhanh gắn với việc thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế là nhiệm vụ
trọng tâm, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội
cũng xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001 - 2010 là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ
rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại” [59; 696]. Đại hội chỉ rõ quan điểm phát triển nền kinh tế đất nước là
“Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [59; tr. 699]. Sau
20 năm đổi mới, đất nước Việt Nam có bước chuyển biến toàn diện, trên cơ
sở tổng kết và khẳng định những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của
cuộc đổi mới, Đại hội X của Đảng (2006) đã đề ra những điểm cơ bản để
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
71
hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Đại hội chỉ rõ mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội trong 5 năm (2006 - 2010): “Đẩy mạnh toàn diện công cuộc
đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” [60;
tr. 76]. Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, khoa học, nhưng các tính chất
đó của cơ cấu kinh tế lại chịu sự chi phối của Nhà nước. Nhà nước không can
thiệp trực tiếp vào cơ cấu kinh tế, nhưng có thể tác động gián tiếp thông qua
định hướng phát triển và các công cụ điều tiết thể chế, chính sách, pháp luật.
Về mặt xã hội, Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) đã chủ trương tập
trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối,
bình đẳng trong quan hệ xã hội, khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp.
Đến Đại hội X (2006), Đảng chỉ rõ đến năm 2010 cần phải: Kết hợp chặt
chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, thực hiện tiến bộ
công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.
Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hoá đã được xác định
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là “làm cho
văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn
thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền
thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của loài người, tăng sức đề
kháng chống văn hoá đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong mọi
hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân” [58; tr.208].
Ngày 1-7-2004, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 37/NQ-TW Về
phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh
vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến 2010. Nghị quyết chỉ rõ: Vùng trung
du và miền núi Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng, có tiềm năng lợi thế
to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, môi trường
sinh thái của cả khu vực Bắc Bộ và của cả nước. Nhân dân trong vùng có
truyền thống đoàn kết trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, có quan hệ
gắn bó và mật thiết với miền xuôi. Là nơi có nhiều cửa khẩu giao lưu kinh tế
với bên ngoài. Tuy nhiên, hiện nay vùng này vẫn là vùng nghèo, còn nhiều
72
khó khăn, thách thức, cần phải được phát triển nhanh và bền vững hơn nữa.
Nghị quyết đã xác định mục tiêu của vùng đến năm 2010: GDP bình quân
đầu người gấp 2,5 lần so với năm 2000. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tỷ trọng GDP các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp đạt khoảng 26%, ngành công nghiệp và xây dựng 34% và
dịch vụ 40% trong tổng GDP của vùng. Phấn đấu đến năm 2010, có 60 đến
70% số xã có bác sỹ, 100% số trạm y tế xã, cơ sở y tế và phòng khám đa khoa
khu vực được chuẩn hoá; 25-30 % tổng lao động được đào tạo có kỹ thuật.
Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị ban hành nghị quyết chuyên đề về
phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh
vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Nghị quyết thể hiện sự quan tâm sâu sắc
của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc, phản ánh tư duy quản
trị và phát triển vùng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng chung của nhân dân.
Trên cơ sở đường lối của Đảng, với sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang, đời sống xã hội của huyện Vị
Xuyên đã có những chuyển biến rõ nét trong giai đoạn 2001 - 2010.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2000-2005 đã
xác định phương hướng phát triển của tỉnh trong nhiệm kỳ tới. Đó là xây
dựng vùng động lực kinh tế của tỉnh bao gồm thị xã Hà Giang, huyện Bắc
Quang, Vị Xuyên và các thị trấn thị tứ trong tỉnh. Đây là những vùng trọng
điểm có vai trò tích cực và chủ yếu gánh vác, thúc đẩy và đảm bảo thực hiện
thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của cả tỉnh. Ngày 17-7-2001, Hội nghị
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ra Nghị quyết số 02 Về phát triển công nghiệp
- tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2001 - 2005. Theo tinh thần Nghị quyết 37-
NQ/TW ngày 1-7-2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế
- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ
đến năm 2010, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (12-2005) đề ra mục tiêu
đến năm 2010 có cơ cấu “Dịch vụ - công nghiệp - nông lâm nghiệp”
73
[8; tr.279]. Như vậy, các yếu tố này là điều kiện có tính quyết định đến sự
hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Sự ổn định, minh bạch,
đồng bộ của thể chế kinh tế (nhất là các chính sách đầu tư, tài chính) sẽ
góp phần phát triển cơ cấu kinh tế làm giảm hoặc làm tăng lên các tác
động tích cực và tiêu cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ chế
quản lí sẽ tác động lên cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư, tạo ra cân đối lực
lượng lao động và thu nhập giữa các vùng, giảm bớt khoảng cách chênh
lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn.
Trong bối cảnh chung của công cuộc mở cửa và hội nhập, Vị Xuyên
cũng được đón nhận những nguồn đầu tư của nhà nước và tỉnh Hà Giang
trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chương trình phát triển kinh tế, xã
hội của nhà nước và của tỉnh đã được thực hiện ở Vị Xuyên và mang lại
hiệu quả cao. Với vị trí nằm gần như trung tâm của tỉnh Hà Giang, có quốc
lộ 2 chạy qua với chiều dài khoảng 30 km, huyện Vị Xuyên có nhiều thuận
lợi cho giao lưu với các huyện, thị khác trong tỉnh và cả nước. Đó là: được
tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ của các nước trên thế giới; mở rộng
thị trường xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ; phát triển kinh tế mở;
tranh thủ được công nghệ, vốn, kĩ thuật của các nước; hội nhập cũng là điều
kiện để giao lưu văn hóa, cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo nguồn
nhân lực.
Huyện Vị Xuyên có cửa khẩu quốc gia Thanh Thủy, với các công trình
hạ tầng kĩ thuật, hạ tầng xã hội thiết yếu được xây dựng bằng ngân sách nhà
nước đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế vùng biên, mở rộng
hoạt động giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa Vị Xuyên nói riêng và tỉnh Hà
Giang nói chung với Trung Quốc. Hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư theo
đúng quy hoạch, diện mạo khu vực cửa khẩu ngày một khang trang; giá trị
kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa qua cửa khẩu tăng nhanh theo từng
năm. Trong khu vực cửa khẩu đã có nhiều hộ dân, doanh nghiệp trong và
ngoài tỉnh đến định cư, phát triển sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, khu kinh tế
cửa khẩu Thanh Thủy được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập
74
tháng 11-2009 gồm 6 xã của huyện Vị Xuyên: Thanh Thủy, Thanh Đức,
Lao Chải, Xín Chải, Phong Quang, Phương Tiến và xã Phương Độ (thị xã
Hà Giang). Trong tương lai nơi đây sẽ được tổ chức thành khu phi thuế
quan và các khu chức năng như khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch,
khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác. Khi
được hoàn thành xây dựng vào năm 2020, khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy
sẽ thúc đẩy giao lưu, trao đổi hàng hóa hơn nữa giữa Vị Xuyên - Hà Giang
với Vân Nam - Trung Quốc mang lại nguồn thu lớn đóng góp tích cực vào
sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Vị Xuyên và tỉnh Hà Giang.
Ngay sau khi Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị về phương hướng phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và
miền núi Bắc Bộ đến năm 2010 được triển khai, Đảng bộ huyện Vị Xuyên
đã xác định đây là một Nghị quyết quan trọng nhằm đẩy nhanh tốc độ phát
triển, cải thiện hệ thống hạ tầng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội
và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ nói
chung và huyện Vị Xuyên nói riêng. Do đó, các nội dung cơ bản của Nghị
quyết 37 đã được Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXI cụ thể hóa và
đưa vào Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2005 – 2010.
Đồng thời Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành các nghị quyết
chuyên đề về phát triển văn hóa du lịch; đào tạo nghề, giải quyết việc làm;
phát triển cây chè; phát triển lúa ngô hàng hóa; nghị quyết về 7 cây, 4 con
trong phát triển nông nghiệp; nghị quyết về công tác quốc phòng, an ninh
hằng năm và các cơ chế chính sách thu hút, kêu gọi đầu tư, khuyến khích
các thành phần kinh tế phát triển.
3.2. Chuyển biến về kinh tế
3.2.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong những năm cuối thế kỷ XX, chính quyền huyện Vị Xuyên ngày
càng quan tâm và tỏ ra quyết tâm cao trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của
nhóm ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Định hướng phát triển
75
kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên từ 1997 - 2010 ngoài việc tiếp tục nhấn
mạnh vai trò hàng đầu của lĩnh vực nông, lâm nghiệp đã xác định cần phải
nâng vai trò của công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp lên một bước. Báo cáo
tóm tắt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện giai đoạn 1997 - 2010
nêu rõ: "Đi đôi với phát triển nông nghiệp, cần phát triển nhanh công
nghiệp chế biến nông sản, lâm sản... để tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ
cấu kinh tế và tạo ra tích lũy, tăng thu ngân sách, nâng cao thu nhập của
nhân dân" [157; tr. 10]. Bản quy hoạch cũng đã đặt ra mục tiêu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế rất rõ ràng, mạnh mẽ với việc giảm tỷ trọng ngành nông - lâm
nghiệp và tăng tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP của huyện.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Vị Xuyên thực sự rõ ràng từ
năm 2001 trở đi. Cơ cấu ngành kinh tế (tỷ lệ % trong tổng GDP của huyện)
năm 2001 cho thấy lĩnh vực nông - lâm nghiệp chiếm 56% (năm 2000 là
58,5%, năm 1999 là 62%); lĩnh vực công nghiệp - xây dựng chiếm 25%
(năm 2000 là 18%, năm 1999 là 20%); lĩnh vực dịch vụ chiếm 19% (năm
2000 là 23,5%, năm 1999 là 21,5%) [161; tr. 1]. Quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành ở Vị Xuyên được thực hiện theo hướng công nghiệp hóa,
tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ đồng thời giảm dần tỷ
trọng của ngành nông, lâm nghiệp. Kết quả của sự chuyển dịch này là đến
năm 2005, lĩnh vực nông - lâm nghiệp giảm tỷ trọng xuống 45% trên tổng
GDP toàn huyện, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 32%, thương mại
dịch vụ chiếm 23% [166; tr. 1]. Năm 2010, cơ cấu này có sự thay đổi mạnh
mẽ, theo đó các ngành thuộc công nghiệp - xây dựng vươn lên đứng hàng
đầu trong tỷ trọng GDP với 46,6%, thương mại dịch vụ chiếm 23,5%, nông -
lâm nghiệp chỉ còn 29,9% [173; tr. 1]. Quá trình chuyển dịch cơ cấu được
thể hiện rõ qua từng năm (xem Bảng 3.1). Sự suy giảm tỷ trọng theo đúng
định hướng của nông lâm nghiệp, cũng như sự tăng trưởng khá đều của khu
vực công nghiệp - xây dựng cho thấy Vị Xuyên ngày càng tiến lên vững
chắc trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy vậy, khu vực
76
thương mại, dịch vụ không mấy tiến triển, qua hơn 10 năm tỷ trọng trong cơ
cấu kinh tế không có nhiều biến đổi. Đây là một vấn đề quan trọng mà
huyện Vị Xuyên cần tập trung giải quyết trong thời gian tiếp theo.
Bảng 3.1. Cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên từ 2000 đến 2010
(đơn vị tính %)
Ngành
Năm
Công nghiệp - xây dựng Thương mại, dịch vụ Nông - lâm nghiệp
58,5 18 23,5 2000
56 25 19 2001
54 25 21 2002
46,3 24,9 28,8 2003
44 26 30 2004
45 32 23 2005
35,68 39,31 25,01 2006
32,09 42,10 25,81 2007
28,6 45,2 23,7 2008
30,9 45,4 23,7 2009
Nguồn: Niên giám thống kê và báo cáo của UBND huyện theo các năm.
29,9 46,6 23,5 2010
Cùng với sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế ngành, sự chuyển dịch
giữa các thành phần kinh tế cũng có bước tiến mới theo hướng giảm dần tỷ
trọng ở khu vực kinh tế nhà nước, tăng dần tỷ trọng khu vực kinh tế ngoài
nhà nước. Năm 2010, tổng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh
tính theo giá thực tế đạt 1.099.833 tỷ đồng, tăng 13,8% so với năm 2009
[173; tr. 5]. Thương mại dịch vụ cũng có sự phát triển tích cực. Thống kê
năm 2010 cho thấy có 13 hợp tác xã được thành lập mới, đưa tổng số hợp
tác xã dịch vụ trên toàn huyện lên con số 91, trong đó có 13 hợp tác xã dịch
vụ nông nghiệp còn lại hoạt động trong các lĩnh vực khác [173; tr. 5].
77
Doanh nghiệp kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển, đặc biệt trong
lĩnh vực công nghiệp - xây dựng, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp. Đến năm
2010, toàn huyện có 20 doanh nghiệp tư nhân,1.118 hộ tư thương và dịch vụ
[130; tr. 44].
Kinh tế huyện Vị Xuyên có sự phân bố không đồng đều các cơ sở kinh
tế do đặc điểm của địa hình. Về cơ bản các hoạt động kinh tế công nghiệp,
dịch vụ hoạt động sôi nổi và tập trung chủ yếu ở hai thị trấn Vị Xuyên, Việt
Lâm và một số xã bám dọc theo quốc lộ 2. Xét theo trình độ phát triển của
các xã ở Vị Xuyên thì thị trấn Vị Xuyên, thị trấn Việt Lâm thuộc vào khu
vực I, 9 xã thuộc khu vực II và 12 xã khu vực III, thuộc diện đầu tư của
Chương trình 135 giai đoạn II (trong đó có 15 thôn đặc biệt khó khăn phân
bố trên 7 xã) [172; tr. 2].
3.2.2. Sự phát triển của các ngành kinh tế
3.2.2.1. Kinh tế nông, lâm nghiệp
Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) đã định hướng phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn là: Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa
chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao
động của từng vùng, từng địa phương. Ứng dụng nhanh khoa học và công
nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học; gắn nông nghiệp
với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ; hình thành
sự liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn. Tiếp
đó, để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, tháng 3-2002, Trung
ương đã ban hành 3 nghị quyết quan trọng liên quan trực tiếp đến nông
nghiệp và nông thôn, đó là: Nghị quyết "Về đẩy nhanh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010"; "Tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao kinh tế tập thể"; "Tiếp tục đổi mới cơ chế
chính sách khuyến khích tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân".
Tại Vị Xuyên, nông nghiệp vẫn là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu và
78
đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Năm 2001, sản lượng lương thực đánh dấu
sự tăng vượt trội và đạt mức cao nhất so với các năm trước với tổng sản
lượng 30.048 tấn, tăng 11,2% so với năm 2000. Bình quân lương thực theo
đầu người/năm là 357 kg (kế hoạch đề ra là 354 kg) tăng 8,8% so với năm
2000, an ninh lương thực trong toàn huyện được đảm bảo [162; tr. 2]. Nhờ
thực hiện liên tục việc mở rộng diện tích trồng cây lương thực và đẩy mạnh
thâm canh nhất là đối với cây lúa, ngô nên sản lượng lương thực hằng năm
của Vị Xuyên tăng khá đều đặn, đảm bảo lương thực trong nhân dân vừa
đáp ứng yêu cầu phục vụ cho chăn nuôi và làm hàng hóa. Năm 2005, tổng
sản lượng lương thực của Vị Xuyên tăng lên 36.450 tấn, bình quân lương
thực đầu người là 407 kg/người/năm; năm 2010 tổng sản lượng lương thực
tăng đạt con số 45.888,6 tấn [166; tr. 2, 173; tr. 2].
Hình 3.1. Tổng sản lượng lương thực huyện Vị Xuyên 2001 - 2010
và diễn biến bình quân lương thực đầu người qua một số năm (đơn vị: tấn)
50000 45000 40000
35000 30000 25000
Sản lượng
20000
15000
10000
5000
0
2001
2003
2005
2007
2009
79
kg/người/năm
500 450 400 350 300 250 200 150 100 50 0
1992 1993 1994 1995 1996 2000 2001 2005 2010
Nguồn: Số liệu được xử lý từ báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hằng năm của huyện Vị Xuyên
Với sự hỗ trợ từ nguồn vốn thuộc Chương trình 135, nhiều xã trong
huyện Vị Xuyên đã có vốn để hình thành các cánh đồng thâm canh, cánh
đồng mẫu lớn cho năng suất cao, hình thành vùng chuyên canh lúa tại các xã
Linh Hồ, Tùng Bá, Đạo Đức, Việt Lâm. Những năm 2009 - 2010, Vị Xuyên
tiến hành triển khai thực hiện các mô hình sản xuất hàng hóa điển hình,
mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đáng chú ý là mô hình trồng lúa lai dòng
BIO 404, năm 2010 thực hiện tại 19 xã cho năng suất bình quân 56 tạ/ha.
Ngoài ra một số mô hình sản xuất khác cũng hứa hẹn khả năng cho năng
suất cao như: mô hình sản xuất lúa thuần BT13 và HT1 cho năng suất rất
cao lên tới 71 tạ/ha, nếu được chăm sóc tốt; mô hình sử dụng chế phẩm
phân bón hóa sinh cho lúa... Sự tăng trưởng của sản lượng lương thực huyện
Vị Xuyên có được là nhờ sự tăng lên của diện tích thâm canh, nhất là cây
lúa và ngô. Bên cạnh việc là hai loại cây lương thực chủ lực gắn bó với
người dân Vị Xuyên qua nhiều năm, cây lúa và cây ngô cũng là hai loại cây
chiếm đại bộ phận trong tổng sản lượng lương thực của huyện Vị Xuyên. Từ
80
kết quả thống kê (xem Hình 3.1 và Bảng 3.2) ta thấy rằng diện tích thâm
canh đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao sản lượng của cây lúa và
ngô, từ đó góp phần quyết định nâng cao tổng sản lượng lương thực hằng
năm. Năm 2001, diện tích thâm canh cây lúa là 3.895 ha (tổng diện tích là
5.461 ha), diện tích thâm canh cây ngô là 1636,2 ha (tổng diện tích là 3.450
ha) từ đó cho tổng sản lượng lương thực của huyện xấp xỉ 30.000 tấn. Đến
năm 2010, diện tích thâm canh cây lúa tăng lên 5.228,7 ha (tổng diện tích là
6.358,3 ha), diện tích thâm canh cây ngô 2.957,6 ha (tổng diện tích là
3.969,3 ha), với sự nâng cao diện tích thâm canh của hai loại cây chủ lực
nên, tổng sản lượng lương thực đã nâng lên trên 45.000 tấn.
Bảng 3.2. Diện tích gieo trồng cây lúa, ngô từ 2001 đến 2010 (đơn vị: ha)
Cây lương thực
Năm
Tổng diện tích cây lúa Trong đó thâm canh Tổng diện tích cây ngô Trong đó thâm canh
2001 5.461 3.895 3.450 1.636,2
2002 5.700 3.490
2003 5.845 4.240 3.674 1.984
2004 5.920 4.285 3.620 1.974
2005 5.973 4.994 3.680 2.169
4.839 2.169
2006 2007 6.394,9 6.431 3.707,5 3.591
2008 6.437 5.088,8 3.861,8
2009 6.567,7 5.367,7 3.916,9 2.834
Nguồn: Xử lý từ niên giám thống kê qua các năm.
2010 6.358,3 5.228,7 3.969,3 2.957,6
Cùng với sự tăng lên về diện tích và sản lượng cây lương thực chủ đạo
là lúa và ngô, cơ cấu các loại cây trồng ngày càng được đa dạng hóa theo
81
hướng tập trung vào các loại cây có lợi thế, tiềm năng của địa phương.
Những loại cây được tập trung phát triển là chè, lạc, cây dâu tằm, thảo quả,
các loại cây ăn quả, rau..., trong đó, cây chè được xem như là loại cây gắn
bó lâu năm và tạo ra giá trị khá lớn giúp người dân Vị Xuyên có thể thoát
nghèo vươn lên làm giàu. Sản lượng cây chè hằng năm trong giai đoạn 2001
- 2005 có tốc độ phát triển không đều, thậm chí có phần suy giảm do diện
tích cây chè giảm sút vì già, chuyển mục đích đất sử dụng... Tuy nhiên do
hằng năm huyện Vị Xuyên đều triển khai thực hiện trồng mới cây chè nên
sự dao động không quá lớn về diện tích. Năm 2006 là năm có diện tích cây
chè giảm xuống thấp nhất trong 10 năm từ 2001 - 2010 là 3.738,5 ha, năm
cao nhất là 2005 đạt 4.389 ha. Giai đoạn 2005 - 2010, diện tích cây chè tăng
lên khá đều qua từng năm. Nhưng điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là
cây chè tăng nhanh về mặt sản lượng thu hoạch (xem Bảng 3.3).
Bảng 3.3. Diện tích và sản lượng cây chè từ 2001 đến 2010
Cây chè
Năm
Tổng diện tích (ha) Sản lượng (tấn, búp tươi) Diện tích thu hoạch
4.050 2.155 7.020 2001
4.383,5 2.311 6.701,9 2002
4.308,6 2.413 7.000 2003
4.297,5 2.311 6.890 2004
4.389 2.448 6.500 2005
3.738,5 2.860 9.006 2006
3.780 2.974 9.823 2007
3.885 10.679 2008
4.000,2 3.352,6 10.886,7 2009
Nguồn: Xử lý từ niên giám thống kê qua các năm.
82
4.100,2 5.228,7 11.380,3 2010
Các loại cây trồng như lạc, đậu tương, dâu tằm đều tăng cả về diện tích
và sản lượng. Cây lạc và đậu tương được xác định là các loại cây trồng quan
trọng nằm trong chương trình "7 cây, 4 con" (7 cây: lúa, ngô, lạc, đậu tương,
cam, chè, cây thảo quả; 4 con: trâu, bò, dê, cá) của huyện. Năm 2002, diện
tích cây lạc đạt 407 ha (giảm 5% so với 2001), đậu tương 458 ha (tăng
12,2% so với 2001) [163; tr. 2]. Năm 2003, diện tích đậu lạc bắt đầu tăng
lên 450 ha (tăng 10,5% so với 2002) với sản lượng 452 tấn; cây đậu tương
491 ha (tăng 7,2% so với 2002), sản lượng 345 tấn (tăng 10,4% so với 2002)
[164; tr. 4]. Đến năm 2005, cả diện tích và sản lượng cây đậu tương và cây
lạc đều có sự tăng trưởng mạnh: diện tích cây lạc đạt 724 ha (tăng 25% so
với 2004), sản lượng đạt 893 tấn; cây đậu tương có diện tích 575 ha (tăng
7,7% so với 2004), sản lượng 447,8 tấn [166; tr. 2]. Năm 2010, diện tích cây
lạc được gieo trồng là 1.177/1.510 ha, đạt sản lượng 1.827,8 tấn; trong khi đó
cây đậu tương có xu hướng giảm xuống còn 289,7/358,5 ha gieo trồng, đạt
sản lượng 232 tấn [173; tr. 2].
Một số loại cây có hiệu quả kinh tế cao đã hình thành vùng trồng tập
trung như cây măng tre bát độ ở xã Trung Thành, Đạo Đức, thị trấn Việt
Lâm, thị trấn Vị Xuyên; thảo quả, quế trồng ở các xã Lao Chải, Xín Chải,
Thanh Đức, Phương Tiến, Cao Bồ, Thượng Sơn, Minh Tân; cây ớt, thuốc lá
ở Linh Hồ, Trung Thành; vùng trồng cao su ở Trung Thành, Phú Linh, Linh
Hồ; vùng trồng chè ở Thượng Sơn, Cao Bồ. Năm 2003, diện tích thảo quả
của huyện Vị Xuyên là 213 ha, măng bát độ 538 ha, quế 760 ha, vải nhãn
864,1 ha, cam quýt 148,2 ha (chủ yếu trồng ở các xã Trung Thành, Việt
Lâm, thị trấn Việt Lâm) [164; tr. 4-5]... Năm 2006, diện tích cây thảo quả
tăng lên con số 1.110 ha, năm 2007 tăng lên 1.425 ha. Đây là loại cây mang
lại giá trị lớn cho người dân. Các xã trồng loại cây này đã dần trở thành
vùng sản xuất hàng hóa, tạo thu nhập cao và ổn định hằng năm. Giá trị kinh
tế của các loại cây mũi nhọn ngày càng tăng lên, góp phần nâng cao mức
sống của người dân. Năm 2007, giá trị kinh tế mà cây chè mang lại là 22 -
83
25 tỷ đồng, thảo quả 8 - 10 tỷ đồng (năm 2008 là 12 tỷ đồng), cây lạc từ 6
đến 8 tỷ đồng... Hầu hết các hộ có diện tích các loại cây trồng trên đều có
đời sống, thu nhập thuộc diện khá và giàu ở Vị Xuyên [168; tr. 2-3].
Chăn nuôi tiếp tục phát triển với việc thực hiện chương trình dự án cho
vay vốn nuôi trâu, bò. Ngành chăn nuôi của Vị Xuyên chủ yếu tập trung vào
các loại gia súc lớn như trâu, bò, ngựa, dê, lợn. Sự phát triển của chăn nuôi
là bước đi có định hướng nhằm chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp hợp lý theo
hướng giảm dần tỷ trọng của trồng trọt. Các cấp ủy Đảng, chính quyền ở Vị
Xuyên đã tập trung quy hoạch, phát triển chăn nuôi đại gia súc, đẩy mạnh
việc áp dụng khoa học - kỹ thuật tiến bộ, sử dụng các loại giống tốt, tăng
cường phòng ngừa dịch bệnh, gắn chăn nuôi hàng hóa với thị trường tiêu
thụ sản phẩm. Trừ năm 2008, do ảnh hưởng của rét đậm, rét hại kéo dài nên
đàn gia súc của huyện Vị Xuyên có phần giảm sút; còn lại nhìn chung từ
năm 2001 đến năm 2010, đàn gia súc của huyện Vị Xuyên có mức tăng
trưởng khá ổn định, góp phần chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ của ngành
nông nghiệp. Qua bảng 6, đàn gia súc của Vị Xuyên có sự tăng lên về số
lượng khá đều, tương ứng với sự tăng lên của sản lượng lượng thực, trong
đó cây ngô là loại cây đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực chăn nuôi của
Vị Xuyên. Từ đó cho thấy mối quan hệ gắn bó tương hỗ của lĩnh vực trồng
cây lương thực với sự phát triển của ngành chăn nuôi ở huyện Vị Xuyên.
Bảng 3.4. Số lượng đàn gia súc chủ yếu ở huyện Vị Xuyên
(Đơn vị: con)
những năm 2001 - 2010
Đàn gia súc Năm Trâu Bò Lợn
24.272 1.440 31.863 2001
24.461 1.460 32.883 2002
24.972 1.555 34.961 2003
84
25.698 1.676 36.650 2004
26.392 1.755 38.328 2005
30.642 2.055 43.562 2006
31.529 2.344 47.152 2007
30.649 2.247 49.075 2008
32.393 2.392 52.155 2009
Nguồn: Xử lý từ niên giám thống kê qua các năm.
38.828 2.415 54.818 2010
Lĩnh vực lâm nghiệp có những chuyển biến tích cực nhờ sự chuyển
biến mạnh mẽ từ khai thác sang bảo vệ và phát triển vốn rừng.
Từ năm 2001, huyện Vị Xuyên đã chỉ đạo tổ chức cho các hộ gia đình
thực hiện ký cam kết phòng chống cháy rừng ở những khu vực dễ xảy ra
cháy, hiện tượng đốt rừng làm nương rẫy không còn xảy ra. Công tác bảo vệ
rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng, trồng rừng mới đạt hiệu quả cao, tỷ lệ che
phủ rừng đạt 48%. Hằng năm, nhiệm vụ trồng rừng mới và tu bổ rừng luôn
được đảm bảo, góp phần nâng cao tỷ lệ che phủ của rừng. Năm 2001, toàn
huyện Vị Xuyên trồng được 620 ha rừng mới, khoanh nuôi phục hồi được
2.385 ha, giao khoán bảo vệ rừng đạt 14.181,8 ha [162; tr. 3]. Cùng với sự
chủ động trong thực hiện các biện pháp bảo vệ và mở rộng diện tích rừng
trồng, huyện Vị Xuyên còn được sự hỗ trợ của Dự án trồng và bảo vệ rừng
(còn gọi là Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng hay Dự án 661) khá hiệu quả.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ Dự án và gồm 2 hợp phần
chính:
+ Bảo vệ rừng hiện có và trồng mới 2 triệu ha rừng đặc dụng, phòng hộ.
+ Sử dụng hợp lý rừng hiện có và trồng mới 3 triệu ha rừng sản xuất.
Nguồn vốn từ Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và bảo tồn thiên nhiên
là 5.261,9 triệu đồng, đến năm 2004 đã cấp 3.415,6 triệu đồng (đạt 65%)
85
[165; tr. 5]. Cùng với việc đẩy mạnh chăm sóc, trồng rừng, công tác bảo vệ
rừng được đẩy mạnh với sự phối hợp của các cơ quan, ban ngành có liên
quan. Chỉ tính riêng trong năm 2005, huyện Vị Xuyên đã xử lý 60 vụ việc vi
phạm lâm luật, tịch thu 60,807m3 gỗ, thu 4 phương tiện vận chuyển; cháy
rừng 4 vụ; 17 vụ chế biến, cất giữ lâm sản trái phép. Tổng số tiền phạt vi
phạm là 289 triệu đồng, khởi tố hình sự 9 vụ. Huyện đã chỉ đạo thành lập
các ban phòng chống cháy rừng ở xã và một ban thường trực cấp huyện,
thường xuyên mở các lớp tập huấn công tác bảo vệ rừng cho người dân,
năm 2005 đã huấn luyện cho 10.620 lượt người tham gia. Diện tích rừng
được khoanh nuôi và bảo vệ là 27.150 ha [166; tr. 4].
Năm 2008 các chương trình, dự án hỗ trợ trồng rừng đã góp phần nâng
cao diện tích rừng toàn huyện Vị Xuyên: Dự án 661 trồng được 750 ha,
Chương trình 135 trồng được 285,5 ha, nhân dân trồng 988,5 ha, tổng cộng
rừng trồng mới là 2.024 ha, cao hơn hẳn so với các năm trước đó (năm 2005
là 920 ha, 2006 là 900 ha) [169; tr. 3]. Năm 2009, toàn huyện Vị Xuyên
trồng mới đạt 2.644,5 ha (đạt 105,78% kế hoạch), trong đó: Dự án 661 trồng
được 1.450 ha, nhân dân tự trồng 533 ha, Ban quản lý rừng Phong Quang
trồng 200 ha, Ban quản lý rừng Tây Côn Lĩnh trồng 200 ha, Ban quản lý
rừng phòng hộ trồng 211,5 ha, Kế hoạch Dự án trồng rừng biên giới 50 ha
[170; tr. 2]. Sự tăng trưởng của lâm nghiệp đã góp phần quan trọng trong
việc bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng, cải thiện môi trường sinh thái,
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Với chủ trương xã hội hóa nghề rừng phát triển theo lâm nghiệp xã hội
trên địa bàn, huyện khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đầu tư bảo
vệ, phát triển rừng, khuyến khích các hình thức liên doanh liên kết và thành
lập các hợp tác xã lâm nghiệp. Vì vậy trong thời gian này, rất nhiều thành
phần trong xã hội đã tham gia vào quá trình trồng, bảo vệ và phát triển
kinh tế rừng tại huyện Vị Xuyên. Ngoài các chương trình, dự án của nhà
86
nước, còn có sự tham gia của các doanh nghiệp, các công ty, hộ dân,
tập thể… Đồng thời để đạt kết quả tốt nhất, huyện Vị Xuyên cũng như
nhiều địa phương khác có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cấp chính
quyền, các sở ban ngành (khuyến nông, phòng nông nghiệp, ngân hàng…)
giúp người dân tìm nguồn cung ứng giống, vốn, hướng dẫn cách áp dụng
khoa học - kĩ thuật trong ươm trồng, chăm sóc, thu hoạch cây…
Các cá nhân, gia đình, cộng đồng, tổ chức ở Vị Xuyên đều được
khuyến khích tham gia trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng thông qua các chương
trình, hoạt động giao khoán và đặc biệt là hoạt động đồng quản lý rừng.
Đồng quản lý rừng là hình thức thông qua cơ chế chia sẻ trách nhiệm và lợi
ích tạo cho cộng đồng, các cá nhân, hộ gia đình sống trong và gần rừng (chủ
yếu là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất tự nhiên), có cơ hội
tiếp cận có kiểm soát các nguồn tài nguyên được chia sẻ, nâng cao động lực
của cộng đồng trong bảo vệ, bảo tồn và phát triển rừng, từng bước thực
hiện xã hội hóa hoạt động quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn thiên nhiên. Ví
dụ như mô hình "đồng quản lý rừng đặc dụng Khu bảo tồn loài và sinh cảnh
Khau Ca" đang phát huy hiệu quả ở Vị Xuyên. Khu bảo tồn loài và sinh
cảnh Khau Ca, thuộc huyện Vị Xuyên và Bắc Mê (Hà Giang) có diện tích
hơn 2.000 ha được thành lập năm 2008 với nhiệm vụ bảo vệ loài voọc mũi
hếch có tên trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới đang đứng trước nguy cơ
tuyệt chủng. Khi mới thành lập, Khu bảo tồn gặp rất nhiều khó khăn trong
công tác bảo vệ. Nguyên nhân là do thói quen săn bắn và đời sống của
người dân ở đây vẫn chủ yếu dựa vào rừng. Vì lẽ đó, việc xâm phạm khu
bảo tồn diễn ra hết sức phức tạp, nhất là nạn khai thác gỗ, đánh bắt động
vật hoang dã... Trước thực trạng này, lãnh đạo khu bảo tồn đã chọn mô hình
"đồng quản lý rừng đặc dụng" để bảo vệ sinh cảnh và loài voọc mũi hếch
quý hiếm. Theo mô hình này, mỗi người dân sống xung quanh khu bảo tồn
sẽ trở thành một "kiểm lâm viên", có nhiệm vụ tuần tra, phát hiện, tố cáo
87
những ai vi phạm và họ sẽ được chi trả "phí" bảo vệ. [74; tr. 61].
Về giao đất giao rừng ở Vị Xuyên, năm 2009-2010, Chi cục Kiểm lâm
tổ chức giao rừng thí điểm tại thôn Lùng Chang, xã Linh Hồ, huyện Vị
Xuyên được 1.414,2 ha cho 145 hộ gia đình và 2 cộng đồng dân cư thôn. Từ
khi được giao rừng, người dân đã mạnh dạn cải tạo và đầu tư trồng mới
nhiều cánh rừng thuộc quyền quản lý của gia đình mình, hiện tượng đốt
rừng làm nương rẫy đã chấm dứt, nhờ được tu bổ mức độ đa dạng sinh học
của rừng cũng tăng lên. Bên cạnh đó, các loại lâm sản ngoài gỗ như tre, trúc,
hàng mây tre đan… đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân.
Công tác giao đất giao rừng đã mang lại hiệu quả kinh tế xã hội thiết thực,
góp phần bảo vệ và nâng cao độ che phủ của rừng, giúp người dân sống
được bằng nghề trồng rừng kinh tế đồng thời thúc đẩy công cuộc xóa đói
giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc trên địa bàn huyện.
Bên cạnh trồng rừng theo hộ gia đình thì khai thác gỗ từ rừng cộng
đồng góp phần đáng kể đáp ứng nhu cầu về gỗ và củi cho các thành viên
trong cộng đồng thỏa mãn nhu cầu của chính họ. Việc khai thác góp phần
giảm nghèo và đảm bảo sinh kế nông thôn.
