VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

L Ê H Ồ N G S Ơ N

LÊ HỒNG SƠN

CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN VỊ XUYÊN,

TỈNH HÀ GIANG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2010

L U Ậ N Á N T I Ế N S Ĩ L Ị C H S Ử

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - NĂM 2016

K H Ó A I I I

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG SƠN

CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN VỊ XUYÊN,

TỈNH HÀ GIANG TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 62 22 03 13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:

HÀ NỘI - NĂM 2016

PGS.TS. NGUYỄN VĂN NHẬT

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của cá nhân tôi,

chưa được công bố dưới bất cứ hình thức nào, những số liệu được đưa

ra để chứng minh và đánh giá là trung thực, có cơ sở. Ngoài ra, một số

nhận xét, đánh giá hoặc số liệu của các tác giả, cơ quan, tổ chức khác

cũng được luận án sử dụng, thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.

Tác giả

Lê Hồng Sơn

i

LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Văn Nhật,

người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình

học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tác giả hết sức trân trọng sự

giúp đỡ quý báu của các thầy, cô giáo trong Khoa Sử học, Học viện Khoa

học Xã hội trong quá trình học tập, nghiên cứu. Tác giả chân thành cảm ơn

tới các vị nguyên lãnh đạo huyện, các anh chị lãnh đạo các phòng ban thuộc

Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, các đồng

nghiệp tại NXB Giáo dục Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Sự thật đã tạo

điều kiện về thời gian, nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình sưu tầm tài

liệu, nghiên cứu và hoàn thành luận án. Tác giả trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ,

động viên của người thân, bạn bè trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và

ii

hoàn thành bản luận án này.

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội nói chung .......................... 8

1.2. Các công trình đề cập đến lĩnh vực kinh tế - xã hội tại địa phương ......... 13

1.3. Những nội dung luận án kế thừa .............................................................. 22

1.4. Những nội dung luận án cần tiếp tục giải quyết ...................................... 22

CHƯƠNG 2. CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI

TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2000

2.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến kinh tế, xã hội

huyện Vị Xuyên……. ................................................................................... 24

2.2. Chuyển biến về kinh tế ................................................................. ……….38

2.3. Chuyển biến về xã hội ................................................................ ............. 55

Tiểu kết chương 2............................................................................................ 68

CHƯƠNG 3. CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI

TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

3.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến của huyện Vị Xuyên

khi bước vào thế kỷ XXI ......................................................................................... 70

3.2. Chuyển biến về kinh tế ........................................................................ 75

3.3. Chuyển biến về xã hội......................................................................................... 97

Tiểu kết chương 3 .................................................................................................. 119

CHƯƠNG 4. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

4.1. Nhận xét ................................................................................................ 121

4.2. Những hạn chế và nguyên nhân ............................................................ 131

4.3. Một số đề xuất ........................................................................................... 135

KẾT LUẬN .................................................................................................................. 146

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................. 151

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 152

PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 168

iii

DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, BẢN ĐỒ TRONG LUẬN ÁN

Hình/

Nội dung STT Trang

Biểu đồ/ Bản đồ

1 Hình 2.1. 30 Quy mô dân số và gia tăng dân số huyện Vị Xuyên thời kì 2000 - 2009

2 Hình 3.1

79, 80 Tổng sản lượng lương thực huyện Vị Xuyên 2001 - 2010 và diễn biến bình quân lương thực đầu người qua một số năm

3 Hình 3.2. 92

Diễn biến tỷ trọng lĩnh vực công nghiệp - xây dựng trong tổng GDP huyện Vị Xuyên qua một số năm

Tỷ lệ hộ nghèo (2000 - 2010) 4 Hình 3.3. 107

5 Phụ lục 1. Bản đồ tỉnh Hà Giang, năm 2010 169

6 Phụ lục 2. 170

Bản đồ hành chính huyện Vị Xuyên (năm 2010)

7 Phụ lục 3. Bản đồ dân cư huyện Vị Xuyên 171

8 Phụ lục 4. 172

Bản đồ phân định xã, thị trấn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi huyện Vị Xuyên theo trình độ phát triển, đến năm 2010

iv

9 Phụ lục 5 . 173 Biểu đồ cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên từ năm 2000 đến năm 2010

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN

STT Nội dung Trang

Bảng

1 Bảng 2.1. Tổng đàn gia súc qua một số năm 44

2 Bảng 3.1 77

Cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên từ 2000 đến 2010

3 Bảng 3.2. 81

Diện tích gieo trồng cây lúa, ngô từ 2001 đến 2010

4 Bảng 3.3. 82

Diện tích và sản lượng cây chè từ 2001 đến 2010

5 Bảng 3.4. 84, 85

Số lượng đàn gia súc chủ yếu ở huyện Vị Xuyên những năm 2001 - 2010

6 Phụ lục 6. 174

Diện tích, dân số và mật độ dân số huyện Vị Xuyên năm 2009

7 Phụ lục 7.

Hiện trạng sử dung đất năm 2010 huyện Vị Xuyên 175, 176

8 Phụ lục 8. 177

v

Hiện trạng ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (2000 - 2010)

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng 12 năm 1986

là một mốc đánh dấu quan trọng có ý nghĩa bước ngoặt trong đổi mới tư

duy, lý luận về kinh tế - xã hội. Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã

chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp

sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi

mới của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành

lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình

thành và phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp

trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh

chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Việc

gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo

đạt nhiều kết quả tích cực.

Thực tiễn của công cuộc đổi mới ở Việt Nam cho thấy, việc tăng

trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Bài học và kinh

nghiệm của các quốc gia phát triển cho thấy nếu tăng trưởng kinh tế mà

không giải quyết tốt các vấn đề xã hội thì sẽ dẫn đến sự mất cân đối trong

đời sống xã hội, thậm chí dẫn đến khủng hoảng. Công cuộc đổi mới ở Việt

Nam là một sự biến cải xã hội toàn diện trong các quan hệ kinh tế, trong cơ

cấu xã hội, trong hệ thống giá trị. Quá trình này tạo nên sự vượt trội về chất

ở các chỉ tiêu kinh tế, xã hội so với thời kỳ bao cấp.

Lịch sử địa phương là một bộ phận quan trọng của lịch sử dân tộc.

Nghiên cứu lịch sử địa phương tức là nghiên cứu về các đơn vị hành chính

lớn nhỏ của một quốc gia, nhằm khai thác nét độc đáo, đặc thù của địa

phương, những giá trị vật chất, văn hoá tinh thần, với những đóng góp quý

1

báu để xây dựng truyền thống, góp phần bổ sung hoàn chỉnh lịch sử dân tộc.

Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo và đường lối phát triển kinh tế - xã hội

của Đảng và Nhà nước, bộ mặt kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang nói

chung, huyện Vị Xuyên nói riêng đã từng bước được thay đổi.

Năm 1976, một năm sau ngày thống nhất đất nước, Tuyên Quang và

Hà Giang được sáp nhập thành tỉnh Hà Tuyên, cái tên chung Hà Tuyên đã

gắn bó đất và người hai tỉnh suốt chiều dài 16 năm. Ngày 1 tháng 10 năm

1991, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, tỉnh Hà Tuyên chính thức được

chia tách để tái lập hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Mục đích của việc

chia tỉnh là nhằm phát huy được mọi tiềm năng của từng địa phương, đẩy

mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo nâng cao đời sống đồng

bào các dân tộc.

Sau ngày tái lập, tỉnh Hà Giang có những bước đi phù hợp, khẳng

định sự phát triển với những kết quả tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực của kinh tế -

xã hội và đời sống nhân dân.

Xác định là tỉnh vùng cao biên giới, một trong những tỉnh nghèo nhất

nước, điểm xuất phát thấp, bởi vậy nghị quyết của các kỳ đại hội từ XI đến

XV Đảng bộ tỉnh Hà Giang đều xuyên suốt, chỉ rõ: Phát huy cao độ nội lực

tranh thủ cao nhất sự ủng hộ giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, từng bước vượt

khó, thoát nghèo, tất cả vì sự phát triển của Hà Giang, vì cuộc sống của

nhân dân các dân tộc trong tỉnh.

Huyện Vị Xuyên có vị trí quan trọng đối với tỉnh Hà Giang nói riêng

và cả nước nói chung, phía bắc giáp huyện Quản Bạ, phía tây giáp tỉnh Vân

Nam (Trung Quốc) và huyện Hoàng Su Phì, phía đông giáp thành phố Hà

Giang và huyện Na Hang (nay thuộc huyện Lâm Bình, Tuyên Quang), phía

nam giáp huyện Bắc Quang. Vị Xuyên là huyện rộng lớn nhất trong tỉnh, là

điểm đầu của quốc lộ 2 thông với Trung Quốc qua cửa khẩu quốc gia Thanh

Thuỷ (nay là cửa khẩu quốc tế).

Toàn huyện có 24 đơn vị hành chính, gồm 22 xã và 2 thị trấn, có đường

2

biên giới quốc gia dài 32,6 km, là nơi chung sống của 18 dân tộc anh em.

Huyện được đánh giá là một trong những huyện động lực về phát triển kinh

tế của tỉnh Hà Giang.

Nhân dân Vị Xuyên có truyền thống đấu tranh cách mạng. Huyện đã

được Đảng, Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Trong thời kì đổi mới xây dựng đất nước, nhân dân các dân tộc Vị Xuyên đã

đoàn kết, sát cánh bên nhau, phát triển kinh tế, xã hội, củng cố an ninh biên

giới, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xoá đói giảm nghèo, từng bước đưa huyện

phát triển hoà nhập chung với sự phát triển của tỉnh và đất nước.

Hơn nữa, Vị Xuyên lại có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi, tài nguyên

phong phú, nguồn lao động khá dồi dào, đường lối chính sách phát triển

kinh tế hợp lý, được sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh… nguồn lực quan

trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng phát triển.

Hiện nay, Vị Xuyên là huyện có tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng

tăng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng theo hướng tăng dần tỷ trọng

các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong

cơ cấu GDP, các ngành kinh tế có bước phát triển tiến bộ. Tình hình phát

triển văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến, chú trọng nhiều hơn đến chất

lượng cuộc sống, hạ dần tỷ lệ hộ đói nghèo, trật tự an toàn xã hội được

giữ vững, an ninh - quốc phòng được củng cố... Để đạt được kết quả đó,

Đảng bộ và nhân dân Vị Xuyên đã nỗ lực phấn đấu hết mình trong việc

thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng đã đề ra.

Trên cơ sở thực tiễn như vậy, việc đặt vấn đề nghiên cứu về quá trình

phát triển kinh tế, xã hội địa phương huyện Vị Xuyên là rất cần thiết, có ý

nghĩa cả về mặt khoa học và thực tiễn. Trước hết, bởi cấp huyện có vị trí

quan trọng trong hệ thống tổ chức các đơn vị hành chính lãnh thổ quốc gia.

Trong khi đó, huyện Vị Xuyên lại có vị trí chiến lược đối với việc bảo vệ an

ninh và chủ quyền quốc gia trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay

và là một huyện miền núi - biên giới giáp với Trung Quốc. Hơn nữa, việc

3

nghiên cứu và nhận diện đầy đủ sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện

Vị Xuyên từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, từ chủ trương, chính

sách phát triển kinh tế - xã hội đến quá trình thực hiện, thành quả và những

hạn chế trong chỉ đạo và hoạt động kinh tế, xã hội của địa phương này, không

chỉ góp phần vào việc phát huy những mặt tốt, những lợi thế và khắc phục

những mặt còn hạn chế, mà còn từ đó phần nào có thể đưa ra những khuyến

nghị, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng địa phương Vị

Xuyên ngày càng phát triển, văn minh, mà còn sẽ góp phần làm sáng tỏ một

phần trong bức tranh tổng thể kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang trong giai

đoạn hiện nay.

Từ xuất phát điểm như vậy, chúng tôi đã chọn vấn đề “Chuyển biến

kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang từ năm 1986 đến năm 2010”

làm đề tài luận án Tiến sĩ lịch sử.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

- Làm rõ những chuyển biến về kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên

trong thời gian từ năm 1986 đến năm 2010.

- Phân tích những thành công, hạn chế của quá trình phát triển kinh tế -

xã hội huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến năm 2010, rút ra những nhận xét,

đánh giá và đưa ra những đề xuất cho sự phát triển trong thời gian tiếp theo.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

-Trên cơ sở tiến hành sưu tầm và xử lý các nguồn tài liệu liên quan

đến đề tài luận án, chúng tôi tập trung giới thiệu về các yếu tố tác động đến

chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên, bao gồm: vị trí địa lý và điều

kiện tự nhiên của địa phương; điều kiện kinh tế, xã hội và dân cư; tình hình

quốc tế và trong nước; cũng như chủ trương, đường lối phát triển kinh tế -

xã hội của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Hà Giang từ thời điểm đất nước tiến

4

hành công cuộc Đổi mới.

- Dựng lại quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên

tỉnh Hà Giang từ năm 1986 đến năm 2010 trên hai góc độ phát triển kinh tế

và phát triển xã hội theo hai giai đoạn 1986-2000 và 2001-2010.

-Từ việc phân tích những nội dung quan trọng về chuyển biến kinh tế,

xã hội ở huyện Vị Xuyên trong khung nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số

nhận xét về vấn đề nghiên cứu, cả trên góc độ những thành công đã đạt

được cũng như những hạn chế đã mắc phải trong quá trình thực hiện đường

lối đổi mới; đồng thời làm rõ thêm về nguyên nhân của những thành công

và hạn chế đó, cũng như đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần vào việc đẩy

mạnh công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án có đối tượng nghiên cứu là sự chuyển biến kinh tế, xã hội

của huyện Vị Xuyên trong thời kỳ từ năm 1986, khi cả nước bắt đầu thực

hiện sự nghiệp đổi mới, đến năm 2010.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Đề tài giới hạn trong địa bàn huyện Vị Xuyên của tỉnh

Hà Giang, địa giới hành chính huyện gồm 22 xã và 2 thị trấn, với đặc điểm

là huyện miền núi biên giới có sự phân chia theo trình độ phát triển.

Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu quá trình huyện Vị Xuyên

thực hiện công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội từ năm 1986 (năm

bắt đầu công cuộc đổi mới) đến năm 2010 (năm tổng kết 25 năm đổi mới).

Nghiên cứu kinh tế - xã hội là mảng đề tài rộng. Luận án chủ yếu tập

trung nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế về cơ cấu kinh tế và kinh tế ngành

(nông - lâm nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, thương

mại, dịch vụ); giới hạn chuyển biến xã hội về y tế, giáo dục, văn hoá thông

5

tin, lao động việc làm và thực hiện các chính sách xã hội.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Về cơ sở lý luận, chúng tôi xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa

Mác - Lênin, của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, xã hội,

nhất là quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về kinh tế, xã hội thời

kỳ đổi mới.

- Về phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện chủ yếu là sử

dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic.

Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, phân

tích, tổng hợp và điền dã.

5. Nguồn tài liệu

- Văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc, các chỉ thị, nghị quyết của

Đảng và Nhà nước về kinh tế - xã hội thời kỳ đổi mới; đồng thời chúng tôi

còn dựa vào các văn kiện, các chỉ thị, nghị quyết, các báo cáo tổng kết của

Đảng bộ tỉnh Hà Giang, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên... Đây

là những tài liệu mang tính chất cơ sở lý luận, định hướng phát triển chung.

- Nhóm tài liệu gốc về kinh tế - xã hội địa phương như: thống kê số

liệu của các sở, ban ngành liên quan như Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Tài

nguyên và Môi trường, Cục Thống kê tỉnh Hà Giang, Phòng Thống kê

huyện Vị Xuyên… Đặc biệt là những báo cáo hằng năm về tình hình kinh tế

- xã hội của Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên và Đảng bộ huyện Vị Xuyên

từ năm 1986 đến năm 2010. Đây là nhóm tài liệu hết sức quan trọng giúp

chúng tôi dựng lên bức tranh tổng thể của kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên,

từ đó triển khai nghiên cứu ở mức độ sâu hơn. Những phân tích, đánh giá về

quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên về căn bản dựa trên

số liệu được xử lý từ nhóm tài liệu này.

- Một số tài liệu có tính chất là những công trình nghiên cứu về lịch

sử địa phương như: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang (3 tập), Lịch sử Đảng

6

bộ huyện Vị Xuyên (1939 - 2000), Hà Giang 20 năm tái lập và phát triển

(1991- 2011)...; các luận văn, bài viết được đăng tải trên các tạp chí, báo,

cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang, cổng thông tin điện tử huyện Vị

Xuyên đề cập đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang nói

chung và của huyện Vị Xuyên nói riêng giúp chúng tôi có thêm những

thông tin cần thiết cũng như những nhận định có thể tham khảo.

- Ngoài ra, để phục vụ cho việc nghiên cứu luận án, chúng tôi cũng đã

thực hiện nhiều chuyến điền dã ở địa phương để nắm tình hình cũng như thu

thập tài liệu. Kết quả của công tác điền dã, đặc biệt là những phỏng vấn hồi

cố giúp chúng tôi có thêm nguồn tư liệu cũng như cái nhìn phong phú, đa

chiều đối với đề tài luận án.

6. Những đóng góp mới của Luận án

- Luận án nghiên cứu một cách hệ thống và tái hiện chân thật quá

trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên (Hà Giang) trong giai

đoạn từ năm 1986 đến năm 2010.

- Qua việc đánh giá, phân tích chuyển biến kinh tế, xã hội ở huyện Vị

Xuyên trong những năm từ 1986 đến 2010, luận án nêu lên và làm rõ những

thành tựu và hạn chế cần được tiếp tục rút kinh nghiệm nhằm đưa ra những

giải pháp thích hợp để phát huy thế mạnh và khắc phục hạn chế.

- Luận án hoàn thành sẽ cung cấp thêm nguồn tư liệu phục vụ việc

nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy lịch sử, địa lý địa phương.

7. Kết cấu Luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận án

được kết cấu thành 4 chương:

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.

- Chương 2: Chuyển biến về kinh tế, xã hội từ năm 1986 đến năm 2000.

- Chương 3: Chuyển biến về kinh tế, xã hội từ năm 2001 đến năm 2010.

7

- Chương 4: Nhận xét và một số đề xuất.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Từ trước đến nay vấn đề kinh tế - xã hội cả nước nói chung, ở các địa

phương nói riêng, được các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu khoa học

thuộc nhiều chuyên ngành quan tâm. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở

Việt Nam trong những năm qua có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt việc đầu

tư phát triển kinh tế địa phương đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định

là nhiệm vụ hàng đầu, mang tính lâu dài và tất yếu trên bước đường xây

dựng, phát triển đất nước.

1.1. Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội nói chung

Trong các công trình nghiên cứu về các vấn đề kinh tế - xã hội thời

kỳ đổi mới, đầu tiên phải kể đến là tác phẩm Đổi mới kinh tế - xã hội thành

tựu, vấn đề và giải pháp, Phạm Xuân Nam (Chủ biên), NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội, 1991. Cuốn sách đã phân tích các lĩnh vực chủ yếu của đời

sống kinh tế - xã hội nước ta sau 4 năm thực hiện đường lối đổi mới do

Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, qua đó nêu lên những

thành tựu đã đạt được, chỉ ra những vấn đề tồn đọng từ lâu hoặc mới nảy

sinh và đề xuất một số kiến nghị về giải pháp sắp tới nhằm góp phần vào

việc xây dựng, hoàn thiện cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chiến lược ổn

định và phát triển kinh tế - xã hội nước ta đến năm 2000.

Cuốn sách Đổi mới kinh tế và phát triển, Vũ Tuấn Anh (Chủ biên),

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994 đã chỉ ra những nét chính của quá

trình đổi mới các chính sách kinh tế, vai trò của nhà nước trong quá trình

phát triển kinh tế - xã hội, tác động của quá trình đổi mới kinh tế đối với

8

tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,

hiện đại hoá, những chuyển biến của cơ cấu xã hội, xu hướng phân tầng xã

hội dưới ảnh hưởng của đổi mới chính sách kinh tế…

Nguyễn Trọng Phúc trong cuốn Một số kinh nghiệm của Đảng Cộng

sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2000, đã phân tích đặc điểm nước ta trong thời kỳ quá

độ, tổng kết một số chủ trương của Đảng và những thành tựu tiêu biểu mà

chúng ta đã đạt được, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm của Đảng

trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước.

Sách Kinh tế Việt Nam đổi mới: Những phân tích và đánh giá quan

trọng của Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ Quang Việt, Trần Vân, NXB Thống kê,

Hà Nội, 2002 đã hệ thống hoá số liệu tổng hợp và chi tiết trên phạm vi cả

nước và từng vùng, lãnh thổ, phân tích kinh tế về tốc độ tăng trưởng,

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, thành phần kinh tế, khu vực thể

chế, vùng lãnh thổ và hoạt động tài chính.

Năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách Một

số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay do Tạ Ngọc Tấn

làm Chủ biên. Cuốn sách là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài khoa

học trọng điểm cấp Nhà nước KX.04.14/06-14 “Biến đổi cơ cấu xã hội

Việt Nam”. Sách gồm 4 phần trong đó nội dung chính được tập trung ở

phần 2 - Những tác động của biến đổi cơ cấu xã hội đến sự phát triển kinh

tế - xã hội trong những năm tới và phần 3- Xu hướng biến đổi cơ cấu xã

hội Việt Nam và những dự báo trong thời gian tới. Các tác giả cuốn sách

mong muốn đưa ra những đánh giá cơ bản về thực trạng biến đổi cơ cấu xã

hội nước ta trong thời gian qua, làm rõ những tác động khách quan qua lại

giữa những biến đổi cơ cấu xã hội với sự vận động, phát triển của các lĩnh

vực đời sống đất nước. Ngoài ra cuốn sách cũng đưa ra những dự báo về

xu hướng biến đổi và một số nét dự báo về mô hình tương lai của cơ cấu

9

xã hội Việt Nam trong thời gian tới.

Năm 2012, cuốn sách Lịch sử Việt Nam - Tập 4 của các tác giả Lê

Mậu Hãn (Chủ biên), Nguyễn Đình Lê, Trương Thị Tiến, NXB Giáo dục,

Hà Nội, được xuất bản. Theo các tác giả, Việt Nam đã đạt được những

thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Về kinh tế, thành tựu nổi bật

nhất là những thiết chế mới của nền kinh tế đã hình thành, phù hợp với quy

luật khách quan, đem lại động lực mới cho sự phát triển… dẫn đến sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cao hơn là dẫn đến sự tăng trưởng vượt trội

của nền kinh tế so với trước đổi mới. Về xã hội, các tác giả cuốn sách cho

rằng: Từ giữa thập kỷ 90 trở đi, công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ trọng tâm

là đổi mới kinh tế đã tiến tới đổi mới trên tất cả các lĩnh vực: hệ thống chính

trị, văn hoá, giáo dục, y tế…; kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết các vấn

đề xã hội.

Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, cũng có những cuốn sách đề cập

đến nội dung về kinh tế, xã hội. Tác phẩm Một số vấn đề kinh tế - xã hội

các tỉnh miền núi phía Bắc do Viện Dân tộc học thực hiện, NXB Khoa học

xã hội, Hà Nội, 1987, tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu bước

đầu lý giải một số vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội tại các tỉnh miền núi

phía Bắc như vấn đề dân tộc, dân cư và lao động, vấn đề xác định, đánh giá

những thế mạnh của miền núi và việc khai thác phát huy những thế mạnh,

các tiềm năng kinh tế ở khu vực này. Bên cạnh những vấn đề đó là việc xây

dựng, củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới, phát triển văn hoá - giáo

dục… Ở trang 44 - 45 (chương I) của sách, các tác giả đã xác định rõ vai trò

cấp huyện “không chỉ là đơn vị hành chính mà còn thành đơn vị kinh tế - xã

hội”: xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi và xây dựng cơ sở vật chất kỹ

thuật, cân đối nông - lâm nghiệp, bố trí lao động, liên kết kinh tế, tổ chức

thực hiện định canh định cư, lưu thông phân phối, văn hoá, giáo dục, y tế…

đều đặt trong quan hệ của huyện. Chương IV làm sáng tỏ những hạn chế

trong phát triển văn hoá, giáo dục miền núi. Chương V đề cập đến vấn đề

kết hợp đúng đắn giữa xây dựng kinh tế với bảo đảm an ninh quốc phòng.

10

Cuốn sách Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở

miền núi, Bế Viết Đẳng (Chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, NXB Văn hoá

dân tộc, Hà Nội 1996 là kết quả chắt lọc từ đề tài KX.04-11 mang tên “Luận

cứ khoa học cho việc hoàn thiện các chính sách đối với dân tộc thiểu số

trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi”, nội dung đề cập đến quan

điểm, đường lối chính sách dân tộc, những vấn đề cấp bách về thực trạng

phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở

miền núi. Đồng thời, các tác giả cũng đề xuất những ý kiến tham khảo cho

việc hoạch định những chính sách đối với các dân tộc thiểu số miền núi

trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay.

Cuốn sách Những đặc điểm kinh tế - xã hội các dân tộc miền núi

phía Bắc, Khổng Diễn (Chủ biên), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996 là

kết quả thu được từ những cuộc điều tra, điền dã dân tộc học trong một số

năm kết hợp với các tài liệu thống kê dân số ở Trung ương và địa phương,

cung cấp bức tranh khái quát nhưng rất phong phú và đa dạng về nhiều

mặt: điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái, dân cư, dân số, kinh tế, văn

hoá và mối quan hệ giữa các dân tộc miền núi phía Bắc Việt Nam.

Trên một khía cạnh khác, các tác giả Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa

(Chủ biên), Nguyễn Đình Phan, Dương Thị Thanh Mai trong sách Phát

triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998 đã nêu lên thực

trạng kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và miền núi hiện nay cũng như

tính cấp thiết phải đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời

đề ra các định hướng phát triển, một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển

kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy bản sắc văn hoá, ổn định

chính trị, an ninh quốc gia, đoàn kết các dân tộc và miền núi theo hướng

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và đối với từng khu vực

cụ thể thuộc vùng dân tộc miền núi Việt Nam nói riêng. Sách cũng làm nổi

bật cơ hội và thách thức trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân

11

tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa ra kinh

nghiệm của một số nước trong việc phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc

và miền núi.

Tương tự có thể kể đến Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội các

tỉnh trung du và miền núi Bắc Bộ, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2006.

Sách do Bộ Công nghiệp phối hợp với các ngành kinh tế, các địa phương,

các doanh nghiệp trong Vùng thu thập thông tin xuất bản. Sách gồm 2

phần: Phần 1 - giới thiệu khái quát tiềm năng, định hướng phát triển kinh

tế - xã hội vùng trung du và miền núi phía Bắc; Phần 2 - giới thiệu tiềm

năng, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương trong

Vùng. Từ trang 227 đến trang 263 là nội dung về mục tiêu, định hướng

phát triển các ngành Nông nghiệp, Giao thông vận tải, Giáo dục - Đào tạo,

Ngân hàng, Điện lực, Thương mại và Bưu điện của Hà Giang. Những chuyển

đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam do Trung tâm Nghiên cứu tài

nguyên và môi trường - Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện, NXB Khoa học

và Kỹ thuật, Hà Nội, 2008. Sách tập hợp những bài viết của các học giả, nhà

nghiên cứu trong và ngoài nước về những đề tài đang mang tính thời sự ở

Việt Nam như quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, sự thay đổi các mối

quan hệ lao động, thành quả phát triển trong thời kì mở cửa ở vùng cao

Việt Nam v.v…

Nhìn chung, những tài liệu thuộc nhóm chủ đề trên có thể thống kê

nhiều hơn, song đây là những nghiên cứu tổng hợp, chủ yếu đưa ra những

nhận định khái quát ở tầm vĩ mô về tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực

miền núi nói chung. Những công trình nghiên cứu nói trên mang tính định

hướng cũng như góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề tổng quan về kinh tế -

xã hội của đất nước nói chung và ở khu vực miền núi phía Bắc nói riêng

dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Thông qua kết quả nghiên cứu của nhóm tài

liệu này, chúng tôi có được cơ sở lý luận cũng như có cái nhìn tổng quát

nhất về quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam thời kỳ Đổi mới để từ

đó tiếp cận đối tượng nghiên cứu cụ thể mà đề tài luận án đã đặt ra là huyện

12

Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.

1.2. Các công trình đề cập đến lĩnh vực kinh tế - xã hội tại địa phương

Tác phẩm Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn tỉnh Hà

Giang (1900 - 1998) của Phạm Văn Nhần, Lê Xuân Mát, Ngô Huy Chương,

NXB Lao động, Hà Nội 1999 đề cập đến quá trình hình thành và phát triển

đội ngũ công nhân và tổ chức công đoàn Hà Giang, những đóng góp của

công nhân và công đoàn Hà Giang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân

tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Năm 2000, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên phát hành bản Quy

hoạch tổng thể kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên thời kỳ 2000 - 2010. Bản quy

hoạch nêu rõ định hướng phát triển kinh tế - xã hội huyện trong mối quan hệ

chặt chẽ với định hướng phát triển chung của tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng, dịch vụ, công

nghiệp trên cơ sở khai thác có hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh của

huyện; phát triển các ngành, các lĩnh vực có lợi thế so sánh… Các báo cáo

hằng năm, báo cáo trong những nhiệm kỳ đại hội về tình hình kinh tế - xã

hội của huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến nay của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân

dân tỉnh Hà Giang, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên là sự tổng

kết tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh, của huyện.

Năm 2001, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên đã cho xuất

bản sách Lịch sử Đảng bộ huyện Vị Xuyên (1939 - 2000). Cuốn sách đã

trình bày một cách tương đối đầy đủ về quá trình ra đời và lãnh đạo nhân

dân đấu tranh trong sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ huyện cũng như quá

trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương trong hơn 60 năm, từ năm

1939 đến năm 2000.

Cuốn sách Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển

(1891 - 2001) của Hoàng Trung Luyến, Khổng Đức Thiêm, Trình Năng

Chung, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001 đề cập về địa lý và con

13

người Hà Giang, về Hà Giang trong tiến trình lịch sử dân tộc và quá trình

hình thành tỉnh Hà Giang, tình hình kinh tế - xã hội, chính sách khai thác và

bóc lột của thực dân Pháp (1891 - 1930) và nhân dân và các dân tộc Hà

Giang trong các thời kỳ lịch sử từ năm 1930 đến năm 2001.

Là một tỉnh miền núi nên vấn đề dân tộc cũng được chú ý. Năm 2004,

cuốn sách Các dân tộc ở Hà Giang của Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (đồng

Chủ biên), NXB Thế giới, Trung tâm Thông tin Văn hoá các dân tộc được

xuất bản. Sách trình bày khái quát vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, kinh tế, tài

nguyên thiên nhiên, nguồn gốc lịch sử, sự phân bố dân cư, đặc điểm các dân

tộc của tỉnh Hà Giang theo nhóm ngôn ngữ: các dân tộc nhóm ngôn ngữ

HMông - Dao, Tày - Thái, Tạng - Miến, ngôn ngữ Hán, ngôn ngữ Việt -

Mường v.v..

Cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang - tập 3 (1975 - 2005) xuất

bản năm 2009 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang phản ánh chặng

đường 30 năm, trong đó có 16 năm (1975 – 1991) tỉnh Hà Giang hợp nhất

với tỉnh Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, tiếp đó 14 năm (1991 - 2005) là

giai đoạn Hà Giang được tái lập. Đây là giai đoạn tiếp tục sự nghiệp đổi mới

toàn diện của đất nước của Đảng trong điều kiện tỉnh còn nhiều khó khăn,

thách thức. Cuốn sách đã làm nổi bật sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong

việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, lãnh đạo nhân dân các dân tộc

trong tỉnh từng bước vượt qua khó khăn thử thách, giành nhiều thắng lợi

quan trọng về phát triển kinh tế, xã hội, cũng như ghi nhận những đóng góp

to lớn của nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang, trong đó có huyện Vị Xuyên,

trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sách Ngành lao động - thương binh và xã hội Hà Giang - 65 năm xây

dựng và phát triển (1945 - 2010) của Tạ Nam Tiến, Nguyễn Thanh Long,

Phạm Ngọc Dũng..., NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2010, giới

thiệu quá trình hình thành, sự phát triển và những thành tựu đạt được của

ngành Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hà Giang qua các giai đoạn

14

1945 - 1975, 1976 - 1991, 1991 - 2010.

Nhân dịp kỷ niệm 20 năm tỉnh Hà Giang được tái lập (1991 - 2011),

tháng 10-2011, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Giang đã xuất bản cuốn sách

mang tên Tỉnh Hà Giang 20 năm tái lập và phát triển (1991 - 2011). Nội

dung sách viết về quá trình phấn đấu và trưởng thành theo từng giai đoạn từ

khi tái lập tỉnh đến nay, nêu rõ những thành tựu trong phát triển kinh tế, văn

hoá qua 20 năm cũng như những bài học kinh nghiệm của 20 năm phát triển

đó. Cùng năm 2011 có cuốn sách Lịch sử Đảng bộ Quân sự tỉnh Hà Giang

(1945 - 2010) do Đảng bộ Quân sự tỉnh Hà Giang xuất bản, giới thiệu sự

hình thành và phát triển của Đảng bộ quân sự tỉnh qua các thời kì, quá trình

tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền để xây dựng thế trận chiến tranh nhân

dân trong thời chiến, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh

nhân dân trong thời bình, chỉ đạo hoạt động xây dựng, chiến đấu của lực

lượng vũ trang Hà Giang trong hai cuộc kháng chiến và thời kỳ bảo vệ

Tổ quốc, đổi mới đất nước.

Tháng 4-2011, tại Hà Nội, Đại học Quốc gia Hà Nội, Uỷ ban nhân dân

tỉnh Hà Giang và Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam tổ

chức Hội thảo khoa học và Diễn đàn đầu tư "Vì Hà Giang phát triển". Hội

thảo và Diễn đàn đầu tư nhằm giúp tỉnh Hà Giang quảng bá, giới thiệu

những tiềm năng, lợi thế và tìm ra các cơ chế, chính sách ưu đãi khuyến

khích đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Các báo cáo, tham luận của các nhà

khoa học tại Hội thảo được tập hợp trong kỷ yếu đã nêu bật những tiềm

năng, lợi thế trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, văn hoá của địa

phương để từ đó kiến nghị những giải pháp phát triển toàn diện Hà Giang.

Tháng 3-2015, Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Ban Kinh tế Trung ương và

Tỉnh Hà Giang đã tổ chức Hội thảo “Phát triển kinh tế, xã hội tỉnh Hà Giang

trong mối liên kết vùng Đông Bắc và Tây Bắc”. Hội thảo được nghe các ý

kiến tham luận của đại diện Ban chỉ đạo Tây Bắc, Ban Kinh tế Trung ương,

15

Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ

Văn hóa - Thể thao và Du lịch, các chuyên gia, các nhà quản lý. Tại hội

thảo, nhiều ý kiến cho rằng: So với các tỉnh thuộc vùng biên giới như Lạng

Sơn hoặc Lào Cai, thì cơ sở hạ tầng của tỉnh Hà Giang còn bộc lộ nhiều

điểm lạc hậu làm hạn chế quá trình lưu thông hàng hoá và con người giữa

Hà Giang với các địa phương vùng miền trong nước cũng như với nước láng

giềng. Do đó, một trong những đột phá quan trọng để phát triển kinh tế, xã

hội tỉnh Hà Giang là phát triển cơ sở hạ tầng. Hà Giang cần tập trung quan

tâm đến chiến lược với tầm nhìn dài hạn về phát triển kinh tế - xã hội của

tỉnh; ban hành các cơ chế, chính sách về thu hút đầu tư để phát triển kinh tế

- xã hội một cách bền vững; xúc tiến việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát

triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang; các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản

phẩm chủ yếu cấp tỉnh, đảm bảo phát huy vị trí của Hà Giang là tỉnh kết nối

giữa Đông Bắc và Tây Bắc nhằm tận dụng phát huy các lợi thế và tiềm năng

của Hà Giang và các địa phương trong vùng; làm rõ vị trí, vai trò của đường

biên giới với tỉnh Hà Giang, một số giải pháp phát triển thương mại biên

giới tuyến biên giới đất liền của tỉnh; đánh giá tiềm năng du lịch, công tác

lãnh chỉ đạo, quy hoạch và thực hiện quy hoạch; phát triển sản phẩm du lịch

tâm linh, tín ngưỡng; đa dạng hóa các mặt hàng lưu niệm, quà tặng du lịch;

đánh giá thực trạng ngành nông nghiệp và tiềm năng phát triển công nghiệp

dược liệu; phát triển chăn nuôi bò vàng; phát triển mạnh các khu kinh tế

biên mậu, liên kết chặt chẽ du lịch với nông lâm nghiệp trong Vùng miền

núi và trung du Bắc Bộ.

Cũng không thể không nhắc tới chuyên khảo Nguồn nhân lực cho

công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở miền núi phía Bắc nước ta của Vi Thái

Lang, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015. Cuốn sách tổng kết, đánh giá

sự vận động, phát triển của các yếu tố của lực lượng sản xuất ở khu vực

miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc, đặc biệt là vấn đề đào tạo

nguồn nhân lực nơi đây; trên cơ sở đó làm rõ những vấn đề đang đặt ra, tìm

16

hướng giải quyết, đồng thời khuyến nghị một số giải pháp có tính định

hướng để thúc đẩy sự phát triển nguồn nhân lực miền núi trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Tiếp đó là những nội dung liên quan về huyện Vị Xuyên và tỉnh Hà

Giang được đề cập qua các bài viết trên các tạp chí. Có thể kể đến Vị Xuyên

nâng cao chất lượng dạy và học của Vũ Đăng Bút, tạp chí Dân tộc và thời

đại số 68 - 2004 nói về những thành tích của giáo dục Vị Xuyên trong việc

không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. Bài báo tập trung phân tích

những nguyên nhân đưa đến thành tích đó là do đã duy trì nghiêm túc các

quy chế chuyên môn trong việc dạy và học, có các hình thức phong phú để

thúc đẩy phong trào thi đua trở thành giáo viên giỏi, học sinh giỏi. Đặc biệt,

một số tạp chí đã xây dựng các chuyên trang về tỉnh Hà Giang, trong đó có

nội dung về huyện Vị Xuyên. Đầu tiên là tạp chí Đông Nam Á (tháng 9-

2004) dành gần 30 trang với chủ đề “Giáo dục và Đào tạo Hà Giang - thành

tựu và đổi mới”. Nội dung của chuyên trang này đề cập đến toàn bộ các cấp

học của các huyện trong tỉnh Hà Giang. Ngành giáo dục và đào tạo Vị

Xuyên: Một chặng đường phát triển của Tống Duy Khuyên là một bài trong

số đó. Tác giả bài viết đã nhận thức sâu sắc về nhiệm vụ giáo dục trong sự

nghiệp phát triển con người, đáp ứng nguồn nhân lực mới, đưa ra những số

liệu khẳng định giáo dục Vị Xuyên có những chuyển biến tích cực, những

thành tích đã đạt được của thầy và trò huyện Vị Xuyên trong việc thực hiện

lời Bác dạy “thi đua Dạy tốt - Học tốt”. Tuy nhiên, tác giả cũng thẳng thắn

chỉ ra một số tồn tại cần khắc phục. Đó là chất lượng giáo dục toàn diện

chưa vững chắc, giáo dục mũi nhọn chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu giáo

viên và cơ sở vật chất… Năm 2004, tạp chí Du lịch Việt Nam số 11 đã dành

nhiều trang viết về du lịch Vị Xuyên. Đầu tiên là Điểm đến thân thiện của

du khách của Đàm Văn Bông, nêu bật những lợi thế của Vị Xuyên về điều

kiện tự nhiên, về sản vật, ẩm thực, lễ hội… để du lịch Vị Xuyên từng bước

nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc, thân thiện và cởi mở đón du khách.

17

Tiếp đến là hai bài Hấp dẫn Vị Xuyên giới thiệu và các thắng cảnh nơi đây

và Định hướng khai thác tiềm năng du lịch văn hoá tộc người ở Vị Xuyên

của Mai Thanh Sơn đề cập đến các giá trị của văn hoá vật thể và phi vật thể

của huyện, chỉ ra các biện pháp để khai thác mặt mạnh phát triển du lịch và

không quên lưu ý đến việc giữ gìn bảo tồn các giá trị văn hoá đó.

Tương tự như vậy, tháng 3-2005, tạp chí Đông Nam Á tiếp tục thực

hiện chuyên đề mang tên “Hà Giang chào xuân mới 2005”, với nội dung là

những nét đẹp của thiên nhiên, những điểm sáng trong phát triển kinh tế - xã

hội của mảnh đất biên cương này. Trong số này, có bài Vị Xuyên - nơi mùa

đông không còn ở lại của Quế Nga. Bài viết đã tập trung chứng minh những

thành tựu về kinh tế - xã hội những năm vừa qua, từ việc chuyển dịch dần

cơ cấu ngành kinh tế, hình thành các khu chuyên canh, thu nhập, mức sống

của nhân dân đến chỉ số GDP không ngừng tăng của huyện. Tạp chí Dân tộc

học, số 2-2005, tác giả Viên Thị Mừng có bài Nghề nấu rượu thóc truyền

thống của người Tày ở xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Bài viết

miêu tả các công đoạn làm rượu của người Tày ở đây. Tại Hà Giang, duy

nhất chỉ có đồng bào ở xã Tùng Bá (huyện Vị Xuyên) có bí quyết nấu loại

rượu này: Rượu nấu thóc đã được hấp chín, ủ men lá, sau khi chưng cất cách

thuỷ sẽ được một loại rượu trong như nước mưa, sóng sánh vàng, mùi thơm

hấp dẫn. Bài viết Thương mại và du lịch Hà Giang trên đà phát triển và hội

nhập của Nguyễn Đình Bảy, tạp chí Thương mại, số 10, 2006 nêu lên sự phát

triển của Thương mại - Du lịch Hà Giang giai đoạn 2001 - 2005, mục tiêu,

nhiệm vụ và các giải pháp phát triển thương mại - dịch vụ năm 2006 - 2010.

Năm 2007, tạp chí Dân tộc và thời đại số 100 (3-2007) cũng dành hẳn

30 trang với chủ đề “Xuân về trên đất Hà Giang” để phản ánh sự thay đổi

của kinh tế - xã hội Hà Giang thời gian qua, từ quy mô cấp tỉnh cho đến

những nội dung cụ thể của từng huyện, từng ngành. Đó là hiệu quả từ

Chương trình 135, các chương trình chính sách dành cho đồng bào các dân

tộc của tỉnh… Trong chủ đề này có bài Đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo ở

18

huyện Vị Xuyên. Bài viết khẳng định sự thành công trong việc triển khai

chương trình 135 đến huyện, đem lại cho Vị Xuyên những tiền đề quan

trọng trong việc xoá đói giảm nghèo, làm nền tảng cho những bước phát

triển mới. Kế đó là một số bài viết như Vị Xuyên làm du lịch, báo Bắc Ninh

(5-7-2007) giới thiệu việc chú trọng đẩy mạnh phát triển dịch vụ - du lịch và

coi đó là mục tiêu để chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Bài báo nêu rõ: Để phát

triển du lịch - dịch vụ có hiệu quả và bền vững, từng bước hội nhập với khu

vực phía Bắc, huyện tập trung phát triển lợi thế tài nguyên du lịch, dịch vụ,

vừa đầu tư khai thác đa dạng hoá các loại hình du lịch dịch vụ, gồm du lịch

văn hoá - lịch sử, du lịch lễ hội truyền thống, du lịch sinh thái, làng nghề,

dịch vụ tắm nước nóng chữa bệnh, dịch vụ khám chữa bệnh; du lịch khám

phá mạo hiểm và du lịch tâm linh… Vị Xuyên trên đường hội nhập của Thanh

Như - tạp chí Dân tộc và phát triển (tháng 4-2008) giới thiệu về tiềm năng

du lịch của huyện Vị Xuyên, từ cảnh quan sinh thái đến những nét đẹp của

văn hoá tộc người xứ này. Tác giả cũng thẳng thắn chỉ ra, mặc dù có nhiều

thuận lợi về du lịch nhưng thách thức với Vị Xuyên là không nhỏ, các tiềm

năng du lịch chưa được khai thác triệt để. Vị Xuyên nói riêng và toàn tỉnh

Hà Giang nói chung đều có xuất phát điểm du lịch thấp, vốn đầu tư vào các

điểm, các địa danh du lịch còn thiếu.

Cuối cùng là những nội dung được đề cập qua một số luận văn. Một

là, Ảnh hưởng tín dụng ưu đãi ngân hàng chính sách xã hội đến giảm tỉ lệ

nghèo tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (luận văn Thạc sĩ Kinh tế) của

Nguyễn Văn Châu bảo vệ tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh

doanh - Đại học Thái Nguyên năm 2009. Ngoài việc đề cập đến một số nội

dung về cơ sở lý luận về đói nghèo và chính sách chung của Chính phủ, luận

văn tập trung làm rõ thực trạng tín dụng ưu đãi và ảnh hưởng của tín dụng

ưu đãi của Ngân hàng Chính sách xã hội đến giảm tỉ lệ nghèo tại huyện

Vị Xuyên trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2008, đánh giá hiệu quả,

mức độ ảnh hưởng, những tồn tại và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm

19

nâng cao hiệu quả tín dụng ưu đãi đến xoá đói giảm nghèo. Hai là, Nghiên

cứu phát triển kinh tế xã hội huyện Vị Xuyên, Hà Giang thời kì đổi mới

(luận văn Thạc sĩ Địa lí) của Bùi Phương Thuý bảo vệ tại Đại học Sư phạm

- Đại học Thái Nguyên năm 2010. Luận văn đã vận dụng cơ sở lí luận địa lí

kinh tế - xã hội và tổ chức lãnh thổ để đánh giá hiện trạng phát triển kinh tế

- xã hội huyện Vị Xuyên trong thời kì đổi mới, chủ yếu từ năm 2000 đến

năm 2009, cũng như đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển kinh

tế - xã hội huyện Vị Xuyên hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Ba là,

luận văn Thạc sĩ Kinh tế mang tên Sinh kế bền vững cho các hộ dân tộc

thiểu số sống tại các vùng định canh, định cư - tình huống huyện Vị Xuyên,

tỉnh Hà Giang của Nguyễn Hồng Hạnh bảo vệ tại Đại học Kinh tế TP. Hồ

Chí Minh, năm 2013. Dựa trên những phân tích về thực trạng sinh kế của

các hộ dân tại các điểm nghiên cứu, tác giả đã đề xuất những giải pháp

nhằm đem lại sinh kế bền vững cho họ, bao gồm: hướng dẫn kỹ thuật trồng

trọt, chăn nuôi với hình thức là thực hành trên nương rẫy, đồng ruộng; tập

huấn sử dụng vốn hiệu quả; đa dạng hoá hoạt dộng sinh kế thông qua đào

tạo nghề và giới thiệu việc làm; vận động bà con sinh đẻ có kế hoạch; cải

thiện hệ thống cơ sở hạ tầng v.v… Bốn là, Phát triển tài nguyên rừng gắn

với giảm nghèo ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, luận văn Thạc sĩ Địa lý

của Nguyễn Thị Thu Hiền bảo vệ tại Đại học Sư phạm - Đại học Thái

Nguyên, 2013. Với thời gian nghiên cứu từ 2005 đến 2012, luận văn đánh

giá việc phát triển rừng và vai trò của nó đối với giảm nghèo cũng như đề xuất

một số giải pháp nhằm phát triển tài nguyên rừng và giảm nghèo, nâng cao

chất lượng cuộc sống của người dân ở huyện Vị Xuyên, tình Hà Giang, trọng

tâm là các xã có nhiều diện tích rừng và nhiều hộ nghèo sống dựa vào rừng.

Các luận văn nói trên cung cấp cho chúng tôi một số tư liệu cũng như

những nhận định, đánh giá trên những khía cạch khách nhau có liên quan ít

nhiều đến nội dung luận án, từ đó chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn

20

đề đã đặt ra.

Có thể nói, nhóm tài liệu nghiên cứu về tình hình kinh tế - xã hội Hà

Giang nói chung và Vị Xuyên nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối

với đề tài luận án. Đây là nhóm công trình gắn với nội dung mà chúng tôi

tập trung nghiên cứu. Các công trình trên đây ở những khía cạnh khác nhau

đã đề cập đến vấn đề kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi phía Bắc nói

chung cũng như của tỉnh Hà Giang và huyện Vị Xuyên nói riêng. Tuy nhiên,

nhìn nhận một cách khách quan thì nhóm tài liệu này không nhiều và những

nội dung đề cập trực tiếp đến đối tượng nghiên cứu chính của luận án rất

ít ỏi. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu mà các công trình nói trên mang lại:

tình hình kinh tế, xã hội Hà Giang, tiềm năng và định hướng phát triển; các

chính sách của nhà nước và của địa phương đối với Hà Giang trong đó có

Vị Xuyên… luận án kế thừa và đặt đối tượng nghiên cứu trong bối cảnh

chung đó. Thông qua những công trình đó, chúng tôi nắm bắt được bức

tranh chung về kinh tế, xã hội Hà Giang và cả Vị Xuyên, từ đó triển khai

nghiên cứu được thuận lợi hơn. Tuy nhiên, điều hạn chế là ở chỗ những

nghiên cứu trực tiếp về Vị Xuyên rất khiêm tốn và tản mạn. Đối tượng

nghiên cứu của luận án được đề cập trong những công trình này chỉ trên một

vài khía cạnh khác nhau và mức độ đề cập cũng hạn chế tùy thuộc vào giới

hạn mà tiêu đề các công trình đó đặt ra. Đây chính là điểm làm tăng giá trị

đóng góp của luận án, nhưng cũng tạo ra nhiều khó khăn trong quá trình tập

hợp tư liệu nghiên cứu. Có thể nói, cho đến nay chưa có một công trình

khoa học lịch sử nào đi sâu nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về sự chuyển

biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên trong thời kỳ từ năm 1986 đến năm

2010, để trên cơ sở đó tổng kết đánh giá, và rút ra những bài học của quá

trình xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội của huyện miền núi biên giới

phía Bắc Tổ quốc. Đây chính là lý do và cơ sở để chúng tôi lựa chọn hướng

21

nghiên cứu này làm đề tài luận án.

1.3. Những nội dung luận án kế thừa

Trong luận án, chúng tôi kế thừa những nội dung sau:

- Điều kiện tự nhiên như vị trí địa lí và lãnh thổ, địa hình - thổ nhưỡng,

khí hậu - thuỷ văn cũng như dân cư và nguồn lao động hay cơ sở hạ tầng vật

chất kĩ thuật… là những vấn đề đã được các nhà khoa học khảo sát nghiên

cứu trong nhiều năm qua và kết quả của nó được thừa nhận.

- Một số đặc điểm về kinh tế, xã hội của vùng đất và con người

Vị Xuyên được rút ra dựa trên những điều kiện tự nhiên cũng như từ lịch sử

hình thành và phát triển của vùng đất và con người nơi đây.

- Tình hình kinh tế - xã hội trước năm 1986 đã được đề cập qua một số

sách, báo như đã nêu.

- Một số số liệu về kinh tế, xã hội từ năm 1986 đến năm 2010 về huyện

Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang mà các công trình đã đề cập trong từng vấn đề

cụ thể.

1.4. Những nội dung luận án cần tiếp tục giải quyết

Cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách

toàn diện về lĩnh vực chuyển biến kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên từ năm

1986 đến năm 2010. Các công trình nghiên cứu về các vấn đề kinh tế - xã

hội Việt Nam trong thời kì đổi mới của các nhà lãnh đạo, nhà khoa học chỉ

mang tính khái quát, định hướng chung cho sự phát triển kinh tế, xã hội của

đất nước trên tất cả các vùng miền mà ít đi vào nghiên cứu cụ thể từng vùng,

từng địa phương. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu của địa phương

mặc dù đã đề cập đến nhiều khía cạnh về kinh tế - xã hội của huyện nhưng

chỉ tập trung vào những nội dung như nông nghiệp, giáo dục, du lịch… và

trong khoảng thời gian rất ngắn, mức độ ít, phân tích chưa sâu. Hơn nữa

những công trình thuộc dạng này không nhiều và khá tản mạn. Bên cạnh đó,

các công trình đề cập đến đường lối, chính sách đổi mới phát triển kinh tế -

22

xã hội chỉ mang tính chất cung cấp thông tin, dữ liệu mà không đưa ra được

những đánh giá, nhận định mang tính tổng quát về tình hình kinh tế, xã hội

huyện Vị Xuyên giai đoạn 1986 - 2010.

Bản thân các công trình nghiên cứu của các tác giả Trung ương và địa

phương chỉ đề cập, tìm hiểu, đánh giá vấn đề ở góc độ chính trị, địa lí,

kinh tế… và nếu là vấn đề lịch sử thì chỉ là trong phạm vi hẹp, ở một mức

độ cụ thể mà chưa có cái nhìn tổng thể về quá trình chuyển biến kinh tế,

xã hội của huyện Vị Xuyên, cũng như chưa làm rõ được những đặc điểm

riêng, đặc trưng của huyện Vị Xuyên trong tương quan với các huyện trong

tỉnh Hà Giang và vùng núi phía Bắc.

Do thiếu tính tổng thể và chỉ phân tích những khía cạnh cụ thể của các

vấn đề kinh tế, xã hội trong huyện mà các công trình nghiên cứu chưa nêu

rõ được đặc điểm của kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên thời kỳ đổi mới cũng

như vai trò của nó với sự phát triển chung của tỉnh Hà Giang và vùng núi

phía Bắc. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa và phát triển những thành quả

nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi sẽ sử dụng một cách phù hợp vào

việc làm rõ thêm những luận điểm, những nội dung mà luận án hướng tới về

sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên trong khung thời gian

23

nghiên cứu đặt ra.

CHƯƠNG 2

CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI

TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2000

2.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến kinh tế, xã hội

huyện Vị Xuyên

2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Vị Xuyên là một huyện miền núi thuộc khu vực trung tâm của tỉnh Hà

Giang, có toạ độ địa lý nằm trong khoảng 22o29’30’’B đến 23o 02’30’’B và

104o02’30’’Đ đến 105o09’30’’Đ, phía Bắc giáp với huyện Quản Bạ, phía

Nam giáp huyện Bắc Quang, phía Đông Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía

Đông giáp huyện Bắc Mê, phía Tây Nam giáp huyện Hoàng Su Phì, phía

Tây giáp huyện Ma Li Pho (tỉnh Vân Nam, Trung Quốc).

Vị Xuyên là nơi đầu nguồn của sông Lô trên lãnh thổ Việt Nam. Sông

bắt nguồn từ Vân Nam - Trung Quốc và chảy vào địa phận Hà Giang tại xã

Thanh Thủy (Vị Xuyên). Sông chảy theo hướng Bắc - Nam, đoạn qua địa

bàn huyện dài 70 km; diện tích lưu vực khoảng 8700km2, có chế độ thủy

chế phức tạp và có sự khác biệt lớn giữa mùa khô và mùa mưa. Huyện Vị

Xuyên còn là nơi có sông Miện chảy qua xã Thuận Hòa và sông Nậm Điêng

chảy qua xã Minh Tân. Hệ thống suối, ao hồ khá phát triển đã đáp ứng nhu

cầu xây dựng thủy điện nhỏ, sản xuất và sinh hoạt. Tuy vậy, vào mùa khô

nhiều nơi bị thiếu nước nghiêm trọng, nhất là các xã vùng cao.

Nằm trong phạm vi của đới khí hậu gió mùa ẩm, khí hậu Vị Xuyên có

hai mùa rõ rệt, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều; mùa đông lạnh kéo dài, khô

hạn. Nhiệt độ trung bình năm 230C, biên độ dao động nhiệt độ trong năm là

120C, tháng nóng nhất là tháng 6 và tháng 7, tháng lạnh nhất từ giữa tháng

12 đến tháng 1; số giờ nắng trung bình năm trên 1200 giờ. Lượng mưa trung

24

bình khá lớn 3000 - 4000 mm/năm. Độ ẩm trung bình 84%, độ ẩm cao ở hầu

hết các mùa trong năm, lớn nhất vào tháng 7, tháng 8 (trên 87%) và thấp

nhất vào tháng 3 (80%).

Nhìn chung, huyện Vị Xuyên có điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát

triển nền nông lâm nghiệp đa dạng. Tuy nhiên, cũng có một số bất lợi như

sương muối trong mùa đông, mùa hè mưa nhiều nên thường xảy ra lụt lội, lũ

quét ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Về địa hình, huyện Vị Xuyên nằm trong vùng núi thấp của tỉnh Hà

Giang, địa hình phức tạp, chia cắt mạnh. Độ cao trung bình của huyện trên

500 m so với mực nước biển, độ dốc lớn tạo ra các tiểu vùng mang đặc điểm

riêng biệt:

- Tiểu vùng núi cao: Bao gồm các xã Lao Chải, Xín Chải, Thanh Đức,

Thanh Thủy, Thượng Sơn, Quảng Ngần, Cao Bồ, Phương Tiến, vùng này có

độ cao trung bình trên 1.000 m, thuận lợi cho phát triển các cây đặc sản như

chè Shan, quế, thảo mộc, chăn nuôi đại gia súc và phát triển nghề rừng.

