BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ THÚY LIỄU
ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI NỘI TÂM
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HEMINGWAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2001
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liêu, kết qua nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Trần Thị Thúy Liễu
LỜI CẢM ƠN
Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đối với sự hướng dẫn ân
cần chu đáo và nhiệt tình của giáo sư Lương Duy Trung. Chúng tôi xin chân thành
cảm ơn các ý kiến nhận xét, góp ý xây dựng cho bản luận văn.
Chúng tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của phòng nghiên cứu khoa học, khoa ngữ văn
trường đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
TP .Hồ chí Minh , tháng 3 năm 2001
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ 2
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 3
MỤC LỤC ............................................................................................................ 4
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 7
1/LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................................ 7
2/ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ............................................................................................... 8
2.1/ Tiếng Việt: ...................................................................................................... 8
2.2/Tiếng Anh ...................................................................................................... 14
3/ GIỚI HẠN VẤN ĐỀ .......................................................................................... 15
3.1.Tác phẩm khảo sát ........................................................................................ 15
3.2.Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 15
4/MỤC ĐÍCH, CÂU TRÚC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ..................... 16
4.1 Mục đích của luận văn: ................................................................................ 16
4.2.Cấu trúc của luận văn: ................................................................................. 17
4.3.Những kết luận mà nhà văn hướng tới: ...................................................... 17
CHƯƠNG 1: HEMINGWAY- THỜI ĐẠI - CON NGƯỜI - TÁC PHẨM 19
1.1.NHỮNG BIẾN CỐ TƯ TƯỞNG TRONG VĂN HỌC MĨ THỂ KỶ XX ... 19
1.2.HEMINGWAY - CON NGƯỜI VÀ SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT: ............ 23
1.2.1.HEMINGWAY - một cuộc đời huyền thoại: ............................................ 23
1.2.2.Hemingway _ Quan niệm về sáng tạo nghệ thuật: .................................. 26
CHƯƠNG 2: HEMINGWAY - NHỮNG ĐỐI THOẠI BÍ ẨN .................... 31
2.1/ ĐỐI THOẠI DIỄN TRÌNH : ( DIALOGUE EXPLICATIVE ) ................. 33
2.1.6.Đối thoại _ Nhân vật tự kể về mình: ......................................................... 35
2.1.7.Đối thoại _ ngôn ngữ giản dị, tự nhiên: ................................................... 41
2.1.8.Đối thoại và người kể chuyện: .................................................................. 44
2.1.9.Đối thoại nhân vật lí giải các vấn đề của cuộc sống: ............................... 46
2.2.ĐỐI THOẠI NGƯỢC NGHĨA ( DIALOGUE CONTRADICTOIRE ) ..... 51
2.2.1.Những đối thoại chứa ẩn ý: ...................................................................... 51
2.2.2.Khoảng trống của lời đối thoại ................................................................. 58
CHƯƠNG 3: ĐỘC THOẠI NỘI TÂM ........................................................... 62
3.1.KHÁI NIỆM ĐỘC THOẠI NỘI TÂM: ......................................................... 62
3.2.HÌNH THỨC ĐỘC THOẠI NỘI TÂM ......................................................... 65
3.2.1.Độc thoại nội tâm với bôn tiểu thuyết tiêu biểu của Hemingway: .......... 65
3.2.2.Các hình thức độc thoại nội tâm:.............................................................. 67
3.2.3.Độc thoại nội tâm và những vấn đề chiến tranh, tình yêu, hạnh phúc,
triết lí về cuộc đời: ............................................................................................... 74
CHƯƠNG 4: ĐỐI THOẠI – ĐỘC THOẠI NỘI TÂM VÀ NHỮNG THỦ
PHÁP NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC KHÁC ...................................................... 82
4.1.NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT TIÊU THUYẾT CỦA
HEMINGWAY ....................................................................................................... 82
4.2.ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI NỘI TÂM VỚI BÚT PHÁP TƯỢNG TRƯNG,
HÀI HƯỚC ............................................................................................................. 89
4.2.1. Đối thoại, độc thoại nội tâm với bút pháp tượng trưng .......................... 89
4.2.2.Độc thoại nội tâm với bút pháp hài hước: ................................................ 92
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 93
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 99
1/TIẾNG VIỆT ....................................................................................................... 99
A/ TÁC PHẨM VĂN HỌC ................................................................................. 99
B / BÀI BÁO VÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ............................................ 99
C/NHÓM TÁC GIẢ .......................................................................................... 107
2/TIẾNG ANH ...................................................................................................... 108
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 109
TƯ LIỆU VỀ MỘT SỐ PHÁT BIỂU CỦA HEMINGWAY NHỮNG TRANG
ĐỘC THỌAI NỘI TÂM TIÊU BIỂU TRONG TIỂU THUYẾT
HEMINGWAY ..................................................................................................... 109
1/Hemingway trả lói phỏng vấn tại Đại hội lần thứ hai các nhà văn Mĩ năm
1937: .................................................................................................................. 109
2/Thư của Hemingway gửi đến buổi lễ trao giải Nobel văn học năm 1954, do
Giôn Kebốt đọc tại buổi lễ: ............................................................................... 113
3/Những trang độc thoại nội tâm tiêu biểu: .................................................... 114
MỞ ĐẦU
1/LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ những năm đầu thế kỉ XX, văn học Mĩ bắt đầu có tiếng vang rộng rãi trên
văn đàn thế giới. Dư luận ngày càng chú ý tới những nhà văn xuất sắc như Wiliam
Faulkner, John Doss Passos, Ernest Hemingway .... Trong đó Ernest Hemingway là
người tiếp nối Wiliam Faulkner đoạt giải Nobel văn chương năm 1954. Từ đó đến nay
ông đã để lại cho nhân loại một tài sản vô giá. Tuy không nhiều về số lượng nhưng đã
chuyển tải được những vấn đề bức thiết có tính muôn thủa của nhân loại. Đặc biệt,
người Mĩ luôn tự hào về ông như một nhà văn "pop" nhất của họ. Tác phẩm của
Hemingway được tính đến đơn vị chữ, với ấn hành hàng chục triệu bản. Hơn nữa, họ
cũng rất tự hào, vì cho tới bây giờ Hemingway vẫn là một trong những nhà văn Mĩ,
viết hay nhất về đề tài chiến tranh, tình yêu, lòng trắc ẩn, và thân phận con người.
Cùng với những đóng góp về phương diện hình thức, ông được ghi nhận là một
trong những bậc thầy của văn xuôi tự sự thế kỉ XX. Nghệ thuật đặc sắc của
Hemingway có ảnh hưởng vồ cùng to lớn đối với nhiều nhà văn trên thế giới.
Tơriphônốp đã khẳng định :
"Hemingway là một trong những nhà văn gây nên sóng gió trong cái biển cả
mênh mông là văn học. Hai chục năm qua, ảnh hưởng của Hemingway mạnh đến nổi
như là tạo ra một thước đo mới cho văn xuôi. Trong một thời gian dài dường như
không ai thoát khỏi ảnh hưởng của ông".[103, 2]
Với độc giả Việt Nam, Hemingway là một nhà văn rất quen thuộc và gần gũi từ
hơn bốn mươi năm qua. Sáng tác của ông đã và đang thu hút sự quan tâm của giới phê
bình, nghiên cứu văn học. Nhiều tác phẩm đã được giảng dạy ở chương trình phổ
thông và đại học.
Các công trình nghiên cứu về Hemingway gần đây phần lớn có tính chuyên sâu,
nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung khai thác những đặc sắc về nội dung cũng như về
nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Hemingway. Tuy nhiên, đi sâu vào
nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của Hemingway thì chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống. Đó chính là hướng phát triển
của đề tài.
2/ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Cuộc đời và tác phẩm của Hemingway hơn nửa thế kỉ nay, đã thu hút sự chú ý
của các nhà phê bình, nghiên cứu trên toàn thế giới. Với những bài viết, những đánh
giá, nhận xét về tác giả, tác phẩm đăng rải rác trên các báo, tạp chí, các công trình
nghiên cứu, chúng tôi thu thập được, có thể hệ thống lại như sau:
2.1/ Tiếng Việt:
Năm 1961 có bài của Thu Liễu in ở báo "Tin sách tháng 4 và 5-1961". Tác giả
điểm qua sơ lược cuộc đời đầy sôi động của Hemingway cùng những tác phẩm tiêu
biểu như "Giã từ vũ khí", "Chuông nguyện hồn ai”, “ông già và biển cả" .... Bài viết
khẳng định đối với Hemingway "Mỗi tác phẩm là một sự khởi đầu, mà từ đó mỗi nhà
văn chân chính phải cố làm lấy một cái gì chưa có ai làm bao giờ".
Năm 1962, hồi kí "Con người năm tháng và cuộc đời" của I. Erenburg do
Nguyễn Thụy ứng dịch in trong "Chân dung văn học", bài viết có tựa đề
"Hemingway" đã cung cấp một số quan niệm của Hemingway về cuộc sống và sứ
mệnh của nhà văn ... "Thử hỏi tất cả các nhà văn trên đời này đã viết và đang viết về
những gì ? Có thể đếm được trên đầu ngón tay: tình yêu, cái chết, lao động, đâu tranh
tất cả các cái khác đều qui tụ vào đó hết". [150, 176]
Cũng trong năm này, tạp chí văn học số 12/1962 đăng bài giới thiệu tiểu thuyết
"Ông già và biển cả" của Phong Lê. Tác giả phân tích một số nét đặc sắc về nghệ thuật
của Hemingway. Ông bày tỏ quan điểm ... "Ta trân trọng một cách nhìn rất hiện thực
về con người sở dĩ có được chính đo lòng tha thiết tin yêu con người của
Hemingway". Bên cạnh đó ông còn khẳng định: "Chủ nghĩa nhân đạo của Hemingway
biểu hiện rõ ràng trong triết lí của câu chuyện. Con người không bao giờ chịu thua
trong khi phấn đấu để sống còn. Con người có thể bị tiêu diệt nhưng không hề bị
khuất phục".
Năm 1963, Phạm Thành Vinh giới thiệu tác phẩm "Chuông nguyện hồn ai". Tác
giả giới thiệu sơ lược tiểu sử, tác phẩm, đồng thời phân tích một số đóng góp trên
phương diện nghệ thuật của Hemingway.
Năm 1965 trên tạp chí Văn - Sài Gòn số 41, một đặc san tập trung khá nhiều bài
viết về Hemingway cùng những tác phẩm tiêu biểu của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước. Tiêu biểu như "Hiểm nghèo là tấm gương soi", bài của Archibald
Macleish do Lê Bá Rông và Bửu Nghi dịch. Bài viết đưa ra quan niên của Hemingway
về công việc nhà văn: "Nhận thức bằng ngôn ngữ, nhận thức cảm giác thực sự xảy ra
trong hành động, và nhận thức cảm giác thực sự của mình, chứ không phải cảm giác
mà mình tưởng rằng mình có bằng ngôn ngữ". Philip Young trong bài nghiên cứu
"Thế giới của Hemingway" đã đưa ra nhận định: "Thế giới của Hemingway là một thế
giới trong đó, mọi vật không phất triển, và mang lại kết quả nào, mà trái lại nổ tung,
suy tàn và tan rã đi. Nó không suy sụp hẳn là nhờ khả năng, sức chịu đựng và lòng can
đảm của con người, nhờ những cuộc yêu thương ngắn ngủi trong những ngày nghỉ
phép, nhờ những cuộc đi thăm nước ngoài, đi câu và đi săn, hoặc những phút ngồi
quán cà phê, ngoài ra không còn gì hơn nữa". Đây là một trong những bài viết có
nhiều gợi ý liên quan đến đề tài. Ngoài ra Philip Young còn điểm sơ một số nét về
nghệ thuật viết của Hemingway trong bài "Văn Ernest Hemingway".
Đặc biệt chú ý là bài nghiên cứu "Ernest Hemingway" của Trần Phong Giao.
Trong bài viết của mình, tác giả đã tóm tắt sơ bộ cuộc đời và các tác phẩm tiêu biểu
của Hemingway. Trần Phong Giao đề cập đến triết lí về cuộc đời của Hemingway ở
tác phẩm "The sun also rises" (mặt trời vẫn mọc) : "Cứ đi tìm ý nghĩa của cuộc sống,
rồi sau chót, có thể là ta sẽ hiểu được, là thật ra cuộc sống có chứa đựng những gì,
sống trong một thế hệ, dù lạc lõng hay không, cái ý nghĩa cao đẹp nhất vẫn là trưởng
thành và biết sống cho ra sống". Hoặc trong tác phẩm "For whom the ben tolls"
(Chuông nguyện hồn ai), nhà văn nhận thức một cách sâu sắc: "Không con người nào
có thể sống lẻ loi như một hòn đảo, ẩn nấp trong vỏ cứng "cái tôi" mà thật ra mỗi
người chỉ là một mẩu đất nhỏ của đại lục, một phần của tất cả".
Tháng 2/1966 tạp chí văn học đăng bài "Nhà văn ở Mĩ" của Mai-cơn-Giôn, do
Cao Huy Đỉnh dịch. Tác giả nhận định, Hemingway thuộc "thế hệ lạc lõng", sau đại
chiến đã mất hết ảo tưởng đối với chủ nghĩa đế quốc Mĩ, và đưa vào văn học một thứ
chủ nghĩa bi quan thất bại chưa từng thấy.
Năm 1970 - Tạp chí văn học đăng bài viết "Hemingway, con người và nhà văn"
của Irving Howe. Do Phạm Hữu Hào dịch. Trong bài viết tác giả nói đến những quan
niệm về xã hội, luân lí của Hemingway và các nhà văn như Fitzgerald, Cumming và
Dos Passos. "Họ cũng không đi tìm kiếm những giá trị mới ; họ không có ảo vọng đó
nữa ; số phận của họ là phải sống trong cảnh bấp bênh (...). Bi kịch của họ là nền luân
lí không còn nữa. Đó là vấn đề của những nhân vật mang thương tích trong tác phẩm
của Hemingway".
Tháng 6/1977, Lê Đình Cúc với bài nghiên cứu khá kĩ những tiểu thuyết của
Hemingway "Hemingway và những tác phẩm tiêu biểu của ông". Tác giả phân tích ba
tiểu thuyết nổi tiếng của Hemingway như : "Giã từ vũ khí", "Chuông nguyện hồn ai"
và "Ông già và biển cả". Tuy nhiên cách phân tích tác phẩm của tác giả Lê Đình Cúc
chú ý tập trung vào đề tài chiến tranh. Tác giả có điểm sơ qua nghệ thuật đối thoại,
độc thoại nội tâm, cách dùng ngôn ngữ giản dị của Hemingway.
Năm 1980- Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 13 đăng bài "Bố già
Hemingway" của nhà văn Hotsne. Bài viết là một đoạn trích trong hồi kí của Hotsne,
bạn thân của Hemingvvay. Tác giã đã ghi lại những kỉ niệm thân thiết với
Hemingway, cùng những đánh giá về cuộc đời và sáng tác của Hemingway.
Năm 1981, Văn nghệ hội nhà văn Việt Nam có bài “Hemingway trong mắt tôi”
của Gabrien Gácxia Máckét, do nhà văn Nguyễn Văn Bổng dịch. ở bài viết tác giả nói
đến nghệ thuật viết văn của Hemingway cùng những công việc của nhà văn. Trong đó
có đoạn "Rất khó giải thích bao nhiêu lỗ hổng trong cấu trúc và bao nhiêu sai sót trong
vận dụng văn chương đối với một nhà kĩ thuật khôn khéo như vậy, cũng như rất khó
giải thích những đối thoại giả tạo, có khi gian đối nơi một người thợ mài giũa đối
thoại lừng lẫy trong lịch sử văn học như Hemingway".
Tháng 8/1981 - Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh đăng bài "Nỗi sợ của
Hemingway" do Lưu Kiểng Xuân viết. Tác giả bài viết đưa ra những nhận định rất
xác đáng, bổ ích về sự nghiệp văn chương cửa Hemingway.
Năm 1984 -Tạp chí văn học in bài "Sự tham gia của nhà văn trong chiến tranh"
do Vương Trí Nhàn viết. Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả nhận định
"Hemingway không miêu tả chiến tranh như ông đã nhìn thấy, điều mà nhà văn quan
tâm ở đây là những ám ảnh chiến tranh để lại trong đời sống tinh thần và số phận con
người".