Các loại rừng kinh tế trong huyện được trồng bằng những giống có
năng suất, hiệu quả kinh tế, trồng tập trung theo từng vùng sinh thái với
mức đầu tư thâm canh cao cả về vốn, lao động, khoa học kỹ thuật, đảm bảo đạt năng suất tối thiểu 10m3/ha/năm để trong vòng từ 6 - 8 năm có khả năng cung cấp tối thiểu 60 – 80 vạn m3gỗ/năm.
Mỗi khu vực có đặc điểm sinh thái khác nhau, thích hợp với những mô
hình trồng và phát triển rừng khác nhau. Ở Vị Xuyên đang phát huy hiệu
quả các mô hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn: bao gồm mỡ, giổi xanh có thể
trồng xen với chè, re gừng trồng hỗn giao với keo; rừng trồng cung cấp gỗ
nhỏ: keo, xoan, mỡ…; rừng trồng cung cấp lâm sản ngoài gỗ: chè + trám
trắng + re gừng, luồng thuần loài, măng tre bát độ, thảo quả, mô hình nuôi
88
ong… Với đặc thù một huyện miền núi, người dân Vị Xuyên chủ yếu sử
dụng mô hình nông lâm kết hợp theo hướng một hệ thống quản lý đất đai
trong đó các sản phẩm của rừng và trồng trọt được sản xuất cùng lúc hay kế
tiếp nhau trên một diện tích đất thích hợp để tạo ra các lợi ích kinh tế, xã hội
và sinh thái cho cộng đồng dân cư tại địa phương. Ngoài những cây trồng
chính trên diện tích đất trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ, trong 2-3
năm đầu khi rừng chưa khép tán, bố trí trồng xen những cây lương thực
ngắn ngày hoặc bố trí thành các đai cây lâm nghiệp ở phía trên sườn dốc và
đai cây công nghiệp, cây lương thực dưới sườn dốc. Mô hình cụ thể: Cây
lâm nghiệp (keo, xoan, mỡ) + cây công nghiệp (chè) + cây lương thực, thực
phẩm (lúa, ngô, sắn…). Nhiều hộ gia đình còn tận dụng chăn nuôi dưới tán
rừng (lợn, dê). Với phương châm lấy ngắn nuôi dài xen canh như vậy,
khi rừng chưa khép tán, mỗi hộ dân thu được hàng tấn lúa nương, sắn…
Đặc biệt hiện nay xây dựng mô hình vườn rừng, đồi rừng, trang trại
rừng là mô hình khá phổ biến ở các xã trong huyện với các phương thức
canh tác bền vững, sử dụng đất hợp lý, lợi dụng tối đa tiềm năng tự nhiên
và đạt hiệu quả sử dụng đất cao. Rất nhiều hộ dân trên địa bàn huyện đang
thực hiện mô hình này với hiệu quả cao. Trong 3 năm từ 2007 - 2010 người
dân trong huyện đã tự trồng 1.884,9 ha rừng sản xuất.
3.2.2.2. Kinh tế công nghiệp, xây dựng
- Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
Từ năm 2001, các ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã
được chú trọng phát triển và ngày càng mở rộng quy mô. Hoạt động chủ yếu
là sản xuất, chế biến các loại nông sản có thế mạnh ở địa phương. Đáng chú
ý nhất là chế biến các sản phẩm từ cây chè. Sản phẩm ngày càng được đa
dạng hóa như sản xuất, chế biến xuất khẩu và tiêu thụ trong nước các loại
chè vàng, chè xanh, chè tinh lọc. Ngoài chế biến, hoạt động sản xuất, khai
thác vật liệu xây dựng cũng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu trong và
89
ngoài huyện, nhất là nhu cầu kiên cố hóa kênh mương ở Vị Xuyên. Từ năm
2001 đến năm 2004, đây là hai nhóm ngành chủ yếu thuộc lĩnh vực công
nghiệp ở huyện Vị Xuyên. Mặc dù lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp khá đơn điệu nhưng do mở rộng sản xuất nên đã mang lại giá
trị kinh tế khá lớn. Năm 2001, tổng giá trị công nghiệp, xây dựng tăng 43%
so với năm 2000, chiếm 25% trong tổng GDP của huyện [162; tr. 1; 4]. Đến
năm 2005, cơ cấu mặt hàng sản xuất thuộc công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp đã có sự thay đổi theo hướng phát triển với sự góp mặt của lĩnh vực
có hàm lượng kỹ thuật cao. Ngoài những mặt hàng, sản phẩm có tính chất
truyền thống như khai thác vật liệu xây dựng (cát sỏi 21.816m3, đá xây dựng
27.484m3, gạch nung 29,9 triệu viên trong đó gạch tuynen 15,6 triệu viên),
xay xát lương thực được 24.972 triệu tấn. chè sơ chế 1.473 tấn... đã có thêm
công nghiệp lắp ráp ô tải nhẹ được 227 chiếc, sản lượng điện 7,6 triệu KWh
[166; tr. 4]. Mặc dù chưa thực sự có sự đa dạng hóa mạnh mẽ trong cơ cấu
ngành công nghiệp, nhưng sự có mặt của lĩnh vực lắp ráp ô tô, điện năng
hứa hẹn sẽ mang đến bức tranh kinh tế công nghiệp sinh động hơn trong
những năm tiếp theo.
Năm 2006, tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp tăng mạnh so với các năm trước. Sự tăng trưởng này xuất phát
từ hiệu quả đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện Nậm Ngần, Thái An,
hoạt động khai thác vật liệu xây dựng, chế biến nông sản có năng suất cao,
hiệu quả kinh tế khá... Trong năm 2006, lượng khai thác cát sỏi phục vụ xây
dựng lên đến 50.387m3, gạch nung đạt 29,653 triệu viên (trong đó gạch
tuynen 15,021 triệu viên), sơ chế chè đạt 1.544,6 tấn, xay xát lương thực
37.227 tấn. Một số ngành nghề mới được triển khai, nhân rộng như sơ chế
mây, tre, chít... chính quyền đã có những hỗ trợ thiết thực về tiền mua
nguyên vật liệu, tổ chức tập huấn chuyển giao kỹ thuật cho bà con nhân dân
có nhu cầu học tập áp dụng sản xuất. Cho đến năm 2010, giá trị sản phẩm
90
của ngành công nghiệp huyện Vị Xuyên đã tăng cao vượt bậc so với năm
2006, nhưng cơ cấu sản phẩm về cơ bản vẫn là chế biến nông sản (sơ chế
chè, xay xát lương thực), sản xuất và khai thác vật liệu xây dựng, khai thác
khoáng sản, lắp ráp ô tô, điện năng. Tính chung cả công nghiệp, xây dựng
năm 2006 đạt giá trị trên 45 tỷ đồng [167; tr. 3]. Năm 2009, tổng giá trị sản
xuất công nghiệp (theo giá cố định) đạt 131,151 tỷ đồng, con số này là
249,891 tỷ đồng nếu tính theo giá thực tế. Năm 2010, các sản phẩm chủ yếu
như khai thác quặng đạt 434,895 tấn, điện 92 triệu KWh, lắp ráp ô tô 1.000
chiếc, chè sơ chế 2.371 tấn (năm 2009 2.104 tấn), gạch các loại 39.800
nghìn viên (năm 2009 là 36.918 nghìn viên)... Tổng giá trị sản xuất công
nghiệp ngoài quốc doanh theo giá cố định đạt 685.997 tỷ đồng (tăng 12% so
với 2009), tính theo giá thực tế sẽ là 1.099.833 tỷ đồng [170; tr. 3, 173; tr. 5].
Mặc dù có sự tăng trưởng mạnh so với các năm trước đặc biệt là giá trị sản
xuất của công nghiệp ngoài quốc doanh nhưng nhìn chung quy mô sản xuất
của ngành công nghiệp huyện Vị Xuyên còn nhỏ lẻ, tiểu thủ công nghiệp
phát triển thiếu bền vững, việc quy hoạch các khu, cụm công nghiệp, dự án
đầu tư công nghiệp chưa triển khai kịp thời và có hiệu quả.
- Xây dựng, giao thông vận tải
Từ năm 2001 đến năm 2010, bằng thực tế nhu cầu phát triển kinh tế
của địa phương, nhiều công trình xây dựng đã được đầu tư và triển khai
thực hiện, góp phần làm cho hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện Vị Xuyên
từng bước hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.
Các công trình được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn của tỉnh chủ yếu
vẫn là hệ thống trường học các cấp, đường giao thông thông bản, các công
trình thủy lợi phục vụ sản xuất. Năm 2001, toàn huyện Vị Xuyên có 166
công trình được triển khai thực hiện, trong đó có 58 công trình giao thông,
39 trường học, thủy lợi 37 công trình, 32 công trình khác. Ủy ban nhân dân
huyện Vị Xuyên đã tổ chức ký cam kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu về đẩy
91
nhanh tiến độ và đảm bảo chất lượng nên hầu hết các công trình triển khai
đều đáp ứng yêu cầu đặt ra. Đến cuối năm 2001 đã có 78 công trình hoàn
thiện và đi vào sử dụng, trong đó chủ yếu là trường học với 34 công trình,
78 km đường dân sinh thôn bản, 23 công trình thủy lợi, giá trị khối lượng
hoàn thành là 95 tỷ đồng [162; tr. 5].
Hình 3.2. Diễn biến tỷ trọng lĩnh vực công nghiệp - xây dựng
50
45
40
35
30
25
Tỷ lệ % trong tổng GDP
20
15
10
5
0
1990
1995
1997
2000
2005
2010
Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hằng năm của UBND huyện Vị Xuyên
trong tổng GDP huyện Vị Xuyên qua một số năm
Với sự hỗ trợ có hiệu quả từ nguồn vốn đầu tư của các chương trình,
dự án, chương trình kiên cố hóa kênh mương và xây dựng đường bê tông có
nhiều kết quả tích cực. Việc kiên cố hóa kênh mương nội đồng đã thực hiện
được 67.636 m (tăng 10,8% so với năm 2000), thực hiện theo Dự án hỗ trợ
các dân tộc thiểu số Hà Giang (HPM) là 1.300 m, Chương trình 135 là
11.670 m, nâng tổng chiều dài kênh mương được kiên cố trong toàn huyện
lên 142,3km và 49 đập nhỏ. Đường bê tông được làm mới là 63.324 m, đưa
92
tổng chiều dài đường được kiên cố của Vị Xuyên lên 76.796m [162; tr. 5].
Nguồn vốn từ các chương trình là điều kiện quan trọng giúp cho huyện Vị
Xuyên có được nhiều công trình mới, tu bổ các công trình cũ phục vụ sản
xuất cũng như dân sinh. Năm 2006, riêng Chương trình 135 đã cấp vốn
4,621 tỷ đồng cho 26 công trình, Chương trình 134 đã xây dựng được 475
ngôi nhà mới với số vốn 2,375 tỷ đồng, 217 bể nước sạch phục vụ sinh hoạt
với số vốn 217 triệu đồng, 8 công trình nước có vốn 1,04 tỷ đồng. Từ năm
2002 đến năm 2006, nguồn vốn từ Chương trình dự án quốc phòng 313 đầu
tư cho 4 xã biên giới của huyện Vị Xuyên là 22 tỷ đồng, riêng 2006 là 7,9 tỷ
đồng với 2 công trình thủy lợi (5,6 tỷ đồng), 1 lớp học (600 triệu đồng), hỗ
trợ sản xuất (1,2 tỷ đồng), di dân ra sát biên giới (500 triệu đồng). Ngoài ra,
Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã thực hiện xây dựng 7
chiếc cầu kiên cố và kéo điện về các thôn Lùng Áng - xã Phú Linh, Ngọc
Hà - xã Ngọc Linh bằng ngân sách của huyện [167; tr. 4].
Việc xây dựng cơ bản cũng như các công trình giao thông có sự hỗ trợ
của các chương trình sự án tiếp tục triển khai có hiệu quả trong những năm
tiếp theo. Năm 2010, trên địa bàn huyện Vị Xuyên có 5 dự án quy hoạch
được triển khai thực hiện với tổng dự toán kinh phí là 13,460 tỷ đồng. Công
tác xây dựng cơ bản trong huyện với tổng số công trình là 232, trong đó:
giao thông 77 công trình, thủy lợi và cấp nước sinh hoạt 78 công trình, điện
8 công trình, trạm y tế 9 công trình, trụ sở ủy ban nhân dân xã 14 công trình,
công trình khác là 46. Tổng nguồn vốn giao năm 2010 là 166,569 tỷ đồng
(trong đó kế hoạch giao 2010 là 116,41 tỷ đồng đã trừ 5,1 tỷ đồng vốn
Chương trình 135 giai đoạn II lồng ghép, chuyển nguồn 2009 sang là 50,159
tỷ đồng). Tiến độ các công trình trọng điểm đều được tiến hành khẩn trương
và đúng kế hoạch được giao [173; tr. 6]. Một số nội dung về xây dựng cơ
bản, giao thông nằm trong các chương trình lớn đều đạt kết quả cao trong
triển khai thực hiện. Riêng hợp phần xây dựng cơ sở hạ tầng (thuộc Chương
trình 135 giai đoạn II), năm 2010 có 69 công trình được triển khai thực hiện,
vốn được giao theo kế hoạch là 15,203 tỷ đồng. Chương trình cứng hóa giai
93
đoạn II đã thực hiện 68 công trình với số vốn giao năm 2010 là 15,395 tỷ
đồng. Chương trình kiên cố hóa kênh mương, đường bê tông được cấp kinh
phí 2,520 tỷ đồng, huyện Vị Xuyên đã làm mới được 8.550 m đường bê
tông (100% kế hoạch của huyện); xây dựng được 11.130 m kênh mương với
số vốn 1,668 tỷ đồng. Chương trình 167 hỗ trợ xây dựng nhà ở cho người
dân đã bổ sung thanh toán theo kế hoạch 792,2 triệu đồng cho 895 hộ làm
nhà trong năm 2009 (các xã 135 1,4 triệu đồng/hộ, các xã vùng II bổ sung
0,2 triệu đồng/hộ). Năm 2010 tiếp tục hỗ trợ xóa nhà tạm cho 955 hộ với số
vốn tạm ứng lần 1 của tỉnh là 2,425 tỷ đồng (2,5 triệu đồng/hộ). Ngoài ra,
năm 2010, các tuyến đường giao thông đến trung tâm thôn, xã trong huyện
là 724,01 km đều được duy tu, bảo dưỡng đảm bảo giao thông thông suốt,
an toàn cho người qua lại. Huyện cũng thực hiện thường xuyên công tác
kiểm tra, đôn đốc các công trình đang thi công trên toàn huyện, bảo đảm thi
công đúng tiến độ và chất lượng công trình. Những công trình chủ yếu vẫn
là hệ thống trường học, trụ sở làm việc của các xã; tiến hành quy hoạch khu
vực trung tâm huyện Vị Xuyên thành đô thị loại IV, trung tâm các xã, bến
xe Vị Xuyên [173; tr. 6-7]... Việc đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội đã có tác dụng thay đổi bộ mặt nông thôn ở Vị Xuyên, góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nhất là các xã vùng
sâu vùng xa.
3.2.2.3. Thương mại, dịch vụ
Thương mại và dịch vụ là khu vực kinh tế mà huyện Vị Xuyên nỗ lực
đẩy mạnh thường xuyên, nhằm nâng cao hơn nữa đóng góp của khu vực này
trong tổng GDP của huyện. Từ năm 2001 đến năm 2010, hoạt động thương
mại và dịch vụ của Vị Xuyên phát triển nhanh chóng hơn so với giai đoạn
trước nhờ sự tăng trưởng khá của nền kinh tế cũng như sự đầu tư của các
chương trình, dự án trên địa bàn. Tuy vậy, đến năm 2010, tỷ trọng của
ngành thương mại - dịch vụ vẫn không tăng, thậm chí có phần suy giảm so
94
với tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng.
Sự năng động của nền kinh tế Vị Xuyên có sự tham gia ngày càng
nhiều hơn của các doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể, điều mà
giai đoạn trước còn khá hạn chế. Năm 2001, trên địa bàn của Vị Xuyên có 8
đơn vị doanh nghiệp tư nhân, 6 đơn vị quốc doanh, 580 hộ kinh doanh cá
thể. Bên cạnh đó, hệ thống chợ nông thôn được mở rộng hơn với việc hoàn
thành xây dựng và đưa vào sử dụng 3 chợ mới là Linh Hồ, Thuận Hòa,
Minh Tân, đã hỗ trợ đắc lực cho mạng lưới trao đổi buôn bán. Hoạt động
kinh doanh, buôn bán trên địa bàn huyện Vị Xuyên ngày càng có sự hỗ trợ
hiệu quả từ ngân hàng. Nguồn vốn vay từ ngân hàng ngoài việc đáp ứng yêu
cầu sản xuất kinh doanh, còn góp phần tích cực trong xóa đói giảm nghèo
của huyện. Năm 2001, doanh số cho vay toàn huyện đạt 14 tỷ đồng (tăng
4,7% so với năm 2000). Tổng giá trị sản phẩm ngành dịch vụ năm 2001 đạt
72,486 tỷ đồng, tăng 22,5% so với năm 2000 [162; tr. 6].
Nhằm nâng cao tính năng động và hiệu quả trong các loại hình kinh
doanh dịch vụ phục vụ nhu cầu sản xuất, hệ thống hợp tác xã của huyện Vị
Xuyên được cơ cấu lại hợp lý hơn cả về số lượng cũng như phương pháp
kinh doanh. Năm 2002, toàn huyện có 48 hợp tác xã, trong đó có 2 hợp tác
xã tín dụng, bước đầu đi vào hoạt động theo cách thức mới tương đối hiệu
quả [163; tr. 4]. Năm 2006, huyện Vị Xuyên đã cấp phép mới 6 hợp tác xã
hoạt động, nâng tổng số hợp tác xã hoạt động theo luật lên 54 đơn vị với
tổng số vốn đăng ký là trên 12 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 3.210 lao
động. Hoạt động làm ăn của các hợp tác xã cũng dần được điều chỉnh, một
số hợp tác xã làm ăn không hiệu quả đã chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh
doanh cho phù hợp [167; tr. 6]. Đến năm 2010, số lượng hợp tác xã dịch vụ
hoạt động trên địa bàn huyện Vị Xuyên là 91, trong đó chỉ có 13 hợp tác xã
dịch vụ nông nghiệp, còn lại là các lĩnh vực khác. Mặc dù vậy, trong tổng số
91 đơn vị hợp tác xã của huyện Vị Xuyên, chỉ có 20 hợp tác xã hoạt động có
hiệu quả, tương đương 33,8%, còn lại hoạt động yếu [173; tr. 6]. Điều đó
95
nói lên rằng, hiệu quả kinh tế các hợp tác xã mang lại vẫn còn rất thấp, chưa
thực sự đóng góp nhiều cho kinh tế, xã hội của huyện cũng như đáp ứng sự
kỳ vọng của toàn xã hội về vai trò của mô hình kinh tế này.
Trong khi các hợp tác xã gặp khó khăn thì khu vực kinh tế tư nhân lại
ngày càng phát triển năng động. Năm 2002, số doanh nghiệp tư nhân trong
huyện tăng lên con số 11 đơn vị, có 1.316 hộ kinh doanh cá thể. Trong năm
2002 cũng đã thực hiện đăng ký kinh doanh cho 530 hộ (tăng 253 hộ so với
2001) với số vốn đăng ký kinh doanh 12,75 tỷ đồng. Báo cáo kinh tế - xã
hội của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên đánh giá: "Nhìn chung hoạt động
kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển mạnh, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế - xã hội và đóng góp cho ngân sách của huyện" [163; tr. 4]. Với hiệu
quả kinh tế mang lại, hoạt động kinh doanh của tư nhân được khuyến khích
phát triển. Năm 2005, số hộ cá thể đăng ký kinh doanh tăng lên 906 hộ, với
số vốn đăng ký là 8,8 tỷ đồng. Năm 2007, giá trị thương mại đạt trên 139 tỷ
đồng, tăng 19,7% so với năm 2006; năm 2008 giá trị thương mại tăng lên
khá ấn tượng với con số 350 tỷ đồng, hàng hóa xuất khẩu đạt trên 7,25 triệu
USD [168; tr. 3, 169; tr. 4]. Để đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa
bàn, huyện Vị Xuyên đã kêu gọi đầu tư, khuyến khích các tập thể, cá nhân
phát triển ngành thương mại - dịch vụ - du lịch. Chính quyền địa phương đã
chủ động xây dựng các làng văn hóa nhằm thu hút khách du lịch như: làng
văn hóa thôn Lùng Tao (xã Cao Bồ), Thanh Sơn (xã Thanh Thủy), tiến hành
tôn tạo một số di tích lịch sử như chùa Sùng Khánh (xã Đạo Đức), chùa
Bình Lâm (xã Phú Linh), chùa Nậm Dầu (xã Ngọc Linh)... Hằng năm, huyện
Vị Xuyên tổ chức các hội chợ thương mại để quảng bá sản phẩm, hàng hóa.
Đơn cử như năm 2007, Hội chợ thương mại huyện Vị Xuyên lần II được tổ
chức, đã có 163 gian hàng tham gia, trong đó có 50 gian hàng của nước bạn
Trung Quốc. Hoạt động mua bán, trao đổi trong 1 tuần lễ hội chợ ước đạt 6
tỷ đồng. Hoạt động thương mại được sự hỗ trợ đắc lực từ hệ thống chợ các
xã, năm 2007 toàn huyện có 18/24 xã có chợ kiên cố để nhân dân buôn bán,
96
trao đổi hàng hóa [168; tr. 4].
Bên cạnh chợ trung tâm ở thị trấn Vị Xuyên, các xã, thị trấn đều được
xây dựng chợ trung tâm xã; các chợ nông thôn, chợ biên giới được mở rộng
và hoạt động sôi động, hàng hóa phong phú, giá cả ổn định. Việc buôn bán
trao đổi hàng hóa với thị xã Hà Giang và các huyện khác của tỉnh Hà Giang,
các tỉnh, thành phố trong cả nước cũng diễn ra sôi động. Nhìn chung thị
trường hàng hóa đã đáp ứng được nhu cầu của người dân không chỉ ở các xã
vùng thấp mà ở các xã vùng cao, vùng biên giới.
Là địa bàn có cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy, hoạt động xuất nhập khẩu
trong nhiều năm nay diễn ra khá sôi động, tuy nhiên quy mô còn nhỏ bé.
Giai đoạn 2000 - 2005 giá trị hàng hóa xuất - nhập khẩu đạt 7,8 triệu USD,
giai đoạn 2006 - 2010 đạt trên 14 triệu USD. Vị Xuyên đã xuất khẩu sang
Trung Quốc các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chè chế biến, các loại quặng,
hoa quả, gỗ,... và đón nhận nhiều dòng hàng hóa từ Trung Quốc như hàng
may mặc, điện tử, hoa quả ôn đới, hàng gia dụng, nguyên phụ liệu thuốc lá.
Đặc biệt, khu Kinh tế cửa khẩu sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động ngoại
thương của huyện nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung phát triển.
3.3. Chuyển biến về xã hội
3.3.1. Giáo dục và đào tạo
Thực hiện phổ cập giáo dục là chủ trương của Đảng, Nhà nước nhằm
nâng cao trình độ dân trí, tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho địa phương,
thực hiện xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Trong giai đoạn 2001 - 2010, huyện
Vị Xuyên quán triệt Chỉ thị 61/CT-TW ngày 28/12/2000 của Bộ Chính trị về việc thực hiện phổ cập trung học cơ sở; Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 10 kỳ họp thứ 8
về đổi mới giáo dục phổ thông; Nghị định 88/2001/NĐ-CP của Chính phủ
về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; Quyết định số 4096/QĐ-UB
ngày 25/12/2001 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang về việc tổ
97
chức triển khai Đề án phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ năm 2001 đến
năm 2010 tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở đó, Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân huyện Vị Xuyên đã ban hành chỉ thị, xây dựng kế hoạch phấn
đấu để thực hiện các mục tiêu giáo dục đào tạo và đã đạt được những kết
quả đáng ghi nhận.
Trước hết là sự đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công
tác dạy và học của Vị Xuyên ngày càng có hiệu quả, cơ sở vật chất từng
bước được hoàn thiện. Năm 2003, huyện Vị Xuyên có 65 đơn vị trường học,
trong đó 17 trường mầm non, 27 trường tiểu học, 18 trường trung học cơ sở,
2 trường trung học phổ thông và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên [164;
tr. 10]. Đến năm 2005, hệ thống trường lớp của Vị Xuyên tăng lên 78 đơn vị
trường học, trong đó có 25 trường mầm non (3/25 trường đạt chuẩn Quốc
gia, đạt tỉ lệ 12%); 29 trường tiểu học (5/29 trường đạt chuẩn Quốc gia, đạt
tỉ lệ 17,2%); 17 trường trung học cơ sở (1/17 trường đạt chuẩn Quốc gia); 5
trường tiểu học và trung học cơ sở; 1 trường Phổ thông dân tộc nội trú và 1
Trung tâm giáo dục thường xuyên của huyện [174; tr. 4]. Tổng số phòng học
năm 2005 có 1.181, trong đó 611 phòng học kiên cố, 269 phòng học cấp IV
và 274 phòng học tạm. hệ thống thư viện có 45 phòng; phòng thí nghiệm 9,
trong đó phòng đạt chuẩn: 8. Đến năm học 2009 - 2010, tất cả các trường ở
Vị Xuyên đều có đủ phòng học, bàn ghế, bảng đen và các điều kiện làm việc
của giáo viên; không có phòng học 3 ca. Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
đã xây dựng và phát triển mạng lưới trường lớp theo hướng đồng bộ từ mầm
non, tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông, dưới các hình thức
chính quy và không chính quy với mục tiêu tạo nền tảng vững chắc cho phổ
cập giáo dục trung học cơ sở, đồng thời chú trọng xây dựng các trường
chuẩn Quốc gia; hệ thống các trường nội trú, mô hình nội trú dân nuôi [174;
tr. 5]. Từ năm 2007, huyện Vị Xuyên hoàn thành việc xây dựng nhà ở cho
học sinh nội trú dân nuôi, kết quả đã đảm bảo chỗ ở cho 2.400 học sinh,
đóng mới 1.200 giường tầng, huyện hỗ trợ 240 triệu đồng, nhân dân đóng
98
góp ngày công [168; tr. 6].
Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên. Năm học 2001 - 2002, tỉ
lệ huy động trẻ đến trường (6-14) đạt 98.84%, tăng 1.8% so với năm học
2000-2001. Năm học 2000 - 2001, tỉ lệ học sinh tiểu học chuyển lớp đạt
88.16% (tăng 2% so với năm học trước), tỉ lệ tốt nghiệp đạt 99.6% (tăng
1.6% so với năm học trước); trung học cơ sở chuyển lớp 99.1%, tốt nghiệp
91.3%; khối trung học phổ thông chuyển lớp 83.3%, tốt nghiệp 86.3%.
Cũng trong năm học 2000 - 2001, ngành giáo dục huyện đã xóa mù
chữ cho 552 học viên, sau xóa mù chữ cho 985 học viên, phổ cập giáo dục
tiểu học 641 học viên, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở ở 3 xã Đạo Đức,
Việt Lâm, Phương Thiện nâng tổng số xã được phổ cập giáo dục trung học
cơ sở của huyện Vị Xuyên lên 5 xã, thị trấn [162; tr. 7]. Năm 2003, huyện
tiến hành phổ cập giáo dục tiểu học cho 570 học viên, trung học cơ sở 2.329
học viên, hoàn thành chương trình phổ cập trung học cơ sở ở 13 xã, nâng
tổng số xã được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học lên 22/23 xã, thị trấn
của huyện. Đến năm 2004, toàn bộ 23/23 xã, thị trấn của Vị Xuyên được
công nhận là hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở [164; tr. 10, 165;
tr. 7]. Đây là một thành tích nổi bật trong công tác giáo dục của huyện Vị
Xuyên trong nhiều năm qua.
Những năm tiếp theo, công tác giáo dục của huyện Vị Xuyên tiếp tục
phát huy những thành tựu đã đạt được đồng thời đưa giáo dục gặt hái thêm
nhiều thành công mới, với việc thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng dạy
và học qua các phong trào lớn trong toàn ngành đó là cuộc vận động “2
không” với 4 nội dung “không tiêu cực trong thi cử, không bệnh thành tích
trong giáo dục, không vi phạm đạo đức nhà giáo, không có học sinh ngồi
nhầm lớp”. Năm 2006, toàn huyện đã có 79 đơn vị trường học (tăng 1 đơn
vị so với giai đoạn trước) [167; tr. 7]. Hằng năm tỉ lệ chuyển lớp của học
sinh các cấp đều đạt trên 90%. Đối với các khối học sinh khác các chỉ tiêu
phấn đấu đều vượt, chẳng hạn trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 95% vượt 5.2% kế
hoạch giao, từ 6-14 tuổi đến trường đạt 99% [168; tr. 6]. Nhờ sự nỗ lực của
99
thầy và trò trong việc nâng cao chất lượng dạy và học, tỷ lệ tốt nghiệp của
khối học sinh trung học phổ thông được dần nâng cao, năm 2009 là 77.33%
(so với năm học 2006 - 2007, năm đầu tiên thực hiện cuộc vận động 2
không, tỉ lệ tốt nghiệp là 50%) [170; tr. 6]. Đến năm 2010, các chỉ tiêu phấn
đấu hằng năm của ngành giáo dục đều đạt ở mức cao trên 90%. Cụ thể như
sau: tỉ lệ trẻ từ 3-5 tuổi đến lớp 94.6% (tăng 2.1%), trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo
đạt 98.7%, trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99.03%, trẻ từ 6-14 tuổi đến trường đạt
99%; kết quả tốt nghiệp bậc trung học phổ thông đạt 97.4%, trung học phổ
thông hệ bổ túc đạt 97.7% [173; tr. 9].
Chất lượng đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng cao, đạt và vượt
chuẩn. Năm 2009, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn đối với bậc mầm
non là 99,73%, bậc tiểu học là 100%, trung học cơ sở là 95,24%. Số giáo
viên dạy giỏi cấp huyện là 208 người, cấp tỉnh 13 người [170; tr. 6]. Năm
2010, giáo viên giỏi cấp huyện có 233 và cấp tỉnh là 10 giáo viên. Tỷ lệ học
sinh giỏi bậc tiểu học đạt 10,08%, trung học cơ sở 1,05%; học sinh khá bậc
tiểu học 23,87%, trung học cơ sở 16.73%; học sinh giỏi cấp tỉnh có 41 em, 2
em dự thi học sinh giỏi quốc gia. Huyện Vị Xuyên tiếp tục duy trì và giữ
vững phổ cập giáo dục trung học cơ sở tại 24/24 xã, thị trấn, phổ cập giáo
dục đúng độ tuổi tại 23/24 xã, thị trấn [173; tr. 9].
Về đào tạo, từ năm 2005, công tác này được chú trọng phát triển nhằm
đáp ứng nhu cầu việc làm cho người lao động tại địa phương, nhất là công
tác đào tạo nghề ngắn hạn, trung hạn. Huyện đã phối hợp với trung tâm xúc
tiến việc làm của tỉnh Hà Giang, Hội nông dân và Đoàn thanh niên của
huyện tổ chức 13 lớp đào tạo dạy nghề, trong đó sửa chữa xe máy 8 lớp, đồ
mộc 2 lớp, may đo 2 lớp, kỹ thuật trồng lúa 1 lớp với 539 học viên tham gia.
Bên cạnh đó, huyện Vị Xuyên kết hợp với trường công nhân kỹ thuật lâm
nghiệp Trung ương 1 đào tạo khuyến nông lâm (hệ chính quy khóa 2005-
2007) cho 148 cán bộ xã thị trấn và cán bộ khuyến nông thôn bản [166; tr.
8-9]. Công tác đào tạo nghề ngắn hạn được chú trọng đối với các đối tượng
lao động nông thôn. Ngoài các lớp đào tạo về kỹ thuật nông nghiệp, lâm
100
nghiệp huyện đã phối hợp với một số trường như trường Trung cấp nghề Cơ
điện và Kỹ thuật nông lâm Đông Bắc, trường Đại học nông lâm Thái
Nguyên đào tạo chuẩn hóa trình độ cán bộ các cơ quan, ban ngành và các
xã, thị trấn của huyện.
3.3.2. Y tế
Lĩnh vực y tế ở huyện Vị Xuyên đã có những bước tiến đáng kể. Chất
lượng chăm sóc sức khỏe người dân được coi trọng hàng đầu và đã được
nâng lên rõ rệt. Lực lượng bác sĩ tham gia khám bệnh ở cơ sở được tăng lên,
nhiều phương tiện máy móc mới được trang bị tại các cơ sở y tế của huyện.
Năm 2001, 53 cán bộ y sĩ được bổ sung về cơ sở. năm 2002 toàn huyện có
223/226 thôn bản có cán bộ y tế + túi thuốc, có 6 bác sĩ ở 6 xã (26%) [162; tr.
7, 163; tr. 5]. Năm 2004, trên địa bàn huyện Vị Xuyên mới chỉ có 3 xã, thị
trấn được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế là thị trấn Việt Lâm, xã Việt
Lâm, xã Trung Thành; đến năm 2008, với việc thêm 2 xã mới được công
nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế là Phú Linh, Thanh Đức, nâng tổng số xã
đạt chuẩn lên 22 xã, thị trấn [169; tr. 6] và năm 2010 toàn huyện có 23/24
xã, thị trấn được công nhận là xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tỷ lệ bác sĩ
công tác tại các xã trong toàn huyện đạt 30% [165; tr. 7].
Bằng việc đẩy mạnh các chương trình mục tiêu về y tế quốc gia, nhiều
căn bệnh đã được đẩy lùi, tình hình sốt rét về căn bản đã được kiểm soát,
không có các ổ dịch mới phát sinh. Năm 2001, đã kịp thời phát hiện và dập
tắt kịp thời dịch sởi xảy ra ở một số xã như Lao Chải, Bạch Ngọc. Số trẻ từ 0
đến 5 tuổi được tiêm và uống đủ 6 loại vắcxin là 1.645 cháu (tăng 1.2% so
với kế hoạch đặt ra), tỉ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng có giảm nhẹ và ở mức
32.64% (giảm 1.61%) [162; tr. 7]. Tỉ lệ tiêm chủng mở rộng cho trẻ em đạt
1.508/1.583 cháu (95.3%). Năm 2008, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng của
huyện Vị Xuyên đã giảm xuống còn 20,15%, giảm so với cùng kỳ năm 2007
là 1,47%; đến năm 2010, tỉ lệ này đã giảm xuống còn 18.73%,
Các hoạt động y tế giúp đỡ người nghèo ngày càng được mở rộng và
101
đã mang lại hiệu quả thiết thực. Năm 2004, ngành y tế huyện đã khám chữa
bệnh cho trên 5.000 lượt người nghèo với kinh phí sử dụng trên 100 triệu
đồng; năm 2005 con số này tăng lên đến 40.230 lượt người với kinh phí sử
dụng lên đến 1.3 tỷ đồng [165; tr. 7, 166; tr. 9]. Công tác chăm sóc sức khỏe
cộng đồng được triển khai tại 9 xã: Trung Thành, Thuận Hòa, Phương Độ,
Ngọc Linh, Cao Bồ, Bạch Ngọc, Việt Lâm, Đạo Đức, Linh Hồ cho 6.519
lượt người [166; tr. 9].