- Tiểu vùng núi trung bình: Bao gồm các xã Trung Thành, Bạch Ngọc,

Ngọc Minh, Ngọc Linh, Minh Tân, Thuận Hòa, Việt Lâm, Linh Hồ, vùng này

có độ cao trung bình từ 500 - 800 m, thuận lợi cho phát triển các loại cây

công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, chè, chăn nuôi gia súc và trồng rừng.

- Tiểu vùng thung lũng và núi thấp: Bao gồm các xã Tùng Bá, Phong

Quang, Kim Linh, Phú Linh, Kim Thạch, Đạo Đức, Thị trấn Vị Xuyên, Thị

trấn Việt Lâm, vùng này có độ cao trung bình dưới 500 m, thuận lợi cho phát

triển lúa nước, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày, phát triển chăn nuôi và và

hình thành các khu cụm công nghiệp. [175; tr.4]

Về thổ nhưỡng, chủ yếu địa bàn huyện là đất nâu đỏ trên đá mắc ma

bazơ và trung tính, đất nâu đỏ trên đá vôi, đất đỏ vàng, ngoài ra còn có đất

25

phù sa ven các sông, suối, đất thung lũng dốc tụ, đất mùn vàng nhạt trên núi

cao có diện tích không đáng kể. Nhìn chung, đất có dinh dưỡng tốt thích

hợp với cây ăn quả, hoa màu và cây công nghiệp, cây trồng rừng.

Về mặt tài nguyên, Vị Xuyên nằm trong vùng sinh khoáng Đông Bắc

Việt Nam nên có nhiều tiềm năng về các loại khoáng sản phục vụ phát triển

kinh tế. Qua khảo sát thăm dò của các nhà địa chất bước đầu đã phát hiện

12 mỏ và điểm quặng với một số khoáng sản có giá trị thương mại quy mô

địa phương. Đó là khoáng sản kim loại quặng sắt (xã Tùng Bá) trữ lượng

223 triệu tấn, hàm lượng sắt 36,69%; mangan (xã Linh Hồ); chì - kẽm (Na

Sơn – xã Tùng Bá) trữ lượng 1,6 triệu tấn; vàng sa khoáng ở Bình Vàng -

Đạo Đức. Khoáng sản phi kim loại: cao lanh (xã Tùng Bá); sét (Hồ Noong –

xã Phú Linh) 1,6 triệu m3; đá vôi có nhiều ở Thanh Thủy; than bùn ở Hồ

Noong - Phú Linh có trữ lượng khoảng 88,45 nghìn m3, đang khai thác để

sản xuất phân vi sinh; nước khoáng nóng (xã Quảng Ngần) có nhiệt độ trung

bình khoảng 610C. Vị Xuyên còn có một số mỏ khoáng sản đã phát hiện

nhưng chưa có đánh giá chi tiết về chất lượng và trữ lượng như: thủy

ngân, quặng Acsen, đá quý [130; tr. 34-35].

Bên cạnh đó, hệ thống sông suối thuộc lưu vực sông Lô phân bố tương

đối đều, có độ dốc lớn là điều kiện phát triển thủy điện nhỏ. Dự án thủy điện

Nậm Ngần với công suất lắp máy 13,5 MW và tổng số vốn 251 tỷ đồng, sản

lượng điện trung bình 60,27 triệu KWh/năm trực tiếp phục vụ điện cho sản

xuất và sinh hoạt cho các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên. Ngoài ra, hàng loạt

các công trình thủy điện nhỏ như: Việt Lâm, Suối Sửu, Bản Kiếng,

Nậm Má... đã và đang được xây dựng sẽ là nguồn cung cấp điện cho cộng

đồng các dân tộc, sống trong điều kiện trên núi cao và phân tán.

Là một huyện miền núi, Vị Xuyên có diện tích rừng khá lớn, trong đó

diện tích đất lâm nghiệp có rừng 85196,36 ha, chiếm 56,8% diện tích đất tự

nhiên trong đó diện tích rừng sản xuất có 14283,22 ha; diện tích rừng phòng

26

hộ 41684,39 ha, diện tích rừng đặc dụng 29228,75 ha. Độ che phủ rừng luôn

đạt trên 50%. Diện tích rừng trồng tập trung 15942,24 ha; trong đó trồng

mới 2231,10 ha. Các loài gỗ quý: pơ mu, ngọc am, lát, nghiến, thông đá,

chò chỉ,...; các loài thực vật đặc hữu: cây Vù Hương, Bồ an, Bồ đề lá bời

bời; các loài cây dược liệu quý: sa nhân, thảo quả, quế, đỗ trọng... huyện

còn có thế mạnh về cây công nghiệp dài ngày (chè, cam), cây ăn quả và cây

đặc sản. Trên địa bàn huyện còn có Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Côn Lĩnh II.

Rừng có vai trò rất lớn bảo vệ môi trường, cung cấp nguyên liệu phục vụ

công nghiệp, xây dựng, y tế và là những điểm du lịch sinh thái. Tài nguyên

động vật tương đối phong phú, có nhiều loài quý hiếm: gấu ngựa, gà lôi, đại

bàng,... Tuy nhiên, diện tích rừng bị suy giảm trong những thập niên qua,

giảm cả về phẩm chất cây cũng như tỷ lệ các cây có giá trị cao. Cùng với đó

là tập quán săn bắn bừa bãi nên hầu hết các loài thú quý hiếm đã bị suy giảm

về cả số loài và cá thể. [175; tr.6]

Với tất cả những đặc điểm trên, có thể thấy bên cạnh những khó khăn

về điều kiện tự nhiên thì Vị Xuyên vẫn có nhiều tiềm năng, lợi thế có thể

khai thác phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Chính những thuận lợi này đã

và đang góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân trong huyện,

cũng như hoàn thiện bộ mặt kinh tế chung của toàn huyện.

2.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội và dân cư

Lịch sử hình thành, phát triển vùng đất và con người tỉnh Hà Giang nói

chung, huyện Vị Xuyên nói riêng gắn liền với lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Từ xa xưa, Vị Xuyên thuộc huyện Nguyên Bình - Tuyên Quang. Thời

nhà Lê, huyện Nguyên Bình được đổi thành châu Vị Xuyên thuộc phủ

Tường Yên tỉnh Tuyên Quang. Đến năm Minh Mệnh thứ 16 (1835) cắt phần

đất nằm ở hữu ngạn sông Lô thành lập huyện mới lấy tên là huyện Vĩnh Tuy

(sau đổi thành huyện Bắc Quang). Phần đất còn lại là huyện Vị Xuyên với 5

27

tổng và 31 xã. Ngày 20-8-1891 thực dân Pháp đã chia Đạo quan binh 2

thành 3 tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang. Toàn bộ phủ Tường Yên

trong đó có châu Vị Xuyên nằm trong địa phận của tỉnh Hà Giang. Về sau

huyện này lại được chia thành 2 huyện Vị Xuyên và Hoàng Su Phì. Tháng

12-1962, một số xã thuộc phía Bắc của huyện Vị Xuyên (xã Quyết Tiến,

Quản Bạ, Thanh Vân, Cao Tả Trung, Nghĩa Thuận, Thái An, Đông Hà)

được sáp nhập với một số xã thuộc huyện Đồng Văn để thành lập huyện

Quản Bạ. Đến cuối năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số

136/HĐBT ngày 18-11-1983 tách 10 xã phía đông của huyện Vị Xuyên (các

xã: Phú Nam, Đường Âm, Yên Phú, Yên Cường, Thượng Tân, Giáp Trung,

Lạc Nông, Minh Ngọc, Minh Sơn, Yên Định) để thành lập huyện Bắc Mê.

Năm 1976, Hà Giang sáp nhập với Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên, Vị

Xuyên trở thành huyện của tỉnh Hà Tuyên, từ 1991 trở lại là huyện của tỉnh

Hà Giang. Năm 2006, 3 xã Kim Thạch, Kim Linh, Phú Linh của thị xã Hà

Giang được sáp nhập về huyện Vị Xuyên và 2 xã Phương Độ, Phương

Thiện được sáp nhập về thị xã Hà Giang (nay là thành phố Hà Giang). Như

vậy, sau một thời gian tách nhập, huyện Vị Xuyên hiện nay gồm 24 đơn vị

hành chính, với 2 thị trấn và 22 xã, diện tích gần 1500 km2, trong đó có 5 xã

biên giới giáp Trung Quốc với tổng chiều dài biên giới là 32,6 km. Trung

tâm huyện lỵ là thị trấn Vị Xuyên, nằm cách thành phố Hà Giang 20 km về

phía Nam, cách thủ đô Hà Nội 265 km về phía Bắc. Huyện Vị Xuyên nằm

gần như ở trung tâm của tỉnh Hà Giang, là nơi chuyển tiếp từ vùng cao núi

đá phía bắc và vùng núi thấp phía nam, có diện tích rộng lớn gần như ôm

gọn thành phố Hà Giang và quốc lộ 2 chạy từ cửa khẩu Thanh Thủy qua địa

bàn huyện dài 30 km. Vị trí địa lý như vậy cho phép huyện Vị Xuyên trở

thành đầu mối giao lưu kinh tế - xã hội với các địa phương khác trong tỉnh,

trong cả nước và với Trung Quốc; đồng thời còn có vị trí chính trị, an ninh

quốc phòng quan trọng của tỉnh Hà Giang và khu vực biên giới phía bắc

28

Tổ quốc.

Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng về phát triển kinh tế và đạt

được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng do điều kiện miền núi còn nhiều

khó khăn, nguồn lực dành cho phát triển kinh tế còn thấp nên huyện Vị

Xuyên vẫn là một huyện nghèo của tỉnh Hà Giang.

Huyện Vị Xuyên có cơ cấu dân tộc khá đa dạng, với khoảng 17 dân tộc

anh em cùng sinh sống: Tày, Kinh, Dao, Mông, Nùng, Giấy, Pà Thẻn, Hoa,

Lô Lô,... và các dân tộc khác. Trong cơ cấu dân tộc của Vị Xuyên hiện nay

người Tày chiếm tỉ lệ lớn nhất (36,1%), sau đó là các dân tộc Dao (22,9%),

Kinh (15,2%), Mông (11,0%), Nùng (7,1%), Hoa (1,4%) và các dân tộc khác

chiếm 6,3%. Giữa các dân tộc có sự chênh lệch về trình độ phát triển, trình

độ học vấn và mức sống. Dù vậy, mỗi dân tộc vẫn giữ nét đặc trưng riêng

trong đời sống văn hoá truyền thống, làm phong phú, đa dạng bản sắc văn

hoá của cộng đồng các dân tộc trong tỉnh.

Các dân tộc có sự phân bố đa dạng: dân tộc Kinh tập trung chủ yếu ở

thị trấn Vị Xuyên, thị trấn Việt Lâm và các xã vùng thấp: Đạo Đức, Ngọc

Linh, Việt Lâm, Trung Thành; dân tộc Tày chủ yếu ở thị trấn Vị Xuyên, các

xã Thuận Hòa, Tùng Bá, Phú Linh, Linh Hồ, Việt Lâm, Trung Thành; dân

tộc Mông phân bố chủ yếu ở các xã vùng cao như Minh Tân, Thuận Hòa,

Lao Chải, Bạch Ngọc; dân tộc Dao chủ yếu ở các xã Minh Tân, Phương

Tiến, Cao Bồ, Thượng Sơn, Quảng Ngần.

Theo số liệu thống kê năm 2009, huyện Vị Xuyên có diện tích

1495,25 km2, dân số 96.250 người, chiếm 18,9 % diện tích và 13,6 % dân

số của tỉnh Hà Giang. Trong đó, dân số nông thôn 84270 người (chiếm

87,6 %), ở thành thị 11.898 người (chiếm 12,4 %). Những năm gần đây tỷ

lệ gia tăng dân số tự nhiên của huyện giảm dần. Năm 2000 tỷ lệ gia tăng dân

29

số là 1,63%, đến năm 2009 chỉ còn 1,2%. (Hình 2.1)

Hình 2.1. Quy mô dân số và gia tăng dân số huyện Vị Xuyên thời kì 2000 - 2009

Nguồn: Xử lý từ niên giám thống kê Vị Xuyên qua các năm.

Theo số liệu của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở, mật độ dân số

trung bình của huyện năm 2009 là 64 người/km2; dân cư phân bố không

đồng đều giữa các xã, thị trấn. Dân số phân bố tập trung tại các xã, thị trấn

đã bước đầu phát triển ven quốc lộ 2 và cận TP. Hà Giang: thị trấn Vị

Xuyên 434 người/km2, thị trấn Việt Lâm 303 người/km2, xã Đạo Đức 114

người/km2, xã Việt Lâm 109 người/km2, xã Phú Linh 105 người/km2.

Những nơi dân cư tập trung thưa thớt chủ yếu là các xã vùng biên giới, vùng

cao, vùng sâu, xa như: Quảng Ngần 26 người /km2, Thanh Đức 32 và Bạch

Ngọc 32 người/km2, Cao Bồ 33 người/km2. [130; tr.37]

Như vậy, dân số càng đông, chất lượng nguồn lao động càng cao thì có

điều kiện tốt để hình thành, phát triển cơ cấu kinh tế đa dạng, có chất lượng

với những ngành, lĩnh vực có khả năng bứt phá, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Tuy nhiên, sự đa dạng về dân tộc cũng tạo ra sự phân hoá về phát triển

30

con người. Các dân tộc thiểu số thường cư trú ở các địa bàn vùng núi, điều

kiện kinh tế khó khăn, trình độ giáo dục thấp, vấn đề chăm sóc sức khoẻ chưa

được tốt, có nơi còn du canh du cư, do vậy, đời sống và trình độ phát triển của

người dân nơi đây thấp hơn so với các dân tộc sống ở vùng đồng bằng.

Với truyền thống vắn hoá, truyền thống cách mạng, nhân dân các dân tộc

trong huyện cần cù sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, kế

thừa và phát huy những kinh nghiệm, thành quả đã đạt được trong lao động,

huyện Vị Xuyên sẽ có điều kiện để phát huy mạnh mẽ kinh tế, xã hội trong

thời gian tới.

2.1.3. Bối cảnh quốc tế và trong nước

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986), sự nghiệp đổi

mới của cả nước nói chung và tỉnh Hà Giang nói riêng phát triển trong điều

kiện thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Sau khi chế độ xã hội chủ

nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới,

phong trào cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào tình trạng thoái trào. Các

mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại, đan xen với nhau, có mặt trở nên

sâu sắc hơn. Nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi, những xung đột vũ

trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ

trang, khủng bố vẫn diễn ra ở nhiều nơi và ngày càng tăng. Cuộc cách mạng

khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, là

động lực thúc đẩy sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất và năng

suất lao động, làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế thế giới, nhưng cũng đặt ra

thách thức lớn đối với tất cả các nước. Từ xã hội công nghiệp hiện đại, nhân

loại phải đối mặt với những vấn đề cấp thiết mang tính toàn cầu, đòi hỏi

phải có sự hợp tác của toàn thế giới mới có thể giải quyết được. Khu vực

châu Á - Thái Bình Dương phát triển năng động, tiềm lực kinh tế ngày càng

mạnh. Xu hướng tự do hóa và liên kết trong khu vực phát triển nhanh, đặc

31

biệt trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Sự phát triển không đồng đều giữa

các nước vẫn là một xu hướng không thể đảo ngược. Từ những thay đổi của

tình hình thế giới, trong quan hệ quốc tế đã và đang nổi lên những xu thế

chủ yếu sau đây: Hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển vì lợi ích của

các dân tộc và quốc gia và vì lợi ích chung của toàn nhân loại; các quốc gia

ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển và tập trung mọi nguồn lực vào ưu

tiên phát triển kinh tế; các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự

cường, hợp tác và đấu tranh luôn là hai mặt cùng tồn tại.

Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới Việt Nam đã ra khỏi

khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển

biến theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường.

Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được đầu tư nâng cấp, mở rộng, nguồn lực

phát triển kinh tế được huy động. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, kinh

tế tăng trưởng liên tục. Việt Nam đã thực hiện có kết quả chủ trương phát

triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy được tiềm năng của các thành

phần kinh tế.

Với bối cảnh chung như trên, sau thời kỳ gián đoạn, quan hệ Việt -

Trung dần dần được cải thiện và chính thức bình thường hoá từ năm 1991.

Điều này tác động lớn đến các tỉnh biên giới phía Bắc và Hà Giang nói

chung, Vị Xuyên nói riêng có thêm điều kiện để phát triển.

2.1.4. Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng,

Nhà nước và của tỉnh Hà Giang

Tháng 12-1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã họp. Với tính

thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội

xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát cho việc phát triển kinh tế,

xã hội của nước ta là: Ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tực

32

xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội

chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội, được Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) thông qua, đã chỉ rõ

định hướng phát triển, vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế

quốc dân, “Kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công

nghiệp với cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ” [59; tr. 319].

Tiếp theo, Đại hội VIII của Đảng (1996), trên cơ sở đánh giá những thành

công và hạn chế sau 10 năm đổi mới, xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế

giai đoạn 1996 - 2000 là: “tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền

vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội…,cải thiện đời

sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế” [59; tr. 545],

đồng thời Đại hội cũng xác định mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước trong thời kỳ quá độ. Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đến

năm 2001, Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề

ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đã cơ bản hoàn thành cho phép

chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Về văn hoá, xã hội, Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu và mối

quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội trong 5 năm

(1991 - 1995): “Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn

hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật

chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và

tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là

động lực thúc đẩy phát triển kinh tế” [59; tr. 279]. Trong Chiến lược ổn

định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội

cũng nêu rõ nhiệm vụ và phương hướng phát triển văn hoá và các vấn đề xã

hội là nhằm phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo những điều kiện

để con người phát triển một cách toàn diện. Đến Đại hội VIII (1996), chủ

33

trương giải quyết các vấn đề xã hội được tập trung vào việc thanh toán nạn

mù chữ và hoàn thành cơ bản phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, giảm

nhịp độ phát triển dân số, giải quyết việc làm, hoàn thành căn bản định canh

định cư, xoá đói giảm nghèo.

Cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều

quyết định, chương trình mục tiêu..., trong đó quan trọng và có ý nghĩa nhất

là Chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn

miền núi và vùng sâu, vùng xa. Giai đoạn đầu, Chương trình 135 chủ yếu

nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn xuống dưới 25% vào

năm 2005, tăng tỷ lệ trẻ em nhập học lên đến 70%, mở rộng đào tạo cho

người nghèo trong sản xuất, kiểm soát dịch bệnh và cung cấp nước sạch,

xây dựng đường và phát triển chợ nông thôn. Người hưởng lợi từ Chương

trình 135 chủ yếu là nhóm đồng bào dân tộc thiểu số. Phần lớn các xã được

hưởng lợi từ Chương trình 135 thuộc khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số

sinh sống.

Với sự đầu tư vốn lớn từ các chương trình, dự án phát triển kinh tế đối

với khu vực dân tộc thiểu số của Chính phủ, bộ mặt kinh tế của huyện Vị

Xuyên từ cuối những năm 90 thế kỷ XX đã có những chuyển biến tích cực

và thực sự khởi sắc từ những năm 2000.

Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ Hà Giang đã thông

qua các nghị quyết, chỉ thị về chính sách về phát triển các lĩnh vực xã hội

phù hợp với địa phương, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống

xã hội.

Quán triệt quan điểm, đường lối của Đại hội Đảng lần thứ VII, Đại hội

lần thứ XI Đảng bộ tỉnh Hà Giang (1-1992) đã xác định 5 mục tiêu lớn về

kinh tế xã hội trong những năm 1992 - 1995 là: Phát triển kinh tế theo

hướng cơ cấu nông - lâm - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; lấy kinh tế

đồi rừng, phát triển công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc để làm chuyển

34

biến nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, gắn phát triển kinh

tế nông - lâm nghiệp với xây dựng nông thôn mới; hạ mức tăng dân số, khắc

phục tình trạng xuống cấp của lĩnh vực văn hoá, giáo dục nhằm từng bước

ổn định đời sống kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí và tạo thế đi lên trong

những năm tới.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XI đề ra 10 chương trình phát

triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm 1995. Đảng bộ cũng đã xác định rõ 3

vùng kinh tế của tỉnh. Đó là:

- Vùng cao núi đá: gồm các huyện Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh,

Quản Bạ.

- Vùng cao núi đất gồm 2 huyện Xín Mần, Hoàng Su Phì và một số

xã của huyện Bắc Quang, Vị Xuyên và Bắc Mê.

- Vùng thấp gồm thị xã Hà Giang, huyện Bắc Quang, Vị Xuyên,

Bắc Mê.

Có thể nói việc xác định 3 vùng kinh tế với những cây trồng, vật nuôi

thích hợp là sự cụ thể hoá tư tưởng chỉ đạo đối với đổi mới cơ cấu kinh tế

nông - lâm nghiệp.

Đường lối đổi mới của Đảng, chính sách phát triển kinh tế của Nhà

nước được Đảng bộ tỉnh… vận dụng sáng tạo vào điều kiện địa phương

bằng những mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, những chính

sách, biện pháp cụ thể, đã có tác động lớn đến khả năng thu hút các nguồn

lực cho phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế.

Những năm cuối thế kỉ XX (1996 - 2000), thực hiện các nghị quyết

của Trung ương Đảng (khoá VIII), các chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ra các nghị quyết quan

trọng để đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp phát triển kinh tế như: Nghị quyết về

chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2

35

(khoá VIII) về ứng dụng khoa học công nghệ; Nghị quyết về chương trình

hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khoá

VIII) về phát huy nội lực, cần kiệm để xây dựng công nghiệp hoá - hiện

đại hoá, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2000;

Nghị quyết về thực hiện Nghị quyết số 06 của Bộ Chính trị về phát triển nông

nghiệp, nông thôn.

Như vậy, các yếu tố này là điều kiện có tính quyết định đến sự hình

thành và phát triển cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Sự ổn định, minh bạch, đồng

bộ của thể chế kinh tế (nhất là các chính sách đầu tư, tài chính) sẽ góp phần

phát triển cơ cấu kinh tế làm giảm hoặc làm tăng lên các tác động tích cực

và tiêu cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ chế quản lí sẽ tác động

lên cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư, tạo ra cân đối lực lượng lao động và thu

nhập giữa các vùng, giảm bớt khoảng cách chênh lệch mức sống giữa thành

thị và nông thôn.

Chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên từ năm 1986 đến năm

2010 chịu sự tác động thường xuyên của nhiều yếu tố, trong đó có những

yếu tố tự nhiên như điều kiện địa hình, địa chất, khí hậu, thổ nhưỡng và có

những yếu tố thuộc về xã hội như đặc điểm dân tộc, dân cư. Ngoài ra còn có

những yếu tố tác động hết sức quan trọng là chủ trương, chính sách của

Đảng, Nhà nước đối với khu vực miền núi, khu vực dân tộc thiểu số, các

chính sách về xóa đói giảm nghèo...

Huyện Vị Xuyên là một vùng dân tộc thiểu số, miền núi và biên giới.

Đây là vùng chiếm số đông các dân tộc thiểu số sinh sống, có tốc độ tăng

trưởng kinh tế tốt nhưng do xuất phát điểm thấp nên quy mô của nền kinh tế

còn nhỏ bé, tình trạng đói nghèo còn ở mức cao và phổ biến, lệ thuộc nhiều

vào sự đầu tư của các cấp. Đặc biệt, do có đường biên giới với nước ngoài

nên nơi đây là những địa bàn nhạy cảm về chính trị, buộc phải đặt vấn đề

36

phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo an ninh - quốc phòng. Tuy nhiên,

nơi đây vẫn là vùng có nhiều tiềm năng và cơ hội để phát triển. Là nơi có địa

bàn lớn, có nhiều dân tộc, có tuyến biên giới dài, có tuyến quốc lộ quan

trọng chạy qua, do vậy, huyện cần quan tâm đến quản lý và sử dụng có hiệu

quả hạ tầng xã hội, hạ tầng giao thông, hạ tầng thông tin để tạo sự thúc đẩy,

lan tỏa hình thành các mạng lưới liên kết vùng phát triển kinh tế hiệu quả và

bền chặt.

Mặc dù kinh tế có phát triển nhưng chưa tương xứng với tiềm năng đất

đai, tài nguyên khoáng sản, thế mạnh về con người, lợi thế về địa lý. Chính

vì thế Vị Xuyên chưa phát huy được vai trò của huyện động lực như mong

muốn. Sự phát triển và thành tựu của các lĩnh vực chủ yếu dọc trục quốc

lộ 2, chủ yếu địa bàn thị trấn, thị tứ, chủ yếu ở những nơi được tập trung chỉ

đạo thường xuyên và liên tục của huyện và của tỉnh… Điều này cho thấy

yếu tố tự nhiên và xã hội của Vị Xuyên có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình

thực hiện các chính sách về dân tộc cũng như tăng trưởng kinh tế. Việc triển

khai thực hiện các chương trình, dự án lớn ở huyện Vị Xuyên luôn phải tính

đến việc khắc phục những khó khăn của điều kiện tự nhiên cũng như khả

năng tiếp nhận của người dân trên địa bàn huyện.

Dù vậy, là địa bàn có nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế như

khoáng sản, thủy điện, tài nguyên thiên nhiên phong phú, có vị trí đối nội

đối ngoại trọng điểm của tỉnh, có nhiều giá trị văn hóa lịch sử và tâm linh,

trong tương lai Vị Xuyên hoàn toàn có thể là nơi khai thác tài nguyên tốt

phục vụ cho đời sống của người dân địa phương. Mặt khác, Vị Xuyên là

mảnh đất giàu truyền thống, kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ

biên giới phía Bắc. Nhân dân các dân tộc Vị Xuyên trong những năm qua

luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm vượt lên nghèo khó,

hòa nhập với nhân dân trong tỉnh Hà Giang và cả nước. Đây chính là điều

37

kiện quan trọng đảm bảo cho sự thành công khi triển khai thực hiện các

chính sách của Đảng và Nhà nước đối với khu vực miền núi trọng điểm như

huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.

2.2. Chuyển biến về kinh tế

2.2.1. Bước đầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Huyện Vị Xuyên là một địa bàn có tầm quan trọng chiến lược của tỉnh

Hà Giang nói chung và khu vực biên giới Việt - Trung nói riêng. Trong

cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc trước sự xâm lược của

Trung Quốc, quân dân huyện Vị Xuyên đã anh dũng chiến đấu cùng với

nhân dân của tỉnh Hà Tuyên và các tỉnh biên giới phía Bắc đánh bại âm mưu

của kẻ thù, bảo vệ an ninh vùng biên của đất nước. Sau cuộc chiến năm

1979, huyện Vị Xuyên tiếp tục phải chịu nhiều thiệt hại trước sự đánh phá

của kẻ thù. Ngày 7 tháng 5 năm 1981, Trung Quốc dùng pháo cối hạng nặng

bắn phá các xã Lao Chải, Thanh Thủy, Minh Tân, Phương Tiến sau đó dùng

bộ binh đánh chiếm các cao điểm 1800A, 1800B, 1875, 1558. Từ ngày 7

đến 23 tháng 5 năm 1981, Trung Quốc bắn sang khu vực biên giới huyện Vị

Xuyên hơn 9.000 quả đạn pháo là chết 2 người dân, 11 người bị thương, 189

ngôi nhà bị phá hủy [10; tr. 162-163]. Trước tình hình đó, huyện Vị Xuyên

được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hà Tuyên đã kịp thời đề ra các biện pháp ổn

định tư tưởng cho cán bộ và nhân dân; tiến hành kiểm tra bố trí lại lực lượng

chiến đấu ở tuyến trước, tổ chức cho nhân dân sơ tán về tuyến sau. Tháng 5

năm 1982, Chính phủ quyết định cho giải thể một số xã ở vùng biên, tách

nhập một số thôn vào các xã khác để phù hợp với thế trận chiến đấu

(giải thể xã Thanh Hương, sáp nhập các thôn của xã Thanh Hương vào

Thanh Đức và Xín Chải, tách một số thôn của xã Phương Tiến vào xã

38

Thanh Thủy).

Đến năm 1984, Trung Quốc lại tiến hành chiến tranh xâm lấn biên giới,

tăng cường kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt chống Việt Nam. Trung

Quốc sử dụng quân đoàn 14 và một số sư đoàn độc lập thuộc đại quân khu

Côn Minh tấn công dồn dập vào biên giới Hà Tuyên và chủ yếu tập trung ở

Vị Xuyên. Chiến trường Bắc Vị Xuyên trở thành chiến trường nóng bỏng

nhất cả nước [10; tr. 169]. Cho đến năm 1985, quân Trung Quốc vẫn tìm mọi

cách quấy phá an ninh của ta. Không chỉ về quân sự, quân Trung Quốc còn tìm

cách phá hoại về kinh tế, chính trị, văn hóa, phao tin đồn nhảm gây hoang

mang trong nội bộ ta [149; tr. 4]. Để đối phó với tình hình trên, huyện Vị

Xuyên đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân

về âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, đề cao tinh thần cảnh giác trong mọi tình

huống, gắn chặt lực lượng an ninh với việc củng cố quốc phòng toàn dân.

Từ cuối năm 1985 đến đầu năm 1986, thực hiện chủ trương chung trong tỉnh

Hà Giang, huyện Vị Xuyên đã gom các nhóm cư dân ở vùng biên di dời vào

sâu trong nội địa, tổ chức cư trú tạm thời cho nhân dân trong một khu vực

hoàn chỉnh có chính quyền, tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng; đồng thời

đảm bảo đất đai để sản xuất tạo điều kiện ổn định cuộc sống của bà con

nhân dân. Đối với những lao động trẻ, khỏe có thể bám trụ lại vùng biên vừa

sản xuất, vừa chiến đấu được tập trung lại trong các địa bàn nhất định để

thuận tiện cho việc quản lý, sinh hoạt, củng cố công tác an ninh [149; tr. 4].

Năm 1986 là năm đầu tiên trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm

1986 - 1990 với 3 chương trình kinh tế lớn là: Chương trình sản xuất lương

thực, phực phẩm; Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng; Chương trình sản

xuất hàng xuất khẩu. Đối với Vị Xuyên lúc này vẫn gặp nhiều khó khăn

trong bối cảnh chiến sự vẫn thường xuyên xảy ra, quân và dân ở đây ở trong

điều kiện vừa sản xuất vừa chiến đấu. Nhiều vùng đất canh tác ở biên cương

bị bỏ hoang do đạn pháo kích của quân Trung Quốc gây ra, số dân bám trụ

39

sản xuất không được bao nhiêu, số lui vào nội địa việc bố trí sản xuất, đời

sống còn chưa ổn định. Cơ sở vật chất phục vụ sản xuất chưa được củng cố

và tăng thêm, vật tư nhà nước cung cấp không đáp ứng đủ theo nhu cầu

[149; tr. 1]. Nhiệm vụ quan trọng đặt lên hàng đầu trong lúc này của huyện

Vị Xuyên là: Tăng cường củng cố quốc phòng toàn dân, toàn diện, xây dựng

làng xã, huyện pháo đài vững chắc, thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh

giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Đập tan mọi âm mưu, thủ

đoạn và kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của bọn phản động Trung Quốc

[149; tr. 2].

Về cơ bản, kinh tế huyện Vị Xuyên giai đoạn đầu đổi mới (1986 -

1990) chỉ có nông - lâm nghiệp nếu xét theo cơ cấu các ngành kinh tế. Nông

nghiệp là trọng tâm, là chủ đạo trong tất cả các giải pháp, kế hoạch mà

huyện đưa ra nhằm thực hiện những chủ trương của tỉnh và của Đảng, Nhà

nước. Những lĩnh vực về công nghiệp, dịch vụ vẫn chưa có gì đáng kể.

Từ sau khi tỉnh Hà Tuyên được chia tách1, huyện Vị Xuyên bắt đầu

thực hiện đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, nhưng vẫn chỉ

mới tập trung vào ngành nông - lâm nghiệp. Huyện đã xác định lại cơ cấu

vùng sản xuất, xác định cơ cấu cây trồng, chuyển nền sản xuất tự cung tự

cấp sang sản xuất hàng hóa; từ điều kiện tự nhiên, đất đai của từng vùng để

xác định hình thành vùng sản xuất hàng hóa như vùng chè, quế, vùng cây ăn

quả, thâm canh lương thực [155; tr. 3]. Việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nông lâm - nghiệp có 7/23 xã chuyển biến tích cực. Điển hình

là xã Trung Thành có 756 hộ, thu nhập bình quân 2 triệu đồng/người/năm.

[155; tr. 4].

Từ năm 1995 trở đi vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngoài việc tiếp

tục nhấn mạnh đến kinh tế nông - lâm nghiệp thì bắt đầu đề cập đến phát

1 Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 9 năm 1991 đã ra nghị quyết về việc chia tách một số tỉnh, trong đó tỉnh Hà Tuyên chia thành 2 tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang.

40

triển ngành tiểu thủ công nghiệp. Phương hướng từ năm 1995 đến năm 2000

mà huyện Vị Xuyên vạch ra là: "Tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

kinh tế vùng nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển ngành

nghề tiểu thủ công nghiệp thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo, trọng tâm

là phát triển và mở rộng diện tích cây chè, cà phê, cây ăn quả, cây lâm

nghiệp thành vùng tập trung phục vụ cho công nghiệp chế biến... Thâm

canh lúa nước, ngô để đảm bảo lương thực tại chỗ" [155; tr. 8].

Với phương hướng mới đó, từ năm 1996 trở đi, cơ cấu ngành kinh tế

của huyện Vị Xuyên đã bớt đơn điệu hơn giai đoạn trước. Thay vì chỉ thuần

túy nông, lâm nghiệp, lúc này ngành tiểu thủ công nghiệp đã có một vị trí

nhất định trong cơ cấu kinh tế ngành của huyện, mặc dù còn chiếm vị trí hết

sức khiêm tốn. Đến cuối năm 1996, lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp của huyện

Vị Xuyên bắt đầu phát triển, tập trung ở một số ngành nghề chính như: khai

thác, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất dụng cụ cầm tay, sản xuất đồ gỗ...

Đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại địa bàn, trong năm đã khai thác được

3.407m3 đá hộc, sản xuất được 2.948.000 viên gạch chỉ, 937 tấn vôi củ,

830m3 gỗ xây dựng, 3.907 nông cụ các loại. Giá trị tổng sản lượng thủ công

nghiệp đạt 5.564,7 triệu đồng, tăng 109,2% so với năm 1995 [156; tr. 6]. So

với con số giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp năm 1996 đạt 112.268,8 triệu

đồng [156; tr. 1] thì giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp còn chênh lệch

rất lớn.

Dù vậy, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn cho thấy vai trò ngày

càng quan trọng trong cơ cấu phát triển kinh tế của huyện Vị Xuyên. Trước

năm 1997, kế hoạch cho phát triển lĩnh vực công nghiệp, thủ công nghiệp

gần như không được đề cập vì khả năng cũng như thực tế phát triển của lĩnh

vực này rất thấp và yếu kém. Lĩnh vực công nghiệp lần đầu tiên được đề cập

đến trong phương hướng phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên năm

1997. Đó là "đẩy mạnh phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế

41

biến, sản xuất vật liệu xây dựng, công cụ cầm tay. Tiếp tục đầu tư cho nhân

dân vay vốn lắp đặt máy chế biến chè mi ni, máy chưng cất dầu sả, xây

dựng các dự án vừa và nhỏ để thu hút người lao động tạo ra sản phẩm cho

người lao động" [156; tr. 5]. Có thể nói đây là một bước tiến mới trong việc

vạch kế hoạch phát triển kinh tế ở địa phương.

2.2.2. Sự phát triển của các ngành kinh tế

2.2.2.1. Nông - lâm nghiệp

Kinh tế nông - lâm nghiệp luôn được xác định là lĩnh vực trọng tâm,

quan trọng hàng đầu của Vị Xuyên, nhất là trong thời gian đầu thực hiện

hiện công cuộc đổi mới. Ngay từ năm 1986, phương hướng nhiệm vụ chủ

yếu của huyện Vị Xuyên được xác định là: "Đẩy mạnh phát triển sản xuất

nông nghiệp toàn diện. Trọng tâm là sản xuất lương thực, thực phẩm trên

cơ sở thâm canh, gắn với việc sản xuất nông lâm kết hợp, củng cố quan hệ

sản xuất ở nông thôn. Phát triển thêm một bước sản xuất các mặt hàng xuất

khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản (chè, lạc, ngô) và các mặt hàng lâm

sản (mây song và các mặt hàng mây tre đan lát) bằng các hình thức tổ chức

sản xuất, thu mua thích hợp" [149; tr. 2].

Trong sản xuất nông nghiệp, các loại cây lương thực được hết sức chú

trọng, đặc biệt là cây lúa và cây ngô được xem là hai cây chủ lực. Mặc dù đã

chủ động đề ra kế hoạch đưa diện tích, sản lượng của cây lúa, ngô tăng lên,

nhưng do điều kiện là huyện biên giới, chiến sự vẫn tiếp tục xảy ra ác liệt,

nên những chỉ tiêu về sản xuất lương thực nhìn chung đều không thực hiện

được theo như kế hoạch đặt ra. Cho đến năm 1990, tổng sản lượng lương

thực quy thóc của huyện Vị Xuyên mới đạt được con số 18.315 tấn, bình

quân 1 nhân khẩu là 305 kg/năm [151; tr. 3]. Con số này vẫn còn thấp hơn

chỉ tiêu dự kiến đạt được năm 1986 (kế hoạch dự kiến đưa bình quân lương

42

thực lên 320,8kg/người).

Năm 1990 là năm kết thúc kế hoạch 1986 - 1990. Đối với Vị Xuyên

tình hình kinh tế - chính trị diễn ra phức tạp, giá cả thị trường không ổn định

ảnh hưởng đến đời sống sản xuất và đời sống của nhân dân [151; tr. 1].

Trong lĩnh vực sản xuất nông - lâm nghiệp, phần lớn kết quả đạt được xấp xỉ

chỉ tiêu đặt ra, một số ít đạt hoặc vượt. Chẳng hạn diện tích gieo trồng lúa đạt

103% kế hoạch so với năm 1989; tương tự cây ngô đạt 106%. Tuy nhiên

năng suất và sản lượng lại không đạt như kế hoạch.

Cho đến đầu thập niên 90, cây lúa và cây ngô vẫn là cây lương thực chính

của huyện Vị Xuyên. Trên địa bàn huyện vẫn có một vài loại cây khác được

trồng nhưng không phổ biến và năng suất cũng không cao (ví dụ như cây lạc).

Dù vậy, cả năng suất và sản lượng chưa thực sự cao và có phần giảm sút nếu

so với năm 1989. Nguyên nhân được chỉ ra là do năm 1990, huyện Vị Xuyên

gặp thời tiết bất lợi, vụ Đông Xuân có rét đậm kéo dài, mưa lũ gây thiệt hại

nặng dẫn đến diện tích gieo trồng một số xã như Tùng Bá, Thuận Hòa... bị thu

hẹp. Mặt khác, việc đầu tư cho cây của người nông dân còn ít (như về giống

lúa, phân bón...) trong khi đó giá phân đạm tăng đột ngột, hàng nông sản giá

thu mua thấp nên sức mua để đầu tư cho nông nghiệp của người dân hạn chế

[151; tr. 3].

Việc thực hiện chủ trương khoán trong nông nghiệp đã phần nào có tác

dụng tích cực đối với tình hình sản xuất của toàn huyện, tuy nhiên mức độ phổ

biến vẫn chưa cao. Toàn huyện có 122 hợp tác xã thì mới chỉ có 63 hợp tác xã

thực hiện công tác khoán vào thời điểm năm 1990. Hơn nữa, việc giao đất

chưa thật công bằng dẫn đến tình trạng lấn chiếm đất đai, ban quản trị điều

hành còn lúng túng. Trong khi công tác dịch vụ phục vụ nông nghiệp hoạt

động yếu chưa đáp ứng được yêu cầu [151; tr. 3].

Chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò và lợn. Cho đến năm 1990, đàn lợn nuôi

theo mô hình quốc doanh không còn tồn tại nữa do thiếu vốn đầu tư, chỉ còn

43

phát triển dưới hình thức hộ gia đình. Tổng đàn lợn có 20.875 con (đạt 95,88%

kế hoạch), đàn trâu có 16.597 con (đạt 93,66% kế hoạch), đàn bò có 573 con

(đạt 99,68% kế hoạch) [151; tr. 4]. So với năm 1985, số lượng đàn gia súc

tăng lên với tốc độ chậm, tương ứng với tốc độ phát triển của sản xuất lương

thực (xem Bảng 2.1).

(đơn vị tính: con)

Bảng 2.1. Tổng đàn gia súc qua một số năm

Đàn gia súc Năm 1985 Năm 1990

Lợn 20.110 20.875

Trâu 15.800 16.597

Nguồn: [149; tr.5 và 151; tr. 4].

Bò 300 573

Trong sản xuất lâm nghiệp, ngay từ năm 1985 Vị Xuyên đã xem trồng

rừng và bảo vệ rừng là một việc làm cấp bách, nhằm tăng nhanh diện tích

phủ xanh đất trống đồi trọc, theo tinh thần sản xuất nông lâm kết hợp. Lĩnh

vực lâm nghiệp thời gian này được chia thành bốn nhóm nhiệm vụ rõ nét, đó

là: trồng rừng tập trung, chăm sóc rừng, tu bổ rừng và khai thác lâm sản.

Năm 1985, huyện Vị Xuyên thực hiện nhiệm vụ trồng rừng tập trung ước

đạt 400 ha, trong đó quốc doanh trồng được 200 ha, còn lại do các hợp tác xã

thực hiện. Số lượng trồng rừng phân tán cũng khá lớn, năm 1985 đạt khoảng

1.000 ha. Diện tích rừng trồng phân tán một phần do quốc doanh, còn lại là cán

bộ công nhân viên, học sinh, bộ đội đóng trên địa bàn thực hiện. Việc chăm

sóc và tu bổ rừng cũng được thực hiện do quốc doanh và các hợp tác xã thực

hiện, ngoài ra còn huy động thêm lực lượng học sinh, bộ đội [149; tr. 9]. Riêng

khai thác lâm sản đều do quốc doanh thực hiện, vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt

vừa sử dụng để xuất khẩu. Năm 1985, khai thác gỗ tròn được 1.700m3, ngoài

44

ra còn có các loại khác như tre, vầu, mây song.

So với năm 1985, lĩnh vực lâm nghiệp năm 1990 có phần chững lại, hoạt

động không hiệu quả. Diện tích trồng rừng tập trung năm 1990 chỉ thực hiện

được 20 ha (bằng 6,9% kế hoạch đặt ra). Phần lớn trồng rừng chủ yếu là do hộ

gia đình thực hiện. Báo cáo tình hình năm 1990 của huyện Vị Xuyên đã đánh

giá: "Sản xuất lâm nghiệp thuộc khu vực quốc doanh trong năm 1990 gặp

nhiều khó khăn, vốn do nhà nước cấp rất muộn cho nên đơn vị không có vốn.

Đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn... Việc khai thác lâm sản và bảo vệ

rừng còn kém hiệu quả, nhất là các khu rừng ở xã Minh Tân, Phong Quang,

Thanh Thủy, Phương Tiến... bị khai thác khối lượng rất lớn, các biện pháp

ngăn chặn mang lại hiệu quả kém, nhiều tổ chức và cá nhân trốn thuế và trốn

nộp tiền nuôi rừng" [151; tr. 4-5].

Tháng 12 năm 1991, Đại hội Đảng bộ huyện Vị Xuyên (khóa XVIII)

đã xác định nhiều phương châm, biện pháp quan trọng nhằm đưa kinh tế Vị

Xuyên phát triển lên một bước mới, trong đó nhấn mạnh: “Thúc đẩy sản

xuất nông - lâm nghiệp, thủ công nghiệp và chăn nuôi theo hướng sản xuất

hàng hóa, ổn định đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo” [10; tr. 185].

Với việc định hướng các lĩnh vực theo sản xuất hàng hóa nên từ năm 1991

trở đi, mạng lưới dịch vụ nông nghiệp ngày càng được bổ sung, củng cố để

đáp ứng yêu cầu của ngành nông nghiệp.

Trước hết là dịch vụ thủy lợi. Đến năm 1993, huyện đã chủ động phục

vụ nước tưới cho 2 vụ sản xuất, có kế hoạch quản lý điều hành 16 công trình

thủy lợi trên địa bàn. Các cơ sở dịch vụ nông nghiệp đã hướng dẫn nhân dân

tổ chức nạo vét được 755 km kênh mương, đào đắp trên 35.000 m3 đất đá,

sửa chữa 75 phai đập; thực hiện khảo sát lập dự toán sửa chữa lớn cho 8

công trình thủy lợi. Mạng lưới dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp được tổ

chức tương đối tốt và đã phục vụ phân bón, vật tư cho các cơ sở được 42.239

45

kg đạm urê, 223.648 kg lân, 3.171 kg kali, 5.153 phân NPK... Trạm bảo vệ

thực vật đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu giống lúa mới Chiêm đen, ngô lai Q2

đến từng hợp tác xã [154; tr. 4].

Nhờ sự hỗ trợ từ các lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp, trong các năm 1993

- 1994, sản lượng lương thực đã có sự tăng trưởng hơn so với năm 1990 nhưng

vẫn chưa thực sự bền vững và bứt phá. Năm 1993, sản lượng lương thực đạt

20.335 tấn, so với năm 1992 tăng lên 28-29%, nhưng năm 1994 đạt thấp

hơn với 20.140 tấn. Trong khi đó, năng suất 2 loại cây lương thực chủ lực

có sự tăng lên khá đều đặn. Năm 1990 năng suất cây lúa đạt 19,78 tạ/ha, năm

1992 là 21,24 tạ/ha, năm 1993 tăng lên 26,8 tạ/ha và năm 1994 là 28,4 tạ/ha.

Năng suất cây ngô năm 1990 đạt 11,5 tạ/ha, năm 1992 10,1 tạ/ha và năm

1993 - 1994 đạt 18,25 tạ/ha. Bình quân lương thực quy thóc theo đầu người

tăng từ 238 kg/người năm 1992 đã tăng lên 285-295 kg/người năm 1993 -

1994 [155; tr. 3]. Con số này vẫn thấp hơn so với mức đạt được năm 1985.

Các hoạt động dịch vụ vật tư nông nghiệp ngày càng đáp ứng đầy đủ

nhu cầu về phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ sản xuất. Riêng năm 1996, các

cơ sở đã cung cấp 100 tấn đạm urê, 300 tấn NPK, 1.000 tấn lân, lân vi sinh

790 tấn, 10 tấn kali, 500 kg thuốc trừ sâu. Bên cạnh đó còn tổ chức nhân dân

tiến hành nạo vét được 40 km kênh mương, xây dựng và tu sửa 5 hạng mục

công trình thủy lợi Ngọc Thượng (Ngọc Linh), Lùng Chang (Linh Hồ),

Hồng Tiến (Tùng Bá), Nà Rốc (Phương Tiến), Thôn Châng (Phương Thiện)

với tổng số vốn là 289.989.470 đồng, trong đó nhân dân đóng góp

77.407.045 đồng đảm bảo tưới tiêu thường xuyên cho hơn 4.000 ha lúa

[156; tr. 4]. Đóng góp của lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp góp phần quan

trọng trong việc tăng năng suất cũng như sản lương thực của huyện Vị

Xuyên. Lấy thời điểm năm 1991 để so sánh với kết quả đạt được năm 1996

thì có sự thay đổi khá ấn tượng thông qua các số liệu. Diện tích lúa ruộng

năm 1996 là 4.621 ha, tăng 393 ha so với năm 1991 (tốc độ bình quân là

46

1,8%). Diện tích cây ngô năm 1996 là 2.441 ha, tăng 246 ha so với 1991.

Tổng sản lượng lương thực quy thóc năm 1996 đạt 22.130 tấn, tăng gần 53%

so với năm 1991. Bình quân lương thực đầu người/năm đã tăng lên 300kg

năm 1995 và 291 năm 1996 [157; tr. 4]. Đến năm 2000, tổng sản lượng lương

thực tăng lên 27.019,4 tấn, vượt 3,2% kế hoạch đề ra và tăng 13,7% so với

năm 1999. Bình quân lương thực đầu người/năm vượt xa so với các năm

trước đạt 324kg/người (vượt 6% kế hoạch đề ra), tăng 13% so với năm 1999

[161; tr. 1-2]. Với sự phát triển của sản xuất lương thực, huyện Vị Xuyên đã

ổn định cân đối nguồn lương thực tại chỗ và có dự trữ hàng năm.

Chăn nuôi được xem là thế mạnh của huyện Vị Xuyên. Huyện xác định

đây là một ngành kinh tế mang lại giá trị cao. Năm 1992 đàn trâu của Vị

Xuyên đạt số lượng hơn 18.000 con, năm 1994 đạt 20.220 con, bình quân

tăng trưởng 5-6%. Đàn bò năm 1992 đạt 527 con, năm 1994 tăng lên 867

con. Đàn dê năm 1994 có 9.383 con tăng, 4.000 con so với năm 1992. Đàn

lợn có 24.651 con năm 1994, tăng bình quân 4-5%/năm. Ngoài ra, Vị Xuyên

còn phát triển khá mạnh nghề nuôi cá. Diện tích nuôi cá từ 50 ha năm 1992

đã tăng lên 150 ha năm 1994. Nhiều hộ gia đình phát triển nuôi cá lồng,

nuôi ba ba, cá trê phi [155; tr. 3-4]... Có thể thấy ngành chăn nuôi của huyện

Vị Xuyên trong những năm đầu thập niên 1990 có sự tăng trưởng khá nhanh

chóng và ổn định hơn so với giai đoạn 1985 - 1990. Rõ nhất chính là sự tăng

lên khá nhanh của đàn gia súc cũng như chủng loại vật nuôi. Đàn trâu năm

1995 có 21.000 con, năm 1996 có 21.540 con (tăng từ 16,3 - 17%). Đàn bò

năm 1996 có 932 con, tăng 1,12 lần so với năm 1991. Đàn dê năm 1996 có

16.100 con, tăng 86,5% so với năm 1991. Đàn lợn năm 1996 có 26.297 con

tăng 16,7% so với năm 1991. Đến năm 2000, ngành chăn nuôi ở Vị Xuyên

đã có sự chuyển biến khá ổn định. Nguồn vốn hỗ trợ cho vay trâu bò được

tổ chức thực hiện có hiệu quả, phần lớn các hộ đói nghèo đã được hỗ trợ

vốn mua trâu đảm bảo sức kéo cho sản xuất. Tổng đàn trâu năm 2000 có

47

23.700 con, tăng 1,6% so với năm 1999. Trong số đó, các hộ đói nghèo mua

được trâu bằng nguồn vốn vay là 464 con. Tổng đàn bò năm 2000 là 1.450

con, tăng 0,3% so với năm 1999 [161; tr. 2].

Bên cạnh các loại cây lương thực chủ lực, đặc biệt là từ sau khi tái lập

tỉnh Hà Giang, cơ cấu cây nông nghiệp của Vị Xuyên đã ngày càng phong

phú hơn với sự mở rộng của các loại cây phi nông nghiệp. Các loại cây công

nghiệp và cây ăn quả có sự phát triển khá mạnh, bước đầu có thâm canh,

nhất là cây chè đã hình thành vùng sản xuất tập trung. Trong các loại cây

công nghiệp lâu năm, cây chè có thế mạnh nhất ở Vị Xuyên. Trong 5 năm từ

năm 1991 đến năm 1995 diện tích trồng chè đạt tốc độ bình quân

163,8%/năm. Sản lượng chè búp khô đạt 802 tấn năm 1995, tăng gần 3 lần

so với năm 1991. Đến năm 2000, cây chè liên tục phát triển cả về diện tích,

năng suất cũng như chất lượng. Diện tích cây chè của Vị Xuyên đạt 3.338

ha (năm 2000 trồng mới thêm được 484 ha, gấp 3,1 lần so với năm 1999),

chiếm trên 30% diện tích chè toàn tỉnh Hà Giang. Trong đó, diện tích chè

thu hoạch là 1.920 ha, sản lượng chè búp tươi đạt 6.118 tấn, tăng 6,6% so

với năm 1999 [161; tr. 2].

Cây cà phê là loại cây mới được trồng ở Vị Xuyên từ 1993 - 1994.

Tuy mới chỉ trồng với diện tích khá khiêm tốn 231 ha năm 1995 nhưng cũng

đã hứa hẹn một hướng đi mới nhiều tiềm năng. Các loại cây ăn quả như

cam, quýt cũng đạt tốc độ tăng trưởng nhanh không kém, từ 1991 đến 1995

tốc độ trồng mới hằng năm đạt 163,5%. Sản lượng quả năm 1995 đạt 3.768

tấn, tăng 87% so với năm 1991 [157; tr. 4].

Đối với lâm nghiệp, trong những năm 1992 - 1995, lĩnh vực này có sự

chuyển biến tích cực rõ nét. Nổi bật nhất và mang lại hiệu quả rõ rệt là công

tác giao rừng cho người dân. Đến năm 1995, Vị Xuyên đã giao 22.317 ha

rừng cho 11.737 hộ gia đình quản lý. Việc trồng rừng tập trung thực hiện

được 261,6 ha, tiến hành khoanh nuôi 5.095 ha rừng. Thực hiện Quyết định

48

số 327/CT về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc,

rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng

Bộ trưởng (nay là Chính phủ), trên địa bàn huyện có 8 dự án triển khai,

trong đó chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ khoanh nuôi, bảo vệ rừng, trồng

cây đặc sản như quế, chè, hỗ trợ nhân dân vay vốn phát triển sản xuất. Nhờ

đó tình trạng phát rừng làm nương đã giảm hẳn (năm 1992 có 1.300 ha lúa

nương, năm 1993 giảm còn 1.100 ha). Nhiều sản phẩm từ rừng, từ vườn

rừng đã trở thành hàng hóa [155; tr. 4-5]. Năm 1996, diện tích rừng của Vị

Xuyên là 70.413 ha, trong đó rừng tự nhiên là 66.325 ha, độ che phủ đạt

47% diện tích đất rừng. Công tác giao đất và rừng được triển khai tới 11.526

hộ gia đình với diện tích 45.700 ha, chiếm 65% đất lâm nghiệp. Quyết định

327-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã đem lại hữu ích thực sự với

ngành lâm nghiệp địa phương trong bảo vệ và phát triển rừng, tạo thêm việc

làm và thu nhập cho người lao động. Tuy vậy, đánh giá chung thì lâm

nghiệp chuyển biến còn chậm, tình trạng đốt nương làm rẫy, du canh, du cư

vẫn còn. Từ năm 1998 trở đi, tình hình sản xuất lâm nghiệp ngày càng bài

bản và có hiệu quả hơn trước. Đến năm 2000, huyện Vị Xuyên đã hoàn

chỉnh cơ bản việc giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình chăm sóc quản lý.

Huyện đã cho đo đạc và cấp giấy chứng nhận sử dụng đất lâm nghiệp thay

thế cho sổ lâm bạ tại 16/23 xã. Đây là việc làm phù hợp với nguyện vọng

của người dân, cũng như tình hình thực tế, do đó đã góp phần tích cực trong

việc đẩy nhanh tốc độ phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Trồng rừng tập trung

năm 2000 được 540 ha vượt 63% so với kế hoạch đề ra, các chỉ tiêu về

chăm sóc rừng, bảo vệ, khoanh nuôi và phục hồi rừng đều đạt kết quả tốt, độ

che phủ rừng toàn huyện đạt 47%, tăng 1% so với năm 1999.

2.2.2.2. Tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp

Thực tế là ngành công nghiệp của Vị Xuyên phải đến năm 2000 trở lại

đây mới bắt đầu phát triển, còn những năm đầu của sự nghiệp đổi mới vẫn

49

chưa có gì đáng kể, chủ yếu là sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Các ngành nghề

tiểu thủ công nghiệp chủ yếu là như rèn đúc nông cụ (liềm, hái, cào phân),

sản xuất vật liệu xây dựng (khai thác đá, nung vôi, nung gạch...), khai thác

mây tre... Tổng giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp năm 1985 thu được từ

lĩnh vực này của Vị Xuyên còn rất thấp và đơn điệu.

Trong 10 năm (1985 - 1995), tình hình phát triển của tiểu thủ công

nghiệp không có sự chuyển biến lớn. Các sản phẩm làm ra vẫn là những mặt

hàng vật liệu xây dựng thô sơ, giản đơn, không đa dạng. Hầu hết những báo

cáo về kinh tế - xã hội của huyện Vị Xuyên từ năm 1985 đến năm 1995

không đề cập nhiều đến sự phát triển của lĩnh vực này, do đóng góp của nó

đối với nền kinh tế quá thấp. Năm 1993, sản xuất thủ công nghiệp chỉ phát

triển một số nơi thuộc khu vực trung tâm huyện lỵ. Đáng kể nhất về sản

phẩm là: vôi đạt 1.890 tấn, gạch đạt 360 vạn viên, khai thác đá các loại đạt

5.700m3, cát sỏi 2.200m3 [154; tr. 6].