Năm 1985 -Nhà nghiên cứu Lê Đình Cúc đăng hai bài ở tạp chí văn học: "Bi
kịch của Hemingway”, tác giả nói đến bi kịch của các nhà văn thuộc thế hệ "lost
generation" ( thế hệ mất mát ), đó là bi lạch của những con người nhạy cảm, thông
minh, biết nhìn những mặt trái kinh tởm của xã hội tư sản. Đó là bi kịch của cả "nước
Mĩ tươi đẹp"nhưng đã biến hoá mà "có qủy mới biết là nó sẽ thành cái gì". Lê Đình
Cúc còn điểm qua những đặc điểm cơ bản của ngòi bút Hemingway. Ngoài ra còn có
bài "Nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway". Lê Đình Cúc đã nói đến bút pháp tượng
trưng và hài hước trong tiểu thuyết của Hemingway. Cũng trong năm này, Văn nghệ
hội nhà văn Việt Nam đăng bài "Hemingway với biển cả "của Phương Mai. Bài viết
chủ yếu nói về những cuộc phiêu lưu của nhà văn Jrên biển, cùng những ngày tháng
tham gia chiến tranh thế giới lần thứ 1, lần thứ 2.
Nhìn chung, những bài viết từ 1985 trở về trước chủ yếu mang tính chất tư liệu,
hoặc nếu có tác giả nói đến nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway cũng chỉ dừng lại ở
cách phân tích xã hội học quen thuộc, hoặc có người chỉ nói sơ qua một số đặc trưng
nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway, chưa có bài viết nào phân tích một cách hệ
thống những tiểu thuyết của Hemingway từ góc độ thi pháp học.
Tháng 7/1986 - Kỉ niệm 25 năm ngày mất của Hemingway ( 1961-1986), Văn
nghệ quân đội đăng bài "Bắt đầu từ chỗ đứng của một người lính" đo Vương Trí Nhàn
viết. Tác giả bước đầu phân tích sự nghiệp Hemingway từ cái nhìn đổi mới so với
những nhà văn lớp trước. Từ nghệ thuật xây dựng nhân vật, đến nghệ thuật kết cấu tác
phẩm, nghệ thuật đối thoại, nghệ thuật độc thoại nội tâm, và những đóng góp của ông
vào sự đổi mới văn học phương Tây hiện đại. Đây là một bài viết có nhiều điểm gần
gũi với những vân đề luận văn nghiên cứu.
Năm 1990, nhân bàn về "Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới", giáo
sư Phùng Văn Tửu đã phân tích tác phẩm "ông già và biển cả" để chứng minh cho
luận điểm "Tiểu thuyết là tiền đề của tiểu thuyết". Bài viết tập trung phân tích kĩ
những đặc trứng độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết "Ông già và biển cả" của
Hemingway. Tác giả đã đề cập đến một số vấn đề đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết
của Hemingway.
Tháng 2/1991- Tác phẩm mới đăng bài "người chết 100 lần trước khi chết" của
Lê Đình Cúc. Bài viết bàn sôi nổi về cái chết bí ẩn vào ngày 1/6/1961 của
Hemingvvay. Tác giả còn bàn đến cuộc đời phong phú li kì của nhà văn. Cuối cùng Lê
Đình Cúc nhấn mạnh "toàn bộ tác phẩm của Hemingway đều toát lên tư tưởng chống
chiến tranh, ca ngợi phẩm giá của con người với tất cả những cái tốt đẹp của chủ
nghĩa nhân văn, nhân bản ở con người. Nhưng khủng khiếp hơn chiến tranh là sự tha
hoa của tâm hồn con người. Trong chiến tranh con người trỏ nên xa lạ, họ trở thành
thú dữ. Chiến tranh đẩy con người trở lại không chỉ là "thời kì đồ đá" trong đời sống
vật chất mà nguy hại hơn là trong đời sống tinh thần và tình cảm của con người.
Năm 1992, giáo sư Đặng Anh Đào trong văn học phương Tây, tập 3 đã viết về
Hemingway dưới cái nhìn của thi pháp học. Tác giả phân tích nguyên lí tảng băng trôi
cùng ba tiểu thuyết tiêu biểu của Hemingway như "Giã từ vũ khí", "Chuông nguyện
hồn ai", "Ông già và biển cả".
Năm 1996, Lê Huy Bắc đăng bài "Vai trò kể chuyện của nhân vật trung tâm
trong sáng tác của Hemingway" trong "Thông báo khoa học của trường Đại học sư
phạm Hà Nội". Tác giả đề cập đến vai trò người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ
ba của Hemingway cùng những đổi mới của Hemingway ở phương diện này.
Trong năm này, tạp chí văn học cũng đăng bài "Đồng hiện trong văn xuôi" của
tác giả trên. Trong đó Lê Huy Bắc đề cập đến thủ pháp đồng hiện, độc thoại nội tâm
và dòng ý thức đã trở thành một trong những phương thức chủ yếu của Hemingway.
Năm 1997, tạp chí văn học số 3 đăng bài nghiên cứu của Huy Liên "Tìm hiểu
phong cách nghệ thuật qua các truyện ngắn của nhà văn Ernest Hemingway". Nhà
nghiên cứu đã phân tích sự thống nhất giưã nhân cách và phong cách sống, với phong
cách nghệ thuật. Ông đã khẳng định :"Tác phẩm của Hemingway có đặc điểm là cô
đọng và hàm súc hơn nhiều so với chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX. Ngôn từ ngắn gọn,
các sự kiện không nhiều Đây là một bài viết có nhiều nét gần gũi với đề tài của luận
văn.
Tạp chí văn học số 11 năm 1999 kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ernest
Hemingway ( 1899-1961 ) đăng bài "Am hưởng thời đại trong Hemingway" của Lê
Huy Bắc. Bài viết phân tích khá súc tích, đầy đủ những đặc điểm nghệ thuật của nhà
văn Hemingway.
Tác phẩm mới số 4, 1999 cũng đưa những suy nghĩ về tiểu thuyết của nhà văn
Vũ Tú Nam "Nhân đọc Chuông nguyện hồn ai của Hemingway". Nhà văn ca ngợi
nghệ thuật tiểu thuyết độc đáo của Hemingway "ở Hemingway vừa có truyền thống
Mĩ, vừa có hơi thở của biển và rừng, có máu của Nam Mĩ và Tây Ban Nha. ông là nhà
văn của sự quyết liệt, của máu, của đấu bò, của súng săn, của bão biển; đồng thời là
nhà thơ của tình yêu, của bầu trời xanh. Ông đã sống và chết đúng như nhân vật của
ông. Ông đã sống cho đến khi chết và đã chết như chính ông và Jordan đang sống .
Năm 1999, kỉ yếu khoa học khoa ngữ văn, đại học sư phạm TP HCM cũng đăng
bài "Thế giói truyện ngắn Hemingway - Nick Adams và những ám ảnh" của Trần Thị
Thuận. Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả đã nói những ám ảnh trong sáng tác
của Hemingway về cái ác, cái chết và cái cô đơn.
Ngoài ra trong năm này còn có một số bài đăng trên các tạp chí: Thế giới mới,
An ninh thế giới, Văn nghệ. Các bài viết chủ yếu là giới thiệu sơ lược về nhà văn,
cùng tác phẩm của ông nhân kỉ niệm lần thứ 100, ngày sinh của ông.
Ngoài ra, phải kể đến một số luận văn sau đại học của Phan Thu Hiền, Trần Thị
Thuận, Lê Huy Bắc, là những công trình nghiên cứu có giá trị.
Tháng 10/1999 Lê Huy Bắc xuất bản "Ernest Hemingway- núi băng và hiệp sĩ”.
Đây có thể xem là một tập nghiên cứu có giá trị khá đầy đủ về sáng tác của
Hemingway.
Năm 2000 Lê Huy Bắc tuyển chọn và giới thiệu "Ernest Hemingway và những
người đi qua đời ông", đây là tập tuyển chọn giới thiệu chọn lọc về nhà văn qua các
nhà nghiên cứu trên thế giới.
Qua tất cả những tài liệu thu thập được bằng tiếng việt có liên quan, hoặc không
liên quan trực tiếp đến đề tài, người viết nhận thấy số lượng bài viết về Hemingway
tương đối nhiều, hầu hết chỉ nhằm giới thiệu chung về nhà văn. Các công trình nghiên
cứu chuyên sâu chỉ tập trung ở một số người như giáo sư Đặng Anh Đào, giáo sư
Phùng Văn Tửu, ông Vương trí Nhàn, Lê Đình Cúc, Lê Huy Bắc và Phan Thu Hiền.
2.2/Tiếng Anh
1957: Literary history of the United States by Robort E. Spiller tác giả đã tổng
thuật lịch sư văn học Mỹ từ thế kỷ XVII, phần được viết rõ nhất là thế kỷ XIX yàXX.
1960: Literature and the American Tradition by Leon Howard (văn học và
truyền thông Mĩ). Tác giả đã bước đầu so sánh bút pháp của Hemingway với Faulner.
1961: The shapers of American Fiction by George Suell ( những đáng vẻ của
tiểu thuyết Mĩ ).Tác giả đề cập đến chiều thời gian trong tiểu thuyết của Hemingway.
Đặc biệt tác giả nhận định "Thế hệ vứt đi" đã cố gắng kiếm tìm những giá trị đích thực
của con người bên dưới những giá trị bị vứt bỏ bởi việc làm tan vỡ ảo tưởng.
1962: Hemingway : A collection of critical essays. Trong đó có những bài liên
quan trực tiếp đến đề tài như "Hemingway's Ambiguity : Symbolism and Irony" (sự
mơ hồ, tượng trưng và châm biếm ở Hemingway), "Observations ôn the style of
Ernest Hemingway" (Những đánh giá về bút pháp của Hemingway). "Ernest
Hemingway's religion of man" (Tín ngưỡng con người của Hemingway) ...
1964: American literature by porter, Terrie ( văn học Mỹ: chúng tôi chú ý những
đánh giá giới thiệu về mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm đặc biệt là sự đánh giá
tiểu thuyết "ông già và biển cả".
1974: "Hemingway and life as play" by E. Elliot ( cuộc sông như một vở kịch).
Tác giả phân tích các sáng tác của ông, đôi chiếu với tiểu sử để chứng minh sự gần gũi
giữa tác giả và tác phẩm.
Nhìn chung, những công trình và bài viết chủ yếu là những nhận định, đánh giá
chung về tác giả và tác phẩm. Tuy nhiên có một số nhận định là những gợi ý thiết thực
đối với đề tài của chúng tôi.
3/ GIỚI HẠN VẤN ĐỀ
3.1.Tác phẩm khảo sát
Chúng tôi chọn 4 tiểu thuyết thành công nhất của Hemingway đã được dịch ra
tiếng việt và tái bản nhiều lần :
"Mặt trời vẫn mọc" bản dịch của Bùi Phụng, từ nguyên bản tiếng Anh của nhà
xuất bản New York TheViking Press năm 1944, tái bản năm 2000.
"Giã từ vũ khí" chúng lôi chọn bản dịch của Giang Hà Vỵ, xuất bản năm 1987 -
Nhà xuất bản mũi Cà Mau.
"Ông già và biển cả " bản dịch của Huy Phương tái bản năm 1986 và bản dịch
của Lê Huy Bắc năm 1999. Khi nghiên cứu chúng tôi có đối chiếu với bản tiếng Anh
"The old man and the sea" by Charles Scribner's Sons, New York.
"Chuông nguyện hồn ai" bản dịch của Nguyễn Vĩnh, Hồ Thế Tân tái bản năm
1987 và bản dịch của Huỳnh Phan Anh, xuất bản năm 1995.
Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo một số truyện ngắn khác của Hemingway.
3.2.Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài luận văn trên cơ sở theo đúng phương
hướng nghiên cứu văn học của quan điểm Mác xít. Xem tác phẩm văn học là một
chỉnh thể nghệ thuật, với sự thống nhất hữu cơ giữa nội đung và hình thức, Mục đích
nghiên cứu, là nhằm khám phá những giá trị thẩm mĩ đích thực của tác phẩm. Cụ thể,
chúng tôi sử dụng các phương pháp sau :
Khảo sát một cách chi tiết văn bản tác phẩm. Thống kê, phân loại các hình thức
đối thoại, độc thoại nội tâm theo các tiêu chí của những cách tiếp cận khác nhau. Phân
tích tỉ mỉ văn bản về kết cấu, liều lượng, nghệ thuật sử dụng các dạng đối thoại cũng
như độc thoại nội tâm. TO đó rút ra những kết luận chính xác. Trong quá trình khảo
sát chúng tôi chủ yếu sử dụng văn bản dịch, tuy nhiên ở những chương quan trọng
chúng tôi có đối chiếu bản địch với tác phẩm nguyên tác bằng tiếng Anh.
Tiếp cận hệ thống:
Chúng tôi xem xét nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm trong mối quan hệ với
các phương tiện xây dựng nhân vật khác. Như nguyên lí "tảng băng trôi thời gian,
không gian, trong quan hệ với các thành phần ngôn ngữ khác như ngôn ngữ tác giả,
ngôn ngữ kể chuyện.
Chúng tôi đồng thời tập trung nghiên cứu mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại
giữa đối thoại và độc thoại nội tâm, vận dụng phương pháp phân tích theo hướng diễn
địch, tức là từ cái duy nhất, đi vào những cái riêng, cụ thể, rồi rút ra kết luận.
Phân tích ý nghĩa nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm trong mối quan hệ với
đề tài, chủ đề, quan niệm nghệ thuật của tác giả, hoàn cảnh sáng tác, hiện thực được
phản ánh.
* Phương pháp đối chiếu so sánh
So sánh nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm của Hemingway với các nhà văn
thế kỷ XIX như Lép Tônxtôi, Xtăngđan, Banzắc từ đó rứt ra những nét đổi mới ở
Hemingway so với các nhà văn thế kỉ trước.
So sánh giữa nghệ thuật đối thoại ở tiểu thuyết với truyện ngắn của Hemingway.
Từ đó rút ra những đóng góp của Hemingway đối với việc đổi mới nghệ thuật tiểu
thuyết phương Tây hiện đại.
4/MỤC ĐÍCH, CÂU TRÚC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
4.1 Mục đích của luận văn:
Việc nghiên cứu, khảo sát nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm trong tiểu
thuyết của Hemingway, chúng tôi nhằm hướng tới những đặc sắc trong biểu hiện nghệ
thuật của Hemingway. Qua đo', tìm ra quan niệm về nghệ thuật của nhà văn,về thế
giới và con người đặc biệt kiểu "con người ý thức". Họ ý thức về sự đổ vỡ của xã hội,
ý thức về sự cô độc của kiếp người ...
Là một giảng viên giảng dạy bộ môn văn học nước ngoài, việc nghiên cứu đề tài
khoa học "Đối thoại và độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của Hemingway" là rất cần
thiết và bổ ích đối với chúng tôi. Đây là dịp để chúng tôi chiêm nghiệm lại,và làm rõ
thêm, những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học. Từ đó, chúng tôi
sẽ tìm hiểu kĩ hơn những vấn đề đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway
nói riêng và tiểu thuyết Phương Tây nói chung.
4.2.Cấu trúc của luận văn:
Luận văn gồm 4 chương Phần mở đầu
Chương 1: Hemingway - Thời đại, con người và tác phẩm:
Ở chương này chúng tôi nêu bật những nét tiêu biểu về cuộc đời huyền thoại của
nhà văn Hemingway, cùng những quan niệm về sáng tạo nghệ thuật của ông.
Chương 2: Những đối thoại bí ẩn:
Chúng tôi nghiên cứu những hình thức đối thoại của Hemingway. Từ đó rút ra
những điểm đặc sắc trong nghệ thuật đối thoại của Hemingvvay như: những đối thoại
lấp lửng, đối thoại bí ẩn, cũng như những đối thoại giả tạo nơi một người thợ mài giũa
đối thoại lừng lẫy như ông. Trong qua trình nghiên cứu, chúng tôi có so sánh với đối
thoại ở một số nhà văn đi trước.
Chương 3: Độc thoại nội tâm
Cũng như đối thoại, chúng tôi nghiên cứu các hình thức độc thoại nội tâm trong
tiểu thuyết của Hemingway. Từ đó chúng tôi đi vào tìm hiểu những suy nghĩ, quan
niệm của nhân vật về tình yêu, tình bạn, quan niệm về sống, chết...
Chương 4: Những nét đặc sắc trong nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway:
Ở chương này, bên cạnh nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm, chúng tôi mở
rộng ra nguyên Vì "Tảng băng trôi " của Hemingway. Chúng tôi nghiên cứu các vấn
đề về không gian, thời gian, cốt truyện, nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng...