Với việc tuyên truyền sâu rộng về kế hoạch hóa gia đình, hằng năm tỉ
lệ gia tăng dân số tự nhiên của huyện Vị Xuyên đều giảm dần, năm 2005 tỉ
lệ tăng dân số là 1.34% giảm 0.04% so với năm 2004 [166; tr. 9]. Năm 2006,
tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của huyện giảm xuống còn 1,28% và đến năm 2010
giảm còn 1.2%.
Bên cạnh đó, ngành y tế huyện Vị Xuyên cũng làm tốt công tác nâng
cao năng lực giám sát dịch tễ, chủ động phòng chống các loại dịch bệnh.
Công tác kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm được tăng cường, không để
phát sinh các loại dịch bệnh và không để xảy ra ngộ độc thực phẩm. Song
song với đó là thực hiện việc rà soát, kiện toàn, củng cố đội ngũ cán bộ y tế,
nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân, quản lý tốt hoạt động y,
dược tư nhân đảm bảo kinh doanh theo đúng pháp luật.
Giai đoạn này, các dự án chăm sóc sức khỏe cộng đồng được thực hiện
tốt như dự án phòng chống lao, sốt rét, chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng
chống HIV/AIDS... Công tác phối kết hợp quân dân y được đặc biệt chú
trọng, nhất là tại các xã biên giới [173; tr. 8].
3.3.3. Xóa đói giảm nghèo và lao động xã hội
Do điều kiện là một huyện miền núi có vị trí chiến lược không chỉ đối
với tỉnh Hà Giang, mà còn đối với khu vực Đông Bắc, huyện Vị Xuyên
được sự quan tâm đặc biệt của các cấp chính quyền từ tỉnh đến Trung ương.
Trong nhiều năm qua, huyện Vị Xuyên được hưởng lợi hầu hết các chương
102
trình, dự án phát triển khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã và
đang triển khai ở khu vực miền núi phía Bắc. Kết quả thực hiện các chính sách
của Trung ương đã tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ, làm thay đổi đời sống của
nhân dân khu vực miền núi, đặc biệt là sự chuyển biến tích cực của công tác
xóa đói giảm nghèo, trong đó có huyện Vị Xuyên.
Năm 2000, tỷ lệ hộ nghèo ở huyện Vị Xuyên là 14,4%, tuy nhiên tỷ lệ
này trên địa bàn huyện rất không đồng đều. Các xã ở khu vực trung tâm, gần
đường quốc lộ, nhưng nơi có địa hình thuận lợi tỷ lệ hộ nghèo khá thấp.
Trong khi đó, hộ nghèo tập trung ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số là vùng các xã đặc biệt khó khăn, các xã thuộc chương trình
135. Cho đến năm 2008, Ngọc Minh là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất, chiếm
56,05%; Minh Tân: 38,69%; Lao Chải: 37,67%; Thuận Hòa: 36,58%; Xín
Chải: 33,13%. Ở hai thị trấn và các xã vùng thấp tỷ lệ hộ nghèo rất thấp: thị
trấn Vị Xuyên là 2,97%, xã Việt Lâm: 5,79%, thị trấn Việt Lâm: 7,25%, xã
Phú Linh: 11,64%. Ở những xã khó khăn nói trên, điều kiện giao thông trở
ngại, cơ sở hạ tầng hầu như rất kém, khả năng tiếp cận các dịch vụ công hết
sức khó khăn. Mặt khác, người dân ở đây phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu
số, mặt bằng dân trí vẫn là một rào cản đáng kể trong quá trình thực hiện xóa
đói giảm nghèo.
Với việc triển khai các chương trình, dự án lớn của Chính phủ nhằm
nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng biên, đẩy mạnh xóa đói
giảm nghèo, những khó khăn của huyện Vị Xuyên đã được giải quyết tương
đối căn bản. Kết quả thực hiện các chương trình dự án đều hoàn thành chỉ
tiêu đề ra, nhiều công trình giao thông, trường học, thủy lợi, nước sạch đã
đưa vào sử dụng phục vụ cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó, sản xuất
kinh tế được thuận lợi, dân trí tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân được cải thiện đáng kể. Ngoài yếu tố nguồn vốn hỗ trợ từ Chính
phủ thông qua các Chương trình, dự án phát triển, thì vai trò của địa phương
mà quan trọng nhất chính là vai trò của hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền
103
cấp huyện, xã đóng vai trò then chốt cho việc đảm bảo thành công trong
việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xóa đói
giảm nghèo. Có thể nói, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ địa phương là một nhân
tố hết sức quan trọng, để việc triển khai thực hiện các chính sách về xóa đói
giảm nghèo trên địa bàn huyện Vị Xuyên có được những thành công.
Những chuyển biến tích cực của kinh tế huyện Vị Xuyên đã tác động
tích cực đến mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế khá cao
cùng với chuyển biến tích cực trong thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo
hướng nâng cao tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ, đã tạo ra nhiều việc
làm, tăng thu nhập cho người dân. Đời sống nhân dân qua từng năm được
nâng lên rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng, năm 2010 đạt 9,65 triệu đồng [173; tr. 1] tăng 5,15 triệu đồng so với năm 20052 và 7,8 triệu đồng so với năm 20003. Năm 2003, huyện Vị Xuyên đã xóa được 572
hộ nghèo (tương đương 3,4% số hộ) đưa số hộ nghèo toàn huyện xuống còn
1.142 hộ [164; tr. 11].
Thực hiện Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang,
huyện Vị Xuyên đã triển khai sâu rộng các nội dung chương trình của nghị
quyết tới các cơ sở và tiến hành xây dựng phương án xóa đói giảm nghèo
tùy theo điều kiện thực tế từng xã, phân công các ngành, các cấp và cá nhân
đỡ đầu hộ nghèo. Cũng với nỗ lực của địa phương, ngành lao động của tỉnh
cũng hỗ trợ bà con nhân dân trong nguồn vốn vay. Năm 2003, Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội Hà Giang đã triển khai chương trình cho vay vốn
nuôi dê tại xã Phong Quang (9150 con), Thuận Hòa (100 con); thực hiện
chương trình hỗ trợ 300 con dê cho hộ nghèo ở 5 xã biên giới. Chương trình
vay vốn nuôi trâu bò hàng hóa được giải ngân với 1.500 con [164; tr. 11].
Trong 5 năm (từ 2001 đến 2005) với chính sách hỗ trợ người nghèo về
tư liệu sản xuất, huyệnVị Xuyên đã huy động 859,2 triệu đồng hỗ trợ cho
2 Năm 2005, thu nhập bình quân đầu người/năm của huyện Vị Xuyên là 4.500.000 đồng [166; tr. 1]. 3 Năm 2000, thu nhập bình quân đầu người/năm của huyện Vị Xuyên là 1.850.000 đồng [161; tr. 1].
104
2.440 hộ nghèo và cận nghèo có thêm tư liệu để tăng gia sản xuất. Đồng
thời quy hoạch và phân bố lại quỹ đất tạo điều kiện cho nông dân phát triển
sản xuất, hỗ trợ di dân biên giới cho 20 hộ (Minh Tân 10 hộ, Thanh Thuỷ 10
hộ). Thực hiện miễn giảm thuế đất nông nghiệp cho người nghèo, năm 2006
miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho 3282 lượt hộ, với diện tích
được miễn giảm là 20,4 ha. Song song với những chính sách hỗ trợ về tư
liệu sản xuất và giảm thuế đất nông nghiệp các chính sách giáo dục, dạy
nghề nâng cao dân trí; các chính sách về y tế; chính sách hỗ trợ về văn hoá
thông tin và an ninh xã hội cũng được triển khai thực hiện tích cực. Đối với
các đồng bào đặc biệt khó khăn, bên cạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng,
huyện còn hỗ trợ cho bà con bằng cách lồng ghép các chương trình khuyến
nông, khuyến lâm, hỗ trợ giống, phân bón, trâu bò, vay vốn ngân hàng.
Từ năm 2001 đến năm 2005, huyện Vị Xuyên đã thực hiện một số dự
án nhằm xóa đói giảm nghèo và đã đạt được kết quả đáng kể, như:
- Dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng: Bằng cách lồng ghép các nguồn
vốn kết hợp với nội lực của huyện theo phương châm “Nhà nước và nhân
dân cùng làm”, tất cả các xã, thị trấn trong huyện được đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng với tổng số vốn 55212 triệu đồng. Trong đó: Tổng số công trình
giao thông là 29 công trình, số phòng học cao tầng là 42 trường; số xã, thị
trấn có trạm y tế cao tầng là 20 xã; đầu tư xây dựng được 87 công trình
nước sinh hoạt, 90 công trình thuỷ lợi, kiên cố hoá 34.744 km kênh mương.
- Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất và phát triển ngành nghề; cách làm
ăn, khuyến nông, khuyến lâm: Trong 5 năm, huyện đã trích ngân sách hỗ trợ
cho 63282 lượt hộ với số kinh phí là 7 tỉ đồng để thực hiện 7 chương trình
nông nghiệp trọng tâm như hỗ trợ lãi suất vay mua trâu, bò, dê, máy nông
nghiệp, thâm canh cây trồng; hỗ trợ giống cây trồng cho phân bón, phát
triển ngành nghề, ..., theo hướng sản xuất hàng hoá. Tổ chức được 13 lớp
tập huấn kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh cho 481 lượt người.
- Dự án tín dụng cho người nghèo: 28.270 hộ nghèo được trợ giúp cho
105
vay vốn với tổng số tiền 60,720 tỷ đồng, đáp ứng ngày càng đầy đủ nguồn
phát triển sản xuất xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. Năm 2006 tổng
số vốn tín dụng 144,604 tỷ đồng. Doanh số cho vay hộ nghèo năm 2006 là:
10,84 tỷ đồng, với 11647 hộ (cho vay bình quân 7.000.000 đồng/hộ).
- Dự án định canh, định cư, di dân, kinh tế mới: huyện đã hỗ trợ di dân
cho 255 hộ; định canh, định cư được 1.947 hộ, hạ sơn được 238 hộ, hỗ trợ
khai hoang phục hoá cho 50 hộ nghèo có ruộng nương để sản xuất, phát
triển kinh tế; tiếp tục tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để người dân
yên tâm định cư phát triển sản xuất.
- Dự án hỗ trợ pháp lý và đào tạo cán bộ cho người nghèo: đã hướng
dẫn, hỗ trợ pháp lý cho người dân vùng sâu vùng xa. Thông qua các tác trợ
giúp pháp lý, nhiều việc đã được cộng tác viên tư vấn trợ giúp, giải quyết
thành công; tổ chức mở lớp đào tạo ngắn hạn được 8 lớp với 510 lượt cán
bộ tham gia.
Với sự góp sức chung lòng của toàn xã hội, công tác giải quyết việc
làm cho người lao động tại Vị Xuyên đã có kết quả tốt. Năm 2005 đã giải
quyết việc làm cho 4.362 lao động (đạt 234% so với kế hoạch giao), khuyến
khích người dân đi xuất khẩu lao động với số vốn vay là 2.1 tỷ đồng [166;
tr. 9]. Năm 2006, toàn huyện đã giải quyết việc làm cho 6.893 lao động
trong đó có 129 người xuất khẩu lao động, các lao động có việc làm trong
năm chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực xây dựng, khai thác và ngành nghề
thủ công. Nhờ công ăn việc làm được giải quyết nên số hộ nghèo trong
huyện ngày càng giảm rõ rệt. Đến cuối năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo của toàn
huyện còn 41,33% (theo tiêu chí mới) tương đương 7.557 hộ, giảm 865 hộ,
hộ giàu tăng 3%, khá tăng 10% [167; tr. 7]. Tốc độ tăng trưởng ngày càng
cao, số việc làm tạo ra ngày càng tăng, đời sống người dân ngày càng tốt lên
thì tỉ lệ hộ nghèo ngày càng giảm. Năm 2008, số hộ nghèo ở Vị Xuyên tiếp
tục giảm mạnh với 1.334 hộ, tỉ lệ hộ khá, giàu tăng nhanh đạt 27,3%. Toàn
huyện đã tạo ra 1.560 việc làm mới (tăng 16% so với 2007). Việc thực hiện
106
dự án cho vay vốn quốc gia hỗ trợ việc làm đạt 1.8 tỷ đồng (122% kế hoạch)
[169; tr. 6]. Đến năm 2010, huyện Vị Xuyên tiến hành ra soát lại hộ nghèo,
cận nghèo để phân loại theo tiêu chí mới, theo đó theo tiêu chí cũ Vị Xuyên
còn 15.59%, theo tiêu chí mới là 34.6% [173; tr. 10].
Nguồn: Xử lý từ báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hằng năm của UBND huyện Vị Xuyên
Hình 3.3. Tỷ lệ hộ nghèo (2000 - 2010) Hình 2. Tỉ lệ hộ nghèo 2000 - 2010
Tăng trưởng kinh tế đã làm cho tỷ lệ nghèo đói ở Vị Xuyên giảm đáng
107
kể. Đặc biệt từ năm 2005 đến 2010, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, năm 2005 có tỷ lệ gần 50% (theo tiêu chí mới)4 nhưng đến 2010 tỷ lệ này chỉ còn 15% 4 Chuẩn hộ nghèo qua từng giai đoạn có sự điều chỉnh, thay đổi. Giai đoạn 2001 - 2005 áp dụng theo Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ LĐ TB&XH, theo đó, mức thu nhập chuẩn hộ nghèo vùng nông thôn miền núi, hải đảo giai đoạn 2001 - 2005 là: 80.000 đồng/tháng, 960.000
(xem biểu đồ). Đây là một kết quả rất đáng ghi nhận và cần tiếp tục duy trì.
Kết quả đó phản ánh một phần bộ mặt kinh tế của Vị Xuyên trong những
năm gần đây.
Với sự đi lên về kinh tế, huyện Vị Xuyên có điều kiện hơn trong việc
chăm lo các đối tượng gia đình chính sách, thực hiện tốt công tác bảo vệ và
chăm sóc trẻ em, đền ơn đáp nghĩa, cứu nạn, phát huy tốt tinh thần tương
thân tương ái. Năm 2001, hỗ trợ chất lợp cho 995 hộ, gia đình khó khăn, trợ
giá 200 ti vi, trợ cấp 7,5 tấn gạo cho 134 hộ đói giáp hạt; tổ chức tập huấn
cho cán bộ xã về công tác xóa đói giảm nghèo [162; tr. 8]. Năm 2005, tổng
số tiền thăm hỏi, tặng quà các gia đình chính sách, các hộ đặc biệt khó khăn
trong các dịp lễ tết là 66,7 triệu đồng [166; tr. 9]. Năm 2008 đã hỗ trợ xóa
558 nhà tạm theo các chương trình, dự án lớn (riêng chương trình 134 là
515 nhà) [169; tr. 6]. Năm 2010, huyện Vị Xuyên triển khai thực hiện
chương trình hỗ trợ người nghèo làm nhà theo quyết định 167 được 500
ngôi nhà, hỗ trợ mua giường nằm cho 575 hộ nghèo, mua màn cho 1.420
hộ nghèo với số tiền 187.32 triệu đồng. Việc triển khai thu Quỹ xóa đói
giảm nghèo mang lại hiệu quả, năm 2010 đã thu được 134.895 triệu đồng
[173; tr. 10].
Với sự nỗ lực của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và sự hỗ trợ,
phát huy hiệu quả của các chương trình, dự án kinh tế - xã hội của Chính
phủ đã làm thay đổi bộ mặt của huyện Vị Xuyên, nhất là trong công tác
xóa đói giảm nghèo.
3.3.4. Thực hiện chính sách dân tộc
Việc thực hiện chính sách dân tộc ở huyện miền núi Vị Xuyên có nhiều
thành tựu, góp phần quan trọng trong việc ổn định và nâng cao đời sống
đồng/năm. Giai đoạn 2006 - 2010 áp dụng tiêu chẩn mới theo Quyết định 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó, khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
108
đồng bào thiểu số ở miền núi, nhất là khu vực biên giới.
Vấn đề dân tộc luôn được Đảng ta xác định có vị trí chiến lược quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Quan điểm nhất quán, xuyên
suốt của Đảng ta trong lãnh đạo thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân
tộc là: "Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng
và giúp nhau cùng phát triển" [61; tr. 70]. Vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn
quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc, đề ra nhiều chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc và miền núi.
Từ khi có Nghị quyết 22-NQ/TW, ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị
"Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi"
và tiếp đó là Quyết định số 72-HĐBT, ngày 13-3-1990 "Về một số chủ
trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi" của Hội đồng
Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thể chế hóa nghị quyết của Đảng, đã có rất
nhiều chính sách và chương trình hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số ra
đời. Phần lớn các chương trình Nhà nước tập trung vào hỗ trợ sinh kế và tạo
cơ hội xóa đói giảm nghèo như các chương trình 143, 135, 134.
Chương trình xóa đói giảm nghèo được thực hiện từ năm 1998 qua
Chương trình 133 với mục tiêu thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm dân tộc
và các khu vực địa lý thông qua việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cho các xã gặp khó khăn. Đến năm 2001, Chương trình 133 và 1205 được sáp
nhập thành Chương trình 143 với các mục tiêu cơ bản:
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10% và loại bỏ toàn bộ hộ đói.
- Đảm bảo các xã nghèo có được hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ như
thủy lợi quy mô nhỏ, trường học, trạm y tế, đường, điện, nước và chợ.
- Hằng năm tạo việc làm cho từ 1,4 đến 1,5 triệu lao động.
Mặc dù đây là chương trình quốc gia nhưng các bộ phận của chương
trình được thiết kế chủ yếu nhằm phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số
5 Chương trình 120 được thực hiện theo Quyết định 120/HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng với mục tiêu tạo việc làm và dạy nghề. Chương trình cung cấp tín dụng qua Quỹ Hỗ trợ việc làm Quốc gia.
109
như: các chính sách về giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số (nhập học,
học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số...), hỗ trợ các nhóm dân tộc đặc biệt
khó khăn và hỗ trợ tái định cư. Ngoài ra Chương trình 143, còn dành các
khoản tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trong việc hỗ trợ sản
xuất và mở rộng dịch vụ [123; tr. 32-33].
Chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa được thành lập theo Quyết định
135/1998/QĐTTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Thủ trường Chính phủ.
Giai đoạn đầu, Chương trình 135 chủ yếu nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các
xã đặc biệt khó khăn xuống dưới 25% vào năm 2005, tăng tỷ lệ trẻ em nhập
học lên đến 70%, mở rộng đào tạo cho người nghèo trong sản xuất, kiểm
soát dịch bệnh và cung cấp nước sạch, xây dựng đường và phát triển chợ
nông thôn. Người hưởng lợi từ Chương trình 135 chủ yếu là nhóm đồng bào
dân tộc thiểu số. Phần lớn các xã được hưởng lợi từ Chương trình 135 thuộc
khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống và chương trình này do Ủy
ban dân tộc chủ trì thực hiện. Ban đầu, Chương trình 135 có 5 thành phần:
xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các cụm trung tâm xã, tái định cư, hỗ
trợ sản xuất và đào tạo. Năm 2000, Chính phủ đã chuyển các hợp phần của
Chương trình 133 có liên quan đến hỗ trợ đồng bảo thiểu số gặp hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn và phát triển các cụm trung tâm xã ở khu vực miền núi
vào Chương trình 135. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ gia đình dân tộc thiểu
số được dịch chuyển từ Chương trình 143 sang Chương trình 135 vào năm
2001 [123; tr. 35].
Với sự đầu tư vốn lớn từ các chương trình, dự án phát triển kinh tế đối với
khu vực dân tộc thiểu số của Chính phủ, bộ mặt kinh tế của huyện Vị Xuyên từ
cuối những năm 90 thế kỷ XX đã có những chuyển biến tích cực và thực sự
khởi sắc từ những năm 2000.
Năm 2000, tổng nguồn vốn từ các chương tình, sự án đầu tư trên địa
bàn huyện Vị Xuyên lên đến trên 13,2 tỷ đồng, trong đó riêng đầu tư cho các
110
mục tiêu giáo dục và y tế là 2,234 tỷ đồng [161; tr. 2]. Kết quả thực hiện các
chương trình dự án này đều hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đề ra, nhiều công
trình giao thông, trường học, thủy lợi, nước sạch đã đưa vào sử dụng phục
vụ cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó, sản xuất kinh tế được thuận lợi,
dân trí tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện
đáng kể.
Đối với Chương trình 135, năm 2000 số vốn triển khai là 4,784 tỷ đồng
đầu tư cho 52 công trình; Dự án hỗ trợ các dân tộc thiểu số Hà Giang (dự án
HPM) có tổng vốn đầu tư năm 2000 là 2,703 tỷ đồng phân phối cho 25 công
trình thủy lợi; dự án ĐCĐC-661 đã tiến hành thực hiện bảo vệ rừng trên
12,2 nghìn ha (đạt 100% kế hoạch), trồng mới vượt 63,1% so với kế hoạch
[161; tr. 3].
Bên cạnh đó, chương trình nâng cao dân trí phổ cập giáo dục tiểu học,
nâng cao chất lượng dạy và học tiến hành đạt kết quả cao. Số trẻ từ 6 - 14
tuổi đến trường huy động đạt 97%, tăng 5% so với năm 1999, duy trì tốt các
lớp học sau xóa mù chữ. Các chính sách bảo đảm xã hội được triển khai kịp
thời và có hiệu quả. Chính quyền thường xuyên quan tâm đời sống của các
hộ dân chính sách, thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo. Đến năm
2001 đã xóa được 1.533 hộ đói, giảm 1.107 hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo đến
quý I năm 2001 là 14,4% [161; tr. 6].
Đến năm 2004, các công trình dự án thực hiện trên địa bàn huyện Vị
Xuyên được tập trung vào các khu vực trọng điểm, để nâng cao hiệu quả.
Thực hiện Chương trình 135, huyện tiến hành đầu tư vốn ở 33 công trình
(2 công trình mới, 31 công trình chuyển tiếp) với số vốn 6,5 tỷ đồng.
Chương trình xây dựng cụm trung tâm xã đã thực hiện tại 4 trung tâm với 8
công trình với số vốn 1,3 tỷ đồng [165; tr. 5].
Từ khi bước vào giai đoạn II của Chương trình 135 (2006 - 2010),
nguồn vốn đầu tư cho huyện Vị Xuyên ngày càng tăng, góp phần vào sự
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Trong 2 năm 2006, 2007, số
111
vốn đầu tư là gần 10,3 tỷ đồng, trong đó đào tạo cán bộ 540 triệu và hỗ trợ
học sinh hơn 700 triệu. Năm 2008, nguồn vốn này tăng lên gần 15,5 tỷ
đồng, năm 2009 hơn 22,3 tỷ đồng và năm 2010 trên 25 tỷ đồng [171; tr. 2].
Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã thực hiện được
nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong việc nâng cao đời sống
cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa cũng như tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh tế. Vị Xuyên cũng đã hoàn thành mục tiêu đưa
điện lưới quốc gia về khu vực trung tâm ở 100% xã ở vùng biên giới. Tuy
nhiên các xã thuộc khu vực III có dân cư sống rải rác chưa tập trung nên gây
rất nhiều khó khăn cho việc nâng cao tỷ lệ cung cấp điện cho các hộ gia
đình sử dụng.
Từ năm 2005 trở đi, huyện Vị Xuyên cùng với các huyện khác trong
tỉnh Hà Giang tiếp tục được đầu tư của Chính phủ theo Chương trình 134.
Chương trình này được được thành lập theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg
ngày 20 tháng 7 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ đất sản xuất,
đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời
sống khó khăn, với phương châm: nhà nước hỗ trợ, nhân dân đóng góp,
cộng đồng giúp đỡ. Chương trình này được sự hỗ trợ nhiều của chính sách
đất đai và lâm nghiệp (các hộ gia đình có thể khai thác gỗ và các sản phẩm
lâm nghiệp để làm nhà). Trong số các nhóm chính sách hỗ trợ, chính sách
phân bổ đất cho gia đình đồng bào dân tộc thiểu số là bộ phận quan trọng
nhất và được kỳ vọng là hỗ trợ phát triển kinh tế cho cộng đồng dân tộc
thiểu số [123; tr. 40-42]. Năm 2007, huyện đã tập trung nguồn vốn, xoá nhà
tạm, nhà dột nát cho 63 hộ nghèo ở hầu hết các xã. Nhiều “ngôi nhà 134” đã
được xây dựng với trị giá vượt mức hỗ trợ của nhà nước từ 7 đến 15 triệu
đồng (nhà nước hỗ trợ 5 triệu đồng). Có thể nói, đây là quyết định quan trọng,
thể hiện sựu quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo. Cùng với
Chương trình 135, Chương trình 134 được coi là cốt lõi của công cuộc xoá
112
đói giảm nghèo.
Bên cạnh đó, Chương trình dự án quốc phòng 313 triển khai trên địa
bàn huyện cũng đã góp phần củng cố công tác quốc phòng an ninh biên giới
và phát triển kinh tế - xã hội tại các xã vùng biên của huyện Vị Xuyên.
Đoàn kinh tế quốc phòng 313 được thành lập từ năm 2002, có chức năng,
nhiệm vụ tổ chức thực hiện dự án kinh tế quốc phòng trên địa bàn phía bắc
huyện Vị Xuyên gồm 4 xã biên giới là Thanh Thủy, Thanh Đức, Lao Chải, Xín
Chải, với 18 thôn bản, trong đó có 8 thôn bản giáp với biên giới Việt - Trung
có chiều dài biên giới hơn 28,7 km. Nơi đây, có gần 1.000 hộ dân với 5.300
nhân khẩu của 9 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó có những xã
như Lao Chải, 100% số hộ là đồng bào Mông; Xín Chải, 100% là dân tộc
Dao. Đây là 4 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, có địa hình phức tạp, giao
thông khó khăn, thời tiết khắc nghiệt, trình độ dân trí còn hạn chế, cơ sở vật
chất thiếu thốn, tỷ lệ hộ nghèo đều cao trên 35 %. Từ khi có Đoàn kinh tế
quốc phòng 313, không những tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn được giữ vững, mà nhiều hộ đã thoát nghèo. Những kết quả
khích lệ mà đoàn kinh tế quốc phòng mang lại đó là sự bố trí ổn định trong
vùng dự án, đời sống các dân tộc thiểu số được cải thiện, sản xuất phát triển,
điều kiện ăn, ở, sinh hoạt tốt hơn trước đây. Đơn cử như việc triển khai thực
hiện được 4 công trình thủy lợi (bản Phùng xã Lao Chải; Tả Ván, Nhì Sang
xã Xín Chải; Nậm Tà xã Thanh Đức) hỗ trợ cho 52 hộ nghèo với số tiền 260
triệu đồng, di dân ra khỏi biên giới 10 hộ với số tiền 200 triệu đồng [165; tr. 5].
Cùng với các chương trình, dự án đầu tư của Nhà nước trên địa bàn,
như chương trình 134, 135, 327, 661, 120..., từ năm 2002, Đoàn đã đầu tư
hơn 34 tỷ đồng cho vùng dự án, với mức đầu tư trung bình hơn 27 triệu
đồng/hộ; xây dựng và hoàn thành 10 công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu
cho 320ha ruộng; nước sinh hoạt cho 300 hộ, trong đó có 22 hộ dân thôn
Nam Giang (Thanh Thuỷ) được Đoàn hỗ trợ đầu tư thêm đường và bể chứa nước sinh hoạt; xây dựng lớp học, nhà ở cho giáo viên trên diện tích 250m2;
113
đầu tư trạm hạ thế, kéo đường điện cho hàng chục hộ nghèo; đầu tư hoàn
thiện một bệnh xá quân-dân y kết hợp tại xã Thanh Thuỷ, trung bình mỗi
năm khám chữa bệnh cho khoảng 2.000 lượt người. Đoàn kinh tế quốc
phòng 313 đã thực hiện dự án dãn dân ra vành đai biên giới được 75 hộ; hỗ
trợ hàng trăm con trâu, bò sinh sản cho đồng bào; hỗ trợ đồng bào trong khu
vực phát triển diện tích trồng cây thảo quả từ 150 ha lên 350 ha, trong đó có
gần 60 ha đã cho thu hoạch hiện đang mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đoàn
cũng phối hợp tham gia củng cố hệ thống chính trị cơ sở, trực tiếp tham
mưu cho chính quyền những vấn đề liên quan đến giữ gìn an ninh trật tự, an
ninh biên giới trên địa bàn; tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền những
giải pháp xoá đói giảm nghèo, cũng như việc triển khai các chương trình, dự
án; điều động cán bộ, chiến sỹ tham gia giúp đội ngũ cán bộ cơ sở nâng cao
năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị; hướng dẫn cho đội ngũ cán bộ thôn
bản biết cách xử lý công việc... Hiện nay cả 4 xã này của huyện Vị Xuyên
đều có Đảng bộ, xoá trắng chi bộ thôn; tỷ lệ hộ nghèo mạnh. Song song với
việc đầu tư hỗ trợ kinh tế, Đoàn 313 luôn chủ động phối hợp với chính
quyền địa phương tuyên truyền, vận động đồng bào hiểu rõ, nhận thức đúng
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước dành cho đồng bào;
phối hợp tổ chức các ngày lễ, tết, lễ hội nhằm khơi dậy niềm tự hào dân tộc,
tự hào về truyền thống tốt đẹp của đồng bào, từ đó khuyến khích đồng bào
tích cực lao động sản xuất, tiếp thu khoa học, đưa giống cây, con năng suất
cao vào gieo trồng, chăn nuôi. Đoàn cũng đã giao cho các đội sản xuất xây
dựng làm điểm các mô hình sản xuất để nhân dân học tập. Phần lớn các hộ
nghèo thiếu vốn đều được Đoàn hỗ trợ về các loại giống, phân bón, đảm bảo
kịp thời vụ gieo trồng. Bên cạnh đó, từ năm 2004, Đội sản xuất số 3 đã giúp
đỡ 20 hộ dân tộc Mông từ xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ hạ sơn về. Cán bộ,
chiến sỹ trong đội đã cùng bà con san lấp nền nhà, dựng nhà cửa, vận
chuyển đồ đạc, xây dựng đường nước, bể chứa nước... góp phần cho các hộ
114
đã định cư ổn định.
Hầu hết các chính sách đều gắn với công tác xóa đói giảm nghèo trên
địa bàn tỉnh nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, đều được
sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và của cả hệ thống chính trị.
Trong từng giai đoạn 5 năm một lần, tỉnh đều xây dựng kế hoạch giảm
nghèo cho từng giai đoạn cụ thể gồm: 1995-2000, 2001-2005, 2005-2010,
2011-2015. Hiện nay, huyện Vị Xuyên đã và đang thực hiện nhiều chương
trình giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2011-2015, trong đó có
chính sách dân tộc và miền núi, vùng dân tộc thiểu số khó khăn và đặc biệt
khó khăn, để giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo.
Có thể thấy, các chương trình đầu tư, hỗ trợ hệ thống cơ sở hạ tầng trên
địa bàn huyện Vị Xuyên nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói
riêng đã được cải thiện một cách cơ bản, đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào dân tộc thiểu số được nâng lên một bước.
Tuy vậy, là huyện miền núi có nhiều đồng bào thiểu số, tình hình tôn giáo
và dân tộc tiềm ẩn nhiều phức tạp, trong đó nổi lên là di dân tự do và truyền
đạo trái phép. Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo các lực lượng bộ đội địa
phương, công an và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở nắm bắt tình hình,
có biện pháp ứng phó kịp thời khi xảy ra những hiện tượng bất thường, ảnh
hưởng đến tình hình an ninh địa phương. Mặc dù có sự chủ động trong việc đối
phó nhưng ở một số xã, tình hình nói trên vẫn xảy ra. Năm 2006, một số xã
trong huyện Vị Xuyên xảy ra hiện tượng di cư tự do vào Tây Nguyên, cụ
thể: xã Bạch Ngọc: 28 hộ (139 khẩu), xã Trung Thành: 1 hộ (6 khẩu), xã
Linh Hồ: 2 hộ (16 khẩu) [167; tr. 8]. Năm 2008, có 13 hộ (69 khẩu) ở các xã
Lao Chải, Ngọc Linh, Bạch Ngọc, Thượng Sơn di cư tự do vào Đắk Lắk
[169; tr. 8]. Năm 2004, hiện tượng truyền đạo Tin Lành trái phép đã xảy ra
ở các thôn Ngọc Sơn, Khuổi Dò thuộc xã Bạch Ngọc: 96 hộ - 320 khẩu).
Cấp ủy, chính quyền địa phương và công an huyện đã nhanh chóng giải
quyết và ngăn chặn kịp thời [165; tr. 8]. Hiện tượng này đến năm 2006 lại
115
tái diễn ở các xã Thuận Hòa: 5 hộ (26 khẩu), Bạch Ngọc: 57 hộ (360 khẩu),
Tùng Bá: 11 khẩu [167; tr. 8]. Từ năm 2006 đến năm 2010, nhờ sự phối
hợp công tác của nhiều lực lượng, ban ngành đoàn thể, công tác tuyên truyền
có hiệu quả đồng thời nhận thức của đồng bào cũng tăng lên nên các hiện
tượng nói trên đã dần được đẩy lùi, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội được giữ vững.
3.4.5. Văn hóa, văn nghệ, thông tin và thể dục thể thao
Các hoạt động văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu
đời sống tinh thần ngày càng nâng cao của người dân. Ngoài các hoạt động
được tổ chức định kỳ mang tính chất tuyên truyền trong những ngày lễ hội của
địa phương, đất nước, hoạt động văn hóa được đi sâu vào đời sống thông qua
việc xây dựng quy ước làng văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa mới.
Từ năm 2001, Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên đã hướng dẫn và chỉ đạo
các xã, thị trấn triển khai thực hiện Nghị quyết 03 của Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện (khóa XX) về vệ sinh môi trường, đảm bảo không gian sống sạch sẽ,
lành mạnh có văn hóa. Các ngành văn hoá - thông tin, y tế huyện tiến hành
tuyên truyền, vận động người dân di dời chuồng trại gia súc ra xã nhà ở, xây
nhà vệ sinh đúng quy cách để đảm bảo môi trường sống lành mạnh. Đến
năm 2002, toàn huyện đã có 95% hộ thực hiện [163; tr. 6].
Các thôn, bản, làng đã chủ động và tích cực trong việc xây dựng quy chế
văn hóa của mình, năm 2001 đã có 186 làng văn hóa (vượt 3.3% kế hoạch)
tăng 76 làng so với năm 2000. Năm 2002, số làng văn hóa tăng lên 223 làng,
gia đình văn hóa mới là 3.351 hộ (tăng 12% so với kế hoạch). Năm 2001 có 30
làng văn hóa cấp tỉnh (vượt 7% kế hoạch), gấp 3.7 lần so với năm 2000. huyện
đã tổ chức thành công “làng vui chơi làng ca hát” tại xã Đạo Đức, thực hiện
120 thông tin lưu động vượt 20% kế hoạch và tăng 50% so với năm 2000.
Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa mới đã thực sự đi vào đời
116
sống, hằng năm số gia đình văn hóa, gia đình thể thao được công nhận tăng
lên. Ngành văn hóa huyện phối hợp với các xã tổ chức thành công liên hoan
văn nghệ quần chúng ở 7 cụm xã; tổ chức đăng ký công nhận lại sau 3 năm
2006-2009 thêm 45 làng văn hóa và 3.500 gia đình văn hóa, nâng tổng số
làng văn hóa và gia đình văn hóa trong toàn huyện lên 261 làng và 13.500
gia đình văn hóa. Đặc biệt, huyện tiến hành xây dựng đề án 2 làng văn hóa
du lịch ở thôn Bản Phố (xã Minh Tân) và thôn Khuổi Lác (xã Trung Thành).
Ngoài ra, riêng năm 2009, huyện Vị Xuyên đã tổ chức trên 150 buổi
văn nghệ quần chúng với 2.000 tiết mục phục vụ nhu cầu thưởng thức văn
nghệ cho người dân trong huyện; tổ chức 19 đêm văn nghệ “Vì người
nghèo” và chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước. Các hoạt động văn hóa
khác cũng được huyện Vị Xuyên chủ động đăng cai tổ chức như giải bóng
đá thiếu niên nhi đồng toàn tỉnh năm 2009, hội chợ thương mại huyện Vị
Xuyên, lễ hội chọi trâu truyền thống lần 3 năm 2009 [171, tr. 8].
Công tác chăm lo đời sống văn hóa tinh thần cho người dân ngày càng
phong phú, đa dạng. Ngoài các hoạt động văn hóa, văn nghệ thì các hoạt
động thông tin tuyên truyền lưu động được duy trì đều đặn với nội dung
phong phú để đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin của người dân. Năm 2005,
có 210 buổi thông tin lưu động được tổ chức, năm 2006 tổ chức được 230
buổi (vượt 10% kế hoạch). Hệ thống thư viện hoạt động ngày càng có chất
lượng, thu hút nhiều độc giả đến đọc và mượn sách. Thống kê cho thấy năm
2005, 2006 tổng số sách trong thư viện có 9.200 bản, độc giả mượn sách năm
2005 là 610 người, số bạn đọc là 1.000 lượt; năm 2006 tổng số độc giả tăng
lên 17.000 lượt [166; tr. 8, 167; tr. 6].
Hệ thống truyền thanh - truyền hình của huyện ngày càng được nâng
cấp và mở rộng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, nhất là các trạm phát lại
truyền hình ở các xã vùng sâu, vùng xa. Năm 2001, huyện Vị Xuyên đã
nâng diện phủ sóng phát thanh truyền hình toàn huyện lên 80%, tiếp âm
117
truyền thanh 5.260 giờ, tiếp âm phát sóng FM 4.020 giờ, sóng truyền hình
1.820 giờ [162; tr. 8]. Năm 2002, huyện Vị Xuyên cho lắp đặt và đưa vào sử
dụng 3 trạm truyền thanh ở các xã Việt Lâm, Quảng Ngần và thị trấn Việt
Lâm nhờ đó đã làm tốt công tác tiếp sóng truyền hình đáp ứng nhu cầu nghe
nhìn của nhân dân, phục vụ tốt công tác tuyên truyền của cấp ủy đảng, chính
quyền. Năm 2003, với sự nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất phát thanh
truyền hình nên diện phủ sóng trong huyện được nâng lên 86% [164; tr. 11].
Hằng năm tổng số giờ phục vụ của hệ thống phát thanh, truyền hình huyện
Vị Xuyên được nâng lên và duy trì ổn định: Năm 2003, số giờ tiếp sóng là
20.503 giờ (đạt 100% kế hoạch), thông tin địa phương đạt 4.200 giờ, tiếp
sóng FM 5.720 giờ [164; tr. 11]; năm 2005, tiếp âm Đài Tiếng nói Việt
Nam, đài tỉnh 2.364 giờ, tiếp sóng Đài Truyền hình Việt Nam (các kênh
VTV1, 2, 3) được 12.114 giờ, trạm phát lại truyền hình 18.440 giờ; năm
2006 tiếp âm Đài Tiếng nói Việt Nam, đài tỉnh 7.257 giờ (128% kế hoạch),
sóng FM tuyến xã được 4.565 giờ, tiếp sóng Đài Truyền hình Việt Nam
13.009 giờ [166; tr. 8, 167; tr. 6]. Hệ thống đài phát thanh, truyền hình đã
hoạt động hiệu quả trong việc xây dựng các chuyên mục tuyên truyền, phổ
biến gương điển hình, gương người tốt, việc tốt trong học tập, công tác lao
động và sản xuất, thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”. Bên cạnh nhiệm vụ tiếp âm, tiếp sóng truyền hình
trung ương và của tỉnh phục vụ nhu cầu người dân, đài huyện đã chủ động
trong xây dựng các chương trình của mình. Năm 2010, Đài phát thanh -
truyền hình Vị Xuyên đã xây dựng được 43 chương trình địa phương và 6
chuyên trang phát trên sóng FM tỉnh, 3 phóng sự truyền hình và 1 chương
trình truyền thanh tham dự liên hoan truyền thanh - truyền hình tỉnh Hà
Giang [173; tr. 10].
Bên cạnh đó các hoạt động thể dục thể thao cũng được đẩy mạnh khắp cả
khu vực thị trấn và nông thôn, nhất là các môn thu hút đông đảo người xem
118
như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông [162; tr. 7, 163; tr. 6]. Năm 2006, số
người tham gia các hoạt động thể dục thể thao là 21.000 lượt (năm 2005 là
18.000 lượt), số gia đình thể thao là 920 hộ, toàn huyện có 490 đội thể thao cơ
sở, 250 đội văn nghệ quần chúng [167; tr. 6].
Tiểu kết chương 3
Trong giai đoạn 2001 - 2010, điểm nổi bật của kinh tế huyện Vị Xuyên
chính là việc duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định. Đây
là cơ sở, điều kiện quan trọng để huyện Vị Xuyên có thể thực hiện được các
mục tiêu kinh tế - xã hội khác. Những chuyển biến tích cực của kinh tế
huyện Vị Xuyên đều gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành một cách hợp lý. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ
trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch
vụ. Đến năm 2010, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng vươn lên đứng hàng đầu
trong tỷ trọng GDP với 46,6%, thương mại dịch vụ chiếm 23,5%, nông - lâm
nghiệp chỉ còn 29,9% .
Tăng trưởng kinh tế khá cao cùng với chuyển biến tích cực trong thay
đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng nâng cao tỷ trong khu vực công
nghiệp, dịch vụ, đã tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Đời
sống nhân dân qua từng năm được nâng lên rõ rệt.
Về xã hội, bước sang giai đoạn 2001-2010, cùng với những bước đổi mới
của tỉnh, các mặt đời sống xã hội trên địa bàn huyện Vị Xuyên đã từng bước
phát triển: các hình thức giáo dục, đào tạo ngày càng được mở rộng, quy mô
trường lớp ngày càng được cải thiện đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu học tập của người dân. Hệ thống y tế ngày càng được củng cố
đảm bảo việc khám và chữa bệnh cho người dân tại địa phương, ngăn chặn và
đẩy lùi các loại bệnh dịch, nâng cao sức khỏe cho người dân. Điểm nhấn đáng
chú ý trong đời sống xã hội huyện Vị Xuyên giai đoạn 2001 - 2010 là đã đẩy
119
mạnh nâng cao quy mô, chất lượng của giáo dục và y tế. Trong giai đoạn này,
giáo dục huyện Vị Xuyên đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở cho
toàn bộ các xã, thị trấn. Y tế đã có nhiều cố gắng vượt bậc với 100% xã, thị
trấn được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đây là hai thành tựu nổi bật và
có bước chuyển biến rõ nét, hơn hẳn so với giai đoạn 1986 - 2000. Bên cạnh
đó, huyện Vị Xuyên cũng đạt một số kết quả về mặt xã hội, đáng kể là tỷ lệ hộ
nghèo giảm mạnh. Huyện Vị Xuyên đã và đang thực hiện đầy đủ các chính
sách của Đảng, Nhà nước dành cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số gồm:
chính sách đầu tư và sử dụng nhân lực, chính sách đầu tư phát triển bền
vững, chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, chính sách cán bộ người
dân tộc thiểu số, chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số,
chính sách phát triển thể dục - thể thao, chính sách phát triển du lịch, chính
sách bảo tồn và phát triển văn hóa… Có thể nói, công tác thực hiện chính
sách dân tộc là một điểm sáng mà huyện Vị Xuyên đạt được trong giai đoạn
2001 - 2010. Trước đó, những chính sách về dân tộc vẫn thực hiện những
chưa toàn diện và nguồn lực chưa đầu tư nhiều như giai đoạn sau.
Tuy vậy, là huyện miền núi có nhiều đồng bào thiểu số sinh sống, tình
hình tôn giáo và dân tộc tiềm ẩn nhiều phức tạp, trong đó nổi lên là di dân tự
do và truyền đạo trái phép. Đảng bộ và chính quyền huyện Vị Xuyên cùng
các lực lượng bộ đội địa phương, công an và các đoàn thể chính trị - xã hội
ở cơ sở nắm bắt tình hình, có biện pháp ứng phó kịp thời khi xảy ra những
120
hiện tượng bất thường, ảnh hưởng đến tình hình an ninh địa phương.
CHƯƠNG 4
NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
4.1. Nhận xét
4.1.1 Sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên tương đối
rõ nét qua hai giai đoạn phát triển: giai đoạn 1986-2000 và 2001-2010.
Giai đoạn đầu (1986-2000), nền kinh tế của huyện còn phát triển chậm
cũng như cơ cấu các ngành khá giản đơn, chủ yếu là nông - lâm nghiệp,
trong đó ngành chăn nuôi được đầu tư phát triển.
Kinh tế huyện Vị Xuyên trong những năm đầu đổi mới gặp rất nhiều
khó khăn do cơ sở hạ tầng yếu kém, điều kiện về tự nhiên, dân cư phức tạp,
hậu quả của chiến tranh biên giới để lại nặng nề ảnh hưởng rất nhiều đến đời
sống của người dân vùng biên cũng như công tác khôi phục, phát triển sản
xuất. Bên cạnh đó, trong điều kiện khó khăn chung của cả nước và tỉnh Hà
Tuyên (từ 1991 trở đi là tỉnh Hà Giang), sự đầu tư hỗ trợ phát triển từ trên
xuống cho Vị Xuyên trong những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90
(thế kỷ XX) còn rất hạn chế. Sự khó khăn của nền kinh tế thể hiện hầu như
trên tất cả các lĩnh vực từ cơ sở hạ tầng cho đến sự nghèo nàn về cơ cấu mặt
hàng nông sản, kinh tế gần như tập trung vào nông nghiệp. Vì vậy, đến đầu
những năm 90, nền kinh tế và đời sống xã hội của huyện Vị Xuyên nhìn chung
vẫn còn thấp kém. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế diễn ra chậm, nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Các ngành
kinh tế tập trung hướng vào nhiệm vụ đảm bảo tự túc về lương thực, thực
phẩm, ổn định đời sống nhân dân. Sự tăng trưởng của nông nghiệp không
cao và khá đơn điệu về cơ cấu, phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan,
121
chủ yếu độc canh cây lúa, ngô và mang tính tự cung tự cấp.
Sự khởi sắc của nền kinh tế thực sự có biểu hiện rõ nét từ cuối những
năm 90 của thế kỷ XX khi Đảng bộ và chính quyền huyện quyết liệt trong
việc đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp. Một số chương trình, dự án do Chính phủ đầu tư,
hỗ trợ đã có tác dụng tích cực đến xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế cũng như
thực hiện các mục tiêu xã hội nên bộ mặt của huyện ngày càng khởi sắc
hơn, tạo tiền đề cho giai đoạn sau có điều kiện phát triển.
Đến giai đoạn 2001 - 2010, kinh tế huyện Vị Xuyên đã có sự chuyển
biến mạnh mẽ trên tất cả các phương diện so với giai đoạn trước: cơ cấu
ngành nghề được đa dạng, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong GDP của huyện; sản phẩm của lĩnh vực
nông - lâm nghiệp được đa dạng hóa theo hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng
nhu cầu thị trường; tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ổn định ở mức
tương đối cao.
Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đều được
duy trì trên 12%/năm. Tốc độ tăng trưởng cao cùng với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách hợp lý đã làm cho nền kinh tế huyện Vị
Xuyên ngày càng khởi sắc. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm
dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây
dựng và dịch vụ. Năm 2000, tỷ trọng khu vực nông nghiệp chiếm 58,5%,
lĩnh vực dịch vụ chiếm 23,5%, công nghiệp - xây dựng chiếm 18%, đến
năm 2010, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng vươn lên đứng hàng đầu trong
tỷ trọng GDP với 46,6%, thương mại dịch vụ chiếm 23,5%, nông - lâm
nghiệp chỉ còn 29,9%.
Từ năm 2000 đến năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Vị Xuyên
122
tăng bình quân 11,65%, từ 2006 đến 2010 bình quân là 16%. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế mà Vị Xuyên đạt được cao hơn mức tăng trưởng chung của
cả tỉnh (12,5%) và nhiều huyện khác.
Tăng trưởng kinh tế khá cao cùng với chuyển biến tích cực trong thay
đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng nâng cao tỷ trong khu vực công
nghiệp, dịch vụ, đã tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Đời
sống nhân dân qua từng năm được nâng lên rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu
người liên tục tăng, năm 2010 đạt 9,65 triệu đồng, tăng 5,15 triệu đồng so
với năm 2005 và 7,8 triệu đồng so với năm 2000. Đây là cơ sở, điều kiện
quan trọng để huyện Vị Xuyên có thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế -
xã hội khác. Những chuyển biến tích cực của kinh tế huyện Vị Xuyên đã tác
động tích cực đến mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho
đồng bào dân tộc thiểu số.
Sự tăng trưởng kinh tế có nhiều nguyên nhân, trong đó có nhân tố quan
trọng là sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế sang khu vực sản xuất công
nghiệp và dịch vụ, nhất là các cơ sở kinh tế tư nhân. Ngày càng có nhiều cơ
sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn Vị Xuyên ra đời và phát triển. Năm
2001, huyện Vị Xuyên có 508 đơn vị, 2002 có 500 đơn vị, 2003 có 548 đơn
vị và 2004 có 547 đơn vị. So với các huyện khác trong tỉnh Hà Giang thì Vị
Xuyên chỉ xếp sau Bắc Quang về số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp
[36; tr. 112]. Giá trị sản xuất công nghiệp của Vị Xuyên cũng luôn thuộc
nhóm cao nhất tỉnh. Giai đoạn 2001-2004, Vị Xuyên luôn xếp thứ ba toàn
tỉnh về giá trị sản xuất công nghiệp, nhưng nếu phân tích kỹ thì nhóm doanh
nghiệp ngoài quốc doanh lại đứng thứ nhất toàn tỉnh [36; tr. 116]. Đến giai
đoạn 2005-2008, giá trị sản xuất công nghiệp của Vị Xuyên chỉ còn thấp
hơn thị xã Hà Giang, còn lại đã vượt xa so với các huyện khác trong tỉnh
123
[45; tr. 156-157].
4.1.2. Ngành kinh tế nông - lâm nghiệp đã chuyển dịch từ ngành kinh
tế trọng tâm, chủ đạo, được ưu tiên hàng đầu sang ngành kinh tế trọng tâm
sau kinh tế công nghiệp và thủ công nghiệp.
Từ sau năm 2000 trở lại đây, cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp của
huyện Vị Xuyên đã chuyển biến mạnh mẽ từ thuần nông, tự cung, tự cấp
sang sản xuất hàng hóa gắn với thị trường. Huyện Vị Xuyên đã đẩy mạnh
việc đa dạng hóa các mặt hàng nông sản, phát triển mạnh sản xuất lương
thực, tích cực mở rộng các mô hình chăn nuôi nhằm tự chủ về mặt lương
thực, từng bước xóa đói và giảm nghèo.
Tuy tỷ trọng GDP của ngành nông - lâm nghiệp, thủy sản của Vị
Xuyên giảm từ 52% (năm 2000) xuống 38,4% (năm 2005) và 30,4% (năm
2010), nhưng giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng đều. Sản xuất nông nghiệp
đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nổi bật trên một số mặt sau:
Công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi bước đầu phát huy hiệu
quả: Phát triển các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, thâm canh cao đối
với các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, thị trường ổn định; Phát triển
chăn nuôi đại gia súc, nuôi trồng thủy sản và chuyển nhanh sang phương
thức chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp.
Về cơ cấu, trồng trọt vẫn là ngành chủ yếu trong kinh tế nông nghiệp,
tỷ trọng chỉ giảm từ 65% (năm 2005) xuống 60% (năm 2010) trong tổng giá
trị sản xuất nông nghiệp; ngành chăn nuôi tuy có chuyển biến, song còn
chậm, tăng tỷ trọng từ 35% (năm 2005) lên 40% (năm 2010); hoạt động
dịch vụ trong nông nghiệp cũng có bước phát triển cao hơn.
Ngành lâm nghiệp của Vị Xuyên cũng đạt được những thành tựu cao,
như: Diện tích rừng trồng tập trung đã tăng lên đáng kể so với thời gian
trước. Nếu như năm 2000 chỉ trồng được 551 ha rừng tập trung thì đến năm
124
2008 và 2009, diện tích rừng trồng đạt hơn 2.000 ha các loại.
Bên cạnh những khu vực được trồng tập trung, huyện Vị Xuyên cũng
chú trọng trồng cây phân tán ở ven đường quốc lộ, vườn hoa, công viên,
công sở, trường học, bệnh viện, nhà máy… nhẳm tạo cảnh quan, giá trị về
sinh thái, môi trường và kinh tế, xã hội.
Việc xã hội hoá nghề rừng đã phát huy hiệu quả tài nguyên rừng trên
địa bàn huyện. Quá trình này ở Vị Xuyên đang diễn ra theo chiều hướng tích
cực. Trước kia trong lâm nghiệp truyền thống, việc quản lý tài nguyên rừng
chủ yếu do nhân dân đảm nhận với mục tiêu là theo đuổi lợi ích kinh tế của
nhà nước. Việc lập kế hoạch là từ trên xuống dưới nên các hoạt động lâm
nghiệp chủ yếu chú trọng tới lợi ích kinh tế mà ít quan tâm tới môi trường
và rất ít chú ý đến như cầu và mối quan tâm của người dân. Người dân địa
phương lúc này chỉ là người ngoài cuộc, họ hầu như chỉ tham gia thụ động
vào từng công đoạn của việc bảo vệ, quản lý, phát triển rừng với tư cách
người làm thuê. Còn tiêu điểm chủ yếu của lâm nghiệp xã hội là sự tham gia
của các chủ thể địa phương vào việc quản lý tài nguyên rừng. Các chủ thể
đó bao gồm: người dân địa phương (các cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng,
các tổ chức địa phương) và các tổ chức phát triển khác. Mục tiêu của lâm
nghiệp xã hội là phát triển tài nguyên rừng để gia tăng năng suất rừng, sản
xuất bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường, đồng thời nâng
cao đời sống của người dân địa phương.
Trước đây, huyện Vị Xuyên chủ yếu phát triển rừng phòng hộ và rừng
đặc dụng, chưa chú trọng phát triển rừng kinh tế. Từ năm 2003, với việc
phát triển chung của huyện, nhu cầu thị trường lâm sản tăng mạnh, quá trình
hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội lớn cho việc phát triển mở rộng sản xuất kinh
doanh nghề rừng, chế biến lâm sản thương mại của các hộ nông dân, cộng
đồng, các doanh nghiệp. Rừng đã mở ra cơ hội đem lại thu nhập cho người
dân, giúp người dân giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống. Huyện đã
125
có định hướng phát triển kinh tế rừng theo phương châm gắn trồng rừng với
phát triển công nghiệp chế biến, ứng dụng công nghệ cao để trồng rừng
thâm canh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo ra khối lượng sản phẩm
lớn, hiệu quả kinh tế cao.
4.1.3. Ngành kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chuyển dịch từ
vị trí ngành kinh tế thứ hai của huyện sang ngành kinh tế trọng điểm, mũi
nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của huyện Vị Xuyên.
Ngay từ khi bước vào thế kỷ XXI, huyện Vị Xuyên đã xác định vai trò
dẫn dắt của lĩnh vực công nghiệp đối với nền kinh tế toàn huyện. Với quyết
tâm cao trong việc nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong GDP cũng như
những bước đi phù hợp, lĩnh vực công nghiệp đã có bước chuyển biến mạnh
mẽ nhất trong bức tranh kinh tế chung ở huyện Vị Xuyên. Tỷ trọng GDP
của ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 29% (năm 2000) lên 37,1% (năm
2005) và 46,4% (năm 2010).
Nhờ có các chính sách thu hút và ưu đãi đầu tư của tỉnh, số lượng các
nhà đầu tư trên địa bàn huyện Vị Xuyên trong những năm qua không ngừng
tăng lên. Lĩnh vực được chú trọng đầu tư là xây dựng nhà máy thủy điện,
sản xuất lắp ráp ô tô, khai thác vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản ở
các xã Tùng Bá, Thuận Hòa, Ngọc Linh và thị trấn Vị Xuyên.
Một trong những thế mạnh của huyện Vị Xuyên là sự phong phú về tài
nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, đến năm 2010, huyện Vị Xuyên mới khai
thác được số lượng quặng là 410.370 tấn, chủ yếu là mangan, sắt, chì, kèm,
trong đó, quặng mangan khai thác được 119.900 tấn; quặng chị, kẽm khai
thác được 52.470 tấn; quặng sắt 45% khai thác được 238.000 tấn. Với sản
lượng khai thác như vậy chưa đáp ứng được tiềm năng vốn của của mình.
Dù vậy ngành công nghiệp của Vị Xuyên vẫn là những ngành công
nghiệp chế biến nông sản, chế biến các sản phẩm chè, gần đây còn mở rộng
126
thêm lĩnh vực lắp ráp ô tô tải hạng nhẹ. Sự khác biệt so với giai đoạn trước
chủ yếu là sản lượng sản xuất cũng như chất lượng và giá trị hàng hóa tăng
lên, còn ngành nghề chưa thực sự bứt phá để có được các ngành công
nghiệp có hàm lượng khoa học kỹ thuật phức tạp, giá trị kinh tế lớn.
Cơ cấu các mặt hàng thủ công nghiệp ngày càng đa dạng, thiên về các
sản phẩm thế mạnh. Nhiều mặt hàng thủ công nghiệp được sản xuất phục vụ
nhu cầu địa phương và trao đổi với các địa phương bạn. Kinh tế bắt đầu tăng
trưởng khá, cơ cấu kinh tế bắt đầu chuyển dịch theo hướng tích cực.
4.1.4. Chính sách dân tộc được triển khai và thu được những kết quả
rõ rệt. Công tác xoá đói giảm nghèo chuyển biến tích cực.
Thành tựu nổi bật phải kể đến chính là sự hiệu quả trong việc thực hiện
chính sách dân tộc ở Vị Xuyên. Là một huyện miền núi có tỷ lệ đồng bào
dân tộc thiểu số cao, điều kiện cả về tự nhiên và xã hội khó khăn nên đây là
một địa bàn quan trọng trong việc triển khai thực hiện các chương trình, dự
án phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến người dân tộc thiểu số, các
nhóm dân cư có mức sống thấp. Điều này rõ ràng là một nguồn hỗ trợ hết
sức quan trọng, nếu không nói là quyết định đến khả năng tổ chức, triển
khai các giải pháp kinh tế - xã hội ở huyện Vị Xuyên. Với gần 20 dân tộc
cùng sinh sống trên địa bàn, mà đại bộ phận là dân tộc thiểu số, huyện
Vị Xuyên đã luôn thực hiện tốt các chương trình, chính sách hỗ trợ đối với
đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Huyện Vị Xuyên thực hiện
đủ đầy đủ chính sách của Đảng, Nhà nước dành cho vùng đồng bào dân tộc
thiểu số gồm: chính sách đầu tư và sử dụng nhân lực; chính sách đầu tư phát
triển bền vững; chính sách phát triển giáo dục và đào tạo; chính sách cán bộ
người dân tộc thiểu số; chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc
thiểu số; chính sách phát triển thể dục - thể thao; chính sách phát triển du
lịch; chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa… Hiện nay, huyện Vị Xuyên
127
đã và đang thực hiện nhiều chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững
giai đoạn 2011 - 2015, trong đó có chính sách dân tộc và miền núi, vùng dân
tộc thiểu số khó khăn và đặc biệt khó khăn, để giúp cho đồng bào dân tộc
thiểu số thoát nghèo.
Như vậy, những chương trình, dự án đầu tư đã thực sự mang lại những
thay đổi to lớn đối với huyện Vị Xuyên, bộ mặt của các xã đặc biệt khó
khăn đang dần được thay đổi, đường sá đi lại thuận tiện hơn, đời sống vật
chất tinh thần của người dân tại các xã vùng sâu, vùng xa của huyện được
cải thiện đáng kể. Đồng bào dân tộc thiểu số đã tiến hành giao lưu kinh tế
đối với các khu vực lân cận tương đối dễ dàng, nhanh chóng, nhiều sản
phẩm nông sản là thế mạnh của huyện đã kết nối với hệ thống phân phối của
tỉnh và các tỉnh bạn. Đồng bào dân tộc thiểu số làm quen và dần thành thạo
trong việc áp dụng các biện pháp khoa học - kỹ thuật để nâng cao năng suất,
đổi mới cơ cấu cây trồng, trình độ sản xuất thực sự được nâng lên đáng kể.
Trong công tác xoá đói giảm nghèo, bước vào giai đoạn 2001 - 2010,
mọi mặt đời sống xã hội của huyện Vị Xuyên tiếp tục có những chuyển biến
tích cực hơn dựa trên cơ sở sự phát triển mạnh của kinh tế. Nếu như giai
đoạn 1986 - 2000, xóa đói giảm nghèo đã đạt được tỷ lệ giảm tương đối khá
(chủ yếu tập trung giảm mạnh vào cuối những năm 90), thì ở giai đoạn 2001
- 2010 thành tựu xóa đói giảm nghèo đã được nâng lên ở một mức độ cao
hơn. Năm 1991, số hộ nghèo toàn huyện Vị Xuyên từ 42,5% đã giảm xuống
còn 28% vào năm 1998, 22,7% vào năm 1999 và 15,5% vào năm 2000, cơ
bản không còn hộ đói [11; tr. 190-193].
Giai đoạn 2000 - 2010, Đảng bộ huyện Vị Xuyên đã chỉ đạo thực hiện
đồng bộ các biện pháp nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn
định. Đây cũng được xem làm một nhân tố quan trọng làm nền tảng cho
việc hạ thấp tỉ lệ hộ đói nghèo trên địa bàn huyện qua từng năm được nhanh
128
chóng và tương đối bền vững.
Bước sang giai đoạn 2001-2010, tiêu chí hộ nghèo đã được điều chỉnh
5 năm một lần. Năm 2005, toàn huyện có tỷ lệ hộ nghèo chiếm gần 50%
(theo tiêu chí mới) nhưng đến 2010, tỷ lệ này đã giảm xuống chỉ còn 15%.
Sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo của
huyện Vị Xuyên đạt được là nhờ tăng trưởng kinh tế khá cao cùng với
chuyển biến tích cực trong thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng nâng
cao tỷ trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, đã tạo ra nhiều việc làm, tăng thu
nhập cho người dân. Đời sống nhân dân qua từng năm được nâng lên rõ rệt.
Đây là một kết quả rất đáng ghi nhận và cần tiếp tục duy trì. Kết quả đó
phản ánh một phần bộ mặt kinh tế của Vị Xuyên trong những năm gần đây.
Ngoài ra, chương trình giải quyết việc làm của huyện đã được triển khai
rộng khắp và mang lại hiệu quả cao, số người có việc làm hàng năm tăng
lên, tỷ lệ thất nghiệp giảm đi đáng kể, thời gian sử dụng lao động ở nông
thôn ngày một nâng cao, cơ cấu lao động và chất lượng lao động bước đầu
chuyển đổi theo hướng tích cực. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm xuống
còn 1,2%. An ninh - quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được
đảm bảo tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
4.1.5. Đời sống văn hóa, giáo dục và y tế có những bước tiến mới
và ngày càng phát triển.
Từ giữa những năm 90 trở đi, cùng với sự chuyển biến tương đối
nhanh và có kết quả của nền kinh tế, các mặt công tác của đời sống xã hội
cũng dần được cải thiện. Đây là một bước tiến rất lớn về đời sống tinh thần
của người dân huyện Vị Xuyên so với những năm đầu thời kỳ đổi mới.
Về đời sống văn hoá, toàn huyện hiện có 85% hộ đạt gia đình văn hóa,
100% thôn bản, tổ dân phố được công nhận làng văn hóa; 180 cơ quan, đơn
vị, trường học đạt cơ quan văn hóa, tăng 95 đơn vị so với năm 2005. Các
thôn, tổ dân phố đã xây dựng quy ước nếp sống văn minh trong việc cưới,
129
việc tang và lễ hội. Bộ mặt nông thôn đang từng bước được thay đổi, toàn
huyện hiện có 2210 hộ có nhà xây kiên cố, 110 hộ có ô tô, 11514 hộ có xe
máy, 14473 hộ có ti vi. Các hình thức thụ hưởng văn hóa cũng đa dạng và
phong phú hơn. Ngoài hoạt động các đội thông tin văn hóa lưu động, hệ
thống phát thanh - truyền hình của huyện hoạt động thường xuyên với tần
suất ngày càng tăng. Người dân còn có thể nghe đài, xem ti vi thông qua các
thiết bị nghe nhìn tự mua sắm. Hệ thống thư viện cũng cung cấp sách báo
khá cập nhật cho người dân có nhu cầu... Bên cạnh đó, các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thể dục thể thao luôn được khơi dậy sôi nổi, trở thành phong
trào thường xuyên và sâu rộng đến tận các xã lôi cuốn đông đảo người dân
tham gia rèn luyện.
Lĩnh vực giáo dục ngày càng đạt được nhiều thành tựu lớn, cao hơn về
chất so với giai đoạn 1986 - 2000, đó là: đã giải quyết căn bản nạn mù chữ và
tái mù chữ; hệ thống giáo dục ngày càng được mở rộng, các hình thức giáo
dục, đào tạo ngày càng đa dạng, quy mô trường lớp ngày càng được cải thiện
đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của người dân.
Đặc biệt, trong giai đoạn 2001 - 2010, huyện Vị Xuyên đã hoàn thành phổ cập
giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở cho toàn bộ các xã, đến năm
2010 đã có 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về giáo dục...
Hệ thống y tế ngày càng được củng cố đảm bảo việc khám và chữa bệnh
cho người dân tại địa phương, ngăn chặn và đẩy lùi các loại bệnh dịch, nâng
cao sức khỏe cho người dân. Người dân cũng được chăm sóc sức khỏe tốt
hơn khi hệ thống nhà trạm, trạm y tế xã, bệnh viện và phòng khám tuyến
huyện đã được trang bị cơ bản về cơ sở vật chất cũng như nhân lực để có thể
thăm khám và chữa các căn bệnh thông thường cho người dân. Ngành y tế
có nhiều cố gắng vượt bậc và đến 2010 đã có 100% xã, thị trấn được công
nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đó là những thành quả vượt bậc của một
130
huyện miền núi biên giới còn nhiều khó khăn.
4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Trong lĩnh vực kinh tế, mặc dù đạt được sự chuyển biến mạnh như kế
hoạch đặt ra là giảm mạnh tỷ trọng của nhóm ngành nông - lâm nghiệp, tăng
dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nhưng sự chuyển biến chưa thực sự
sâu, chất lượng chuyển biến chưa cao, chưa có sự gắn kết giữa chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành với chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang
lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Hoạt động công nghiệp chủ yếu là chế biến
chè và khai thác vật liệu xây dựng. Thế nhưng, cây chè vẫn chưa được tập
trung chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng để tăng nhanh giá trị sản lượng
hàng hóa, tỷ lệ chè thâm canh còn ở mức thấp chưa khai thác được hiệu quả
tiềm năng. Trong khi đó, các đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ hoạt động
còn nhiều yếu kém, hiệu quả kinh tế thấp, cá biệt có đơn vị thua lỗ nặng.
Công tác chuyển đổi hợp tác xã hoạt động theo luật còn chậm, mặt khác số
hợp tác xã đã chuyển đổi hoạt động rất yếu, thậm chí một số hợp tác xã
không hoạt động gì, sự chuyển đổi chỉ là hình thức. Đến năm 2010, sản
phẩm của lĩnh vực công nghiệp vẫn chủ yếu là chế biến chè, khai thác
khoáng sản; sản xuất và khai thác vật liệu xây dựng; công nghiệp kỹ thuật
cao có thêm lắp ráp ô tô. Về vấn đề này, Uỷ ban nhân dân huyện đánh giá:
"Ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng,
lợi thế. Sản phẩm của một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp sức cạnh
tranh còn yếu, hầu hết doanh nghiệp trên địa bàn huyện có quy mô sản xuất
- kinh doanh nhỏ bé... Tỷ trọng chăn nuôi hành hóa còn chiếm tỷ lệ thấp
trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã nhìn chung
phát triển chưa mạnh, nhiều hợp tác xã hiệu quả sản xuất kinh doanh còn
thấp" [172; tr. 12-13]. Bên cạnh đó, vai trò kinh tế tư nhân có tăng lên
nhưng vai trò chủ đạo vẫn là khu vực kinh tế nhà nước, đồng thời có sự mất
cân đối khá lớn giữa các khu vực trên địa bàn huyện. Kinh tế phát triển chủ
yếu vẫn tập trung ở hai thị trấn Vị Xuyên, Việt Lâm và dọc tuyến quốc lộ,
131
nhiều xã trong huyện vẫn thuộc diện đầu tư của Chương trình 135.
Dù đạt được những kết quả đáng khích lệ trong phát triển kinh tế
những năm gần đây, nhưng nhìn chung nền kinh tế của Vị Xuyên chưa phát
triển tương xứng với tiềm năng. Sự phát triển còn thiếu tính đột phá, chưa
đồng đều giữa các khu vực trong huyện. Sản xuất hàng hoá nhỏ lẻ, mang
tính tự phát. Hoạt động thương mại và du lịch đã bước đầu phát triển nhưng
công tác xúc tiến thương mại, kêu gọi đầu tư nước ngoài còn chậm, công tác
quảng bá hình ảnh tới du khách trong nước và quốc tế chưa nhiều. Lĩnh vực
công nghiệp có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao còn nhiều hạn chế, chưa
thực sự chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu sản xuất công nghiệp - thương
mại - du lịch. Tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố hỗ trợ của
tỉnh và Trung ương thông qua các chương trình, dự án.
Những kết quả kinh tế - xã hội đạt được chưa tương xứng với tiềm
năng, thế mạnh của huyện; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế thấp. Đời sống nhân dân đã được cải thiện nhưng chưa bền vững,
nguy cơ tái nghèo cao. Khả năng tiếp cận thị trường, tiến bộ khoa học - kỹ
thuật cũng như tinh thần tự chủ, linh hoạt, năng động ở một bộ phận cán bộ
và nhân dân còn hạn chế.
Tăng trưởng kinh tế đạt khá nhưng phụ thuộc nhiều vào sự đầu tư của
Chính phủ thông qua các chương trình dự án có liên quan đến đồng bào dân
tộc thiểu số. Mặt khác trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án,
việc phân cấp còn có nhiều bất cập. Một số xã còn khó khăn trong việc chủ
động thực hiện quản lý xây dựng, phụ thuộc quá nhiều vào hệ thống chỉ đạo
cấp trên. Đội ngũ cán bộ cấp xã không nắm chắc các trình tự thủ tục của đầu
tư xây dựng cơ bản, nên khi triển khai còn gặp vướng mắc, khó khăn, thông
thường dẫn đến chất lượng, hiệu quả các công trình mà các chương trình, dự
6 Tham khảo ý kiến của ông Lưu Đình Phát, nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên.
132
án đầu tư chưa cao6.