Từ năm 1996 trở đi, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở Vị Xuyên

bắt đầu có những chuyển biến tích cực hơn, nhưng chưa thực sự nổi bật. Giá

trị sản xuất của công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 1996 đạt 5.564,7

triệu đồng, tăng 109,2% so với năm 1995, trong đó hơn một nửa là sản xuất

vật liệu xây dựng, còn lại là đóng góp của hoạt động sản xuất công cụ cầm

tay, xay xát lương thực, đồ gỗ xây dựng... So với lĩnh vực nông lâm nghiệp

thì giá trị của công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp còn hết sức khiêm tốn

(năm 1995, giá trị sản xuất của nông lâm nghiệp đạt 112.268,8 triệu đồng),

nhìn chung chưa thể hiện là ngành nghề mũi nhọn, công nghệ còn lạc hậu,

giá trị sản lượng thấp so với tiềm năng [157; tr. 6]. Đến năm 2000, công

nghiệp có bước phát triển mới, đó là mở rộng ngành công nghiệp nhẹ như

chế biến các loại nông sản, chế biến chè khô.

Sự chuyển biến chủ yếu là về mặt sản lượng cũng như giá trị sản lượng

50

đối với toàn bộ nền kinh tế của huyện Vị Xuyên. Năm 1998, nhóm ngành

sản xuất vật liệu xây dựng đã sản xuất được 3 triệu viên gạch, vôi cục 1.266

tấn, đá xây dựng 14.400m3 (tăng 188% so với 1997)... đáp ứng được nhu

cầu xây dựng trong huyện. Ngành công nghiệp nhẹ chế biến chè khô đã sản

xuất được 970 tấn, chế biến gỗ đạt 125m3 (tăng 420% kế hoạch giao), chế

biến lương thực đạt 9.000 tấn (tăng 18% so với năm 1997) [158; tr. 7]. Năm

2000, hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được mở rộng

với quy mô khá lớn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về xây dựng cơ sở hạ

tầng trong địa bàn và các khu vực khác trong tỉnh. Sản phẩm chè khô chế

biến năm 2000 đạt 1.200 tấn vượt 14,3% kế hoạch giao, tăng 30,4% so với

năm 1999, chế biến lương thực 11.000 tấn tăng 10% so với 1999, sản xuất

trên 7 triệu viên gạch [161; tr. 2-3]...

Giá trị của lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng ngày càng được

nâng lên trong tổng giá trị sản xuất toàn huyện. Năm 1997 lĩnh vực công

nghiệp, xây dựng chiếm 13% trong tổng GDP của huyện, năm 1998 là 15%,

năm 1999 là 16% và năm 2000 tăng lên 18% [158; tr. 2, 161; tr. 1]. Các

công trình xây dựng năm 1998 vẫn tiếp tục được đầu tư ở khu vực cửa khẩu

Thanh Thủy, các trạm biến áp và hệ thống nâng áp, nâng cấp đài phát thanh

huyện, hệ thống cơ sở vật chất và trụ sở làm việc của trạm y tế, trường học

và một số xã. Cũng từ 1998 trở đi, huyện Vị Xuyên thực hiện chủ trương

"Đại công trường xây dựng" của tỉnh Hà Giang bằng chương trình kiên cố

hóa kênh mương, bê tông hóa đường liên thôn. Cùng với nguồn vốn hỗ trợ

từ Trung ương, tỉnh, huyện Vị Xuyên đã tập trung huy động mọi nguồn lực,

đặc biệt là sự tham gia đóng góp của nhân dân để thực hiện xây dựng cơ sở

hạ tầng. Đến năm 2000, tổng số vốn đầu tư vào xây dựng của Vị Xuyên là

17.159,4 triệu đồng tăng 18% so với 1999. Số công trình được xây dựng năm

51

2000 là 97, trong đó chuyển tiếp 16 công trình, làm mới 81 công trình. Cũng

trong năm 2000, có 53 công trình đã hoàn thành, được đưa vào sử dụng; các

công trình còn lại tiếp tục hoàn thiện theo đúng tiến độ đề ra [161; tr. 4].

2.2.2.3. Thương mại, dịch vụ

Vào những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 (thế kỷ XX), lĩnh

vực thương mại ở huyện Vị Xuyên, về căn bản là những hoạt động mang tính

chất trao đổi, dịch vụ còn rất hạn chế. Nguyên nhân là những hoạt động phân

phối lưu thông vẫn do nhà nước đảm nhiệm, chi phối. Sự tham gia của khu

vực tư nhân là chưa đáng kể.

Những năm đầu đổi mới, công tác thu mua, phân phối vẫn được tiến

hành theo kế hoạch với sự hỗ trợ của tỉnh Hà Giang, chủ yếu vẫn là các mặt

hàng lương thực, vật tư nông nghiệp... Hoạt động thương nghiệp cũng được

chính quyền huyện Vị Xuyên tiến hành sắp xếp lại và phân rõ trách nhiệm

cũng như phạm vi hoạt động. Kế hoạch phát triển kinh tế năm 1986 được

huyện Vị Xuyên đề ra là:"Trên cơ sở liên doanh, liên kết kinh tế, sử dụng

đầy đủ các nguồn khả năng của các ngành, tạo thành mối quan hệ thống

nhất mua bán kinh doanh phục vụ trên địa bàn huyện. Nhằm đáp ứng nhu

cầu các mặt hàng tiêu dùng nội bộ phục vụ sản xuất, sinh hoạt và chiến đấu.

Đồng thời đáp ứng một phần nhu cầu cần thiết hàng xuất khẩu làm nghĩa vụ

với tỉnh" [149; tr. 14-15]. Các mặt hàng mua vào và bán ra do bộ phận

thương nghiệp tổng hợp thực hiện gồm: thịt lợn hơi, trâu, bò, gỗ, đường các

loại... Các loại mặt hàng bán ra phục vụ người dân gồm: thịt các loại, đường

các loại, mì chính, nước mắm, muối, xà phòng, dầu hỏa, vải... Bộ phận kinh

doanh mua bán chủ yếu kinh doanh các mặt hàng như bông vải sợi, các mặt

hàng phục vụ đời sống, sản xuất. Từ năm 1990, hoạt động phân phối lưu

thông nhìn chung có tiến bộ nhưng còn rất chậm chạp. Mặc dù hoạt động

thương nghiệp quốc doanh đã sắp xếp lại bộ máy tổ chức, con người, mạng

52

lưới kinh doanh nhưng vẫn chưa làm chủ được thị trường, chất lượng hàng

hóa chưa tốt dẫn tới các đơn vị đều làm ăn thua lỗ không nộp được ngân

sách theo kế hoạch, làm mất cân đối giữa thu và chi [149; tr. 7]. Kết quả

hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế phần nhiều không đạt hiệu quả

nên phần lớn ngân sách phải xin trợ cấp từ tỉnh.

Từ sau Đại hội Đảng bộ huyện Vị Xuyên khóa XIX (tháng 4-1996),

lĩnh vực thương mại, dịch vụ đã có những sắc thái mới tiến bộ hơn. Theo

đó, Đảng bộ huyện đã chỉ đạo các đơn vị sản xuất kinh doanh tự chủ, tự

chịu trách nhiệm về lỗ - lãi; mạnh dạn đổi mới cơ chế thương nghiệp và thị

trường tạo nên giá cả hợp lý, có nhiều hàng hóa phục vụ sản xuất và đời

sống nhân dân” [10; tr. 192]. Chủ trương hợp lý đã tạo điều kiện thuận lợi

cho hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển. Tình hình buôn bán của người

dân ở 2 thị trấn Vị Xuyên và Việt Lâm sôi động hơn. Hoạt động trao đổi,

mua bán của người dân không chỉ tập trung ở 2 chợ trung tâm mà đã phát

triển thêm các chợ mới như Tùng Bá, Minh Tân, Thượng Sơn. Ban quản lý

chợ cửa khẩu Thanh Thủy được thành lập, bước đầu đi vào hoạt động có

hiệu quả. Các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân nhìn chung đã đáp ứng

được các mặt hàng phục vụ sản xuất và tiêu dùng cần thiết của người dân.

Công tác điều hành, kiểm soát giá cả thị trường có kết quả tốt nên giá cả ổn

định, các ngành chức năng tăng cường hoạt động chống buôn lậu, hàng giả,

kiểm tra chất lượng hàng hóa, cấp giấy phép kinh doanh đúng quy trình, tạo

môi trường kinh doanh lành mạnh. Tình hình hoạt động của lĩnh vực thương

mại, dịch vụ của huyện Vị Xuyên từng bước khởi sắc hơn nhờ có sự quyết

tâm của cấp ủy và chính quyền trong việc đổi mới, chuyển dịch trong cơ cấu

kinh tế. Năm 1997, Công ty Thương mại tổng hợp huyện Vị Xuyên được

thành lập và đi vào hoạt động ngày càng có hiệu quả. Sau hơn một năm

thành lập, công ty đã xây dựng được mạng lưới thương nghiệp ở cơ sở khá

53

vững chắc, hoạt động tốt, đảm bảo cung cấp đủ các mặt hàng thiết yếu cho

nhân dân. Đến năm 1998, toàn huyện Vị Xuyên có 6 doanh nghiệp nhà

nước, 1 doanh nghiệp tư nhân và 577 hộ tham gia các hoạt động dịch vụ.

Hoạt động thương mại, dịch vụ vẫn tập trung chủ yếu ở trung tâm huyện lỵ,

thị trấn Việt Lâm và các chợ nông thôn [158; tr. 8]. Mặc dù có những bước

tiến hơn hẳn so với những năm trước, nhưng tình hình chung của lĩnh vực

thương mại và dịch vụ vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Đáng chú ý là chưa

khai thác được hết năng lực của cửa khẩu Thanh Thủy; quá trình chuyển đổi

các hợp tác xã rất chậm (năm 1998 chỉ có 3/125 hợp tác xã chuyển đổi) dẫn

tới các hoạt động dịch vụ vật tư nông nghiệp, vật tư kỹ thuật chưa đáp ứng

được yêu cầu sản xuất của nông dân, chưa đáp ứng được mục tiêu chuyển

đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi [158; tr. 9].

Đến năm 2000, hoạt động thương mại, dịch vụ có tăng trưởng khá và

chiếm vị trí ngày càng cao trong tổng thu nhập toàn huyện nhưng chất lượng

vẫn chưa cải thiện nhiều. Hoạt động chủ yếu vẫn là tập trung mở rộng thị

trường tiêu thụ các sản phẩm chè khô, nâng cao năng lực trao đổi hàng hóa

ở cửa khẩu Thanh Thủy, duy trì hoạt động các chợ nông thôn làm mạng lưới

trao đổi hàng hóa như chợ Thuận Hòa, Bạch Ngọc, Thượng Sơn... Bên cạnh

đó, huyện tăng cường kêu gọi đầu tư mở rộng khu du lịch ở các xã Quảng

Ngần, Tùng Bá, Đạo Đức, Phương Độ... Tỷ trọng thương mại, dịch vụ trong

GDP của huyện chiếm 18% năm 1998 đã tăng lên 23,5% năm 2000. Tuy vậy,

sự tăng trưởng này chưa thực sự vững chắc cũng như chất lượng chưa cao.

Hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, thị trường nông thôn chưa phát

triển, nhiều nơi còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Cây chè là cây kinh tế

mũi nhọn nhưng chưa được đầu tư nâng cao chất lượng để tăng nhanh giá trị

hàng hóa, tỷ lệ diện tích chè thâm canh còn ở mức thấp nên chưa khai thác

hết tiềm năng lợi thế loại cây này. Kinh tế vùng cửa khẩu được khôi phục và

54

phát triển nhưng ở còn khiêm tốn so với tiềm năng.

2.3. Chuyển biến về xã hội

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã xác định: Trình độ phát

triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng

những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế. Ngay trong

khuôn khổ của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp

đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, là một nhân tố quan trọng để

phát triển sản xuất. Tiếp đó, Đại hội VII (1991) tiếp tục làm rõ mục tiêu và

mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội giai đoạn

1991-1995: “Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa,

xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất

và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền

đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt các chính sách xã hội là

động lực thúc đẩy phát triển kinh tế” [59; tr. 279]. Trong chiến lược ổn định

và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng đã nêu rõ nhiệm vụ và

phương hướng phát triển văn hóa và các vấn đề xã hội là nhằm phát huy

nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo những điều kiện để con người được

phát triển một cách toàn diện.

2.3.1. Y tế, giáo dục và các hoạt động văn hóa thông tin, tuyên truyền

Là huyện miền núi có địa hình phức tạp, các mặt của đời sống xã hội

của Vị Xuyên còn rất nhiều khó khăn, ở mức độ rất thấp so với mặt bằng

chung của cả nước, và nhất là trong bối cảnh cuộc chiến tranh biên giới vừa

kết thúc. Huyện Vị Xuyên đã xác định công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân

dân là vấn đề hết sức quan trọng, không chỉ bảo đảm cho hoạt động sản

xuất, chiến đấu mà còn góp phần quan trọng trong việc bài trừ mê tín dị

đoan vẫn còn khá nặng nề trong nhân dân vào những năm đầu đổi mới.

Công tác y tế vì thế được quan tâm xây dựng thành mạng lưới từ tuyến

55

huyện về đến các xã và được củng cố thường xuyên. Đội ngũ cán bộ ngành y

được tăng cường để đảm bảo số lượng phục vụ nhân dân. Các trạm xá ở

nhiều xã được quan tâm tu bổ và đảm bảo thuốc men cho nhu cầu khám

chữa bệnh của người dân ở một số xã như Tùng Bá, Việt Lâm, Linh Hồ,

Lao Chải… Nếu như vào năm 1985, toàn huyện Vị Xuyên xây dựng được

cơ sở khám chữa bệnh với 150 giường, trong đó 50 giường của bệnh viện,

10 giường ở phòng khám khu vực và 90 giường ở các trạm xá [149; tr. 18].

Thì đến năm 1990, hệ thống cơ sở khám chữa bệnh đã ngày càng tăng lên và

quy củ hơn với 25 cơ sở y tế trong toàn huyện, trong đó có 1 bệnh viện, 1

phòng khám đa khoa và các trạm y tế xã. Năm 1992, huyện có 1 trung tâm

điều trị tại huyện lỵ Vị Xuyên, 20 xã có cán bộ y tế hoạt động. Toàn huyện

có 17/20 xã có trạm y tế, có 3 phòng khám đa khoa khu vực với 180 giường

bệnh; số cán bộ đang công tác là 112, trong đó 12 bác sĩ, 57 y sĩ [152; tr. 6].

Mặc dù ngành y tế của Vị Xuyên còn nhiều khó khăn, thiếu thốn về

cơ sở vật chất và cán bộ khoa học - kỹ thuật nhưng sự cố gắng của hệ thống

chính trị cũng như nỗ lực của cán bộ trong ngành y tế đã mang lại những

thay đổi lớn trong quan niệm về chăm sóc sức khỏe của người dân, đặc biệt

là đồng bào dân tộc thiểu số. Điểm nổi bật của công tác y tế huyện Vị Xuyên

trong những năm đầu đổi mới là đã có nhiều cố gắng trong việc nâng cao khả

năng phòng chống các dịch bệnh. Hoạt động tiêm chủng mở rộng cho trẻ em

được tuyên truyền sâu rộng và ngày càng đi vào nề nếp góp phần quan trọng

trong việc loại trừ những dịch bệnh phổ biến.

Hằng năm, việc thực hiện chương trình tiêm chủng ở huyện đạt 67-

75% [155; tr. 6]. Với sự mở rộng của mạng lưới y tế, công tác khám chữa

bệnh cho người dân ngày càng nâng cao hiệu quả và trở thành chỗ dựa vững

chắc đối với người dân khi có bệnh. Năm 1993, trên địa bàn huyện đã có

36.000 lượt người khám bệnh tăng 31% so với năm 1992; điều trị trên

10.000 lượt bệnh nhân tăng 30% so với 1992, trong đó điều trị nội trú trên

56

2.500 lượt, điều trị ngoại trú trên 7.300 lượt; đã thực hiện được 218 ca phẫu

thuật, tăng 172 ca so với 1992 [154; tr. 11]. Đến năm 1995, toàn huyện có

22/23 xã có cán bộ y tế thường trực, trung tâm y tế của huyện có 65 giường

bệnh, hằng năm điều trị và khám chữa bệnh cho 40.000 - 50.000 lượt người

[155; tr. 6]. Tuy vậy, do điều kiện cả về kinh tế, kỹ thuật và trình độ còn có

nhiều hạn chế nên một số bệnh dịch vẫn xảy ra trên địa bàn huyện và dẫn

đến tử vong, chẳng hạn như năm 1990 có 31 trường hợp bị ho gà, 121 người

bị nhiễm mô cầu não và đã tử vong 18 người tại xã Thuận Hòa; các bệnh sốt

rét, bướu cổ vẫn còn tồn tại khá phổ biến (năm 1992 có 24,58% người bị sốt

rét, 3.041 bị bướu cổ/6.288 người đi khám [152; tr. 6]).

Những năm 1996 - 2000, công tác y tế, chăm sóc sức khỏe người dân ở

huyện Vị Xuyên đã có những bước chuyển biến tích cực hơn với sự củng

cố, nâng cấp cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ được tăng cường. Chỉ tính riêng

năm 1996, huyện đã xây thêm được 8 nhà trạm, trung tâm y tế huyện và các

trạm y tế xã được trang bị đầy đủ thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế tối thiểu,

đảm bảo việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Cũng trong năm

1996, huyện Vị Xuyên đã tổ chức tiêm, uống vắcxin cho 10.461 cháu đạt

99.12%; tiêm, uống vắcxin cho phụ nữ từ 13 - 35 được 6.829 người, điều trị

sốt rét 9.793 người, bướu cổ 3.950 người; khám và điều trị các bệnh thông

thường 82.297 lượt người [156; tr. 9-10]... Việc tổ chức tiêm, uống vắcxin

phòng bệnh cho trẻ em được quan tâm, tuyên truyền và triển khai thực hiện

nghiêm túc, bình quân trong giai đoạn 1996 - 2000 tỷ lệ này đạt trên 98%.

Hệ thống y tế từ huyện đến xã đã thực hiện thăm khám và điều trị tốt các

bệnh thông thường. Từ năm 1995 đến năm 2000 trên địa bàn huyện Vị

Xuyên không xảy ra các bệnh dịch lớn [10; tr. 193].

Về công tác kế hoạch hóa gia đình, một trong những nội dung quan

trọng trong lĩnh vực chuyển biến xã hội, bảo đảm cho quá trình phát triển

bền vững thì ngay từ năm 1986, vấn đề này đã được quan tâm thực hiện có

57

hiệu quả. Năm 1985, tỷ lệ tăng dân số của huyện Vị Xuyên là 2.1% và năm

1986 giảm xuống còn 1.8% [149; tr. 18]. Dù các cấp chính quyền đã có

nhiều cố gắng trong việc đã tuyên truyền và thực hiện một số biện pháp kế

hoạch hóa gia đình nhưng tỷ lệ sinh trong những năm tiếp theo có xu hướng

tăng lên (năm 1992 là 2.86%). Để thực hiện có hiệu quả chính sách về kế

hoạch hóa gia đình, huyện Vị Xuyên đã tổ chức có hiệu quả chặt chẽ công

tác tuyên truyền, vận động các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện

các biện pháp kế hoạch hoá gia đình. Do đó, từ 1992 trở đi, tỷ lệ tăng dân số

hằng năm của huyện Vị Xuyên bắt đầu có xu hướng giảm, cụ thể: năm 1992

là 2,86%, năm 1993 là 2.75%, năm 1994 là 2.32% [155; tr. 6], đến năm

2000, tỷ lệ tăng dân số chỉ còn 1.63% [161; tr. 2].

Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em ở Vị Xuyên ngày

càng sâu sát và thiết thực hơn. Năm 1998, huyện Vị Xuyên đã triển khai

thực hiện khá tốt chương trình phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em ở 10

xã với nguồn kinh phí là 70.040.000 đồng, chương trình chăm sóc trẻ em

khó khăn 3 xã, cấp phát thuốc cho 202 cháu, quyên góp sách vở, áo quần

cho trẻ em các xã vùng sâu, vùng xa [158; tr. 10]. Nhằm nâng cao nhận thức

của cộng đồng về vấn đề quan trọng này, Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên

đã tổ chức nhiều lớp truyền thông về bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở nhiều xã.

Phối hợp với ngành lao động - thương binh và xã hội, Trung tâm y tế huyện

tổ chức khám cho các cháu dị tật về mắt, tay vào năm 1999. Chương trình

phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ dưới 5 tuổi được triển khai và duy trì

thường xuyên ở 23/23 xã thị trấn của huyện. Huyện Vị Xuyên đã cố gắng để

giảm tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, năm 1998 có giảm nhẹ (1%) so với

năm 1997 nhưng tỷ lệ này vẫn còn khá cao 37% [158; tr. 10]. Đây là một

vấn đề bức xúc mà huyện Vị Xuyên cần phải tập trung nhiều nguồn hỗ trợ

cũng như khả năng tại chỗ để giải quyết, vì trẻ em là tương lai của đất nước.

Về giáo dục, mặc dù đời sống người dân còn rất nhiều khó khăn và

58

trong giai đoạn này vẫn còn phải chịu tác động lớn bởi chiến sự vùng biên

nhưng công tác giáo dục thế hệ trẻ vẫn được huyện quan tâm thường xuyên.

Hệ thống giáo dục các cấp được củng cố để đáp ứng yêu cầu của công tác

dạy và học. Năm 1985, toàn huyện Vị Xuyên có 1 trường phổ thông trung

học, 21 trường phổ thông cơ sở, 1 trường bổ túc văn hóa cán bộ thanh niên

dân tộc và 22 lớp mẫu giáo với 9.049 học sinh. Bình quân tỷ lệ người đi học

ở huyện Vị Xuyên vào thời điểm này là trong 5-6 người thì có 1 người đi

học [9; tr. 13]. Với sự quan tâm của cấp uỷ Đảng và chính quyền huyện Vị

Xuyên, hệ thống cơ sở giáo dục trong những năm đầu đổi mới từng bước

được kiện toàn, củng cố để phục vụ nhu cầu học tập của con em trong

huyện, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Kết thúc năm học 1989-1990,

toàn huyện có 1 trường phổ thông trung học, 22 trường phổ thông cơ sở

(299 lớp, trong đó cấp I là 257 lớp với 6.731 học sinh, cấp II: 42 lớp với 962

học sinh), 1 trường dân tộc nội trú (4 lớp với 88 học sinh), 1 trường sư phạm

9+1 (43 giáo sinh), 7 cơ sở nhà trẻ mẫu giáo (nhà trẻ 20 nhóm lớp với 326

cháu, mẫu giáo 25 lớp với 600 cháu). Bên cạnh đó còn có các lớp xóa mù

chữ với 615 học viên [150; tr. 10]. Mặc dù được quan tâm nhưng do điều

kiện còn khó khăn nên chất lượng và số lượng của giáo dục bị ảnh hưởng.

Đánh giá của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên năm 1990 cho thấy: “Tình

hình hiện nay trong toàn huyện có chiều hướng đi xuống rõ rệt về cơ sở vật

chất nhà trường, số lượng, chất lượng trong học tập và giảng dạy” [151; tr.

9]. Riêng năm 1989 đã có 944 học sinh bỏ học do điều kiện kinh tế khó

khăn, các bậc phụ huynh không muốn cho con đi học mặc dù Huyện ủy, Ủy

ban nhân dân huyện đã tạo điều kiện để các xã củng cố nhà trường song

mức độ có hạn [151; tr. 9]. Đây là một vấn đề nan giải mà các cấp ủy Đảng,

chính quyền huyện Vị Xuyên phải tập trung giải quyết trong những năm

tiếp theo.

Công tác xóa mù chữ cho người dân được quan tâm nhưng cho đến

59

năm 1993, tỷ lệ người mù chữ ở Vị Xuyên vẫn còn khá cao. Toàn huyện có

trên 5.000 người trong độ tuổi 15-35 mù chữ, chiếm 30% số người trong độ

tuổi đi học. Mặc dù toàn huyện đã có sự nỗ lực trong việc giảm số lượng

người mù chữ (năm 1993 xóa mù chữ cho 239 người, năm 1994 là 775 người)

nhưng đến năm 1995, con số người mù chữ vẫn là 5.077 người [155; tr. 6].

Bên cạnh đó, nhiều xã vẫn còn trắng về cơ sở giáo dục, nhất là các xã vùng

sâu vùng xa. Năm 1993, toàn huyện có 25 “thôn trắng”, 43 thôn đang chờ

giáo viên, cơ sở vật chất dạy học phần lớn tạm bợ và thiếu thốn, có 1 xã

(Lao Chải) chưa có trường học [153; tr. 6]. Năm 1995 có 23/177 thôn bản

chưa có trường học, đội ngũ giáo viên còn thiếu thốn, theo yêu cầu của công

tác dạy học (năm 1995 huyện Vị Xuyên thiếu 184 giáo viên cấp I và 12 giáo

viên cấp II) [155; tr. 6].

Giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù những khó khăn đối với ngành giáo dục

vẫn còn nhiều nhưng sự nỗ lực của chính quyền và bản thân ngành giáo dục

đã cải thiện phần nào tình hình so với trước đây. Năm học 1995-1996, toàn

huyện đã huy động được 29.8% số cháu trong độ tuổi mầm non đến lớp,

90.08% số học sinh trong độ tuổi đến trường [156; tr. 8]. Ủy ban nhân dân

huyện Vị Xuyên đã chỉ đạo các ngành chức năng, các xã tích cực chuẩn bị

cơ sở vật chất cho năm học mới, tiến hành hội nghị tổng kết công tác giáo

dục cấp huyện và cấp xã để có kế hoạch cho các năm tiếp theo. Với mong

muốn chấn chỉnh lại công tác dạy và học, đặc biệt là quyết tâm cao trong

thay đổi bộ mặt giáo dục của huyện Vị Xuyên, những việc làm quyết liệt

trong năm 1996 đã có những kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Toàn huyện

đã huy động được 197 cháu vào nhà trẻ, 2.619 cháu đi học mẫu giáo, số học

sinh đến tuổi đi học là 17.686 học sinh (đạt tỷ lệ 92.7%, tăng 16.1% so với

năm 1995). Công tác xóa mù chữ có chuyển biến tích cực khi số người huy

động được 2.569 hội viên đạt 128.5%, trong đó đã công nhận xóa mù chữ

cho 1.012 hội viên. Việc điều tra công nhận phổ cập giáo dục tiểu học được

60

ngành giáo dục phối hợp với các bộ phận chức năng thực hiện. Tính đến 30

tháng 12 năm 1996, toàn huyện Vị Xuyên đã có 11/23 xã, thị trấn được công

nhận phổ cập giáo dục tiểu học [156; tr. 9]. Đây là một kết quả rất đáng

khích lệ mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Vị Xuyên nỗ lực phấn

đấu thực hiện trong nhiều năm. Với sự tăng trưởng của kinh tế, công tác

giáo dục của huyện Vị Xuyên cũng được quan tâm đầu tư hơn về cơ sở vật

chất cũng như đội ngũ giáo viên. Nhờ đó, tình hình giáo dục cho đến năm

2000 đã có những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực. Năm học 1998-1999, số

học sinh trong độ tuổi đi học (6-14) đạt 96% (đạt 100% kế hoạch đặt ra và

tăng 1% so với năm học 1997-1998). Công tác “xóa mù” tiếp tục thực hiện

tiến đến hoàn thành xóa mù chữ trên địa bàn huyện. Năm 1998 đã “xóa mù”

cho 504 học viên, phổ cập giáo dục tiểu học được 854 học sinh. Ủy ban

nhân dân huyện đã chỉ đạo các cấp, các ngành liên quan cùng với ngành

giáo dục tăng cường công tác xóa mù chữ cho 2 xã còn lại của huyện là Lao

Chải, Cao Bồ, phấn đấu đến tháng 6 năm 1999 đạt 100% xã trong toàn

huyện thực hiện xong công tác xóa mù chữ [158; tr. 9]. Mục tiêu phấn đấu

phổ cập giáo dục tiểu học đã được hoàn thành vào năm 1999. Từ năm 2000

trở đi, huyện Vị Xuyên tiếp tục phấn đấu duy trì những kết quả đã đạt được,

đồng thời hướng tới mục tiêu cao hơn là nâng cao dân trí, đào tạo sau xóa

mù chữ; tiến tới hoàn thành phổ cập giáo dục bậc trung học sơ sở.

Về công tác thông tin, văn hóa và thể dục thể thao, trong những năm

đầu đổi mới, hoạt động của lĩnh vực này còn khá đơn giản. Huyện Vị Xuyên

đã cho củng cố các đội thông tin tuyên truyền cổ động để tuyên truyền chủ

trương đường lối của Đảng cho người dân, tuyên truyền việc thực hiện đời

sống văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, chống các biểu hiện tàn dư của nền văn

hóa cũ. Song song với việc củng cố phong trào văn hóa, văn nghệ quần

chúng ở cơ sở, huyện tăng cường các đội chiếu bóng về cơ sở phục vụ cho

nhân dân. Ngoài ra, cán bộ cấp cơ sở như bí thư, chủ tịch cũng được trang bị

61

đài bán dẫn để tiếp cận được những thông tin mới nhất của Đảng và Nhà

nước phục vụ cho công tác lãnh đạo tại địa phương [7; tr. 13-14, 149; tr. 18].

Cho đến năm 1990, các hoạt động văn hóa chủ yếu vẫn tập trung vào việc

tuyên truyền cổ động những ngày lễ lớn trong năm. Mặc dù vậy hoạt động

này chưa được triển khai rộng khắp và đầy đủ. “Phong trào tập trung khu

vực huyện lỵ. Chưa tổ chức hoạt động sâu rộng đến cơ sở xã. Mang nặng

hình thức hoạt động tham gia phong trào với tỉnh. Cho nên các hiện tượng

mê tín dị đoan, đón vua, các tục lệ cưới xin ma chay đã phát triển tương đối

rộng rãi” [150; tr. 10]. Từ năm 1991 trở đi, cùng với sự cải thiện ngày càng

đáng kể đời sống kinh tế, các mặt đời sống văn hóa của huyện Vị Xuyên

cũng từng bước có chuyển biến tích cực. Chính quyền và các đoàn thể đã cố

gắng để thực hiện phong phú các hình thức tuyên truyền như panô, áp phích,

thông tin lưu động, truyền thanh về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà

nước, các ngày lễ lớn hay sự kiện quan trọng trong năm. Hệ thống thư viện

và nhà văn hóa được đưa vào hoạt động bước đầu có hiệu quả (nhà văn hóa

có trên 3.000 lượt người đến xem phim, tủ sách thư viện gần 6.000 cuốn).

Các đội văn nghệ cơ sở được thành lập để phục vụ bà con nhân dân. Có 12

xã thành lập được đội văn nghệ và thể thao; huyện có 2 đội bóng chuyền

nam, nữ; các trường học phát triển mạnh phong trào điền kinh trong học

sinh. Đài truyền hình và truyền thanh đã bước đầu đi vào hoạt động. Truyền

hình thường xuyên thu các chương trình qua vệ tinh phản ánh tình hình

trong nước và quốc tế, đài truyền thanh đã thực hiện tiếp âm đài Trung ương

(năm 1993) được 2.040 giờ, tin bài của huyện 112 giờ, chương trình sóng

Trung ương 793 giờ, chương trình địa phương 32 giờ [153; tr. 7]. Đó là

những bước tiến tích cực của các mặt đời sống văn hóa huyện Vị Xuyên

trong những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Dù vậy, do điều kiện giao

thông đi lại khó khăn, kinh tế kém phát triển nên ở những xã vùng sâu, vùng

xa việc thụ hưởng văn hóa gặp rất nhiều hạn chế. Báo cáo của huyện Vị

Xuyên về việc thực hiện các chỉ tiêu cơ bản về kinh tế - xã hội, an ninh -

62

quốc phòng cho biết:“Có xã mấy năm chưa có phim ảnh, công tác truyên

truyền nếp sống mới chưa sâu rộng dẫn tới nhân dân trình độ dân trí chưa

được nâng cao. Qua điều tra tình hình kinh tế xã hội cho thấy toàn huyện có

44,69% dân số được xem phim, 1,09% dân số được xem các đoàn nghệ

thuật” [152; tr. 5]. Những hạn chế này dần được khắc phục trong những

năm tiếp theo. Năm 1995, huyện Vị Xuyên tăng cường thành lập các đội

văn hóa lưu động thường xuyên đến các vùng sâu, vùng xa chiếu phim

tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của

Nhà nước. Có 2/3 xã trong huyện thành lập được các đội văn nghệ. Huyện

đã tổ chức tốt ngày hội văn hóa các dân tộc, triển khai thực hiện xây dựng

quy ước nếp sống văn hóa từ huyện đến cơ sở [155; tr. 7].

Từ năm 1996 đến năm 2000, các hoạt động văn hóa - thông tin và thể

dục thể thao trong toàn huyện phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.

Năm 1996, toàn huyện có 60 đội thể thao với gần 1.000 vận động viên.

Ngành văn hóa - thể thao huyện Vị Xuyên đã tổ chức được 15 trận thi đấu

phục vụ 15.000 lượt người xem. Toàn huyện có 32 đội văn nghệ quần chúng

tổ chức được 48 buổi biểu diễn phục vụ 40.000 lượt người xem, tổ chức 225

buổi chiếu phim phục vụ các thôn bản vùng sâu, vùng xa với 44.000 lượt

người xem [156; tr. 11]. Đến năm 1998, số đội thể dục thể thao của huyện

đạt con số 150 (tăng 67% so với năm 1997), duy trì hoạt động thường xuyên

2 đội thông tin lưu động với số buổi hoạt động là 240 phục vụ 50.000 lượt

người xem. Các buổi biểu diễn văn nghệ quần chúng thường xuyên được

biểu diễn (60 buổi) thu hút 40.000 lượt người xem. Đặc biệt, ngành văn hóa

huyện còn tăng cường phục vụ các buổi thông tin, văn nghệ cho các thôn

bản vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, tiến hành mở rộng giao lưu văn hóa,

củng cố vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc [158; tr. 10]. Bên cạnh đó, năm

1996, đài truyền thanh truyền hình của huyện Vị Xuyên cũng đã làm tốt việc

tiếp âm sóng của đài Trung ương, chất lượng truyền thanh và truyền hình

63

được nâng lên đáp ứng nhu cầu nghe nhìn của người dân [156; tr. 11]. Với

sự tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống phát thanh truyền hình, số giờ

tiếp sóng đài trung ương ngày càng tăng đáp ứng kịp thời những nhu cầu

của người dân. Năm 1998, huyện Vị Xuyên đã lắp thêm trạm VTRO tại xã

Bạch Ngọc, nâng tổng số lên 5 trạm VTRO trên địa bàn huyện và 3 trạm thu

phát lại, lắp mới 1 máy phát hình và hệ thống thu tín hiệu qua vệ tinh

kênh VTV3. Nhờ đó, số giờ tiếp sóng và phát sóng Đài truyền hình đã tăng

lên nhiều so với các năm trước, cụ thể: đã phát sóng truyền hình 15.280 giờ

đạt 124% kế hoạch, tỉ lệ phủ sóng truyền hình đạt 67% trên số hộ dân cư,

tiếp và phát âm Đài Tiếng nói Việt Nam và đài địa phương với tổng số

8.700 giờ tăng 64% so với kế hoạch [158; tr. 10]. Đây là những bước tiến

vượt bậc của công tác văn hóa, thông tin ở Vị Xuyên. Bởi vì chỉ trước đó

một vài năm, hoạt động của lĩnh vực này còn khá đơn điệu và nghèo nàn.

Từ năm 1996 trở đi, đời sống văn hóa của người dân Vị Xuyên đã từng

bước thay đổi nhanh chóng với sự đa dạng các loại hình tiếp cận và thụ

hưởng văn hóa, người dân tiếp cận thông tin dễ dàng hơn cả về hình ảnh lẫn

âm thanh. Các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao phát triển rộng và sâu,

thu hút một bộ phận đông đảo đặc biệt là lớp trẻ tham gia, hưởng ứng.

Nhiều đội văn nghệ được thành lập và duy trì thường xuyên hoạt động đã

tạo nên không khí vui tươi, phấn khởi cho người dân, từ đó càng tin tưởng

hơn vào sự phát triển đi lên của đất nước. Thành quả đó là sự cố gắng vượt

bậc của Đảng bộ, chính quyền, các đoàn thể và sự tham gia ủng hộ của

người dân Vị Xuyên, tạo điều kiện thuận lợi để huyện Vị Xuyên bước vào

thế kỷ XXI.

2.3.2. Lao động, việc làm và việc thực hiện các chính sách xã hội

Lao động - việc làm là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu

đối với sự phát triển và sự ổn định xã hội ở mỗi địa phương. Vì thế, đây

luôn là vấn đề được Đảng bộ, chính quyền huyện Vị Xuyên quan tâm và tìm

64

cách giải quyết. Để thực hiện có hiệu quả vấn đề này, huyện Vị Xuyên đã

tuyên truyền giáo dục cho nhân dân có quan điểm đúng đắn về lao động -

việc làm và thu nhập hợp pháp. Xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ

thuật để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng

giảm dần lao động ở khu vực nông nghiệp nông thôn, tăng tỷ lệ lao động ở

khu vực công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ, du lịch, mở rộng phát

triển thị trường, tạo điều kiện để lao động có việc làm thường xuyên và ổn

định. Việc hướng nghiệp dạy nghề, thực hiện các dự án giải quyết việc làm,

góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân. Tuy nhiên, do

điều kiện là huyện miền núi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số lại chịu ảnh

hưởng trực tiếp từ chiến tranh biên giới nên những năm đầu đổi mới công

tác này chủ yếu tập trung vào việc ổn định đời sống nhân dân, bố trí lại dân

cư vùng biên một cách hợp lý.

Năm 1986, huyện Vị Xuyên đã lên kế hoạch phân bố lại lao động ở các

xã giáp biên và các xã kế cận gồm: Xín Chải, Lao Chải, Phương Tiến, Minh

Tân, Phong Quang đi các các địa điểm đã định ở các xã Đạo Đức, Quảng

Ngần, Việt Lâm, Bạch Ngọc, Ngọc Minh, Linh Hồ, Thượng Sơn. Huyện đã

di chuyển là 800 hộ dân với 4.850 nhân khẩu, 1.695 lao động theo kế hoạch

phân bố lại lao động vùng giáp biên. Đồng thời, huyện đã điều động mỗi xã

bám trụ theo địa hình hợp lý là 300 hộ, 1.650 nhân khẩu, 580 lao động gồm

các xã: Phương Tiến, Phương Độ, Thuận Hòa, Minh Tân. Một số hộ được

điều chuyển ở các huyện lân cận với số lượng 30 hộ, 85 khẩu, 30 lao động.

Ngoài những chi phí do người dân tự túc, nhà nước hỗ trợ cho công việc

điều chuyển lao động với số tiền 2.230.000 đồng, cấp phiếu vải 2,5

mét/người. Những học sinh đã tốt nghiệp cấp II muốn tham gia lao động thì

được tuyển vào các lâm trường, công trường giao thông để tăng thêm đội

ngũ công nhân sản xuất vật chất [149; tr. 19]. Đến năm 1990, đời sống của

người dân ở các xã vùng biên giới đã cơ bản ổn định. Các ngành, các cấp

65

trong huyện đều có biện pháp tích cực giúp đỡ bà con nhân dân bớt khó khăn.

Năm 1990, Ủy ban nhân dân huyện đã chi trợ cấp cho nhân dân bị thiên tai

60 triệu đồng, 22 tấn gạo và 50 mét vải, 5 chăn len, 17 màn [150; tr. 12].

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống nhưng ngoài việc bảo

đảm tốt chế độ chính sách cho các gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có

công với nước, hằng năm huyện Vị Xuyên đều phát động phong trào đóng

góp quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, thăm hỏi, tặng quà các gia đình thương binh,

liệt sĩ. Đến năm 1991, huyện đã giải quyết chế độ cho 1.475 đối tượng

hưởng chính sách xã hội với số tiền 516.715.000 đồng [151; tr. 11]; tiến

hành tu sửa các nghĩa trang liệt sĩ, quy tụ được 236 mộ liệt sĩ về nghĩa

trang liệt sĩ Vị Xuyên, km18 quốc lộ 2, số còn lại sẽ được bố trí mặt bằng

và quy tụ về nghĩa trang trong các năm tiếp theo. Năm 1992, toàn huyện đã

đóng góp được hơn 4.404.000 đồng để lập sổ tiết kiệm tặng các gia đình

liệt sĩ và thương binh nặng; tiến hành quy tập 1.215 mộ về nghĩa trang

km18 [152; tr. 7].

Từ năm 1991 trở đi, bộ mặt đời sống xã hội huyện Vị Xuyên bắt đầu có

những thay đổi quan trọng nhờ sự đầu tư phát triển của các dự án trên địa

bàn, trong đó quan trọng là các dự án định canh, định cư. Đến năm 1993,

trên địa bàn huyện Vị Xuyên có 7 dự án, trong đó có 2 dự án tập trung vào

công tác định canh định cư là Dự án định canh định cư xã Cao Bồ, Dự án

định canh định cư xã Minh Tân. Những dự án này đã góp phần quan trọng

làm thay đổi bộ mặt kinh tế và xã hội ở huyện Vị Xuyên. Với sự phát triển

đi lên của kinh tế, việc chăm sóc các vấn đề xã hội cũng được đầy đủ và tốt

hơn những năm trước. Việc cho vay để giải quyết việc làm được triển khai

nhanh chóng và có hiệu quả. Năm 1996, Vị Xuyên đã cho 159 hộ (609

khẩu) vay với tổng số tiền là 517.600.000 đồng, giải quyết việc làm cho 250

lao động trong lĩnh vực chăn nuôi và trồng cam. Huyện cũng đã huy động

các nguồn lực để cho vay cứu đói 514 hộ (3.142 khẩu) với tổng lương thực

66

là 260.370 kg (tương ứng 80.190.000 đồng). Ngoài ra cũng tiến hành thu nợ

cứu đói của những năm trước được 49.866.380 đồng [156; tr. 11]. Nguồn

vốn hỗ trợ cho vay xóa đói giảm nghèo qua cũng tăng lên qua từng năm.

Năm 1998, vốn vay giải quyết việc làm ở Vị Xuyên tăng lên 615 triệu đồng,

vốn xóa đói giảm nghèo 500 triệu đồng được triển khai ở 3 xã Việt Lâm,

Ngọc Linh, Linh Hồ. Huyện cũng thực hiện tốt chi trả trợ cấp thường xuyên

cho các đối tượng chính sách, trợ cấp đột xuất, hoạn nạn, với số tiền

261 000 đồng [158; tr. 10]. Để công tác cứu trợ các hộ gia đình thiếu đói và

tổ chức cho vay xóa đói giảm nghèo có hiệu quả, năm 1999, huyện Vị

Xuyên đã tiến hành điều tra rà soát các hộ đói giáp hạt đã thực hiện cho vay.

Kết quả cho thấy có 158 hộ tương ứng 894 khẩu, được vay 10kg/khẩu, tổng

số là 8.940 kg. Cũng năm 1999, ngân hàng Vị Xuyên đã giải ngân vốn vay

xóa đói giảm nghèo cho 115 hộ gia đình ở xã Việt Đức, Linh Hồ với số tiền

230 triệu đồng [159; tr. 11].

Từ năm 1996 đến năm 2000, nhờ có sự phát triển nhanh chóng của

kinh tế địa phương, một số công tác mới thuộc lĩnh vực xã hội được triển

khai thực hiện. Công tác bảo hiểm là một lĩnh vực mới và bước đầu thực

hiện khá tốt. Tuy vậy trong quá trình chi trả bảo hiểm vẫn còn có một số đơn

vị chưa thực hiện đầy đủ. Năm 1996, ngành bảo hiểm của Vị Xuyên đã có

nhiều cố gắng để đảm bảo việc chi trả thường xuyên cho 1.867 đối tượng với

số tiền 4.973.588.631 đạt 99.8% kế hoạch. Tuy vậy vẫn còn nhiều đơn vị

thực hiện chế độ nộp bảo hiểm chưa kịp thời, 9/20 đơn vị nợ bảo hiểm,

riêng Công ty chè Việt Lâm còn nợ 215.412.880 đồng [156; tr. 12]. Những

năm tiếp theo ngành bảo hiểm xã hội ở Vị Xuyên đã thực hiện tốt các chế độ

chính sách cho các đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội. Nhìn chung các đơn

vị đều chấp hành tốt việc nộp bảo hiểm xã hội... Tuy nhiên việc chấp hành

thu nộp bảo hiểm xã hội đối với một số đơn vị thực hiện chưa nghiêm túc

như Công ty chè Việt Lâm, Công ty thương mại huyện, Cửa hàng lương

67

thực huyện. [148; tr. 11].

Tiểu kết chương 2

Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới cho đến khi tái lập tỉnh

Hà Giang (1991), kinh tế huyện Vị Xuyên nhìn chung còn gặp nhiều khó

khăn. Sự khó khăn thể hiện hầu như trên tất cả các lĩnh vực từ cơ sở hạ tầng

kinh tế, sự nghèo nàn về cơ cấu mặt hàng nông sản, kinh tế gần như tập

trung vào nông nghiệp. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp hầu như chưa

có gì. Mặt khác, tình hình phức tạp do thời gian chiến tranh ở khu vực biên

giới cùng với sự không thuận lợi của điều kiện tự nhiên đã làm cho bộ mặt

kinh tế của Vị Xuyên không mấy khởi sắc. Cuối năm 1991, tỉnh Hà Giang

được tái lập, Vị Xuyên về căn bản vẫn giữ nguyên địa giới hành chính. Đây

cũng là thời gian mà những chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến

công cuộc đổi mới dần đi vào cuộc sống, vì vậy mà kinh tế của huyện Vị

Xuyên dần được cải thiện theo hướng đi lên. Giai đoạn 1991 - 2000, huyện

Vị Xuyên đẩy mạnh việc đa dạng hóa các mặt hàng nông sản, phát triển

mạnh sản xuất lương thực, tích cực mở rộng các mô hình chăn nuôi nhằm tự

chủ về mặt lương thực, từng bước thực hiện công tác xóa đói và giảm

nghèo. Kinh tế bắt đầu tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế bắt đầu chuyển dịch

theo hướng tích cực, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp bắt đầu được mở

mang, phát triển sản xuất như: chế biến chè, chế biến nông sản, sản xuất vật

liệu xây dựng... Điểm sáng trong những năm cuối thập niên 90 (thế kỷ XX)

mà Vị Xuyên đạt được chính là giảm nhanh số hộ đói nghèo. Đây thực sự là

những kết quả quan trọng mà huyện Vị Xuyên đạt được trong giai đoạn

1986 - 2000, làm nền tảng để kinh tế huyện Vị Xuyên bước sang thiên niên

kỷ mới.

Về mặt xã hội, những năm 1986 - 2000 là giai đoạn mà cả nước mới

bước vào thực hiện công cuộc đổi mới. Huyện Vị Xuyên là một huyện miền

núi còn gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, xuất phát điểm quá thấp cộng với

68

sự thiếu thuận lợi của điều kiện tự nhiên và tàn dư của cuộc chiến tranh biên

giới đã làm cho các mặt đời sống xã hội còn rất nhiều hạn chế. Người dân

còn ở trong tình trạng thiếu thốn về thông tin liên lạc, số lượng người mù

chữ vẫn còn khá lớn, công tác y tế chưa đảm bảo, hệ thống phúc lợi an sinh

xã hội chưa đáng kể, vì vậy đời sống tinh thần của người dân còn nghèo

nàn, lạc hậu. Cho đến những năm 1996-2000, nền kinh tế huyện Vị Xuyên

mới có những chuyển biến thực sự rõ rệt , do đó những vấn đề về mặt xã hội

cũng từng bước được giải quyết. Thành tựu nổi bật nhất là sau nhiều năm nỗ

lực thực hiện công tác phổ cập giáo dục tiểu học, đến năm 2000 mục tiêu

này đã được hoàn thành. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe người dân từng

bước chuyển biến tích cực với sự củng cố, nâng cấp cơ sở vật chất và đội

ngũ cán bộ. Hệ thống nhà trạm, trung tâm y tế huyện và các trạm y tế xã

được xây dựng bài bản và trang bị đầy đủ thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế tối

thiểu, bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Đây là một

69

bước tiến rất lớn so với những năm đầu thời kỳ đổi mới.

CHƯƠNG 3

CHUYỂN BIẾN VỀ KINH TẾ, XÃ HỘI

TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

3.1. Những yếu tố tác động đến chuyển biến của huyện Vị Xuyên

khi bước vào thế kỷ XXI

3.1.1. Bối cảnh quốc tế, trong nước

Nhân loại bước vào thế kỷ XXI với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập

quốc tế. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương nổi lên là một khu vực năng

động nhất với tốc độ phát triển cao. Toàn cầu hóa và khu vực hóa trở nên

mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, các nước đều thi hành chính

sách mở cửa, gia tăng sự hội nhập vào khu vực và thế giới; tiếp tục điều

chỉnh chính sách để thích nghi với sự cạnh tranh toàn cầu, đồng thời xử lý

mâu thuẫn giữa quá trình toàn cầu hóa với lợi ích và chủ quyền của mỗi

quốc gia. Việc mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới để tận dụng những

lợi thế do xu thế toàn cầu hóa mang lại, đồng thời phát huy tối đa sức mạnh

nội lực của đất nước đã trở thành yêu cầu khách quan và hợp với quy luật

phát triển của thời đại.

Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng

kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

trong những năm đầu thế kỷ XXI. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế, mở cửa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng

đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trong những năm

đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với

các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ

được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân không ngừng được cải thiện. Thế và lực của đất nước ta mạnh

lên rất nhiều đặc biệt là khi bước vào thế kỷ XXI, cho phép nước ta tiếp tục

70

phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền

vững, trước mắt phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm cho Việt Nam trở

thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đồng thời, Đảng và Nhà

nước ta tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với

phát triển văn hóa, từng ước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi

trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh -

quốc phòng.

3.1.2. Các chính sách về kinh tế, xã hội của Trung ương và của tỉnh

tác động đến chuyển biến của huyện Vị Xuyên

Tháng 4 năm 2001, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã

thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho 10 năm đầu của thế kỷ

XXI, với quan điểm phát triển một nền kinh tế nhanh gắn với việc thực hiện

tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế là nhiệm vụ

trọng tâm, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực, xây dựng

nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội

cũng xác định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

2001 - 2010 là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ

rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến

năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện

đại” [59; 696]. Đại hội chỉ rõ quan điểm phát triển nền kinh tế đất nước là

“Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với

thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [59; tr. 699]. Sau

20 năm đổi mới, đất nước Việt Nam có bước chuyển biến toàn diện, trên cơ

sở tổng kết và khẳng định những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của

cuộc đổi mới, Đại hội X của Đảng (2006) đã đề ra những điểm cơ bản để

đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

71

hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Đại hội chỉ rõ mục tiêu phát triển

kinh tế xã hội trong 5 năm (2006 - 2010): “Đẩy mạnh toàn diện công cuộc

đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện

đại hoá đất nước… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” [60;

tr. 76]. Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, khoa học, nhưng các tính chất

đó của cơ cấu kinh tế lại chịu sự chi phối của Nhà nước. Nhà nước không can

thiệp trực tiếp vào cơ cấu kinh tế, nhưng có thể tác động gián tiếp thông qua

định hướng phát triển và các công cụ điều tiết thể chế, chính sách, pháp luật.

Về mặt xã hội, Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) đã chủ trương tập

trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối,

bình đẳng trong quan hệ xã hội, khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp.

Đến Đại hội X (2006), Đảng chỉ rõ đến năm 2010 cần phải: Kết hợp chặt

chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, thực hiện tiến bộ

công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển.

Đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hoá đã được xác định

trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là “làm cho

văn hoá thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn

thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền

thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của loài người, tăng sức đề

kháng chống văn hoá đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hoá trong mọi

hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân” [58; tr.208].

Ngày 1-7-2004, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 37/NQ-TW Về

phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh

vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến 2010. Nghị quyết chỉ rõ: Vùng trung

du và miền núi Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng, có tiềm năng lợi thế

to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, môi trường

sinh thái của cả khu vực Bắc Bộ và của cả nước. Nhân dân trong vùng có

truyền thống đoàn kết trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, có quan hệ

gắn bó và mật thiết với miền xuôi. Là nơi có nhiều cửa khẩu giao lưu kinh tế

với bên ngoài. Tuy nhiên, hiện nay vùng này vẫn là vùng nghèo, còn nhiều

72

khó khăn, thách thức, cần phải được phát triển nhanh và bền vững hơn nữa.

Nghị quyết đã xác định mục tiêu của vùng đến năm 2010: GDP bình quân

đầu người gấp 2,5 lần so với năm 2000. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tỷ trọng GDP các ngành nông,

lâm, ngư nghiệp đạt khoảng 26%, ngành công nghiệp và xây dựng 34% và

dịch vụ 40% trong tổng GDP của vùng. Phấn đấu đến năm 2010, có 60 đến

70% số xã có bác sỹ, 100% số trạm y tế xã, cơ sở y tế và phòng khám đa khoa

khu vực được chuẩn hoá; 25-30 % tổng lao động được đào tạo có kỹ thuật.

Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị ban hành nghị quyết chuyên đề về

phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh

vùng trung du và miền núi Bắc Bộ. Nghị quyết thể hiện sự quan tâm sâu sắc

của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc, phản ánh tư duy quản

trị và phát triển vùng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng chung của nhân dân.

Trên cơ sở đường lối của Đảng, với sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của

Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang, đời sống xã hội của huyện Vị

Xuyên đã có những chuyển biến rõ nét trong giai đoạn 2001 - 2010.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2000-2005 đã

xác định phương hướng phát triển của tỉnh trong nhiệm kỳ tới. Đó là xây

dựng vùng động lực kinh tế của tỉnh bao gồm thị xã Hà Giang, huyện Bắc

Quang, Vị Xuyên và các thị trấn thị tứ trong tỉnh. Đây là những vùng trọng

điểm có vai trò tích cực và chủ yếu gánh vác, thúc đẩy và đảm bảo thực hiện

thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của cả tỉnh. Ngày 17-7-2001, Hội nghị

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ra Nghị quyết số 02 Về phát triển công nghiệp

- tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2001 - 2005. Theo tinh thần Nghị quyết 37-

NQ/TW ngày 1-7-2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế

- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ

đến năm 2010, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (12-2005) đề ra mục tiêu

đến năm 2010 có cơ cấu “Dịch vụ - công nghiệp - nông lâm nghiệp”

73

[8; tr.279]. Như vậy, các yếu tố này là điều kiện có tính quyết định đến sự

hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Sự ổn định, minh bạch,

đồng bộ của thể chế kinh tế (nhất là các chính sách đầu tư, tài chính) sẽ

góp phần phát triển cơ cấu kinh tế làm giảm hoặc làm tăng lên các tác

động tích cực và tiêu cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ chế

quản lí sẽ tác động lên cơ cấu sản xuất, cơ cấu dân cư, tạo ra cân đối lực

lượng lao động và thu nhập giữa các vùng, giảm bớt khoảng cách chênh

lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn.

Trong bối cảnh chung của công cuộc mở cửa và hội nhập, Vị Xuyên

cũng được đón nhận những nguồn đầu tư của nhà nước và tỉnh Hà Giang

trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chương trình phát triển kinh tế, xã

hội của nhà nước và của tỉnh đã được thực hiện ở Vị Xuyên và mang lại

hiệu quả cao. Với vị trí nằm gần như trung tâm của tỉnh Hà Giang, có quốc

lộ 2 chạy qua với chiều dài khoảng 30 km, huyện Vị Xuyên có nhiều thuận

lợi cho giao lưu với các huyện, thị khác trong tỉnh và cả nước. Đó là: được

tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ của các nước trên thế giới; mở rộng

thị trường xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ; phát triển kinh tế mở;

tranh thủ được công nghệ, vốn, kĩ thuật của các nước; hội nhập cũng là điều

kiện để giao lưu văn hóa, cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo nguồn

nhân lực.

Huyện Vị Xuyên có cửa khẩu quốc gia Thanh Thủy, với các công trình

hạ tầng kĩ thuật, hạ tầng xã hội thiết yếu được xây dựng bằng ngân sách nhà

nước đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế vùng biên, mở rộng

hoạt động giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa Vị Xuyên nói riêng và tỉnh Hà

Giang nói chung với Trung Quốc. Hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư theo

đúng quy hoạch, diện mạo khu vực cửa khẩu ngày một khang trang; giá trị

kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa qua cửa khẩu tăng nhanh theo từng

năm. Trong khu vực cửa khẩu đã có nhiều hộ dân, doanh nghiệp trong và

ngoài tỉnh đến định cư, phát triển sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, khu kinh tế

cửa khẩu Thanh Thủy được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập

74

tháng 11-2009 gồm 6 xã của huyện Vị Xuyên: Thanh Thủy, Thanh Đức,

Lao Chải, Xín Chải, Phong Quang, Phương Tiến và xã Phương Độ (thị xã

Hà Giang). Trong tương lai nơi đây sẽ được tổ chức thành khu phi thuế

quan và các khu chức năng như khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch,

khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác. Khi

được hoàn thành xây dựng vào năm 2020, khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy

sẽ thúc đẩy giao lưu, trao đổi hàng hóa hơn nữa giữa Vị Xuyên - Hà Giang

với Vân Nam - Trung Quốc mang lại nguồn thu lớn đóng góp tích cực vào

sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Vị Xuyên và tỉnh Hà Giang.