Kết luận
4.3.Những kết luận mà nhà văn hướng tới:
Nêu được sắc thái riêng, sự độc đáo của Hemingway trong việc sử dụng nghệ
thuật đối thoại và độc thoại nội tâm qua bôn tiểu thuyết tiêu biểu. Đồng thời phân biệt
rõ đối thoại, độc thoại của Hemingway giông và khác các tác gia khác như thế nào.
Lí giải mối quan hệ chặt chẽ giưã đối thoại, độc thoại nội tâm và các thủ pháp
nghệ thuật khác của Hemingway. Từ đó nêu bật ý nghĩa của nguyên lí “Tảng băng
trôi" trong tiểu thuyết của Hemingway.
Những đóng góp của Hemingvvay trong việc đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết
Phương Tây hiện đại.
CHƯƠNG 1: HEMINGWAY- THỜI ĐẠI - CON NGƯỜI - TÁC
PHẨM
1.1.NHỮNG BIẾN CỐ TƯ TƯỞNG TRONG VĂN HỌC MĨ THỂ KỶ XX
Chưa lúc nào thế giới lại biến động mãnh liệt, nhanh chóng như ở thế kỉ này.
Trên khắp mọi lĩnh vực, từ triết học, kinh tế, khoa học kĩ thuật đều có sự đổi thay đến
chóng mặt. Chỉ tính riêng về số lần chiến tranh có tầm cỡ thế giới, phải hơn hai mươi
thế kỉ mới có ba cuộc chiến tranh, trong khi ấy chưa đầy ba mươi năm đã xảy ra hai
cuộc chiến tranh thế giới khủng khiếp mà trong đó có người Mĩ tham gia.
Cùng với những thảm họa đang giáng xuống con người, nhiều hệ thống triết học
ra đời nhằm thay thế nến tảng luân lí cũ, cứu nhân loai khỏi thảm họa diệt vong. Nổi
bật với thuyết siêu hình của Fr. Nietzsche, thuyết trực giác của Bergson, thuyết hiện
sinh của J.p Sartre và duy vật biện chứng của Marx -Engels ... Gắn với các triết thuyết
ấy là những trào lưu văn học nở rộ, dù có chiu ảnh hưởng trực tiếp hay không cũng đã
minh chứng cho các luận thuyết trên. Có thể kể trường phái đa đa, siêu thực, tượng
trưng và Tiểu thuyết mới ... Những trường phái ấy không chỉ biểu hiện cho vô số
những tiếng nói khác nhau, mà còn bộc lộ sự "đoản mệnh". Vừa xuất hiện chúng liền
biến tướng chuyển ngay sang hình thức của trường phái khác. Hoặc ngay chính trong
bản thân một nhà văn, chuyển di từ chủ nghĩa này sang chủ nghĩa kia là hiện tượng
phổ biến của thế kỷ XX. Điểu ấy đã bộc lộ tính chất bất thường của thời đại.
Trước thực tế phũ phàng, đối với nhiều người Mĩ, niềm hi vọng về một sự tiến
hoa của châu Âu và thế giới thế kỷ XX đã biến mất. Trên thực tế "Sự thay đổi đó
không khác gì bước lùi từ mùa xuân trở lại mùa đông". Mark Twain trong tác phẩm
của mình đã xác nhận rằng: "Đời là hoàn toàn xâu xa", cũng như với John Gray "Mọi
việc đều chứng tỏ đời là trò đùa", nhất là với những con người mà tâm hồn bị "tàn
phế", họ chỉ còn biết trú ẩn trong "tháp ngà" của riêng mình. Chiến tranh đã dạy cho
người Mĩ hiểu thế nào là bạo lực, sức mạnh, sự mong manh của kiếp người. Một tinh
thần chối bỏ thực tại để thoát khỏi những ám ảnh đã xâm nhập vào đời sống văn học,
cả trong tác phẩm lẫn trong cuộc đời nhà văn. Một số người như Gertrude Stein, Eliot,
Pounđ cùng một số môn đệ của họ sang châu Âu, tản mát khắp các nơi, nhưng tụ họp
đông nhất ở Paris, nơi đang thịnh hành một đời sống văn học thích hợp với họ. Họ coi
nước Mĩ là một nước xa lạ và phải nhiều năm sau họ mới có thể thích ứng trở lại với
đời sống Mĩ. Ngay ở tại quê hương của mình, một số nhà văn đã tự nguyện cô lập
mình như Greenvvich Village, họ đã hình thành một xã hội riêng biệt, đối lập quyết
liệt với lối sống Mĩ. Tuy vậy, những chao đảo trong tư tưởng của các nhà văn không
tồn tại lâu. Theo Hemingway thì trong thời buổi này, con người đã phải quen với
những thực tế phũ phàng, những cuộc vật lộn đầy máu lửa trong chiến tranh không dễ
gì làm cho con người ta dễ bị xúc phạm hơn là cứ giữ mãi tâm hồn lãng mạn. Vào
khoảng những năm hai mươi, đã xuất hiện một thế hệ nhà văn mới. Phần đông trong
số họ đều là những người chịu ảnh hưởng sâu xa của những năm loạn lạc sau chiến
tranh thế giới thứ nhất, và họ nhiệt thành muốn lưu đấu lại những điều họ cảm nghĩ về
thời đại của họ. Thế hệ này kịch liệt đả kích nền văn minh mà họ đa ít nhiều nhận
thấy, họ cảm thấy chiến tranh đã làm cho tâm hồn con người tan rã. Họ cố gắng đi tìm
trong con người những giá trị chân chính làm cho con người có thể sống được trong
thời bình. Họ không nhìn về qua khứ, mà nhìn về tương lai. Tuy vậy trong thời kì lộn
xộn chiến tranh, những dự cảm của họ không hoàn toàn rõ ràng, mạch lạc. Trong các
tác phẩm, ta nhận thấy bàng bạc một cuộc sống bấp bênh, tuyệt vọng mà con người
phải hứng chịu "Một thế giới ghê tởm đang lăn trên bờ vực thẳm". Lịch sử những
cuộc chiến đi qua, sau sự lắng đọng của thời gian, chúng ta phải công bằng nhìn nhận
rằng, trong thẳm sâu mỗi nhà văn, họ đều thực lòng đi tìm những gia trị khả dĩ, cứu
nhân loại khỏi thảm họa diệt vong. Và trước khi những giá trị mới đó được nhận ra,
hiểu thấu và chấp nhận, thì nhiều giá trị cũ đối với họ không thể còn chấp nhận được
mà phải kiên quyết xoa bỏ. Bên dưới những lời châm biếm chua cay, các nhà văn
muốn tìm đến một cuộc đời thật xứng đáng, trong đó tinh thần con người phải được
cải thiện tốt đẹp hơn. Ẩn dấu trong giọng hoài nghi, các nhà văn vẫn ngầm nuôi một
niềm tin ở sự tồn tại của cuộc đời. Mặc dầu những tác phẩm của họ còn nhiều chỗ văn
phong phóng túng, nhưng chúng vẫn rất ý nghĩa bởi những giá trị sâu sắc của một
thiến hướng đạo đức lành mạnh.
Tiểu thuyết Mĩ khởi sắc với những nhà văn trưởng thành sau chiến tranh thế giới
thứ nhát Thế hệ này bao gồm những nhà tiểu thuyết tiên phong trong việc "đổi mới
các phương pháp và các nguồn cảm hứng". Họ đã khai sinh ra kỉ nguyên văn học mà
người ta gọi là "Kỉ nguyên của tiểu thuyết Mĩ".
SINCLAIR LEWIS (1885-1951) là nhà văn tiên phong trong số các nhà văn Mĩ
đoạt giải Nobel ve văn chương. Ong đã rất thành công trong việc xây dựng bức tranh
toàn cảnh về đời sống Mĩ và con người Mĩ những năm 1920-1930. Trong các tác
phẩm của mình như "Main Street" ( phố chính, 1920) Lewis đã tỏ rõ thái độ bất bình
của mình đối với đời sống xã hội, của chủ nghĩa tư bản Mĩ đang trên đà phát triển
ngay từ đầu thế kỷ XX, với những bất công thối nát vô phương cứu chữa. Tiếp đó là
tiểu thuyết "Babbit" ( 1929 ), nhà văn đã xây dựng nên một thế giới mơ ước, những
con người mơ ước kiểu viễn tưởng như Wells, Antole Prance cho một xã hội công
bằng, hạnh phúc. Tiểu thuyết "Arrow Smith" thể hiện thái độ quyết liệt của Sinclair,
thông qua nhân vật Gottlitb, ông chống lại sự sa đọa về đạo đức của giai cấp tư sản
hãnh tiến, đang nắm vật chất của xã hội trong tay, họ là bọn người gian dối, tham lam,
đê tiện. Lewis châm biếm, mổ xẻ, đả kích nước Mĩ tư bản, xây dựng một xã hội trong
sáng theo kiểu B. Shaw và Wells vẫn ước mơ. Ông mổ xẻ tất cả những xấu xa trong
xã hội Mĩ. Tác phẩm của ông là luận đề về đời sống và đạo đức của xã hội thời đó, là
những bức tranh sinh động của nền văn minh Mĩ trong thế kỉ XX.
THOMAS WOLFE (1900-1938), với những tác phẩm phản ánh hiện thực đời
sống Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Wolfe chú ý vào đề tài "giải phẫu" nước
Mĩ qua sự phân tích ở một thành phố nhỏ chịu ảnh hưởng của tinh thần Thanh giáo.
Tiểu thuyết "Căn lều và đá" (1939 ) là một ví dụ. Wolfe có những ảnh hưởng nhất
định đến bộ mặt văn học Mĩ. Sau Wolfe là Scott Fitzgerald ( 1896-1940 ), ông là nhà
văn thuộc "Lost generation" ( thế hệ mất mát). Là thế hệ những nhà văn tham gia
chiến tranh và bị mất lòng tin vào cuộc đời. Tiểu thuyết "Phiá bên này của thiên
đường" (1920 ) được xem là bản tuyên ngôn của thế hệ trẻ sau chiến tranh "Tất cả
thần thánh đều đã chết, tất cả hi vọng của con người đều bị lừa dối". Đó là một thế hệ
không tin vào một cái gì ngoài những thú vui xa xỉ, đôi khi còn bị đẩy đến chỗ phi đạo
đức như trong tiểu thuyết "Gasby vĩ đại" ( 1925 ). Tác phẩm "Đêm êm dịu" (1934 )
mang nặng tâm trạng buồn rầu và chán nản. Những nhân vật trong đó đi tìm phương
thức chữa trị bệnh li uất trong rượu mạnh, khiêu vũ và nhạc Jazz.
JOHN DOS PASSOS (1896-1970 ) là người đã lớn tiếng tố cáo sự vô nghĩa của
các cuộc chiến tranh, đưa ra ánh sáng những khía cạnh đen tối trong nền kinh tế của
nước Mĩ không một chút thương hại. Ông đã trình bày sự hèn nhát và ích kỉ của chủ
nghĩa tư bản. về mặt nghệ thuật, Dos Passos là một nhà cách tân lớn. Trong tác phẩm
bộ ba "ƯSA", ông đã đồng thời đưa ra hàng chục âm mưu khác nhau, đan chéo vào
nhau. Không phân tích tâm lí và không đi sâu vào nội tâm nhân vật, ông xem tiểu
thuyết như "ống kính máy quay phim". Ông nghiên cứu hành vi con người trong xã
hội qua những phản ứng cử chỉ ở nhiều góc độ khác nhau. Để chỉ định thời gian hay
không gian, Dos Passos nhờ đến sự trình bày những mảng thời sự như trích dẫn nhật
báo, diễn văn, áp phích ... Sự cách tân trong nghệ thuật của Dos Passos đã có ảnh
hưởng lớn đến tiểu thuyết Mĩ và tiểu thuyết châu Âu. Đặc biệt là Hemingway (1899-
1961 ), nhà văn tiêu biểu nhất cho"thế hệ mất mát".
WILIAM FAULKNER (1897-1962 ) là một nhà tiểu thuyết xuất sắc của thế kỉ
XX. Tác phẩm của ông là những bức tranh kì vĩ và hùng tráng của con người và thiên
nhiên miền Nam. Trong những kiệt tác ấy, nổi bật nhất là tiểu thuyết "The sounds and
the fury" (Âm thanh và cuồng nộ, 1929 ). Với cách nhìn hài hước có pha chút bi thảm,
ông đã sáng tạo nên một thế giới con người sống động, hỗn độn, quái gở, rối rắm.
Faulkner là nhà văn rất đặc sắc trong nghệ thuật độc thoại nội tầm. Tác phẩm của ông
là những giờ phút của "giằng xé lương tâm" mà trong đó khái niệm thời gian không
còn giá trị. Cách viết của Faulkner đối lập với truyền thống, ông soi rọi vào những
ham muốn khốc liệt nhất, lột trần những ẩn ức được che đấu kĩ lưỡng. Thế giới đen tối
trong tác phẩm của ông chỉ được soi sáng bằng những tia chớp bạo lực. Faulkner là
một trong những nhà văn tiên phong sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật hiện đại
và các trào lưu mĩ học hiện đại trong tiểu thuyết thế kỉ nấy.
JOHN STEINBECK ( 1902-1968 ), là người đã phát tậển truyền thống hiện thực
Mĩ lên một bước mới. "Chùm nho nổi giận" (1939 ) là một tiểu thuyết có tính sử thi,
miêu tả sự phá sản và khốn cùng của những người nông dân Mĩ, bởi sự bóc lột của tổ
hợp nông nghiệp lớn. Nghệ thuật của Steinbeck rất đa dạng. Ông viết thật hóm hỉnh
về những người dân Calffornia khốn khổ, sống ngoài lề xã hội, lười biếng, trộm cắp,
nhưng thật ra lại là những người rất tốt bụng. Trong tiểu thuyết "Căn hộ của Tortilla"
(1935 ). Steibeck cũng đạt đến độ bi tráng hiếm có ở tiểu thuyết. Nhìn chung những
tác phẩm của ông đã miêu tả một cách sâu sắc đời sống của những người nông dân
miền Nam "những người đơn giản, chất phác và những đàm mê man dại của họ
thường bột phát mãnh liệt".
Tóm lại: mỗi tác giả trước những biến cố của thời đại đều có một góc nhìn nhất
định, để tìm tòi một hiện thực mới, một phương thức biểu hiện riêng trên cơ sở kiểu
cảm thụ thẩm mĩ của riêng họ. Trong tác phẩm của mình, đời sống bên trong của con
người được nhìn từ nhiều phiá, nhưng vẫn gặp nhau ở một điểm qui chiếu nào đó, và
sẽ mang lại một cảm nhận chung về nước Mĩ, với những đổ vỡ bất thường của thế hệ
những con người "bên lề" và mang một quan niệm riêng về triết lí nhân sinh.
1.2.HEMINGWAY - CON NGƯỜI VÀ SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT:
1.2.1.HEMINGWAY - một cuộc đời huyền thoại:
1.2.1.1.Tên tuổi nhà văn lớn của nước Mĩ - Ernest Hemingway đã được cả thế
giới biết đến, ca ngợi từ nhiều năm qua. Ông không chỉ nổi tiếng vì sự nghiệp văn
chương, mà còn bởi cuộc đời sông động của ông. Khó ai có thể vẽ thật đầy đủ về chân
dung Hemingway. Bên cạnh một Hemingway to cao lực lưỡng, vai khoác súng săn,
mắt đang nheo cười và đằng sau là núi rừng châu Phi, còn một Hemingway nhà văn,
tay xách máy chữ, tay cầm súng liên thanh xông pha giữa khói lửa chiến tranh. Lại
thêm một Hemingway râu quai nón xồm xoàm, áo sơ mi mở phanh phơi bộ ngực lồng
lộng sóng gió biển khơi, quanh chỗ ông đứng có đủ thứ cá mà ông câu được cùng con
thuyền Pila bằng gỗ sến trắng. Hemingway là như thế đó, sống mạnh mẽ, sôi nổi
nhưng lại rất tinh tế dịu dàng. Là nhà văn danh tiếng nhưng cũng là người câu cá bình
dị, là nhà thể thao (đánh bốc, đá bóng, bơi lội ...) nhưng cũng là một con người nhút
nhát, dễ bối rối trước đám đông.