Là huyện có lợi thế về cửa khẩu để buôn bán, trao đổi với nước ngoài
nhưng kết quả đạt được từ kinh tế cửa khẩu còn thấp nhiều so với các cửa
khẩu khác. Nguyên nhân chính là do nguồn hàng hóa còn chưa phát triển,
hoạt động buôn bán ở cửa khẩu chủ yếu là do các thương nhân trao đổi buôn
bán mang tính chất tự phát theo nhu cầu thị trường. Cơ sở vật chất đầu tư
còn hạn chế, mạng lưới giao thông chưa hoàn thiện, các loại dịch vụ chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh doanh tại cửa khẩu nên chưa thu hút
các doanh nghiệp lớn đến làm ăn. Các tiềm năng du lịch không được khơi
dậy nên còn rất hoang sơ, yếu kém.
Trong kinh tế đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu ngành nghề
nhưng về cơ bản kinh tế huyện Vị Xuyên vẫn chủ yếu là nông - lâm nghiệp.
Sản phẩm bán ra thị trường chưa phong phú đa dạng và có sắc thái riêng.
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với thiết bị kỹ thuật còn lạc hậu,
năng suất, chất lượng còn thấp, thu nhập của công nhân chưa cao. Công
nghiệp chưa gắn chặt chẽ với nông - lâm nghiệp và thị trường nông thôn
trên địa bàn huyện, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông lâm sản. Công
nghiệp vẫn chủ yếu là gia công, lắp ráp, hàm lượng khoa học chưa cao.
Trong nông nghiệp, các sản phẩm đa số mới chỉ dừng lại ở mức độ sơ chế,
trong khi sản phẩm ngành chăn nuôi chủ yếu vẫn chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng trực tiếp của địa phương.
Về lĩnh vực xã hội, mặc dù huyện Vị Xuyên được hưởng lợi nhiều từ
các chương trình dự án, nhưng trong quá trình thực hiện còn có sự chồng
chéo, trùng lặp nhất định, đồng thời lại thiếu đồng bộ trong việc thực hiện
các mục tiêu tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc
thiểu số. Một số chính sách chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, nhưng lại
không được điều chỉnh kịp thời. Trong thời gian tới, tình trạng nghèo ở Vị
Xuyên vẫn sẽ có những diễn biến phức tạp, xuất phát từ sự phân hóa khá cao
133
về điều kiện tự nhiên của cũng như các cơ sở kinh tế và phân bố dân cư.
Không loại trừ khả năng nghèo hóa trở lại đối với một số ít hộ dân cư vừa
thoát nghèo. Những giải pháp xóa đói, giảm nghèo cả trước mắt và lâu dài
vẫn luôn yêu cầu khả năng đồng bộ khi thực hiện các nhóm giải pháp, trong
đó, phát triển nhân tố con người vẫn luôn là giải pháp căn bản nhất. Tư tưởng
ỷ lại và trông chờ vào chính sách ưu đãi trợ cấp, cứu trợ của nhà nước vẫn
tồn tại ở một số thôn bản và hộ nghèo nên hạn chế sự năng động vươn lên
của người nghèo. Vì thế, các chương trình an sinh xã hội cho người nghèo
chưa phát huy được tính năng ưu việt của nó. Nghèo đói khiến cho người
dân khai thác quá mức nguồn tài nguyên vốn đã hạn hẹp và ảnh hưởng tới
môi trường như chặt rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, khai thác tài nguyên
khoáng sản bừa bãi,… nên nguy cơ tái nghèo cao. Công tác giáo dục đào tạo
chưa thực sự gắn kết với việc sử dụng lao động, tỉ lệ lao động qua đào tạo
thấp, chưa đạt mục tiêu đề ra. Chất lượng giáo dục - đào tạo đã có nhiều
chuyển biến tiến bộ, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao
của phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên là cần nâng cao hiệu
quả và tính thiết thực của giáo dục cũng như có những biện pháp cần thiết để
tạo sự công bằng xã hội trong giáo dục, hỗ trợ người nghèo, đồng bào các dân
tộc thiểu số, có chế độ ưu tiên hợp lý đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tạo
điều kiện để người dân ở các khu vực khó khăn có thể tiếp cận các dịch vụ
công một cách thuận lợi.
Các công trình phúc lợi công cộng, văn hóa, thể thao phục vụ vui chơi,
giải trí cho nhân dân chưa đủ đáp ứng nhu cầu thực tế. Công tác quản lí tài
nguyên, khoáng sản còn nhiều bất cập. Tình trạng khai thác, vận chuyển trái
phép tài nguyên khoáng sản vẫn còn tồn tại. Trong khi đó, công tác phòng,
chống tham những đạt hiệu quả chưa cao.
Ngoài ra, một số tập tục mê tín dị đoan chậm được khắc phục, bản sắc
văn hoá của các dân tộc đang đứng trước thực trạng bị mai một, mức hưởng
134
thụ văn hoá trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế. Việc tổ chức
thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước còn thiếu cụ thể, chưa sâu sát.
Các đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... ở các
xã vùng cao, vùng sâu, do gặp những khó khăn về tự nhiên nên cơ bản chỉ có
bộ khung là còn tồn tại7.
4.3. Một số đề xuất
Từ năm 1986 đến năm 2010, huyện Vị Xuyên đã có những bước
chuyển biến kinh tế, xã hội mạnh mẽ, từ chỗ là một huyện miền núi khó
khăn, thiếu thốn, tỉ lệ đói nghèo và mù chữ cao, sau gần 30 năm đổi mới đã
vươn lên trở thành một huyện có tốc độ phát triển cao hàng đầu của tỉnh Hà
Giang. Nhằm đẩy mạnh thêm một bước công cuộc đổi mới của huyện, của
tỉnh đạt được những mục tiêu đề ra, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp
mà huyện Vị Xuyên cần tập trung thực hiện như sau:
4.3.1. Phát huy mọi nguồn lực cho phát triển nền kinh tế - xã hội, khai
thác nguồn tài nguyên một cách hợp lý, nâng cấp và hoàn thiện các tuyến
giao thông trên địa bàn huyện.
Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài
sản quốc gia, nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường… có
thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển. Vì vậy, để tiếp tục
nâng cao hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngày một hợp lý hơn, trong thời gian tới huyện Vị Xuyên cần huy
động triệt để và có hiệu quả những nhân tố chủ quan, nội lực để tập trung
phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm tạo điều kiện cho
sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế, cũng như sự đòi hỏi nhiều mặt
đa dạng hơn của đời sống xã hội. Tận dụng thời cơ, lợi thế cả về điều kiện
tự nhiên cũng như những ưu đãi về chính sách để thu hút được nhiều nguồn
135
lực cho sự phát triển ổn định của địa phương. Thực hiện lồng ghép nguồn 7 Tham khảo ý kiến ông Hầu A Sách, Trưởng phòng PA92 Công an tỉnh Hà Giang.
vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án hỗ trợ
để phát triển kinh tế, xã hội, tạo môi trường thuận lợi để đầu tư, tranh thủ sự
hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh, của các tổ chức phi chính phủ đầu tư phát
triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện. Tăng cường công tác bảo vệ môi
trường, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý, ứng dụng tiến bộ khoa học-
kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài nguyên.
Hệ thống giao thông nội huyện, liên xã cần được tiếp tục đầu tư nâng
cấp để phục vụ giao lưu giữa các xã nhất là các xã vùng sâu vùng xa, và với
các huyện lân cận. Phát triển mạng lưới giao thông còn nhằm đảm bảo tính
liên hoàn giữa các khu vực trong huyện. Cần chú trọng giao thông hướng
ngoại, các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, vùng định canh, định cư, vùng
biên giới gắn với bảo vệ quốc phòng, an ninh.
Đối với huyện Vị Xuyên, sự kết hợp kinh tế với đảm bảo an ninh quốc
phòng, phát triển kinh tế địa phương kết hợp với phát triển kinh tế cửa khẩu
biên giới vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
Tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo bền vững là mục tiêu phấn đấu
chung của nhân loại. Tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo là hai quá trình có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Đối với huyện Vị Xuyên, tăng trưởng kinh
tế và giảm nghèo bền vững là một yêu cầu thực tiễn nhằm mục đích từng
bước làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội - môi trường của huyện, sớm đưa
huyện thoát khỏi tình trạng chậm phát triển. Do đó vấn đề đặt ra là phải
nâng cao trình độ phát triển về cả kinh tế, văn hoá - xã hội, môi trường sinh
thái, đồng thời, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì sự kết hợp kinh
tế với đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế địa phương với kinh
tế cửa khẩu vừa là cơ hội vừa là thách thức của huyện.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, huyện Vị Xuyên có nhiều điều
136
kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế mở. Với lợi thế về không gian
lãnh thổ, huyện gần như ôm trọn Thành phố Hà Giang - trung tâm kinh tế -
chính trị của tỉnh, ngoài ra trên địa bàn còn có cửa khẩu quốc gia Thanh
Thủy (nay là cửa khẩu quốc tế) và cửa khẩu tiểu ngạch Lao Chải; trong đó
cửa khẩu Thanh Thủy (phía Vân Nam - Trung Quốc gọi là Thiên Bảo) chính
là điểm đầu của quốc lộ số 2 là vùng kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy của
huyện Vị Xuyên với Hà Giang và tới điểm cuối của quốc lộ số 2 là thủ đô
Hà Nội; đồng thời là cầu nối giao lưu trực tiếp giữa huyện Vị Xuyên -
Thành phố Hà Giang với Châu Văn Sơn (Vân Nam - Trung Quốc).
Qua cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang và huyện Vị Xuyên đã có
nhiều hoạt động giao lưu kinh tế - xã hội với châu Văn Sơn, Vân Nam,
Trung Quốc. Hiện nay, huyện Vị Xuyên đã xuất khẩu các mặt hàng: mây tre
đan, sản phẩm quặng kim loại,… sang châu Văn Sơn - Vân Nam và cũng
nhập về từ đó một số mặt hàng gia dụng, điện, đồ chơi trẻ em,… Trong
tương lai khi cửa khẩu được xây dựng khang trang, hiện đại hơn với việc
khai thác có hiệu quả của tuyến quốc lộ 2 - tuyến liên kết của huyện Vị
Xuyên - Thành phố Hà Giang - cửa khẩu Thanh Thủy - các huyện và tỉnh
phía nam Vị Xuyên thì việc giao lưu kinh tế giữa các vùng và với Vân Nam
- Trung Quốc không chỉ bó gọn trong phạm vi tỉnh Hà Giang mà còn mở
rộng sang các tỉnh phía nam quốc lộ 2. Tuy nhiên, với một nền kinh tế phát
triển hơn, năng động hơn từ phía Vân Nam thì nền kinh tế của Vị Xuyên và
vùng kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy cũng không tránh khỏi những sức ép.
Không chỉ thuận lợi cho giao lưu về kinh tế mà vùng Vị Xuyên - thành phố
Hà Giang - cửa khẩu Thanh Thủy còn có nhiều điều kiện thuận lợi để giao
lưu về văn hóa - xã hội giữa hai nước, như: hội chợ ẩm thực năm 2007 được
tổ chức tại huyện Vị Xuyên, trong đó có sự tham gia của châu Văn Sơn;
chương trình phân định ranh giới và cắm mốc biên giới giữa Việt Nam -
Trung Quốc ở địa phận tỉnh Hà Giang đã hoàn thành; tổ chức các tour du
137
lịch từ Hà Giang sang Malipo - châu Văn Sơn,…
Như vậy, sự liên kết chặt chẽ về không gian kinh tế - xã hội giữa huyện
Vị Xuyên - thành phố Hà Giang và vùng cửa khẩu Thanh Thủy bên cạnh
việc thuận lợi để phát triển kinh tế mở còn tạo nhiều điều kiện thuận lợi để
phát triển các vùng kinh tế trong tỉnh.
4.3.2. Cần có quy hoạch phát triển các ngành kinh tế trong đó xác định
rõ khả năng phát triển từng lĩnh vực cụ thể, phân tích lợi thế so sánh để có
bước đi thích hợp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải căn cứ vào nguồn lực
phát triển, khai thác hiệu quả các nguồn lực và phù hợp với điều kiện thực
tế của địa phương.
Huyện Vị Xuyên phải đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng tiến bộ khoa
học - kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm nghiệp nhất là với các loại cây, con
đặc sản có thế mạnh đặc trưng của huyện. Việc đưa các mặt hàng nông sản
có thu nhập cao lên vị trí mũi nhọn để tạo sự đột phá mạnh mẽ hơn nữa
trong phát triển nông nghiệp là cần thiết, kết hợp với nghiên cứu phát triển
các khu chuyên canh những sản phẩm đặc sản của địa phương liên kết với
thị trường bên ngoài tỉnh và hướng tới xuất khẩu.
Huyện cần có kế hoạch để khai thác có hiệu quả và bền vững hơn nữa
nguồn lợi từ rừng. Đây là vấn đề quan trọng không chỉ bảo vệ môi trường
sinh thái - vấn đề ngày càng được đề cao trong phát triển kinh tế - xã hội mà
còn giải quyết sinh kế bền vững của các nhóm cư dân có đời sống gắn bó
hữu cơ với rừng tạo bước đột phá về phát triển trồng rừng và bảo vệ rừng
sản xuất đảm bảo nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến. Thực hiện có
hiệu quả các dự án trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, gắn trồng rừng và
phát triển các loại rừng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và khả
năng mở rộng phát triển hệ thống giao thông và thị trường. Khuyến khích
phát triển rừng kinh tế theo quy hoạch và xây dựng bộ giống cây có năng
suất cao, chất lượng tốt gắn với thị trường ổn định. Với vị trí là một huyện
138
miền núi biên giới, Vị Xuyên cần có những đề xuất mạnh dạn để thu hút đầu
tư phát triển các lĩnh vực nông - lâm nghiệp, đưa lĩnh vực này phát triển
theo hướng chiều sâu, mang lại hiệu quả cao và đồng thời giải phóng một
lực lượng lao động ra khỏi khu vực này.
Các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây dược liệu có thế mạnh cần
được phát triển theo hướng thâm canh, chất lượng cao. Sản xuất tập trung gắn
với phát triển công nghiệp chế biến, xây dựng thương hiệu và giữ vững thị
trường đầu ra. Quy hoạch và xây dựng các cơ sở chế biến nông - lâm sản, chế
biến thực phẩm, thức ăn gia súc gắn với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất
nông - lâm sản hàng hóa tập trung, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
Trong việc đầu tư cho nông nghiệp, cần tiến hành điều chỉnh cơ bản lại
cơ chế chính sách đầu tư theo hướng ưu tiên đầu tư vào việc đào tạo nhân
lực và ứng dụng khoa học - công nghệ. Tập trung đầu tư vào các lĩnh vực
chế biến, bảo quản, ứng dụng cơ giới hoá, điện khí hoá, tin học, hội nhập
kinh tế quốc tế, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, mã hiệu hàng hoá, hỗ trợ một
phần lãi suất ngân hàng cho một số lĩnh vực ưu tiên cho nông dân. Xây
dựng cơ chế đặc thù cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá
nhân có điều kiện đầu tư vào nông nghiệp để tạo dựng thành công mô hình
sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị từ khâu: sản xuất - chế biến bảo
quản - tiếp thị, thương mại - người tiêu dùng. Tổ chức thực hiện các mô
hình liên kết sản xuất bền vững theo mô hình chuỗi giá trị liên thông: Trước
hết trên những lĩnh vực đang diễn ra nhưng chưa được tổ chức lại nên đang
gây ra hiện tượng chưa hiệu quả hiện nay như: sản xuất chè, cam, dược liệu,
trồng và chế biến gỗ, nuôi cá, lợn, gà thương phẩm... vừa làm vừa tổng kết
để gắn người sản xuất với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, nhà khoa học,
thị trường làm cho mối quan hệ này thống nhất với nhau mới có một nền
kinh tế phát triển bền vững và hiệu quả.
Các ngành nghề thủ công, nhất là những nghề mang tính chất truyền
139
thống phải được đẩy mạnh phát triển, một số lĩnh vực thủ công của đồng
bào cần được phát huy. Điều cần thiết là lập nên các hợp tác xã nghề thủ
công để có sự trao đổi, liên kết với nhau trong sản xuất cũng như tiêu thụ.
Trước hết cần đầu tư sâu một số mô hình điểm, sau đó nhân rộng thông qua
quảng bá sản phẩm và thu hút các nguồn đầu tư.
Huyện cần tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ đối với công nghiệp, nhất là các
lĩnh vực công nghiệp chế biến nông - lâm sản, trong đó vấn đề công nghệ
hiện đại phải được ưu tiên hàng đầu để nhằm sản xuất ra những sản phẩm có
chất lượng, lợi thế cạnh tranh cao, mang lại giá trị lớn. Có chính sách tạo
điều kiện thuận lợi nhất để cho các doanh nghiệp dịch vụ phát triển. Đặc
biệt, với lợi thế có cửa khẩu Thanh Thuỷ trên địa bàn, đang được Chính phủ
và tỉnh Hà Giang ban hành nhiều chính sách ưu đãi, huyện Vị Xuyên cần
phát huy mọi khả năng, nguồn lực của mình để biến nơi đây trở thành đòn
bẩy cho các hoạt động thương mại - dịch vụ của địa phương phát triển
đi lên.
Đối với việc phát triển và nâng cao chất lượng du lịch, dịch vụ, thương
mại, cần có chính sách thu hút đầu tư trong lĩnh vực này, đặc biệt là các loại
hình du lịch sinh thái, du lịch gắn với việc phát huy các giá trị bản sắc văn
hóa đồng bào dân tộc thiểu số. Tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng phục vụ
du lịch. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng,
nâng cấp nhà hàng, khách sạn, dịch vụ vận tải hành khách, phát triển công
ty lữ hành, đưa dịch vụ du lịch dần trở thành ngành kinh tế chủ đạo của
huyện. Tạo bước đột phá để kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả, bền vững
và chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đóng góp ngày
càng lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, cả nước. Mở rộng quan hệ đối
ngoại, để kêu gọi thu hút các nguồn đầu tư vào địa bàn từ các thành phần
kinh tế. Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, chú trọng phát triển các dịch vụ
chất lượng cao. Tập trung đầu tư, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao
140
thông, cơ sở vật chất phục vụ cho việc phát triển du lịch. Thực hiện tốt công
tác quy hoạch, quản lý quy hoạch trong lĩnh vực du lịch. Mặt khác phát triển
kinh tế cũng gắn với việc bảo đảm quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội.
4.3.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ địa phương, các tổ chức, đoàn thể
mạnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vị Xuyên là một huyện miền núi, biên giới, điều kiện kinh tế - xã hội
còn ở mức thấp so với cả nước, vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ có ý
nghĩa rất lớn. Cán bộ là người đem chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đến cho nhân dân, làm cho chính sách đó đi vào cuộc sống sinh động
của nhân dân các dân tộc. Đồng thời, chính họ là người đại biểu, đại diện
cho nhân dân, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân để báo cáo lên các
cấp uỷ đảng và chính quyền tìm biện pháp giải quyết đáp ứng yêu cầu của
họ. Đặc biệt, phải thường xuyên bồi dưỡng và nâng cao năng lực đội ngũ
cán bộ cấp xã và dựa vào đặc điểm dân tộc mà có cơ cấu cán bộ một cách
phù hợp. Cấp ủy, chính quyền huyện cần tập trung giải quyết tốt việc sắp
xếp, sử dụng đội ngũ cán bộ hiện có phù hợp và hiệu quả; xây dựng kế
hoạch đào tạo và tái đào tạo gắn liền với yêu cầu phát triển hiện nay; chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở; kết hợp sử dụng cán bộ người dân tộc
thiểu số và cán bộ người Kinh để bổ sung cho nhau, giúp nhau cùng tiến bộ.
Trong thời gian tới, huyện cần tiến hành điều tra, rà soát xác định nhu
cầu đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo cụ thể theo từng năm và cả nhiệm
kỳ đối với đội ngũ cán bộ của huyện. Quan tâm đào tạo lực lượng cán bộ
trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời thực hiện tốt công tác tạo
nguồn, sử dụng cán bộ là người tộc thiểu số một cách hợp lý, có hiệu quả,
gắn với bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ.
Các tổ chức, đoàn thể có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy nguồn lực
phát triển, là tác nhân cổ vũ, động viên nhân dân thực hiện nhiệm vụ của
141
Đảng bộ và chính quyền đề ra. Vì vậy, huyện cần kiện toàn số lượng, chất
lượng, tăng kinh phí để các tổ chức này hoạt động hiệu quả. Trong khi đó,
để các tổ chức, đoàn thể tập hợp được lực lượng tham gia, phải đặt lên hàng
đầu những nhiệm vụ lập thân, lập nghiệp, làm giàu hợp pháp, xoá đói giảm
nghèo v.v. Trên cơ sở đó, lực lương này vừa là cố vấn, vừa động viên giúp
đó nhân dân thoát nghèo, từng bước phát triển. Trong thời gian tới, huyện
cũng quan tâm phát triển các hội nghề nghiệp; thông qua các hội này, sẽ
giúp thu nhận, xử lý thông tin về giá cả, sản xuất kinh doanh, về chủ trương,
chính sách, về ứng dụng khoa học - công nghệ, qua đó nắm bắt tình hình sản
xuất và đời sống của nhân dân; đồng thời giúp cho tỉnh và Trung ương có
những chính sách giải quyết các vướng mắc, khó khăn để vừa thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, vừa thực hiện những mục tiêu về an ninh -
quốc phòng.
4.3.4. Nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là đối
với đồng bào vùng sâu, vùng xa. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các
loại hình văn hóa phục vụ đời sống tinh thần của người dân. Tiếp tục đẩy
mạnh công tác xóa nghèo bền vững, tăng chất lượng sống và giảm thiểu
khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các khu vực trên địa bàn huyện.
Trong tình hình hiện nay, việc thực hành chính sách ở miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số phải được coi là để đầu tư phát triển. Đến năm
2010, giáo dục huyện Vị Xuyên đã đạt được nhiều thành tựu lớn, nhưng để
duy trì bền vững cũng như nâng cao trình độ dân trí của địa phương cần chú
trọng hơn nữa cả về chất lượng giáo dục - đào tạo cũng như đầu tư về cơ sở
vật chất. Huyện tiếp tục phát huy thành tựu phổ cập giáo dục trung học cơ
sở và phấn đấu ở mức cao hơn, song song với mở rộng hệ thống các trường
dân tộc nội trú, trường bán trú dân nuôi, trung tâm giáo dục thường xuyên,
trong đó đề cao việc dạy tiếng dân tộc cho cán bộ, giáo viên vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Huy động nhiều nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp giáo dục,
để nâng cao mặt bằng và trình độ dân trí cũng như về chất lượng giáo dục
142
trên địa bàn huyện. Cần tăng cường trang bị hệ thống phòng thí nghiệm,
thực hành và thời gian thực hành, thực tế. Đó là phương pháp có thể khắc
phục những hạn chế về khả năng tư duy trừu tượng của học sinh, nâng cao
năng lực nhận thức lý thuyết và khả năng ứng dựng hệ thống lý thuyết đó
vào cuộc sống. Bằng mọi cách rèn cho học sinh phát triển tư duy độc lập,
diễn đạt chặt chẽ, nhất là học sinh dân tộc thiểu số. Phương châm học
thường xuyên, học suốt đời cần phải được phổ biến mới đáp ứng được
những yêu cầu biến đổi mạnh mẽ của kinh tế, xã hội trong toàn huyện.
Phát triển giáo dục toàn diện, trong đó chú trọng giáo dục mũi nhọn,
hướng nghiệp, dạy nghề, tăng cường chất lượng dạy và học. Nghiên cứu,
xây dựng kế hoạch đào tạo nghề cho lực lượng lao động tại địa phương phù
hợp với yêu cầu của thực tế và khả năng, trình độ của người lao động, đồng
thời phải gắn với giải quyết việc làm trên cơ sở tiềm năng thế mạnh của địa
phương; trong đó chú trọng tới việc nâng cao kỹ năng, kỹ thuật của người
học, đồng thời có chính sách hỗ trợ người học có thể tự tổ chức sản xuất sau
khi học. Gắn hoạt động đào tạo nghề với công tác xóa đói giảm nghèo một
cách bền vững và có hiệu quả. Quan tâm đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và
sử dụng nguồn nhân lực phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực công
tác và yêu cầu phát triển từng ngành, từng lĩnh vực. Bên cạnh đó, huyện cần
chủ động đề xuất, tham mưu với tỉnh để có những chính sách đặc thù thu hút
lực lượng lao động có tay nghề cao, những người có trình độ về địa phương
công tác.
Trong lĩnh vực y tế, để tiếp tục trong việc nâng cao chất lượng khám
chữa bệnh, huyện cần đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công
tác khám chữa bệnh có hiệu quả, trong đó ưu tiên cho hệ thống các trạm y tế
tuyến xã, nâng cao năng lực điều trị những bệnh phổ biến của các trạm y tế.
Có chính sách hỗ trợ thiết thực để nâng cao tỉ lệ bác sĩ khám bệnh tại địa
phương, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ y tế có điều kiện thuận lợi đi học
nâng cao trình độ tay nghề. Ưu tiên tuyển dụng cán bộ y tế người dân tộc
143
thiểu số, cũng như đẩy mạnh sự hợp tác với các bệnh viện lớn trong việc
khám bệnh nhân đạo cho người nghèo, trẻ em và phòng chống dịch bệnh.
Nhiệm vụ trước mắt là thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền,
giáo dục cộng đồng dân cư về ăn uống, sinh hoạt hợp vệ sinh và có biện
pháp nâng cao chất lượng dinh dưỡng cho cộng đồng, đặc biệt là cung cấp
dinh dưỡng cho phụ nữ và trẻ em. Ngành y tế huyện cần phát huy các hoạt
động y tế trong cộng đồng như tiêm chủng mở rộng chống các bệnh thường
gặp ở trẻ em và các bệnh về thai sản.
Đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo bền vững gắn liền với việc
thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Trong thời kỳ qua, công tác xóa
đói giảm nghèo ở huyện Vị Xuyên được thực hiện có hiệu quả, nhưng
những khó khăn thách thức đặc biệt là khả năng tái nghèo trở lại đối với một
bộ phận dân cư vẫn sẽ xảy ra. Do đó, huyện Vị Xuyên cần có những biện
pháp, kế hoạch cụ thể để ngăn chặn khả năng này, đồng thời có những hỗ
trợ để tiếp tục làm tốt hơn công tác xóa đói giảm nghèo. Ngoài việc hỗ trợ
cho người dân về nguồn vốn, thì cần có những tư vấn thiết thực để đồng bào
khó khăn có sự hợp tác hiệu quả, nhất là trong quá trình triển khai thực hiện
các chương trình dự án. Huyện cần thực hiện hỗ trợ phát triển sản xuất đối
với các xã vùng biên giới bao gồm: Tăng các định mức hỗ trợ về sản xuất để
người lao động kịp chuyển đổi nhận thức và bảo toàn vốn cho những năm
tiếp theo; lồng ghép hỗ trợ tín dụng kết hợp với chính sách đào tạo nghề
nông nghiệp cho lao động nông thôn; tăng cường sự liên kết theo chuỗi: sản
xuất - tiêu thụ; gắn đào tạo/tập huấn/xây dựng mô hình với tín dụng để phát
triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, khuyến khích thu hút
đầu tư để tạo việc làm và chuyển dịch việc làm bền vững.
Trong xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay, cần nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của toàn xã hội, vai trò quản lý của nhà nước đối với nhiệm vụ
phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Trình độ dân trí
chưa cao là cơ hội để văn hoá độc hại xâm nhập và có môi trường tồn tại.
144
Trong đời sống và sinh hoạt, nhiều hộ còn lưu giữ những truyền thống lạc
hậu nên càng bị tụt hậu. Trong văn hoá tiêu dùng và hưởng thụ nhiều mặt
chưa tương đồng với điều kiện kinh tế, xã hội của huyện. Đối với các xã
trong huyện, nhất là các xã vùng cao, huyện cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân. Huyện cần tuyên truyền để đồng
bào các dân tộc thiểu số lưu giữ và sử dụng trang phục dân tộc của mình, ít
nhất là trong các lễ hội, những ngày truyền thống của dân tộc. Đối với
những sản phẩm văn hoá vật thể có thể trở thành hàng hoá thì cần có kế
hoạch phát triển để đưa ra thị trường, qua đó vừa đem lại giá trị kinh tế vừa
lưu giữ nét độc đoá của văn hoá dân tộc. Song song với đó là thực hiện Đề
án phát triển thông tin, truyền thông nông thôn 2011-2020 và Chương trình
mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo giai đoạn 2011-2015 và những năm sau. Tăng cường công tác
tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành; tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng tập huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ phụ
trách công tác thông tin và truyền thông cấp xã. Ưu tiên đầu tư, nâng cấp
các trạm phát thanh, truyền hình địa phương và tăng giờ phát thanh bằng
tiếng dân tộc tại các đài phát thanh địa phương.
Trong quá trình phát triển kinh tế, cần chú ý giải quyết những tiêu cực
xã hội nảy sinh. Vị Xuyên là một huyện miền núi biên giới có nhiều dân tộc
sinh sống, tình hình tôn giáo tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Do đó, tăng cường
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện bên cạnh việc tuyên
truyền đầy đủ, rõ ràng những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
đến với đồng bào thiểu số, vùng sâu vùng xa là hết sức quan trọng; giúp
người dân nắm được tình hình, tránh bị kích động lôi kéo bởi các thế lực thù
địch. Tăng cường ổn định chính trị, giữ vững trật tự trị an sẽ giúp Vị Xuyên
có điều kiện để tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế, làm tốt các mặt công
tác xã hội, nâng cao đời sống văn hóa cho người dân, tiếp tục tiến bước
145
vững chắc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
KẾT LUẬN
1. Huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang là địa bàn có điều kiện tự nhiên
không thuận lợi, khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, cơ sở hạ tầng còn
thấp kém, giao thông đi lại khó khăn, diện tích đất trồng trọt ít và khó canh
tác; kinh tế chưa phát triển, dân trí còn thấp; số hộ tái nghèo và hộ cận
nghèo vẫn còn cao… Với sự nỗ lực phấn đấu của địa phương và sự hỗ trợ,
tác động từ cơ chế, chính sách đem lại, những năm gần đây huyện Vị Xuyên
đang chuyển mình, có nhiều phát triển tích cực và đang tiếp tục được phát
huy để vươn lên thoát khỏi vị thế là một huyện nghèo, khó khăn trong tỉnh
Hà Giang.
Từ năm 1986 đến năm 2010, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đường lối đổi
mới đã đi vào cuộc sống, người dân huyện Vị Xuyên nhận thức ngày càng
sâu sắc và thực hiện thành công trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nền
kinh tế đã có nhiều chuyển biến về cả nông - lâm nghiệp, công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, giao thông vận tải và xây dựng cơ
bản. Bộ mặt xã hội huyện Vị Xuyên ngày càng khởi sắc. Nhìn một cách
tổng thể, kinh tế - xã hội của huyện Vị Xuyên nhìn chung đã có sự chuyển
biến khá rõ rệt giữa hai giai đoạn: từ 1986 - 2000 và từ 2001 - 2010.
Trong giai đoạn đầu tiên, tình hình kinh tế - xã hội của Vị Xuyên còn
gặp nhiều khó khăn lớn. Những khó khăn này được đặt trong bối cảnh khó
khăn chung của đất nước và đặc biệt là tỉnh Hà Giang - một tỉnh miền núi
nghèo khó. Mặt khác những năm đầu đổi mới, Vị Xuyên lại càng khó khăn
bởi ảnh hưởng từ hậu quả cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc còn kéo dài.
Đời sống người dân còn thấp cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, số hộ dân
thiếu đói còn cao, cơ cấu kinh tế chỉ có nông - lâm nghiệp là chủ đạo nhưng
còn thiên về độc canh cây lương thực lúa, ngô với năng suất và sản lượng
thấp. Trước tình hình đó, huyện Vị Xuyên đã nhanh chóng thực hiện các
146
biện pháp cần thiết để từng bước ổn định đời sống nhân dân bằng cách đẩy
mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm
thiết yếu phục vụ cho cuộc sống. Trong lĩnh vực xã hội, công tác xóa mù
chữ, công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, vận động người dân bỏ các
hủ tục lạc hậu có nhiều tiến bộ. Từ giữa những năm 90 trở đi, tình hình kinh
tế - xã hội đã có bước chuyển biến tích cực hơn, tạo tiền đề quan trọng cho
sự chuyển biến mạnh ở giai đoạn sau. Sản xuất lương thực đã có sự tăng
nhanh cả về sản lượng và diện tích, góp phần bảo đảm an ninh lương thực.
Cơ cấu kinh tế đã có sự đa dạng khi bộ phận tiểu thủ công nghiệp được chú
ý phát triển, kinh tế đã dần chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa đối
với các loại cây - con có thế mạnh. Giáo dục đã nỗ lực phấn đấu và hoàn
thành được chỉ tiêu phổ cập giáo dục bậc tiểu học, các mặt khác của đời
sống xã hội đều đạt được những kết quả quan trọng.
Trong giai đoạn 2001 - 2010, trên cơ sở nền tảng đã đạt được trong giai
đoạn 1986 - 2000, huyện Vị Xuyên đã phát huy được một số lợi thế mà
trước đây chưa có điều kiện để khai thác. Có điều kiện tự nhiên khá đa dạng,
tài nguyên phong phú, nguồn lao động khá dồi dào, đường lối chính sách
phát triển kinh tế hợp lý, được sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh là nguồn
lực quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng phát triển. Vị Xuyên đã
có tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
đúng hướng theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ,
giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP, các ngành kinh tế
có bước phát triển tiến bộ. Các ngành kinh tế phát triển vượt bậc, nông
nghiệp từ chỗ nhiều hộ nông dân thiếu ăn triền miên, hoặc thiếu ăn trong lúc
giáp hạt đến chỗ bảo đảm được an ninh lương thực cho địa phương. Các
giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao được đưa vào
nuôi trồng đã tạo ra một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị, mang
thương hiệu trên thị trường. Một số vùng sản xuất chuyên canh mang tính
chất hàng hóa được hình thành, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế
147
biến nông sản hoặc cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh.
Tiểu thủ công nghiệp, từ chỗ còn hết sức mỏng và hạn chế đã dần tạo
được vị trí cao trong cơ cấu nền kinh tế của huyện. Công nghiệp từ chỗ là con
số không đã dần có được những cơ sở công nghiệp lắp ráp, gia công và hứa
hẹn sẽ được mở rộng trong tương lai. Công nghiệp chế biến ngày càng được
chú trọng phát triển, vừa tạo ra chiều sâu vừa đảm bảo tính bền vững, đồng
thời tạo đòn bẩy cho sự phát triển các ngành kinh tế khác. Sự tăng trưởng
nhanh của khu vực kinh tế thương mại, dịch vụ cho thấy mức sống của con
người được nâng lên, vai trò động lực của khu vực kinh tế này ngày càng rõ
nét, đồng thời cũng thể hiện được tính cạnh tranh, sự năng động của nền kinh
tế địa phương. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Tuy vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn chưa thực sự
cân đối, trong khi lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có sự tăng trưởng mạnh
và chiếm vị trí ngày càng lớn trong tỷ trọng GDP của huyện thì lĩnh vực
thương mại, dịch vụ tuy có tăng trưởng như vẫn chiếm vị trí còn khiêm tốn
trong cơ cấu. Điều này liên quan đến cơ sở hạ tầng kinh tế của Vị Xuyên
cũng như hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ kinh tế vẫn còn mỏng chưa đáp
ứng được nhu cầu phát triển. Đây là một trong những nội dung quan trọng
mà Đảng bộ cũng như chính quyền huyện Vị Xuyên cần chú ý tập trung
tháo gỡ trong thời gian tới.