Ngay sau khi Nghị quyết 37 của Bộ Chính trị về phương hướng phát

triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và

miền núi Bắc Bộ đến năm 2010 được triển khai, Đảng bộ huyện Vị Xuyên

đã xác định đây là một Nghị quyết quan trọng nhằm đẩy nhanh tốc độ phát

triển, cải thiện hệ thống hạ tầng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội

và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ nói

chung và huyện Vị Xuyên nói riêng. Do đó, các nội dung cơ bản của Nghị

quyết 37 đã được Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa XXI cụ thể hóa và

đưa vào Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2005 – 2010.

Đồng thời Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã ban hành các nghị quyết

chuyên đề về phát triển văn hóa du lịch; đào tạo nghề, giải quyết việc làm;

phát triển cây chè; phát triển lúa ngô hàng hóa; nghị quyết về 7 cây, 4 con

trong phát triển nông nghiệp; nghị quyết về công tác quốc phòng, an ninh

hằng năm và các cơ chế chính sách thu hút, kêu gọi đầu tư, khuyến khích

các thành phần kinh tế phát triển.

3.2. Chuyển biến về kinh tế

3.2.1. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Trong những năm cuối thế kỷ XX, chính quyền huyện Vị Xuyên ngày

càng quan tâm và tỏ ra quyết tâm cao trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của

nhóm ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Định hướng phát triển

75

kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên từ 1997 - 2010 ngoài việc tiếp tục nhấn

mạnh vai trò hàng đầu của lĩnh vực nông, lâm nghiệp đã xác định cần phải

nâng vai trò của công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp lên một bước. Báo cáo

tóm tắt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện giai đoạn 1997 - 2010

nêu rõ: "Đi đôi với phát triển nông nghiệp, cần phát triển nhanh công

nghiệp chế biến nông sản, lâm sản... để tăng tỷ trọng công nghiệp trong cơ

cấu kinh tế và tạo ra tích lũy, tăng thu ngân sách, nâng cao thu nhập của

nhân dân" [157; tr. 10]. Bản quy hoạch cũng đã đặt ra mục tiêu chuyển dịch

cơ cấu kinh tế rất rõ ràng, mạnh mẽ với việc giảm tỷ trọng ngành nông - lâm

nghiệp và tăng tỷ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP của huyện.

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Vị Xuyên thực sự rõ ràng từ

năm 2001 trở đi. Cơ cấu ngành kinh tế (tỷ lệ % trong tổng GDP của huyện)

năm 2001 cho thấy lĩnh vực nông - lâm nghiệp chiếm 56% (năm 2000 là

58,5%, năm 1999 là 62%); lĩnh vực công nghiệp - xây dựng chiếm 25%

(năm 2000 là 18%, năm 1999 là 20%); lĩnh vực dịch vụ chiếm 19% (năm

2000 là 23,5%, năm 1999 là 21,5%) [161; tr. 1]. Quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành ở Vị Xuyên được thực hiện theo hướng công nghiệp hóa,

tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ đồng thời giảm dần tỷ

trọng của ngành nông, lâm nghiệp. Kết quả của sự chuyển dịch này là đến

năm 2005, lĩnh vực nông - lâm nghiệp giảm tỷ trọng xuống 45% trên tổng

GDP toàn huyện, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 32%, thương mại

dịch vụ chiếm 23% [166; tr. 1]. Năm 2010, cơ cấu này có sự thay đổi mạnh

mẽ, theo đó các ngành thuộc công nghiệp - xây dựng vươn lên đứng hàng

đầu trong tỷ trọng GDP với 46,6%, thương mại dịch vụ chiếm 23,5%, nông -

lâm nghiệp chỉ còn 29,9% [173; tr. 1]. Quá trình chuyển dịch cơ cấu được

thể hiện rõ qua từng năm (xem Bảng 3.1). Sự suy giảm tỷ trọng theo đúng

định hướng của nông lâm nghiệp, cũng như sự tăng trưởng khá đều của khu

vực công nghiệp - xây dựng cho thấy Vị Xuyên ngày càng tiến lên vững

chắc trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy vậy, khu vực

76

thương mại, dịch vụ không mấy tiến triển, qua hơn 10 năm tỷ trọng trong cơ

cấu kinh tế không có nhiều biến đổi. Đây là một vấn đề quan trọng mà

huyện Vị Xuyên cần tập trung giải quyết trong thời gian tiếp theo.

Bảng 3.1. Cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên từ 2000 đến 2010

(đơn vị tính %)

Ngành

Năm

Công nghiệp - xây dựng Thương mại, dịch vụ Nông - lâm nghiệp

58,5 18 23,5 2000

56 25 19 2001

54 25 21 2002

46,3 24,9 28,8 2003

44 26 30 2004

45 32 23 2005

35,68 39,31 25,01 2006

32,09 42,10 25,81 2007

28,6 45,2 23,7 2008

30,9 45,4 23,7 2009

Nguồn: Niên giám thống kê và báo cáo của UBND huyện theo các năm.

29,9 46,6 23,5 2010

Cùng với sự chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế ngành, sự chuyển dịch

giữa các thành phần kinh tế cũng có bước tiến mới theo hướng giảm dần tỷ

trọng ở khu vực kinh tế nhà nước, tăng dần tỷ trọng khu vực kinh tế ngoài

nhà nước. Năm 2010, tổng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh

tính theo giá thực tế đạt 1.099.833 tỷ đồng, tăng 13,8% so với năm 2009

[173; tr. 5]. Thương mại dịch vụ cũng có sự phát triển tích cực. Thống kê

năm 2010 cho thấy có 13 hợp tác xã được thành lập mới, đưa tổng số hợp

tác xã dịch vụ trên toàn huyện lên con số 91, trong đó có 13 hợp tác xã dịch

vụ nông nghiệp còn lại hoạt động trong các lĩnh vực khác [173; tr. 5].

77

Doanh nghiệp kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển, đặc biệt trong

lĩnh vực công nghiệp - xây dựng, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp. Đến năm

2010, toàn huyện có 20 doanh nghiệp tư nhân,1.118 hộ tư thương và dịch vụ

[130; tr. 44].

Kinh tế huyện Vị Xuyên có sự phân bố không đồng đều các cơ sở kinh

tế do đặc điểm của địa hình. Về cơ bản các hoạt động kinh tế công nghiệp,

dịch vụ hoạt động sôi nổi và tập trung chủ yếu ở hai thị trấn Vị Xuyên, Việt

Lâm và một số xã bám dọc theo quốc lộ 2. Xét theo trình độ phát triển của

các xã ở Vị Xuyên thì thị trấn Vị Xuyên, thị trấn Việt Lâm thuộc vào khu

vực I, 9 xã thuộc khu vực II và 12 xã khu vực III, thuộc diện đầu tư của

Chương trình 135 giai đoạn II (trong đó có 15 thôn đặc biệt khó khăn phân

bố trên 7 xã) [172; tr. 2].

3.2.2. Sự phát triển của các ngành kinh tế

3.2.2.1. Kinh tế nông, lâm nghiệp

Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) đã định hướng phát triển nông

nghiệp và kinh tế nông thôn là: Chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu sản xuất

nông nghiệp và kinh tế nông thôn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa

chuyên canh phù hợp với tiềm năng và lợi thế về khí hậu, đất đai và lao

động của từng vùng, từng địa phương. Ứng dụng nhanh khoa học và công

nghệ vào sản xuất, nhất là ứng dụng công nghệ sinh học; gắn nông nghiệp

với công nghiệp chế biến; gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ; hình thành

sự liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn. Tiếp

đó, để cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, tháng 3-2002, Trung

ương đã ban hành 3 nghị quyết quan trọng liên quan trực tiếp đến nông

nghiệp và nông thôn, đó là: Nghị quyết "Về đẩy nhanh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010"; "Tiếp tục đổi

mới, phát triển và nâng cao kinh tế tập thể"; "Tiếp tục đổi mới cơ chế

chính sách khuyến khích tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân".

Tại Vị Xuyên, nông nghiệp vẫn là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu và

78

đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Năm 2001, sản lượng lương thực đánh dấu

sự tăng vượt trội và đạt mức cao nhất so với các năm trước với tổng sản

lượng 30.048 tấn, tăng 11,2% so với năm 2000. Bình quân lương thực theo

đầu người/năm là 357 kg (kế hoạch đề ra là 354 kg) tăng 8,8% so với năm

2000, an ninh lương thực trong toàn huyện được đảm bảo [162; tr. 2]. Nhờ

thực hiện liên tục việc mở rộng diện tích trồng cây lương thực và đẩy mạnh

thâm canh nhất là đối với cây lúa, ngô nên sản lượng lương thực hằng năm

của Vị Xuyên tăng khá đều đặn, đảm bảo lương thực trong nhân dân vừa

đáp ứng yêu cầu phục vụ cho chăn nuôi và làm hàng hóa. Năm 2005, tổng

sản lượng lương thực của Vị Xuyên tăng lên 36.450 tấn, bình quân lương

thực đầu người là 407 kg/người/năm; năm 2010 tổng sản lượng lương thực

tăng đạt con số 45.888,6 tấn [166; tr. 2, 173; tr. 2].

Hình 3.1. Tổng sản lượng lương thực huyện Vị Xuyên 2001 - 2010

và diễn biến bình quân lương thực đầu người qua một số năm (đơn vị: tấn)

50000 45000 40000

35000 30000 25000

Sản lượng

20000

15000

10000

5000

0

2001

2003

2005

2007

2009

79

kg/người/năm

500 450 400 350 300 250 200 150 100 50 0

1992 1993 1994 1995 1996 2000 2001 2005 2010

Nguồn: Số liệu được xử lý từ báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hằng năm của huyện Vị Xuyên

Với sự hỗ trợ từ nguồn vốn thuộc Chương trình 135, nhiều xã trong

huyện Vị Xuyên đã có vốn để hình thành các cánh đồng thâm canh, cánh

đồng mẫu lớn cho năng suất cao, hình thành vùng chuyên canh lúa tại các xã

Linh Hồ, Tùng Bá, Đạo Đức, Việt Lâm. Những năm 2009 - 2010, Vị Xuyên

tiến hành triển khai thực hiện các mô hình sản xuất hàng hóa điển hình,

mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đáng chú ý là mô hình trồng lúa lai dòng

BIO 404, năm 2010 thực hiện tại 19 xã cho năng suất bình quân 56 tạ/ha.

Ngoài ra một số mô hình sản xuất khác cũng hứa hẹn khả năng cho năng

suất cao như: mô hình sản xuất lúa thuần BT13 và HT1 cho năng suất rất

cao lên tới 71 tạ/ha, nếu được chăm sóc tốt; mô hình sử dụng chế phẩm

phân bón hóa sinh cho lúa... Sự tăng trưởng của sản lượng lương thực huyện

Vị Xuyên có được là nhờ sự tăng lên của diện tích thâm canh, nhất là cây

lúa và ngô. Bên cạnh việc là hai loại cây lương thực chủ lực gắn bó với

người dân Vị Xuyên qua nhiều năm, cây lúa và cây ngô cũng là hai loại cây

chiếm đại bộ phận trong tổng sản lượng lương thực của huyện Vị Xuyên. Từ

80

kết quả thống kê (xem Hình 3.1 và Bảng 3.2) ta thấy rằng diện tích thâm

canh đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao sản lượng của cây lúa và

ngô, từ đó góp phần quyết định nâng cao tổng sản lượng lương thực hằng

năm. Năm 2001, diện tích thâm canh cây lúa là 3.895 ha (tổng diện tích là

5.461 ha), diện tích thâm canh cây ngô là 1636,2 ha (tổng diện tích là 3.450

ha) từ đó cho tổng sản lượng lương thực của huyện xấp xỉ 30.000 tấn. Đến

năm 2010, diện tích thâm canh cây lúa tăng lên 5.228,7 ha (tổng diện tích là

6.358,3 ha), diện tích thâm canh cây ngô 2.957,6 ha (tổng diện tích là

3.969,3 ha), với sự nâng cao diện tích thâm canh của hai loại cây chủ lực

nên, tổng sản lượng lương thực đã nâng lên trên 45.000 tấn.

Bảng 3.2. Diện tích gieo trồng cây lúa, ngô từ 2001 đến 2010 (đơn vị: ha)

Cây lương thực

Năm

Tổng diện tích cây lúa Trong đó thâm canh Tổng diện tích cây ngô Trong đó thâm canh

2001 5.461 3.895 3.450 1.636,2

2002 5.700 3.490

2003 5.845 4.240 3.674 1.984

2004 5.920 4.285 3.620 1.974

2005 5.973 4.994 3.680 2.169

4.839 2.169

2006 2007 6.394,9 6.431 3.707,5 3.591

2008 6.437 5.088,8 3.861,8

2009 6.567,7 5.367,7 3.916,9 2.834

Nguồn: Xử lý từ niên giám thống kê qua các năm.

2010 6.358,3 5.228,7 3.969,3 2.957,6

Cùng với sự tăng lên về diện tích và sản lượng cây lương thực chủ đạo

là lúa và ngô, cơ cấu các loại cây trồng ngày càng được đa dạng hóa theo

81

hướng tập trung vào các loại cây có lợi thế, tiềm năng của địa phương.

Những loại cây được tập trung phát triển là chè, lạc, cây dâu tằm, thảo quả,

các loại cây ăn quả, rau..., trong đó, cây chè được xem như là loại cây gắn

bó lâu năm và tạo ra giá trị khá lớn giúp người dân Vị Xuyên có thể thoát

nghèo vươn lên làm giàu. Sản lượng cây chè hằng năm trong giai đoạn 2001

- 2005 có tốc độ phát triển không đều, thậm chí có phần suy giảm do diện

tích cây chè giảm sút vì già, chuyển mục đích đất sử dụng... Tuy nhiên do

hằng năm huyện Vị Xuyên đều triển khai thực hiện trồng mới cây chè nên

sự dao động không quá lớn về diện tích. Năm 2006 là năm có diện tích cây

chè giảm xuống thấp nhất trong 10 năm từ 2001 - 2010 là 3.738,5 ha, năm

cao nhất là 2005 đạt 4.389 ha. Giai đoạn 2005 - 2010, diện tích cây chè tăng

lên khá đều qua từng năm. Nhưng điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là

cây chè tăng nhanh về mặt sản lượng thu hoạch (xem Bảng 3.3).

Bảng 3.3. Diện tích và sản lượng cây chè từ 2001 đến 2010

Cây chè

Năm

Tổng diện tích (ha) Sản lượng (tấn, búp tươi) Diện tích thu hoạch

4.050 2.155 7.020 2001

4.383,5 2.311 6.701,9 2002

4.308,6 2.413 7.000 2003

4.297,5 2.311 6.890 2004

4.389 2.448 6.500 2005

3.738,5 2.860 9.006 2006

3.780 2.974 9.823 2007

3.885 10.679 2008

4.000,2 3.352,6 10.886,7 2009

Nguồn: Xử lý từ niên giám thống kê qua các năm.

82

4.100,2 5.228,7 11.380,3 2010

Các loại cây trồng như lạc, đậu tương, dâu tằm đều tăng cả về diện tích

và sản lượng. Cây lạc và đậu tương được xác định là các loại cây trồng quan

trọng nằm trong chương trình "7 cây, 4 con" (7 cây: lúa, ngô, lạc, đậu tương,

cam, chè, cây thảo quả; 4 con: trâu, bò, dê, cá) của huyện. Năm 2002, diện

tích cây lạc đạt 407 ha (giảm 5% so với 2001), đậu tương 458 ha (tăng

12,2% so với 2001) [163; tr. 2]. Năm 2003, diện tích đậu lạc bắt đầu tăng

lên 450 ha (tăng 10,5% so với 2002) với sản lượng 452 tấn; cây đậu tương

491 ha (tăng 7,2% so với 2002), sản lượng 345 tấn (tăng 10,4% so với 2002)

[164; tr. 4]. Đến năm 2005, cả diện tích và sản lượng cây đậu tương và cây

lạc đều có sự tăng trưởng mạnh: diện tích cây lạc đạt 724 ha (tăng 25% so

với 2004), sản lượng đạt 893 tấn; cây đậu tương có diện tích 575 ha (tăng

7,7% so với 2004), sản lượng 447,8 tấn [166; tr. 2]. Năm 2010, diện tích cây

lạc được gieo trồng là 1.177/1.510 ha, đạt sản lượng 1.827,8 tấn; trong khi đó

cây đậu tương có xu hướng giảm xuống còn 289,7/358,5 ha gieo trồng, đạt

sản lượng 232 tấn [173; tr. 2].

Một số loại cây có hiệu quả kinh tế cao đã hình thành vùng trồng tập

trung như cây măng tre bát độ ở xã Trung Thành, Đạo Đức, thị trấn Việt

Lâm, thị trấn Vị Xuyên; thảo quả, quế trồng ở các xã Lao Chải, Xín Chải,

Thanh Đức, Phương Tiến, Cao Bồ, Thượng Sơn, Minh Tân; cây ớt, thuốc lá

ở Linh Hồ, Trung Thành; vùng trồng cao su ở Trung Thành, Phú Linh, Linh

Hồ; vùng trồng chè ở Thượng Sơn, Cao Bồ. Năm 2003, diện tích thảo quả

của huyện Vị Xuyên là 213 ha, măng bát độ 538 ha, quế 760 ha, vải nhãn

864,1 ha, cam quýt 148,2 ha (chủ yếu trồng ở các xã Trung Thành, Việt

Lâm, thị trấn Việt Lâm) [164; tr. 4-5]... Năm 2006, diện tích cây thảo quả

tăng lên con số 1.110 ha, năm 2007 tăng lên 1.425 ha. Đây là loại cây mang

lại giá trị lớn cho người dân. Các xã trồng loại cây này đã dần trở thành

vùng sản xuất hàng hóa, tạo thu nhập cao và ổn định hằng năm. Giá trị kinh

tế của các loại cây mũi nhọn ngày càng tăng lên, góp phần nâng cao mức

sống của người dân. Năm 2007, giá trị kinh tế mà cây chè mang lại là 22 -

83

25 tỷ đồng, thảo quả 8 - 10 tỷ đồng (năm 2008 là 12 tỷ đồng), cây lạc từ 6

đến 8 tỷ đồng... Hầu hết các hộ có diện tích các loại cây trồng trên đều có

đời sống, thu nhập thuộc diện khá và giàu ở Vị Xuyên [168; tr. 2-3].

Chăn nuôi tiếp tục phát triển với việc thực hiện chương trình dự án cho

vay vốn nuôi trâu, bò. Ngành chăn nuôi của Vị Xuyên chủ yếu tập trung vào

các loại gia súc lớn như trâu, bò, ngựa, dê, lợn. Sự phát triển của chăn nuôi

là bước đi có định hướng nhằm chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp hợp lý theo

hướng giảm dần tỷ trọng của trồng trọt. Các cấp ủy Đảng, chính quyền ở Vị

Xuyên đã tập trung quy hoạch, phát triển chăn nuôi đại gia súc, đẩy mạnh

việc áp dụng khoa học - kỹ thuật tiến bộ, sử dụng các loại giống tốt, tăng

cường phòng ngừa dịch bệnh, gắn chăn nuôi hàng hóa với thị trường tiêu

thụ sản phẩm. Trừ năm 2008, do ảnh hưởng của rét đậm, rét hại kéo dài nên

đàn gia súc của huyện Vị Xuyên có phần giảm sút; còn lại nhìn chung từ

năm 2001 đến năm 2010, đàn gia súc của huyện Vị Xuyên có mức tăng

trưởng khá ổn định, góp phần chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ của ngành

nông nghiệp. Qua bảng 6, đàn gia súc của Vị Xuyên có sự tăng lên về số

lượng khá đều, tương ứng với sự tăng lên của sản lượng lượng thực, trong

đó cây ngô là loại cây đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực chăn nuôi của

Vị Xuyên. Từ đó cho thấy mối quan hệ gắn bó tương hỗ của lĩnh vực trồng

cây lương thực với sự phát triển của ngành chăn nuôi ở huyện Vị Xuyên.

Bảng 3.4. Số lượng đàn gia súc chủ yếu ở huyện Vị Xuyên

(Đơn vị: con)

những năm 2001 - 2010

Đàn gia súc Năm Trâu Bò Lợn

24.272 1.440 31.863 2001

24.461 1.460 32.883 2002

24.972 1.555 34.961 2003

84

25.698 1.676 36.650 2004

26.392 1.755 38.328 2005

30.642 2.055 43.562 2006

31.529 2.344 47.152 2007

30.649 2.247 49.075 2008

32.393 2.392 52.155 2009

Nguồn: Xử lý từ niên giám thống kê qua các năm.

38.828 2.415 54.818 2010

Lĩnh vực lâm nghiệp có những chuyển biến tích cực nhờ sự chuyển

biến mạnh mẽ từ khai thác sang bảo vệ và phát triển vốn rừng.

Từ năm 2001, huyện Vị Xuyên đã chỉ đạo tổ chức cho các hộ gia đình

thực hiện ký cam kết phòng chống cháy rừng ở những khu vực dễ xảy ra

cháy, hiện tượng đốt rừng làm nương rẫy không còn xảy ra. Công tác bảo vệ

rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng, trồng rừng mới đạt hiệu quả cao, tỷ lệ che

phủ rừng đạt 48%. Hằng năm, nhiệm vụ trồng rừng mới và tu bổ rừng luôn

được đảm bảo, góp phần nâng cao tỷ lệ che phủ của rừng. Năm 2001, toàn

huyện Vị Xuyên trồng được 620 ha rừng mới, khoanh nuôi phục hồi được

2.385 ha, giao khoán bảo vệ rừng đạt 14.181,8 ha [162; tr. 3]. Cùng với sự

chủ động trong thực hiện các biện pháp bảo vệ và mở rộng diện tích rừng

trồng, huyện Vị Xuyên còn được sự hỗ trợ của Dự án trồng và bảo vệ rừng

(còn gọi là Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng hay Dự án 661) khá hiệu quả.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ Dự án và gồm 2 hợp phần

chính:

+ Bảo vệ rừng hiện có và trồng mới 2 triệu ha rừng đặc dụng, phòng hộ.

+ Sử dụng hợp lý rừng hiện có và trồng mới 3 triệu ha rừng sản xuất.

Nguồn vốn từ Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và bảo tồn thiên nhiên

là 5.261,9 triệu đồng, đến năm 2004 đã cấp 3.415,6 triệu đồng (đạt 65%)

85

[165; tr. 5]. Cùng với việc đẩy mạnh chăm sóc, trồng rừng, công tác bảo vệ

rừng được đẩy mạnh với sự phối hợp của các cơ quan, ban ngành có liên

quan. Chỉ tính riêng trong năm 2005, huyện Vị Xuyên đã xử lý 60 vụ việc vi

phạm lâm luật, tịch thu 60,807m3 gỗ, thu 4 phương tiện vận chuyển; cháy

rừng 4 vụ; 17 vụ chế biến, cất giữ lâm sản trái phép. Tổng số tiền phạt vi

phạm là 289 triệu đồng, khởi tố hình sự 9 vụ. Huyện đã chỉ đạo thành lập

các ban phòng chống cháy rừng ở xã và một ban thường trực cấp huyện,

thường xuyên mở các lớp tập huấn công tác bảo vệ rừng cho người dân,

năm 2005 đã huấn luyện cho 10.620 lượt người tham gia. Diện tích rừng

được khoanh nuôi và bảo vệ là 27.150 ha [166; tr. 4].

Năm 2008 các chương trình, dự án hỗ trợ trồng rừng đã góp phần nâng

cao diện tích rừng toàn huyện Vị Xuyên: Dự án 661 trồng được 750 ha,

Chương trình 135 trồng được 285,5 ha, nhân dân trồng 988,5 ha, tổng cộng

rừng trồng mới là 2.024 ha, cao hơn hẳn so với các năm trước đó (năm 2005

là 920 ha, 2006 là 900 ha) [169; tr. 3]. Năm 2009, toàn huyện Vị Xuyên

trồng mới đạt 2.644,5 ha (đạt 105,78% kế hoạch), trong đó: Dự án 661 trồng

được 1.450 ha, nhân dân tự trồng 533 ha, Ban quản lý rừng Phong Quang

trồng 200 ha, Ban quản lý rừng Tây Côn Lĩnh trồng 200 ha, Ban quản lý

rừng phòng hộ trồng 211,5 ha, Kế hoạch Dự án trồng rừng biên giới 50 ha

[170; tr. 2]. Sự tăng trưởng của lâm nghiệp đã góp phần quan trọng trong

việc bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng, cải thiện môi trường sinh thái,

nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Với chủ trương xã hội hóa nghề rừng phát triển theo lâm nghiệp xã hội

trên địa bàn, huyện khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đầu tư bảo

vệ, phát triển rừng, khuyến khích các hình thức liên doanh liên kết và thành

lập các hợp tác xã lâm nghiệp. Vì vậy trong thời gian này, rất nhiều thành

phần trong xã hội đã tham gia vào quá trình trồng, bảo vệ và phát triển

kinh tế rừng tại huyện Vị Xuyên. Ngoài các chương trình, dự án của nhà

86

nước, còn có sự tham gia của các doanh nghiệp, các công ty, hộ dân,

tập thể… Đồng thời để đạt kết quả tốt nhất, huyện Vị Xuyên cũng như

nhiều địa phương khác có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cấp chính

quyền, các sở ban ngành (khuyến nông, phòng nông nghiệp, ngân hàng…)

giúp người dân tìm nguồn cung ứng giống, vốn, hướng dẫn cách áp dụng

khoa học - kĩ thuật trong ươm trồng, chăm sóc, thu hoạch cây…

Các cá nhân, gia đình, cộng đồng, tổ chức ở Vị Xuyên đều được

khuyến khích tham gia trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng thông qua các chương

trình, hoạt động giao khoán và đặc biệt là hoạt động đồng quản lý rừng.

Đồng quản lý rừng là hình thức thông qua cơ chế chia sẻ trách nhiệm và lợi

ích tạo cho cộng đồng, các cá nhân, hộ gia đình sống trong và gần rừng (chủ

yếu là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất tự nhiên), có cơ hội

tiếp cận có kiểm soát các nguồn tài nguyên được chia sẻ, nâng cao động lực

của cộng đồng trong bảo vệ, bảo tồn và phát triển rừng, từng bước thực

hiện xã hội hóa hoạt động quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn thiên nhiên. Ví

dụ như mô hình "đồng quản lý rừng đặc dụng Khu bảo tồn loài và sinh cảnh

Khau Ca" đang phát huy hiệu quả ở Vị Xuyên. Khu bảo tồn loài và sinh

cảnh Khau Ca, thuộc huyện Vị Xuyên và Bắc Mê (Hà Giang) có diện tích

hơn 2.000 ha được thành lập năm 2008 với nhiệm vụ bảo vệ loài voọc mũi

hếch có tên trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới đang đứng trước nguy cơ

tuyệt chủng. Khi mới thành lập, Khu bảo tồn gặp rất nhiều khó khăn trong

công tác bảo vệ. Nguyên nhân là do thói quen săn bắn và đời sống của

người dân ở đây vẫn chủ yếu dựa vào rừng. Vì lẽ đó, việc xâm phạm khu

bảo tồn diễn ra hết sức phức tạp, nhất là nạn khai thác gỗ, đánh bắt động

vật hoang dã... Trước thực trạng này, lãnh đạo khu bảo tồn đã chọn mô hình

"đồng quản lý rừng đặc dụng" để bảo vệ sinh cảnh và loài voọc mũi hếch

quý hiếm. Theo mô hình này, mỗi người dân sống xung quanh khu bảo tồn

sẽ trở thành một "kiểm lâm viên", có nhiệm vụ tuần tra, phát hiện, tố cáo

87

những ai vi phạm và họ sẽ được chi trả "phí" bảo vệ. [74; tr. 61].

Về giao đất giao rừng ở Vị Xuyên, năm 2009-2010, Chi cục Kiểm lâm

tổ chức giao rừng thí điểm tại thôn Lùng Chang, xã Linh Hồ, huyện Vị

Xuyên được 1.414,2 ha cho 145 hộ gia đình và 2 cộng đồng dân cư thôn. Từ

khi được giao rừng, người dân đã mạnh dạn cải tạo và đầu tư trồng mới

nhiều cánh rừng thuộc quyền quản lý của gia đình mình, hiện tượng đốt

rừng làm nương rẫy đã chấm dứt, nhờ được tu bổ mức độ đa dạng sinh học

của rừng cũng tăng lên. Bên cạnh đó, các loại lâm sản ngoài gỗ như tre, trúc,

hàng mây tre đan… đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân.

Công tác giao đất giao rừng đã mang lại hiệu quả kinh tế xã hội thiết thực,

góp phần bảo vệ và nâng cao độ che phủ của rừng, giúp người dân sống

được bằng nghề trồng rừng kinh tế đồng thời thúc đẩy công cuộc xóa đói

giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc trên địa bàn huyện.

Bên cạnh trồng rừng theo hộ gia đình thì khai thác gỗ từ rừng cộng

đồng góp phần đáng kể đáp ứng nhu cầu về gỗ và củi cho các thành viên

trong cộng đồng thỏa mãn nhu cầu của chính họ. Việc khai thác góp phần

giảm nghèo và đảm bảo sinh kế nông thôn.

Các loại rừng kinh tế trong huyện được trồng bằng những giống có

năng suất, hiệu quả kinh tế, trồng tập trung theo từng vùng sinh thái với

mức đầu tư thâm canh cao cả về vốn, lao động, khoa học kỹ thuật, đảm bảo đạt năng suất tối thiểu 10m3/ha/năm để trong vòng từ 6 - 8 năm có khả năng cung cấp tối thiểu 60 – 80 vạn m3gỗ/năm.

Mỗi khu vực có đặc điểm sinh thái khác nhau, thích hợp với những mô

hình trồng và phát triển rừng khác nhau. Ở Vị Xuyên đang phát huy hiệu

quả các mô hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn: bao gồm mỡ, giổi xanh có thể

trồng xen với chè, re gừng trồng hỗn giao với keo; rừng trồng cung cấp gỗ

nhỏ: keo, xoan, mỡ…; rừng trồng cung cấp lâm sản ngoài gỗ: chè + trám

trắng + re gừng, luồng thuần loài, măng tre bát độ, thảo quả, mô hình nuôi

88

ong… Với đặc thù một huyện miền núi, người dân Vị Xuyên chủ yếu sử

dụng mô hình nông lâm kết hợp theo hướng một hệ thống quản lý đất đai

trong đó các sản phẩm của rừng và trồng trọt được sản xuất cùng lúc hay kế

tiếp nhau trên một diện tích đất thích hợp để tạo ra các lợi ích kinh tế, xã hội

và sinh thái cho cộng đồng dân cư tại địa phương. Ngoài những cây trồng

chính trên diện tích đất trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ, trong 2-3

năm đầu khi rừng chưa khép tán, bố trí trồng xen những cây lương thực

ngắn ngày hoặc bố trí thành các đai cây lâm nghiệp ở phía trên sườn dốc và

đai cây công nghiệp, cây lương thực dưới sườn dốc. Mô hình cụ thể: Cây

lâm nghiệp (keo, xoan, mỡ) + cây công nghiệp (chè) + cây lương thực, thực

phẩm (lúa, ngô, sắn…). Nhiều hộ gia đình còn tận dụng chăn nuôi dưới tán

rừng (lợn, dê). Với phương châm lấy ngắn nuôi dài xen canh như vậy,

khi rừng chưa khép tán, mỗi hộ dân thu được hàng tấn lúa nương, sắn…

Đặc biệt hiện nay xây dựng mô hình vườn rừng, đồi rừng, trang trại

rừng là mô hình khá phổ biến ở các xã trong huyện với các phương thức

canh tác bền vững, sử dụng đất hợp lý, lợi dụng tối đa tiềm năng tự nhiên

và đạt hiệu quả sử dụng đất cao. Rất nhiều hộ dân trên địa bàn huyện đang

thực hiện mô hình này với hiệu quả cao. Trong 3 năm từ 2007 - 2010 người

dân trong huyện đã tự trồng 1.884,9 ha rừng sản xuất.

3.2.2.2. Kinh tế công nghiệp, xây dựng

- Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp

Từ năm 2001, các ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã

được chú trọng phát triển và ngày càng mở rộng quy mô. Hoạt động chủ yếu

là sản xuất, chế biến các loại nông sản có thế mạnh ở địa phương. Đáng chú

ý nhất là chế biến các sản phẩm từ cây chè. Sản phẩm ngày càng được đa

dạng hóa như sản xuất, chế biến xuất khẩu và tiêu thụ trong nước các loại

chè vàng, chè xanh, chè tinh lọc. Ngoài chế biến, hoạt động sản xuất, khai

thác vật liệu xây dựng cũng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu trong và

89

ngoài huyện, nhất là nhu cầu kiên cố hóa kênh mương ở Vị Xuyên. Từ năm

2001 đến năm 2004, đây là hai nhóm ngành chủ yếu thuộc lĩnh vực công

nghiệp ở huyện Vị Xuyên. Mặc dù lĩnh vực sản xuất công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp khá đơn điệu nhưng do mở rộng sản xuất nên đã mang lại giá

trị kinh tế khá lớn. Năm 2001, tổng giá trị công nghiệp, xây dựng tăng 43%

so với năm 2000, chiếm 25% trong tổng GDP của huyện [162; tr. 1; 4]. Đến

năm 2005, cơ cấu mặt hàng sản xuất thuộc công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp đã có sự thay đổi theo hướng phát triển với sự góp mặt của lĩnh vực

có hàm lượng kỹ thuật cao. Ngoài những mặt hàng, sản phẩm có tính chất

truyền thống như khai thác vật liệu xây dựng (cát sỏi 21.816m3, đá xây dựng

27.484m3, gạch nung 29,9 triệu viên trong đó gạch tuynen 15,6 triệu viên),

xay xát lương thực được 24.972 triệu tấn. chè sơ chế 1.473 tấn... đã có thêm

công nghiệp lắp ráp ô tải nhẹ được 227 chiếc, sản lượng điện 7,6 triệu KWh

[166; tr. 4]. Mặc dù chưa thực sự có sự đa dạng hóa mạnh mẽ trong cơ cấu

ngành công nghiệp, nhưng sự có mặt của lĩnh vực lắp ráp ô tô, điện năng

hứa hẹn sẽ mang đến bức tranh kinh tế công nghiệp sinh động hơn trong

những năm tiếp theo.

Năm 2006, tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành công nghiệp, tiểu thủ

công nghiệp tăng mạnh so với các năm trước. Sự tăng trưởng này xuất phát

từ hiệu quả đầu tư xây dựng các nhà máy thủy điện Nậm Ngần, Thái An,

hoạt động khai thác vật liệu xây dựng, chế biến nông sản có năng suất cao,

hiệu quả kinh tế khá... Trong năm 2006, lượng khai thác cát sỏi phục vụ xây

dựng lên đến 50.387m3, gạch nung đạt 29,653 triệu viên (trong đó gạch

tuynen 15,021 triệu viên), sơ chế chè đạt 1.544,6 tấn, xay xát lương thực

37.227 tấn. Một số ngành nghề mới được triển khai, nhân rộng như sơ chế

mây, tre, chít... chính quyền đã có những hỗ trợ thiết thực về tiền mua

nguyên vật liệu, tổ chức tập huấn chuyển giao kỹ thuật cho bà con nhân dân

có nhu cầu học tập áp dụng sản xuất. Cho đến năm 2010, giá trị sản phẩm

90

của ngành công nghiệp huyện Vị Xuyên đã tăng cao vượt bậc so với năm

2006, nhưng cơ cấu sản phẩm về cơ bản vẫn là chế biến nông sản (sơ chế

chè, xay xát lương thực), sản xuất và khai thác vật liệu xây dựng, khai thác

khoáng sản, lắp ráp ô tô, điện năng. Tính chung cả công nghiệp, xây dựng

năm 2006 đạt giá trị trên 45 tỷ đồng [167; tr. 3]. Năm 2009, tổng giá trị sản

xuất công nghiệp (theo giá cố định) đạt 131,151 tỷ đồng, con số này là

249,891 tỷ đồng nếu tính theo giá thực tế. Năm 2010, các sản phẩm chủ yếu

như khai thác quặng đạt 434,895 tấn, điện 92 triệu KWh, lắp ráp ô tô 1.000

chiếc, chè sơ chế 2.371 tấn (năm 2009 2.104 tấn), gạch các loại 39.800

nghìn viên (năm 2009 là 36.918 nghìn viên)... Tổng giá trị sản xuất công

nghiệp ngoài quốc doanh theo giá cố định đạt 685.997 tỷ đồng (tăng 12% so

với 2009), tính theo giá thực tế sẽ là 1.099.833 tỷ đồng [170; tr. 3, 173; tr. 5].

Mặc dù có sự tăng trưởng mạnh so với các năm trước đặc biệt là giá trị sản

xuất của công nghiệp ngoài quốc doanh nhưng nhìn chung quy mô sản xuất

của ngành công nghiệp huyện Vị Xuyên còn nhỏ lẻ, tiểu thủ công nghiệp

phát triển thiếu bền vững, việc quy hoạch các khu, cụm công nghiệp, dự án

đầu tư công nghiệp chưa triển khai kịp thời và có hiệu quả.

- Xây dựng, giao thông vận tải

Từ năm 2001 đến năm 2010, bằng thực tế nhu cầu phát triển kinh tế

của địa phương, nhiều công trình xây dựng đã được đầu tư và triển khai

thực hiện, góp phần làm cho hệ thống cơ sở hạ tầng của huyện Vị Xuyên

từng bước hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế.

Các công trình được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn của tỉnh chủ yếu

vẫn là hệ thống trường học các cấp, đường giao thông thông bản, các công

trình thủy lợi phục vụ sản xuất. Năm 2001, toàn huyện Vị Xuyên có 166

công trình được triển khai thực hiện, trong đó có 58 công trình giao thông,

39 trường học, thủy lợi 37 công trình, 32 công trình khác. Ủy ban nhân dân

huyện Vị Xuyên đã tổ chức ký cam kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu về đẩy

91

nhanh tiến độ và đảm bảo chất lượng nên hầu hết các công trình triển khai

đều đáp ứng yêu cầu đặt ra. Đến cuối năm 2001 đã có 78 công trình hoàn

thiện và đi vào sử dụng, trong đó chủ yếu là trường học với 34 công trình,

78 km đường dân sinh thôn bản, 23 công trình thủy lợi, giá trị khối lượng

hoàn thành là 95 tỷ đồng [162; tr. 5].

Hình 3.2. Diễn biến tỷ trọng lĩnh vực công nghiệp - xây dựng

50

45

40

35

30

25

Tỷ lệ % trong tổng GDP

20

15

10

5

0

1990

1995

1997

2000

2005

2010

Nguồn: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hằng năm của UBND huyện Vị Xuyên

trong tổng GDP huyện Vị Xuyên qua một số năm

Với sự hỗ trợ có hiệu quả từ nguồn vốn đầu tư của các chương trình,

dự án, chương trình kiên cố hóa kênh mương và xây dựng đường bê tông có

nhiều kết quả tích cực. Việc kiên cố hóa kênh mương nội đồng đã thực hiện

được 67.636 m (tăng 10,8% so với năm 2000), thực hiện theo Dự án hỗ trợ

các dân tộc thiểu số Hà Giang (HPM) là 1.300 m, Chương trình 135 là

11.670 m, nâng tổng chiều dài kênh mương được kiên cố trong toàn huyện

lên 142,3km và 49 đập nhỏ. Đường bê tông được làm mới là 63.324 m, đưa

92

tổng chiều dài đường được kiên cố của Vị Xuyên lên 76.796m [162; tr. 5].

Nguồn vốn từ các chương trình là điều kiện quan trọng giúp cho huyện Vị

Xuyên có được nhiều công trình mới, tu bổ các công trình cũ phục vụ sản

xuất cũng như dân sinh. Năm 2006, riêng Chương trình 135 đã cấp vốn

4,621 tỷ đồng cho 26 công trình, Chương trình 134 đã xây dựng được 475

ngôi nhà mới với số vốn 2,375 tỷ đồng, 217 bể nước sạch phục vụ sinh hoạt

với số vốn 217 triệu đồng, 8 công trình nước có vốn 1,04 tỷ đồng. Từ năm

2002 đến năm 2006, nguồn vốn từ Chương trình dự án quốc phòng 313 đầu

tư cho 4 xã biên giới của huyện Vị Xuyên là 22 tỷ đồng, riêng 2006 là 7,9 tỷ

đồng với 2 công trình thủy lợi (5,6 tỷ đồng), 1 lớp học (600 triệu đồng), hỗ

trợ sản xuất (1,2 tỷ đồng), di dân ra sát biên giới (500 triệu đồng). Ngoài ra,

Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã thực hiện xây dựng 7

chiếc cầu kiên cố và kéo điện về các thôn Lùng Áng - xã Phú Linh, Ngọc

Hà - xã Ngọc Linh bằng ngân sách của huyện [167; tr. 4].

Việc xây dựng cơ bản cũng như các công trình giao thông có sự hỗ trợ

của các chương trình sự án tiếp tục triển khai có hiệu quả trong những năm

tiếp theo. Năm 2010, trên địa bàn huyện Vị Xuyên có 5 dự án quy hoạch

được triển khai thực hiện với tổng dự toán kinh phí là 13,460 tỷ đồng. Công

tác xây dựng cơ bản trong huyện với tổng số công trình là 232, trong đó:

giao thông 77 công trình, thủy lợi và cấp nước sinh hoạt 78 công trình, điện

8 công trình, trạm y tế 9 công trình, trụ sở ủy ban nhân dân xã 14 công trình,

công trình khác là 46. Tổng nguồn vốn giao năm 2010 là 166,569 tỷ đồng

(trong đó kế hoạch giao 2010 là 116,41 tỷ đồng đã trừ 5,1 tỷ đồng vốn

Chương trình 135 giai đoạn II lồng ghép, chuyển nguồn 2009 sang là 50,159

tỷ đồng). Tiến độ các công trình trọng điểm đều được tiến hành khẩn trương

và đúng kế hoạch được giao [173; tr. 6]. Một số nội dung về xây dựng cơ

bản, giao thông nằm trong các chương trình lớn đều đạt kết quả cao trong

triển khai thực hiện. Riêng hợp phần xây dựng cơ sở hạ tầng (thuộc Chương

trình 135 giai đoạn II), năm 2010 có 69 công trình được triển khai thực hiện,

vốn được giao theo kế hoạch là 15,203 tỷ đồng. Chương trình cứng hóa giai

93

đoạn II đã thực hiện 68 công trình với số vốn giao năm 2010 là 15,395 tỷ

đồng. Chương trình kiên cố hóa kênh mương, đường bê tông được cấp kinh

phí 2,520 tỷ đồng, huyện Vị Xuyên đã làm mới được 8.550 m đường bê

tông (100% kế hoạch của huyện); xây dựng được 11.130 m kênh mương với

số vốn 1,668 tỷ đồng. Chương trình 167 hỗ trợ xây dựng nhà ở cho người

dân đã bổ sung thanh toán theo kế hoạch 792,2 triệu đồng cho 895 hộ làm

nhà trong năm 2009 (các xã 135 1,4 triệu đồng/hộ, các xã vùng II bổ sung

0,2 triệu đồng/hộ). Năm 2010 tiếp tục hỗ trợ xóa nhà tạm cho 955 hộ với số

vốn tạm ứng lần 1 của tỉnh là 2,425 tỷ đồng (2,5 triệu đồng/hộ). Ngoài ra,

năm 2010, các tuyến đường giao thông đến trung tâm thôn, xã trong huyện

là 724,01 km đều được duy tu, bảo dưỡng đảm bảo giao thông thông suốt,

an toàn cho người qua lại. Huyện cũng thực hiện thường xuyên công tác

kiểm tra, đôn đốc các công trình đang thi công trên toàn huyện, bảo đảm thi

công đúng tiến độ và chất lượng công trình. Những công trình chủ yếu vẫn

là hệ thống trường học, trụ sở làm việc của các xã; tiến hành quy hoạch khu

vực trung tâm huyện Vị Xuyên thành đô thị loại IV, trung tâm các xã, bến

xe Vị Xuyên [173; tr. 6-7]... Việc đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kinh

tế - xã hội đã có tác dụng thay đổi bộ mặt nông thôn ở Vị Xuyên, góp phần

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nhất là các xã vùng

sâu vùng xa.

3.2.2.3. Thương mại, dịch vụ

Thương mại và dịch vụ là khu vực kinh tế mà huyện Vị Xuyên nỗ lực

đẩy mạnh thường xuyên, nhằm nâng cao hơn nữa đóng góp của khu vực này

trong tổng GDP của huyện. Từ năm 2001 đến năm 2010, hoạt động thương

mại và dịch vụ của Vị Xuyên phát triển nhanh chóng hơn so với giai đoạn

trước nhờ sự tăng trưởng khá của nền kinh tế cũng như sự đầu tư của các

chương trình, dự án trên địa bàn. Tuy vậy, đến năm 2010, tỷ trọng của

ngành thương mại - dịch vụ vẫn không tăng, thậm chí có phần suy giảm so

94

với tỷ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng.

Sự năng động của nền kinh tế Vị Xuyên có sự tham gia ngày càng

nhiều hơn của các doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể, điều mà

giai đoạn trước còn khá hạn chế. Năm 2001, trên địa bàn của Vị Xuyên có 8

đơn vị doanh nghiệp tư nhân, 6 đơn vị quốc doanh, 580 hộ kinh doanh cá

thể. Bên cạnh đó, hệ thống chợ nông thôn được mở rộng hơn với việc hoàn

thành xây dựng và đưa vào sử dụng 3 chợ mới là Linh Hồ, Thuận Hòa,

Minh Tân, đã hỗ trợ đắc lực cho mạng lưới trao đổi buôn bán. Hoạt động

kinh doanh, buôn bán trên địa bàn huyện Vị Xuyên ngày càng có sự hỗ trợ

hiệu quả từ ngân hàng. Nguồn vốn vay từ ngân hàng ngoài việc đáp ứng yêu

cầu sản xuất kinh doanh, còn góp phần tích cực trong xóa đói giảm nghèo

của huyện. Năm 2001, doanh số cho vay toàn huyện đạt 14 tỷ đồng (tăng

4,7% so với năm 2000). Tổng giá trị sản phẩm ngành dịch vụ năm 2001 đạt

72,486 tỷ đồng, tăng 22,5% so với năm 2000 [162; tr. 6].

Nhằm nâng cao tính năng động và hiệu quả trong các loại hình kinh

doanh dịch vụ phục vụ nhu cầu sản xuất, hệ thống hợp tác xã của huyện Vị

Xuyên được cơ cấu lại hợp lý hơn cả về số lượng cũng như phương pháp

kinh doanh. Năm 2002, toàn huyện có 48 hợp tác xã, trong đó có 2 hợp tác

xã tín dụng, bước đầu đi vào hoạt động theo cách thức mới tương đối hiệu

quả [163; tr. 4]. Năm 2006, huyện Vị Xuyên đã cấp phép mới 6 hợp tác xã

hoạt động, nâng tổng số hợp tác xã hoạt động theo luật lên 54 đơn vị với

tổng số vốn đăng ký là trên 12 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 3.210 lao

động. Hoạt động làm ăn của các hợp tác xã cũng dần được điều chỉnh, một

số hợp tác xã làm ăn không hiệu quả đã chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh

doanh cho phù hợp [167; tr. 6]. Đến năm 2010, số lượng hợp tác xã dịch vụ

hoạt động trên địa bàn huyện Vị Xuyên là 91, trong đó chỉ có 13 hợp tác xã

dịch vụ nông nghiệp, còn lại là các lĩnh vực khác. Mặc dù vậy, trong tổng số

91 đơn vị hợp tác xã của huyện Vị Xuyên, chỉ có 20 hợp tác xã hoạt động có

hiệu quả, tương đương 33,8%, còn lại hoạt động yếu [173; tr. 6]. Điều đó

95

nói lên rằng, hiệu quả kinh tế các hợp tác xã mang lại vẫn còn rất thấp, chưa

thực sự đóng góp nhiều cho kinh tế, xã hội của huyện cũng như đáp ứng sự

kỳ vọng của toàn xã hội về vai trò của mô hình kinh tế này.

Trong khi các hợp tác xã gặp khó khăn thì khu vực kinh tế tư nhân lại

ngày càng phát triển năng động. Năm 2002, số doanh nghiệp tư nhân trong

huyện tăng lên con số 11 đơn vị, có 1.316 hộ kinh doanh cá thể. Trong năm

2002 cũng đã thực hiện đăng ký kinh doanh cho 530 hộ (tăng 253 hộ so với

2001) với số vốn đăng ký kinh doanh 12,75 tỷ đồng. Báo cáo kinh tế - xã

hội của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên đánh giá: "Nhìn chung hoạt động

kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển mạnh, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng

kinh tế - xã hội và đóng góp cho ngân sách của huyện" [163; tr. 4]. Với hiệu

quả kinh tế mang lại, hoạt động kinh doanh của tư nhân được khuyến khích

phát triển. Năm 2005, số hộ cá thể đăng ký kinh doanh tăng lên 906 hộ, với

số vốn đăng ký là 8,8 tỷ đồng. Năm 2007, giá trị thương mại đạt trên 139 tỷ

đồng, tăng 19,7% so với năm 2006; năm 2008 giá trị thương mại tăng lên

khá ấn tượng với con số 350 tỷ đồng, hàng hóa xuất khẩu đạt trên 7,25 triệu

USD [168; tr. 3, 169; tr. 4]. Để đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa

bàn, huyện Vị Xuyên đã kêu gọi đầu tư, khuyến khích các tập thể, cá nhân

phát triển ngành thương mại - dịch vụ - du lịch. Chính quyền địa phương đã

chủ động xây dựng các làng văn hóa nhằm thu hút khách du lịch như: làng

văn hóa thôn Lùng Tao (xã Cao Bồ), Thanh Sơn (xã Thanh Thủy), tiến hành

tôn tạo một số di tích lịch sử như chùa Sùng Khánh (xã Đạo Đức), chùa

Bình Lâm (xã Phú Linh), chùa Nậm Dầu (xã Ngọc Linh)... Hằng năm, huyện

Vị Xuyên tổ chức các hội chợ thương mại để quảng bá sản phẩm, hàng hóa.

Đơn cử như năm 2007, Hội chợ thương mại huyện Vị Xuyên lần II được tổ

chức, đã có 163 gian hàng tham gia, trong đó có 50 gian hàng của nước bạn

Trung Quốc. Hoạt động mua bán, trao đổi trong 1 tuần lễ hội chợ ước đạt 6

tỷ đồng. Hoạt động thương mại được sự hỗ trợ đắc lực từ hệ thống chợ các

xã, năm 2007 toàn huyện có 18/24 xã có chợ kiên cố để nhân dân buôn bán,

96

trao đổi hàng hóa [168; tr. 4].

Bên cạnh chợ trung tâm ở thị trấn Vị Xuyên, các xã, thị trấn đều được

xây dựng chợ trung tâm xã; các chợ nông thôn, chợ biên giới được mở rộng

và hoạt động sôi động, hàng hóa phong phú, giá cả ổn định. Việc buôn bán

trao đổi hàng hóa với thị xã Hà Giang và các huyện khác của tỉnh Hà Giang,

các tỉnh, thành phố trong cả nước cũng diễn ra sôi động. Nhìn chung thị

trường hàng hóa đã đáp ứng được nhu cầu của người dân không chỉ ở các xã

vùng thấp mà ở các xã vùng cao, vùng biên giới.

Là địa bàn có cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy, hoạt động xuất nhập khẩu

trong nhiều năm nay diễn ra khá sôi động, tuy nhiên quy mô còn nhỏ bé.

Giai đoạn 2000 - 2005 giá trị hàng hóa xuất - nhập khẩu đạt 7,8 triệu USD,

giai đoạn 2006 - 2010 đạt trên 14 triệu USD. Vị Xuyên đã xuất khẩu sang

Trung Quốc các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chè chế biến, các loại quặng,

hoa quả, gỗ,... và đón nhận nhiều dòng hàng hóa từ Trung Quốc như hàng

may mặc, điện tử, hoa quả ôn đới, hàng gia dụng, nguyên phụ liệu thuốc lá.

Đặc biệt, khu Kinh tế cửa khẩu sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động ngoại

thương của huyện nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung phát triển.

3.3. Chuyển biến về xã hội

3.3.1. Giáo dục và đào tạo

Thực hiện phổ cập giáo dục là chủ trương của Đảng, Nhà nước nhằm

nâng cao trình độ dân trí, tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho địa phương,

thực hiện xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần

phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Trong giai đoạn 2001 - 2010, huyện

Vị Xuyên quán triệt Chỉ thị 61/CT-TW ngày 28/12/2000 của Bộ Chính trị về việc thực hiện phổ cập trung học cơ sở; Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa 10 kỳ họp thứ 8

về đổi mới giáo dục phổ thông; Nghị định 88/2001/NĐ-CP của Chính phủ

về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; Quyết định số 4096/QĐ-UB

ngày 25/12/2001 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang về việc tổ

97

chức triển khai Đề án phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ năm 2001 đến

năm 2010 tỉnh Hà Giang. Trên cơ sở đó, Huyện uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ

ban nhân dân huyện Vị Xuyên đã ban hành chỉ thị, xây dựng kế hoạch phấn

đấu để thực hiện các mục tiêu giáo dục đào tạo và đã đạt được những kết

quả đáng ghi nhận.

Trước hết là sự đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công

tác dạy và học của Vị Xuyên ngày càng có hiệu quả, cơ sở vật chất từng

bước được hoàn thiện. Năm 2003, huyện Vị Xuyên có 65 đơn vị trường học,

trong đó 17 trường mầm non, 27 trường tiểu học, 18 trường trung học cơ sở,

2 trường trung học phổ thông và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên [164;

tr. 10]. Đến năm 2005, hệ thống trường lớp của Vị Xuyên tăng lên 78 đơn vị

trường học, trong đó có 25 trường mầm non (3/25 trường đạt chuẩn Quốc

gia, đạt tỉ lệ 12%); 29 trường tiểu học (5/29 trường đạt chuẩn Quốc gia, đạt

tỉ lệ 17,2%); 17 trường trung học cơ sở (1/17 trường đạt chuẩn Quốc gia); 5

trường tiểu học và trung học cơ sở; 1 trường Phổ thông dân tộc nội trú và 1

Trung tâm giáo dục thường xuyên của huyện [174; tr. 4]. Tổng số phòng học

năm 2005 có 1.181, trong đó 611 phòng học kiên cố, 269 phòng học cấp IV

và 274 phòng học tạm. hệ thống thư viện có 45 phòng; phòng thí nghiệm 9,

trong đó phòng đạt chuẩn: 8. Đến năm học 2009 - 2010, tất cả các trường ở

Vị Xuyên đều có đủ phòng học, bàn ghế, bảng đen và các điều kiện làm việc

của giáo viên; không có phòng học 3 ca. Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện

đã xây dựng và phát triển mạng lưới trường lớp theo hướng đồng bộ từ mầm

non, tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ thông, dưới các hình thức

chính quy và không chính quy với mục tiêu tạo nền tảng vững chắc cho phổ

cập giáo dục trung học cơ sở, đồng thời chú trọng xây dựng các trường

chuẩn Quốc gia; hệ thống các trường nội trú, mô hình nội trú dân nuôi [174;

tr. 5]. Từ năm 2007, huyện Vị Xuyên hoàn thành việc xây dựng nhà ở cho

học sinh nội trú dân nuôi, kết quả đã đảm bảo chỗ ở cho 2.400 học sinh,

đóng mới 1.200 giường tầng, huyện hỗ trợ 240 triệu đồng, nhân dân đóng

98

góp ngày công [168; tr. 6].

Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng lên. Năm học 2001 - 2002, tỉ

lệ huy động trẻ đến trường (6-14) đạt 98.84%, tăng 1.8% so với năm học

2000-2001. Năm học 2000 - 2001, tỉ lệ học sinh tiểu học chuyển lớp đạt

88.16% (tăng 2% so với năm học trước), tỉ lệ tốt nghiệp đạt 99.6% (tăng

1.6% so với năm học trước); trung học cơ sở chuyển lớp 99.1%, tốt nghiệp

91.3%; khối trung học phổ thông chuyển lớp 83.3%, tốt nghiệp 86.3%.