1.2.1.2.Cả cuộc đời nhà văn là minh chứng hùng hồn cho mẫu người đúng như lí
tưởng của ông : đó là con người vượt qua mọi thử thách trong hoàn cảnh khắc nghiệt
của nhân loại thế kỉ này. Con người can đảm đương đầu với mọi đe dọa của tai ương,
bạo lực và cái chết. Hemingway, một nhà văn cả cuộc đời cầm súng và cầm bút, con
người say mê săn bắn, thích mạo hiểm nơi rừng rậm và biển cả. Hemingway, con
người của những trận đấu bò tót, của những cuộc săn thú rừng ... ông tìm đến những
nơi nguy hiểm không phải để tìm cảm giác mới lạ, mà nhằm "đi tìm ngọn lưa tinh thần
trong con người và trong loài thú". Nói khác đi, ông muốn đối mặt với mãnh thú, đối
mặt với cái chết có thể diễn ra bất cứ lúc nào, để kiểm nghiệm khả năng của con
người, để tìm chất liệu cho những trang viết sống động của mình. Qua đó truyền đến
độc giả niềm tin rằng con người là bất diệt, không bao giờ khuất phục trước những thế
lực thù nghịch với con người.
1.2.1.3.Suốt đời mình Hemingway luôn sống cho một lí tưởng tiến bộ vì nhân
loại và hạnh phúc của mọi người. Để viết được những trang sinh động và chân thực về
chiến tranh, Hemingway đã tình nguyện vượt Đại Tây Dương sang Italia tham dự
chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông đã chiến đấu như một người lính để rồi ra khỏi cuộc
chiến tranh này với 237 mảnh đạn và xương đầu gối bịt bạc. Hemingway đã tham dự
ba cuộc chiến tranh lớn nhất của thế kỉ này ( chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chiến
tranh thế giới lần thứ hai, chiến tranh Tây Ban Nha) và một số cuộc chiến tranh nhỏ
hơn như chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ .... Có thể nói chiến tranh và đề tài chiến tranh luôn
gắn bó với nhà văn. ở mảng đề tài này Hemingway có dịp nhìn thấy "chiến tranh
không chỉ mang đến cái chết mà còn mang đến sự sống của con người". Trên chiến
trường ông nhìn thây được những mặt tốt đẹp nhất của con người, như đức tính dũng
cảm, phẩm chất nhân văn, khả năng đứng vững, ý chí và cả những sự thấp hèn, sự bất
lực và yếu đuối của con người. Đặc biệt bất cứ ở hoàn cảnh nào, Hemingway luôn thể
hiện tư cách mã thượng của một đấu sĩ trong cuộc sống và trên trang viết. Những nhân
vật của ông thể hiện mình một cách trọn vẹn, không che đậy, dấu điếm chỗ mạnh chỗ
yếu bên trong của mỗi con người. Thế nhưng trong con người Iiemingway có rất
nhiều mâu thuẫn, không ai có thể hiểu hết được cuộc đời nhà văn này. Vì thế nó có
sức cuốn hút kì lạ cũng như không ai có thể hiểu hết tác phẩm của ông, dù là một
truyện ngắn bình dị nhất.
1.2.1.4.Lòng yêu thiên nhiên được hình thành rất sớm ở Hemingway, nếu mẹ là
người muôn ông đi vào con đường âm nhạc thì cha lại là người hướng Hemingway
đến thiên nhiên. Bầu không khí thoáng đãng của những hồ nước, dòng suối đầy cá hồi,
cũng như những cánh rừng đầy muông thú đã quyến rũ Hemingway. Đặc biệt ông rất
yêu biển, suốt đời mình gắn bó với biển. Ông xẻ chia với biển cả mọi cay đắng ngọt
bùi của đời mình. Gần như tất cả tác phẩm của ông, ngoài thời gian tham dự chiến
tranh, lấy tư liệu ... đều được Hemingway viết trên bờ biển như biển Caribê, biển
Bimiami, đảo Oét Cây, biển La Habana.
1.2.1.5.Năm 1954, hội đồng giải thưởng Nobel quyết định tặng giải về văn học
cho ông vối tác phẩm "ông già và biển cả", nhưng ông không đến nhận. Hành động
này đã làm cho tên tuổi'của Hemingway càng chối sáng hơn.
Goethe khi bàn luận về giá trị của con người, đã khẳng định: "Những sự bận tâm
lo lắng để tô vẽ cho hình ảnh của chính mình là sự non nớt bất hạnh của con người",và
thái độ của Hemingway rất rõ ràng "Tôi muốn phỉ nhổ vào sự bất tử (...) khi lần đầu
biết cái đó đang vây bọc tôi, tôi đã khiếp sợ, hơn cả khi nghĩ về cái chết. Con người có
thể chấm đứt cuộc đời nhưng khổng thể chấm dứt sự bất tử" [ 33, 291 ]. Vào ngày trao
giải ở Stockholm Hemingway đã đi câu xa ở Cojimar, nơi ông lấy bối cảnh cho tác
phẩm "Ông gia và biển cả ". Đi cùng với Hemingway còn có Gregoreio Fuentes, thủy
thủ của ông trên con thuyền Pila dài mười hai mét. ông vẫn rất bình dị không hề muốn
thay đổi cả cuộc sống lẫn phong cách sáng tạo của mình. Một biên tập viên tạp chí
"Time " khi tiếp xúc với Hemingway đã ghi lại ý nghĩ :"Chỉ một lần thành công để đời
người nhớ bạn thì cũng đã là đủ. Nhưng nếu bạn làm được điều đó năm này sang năm
nọ thì nhiều người sẽ nhớ bạn và sẽ kể với con họ., rồi con họ,cháu họ, đều nhớ và nếu
điều đó có liên quan đến những cuốn sách thì chúng có thể đọc.Và nếu điều đó thực sự
tốt thì nó sẽ tồn tại lâu cùng nhân loại" [160, 37]. Phải chăng đó là phần thưởng duy
nhất mà một nhà văn thực sự mong đợi ?
1.2.1.6.Một người ngẫu nhiên gặp Hemingway có thể nghĩ rằng ông là một đại
biểu của lớp lãng tử lãng mạn, hay là điển hình của những tay viết lách kiểu tài tử :
thường góp mặt trong những hầm rượu, lang thang khắp thế giới, đánh cá trên đại
dương, săn bắn ở châu Phi, hiểu biết hết sức tường tận về môn đấu bò mộng, thậm chí
không biết ông viết vào lúc nào nữa. Nhưng Hemingway là một tay làm việc ghê gớm,
ông viết ngay trong cảnh đổ nát của khách sạn Frorida là nơi không thích hợp với lao
động của nhà văn. Hemingway thường nói: "Tôi thích người ta phân tích các tác phẩm
của tôi hơn là những điều vi phạm trong cuộc sống của tôi ". Evelun Naugh vốn là
một nhà phê bình nghiêm khắc, cũng đã tìm ra được những lời đúng đắn khi nói về
Hemingway : "Đằng sau tất cả những lời ồn ào, những câu chửi rủa, những qua đấm
đó, hiện lên cá i cốt cách cơ bản của tinh thần hiệp sĩ, sự tôn trọng phụ nữ, tình thương
đối với kẻ yếu, ý thức về danh dự". [ 160, 87 ]
1.2.1.7.Hemingway là một người rất vui tính, hết sức gắn bó với lối sống sôi nổi,
ông luôn hướng sự tập trung của mình vào tình yêu, vào sự nguy hiểm và cái chết.
Đặc biệt trong tình yêu, Hemingway mang nét phong trần của một hiệp sĩ. Ông đã yêu
điên cuồng, yêu đến xả thân nâng lên thành tín ngưỡng thay thế Chúa. Ông dùng tình
yêu để lãng quên Chúa. Điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm và cả trong chính cuộc
đời huyền thoại của ông.
1.2.1.8.Ernest Hemingway đã sống như ông đã viết, đầy cuồng nộ. Nhà văn luôn
ngưỡng mộ lòng quả cảm, suốt đời mình ông chìm trong nó, phát triển và dạy những
người khác nhiều điều về lòng quả cảm ấy. Và lòng quả cảm của chính ông thì khổng
bao giờ lìa xa ông, những gì cuối cùng đã khiến Hemingxvay chịu thua chính là thân
xác của nhà văn. Một nhân vật trong tác phẩm "Cuộc đời hạnh phúc ngắn ngủi" của
Prancis Macomber từng tuyên bố: "chết không khó, nhưng sống cho ra sống, có mục
đích, lí tưởng tốt thì lại rất khó và cần thiết phải sống như thế cho dẫu có phải hi sinh
đi mạng sống của mình".[33, 35 ]
1.2.1.9.Với Hemingway con người có thể không chủ động được trong cuộc sống
(như ông lão Santiago đã không bảo vệ được thành quả của mình là con cá kiếm),
nhưng có thể chủ động được trong cái chết của mình và muốn thế phải vượt qua, phải
chế ngự được nỗi sợ hãi từ trong sâu thẳm tâm hồn "Ta cũng có thể chết như bất kì tay
nam nhi nào", một người lính già, nhân vật của Hemingway đã từng nói vậy. Và một
nhân vật khác đã đẫn lời của Shakespeare như một thứ châm ngôn "Ta cũng cóc sợ
chi, ai thì cũng chết một lần thôi, chúng ta đều nợ cái chết với Chúa thì hãy để việc
phải đến cứ đến. Kẻ nào chết hôm nay thì ngày mai khỏi phải chết".[ 33, 36 ] Lòng
khao khát cuối cùng của Hemingway là có một nơi "sạch sẽ và sáng sủa", là đỉnh núi
Kilimarỳarô sáng ngời trong băng giá và mặt trời, nơi trước ông đã có một con báo oai
hùng tìm đến để chết, và sau con báo đó tới lượt ông!
1.2.2.Hemingway _ Quan niệm về sáng tạo nghệ thuật:
Quan niệm về sáng tạo nghệ thuật là cách hiểu, cách cắt nghĩa một sự vật, hiện
tượng, qua trình nào đó, là quan niệm đối với sự vật, hiện tượng, là tư tưởng chỉ đạo
để sáng tác một cách có hệ thống. Theo M. Bakhtin thì thế giới quan của nhà văn sẽ
chuyển hóa thành nguyên tắc của cái nhìn nghệ thuật đối với thế giới. Người nghệ sĩ
khi sáng tạo, anh ta đối diện với chất liệu và sáng tạo ra hình thức mới của cái nhìn
nghệ thuật tương ứng với một nội dung mới về cuộc sống. Theo ông, nguyên tắc cái
nhìn nghệ thuật cũng là "nguyên tắc cấu tạo văn học ", đó là một "thế giới quan trong
ý nghĩa đặc biệt một "ý thức hệ tạo hình thức có tác dụng khám phá một lớp nội dung
độc đáo từ hiện thực khách quan mà quan niệm nghệ thuật khác không phát hiện ra.
1.2.2.1.Với Hemingway, quan niệm văn chương của ông có một ý nghĩa vô cùng
đặc biệt đối với sáng tác của ông. Bởi vì, các quan niệm ấy không chỉ là của
Hemingway, một nhà văn hiện đại Mĩ, mà còn là của Hemingway, một nhà văn ra
khỏi cuộc chiến với những mất mát và hoài nghi với cuộc đời. Nhà văn của những ám
ảnh, có biệt tài trong lĩnh vực tiểu thuyết và truyện ngắn, chúng đã soi sáng những trăn
trở, tìm tòi, thể nghiệm và thành công trong sự nghiệp của Hemingway.
Hệ thống quan niệm của Hemingway bao gồm các luận điểm, đề cập đến những
vấn đề rất cơ bản, là những yếu tố cấu thành dòng liên thông từ nhà văn đến táe phẩm,
đến người đọc. ở đây chúng tôi đặc biệt chú ý đến những phương diện liên quan trực
tiếp đến tiểu thuyết của Hemingway.
1.2.2.2.Trong cuộc đời sáng tác, Hemingway ít phát biểu trực tiếp quan niệm về
nghệ thuật, nhưng những người đã đến, đã quen và yêu thích ông, cũng như tác phẩm
của ông đều thừa nhận rằng : cả cuộc đời lăn lộn, nếm trải và viết của mình,
Heraingway luôn phấn đấu vì một lời tâm niệm : "Điều khó khăn nhất trên đời này là
viết được một thứ văn xuôi hoàn toàn thành thật về con người. Trước hết phải nhận
biết đối tượng, rồi sau đó phải biết cách viết ra ". [ 34, 231] Hemingway còn nói :
"Lao động của một nhà văn đồi hỏi lòng sùng kính của một linh mục " [ 34, 231 -232 ]
Hemingway viết văn một cách rất chậm chạp, khó khăn, ròng rã từng ngày, từng tuần,
từng tháng, ông đậy vào lúc rạng đông, đọc lại những trang vừa viết hôm trước, sửa
chữa chỗ này chỗ kia, rồi bắt đầu viết lại. Bản thảo của ông cho thấy tất cả sự chăm
sóc tỉ mỉ Hemingway dành vào việc sửa chữa, gạch xóa, xét duyệt, cắt bỏ. Ông nói :
"Tôi muốn tước lột ngôn ngữ để bóc trần nó đến tận xương ". [ 34, 232]
1.2.2.3.Với Hemingway cũng như những nhà văn có trách nhiệm khác, khi anh
ta thoát li khỏi cuộc sống thì văn chương của anh ta chỉ là đồ bỏ đi. Trong bức thư gửi
cho nhà phê bình văn học Xô viết Kaskin tháng 8 -1939 ông đã viết: "Đối với tôi,
sống trong hoạt động dễ hơn là viết văn nhiều. Khi tôi hoạt động, tôi chẳng phải quan
tâm điều gì cả. Mặc dầu khó khăn, nặng nhọc tới đâu đi nữa, tôi vẫn tự an ủi là không
có thể làm gì khác được ngoài việc mình đã làm, và thế là tôi yên tâm về trách nhiệm
của mình. Nhưng khi viết văn, thì không bao giờ tôi viết được tốt như mong muốn
cả... Và đó là một công việc khó nhất trong tất cả các công việc mà tôi từng phải làm.
Chính vì thế mà tôi làm việc đó, và tôi rất sung sướng khi làm việc đó được tốt". [
160,146]
1.2.2.4.Sự thành thực trong sáng tác văn chương là cả ở sự chân thực trong cảm
xúc ( chủ thể ) và cả sự chân thực vốn có ở phạm vi hiện thực phản ánh ( khách thể ).
Nhưng cả hai mặt này lại có một mẫu số chung, không có sự thật nào quan trọng và
đáng tin cậy hơn sự thực tâm hồn nhà văn, bởi vì toàn bộ hiện thực được phản ánh
trong một sáng tác đều được lọc qua màng lọc tâm hồn và sự trải nghiệm của nhà văn.
Đúng như ý kiến của Drieu La Rochelle : "Viết văn về vấn đề gì thì viết, nhà văn cốt
nhất phải đi sâu vào trong tâm hồn mình, tìm những tính tình và cảm giác thành thực,
tức là tìm thấy tâm hồn của mọi người qua tâm hồn mình " [ 88, 281 ]. Hemingway
chỉ viết về những gì mình biết rõ và ông luôn viết với tâm lòng thành thật.
Hemingway thường nói lên những điều từ đáy lòng, và ông thêm vào đó một kích
thước hoàn toàn do ông quyết định. Hemingway đã áp dụng rất đúng điều mong ước
mà Kipling từng nói: "Trước hết, hãy nắm cho được những sự việc thực tế, rồi thì mặt
sức làm biến dạng nó theo ý anh muốn " [ 33, 232 ]. Ong rát tài tình khi tạo ra những
nhân vật thật, hoạt động ngoài những tính cách và đặc điểm của các địa vị xã hội,
Hemingway thường tìm đến những cái bí mật thật khó diễn tả trong mỗi con người.
Cái thế giới bên trong phong phú, phức tạp và đầy bí ẩn. Chính điều này đã làm nên
sức hấp dẫn cho của tiểu thuyết Hemingway.
1.2.2.5.Nhìn từ bản chất, phong cách của Hemingway chính là cách nhìn của nhà
văn trong nghệ thuật. Ông đã có một khám phá tuyệt vời về những con người chiến
thắng trong thất bại, như người đấu bò tót trên sân đấu trong "Chuông nguyện hồn ai
đó là võ sĩ chuyên nghiệp có khả năng chịu đòn không than vãn. Đó là người đi câu
giật mạnh một con cá tuyệt vời và lại để sổng nó ở "Ông già và biển cả Trong sức
mạnh, người ta biết được thất bại, Hemingvvay nói : "Mọi người đều ở trên vũ đài,
người ta chỉ sống sót nếu biết đánh trả đòn. Tôi sẽ đấu đến ngày cuối cùng, và ngày
đó, tôi sẽ đấu với chính tôi, để chấp nhận cái chết, như một cái gì đó đẹp đẽ, cùng một
vẻ đẹp như người ta vẫn thấy mỗi chủ nhật, ở các đấu trường [ 33, 233 ]
1.2.2.6.Hemingway rất thành công trong nghệ thuật viết tiểu thuyết, đa số những
tác phẩm của ông đều được bắt đầu từ truyện ngắn. Với tiểu thuyết, Hemingway luôn
viết theo mạch phát triển bên trong của nhân vật, của tư tưởng chủ đề. Nhưng với
truyện ngắn thì ông nghiền ngẫm nó hàng năm rồi mới đặt bút viết. Chúng chín trong
đầu ông đến nỗi, trang đầu chỉ có vài chữ, còn các trang tiếp theo thì hầu như không
phải chữa gì cả. Cách viết ấy đã làm Hemingway thành công ở cả hai thể loại.