Lĩnh vực văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến, chất lượng cuộc sống
được nâng lên, hạ dần tỷ lệ hộ đói nghèo; trật tự, an toàn xã hội được giữ
vững, an ninh - quốc phòng được củng cố. Thành tựu về giáo dục, y tế ngày
càng lớn hơn khi toàn huyện đã phổ cập được giáo dục trung học cơ sở, tất
cả các xã đều đạt chuẩn quốc gia về giáo dục và y tế. Đó là sự nỗ lực, cố gắng
của nhân dân các dân tộc huyện Vị Xuyên. Ngoài ra sự đang dạng và phong
phú về các loại hình cũng như chất lượng ngày càng nâng cao về văn hóa mà
người dân huyện Vị Xuyên được thụ hưởng cũng là một thành tựu quan trọng
148
mà Đảng bộ và nhân dân huyện Vị Xuyên đạt được.
2. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu còn nhiều vấn đề đáng quan
tâm và cần phải giải quyết, trong đó nổi lên hơn cả là tình trạng tái nghèo
của một bộ phận nhân dân; vấn đề tổ chức không gian kinh tế - xã hội, vấn
đề phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền
núi. Công tác đào tạo chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực công nghệ cao, đào
tạo nghề chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng phổ cập giáo dục còn
thấp và chưa bền vững. Đây là những vấn đề nan giải của một huyện vùng
cao như Vị Xuyên. Sự khó khăn về kinh tế của một bộ phận người dân, sự
không đồng bộ về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, sự mất cân đối về các mặt
giữa các khu vực trong huyện làm cho khả năng tái nghèo, tái mù chữ của
một bộ phận nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số nếu như không
có sự quan tâm thường xuyên của các cấp chính quyền trong huyện.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công
nghiệp - xây dựng, dịch vụ - du lịch nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa
bền vững. Tăng trưởng nội lực chưa nhiều, chưa có bước đột phá lớn. Giữa
các vùng, các lĩnh vực phát triển không đồng đều, chưa tương xứng với tiềm
năng thế mạnh của huyện. Công tác tiếp thị, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm còn hạn chế, sức cạnh tranh của nông sản mang thương hiệu Vị
Xuyên còn thấp. Công nghiệp phát triển chưa vững chắc, gặp nhiều khó
khăn về vốn, về chiến lược phát triển kinh doanh, về công nghệ và thị
trường tiêu thụ. Nhìn chung, quy mô công nghiệp còn nhỏ, công nghệ còn
lạc hậu, sản phẩm đơn điệu, sức cạnh tranh thấp. Mặt khác, sự lệ thuộc của
tăng trưởng kinh tế của Vị Xuyên vào các chương trình, dự án kinh tế cũng
là một vấn đề cần phải có sự điều chỉnh dần nhằm tăng tính tự chủ của nền
kinh tế huyện Vị Xuyên trong thời gian tới. Điều đó có được phải thực sự
bắt nguồn từ việc nâng cao hơn nữa năng lực các ngành kinh tế mũi nhọn
mà huyện Vị Xuyên có lợi thế, đẩy mạnh phát triển nông - lâm nghiệp theo
149
hướng sản xuất thâm canh chất lượng cao, nâng cao hơn nữa khả năng cạnh
tranh của các sản phẩm công nghiệp, thủ công nghiệp có lợi thế cạnh tranh,
từng bước nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ.
3. Từ quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên từ năm
1986 đến năm 2010 có thể thấy, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế
nhưng kết quả đạt được chứng minh chủ trương, chính sách của Đảng đối
với khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là đúng đắn, sự vận
dụng đường lối đổi mới của Đảng vào phát triển kinh tế, xã hội của địa
phương của Đảng bộ huyện Vị Xuyên là sáng tạo, là phù hợp. Thực tiễn cho
thấy đời sống của các đồng bào dân tộc thiểu số ở Vị Xuyên đã được nâng
cao một cách căn bản cả về mặt vật chất, chăm sóc sức khỏe cũng như khả
năng thụ hưởng văn hóa. Từ một huyện gặp nhiều khó khăn cả về mặt tự
nhiên, xã hội và hậu quả của cuộc chiến tranh biên giới để lại nặng nề, Đảng
bộ và nhân dân huyện Vị Xuyên đã ra sức thực hiện các chủ trương chính
sách của Đảng và nhà nước vừa sáng tạo, nỗ lực trong xây dựng phát triển
kinh tế địa phương và đã đạt được những thành tựu quan trọng. Những
thành tựu về kinh tế, xã hội mà huyện Vị Xuyên đạt được trong gần 30 năm
qua đã góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân
dân, đảm bảo quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới,
giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng hệ thống chính
trị ngày càng vững mạnh. Đó là cơ sở, điều kiện vàng cũng là niềm tin để
Đảng bộ và nhân dân huyện Vị Xuyên tiếp tục phát huy truyền thống và bài
học kinh nghiệm đã có, khai thác mọi tiềm năng lợi thế của mình, tranh thủ
sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh, xây dựng huyện Vị Xuyên ngày càng
150
phát triển, xứng đáng là huyện động lực phát triển của tỉnh Hà Giang.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Lê Hồng Sơn, Thực hiện chính sách dân tộc ở Vị Xuyên (Hà Giang)
giai đoạn 2000 - 2010, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10/2015, tr.104-107, ISSN
0936-8477.
2. Lê Hồng Sơn, Nhìn lại việc thực hiện Nghị quyết Trung ương V (khoá VIII)
ở Vị Xuyên, Hà Giang, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 2/2016, tr.3-5, ISSN
0866-8655.
3. Lê Hồng Sơn, Công tác xoá đói giảm nghèo ở huyện Vị Xuyên,
tỉnh Hà Giang giai đoạn 2000-2010, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á,
số 3/2016, tr.75-80, ISSN 0868-2739.
4. Lê Hồng Sơn, Kết quả triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW về tiếp
tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên địa
bàn huyện Vị Xuyên (Hà Giang), Tạp chí Thanh tra, số 3/2016, tr. 5 - 7,
151
ISSN 2354-1121.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (Chủ biên, 1994), Đổi mới kinh tế và phát triển, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Đinh Văn Ân (2005), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh bền vững, chất lượng cao ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
3. Vũ Đình Bách (2002), Kinh tế học vĩ mô, NXB Giáo dục, Hà Nội. 4. Vũ Đình Bách (Chủ biên, 2008), Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (1998), Những sự kiện lịch sử
Đảng bộ tỉnh Hà Giang thời kỳ 1939-1975, Hà Giang.
6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Hà Giang, tập 1, Hà Giang.
7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Hà Giang, tập 2, Hà Giang.
8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2009), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Hà Giang, tập 3, Hà Giang.
9. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên (1985), Báo cáo thành tích sản xuất, chiến đấu và tổ chức đời sống của quân và dân huyện Vị Xuyên từ năm 1979-1985, ngày 02 tháng 11 năm 1985.
10. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên (2001), Lịch sử Đảng bộ
huyện Vị Xuyên (1939 - 2000), Hà Giang.
11. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên (2005), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên lần thứ XXI nhiệm kỳ 2005 -2010, Vị Xuyên, 10/2005.
12. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên lần thứ XXII nhiệm kỳ 2010 - 2015, Vị Xuyên, 6/2010.
152
13. Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Ban Kinh tế Trung ương, Tỉnh Hà Giang (2015), Kỷ yếu Hội thảo phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang trong mối liên kết vùng Đông Bắc và Tây Bắc, Hà Giang,
14. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Giang (2011), Tỉnh Hà Giang 20 năm tái
lập và phát triển (1991 - 2011), Hà Giang.
15. Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, số 241, tháng 4-2011.
16. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên, 2009), Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Đình Bảy (2006), “Thương mại và du lịch Hà Giang: Trên đà
phát triển và hội nhập”, Tạp chí Thương mại, số 10, tr.29-30.
18. Đàm Văn Bông (2004), “Điểm đến thân thiện của du khách’, tạp chí
Du lịch Việt Nam, số 11.
19. Đàm Văn Bông (2005), “Huyện uỷ Vị Xuyên với việc nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr.57-60.
20. Đàm Văn Bông (2006), “Vị Xuyên - tiềm năng và cơ hội đầu tư”, Tạp
chí Đông Nam Á, số 7, tr. 52-53.
21. Bộ Công nghiệp (2006), Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh
Trung du và miền núi Bắc bộ, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.
22. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (2007), Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - Thành tựu, thách thức và giải pháp, Hà Nội.
23. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1996), Xóa đói giảm nghèo với
tăng trưởng kinh tế, NXB Lao động, Hà Nội.
24. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Những định hướng chiến lược của chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010, NXB Lao động xã hội, Hà Nội..
25. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Tài liệu tập huấn dành cho cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo cấp tỉnh và cấp huyện, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
153
26. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Số liệu thống kê xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000 và 2001 - 2003, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.
27. Nguyễn Duy Bột (chủ biên,1995), Một số vấn đề kinh tế thương mại -
dịch vụ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
28. Vũ Đăng Bút (2004), “Vị Xuyên nâng cao chất lượng dạy và học”,
tạp chí Dân tộc và thời đại, số 68, tr.29.
29. Nguyễn Văn Châu (2009), Ảnh hưởng tín dụng ưu đãi ngân hàng chính sách xã hội đến giảm tỉ lệ nghèo tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (luận văn Thạc sĩ Kinh tế), ĐH Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên.
30. Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của
thời đại, NXB Sự thật, Hà Nội.
31. Chi cục thống kê huyện Vị Xuyên, Niên giám thống kê 2009-2010. 32. Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ Quang Việt, Trần Vân (2002), Kinh tế Việt Nam đổi mới: Những phân tích và đánh giá quan trọng, NXB Thống kê, Hà Nội.
33. Trần Văn Chử (2004), Tài nguyên thiên nhiên môi trường với tăng trưởng và phát triển bền vững ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Nguyễn Sinh Cúc (1995), Nông nghiệp Việt Nam (1945 – 1995), NXB
Thống kê, Hà Nội.
35. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (1995), Số liệu kinh tế - xã hội tỉnh
Hà Giang 1990-1994.
36. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2005), Niên giám thống kê 2001 - 2004,
Hà Giang.
154
37. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (1999), Niên giám thống kê 1995-1998. 38. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2001), Niên giám thống kê 2000. 39. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2002), Niên giám thống kê 2001. 40. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2004), Niên giám thống kê 2001-2003. 41. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2003), Niên giám thống kê 2002. 42. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2006), Niên giám thống kê 2001-2005. 43. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2007), Niên giám thống kê 2002-2006. 44. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2008), Niên giám thống kê 2007.
45. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2009), Niên giám thống kê 2008. 46. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2011), Niên giám thống kê 2010. 47. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Khổng Diễn (Chủ biên, 1996), Những đặc điểm kinh tế - xã hội các
dân tộc miền núi phía Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Dũng (2004), Bưu điện Hà Giang với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr.53-55. 50. Khánh Duy (2005), “Hà Giang trong công cuộc xoá đói giảm nghèo”,
tạp chí Dân tộc và thời đại, số 76, tr.15,24.
51. Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (đồng Chủ biên, 2004), Các dân tộc ở Hà Giang, NXB Thế giới, Trung tâm Thông tin Văn hoá các dân tộc, Hà Nội.
52. Đại học Quốc gia Hà Nội - UBND tỉnh Hà Giang (2011), Kỷ yếu Hội thảo khoa học và Diễn đàn đầu tư “Vì Hà Giang phát triển”, Hà Nội, tháng 4-2011.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), số 22/NQ-TW, Nghị quyết về một số chủ trương,chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, ngày 27 tháng 11 năm 1989.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Chiến lược ổn định phát triển kinh tế
đến năm 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kì đổi mới (Đại
155
hội VI, VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia ,Hà Nội.
60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương (2007), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lí luận, thực tiễn 20 năm đổi mới (1986 - 2006), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Đảng bộ Quân sự tỉnh Hà Giang (2011), Lịch sử Đảng bộ Quân sự tỉnh
Hà Giang (1945 - 2010), Hà Giang.
64. Bế Viết Đẳng (Chủ biên, 1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 65. Võ Văn Đức (2009), Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
66. Minh Giang (2007), “Vị Xuyên làm du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt
Nam, số 6, tr.39.
67. Thạch Thiết Hà (2009), “Thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Hà
Giang”, Tạp chí Dân tộc học, số 5 (161), tr. 78-79.
68. Lương Việt Hải (Chủ biên, 2008), Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công
bằng xã hôi ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Lê Mậu Hãn (Chủ biên), Nguyễn Đình Lê, Trương Thị Tiến (2012),
Lịch sử Việt Nam - tập 4, NXB Giáo dục, Hà Nội.
70. Nguyễn Hồng Hạnh (2013), Sinh kế bền vững cho cán bộ dân tộc thiểu số tại các vùng định canh định cư - tình huống huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học kinh tế TP.Hồ Chí Minh. 71. Tô Đức Hạnh, Phạm Văn Linh (2000), Phát triển kinh tế hàng hóa trong nông thôn các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam, thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
72. Nguyễn Thị Hằng (2001), Chính sách lao động, thương binh và xã hội
156
trong công cuộc đổi mới, NXB Lao động, Hà Nội.
73. Nguyễn Thanh Hằng, Lê Duy Đồng (2005), Phân phối và phân hóa giàu nghèo sau 20 năm đổi mới, NXB Lao động xã hội, Hà Nội. 74. Nguyễn Thị Thu Hiền (2013), Phát triển tài nguyên rừng gắn với giảm nghèo ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ Địa lý, Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
75. Hoàng Ngọc Hòa (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
76. Sơn Phước Hoan (2009), “Thực hiện một số chính sách xã hội ở vùng dân tộc thiểu số trong hội nhập và phát triển”, Tạp chí Cộng sản, số 805, tháng 11, tr. 14-17.
77. Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa X (2005), Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước về dân tộc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 78. Đoàn Minh Huấn (2000), “Quan điểm của Đảng về đảm bảo sự thống nhất giữa các chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong thời kì đổi mới”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11, tr.19-21.
79. Huyện uỷ Vị Xuyên (2013), Báo cáo kết quả 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, ngày 20-1-2013.
80. Huyện uỷ Vị Xuyên (2014), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngày 22-4-2014.
81. Phạm Gia Khiêm (2006), “Xoá đói giảm nghèo ở nước ta - thành tựu
thách thức và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản, tháng 2.
82. Kinh tế - Xã hội Việt Nam trước thềm hội nhập (2005), NXB Thống kê,
Hà Nội.
83. Kinh tế - Xã hội Việt Nam, Các tỉnh - thành phố - quận - huyện năm
2010 (2006), NXB Thống kê, Hà Nội.
84. Tống Duy Khuyên (2004), “Ngành giáo dục và đào tạo Vị Xuyên: Một
157
chặng đường phát triển”, tạp chí Đông Nam Á, số 9.
85. Vũ Ngọc Kỳ (2000), Tăng cường hệ thống chính trị vững mạnh trên
địa bàn tỉnh Hà Giang, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
86. Vi Thái Lang (2015), Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở miền núi phía Bắc nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh
vực hoạt động, NXB Sự thật, Hà Nội.
88. Nguyễn Thế Long (2006), Đổi mới tư duy, phát triển giáo dục Việt
Nam trong kinh tế thị trường, NXB Lao động, Hà Nội.
89. Lê Quốc Lý (Chủ biên, 2012), Chính sách xoá đói giảm nghèo - thực
trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
90. Nguyễn Văn Mậu (2004), “Du lịch Hà Giang - tiềm năng và hướng
phát triển”, Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 66, tr. 23-24.
91. Viên Thị Mừng (2005), Nghề nấu rượu thóc truyền thống của người Tày ở xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.68-70.
92. Một số văn kiện về chính sách dân tộc - miền núi của Đảng và Nhà
nước (1992), NXB Sự thật, Hà Nội.
93. Đậu Tuấn Nam (2013), Di cư của người Mông từ đổi mới đến nay,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Phạm Xuân Nam (chủ biên, 1991), Đổi mới kinh tế - xã hội thành tựu,
vấn đề và giải pháp, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
95. Phạm Văn Nhần, Lê Xuân Mát, Ngô Huy Chương (1999), Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn tỉnh Hà Giang (1900 - 1998), NXB Lao động, Hà Nội.
96. Thanh Như (2008), “Vị Xuyên trên đường hội nhập”, tạp chí Dân tộc
và phát triển, tháng 4.
97. Quế Nga (2005), Vị Xuyên - nơi mùa đông không còn ở lại, tạp chí
Đông Nam Á, tháng 3, tr.66-67,71.
98. Hoàng Đức Nghi (2001), Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi mới
158
(1990-2000), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
99. Nghị định số 64/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã phường của thị xã Hà Giang và huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang, Công báo, tháng 7-2006.
100. Đặng Phong (2009), Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989, NXB Tri
thức, Hà Nội.
101. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa (chủ biên) (1998), Phát triển kinh tế xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Nguyễn Trọng Phúc (2000), Một số kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
103. Nguyễn Trọng Phúc (2006), Đổi mới ở Việt Nam- Thực tiễn và nhận
thức lý luận, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
104. Trịnh Huy Quách, Hoàng Thị Tây Ninh (2004), Vấn đề di dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tạp chí Cộng sản, số 13, tr.58-62.
105. Lương Xuân Quỳ (Chủ biên, 2015), Tư duy mới về phát triển kinh tế -
xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 106. Nguyễn Duy Quý (2008), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
107. Quyết định số 72/HĐBT Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát
triển kinh tế - xã hội miền núi, ngày 13 tháng 3 năm 1990.
108. Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg Về phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc thời kỳ 2001 - 2005, ngày 7-12- 2001.
109. Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg Phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010, ngày 10-1-2006.
159
110. Quyết định số 89/1998/QĐ-TTg Phê duyệt chương trình tổng thế phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường an ninh, quốc phòng khu vực 33 xã và 1 thị trấn vùng cao biên giới tỉnh Hà Giang, ngày 7-5-1998.
111. Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg Phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa, ngày 31-7-1998.
112. Quyết định số 170/2005/QĐ- TTg Về việc ban hành chuẩn nghèo áp
dụng cho giai đoạn 2006 – 2010, ngày 8-7-2005.
113. Quyết định số 393/2005/QĐ-UBDT Về việc ban hành Quy định về Tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển, ngày 29-8-2005.
114. Quyết định số 164/2006/QĐ-TTg Về việc phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II), ngày 11-7-2006.
115. Quyết định số 05/2007/QĐ-UBDT ngày 6/9/2007, Quyết định số 301/2006/QĐ-UBDT ngày 27/11/2006 của UBDT Về việc công nhận 3 khu vực vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển.
116. Quyết định số 69/2008/QĐ-TTg Về việc phê duyệt bổ sung danh sách các xã ĐBKK, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình 135 giai đoạn II và danh sách các xã ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II, ngày 28-5-2008.
117. Quyết định số 136/2009/QĐ-TTg Về việc thành lập Khu kinh tế cửa
khẩu Thanh Thuỷ, tỉnh Hà Giang, ngày 26-11-2009.
118. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Giang (2008), Hà Giang tiềm năng và cơ
hội đầu tư, Hà Giang.
119. Sở Tư pháp Hà Giang (1998), Tập hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật tỉnh Hà Giang 1991 - 1996, Hà Giang.
120. Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Hà Giang (2010), Các đề án phát triển sự
nghiệp văn hóa, thông tin tỉnh Hà Giang giai đoạn 2001-2010.
121. Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi
160
mới và phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Mai Thanh Sơn (2004), Định hướng khai thác tiềm năng du lịch văn hoá tộc người ở Vị Xuyên, tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11, tr.42-44. 123. Nguyễn Đình Tấn, Trần Thị Bích Hằng (2010), Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
124. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên - 2010), Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã
hội Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Lê Thanh (2005), “Xoá đói giảm nghèo, vấn đề và giải pháp vùng dân tộc thiểu số ở phía Bắc Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.71-72. 126. Trần Thanh (2004), “Ngành giao thông vận tải Hà Giang với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá vùng cao biên giới”, tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr.56-88.
127. Triệu Đức Thanh (2004), “Những khởi sắc kinh tế - xã hội tỉnh Hà
Giang”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, tr. 8-11.
128. Bế Trường Thành - Phan Hữu Dật - Lê Ngọc Thắng (2002), Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
129. Đào Thu Thuỷ (2007), Hiệu quả từ chương trình 135, tạp chí Dân tộc
và thời đại, số 100.
130. Bùi Phương Thuý (2010), Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên, Hà Giang thời kì đổi mới (luận văn Thạc sĩ Địa lí), Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
131. Lê Thông (Chủ biên) (2008), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 132. Tạ Nam Tiến, Nguyễn Thanh Long, Phạm Ngọc Dũng (2010), Ngành lao động - thương binh và xã hội Hà Giang - 65 năm xây dựng và phát triển (1945 - 2010), NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
133. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở
161
Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
134. Toàn cảnh kinh tế Việt Nam - Các ngành kinh tế Việt Nam (2006),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
135. Đỗ Hoàng Toàn (1998), Mấy vấn đề cơ bản về chiến lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xã hội - Những vấn đề cơ bản của thời kì quá độ, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
136. Nguyễn Trường Tô (2007), “Hà Giang bước vào mùa xuân đổi mới”,
tạp chí Dân tộc và thời đại, số 100, tr.23-24.
137. Nguyễn Trường Tô (2009), “Những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang trong những năm 2006-2008”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 148, tr. 42-43, 55.
138. Tổng cục Thống kê (1999), Tư liệu kinh tế - xã hội 61 tỉnh và thành
phố, NXB Thống kê, Hà Nội.
139. Tổng cục Thống kê (2005), Tư liệu kinh tế - xã hội 64 tỉnh và thành
phố, NXB Thống kê, Hà Nội.
140. Tổng cục Thống kê (2006), Tư liệu kinh tế - xã hội 671 huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
141. Tổng cục Thống kê (2009), Tư liệu kinh tế - xã hội 63 tỉnh, thành phố
Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
142. Tổng cục Thống kê (2011), Số liệu thống kê vị thế kinh tế - xã hội 63 tỉnh, thành phố Việt Nam (Song ngữ Việt-Anh), NXB Thống kê, Hà Nội.
143. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang (2001), Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891-2001), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
144. Lê Xuân Trinh (1990), Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2000: mục tiêu, phương hướng và giải pháp chủ yếu, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. 145. Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
146. Uỷ ban Dân tộc và Miền núi (2001), Về vấn đề dân tộc và công tác dân
162
tộc ở nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
147. Uỷ ban Dân tộc (2004), Một số thông tin cơ bản các tỉnh vùng dân tộc
và miền núi, NXB Thống kê, Hà Nội.
148. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Dân tộc học (1987), Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
149. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1985), Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu, kế hoạch phát triển kinh tế văn hóa xã hội năm 1986, ngày 30 tháng 8 năm 1985.
150. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1990), Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện về việc thực hiện kế hoạch 9 tháng đầu năm 1990, ngày 12 tháng 9 năm 1990.
151. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1991), Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội năm 1990 và phương hướng mục tiêu năm 1991, ngày 16 tháng 1 năm 1991.
152. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1992), Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên về việc thực hiện các chỉ tiêu cơ bản về kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện, ngày 10 tháng 7 năm 1992.
153. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1993), Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên về tình hình thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, anh ninh quốc phòng 10 tháng đầu năm 1993 và những dự kiến khả năng thực hiện 2 tháng cuối năm 1993, ngày 21-10-1993.
154. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1994), Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên về tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 1993, ngày 08 tháng 1 năm 1994.
155. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1995), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 2 năm 1993 - 1994, ngày 25 tháng 6 năm 1995.
163
156. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1996), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1996, phương hướng nhiệm vụ năm 1997, ngày 30 tháng 12 năm 1996.
157. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1997), Báo cáo tóm tắt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên - tỉnh Hà Giang (giai đoạn 1997-2010), tháng 7 năm 1997.
158. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1998), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội năm 1998. Phương hướng, nhiệm vụ năm 1999, ngày 31 tháng 12 năm 1998.
159. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1999), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và một số nhiệm vụ chủ yếu 6 tháng cuối năm 1999, ngày 05 tháng 7 năm 1999.
160. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2000), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên 2000 - 2010. Tài liệu lưu hành nội bộ, Vị Xuyên.
161. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2001), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2000, phương hướng, biện pháp thực hiện nhiệm vụ trong 2001 (báo cáo tại kỳ họp thứ 4 HĐND huyện khóa 16), ngày 03 tháng 3 năm 2001.
162. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2002), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001. Phương hướng nhiệm vụ chủ yếu năm 2002, ngày 01 tháng 02 năm 2002.
163. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2003), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2002. Phương hướng nhiệm vụ chủ yếu năm 2003, ngày 10 tháng 01 năm 2003.
164. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2003), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2003. Phương hướng giải pháp thực hiện nhiệm vụ năm 2004, ngày 20 tháng 12 năm 2003.
164
165. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2004), Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005, ngày 19 tháng 12 năm 2004.
166. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2005), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006, ngày 26 tháng 12 năm 2005.
167. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2006), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ năm 2007, ngày 25 tháng 12 năm 2006.
168. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2007), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2007 và phương hướng năm 2008, ngày 25 tháng 12 năm 2007.
169. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2008), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008. Phương hướng, nhiệm vụ năm 2009, ngày 26 tháng 12 năm 2008.
170. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2008), Đề án phát triển giáo dục
Tiểu học huyện Vị Xuyên giai đoạn 2008 - 2010, Vị Xuyên.
171. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2009), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và phương hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, ngày 18 tháng 12 năm 2009.
172. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo tổng kết Chương trình 135 giai đoạn II từ năm 2006 đến năm 2010, ngày 04 tháng 10 năm 2010.
173. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, phương hướng nhiệm vụ và một số giải pháp chủ yếu năm 2011, ngày 30 tháng 11 năm 2010.
174. Ủy ban nhân huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo quá trình thực hiện các mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở giai đoạn 2001-2010.
165
175. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo tổng hợp “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên đến năm 2020. Vị Xuyên.
176. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm huyện Vị Xuyên từ năm 2005 đến 2010. 177. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên 2000 - 2010, Tài liệu lưu hành nội bộ, Vị Xuyên.
178. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2011), Đề án đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo huyện Vị Xuyên giai đoạn 2010 - 2015, Vị Xuyên.
179. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên - Phòng Văn hóa & Thông tin (2012), Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và kết luận Hội nghị Trung ương 10 khóa IX “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, ngày 12 tháng 12 năm 2012.
180. Viện Dân tộc học (1987), Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền
núi phía Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
181. Việt Nam trong thế kỉ XX (2001), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Các website: hagiang.gov.vn, vixuyen.hagiang.gov.vn, baohagiang.vn,
moj.gov.vn, www.cema.gov.vn, thuvienphapluat.vn
Tài liệu điền dã: Trong quá trình thực hiện luận án, ngoài việc trực tiếp đến
làm việc với các Phòng - Ban huyện Vị Xuyên để thu thập tài liệu, tác giả đã
phỏng vấn, trao đổi lấy ý kiến một số nhân chứng về quá trình phát triển
kinh tế, xã hội huyện. Đó là:
1. Ông Lưu Đình Phát, nguyên Phó Bí thư huyện uỷ, Chủ tịch UBND
huyện Vị Xuyên. Số điện thoại: 0975190359. Địa chỉ: Đưởng Trần
166
Phú, Thành phố Hà Giang.
2. Ông Bùi Quang Trung, Trưởng phòng Văn hoá - Thông tin huyện
Vị Xuyên, nguyên Chánh Văn phòng UBND huyện Vị Xuyên.
Số điện thoại: 0912143439. Địa chỉ: Thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị Xuyên.
3. Bà Lê Thị Liên, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Vị Xuyên.
Số điện thoại: 01233053323. Địa chỉ: Thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị
Xuyên.
4. Bà Trần Thị Ngọc, Phó Chánh văn phòng UBND huyện Vị Xuyên.
Số điện thoại: 0915876345. Địa chỉ: Thị trấn Vị Xuyên, huyện
Vị Xuyên.
5. Bà Bùi Phương Thuý, Giảng viên Trường Cao đẳng sư phạm
Hà Giang (người xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên). Số điện thoại:
0915172630. Địa chỉ: Đường Nguyễn Trãi, Thành phố Hà Giang.
6. Ông Hầu A Sách, Đại tá, Trưởng phòng An ninh điều tra (PA92)
Công an tỉnh Hà Giang (người xã Bạch Ngọc, huyện Vị Xuyên).
Số điện thoại: 0913271325. Địa chỉ: Đường Minh Khai, Thành phố
167
Hà Giang.
PHỤ LỤC
168
Nguồn: [14; tr.9]
169
Phụ lục 1. Bản đồ tỉnh Hà Giang, năm 2010
Nguồn: [130; tr.36]
170
Phụ lục 2. Bản đồ hành chính huyện Vị Xuyên (năm 2010)
Nguồn: [130; tr.43]
171
Phụ lục 3. Bản đồ dân cư huyện Vị Xuyên
Phụ lục 4. Bản đồ phân định xã, thị trấn thuộc vùng dân tộc thiểu số và
Nguồn: [130; tr.69]
172
miền núi huyện Vị Xuyên theo trình độ phát triển, đến năm 2010
Phụ lục 5. Biểu đồ cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên
từ năm 2000 đến 2010
Nguồn: Niên giám thống kê và báo cáo của UBND huyện theo các năm
173
(đơn vị tính %)
Phụ lục 6. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2009
STT
Danh mục
Dân số (người)
Số hộ
Mật độ dân số (Người/km2)
Diện tích (ha)
64.37
Tổng cộng
149,524.99
96,250.00
21,036.00
524.44
1 Thị trấn Vị Xuyên
1,487.87
7,803.00
2,056.00
255.18
2 Thị trấn Việt Lâm
1,781.46
4,546.00
1,317.00
3 Lao Chải
5,012.57
1,796.00
312.00
35.83
4 Xín Chải
2,347.28
906.00
164.00
38.60
5 Thanh Đức
2,322.21
743.00
128.00
32.00
6 Thanh Thuỷ
5,244.63
2,095.00
454.00
39.95
7 Phương Tiến
5,826.90
2,874.00
572.00
49.32
8 Kim Thạch
2,803.76
2,190.00
512.00
78.11
9 Kim Linh
3,730.53
2,497.00
495.00
66.93
10 Phong Quang
3,472.17
2,179.00
501.00
62.76
11 Minh Tân
10,814.34
5,647.00
1,073.00
52.22
12 Thuận Hoà
10,835.48
5,943.00
1,161.00
54.85
13 Tùng Bá
12,298.66
6,810.00
1,357.00
55.37
14 Cao Bồ
11,016.60
3,678.00
712.00
33.39
15 Đạo Đức
4,361.75
4,975.00
1,273.00
114.06
16 Linh Hồ
7,707.72
7,605.00
1,586.00
98.67
17 Ngọc Linh
4,565.27
4,213.00
931.00
92.28
18 Ngọc Minh
7,432.56
3,883.00
760.00
52.24
19 Bạch Ngọc
11,940.37
3,803.00
743.00
31.85
20 Trung Thành
5,759.97
5,471.00
1,252.00
94.98
21 Việt Lâm
3,802.22
4,174.00
1,070.00
109.78
22 Quảng Ngần
8,371.97
2,153.00
414.00
25.72
23 Thượng Sơn
11,754.04
5,201.00
1,056.00
44.25
24 Phú Linh
4,834.66
5,065.00
1,137.00
104.76
174
Nguồn: [160; tr.80]
Phụ lục 7. Hiện trạng sử dụng đất năm 2010 huyện Vị Xuyên
MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG
TỔNG SỐ (HA)
CƠ CẤU THEO LOẠI ĐẤT (%)
CƠ CẤU THEO TỔNG DTTN (%)
A
B
C
D
TỔNG DIỆN TÍCH ĐẤT TỰ NHIÊN
149,524.99
100.00
100.00
I. NHÓM ĐẤT NÔNG NGHIỆP
139,209.97
93.10
93.10
1. Đất sản xuất nông nghiệp
20,540.91
14.76
13.74
1.1-Đất trồng cây hàng năm
14,283.74
69.54
9.55
1.1.1-Đất trồng lúa
5,353.53
37.48
3.58
1.1.2-Đất cỏ dùng vào chăn nuôi
346.16
2.42
0.23
1.1.3-Đất trồng cây hàng năm khác
8,584.05
60.10
5.74
1.2-Đất trồng cây lâu năm
6,257.17
30.46
4.18
2. Đất lâm nghiệp
118,455.34
85.09
79.22
2.1-Đất rừng sản xuất
65,541.33
55.33
43.83
2.2-Đất rừng phòng hộ
27,648.96
23.34
18.49
2.3-Đất rừng đặc dụng
25,265.05
21.33
16.90
3. Đất nuôi trồng thủy sản
187.96
0.14
0.13
4. Đất nông nghiệp khác
25.76
0.02
0.02
II.NHÓM ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP
4,676.72
3.13
3.13
1. Đất ở
1,006.16
21.51
0.67
1.1-Đất ở tại nông thôn
884.04
87.86
0.59
1.2-Đất ở tại đô thị
122.12
12.14
0.08
2. Đất chuyên dùng
2,073.90
44.35
1.39
2.1-Đất trụ sở cơ quan, công trình
sự nghiệp
43.96
2.12
0.03
2.2-Đất quốc phòng, an ninh
272.00
13.12
0.18
175
2.3-Đất sản xuất, kinh doanh
phi nông nghiệp
811.59
0.54
39.13
2.4-Đất sử dụng vào mục đích công cộng
946.35
0.63
45.63
3. Đất tôn giáo tín ngưỡng
1.01
0.00
0.02
4. Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa
55.16
0.04
1.18
5. Đất sông, suối và MNCD
1,540.49
32.94
1.03
6. Đất phi nông nghiệp khác
-
-
-
II. NHÓM ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG
5,638.30
3.77
3.77
1. Đất bằng chưa sử dụng
174.23
0.12
3.09
2. Đất đồi núi chưa sử dụng
4,958.48
3.32
87.94
3. Núi đá không có rừng cây
505.59
0.34
8.97
Nguồn: [160; tr.81]
176
Phụ lục 8. Hiện trạng ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (2000 - 2010)
HIỆN TRẠNG
STT
CHỈ TIÊU
ĐVT
2000
2005
2008
2009
2010
1000 viên
17,690.00
28,290.00
34,790.00
26,918.00
35,768.00
Sản xuất gạch ngói
1
46,160.00
64,560.00
73,760.00
87,689.00
90,630.00
Khai thác đá, cát sỏi
2
m3
-
131,000.00 270,843.00 380,370.00 410,370.00
3 Khai thác quặng
Tấn
-
6,000.00
26,543.00 105,350.00 119,900.00
4 Quặng Mangan
Tấn
-
35,000.00
69,300.00
47,520.00
52,470.00
5 Quặng chì, kẽm
Tấn
-
90,000.00 175,000.00 227,500.00 238,000.00
6 Quặng sắt 45%
Tấn
-
-
650.00
956.00
1,200.00
Sản xuất ô tô con và ô tô tải
7
Chiếc
22.80
31.60
37.40
40.20
42.50
Sản xuất dao cuốc các loại
8
1000 S.phẩm
Sản xuất hàng may mặc
9
1000 S.phẩm
18.60
25.00
32.00
34.50
35.00
10 Sản xuất điện
Tr.Kw/h
12.00
40.00
60.00
65.00
110.00
Nước máy khai thác
11
1000m3
55.00
80.00
82.00
90.00
Tổng công suất các trạm BA
12
KVA
6,500.00
11,500.00
18,000.00
20,200.00
20,500.00
13 Gạo, ngô xay sát
Tấn
13,500.00
25,400.00
37,279.00
37,961.00
38,370.00
Hàng nông sản khác (đậu phụ)
14
Tấn
60.00
95.00
114.00
116.00
120.00
15 Chè sơ chế
Tấn
950.00
2,095.00
2,104.00
3,516.00
Hàng lâm sản (quy ra gỗ)
16
m3
90.00
130.00
145.00
148.00
150.00
Vật liệu xây dựng (xẻ, xay sát đá)
1000m3
3.50
6.00
7.80
8.20
8.50
17
Nguồn: [160; tr.86]
177
Phụ lục 9. Một số văn bản của Chính phủ và tỉnh Hà Giang
QUYẾT ĐỊNH Số 89/1998/QĐ-TTg ngày 7-5-1998 của Thủ tướng Chính phủ
PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
VÀ TĂNG CƯỜNG AN NINH, QUỐC PHÒNG KHU VỰC 33 XÃ
VÀ 1 THỊ TRẤN VÙNG CAO BIÊN GIỚI TỈNH HÀ GIANG
-------------------
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
- Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
- Xét tờ trình số 1390/UB-CV ngày 13/11/1997 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang về đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại công văn số 2569/BKH-VPTĐ ngày 21 tháng 4 năm 1998,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt ''Chương trình tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường an ninh, quốc phòng 33 xã và 1 thị trấn vùng cao biên giới tỉnh Hà Giang'' với những nội dung chủ yếu sau:
1. Phạm vi và địa điểm: Địa bàn thực hiện chương trình gồm 33 xã và 1 thị trấn thuộc 7 huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì, Vị Xuyên, Xín Mần. Tổng diện tích toàn vùng là 118.514 ha với 11.930 hộ, trên 71.000 người, bao gồm:
- Các xã Thượng Phùng, Xín Cái và Sơn Vĩ thuộc huyện Mèo Vạc,
- Các xã Lũng Cú, Ma Lé, Lũng Táo, Đồng Văn, Xà Phìn, Phố Là, Sủng Là, Phó Cáo và thị trấn Phó Bảng thuộc huyện Đồng Văn;
- Các xã Phú Lũng, Thắng Mố, Bạch Đích và Na Khê thuộc huyện Yên Minh.