Cũng trong năm học 2000 - 2001, ngành giáo dục huyện đã xóa mù

chữ cho 552 học viên, sau xóa mù chữ cho 985 học viên, phổ cập giáo dục

tiểu học 641 học viên, hoàn thành phổ cập trung học cơ sở ở 3 xã Đạo Đức,

Việt Lâm, Phương Thiện nâng tổng số xã được phổ cập giáo dục trung học

cơ sở của huyện Vị Xuyên lên 5 xã, thị trấn [162; tr. 7]. Năm 2003, huyện

tiến hành phổ cập giáo dục tiểu học cho 570 học viên, trung học cơ sở 2.329

học viên, hoàn thành chương trình phổ cập trung học cơ sở ở 13 xã, nâng

tổng số xã được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học lên 22/23 xã, thị trấn

của huyện. Đến năm 2004, toàn bộ 23/23 xã, thị trấn của Vị Xuyên được

công nhận là hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở [164; tr. 10, 165;

tr. 7]. Đây là một thành tích nổi bật trong công tác giáo dục của huyện Vị

Xuyên trong nhiều năm qua.

Những năm tiếp theo, công tác giáo dục của huyện Vị Xuyên tiếp tục

phát huy những thành tựu đã đạt được đồng thời đưa giáo dục gặt hái thêm

nhiều thành công mới, với việc thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng dạy

và học qua các phong trào lớn trong toàn ngành đó là cuộc vận động “2

không” với 4 nội dung “không tiêu cực trong thi cử, không bệnh thành tích

trong giáo dục, không vi phạm đạo đức nhà giáo, không có học sinh ngồi

nhầm lớp”. Năm 2006, toàn huyện đã có 79 đơn vị trường học (tăng 1 đơn

vị so với giai đoạn trước) [167; tr. 7]. Hằng năm tỉ lệ chuyển lớp của học

sinh các cấp đều đạt trên 90%. Đối với các khối học sinh khác các chỉ tiêu

phấn đấu đều vượt, chẳng hạn trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 95% vượt 5.2% kế

hoạch giao, từ 6-14 tuổi đến trường đạt 99% [168; tr. 6]. Nhờ sự nỗ lực của

99

thầy và trò trong việc nâng cao chất lượng dạy và học, tỷ lệ tốt nghiệp của

khối học sinh trung học phổ thông được dần nâng cao, năm 2009 là 77.33%

(so với năm học 2006 - 2007, năm đầu tiên thực hiện cuộc vận động 2

không, tỉ lệ tốt nghiệp là 50%) [170; tr. 6]. Đến năm 2010, các chỉ tiêu phấn

đấu hằng năm của ngành giáo dục đều đạt ở mức cao trên 90%. Cụ thể như

sau: tỉ lệ trẻ từ 3-5 tuổi đến lớp 94.6% (tăng 2.1%), trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo

đạt 98.7%, trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99.03%, trẻ từ 6-14 tuổi đến trường đạt

99%; kết quả tốt nghiệp bậc trung học phổ thông đạt 97.4%, trung học phổ

thông hệ bổ túc đạt 97.7% [173; tr. 9].

Chất lượng đội ngũ giáo viên ngày càng được nâng cao, đạt và vượt

chuẩn. Năm 2009, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn đối với bậc mầm

non là 99,73%, bậc tiểu học là 100%, trung học cơ sở là 95,24%. Số giáo

viên dạy giỏi cấp huyện là 208 người, cấp tỉnh 13 người [170; tr. 6]. Năm

2010, giáo viên giỏi cấp huyện có 233 và cấp tỉnh là 10 giáo viên. Tỷ lệ học

sinh giỏi bậc tiểu học đạt 10,08%, trung học cơ sở 1,05%; học sinh khá bậc

tiểu học 23,87%, trung học cơ sở 16.73%; học sinh giỏi cấp tỉnh có 41 em, 2

em dự thi học sinh giỏi quốc gia. Huyện Vị Xuyên tiếp tục duy trì và giữ

vững phổ cập giáo dục trung học cơ sở tại 24/24 xã, thị trấn, phổ cập giáo

dục đúng độ tuổi tại 23/24 xã, thị trấn [173; tr. 9].

Về đào tạo, từ năm 2005, công tác này được chú trọng phát triển nhằm

đáp ứng nhu cầu việc làm cho người lao động tại địa phương, nhất là công

tác đào tạo nghề ngắn hạn, trung hạn. Huyện đã phối hợp với trung tâm xúc

tiến việc làm của tỉnh Hà Giang, Hội nông dân và Đoàn thanh niên của

huyện tổ chức 13 lớp đào tạo dạy nghề, trong đó sửa chữa xe máy 8 lớp, đồ

mộc 2 lớp, may đo 2 lớp, kỹ thuật trồng lúa 1 lớp với 539 học viên tham gia.

Bên cạnh đó, huyện Vị Xuyên kết hợp với trường công nhân kỹ thuật lâm

nghiệp Trung ương 1 đào tạo khuyến nông lâm (hệ chính quy khóa 2005-

2007) cho 148 cán bộ xã thị trấn và cán bộ khuyến nông thôn bản [166; tr.

8-9]. Công tác đào tạo nghề ngắn hạn được chú trọng đối với các đối tượng

lao động nông thôn. Ngoài các lớp đào tạo về kỹ thuật nông nghiệp, lâm

100

nghiệp huyện đã phối hợp với một số trường như trường Trung cấp nghề Cơ

điện và Kỹ thuật nông lâm Đông Bắc, trường Đại học nông lâm Thái

Nguyên đào tạo chuẩn hóa trình độ cán bộ các cơ quan, ban ngành và các

xã, thị trấn của huyện.

3.3.2. Y tế

Lĩnh vực y tế ở huyện Vị Xuyên đã có những bước tiến đáng kể. Chất

lượng chăm sóc sức khỏe người dân được coi trọng hàng đầu và đã được

nâng lên rõ rệt. Lực lượng bác sĩ tham gia khám bệnh ở cơ sở được tăng lên,

nhiều phương tiện máy móc mới được trang bị tại các cơ sở y tế của huyện.

Năm 2001, 53 cán bộ y sĩ được bổ sung về cơ sở. năm 2002 toàn huyện có

223/226 thôn bản có cán bộ y tế + túi thuốc, có 6 bác sĩ ở 6 xã (26%) [162; tr.

7, 163; tr. 5]. Năm 2004, trên địa bàn huyện Vị Xuyên mới chỉ có 3 xã, thị

trấn được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế là thị trấn Việt Lâm, xã Việt

Lâm, xã Trung Thành; đến năm 2008, với việc thêm 2 xã mới được công

nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế là Phú Linh, Thanh Đức, nâng tổng số xã

đạt chuẩn lên 22 xã, thị trấn [169; tr. 6] và năm 2010 toàn huyện có 23/24

xã, thị trấn được công nhận là xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Tỷ lệ bác sĩ

công tác tại các xã trong toàn huyện đạt 30% [165; tr. 7].

Bằng việc đẩy mạnh các chương trình mục tiêu về y tế quốc gia, nhiều

căn bệnh đã được đẩy lùi, tình hình sốt rét về căn bản đã được kiểm soát,

không có các ổ dịch mới phát sinh. Năm 2001, đã kịp thời phát hiện và dập

tắt kịp thời dịch sởi xảy ra ở một số xã như Lao Chải, Bạch Ngọc. Số trẻ từ 0

đến 5 tuổi được tiêm và uống đủ 6 loại vắcxin là 1.645 cháu (tăng 1.2% so

với kế hoạch đặt ra), tỉ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng có giảm nhẹ và ở mức

32.64% (giảm 1.61%) [162; tr. 7]. Tỉ lệ tiêm chủng mở rộng cho trẻ em đạt

1.508/1.583 cháu (95.3%). Năm 2008, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng của

huyện Vị Xuyên đã giảm xuống còn 20,15%, giảm so với cùng kỳ năm 2007

là 1,47%; đến năm 2010, tỉ lệ này đã giảm xuống còn 18.73%,

Các hoạt động y tế giúp đỡ người nghèo ngày càng được mở rộng và

101

đã mang lại hiệu quả thiết thực. Năm 2004, ngành y tế huyện đã khám chữa

bệnh cho trên 5.000 lượt người nghèo với kinh phí sử dụng trên 100 triệu

đồng; năm 2005 con số này tăng lên đến 40.230 lượt người với kinh phí sử

dụng lên đến 1.3 tỷ đồng [165; tr. 7, 166; tr. 9]. Công tác chăm sóc sức khỏe

cộng đồng được triển khai tại 9 xã: Trung Thành, Thuận Hòa, Phương Độ,

Ngọc Linh, Cao Bồ, Bạch Ngọc, Việt Lâm, Đạo Đức, Linh Hồ cho 6.519

lượt người [166; tr. 9].

Với việc tuyên truyền sâu rộng về kế hoạch hóa gia đình, hằng năm tỉ

lệ gia tăng dân số tự nhiên của huyện Vị Xuyên đều giảm dần, năm 2005 tỉ

lệ tăng dân số là 1.34% giảm 0.04% so với năm 2004 [166; tr. 9]. Năm 2006,

tỉ lệ tăng dân số tự nhiên của huyện giảm xuống còn 1,28% và đến năm 2010

giảm còn 1.2%.

Bên cạnh đó, ngành y tế huyện Vị Xuyên cũng làm tốt công tác nâng

cao năng lực giám sát dịch tễ, chủ động phòng chống các loại dịch bệnh.

Công tác kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm được tăng cường, không để

phát sinh các loại dịch bệnh và không để xảy ra ngộ độc thực phẩm. Song

song với đó là thực hiện việc rà soát, kiện toàn, củng cố đội ngũ cán bộ y tế,

nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân, quản lý tốt hoạt động y,

dược tư nhân đảm bảo kinh doanh theo đúng pháp luật.

Giai đoạn này, các dự án chăm sóc sức khỏe cộng đồng được thực hiện

tốt như dự án phòng chống lao, sốt rét, chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng

chống HIV/AIDS... Công tác phối kết hợp quân dân y được đặc biệt chú

trọng, nhất là tại các xã biên giới [173; tr. 8].

3.3.3. Xóa đói giảm nghèo và lao động xã hội

Do điều kiện là một huyện miền núi có vị trí chiến lược không chỉ đối

với tỉnh Hà Giang, mà còn đối với khu vực Đông Bắc, huyện Vị Xuyên

được sự quan tâm đặc biệt của các cấp chính quyền từ tỉnh đến Trung ương.

Trong nhiều năm qua, huyện Vị Xuyên được hưởng lợi hầu hết các chương

102

trình, dự án phát triển khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã và

đang triển khai ở khu vực miền núi phía Bắc. Kết quả thực hiện các chính sách

của Trung ương đã tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ, làm thay đổi đời sống của

nhân dân khu vực miền núi, đặc biệt là sự chuyển biến tích cực của công tác

xóa đói giảm nghèo, trong đó có huyện Vị Xuyên.

Năm 2000, tỷ lệ hộ nghèo ở huyện Vị Xuyên là 14,4%, tuy nhiên tỷ lệ

này trên địa bàn huyện rất không đồng đều. Các xã ở khu vực trung tâm, gần

đường quốc lộ, nhưng nơi có địa hình thuận lợi tỷ lệ hộ nghèo khá thấp.

Trong khi đó, hộ nghèo tập trung ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân

tộc thiểu số là vùng các xã đặc biệt khó khăn, các xã thuộc chương trình

135. Cho đến năm 2008, Ngọc Minh là xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất, chiếm

56,05%; Minh Tân: 38,69%; Lao Chải: 37,67%; Thuận Hòa: 36,58%; Xín

Chải: 33,13%. Ở hai thị trấn và các xã vùng thấp tỷ lệ hộ nghèo rất thấp: thị

trấn Vị Xuyên là 2,97%, xã Việt Lâm: 5,79%, thị trấn Việt Lâm: 7,25%, xã

Phú Linh: 11,64%. Ở những xã khó khăn nói trên, điều kiện giao thông trở

ngại, cơ sở hạ tầng hầu như rất kém, khả năng tiếp cận các dịch vụ công hết

sức khó khăn. Mặt khác, người dân ở đây phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu

số, mặt bằng dân trí vẫn là một rào cản đáng kể trong quá trình thực hiện xóa

đói giảm nghèo.

Với việc triển khai các chương trình, dự án lớn của Chính phủ nhằm

nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng biên, đẩy mạnh xóa đói

giảm nghèo, những khó khăn của huyện Vị Xuyên đã được giải quyết tương

đối căn bản. Kết quả thực hiện các chương trình dự án đều hoàn thành chỉ

tiêu đề ra, nhiều công trình giao thông, trường học, thủy lợi, nước sạch đã

đưa vào sử dụng phục vụ cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó, sản xuất

kinh tế được thuận lợi, dân trí tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần của

người dân được cải thiện đáng kể. Ngoài yếu tố nguồn vốn hỗ trợ từ Chính

phủ thông qua các Chương trình, dự án phát triển, thì vai trò của địa phương

mà quan trọng nhất chính là vai trò của hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền

103

cấp huyện, xã đóng vai trò then chốt cho việc đảm bảo thành công trong

việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xóa đói

giảm nghèo. Có thể nói, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ địa phương là một nhân

tố hết sức quan trọng, để việc triển khai thực hiện các chính sách về xóa đói

giảm nghèo trên địa bàn huyện Vị Xuyên có được những thành công.

Những chuyển biến tích cực của kinh tế huyện Vị Xuyên đã tác động

tích cực đến mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế khá cao

cùng với chuyển biến tích cực trong thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo

hướng nâng cao tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ, đã tạo ra nhiều việc

làm, tăng thu nhập cho người dân. Đời sống nhân dân qua từng năm được

nâng lên rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng, năm 2010 đạt 9,65 triệu đồng [173; tr. 1] tăng 5,15 triệu đồng so với năm 20052 và 7,8 triệu đồng so với năm 20003. Năm 2003, huyện Vị Xuyên đã xóa được 572

hộ nghèo (tương đương 3,4% số hộ) đưa số hộ nghèo toàn huyện xuống còn

1.142 hộ [164; tr. 11].

Thực hiện Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang,

huyện Vị Xuyên đã triển khai sâu rộng các nội dung chương trình của nghị

quyết tới các cơ sở và tiến hành xây dựng phương án xóa đói giảm nghèo

tùy theo điều kiện thực tế từng xã, phân công các ngành, các cấp và cá nhân

đỡ đầu hộ nghèo. Cũng với nỗ lực của địa phương, ngành lao động của tỉnh

cũng hỗ trợ bà con nhân dân trong nguồn vốn vay. Năm 2003, Sở Lao động

- Thương binh và Xã hội Hà Giang đã triển khai chương trình cho vay vốn

nuôi dê tại xã Phong Quang (9150 con), Thuận Hòa (100 con); thực hiện

chương trình hỗ trợ 300 con dê cho hộ nghèo ở 5 xã biên giới. Chương trình

vay vốn nuôi trâu bò hàng hóa được giải ngân với 1.500 con [164; tr. 11].

Trong 5 năm (từ 2001 đến 2005) với chính sách hỗ trợ người nghèo về

tư liệu sản xuất, huyệnVị Xuyên đã huy động 859,2 triệu đồng hỗ trợ cho

2 Năm 2005, thu nhập bình quân đầu người/năm của huyện Vị Xuyên là 4.500.000 đồng [166; tr. 1]. 3 Năm 2000, thu nhập bình quân đầu người/năm của huyện Vị Xuyên là 1.850.000 đồng [161; tr. 1].

104

2.440 hộ nghèo và cận nghèo có thêm tư liệu để tăng gia sản xuất. Đồng

thời quy hoạch và phân bố lại quỹ đất tạo điều kiện cho nông dân phát triển

sản xuất, hỗ trợ di dân biên giới cho 20 hộ (Minh Tân 10 hộ, Thanh Thuỷ 10

hộ). Thực hiện miễn giảm thuế đất nông nghiệp cho người nghèo, năm 2006

miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho 3282 lượt hộ, với diện tích

được miễn giảm là 20,4 ha. Song song với những chính sách hỗ trợ về tư

liệu sản xuất và giảm thuế đất nông nghiệp các chính sách giáo dục, dạy

nghề nâng cao dân trí; các chính sách về y tế; chính sách hỗ trợ về văn hoá

thông tin và an ninh xã hội cũng được triển khai thực hiện tích cực. Đối với

các đồng bào đặc biệt khó khăn, bên cạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng,

huyện còn hỗ trợ cho bà con bằng cách lồng ghép các chương trình khuyến

nông, khuyến lâm, hỗ trợ giống, phân bón, trâu bò, vay vốn ngân hàng.

Từ năm 2001 đến năm 2005, huyện Vị Xuyên đã thực hiện một số dự

án nhằm xóa đói giảm nghèo và đã đạt được kết quả đáng kể, như:

- Dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng: Bằng cách lồng ghép các nguồn

vốn kết hợp với nội lực của huyện theo phương châm “Nhà nước và nhân

dân cùng làm”, tất cả các xã, thị trấn trong huyện được đầu tư xây dựng cơ

sở hạ tầng với tổng số vốn 55212 triệu đồng. Trong đó: Tổng số công trình

giao thông là 29 công trình, số phòng học cao tầng là 42 trường; số xã, thị

trấn có trạm y tế cao tầng là 20 xã; đầu tư xây dựng được 87 công trình

nước sinh hoạt, 90 công trình thuỷ lợi, kiên cố hoá 34.744 km kênh mương.

- Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất và phát triển ngành nghề; cách làm

ăn, khuyến nông, khuyến lâm: Trong 5 năm, huyện đã trích ngân sách hỗ trợ

cho 63282 lượt hộ với số kinh phí là 7 tỉ đồng để thực hiện 7 chương trình

nông nghiệp trọng tâm như hỗ trợ lãi suất vay mua trâu, bò, dê, máy nông

nghiệp, thâm canh cây trồng; hỗ trợ giống cây trồng cho phân bón, phát

triển ngành nghề, ..., theo hướng sản xuất hàng hoá. Tổ chức được 13 lớp

tập huấn kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh cho 481 lượt người.

- Dự án tín dụng cho người nghèo: 28.270 hộ nghèo được trợ giúp cho

105

vay vốn với tổng số tiền 60,720 tỷ đồng, đáp ứng ngày càng đầy đủ nguồn

phát triển sản xuất xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. Năm 2006 tổng

số vốn tín dụng 144,604 tỷ đồng. Doanh số cho vay hộ nghèo năm 2006 là:

10,84 tỷ đồng, với 11647 hộ (cho vay bình quân 7.000.000 đồng/hộ).

- Dự án định canh, định cư, di dân, kinh tế mới: huyện đã hỗ trợ di dân

cho 255 hộ; định canh, định cư được 1.947 hộ, hạ sơn được 238 hộ, hỗ trợ

khai hoang phục hoá cho 50 hộ nghèo có ruộng nương để sản xuất, phát

triển kinh tế; tiếp tục tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để người dân

yên tâm định cư phát triển sản xuất.

- Dự án hỗ trợ pháp lý và đào tạo cán bộ cho người nghèo: đã hướng

dẫn, hỗ trợ pháp lý cho người dân vùng sâu vùng xa. Thông qua các tác trợ

giúp pháp lý, nhiều việc đã được cộng tác viên tư vấn trợ giúp, giải quyết

thành công; tổ chức mở lớp đào tạo ngắn hạn được 8 lớp với 510 lượt cán

bộ tham gia.

Với sự góp sức chung lòng của toàn xã hội, công tác giải quyết việc

làm cho người lao động tại Vị Xuyên đã có kết quả tốt. Năm 2005 đã giải

quyết việc làm cho 4.362 lao động (đạt 234% so với kế hoạch giao), khuyến

khích người dân đi xuất khẩu lao động với số vốn vay là 2.1 tỷ đồng [166;

tr. 9]. Năm 2006, toàn huyện đã giải quyết việc làm cho 6.893 lao động

trong đó có 129 người xuất khẩu lao động, các lao động có việc làm trong

năm chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực xây dựng, khai thác và ngành nghề

thủ công. Nhờ công ăn việc làm được giải quyết nên số hộ nghèo trong

huyện ngày càng giảm rõ rệt. Đến cuối năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo của toàn

huyện còn 41,33% (theo tiêu chí mới) tương đương 7.557 hộ, giảm 865 hộ,

hộ giàu tăng 3%, khá tăng 10% [167; tr. 7]. Tốc độ tăng trưởng ngày càng

cao, số việc làm tạo ra ngày càng tăng, đời sống người dân ngày càng tốt lên

thì tỉ lệ hộ nghèo ngày càng giảm. Năm 2008, số hộ nghèo ở Vị Xuyên tiếp

tục giảm mạnh với 1.334 hộ, tỉ lệ hộ khá, giàu tăng nhanh đạt 27,3%. Toàn

huyện đã tạo ra 1.560 việc làm mới (tăng 16% so với 2007). Việc thực hiện

106

dự án cho vay vốn quốc gia hỗ trợ việc làm đạt 1.8 tỷ đồng (122% kế hoạch)

[169; tr. 6]. Đến năm 2010, huyện Vị Xuyên tiến hành ra soát lại hộ nghèo,

cận nghèo để phân loại theo tiêu chí mới, theo đó theo tiêu chí cũ Vị Xuyên

còn 15.59%, theo tiêu chí mới là 34.6% [173; tr. 10].

Nguồn: Xử lý từ báo cáo tình hình kinh tế - xã hội hằng năm của UBND huyện Vị Xuyên

Hình 3.3. Tỷ lệ hộ nghèo (2000 - 2010) Hình 2. Tỉ lệ hộ nghèo 2000 - 2010

Tăng trưởng kinh tế đã làm cho tỷ lệ nghèo đói ở Vị Xuyên giảm đáng

107

kể. Đặc biệt từ năm 2005 đến 2010, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, năm 2005 có tỷ lệ gần 50% (theo tiêu chí mới)4 nhưng đến 2010 tỷ lệ này chỉ còn 15% 4 Chuẩn hộ nghèo qua từng giai đoạn có sự điều chỉnh, thay đổi. Giai đoạn 2001 - 2005 áp dụng theo Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000 của Bộ LĐ TB&XH, theo đó, mức thu nhập chuẩn hộ nghèo vùng nông thôn miền núi, hải đảo giai đoạn 2001 - 2005 là: 80.000 đồng/tháng, 960.000

(xem biểu đồ). Đây là một kết quả rất đáng ghi nhận và cần tiếp tục duy trì.

Kết quả đó phản ánh một phần bộ mặt kinh tế của Vị Xuyên trong những

năm gần đây.

Với sự đi lên về kinh tế, huyện Vị Xuyên có điều kiện hơn trong việc

chăm lo các đối tượng gia đình chính sách, thực hiện tốt công tác bảo vệ và

chăm sóc trẻ em, đền ơn đáp nghĩa, cứu nạn, phát huy tốt tinh thần tương

thân tương ái. Năm 2001, hỗ trợ chất lợp cho 995 hộ, gia đình khó khăn, trợ

giá 200 ti vi, trợ cấp 7,5 tấn gạo cho 134 hộ đói giáp hạt; tổ chức tập huấn

cho cán bộ xã về công tác xóa đói giảm nghèo [162; tr. 8]. Năm 2005, tổng

số tiền thăm hỏi, tặng quà các gia đình chính sách, các hộ đặc biệt khó khăn

trong các dịp lễ tết là 66,7 triệu đồng [166; tr. 9]. Năm 2008 đã hỗ trợ xóa

558 nhà tạm theo các chương trình, dự án lớn (riêng chương trình 134 là

515 nhà) [169; tr. 6]. Năm 2010, huyện Vị Xuyên triển khai thực hiện

chương trình hỗ trợ người nghèo làm nhà theo quyết định 167 được 500

ngôi nhà, hỗ trợ mua giường nằm cho 575 hộ nghèo, mua màn cho 1.420

hộ nghèo với số tiền 187.32 triệu đồng. Việc triển khai thu Quỹ xóa đói

giảm nghèo mang lại hiệu quả, năm 2010 đã thu được 134.895 triệu đồng

[173; tr. 10].

Với sự nỗ lực của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và sự hỗ trợ,

phát huy hiệu quả của các chương trình, dự án kinh tế - xã hội của Chính

phủ đã làm thay đổi bộ mặt của huyện Vị Xuyên, nhất là trong công tác

xóa đói giảm nghèo.

3.3.4. Thực hiện chính sách dân tộc

Việc thực hiện chính sách dân tộc ở huyện miền núi Vị Xuyên có nhiều

thành tựu, góp phần quan trọng trong việc ổn định và nâng cao đời sống

đồng/năm. Giai đoạn 2006 - 2010 áp dụng tiêu chẩn mới theo Quyết định 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó, khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.

108

đồng bào thiểu số ở miền núi, nhất là khu vực biên giới.

Vấn đề dân tộc luôn được Đảng ta xác định có vị trí chiến lược quan

trọng trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Quan điểm nhất quán, xuyên

suốt của Đảng ta trong lãnh đạo thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân

tộc là: "Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng

và giúp nhau cùng phát triển" [61; tr. 70]. Vì vậy, Đảng và Nhà nước luôn

quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân tộc, đề ra nhiều chủ trương, chính

sách phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo vùng dân tộc và miền núi.

Từ khi có Nghị quyết 22-NQ/TW, ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị

"Về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi"

và tiếp đó là Quyết định số 72-HĐBT, ngày 13-3-1990 "Về một số chủ

trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi" của Hội đồng

Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thể chế hóa nghị quyết của Đảng, đã có rất

nhiều chính sách và chương trình hỗ trợ cho đồng bào dân tộc thiểu số ra

đời. Phần lớn các chương trình Nhà nước tập trung vào hỗ trợ sinh kế và tạo

cơ hội xóa đói giảm nghèo như các chương trình 143, 135, 134.

Chương trình xóa đói giảm nghèo được thực hiện từ năm 1998 qua

Chương trình 133 với mục tiêu thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm dân tộc

và các khu vực địa lý thông qua việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cho các xã gặp khó khăn. Đến năm 2001, Chương trình 133 và 1205 được sáp

nhập thành Chương trình 143 với các mục tiêu cơ bản:

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10% và loại bỏ toàn bộ hộ đói.

- Đảm bảo các xã nghèo có được hệ thống kết cấu hạ tầng đầy đủ như

thủy lợi quy mô nhỏ, trường học, trạm y tế, đường, điện, nước và chợ.

- Hằng năm tạo việc làm cho từ 1,4 đến 1,5 triệu lao động.

Mặc dù đây là chương trình quốc gia nhưng các bộ phận của chương

trình được thiết kế chủ yếu nhằm phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số

5 Chương trình 120 được thực hiện theo Quyết định 120/HĐBT ngày 11 tháng 4 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng với mục tiêu tạo việc làm và dạy nghề. Chương trình cung cấp tín dụng qua Quỹ Hỗ trợ việc làm Quốc gia.

109

như: các chính sách về giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số (nhập học,

học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số...), hỗ trợ các nhóm dân tộc đặc biệt

khó khăn và hỗ trợ tái định cư. Ngoài ra Chương trình 143, còn dành các

khoản tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trong việc hỗ trợ sản

xuất và mở rộng dịch vụ [123; tr. 32-33].

Chương trình 135 về phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó

khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa được thành lập theo Quyết định

135/1998/QĐTTg ngày 31 tháng 7 năm 1998 của Thủ trường Chính phủ.

Giai đoạn đầu, Chương trình 135 chủ yếu nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các

xã đặc biệt khó khăn xuống dưới 25% vào năm 2005, tăng tỷ lệ trẻ em nhập

học lên đến 70%, mở rộng đào tạo cho người nghèo trong sản xuất, kiểm

soát dịch bệnh và cung cấp nước sạch, xây dựng đường và phát triển chợ

nông thôn. Người hưởng lợi từ Chương trình 135 chủ yếu là nhóm đồng bào

dân tộc thiểu số. Phần lớn các xã được hưởng lợi từ Chương trình 135 thuộc

khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống và chương trình này do Ủy

ban dân tộc chủ trì thực hiện. Ban đầu, Chương trình 135 có 5 thành phần:

xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các cụm trung tâm xã, tái định cư, hỗ

trợ sản xuất và đào tạo. Năm 2000, Chính phủ đã chuyển các hợp phần của

Chương trình 133 có liên quan đến hỗ trợ đồng bảo thiểu số gặp hoàn cảnh

đặc biệt khó khăn và phát triển các cụm trung tâm xã ở khu vực miền núi

vào Chương trình 135. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ gia đình dân tộc thiểu

số được dịch chuyển từ Chương trình 143 sang Chương trình 135 vào năm

2001 [123; tr. 35].

Với sự đầu tư vốn lớn từ các chương trình, dự án phát triển kinh tế đối với

khu vực dân tộc thiểu số của Chính phủ, bộ mặt kinh tế của huyện Vị Xuyên từ

cuối những năm 90 thế kỷ XX đã có những chuyển biến tích cực và thực sự

khởi sắc từ những năm 2000.

Năm 2000, tổng nguồn vốn từ các chương tình, sự án đầu tư trên địa

bàn huyện Vị Xuyên lên đến trên 13,2 tỷ đồng, trong đó riêng đầu tư cho các

110

mục tiêu giáo dục và y tế là 2,234 tỷ đồng [161; tr. 2]. Kết quả thực hiện các

chương trình dự án này đều hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đề ra, nhiều công

trình giao thông, trường học, thủy lợi, nước sạch đã đưa vào sử dụng phục

vụ cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ đó, sản xuất kinh tế được thuận lợi,

dân trí tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện

đáng kể.

Đối với Chương trình 135, năm 2000 số vốn triển khai là 4,784 tỷ đồng

đầu tư cho 52 công trình; Dự án hỗ trợ các dân tộc thiểu số Hà Giang (dự án

HPM) có tổng vốn đầu tư năm 2000 là 2,703 tỷ đồng phân phối cho 25 công

trình thủy lợi; dự án ĐCĐC-661 đã tiến hành thực hiện bảo vệ rừng trên

12,2 nghìn ha (đạt 100% kế hoạch), trồng mới vượt 63,1% so với kế hoạch

[161; tr. 3].

Bên cạnh đó, chương trình nâng cao dân trí phổ cập giáo dục tiểu học,

nâng cao chất lượng dạy và học tiến hành đạt kết quả cao. Số trẻ từ 6 - 14

tuổi đến trường huy động đạt 97%, tăng 5% so với năm 1999, duy trì tốt các

lớp học sau xóa mù chữ. Các chính sách bảo đảm xã hội được triển khai kịp

thời và có hiệu quả. Chính quyền thường xuyên quan tâm đời sống của các

hộ dân chính sách, thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo. Đến năm

2001 đã xóa được 1.533 hộ đói, giảm 1.107 hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo đến

quý I năm 2001 là 14,4% [161; tr. 6].

Đến năm 2004, các công trình dự án thực hiện trên địa bàn huyện Vị

Xuyên được tập trung vào các khu vực trọng điểm, để nâng cao hiệu quả.

Thực hiện Chương trình 135, huyện tiến hành đầu tư vốn ở 33 công trình

(2 công trình mới, 31 công trình chuyển tiếp) với số vốn 6,5 tỷ đồng.

Chương trình xây dựng cụm trung tâm xã đã thực hiện tại 4 trung tâm với 8

công trình với số vốn 1,3 tỷ đồng [165; tr. 5].

Từ khi bước vào giai đoạn II của Chương trình 135 (2006 - 2010),

nguồn vốn đầu tư cho huyện Vị Xuyên ngày càng tăng, góp phần vào sự

phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Trong 2 năm 2006, 2007, số

111

vốn đầu tư là gần 10,3 tỷ đồng, trong đó đào tạo cán bộ 540 triệu và hỗ trợ

học sinh hơn 700 triệu. Năm 2008, nguồn vốn này tăng lên gần 15,5 tỷ

đồng, năm 2009 hơn 22,3 tỷ đồng và năm 2010 trên 25 tỷ đồng [171; tr. 2].

Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đã thực hiện được

nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong việc nâng cao đời sống

cho đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa cũng như tạo điều kiện

thuận lợi cho hoạt động kinh tế. Vị Xuyên cũng đã hoàn thành mục tiêu đưa

điện lưới quốc gia về khu vực trung tâm ở 100% xã ở vùng biên giới. Tuy

nhiên các xã thuộc khu vực III có dân cư sống rải rác chưa tập trung nên gây

rất nhiều khó khăn cho việc nâng cao tỷ lệ cung cấp điện cho các hộ gia

đình sử dụng.

Từ năm 2005 trở đi, huyện Vị Xuyên cùng với các huyện khác trong

tỉnh Hà Giang tiếp tục được đầu tư của Chính phủ theo Chương trình 134.

Chương trình này được được thành lập theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg

ngày 20 tháng 7 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ đất sản xuất,

đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời

sống khó khăn, với phương châm: nhà nước hỗ trợ, nhân dân đóng góp,

cộng đồng giúp đỡ. Chương trình này được sự hỗ trợ nhiều của chính sách

đất đai và lâm nghiệp (các hộ gia đình có thể khai thác gỗ và các sản phẩm

lâm nghiệp để làm nhà). Trong số các nhóm chính sách hỗ trợ, chính sách

phân bổ đất cho gia đình đồng bào dân tộc thiểu số là bộ phận quan trọng

nhất và được kỳ vọng là hỗ trợ phát triển kinh tế cho cộng đồng dân tộc

thiểu số [123; tr. 40-42]. Năm 2007, huyện đã tập trung nguồn vốn, xoá nhà

tạm, nhà dột nát cho 63 hộ nghèo ở hầu hết các xã. Nhiều “ngôi nhà 134” đã

được xây dựng với trị giá vượt mức hỗ trợ của nhà nước từ 7 đến 15 triệu

đồng (nhà nước hỗ trợ 5 triệu đồng). Có thể nói, đây là quyết định quan trọng,

thể hiện sựu quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với đồng

bào dân tộc thiểu số nghèo trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo. Cùng với

Chương trình 135, Chương trình 134 được coi là cốt lõi của công cuộc xoá

112

đói giảm nghèo.

Bên cạnh đó, Chương trình dự án quốc phòng 313 triển khai trên địa

bàn huyện cũng đã góp phần củng cố công tác quốc phòng an ninh biên giới

và phát triển kinh tế - xã hội tại các xã vùng biên của huyện Vị Xuyên.

Đoàn kinh tế quốc phòng 313 được thành lập từ năm 2002, có chức năng,

nhiệm vụ tổ chức thực hiện dự án kinh tế quốc phòng trên địa bàn phía bắc

huyện Vị Xuyên gồm 4 xã biên giới là Thanh Thủy, Thanh Đức, Lao Chải, Xín

Chải, với 18 thôn bản, trong đó có 8 thôn bản giáp với biên giới Việt - Trung

có chiều dài biên giới hơn 28,7 km. Nơi đây, có gần 1.000 hộ dân với 5.300

nhân khẩu của 9 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó có những xã

như Lao Chải, 100% số hộ là đồng bào Mông; Xín Chải, 100% là dân tộc

Dao. Đây là 4 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, có địa hình phức tạp, giao

thông khó khăn, thời tiết khắc nghiệt, trình độ dân trí còn hạn chế, cơ sở vật

chất thiếu thốn, tỷ lệ hộ nghèo đều cao trên 35 %. Từ khi có Đoàn kinh tế

quốc phòng 313, không những tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội trên địa bàn được giữ vững, mà nhiều hộ đã thoát nghèo. Những kết quả

khích lệ mà đoàn kinh tế quốc phòng mang lại đó là sự bố trí ổn định trong

vùng dự án, đời sống các dân tộc thiểu số được cải thiện, sản xuất phát triển,

điều kiện ăn, ở, sinh hoạt tốt hơn trước đây. Đơn cử như việc triển khai thực

hiện được 4 công trình thủy lợi (bản Phùng xã Lao Chải; Tả Ván, Nhì Sang

xã Xín Chải; Nậm Tà xã Thanh Đức) hỗ trợ cho 52 hộ nghèo với số tiền 260

triệu đồng, di dân ra khỏi biên giới 10 hộ với số tiền 200 triệu đồng [165; tr. 5].

Cùng với các chương trình, dự án đầu tư của Nhà nước trên địa bàn,

như chương trình 134, 135, 327, 661, 120..., từ năm 2002, Đoàn đã đầu tư

hơn 34 tỷ đồng cho vùng dự án, với mức đầu tư trung bình hơn 27 triệu

đồng/hộ; xây dựng và hoàn thành 10 công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu

cho 320ha ruộng; nước sinh hoạt cho 300 hộ, trong đó có 22 hộ dân thôn

Nam Giang (Thanh Thuỷ) được Đoàn hỗ trợ đầu tư thêm đường và bể chứa nước sinh hoạt; xây dựng lớp học, nhà ở cho giáo viên trên diện tích 250m2;

113

đầu tư trạm hạ thế, kéo đường điện cho hàng chục hộ nghèo; đầu tư hoàn

thiện một bệnh xá quân-dân y kết hợp tại xã Thanh Thuỷ, trung bình mỗi

năm khám chữa bệnh cho khoảng 2.000 lượt người. Đoàn kinh tế quốc

phòng 313 đã thực hiện dự án dãn dân ra vành đai biên giới được 75 hộ; hỗ

trợ hàng trăm con trâu, bò sinh sản cho đồng bào; hỗ trợ đồng bào trong khu

vực phát triển diện tích trồng cây thảo quả từ 150 ha lên 350 ha, trong đó có

gần 60 ha đã cho thu hoạch hiện đang mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đoàn

cũng phối hợp tham gia củng cố hệ thống chính trị cơ sở, trực tiếp tham

mưu cho chính quyền những vấn đề liên quan đến giữ gìn an ninh trật tự, an

ninh biên giới trên địa bàn; tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền những

giải pháp xoá đói giảm nghèo, cũng như việc triển khai các chương trình, dự

án; điều động cán bộ, chiến sỹ tham gia giúp đội ngũ cán bộ cơ sở nâng cao

năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị; hướng dẫn cho đội ngũ cán bộ thôn

bản biết cách xử lý công việc... Hiện nay cả 4 xã này của huyện Vị Xuyên

đều có Đảng bộ, xoá trắng chi bộ thôn; tỷ lệ hộ nghèo mạnh. Song song với

việc đầu tư hỗ trợ kinh tế, Đoàn 313 luôn chủ động phối hợp với chính

quyền địa phương tuyên truyền, vận động đồng bào hiểu rõ, nhận thức đúng

chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước dành cho đồng bào;

phối hợp tổ chức các ngày lễ, tết, lễ hội nhằm khơi dậy niềm tự hào dân tộc,

tự hào về truyền thống tốt đẹp của đồng bào, từ đó khuyến khích đồng bào

tích cực lao động sản xuất, tiếp thu khoa học, đưa giống cây, con năng suất

cao vào gieo trồng, chăn nuôi. Đoàn cũng đã giao cho các đội sản xuất xây

dựng làm điểm các mô hình sản xuất để nhân dân học tập. Phần lớn các hộ

nghèo thiếu vốn đều được Đoàn hỗ trợ về các loại giống, phân bón, đảm bảo

kịp thời vụ gieo trồng. Bên cạnh đó, từ năm 2004, Đội sản xuất số 3 đã giúp

đỡ 20 hộ dân tộc Mông từ xã Cán Tỷ, huyện Quản Bạ hạ sơn về. Cán bộ,

chiến sỹ trong đội đã cùng bà con san lấp nền nhà, dựng nhà cửa, vận

chuyển đồ đạc, xây dựng đường nước, bể chứa nước... góp phần cho các hộ

114

đã định cư ổn định.

Hầu hết các chính sách đều gắn với công tác xóa đói giảm nghèo trên

địa bàn tỉnh nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, đều được

sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và của cả hệ thống chính trị.

Trong từng giai đoạn 5 năm một lần, tỉnh đều xây dựng kế hoạch giảm

nghèo cho từng giai đoạn cụ thể gồm: 1995-2000, 2001-2005, 2005-2010,

2011-2015. Hiện nay, huyện Vị Xuyên đã và đang thực hiện nhiều chương

trình giảm nghèo nhanh và bền vững giai đoạn 2011-2015, trong đó có

chính sách dân tộc và miền núi, vùng dân tộc thiểu số khó khăn và đặc biệt

khó khăn, để giúp cho đồng bào dân tộc thiểu số thoát nghèo.

Có thể thấy, các chương trình đầu tư, hỗ trợ hệ thống cơ sở hạ tầng trên

địa bàn huyện Vị Xuyên nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói

riêng đã được cải thiện một cách cơ bản, đời sống vật chất và tinh thần của

đồng bào dân tộc thiểu số được nâng lên một bước.

Tuy vậy, là huyện miền núi có nhiều đồng bào thiểu số, tình hình tôn giáo

và dân tộc tiềm ẩn nhiều phức tạp, trong đó nổi lên là di dân tự do và truyền

đạo trái phép. Ủy ban nhân dân huyện đã chỉ đạo các lực lượng bộ đội địa

phương, công an và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở nắm bắt tình hình,

có biện pháp ứng phó kịp thời khi xảy ra những hiện tượng bất thường, ảnh

hưởng đến tình hình an ninh địa phương. Mặc dù có sự chủ động trong việc đối

phó nhưng ở một số xã, tình hình nói trên vẫn xảy ra. Năm 2006, một số xã

trong huyện Vị Xuyên xảy ra hiện tượng di cư tự do vào Tây Nguyên, cụ

thể: xã Bạch Ngọc: 28 hộ (139 khẩu), xã Trung Thành: 1 hộ (6 khẩu), xã

Linh Hồ: 2 hộ (16 khẩu) [167; tr. 8]. Năm 2008, có 13 hộ (69 khẩu) ở các xã

Lao Chải, Ngọc Linh, Bạch Ngọc, Thượng Sơn di cư tự do vào Đắk Lắk

[169; tr. 8]. Năm 2004, hiện tượng truyền đạo Tin Lành trái phép đã xảy ra

ở các thôn Ngọc Sơn, Khuổi Dò thuộc xã Bạch Ngọc: 96 hộ - 320 khẩu).

Cấp ủy, chính quyền địa phương và công an huyện đã nhanh chóng giải

quyết và ngăn chặn kịp thời [165; tr. 8]. Hiện tượng này đến năm 2006 lại

115

tái diễn ở các xã Thuận Hòa: 5 hộ (26 khẩu), Bạch Ngọc: 57 hộ (360 khẩu),

Tùng Bá: 11 khẩu [167; tr. 8]. Từ năm 2006 đến năm 2010, nhờ sự phối

hợp công tác của nhiều lực lượng, ban ngành đoàn thể, công tác tuyên truyền

có hiệu quả đồng thời nhận thức của đồng bào cũng tăng lên nên các hiện

tượng nói trên đã dần được đẩy lùi, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn

xã hội được giữ vững.

3.4.5. Văn hóa, văn nghệ, thông tin và thể dục thể thao

Các hoạt động văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu

đời sống tinh thần ngày càng nâng cao của người dân. Ngoài các hoạt động

được tổ chức định kỳ mang tính chất tuyên truyền trong những ngày lễ hội của

địa phương, đất nước, hoạt động văn hóa được đi sâu vào đời sống thông qua

việc xây dựng quy ước làng văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa mới.

Từ năm 2001, Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên đã hướng dẫn và chỉ đạo

các xã, thị trấn triển khai thực hiện Nghị quyết 03 của Ban Chấp hành Đảng bộ

huyện (khóa XX) về vệ sinh môi trường, đảm bảo không gian sống sạch sẽ,

lành mạnh có văn hóa. Các ngành văn hoá - thông tin, y tế huyện tiến hành

tuyên truyền, vận động người dân di dời chuồng trại gia súc ra xã nhà ở, xây

nhà vệ sinh đúng quy cách để đảm bảo môi trường sống lành mạnh. Đến

năm 2002, toàn huyện đã có 95% hộ thực hiện [163; tr. 6].

Các thôn, bản, làng đã chủ động và tích cực trong việc xây dựng quy chế

văn hóa của mình, năm 2001 đã có 186 làng văn hóa (vượt 3.3% kế hoạch)

tăng 76 làng so với năm 2000. Năm 2002, số làng văn hóa tăng lên 223 làng,

gia đình văn hóa mới là 3.351 hộ (tăng 12% so với kế hoạch). Năm 2001 có 30

làng văn hóa cấp tỉnh (vượt 7% kế hoạch), gấp 3.7 lần so với năm 2000. huyện

đã tổ chức thành công “làng vui chơi làng ca hát” tại xã Đạo Đức, thực hiện

120 thông tin lưu động vượt 20% kế hoạch và tăng 50% so với năm 2000.

Cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa mới đã thực sự đi vào đời

116

sống, hằng năm số gia đình văn hóa, gia đình thể thao được công nhận tăng

lên. Ngành văn hóa huyện phối hợp với các xã tổ chức thành công liên hoan

văn nghệ quần chúng ở 7 cụm xã; tổ chức đăng ký công nhận lại sau 3 năm

2006-2009 thêm 45 làng văn hóa và 3.500 gia đình văn hóa, nâng tổng số

làng văn hóa và gia đình văn hóa trong toàn huyện lên 261 làng và 13.500

gia đình văn hóa. Đặc biệt, huyện tiến hành xây dựng đề án 2 làng văn hóa

du lịch ở thôn Bản Phố (xã Minh Tân) và thôn Khuổi Lác (xã Trung Thành).

Ngoài ra, riêng năm 2009, huyện Vị Xuyên đã tổ chức trên 150 buổi

văn nghệ quần chúng với 2.000 tiết mục phục vụ nhu cầu thưởng thức văn

nghệ cho người dân trong huyện; tổ chức 19 đêm văn nghệ “Vì người

nghèo” và chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước. Các hoạt động văn hóa

khác cũng được huyện Vị Xuyên chủ động đăng cai tổ chức như giải bóng

đá thiếu niên nhi đồng toàn tỉnh năm 2009, hội chợ thương mại huyện Vị

Xuyên, lễ hội chọi trâu truyền thống lần 3 năm 2009 [171, tr. 8].

Công tác chăm lo đời sống văn hóa tinh thần cho người dân ngày càng

phong phú, đa dạng. Ngoài các hoạt động văn hóa, văn nghệ thì các hoạt

động thông tin tuyên truyền lưu động được duy trì đều đặn với nội dung

phong phú để đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin của người dân. Năm 2005,

có 210 buổi thông tin lưu động được tổ chức, năm 2006 tổ chức được 230

buổi (vượt 10% kế hoạch). Hệ thống thư viện hoạt động ngày càng có chất

lượng, thu hút nhiều độc giả đến đọc và mượn sách. Thống kê cho thấy năm

2005, 2006 tổng số sách trong thư viện có 9.200 bản, độc giả mượn sách năm

2005 là 610 người, số bạn đọc là 1.000 lượt; năm 2006 tổng số độc giả tăng

lên 17.000 lượt [166; tr. 8, 167; tr. 6].

Hệ thống truyền thanh - truyền hình của huyện ngày càng được nâng

cấp và mở rộng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, nhất là các trạm phát lại

truyền hình ở các xã vùng sâu, vùng xa. Năm 2001, huyện Vị Xuyên đã

nâng diện phủ sóng phát thanh truyền hình toàn huyện lên 80%, tiếp âm

117

truyền thanh 5.260 giờ, tiếp âm phát sóng FM 4.020 giờ, sóng truyền hình

1.820 giờ [162; tr. 8]. Năm 2002, huyện Vị Xuyên cho lắp đặt và đưa vào sử

dụng 3 trạm truyền thanh ở các xã Việt Lâm, Quảng Ngần và thị trấn Việt

Lâm nhờ đó đã làm tốt công tác tiếp sóng truyền hình đáp ứng nhu cầu nghe

nhìn của nhân dân, phục vụ tốt công tác tuyên truyền của cấp ủy đảng, chính

quyền. Năm 2003, với sự nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất phát thanh

truyền hình nên diện phủ sóng trong huyện được nâng lên 86% [164; tr. 11].

Hằng năm tổng số giờ phục vụ của hệ thống phát thanh, truyền hình huyện

Vị Xuyên được nâng lên và duy trì ổn định: Năm 2003, số giờ tiếp sóng là

20.503 giờ (đạt 100% kế hoạch), thông tin địa phương đạt 4.200 giờ, tiếp

sóng FM 5.720 giờ [164; tr. 11]; năm 2005, tiếp âm Đài Tiếng nói Việt

Nam, đài tỉnh 2.364 giờ, tiếp sóng Đài Truyền hình Việt Nam (các kênh

VTV1, 2, 3) được 12.114 giờ, trạm phát lại truyền hình 18.440 giờ; năm

2006 tiếp âm Đài Tiếng nói Việt Nam, đài tỉnh 7.257 giờ (128% kế hoạch),

sóng FM tuyến xã được 4.565 giờ, tiếp sóng Đài Truyền hình Việt Nam

13.009 giờ [166; tr. 8, 167; tr. 6]. Hệ thống đài phát thanh, truyền hình đã

hoạt động hiệu quả trong việc xây dựng các chuyên mục tuyên truyền, phổ

biến gương điển hình, gương người tốt, việc tốt trong học tập, công tác lao

động và sản xuất, thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh”. Bên cạnh nhiệm vụ tiếp âm, tiếp sóng truyền hình

trung ương và của tỉnh phục vụ nhu cầu người dân, đài huyện đã chủ động

trong xây dựng các chương trình của mình. Năm 2010, Đài phát thanh -

truyền hình Vị Xuyên đã xây dựng được 43 chương trình địa phương và 6

chuyên trang phát trên sóng FM tỉnh, 3 phóng sự truyền hình và 1 chương

trình truyền thanh tham dự liên hoan truyền thanh - truyền hình tỉnh Hà

Giang [173; tr. 10].

Bên cạnh đó các hoạt động thể dục thể thao cũng được đẩy mạnh khắp cả

khu vực thị trấn và nông thôn, nhất là các môn thu hút đông đảo người xem

118

như bóng đá, bóng chuyền, cầu lông [162; tr. 7, 163; tr. 6]. Năm 2006, số

người tham gia các hoạt động thể dục thể thao là 21.000 lượt (năm 2005 là

18.000 lượt), số gia đình thể thao là 920 hộ, toàn huyện có 490 đội thể thao cơ

sở, 250 đội văn nghệ quần chúng [167; tr. 6].

Tiểu kết chương 3

Trong giai đoạn 2001 - 2010, điểm nổi bật của kinh tế huyện Vị Xuyên

chính là việc duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao và ổn định. Đây

là cơ sở, điều kiện quan trọng để huyện Vị Xuyên có thể thực hiện được các

mục tiêu kinh tế - xã hội khác. Những chuyển biến tích cực của kinh tế

huyện Vị Xuyên đều gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành một cách hợp lý. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ

trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch

vụ. Đến năm 2010, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng vươn lên đứng hàng đầu

trong tỷ trọng GDP với 46,6%, thương mại dịch vụ chiếm 23,5%, nông - lâm

nghiệp chỉ còn 29,9% .

Tăng trưởng kinh tế khá cao cùng với chuyển biến tích cực trong thay

đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng nâng cao tỷ trong khu vực công

nghiệp, dịch vụ, đã tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Đời

sống nhân dân qua từng năm được nâng lên rõ rệt.

Về xã hội, bước sang giai đoạn 2001-2010, cùng với những bước đổi mới

của tỉnh, các mặt đời sống xã hội trên địa bàn huyện Vị Xuyên đã từng bước

phát triển: các hình thức giáo dục, đào tạo ngày càng được mở rộng, quy mô

trường lớp ngày càng được cải thiện đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng tốt

hơn nhu cầu học tập của người dân. Hệ thống y tế ngày càng được củng cố

đảm bảo việc khám và chữa bệnh cho người dân tại địa phương, ngăn chặn và

đẩy lùi các loại bệnh dịch, nâng cao sức khỏe cho người dân. Điểm nhấn đáng

chú ý trong đời sống xã hội huyện Vị Xuyên giai đoạn 2001 - 2010 là đã đẩy

119

mạnh nâng cao quy mô, chất lượng của giáo dục và y tế. Trong giai đoạn này,

giáo dục huyện Vị Xuyên đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở cho

toàn bộ các xã, thị trấn. Y tế đã có nhiều cố gắng vượt bậc với 100% xã, thị

trấn được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đây là hai thành tựu nổi bật và

có bước chuyển biến rõ nét, hơn hẳn so với giai đoạn 1986 - 2000. Bên cạnh

đó, huyện Vị Xuyên cũng đạt một số kết quả về mặt xã hội, đáng kể là tỷ lệ hộ

nghèo giảm mạnh. Huyện Vị Xuyên đã và đang thực hiện đầy đủ các chính

sách của Đảng, Nhà nước dành cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số gồm:

chính sách đầu tư và sử dụng nhân lực, chính sách đầu tư phát triển bền

vững, chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, chính sách cán bộ người

dân tộc thiểu số, chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số,

chính sách phát triển thể dục - thể thao, chính sách phát triển du lịch, chính

sách bảo tồn và phát triển văn hóa… Có thể nói, công tác thực hiện chính

sách dân tộc là một điểm sáng mà huyện Vị Xuyên đạt được trong giai đoạn

2001 - 2010. Trước đó, những chính sách về dân tộc vẫn thực hiện những

chưa toàn diện và nguồn lực chưa đầu tư nhiều như giai đoạn sau.

Tuy vậy, là huyện miền núi có nhiều đồng bào thiểu số sinh sống, tình

hình tôn giáo và dân tộc tiềm ẩn nhiều phức tạp, trong đó nổi lên là di dân tự

do và truyền đạo trái phép. Đảng bộ và chính quyền huyện Vị Xuyên cùng

các lực lượng bộ đội địa phương, công an và các đoàn thể chính trị - xã hội

ở cơ sở nắm bắt tình hình, có biện pháp ứng phó kịp thời khi xảy ra những

120

hiện tượng bất thường, ảnh hưởng đến tình hình an ninh địa phương.

CHƯƠNG 4

NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

4.1. Nhận xét

4.1.1 Sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Vị Xuyên tương đối

rõ nét qua hai giai đoạn phát triển: giai đoạn 1986-2000 và 2001-2010.

Giai đoạn đầu (1986-2000), nền kinh tế của huyện còn phát triển chậm

cũng như cơ cấu các ngành khá giản đơn, chủ yếu là nông - lâm nghiệp,

trong đó ngành chăn nuôi được đầu tư phát triển.

Kinh tế huyện Vị Xuyên trong những năm đầu đổi mới gặp rất nhiều

khó khăn do cơ sở hạ tầng yếu kém, điều kiện về tự nhiên, dân cư phức tạp,

hậu quả của chiến tranh biên giới để lại nặng nề ảnh hưởng rất nhiều đến đời

sống của người dân vùng biên cũng như công tác khôi phục, phát triển sản

xuất. Bên cạnh đó, trong điều kiện khó khăn chung của cả nước và tỉnh Hà

Tuyên (từ 1991 trở đi là tỉnh Hà Giang), sự đầu tư hỗ trợ phát triển từ trên

xuống cho Vị Xuyên trong những năm cuối thập niên 80 đầu thập niên 90

(thế kỷ XX) còn rất hạn chế. Sự khó khăn của nền kinh tế thể hiện hầu như

trên tất cả các lĩnh vực từ cơ sở hạ tầng cho đến sự nghèo nàn về cơ cấu mặt

hàng nông sản, kinh tế gần như tập trung vào nông nghiệp. Vì vậy, đến đầu

những năm 90, nền kinh tế và đời sống xã hội của huyện Vị Xuyên nhìn chung

vẫn còn thấp kém. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh

tế diễn ra chậm, nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Các ngành

kinh tế tập trung hướng vào nhiệm vụ đảm bảo tự túc về lương thực, thực

phẩm, ổn định đời sống nhân dân. Sự tăng trưởng của nông nghiệp không

cao và khá đơn điệu về cơ cấu, phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan,

121

chủ yếu độc canh cây lúa, ngô và mang tính tự cung tự cấp.

Sự khởi sắc của nền kinh tế thực sự có biểu hiện rõ nét từ cuối những

năm 90 của thế kỷ XX khi Đảng bộ và chính quyền huyện quyết liệt trong

việc đa dạng hóa các sản phẩm nông nghiệp, đẩy mạnh phát triển các ngành

nghề tiểu thủ công nghiệp. Một số chương trình, dự án do Chính phủ đầu tư,

hỗ trợ đã có tác dụng tích cực đến xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế cũng như

thực hiện các mục tiêu xã hội nên bộ mặt của huyện ngày càng khởi sắc

hơn, tạo tiền đề cho giai đoạn sau có điều kiện phát triển.

Đến giai đoạn 2001 - 2010, kinh tế huyện Vị Xuyên đã có sự chuyển

biến mạnh mẽ trên tất cả các phương diện so với giai đoạn trước: cơ cấu

ngành nghề được đa dạng, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ

ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong GDP của huyện; sản phẩm của lĩnh vực

nông - lâm nghiệp được đa dạng hóa theo hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng

nhu cầu thị trường; tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ổn định ở mức

tương đối cao.

Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đều được

duy trì trên 12%/năm. Tốc độ tăng trưởng cao cùng với quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách hợp lý đã làm cho nền kinh tế huyện Vị

Xuyên ngày càng khởi sắc. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm

dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp - xây

dựng và dịch vụ. Năm 2000, tỷ trọng khu vực nông nghiệp chiếm 58,5%,

lĩnh vực dịch vụ chiếm 23,5%, công nghiệp - xây dựng chiếm 18%, đến

năm 2010, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng vươn lên đứng hàng đầu trong

tỷ trọng GDP với 46,6%, thương mại dịch vụ chiếm 23,5%, nông - lâm

nghiệp chỉ còn 29,9%.