1.2.2.7.Khi nói về nhiệm vụ của nhà văn, Hemingway viết: "Nhìn sự vật mà bạn
mô tả không phải bằng mắt tôi và tai tôi, mà phải bằng chính mắt của bạn và ngôn ngữ
của bạn". [33, 189] Theo kinh nghiệm của ông thì "cuộc sống biệt lập là thời điểm viết
tốt nhất" và nhà văn khi viết ở đỉnh cao là lúc sống cô độc. Đồng thời, nhà văn luôn tự
học hỏi, tìm lối đi riêng cho mình.
1.2.2.8.Hemingway là một người sống với đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống để rồi
viết thành văn. Những hoại động khác luôn phục vụ cho công việc viết của ông :
Hemingway đi săn gấu rồi về dùng cuộc đi săn đó làm đề tài viết văn. Họ không hiểu
một sự kiện căn bản và đơn giản là một tác phẩm đúng với ý nghĩa của một tác phẩm
không phải là kết qua tự nhiên của một kinh nghiệm riêng rẽ, cũng không phải là công
trình sáng tạo của một con người biên tập, mà là một sự hòa hợp cả hai.
Thành công mà Hemingway có được là do sự cần cù và làm việc nghiêm túc của
ông.Theo ông nếu thấy một trang viết nhạt nhẽo thì dừng bút, viết lại, lần thứ năm, lần
thứ mười. Tác phẩm "Mặt trời vẫn mọc " viết lần đầu chỉ mất sáu tuần nhưng phải cần
đến năm tháng mới chữa xong. Chỉ riêng đoạn kết trong "Gia từ vũ khí "ông phải chữa
đến ba mươi chín lần. Đó là chưa kể thời gian thu thập tài liệu và chuẩn bị viết một
cuốn sách mới với Hemingway có khi là cả năm sáu năm.
1.2.2.9.Hemingway - trong cuộc sống cũng như trong tác phẩm,ông là người
không bao giờ nói hết. Bằng cách đề xuất nguyên lí "tảng băng trôi", Hemingway đã
dùng hình tượng "tảng băng" để nói lên đụng ý của mình trong sáng tác khi trả lời một
nhà báo Xô viết.
Hemingvvay có cuộc đời thật đẹp của một chiến sĩ. Trong các tiểu thuyết của
mình như "Mặt trời vẫn mọc", "Giã từ vũ khí", "Chuông nguyện hồn ai" ông có nhiều
suy nghĩ độc đáo và đúng đắn về chiến tranh, lí tưởng, quan niệm về sống và chết, về
yêu và ghét, về giết người và yêu người .... Qua tất cả những tác phẩm của
Hemingway, ta luôn luôn thấy một hướng đi lên để đi đến một cái cao quy hơn, tốt
đẹp hơn là cái đang sổng, cần và phải chiến đấu mới đạt được. Ta thấy một lòng tin
mãnh liệt vào sức mạnh của con người và một lòng thương yêu thiết tha con người.
CHƯƠNG 2: HEMINGWAY - NHỮNG ĐỐI THOẠI BÍ ẨN
1.Trong hệ thống các phương tiện nghệ thuật xây dựng nhân vật nói chung, xây
dựng tâm lí nhân vật nói riêng, ngôn ngữ nhân vật đóng vai trò hết sức quan trọng,
nếu không muốn nói là chủ yếu. Tiếng nói tác giả giúp người đọc hình dung được tính
cách nhân vật qua cách kể lại sự việc, biến cố, mô tả thế giới nội tâm qua ánh mắt, cử
chỉ, hành động...Trong khi đó, tiếng nói cửa nhân vật, gồm ngôn ngữ thốt ra lời _ đối
thoại,và ngôn ngữ không thốt ra lời _độc thoại nội tâm, sẽ giúp người đọc trực tiếp
nhìn thấy tâm trạng nhân vật vì "mỗi ngôn ngữ đều vạch cho ta thấy trạng thái tâm
hồn của nhân vật."
2.Đối thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, sử dụng hình thức nói năng giữa
người này với người khác. Thông thường đặc trưng của đối thoại gồm hai yếu tố: trao
lời và đáp lời, có sự tương tác qua lại với nhau. Trong qua trình giao tiếp, sự chủ động
và thụ động được chuyển đổi luân phiên từ phía này sang phía kia (giữa những phía
tham gia giao tiếp ). Mỗi phát ngôn đều được kích thích bởi phát ngôn có trước và là
sự phản xạ lại phát ngôn ấy.
3.Sức mạnh của đối thoại chính là ở chỗ thể hiện được sinh động và sâu sắc tâm
lí nhân vật trong mối quan hệ phong phú của con người với đời sống. Như Mác đã
từng nói : "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là toàn bộ những quan hệ
xã hội." Bakhtin nhấn mạnh vai trò của đối thoại: "Đối thoại là bản chất của ý thức,
bản chất của cuộc sông con người, sống tức là tham gia đối thoại : hỏi, nghe, trả lời,
đồng ý... Con người tham gia cuộc đối thoại ấy bằng toàn bộ con người mình và toàn
bộ cuộc đời mình : bằng mắt, môi, tay, tâm hồn, tinh thần, hành vi. Nó trút hết con
người nó vào lời nói và tiếng nói của nó, gia nhập đối thoại của cuộc sống con người,
gia nhập cuộc hội thảo thế giới." [ 19, ]
4.Khác vổi độc thoại nội tâm, đối thoại hiện diện trong tác phẩm văn học từ rất
lâu đời. Trong truyện cổ dân gian, đối thoại mang tính quy ước, tính ma thuật ( phép
màu nhiệm ), chẳng hạn : "Bống bống bang bang,lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
đừng ăn cháo hẩm cháo hoa nhà người" (Truyện Tấm Cám) ; "Vừng ơi ! Mở cửa ra"
(Truyện Nghìn lẻ một đêm). Nhân vật thường chỉ quan tâm đến việc làm, đối thoại
cũng chỉ nhằm đưa ra nội dung thông báo, ý định hay biểu thị một yêu cầu hoặc
nguyện vọng. Sang tiểu thuyết, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật rất phong phú, đa
dạng. Qua quan sát, chọn lựa, vận dụng các phương tiện lời nói, nhà văn tái hiện ngôn
ngữ nhân vật. Đặc biệt là ngôn ngữ đối thoại trong tính quy trình của thời đại, môi
trường, tầng lớp xuất thân, trình độ học vấn, lứa tuổi, cá tính, tâm trạng... sao cho sinh
động, tự nhiên như lời nói thật. Mỗi nhân vật được xây dựng với một lối nói, kiểu phát
ngôn có đặc trưng riêng, thể hiện qua trường từ vựng, kiểu câu, ngữ điệu ... để lời nói
của họ trở thành một hình tượng ngôn ngữ độc đáo, có tính chất cá tính hóa nhân vật.
"Nó có thể làm cho người ta từ lời ăn tiếng nói mà thấy được người."
5.Đối thoại là "phương tiện quan trọng nhất của tính tạo hình khách thể trong tác
phẩm tự sự và kịch." Lời đối thoại thể hiện rõ tâm lí, tính cách nhân vật, thể hiện các
trạng thái tâm lí khác nhau. Lời đối thoại của nhân vật tùy thuộc vào tình huống, hoàn
cảnh, đối tượng tiếp xúc và vấn đề đang bàn bạc. Mỗi nhà văn xây dựng cho nhân vật
của mình một hình thức đối thoại riêng, mang đậm phong cách của nhà văn đó. Balzac
rất quan tâm đến từng lời nói của nhân vật Ong quan niệm, lời nói của nhân vật là
"mâm cây hay qua chín của hành động." Do vậy ông rất kì công chọn lọc lời đối thoại
cho nhân vật của mình. Nhiều lúc không cần phải miêu tả diện mạo, thành phần xuất
thân mà chỉ cần nghe nhân vật đối đáp ta cũng hình dung đầy đủ về nhân vật. Đó là
một tiểu chủ, một thầu khoán, một công nhân, một kẻ cho vay nặng lãi, một con nợ.
Xtăngđan thường để nhân vật đối thoại với nhau trong tình huống đầy kịch tính, từ đó
nhân vật bộc lộ tính cách của mình. Lời nói của nhân vật trong "Đỏ và Đen" được cá
thể hóa rõ rệt, thể hiện tính cách của từng nhân vật: Juyliêng tính cách phức tạp, vừa
giả dối vừa chân thật, lời nói của anh lúc bột phát, thực lòng,lúc vừa giả vừa thật ; Bà
Rênan dịu dàng, đôn hậu...lời nói luôn thật thà, bộc trực, thẳng thắn ; Cô Matinđơ kiêu
ngạo, sắc sảo nhưng có vẻ đồng bóng, lời nói lúc nặng về chất lí trí,sắc cạnh, lúc lại
buông thả, điên cuồng. Trong khi đó Hemingvvay, nhà văn của ngôn từ đối thoại thì
đằng sau những câu đối thoại có vẻ "tự nhiên" ấy là cả một qua trình sàng lọc, tuyển
lựa từng câu chữ rất công phu. Qua hình thức đối thoại rất kiệm lời, mơ hồ, bảng lảng,
đầy bí ẩn, Hemingway đã khắc họa được rõ ràng tính cách nhân vật. nia Erenbua đã
từng ca ngợi cách viết của Hemingvvay : "Nhân vật của Hemingway nói năng rất
ngắn, tựa như không có gì đáng kể, nhưng mỗi chữ đều nói rõ hơn tâm trạng con
người. Khi chúng ta đọc các truyện dài và truyện ngắn của ông, chúng ta có cảm
tưởng dường như chính con người nói năng như thế. Nhưng thật ra đây không phải là
những câu nghe lỏm, những bản tốc kí mà là cái chất tinh túy của văn đối thoại mà
nhà nghệ sĩ đã lọc ra được (... ) nhưng Hemingway không dịch những đoạn đối thoại
từ tiếng này sang tiếng khác. Ông địch từ tiếng nói trong hiện thực sang tiếng nói
trong nghệ thuật" [ 64, 20 ]
Giữa đối thoại và các biện pháp kể, tả có liên quan mật thiết. Lời kể, sự tả, diễn
biến tâm lí làm cho lời đối thoại có nhiều tầng ý nghĩa.
Hemingway rất thành công ở nghệ thuật độc thoại nội tâm, song trước sau
Hemingway vẫn là nhà văn xuất chúng của ngôn từ đối thoại. Ngay từ những truyện
ngắn đầu tiên,nơi đối thoại chiếm ưu thế, nhà văn đã thể hiện rõ tài năng của mình.
Đối thoại đã tham gia vào việc chuyển tải thông tin, tham gia vào qua trình tự sự. Nhà
văn đã chuyển tải thông điệp một cách kín đáo thông qua cách nói của nhân vật. Đối
thoại trong tiểu thuyết của Hemingway có thể chia làm hai dạng:
2.1/ ĐỐI THOẠI DIỄN TRÌNH : ( DIALOGUE EXPLICATIVE )
2.1.1.Thông thường theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết là những câu
chuyện về các nhân vật. Để kể về nhân vật của mình, nhà văn sử dụng một hệ thống
các phương tiện nghệ thuật rất phong phú : như miêu tả ngoại hình, miêu tả thiên
nhiên,và dùng ngôn ngữ người kể chuyện để phân tích, bình luận hành vi, tính cách
của nhân vật. Đối thoại diễn trình ở Hemingway lại khấc, nó xuất hiện dưới dạng nhân
vật tự kể về mình, tự giải thích các hành động và suy nghĩ của mình. Dạng đối thoại
này đã góp phần quan trọng giải thích nhân vật trong kích thước thời gian và không
gian. Đặc điểm của nó là dài hơi và liền mạch.
2.1.2.Trong tiểu thuyết của mình, Hemingway không có ý định miêu tả ngoại
hình. Ông chỉ tập trung vào những đặc điểm in đậm dấu vết cuộc đời đã qua. Những
vết hằn sâu bởi tuổi tác, những vết cứa dọc ngang bởi nghề nghiệp lam lũ ở người
đánh cá Santiago : "Thân hình lão già và khô đét, phía sau gáy mang nhiều nếp răn sâu
hoắm. Những vết rám nâu của cái thứ ung thư vô hại ngoài da do ánh phản quang của
vầng thái dương trên mặt biển nhiệt đới gây nên in rõ trên hai má lão. Các vệt rán đó
choán khắp hai bên khuôn mặt lão và hai bàn tay lão mang nhiều vết sẹo hằn sâu là
dấu vết của nhiều phen cọ xát với những sợi dây câu trĩu cá. Nhưng không có vết sẹo
nào mới (...) ở con người của lão, cái gì nom cũng gia cỗi chỉ trừ có đôi mắt vui đời và
gan góc xanh xanh màu nước biển". [5,9-10] Miêu. tả ngoại hình của Brét trong "Mặt
trời vẫn mọc", một cô gái trẻ trung, đang hăm hở đi tìm một miền đất hứa : "Brót
trông đẹp không tưởng. Nàng mặc áo len thun chui đầu vào chiếc váy bằng vải fuýp,
tóc nàng chảy ngược ra sau như tóc con trai. Nàng bắt đầu tất cả, nàng được tạo lập
với những đường cong như thân một con thuyền đua..." [Ì, 33] Hay mái tóc ngắn của
Maria trong "Chuông nguyện hồn ai", thể hiện những khổ đau, bất hạnh do chiến tranh
gây ra. Hoặc dáng vẻ nặng nề, nông dân của Pablo : "Khuôn mặt tròn, cái đầu cũng
tròn, thụt xuống vai. Đôi mắt hắn nhỏ và dang rộng ra, đôi tai hắn nhỏ và đán vào sọ.
Đó là một người đàn ông cao lớn và dinh dàng với chân tay mập bự, mũi gãy, miệng
đứt ở một góc, một cái sẹo vắt ngang môi trên và hàm dưới hiện rõ sau những chân
râu phủ đầy mặt hắn." [ 4, 145] Hemingvvay chỉ chú ý đến những nét chúm phá cho
cuộc đời, tính cách của nhân vật qua hình thức. Vì vậy, nếu quan niệm hình thức như
các nhà văn hiện thực thế kỉ XIX thì nhân vật "dường như không có chân dung."
2.1.3.Nếu quan niệm: "hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ những việc
làm của nhân vật ( ... ) không chỉ là yếu lố cần thiết để bộc lộ qứa trình phát triển của
bản than, tính cách mà còn là yếu tố không thể thiếu để góp phần thúc đẩy sự diễn
biến của hệ thống cối truyện" [59,104-105] thì trong cả bốn tiểu thuyết; hành động của
các nhân vật rất đơn giản. Một nhón thanh niên mất hối niêm tin vào cuộc sống, họ đã
chơi bời, phá phách hết cỡ trong "Mặt trời vẫn mọc ". Một người lính Mĩ ( Henry )bị
thương, nằm viện, quen và yêu mội cô y lá người Anh. Henry cùng người yêu bỏ trốn,
đi tìm một thế giới riêng cho tình yêu. Cuối cùng tình yêu rơi vào tuyệt vọng sau cái
chết của Catherine, Henry "Giã từ vũ khí" - giã từ những vòng tay. Đến "Chuông
nguyện hồn ai" là hành động của một nhóm du kích chuẩn bị phá cầu. Trong nhổm du
kích này có người chiến sĩ lình nguyện Robert Jordan. Anh chỉ huy trộn đánh cầu, và
cuối cùng Jordan bị thương nằm lại, để yểm hộ cho toàn nhóm rút lui.(Một ông lão
câu được một con cá, đấu tranh bảo vệ chiến lợi phẩm suôi ba ngày đêm trong "ông
già và biển cả". Qua những hành động có phần đơn điệu và tẻ nhạt, Hemingway muốn
lấy Ý thức_của nhân vật làm điểm tựa để xây dựng tác phẩm. Nhà văn muốn truyền
tải một thông điệp về thái độ của mỗi con người trước tình thế nan giải của cuộc sống.