- Các xã Bát Đại Sơn, Nghĩa Thuận, Tùng Vài, Tả Ván, Cao Mã Pờ thuộc huyện Quản Bạ.
- Các xã Bản Máy, Thàng Tìn, Thèn Chu Phì và Phố Là thuộc huyện Hoàng Su Phì.
- Các xã Minh Tân, Thanh Thuỷ, Thanh Đức, Xín Chải, Lao Chải thuộc huyện Vị Xuyên.
- Các xã Pà Vầy Sủ, Xín Mần, Nàn Xỉn, Chí Cà thuộc huyện Xín Mần.
2. Mục tiêu của Chương trình.
178
a) Phát triển kinh tế - xã hội.
- Về kinh tế: Đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất nông - lâm sản hàng hóa; trước mắt phá bỏ cây thuốc phiện ở những nơi còn gieo trồng, tập trung phát triển cây lương thực và chăn nuôi đại gia súc... đồng thời có kế hoạch tận dụng đất đai để trồng chè, cây ăn quả, cây dược liệu; thực hiện giao đất, giao và khoán rừng tới từng hộ gia đình, xây dựng nông thôn mới nhằm ổn định dân cư và sản xuất, giảm nhanh số hộ đói.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng: Ưu tiên đầu tư nâng cấp cải tạo và xây dựng mới hệ thống đường giao thông nhất là các tuyến ra các cửa khẩu, tuyến hành lang biên giới; tiếp tục xây dựng các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện nhỏ, cấp nước ăn và nước sản xuất, thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình, trường học và trạm y tế xã.
- Về xã hội: Tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhất là giáo dục, y tế nhằm nâng cao trình độ dân trí đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc vùng cao biên giới xoá mù chữ, phổ cập văn hóa cấp 1 cho thanh niên, chăm sóc tốt sức khoẻ cho đồng bào.
b) Bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Nhanh chóng hoàn thành dứt điểm việc rà phá mìn ở các vùng đất còn mìn để đưa vào sản xuất nông nghiệp, ổn định các điểm dân cư sát biên giới. Đầu tư xây dựng các đồn biên phòng, các cửa khẩu, trước mắt là nhà ở, thông tin liên lạc, nước ăn... tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
3. Tổ chức quản lý thực hiện chương trình: Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang lập Ban Chỉ đạo chương trình do một đồng chí Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban, lãnh đạo các ngành chức năng liên quan của tỉnh làm thành viên. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Giang làm nhiệm vụ thường trực giúp tỉnh và các Bộ, ngành Trung ương phối hợp các chương trình, dự án của Nhà nước trên địa bàn vùng thực hiện chương trình.
Điều 2. Căn cứ những nội dung chính nêu trên, giao Uỷy ban nhân dân tỉnh Hà Giang chỉ đạo lập các dự án đầu tư các công trình cụ thể trong chương trình tổng thể dựa trên việc lựa chọn các nội dung ưu tiên cấp bách khác nhau đối với mỗi xã. Các Bộ, ngành Trung ương có liên quan có trách nhiệm tham gia giúp tỉnh đảm bảo tính đồng bộ của dự án trên cùng một địa bàn. Việc thẩm định, phê duyệt dự án phải tuân theo các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
Căn cứ dự án đầu tư các công trình trong Chương trình tổng thể đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí kế hoạch vốn hàng năm.
Điều 3. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang vận dụng các chính sách, chế độ đề ra những biện pháp cụ thể trong việc thực hiện chương trình tổng thể này; đồng thời
179
phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương có liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ quyết định những chính sách mang tính đặc thù của các dự án thuộc chương trình nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc góp phần bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biên giới.
Nguồn vốn thực hiện chương trình: Ngoài nguồn vốn ngân sách, tỉnh được huy động các nguồn vốn khác theo quy định hiện hành (vốn tự có, vốn vay, vốn huy động trong nhân dân...).
Điều 4. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.
Các Bộ trưởng, Trưởng ban chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang và huyện Mường Tè của Chính phủ; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang; Thủ trưởng các cơ quan liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Đã ký: Phan Văn Khải
180
QUYẾT ĐỊNH Số: 164/2006/QĐ-TTg ngày 11 tháng 7 năm 2006
Về việc phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II)
__________
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10 tháng 01 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010;
Xét đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm ñy ban Dân tộc,
QUYẾT ĐỊNH :
Điều 1. Phê duyệt danh sách 1.644 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu chưa hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 giai đoạn 1999-2005 và các xã được chia tách theo các Nghị định của Chính phủ từ xã chưa hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 giai đoạn 1999 - 2005 vào diện đầu tư Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II). Danh sách các xã vào diện đầu tư Chương trình 135 giai đoạn 2006 - 2010 kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Thực hiện hỗ trợ đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2006-2010
cho tổng số 1.644 xã như sau:
1. Ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư: 1.581 xã (Danh sách kèm theo).
2. Ngân sách địa phương đầu tư: 63 xã (Danh sách kèm theo).
Điều 3. Các xã chưa hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 còn lại do chia tách từ xã đã hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 giai đoạn 1999-2005 và do các địa phương đề nghị sẽ được xem xét bổ sung vào diện đầu tư Chương trình 135 sau khi có kết quả phân định 3 khu vực.
Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng
Công báo.
Quyết định này thay thế các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách, bổ sung và thay tên các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu thuộc phạm vi Chương trình 135 giai đoạn 1999 - 2005: Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 1999; Quyết định số 647/QĐ-TTg ngày 12
181
tháng 7 năm 2000; Quyết định số 42/2001/QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 2001; Quyết định số 120/2002/QĐ-TTg ngày 18 tháng 9 năm 2002; Quyết định số 231/2003/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2003 và Quyết định số 15/2005/QĐ-TTg ngày 19 tháng 01 năm 2005.
Điều 5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phạm Gia Khiêm
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Toà án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể; - Học viện Hành chính Quốc gia; - VPCP: BTCN, TBNC, các PCN, BNC, Website Chính phủ, Ban Điều hành 112, Người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu: Văn thư, VX (5b).
182
DANH SÁCH CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN VÀO DIỆN ĐẦU TƯ CỦA CHƯƠNG TRÌNH 135 GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
(Ban hành kèm theo Quyết định số 164/2006/QĐ-TTg ngày 11 tháng 7 năm 2006
của Thủ tướng Chính phủ)
Tỉnh/Huyện
Tên xã
Ghi chú
ST T
1
1
2 Tổng Hà Giang
3 1644 112
6
Ngân sách ĐP đầu tư 5 63 0
Phân loại ngân sách Ngân sách TW hỗ trợ đầu tư 4 1581 112 x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x
1 1. Mèo Vạc 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 2. Đồng Văn 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25
Giàng Chu Phìn Xín Cái Sơn Vĩ Pải Lủng Thượng Phùng Sủng Trà Lũng Chinh Cán Chu phìn Lũng Pù Khâu Vai Niêm Sơn Nậm Ban Tát Ngà Tả Lùng Ma lé Lũng Cú Lũng Táo Xà Phìn Thài Phìn Tủng Sủng Là Phố Là Phố Cáo Lũng Thầu Vần Chải Sủng Trái
183
Sảng Tủng Hồ Quáng Phìn Lũng Phìn Sính Lủng Tả Phìn Tả Lủng Đồng văn T T Phó Bảng Sủng Thài Phú Lũng Thắng Mố Sủng Tráng Lao Và Chải Ngam La Ngọc Long Mậu Long Đường Thượng Du Già Du Tiến Lũng Hồ Hữu Vinh Thanh Vân Nghĩa Thuận Tả Ván Lùng Tám Bát Đại Sơn Cán Tỷ Cao Mã Pờ Tùng Vài Thái An
x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x
26 27 28 29 30 31 32 33 34 3. Yên Minh 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 4. Quản Bạ 48 49 50 51 52 53 54 55 56 5. Hoàng Su Phì Nàng Đôn Bản Phùng 57 Pố Lồ 58 Đản Ván 59 Ngàm Đăng Vài 60
184
61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 6. Xín Mần 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 7. Bắc Mê 89 90 91 92 93 94 95
x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x
Sán Xà Hồ Pờ Ly Ngài Hồ Thầu Chiến Phố Nậm Khoà Bản Máy Thàng Tín Thèn Chu Phìn Túng Sán Bản Nhùng Tả Sử Choóng Bản Péo Bản Luốc Bản Díu Thèn Phàng Tả Nhìu Bản Ngò Nấm Dẩn Chế Là Quảng Nguyên Chí Cà Pà Vầy Sủ Nàn Xỉn Nàn Ma Ngán Chiên Trung Thịnh Thu Tà Phú Nam Minh Sơn Giáp Trung Yên Cường Đường Hồng Đường Âm Phiêng Luông Thượng Tân
185
Thanh Thuỷ Thuận Hoà Thanh Đức Ngọc Minh Cao Bồ Minh Tân Xín Chải Lao Chải Ngọc Linh Bạch Ngọc Tân Lập Thượng Bình Đồng Tiến
96 8. Vị Xuyên 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 9. Bắc Quang 107 108 109 10. Quang Bình Bản Rịa 110 111 112 2
Cao Bằng
0
Nà Khương Xuân Minh Tiên Nguyên 106 Phan Thanh
x x x x x x x x x x x x x x x x x 106 x
1 1. Bảo Lạc …
Tổng số 287 huyện, 45 tỉnh
186
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11
năm 2003.
- Căn cứ Quyết định số 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt đề án tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn đến năm 2010.
- Căn cứ Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Giang lần thứ XIII nhiệm kỳ 2000 - 2005. Dự thảo Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Giang lần thứ XIV nhiệm kỳ 2006 - 2010.
- Căn cứ Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Giang giai
đoạn 2001-2010.
- Căn cứ kết luận tại văn bản số 273-KL/TU ngày 09/5/2005 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang.
- Căn cứ yêu cầu phát triển ngành Thương mại và du lịch đến năm 2015 và
định hướng những năm tiếp theo.
Xét đề nghị của giám đốc sở Thương mại và Du lịch tỉnh Hà giang tại tờ
trình số 36/TT-TMDL ngày 15/7/2005.
Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Thương mại tỉnh Hà Giang đến năm 2015 UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG
QUYẾT ĐỊNH
đến năm 2015 với những nội dung chủ yếu sau:
Điều 1. Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Thương mại tỉnh Hà Giang
+ Mục tiêu tổng quát:
Đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động thương mại làm cho thương mại thực sự trở thành đòn bảy thúc đẩy phát triển sản xuất, phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tiến bộ, góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tăng tích luỹ cho ngân sách.
Xây dựng nên thương mại của tỉnh phát triển lành manh, mở rộng thị trường trong tỉnh, thị trường trong nước và Quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, văn minh thương mại, hội nhập khu vực và thế giới.
187
1. Mục tiêu.
Nâng cao năng lực phát triển của ngành thương mại cả về cơ sở vật chất kỹ
thuật và nhân lực, tăng cường công tác quản lý nhà nước về thương mại.
+ Mục tiêu cụ thể:
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn GDP toàn tỉnh giai đọan
2006 - 2010 đạt 13% trở lên và 15% trở lên vào năm 2015
Cơ cấu GDP đến năm 2015:
- Thương mại - Dịch vụ 39% vào năm 2010 và 42% vào năm 2015
- Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản 28% vào năm 2010 và 20% vào năm 2015
- Công nghiệp - Xây dựng 33% vào năm 2010 và 38% vào năm 2015
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ bình quân tăng
18% giai đoạn 2006 - 2010 và 20% vào năm 2015.
Giá trị hàng hoá xuất, nhập khẩu đạt 250 triệu USD vào năm 2010 và 430
triệu USD vào năm 2015.
Phát huy thế mạnh kinh tế cửa khẩu, xây dựng các trung tâm thị xã, các huyện lỵ, mở rộng một số chợ thành chợ đầu mối, các chợ biên giới, chợ nông thôn.
Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại, cải tạo nâng cấp hệ thống mạng lưới bán lẻ, chợ, cửa hàng xăng dầu, xây dựng các trung tâm thương mại tại thị xã Hà Giang, huyện Bắc Quang, cửa khẩu Thanh Thủy, xây dựng Trung tâm xúc tiến thương mại - du lịch tại thị xã Hà Giang.
2. Nội dung quy hoạch.
Tiếp tục thực hiện Nghị định số 103/1999/NĐ - CP ngày 10/9/1999 của Chính phủ (về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước). Quyết định số 115/2003/QĐ-TTg ngày 10/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ (Về phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN trực thuộc UBND tỉnh Hà Giang giai đoạn 2003-2005). Hoàn thành cổ phần hoá trong năm 2005 theo hướng nhà nước nắm giữ dưới 40% cổ phần công ty Thương mại tổng hợp Hà Giang các doanh nghiệp còn lại cổ phần hóa 100%.
Khuyến khích mạnh mẽ phát triển thương mại ngoài quốc doanh, kinh tế hợp tác, hợp tác xã thương mại dịch vụ tổng hợp họat động trên địa bàn vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó khăn.
Xây dựng 03 trung tâm thương mại lớn của tỉnh là; thị xã Hà Giang, cửa khẩu Thanh Thủy và thị trấn Việt Quang - Bắc Quang, siêu thị độc lập tại Vị
188
2.1. Mạng lưới cửa hàng thương mại, trung tâm thương mại, siêu thị.
Xuyên, Trung tâm mua bán phía bắc Yên Minh, phía tây Hoàng Su Phì. Phát luồng kinh doanh bán buôn, bán lẻ hàng hoá dịch vụ thương mại trên địa bàn tỉnh và các tỉnh bạn, xây dựng kho ngoại quan, bãi kiểm hoá tại cửa khẩu quốc gia Thanh Thủy.
Quy hoạch phát triển đến năm 2015 như sau:
- Giai đoạn 2006 - 2010: Đầu tư xây dựng 9.000 m2 Trung tâm thương mại, siêu thị (trong đó 1.400 m2 siêu thị) tại thị xã Hà Giang, cải tạo, nâng cấp trung tâm thương mại Thanh Thủy. Xây dựng mới 400m2 siêu thị độc lập tại thị trấn Trung tâm huyện Vị Xuyên.
- Giai đoạn 2011- 2015: Đầu tư xây dựng 9.500m2 trung tâm thương mại, siêu thị tại thị trấn Việt Quang - Bắc Quang (trong đó 1.900m2 siêu thị). Xây dựng mới 800m2 siêu thị độc lập tại thị trấn Trung tâm 2 huyện Yên Minh 400 m2 và Hoàng Su Phì 400 m2.
Triển khai thực hiện Quyết định 559/QĐ-TTg ngày 31/5/2004 của Thủ
tướng Chính Phủ phê duyệt chương trình phát triển chợ đến năm 2010.
Quy hoạch phát triển chợ tỉnh Hà Giang đến năm 2015 như sau:
+ Giai đoạn 2006 - 2010:
Mở rộng, nâng cấp 55 chợ trong đó: Chợ trung tâm các huyện lỵ Quang
Bình, Bắc Mê, Xín Mần, Yên Minh, Đồng Văn và các chợ xã trung tâm cụm xã.
Đầu tư xây dựng mới 63 chợ trong đó có 3 chợ thành chợ đầu mối phát luồng bán buôn các mặt hàng nông lâm sản, gia súc của tỉnh gồm; chợ cam, quýt, chanh, quả có múi Vĩnh Tuy - Bắc Quang, chợ chè, đậu tương, nông sản Vinh Quang - Hoàng Su Phì, chợ gia súc, trâu, bò, ngựa, dê Lũng Phin - Đồng Văn và các chợ khác đưa tổng số chợ trên địa bàn tỉnh lên 152 chợ vào năn 2010.
+ Giai đoạn 2011 -2015:
Mở rộng cải tạo nâng cấp 24 chợ, đầu tư xây dựng mới 26 chợ thị xã, thị trấn, chợ biên giới những nơi có điều kiện mở chợ và các chợ nông thôn khác đưa tổng số chợ trên địa bàn tỉnh lên 178 chợ vào năm 2015.
2.2. Mạng lưới chợ.
Quy hoạch phát triển cửa hàng bán lẻ xăng dầu đến năm 2015 như sau:
189
2.3. Mạng lưới cửa hàng bán lẻ xăng dầu.
+ Giai đoạn 2006 - 2010: Mở rộng kho trung chuyển xăng dầu Thị xã Hà Giang, đầu tư xây dựng 21 cửa hàng, đưa tổng số cửa hàng bán lẻ xăng dầu trên địa bàn tỉnh lên 53 cửa hàng vào năm 2010.
+ Giai đoạn 2011 - 2015: Mở rộng kho trung chuyển xăng dầu thị trấn Tân Quang - Bắc Quang, đầu tư xây dựng 22 cửa hàng, đưa tổng số cửa hàng bán lẻ xăng dầu tỉnh lên 75 cửa hàng vào năm 2015
- Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp thương mại nhà nước trên địa bàn tỉnh đến cuối năm 2005 hoàn thành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thương mại trên địa bàn.
- Tăng cường vốn cho ngành thương mại thông qua huy động mọi nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong tỉnh, trong nước và ngoài nước bằng cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, liên doanh liên kết phát triển thương mại.
- Nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về thương mại, hoàn thiện môi trường pháp lý, đẩy mạnh cải cách hành chính, hướng dẫn thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển thương mại, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia tích cực và bình đẳng trong hoạt động thương mại.
- Khuyến khích thương nhân hoạt động thương mại thông qua hệ thống cơ chế chính sách miễn giảm thuế, ưu đãi tín dụng, ưu đãi về thuê đất, giao đất đầu tư xây dựng ... tăng cường tính pháp chế đối với các hoạt động quản lý thị trường.
- Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động, kỹ thuật trong ngành thương mại, tạo mọi điều kiện cho các đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia học tập, bổi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để có đủ điều kiện về trình độ đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập Quốc tế.
- Thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế cửa khẩu và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm khai thác lợi thế cửa khẩu Thanh Thủy và các cửa khẩu tiểu ngạch, hệ thống chợ biên giới. Đẩy mạnh xuất khẩu và buôn bán qua biên giới giữa Hà Giang - Việt Nam với Vân Sơn - Trung Quốc và các địa phương khác của tỉnh Vân Nam - Trung Quốc.
3. Giải pháp thực hiện quy hoạch
190
Điều 2. Căn cứ nội dung quy hoạch tổng thể phát triển Thương mại tỉnh Hà Giang đến năm 2015 đã được phê duyệt, sở Thương mại và Du lịch, các sở, ban, ngành chức năng có liên quan, UBND các huyện, thị xã thông báo công khai quy hoạch, xây dựng các dự án chi tiết để tổ chức thực hiện.
Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký ./.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc sở:Thương mại và Du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư, các Sở, ban, ngành chức năng liên quan, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG CHỦ TỊCH (Đã ký) Đỗ Trọng Quý
Nơi nhận: - VP Chính phủ - Bộ Thương mại (Báo cáo) - TTr Tỉnh Ủy - TTr HĐND tỉnh (Tường) - CT, các PCT UBND tỉnh - Như Điều 3 (Thực hiện); - Lãnh đạo VP UBND tỉnh; - Lưu VT, KTTH ,
191
NGHỊ ĐỊNH
Số: 64/2006/NĐ-CP, ngày 23 tháng 06 năm 2006
VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH XÃ, PHƯỜNG
CỦA THỊ XÃ HÀ GIANG VÀ HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. Điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường của thị xã Hà Giang và huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang như sau:
1. Điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường của thị xã Hà Giang như sau:
- Điều chỉnh toàn bộ 4.350 ha diện tích tự nhiên và 5.231 nhân khẩu của xã Phú Linh; 3.050 ha diện tích tự nhiên và 2.353 nhân khẩu của xã Kim Thạch; 3.590 ha diện tích tự nhiên và 2.529 nhân khẩu của xã Kim Linh thuộc thị xã Hà Giang về huyện Vị Xuyên quản lý.
- Điều chỉnh 103,4 ha diện tích tự nhiên và 77 nhân khẩu của phường Quang Trung thuộc thị xã Hà Giang về xã Phong Quang thuộc huyện Vị Xuyên quản lý.
2. Điều chỉnh địa giới hành chính xã của huyện Vị Xuyên như sau:
Điều chỉnh toàn bộ 4.303 ha diện tích tự nhiên và 3.515 nhân khẩu của xã Phương Độ; 3.219 ha diện tích tự nhiên và 3.227 nhân khẩu của xã Phương Thiện thuộc huyện Vị Xuyên về thị xã Hà Giang quản lý.
3. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính:
- Phường Quang Trung thuộc thị xã Hà Giang có 1.005,6 ha diện tích tự nhiên và 3.605 nhân khẩu.
- Thị xã Hà Giang có 13.025,6 ha diện tích tự nhiên và 40.058 nhân khẩu, có 8 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm các phường: Quang Trung, Nguyễn Trãi, Trần Phú, Minh Khai, Ngọc Hà và các xã: Ngọc Đường, Phương Thiện, Phương Độ.
- Xã Phong Quang thuộc huyện Vị Xuyên có 3.478,4 ha diện tích tự nhiên và 1.855 nhân khẩu.
- Huyện Vị Xuyên có 148.750,4 ha diện tích tự nhiên và 91.825 nhân khẩu, có 24 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm các xã: Tùng Bá, Thuận Hoà, Minh Tân,
192
Phong Quang, Thanh Thuỷ, Thanh Đức, Lao Chải, Xín Chải, Phương Tiến, Cao Bồ, Đạo Đức, Trung Thành, Ngọc Linh, Ngọc Minh, Bạch Ngọc, Linh Hồ, Việt Lâm, Quảng Ngần, Thượng Sơn, Phú Linh, Kim Thạch, Kim Linh và các thị trấn: Vị Xuyên, nông trường Việt Lâm.
Điều 2. Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Mọi quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 3. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang và Thủ trưởng các cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này ./.
TM. CHÍNH PHỦ THỦ TƯỚNG (đã ký) Phan Văn Khải
Nơi nhận: - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Hội đồng Dân tộc của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - HĐND, UBND tỉnh Hà Giang; - Ban Tổ chức Trung ương; - Các Bộ: Nội vụ, Công an, Quốc phòng, Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Giao thông vận tải, Kế hoạch và Đầu tư; - Tổng cục Thống kê; - Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước; - VPCP: BTCN, TBNC, các PCN, Website Chính phủ, Ban Điều hành 112, Người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ, các Vụ: ĐP, TCCB, TH, Công báo; - Lưu: Văn thư, NC (5b),
193
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG Số: 09/2007/NQ-HĐND
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Giang, ngày 12 tháng 7 năm 2007
NGHỊ QUYẾT Về việc ban hành quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển Kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG KHOÁ XV – KỲ HỌP THỨ 9
Căn cứ Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ: Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003, Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) năm 2003 và các Nghị định của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành các đạo luật nêu trên; các văn bản qui phạm pháp luật của Trung ương có liên quan đến lĩnh vực ưu đãi, hỗ trợ đầu tư;
Sau khi xem xét Tờ trình số: 133/TTr-UBND ngày 19 tháng 6 năm 2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2010;
Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang đã thảo luận và nhất trí,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang (có quy định cụ thể kèm theo).
194
Điều 2. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 22/7/2007, bãi bỏ Nghị quyết số: 04/2006/NQ-HĐND ngày 10/7/2006 của HĐND tỉnh về việc ban hành chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi trâu bò giai đoạn 2006 - 2010 trên địa bàn tỉnh Hà Giang và các qui định trước đây trái với Nghị quyết này.
Điều 3. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang giao cho Uỷ ban nhân dân
tỉnh tổ chức thực hiện.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang khoá XV -
Kỳ họp thứ 9 thông qua./.
CHỦ TỊCH (Đã ký) Nguyễn Viết Xuân
Nơi nhận: - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; - Văn phòng Chính phủ; - Các bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư; - Cục Kiểm tra văn bản - Bộ Tư pháp; - Thường trực Tỉnh uỷ,HĐND, UBND tỉnh; - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; - Các Ban và Đại biểu HĐND tỉnh; - Văn phòng: Đoàn ĐBQH&HĐND; UBND tỉnh; - Các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; - HĐND - UBND các huyện, thị; - Công báo tỉnh, Chuyên viên HĐND tỉnh; - Lưu VT.
195
QUY ĐỊNH Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang (Ban hành kèm theo Nghị quyết số: 09 /2007/NQ-HĐND ngày 12 /7/2007 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang) Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Đối tượng áp dụng 1. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy
định của pháp luật Việt Nam, bao gồm:
a. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập và hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp.
b. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn
để thực hiện dự án đầu tư tại tỉnh Hà Giang.
c. Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật
HTX.
d. Hộ gia đình, cá nhân thực hiện đăng ký kinh doanh theo Nghị định số
88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
(Nhà đầu tư là doanh nghiệp phải có trụ sở chính hoặc chi nhánh hoặc văn phòng đại diện và thực hiện hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh trên địa bàn tỉnh Hà Giang)
2. Hộ nông dân, cá nhân không đăng ký kinh doanh theo Nghị định số
88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Điều 2. Phạm vi áp dụng 1. Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư được áp dụng đối với các dự án đầu tư mới; dự án đầu tư mở rộng về qui mô, nâng cao năng suất, năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường; các dự án đã đầu tư nay theo quy hoạch phải di chuyển địa điểm xây dựng nhà máy vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
2. Các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội được áp dụng với tất cả các đối tượng đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Điều 3. Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư Dự án đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh thuộc danh mục lĩnh vực được quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số: 108/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội theo Quy định này.
196
Điều 4. Về thủ tục hành chính
Thực hiện niêm yết công khai về thủ tục hành chính trên các lĩnh vực tại Trung tâm giao dịch “Một cửa” của các cơ quan để tổ chức, công dân biết; phấn đấu thời gian hoàn thành các công việc liên quan trực tiếp đến tổ chức, công dân rút ngắn 1/3 thời gian theo quy định của Trung ương, cụ thể như sau:
1. Cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo Luật Đầu tư:
a) Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đến dưới 300 tỷ đồng, không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện; không thuộc danh mục dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô dưới 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó:
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành
báo cáo trình Uỷ ban nhân dân tỉnh.
- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư.
b) Đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và dự án có quy mô trên 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn là 17 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó:
- Trong thời hạn 13 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành
báo cáo thẩm tra trình Uỷ ban nhân dân tỉnh.
- Trong thời hạn không quá 04 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư.
c) Đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư là 37 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký đầu tư hợp lệ.
d. Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian khi nhà đầu tư phải chỉnh sửa, bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của cơ quan tiếp nhận hồ sơ sau khi tổng hợp ý kiến thẩm tra của các bộ, ngành và các sở, ngành liên quan.
2. Đối với việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất:
197
a) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 123 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 33 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó:
- Trong thời hạn không quá 23 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoàn thành hồ sơ địa chính theo quy định, gửi đến Phòng Tài nguyên và Môi trường.
- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ địa chính của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc thẩm tra hồ sơ địa chính và trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét quyết định.
- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Tờ trình của Phòng Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoàn thành việc quyết định giao đất, cho thuê đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ký kết hợp đồng thuê đất đối với trường hợp thuê đất.
b) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 125 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 13 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.
c) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 126 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 13 ngày làm việc kể từ ngày giải phóng xong mặt bằng và nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.
d) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 128 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 12 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó:
- Trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ của người sử dụng đất, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành thủ tục về giao lại đất hoặc cho thuê đất theo quy định và gửi quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất kèm theo hồ sơ đến cơ quan tài nguyên và môi trường thuộc UBND cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp ký giấy
198
chứng nhận quyền sử dụng đất, gửi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu.
- Trong thời gian không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày người sử dụng đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với cơ quan thuế, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành việc bàn giao đất trên thực địa và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất.
3. Thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình
a) Thời gian thẩm định dự án, bao gồm cả thời gian thẩm định thiết kế cơ
sở được tính từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ:
- Đối với dự án nhóm B: Thời gian thẩm định là 20 ngày làm việc.
- Đối với dự án nhóm C: Thời gian thẩm định là 13 ngày làm việc.
b) Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian chủ đầu tư phải chỉnh
sửa, bổ sung hồ sơ dự án theo ý kiến thẩm định của các ngành chức năng.
4. Thời gian thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường
Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án.
5. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép xây dựng
Trong thời hạn là 15 ngày làm việc từ ngày nhận được hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng của nhà đầu tư Sở Xây dựng, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã (theo thẩm quyền được quy định tại Điều 21 Nghị định số: 16/2005/NĐ- CP) hoàn thành việc cấp giấy phép xây dựng công trình cho nhà đầu tư.
6. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép hoạt động khoáng sản
a) Trong thời hạn 40 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ của tổ chức trong nước xin cấp giấy phép hoạt động khoáng sản hoặc của tổ chức nước ngoài, tổ chức liên doanh có bên nước ngoài xin cấp giấy phép kháo sát, thăm dò khoáng sản, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên và Môi trường trình, Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định việc cấp phép hoặc không cấp phép hoạt động khoáng sản.
b) Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh có bên nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư và nộp đầy đủ, hợp lệ hồ sơ xin cấp giấy phép khai thác, chế biến khoáng sản theo quy
199
định, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên và Môi trường trình, Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định việc cấp phép.
Chương 2: ÁP DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ
Điều 5. Về giá thuê đất, thuê mặt nước 1. Về đơn giá thuê đất được tính theo quy định tại Quyết định số:
2157/2006/QĐ-UBND ngày 21/8/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang.
2. Về mức giá đất để tính đơn giá thuê đất được áp dụng trên cơ sở bảng giá đất được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hàng năm và các quy định hiện hành của Nhà nước.
3. Về đơn giá thuê đất tại khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thuỷ huyện Vị Xuyên được áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Quyết định số: 53/2001/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới và Quyết định số: 184/2001/QĐ-TTg ngày 21/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép cửa khẩu Thanh Thuỷ tỉnh Hà Giang được áp dụng chính sách Khu kinh tế cửa khẩu biên giới.
Điều 6. Về ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất Ưu đãi về miễn, giảm tiền sử dụng đất thực hiện theo quy định tại Điều 11, Điều 12 và Điều 13 Nghị định số: 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính Phủ về thu tiền sử dụng đất.
Điều 7. Về ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước Ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước thực hiện theo quy định tại Điều 13, Điều 14 và Điều 15 Nghị định số: 142 /2005/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
Điều 8. Về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 34, Áp dụng miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 35, Điều 36, Điều 37, Điều 38, Điều 39, Điều 40, Điều 41, Điều 42 và Điều 43 Nghị định số: 24/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Điều 9. Về ưu đãi thuế giá trị gia tăng Nhà đầu tư khi nhập khẩu thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây truyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp được miễn thuế giá trị gia tăng theo quy định tại Điều 4 Nghị định số: 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
200
Luật Thuế gía trị gia tăng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng.
Điều 10. Về ưu đãi miễn thuế nhập khẩu Nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư theo quy định tại Điều 16 Nghị định số: 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Chương 3: CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẦU TƯ
Điều 11. Về giải phóng mặt bằng 1. Ngân sách địa phương thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng đối với đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu. Ban quản lý khu, cụm công nghiệp và Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng trên diện tích đất bị thu hồi trước khi giao đất hoặc cho thuê đất.
2. Các điểm dự án đầu tư riêng lẻ, ngân sách địa phương hỗ trợ tối đa không quá 50 % kinh phí đền bù, giải phóng mặt bằng trên diện tích được giao hoặc cho thuê để xây dựng nhà máy và hỗ trợ tối đa không quá 30 % kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng để làm đường giao thông, đường điện từ trục chính đến hàng rào nhà máy. Các ngành chức năng của Uỷ ban nhân dân tỉnh và Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã tổ chức thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng, rà phá vật cản trên diện tích đất thu hồi trước khi giao đất hoặc cho thuê đất.
Điều 12. Hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp 1. Ngân sách địa phương đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp như: Hệ thống cấp điện, cấp nước và làm đường giao thông từ trục chính đến chân hàng rào khu công nghiệp.
2. Hỗ trợ tối đa không quá 30 % kinh phí bằng nguồn ngân sách địa phương để nhà đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong hàng rào khu công nghiệp. Hạng mục công trình được hỗ trợ theo qui định của Thủ tướng Chính phủ đối với khu công nghiệp.