Từ năm 2000 đến năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Vị Xuyên

122

tăng bình quân 11,65%, từ 2006 đến 2010 bình quân là 16%. Tốc độ tăng

trưởng kinh tế mà Vị Xuyên đạt được cao hơn mức tăng trưởng chung của

cả tỉnh (12,5%) và nhiều huyện khác.

Tăng trưởng kinh tế khá cao cùng với chuyển biến tích cực trong thay

đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng nâng cao tỷ trong khu vực công

nghiệp, dịch vụ, đã tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Đời

sống nhân dân qua từng năm được nâng lên rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu

người liên tục tăng, năm 2010 đạt 9,65 triệu đồng, tăng 5,15 triệu đồng so

với năm 2005 và 7,8 triệu đồng so với năm 2000. Đây là cơ sở, điều kiện

quan trọng để huyện Vị Xuyên có thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế -

xã hội khác. Những chuyển biến tích cực của kinh tế huyện Vị Xuyên đã tác

động tích cực đến mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho

đồng bào dân tộc thiểu số.

Sự tăng trưởng kinh tế có nhiều nguyên nhân, trong đó có nhân tố quan

trọng là sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế sang khu vực sản xuất công

nghiệp và dịch vụ, nhất là các cơ sở kinh tế tư nhân. Ngày càng có nhiều cơ

sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn Vị Xuyên ra đời và phát triển. Năm

2001, huyện Vị Xuyên có 508 đơn vị, 2002 có 500 đơn vị, 2003 có 548 đơn

vị và 2004 có 547 đơn vị. So với các huyện khác trong tỉnh Hà Giang thì Vị

Xuyên chỉ xếp sau Bắc Quang về số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp

[36; tr. 112]. Giá trị sản xuất công nghiệp của Vị Xuyên cũng luôn thuộc

nhóm cao nhất tỉnh. Giai đoạn 2001-2004, Vị Xuyên luôn xếp thứ ba toàn

tỉnh về giá trị sản xuất công nghiệp, nhưng nếu phân tích kỹ thì nhóm doanh

nghiệp ngoài quốc doanh lại đứng thứ nhất toàn tỉnh [36; tr. 116]. Đến giai

đoạn 2005-2008, giá trị sản xuất công nghiệp của Vị Xuyên chỉ còn thấp

hơn thị xã Hà Giang, còn lại đã vượt xa so với các huyện khác trong tỉnh

123

[45; tr. 156-157].

4.1.2. Ngành kinh tế nông - lâm nghiệp đã chuyển dịch từ ngành kinh

tế trọng tâm, chủ đạo, được ưu tiên hàng đầu sang ngành kinh tế trọng tâm

sau kinh tế công nghiệp và thủ công nghiệp.

Từ sau năm 2000 trở lại đây, cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp của

huyện Vị Xuyên đã chuyển biến mạnh mẽ từ thuần nông, tự cung, tự cấp

sang sản xuất hàng hóa gắn với thị trường. Huyện Vị Xuyên đã đẩy mạnh

việc đa dạng hóa các mặt hàng nông sản, phát triển mạnh sản xuất lương

thực, tích cực mở rộng các mô hình chăn nuôi nhằm tự chủ về mặt lương

thực, từng bước xóa đói và giảm nghèo.

Tuy tỷ trọng GDP của ngành nông - lâm nghiệp, thủy sản của Vị

Xuyên giảm từ 52% (năm 2000) xuống 38,4% (năm 2005) và 30,4% (năm

2010), nhưng giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng đều. Sản xuất nông nghiệp

đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nổi bật trên một số mặt sau:

Công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi bước đầu phát huy hiệu

quả: Phát triển các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, thâm canh cao đối

với các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, thị trường ổn định; Phát triển

chăn nuôi đại gia súc, nuôi trồng thủy sản và chuyển nhanh sang phương

thức chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp.

Về cơ cấu, trồng trọt vẫn là ngành chủ yếu trong kinh tế nông nghiệp,

tỷ trọng chỉ giảm từ 65% (năm 2005) xuống 60% (năm 2010) trong tổng giá

trị sản xuất nông nghiệp; ngành chăn nuôi tuy có chuyển biến, song còn

chậm, tăng tỷ trọng từ 35% (năm 2005) lên 40% (năm 2010); hoạt động

dịch vụ trong nông nghiệp cũng có bước phát triển cao hơn.

Ngành lâm nghiệp của Vị Xuyên cũng đạt được những thành tựu cao,

như: Diện tích rừng trồng tập trung đã tăng lên đáng kể so với thời gian

trước. Nếu như năm 2000 chỉ trồng được 551 ha rừng tập trung thì đến năm

124

2008 và 2009, diện tích rừng trồng đạt hơn 2.000 ha các loại.

Bên cạnh những khu vực được trồng tập trung, huyện Vị Xuyên cũng

chú trọng trồng cây phân tán ở ven đường quốc lộ, vườn hoa, công viên,

công sở, trường học, bệnh viện, nhà máy… nhẳm tạo cảnh quan, giá trị về

sinh thái, môi trường và kinh tế, xã hội.

Việc xã hội hoá nghề rừng đã phát huy hiệu quả tài nguyên rừng trên

địa bàn huyện. Quá trình này ở Vị Xuyên đang diễn ra theo chiều hướng tích

cực. Trước kia trong lâm nghiệp truyền thống, việc quản lý tài nguyên rừng

chủ yếu do nhân dân đảm nhận với mục tiêu là theo đuổi lợi ích kinh tế của

nhà nước. Việc lập kế hoạch là từ trên xuống dưới nên các hoạt động lâm

nghiệp chủ yếu chú trọng tới lợi ích kinh tế mà ít quan tâm tới môi trường

và rất ít chú ý đến như cầu và mối quan tâm của người dân. Người dân địa

phương lúc này chỉ là người ngoài cuộc, họ hầu như chỉ tham gia thụ động

vào từng công đoạn của việc bảo vệ, quản lý, phát triển rừng với tư cách

người làm thuê. Còn tiêu điểm chủ yếu của lâm nghiệp xã hội là sự tham gia

của các chủ thể địa phương vào việc quản lý tài nguyên rừng. Các chủ thể

đó bao gồm: người dân địa phương (các cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng,

các tổ chức địa phương) và các tổ chức phát triển khác. Mục tiêu của lâm

nghiệp xã hội là phát triển tài nguyên rừng để gia tăng năng suất rừng, sản

xuất bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường, đồng thời nâng

cao đời sống của người dân địa phương.

Trước đây, huyện Vị Xuyên chủ yếu phát triển rừng phòng hộ và rừng

đặc dụng, chưa chú trọng phát triển rừng kinh tế. Từ năm 2003, với việc

phát triển chung của huyện, nhu cầu thị trường lâm sản tăng mạnh, quá trình

hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội lớn cho việc phát triển mở rộng sản xuất kinh

doanh nghề rừng, chế biến lâm sản thương mại của các hộ nông dân, cộng

đồng, các doanh nghiệp. Rừng đã mở ra cơ hội đem lại thu nhập cho người

dân, giúp người dân giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống. Huyện đã

125

có định hướng phát triển kinh tế rừng theo phương châm gắn trồng rừng với

phát triển công nghiệp chế biến, ứng dụng công nghệ cao để trồng rừng

thâm canh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo ra khối lượng sản phẩm

lớn, hiệu quả kinh tế cao.

4.1.3. Ngành kinh tế công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chuyển dịch từ

vị trí ngành kinh tế thứ hai của huyện sang ngành kinh tế trọng điểm, mũi

nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của huyện Vị Xuyên.

Ngay từ khi bước vào thế kỷ XXI, huyện Vị Xuyên đã xác định vai trò

dẫn dắt của lĩnh vực công nghiệp đối với nền kinh tế toàn huyện. Với quyết

tâm cao trong việc nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong GDP cũng như

những bước đi phù hợp, lĩnh vực công nghiệp đã có bước chuyển biến mạnh

mẽ nhất trong bức tranh kinh tế chung ở huyện Vị Xuyên. Tỷ trọng GDP

của ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 29% (năm 2000) lên 37,1% (năm

2005) và 46,4% (năm 2010).

Nhờ có các chính sách thu hút và ưu đãi đầu tư của tỉnh, số lượng các

nhà đầu tư trên địa bàn huyện Vị Xuyên trong những năm qua không ngừng

tăng lên. Lĩnh vực được chú trọng đầu tư là xây dựng nhà máy thủy điện,

sản xuất lắp ráp ô tô, khai thác vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản ở

các xã Tùng Bá, Thuận Hòa, Ngọc Linh và thị trấn Vị Xuyên.

Một trong những thế mạnh của huyện Vị Xuyên là sự phong phú về tài

nguyên khoáng sản. Tuy nhiên, đến năm 2010, huyện Vị Xuyên mới khai

thác được số lượng quặng là 410.370 tấn, chủ yếu là mangan, sắt, chì, kèm,

trong đó, quặng mangan khai thác được 119.900 tấn; quặng chị, kẽm khai

thác được 52.470 tấn; quặng sắt 45% khai thác được 238.000 tấn. Với sản

lượng khai thác như vậy chưa đáp ứng được tiềm năng vốn của của mình.

Dù vậy ngành công nghiệp của Vị Xuyên vẫn là những ngành công

nghiệp chế biến nông sản, chế biến các sản phẩm chè, gần đây còn mở rộng

126

thêm lĩnh vực lắp ráp ô tô tải hạng nhẹ. Sự khác biệt so với giai đoạn trước

chủ yếu là sản lượng sản xuất cũng như chất lượng và giá trị hàng hóa tăng

lên, còn ngành nghề chưa thực sự bứt phá để có được các ngành công

nghiệp có hàm lượng khoa học kỹ thuật phức tạp, giá trị kinh tế lớn.

Cơ cấu các mặt hàng thủ công nghiệp ngày càng đa dạng, thiên về các

sản phẩm thế mạnh. Nhiều mặt hàng thủ công nghiệp được sản xuất phục vụ

nhu cầu địa phương và trao đổi với các địa phương bạn. Kinh tế bắt đầu tăng

trưởng khá, cơ cấu kinh tế bắt đầu chuyển dịch theo hướng tích cực.

4.1.4. Chính sách dân tộc được triển khai và thu được những kết quả

rõ rệt. Công tác xoá đói giảm nghèo chuyển biến tích cực.

Thành tựu nổi bật phải kể đến chính là sự hiệu quả trong việc thực hiện

chính sách dân tộc ở Vị Xuyên. Là một huyện miền núi có tỷ lệ đồng bào

dân tộc thiểu số cao, điều kiện cả về tự nhiên và xã hội khó khăn nên đây là

một địa bàn quan trọng trong việc triển khai thực hiện các chương trình, dự

án phát triển kinh tế - xã hội có liên quan đến người dân tộc thiểu số, các

nhóm dân cư có mức sống thấp. Điều này rõ ràng là một nguồn hỗ trợ hết

sức quan trọng, nếu không nói là quyết định đến khả năng tổ chức, triển

khai các giải pháp kinh tế - xã hội ở huyện Vị Xuyên. Với gần 20 dân tộc

cùng sinh sống trên địa bàn, mà đại bộ phận là dân tộc thiểu số, huyện

Vị Xuyên đã luôn thực hiện tốt các chương trình, chính sách hỗ trợ đối với

đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Huyện Vị Xuyên thực hiện

đủ đầy đủ chính sách của Đảng, Nhà nước dành cho vùng đồng bào dân tộc

thiểu số gồm: chính sách đầu tư và sử dụng nhân lực; chính sách đầu tư phát

triển bền vững; chính sách phát triển giáo dục và đào tạo; chính sách cán bộ

người dân tộc thiểu số; chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc

thiểu số; chính sách phát triển thể dục - thể thao; chính sách phát triển du

lịch; chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa… Hiện nay, huyện Vị Xuyên

127

đã và đang thực hiện nhiều chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững

giai đoạn 2011 - 2015, trong đó có chính sách dân tộc và miền núi, vùng dân

tộc thiểu số khó khăn và đặc biệt khó khăn, để giúp cho đồng bào dân tộc

thiểu số thoát nghèo.

Như vậy, những chương trình, dự án đầu tư đã thực sự mang lại những

thay đổi to lớn đối với huyện Vị Xuyên, bộ mặt của các xã đặc biệt khó

khăn đang dần được thay đổi, đường sá đi lại thuận tiện hơn, đời sống vật

chất tinh thần của người dân tại các xã vùng sâu, vùng xa của huyện được

cải thiện đáng kể. Đồng bào dân tộc thiểu số đã tiến hành giao lưu kinh tế

đối với các khu vực lân cận tương đối dễ dàng, nhanh chóng, nhiều sản

phẩm nông sản là thế mạnh của huyện đã kết nối với hệ thống phân phối của

tỉnh và các tỉnh bạn. Đồng bào dân tộc thiểu số làm quen và dần thành thạo

trong việc áp dụng các biện pháp khoa học - kỹ thuật để nâng cao năng suất,

đổi mới cơ cấu cây trồng, trình độ sản xuất thực sự được nâng lên đáng kể.

Trong công tác xoá đói giảm nghèo, bước vào giai đoạn 2001 - 2010,

mọi mặt đời sống xã hội của huyện Vị Xuyên tiếp tục có những chuyển biến

tích cực hơn dựa trên cơ sở sự phát triển mạnh của kinh tế. Nếu như giai

đoạn 1986 - 2000, xóa đói giảm nghèo đã đạt được tỷ lệ giảm tương đối khá

(chủ yếu tập trung giảm mạnh vào cuối những năm 90), thì ở giai đoạn 2001

- 2010 thành tựu xóa đói giảm nghèo đã được nâng lên ở một mức độ cao

hơn. Năm 1991, số hộ nghèo toàn huyện Vị Xuyên từ 42,5% đã giảm xuống

còn 28% vào năm 1998, 22,7% vào năm 1999 và 15,5% vào năm 2000, cơ

bản không còn hộ đói [11; tr. 190-193].

Giai đoạn 2000 - 2010, Đảng bộ huyện Vị Xuyên đã chỉ đạo thực hiện

đồng bộ các biện pháp nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn

định. Đây cũng được xem làm một nhân tố quan trọng làm nền tảng cho

việc hạ thấp tỉ lệ hộ đói nghèo trên địa bàn huyện qua từng năm được nhanh

128

chóng và tương đối bền vững.

Bước sang giai đoạn 2001-2010, tiêu chí hộ nghèo đã được điều chỉnh

5 năm một lần. Năm 2005, toàn huyện có tỷ lệ hộ nghèo chiếm gần 50%

(theo tiêu chí mới) nhưng đến 2010, tỷ lệ này đã giảm xuống chỉ còn 15%.

Sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo của

huyện Vị Xuyên đạt được là nhờ tăng trưởng kinh tế khá cao cùng với

chuyển biến tích cực trong thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng nâng

cao tỷ trong khu vực công nghiệp, dịch vụ, đã tạo ra nhiều việc làm, tăng thu

nhập cho người dân. Đời sống nhân dân qua từng năm được nâng lên rõ rệt.

Đây là một kết quả rất đáng ghi nhận và cần tiếp tục duy trì. Kết quả đó

phản ánh một phần bộ mặt kinh tế của Vị Xuyên trong những năm gần đây.

Ngoài ra, chương trình giải quyết việc làm của huyện đã được triển khai

rộng khắp và mang lại hiệu quả cao, số người có việc làm hàng năm tăng

lên, tỷ lệ thất nghiệp giảm đi đáng kể, thời gian sử dụng lao động ở nông

thôn ngày một nâng cao, cơ cấu lao động và chất lượng lao động bước đầu

chuyển đổi theo hướng tích cực. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên giảm xuống

còn 1,2%. An ninh - quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được

đảm bảo tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

4.1.5. Đời sống văn hóa, giáo dục và y tế có những bước tiến mới

và ngày càng phát triển.

Từ giữa những năm 90 trở đi, cùng với sự chuyển biến tương đối

nhanh và có kết quả của nền kinh tế, các mặt công tác của đời sống xã hội

cũng dần được cải thiện. Đây là một bước tiến rất lớn về đời sống tinh thần

của người dân huyện Vị Xuyên so với những năm đầu thời kỳ đổi mới.

Về đời sống văn hoá, toàn huyện hiện có 85% hộ đạt gia đình văn hóa,

100% thôn bản, tổ dân phố được công nhận làng văn hóa; 180 cơ quan, đơn

vị, trường học đạt cơ quan văn hóa, tăng 95 đơn vị so với năm 2005. Các

thôn, tổ dân phố đã xây dựng quy ước nếp sống văn minh trong việc cưới,

129

việc tang và lễ hội. Bộ mặt nông thôn đang từng bước được thay đổi, toàn

huyện hiện có 2210 hộ có nhà xây kiên cố, 110 hộ có ô tô, 11514 hộ có xe

máy, 14473 hộ có ti vi. Các hình thức thụ hưởng văn hóa cũng đa dạng và

phong phú hơn. Ngoài hoạt động các đội thông tin văn hóa lưu động, hệ

thống phát thanh - truyền hình của huyện hoạt động thường xuyên với tần

suất ngày càng tăng. Người dân còn có thể nghe đài, xem ti vi thông qua các

thiết bị nghe nhìn tự mua sắm. Hệ thống thư viện cũng cung cấp sách báo

khá cập nhật cho người dân có nhu cầu... Bên cạnh đó, các hoạt động văn

hóa, văn nghệ, thể dục thể thao luôn được khơi dậy sôi nổi, trở thành phong

trào thường xuyên và sâu rộng đến tận các xã lôi cuốn đông đảo người dân

tham gia rèn luyện.

Lĩnh vực giáo dục ngày càng đạt được nhiều thành tựu lớn, cao hơn về

chất so với giai đoạn 1986 - 2000, đó là: đã giải quyết căn bản nạn mù chữ và

tái mù chữ; hệ thống giáo dục ngày càng được mở rộng, các hình thức giáo

dục, đào tạo ngày càng đa dạng, quy mô trường lớp ngày càng được cải thiện

đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của người dân.

Đặc biệt, trong giai đoạn 2001 - 2010, huyện Vị Xuyên đã hoàn thành phổ cập

giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở cho toàn bộ các xã, đến năm

2010 đã có 100% xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về giáo dục...

Hệ thống y tế ngày càng được củng cố đảm bảo việc khám và chữa bệnh

cho người dân tại địa phương, ngăn chặn và đẩy lùi các loại bệnh dịch, nâng

cao sức khỏe cho người dân. Người dân cũng được chăm sóc sức khỏe tốt

hơn khi hệ thống nhà trạm, trạm y tế xã, bệnh viện và phòng khám tuyến

huyện đã được trang bị cơ bản về cơ sở vật chất cũng như nhân lực để có thể

thăm khám và chữa các căn bệnh thông thường cho người dân. Ngành y tế

có nhiều cố gắng vượt bậc và đến 2010 đã có 100% xã, thị trấn được công

nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế. Đó là những thành quả vượt bậc của một

130

huyện miền núi biên giới còn nhiều khó khăn.

4.2. Những hạn chế và nguyên nhân

Trong lĩnh vực kinh tế, mặc dù đạt được sự chuyển biến mạnh như kế

hoạch đặt ra là giảm mạnh tỷ trọng của nhóm ngành nông - lâm nghiệp, tăng

dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nhưng sự chuyển biến chưa thực sự

sâu, chất lượng chuyển biến chưa cao, chưa có sự gắn kết giữa chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành với chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang

lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Hoạt động công nghiệp chủ yếu là chế biến

chè và khai thác vật liệu xây dựng. Thế nhưng, cây chè vẫn chưa được tập

trung chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng để tăng nhanh giá trị sản lượng

hàng hóa, tỷ lệ chè thâm canh còn ở mức thấp chưa khai thác được hiệu quả

tiềm năng. Trong khi đó, các đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ hoạt động

còn nhiều yếu kém, hiệu quả kinh tế thấp, cá biệt có đơn vị thua lỗ nặng.

Công tác chuyển đổi hợp tác xã hoạt động theo luật còn chậm, mặt khác số

hợp tác xã đã chuyển đổi hoạt động rất yếu, thậm chí một số hợp tác xã

không hoạt động gì, sự chuyển đổi chỉ là hình thức. Đến năm 2010, sản

phẩm của lĩnh vực công nghiệp vẫn chủ yếu là chế biến chè, khai thác

khoáng sản; sản xuất và khai thác vật liệu xây dựng; công nghiệp kỹ thuật

cao có thêm lắp ráp ô tô. Về vấn đề này, Uỷ ban nhân dân huyện đánh giá:

"Ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng,

lợi thế. Sản phẩm của một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp sức cạnh

tranh còn yếu, hầu hết doanh nghiệp trên địa bàn huyện có quy mô sản xuất

- kinh doanh nhỏ bé... Tỷ trọng chăn nuôi hành hóa còn chiếm tỷ lệ thấp

trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Kinh tế hợp tác và hợp tác xã nhìn chung

phát triển chưa mạnh, nhiều hợp tác xã hiệu quả sản xuất kinh doanh còn

thấp" [172; tr. 12-13]. Bên cạnh đó, vai trò kinh tế tư nhân có tăng lên

nhưng vai trò chủ đạo vẫn là khu vực kinh tế nhà nước, đồng thời có sự mất

cân đối khá lớn giữa các khu vực trên địa bàn huyện. Kinh tế phát triển chủ

yếu vẫn tập trung ở hai thị trấn Vị Xuyên, Việt Lâm và dọc tuyến quốc lộ,

131

nhiều xã trong huyện vẫn thuộc diện đầu tư của Chương trình 135.

Dù đạt được những kết quả đáng khích lệ trong phát triển kinh tế

những năm gần đây, nhưng nhìn chung nền kinh tế của Vị Xuyên chưa phát

triển tương xứng với tiềm năng. Sự phát triển còn thiếu tính đột phá, chưa

đồng đều giữa các khu vực trong huyện. Sản xuất hàng hoá nhỏ lẻ, mang

tính tự phát. Hoạt động thương mại và du lịch đã bước đầu phát triển nhưng

công tác xúc tiến thương mại, kêu gọi đầu tư nước ngoài còn chậm, công tác

quảng bá hình ảnh tới du khách trong nước và quốc tế chưa nhiều. Lĩnh vực

công nghiệp có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao còn nhiều hạn chế, chưa

thực sự chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu sản xuất công nghiệp - thương

mại - du lịch. Tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố hỗ trợ của

tỉnh và Trung ương thông qua các chương trình, dự án.

Những kết quả kinh tế - xã hội đạt được chưa tương xứng với tiềm

năng, thế mạnh của huyện; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền

kinh tế thấp. Đời sống nhân dân đã được cải thiện nhưng chưa bền vững,

nguy cơ tái nghèo cao. Khả năng tiếp cận thị trường, tiến bộ khoa học - kỹ

thuật cũng như tinh thần tự chủ, linh hoạt, năng động ở một bộ phận cán bộ

và nhân dân còn hạn chế.

Tăng trưởng kinh tế đạt khá nhưng phụ thuộc nhiều vào sự đầu tư của

Chính phủ thông qua các chương trình dự án có liên quan đến đồng bào dân

tộc thiểu số. Mặt khác trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án,

việc phân cấp còn có nhiều bất cập. Một số xã còn khó khăn trong việc chủ

động thực hiện quản lý xây dựng, phụ thuộc quá nhiều vào hệ thống chỉ đạo

cấp trên. Đội ngũ cán bộ cấp xã không nắm chắc các trình tự thủ tục của đầu

tư xây dựng cơ bản, nên khi triển khai còn gặp vướng mắc, khó khăn, thông

thường dẫn đến chất lượng, hiệu quả các công trình mà các chương trình, dự

6 Tham khảo ý kiến của ông Lưu Đình Phát, nguyên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Vị Xuyên.

132

án đầu tư chưa cao6.

Là huyện có lợi thế về cửa khẩu để buôn bán, trao đổi với nước ngoài

nhưng kết quả đạt được từ kinh tế cửa khẩu còn thấp nhiều so với các cửa

khẩu khác. Nguyên nhân chính là do nguồn hàng hóa còn chưa phát triển,

hoạt động buôn bán ở cửa khẩu chủ yếu là do các thương nhân trao đổi buôn

bán mang tính chất tự phát theo nhu cầu thị trường. Cơ sở vật chất đầu tư

còn hạn chế, mạng lưới giao thông chưa hoàn thiện, các loại dịch vụ chưa

đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh doanh tại cửa khẩu nên chưa thu hút

các doanh nghiệp lớn đến làm ăn. Các tiềm năng du lịch không được khơi

dậy nên còn rất hoang sơ, yếu kém.

Trong kinh tế đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu ngành nghề

nhưng về cơ bản kinh tế huyện Vị Xuyên vẫn chủ yếu là nông - lâm nghiệp.

Sản phẩm bán ra thị trường chưa phong phú đa dạng và có sắc thái riêng.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với thiết bị kỹ thuật còn lạc hậu,

năng suất, chất lượng còn thấp, thu nhập của công nhân chưa cao. Công

nghiệp chưa gắn chặt chẽ với nông - lâm nghiệp và thị trường nông thôn

trên địa bàn huyện, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông lâm sản. Công

nghiệp vẫn chủ yếu là gia công, lắp ráp, hàm lượng khoa học chưa cao.

Trong nông nghiệp, các sản phẩm đa số mới chỉ dừng lại ở mức độ sơ chế,

trong khi sản phẩm ngành chăn nuôi chủ yếu vẫn chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu

dùng trực tiếp của địa phương.

Về lĩnh vực xã hội, mặc dù huyện Vị Xuyên được hưởng lợi nhiều từ

các chương trình dự án, nhưng trong quá trình thực hiện còn có sự chồng

chéo, trùng lặp nhất định, đồng thời lại thiếu đồng bộ trong việc thực hiện

các mục tiêu tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc

thiểu số. Một số chính sách chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, nhưng lại

không được điều chỉnh kịp thời. Trong thời gian tới, tình trạng nghèo ở Vị

Xuyên vẫn sẽ có những diễn biến phức tạp, xuất phát từ sự phân hóa khá cao

133

về điều kiện tự nhiên của cũng như các cơ sở kinh tế và phân bố dân cư.

Không loại trừ khả năng nghèo hóa trở lại đối với một số ít hộ dân cư vừa

thoát nghèo. Những giải pháp xóa đói, giảm nghèo cả trước mắt và lâu dài

vẫn luôn yêu cầu khả năng đồng bộ khi thực hiện các nhóm giải pháp, trong

đó, phát triển nhân tố con người vẫn luôn là giải pháp căn bản nhất. Tư tưởng

ỷ lại và trông chờ vào chính sách ưu đãi trợ cấp, cứu trợ của nhà nước vẫn

tồn tại ở một số thôn bản và hộ nghèo nên hạn chế sự năng động vươn lên

của người nghèo. Vì thế, các chương trình an sinh xã hội cho người nghèo

chưa phát huy được tính năng ưu việt của nó. Nghèo đói khiến cho người

dân khai thác quá mức nguồn tài nguyên vốn đã hạn hẹp và ảnh hưởng tới

môi trường như chặt rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, khai thác tài nguyên

khoáng sản bừa bãi,… nên nguy cơ tái nghèo cao. Công tác giáo dục đào tạo

chưa thực sự gắn kết với việc sử dụng lao động, tỉ lệ lao động qua đào tạo

thấp, chưa đạt mục tiêu đề ra. Chất lượng giáo dục - đào tạo đã có nhiều

chuyển biến tiến bộ, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao

của phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên là cần nâng cao hiệu

quả và tính thiết thực của giáo dục cũng như có những biện pháp cần thiết để

tạo sự công bằng xã hội trong giáo dục, hỗ trợ người nghèo, đồng bào các dân

tộc thiểu số, có chế độ ưu tiên hợp lý đối với đồng bào dân tộc thiểu số, tạo

điều kiện để người dân ở các khu vực khó khăn có thể tiếp cận các dịch vụ

công một cách thuận lợi.

Các công trình phúc lợi công cộng, văn hóa, thể thao phục vụ vui chơi,

giải trí cho nhân dân chưa đủ đáp ứng nhu cầu thực tế. Công tác quản lí tài

nguyên, khoáng sản còn nhiều bất cập. Tình trạng khai thác, vận chuyển trái

phép tài nguyên khoáng sản vẫn còn tồn tại. Trong khi đó, công tác phòng,

chống tham những đạt hiệu quả chưa cao.

Ngoài ra, một số tập tục mê tín dị đoan chậm được khắc phục, bản sắc

văn hoá của các dân tộc đang đứng trước thực trạng bị mai một, mức hưởng

134

thụ văn hoá trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế. Việc tổ chức

thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước còn thiếu cụ thể, chưa sâu sát.

Các đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh... ở các

xã vùng cao, vùng sâu, do gặp những khó khăn về tự nhiên nên cơ bản chỉ có

bộ khung là còn tồn tại7.

4.3. Một số đề xuất

Từ năm 1986 đến năm 2010, huyện Vị Xuyên đã có những bước

chuyển biến kinh tế, xã hội mạnh mẽ, từ chỗ là một huyện miền núi khó

khăn, thiếu thốn, tỉ lệ đói nghèo và mù chữ cao, sau gần 30 năm đổi mới đã

vươn lên trở thành một huyện có tốc độ phát triển cao hàng đầu của tỉnh Hà

Giang. Nhằm đẩy mạnh thêm một bước công cuộc đổi mới của huyện, của

tỉnh đạt được những mục tiêu đề ra, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp

mà huyện Vị Xuyên cần tập trung thực hiện như sau:

4.3.1. Phát huy mọi nguồn lực cho phát triển nền kinh tế - xã hội, khai

thác nguồn tài nguyên một cách hợp lý, nâng cấp và hoàn thiện các tuyến

giao thông trên địa bàn huyện.

Nguồn lực là tổng thể vị trí địa lí, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài

sản quốc gia, nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn và thị trường… có

thể được khai thác nhằm phục vụ cho việc phát triển. Vì vậy, để tiếp tục

nâng cao hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngày một hợp lý hơn, trong thời gian tới huyện Vị Xuyên cần huy

động triệt để và có hiệu quả những nhân tố chủ quan, nội lực để tập trung

phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhằm tạo điều kiện cho

sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế, cũng như sự đòi hỏi nhiều mặt

đa dạng hơn của đời sống xã hội. Tận dụng thời cơ, lợi thế cả về điều kiện

tự nhiên cũng như những ưu đãi về chính sách để thu hút được nhiều nguồn

135

lực cho sự phát triển ổn định của địa phương. Thực hiện lồng ghép nguồn 7 Tham khảo ý kiến ông Hầu A Sách, Trưởng phòng PA92 Công an tỉnh Hà Giang.

vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án hỗ trợ

để phát triển kinh tế, xã hội, tạo môi trường thuận lợi để đầu tư, tranh thủ sự

hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh, của các tổ chức phi chính phủ đầu tư phát

triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện. Tăng cường công tác bảo vệ môi

trường, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lý, ứng dụng tiến bộ khoa học-

kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài nguyên.

Hệ thống giao thông nội huyện, liên xã cần được tiếp tục đầu tư nâng

cấp để phục vụ giao lưu giữa các xã nhất là các xã vùng sâu vùng xa, và với

các huyện lân cận. Phát triển mạng lưới giao thông còn nhằm đảm bảo tính

liên hoàn giữa các khu vực trong huyện. Cần chú trọng giao thông hướng

ngoại, các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, vùng định canh, định cư, vùng

biên giới gắn với bảo vệ quốc phòng, an ninh.

Đối với huyện Vị Xuyên, sự kết hợp kinh tế với đảm bảo an ninh quốc

phòng, phát triển kinh tế địa phương kết hợp với phát triển kinh tế cửa khẩu

biên giới vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn trong điều kiện hội nhập kinh

tế quốc tế hiện nay.

Tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo bền vững là mục tiêu phấn đấu

chung của nhân loại. Tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo là hai quá trình có

mối quan hệ mật thiết với nhau. Đối với huyện Vị Xuyên, tăng trưởng kinh

tế và giảm nghèo bền vững là một yêu cầu thực tiễn nhằm mục đích từng

bước làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội - môi trường của huyện, sớm đưa

huyện thoát khỏi tình trạng chậm phát triển. Do đó vấn đề đặt ra là phải

nâng cao trình độ phát triển về cả kinh tế, văn hoá - xã hội, môi trường sinh

thái, đồng thời, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì sự kết hợp kinh

tế với đảm bảo an ninh quốc phòng, phát triển kinh tế địa phương với kinh

tế cửa khẩu vừa là cơ hội vừa là thách thức của huyện.

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, huyện Vị Xuyên có nhiều điều

136

kiện thuận lợi để phát triển một nền kinh tế mở. Với lợi thế về không gian

lãnh thổ, huyện gần như ôm trọn Thành phố Hà Giang - trung tâm kinh tế -

chính trị của tỉnh, ngoài ra trên địa bàn còn có cửa khẩu quốc gia Thanh

Thủy (nay là cửa khẩu quốc tế) và cửa khẩu tiểu ngạch Lao Chải; trong đó

cửa khẩu Thanh Thủy (phía Vân Nam - Trung Quốc gọi là Thiên Bảo) chính

là điểm đầu của quốc lộ số 2 là vùng kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy của

huyện Vị Xuyên với Hà Giang và tới điểm cuối của quốc lộ số 2 là thủ đô

Hà Nội; đồng thời là cầu nối giao lưu trực tiếp giữa huyện Vị Xuyên -

Thành phố Hà Giang với Châu Văn Sơn (Vân Nam - Trung Quốc).

Qua cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang và huyện Vị Xuyên đã có

nhiều hoạt động giao lưu kinh tế - xã hội với châu Văn Sơn, Vân Nam,

Trung Quốc. Hiện nay, huyện Vị Xuyên đã xuất khẩu các mặt hàng: mây tre

đan, sản phẩm quặng kim loại,… sang châu Văn Sơn - Vân Nam và cũng

nhập về từ đó một số mặt hàng gia dụng, điện, đồ chơi trẻ em,… Trong

tương lai khi cửa khẩu được xây dựng khang trang, hiện đại hơn với việc

khai thác có hiệu quả của tuyến quốc lộ 2 - tuyến liên kết của huyện Vị

Xuyên - Thành phố Hà Giang - cửa khẩu Thanh Thủy - các huyện và tỉnh

phía nam Vị Xuyên thì việc giao lưu kinh tế giữa các vùng và với Vân Nam

- Trung Quốc không chỉ bó gọn trong phạm vi tỉnh Hà Giang mà còn mở

rộng sang các tỉnh phía nam quốc lộ 2. Tuy nhiên, với một nền kinh tế phát

triển hơn, năng động hơn từ phía Vân Nam thì nền kinh tế của Vị Xuyên và

vùng kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy cũng không tránh khỏi những sức ép.

Không chỉ thuận lợi cho giao lưu về kinh tế mà vùng Vị Xuyên - thành phố

Hà Giang - cửa khẩu Thanh Thủy còn có nhiều điều kiện thuận lợi để giao

lưu về văn hóa - xã hội giữa hai nước, như: hội chợ ẩm thực năm 2007 được

tổ chức tại huyện Vị Xuyên, trong đó có sự tham gia của châu Văn Sơn;

chương trình phân định ranh giới và cắm mốc biên giới giữa Việt Nam -

Trung Quốc ở địa phận tỉnh Hà Giang đã hoàn thành; tổ chức các tour du

137

lịch từ Hà Giang sang Malipo - châu Văn Sơn,…

Như vậy, sự liên kết chặt chẽ về không gian kinh tế - xã hội giữa huyện

Vị Xuyên - thành phố Hà Giang và vùng cửa khẩu Thanh Thủy bên cạnh

việc thuận lợi để phát triển kinh tế mở còn tạo nhiều điều kiện thuận lợi để

phát triển các vùng kinh tế trong tỉnh.

4.3.2. Cần có quy hoạch phát triển các ngành kinh tế trong đó xác định

rõ khả năng phát triển từng lĩnh vực cụ thể, phân tích lợi thế so sánh để có

bước đi thích hợp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải căn cứ vào nguồn lực

phát triển, khai thác hiệu quả các nguồn lực và phù hợp với điều kiện thực

tế của địa phương.

Huyện Vị Xuyên phải đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng tiến bộ khoa

học - kỹ thuật vào sản xuất nông - lâm nghiệp nhất là với các loại cây, con

đặc sản có thế mạnh đặc trưng của huyện. Việc đưa các mặt hàng nông sản

có thu nhập cao lên vị trí mũi nhọn để tạo sự đột phá mạnh mẽ hơn nữa

trong phát triển nông nghiệp là cần thiết, kết hợp với nghiên cứu phát triển

các khu chuyên canh những sản phẩm đặc sản của địa phương liên kết với

thị trường bên ngoài tỉnh và hướng tới xuất khẩu.

Huyện cần có kế hoạch để khai thác có hiệu quả và bền vững hơn nữa

nguồn lợi từ rừng. Đây là vấn đề quan trọng không chỉ bảo vệ môi trường

sinh thái - vấn đề ngày càng được đề cao trong phát triển kinh tế - xã hội mà

còn giải quyết sinh kế bền vững của các nhóm cư dân có đời sống gắn bó

hữu cơ với rừng tạo bước đột phá về phát triển trồng rừng và bảo vệ rừng

sản xuất đảm bảo nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến. Thực hiện có

hiệu quả các dự án trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, gắn trồng rừng và

phát triển các loại rừng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và khả

năng mở rộng phát triển hệ thống giao thông và thị trường. Khuyến khích

phát triển rừng kinh tế theo quy hoạch và xây dựng bộ giống cây có năng

suất cao, chất lượng tốt gắn với thị trường ổn định. Với vị trí là một huyện

138

miền núi biên giới, Vị Xuyên cần có những đề xuất mạnh dạn để thu hút đầu

tư phát triển các lĩnh vực nông - lâm nghiệp, đưa lĩnh vực này phát triển

theo hướng chiều sâu, mang lại hiệu quả cao và đồng thời giải phóng một

lực lượng lao động ra khỏi khu vực này.

Các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây dược liệu có thế mạnh cần

được phát triển theo hướng thâm canh, chất lượng cao. Sản xuất tập trung gắn

với phát triển công nghiệp chế biến, xây dựng thương hiệu và giữ vững thị

trường đầu ra. Quy hoạch và xây dựng các cơ sở chế biến nông - lâm sản, chế

biến thực phẩm, thức ăn gia súc gắn với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất

nông - lâm sản hàng hóa tập trung, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.

Trong việc đầu tư cho nông nghiệp, cần tiến hành điều chỉnh cơ bản lại

cơ chế chính sách đầu tư theo hướng ưu tiên đầu tư vào việc đào tạo nhân

lực và ứng dụng khoa học - công nghệ. Tập trung đầu tư vào các lĩnh vực

chế biến, bảo quản, ứng dụng cơ giới hoá, điện khí hoá, tin học, hội nhập

kinh tế quốc tế, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, mã hiệu hàng hoá, hỗ trợ một

phần lãi suất ngân hàng cho một số lĩnh vực ưu tiên cho nông dân. Xây

dựng cơ chế đặc thù cho các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh, cá

nhân có điều kiện đầu tư vào nông nghiệp để tạo dựng thành công mô hình

sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị từ khâu: sản xuất - chế biến bảo

quản - tiếp thị, thương mại - người tiêu dùng. Tổ chức thực hiện các mô

hình liên kết sản xuất bền vững theo mô hình chuỗi giá trị liên thông: Trước

hết trên những lĩnh vực đang diễn ra nhưng chưa được tổ chức lại nên đang

gây ra hiện tượng chưa hiệu quả hiện nay như: sản xuất chè, cam, dược liệu,

trồng và chế biến gỗ, nuôi cá, lợn, gà thương phẩm... vừa làm vừa tổng kết

để gắn người sản xuất với các doanh nghiệp, hộ kinh doanh, nhà khoa học,

thị trường làm cho mối quan hệ này thống nhất với nhau mới có một nền

kinh tế phát triển bền vững và hiệu quả.

Các ngành nghề thủ công, nhất là những nghề mang tính chất truyền

139

thống phải được đẩy mạnh phát triển, một số lĩnh vực thủ công của đồng

bào cần được phát huy. Điều cần thiết là lập nên các hợp tác xã nghề thủ

công để có sự trao đổi, liên kết với nhau trong sản xuất cũng như tiêu thụ.

Trước hết cần đầu tư sâu một số mô hình điểm, sau đó nhân rộng thông qua

quảng bá sản phẩm và thu hút các nguồn đầu tư.

Huyện cần tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ đối với công nghiệp, nhất là các

lĩnh vực công nghiệp chế biến nông - lâm sản, trong đó vấn đề công nghệ

hiện đại phải được ưu tiên hàng đầu để nhằm sản xuất ra những sản phẩm có

chất lượng, lợi thế cạnh tranh cao, mang lại giá trị lớn. Có chính sách tạo

điều kiện thuận lợi nhất để cho các doanh nghiệp dịch vụ phát triển. Đặc

biệt, với lợi thế có cửa khẩu Thanh Thuỷ trên địa bàn, đang được Chính phủ

và tỉnh Hà Giang ban hành nhiều chính sách ưu đãi, huyện Vị Xuyên cần

phát huy mọi khả năng, nguồn lực của mình để biến nơi đây trở thành đòn

bẩy cho các hoạt động thương mại - dịch vụ của địa phương phát triển

đi lên.

Đối với việc phát triển và nâng cao chất lượng du lịch, dịch vụ, thương

mại, cần có chính sách thu hút đầu tư trong lĩnh vực này, đặc biệt là các loại

hình du lịch sinh thái, du lịch gắn với việc phát huy các giá trị bản sắc văn

hóa đồng bào dân tộc thiểu số. Tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng phục vụ

du lịch. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng,

nâng cấp nhà hàng, khách sạn, dịch vụ vận tải hành khách, phát triển công

ty lữ hành, đưa dịch vụ du lịch dần trở thành ngành kinh tế chủ đạo của

huyện. Tạo bước đột phá để kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả, bền vững

và chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đóng góp ngày

càng lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh, cả nước. Mở rộng quan hệ đối

ngoại, để kêu gọi thu hút các nguồn đầu tư vào địa bàn từ các thành phần

kinh tế. Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, chú trọng phát triển các dịch vụ

chất lượng cao. Tập trung đầu tư, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao

140

thông, cơ sở vật chất phục vụ cho việc phát triển du lịch. Thực hiện tốt công

tác quy hoạch, quản lý quy hoạch trong lĩnh vực du lịch. Mặt khác phát triển

kinh tế cũng gắn với việc bảo đảm quốc phòng và an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội.

4.3.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ địa phương, các tổ chức, đoàn thể

mạnh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Vị Xuyên là một huyện miền núi, biên giới, điều kiện kinh tế - xã hội

còn ở mức thấp so với cả nước, vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ có ý

nghĩa rất lớn. Cán bộ là người đem chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước đến cho nhân dân, làm cho chính sách đó đi vào cuộc sống sinh động

của nhân dân các dân tộc. Đồng thời, chính họ là người đại biểu, đại diện

cho nhân dân, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân để báo cáo lên các

cấp uỷ đảng và chính quyền tìm biện pháp giải quyết đáp ứng yêu cầu của

họ. Đặc biệt, phải thường xuyên bồi dưỡng và nâng cao năng lực đội ngũ

cán bộ cấp xã và dựa vào đặc điểm dân tộc mà có cơ cấu cán bộ một cách

phù hợp. Cấp ủy, chính quyền huyện cần tập trung giải quyết tốt việc sắp

xếp, sử dụng đội ngũ cán bộ hiện có phù hợp và hiệu quả; xây dựng kế

hoạch đào tạo và tái đào tạo gắn liền với yêu cầu phát triển hiện nay; chú

trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở; kết hợp sử dụng cán bộ người dân tộc

thiểu số và cán bộ người Kinh để bổ sung cho nhau, giúp nhau cùng tiến bộ.

Trong thời gian tới, huyện cần tiến hành điều tra, rà soát xác định nhu

cầu đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo cụ thể theo từng năm và cả nhiệm

kỳ đối với đội ngũ cán bộ của huyện. Quan tâm đào tạo lực lượng cán bộ

trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời thực hiện tốt công tác tạo

nguồn, sử dụng cán bộ là người tộc thiểu số một cách hợp lý, có hiệu quả,

gắn với bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ.

Các tổ chức, đoàn thể có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy nguồn lực

phát triển, là tác nhân cổ vũ, động viên nhân dân thực hiện nhiệm vụ của

141

Đảng bộ và chính quyền đề ra. Vì vậy, huyện cần kiện toàn số lượng, chất

lượng, tăng kinh phí để các tổ chức này hoạt động hiệu quả. Trong khi đó,

để các tổ chức, đoàn thể tập hợp được lực lượng tham gia, phải đặt lên hàng

đầu những nhiệm vụ lập thân, lập nghiệp, làm giàu hợp pháp, xoá đói giảm

nghèo v.v. Trên cơ sở đó, lực lương này vừa là cố vấn, vừa động viên giúp

đó nhân dân thoát nghèo, từng bước phát triển. Trong thời gian tới, huyện

cũng quan tâm phát triển các hội nghề nghiệp; thông qua các hội này, sẽ

giúp thu nhận, xử lý thông tin về giá cả, sản xuất kinh doanh, về chủ trương,

chính sách, về ứng dụng khoa học - công nghệ, qua đó nắm bắt tình hình sản

xuất và đời sống của nhân dân; đồng thời giúp cho tỉnh và Trung ương có

những chính sách giải quyết các vướng mắc, khó khăn để vừa thực hiện mục

tiêu phát triển kinh tế - xã hội, vừa thực hiện những mục tiêu về an ninh -

quốc phòng.

4.3.4. Nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là đối

với đồng bào vùng sâu, vùng xa. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các

loại hình văn hóa phục vụ đời sống tinh thần của người dân. Tiếp tục đẩy

mạnh công tác xóa nghèo bền vững, tăng chất lượng sống và giảm thiểu

khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các khu vực trên địa bàn huyện.

Trong tình hình hiện nay, việc thực hành chính sách ở miền núi, vùng

đồng bào dân tộc thiểu số phải được coi là để đầu tư phát triển. Đến năm

2010, giáo dục huyện Vị Xuyên đã đạt được nhiều thành tựu lớn, nhưng để

duy trì bền vững cũng như nâng cao trình độ dân trí của địa phương cần chú

trọng hơn nữa cả về chất lượng giáo dục - đào tạo cũng như đầu tư về cơ sở

vật chất. Huyện tiếp tục phát huy thành tựu phổ cập giáo dục trung học cơ

sở và phấn đấu ở mức cao hơn, song song với mở rộng hệ thống các trường

dân tộc nội trú, trường bán trú dân nuôi, trung tâm giáo dục thường xuyên,

trong đó đề cao việc dạy tiếng dân tộc cho cán bộ, giáo viên vùng đồng bào

dân tộc thiểu số. Huy động nhiều nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp giáo dục,

để nâng cao mặt bằng và trình độ dân trí cũng như về chất lượng giáo dục

142

trên địa bàn huyện. Cần tăng cường trang bị hệ thống phòng thí nghiệm,

thực hành và thời gian thực hành, thực tế. Đó là phương pháp có thể khắc

phục những hạn chế về khả năng tư duy trừu tượng của học sinh, nâng cao

năng lực nhận thức lý thuyết và khả năng ứng dựng hệ thống lý thuyết đó

vào cuộc sống. Bằng mọi cách rèn cho học sinh phát triển tư duy độc lập,

diễn đạt chặt chẽ, nhất là học sinh dân tộc thiểu số. Phương châm học

thường xuyên, học suốt đời cần phải được phổ biến mới đáp ứng được

những yêu cầu biến đổi mạnh mẽ của kinh tế, xã hội trong toàn huyện.

Phát triển giáo dục toàn diện, trong đó chú trọng giáo dục mũi nhọn,

hướng nghiệp, dạy nghề, tăng cường chất lượng dạy và học. Nghiên cứu,

xây dựng kế hoạch đào tạo nghề cho lực lượng lao động tại địa phương phù

hợp với yêu cầu của thực tế và khả năng, trình độ của người lao động, đồng

thời phải gắn với giải quyết việc làm trên cơ sở tiềm năng thế mạnh của địa

phương; trong đó chú trọng tới việc nâng cao kỹ năng, kỹ thuật của người

học, đồng thời có chính sách hỗ trợ người học có thể tự tổ chức sản xuất sau

khi học. Gắn hoạt động đào tạo nghề với công tác xóa đói giảm nghèo một

cách bền vững và có hiệu quả. Quan tâm đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và

sử dụng nguồn nhân lực phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực công

tác và yêu cầu phát triển từng ngành, từng lĩnh vực. Bên cạnh đó, huyện cần

chủ động đề xuất, tham mưu với tỉnh để có những chính sách đặc thù thu hút

lực lượng lao động có tay nghề cao, những người có trình độ về địa phương

công tác.

Trong lĩnh vực y tế, để tiếp tục trong việc nâng cao chất lượng khám

chữa bệnh, huyện cần đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công

tác khám chữa bệnh có hiệu quả, trong đó ưu tiên cho hệ thống các trạm y tế

tuyến xã, nâng cao năng lực điều trị những bệnh phổ biến của các trạm y tế.

Có chính sách hỗ trợ thiết thực để nâng cao tỉ lệ bác sĩ khám bệnh tại địa

phương, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ y tế có điều kiện thuận lợi đi học

nâng cao trình độ tay nghề. Ưu tiên tuyển dụng cán bộ y tế người dân tộc

143

thiểu số, cũng như đẩy mạnh sự hợp tác với các bệnh viện lớn trong việc

khám bệnh nhân đạo cho người nghèo, trẻ em và phòng chống dịch bệnh.

Nhiệm vụ trước mắt là thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền,

giáo dục cộng đồng dân cư về ăn uống, sinh hoạt hợp vệ sinh và có biện

pháp nâng cao chất lượng dinh dưỡng cho cộng đồng, đặc biệt là cung cấp

dinh dưỡng cho phụ nữ và trẻ em. Ngành y tế huyện cần phát huy các hoạt

động y tế trong cộng đồng như tiêm chủng mở rộng chống các bệnh thường

gặp ở trẻ em và các bệnh về thai sản.

Đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo bền vững gắn liền với việc

thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Trong thời kỳ qua, công tác xóa

đói giảm nghèo ở huyện Vị Xuyên được thực hiện có hiệu quả, nhưng

những khó khăn thách thức đặc biệt là khả năng tái nghèo trở lại đối với một

bộ phận dân cư vẫn sẽ xảy ra. Do đó, huyện Vị Xuyên cần có những biện

pháp, kế hoạch cụ thể để ngăn chặn khả năng này, đồng thời có những hỗ

trợ để tiếp tục làm tốt hơn công tác xóa đói giảm nghèo. Ngoài việc hỗ trợ

cho người dân về nguồn vốn, thì cần có những tư vấn thiết thực để đồng bào

khó khăn có sự hợp tác hiệu quả, nhất là trong quá trình triển khai thực hiện

các chương trình dự án. Huyện cần thực hiện hỗ trợ phát triển sản xuất đối

với các xã vùng biên giới bao gồm: Tăng các định mức hỗ trợ về sản xuất để

người lao động kịp chuyển đổi nhận thức và bảo toàn vốn cho những năm

tiếp theo; lồng ghép hỗ trợ tín dụng kết hợp với chính sách đào tạo nghề

nông nghiệp cho lao động nông thôn; tăng cường sự liên kết theo chuỗi: sản

xuất - tiêu thụ; gắn đào tạo/tập huấn/xây dựng mô hình với tín dụng để phát

triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, khuyến khích thu hút

đầu tư để tạo việc làm và chuyển dịch việc làm bền vững.

Trong xu thế giao lưu, hội nhập hiện nay, cần nâng cao nhận thức,

trách nhiệm của toàn xã hội, vai trò quản lý của nhà nước đối với nhiệm vụ

phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Trình độ dân trí

chưa cao là cơ hội để văn hoá độc hại xâm nhập và có môi trường tồn tại.

144

Trong đời sống và sinh hoạt, nhiều hộ còn lưu giữ những truyền thống lạc

hậu nên càng bị tụt hậu. Trong văn hoá tiêu dùng và hưởng thụ nhiều mặt

chưa tương đồng với điều kiện kinh tế, xã hội của huyện. Đối với các xã

trong huyện, nhất là các xã vùng cao, huyện cần đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân. Huyện cần tuyên truyền để đồng

bào các dân tộc thiểu số lưu giữ và sử dụng trang phục dân tộc của mình, ít

nhất là trong các lễ hội, những ngày truyền thống của dân tộc. Đối với

những sản phẩm văn hoá vật thể có thể trở thành hàng hoá thì cần có kế

hoạch phát triển để đưa ra thị trường, qua đó vừa đem lại giá trị kinh tế vừa

lưu giữ nét độc đoá của văn hoá dân tộc. Song song với đó là thực hiện Đề

án phát triển thông tin, truyền thông nông thôn 2011-2020 và Chương trình

mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên

giới, hải đảo giai đoạn 2011-2015 và những năm sau. Tăng cường công tác

tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành; tăng cường công

tác đào tạo, bồi dưỡng tập huấn nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ phụ

trách công tác thông tin và truyền thông cấp xã. Ưu tiên đầu tư, nâng cấp

các trạm phát thanh, truyền hình địa phương và tăng giờ phát thanh bằng

tiếng dân tộc tại các đài phát thanh địa phương.

Trong quá trình phát triển kinh tế, cần chú ý giải quyết những tiêu cực

xã hội nảy sinh. Vị Xuyên là một huyện miền núi biên giới có nhiều dân tộc

sinh sống, tình hình tôn giáo tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Do đó, tăng cường

củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện bên cạnh việc tuyên

truyền đầy đủ, rõ ràng những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước

đến với đồng bào thiểu số, vùng sâu vùng xa là hết sức quan trọng; giúp

người dân nắm được tình hình, tránh bị kích động lôi kéo bởi các thế lực thù

địch. Tăng cường ổn định chính trị, giữ vững trật tự trị an sẽ giúp Vị Xuyên

có điều kiện để tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế, làm tốt các mặt công

tác xã hội, nâng cao đời sống văn hóa cho người dân, tiếp tục tiến bước

145

vững chắc trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

KẾT LUẬN

1. Huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang là địa bàn có điều kiện tự nhiên

không thuận lợi, khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, cơ sở hạ tầng còn

thấp kém, giao thông đi lại khó khăn, diện tích đất trồng trọt ít và khó canh

tác; kinh tế chưa phát triển, dân trí còn thấp; số hộ tái nghèo và hộ cận

nghèo vẫn còn cao… Với sự nỗ lực phấn đấu của địa phương và sự hỗ trợ,

tác động từ cơ chế, chính sách đem lại, những năm gần đây huyện Vị Xuyên

đang chuyển mình, có nhiều phát triển tích cực và đang tiếp tục được phát

huy để vươn lên thoát khỏi vị thế là một huyện nghèo, khó khăn trong tỉnh

Hà Giang.

Từ năm 1986 đến năm 2010, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đường lối đổi

mới đã đi vào cuộc sống, người dân huyện Vị Xuyên nhận thức ngày càng

sâu sắc và thực hiện thành công trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Nền

kinh tế đã có nhiều chuyển biến về cả nông - lâm nghiệp, công nghiệp - tiểu

thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, giao thông vận tải và xây dựng cơ

bản. Bộ mặt xã hội huyện Vị Xuyên ngày càng khởi sắc. Nhìn một cách

tổng thể, kinh tế - xã hội của huyện Vị Xuyên nhìn chung đã có sự chuyển

biến khá rõ rệt giữa hai giai đoạn: từ 1986 - 2000 và từ 2001 - 2010.

Trong giai đoạn đầu tiên, tình hình kinh tế - xã hội của Vị Xuyên còn

gặp nhiều khó khăn lớn. Những khó khăn này được đặt trong bối cảnh khó

khăn chung của đất nước và đặc biệt là tỉnh Hà Giang - một tỉnh miền núi

nghèo khó. Mặt khác những năm đầu đổi mới, Vị Xuyên lại càng khó khăn

bởi ảnh hưởng từ hậu quả cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc còn kéo dài.

Đời sống người dân còn thấp cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, số hộ dân

thiếu đói còn cao, cơ cấu kinh tế chỉ có nông - lâm nghiệp là chủ đạo nhưng

còn thiên về độc canh cây lương thực lúa, ngô với năng suất và sản lượng

thấp. Trước tình hình đó, huyện Vị Xuyên đã nhanh chóng thực hiện các

146

biện pháp cần thiết để từng bước ổn định đời sống nhân dân bằng cách đẩy

mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm

thiết yếu phục vụ cho cuộc sống. Trong lĩnh vực xã hội, công tác xóa mù

chữ, công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, vận động người dân bỏ các

hủ tục lạc hậu có nhiều tiến bộ. Từ giữa những năm 90 trở đi, tình hình kinh

tế - xã hội đã có bước chuyển biến tích cực hơn, tạo tiền đề quan trọng cho

sự chuyển biến mạnh ở giai đoạn sau. Sản xuất lương thực đã có sự tăng

nhanh cả về sản lượng và diện tích, góp phần bảo đảm an ninh lương thực.