2.1.4.Khác với I Iemmgway, Lép Tônxtôi dùng thiên nhiên như một cái nền, để
làm nổi bật ý nghĩa những lình huống cuộc sống hoặc như một điểm tựa, như cánh cửa
mở vào tâm hồn nhân vật. Thiên nhiên góp phần tô đậm mọi cung bậc tình cảm,
những biến chuyển tinh thần tinh tế nhất. Ánh trăng trong vườn Otradnoye làm sáng
lên tâm hồn trong trắng, hồn nhiên của Natasa. Và cũng ánh trăng tháng sáu ấy, đã rọi
vào tâm hồn Anđrây một thứ men kì lạ, khiến chàng như trẻ lại cùng cây sồi, cái cây
sồi già nua, và buồn rầu bữa nọ Hemingway nói đến thiên nhiên chỉ như một hình
tượng không gian, môi trường để ở đó nhân vật sống, hành động và bày tỏ những nghĩ
suy của mình. Trong "Mặt trời vẫn mọc " Hemingway miêu tả bầu trời, dòng sông,
ánh nắng nhưng không nhằm để tham gia vào qua trình bộc lộ tâm lí nhân vật.Thiên
nhiên không đóng vai trò hỗ trợ cho việc khắc họa tính cách nhân vật.
2.1.5.Trong khi mội số nhà văn viết theo kiểu văn chương lòe loẹt trang sức ở
Mĩ đầu thế kỉ, thì Hemingway tìm cho mình một phong cách riêng. Đó là "trốn tránh
mọi thứ đễ dãi", phải tìm cách cho các nhân vật của mình hành động thay vì miêu tả
chúng". Theo ông thì đối thoại cũng là một kiểu hành động của nhân vật.
Người kể chuyện trong tiểu thuyết của Hemingway rất ít xuất hiện, nhà văn
dường như vắng bóng, nếu đôi khi xuất hiện thi cũng hướng về thái độ trung hòa.
Trở lên chúng ta thấy, khác với một số nhà văn, hầu như Hemingway rất ít đùng
ngôn ngữ miêu tả, kể chuyện, giải thích, hay lời phân tích, bình luận của tác giả để nói
lên tính cách nhân vật. Nhân vật chỉ có thể được khắc họa qua ngôn ngữ trực tiếp của
mình. Trong đó đối thoại như có sự lấn át so với độc thoại nội tâm.
2.1.6.Đối thoại _ Nhân vật tự kể về mình:
2.1.6.1.Qua đối thoại nhân vật kể cho nhau nghe về cuộc sống, những phác họa
về gia đình, những biến cố xảy ra trong cuộc đời mỗi nhân vật. Tuy nhiên, qua những
đối thoại trong tiểu thuyết của Hemingway, các nhân vật không những chỉ truyền đạt
nội dung câu chuyện, mà họ còn cho thấy thái độ, tình cảm của những nhân vật đối
thoại với câu chuyện họ quan tâm. Vì thế, đối thoại kể chuyện đóng vai trò đáng kể
trong sự thể hiện đề tài, chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
"Giã từ vũ khí ", cuốn sách kể về những tình yêu ra đời và nảy nở trong chiến
tranh. Một cuộc chiến bi đất không có đất cho tình yêu tồn tại. Catherine kể về một
cuộc tình thài đẹp trước khi gặp Henry, nhưng cũng bị tan biến nhanh như bong bỏng
xà phòng bởi chiến tranh. Nàng đau xót kể lại:
"Chiếc gậy này của một thanh niên bị giết năm ngoái.
Xin lỗi.
Anh ấy rất dễ thương, sắp cưới tôi thì bị tử thương trong trận Somme.
Khủng khiếp quá.
Ông có dự trận đó không ?
Không.
Tôi có được nghe kể lợi. (... )
Cô và anh ấy hứa hôn với nhau chưa ?
Tám năm chúng tôi sống chung trong một gia đình,
Nhưng tại sao không tổ chức cười ?
Cũng chẳng biết làm sao nữa. [2, 22]
2.1.6.2.Santiago cả cuộc đời gắn liền với biển khơi, nhưng vấn đề mà ông
thường quan tâm không chỉ là thời tiết, là biển động hay không, mà ông thường nghĩ
về những vấn đề lớn hơn, như sức mạnh trong mỗi con người, việc thắng bại trong
mỗi trận đánh. Ông kể với chú bé Manolin về trận bóng mà ông quan tâm :
"Thằng bé hỏi :
Thế còn trận đấu bóng thế nào ? Lão già nói một cách hân hoan :
Bác đã bảo rồi càn gì, trong Liên đoàn châu Mĩ, đội Hoa kì là cừ nhất.
Chú bé nói
Lần này bọn họ thua.
Chẳng sao. Cầu thủ trứ danh Đi Magiô đã lại sức rồi. Trong đội còn nhiều cầu
thủ khác nữa.
Đã đành thế. Nhưng Đi Magiô là tay cừ hơn cả. Trong trận đấu giữa Bơrukơlin
và Philađenphiơ bác dám cuộc là Bơrukơlin thế nào cũng thắng. Bác cứ nhớ anh
Địch Xitslư với những cú với bóng cảo. anh ta, cái lần ở sân bóng cũ ấy. " [5,20]
2.1.6.3.Tuổi trẻ của mỗi cuộc đời luôn là quảng thời gian đẹp nhất, tự tin nhất, vì
thế ông lão thường nghĩ về tuổi trẻ, để củng cố niềm tin, ông kể cho thằng bé nghe
những điều ấy:
"Ngày bằng tuổi cháu, bác đã từng trèo lên cột buồm một chiếc thuyền chạy
đường Phi châu và vào buổi chiều, bác đã mắt thấy những con sư tử trên các bãi biển."
[5,21]
2.1.6.4.Ở "Chuông nguyện hồn ai", chỉ trong khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi
ba ngày ba đêm, các nhân vật mới chỉ kịp quen nhau, họ đã kể cho nhau nghe về
quãng đời trước đây của mình. Những hồi ức buồn đau hòa trong những mất mát do
cuộc chiến tranh gây ra :
Qua đối thoại Maria kể cho Jordan nghe về tội ác của bọn phát xít đã gây ra cho
gia đình :
"... Cha em là một xã trưởng, một con người đáng lánh. Mẹ em là một người đàn
bà đáng kính và là một người tốt theo đạo Thiên chúa, chúng giết mẹ em và cha em vì
chánh kiến cua cha mẹ em, ông ấy theo đảng Cộng Hòa. Em đã trông thấy hai người
bị bắn. Lúc đó cha em đứng tựa vào tường lò heo trong làng và hô to "Viva ỉa
Republica". Mẹ em cũng đứng tựa vào cùng một vách tường đó, hô "Viva". Chồng tối,
xã trưởng làng này". [4, 546] Maria kể tiếp về việc chúng cai tóc nàng, đánh nàng, và
lấy i ốt viết chữ lên trán nàng. Đặc biệt, nàng kể cho Jorcian nghe về nỗi đau khủng
khiếp nhất của đời mình: "...Khi người la lăm nhục em, em vừng vẫy chơ tới khi,., cho
tới khỉ...cho tới khi một tên trong bọn hụ ngồi trên đầu .em...và em đã cấn hắn...và rồi
người ta bóp miệng em và người ta giữ chặt hai tay em ra sau đầu ...và những tên
khác làm nhục em. " [4,115]
Cũng trong tác phẩm này, Joaquin tâm sự với Pilar về số phận của những người
thân :
"Vụ tàn sát những người trong gia đình đồng chí đã xảy ra như thế nào? Pilar
hỏi Joaquin:
Không có gì đặc biệt, Joaquin nói. Những người trong gia đình tôi thuộc phe tả,
như nhiều người khác trong thành phố Valladolid. Khi bọn phát xít thanh lọc thành
phố, chúng hắn cha tôi trước. Ông đã bỏ phiếu cho những người theo xã hội chủ
nghĩa. Rồi tụi nó bắn mẹ tôi. Bà cũng đã bỏ phiếu như vậy. Đó là lần đầu tiên trong
đời bù đi bỏ phiếu. Sau đó tụi nó bắn người chồng của một trong hai người chị của
tôi. Anh này là một đoàn viên trong nghiệp đoàn tài xế xe điện. Hiển nhiên là ảnh sẽ
không lái xe điện được nếu không có chân trong nghiệp đoàn. Nhưng ảnh đâu có để ý
gì tới chính trị. Tôi biết rõ điều đó. Anh hơi nhu nhược nữa là đằng khác. Tôi lại
không tin ảnh có thể là một đồng chí tốt nữa. Kế đó là người chồng của người chị gái
khác của tôi, cũng trong nghiệp đoàn tài xế xe điện và cũng đã vào núi như tôi Tụi nó
tưởng chị biết ảnh ở đâu. Nhưng thật ra chị không biết. Cho nên tụi nó bắn chị vì chị
không chịu khai chỗ ở của ảnh." [4, 220 ]
Trong những câu chuyện tâm tình, chia sẻ với nhau, mỗi nhân vật đều như mang
nặng trong lòng những hồi ức rất u ám về quá khứ của riêng mình. Pilar đã kể cho
Jordan nghe câu chuyện về đời tư :
"Tất cả mọi người đều cần được nói chuyện với một kẻ nào đó, người đàn bà
nói. Trước đây, người ta có tôn giáo và những trò điên rồ khác. Bây giờ mỗi người
cần phải có một kẻ nào đó để nói một cách thẳng thắn. Mặc dù người ta có thể có tất
cả sự can đảm, càng lúc người ta vẫn cảm thấy cô đơn thêm.
...Đó là những lời lẽ dông dài về Valence và con người vất đi đang đi xe ngựa
kia. Tôi đã làm tổn thương hắn nhiều với câu chuyện nọ. (... )
Bằng cách nào đồng chí tới với hắn ?
Như người ta tới với bất luận kẻ nào đó. Trong những ngày đầu của cuộc chiến,
và trước đó nữa, hắn là một cái gì. Một cái gì đàng hoàng. Nhưng mà bây giờ thì hết
thời rồi. Người ta mở nứt ra và tất cả rượu đều đã chảy ra khỏi vò. " [4,147]
Pila còn kể về trận tấn công thành phố, trừng trị bọn phát xít;
"Lúc bọn cỉviỉes trong trại đầu hàng thì trời vừa mới sáng, Pilar bắt đầu.
Đồng chí đã tấn công trại lính ? Robert Jordan hỏi.
Pablo đã bao vây doanh trại trong đêm, hắn đã cắt đứt các đường dây điện
thoại, đặt chất nổ dưới một bức tường và kêu gọi bọn guardỉa civiỉ đầu hàng. Chúng
nó không đầu hàng. Và lúc tảng sáng hắn cho nổ tung bức tường. Súng nổ. Hai tên
trong bọn chúng bị hạ. Bốn bị thương và bốn đầu hàng.
Tất cả chúng tôi nằm trên mái nhà, dưới đất và dưới chân tường của các tòa nhà
trong ánh nắng của buổi sáng, đám bụi do vụ nể chưa tan vì chúng bốc lên cao trên
không và không có một cơn gió nào đến mang đi. Tất cả chúng tôi nhả đạn về phía tòa
nhà bị phá vỡ, chúng tôi nạp đạn và bắn tưới xượi vào đám khói và trong ấy còn lóe
lên mấy phát súng trường. Rồi từ trong đám khói có tiếng kêu thôi bắn, và bốn tên
civiỉes đi ra, tay giơ lên cao. Một khoảng lớn của mái nhà bị đổ xuống và tường câng
đã bay mất. Bọn chúng bước ra đầu hàng." [4, 164 ]
2.1.6.5.Qua những đoạn đối thoại trên, ta hiểu thêm về qua khứ của Pila, người
đàn bà một thời đã là vợ của anh chàng đấu bò Pinito, trước khi sống cùng người chỉ
huy du kích Pablô. Đồng thời, từ những nét tiểu sử riêng của một người phụ nữ. ta
như lại hiểu thêm về cuộc sống của Tây Ban Nha trước nội chiến. Đó là thời kì của
những lễ hội sầm uất, những điệu nhạc quyến rũ và thơ mộng. Tây Ban Nha của
những người đấu bò vốn sinh ra không phải để làm người dũng cảm. Họ bị buộc vào
cái nghề nguy hiểm chỉ vì "ở cái xứ này không một người nghèo nào có thể làm ra tiền
nếu không là một tên tội phạm (...) hoặc một tay đấu bò...". Nhưng khi đã giơ chiếc
khăn đỏ rực, đứng trước con vật hung dữ, thì biết không được quyền sợ hãi mà lui
bưóc. Những con người trung thực, qua cảm đã làm giàu đẹp xứ sở Tây Ban Nha,
bằng những hành động đũng cảm, khi tham gia chiến đấu vì một nền cộng hòa. Mỗi
cuộc đối thoại như một mảng hồi ức rời rạc, và rất riêng tư. Nhưng nếu xâu chuỗi lại,
thì đó chính là một bức họa rất nhiều mảng màu tối và buồn về cuộc đời.
2.1.6.6.Nhân vật đối thoại với nhau, không chỉ kể chuyện, để chia sẻ buồn vui,
mà họ còn bộc lộ những suy nghĩ của mình. Có những đoạn đối thoại rất ngắn, song
cũng đủ cho chúng ta hiểu được phần nào bản chất, lí tưởng của những người cộng
hòa trong "Chuông nguyện hồn ai"
"Anh có phải là người cộng sản không ?
Không, tôi là người chống phát xít.
Từ bao nhiêu lâu rồi ?
Từ ngày tôi hiểu được chủ nghĩa phát xít" [4,284]
Trình tự thời gian các sự kiện được kể có sự đảo lộn, sau câu chuyện về quá khứ,
là những dự tính cho hành động tương tương lai. Khi kết thúc câu chuyện mình bị cạo
trọc đầu, Maria thổ lộ với Tordan khao khát được tham gia trận phá cầu cùng với
Jordan, để được tự tay giết bọn Phalănggit:
"Nhưng mình sẽ giết bọn phát xít chớ ? Chính tụi đó đã làm việc ấy.
Tụi nó không có ra trận, chàng buồn bã đáp. Chúng chém giết ở hậu phương.
Chúng ta không đánh nhau với bọn chúng ngoài mặt trận. "
Nhưng mình không có cách nào giết tụi đó sao anh ? Em muốn giết vài tên cho
hả dạ" [4,551]
2.1.6.7.Trong khi kể chuyện, nhân vật đồng thời cũng bộc lộ rõ quan điểm của
mình. Pila sau khi kể xong chuyện tham gia những ngày đầu phong trào như thế nào,
đã không kết luận về cá nhân mình mà về Tây Ban Nha: "Một dân tộc thật là kiêu
ngạo, phải không Inglés ?". Nghiã là, qua đối thoại, kể với người khác về đời mình,
nhân vật luôn tìm thấy mối liên hệ qua khứ và hiện tại. Mối liên hệ giữa cuộc đời
riêng và vận mệnh dân tộc, những sức mạnh tinh thần trong mỗi con người, để từ đó
xác định trách nhiệm cá nhân trong cuộc chiến đấu sắp tới.
Nhân vật _ người kể chuyện, đã kể các mẩu chuyện xảy ra ở những thời điểm
khác nhau, ở những địa điểm khác nhau. Trong tác phẩm của mình, đối thoại cũng
tham gia vào xử lí vấn đề thời gian, không gian nghệ thuật. Các đối thoại - kể chuyện
lùi vào qua khứ, làm "căng ra " cái hiện tại. Mở rộng trường độ thời gian, các đối thoại
kể chuyện đồng thời làm hãm tốc độ, xu thế vươn tới đỉnh điểm. Khi nói về nghệ thuật
viết văn của mình, có lần Hemingway phát biểu: "Tôi thấy hình như không bao giờ
nhà văn có thể miêu tả được tất cả. Do đó có hai lối thoát: tả lướt qua tất cả các ngày,
tháng, tất cả các ý nghĩ, tất cả các tình cảm hoặc là cố gắng truyền đạt cái chung trong
cái riêng, trong một lần gặp, trong một lần chuyện trò ngắn ngủi.
Tôi chỉ viết về các chi tiết, nhưng tôi cố gắng nói về các chi tiết ấy một cách chi
tiết."