Điều 13. Hỗ trợ đầu tư đối với các dự án cơ sở hạ tầng nằm trong vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản
1. Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, như: Đường từ trục chính vào khu nhà máy, hệ thống cấp điện, kho bảo quản, chợ bán buôn nằm trong vùng nguyên liệu (vùng sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) tập trung, gắn với cơ sở chế biến và tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản
201
theo quy hoạch được phê duyệt, được tỉnh hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư cho dự án với tỷ lệ nguồn vốn theo địa bàn như sau:
a. Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang, hỗ trợ tối đa không quá 40 % tổng vốn đầu tư của dự án.
b. Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần, hỗ trợ tối đa không quá 60 % tổng vốn đầu tư của dự án.
2. Nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án được nêu tại khoản 1 Điều này, sử dụng từ nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung theo quy định tại Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.
Điều 14. Hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư
1. Nhà đầu tư được các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh cung cấp thông tin về thị trường trên địa bàn tỉnh Hà Giang và các vấn đề có liên quan đến dự án đầu tư mà nhà đầu tư yêu cầu.
2. Nhà đầu tư được hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư
3. Nhà đầu tư được đưa thông tin lên mạng trong trang Websie của UBND Tỉnh (miễn phí) nhằm xúc tiến, quảng bá đầu tư kinh doanh thương mại, du lịch, giới thiệu hàng hoá của địa phương.
Chương 4: CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Điều 15. Hỗ trợ chăn nuôi, xây dựng chuồng trại, cơ sở chế biến thức
ăn chăn nuôi.
1. Đối với hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi trâu, bò đực giống được hỗ trợ kinh phí với mức là 1,2 triệu đồng/ con/ năm cho trâu, bò đực giống đã qua tuyển chọn và được cấp giấy chứng nhận.
2. Ngân sách địa phương hỗ trợ trả lãi suất tiền vay ngân hàng cho các hộ gia đình, cơ sở chăn nuôi trâu, bò thương phẩm ( hàng hoá ) và trâu, bò sinh sản như sau:
a. Hỗ trợ 50 % lãi suất trong 24 tháng cho hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh.
b. Hỗ trợ 100 % lãi suất trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết cho hộ gia đình nghèo chưa có trâu, bò để mua trâu, bò cái sinh sản. Mức vay tối đa là 05 triệu đồng tại Ngân hàng chính sách xã hội của các huyện, thị xã.
202
3. Hỗ trợ 100 % tiền mua vắc xin để tiêm phòng cho đàn trâu, bò ở các xã vùng III, thôn vùng III thuộc các xã vùng II và hỗ trợ 50 % tiền mua vắc xin để tiêm phòng cho đàn trâu, bò ở các xã vùng II. Việc hỗ trợ thông qua cơ quan thú y của các huyện, thị xã.
4. Hỗ trợ hộ gia đình trồng cỏ gắn với chăn nuôi trâu, bò, cụ thể như sau: a. Hỗ trợ mua giống cỏ trồng trong năm đầu, với mức hỗ trợ 0,9 triệu đồng/ha. Diện tích trồng cỏ được hưởng chính sách hỗ trợ là 500 m2/hộ, trên cơ sở kết quả nghiệm thu của Hội đồng nghiệm thu cấp huyện.
b. Hỗ trợ kinh phí khuyến nông và quản lý chương trình trồng mới cỏ
chăn nuôi. Mức hỗ trợ là 100.000 đồng/ha.
5. Hỗ trợ 50 % lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng cho các hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi để làm chuồng trại chăn nuôi trâu, bò hàng hoá. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng.
6. Hỗ trợ 50 % lãi suất trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình và doanh nghiệp để xây dựng cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng/ hộ gia đình và 200 triệu đồng/doanh nghiệp.
Điều 16. Chính sách đối với Hợp tác xã 1. Các hợp tác xã được giao đất, cho thuê đất và được áp dụng các chính sách miễn, giảm các loại thuế sử dụng đất ở mức ưu đãi nhất theo Luật đất đai và các quy định khác của nhà nước.
2. Các hợp tác xã có khó khăn về vốn, có nhu cầu vay vốn, Ngân sách tỉnh hỗ trợ 50 % lãi suất vay vốn tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh trong thời gian 03 năm, với mức vay mỗi Hợp tác xã không quá 100 triệu đồng.
3. Cán bộ quản lý hợp tác xã tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn (thời gian không quá 01 tháng) được ngân sách tỉnh hồ trợ 150.000 đồng/người/họcviên. Các lớp đào tạo dài hạn do các hợp tác xã tự trang trải kinh phí.
3. Khuyến khích cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tham gia công tác tại Hợp tác xã, ngân sách nhà nước hỗ trợ 50 % lương và các khoản phụ cấp cho số cán bộ này trong 3 năm đầu, mỗi Hợp tác xã được hỗ trợ không quá 02 người, trong 03 năm chỉ được hỗ trợ 01 lần; còn lại do Hợp tác xã tự hạch toán chi trả lương cho cán bộ.
Điều 17. Hỗ trợ về trồng rừng sản xuất Đối với các hộ nghèo được hỗ trợ 01 triệu đồng/ ha. Diện tích trồng rừng
được hỗ trợ tối đa không quá 05 ha/hộ.
203
Điều 18. Hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản Khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình được thuê đất, thuê mặt nước (nguồn nước sông, suối tự nhiên) để nuôi trồng thuỷ sản; được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành của nhà nước và được tỉnh hỗ trợ đầu tư như sau:
1. Hỗ trợ với mức 05 triệu đồng/ ha cho các hộ nghèo thuộc các xã vùng III và thôn vùng III của xã vùng II của tỉnh để xây dựng ao thả cá. Diện tích ao tối thiểu để được hỗ trợ phải từ 0,5 ha trở lên.
2. Hỗ trợ 50 % lãi suất trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình và doanh nghiệp để đầu tư nuôi trồng thuỷ sản. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng/hộ gia đình và 50 triệu đồng/tổ chức.
Điều 19. Hỗ trợ đào tạo dạy nghề lao động tại địa phương, lao động
xuất khẩu
1. Nhà đầu tư thực hiện mở lớp đào tạo nghề tập trung hoặc gửi lao động của địa phương đi đào tạo nghề và tuyển dụng vào làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư được ngân sách tỉnh hỗ trợ tối đa không quá 750.000 đ/người/khoá học nghề (mỗi lớp đào tạo phải có ít nhất 20 người trở lên) sau khi đã có ký kết hợp đồng sử dụng lao động theo quy định.
2. Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động đi xuất khẩu theo chương trình, kế hoạch của tỉnh, thông qua các trung tâm đào tạo nghề của tỉnh, với mức hỗ trợ tối đa không quá 750.000 đ/người/khoá học nghề. Thời gian một khoá đào tạo nghề theo qui định của các trung tâm.
Điều 20. Chính sách đối với các cơ sở giáo dục (trường, lớp) mầm non
tư thục
1. Cá nhân, nhóm cá nhân có nhu cầu đầu tư xây dựng các trường, lớp mầm non tư thục được Nhà nước giao đất, được miễn tiền sử dụng đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. 2. Đươc hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng với mức tiền vay không quá 01 tỷ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của trường, lớp mầm non tư thục kể từ khi cơ sở đi vào hoạt động có hiệu quả.
3. Được xem xét hỗ trợ một phần trang thiết bị ban đầu (01 lần) cho các
trường, lớp mầm non tư thục khi mới thành lập.
4. Được xem xét áp dụng các chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập theo Nghị định số: 53/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ (trừ chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã được quy định tại Điều 22 của Quy định này).
204
Điều 21. Hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn Các cơ sở ngành nghề nông thôn (sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản và các sản phẩm văn hoá) được tỉnh hỗ trợ 50 % lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời gian 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh để phát triển ngành nghề nông thôn. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 20 triệu đồng/ hộ gia đình và 100 triệu đồng/ tổ chức.
Điều 22. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Đối với các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của tỉnh trong các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo; y tế; văn hoá; thể dục thể thao; khoa học và công nghệ; môi trường; xã hội; dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em (trừ các cơ sở trường lớp mầm non tư thục đã quy định tại Khoản 2, Điều 20 của Quy định này và tổ chức, cá nhân thành lập hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đối với các lĩnh vực nêu trên) được ngân sách địa phương hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, như sau:
1. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang được xem xét hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo qui mô từng cơ sở, mức tiền vay được hỗ trợ lãi xuất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.
2. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Mèo Vac, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần được xem xét hỗ trợ 70 % lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo qui mô từng cơ sở mức tiền vay được hỗ trợ lãi suất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.
Chương 5: TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 23. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước Uỷ ban nhân dân tỉnh qui định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó nhằm giải quyết nhanh chóng các thủ tục cho nhà đầu tư theo đúng thời gian qui định và thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo đúng tiến độ, kế hoạch đã được phê duyệt và đảm bảo theo đúng các quy định của pháp luật.
Điều 24. Trách nhiệm của nhà đầu tư 1. Nhà đầu tư căn cứ quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư tổ chức thực hiện các dự án theo đúng tiến độ và mục tiêu đã được ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư; sử dụng tối đa lao động tại địa phương, ưu tiên số lao động
205
đã qua đào tạo tại các cơ sở dạy nghề của tỉnh và lao động trong các hộ gia đình có đất bị thu hồi để xây dựng dự án theo tiêu chuẩn tuyển dụng của nhà đầu tư.
2. Quản lý, sử dụng đất được giao hoặc thuê đúng mục đích. Đất được nhà nước giao, thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa hoặc sử dụng đất không đúng mục đích, không có hiệu quả sẽ bị thu hồi. Trường hợp có lý do chính đáng chưa thực hiện được dự án đầu tư thì nhà đầu tư phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và cho phép gia hạn thêm, nhưng tối đa không được quá 24 tháng. Điều 25. Khen thưởng – Kỷ luật 1. Đơn vị, cá nhân triển khai thực hiện tốt chính sách của Tỉnh đối với nhà đầu tư sẽ được tỉnh xem xét khen thưởng với các hình thức và mức khen thưởng theo các quy định hiện hành của Nhà nước.
2. Đơn vị, cá nhân không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư (gây khó khăn phiền hà sách nhiễu) và gây cản trở quá trình kêu gọi dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh thì tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo qui định của pháp lệnh công chức và các qui định hiện hành của pháp luật. Thủ trưởng cơ quan có người vi phạm phải chịu trách nhiệm trước tỉnh.
CHỦ TỊCH (Đã ký) Nguyễn Viết Xuân
206
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Giang, ngày 08 tháng 07 năm 2009
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TỈNH HÀ GIANG Số: 12/2009/NQ-HĐND
NGHỊ QUYẾT
Về việc ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG KHÓA XV - KỲ HỌP THỨ 13
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Luật Ngân sách nhà nước ngày 26 tháng 12 năm 2002 ;
Căn cứ Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005;
Căn cứ Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 27 tháng 06 năm 2005;
Căn cứ Luật Thuế thu nhập cá nhân ngày 21 tháng 11 năm 2007;
Căn cứ Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của
Chính phủ về thu tiền sử dụng đất;
Căn cứ Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2005 của
Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;
Căn cứ Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2005 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu;
Căn cứ Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư;
Căn cứ Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 của Chính
phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế;
Căn cứ Nghị định số 44/2008/NĐ-CP ngày 09 tháng 04 năm 2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất;
Căn cứ Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp;
207
Căn cứ Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2008 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thuế giá trị gia tăng;
Căn cứ Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường;
Căn cứ Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với khu kinh tế cửa khẩu;
Căn cứ Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày 19 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn;
Sau khi xem xét Tờ trình số 99/TTr-UBND ngày 22 tháng 06 năm 2009 của UBND tỉnh Hà Giang về việc bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung một số nội dung tại Nghị quyết số 09/2007/NQ-HĐND ngày 12/07/2007 của HĐND tỉnh về việc ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang;
Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang đã thảo luận và nhất trí,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang (có Quy định cụ thể kèm theo).
Điều 2. Nghị quyết này có hiệu lực kể từ ngày 18 tháng 07 năm 2009, thay thế Nghị quyết số 09/2007/NQ-HĐND ngày 12/07/2007 của HĐND tỉnh Hà Giang về việc ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Điều 3. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang giao cho Uỷ ban nhân dân tỉnh
tổ chức thực hiện.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang khóa XV - Kỳ
họp thứ 13 thông qua./.
CHỦ TỊCH
Nguyễn Viết Xuân
208
QUY ĐỊNH Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 12/2009/NQ-HĐND ngày 08 tháng 07 năm 2009 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang)
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Đối tượng áp dụng
1. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy
định của pháp luật Việt Nam, bao gồm:
a) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập và hoạt động
theo Luật Doanh nghiệp.
b) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Nhà đầu tư nước ngoài bỏ
vốn để thực hiện dự án đầu tư tại tỉnh Hà Giang.
c) Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật
HTX.
d) Hộ gia đình, cá nhân thực hiện đăng ký kinh doanh theo Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.
2. Hộ nông dân, cá nhân không đăng ký kinh doanh theo Nghị định số
88/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.
Điều 2. Phạm vi áp dụng
1. Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư được áp dụng đối với các dự án đầu tư mới; dự án đầu tư mở rộng về quy mô, nâng cao năng suất, năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường; các dự án đã đầu tư nay theo quy hoạch phải di chuyển địa điểm xây dựng nhà máy vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
2. Các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội được áp dụng với tất cả các đối tượng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Điều 3. Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư
209
Dự án đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh thuộc danh mục lĩnh vực được quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 108/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Đầu tư được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội theo Quy định này.
Điều 4. Về thủ tục hành chính
Thực hiện niêm yết công khai về thủ tục hành chính trên các lĩnh vực tại Trung tâm giao dịch “Một cửa” của các cơ quan, để tổ chức và công dân biết; thời gian hoàn thành các công việc liên quan trực tiếp đến tổ chức, công dân rút ngắn 1/3 thời gian theo quy định hiện hành, cụ thể như sau:
1. Cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo Luật Đầu tư:
a) Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đến dưới 300 tỷ đồng, không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện; không thuộc danh mục dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô dưới 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó:
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành
báo cáo trình UBND Tỉnh.
- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư.
b) Đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và dự án có quy mô trên 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn là 17 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó:
- Trong thời hạn 13 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành
báo cáo thẩm tra trình UBND Tỉnh.
- Trong thời hạn không quá 04 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư.
210
c) Đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ thì thời gian hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận đầu tư là 37 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký đầu tư hợp lệ.
d) Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian khi nhà đầu tư phải chỉnh sửa, bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của cơ quan tiếp nhận hồ sơ sau khi tổng hợp ý kiến thẩm tra của các bộ, ngành và các sở, ngành liên quan.
2. Đối với việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất
a) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 123 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 33 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó:
- Trong thời hạn không quá 23 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoàn thành hồ sơ địa chính theo quy định, gửi đến Phòng Tài nguyên và Môi trường.
- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ địa chính của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc thẩm tra hồ sơ địa chính và trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét quyết định.
- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Tờ trình của Phòng Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoàn thành việc quyết định giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ký kết hợp đồng thuê đất đối với trường hợp thuê đất.
b) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 125 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên - Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 13 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.
211
c) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 126 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên - Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 13 ngày làm việc kể từ ngày giải phóng xong mặt bằng và nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.
d) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 128 Nghị định 181/2004/NĐ-CP thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 12 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó:
- Trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ của người sử dụng đất, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành thủ tục về giao lại đất hoặc cho thuê đất theo quy định và gửi quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất kèm theo hồ sơ đến cơ quan tài nguyên và môi trường thuộc UBND cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình UBND cùng cấp ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gửi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu.
- Trong thời gian không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày người sử dụng đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với cơ quan thuế, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành việc bàn giao đất trên thực địa và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất.
3. Thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình
a) Thời gian thẩm định dự án, bao gồm cả thời gian thẩm định thiết
kế cơ sở được tính từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ:
- Đối với dự án nhóm B: Thời gian thẩm định là 20 ngày làm việc.
- Đối với dự án nhóm C: Thời gian thẩm định là 13 ngày làm việc.
b) Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian chủ đầu tư phải chỉnh
sửa, bổ sung hồ sơ dự án theo ý kiến thẩm định của các ngành chức năng.
4. Thời gian thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường
212
Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, Sở Tài nguyên - Môi trường hoàn thành công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án, trình UBND tỉnh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc,
UBND tỉnh xem xét phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án.
5. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép xây dựng
Trong thời hạn 13 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ xin cấp giấy phép xây dựng của nhà đầu tư (Sở Xây dựng, UBND các huyện, thị xã theo thẩm quyền được quy định tại Điều 25 Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ) hoàn thành việc cấp giấy phép xây dựng công trình cho nhà đầu tư.
6. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép hoạt động khoáng sản
a) Trong thời hạn 40 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ của tổ chức trong nước xin cấp giấy phép hoạt động khoáng sản hoặc của tổ chức nước ngoài, tổ chức liên doanh có bên nước ngoài xin cấp giấy phép khảo sát, thăm dò khoáng sản, Sở Tài nguyên & Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình UBND tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên & Môi trường trình, UBND tỉnh quyết định việc cấp phép hoặc không cấp phép hoạt động khoáng sản.
b) Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh có bên nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư và nộp đầy đủ, hợp lệ hồ sơ xin cấp giấy phép khai thác, chế biến khoáng sản theo quy định, Sở Tài nguyên & Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình UBND tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên & Môi trường trình, UBND tỉnh quyết định việc cấp phép.
Chương II
ÁP DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ
Điều 5. Về giá thuê đất, thuê mặt nước
213
1. Đơn giá thuê đất được tính theo Quyết định số 2157/QĐ-UBND ngày 21/8/2006, Quyết định số 3340/2008/QĐ-UBND ngày 08/10/2008 và Quyết định số 4476/2008/QĐ-UBND ngày 19/12/2008 của UBND tỉnh Hà Giang và Quyết định bổ sung (nếu có).
2. Mức giá đất để tính đơn giá thuê đất được áp dụng trên cơ sở bảng giá đất được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hàng năm và các quy định hiện hành của Nhà nước.
Điều 6. Về ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất
Nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng đất làm mặt bằng sản suất kinh doanh mà lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, được miễn, giảm tiền sử dụng đất được quy định tại Điều 11, Điều 12 và Điều 13 Nghị định số: 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất và quy định tại Điều 1 Nghị định số 44/2008/NĐ-CP, ngày 09/04/2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.
Điều 7. Về ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước
Ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước thực hiện theo quy định tại Điều 13, Điều 14 và Điều 15 Nghị định số: 142/2005/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2005 của Chính Phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
Điều 8. Về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
1. Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 15; áp dụng miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 16, Điều 17; điều kiện áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 19 - Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
214
2. Các dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu kinh tế, bao gồm: Dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư; dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu phi thuế quan; dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao; dự án đầu tư có qui mô lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển ngành, lĩnh vực hoặc phát triển kinh tế - xã hội của khu vực sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận (theo quy định tại điểm a, b, c, d, khoản 4 Điều 16 Nghị định số: 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ, quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế) được áp dụng và hưởng ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.
3. Doanh nghiệp có dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu kinh tế, có chi phí hợp lý, như: Chi phí đầu tư xây dựng, vận hành, hoặc cho thuê nhà chung cư và các công trình kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ cho công nhân làm việc tại khu công nghiệp, khu kinh tế (theo quy định tại Khoản 6 Điều 16 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ, quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế), sẽ được khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp.
Điều 9. Ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân
Người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại khu kinh tế (theo quy định tại Khoản 5 Điều 16 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ, quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế), có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập, được giảm 50% thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân.
Điều 10. Về ưu đãi miễn thuế nhập khẩu
Nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Chương III
CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẦU TƯ
Điều 11. Đối với khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu
1. Chính sách hỗ trợ đầu tư đối với khu công nghiệp: Thực hiện theo Quyết định số 43/2009/QĐ - TTg ngày 19 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ.
2. Chính sách hỗ trợ đầu tư đối với khu kinh tế cửa khẩu: Thực hiện theo Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Điều 12. Đối với các dự án đầu tư riêng lẻ
215
Ngân sách địa phương hỗ trợ tối đa không quá 50 % kinh phí đền bù, giải phóng mặt bằng trên diện tích được giao hoặc cho thuê để xây dựng nhà máy và hỗ trợ tối đa không quá 30 % kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng để làm đường giao thông, đường điện từ trục chính đến hàng rào nhà máy. Các
ngành chức năng của UBND tỉnh và UBND các huyện, thị xã tổ chức thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng, rà phá vật cản trên diện tích đất thu hồi trước khi giao đất hoặc cho thuê đất.
Điều 13. Hỗ trợ đầu tư đối với các dự án cơ sở hạ tầng nằm trong vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản
1. Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, như: Đường từ trục chính vào khu nhà máy, hệ thống cấp điện, kho bảo quản, chợ bán buôn nằm trong vùng nguyên liệu tập trung (vùng sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản), gắn với cơ sở chế biến và tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản theo quy hoạch được phê duyệt, được Tỉnh hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư cho dự án với tỷ lệ nguồn vốn theo địa bàn như sau:
a) Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang, hỗ trợ tối đa không quá 40 % tổng vốn đầu tư của dự án.
b) Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần, hỗ trợ tối đa không quá 60 % tổng vốn đầu tư của dự án.
2. Nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án được nêu tại khoản 1 Điều này sử dụng từ nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung theo quy định tại Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.
Điều 14. Hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư
1. Nhà đầu tư được các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh cung cấp thông tin về thị trường trên địa bàn tỉnh Hà Giang và các vấn đề có liên quan đến dự án đầu tư mà nhà đầu tư yêu cầu.
2. Nhà đầu tư được hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
3. Nhà đầu tư được đưa thông tin lên mạng trong trang Websie của UBND tỉnh (miễn phí) nhằm xúc tiến, quảng bá đầu tư kinh doanh thương mại, du lịch, giới thiệu hàng hoá của địa phương.
Chương IV
CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Điều 15. Hỗ trợ chăn nuôi, xây dựng chuồng trại, cơ sở chế biến
216
thức ăn chăn nuôi
1. Đối với hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi trâu, bò đực giống được hỗ trợ kinh phí với mức là 1,2 triệu đồng/con/năm cho trâu, bò đực giống đã qua tuyển chọn và được cấp giấy chứng nhận.
2. Ngân sách địa phương hỗ trợ trả lãi suất tiền vay Ngân hàng cho các hộ gia đình, cơ sở chăn nuôi trâu, bò thương phẩm (hàng hoá) và trâu, bò sinh sản như sau:
a) Hỗ trợ 50% lãi suất trong 24 tháng cho hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng tại Ngân hàng nông nghịêp & PTNT của các huyện, thị xã.
b) Hỗ trợ 100 % lãi suất trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết cho hộ gia đình nghèo chưa có trâu, bò để mua trâu, bò cái sinh sản. Mức vay tối đa là 10 triệu đồng tại Ngân hàng chính sách xã hội của các huyện, thị xã.
3. Các xã thuộc 6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ và các xã, thôn bản thuộc Chương trình 135 được hỗ trợ 100% tiền mua vắc xin; các xã vùng II được hỗ trợ 50% tiền mua vắc xin để tiêm phòng cho đàn trâu, bò. Việc hỗ trợ thông qua cơ quan thú y của các huyện, thị xã.
4. Hỗ trợ hộ gia đình trồng cỏ gắn với chăn nuôi trâu, bò, cụ thể
như sau:
a) Hỗ trợ mua giống cỏ trồng trong năm đầu, với mức hỗ trợ 0,9 triệu đồng/ha. Diện tích trồng cỏ tối thiểu được hưởng chính sách hỗ trợ là 500 m2/hộ, trên cơ sở kết quả nghiệm thu của Hội đồng nghiệm thu cấp huyện.
b) Hỗ trợ kinh phí khuyến nông và quản lý chương trình trồng mới cỏ
chăn nuôi. Mức hỗ trợ là 100.000 đồng/ha.
5. Các hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi không thuộc địa bàn 6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ được hỗ trợ 50% lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng cho để làm chuồng trại chăn nuôi trâu, bò hàng hoá. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng.
217
6. Các hộ gia đình và doanh nghiệp không thuộc địa bàn 6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ được hỗ trợ 50% lãi suất trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh để xây dựng cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng/ hộ gia đình và 200 triệu đồng/doanh nghiệp.
Điều 16. Chính sách đối với Hợp tác xã
Các hợp tác xã khó khăn về vốn, có nhu cầu vay vốn, Ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất vay vốn tại Ngân hàng nông nghiệp tỉnh Hà Giang trong thời gian 03 năm, với mức vay không quá 100 triệu đồng/Hợp tác xã.
Điều 17. Hỗ trợ phát triển chè, thâm canh lúa, ngô và trồng rừng
sản xuất
1. Hỗ trợ phát triển chè
a) Trồng mới, thâm canh, cải tạo chè: Hỗ trợ 100% lãi suất trong thời hạn 60 tháng, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình vay vốn để trồng mới, thâm canh và cải tạo chè già. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất đối với trồng chè mới là 15 triệu đồng/ha; thâm canh chè 07 triệu đồng/ha và cải tạo chè già là 05 triệu đồng/ha. Diện tích chè tối thiểu được hưởng chính sách hỗ trợ là 300m2/hộ.
b) Các doanh nghiệp chế biến có ký hợp đồng với nhân dân để trồng và thu mua sản phẩm, được vay vốn, ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất trong thời gian 03 năm để đầu tư, nâng cấp hoặc xây dựng mới cơ sở chế biến chè. Mức vay được hỗ trợ lãi suất là 50% giá trị đầu tư.
c) Các doanh nghiệp chế biến có kế hoạch xây dựng thương hiệu, đăng ký chất lượng sản phẩm chè, quảng bá sản phẩm lần đầu được hỗ trợ 50% chi phí.
2. Hỗ trợ thâm canh lúa, ngô
a) Hộ nghèo không thuộc địa bàn thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ được hỗ trợ một lần với mức 3 triệu đồng/hộ để mua giống mới và phân bón phục vụ thâm canh lúa, ngô (danh mục giống mới do Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn thông báo).
218
b) Các hộ không thuộc địa bàn thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ hoặc địa bàn thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II được hỗ trợ 100% lãi suất trong thời hạn 09 tháng, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết giữa các hộ với các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh để mua giống mới và phân bón phục vụ thâm canh lúa, ngô. Mức vốn vay được hỗ trợ lãi suất là 5 triệu đồng/ha. (danh mục giống mới do Sở Nông nghiệp & phát triển nông thôn thông báo).
3. Hỗ trợ trồng rừng sản xuất: Đối với các hộ nghèo không thuộc xã Ngọc Minh huyện Vị Xuyên, xã Bản Rịa huyện Quang Bình và các xã thuộc 6 huyện được thụ hưởng Nghị quyết 30a của Chính phủ, ngoài nguồn vốn hỗ trợ của chương trình 5 triệu ha rừng được ngân sách tỉnh hỗ trợ thêm 1 triệu đồng/ha để trồng rừng sản xuất.
Điều 18. Hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản
Khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình được thuê đất, thuê mặt nước (nguồn nước sông, suối tự nhiên) để nuôi trồng thuỷ sản; được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành của nhà nước và được Tỉnh hỗ trợ đầu tư như sau:
1. Hỗ trợ với mức 05 triệu đồng/ha cho các hộ nghèo thuộc các xã vùng III và thôn vùng III của xã Vùng II của tỉnh để xây dựng ao thả cá. Diện tích ao tối thiểu để được hỗ trợ phải từ 0,5 ha trở lên.
2. Hỗ trợ 50 % lãi suất trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình và doanh nghiệp để đầu tư nuôi trồng thuỷ sản. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng/hộ gia đình và 50 triệu đồng/tổ chức.
Điều 19. Hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động
1. Nhà đầu tư thực hiện mở lớp đào tạo nghề tập trung hoặc gửi lao động của địa phương đi đào tạo nghề và tuyển dụng vào làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư được ngân sách tỉnh hỗ trợ tối đa không quá 750.000đ/người/khoá học nghề (mỗi lớp đào tạo phải có ít nhất 20 người trở lên) sau khi đã có ký kết hợp đồng sử dụng lao động theo quy định.
2. Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động đi xuất khẩu theo chương trình, kế hoạch của tỉnh, thông qua các trung tâm đào tạo nghề của tỉnh, với mức hỗ trợ tối đa không quá 750.000đ/người/khoá học nghề.
Điều 20. Chính sách đối với các cơ sở giáo dục (trường, lớp) mầm
non tư thục
219
1. Cá nhân, nhóm cá nhân có nhu cầu đầu tư xây dựng các trường, lớp mầm non tư thục được Nhà nước giao đất, được miễn tiền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
2. Được hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng với mức tiền vay không quá 01 tỷ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của trường, lớp mầm non tư thục kể từ khi cơ sở đi vào hoạt động có hiệu quả.
3. Được xem xét hỗ trợ một phần trang thiết bị ban đầu (01 lần) cho các
trường, lớp mầm non tư thục khi mới thành lập.
4. Được xem xét áp dụng các chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập theo Nghị định số: 53/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2006 của Chính phủ (trừ chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã được quy định tại Điều 22 của Quy định này); xem xét áp dụng chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường theo Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/05/2008 của Chính phủ.
Điều 21. Hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn
Các cơ sở ngành nghề nông thôn (sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản và các sản phẩm văn hoá) được Tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời gian 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh để phát triển ngành nghề nông thôn. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 20 triệu đồng/ hộ gia đình và 100 triệu đồng/ tổ chức.
Điều 22. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư
Đối với các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Tỉnh trong các lĩnh vực: Giáo dục - đào tạo; y tế; văn hoá; thể dục thể thao; khoa học và công nghệ; môi trường; xã hội; dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em (trừ các cơ sở trường lớp mầm non tư thục đã quy định tại Khoản 2, Điều 20 của Quy định này và tổ chức, cá nhân thành lập hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đối với các lĩnh vực nêu trên) được ngân sách địa phương hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, như sau:
220
1. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang được xem xét hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo quy mô từng cơ sở, mức tiền vay được hỗ trợ lãi suất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.
2. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần được xem xét hỗ trợ 70 % lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo quy mô từng cơ sở mức tiền vay được hỗ trợ lãi suất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.
Chương V
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 23. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó nhằm giải quyết nhanh chóng các thủ tục cho nhà đầu tư theo đúng thời gian quy định và thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo đúng tiến độ, kế hoạch đã được phê duyệt và đảm bảo theo đúng các quy định của pháp luật.
2. Hàng năm, Uỷ ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm cân đối ngân sách để thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội tại Quy định này.
Điều 24 . Trách nhiệm của Nhà đầu tư
1. Nhà đầu tư căn cứ quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư tổ chức thực hiện các dự án theo đúng tiến độ và mục tiêu đã được ghi trong giấy chứng nhận đầu tư; sử dụng tối đa lao động tại địa phương, ưu tiên số lao động đã qua đào tạo tại các cơ sở dạy nghề của tỉnh và lao động trong các hộ gia đình có đất bị thu hồi để xây dựng dự án theo tiêu chuẩn tuyển dụng của nhà đầu tư.
221
2. Quản lý, sử dụng đất được giao hoặc thuê đúng mục đích. Đất được nhà nước giao, thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong giấy chứng nhận đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa hoặc sử dụng đất không đúng mục đích, không có hiệu quả sẽ bị thu hồi. Trường hợp có lý do chính đáng chưa thực hiện được dự án đầu tư thì nhà đầu tư phải báo cáo cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét và cho phép gia hạn thêm, nhưng tối đa không được quá 24 tháng.
Điều 25. Khen thưởng - Kỷ luật
1. Đơn vị, cá nhân triển khai thực hiện tốt chính sách của tỉnh đối với nhà đầu tư sẽ được tỉnh xem xét khen thưởng với các hình thức và mức khen thưởng theo các quy định hiện hành của nhà nước.
2. Đơn vị, cá nhân không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư (gây khó khăn phiền hà sách nhiễu) và gây cản trở quá trình kêu gọi dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh thì tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của Pháp lệnh Công chức và các quy định hiện hành của pháp luật. Thủ trưởng cơ quan có người vi phạm phải chịu trách nhiệm trước tỉnh.
CHỦ TỊCH
Nguyễn Viết Xuân
222
QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 136/2009/QĐ-TTg NGÀY 26 THÁNG 11 NĂM 2009 VỀ VIỆC THÀNH LẬP KHU KINH TẾ CỬA KHẨU THANH THỦY, TỈNH HÀ GIANG THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005;
Căn cứ Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của
Chính phủ Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh Hà Giang,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Thành lập Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang.
1. Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang là khu vực có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, có không gian kinh tế riêng biệt.
Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy gồm địa phận 07 xã: Thanh Thủy, Phương Tiến, Thanh Đức, Xín Chải, Lao Chải, Phong Quang (huyện Vị Xuyên) và Phương Độ (thị xã Hà Giang). Diện tích tự nhiên 28.781 ha. Ranh giới địa lý Khu kinh tế cửa khẩu được xác định như sau:
- Phía Bắc giáp Châu Văn Sơn của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc;
- Phía Nam giáp xã Cao Bồ của huyện Vị Xuyên và xã Phương Thiện,
phường Quang Trung, phường Nguyễn Trãi của thị xã Hà Giang;
- Phía Đông giáp xã Thuận Hòa và xã Minh Tân của huyện Vị Xuyên;
- Phía Tây giáp xã Thèn Chu Phìn, xã Đản Ván và xã Túng Sán của huyện
Hoàng Su Phì.
2. Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy được tổ chức thành khu phi thuế quan và các khu chức năng như: khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác. Quy mô, vị trí từng khu vực được xác định trong quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy.
223
Điều 2. Hoạt động và các cơ chế, chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang thực hiện theo Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với Khu kinh tế cửa khẩu và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Điều 3. Điều khoản thi hành
1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2010.
Bãi bỏ Quyết định số 184/2001/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang được áp dụng chính sách khu kinh tế cửa khẩu biên giới.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
THỦ TƯỚNG (đã ký) Nguyễn Tấn Dũng
Nguồn: http://moj.gov.vn/
http://vbpl.vn/hagiang/
224
Cổng chào huyện Vị Xuyên trên quốc lộ 2
Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn
Toàn cảnh thị trấn Vị Xuyên
Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn
225
Phụ lục 10. Một số hình ảnh về huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang
Tổng Bí thư Đỗ Mười với bà con các dân tộc huyện Vị Xuyên (1993)
Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển
Cánh đồng mẫu ở xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên
Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển
226
Đoàn đại biểu tỉnh Hà Giang sang thăm Trung Quốc qua cửa khẩu Thanh Thuỷ
Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển
Làng văn hoá du lịch thôn Khuổi Lác, xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên
Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên
227
Sinh hoạt tín ngưỡng của người Dao, xã Đạo Đức, Vị Xuyên
Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên
Làng văn hoá thôn Thanh Sơn, xã Thanh Thuỷ, Vị Xuyên
Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên
228
Làng nghề chổi chít thị trấn Việt Lâm
Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên
Múa khèn tại lễ hội Gầu Tào, thị trấn Việt Lâm
Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên
229
Vùng chè san tuyết tại xã Cao Bồ, Vị Xuyên
Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên
Khai giảng năm học mới tại Trường THCS Lý Tự Trọng
Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn
230
Chủ tịch nước tặng quà cho đồng bào xã Minh Tân, huyện Vị Xuyên
Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn
Khánh thành nhà máy chế biến quặng sắt huyện Vị Xuyên
Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển
231
Phó Thủ tướng thăm lớp học điện công nghiệp
Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn
Khánh thành công trình đường dây và trạm biến áp 110 kV Bình Vàng, Vị Xuyên, Hà Giang
Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển
232