Cơ cấu kinh tế đã có sự đa dạng khi bộ phận tiểu thủ công nghiệp được chú

ý phát triển, kinh tế đã dần chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa đối

với các loại cây - con có thế mạnh. Giáo dục đã nỗ lực phấn đấu và hoàn

thành được chỉ tiêu phổ cập giáo dục bậc tiểu học, các mặt khác của đời

sống xã hội đều đạt được những kết quả quan trọng.

Trong giai đoạn 2001 - 2010, trên cơ sở nền tảng đã đạt được trong giai

đoạn 1986 - 2000, huyện Vị Xuyên đã phát huy được một số lợi thế mà

trước đây chưa có điều kiện để khai thác. Có điều kiện tự nhiên khá đa dạng,

tài nguyên phong phú, nguồn lao động khá dồi dào, đường lối chính sách

phát triển kinh tế hợp lý, được sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh là nguồn

lực quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội ngày càng phát triển. Vị Xuyên đã

có tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch

đúng hướng theo hướng tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ,

giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP, các ngành kinh tế

có bước phát triển tiến bộ. Các ngành kinh tế phát triển vượt bậc, nông

nghiệp từ chỗ nhiều hộ nông dân thiếu ăn triền miên, hoặc thiếu ăn trong lúc

giáp hạt đến chỗ bảo đảm được an ninh lương thực cho địa phương. Các

giống cây trồng, vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao được đưa vào

nuôi trồng đã tạo ra một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị, mang

thương hiệu trên thị trường. Một số vùng sản xuất chuyên canh mang tính

chất hàng hóa được hình thành, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế

147

biến nông sản hoặc cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh.

Tiểu thủ công nghiệp, từ chỗ còn hết sức mỏng và hạn chế đã dần tạo

được vị trí cao trong cơ cấu nền kinh tế của huyện. Công nghiệp từ chỗ là con

số không đã dần có được những cơ sở công nghiệp lắp ráp, gia công và hứa

hẹn sẽ được mở rộng trong tương lai. Công nghiệp chế biến ngày càng được

chú trọng phát triển, vừa tạo ra chiều sâu vừa đảm bảo tính bền vững, đồng

thời tạo đòn bẩy cho sự phát triển các ngành kinh tế khác. Sự tăng trưởng

nhanh của khu vực kinh tế thương mại, dịch vụ cho thấy mức sống của con

người được nâng lên, vai trò động lực của khu vực kinh tế này ngày càng rõ

nét, đồng thời cũng thể hiện được tính cạnh tranh, sự năng động của nền kinh

tế địa phương. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá,

hiện đại hoá. Tuy vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn chưa thực sự

cân đối, trong khi lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có sự tăng trưởng mạnh

và chiếm vị trí ngày càng lớn trong tỷ trọng GDP của huyện thì lĩnh vực

thương mại, dịch vụ tuy có tăng trưởng như vẫn chiếm vị trí còn khiêm tốn

trong cơ cấu. Điều này liên quan đến cơ sở hạ tầng kinh tế của Vị Xuyên

cũng như hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ kinh tế vẫn còn mỏng chưa đáp

ứng được nhu cầu phát triển. Đây là một trong những nội dung quan trọng

mà Đảng bộ cũng như chính quyền huyện Vị Xuyên cần chú ý tập trung

tháo gỡ trong thời gian tới.

Lĩnh vực văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến, chất lượng cuộc sống

được nâng lên, hạ dần tỷ lệ hộ đói nghèo; trật tự, an toàn xã hội được giữ

vững, an ninh - quốc phòng được củng cố. Thành tựu về giáo dục, y tế ngày

càng lớn hơn khi toàn huyện đã phổ cập được giáo dục trung học cơ sở, tất

cả các xã đều đạt chuẩn quốc gia về giáo dục và y tế. Đó là sự nỗ lực, cố gắng

của nhân dân các dân tộc huyện Vị Xuyên. Ngoài ra sự đang dạng và phong

phú về các loại hình cũng như chất lượng ngày càng nâng cao về văn hóa mà

người dân huyện Vị Xuyên được thụ hưởng cũng là một thành tựu quan trọng

148

mà Đảng bộ và nhân dân huyện Vị Xuyên đạt được.

2. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu còn nhiều vấn đề đáng quan

tâm và cần phải giải quyết, trong đó nổi lên hơn cả là tình trạng tái nghèo

của một bộ phận nhân dân; vấn đề tổ chức không gian kinh tế - xã hội, vấn

đề phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền

núi. Công tác đào tạo chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực công nghệ cao, đào

tạo nghề chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng phổ cập giáo dục còn

thấp và chưa bền vững. Đây là những vấn đề nan giải của một huyện vùng

cao như Vị Xuyên. Sự khó khăn về kinh tế của một bộ phận người dân, sự

không đồng bộ về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, sự mất cân đối về các mặt

giữa các khu vực trong huyện làm cho khả năng tái nghèo, tái mù chữ của

một bộ phận nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số nếu như không

có sự quan tâm thường xuyên của các cấp chính quyền trong huyện.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công

nghiệp - xây dựng, dịch vụ - du lịch nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa

bền vững. Tăng trưởng nội lực chưa nhiều, chưa có bước đột phá lớn. Giữa

các vùng, các lĩnh vực phát triển không đồng đều, chưa tương xứng với tiềm

năng thế mạnh của huyện. Công tác tiếp thị, mở rộng thị trường tiêu thụ sản

phẩm còn hạn chế, sức cạnh tranh của nông sản mang thương hiệu Vị

Xuyên còn thấp. Công nghiệp phát triển chưa vững chắc, gặp nhiều khó

khăn về vốn, về chiến lược phát triển kinh doanh, về công nghệ và thị

trường tiêu thụ. Nhìn chung, quy mô công nghiệp còn nhỏ, công nghệ còn

lạc hậu, sản phẩm đơn điệu, sức cạnh tranh thấp. Mặt khác, sự lệ thuộc của

tăng trưởng kinh tế của Vị Xuyên vào các chương trình, dự án kinh tế cũng

là một vấn đề cần phải có sự điều chỉnh dần nhằm tăng tính tự chủ của nền

kinh tế huyện Vị Xuyên trong thời gian tới. Điều đó có được phải thực sự

bắt nguồn từ việc nâng cao hơn nữa năng lực các ngành kinh tế mũi nhọn

mà huyện Vị Xuyên có lợi thế, đẩy mạnh phát triển nông - lâm nghiệp theo

149

hướng sản xuất thâm canh chất lượng cao, nâng cao hơn nữa khả năng cạnh

tranh của các sản phẩm công nghiệp, thủ công nghiệp có lợi thế cạnh tranh,

từng bước nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ.

3. Từ quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Vị Xuyên từ năm

1986 đến năm 2010 có thể thấy, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế

nhưng kết quả đạt được chứng minh chủ trương, chính sách của Đảng đối

với khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là đúng đắn, sự vận

dụng đường lối đổi mới của Đảng vào phát triển kinh tế, xã hội của địa

phương của Đảng bộ huyện Vị Xuyên là sáng tạo, là phù hợp. Thực tiễn cho

thấy đời sống của các đồng bào dân tộc thiểu số ở Vị Xuyên đã được nâng

cao một cách căn bản cả về mặt vật chất, chăm sóc sức khỏe cũng như khả

năng thụ hưởng văn hóa. Từ một huyện gặp nhiều khó khăn cả về mặt tự

nhiên, xã hội và hậu quả của cuộc chiến tranh biên giới để lại nặng nề, Đảng

bộ và nhân dân huyện Vị Xuyên đã ra sức thực hiện các chủ trương chính

sách của Đảng và nhà nước vừa sáng tạo, nỗ lực trong xây dựng phát triển

kinh tế địa phương và đã đạt được những thành tựu quan trọng. Những

thành tựu về kinh tế, xã hội mà huyện Vị Xuyên đạt được trong gần 30 năm

qua đã góp phần cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân

dân, đảm bảo quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới,

giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng hệ thống chính

trị ngày càng vững mạnh. Đó là cơ sở, điều kiện vàng cũng là niềm tin để

Đảng bộ và nhân dân huyện Vị Xuyên tiếp tục phát huy truyền thống và bài

học kinh nghiệm đã có, khai thác mọi tiềm năng lợi thế của mình, tranh thủ

sự giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh, xây dựng huyện Vị Xuyên ngày càng

150

phát triển, xứng đáng là huyện động lực phát triển của tỉnh Hà Giang.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Lê Hồng Sơn, Thực hiện chính sách dân tộc ở Vị Xuyên (Hà Giang)

giai đoạn 2000 - 2010, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10/2015, tr.104-107, ISSN

0936-8477.

2. Lê Hồng Sơn, Nhìn lại việc thực hiện Nghị quyết Trung ương V (khoá VIII)

ở Vị Xuyên, Hà Giang, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 2/2016, tr.3-5, ISSN

0866-8655.

3. Lê Hồng Sơn, Công tác xoá đói giảm nghèo ở huyện Vị Xuyên,

tỉnh Hà Giang giai đoạn 2000-2010, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á,

số 3/2016, tr.75-80, ISSN 0868-2739.

4. Lê Hồng Sơn, Kết quả triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW về tiếp

tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên địa

bàn huyện Vị Xuyên (Hà Giang), Tạp chí Thanh tra, số 3/2016, tr. 5 - 7,

151

ISSN 2354-1121.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (Chủ biên, 1994), Đổi mới kinh tế và phát triển, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Đinh Văn Ân (2005), Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội tốc độ nhanh bền vững, chất lượng cao ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

3. Vũ Đình Bách (2002), Kinh tế học vĩ mô, NXB Giáo dục, Hà Nội. 4. Vũ Đình Bách (Chủ biên, 2008), Kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (1998), Những sự kiện lịch sử

Đảng bộ tỉnh Hà Giang thời kỳ 1939-1975, Hà Giang.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Hà Giang, tập 1, Hà Giang.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Hà Giang, tập 2, Hà Giang.

8. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang (2009), Lịch sử Đảng bộ tỉnh

Hà Giang, tập 3, Hà Giang.

9. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên (1985), Báo cáo thành tích sản xuất, chiến đấu và tổ chức đời sống của quân và dân huyện Vị Xuyên từ năm 1979-1985, ngày 02 tháng 11 năm 1985.

10. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên (2001), Lịch sử Đảng bộ

huyện Vị Xuyên (1939 - 2000), Hà Giang.

11. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên (2005), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên lần thứ XXI nhiệm kỳ 2005 -2010, Vị Xuyên, 10/2005.

12. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Vị Xuyên lần thứ XXII nhiệm kỳ 2010 - 2015, Vị Xuyên, 6/2010.

152

13. Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Ban Kinh tế Trung ương, Tỉnh Hà Giang (2015), Kỷ yếu Hội thảo phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang trong mối liên kết vùng Đông Bắc và Tây Bắc, Hà Giang,

14. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hà Giang (2011), Tỉnh Hà Giang 20 năm tái

lập và phát triển (1991 - 2011), Hà Giang.

15. Bản tin Đại học Quốc gia Hà Nội, số 241, tháng 4-2011.

16. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên, 2009), Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Nguyễn Đình Bảy (2006), “Thương mại và du lịch Hà Giang: Trên đà

phát triển và hội nhập”, Tạp chí Thương mại, số 10, tr.29-30.

18. Đàm Văn Bông (2004), “Điểm đến thân thiện của du khách’, tạp chí

Du lịch Việt Nam, số 11.

19. Đàm Văn Bông (2005), “Huyện uỷ Vị Xuyên với việc nâng cao chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr.57-60.

20. Đàm Văn Bông (2006), “Vị Xuyên - tiềm năng và cơ hội đầu tư”, Tạp

chí Đông Nam Á, số 7, tr. 52-53.

21. Bộ Công nghiệp (2006), Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh

Trung du và miền núi Bắc bộ, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.

22. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (2007), Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - Thành tựu, thách thức và giải pháp, Hà Nội.

23. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1996), Xóa đói giảm nghèo với

tăng trưởng kinh tế, NXB Lao động, Hà Nội.

24. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Những định hướng chiến lược của chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010, NXB Lao động xã hội, Hà Nội..

25. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Tài liệu tập huấn dành cho cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo cấp tỉnh và cấp huyện, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

153

26. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Số liệu thống kê xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000 và 2001 - 2003, NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

27. Nguyễn Duy Bột (chủ biên,1995), Một số vấn đề kinh tế thương mại -

dịch vụ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

28. Vũ Đăng Bút (2004), “Vị Xuyên nâng cao chất lượng dạy và học”,

tạp chí Dân tộc và thời đại, số 68, tr.29.

29. Nguyễn Văn Châu (2009), Ảnh hưởng tín dụng ưu đãi ngân hàng chính sách xã hội đến giảm tỉ lệ nghèo tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang (luận văn Thạc sĩ Kinh tế), ĐH Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên.

30. Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của

thời đại, NXB Sự thật, Hà Nội.

31. Chi cục thống kê huyện Vị Xuyên, Niên giám thống kê 2009-2010. 32. Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ Quang Việt, Trần Vân (2002), Kinh tế Việt Nam đổi mới: Những phân tích và đánh giá quan trọng, NXB Thống kê, Hà Nội.

33. Trần Văn Chử (2004), Tài nguyên thiên nhiên môi trường với tăng trưởng và phát triển bền vững ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Nguyễn Sinh Cúc (1995), Nông nghiệp Việt Nam (1945 – 1995), NXB

Thống kê, Hà Nội.

35. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (1995), Số liệu kinh tế - xã hội tỉnh

Hà Giang 1990-1994.

36. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2005), Niên giám thống kê 2001 - 2004,

Hà Giang.

154

37. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (1999), Niên giám thống kê 1995-1998. 38. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2001), Niên giám thống kê 2000. 39. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2002), Niên giám thống kê 2001. 40. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2004), Niên giám thống kê 2001-2003. 41. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2003), Niên giám thống kê 2002. 42. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2006), Niên giám thống kê 2001-2005. 43. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2007), Niên giám thống kê 2002-2006. 44. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2008), Niên giám thống kê 2007.

45. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2009), Niên giám thống kê 2008. 46. Cục thống kê tỉnh Hà Giang (2011), Niên giám thống kê 2010. 47. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Khổng Diễn (Chủ biên, 1996), Những đặc điểm kinh tế - xã hội các

dân tộc miền núi phía Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Nguyễn Văn Dũng (2004), Bưu điện Hà Giang với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr.53-55. 50. Khánh Duy (2005), “Hà Giang trong công cuộc xoá đói giảm nghèo”,

tạp chí Dân tộc và thời đại, số 76, tr.15,24.

51. Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (đồng Chủ biên, 2004), Các dân tộc ở Hà Giang, NXB Thế giới, Trung tâm Thông tin Văn hoá các dân tộc, Hà Nội.

52. Đại học Quốc gia Hà Nội - UBND tỉnh Hà Giang (2011), Kỷ yếu Hội thảo khoa học và Diễn đàn đầu tư “Vì Hà Giang phát triển”, Hà Nội, tháng 4-2011.

53. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.

54. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), số 22/NQ-TW, Nghị quyết về một số chủ trương,chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, ngày 27 tháng 11 năm 1989.

55. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.

56. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Chiến lược ổn định phát triển kinh tế

đến năm 2000, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kì đổi mới (Đại

155

hội VI, VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia ,Hà Nội.

60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương (2007), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lí luận, thực tiễn 20 năm đổi mới (1986 - 2006), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Đảng bộ Quân sự tỉnh Hà Giang (2011), Lịch sử Đảng bộ Quân sự tỉnh

Hà Giang (1945 - 2010), Hà Giang.

64. Bế Viết Đẳng (Chủ biên, 1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 65. Võ Văn Đức (2009), Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

66. Minh Giang (2007), “Vị Xuyên làm du lịch”, Tạp chí Du lịch Việt

Nam, số 6, tr.39.

67. Thạch Thiết Hà (2009), “Thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Hà

Giang”, Tạp chí Dân tộc học, số 5 (161), tr. 78-79.

68. Lương Việt Hải (Chủ biên, 2008), Hiện đại hóa xã hội vì mục tiêu công

bằng xã hôi ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

69. Lê Mậu Hãn (Chủ biên), Nguyễn Đình Lê, Trương Thị Tiến (2012),

Lịch sử Việt Nam - tập 4, NXB Giáo dục, Hà Nội.

70. Nguyễn Hồng Hạnh (2013), Sinh kế bền vững cho cán bộ dân tộc thiểu số tại các vùng định canh định cư - tình huống huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học kinh tế TP.Hồ Chí Minh. 71. Tô Đức Hạnh, Phạm Văn Linh (2000), Phát triển kinh tế hàng hóa trong nông thôn các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam, thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Nguyễn Thị Hằng (2001), Chính sách lao động, thương binh và xã hội

156

trong công cuộc đổi mới, NXB Lao động, Hà Nội.

73. Nguyễn Thanh Hằng, Lê Duy Đồng (2005), Phân phối và phân hóa giàu nghèo sau 20 năm đổi mới, NXB Lao động xã hội, Hà Nội. 74. Nguyễn Thị Thu Hiền (2013), Phát triển tài nguyên rừng gắn với giảm nghèo ở huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, Luận văn Thạc sĩ Địa lý, Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.

75. Hoàng Ngọc Hòa (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

76. Sơn Phước Hoan (2009), “Thực hiện một số chính sách xã hội ở vùng dân tộc thiểu số trong hội nhập và phát triển”, Tạp chí Cộng sản, số 805, tháng 11, tr. 14-17.

77. Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa X (2005), Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước về dân tộc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 78. Đoàn Minh Huấn (2000), “Quan điểm của Đảng về đảm bảo sự thống nhất giữa các chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong thời kì đổi mới”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 11, tr.19-21.

79. Huyện uỷ Vị Xuyên (2013), Báo cáo kết quả 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, ngày 20-1-2013.

80. Huyện uỷ Vị Xuyên (2014), Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngày 22-4-2014.

81. Phạm Gia Khiêm (2006), “Xoá đói giảm nghèo ở nước ta - thành tựu

thách thức và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản, tháng 2.

82. Kinh tế - Xã hội Việt Nam trước thềm hội nhập (2005), NXB Thống kê,

Hà Nội.

83. Kinh tế - Xã hội Việt Nam, Các tỉnh - thành phố - quận - huyện năm

2010 (2006), NXB Thống kê, Hà Nội.

84. Tống Duy Khuyên (2004), “Ngành giáo dục và đào tạo Vị Xuyên: Một

157

chặng đường phát triển”, tạp chí Đông Nam Á, số 9.

85. Vũ Ngọc Kỳ (2000), Tăng cường hệ thống chính trị vững mạnh trên

địa bàn tỉnh Hà Giang, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

86. Vi Thái Lang (2015), Nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở miền núi phía Bắc nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh

vực hoạt động, NXB Sự thật, Hà Nội.

88. Nguyễn Thế Long (2006), Đổi mới tư duy, phát triển giáo dục Việt

Nam trong kinh tế thị trường, NXB Lao động, Hà Nội.

89. Lê Quốc Lý (Chủ biên, 2012), Chính sách xoá đói giảm nghèo - thực

trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

90. Nguyễn Văn Mậu (2004), “Du lịch Hà Giang - tiềm năng và hướng

phát triển”, Tạp chí Dân tộc và thời đại, số 66, tr. 23-24.

91. Viên Thị Mừng (2005), Nghề nấu rượu thóc truyền thống của người Tày ở xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.68-70.

92. Một số văn kiện về chính sách dân tộc - miền núi của Đảng và Nhà

nước (1992), NXB Sự thật, Hà Nội.

93. Đậu Tuấn Nam (2013), Di cư của người Mông từ đổi mới đến nay,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Phạm Xuân Nam (chủ biên, 1991), Đổi mới kinh tế - xã hội thành tựu,

vấn đề và giải pháp, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

95. Phạm Văn Nhần, Lê Xuân Mát, Ngô Huy Chương (1999), Lịch sử phong trào công nhân và công đoàn tỉnh Hà Giang (1900 - 1998), NXB Lao động, Hà Nội.

96. Thanh Như (2008), “Vị Xuyên trên đường hội nhập”, tạp chí Dân tộc

và phát triển, tháng 4.

97. Quế Nga (2005), Vị Xuyên - nơi mùa đông không còn ở lại, tạp chí

Đông Nam Á, tháng 3, tr.66-67,71.

98. Hoàng Đức Nghi (2001), Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi mới

158

(1990-2000), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

99. Nghị định số 64/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã phường của thị xã Hà Giang và huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang, Công báo, tháng 7-2006.

100. Đặng Phong (2009), Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989, NXB Tri

thức, Hà Nội.

101. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa (chủ biên) (1998), Phát triển kinh tế xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Nguyễn Trọng Phúc (2000), Một số kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

103. Nguyễn Trọng Phúc (2006), Đổi mới ở Việt Nam- Thực tiễn và nhận

thức lý luận, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

104. Trịnh Huy Quách, Hoàng Thị Tây Ninh (2004), Vấn đề di dân trong phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tạp chí Cộng sản, số 13, tr.58-62.

105. Lương Xuân Quỳ (Chủ biên, 2015), Tư duy mới về phát triển kinh tế -

xã hội Việt Nam trong bối cảnh mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 106. Nguyễn Duy Quý (2008), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt

Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

107. Quyết định số 72/HĐBT Về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát

triển kinh tế - xã hội miền núi, ngày 13 tháng 3 năm 1990.

108. Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg Về phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía Bắc thời kỳ 2001 - 2005, ngày 7-12- 2001.

109. Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg Phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010, ngày 10-1-2006.

159

110. Quyết định số 89/1998/QĐ-TTg Phê duyệt chương trình tổng thế phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường an ninh, quốc phòng khu vực 33 xã và 1 thị trấn vùng cao biên giới tỉnh Hà Giang, ngày 7-5-1998.

111. Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg Phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa, ngày 31-7-1998.

112. Quyết định số 170/2005/QĐ- TTg Về việc ban hành chuẩn nghèo áp

dụng cho giai đoạn 2006 – 2010, ngày 8-7-2005.

113. Quyết định số 393/2005/QĐ-UBDT Về việc ban hành Quy định về Tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển, ngày 29-8-2005.

114. Quyết định số 164/2006/QĐ-TTg Về việc phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II), ngày 11-7-2006.

115. Quyết định số 05/2007/QĐ-UBDT ngày 6/9/2007, Quyết định số 301/2006/QĐ-UBDT ngày 27/11/2006 của UBDT Về việc công nhận 3 khu vực vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển.

116. Quyết định số 69/2008/QĐ-TTg Về việc phê duyệt bổ sung danh sách các xã ĐBKK, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình 135 giai đoạn II và danh sách các xã ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135 giai đoạn II, ngày 28-5-2008.

117. Quyết định số 136/2009/QĐ-TTg Về việc thành lập Khu kinh tế cửa

khẩu Thanh Thuỷ, tỉnh Hà Giang, ngày 26-11-2009.

118. Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Giang (2008), Hà Giang tiềm năng và cơ

hội đầu tư, Hà Giang.

119. Sở Tư pháp Hà Giang (1998), Tập hệ thống các văn bản quy phạm

pháp luật tỉnh Hà Giang 1991 - 1996, Hà Giang.

120. Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Hà Giang (2010), Các đề án phát triển sự

nghiệp văn hóa, thông tin tỉnh Hà Giang giai đoạn 2001-2010.

121. Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi

160

mới và phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

122. Mai Thanh Sơn (2004), Định hướng khai thác tiềm năng du lịch văn hoá tộc người ở Vị Xuyên, tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11, tr.42-44. 123. Nguyễn Đình Tấn, Trần Thị Bích Hằng (2010), Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

124. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên - 2010), Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã

hội Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

125. Lê Thanh (2005), “Xoá đói giảm nghèo, vấn đề và giải pháp vùng dân tộc thiểu số ở phía Bắc Việt Nam”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.71-72. 126. Trần Thanh (2004), “Ngành giao thông vận tải Hà Giang với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá vùng cao biên giới”, tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr.56-88.

127. Triệu Đức Thanh (2004), “Những khởi sắc kinh tế - xã hội tỉnh Hà

Giang”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, tr. 8-11.

128. Bế Trường Thành - Phan Hữu Dật - Lê Ngọc Thắng (2002), Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

129. Đào Thu Thuỷ (2007), Hiệu quả từ chương trình 135, tạp chí Dân tộc

và thời đại, số 100.

130. Bùi Phương Thuý (2010), Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên, Hà Giang thời kì đổi mới (luận văn Thạc sĩ Địa lí), Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.

131. Lê Thông (Chủ biên) (2008), Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 132. Tạ Nam Tiến, Nguyễn Thanh Long, Phạm Ngọc Dũng (2010), Ngành lao động - thương binh và xã hội Hà Giang - 65 năm xây dựng và phát triển (1945 - 2010), NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.

133. Trương Thị Tiến (1999), Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở

161

Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.

134. Toàn cảnh kinh tế Việt Nam - Các ngành kinh tế Việt Nam (2006),

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

135. Đỗ Hoàng Toàn (1998), Mấy vấn đề cơ bản về chiến lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xã hội - Những vấn đề cơ bản của thời kì quá độ, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

136. Nguyễn Trường Tô (2007), “Hà Giang bước vào mùa xuân đổi mới”,

tạp chí Dân tộc và thời đại, số 100, tr.23-24.

137. Nguyễn Trường Tô (2009), “Những thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang trong những năm 2006-2008”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 148, tr. 42-43, 55.

138. Tổng cục Thống kê (1999), Tư liệu kinh tế - xã hội 61 tỉnh và thành

phố, NXB Thống kê, Hà Nội.

139. Tổng cục Thống kê (2005), Tư liệu kinh tế - xã hội 64 tỉnh và thành

phố, NXB Thống kê, Hà Nội.

140. Tổng cục Thống kê (2006), Tư liệu kinh tế - xã hội 671 huyện, quận,

thị xã, thành phố thuộc tỉnh Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

141. Tổng cục Thống kê (2009), Tư liệu kinh tế - xã hội 63 tỉnh, thành phố

Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.

142. Tổng cục Thống kê (2011), Số liệu thống kê vị thế kinh tế - xã hội 63 tỉnh, thành phố Việt Nam (Song ngữ Việt-Anh), NXB Thống kê, Hà Nội.

143. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang (2001), Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891-2001), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

144. Lê Xuân Trinh (1990), Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2000: mục tiêu, phương hướng và giải pháp chủ yếu, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. 145. Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường - Đại học Quốc gia Hà Nội (2008), Những chuyển đổi kinh tế - xã hội ở vùng cao Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

146. Uỷ ban Dân tộc và Miền núi (2001), Về vấn đề dân tộc và công tác dân

162

tộc ở nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

147. Uỷ ban Dân tộc (2004), Một số thông tin cơ bản các tỉnh vùng dân tộc

và miền núi, NXB Thống kê, Hà Nội.

148. Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Dân tộc học (1987), Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

149. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1985), Phương hướng nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu, kế hoạch phát triển kinh tế văn hóa xã hội năm 1986, ngày 30 tháng 8 năm 1985.

150. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1990), Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện về việc thực hiện kế hoạch 9 tháng đầu năm 1990, ngày 12 tháng 9 năm 1990.

151. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1991), Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội năm 1990 và phương hướng mục tiêu năm 1991, ngày 16 tháng 1 năm 1991.

152. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1992), Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên về việc thực hiện các chỉ tiêu cơ bản về kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng trên địa bàn huyện, ngày 10 tháng 7 năm 1992.

153. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1993), Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên về tình hình thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, anh ninh quốc phòng 10 tháng đầu năm 1993 và những dự kiến khả năng thực hiện 2 tháng cuối năm 1993, ngày 21-10-1993.

154. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1994), Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên về tình hình thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 1993, ngày 08 tháng 1 năm 1994.

155. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1995), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 2 năm 1993 - 1994, ngày 25 tháng 6 năm 1995.

163

156. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1996), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1996, phương hướng nhiệm vụ năm 1997, ngày 30 tháng 12 năm 1996.

157. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1997), Báo cáo tóm tắt quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên - tỉnh Hà Giang (giai đoạn 1997-2010), tháng 7 năm 1997.

158. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1998), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội năm 1998. Phương hướng, nhiệm vụ năm 1999, ngày 31 tháng 12 năm 1998.

159. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (1999), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và một số nhiệm vụ chủ yếu 6 tháng cuối năm 1999, ngày 05 tháng 7 năm 1999.

160. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2000), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên 2000 - 2010. Tài liệu lưu hành nội bộ, Vị Xuyên.

161. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2001), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2000, phương hướng, biện pháp thực hiện nhiệm vụ trong 2001 (báo cáo tại kỳ họp thứ 4 HĐND huyện khóa 16), ngày 03 tháng 3 năm 2001.

162. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2002), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001. Phương hướng nhiệm vụ chủ yếu năm 2002, ngày 01 tháng 02 năm 2002.

163. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2003), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2002. Phương hướng nhiệm vụ chủ yếu năm 2003, ngày 10 tháng 01 năm 2003.

164. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2003), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2003. Phương hướng giải pháp thực hiện nhiệm vụ năm 2004, ngày 20 tháng 12 năm 2003.

164

165. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2004), Kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005, ngày 19 tháng 12 năm 2004.

166. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2005), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006, ngày 26 tháng 12 năm 2005.

167. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2006), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ năm 2007, ngày 25 tháng 12 năm 2006.

168. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2007), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2007 và phương hướng năm 2008, ngày 25 tháng 12 năm 2007.

169. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2008), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008. Phương hướng, nhiệm vụ năm 2009, ngày 26 tháng 12 năm 2008.

170. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2008), Đề án phát triển giáo dục

Tiểu học huyện Vị Xuyên giai đoạn 2008 - 2010, Vị Xuyên.

171. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2009), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 và phương hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, ngày 18 tháng 12 năm 2009.

172. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo tổng kết Chương trình 135 giai đoạn II từ năm 2006 đến năm 2010, ngày 04 tháng 10 năm 2010.

173. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, phương hướng nhiệm vụ và một số giải pháp chủ yếu năm 2011, ngày 30 tháng 11 năm 2010.

174. Ủy ban nhân huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo quá trình thực hiện các mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở giai đoạn 2001-2010.

165

175. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Báo cáo tổng hợp “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên đến năm 2020. Vị Xuyên.

176. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm huyện Vị Xuyên từ năm 2005 đến 2010. 177. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2010), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Vị Xuyên 2000 - 2010, Tài liệu lưu hành nội bộ, Vị Xuyên.

178. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên (2011), Đề án đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo huyện Vị Xuyên giai đoạn 2010 - 2015, Vị Xuyên.

179. Ủy ban nhân dân huyện Vị Xuyên - Phòng Văn hóa & Thông tin (2012), Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và kết luận Hội nghị Trung ương 10 khóa IX “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, ngày 12 tháng 12 năm 2012.

180. Viện Dân tộc học (1987), Một số vấn đề kinh tế - xã hội các tỉnh miền

núi phía Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

181. Việt Nam trong thế kỉ XX (2001), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Các website: hagiang.gov.vn, vixuyen.hagiang.gov.vn, baohagiang.vn,

moj.gov.vn, www.cema.gov.vn, thuvienphapluat.vn

Tài liệu điền dã: Trong quá trình thực hiện luận án, ngoài việc trực tiếp đến

làm việc với các Phòng - Ban huyện Vị Xuyên để thu thập tài liệu, tác giả đã

phỏng vấn, trao đổi lấy ý kiến một số nhân chứng về quá trình phát triển

kinh tế, xã hội huyện. Đó là:

1. Ông Lưu Đình Phát, nguyên Phó Bí thư huyện uỷ, Chủ tịch UBND

huyện Vị Xuyên. Số điện thoại: 0975190359. Địa chỉ: Đưởng Trần

166

Phú, Thành phố Hà Giang.

2. Ông Bùi Quang Trung, Trưởng phòng Văn hoá - Thông tin huyện

Vị Xuyên, nguyên Chánh Văn phòng UBND huyện Vị Xuyên.

Số điện thoại: 0912143439. Địa chỉ: Thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị Xuyên.

3. Bà Lê Thị Liên, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện uỷ Vị Xuyên.

Số điện thoại: 01233053323. Địa chỉ: Thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị

Xuyên.

4. Bà Trần Thị Ngọc, Phó Chánh văn phòng UBND huyện Vị Xuyên.

Số điện thoại: 0915876345. Địa chỉ: Thị trấn Vị Xuyên, huyện

Vị Xuyên.

5. Bà Bùi Phương Thuý, Giảng viên Trường Cao đẳng sư phạm

Hà Giang (người xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên). Số điện thoại:

0915172630. Địa chỉ: Đường Nguyễn Trãi, Thành phố Hà Giang.

6. Ông Hầu A Sách, Đại tá, Trưởng phòng An ninh điều tra (PA92)

Công an tỉnh Hà Giang (người xã Bạch Ngọc, huyện Vị Xuyên).

Số điện thoại: 0913271325. Địa chỉ: Đường Minh Khai, Thành phố

167

Hà Giang.

PHỤ LỤC

168

Nguồn: [14; tr.9]

169

Phụ lục 1. Bản đồ tỉnh Hà Giang, năm 2010

Nguồn: [130; tr.36]

170

Phụ lục 2. Bản đồ hành chính huyện Vị Xuyên (năm 2010)

Nguồn: [130; tr.43]

171

Phụ lục 3. Bản đồ dân cư huyện Vị Xuyên

Phụ lục 4. Bản đồ phân định xã, thị trấn thuộc vùng dân tộc thiểu số và

Nguồn: [130; tr.69]

172

miền núi huyện Vị Xuyên theo trình độ phát triển, đến năm 2010

Phụ lục 5. Biểu đồ cơ cấu kinh tế huyện Vị Xuyên

từ năm 2000 đến 2010

Nguồn: Niên giám thống kê và báo cáo của UBND huyện theo các năm

173

(đơn vị tính %)

Phụ lục 6. Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2009

STT

Danh mục

Dân số (người)

Số hộ

Mật độ dân số (Người/km2)

Diện tích (ha)

64.37

Tổng cộng

149,524.99

96,250.00

21,036.00

524.44

1 Thị trấn Vị Xuyên

1,487.87

7,803.00

2,056.00

255.18

2 Thị trấn Việt Lâm

1,781.46

4,546.00

1,317.00

3 Lao Chải

5,012.57

1,796.00

312.00

35.83

4 Xín Chải

2,347.28

906.00

164.00

38.60

5 Thanh Đức

2,322.21

743.00

128.00

32.00

6 Thanh Thuỷ

5,244.63

2,095.00

454.00

39.95

7 Phương Tiến

5,826.90

2,874.00

572.00

49.32

8 Kim Thạch

2,803.76

2,190.00

512.00

78.11

9 Kim Linh

3,730.53

2,497.00

495.00

66.93

10 Phong Quang

3,472.17

2,179.00

501.00

62.76

11 Minh Tân

10,814.34

5,647.00

1,073.00

52.22

12 Thuận Hoà

10,835.48

5,943.00

1,161.00

54.85

13 Tùng Bá

12,298.66

6,810.00

1,357.00

55.37

14 Cao Bồ

11,016.60

3,678.00

712.00

33.39

15 Đạo Đức

4,361.75

4,975.00

1,273.00

114.06

16 Linh Hồ

7,707.72

7,605.00

1,586.00

98.67

17 Ngọc Linh

4,565.27

4,213.00

931.00

92.28

18 Ngọc Minh

7,432.56

3,883.00

760.00

52.24

19 Bạch Ngọc

11,940.37

3,803.00

743.00

31.85

20 Trung Thành

5,759.97

5,471.00

1,252.00

94.98

21 Việt Lâm

3,802.22

4,174.00

1,070.00

109.78

22 Quảng Ngần

8,371.97

2,153.00

414.00

25.72

23 Thượng Sơn

11,754.04

5,201.00

1,056.00

44.25

24 Phú Linh

4,834.66

5,065.00

1,137.00

104.76

174

Nguồn: [160; tr.80]

Phụ lục 7. Hiện trạng sử dụng đất năm 2010 huyện Vị Xuyên

MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG

TỔNG SỐ (HA)

CƠ CẤU THEO LOẠI ĐẤT (%)

CƠ CẤU THEO TỔNG DTTN (%)

A

B

C

D

TỔNG DIỆN TÍCH ĐẤT TỰ NHIÊN

149,524.99

100.00

100.00

I. NHÓM ĐẤT NÔNG NGHIỆP

139,209.97

93.10

93.10

1. Đất sản xuất nông nghiệp

20,540.91

14.76

13.74

1.1-Đất trồng cây hàng năm

14,283.74

69.54

9.55

1.1.1-Đất trồng lúa

5,353.53

37.48

3.58

1.1.2-Đất cỏ dùng vào chăn nuôi

346.16

2.42

0.23

1.1.3-Đất trồng cây hàng năm khác

8,584.05

60.10

5.74

1.2-Đất trồng cây lâu năm

6,257.17

30.46

4.18

2. Đất lâm nghiệp

118,455.34

85.09

79.22

2.1-Đất rừng sản xuất

65,541.33

55.33

43.83

2.2-Đất rừng phòng hộ

27,648.96

23.34

18.49

2.3-Đất rừng đặc dụng

25,265.05

21.33

16.90

3. Đất nuôi trồng thủy sản

187.96

0.14

0.13

4. Đất nông nghiệp khác

25.76

0.02

0.02

II.NHÓM ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP

4,676.72

3.13

3.13

1. Đất ở

1,006.16

21.51

0.67

1.1-Đất ở tại nông thôn

884.04

87.86

0.59

1.2-Đất ở tại đô thị

122.12

12.14

0.08

2. Đất chuyên dùng

2,073.90

44.35

1.39

2.1-Đất trụ sở cơ quan, công trình

sự nghiệp

43.96

2.12

0.03

2.2-Đất quốc phòng, an ninh

272.00

13.12

0.18

175

2.3-Đất sản xuất, kinh doanh

phi nông nghiệp

811.59

0.54

39.13

2.4-Đất sử dụng vào mục đích công cộng

946.35

0.63

45.63

3. Đất tôn giáo tín ngưỡng

1.01

0.00

0.02

4. Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa

55.16

0.04

1.18

5. Đất sông, suối và MNCD

1,540.49

32.94

1.03

6. Đất phi nông nghiệp khác

-

-

-

II. NHÓM ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG

5,638.30

3.77

3.77

1. Đất bằng chưa sử dụng

174.23

0.12

3.09

2. Đất đồi núi chưa sử dụng

4,958.48

3.32

87.94

3. Núi đá không có rừng cây

505.59

0.34

8.97

Nguồn: [160; tr.81]

176

Phụ lục 8. Hiện trạng ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (2000 - 2010)

HIỆN TRẠNG

STT

CHỈ TIÊU

ĐVT

2000

2005

2008

2009

2010

1000 viên

17,690.00

28,290.00

34,790.00

26,918.00

35,768.00

Sản xuất gạch ngói

1

46,160.00

64,560.00

73,760.00

87,689.00

90,630.00

Khai thác đá, cát sỏi

2

m3

-

131,000.00 270,843.00 380,370.00 410,370.00

3 Khai thác quặng

Tấn

-

6,000.00

26,543.00 105,350.00 119,900.00

4 Quặng Mangan

Tấn

-

35,000.00

69,300.00

47,520.00

52,470.00

5 Quặng chì, kẽm

Tấn

-

90,000.00 175,000.00 227,500.00 238,000.00

6 Quặng sắt 45%

Tấn

-

-

650.00

956.00

1,200.00

Sản xuất ô tô con và ô tô tải

7

Chiếc

22.80

31.60

37.40

40.20

42.50

Sản xuất dao cuốc các loại

8

1000 S.phẩm

Sản xuất hàng may mặc

9

1000 S.phẩm

18.60

25.00

32.00

34.50

35.00

10 Sản xuất điện

Tr.Kw/h

12.00

40.00

60.00

65.00

110.00

Nước máy khai thác

11

1000m3

55.00

80.00

82.00

90.00

Tổng công suất các trạm BA

12

KVA

6,500.00

11,500.00

18,000.00

20,200.00

20,500.00

13 Gạo, ngô xay sát

Tấn

13,500.00

25,400.00

37,279.00

37,961.00

38,370.00

Hàng nông sản khác (đậu phụ)

14

Tấn

60.00

95.00

114.00

116.00

120.00

15 Chè sơ chế

Tấn

950.00

2,095.00

2,104.00

3,516.00

Hàng lâm sản (quy ra gỗ)

16

m3

90.00

130.00

145.00

148.00

150.00

Vật liệu xây dựng (xẻ, xay sát đá)

1000m3

3.50

6.00

7.80

8.20

8.50

17

Nguồn: [160; tr.86]

177

Phụ lục 9. Một số văn bản của Chính phủ và tỉnh Hà Giang

QUYẾT ĐỊNH Số 89/1998/QĐ-TTg ngày 7-5-1998 của Thủ tướng Chính phủ

PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

VÀ TĂNG CƯỜNG AN NINH, QUỐC PHÒNG KHU VỰC 33 XÃ

VÀ 1 THỊ TRẤN VÙNG CAO BIÊN GIỚI TỈNH HÀ GIANG

-------------------

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

- Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;

- Xét tờ trình số 1390/UB-CV ngày 13/11/1997 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang về đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại công văn số 2569/BKH-VPTĐ ngày 21 tháng 4 năm 1998,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt ''Chương trình tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường an ninh, quốc phòng 33 xã và 1 thị trấn vùng cao biên giới tỉnh Hà Giang'' với những nội dung chủ yếu sau:

1. Phạm vi và địa điểm: Địa bàn thực hiện chương trình gồm 33 xã và 1 thị trấn thuộc 7 huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì, Vị Xuyên, Xín Mần. Tổng diện tích toàn vùng là 118.514 ha với 11.930 hộ, trên 71.000 người, bao gồm:

- Các xã Thượng Phùng, Xín Cái và Sơn Vĩ thuộc huyện Mèo Vạc,

- Các xã Lũng Cú, Ma Lé, Lũng Táo, Đồng Văn, Xà Phìn, Phố Là, Sủng Là, Phó Cáo và thị trấn Phó Bảng thuộc huyện Đồng Văn;

- Các xã Phú Lũng, Thắng Mố, Bạch Đích và Na Khê thuộc huyện Yên Minh.

- Các xã Bát Đại Sơn, Nghĩa Thuận, Tùng Vài, Tả Ván, Cao Mã Pờ thuộc huyện Quản Bạ.

- Các xã Bản Máy, Thàng Tìn, Thèn Chu Phì và Phố Là thuộc huyện Hoàng Su Phì.

- Các xã Minh Tân, Thanh Thuỷ, Thanh Đức, Xín Chải, Lao Chải thuộc huyện Vị Xuyên.

- Các xã Pà Vầy Sủ, Xín Mần, Nàn Xỉn, Chí Cà thuộc huyện Xín Mần.

2. Mục tiêu của Chương trình.

178

a) Phát triển kinh tế - xã hội.

- Về kinh tế: Đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất nông - lâm sản hàng hóa; trước mắt phá bỏ cây thuốc phiện ở những nơi còn gieo trồng, tập trung phát triển cây lương thực và chăn nuôi đại gia súc... đồng thời có kế hoạch tận dụng đất đai để trồng chè, cây ăn quả, cây dược liệu; thực hiện giao đất, giao và khoán rừng tới từng hộ gia đình, xây dựng nông thôn mới nhằm ổn định dân cư và sản xuất, giảm nhanh số hộ đói.

- Xây dựng cơ sở hạ tầng: Ưu tiên đầu tư nâng cấp cải tạo và xây dựng mới hệ thống đường giao thông nhất là các tuyến ra các cửa khẩu, tuyến hành lang biên giới; tiếp tục xây dựng các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện nhỏ, cấp nước ăn và nước sản xuất, thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình, trường học và trạm y tế xã.

- Về xã hội: Tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhất là giáo dục, y tế nhằm nâng cao trình độ dân trí đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc vùng cao biên giới xoá mù chữ, phổ cập văn hóa cấp 1 cho thanh niên, chăm sóc tốt sức khoẻ cho đồng bào.

b) Bảo đảm an ninh, quốc phòng.

Nhanh chóng hoàn thành dứt điểm việc rà phá mìn ở các vùng đất còn mìn để đưa vào sản xuất nông nghiệp, ổn định các điểm dân cư sát biên giới. Đầu tư xây dựng các đồn biên phòng, các cửa khẩu, trước mắt là nhà ở, thông tin liên lạc, nước ăn... tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

3. Tổ chức quản lý thực hiện chương trình: Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang lập Ban Chỉ đạo chương trình do một đồng chí Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban, lãnh đạo các ngành chức năng liên quan của tỉnh làm thành viên. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Giang làm nhiệm vụ thường trực giúp tỉnh và các Bộ, ngành Trung ương phối hợp các chương trình, dự án của Nhà nước trên địa bàn vùng thực hiện chương trình.

Điều 2. Căn cứ những nội dung chính nêu trên, giao Uỷy ban nhân dân tỉnh Hà Giang chỉ đạo lập các dự án đầu tư các công trình cụ thể trong chương trình tổng thể dựa trên việc lựa chọn các nội dung ưu tiên cấp bách khác nhau đối với mỗi xã. Các Bộ, ngành Trung ương có liên quan có trách nhiệm tham gia giúp tỉnh đảm bảo tính đồng bộ của dự án trên cùng một địa bàn. Việc thẩm định, phê duyệt dự án phải tuân theo các quy định hiện hành về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

Căn cứ dự án đầu tư các công trình trong Chương trình tổng thể đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí kế hoạch vốn hàng năm.

Điều 3. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang vận dụng các chính sách, chế độ đề ra những biện pháp cụ thể trong việc thực hiện chương trình tổng thể này; đồng thời

179

phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương có liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ quyết định những chính sách mang tính đặc thù của các dự án thuộc chương trình nhằm ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc góp phần bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biên giới.

Nguồn vốn thực hiện chương trình: Ngoài nguồn vốn ngân sách, tỉnh được huy động các nguồn vốn khác theo quy định hiện hành (vốn tự có, vốn vay, vốn huy động trong nhân dân...).

Điều 4. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.

Các Bộ trưởng, Trưởng ban chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang và huyện Mường Tè của Chính phủ; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang; Thủ trưởng các cơ quan liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Đã ký: Phan Văn Khải

180

QUYẾT ĐỊNH Số: 164/2006/QĐ-TTg ngày 11 tháng 7 năm 2006

Về việc phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II)

__________

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10 tháng 01 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006-2010;

Xét đề nghị của Bộ trưởng, Chủ nhiệm ñy ban Dân tộc,

QUYẾT ĐỊNH :

Điều 1. Phê duyệt danh sách 1.644 xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu chưa hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 giai đoạn 1999-2005 và các xã được chia tách theo các Nghị định của Chính phủ từ xã chưa hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 giai đoạn 1999 - 2005 vào diện đầu tư Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II). Danh sách các xã vào diện đầu tư Chương trình 135 giai đoạn 2006 - 2010 kèm theo Quyết định này.

Điều 2. Thực hiện hỗ trợ đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2006-2010

cho tổng số 1.644 xã như sau:

1. Ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư: 1.581 xã (Danh sách kèm theo).

2. Ngân sách địa phương đầu tư: 63 xã (Danh sách kèm theo).

Điều 3. Các xã chưa hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 còn lại do chia tách từ xã đã hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 giai đoạn 1999-2005 và do các địa phương đề nghị sẽ được xem xét bổ sung vào diện đầu tư Chương trình 135 sau khi có kết quả phân định 3 khu vực.

Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng

Công báo.

Quyết định này thay thế các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách, bổ sung và thay tên các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu thuộc phạm vi Chương trình 135 giai đoạn 1999 - 2005: Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 1999; Quyết định số 647/QĐ-TTg ngày 12

181

tháng 7 năm 2000; Quyết định số 42/2001/QĐ-TTg ngày 26 tháng 3 năm 2001; Quyết định số 120/2002/QĐ-TTg ngày 18 tháng 9 năm 2002; Quyết định số 231/2003/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2003 và Quyết định số 15/2005/QĐ-TTg ngày 19 tháng 01 năm 2005.

Điều 5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

KT. THỦ TƯỚNG

PHÓ THỦ TƯỚNG

Phạm Gia Khiêm

Nơi nhận:

- Ban Bí thư Trung ương Đảng; - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; - HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; - Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng; - Văn phòng Chủ tịch nước; - Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; - Văn phòng Quốc hội; - Toà án nhân dân tối cao; - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; - Cơ quan Trung ương của các đoàn thể; - Học viện Hành chính Quốc gia; - VPCP: BTCN, TBNC, các PCN, BNC, Website Chính phủ, Ban Điều hành 112, Người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ, các Vụ, Cục, đơn vị trực thuộc, Công báo; - Lưu: Văn thư, VX (5b).

182

DANH SÁCH CÁC XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN VÀO DIỆN ĐẦU TƯ CỦA CHƯƠNG TRÌNH 135 GIAI ĐOẠN 2006 - 2010

(Ban hành kèm theo Quyết định số 164/2006/QĐ-TTg ngày 11 tháng 7 năm 2006

của Thủ tướng Chính phủ)

Tỉnh/Huyện

Tên xã

Ghi chú

ST T

1

1

2 Tổng Hà Giang

3 1644 112

6

Ngân sách ĐP đầu tư 5 63 0

Phân loại ngân sách Ngân sách TW hỗ trợ đầu tư 4 1581 112 x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x

1 1. Mèo Vạc 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 2. Đồng Văn 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25

Giàng Chu Phìn Xín Cái Sơn Vĩ Pải Lủng Thượng Phùng Sủng Trà Lũng Chinh Cán Chu phìn Lũng Pù Khâu Vai Niêm Sơn Nậm Ban Tát Ngà Tả Lùng Ma lé Lũng Cú Lũng Táo Xà Phìn Thài Phìn Tủng Sủng Là Phố Là Phố Cáo Lũng Thầu Vần Chải Sủng Trái

183

Sảng Tủng Hồ Quáng Phìn Lũng Phìn Sính Lủng Tả Phìn Tả Lủng Đồng văn T T Phó Bảng Sủng Thài Phú Lũng Thắng Mố Sủng Tráng Lao Và Chải Ngam La Ngọc Long Mậu Long Đường Thượng Du Già Du Tiến Lũng Hồ Hữu Vinh Thanh Vân Nghĩa Thuận Tả Ván Lùng Tám Bát Đại Sơn Cán Tỷ Cao Mã Pờ Tùng Vài Thái An

x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x

26 27 28 29 30 31 32 33 34 3. Yên Minh 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 4. Quản Bạ 48 49 50 51 52 53 54 55 56 5. Hoàng Su Phì Nàng Đôn Bản Phùng 57 Pố Lồ 58 Đản Ván 59 Ngàm Đăng Vài 60

184

61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 6. Xín Mần 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 7. Bắc Mê 89 90 91 92 93 94 95

x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x x

Sán Xà Hồ Pờ Ly Ngài Hồ Thầu Chiến Phố Nậm Khoà Bản Máy Thàng Tín Thèn Chu Phìn Túng Sán Bản Nhùng Tả Sử Choóng Bản Péo Bản Luốc Bản Díu Thèn Phàng Tả Nhìu Bản Ngò Nấm Dẩn Chế Là Quảng Nguyên Chí Cà Pà Vầy Sủ Nàn Xỉn Nàn Ma Ngán Chiên Trung Thịnh Thu Tà Phú Nam Minh Sơn Giáp Trung Yên Cường Đường Hồng Đường Âm Phiêng Luông Thượng Tân

185

Thanh Thuỷ Thuận Hoà Thanh Đức Ngọc Minh Cao Bồ Minh Tân Xín Chải Lao Chải Ngọc Linh Bạch Ngọc Tân Lập Thượng Bình Đồng Tiến

96 8. Vị Xuyên 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 9. Bắc Quang 107 108 109 10. Quang Bình Bản Rịa 110 111 112 2

Cao Bằng

0

Nà Khương Xuân Minh Tiên Nguyên 106 Phan Thanh

x x x x x x x x x x x x x x x x x 106 x

1 1. Bảo Lạc …

Tổng số 287 huyện, 45 tỉnh

186

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11

năm 2003.

- Căn cứ Quyết định số 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt đề án tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn đến năm 2010.

- Căn cứ Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Giang lần thứ XIII nhiệm kỳ 2000 - 2005. Dự thảo Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Giang lần thứ XIV nhiệm kỳ 2006 - 2010.

- Căn cứ Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Giang giai

đoạn 2001-2010.

- Căn cứ kết luận tại văn bản số 273-KL/TU ngày 09/5/2005 của Ban

Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang.

- Căn cứ yêu cầu phát triển ngành Thương mại và du lịch đến năm 2015 và

định hướng những năm tiếp theo.

Xét đề nghị của giám đốc sở Thương mại và Du lịch tỉnh Hà giang tại tờ

trình số 36/TT-TMDL ngày 15/7/2005.

Về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Thương mại tỉnh Hà Giang đến năm 2015 UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG

QUYẾT ĐỊNH

đến năm 2015 với những nội dung chủ yếu sau:

Điều 1. Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển Thương mại tỉnh Hà Giang

+ Mục tiêu tổng quát:

Đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động thương mại làm cho thương mại thực sự trở thành đòn bảy thúc đẩy phát triển sản xuất, phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tiến bộ, góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tăng tích luỹ cho ngân sách.

Xây dựng nên thương mại của tỉnh phát triển lành manh, mở rộng thị trường trong tỉnh, thị trường trong nước và Quốc tế, hướng mạnh về xuất khẩu từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, văn minh thương mại, hội nhập khu vực và thế giới.

187

1. Mục tiêu.

Nâng cao năng lực phát triển của ngành thương mại cả về cơ sở vật chất kỹ

thuật và nhân lực, tăng cường công tác quản lý nhà nước về thương mại.

+ Mục tiêu cụ thể:

Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn GDP toàn tỉnh giai đọan

2006 - 2010 đạt 13% trở lên và 15% trở lên vào năm 2015

Cơ cấu GDP đến năm 2015:

- Thương mại - Dịch vụ 39% vào năm 2010 và 42% vào năm 2015

- Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản 28% vào năm 2010 và 20% vào năm 2015

- Công nghiệp - Xây dựng 33% vào năm 2010 và 38% vào năm 2015

Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ bình quân tăng

18% giai đoạn 2006 - 2010 và 20% vào năm 2015.

Giá trị hàng hoá xuất, nhập khẩu đạt 250 triệu USD vào năm 2010 và 430

triệu USD vào năm 2015.

Phát huy thế mạnh kinh tế cửa khẩu, xây dựng các trung tâm thị xã, các huyện lỵ, mở rộng một số chợ thành chợ đầu mối, các chợ biên giới, chợ nông thôn.

Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại, cải tạo nâng cấp hệ thống mạng lưới bán lẻ, chợ, cửa hàng xăng dầu, xây dựng các trung tâm thương mại tại thị xã Hà Giang, huyện Bắc Quang, cửa khẩu Thanh Thủy, xây dựng Trung tâm xúc tiến thương mại - du lịch tại thị xã Hà Giang.

2. Nội dung quy hoạch.

Tiếp tục thực hiện Nghị định số 103/1999/NĐ - CP ngày 10/9/1999 của Chính phủ (về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước). Quyết định số 115/2003/QĐ-TTg ngày 10/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ (Về phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN trực thuộc UBND tỉnh Hà Giang giai đoạn 2003-2005). Hoàn thành cổ phần hoá trong năm 2005 theo hướng nhà nước nắm giữ dưới 40% cổ phần công ty Thương mại tổng hợp Hà Giang các doanh nghiệp còn lại cổ phần hóa 100%.

Khuyến khích mạnh mẽ phát triển thương mại ngoài quốc doanh, kinh tế hợp tác, hợp tác xã thương mại dịch vụ tổng hợp họat động trên địa bàn vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó khăn.

Xây dựng 03 trung tâm thương mại lớn của tỉnh là; thị xã Hà Giang, cửa khẩu Thanh Thủy và thị trấn Việt Quang - Bắc Quang, siêu thị độc lập tại Vị

188

2.1. Mạng lưới cửa hàng thương mại, trung tâm thương mại, siêu thị.

Xuyên, Trung tâm mua bán phía bắc Yên Minh, phía tây Hoàng Su Phì. Phát luồng kinh doanh bán buôn, bán lẻ hàng hoá dịch vụ thương mại trên địa bàn tỉnh và các tỉnh bạn, xây dựng kho ngoại quan, bãi kiểm hoá tại cửa khẩu quốc gia Thanh Thủy.

Quy hoạch phát triển đến năm 2015 như sau:

- Giai đoạn 2006 - 2010: Đầu tư xây dựng 9.000 m2 Trung tâm thương mại, siêu thị (trong đó 1.400 m2 siêu thị) tại thị xã Hà Giang, cải tạo, nâng cấp trung tâm thương mại Thanh Thủy. Xây dựng mới 400m2 siêu thị độc lập tại thị trấn Trung tâm huyện Vị Xuyên.

- Giai đoạn 2011- 2015: Đầu tư xây dựng 9.500m2 trung tâm thương mại, siêu thị tại thị trấn Việt Quang - Bắc Quang (trong đó 1.900m2 siêu thị). Xây dựng mới 800m2 siêu thị độc lập tại thị trấn Trung tâm 2 huyện Yên Minh 400 m2 và Hoàng Su Phì 400 m2.