2.1.7.Đối thoại _ ngôn ngữ giản dị, tự nhiên:
2.1.7.1.Timôphiep đã nêu lên một nguyên lí chung của ngôn ngữ đối thoại:
"Ngôn ngữ nhân vật, về nguyên tắc đống vai trò những lời trích đẫn, có tính chất tiêu
biểu và điển hình trong ngôn ngữ nhân vật, nó là ngôn ngữ bị gộp chung vào trong
toàn bộ ngôn ngữ của tác giả." [131,31] Lại có một số người tỏ ra ngạc nhiên, sửng
sốt, trước những đối thoại của Hemingway, chính tác giả đã giải thích : "Một nhà phê
bình Mĩ đã nói qua quyết, và nghiêm túc đấy, rằng các đoạn đối thoại của tôi ngắn, vì
tôi dịch các câu tiếng Tây Ban Nha sang tiếng Anh".[33,173] Chúng tôi nhận thấy, đối
thoại trong tiểu thuyết của Hemingway, có tính độc lập cao, thành phần ngôn ngữ tác
giả ít xen vào đối thoại của nhân vật, cũng như sau những từ "anh hỏi", "hắn nói" ...
bao giờ cũng là lời trực tiếp của nhân vật, rất khách quan. Không hề kèm theo một lời
giải thích, hay chỉ dẫn nào.
Đối thoại giữa cô gái và người bồi trong "Mật trời vẫn mọc ":
"Nào, cô uống gì ? - tôi hỏi
Pécnô
Cái đó không tốt cho các cô gái nhỏ đâu.
Có anh là cô gái nhỏ ấy. Bảo bồi cho Pécnô đi.
Một Pécnô cho tôi nữa.
Chuyện gì vậy _ cố ta hỏi _sắp đi dự tiệc à ?
Đúng, thế còn cô ?
Tôi không biết. Người la không bao giờ biết được ở cái thành phố này.
Cô không thích Pari à ?
Không.
Thế tại sao cô không đi một nơi khác ?
Còn một nơi nào khác à ?
Cô sung sướng thế là tốt. Sung sướng cái khỉ." [ 1 ,23]
2.1.7.2.Yếu tố giọng điệu luôn góp phần thể hiện nội dung. Trong đối thoại trên,
tác giả chỉ đưa ra biên bản đối thoại hết sức tự nhiên. Tuy nhiên dựa vào ngôn ngữ của
nhân vật, ta thấy nhà văn không hề dửng dưng. Mà ông như ngầm chuyển tất cả nội
dung cuộc thoại vào giọng điệu, tiết tấu của những lời đối thoại. Vì thế, chúng ta nhận
biết nội dung của cuộc đối thoại qua giọng điệu của người nói. Hemingway đã tài tình
khi thể hiện giọng điệu của lời nhân vật. Trong tác phẩm "Ông già và biển cả" nhà văn
đã dùng nhiều giọng cho nhân vật ông lão Santiago: giọng trang nghiêm khi hướng về
Chúa, giọng trìu mến khi nhớ về thằng bé, giọng băn khoăn khi phải giết con cá kiếm,
giọng nghiêm khắc khỉ nói về bản thân. Những đối thoại không chỉ đơn thuần là
những lời đối đáp, mà bằng thứ ngôn ngữ rất tự nhiên, cùng với những giọng nói sinh
động. Người đọc như nghe các nhân vật đang chuyện trò bên cạnh mình. Như nhà phê
bình Nga Mikhoenxơ nói : "Bản thân lời nói không cung cấp tính hình tượng. Giọng
nói mới tạo hình tượng. (...) Tôi khoác màu lên giọng, khiến cho nó có một khả năng
chứa đựng tính cách: dịu dàng hay khắc nghiệt, dũng mãnh hay yếu hèn."
2.1.7.3.Đối thoại giữa wSantiago và Manolin rất gần với khẩu ngữ ngoài đời,
ngắn gọn và tự nhiên :
"Let me gel fourfrest ones "
"One " the old man said. His hope and his conỊìdence had never gone. But now
they were freshening as when the breeze rises "
"Two ", the boy said
"Two " the old man agreed. "You didnt steal them ? " "I would " the bay said.
"But I bought these" "Thanh you" [158, 23 ]
(- Để cháu đi kiếm bốn con tươi
Một thôi - ông lão nói. Niềm hy vọng và lòng tin của ông lão chưa bao giờ nguội
lạnh. Còn bây giờ thì chúng đang cuộn lên như khi gió đang thổi
Hai, thằng bé nói.
Hai, ông lão đồng ý. Cháu không ăn cắp đấy chứ ? Cháu không, thằng bé đáp,
cháu mua.
Cám ơn cháu. ) [5,13]
Trong đoạn đối thoại trên, cấu trúc ngữ pháp không thể ngắn hơn nữa, bởi dường
như chỉ xuất hiện noun (danh từ) và verb (động từ). Đó là hai thành phần tối thiểu
trong một câu nói, hoặc là số từ mang nội dung thông báo như "one", "two". Những
thành phần khác như adverb (trạng tứ) hay adjective (tính từ ) không hề xuất hiện.
Nhà văn tiết kiệm lời đến mức tối thiểu, chỉ những "say " ( nói ), và "think " ( nghĩ ),
đôi khi gây cho người đọc một cảm giác hụt hẫng, bởi những câu đối thoại cụt lun,
ngắn gọn như ngôn ngữ điện tín. Nói như Lê Huy Bắc ". Đọc văn ông ta có cảm giác
như cưỡi lên lưng một chú tuấn mã, hay thì hay thật nhưng người cưỡi vẫn có cảm
giác tưng tức bởi cái nước phi khác lạ vốn là thuộc tính của bất kì thiên lý mã nào."
Hemingway _ Người khai sinh ra trường phái "Minimalism (Chủ nghĩa cực hạn).
Phương châm sáng tạo của nhà văn là tinh giảm đến mức tối đa, kiệm lời và kiệm cả
cảm xúc. Các tình tiết đối thoại phát triển một cách khách quan. Nhà vãn không còn là
người biết tường tận mọi ngóc ngách tâm lí, hành động của đối tượng được miêu tả để
chi phôi, dẫn dắt họ theo chủ đích đã định trước :
"Có bao nhiêu người tất ?
Cố lẽ bốn
Sao ít thế ?
Không tin được.
Thế dùng để giữ ngựa ?
Phải tin lắm mới cho giữ ngựa được ?
Nếu có thể, tôi rất muốn có thêm được mười người chắc chắn.
Bốn
Anxenmô bảo tôi trong núi này có đến hơn một trâm người ?
Không tốt" [4, 233]
Cũng vậy, trong "Ông già và biển cả ", tình cảm duy nhất gắn bó với Santiago
chỉ có ở Manolin. Trong suốt truyện, rất nhiều lần ông lão nhớ thằng bé. Nhưng lần
nào cũng chỉ lặp lại một câu duy nhất: "Ông nhớ cháu". Nhà văn chỉ cần thêm một
tính từ "rất" thì mức độ tình cảm đã khác rất nhiều. Nhưng những chỗ dường như
thiếu, không đầy đủ lại làm cho đối thoại có vẻ tự nhiên hơn, gần gũi với lời nói ngoài
đời hơn.
Hemingway hết lời ca ngợi Mac Tuên về tính chất giản dị, tự nhiên, tươi tắn
trong lời đối thoại. Đến lượt ông, là người chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những nhà văn
đi trước. Ông đã rèn dũa những đối thoại một cách kĩ lưỡng, sao cho khổng thừa một
chữ nào, sao cho những lời đối thoại không trở thành những lời tán phét, hay nói
suông, mà phải tự nhiên, sinh động như chính cuộc sống. G G Mackez đã nhận định :
"Chất dung dị của Hemingway là kết qua của sự trau dồi phi thường" [160,87]
2.1.8.Đối thoại và người kể chuyện:
2.1.8.1.Người kể chuyện là người đứng ra trần thuật trong tác phẩm. Thông qua
người kể chuyện,nhà văn mới có thể tạo dựng tác phẩm. Người kể chuyện không hoàn
toàn đồng nhất với nhà văn. Giống như những nhân vật khác, người kể chuyện chỉ là
"khoảnh khắc thăng hoa "của nhà văn. Như lời của M. Butor : "Bản thân người kể
chuyện là một hư cấu (... ) y là đại diện của tác giả... Ta cũng đừng quên rằng y cũng
là đại diện của độc giả, nói chính xác ra là điểm nhìn mà tác giả mời bạn đọc đặt mình
vào để đánh giá, thưởng thức, rút bài học cho mình về một chuỗi sự kiện nào đấy".
2.1.8.2.Khi sáng tạo văn học, bao giờ người nghệ sĩ cũng nhìn thế giới nghệ
thuật của mình dưới một góc độ nhất định. Điểm nhìn, do đó bộc lộ thái độ của nhà
văn đối với tác phẩm. Trong tác phẩm, dù xuất hiện bao nhiêu điểm nhìn, thì sâu xa
cũng chỉ xuất phát từ một điểm nhìn duy nhất, là điểm nhìn của tác giả. Nhà văn khi
sáng tác, thường "ban phát " điểm nhìn của mình cho nhân vật, để khách quan hóa
mục đích và cũng thâu tóm được hiện thực rộng hơn, đa dạng hơn.
2.1.8.3.Quan điểm về vị trí người kể chuyện trong tiểu thuyết của Hemingway
gắn liền với điểm nhìn và yếu tố giọng điệu. Người kể chuyện có thể là người tham
dự, cũng có thể là không tham dự. Người kể chuyện có khi là người thông suốt tất cả,
cũng có khi hoàn toàn khách quan, đôi khi lại chồng chéo lên nhau. Ở "Mặt trời vẫn
mọc người kể chuyện xuyên suốt tác phẩm là người tham dự ( Jake ), nhưng có lúc lại
là lời của Mike. Có khi xuất hiện nhân vật "tôi" kể về "tôi", nhưng lại trùng với giọng
kể về Cohn. Ở đây quan điểm khách quan lại trùng với quan điểm tham dự. Người kể
chuyện ngôi thứ nhất tập trung ở "Mặt trời vẫn mọc " và "Giã từ vũ khí ". Nhân vật
người kể chuyện trùng với nhân vật “tôi " và chủ thể trần thuật. Giọng điệu mang vẻ
lạnh lùng, khách quan trong "Mặt trời vẫn mọc " đã được cải thiện hơn ở "Giã từ vũ
khí ", nhưng ở đây lại xuất hiện giọng mỉa mai, châm biếm. Người kể chuyện dường
như không thể thờ ơ với thời cuộc, cho nên, mỉa mai cưng chính là hình thức phản
kháng. Bắt đầu xuất hiện kiểu nhân vật mang tính chất nhập cuộc, thay thế cho kiểu
thờ ơ, lạnh lùng trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên. Sang tiểu thuyết "ông già và biển cả
lời văn gián tiếp rất ít xuất hiện ở chủ thể trần thuật. Thay vào đó là những chuỗi độc
thoại nội tâm liên tiếp của Santiago. Vì thế giọng văn chi phối tác phẩn, chủ yếu là
giọng của ông lão. Đến "Chuông nguyện hồn ai " có rất nhiều nhân vật tham gia vào
tiến trình tự sự. Chẳng hạn như câu chuyện của đội du kích đánh tàu được kể lại từ hai
người tham dự là loakin và Raphaen. Hay khi kể về tội ác của bọn phát xít, nhiều nhân
vật cùng tham gia, như Maria, Pila, Joakin... Hemingway đã tăng số điểm nhìn, bằng
cách cho nhiều nhân vật cùng tham gia kể chuyện. Điểm này rất phù hợp với lối kể
chuyện hiện đại. Tác phẩm "Trong rừng trúc" của nhà văn Nhật Akutagavva
Ryunoske là câu chuyện về một người bị giết Tahêkirô, được kể từ bảy điểm nhìn
khác nhau như: điểm nhìn của người tiều phu, điểm nhìn của vị tu sĩ, người gác rừng,
bà gia Tatdiômmaru, người đàn bà, và cả điểm nhìn của linh hồn người bị giết. Cuối
cùng tác phẩm dừng lại với kiểu kết mở, độc giả tự tìm lấy lời kết luận của riêng
mình. Độc đáo hơn, Faulkner đã dùng mười ba điểm nhìn đối với một con sáo và ông
cho rằng, chân lí sẽ được phơi bày khi độc giả nắm được cả mười ba cách nhìn ấy.
Độc giả sẽ có một ý niệm thứ mười bốn về con sáo.
Tóm lại: Đối thoại kể chuyện trong tiểu thuyết của Hemingway có sự chuyển
dần từ một người kể chuyện tăng lên nhiều nhân vật cùng kể. Phương thức tự sự đa
chủ thể làm tăng tính khách quan, sinh động, linh hoạt trong nghệ thuật trần thuật của
tiểu thuyết Hemingway. Bằng một lối kể rất tự nhiên, chân thật kết hợp với sự gọt dũa
ngắn gọn, gần với khẩu ngữ, những đoạn đối thoại cứ làm hiện rõ lên những cảnh đời
nhiều buồn đau và mất mát. Trong khi mở rộng tầm bao quát bức tranh cuộc sống,đối
thoại kể chuyện đóng vai trò quan trọng hơn, phong phú hơn trong việc khắc họa tính
cách nhân vật.
2.1.9.Đối thoại nhân vật lí giải các vấn đề của cuộc sống:
2.1.9.1.Đối thoại là nhu cầu không (.hể thiếu của con người. Từ "đối thoại "
không chỉ mang nghĩa hai,ba hay nhiều người trò chuyện, mà còn bao hàm quan hệ
đối thoại. Nếu không có quan hệ này, thì dù nhiều người nói, cũng chỉ thành tập hợp
những độc thoại. Yếu tố cơ bản trong đối thoại là nhu cầu hay mục đích của những
cuộc đối thoại. Cụ thể là những người tham dự muốn đối thoại để giải quyết vấn đề gì
trong cuộc sống ( xã giao, bàn bạc kế hoạch, tính toán hành động, thể hiện tình cảm,
và cả trao đổi tư tưởng.)
2.1.9.2.Khi chúng ta quan niệm, mỗi con người là một vũ trụ thu nhỏ, điều ấy có
nghĩa trong suy nghĩ riêng tư cửa từng cá nhân đều thể hiện những chính kiến riêng.
Chúng phụ thuộc vào trình độ học vấn, quan niệm về cuộc sống, môi trường,hoàn
cảnh. Trong tiểu thuyết của Hemingway, lời đối thoại của nhân vật mang đẫy đủ cách
nhìn của họ trước những vấn đề mà họ quan tâm hay phải đối mặt.
Đối thoại giữa Jack và Brett trong "Mặt trời vẫn mọc" thể hiện cái nhìn gần như
trái ngược nhau trước cùng một đề tài luôn là khát khao của con người. Đó là tình yêu.
"Thật là buồn cười " - tôi nói - "Rất buồn cười và cũng rất vùi nữa khi người ta
yêu ".
"Anh nghĩ sao vậy ? ". Đôi mắt nàng trông lại phang trở lại.
"Anh không định nói vui theo kiểu đó. Đứng về một phương diện, đó là một cảm
giác thú vị ".
"Không " - nàng nói - "Em nghĩ đó là địa ngục trần gian ".
"Được gặp nhau thật là tốt đẹp ".
"Không. Em không nghĩ thế". [11,39]
Có lần Hemingway nói: "Hình thức dĩ nhiên thay đổi. Còn đề tài...Thử hỏi tất cả
các nhà văn trên đời này đã viết và đang viết về những gì ? Có thể đếm trên đầu ngón
tay: tình yêu, cái chết, lao động, đấu tranh. Tất cả những cái khác đều qui vào đó hết.
Chiến tranh, dĩ nhiên rồi. Cả biển nữa..."[33, 172 ]
2.1.9.3.Chiến tranh - một vấn đề nóng bỏng được Hemingway rất quan tâm. Ông
đã sống một cuộc sống đầy bi kịch của nạn nhân chiến tranh, của nhân chứng có mặt
trong cả hai cuộc chiến tranh Thế giới. Vì vậy, các nhân vật của ông, trong đối thoại
đã nói về chiến tranh với tất cả lòng căm ghét của họ:
"Trung úy thấy cuộc chiến tranh chó chết này ra sao ?
Một vận đen.
Chà ! Tôi tin như anh đó là một vận đen. Lạy Chúa, đúng là một vận đen.
(...)
Chắc Trung úy không thích ra tiền duyên vĩnh viễn chứ ? _ Anh ta hỏi.
Không.