Triển khai thực hiện Quyết định 559/QĐ-TTg ngày 31/5/2004 của Thủ

tướng Chính Phủ phê duyệt chương trình phát triển chợ đến năm 2010.

Quy hoạch phát triển chợ tỉnh Hà Giang đến năm 2015 như sau:

+ Giai đoạn 2006 - 2010:

Mở rộng, nâng cấp 55 chợ trong đó: Chợ trung tâm các huyện lỵ Quang

Bình, Bắc Mê, Xín Mần, Yên Minh, Đồng Văn và các chợ xã trung tâm cụm xã.

Đầu tư xây dựng mới 63 chợ trong đó có 3 chợ thành chợ đầu mối phát luồng bán buôn các mặt hàng nông lâm sản, gia súc của tỉnh gồm; chợ cam, quýt, chanh, quả có múi Vĩnh Tuy - Bắc Quang, chợ chè, đậu tương, nông sản Vinh Quang - Hoàng Su Phì, chợ gia súc, trâu, bò, ngựa, dê Lũng Phin - Đồng Văn và các chợ khác đưa tổng số chợ trên địa bàn tỉnh lên 152 chợ vào năn 2010.

+ Giai đoạn 2011 -2015:

Mở rộng cải tạo nâng cấp 24 chợ, đầu tư xây dựng mới 26 chợ thị xã, thị trấn, chợ biên giới những nơi có điều kiện mở chợ và các chợ nông thôn khác đưa tổng số chợ trên địa bàn tỉnh lên 178 chợ vào năm 2015.

2.2. Mạng lưới chợ.

Quy hoạch phát triển cửa hàng bán lẻ xăng dầu đến năm 2015 như sau:

189

2.3. Mạng lưới cửa hàng bán lẻ xăng dầu.

+ Giai đoạn 2006 - 2010: Mở rộng kho trung chuyển xăng dầu Thị xã Hà Giang, đầu tư xây dựng 21 cửa hàng, đưa tổng số cửa hàng bán lẻ xăng dầu trên địa bàn tỉnh lên 53 cửa hàng vào năm 2010.

+ Giai đoạn 2011 - 2015: Mở rộng kho trung chuyển xăng dầu thị trấn Tân Quang - Bắc Quang, đầu tư xây dựng 22 cửa hàng, đưa tổng số cửa hàng bán lẻ xăng dầu tỉnh lên 75 cửa hàng vào năm 2015

- Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp thương mại nhà nước trên địa bàn tỉnh đến cuối năm 2005 hoàn thành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh thương mại trên địa bàn.

- Tăng cường vốn cho ngành thương mại thông qua huy động mọi nguồn vốn từ các thành phần kinh tế trong tỉnh, trong nước và ngoài nước bằng cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, liên doanh liên kết phát triển thương mại.

- Nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về thương mại, hoàn thiện môi trường pháp lý, đẩy mạnh cải cách hành chính, hướng dẫn thực hiện các chủ trương chính sách về phát triển thương mại, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia tích cực và bình đẳng trong hoạt động thương mại.

- Khuyến khích thương nhân hoạt động thương mại thông qua hệ thống cơ chế chính sách miễn giảm thuế, ưu đãi tín dụng, ưu đãi về thuê đất, giao đất đầu tư xây dựng ... tăng cường tính pháp chế đối với các hoạt động quản lý thị trường.

- Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động, kỹ thuật trong ngành thương mại, tạo mọi điều kiện cho các đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia học tập, bổi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để có đủ điều kiện về trình độ đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập Quốc tế.

- Thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế cửa khẩu và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm khai thác lợi thế cửa khẩu Thanh Thủy và các cửa khẩu tiểu ngạch, hệ thống chợ biên giới. Đẩy mạnh xuất khẩu và buôn bán qua biên giới giữa Hà Giang - Việt Nam với Vân Sơn - Trung Quốc và các địa phương khác của tỉnh Vân Nam - Trung Quốc.

3. Giải pháp thực hiện quy hoạch

190

Điều 2. Căn cứ nội dung quy hoạch tổng thể phát triển Thương mại tỉnh Hà Giang đến năm 2015 đã được phê duyệt, sở Thương mại và Du lịch, các sở, ban, ngành chức năng có liên quan, UBND các huyện, thị xã thông báo công khai quy hoạch, xây dựng các dự án chi tiết để tổ chức thực hiện.

Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký ./.

Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc sở:Thương mại và Du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư, các Sở, ban, ngành chức năng liên quan, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG CHỦ TỊCH (Đã ký) Đỗ Trọng Quý

Nơi nhận: - VP Chính phủ - Bộ Thương mại (Báo cáo) - TTr Tỉnh Ủy - TTr HĐND tỉnh (Tường) - CT, các PCT UBND tỉnh - Như Điều 3 (Thực hiện); - Lãnh đạo VP UBND tỉnh; - Lưu VT, KTTH ,

191

NGHỊ ĐỊNH

Số: 64/2006/NĐ-CP, ngày 23 tháng 06 năm 2006

VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH XÃ, PHƯỜNG

CỦA THỊ XÃ HÀ GIANG VÀ HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang,

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1. Điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường của thị xã Hà Giang và huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang như sau:

1. Điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường của thị xã Hà Giang như sau:

- Điều chỉnh toàn bộ 4.350 ha diện tích tự nhiên và 5.231 nhân khẩu của xã Phú Linh; 3.050 ha diện tích tự nhiên và 2.353 nhân khẩu của xã Kim Thạch; 3.590 ha diện tích tự nhiên và 2.529 nhân khẩu của xã Kim Linh thuộc thị xã Hà Giang về huyện Vị Xuyên quản lý.

- Điều chỉnh 103,4 ha diện tích tự nhiên và 77 nhân khẩu của phường Quang Trung thuộc thị xã Hà Giang về xã Phong Quang thuộc huyện Vị Xuyên quản lý.

2. Điều chỉnh địa giới hành chính xã của huyện Vị Xuyên như sau:

Điều chỉnh toàn bộ 4.303 ha diện tích tự nhiên và 3.515 nhân khẩu của xã Phương Độ; 3.219 ha diện tích tự nhiên và 3.227 nhân khẩu của xã Phương Thiện thuộc huyện Vị Xuyên về thị xã Hà Giang quản lý.

3. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính:

- Phường Quang Trung thuộc thị xã Hà Giang có 1.005,6 ha diện tích tự nhiên và 3.605 nhân khẩu.

- Thị xã Hà Giang có 13.025,6 ha diện tích tự nhiên và 40.058 nhân khẩu, có 8 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm các phường: Quang Trung, Nguyễn Trãi, Trần Phú, Minh Khai, Ngọc Hà và các xã: Ngọc Đường, Phương Thiện, Phương Độ.

- Xã Phong Quang thuộc huyện Vị Xuyên có 3.478,4 ha diện tích tự nhiên và 1.855 nhân khẩu.

- Huyện Vị Xuyên có 148.750,4 ha diện tích tự nhiên và 91.825 nhân khẩu, có 24 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm các xã: Tùng Bá, Thuận Hoà, Minh Tân,

192

Phong Quang, Thanh Thuỷ, Thanh Đức, Lao Chải, Xín Chải, Phương Tiến, Cao Bồ, Đạo Đức, Trung Thành, Ngọc Linh, Ngọc Minh, Bạch Ngọc, Linh Hồ, Việt Lâm, Quảng Ngần, Thượng Sơn, Phú Linh, Kim Thạch, Kim Linh và các thị trấn: Vị Xuyên, nông trường Việt Lâm.

Điều 2. Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Mọi quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.

Điều 3. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang và Thủ trưởng các cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này ./.

TM. CHÍNH PHỦ THỦ TƯỚNG (đã ký) Phan Văn Khải

Nơi nhận: - Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ; - Hội đồng Dân tộc của Quốc hội; - Ủy ban Pháp luật của Quốc hội; - HĐND, UBND tỉnh Hà Giang; - Ban Tổ chức Trung ương; - Các Bộ: Nội vụ, Công an, Quốc phòng, Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Giao thông vận tải, Kế hoạch và Đầu tư; - Tổng cục Thống kê; - Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước; - VPCP: BTCN, TBNC, các PCN, Website Chính phủ, Ban Điều hành 112, Người phát ngôn của Thủ tướng Chính phủ, các Vụ: ĐP, TCCB, TH, Công báo; - Lưu: Văn thư, NC (5b),

193

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG Số: 09/2007/NQ-HĐND

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Giang, ngày 12 tháng 7 năm 2007

NGHỊ QUYẾT Về việc ban hành quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển Kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG KHOÁ XV – KỲ HỌP THỨ 9

Căn cứ Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ: Luật Ngân sách nhà nước năm 2002, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003, Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) năm 2003 và các Nghị định của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành các đạo luật nêu trên; các văn bản qui phạm pháp luật của Trung ương có liên quan đến lĩnh vực ưu đãi, hỗ trợ đầu tư;

Sau khi xem xét Tờ trình số: 133/TTr-UBND ngày 19 tháng 6 năm 2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2010;

Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang đã thảo luận và nhất trí,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang (có quy định cụ thể kèm theo).

194

Điều 2. Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 22/7/2007, bãi bỏ Nghị quyết số: 04/2006/NQ-HĐND ngày 10/7/2006 của HĐND tỉnh về việc ban hành chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi trâu bò giai đoạn 2006 - 2010 trên địa bàn tỉnh Hà Giang và các qui định trước đây trái với Nghị quyết này.

Điều 3. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang giao cho Uỷ ban nhân dân

tỉnh tổ chức thực hiện.

Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang khoá XV -

Kỳ họp thứ 9 thông qua./.

CHỦ TỊCH (Đã ký) Nguyễn Viết Xuân

Nơi nhận: - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; - Văn phòng Chính phủ; - Các bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư; - Cục Kiểm tra văn bản - Bộ Tư pháp; - Thường trực Tỉnh uỷ,HĐND, UBND tỉnh; - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh; - Các Ban và Đại biểu HĐND tỉnh; - Văn phòng: Đoàn ĐBQH&HĐND; UBND tỉnh; - Các sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh; - HĐND - UBND các huyện, thị; - Công báo tỉnh, Chuyên viên HĐND tỉnh; - Lưu VT.

195

QUY ĐỊNH Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang (Ban hành kèm theo Nghị quyết số: 09 /2007/NQ-HĐND ngày 12 /7/2007 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang) Chương 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Đối tượng áp dụng 1. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy

định của pháp luật Việt Nam, bao gồm:

a. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập và hoạt động theo

Luật Doanh nghiệp.

b. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn

để thực hiện dự án đầu tư tại tỉnh Hà Giang.

c. Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật

HTX.

d. Hộ gia đình, cá nhân thực hiện đăng ký kinh doanh theo Nghị định số

88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.

(Nhà đầu tư là doanh nghiệp phải có trụ sở chính hoặc chi nhánh hoặc văn phòng đại diện và thực hiện hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh trên địa bàn tỉnh Hà Giang)

2. Hộ nông dân, cá nhân không đăng ký kinh doanh theo Nghị định số

88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.

Điều 2. Phạm vi áp dụng 1. Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư được áp dụng đối với các dự án đầu tư mới; dự án đầu tư mở rộng về qui mô, nâng cao năng suất, năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường; các dự án đã đầu tư nay theo quy hoạch phải di chuyển địa điểm xây dựng nhà máy vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.

2. Các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội được áp dụng với tất cả các đối tượng đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Điều 3. Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư Dự án đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh thuộc danh mục lĩnh vực được quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số: 108/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội theo Quy định này.

196

Điều 4. Về thủ tục hành chính

Thực hiện niêm yết công khai về thủ tục hành chính trên các lĩnh vực tại Trung tâm giao dịch “Một cửa” của các cơ quan để tổ chức, công dân biết; phấn đấu thời gian hoàn thành các công việc liên quan trực tiếp đến tổ chức, công dân rút ngắn 1/3 thời gian theo quy định của Trung ương, cụ thể như sau:

1. Cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo Luật Đầu tư:

a) Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đến dưới 300 tỷ đồng, không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện; không thuộc danh mục dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô dưới 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó:

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành

báo cáo trình Uỷ ban nhân dân tỉnh.

- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư.

b) Đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và dự án có quy mô trên 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn là 17 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó:

- Trong thời hạn 13 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành

báo cáo thẩm tra trình Uỷ ban nhân dân tỉnh.

- Trong thời hạn không quá 04 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư.

c) Đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư là 37 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký đầu tư hợp lệ.

d. Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian khi nhà đầu tư phải chỉnh sửa, bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của cơ quan tiếp nhận hồ sơ sau khi tổng hợp ý kiến thẩm tra của các bộ, ngành và các sở, ngành liên quan.

2. Đối với việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất:

197

a) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 123 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 33 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó:

- Trong thời hạn không quá 23 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoàn thành hồ sơ địa chính theo quy định, gửi đến Phòng Tài nguyên và Môi trường.

- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ địa chính của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc thẩm tra hồ sơ địa chính và trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét quyết định.

- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Tờ trình của Phòng Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoàn thành việc quyết định giao đất, cho thuê đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ký kết hợp đồng thuê đất đối với trường hợp thuê đất.

b) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 125 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 13 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.

c) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 126 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 13 ngày làm việc kể từ ngày giải phóng xong mặt bằng và nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.

d) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 128 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 12 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó:

- Trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ của người sử dụng đất, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành thủ tục về giao lại đất hoặc cho thuê đất theo quy định và gửi quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất kèm theo hồ sơ đến cơ quan tài nguyên và môi trường thuộc UBND cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp ký giấy

198

chứng nhận quyền sử dụng đất, gửi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu.

- Trong thời gian không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày người sử dụng đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với cơ quan thuế, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành việc bàn giao đất trên thực địa và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất.

3. Thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình

a) Thời gian thẩm định dự án, bao gồm cả thời gian thẩm định thiết kế cơ

sở được tính từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ:

- Đối với dự án nhóm B: Thời gian thẩm định là 20 ngày làm việc.

- Đối với dự án nhóm C: Thời gian thẩm định là 13 ngày làm việc.

b) Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian chủ đầu tư phải chỉnh

sửa, bổ sung hồ sơ dự án theo ý kiến thẩm định của các ngành chức năng.

4. Thời gian thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường

Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án.

5. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép xây dựng

Trong thời hạn là 15 ngày làm việc từ ngày nhận được hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng của nhà đầu tư Sở Xây dựng, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã (theo thẩm quyền được quy định tại Điều 21 Nghị định số: 16/2005/NĐ- CP) hoàn thành việc cấp giấy phép xây dựng công trình cho nhà đầu tư.

6. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép hoạt động khoáng sản

a) Trong thời hạn 40 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ của tổ chức trong nước xin cấp giấy phép hoạt động khoáng sản hoặc của tổ chức nước ngoài, tổ chức liên doanh có bên nước ngoài xin cấp giấy phép kháo sát, thăm dò khoáng sản, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên và Môi trường trình, Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định việc cấp phép hoặc không cấp phép hoạt động khoáng sản.

b) Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh có bên nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư và nộp đầy đủ, hợp lệ hồ sơ xin cấp giấy phép khai thác, chế biến khoáng sản theo quy

199

định, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên và Môi trường trình, Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định việc cấp phép.

Chương 2: ÁP DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ

Điều 5. Về giá thuê đất, thuê mặt nước 1. Về đơn giá thuê đất được tính theo quy định tại Quyết định số:

2157/2006/QĐ-UBND ngày 21/8/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang.

2. Về mức giá đất để tính đơn giá thuê đất được áp dụng trên cơ sở bảng giá đất được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hàng năm và các quy định hiện hành của Nhà nước.

3. Về đơn giá thuê đất tại khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thuỷ huyện Vị Xuyên được áp dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Quyết định số: 53/2001/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu biên giới và Quyết định số: 184/2001/QĐ-TTg ngày 21/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép cửa khẩu Thanh Thuỷ tỉnh Hà Giang được áp dụng chính sách Khu kinh tế cửa khẩu biên giới.

Điều 6. Về ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất Ưu đãi về miễn, giảm tiền sử dụng đất thực hiện theo quy định tại Điều 11, Điều 12 và Điều 13 Nghị định số: 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính Phủ về thu tiền sử dụng đất.

Điều 7. Về ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước Ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước thực hiện theo quy định tại Điều 13, Điều 14 và Điều 15 Nghị định số: 142 /2005/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.

Điều 8. Về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 34, Áp dụng miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 35, Điều 36, Điều 37, Điều 38, Điều 39, Điều 40, Điều 41, Điều 42 và Điều 43 Nghị định số: 24/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.

Điều 9. Về ưu đãi thuế giá trị gia tăng Nhà đầu tư khi nhập khẩu thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây truyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp được miễn thuế giá trị gia tăng theo quy định tại Điều 4 Nghị định số: 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành

200

Luật Thuế gía trị gia tăng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng.

Điều 10. Về ưu đãi miễn thuế nhập khẩu Nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư theo quy định tại Điều 16 Nghị định số: 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Chương 3: CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẦU TƯ

Điều 11. Về giải phóng mặt bằng 1. Ngân sách địa phương thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng đối với đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu. Ban quản lý khu, cụm công nghiệp và Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng trên diện tích đất bị thu hồi trước khi giao đất hoặc cho thuê đất.

2. Các điểm dự án đầu tư riêng lẻ, ngân sách địa phương hỗ trợ tối đa không quá 50 % kinh phí đền bù, giải phóng mặt bằng trên diện tích được giao hoặc cho thuê để xây dựng nhà máy và hỗ trợ tối đa không quá 30 % kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng để làm đường giao thông, đường điện từ trục chính đến hàng rào nhà máy. Các ngành chức năng của Uỷ ban nhân dân tỉnh và Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã tổ chức thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng, rà phá vật cản trên diện tích đất thu hồi trước khi giao đất hoặc cho thuê đất.

Điều 12. Hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khu công nghiệp 1. Ngân sách địa phương đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp như: Hệ thống cấp điện, cấp nước và làm đường giao thông từ trục chính đến chân hàng rào khu công nghiệp.

2. Hỗ trợ tối đa không quá 30 % kinh phí bằng nguồn ngân sách địa phương để nhà đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong hàng rào khu công nghiệp. Hạng mục công trình được hỗ trợ theo qui định của Thủ tướng Chính phủ đối với khu công nghiệp.

Điều 13. Hỗ trợ đầu tư đối với các dự án cơ sở hạ tầng nằm trong vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản

1. Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, như: Đường từ trục chính vào khu nhà máy, hệ thống cấp điện, kho bảo quản, chợ bán buôn nằm trong vùng nguyên liệu (vùng sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản) tập trung, gắn với cơ sở chế biến và tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản

201

theo quy hoạch được phê duyệt, được tỉnh hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư cho dự án với tỷ lệ nguồn vốn theo địa bàn như sau:

a. Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang, hỗ trợ tối đa không quá 40 % tổng vốn đầu tư của dự án.

b. Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần, hỗ trợ tối đa không quá 60 % tổng vốn đầu tư của dự án.

2. Nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án được nêu tại khoản 1 Điều này, sử dụng từ nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung theo quy định tại Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.

Điều 14. Hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến nông,

khuyến lâm, khuyến ngư

1. Nhà đầu tư được các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh cung cấp thông tin về thị trường trên địa bàn tỉnh Hà Giang và các vấn đề có liên quan đến dự án đầu tư mà nhà đầu tư yêu cầu.

2. Nhà đầu tư được hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến

nông, khuyến lâm, khuyến ngư

3. Nhà đầu tư được đưa thông tin lên mạng trong trang Websie của UBND Tỉnh (miễn phí) nhằm xúc tiến, quảng bá đầu tư kinh doanh thương mại, du lịch, giới thiệu hàng hoá của địa phương.

Chương 4: CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Điều 15. Hỗ trợ chăn nuôi, xây dựng chuồng trại, cơ sở chế biến thức

ăn chăn nuôi.

1. Đối với hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi trâu, bò đực giống được hỗ trợ kinh phí với mức là 1,2 triệu đồng/ con/ năm cho trâu, bò đực giống đã qua tuyển chọn và được cấp giấy chứng nhận.

2. Ngân sách địa phương hỗ trợ trả lãi suất tiền vay ngân hàng cho các hộ gia đình, cơ sở chăn nuôi trâu, bò thương phẩm ( hàng hoá ) và trâu, bò sinh sản như sau:

a. Hỗ trợ 50 % lãi suất trong 24 tháng cho hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh.

b. Hỗ trợ 100 % lãi suất trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết cho hộ gia đình nghèo chưa có trâu, bò để mua trâu, bò cái sinh sản. Mức vay tối đa là 05 triệu đồng tại Ngân hàng chính sách xã hội của các huyện, thị xã.

202

3. Hỗ trợ 100 % tiền mua vắc xin để tiêm phòng cho đàn trâu, bò ở các xã vùng III, thôn vùng III thuộc các xã vùng II và hỗ trợ 50 % tiền mua vắc xin để tiêm phòng cho đàn trâu, bò ở các xã vùng II. Việc hỗ trợ thông qua cơ quan thú y của các huyện, thị xã.

4. Hỗ trợ hộ gia đình trồng cỏ gắn với chăn nuôi trâu, bò, cụ thể như sau: a. Hỗ trợ mua giống cỏ trồng trong năm đầu, với mức hỗ trợ 0,9 triệu đồng/ha. Diện tích trồng cỏ được hưởng chính sách hỗ trợ là 500 m2/hộ, trên cơ sở kết quả nghiệm thu của Hội đồng nghiệm thu cấp huyện.

b. Hỗ trợ kinh phí khuyến nông và quản lý chương trình trồng mới cỏ

chăn nuôi. Mức hỗ trợ là 100.000 đồng/ha.

5. Hỗ trợ 50 % lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng cho các hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi để làm chuồng trại chăn nuôi trâu, bò hàng hoá. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng.

6. Hỗ trợ 50 % lãi suất trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình và doanh nghiệp để xây dựng cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng/ hộ gia đình và 200 triệu đồng/doanh nghiệp.

Điều 16. Chính sách đối với Hợp tác xã 1. Các hợp tác xã được giao đất, cho thuê đất và được áp dụng các chính sách miễn, giảm các loại thuế sử dụng đất ở mức ưu đãi nhất theo Luật đất đai và các quy định khác của nhà nước.

2. Các hợp tác xã có khó khăn về vốn, có nhu cầu vay vốn, Ngân sách tỉnh hỗ trợ 50 % lãi suất vay vốn tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh trong thời gian 03 năm, với mức vay mỗi Hợp tác xã không quá 100 triệu đồng.

3. Cán bộ quản lý hợp tác xã tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn (thời gian không quá 01 tháng) được ngân sách tỉnh hồ trợ 150.000 đồng/người/họcviên. Các lớp đào tạo dài hạn do các hợp tác xã tự trang trải kinh phí.

3. Khuyến khích cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp tham gia công tác tại Hợp tác xã, ngân sách nhà nước hỗ trợ 50 % lương và các khoản phụ cấp cho số cán bộ này trong 3 năm đầu, mỗi Hợp tác xã được hỗ trợ không quá 02 người, trong 03 năm chỉ được hỗ trợ 01 lần; còn lại do Hợp tác xã tự hạch toán chi trả lương cho cán bộ.

Điều 17. Hỗ trợ về trồng rừng sản xuất Đối với các hộ nghèo được hỗ trợ 01 triệu đồng/ ha. Diện tích trồng rừng

được hỗ trợ tối đa không quá 05 ha/hộ.

203

Điều 18. Hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản Khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình được thuê đất, thuê mặt nước (nguồn nước sông, suối tự nhiên) để nuôi trồng thuỷ sản; được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành của nhà nước và được tỉnh hỗ trợ đầu tư như sau:

1. Hỗ trợ với mức 05 triệu đồng/ ha cho các hộ nghèo thuộc các xã vùng III và thôn vùng III của xã vùng II của tỉnh để xây dựng ao thả cá. Diện tích ao tối thiểu để được hỗ trợ phải từ 0,5 ha trở lên.

2. Hỗ trợ 50 % lãi suất trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình và doanh nghiệp để đầu tư nuôi trồng thuỷ sản. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng/hộ gia đình và 50 triệu đồng/tổ chức.

Điều 19. Hỗ trợ đào tạo dạy nghề lao động tại địa phương, lao động

xuất khẩu

1. Nhà đầu tư thực hiện mở lớp đào tạo nghề tập trung hoặc gửi lao động của địa phương đi đào tạo nghề và tuyển dụng vào làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư được ngân sách tỉnh hỗ trợ tối đa không quá 750.000 đ/người/khoá học nghề (mỗi lớp đào tạo phải có ít nhất 20 người trở lên) sau khi đã có ký kết hợp đồng sử dụng lao động theo quy định.

2. Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động đi xuất khẩu theo chương trình, kế hoạch của tỉnh, thông qua các trung tâm đào tạo nghề của tỉnh, với mức hỗ trợ tối đa không quá 750.000 đ/người/khoá học nghề. Thời gian một khoá đào tạo nghề theo qui định của các trung tâm.

Điều 20. Chính sách đối với các cơ sở giáo dục (trường, lớp) mầm non

tư thục

1. Cá nhân, nhóm cá nhân có nhu cầu đầu tư xây dựng các trường, lớp mầm non tư thục được Nhà nước giao đất, được miễn tiền sử dụng đất và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. 2. Đươc hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng với mức tiền vay không quá 01 tỷ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của trường, lớp mầm non tư thục kể từ khi cơ sở đi vào hoạt động có hiệu quả.

3. Được xem xét hỗ trợ một phần trang thiết bị ban đầu (01 lần) cho các

trường, lớp mầm non tư thục khi mới thành lập.

4. Được xem xét áp dụng các chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập theo Nghị định số: 53/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ (trừ chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã được quy định tại Điều 22 của Quy định này).

204

Điều 21. Hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn Các cơ sở ngành nghề nông thôn (sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản và các sản phẩm văn hoá) được tỉnh hỗ trợ 50 % lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời gian 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh để phát triển ngành nghề nông thôn. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 20 triệu đồng/ hộ gia đình và 100 triệu đồng/ tổ chức.

Điều 22. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư Đối với các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của tỉnh trong các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo; y tế; văn hoá; thể dục thể thao; khoa học và công nghệ; môi trường; xã hội; dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em (trừ các cơ sở trường lớp mầm non tư thục đã quy định tại Khoản 2, Điều 20 của Quy định này và tổ chức, cá nhân thành lập hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đối với các lĩnh vực nêu trên) được ngân sách địa phương hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, như sau:

1. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang được xem xét hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo qui mô từng cơ sở, mức tiền vay được hỗ trợ lãi xuất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.

2. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Mèo Vac, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần được xem xét hỗ trợ 70 % lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo qui mô từng cơ sở mức tiền vay được hỗ trợ lãi suất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.

Chương 5: TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 23. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước Uỷ ban nhân dân tỉnh qui định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó nhằm giải quyết nhanh chóng các thủ tục cho nhà đầu tư theo đúng thời gian qui định và thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo đúng tiến độ, kế hoạch đã được phê duyệt và đảm bảo theo đúng các quy định của pháp luật.

Điều 24. Trách nhiệm của nhà đầu tư 1. Nhà đầu tư căn cứ quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư tổ chức thực hiện các dự án theo đúng tiến độ và mục tiêu đã được ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư; sử dụng tối đa lao động tại địa phương, ưu tiên số lao động

205

đã qua đào tạo tại các cơ sở dạy nghề của tỉnh và lao động trong các hộ gia đình có đất bị thu hồi để xây dựng dự án theo tiêu chuẩn tuyển dụng của nhà đầu tư.

2. Quản lý, sử dụng đất được giao hoặc thuê đúng mục đích. Đất được nhà nước giao, thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa hoặc sử dụng đất không đúng mục đích, không có hiệu quả sẽ bị thu hồi. Trường hợp có lý do chính đáng chưa thực hiện được dự án đầu tư thì nhà đầu tư phải báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và cho phép gia hạn thêm, nhưng tối đa không được quá 24 tháng. Điều 25. Khen thưởng – Kỷ luật 1. Đơn vị, cá nhân triển khai thực hiện tốt chính sách của Tỉnh đối với nhà đầu tư sẽ được tỉnh xem xét khen thưởng với các hình thức và mức khen thưởng theo các quy định hiện hành của Nhà nước.

2. Đơn vị, cá nhân không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư (gây khó khăn phiền hà sách nhiễu) và gây cản trở quá trình kêu gọi dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh thì tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo qui định của pháp lệnh công chức và các qui định hiện hành của pháp luật. Thủ trưởng cơ quan có ng­ười vi phạm phải chịu trách nhiệm trước tỉnh.

CHỦ TỊCH (Đã ký) Nguyễn Viết Xuân

206

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Giang, ngày 08 tháng 07 năm 2009

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TỈNH HÀ GIANG Số: 12/2009/NQ-HĐND

NGHỊ QUYẾT

Về việc ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG KHÓA XV - KỲ HỌP THỨ 13

Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;

Căn cứ Luật Ngân sách nhà nước ngày 26 tháng 12 năm 2002 ;

Căn cứ Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005;

Căn cứ Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 27 tháng 06 năm 2005;

Căn cứ Luật Thuế thu nhập cá nhân ngày 21 tháng 11 năm 2007;

Căn cứ Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của

Chính phủ về thu tiền sử dụng đất;

Căn cứ Nghị định số 142/2005/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2005 của

Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước;

Căn cứ Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2005 của

Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu;

Căn cứ Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư;

Căn cứ Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 của Chính

phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế;

Căn cứ Nghị định số 44/2008/NĐ-CP ngày 09 tháng 04 năm 2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất;

Căn cứ Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp;

207

Căn cứ Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2008 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thuế giá trị gia tăng;

Căn cứ Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường;

Căn cứ Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với khu kinh tế cửa khẩu;

Căn cứ Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày 19 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn;

Sau khi xem xét Tờ trình số 99/TTr-UBND ngày 22 tháng 06 năm 2009 của UBND tỉnh Hà Giang về việc bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung một số nội dung tại Nghị quyết số 09/2007/NQ-HĐND ngày 12/07/2007 của HĐND tỉnh về việc ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang;

Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang đã thảo luận và nhất trí,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang (có Quy định cụ thể kèm theo).

Điều 2. Nghị quyết này có hiệu lực kể từ ngày 18 tháng 07 năm 2009, thay thế Nghị quyết số 09/2007/NQ-HĐND ngày 12/07/2007 của HĐND tỉnh Hà Giang về việc ban hành Quy định một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Điều 3. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang giao cho Uỷ ban nhân dân tỉnh

tổ chức thực hiện.

Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang khóa XV - Kỳ

họp thứ 13 thông qua./.

CHỦ TỊCH

Nguyễn Viết Xuân

208

QUY ĐỊNH Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 12/2009/NQ-HĐND ngày 08 tháng 07 năm 2009 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang)

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Đối tượng áp dụng

1. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy

định của pháp luật Việt Nam, bao gồm:

a) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập và hoạt động

theo Luật Doanh nghiệp.

b) Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Nhà đầu tư nước ngoài bỏ

vốn để thực hiện dự án đầu tư tại tỉnh Hà Giang.

c) Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật

HTX.

d) Hộ gia đình, cá nhân thực hiện đăng ký kinh doanh theo Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.

2. Hộ nông dân, cá nhân không đăng ký kinh doanh theo Nghị định số

88/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh.

Điều 2. Phạm vi áp dụng

1. Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư được áp dụng đối với các dự án đầu tư mới; dự án đầu tư mở rộng về quy mô, nâng cao năng suất, năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường; các dự án đã đầu tư nay theo quy hoạch phải di chuyển địa điểm xây dựng nhà máy vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp.

2. Các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội được áp dụng với tất cả các đối tượng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Điều 3. Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư

209

Dự án đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh thuộc danh mục lĩnh vực được quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 108/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

một số điều của Luật Đầu tư được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội theo Quy định này.

Điều 4. Về thủ tục hành chính

Thực hiện niêm yết công khai về thủ tục hành chính trên các lĩnh vực tại Trung tâm giao dịch “Một cửa” của các cơ quan, để tổ chức và công dân biết; thời gian hoàn thành các công việc liên quan trực tiếp đến tổ chức, công dân rút ngắn 1/3 thời gian theo quy định hiện hành, cụ thể như sau:

1. Cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo Luật Đầu tư:

a) Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đến dưới 300 tỷ đồng, không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện; không thuộc danh mục dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô dưới 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó:

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành

báo cáo trình UBND Tỉnh.

- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư.

b) Đối với dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện và dự án có quy mô trên 300 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì thời gian hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư trong thời hạn là 17 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư hợp lệ, trong đó:

- Trong thời hạn 13 ngày làm việc, Sở Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành

báo cáo thẩm tra trình UBND Tỉnh.

- Trong thời hạn không quá 04 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo thẩm tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân tỉnh xem xét quyết định cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư.

210

c) Đối với dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ thì thời gian hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận đầu tư là 37 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký đầu tư hợp lệ.

d) Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian khi nhà đầu tư phải chỉnh sửa, bổ sung hồ sơ theo yêu cầu của cơ quan tiếp nhận hồ sơ sau khi tổng hợp ý kiến thẩm tra của các bộ, ngành và các sở, ngành liên quan.

2. Đối với việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất

a) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 123 Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 33 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó:

- Trong thời hạn không quá 23 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoàn thành hồ sơ địa chính theo quy định, gửi đến Phòng Tài nguyên và Môi trường.

- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ địa chính của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc thẩm tra hồ sơ địa chính và trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét quyết định.

- Trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được Tờ trình của Phòng Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân cùng cấp hoàn thành việc quyết định giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ký kết hợp đồng thuê đất đối với trường hợp thuê đất.

b) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 125 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên - Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 13 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.

211

c) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 126 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, Sở Tài nguyên - Môi trường hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn 13 ngày làm việc kể từ ngày giải phóng xong mặt bằng và nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian nói trên không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.

d) Trường hợp giao đất, cho thuê đất theo Điều 128 Nghị định 181/2004/NĐ-CP thì thời gian hoàn thành thủ tục giao đất, cho thuê đất trong thời hạn là 12 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, trong đó:

- Trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ của người sử dụng đất, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành thủ tục về giao lại đất hoặc cho thuê đất theo quy định và gửi quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất kèm theo hồ sơ đến cơ quan tài nguyên và môi trường thuộc UBND cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định giao lại đất hoặc hợp đồng cho thuê đất, Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình UBND cùng cấp ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gửi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu.

- Trong thời gian không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày người sử dụng đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính với cơ quan thuế, Ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu hoàn thành việc bàn giao đất trên thực địa và trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất.

3. Thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình

a) Thời gian thẩm định dự án, bao gồm cả thời gian thẩm định thiết

kế cơ sở được tính từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ:

- Đối với dự án nhóm B: Thời gian thẩm định là 20 ngày làm việc.

- Đối với dự án nhóm C: Thời gian thẩm định là 13 ngày làm việc.

b) Thời hạn quy định trên đây không kể thời gian chủ đầu tư phải chỉnh

sửa, bổ sung hồ sơ dự án theo ý kiến thẩm định của các ngành chức năng.

4. Thời gian thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường

212

Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, Sở Tài nguyên - Môi trường hoàn thành công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án, trình UBND tỉnh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc,

UBND tỉnh xem xét phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án.

5. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép xây dựng

Trong thời hạn 13 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ xin cấp giấy phép xây dựng của nhà đầu tư (Sở Xây dựng, UBND các huyện, thị xã theo thẩm quyền được quy định tại Điều 25 Nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 của Chính phủ) hoàn thành việc cấp giấy phép xây dựng công trình cho nhà đầu tư.

6. Thời gian thẩm định và cấp giấy phép hoạt động khoáng sản

a) Trong thời hạn 40 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ của tổ chức trong nước xin cấp giấy phép hoạt động khoáng sản hoặc của tổ chức nước ngoài, tổ chức liên doanh có bên nước ngoài xin cấp giấy phép khảo sát, thăm dò khoáng sản, Sở Tài nguyên & Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình UBND tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên & Môi trường trình, UBND tỉnh quyết định việc cấp phép hoặc không cấp phép hoạt động khoáng sản.

b) Trong thời hạn 20 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh có bên nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư và nộp đầy đủ, hợp lệ hồ sơ xin cấp giấy phép khai thác, chế biến khoáng sản theo quy định, Sở Tài nguyên & Môi trường hoàn thành việc thẩm định hồ sơ, trình UBND tỉnh xem xét việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ do Sở Tài nguyên & Môi trường trình, UBND tỉnh quyết định việc cấp phép.

Chương II

ÁP DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI ĐẦU TƯ

Điều 5. Về giá thuê đất, thuê mặt nước

213

1. Đơn giá thuê đất được tính theo Quyết định số 2157/QĐ-UBND ngày 21/8/2006, Quyết định số 3340/2008/QĐ-UBND ngày 08/10/2008 và Quyết định số 4476/2008/QĐ-UBND ngày 19/12/2008 của UBND tỉnh Hà Giang và Quyết định bổ sung (nếu có).

2. Mức giá đất để tính đơn giá thuê đất được áp dụng trên cơ sở bảng giá đất được Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt hàng năm và các quy định hiện hành của Nhà nước.

Điều 6. Về ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất

Nhà đầu tư có nhu cầu sử dụng đất làm mặt bằng sản suất kinh doanh mà lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất, được miễn, giảm tiền sử dụng đất được quy định tại Điều 11, Điều 12 và Điều 13 Nghị định số: 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất và quy định tại Điều 1 Nghị định số 44/2008/NĐ-CP, ngày 09/04/2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.

Điều 7. Về ưu đãi miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước

Ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước thực hiện theo quy định tại Điều 13, Điều 14 và Điều 15 Nghị định số: 142/2005/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2005 của Chính Phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.

Điều 8. Về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

1. Áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 15; áp dụng miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 16, Điều 17; điều kiện áp dụng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 19 - Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.

214

2. Các dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu kinh tế, bao gồm: Dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư; dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu phi thuế quan; dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao; dự án đầu tư có qui mô lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển ngành, lĩnh vực hoặc phát triển kinh tế - xã hội của khu vực sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận (theo quy định tại điểm a, b, c, d, khoản 4 Điều 16 Nghị định số: 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ, quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế) được áp dụng và hưởng ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp.

3. Doanh nghiệp có dự án đầu tư tại khu công nghiệp, khu kinh tế, có chi phí hợp lý, như: Chi phí đầu tư xây dựng, vận hành, hoặc cho thuê nhà chung cư và các công trình kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ cho công nhân làm việc tại khu công nghiệp, khu kinh tế (theo quy định tại Khoản 6 Điều 16 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ, quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế), sẽ được khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp.

Điều 9. Ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân

Người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại khu kinh tế (theo quy định tại Khoản 5 Điều 16 Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ, quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế), có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập, được giảm 50% thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân.

Điều 10. Về ưu đãi miễn thuế nhập khẩu

Nhà đầu tư được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư thuộc lĩnh vực khuyến khích đầu tư theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 149/2005/NĐ-CP ngày 08/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

Chương III

CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐẦU TƯ

Điều 11. Đối với khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu

1. Chính sách hỗ trợ đầu tư đối với khu công nghiệp: Thực hiện theo Quyết định số 43/2009/QĐ - TTg ngày 19 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ.

2. Chính sách hỗ trợ đầu tư đối với khu kinh tế cửa khẩu: Thực hiện theo Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 03 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ.

Điều 12. Đối với các dự án đầu tư riêng lẻ

215

Ngân sách địa phương hỗ trợ tối đa không quá 50 % kinh phí đền bù, giải phóng mặt bằng trên diện tích được giao hoặc cho thuê để xây dựng nhà máy và hỗ trợ tối đa không quá 30 % kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng để làm đường giao thông, đường điện từ trục chính đến hàng rào nhà máy. Các

ngành chức năng của UBND tỉnh và UBND các huyện, thị xã tổ chức thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng, rà phá vật cản trên diện tích đất thu hồi trước khi giao đất hoặc cho thuê đất.

Điều 13. Hỗ trợ đầu tư đối với các dự án cơ sở hạ tầng nằm trong vùng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản

1. Các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, như: Đường từ trục chính vào khu nhà máy, hệ thống cấp điện, kho bảo quản, chợ bán buôn nằm trong vùng nguyên liệu tập trung (vùng sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản), gắn với cơ sở chế biến và tiêu thụ, xuất khẩu hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản theo quy hoạch được phê duyệt, được Tỉnh hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư cho dự án với tỷ lệ nguồn vốn theo địa bàn như sau:

a) Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang, hỗ trợ tối đa không quá 40 % tổng vốn đầu tư của dự án.

b) Dự án đầu tư vào địa bàn các huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần, hỗ trợ tối đa không quá 60 % tổng vốn đầu tư của dự án.

2. Nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án được nêu tại khoản 1 Điều này sử dụng từ nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung theo quy định tại Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.

Điều 14. Hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến nông,

khuyến lâm, khuyến ngư

1. Nhà đầu tư được các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh cung cấp thông tin về thị trường trên địa bàn tỉnh Hà Giang và các vấn đề có liên quan đến dự án đầu tư mà nhà đầu tư yêu cầu.

2. Nhà đầu tư được hỗ trợ xúc tiến thương mại, khuyến công, khuyến

nông, khuyến lâm, khuyến ngư.

3. Nhà đầu tư được đưa thông tin lên mạng trong trang Websie của UBND tỉnh (miễn phí) nhằm xúc tiến, quảng bá đầu tư kinh doanh thương mại, du lịch, giới thiệu hàng hoá của địa phương.

Chương IV

CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Điều 15. Hỗ trợ chăn nuôi, xây dựng chuồng trại, cơ sở chế biến

216

thức ăn chăn nuôi

1. Đối với hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi trâu, bò đực giống được hỗ trợ kinh phí với mức là 1,2 triệu đồng/con/năm cho trâu, bò đực giống đã qua tuyển chọn và được cấp giấy chứng nhận.

2. Ngân sách địa phương hỗ trợ trả lãi suất tiền vay Ngân hàng cho các hộ gia đình, cơ sở chăn nuôi trâu, bò thương phẩm (hàng hoá) và trâu, bò sinh sản như sau:

a) Hỗ trợ 50% lãi suất trong 24 tháng cho hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng tại Ngân hàng nông nghịêp & PTNT của các huyện, thị xã.

b) Hỗ trợ 100 % lãi suất trong thời hạn 36 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết cho hộ gia đình nghèo chưa có trâu, bò để mua trâu, bò cái sinh sản. Mức vay tối đa là 10 triệu đồng tại Ngân hàng chính sách xã hội của các huyện, thị xã.

3. Các xã thuộc 6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ và các xã, thôn bản thuộc Chương trình 135 được hỗ trợ 100% tiền mua vắc xin; các xã vùng II được hỗ trợ 50% tiền mua vắc xin để tiêm phòng cho đàn trâu, bò. Việc hỗ trợ thông qua cơ quan thú y của các huyện, thị xã.

4. Hỗ trợ hộ gia đình trồng cỏ gắn với chăn nuôi trâu, bò, cụ thể

như sau:

a) Hỗ trợ mua giống cỏ trồng trong năm đầu, với mức hỗ trợ 0,9 triệu đồng/ha. Diện tích trồng cỏ tối thiểu được hưởng chính sách hỗ trợ là 500 m2/hộ, trên cơ sở kết quả nghiệm thu của Hội đồng nghiệm thu cấp huyện.

b) Hỗ trợ kinh phí khuyến nông và quản lý chương trình trồng mới cỏ

chăn nuôi. Mức hỗ trợ là 100.000 đồng/ha.

5. Các hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi không thuộc địa bàn 6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ được hỗ trợ 50% lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng cho để làm chuồng trại chăn nuôi trâu, bò hàng hoá. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng.

217

6. Các hộ gia đình và doanh nghiệp không thuộc địa bàn 6 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ được hỗ trợ 50% lãi suất trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh để xây dựng cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 50 triệu đồng/ hộ gia đình và 200 triệu đồng/doanh nghiệp.

Điều 16. Chính sách đối với Hợp tác xã

Các hợp tác xã khó khăn về vốn, có nhu cầu vay vốn, Ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất vay vốn tại Ngân hàng nông nghiệp tỉnh Hà Giang trong thời gian 03 năm, với mức vay không quá 100 triệu đồng/Hợp tác xã.

Điều 17. Hỗ trợ phát triển chè, thâm canh lúa, ngô và trồng rừng

sản xuất

1. Hỗ trợ phát triển chè

a) Trồng mới, thâm canh, cải tạo chè: Hỗ trợ 100% lãi suất trong thời hạn 60 tháng, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình vay vốn để trồng mới, thâm canh và cải tạo chè già. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất đối với trồng chè mới là 15 triệu đồng/ha; thâm canh chè 07 triệu đồng/ha và cải tạo chè già là 05 triệu đồng/ha. Diện tích chè tối thiểu được hưởng chính sách hỗ trợ là 300m2/hộ.

b) Các doanh nghiệp chế biến có ký hợp đồng với nhân dân để trồng và thu mua sản phẩm, được vay vốn, ngân sách tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất trong thời gian 03 năm để đầu tư, nâng cấp hoặc xây dựng mới cơ sở chế biến chè. Mức vay được hỗ trợ lãi suất là 50% giá trị đầu tư.

c) Các doanh nghiệp chế biến có kế hoạch xây dựng thương hiệu, đăng ký chất lượng sản phẩm chè, quảng bá sản phẩm lần đầu được hỗ trợ 50% chi phí.

2. Hỗ trợ thâm canh lúa, ngô

a) Hộ nghèo không thuộc địa bàn thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ được hỗ trợ một lần với mức 3 triệu đồng/hộ để mua giống mới và phân bón phục vụ thâm canh lúa, ngô (danh mục giống mới do Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn thông báo).

218

b) Các hộ không thuộc địa bàn thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ hoặc địa bàn thực hiện Chương trình 135 giai đoạn II được hỗ trợ 100% lãi suất trong thời hạn 09 tháng, kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết giữa các hộ với các Ngân hàng trên địa bàn tỉnh để mua giống mới và phân bón phục vụ thâm canh lúa, ngô. Mức vốn vay được hỗ trợ lãi suất là 5 triệu đồng/ha. (danh mục giống mới do Sở Nông nghiệp & phát triển nông thôn thông báo).

3. Hỗ trợ trồng rừng sản xuất: Đối với các hộ nghèo không thuộc xã Ngọc Minh huyện Vị Xuyên, xã Bản Rịa huyện Quang Bình và các xã thuộc 6 huyện được thụ hưởng Nghị quyết 30a của Chính phủ, ngoài nguồn vốn hỗ trợ của chương trình 5 triệu ha rừng được ngân sách tỉnh hỗ trợ thêm 1 triệu đồng/ha để trồng rừng sản xuất.

Điều 18. Hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản

Khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình được thuê đất, thuê mặt nước (nguồn nước sông, suối tự nhiên) để nuôi trồng thuỷ sản; được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành của nhà nước và được Tỉnh hỗ trợ đầu tư như sau:

1. Hỗ trợ với mức 05 triệu đồng/ha cho các hộ nghèo thuộc các xã vùng III và thôn vùng III của xã Vùng II của tỉnh để xây dựng ao thả cá. Diện tích ao tối thiểu để được hỗ trợ phải từ 0,5 ha trở lên.

2. Hỗ trợ 50 % lãi suất trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng trên địa bàn tỉnh cho hộ gia đình và doanh nghiệp để đầu tư nuôi trồng thuỷ sản. Mức vay tối đa là 20 triệu đồng/hộ gia đình và 50 triệu đồng/tổ chức.

Điều 19. Hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động

1. Nhà đầu tư thực hiện mở lớp đào tạo nghề tập trung hoặc gửi lao động của địa phương đi đào tạo nghề và tuyển dụng vào làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư được ngân sách tỉnh hỗ trợ tối đa không quá 750.000đ/người/khoá học nghề (mỗi lớp đào tạo phải có ít nhất 20 người trở lên) sau khi đã có ký kết hợp đồng sử dụng lao động theo quy định.

2. Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động đi xuất khẩu theo chương trình, kế hoạch của tỉnh, thông qua các trung tâm đào tạo nghề của tỉnh, với mức hỗ trợ tối đa không quá 750.000đ/người/khoá học nghề.

Điều 20. Chính sách đối với các cơ sở giáo dục (trường, lớp) mầm

non tư thục

219

1. Cá nhân, nhóm cá nhân có nhu cầu đầu tư xây dựng các trường, lớp mầm non tư thục được Nhà nước giao đất, được miễn tiền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

2. Được hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng với mức tiền vay không quá 01 tỷ đồng để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của trường, lớp mầm non tư thục kể từ khi cơ sở đi vào hoạt động có hiệu quả.

3. Được xem xét hỗ trợ một phần trang thiết bị ban đầu (01 lần) cho các

trường, lớp mầm non tư thục khi mới thành lập.

4. Được xem xét áp dụng các chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập theo Nghị định số: 53/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2006 của Chính phủ (trừ chính sách hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đã được quy định tại Điều 22 của Quy định này); xem xét áp dụng chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường theo Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/05/2008 của Chính phủ.

Điều 21. Hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn

Các cơ sở ngành nghề nông thôn (sản xuất tiểu, thủ công nghiệp, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản và các sản phẩm văn hoá) được Tỉnh hỗ trợ 50% lãi suất vốn vay ngân hàng trong thời gian 24 tháng kể từ ngày giải ngân theo hợp đồng tín dụng được ký kết tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh để phát triển ngành nghề nông thôn. Mức vay tối đa được hỗ trợ lãi suất là 20 triệu đồng/ hộ gia đình và 100 triệu đồng/ tổ chức.

Điều 22. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư

Đối với các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Tỉnh trong các lĩnh vực: Giáo dục - đào tạo; y tế; văn hoá; thể dục thể thao; khoa học và công nghệ; môi trường; xã hội; dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em (trừ các cơ sở trường lớp mầm non tư thục đã quy định tại Khoản 2, Điều 20 của Quy định này và tổ chức, cá nhân thành lập hoạt động theo Luật Doanh nghiệp đối với các lĩnh vực nêu trên) được ngân sách địa phương hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, như sau:

220

1. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Vị Xuyên, Bắc Mê và Thị xã Hà Giang được xem xét hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 24 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo quy mô từng cơ sở, mức tiền vay được hỗ trợ lãi suất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.

2. Đối với các cơ sở thành lập tại địa bàn các huyện: Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ, Hoàng Su Phì và Xín Mần được xem xét hỗ trợ 70 % lãi suất tiền vay ngân hàng trong thời hạn 36 tháng kể từ khi cơ sở kinh doanh được thành lập và đi vào hoạt động có hiệu quả. Tuỳ theo quy mô từng cơ sở mức tiền vay được hỗ trợ lãi suất từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng.

Chương V

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Điều 23. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính

nhà nước

1. Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan đó nhằm giải quyết nhanh chóng các thủ tục cho nhà đầu tư theo đúng thời gian quy định và thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo đúng tiến độ, kế hoạch đã được phê duyệt và đảm bảo theo đúng các quy định của pháp luật.

2. Hàng năm, Uỷ ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm cân đối ngân sách để thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội tại Quy định này.

Điều 24 . Trách nhiệm của Nhà đầu tư

1. Nhà đầu tư căn cứ quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư tổ chức thực hiện các dự án theo đúng tiến độ và mục tiêu đã được ghi trong giấy chứng nhận đầu tư; sử dụng tối đa lao động tại địa phương, ưu tiên số lao động đã qua đào tạo tại các cơ sở dạy nghề của tỉnh và lao động trong các hộ gia đình có đất bị thu hồi để xây dựng dự án theo tiêu chuẩn tuyển dụng của nhà đầu tư.

221

2. Quản lý, sử dụng đất được giao hoặc thuê đúng mục đích. Đất được nhà nước giao, thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng chậm hơn 24 tháng so với tiến độ ghi trong giấy chứng nhận đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa hoặc sử dụng đất không đúng mục đích, không có hiệu quả sẽ bị thu hồi. Trường hợp có lý do chính đáng chưa thực hiện được dự án đầu tư thì nhà đầu tư phải báo cáo cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét và cho phép gia hạn thêm, nhưng tối đa không được quá 24 tháng.

Điều 25. Khen thưởng - Kỷ luật

1. Đơn vị, cá nhân triển khai thực hiện tốt chính sách của tỉnh đối với nhà đầu tư sẽ được tỉnh xem xét khen thưởng với các hình thức và mức khen thưởng theo các quy định hiện hành của nhà nước.

2. Đơn vị, cá nhân không tạo điều kiện cho các nhà đầu tư (gây khó khăn phiền hà sách nhiễu) và gây cản trở quá trình kêu gọi dự án đầu tư vào địa bàn tỉnh thì tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo quy định của Pháp lệnh Công chức và các quy định hiện hành của pháp luật. Thủ trưởng cơ quan có người vi phạm phải chịu trách nhiệm trước tỉnh.

CHỦ TỊCH

Nguyễn Viết Xuân

222

QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 136/2009/QĐ-TTg NGÀY 26 THÁNG 11 NĂM 2009 VỀ VIỆC THÀNH LẬP KHU KINH TẾ CỬA KHẨU THANH THỦY, TỈNH HÀ GIANG THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật Đầu tư ngày 29 tháng 11 năm 2005;

Căn cứ Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của

Chính phủ Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Chủ tịch Ủy ban

nhân dân tỉnh Hà Giang,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Thành lập Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang.

1. Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang là khu vực có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, có không gian kinh tế riêng biệt.

Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy gồm địa phận 07 xã: Thanh Thủy, Phương Tiến, Thanh Đức, Xín Chải, Lao Chải, Phong Quang (huyện Vị Xuyên) và Phương Độ (thị xã Hà Giang). Diện tích tự nhiên 28.781 ha. Ranh giới địa lý Khu kinh tế cửa khẩu được xác định như sau:

- Phía Bắc giáp Châu Văn Sơn của tỉnh Vân Nam, Trung Quốc;

- Phía Nam giáp xã Cao Bồ của huyện Vị Xuyên và xã Phương Thiện,

phường Quang Trung, phường Nguyễn Trãi của thị xã Hà Giang;

- Phía Đông giáp xã Thuận Hòa và xã Minh Tân của huyện Vị Xuyên;

- Phía Tây giáp xã Thèn Chu Phìn, xã Đản Ván và xã Túng Sán của huyện

Hoàng Su Phì.

2. Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy được tổ chức thành khu phi thuế quan và các khu chức năng như: khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác. Quy mô, vị trí từng khu vực được xác định trong quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy.

223

Điều 2. Hoạt động và các cơ chế, chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang thực hiện theo Luật Đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế, Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02 tháng 3 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với Khu kinh tế cửa khẩu và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Điều 3. Điều khoản thi hành

1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2010.

Bãi bỏ Quyết định số 184/2001/QĐ-TTg ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép cửa khẩu Thanh Thủy, tỉnh Hà Giang được áp dụng chính sách khu kinh tế cửa khẩu biên giới.

2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

THỦ TƯỚNG (đã ký) Nguyễn Tấn Dũng

Nguồn: http://moj.gov.vn/

http://vbpl.vn/hagiang/

224

Cổng chào huyện Vị Xuyên trên quốc lộ 2

Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn

Toàn cảnh thị trấn Vị Xuyên

Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn

225

Phụ lục 10. Một số hình ảnh về huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang

Tổng Bí thư Đỗ Mười với bà con các dân tộc huyện Vị Xuyên (1993)

Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển

Cánh đồng mẫu ở xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên

Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển

226

Đoàn đại biểu tỉnh Hà Giang sang thăm Trung Quốc qua cửa khẩu Thanh Thuỷ

Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển

Làng văn hoá du lịch thôn Khuổi Lác, xã Trung Thành, huyện Vị Xuyên

Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên

227

Sinh hoạt tín ngưỡng của người Dao, xã Đạo Đức, Vị Xuyên

Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên

Làng văn hoá thôn Thanh Sơn, xã Thanh Thuỷ, Vị Xuyên

Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên

228

Làng nghề chổi chít thị trấn Việt Lâm

Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên

Múa khèn tại lễ hội Gầu Tào, thị trấn Việt Lâm

Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên

229

Vùng chè san tuyết tại xã Cao Bồ, Vị Xuyên

Nguồn: Phòng Văn hoá - Thông tin huyện Vị Xuyên

Khai giảng năm học mới tại Trường THCS Lý Tự Trọng

Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn

230

Chủ tịch nước tặng quà cho đồng bào xã Minh Tân, huyện Vị Xuyên

Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn

Khánh thành nhà máy chế biến quặng sắt huyện Vị Xuyên

Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển

231

Phó Thủ tướng thăm lớp học điện công nghiệp

Nguồn: Vixuyen.hagiang.gov.vn

Khánh thành công trình đường dây và trạm biến áp 110 kV Bình Vàng, Vị Xuyên, Hà Giang

Nguồn: Tỉnh Hà Giang, 20 năm tái lập và phát triển

232