Chúa ơi ! Thật là một cuộc chiến tranh khốn nạn !" [2,40]
Giống như nhiều nhà văn khác, Hemingway quan tâm đến chiến tranh, cũng
chính là quan tâm đến thân phận con người trong cuộc chiến. Khi họ từ cuộc chiến trở
về, những vết thương trên da thịt họ không là vấn đề mà họ quan tâm. Chiến tranh để
lại trong thẳm sâu mỗi tâm hồn của họ là sự mất phương hướng, mất lòng tin vào cuộc
sống. Họ trở thành những người thuộc "Thế hệ lạc lõng". Đặng Trường Lưu nói về
những vấn đề còn lại sau cuộc chiến: "Vẽ về đề tài chiến tranh cách mạng không có
nghĩa là chỉ cần cho nhân vật của mình khoác thêm khẩu súng. Càng không có nghĩa
là chỉ miêu tả trận này, trận nọ. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng ngọn gió nghiệt ngã của
nó vẫn hàng giờ thét gào trong từng thân phận".[92] Trong khi đó, nhà văn Aurel
Baranga, đã khắc họa chiến tranh bằng những hình ảnh rất độc đáo: "...Chúng ta phải
dựng một tượng đài để kỉ niệm nỗi buồn đau. Ta hãy đào một cái giếng. Trong cái
giếng đó ta lại đào một cái giếng nữa. Giữa lòng cái giếng ấy lại một cái giếng nữa
nhỏ hơn. Trong cái giếng nhỏ hơn này lại một cái giếng khác. Trong cái giếng lại một
cái giếng. Rồi một cái nữa, Để rồi trong đó ta lại đào thêm một cái giếng. Và trong
lòng nó lại một cái nữa nhỏ hơn. Cho đến khi ta có một cái giếng cuối cùng. Là một
giọt nước mắt..." [45,51]
2.1.9.4.Các đối thoại của nhân vật thể hiện rất rõ nhu cầu trao đổi tư tưởng của
họ. Qua đối thoại của Jordan với cụ Anxenmô ta thấy họ tranh luận say sưa về việc
giết người trong chiến tranh:
"Anh không thích đi săn ư ?
Không, Rôbơc Jordam đáp lại. Tôi không thích giết sức vật,
Tôi thì trái lại, ông cụ nói. Tôi không thích giết người.
Chẳng ai thích giết người cả, trừ những đứa loạn óc, Rôbơc Jordan nói. Nhưng
khi nào cần thiết thì tôi không phản đối.
(... ) Muốn chiến tranh thì cần phải tiêu diệt quân thù. Xưa nay vẫn như vậy.
Anxenmô nói: _ Cố nhiên. Trong chiến tranh thì phải giết. Nhưng mà tôi có
những ý nghĩ rất kỳ quặc" [4,80]
Đôi khi chỉ trong một đoạn đối thoại ngắn, các nhân vật đã kịp trao đổi biết bao
vấn đề lớn lao trong đời sống của con người, như sở thích, đức tin, trách nhiệm, tình
yêu, quan niệm về sống chết.
"...Tôi đã đặt nhiều ảo tưởng vào nền Cộng Hòa. Tôi tin tưởng vào nền Cộng
Hòa. Và tôi có niềm tin, tôi tin vào niềm tin của tôi giống như những người có đạo tin
vào những điều huyền bí.
Tôi tin nơi đồng chí.
Đồng chí có đức tin không ?
Nơi nền Cộng Hòa.
Tôi hài lòng lắm. Và đồng chí không sợ chớ ?
Chàng nói, thành thật:
Tôi không sợ chết.
Nhưng sợ các thứ khác không ?
Tôi chỉ sợ không làm đúng bổn phận của mình.
Nhưng đồng chí không yêu đời sao ?
Yêu chớ. Nhiều. Nhưng không nên để công việc tổn hại vì nó.
Đồng chí thích uống rượu. Tôi biết. Tôi thấy mà.
Ừ. Thích lắm..
Và đàn bà ?
Tôi thích họ lắm nhưng tôi không hề cho đó là điều quan trọng lắm.. [4,148]
2.1.9.5.Chiến tranh làm nảy sinh trong con người những suy nghĩ về sự phi lí của
cuộc đời. Nếu tôn giáo trước đây là nơi con người có thể nương náu mỗi khi khốn
khó, thì nay "Những vị Chứa đã chết " trong sáng tác của Hemingway. Đức Chúa
qiiyền uy được thay thế bằng chính "tôi "hiện hữu. Những con người nổi loạn muốn
tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng chẳng thể trông chờ nơi Thượng đế. Những đối
thoại trong tiểu thuyết của ông đã nói lên đầy đủ sự tan rã ở lòng tin vào tôn giáo của
các nhân vật.
Chúa của Catherine là Henry, nàng chỉ có một Chúa duy nhất là người nàng yêu:
"...Anh biết không, anh yêu, nếu em có đạo thì chuyện đó sẽ là một vấn đề quan
trọng đối với em, nhưng em không theo đạo nào cả.
Thế sao em cho anh tượng thánh Anthony.
Vì, tượng đó đem lại may mắn. Người ta đã cho em.
Vậy là em chẳng lo buồn gì cả phải không ?
Chỉ trừ khả năng phải xa anh thôi. Anh là lí tưởng của em. Đời em chỉ có một
mình anh thôi ". [2,120]
Cũng vậy, Chúa của Brett là Jake, nàng cảm nhận hoàn toàn cay đắng về chiến
tranh và đã sống hết mình, hiến dâng đến tận cùng cho người tình. Và cuối cùng nàng
nhận ra :
"Anh biết, khiến cho ai cảm nhận thấy tốt hơn khỉ quyết định không phải là điều
xấu.
Ừ.
Đó là những gì chứng ta có thay vì Chúa. Vài người có Chúa..." [1, 245]
Trong ý thức của mình, Hemingway cũng rất xa lạ với Chúa, điều đó được thể
hiện ngay khi ông đưa đoạn Kinh Mặt trời vẫn mọc làm đề từ cuốn sách viết về “Thế
hệ vứt đi" : "Một thế hệ qua đi, một thế hệ khác đến; nhưng trái đất thì luôn vững bền
mãi mãi...Mặt trời vẫn mọc và lặn rồi vội vã đi về nơi mặt trời mọc...Gió thổi về
phương nam rồi quay về phương bắc; cứ mãi luân hồi theo chu trình của gió... Tất cả
những dòng sông đều tuôn ra biển; nhưng biển vẫn không đầy; sông lại trở về nơi
sông đến rồi cứ xuôi chảy mãi"
2.1.9.6.Những nhà văn lớn, bao giờ trong tận cùngvẫn ý thức vẫn luôn trăn trở,
miêu tả nỗi cô đơn muôn thuở của nhân loại. Những trang đầu và cuối tiểu thuyết
"Ông già và biển cả" là những đối thoại giữa ông lão và chú bé Manolin. Đó là người
đồng chí hướng, người bạn thân thiết nhất của ông. Những phút cô đơn, những khi
hiểm nghèo, ông thầm gọi tên chú bé Manolin. Trong khi làng chài thài rộng, những
người dân chài thật đông. Điều đó chứng tỏ, con người trong thế giới hiện đại bị cô
đơn đến chừng nào. Thế mà ông vẫn giữ cho mình một niềm tin rất lạc quan "ở đời
không ai phải cô đơn nơi biển cả " và ông vẫn giữ mối liên hệ với cộng đồng, vẫn ý
thức mình "là một mảnh của toàn thể ". Ông nhắc đến dân làng chài, đến người chủ
quán sau những ngày đi biển về.
2.1.9.7.Trong bốn tiểu thuyết chúng tôi chọn để khảo sát thì ở tiểu thuyết
"Chuông nguyện hồn ai" các nhân vật khi đối thoại về các vấn đề khác nhau đều thể
hiện rõ tư tưởng riêng của mình.. Mỗi nhân vật khi tham gia đối thoại đều mang một
quan điểm, đối thoại giữa các nhân vật là đối thoại giữa các đại diện tư tưởng để đi
tìm chân lí. Nhân vật khi tiến hành đối thoại bên trong như ngầm tranh cãi với nhân
vật khác,về những quan niệm, những cách hiểu khác nhau về những vấn đề lớn, nhỏ
của cuộc sống. Qua đó nhân vật cố gắng tìm đến với tư tưởng mình cho là chân lí. Khi
ta xem xét tác phẩm từ bình diện kết cấu, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy : hành động
phá cầu của đội du kích chỉ được miêư tả gần bốn mươi trang cuối của tác phẩm.
Trong gần bảv trăm trang, chủ yếu nhà văn miêu tả thái độ của họ đối với trận đánh
ấy. Các sự kiện trong tác phẩm thường đóng vai trò những điểm nút mở ra các đối
thoại trao đổi tư tưởng, qua đó, họ bày tỏ thái độ đối với nền Cộng Hòa, đối với chủ
nghĩa phát xít và quan niệm về bạo lực cách mạng. Các nhân vật còn đề cập đến
những vấn đề nhân sinh rộng hơn như thái độ lựa chọn cách sống, trung thực, dũng
cảm, sẩn sàng hi sinh vì tập thể hay hèn nhát, ích kỉ, thái độ đối với lình bạn, tình yêu,
tình đồng chí.
2.2.ĐỐI THOẠI NGƯỢC NGHĨA ( DIALOGUE CONTRADICTOIRE )
Lời phát ngôn của nhân vật trái ngược với điều nhân vật nghĩ. Kiểu đối thoại này
còn được gọi là đối thoại ngầm hoặc ẩn. Đôi khi đối thoại kiểu này ai nói nấy nghe.
Với Hemingvvay, nhà văn xuyên suốt những tác phẩm trong cuộc đời mình chỉ
để nói lên một sự thật : Hemingway, con người là một câu đố, một bí ẩn không thể cắt
nghĩa, không thể làm sáng tỏ hoàn toàn, dù chiếu vào nó bằng bất cứ ánh sáng gì.
Hemingway, giữa con người và tác phẩm có mối tương liên. Cuộc đời nhà văn như hắt
bóng vào những tác phẩm của mình. Vì vậy, cũng như cuộc đời, tác phẩm của ông
luôn luôn hấp đẫn, bởi người đọc không thể đi suốt những tác phẩm ấy, dù là truyện
ngắn bình dị nhất.
2.2.1.Những đối thoại chứa ẩn ý:
2.2.1.1.Những đối thoại bí ẩn, xuất hiện từ truyện ngắn của Hemingway. Ông
chủ yếu sử dụng đối thoại như một công cụ hữu hiệu để chiếm lĩnh hiện thực.
Hemingway đã vươn đến đỉnh cao ở kĩ thuật này với truyện ngắn "Một nơi sạch sẽ và
sáng sủa". Thật khó xác định, đó là một quán cà phê về khuya, hay một nơi ẩn mình
của nhân vật, hay là nada ( hư vô ). Cảm giác thiếu hụt, khó hiểu ấy cứ theo suốt
người đọc qua những câu đối thoại của hai người bồi:
"Mày có tuổi trẻ, lòng tin và công việc. Mày có mọi thứ. "
"Còn anh thì thiếu gì ? "
"Mọi thứ, trừ công việc "
"Anh có những gì em có "
"Không" [6,146]
Tiếng "không" này nghe như tiếng không định mệnh của nhân vật người câm
trong "Ngộ nhận" của Albert Camus. Nó rất bâng quơ và khó hiểu. Trong những đoạn
đối thoại của truyện ngắn Hemingway, bao giờ cũng có vẻ bảng lảng như thế, nguyên
nhân vì những người đối thoại không cùng nghĩ về một chuyện, họ vừa nói với nhau,
vừa tự nói với mình, vừa nghĩ ngợi lan man rồi vụt thốt thành lời, "cắt lớp " ( scanning
) dòng ý thức của họ.
"Em nghĩ chúng mình có thể ráng hết sức thu xếp êm ả mọi sự cho đến khi máy
bay tới "
"Hoặc cho đến khi máy bay không tới"
Và :
"Có thể xe cam nhông sẽ tới "
"Tôi đếch cần xe cam nhông "
"Em thì em cần "
"Cô cần biết bao nhiêu thứ mà tôi không cần" [6,242 ]
Đoạn đối thoại ngắn trên trong truyện "Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro", một trong
những tác phẩm điển hình cho lối viết "cắt lớp dòng ý thức" của Hemingway, trong đó
đoạn đối thoại giữa hai vợ chồng nhà văn Harry là những dòng ý nghĩ cắt lẫn nhau,
hoặc song song với nhau, hoặc đi về hai hướng khác nhau. Harry hướng về cái chết,
nỗi tuyệt vọng, còn vợ anh thì cố né tránh thực trạng, về chứng hoại thư của chồng,
nàng hướng về một hi vọng mù mờ của sự giải cứu. Đưa cái chết vào giữa lòng đời
sống,"sống chung với cái chết". Nhân vật luôn bị ám ảnh về một sự phi lí nhất định
nào đấy, nhưng không bao giờ họ lia bỏ đơn giản cái giới hạn cuối cùng của cuộc
sống. Họ sống hết mình, sống đến chết cho cuộc sống mà họ cho là vô thường.
2.2.1.2.Nhiều người cho rằng chính sự bí ẩn trong tâm hồn, trong đời sống tâm
linh của Hemingway đã quyết định cho sự bí ẩn của những đoạn đối thoại trong tác
phẩm ông. Uya Ehrenbourg, người từng sát cánh với nhà văn trong cuộc nội chiến
Tây Ban Nha đã thốt lên: "Các đoạn đối thoại của Hemingway vẫn cứ là một điều bí
ẩn đối với tôi. Có lẽ trong nghệ thuật, điều lớn lao nhất khi anh không hiểu sức mạnh
do đâu mà có. ở đây không có ý mới mẻ làm người ta phải nghiền ngẫm, cũng không
có những từ khác thường. Với các đoạn đối thoại của Hemingway là thế: vừa giản dị,
vựa đầy bí ẩn. Nghĩa là sự bí ẩn có thể khoác hình thức rất giản dị," [34,173 ]
Trong "Chuông nguyện hồn ai", các nhân vật tâm tình, trò chuyện trong lúc họ
căng thẳng, nằm chờ cuộc tấn công của địch :
"Anh có muốn ăn cặp bánh này nữa không ?
Ở nước anh ai cũng ăn hành à ?
Anh rất khác với cái anh đánh mìn hoạt động trước đây vói chúng tôi.
Anh đã đau khổ bao giờ chưa ?
Nhưng bây giờ anh có Maria rồi
Nếu cần thiết phải hy sinh cho công việc ngày mai thì tôi cũng vui vẻ
Primitio có thể tin được, Pila cừ hơn anh tưởng nhiều
Nhưng tôi thì tôi muốn là làm phứt đi ngay hôm nay Inglés, lúc này thấy anh có
vẻ vui lắm."[4,93-102].
Những đối thoại có vẻ chẳng theo thứ tự chủ đề nào, lộn xộn, rối rắm, nhiều chỗ
có vẻ "vô bổ" nhưng trong mỗi lời nói đều ẩn chưa một thông điệp sâu kín. Qua câu
chuyện đối thoại về mùi hành là những khám phá về nước Mĩ xa xôi, là cuộc chiến
đấu ngày mai của những người lính tình nguyện. Và vượt lên tất cả là tình yêu chung
thủy của con người, là tình cảm ấm áp của người lính, là sự hiểu biết lẫn nhau, cùng
kề vai nhau trên con đường vươn tới mục đích cao đẹp của cuộc sống, từ những điều
tưởng như giản dị, bình thường. Đúng như lời nhận định của G.G Mackez :
"Hemingway là người thợ mài dũa đối thoại lừng lẫy trong lịch sử văn học" mà ở đó
"Mỗi từ ngữ đều vạch cho ta thấy trạng thái tâm hồn của con người" [64,178].
2.2.1.3.Đối thoại của Hemingvvay rất kỳ lạ. Có khi chỉ có hai giọng, mà lắm khi
lại nghe ra rất nhiều giọng, lắm khi chỉ là một giọng, đối thoại với chính mình. Tính
mập mờ, đa hướng của câu thoại, những biểu tượng thoáng hiện rồi chìm khuất,
những cú va đập trực diện, để rồi sau đó mạch đối thoại lại bất ngờ chuyển hướng.
Thật khó để hiểu một cách rõ ràng đoạn đối thoại của Jake, Bin và Harris trong "Mặt
trời vẫn mọc ":
"Tôi nghĩ các anh thật không hiểu sự hiện diện của mình có ý nghĩa như thế nào
đôi với tôi khi các anh lên đây.
Chúng mình cũng trải qua khoảng thời gian tuyệt vời Harris nhỉ?
Harris đã chếnh choáng.
Tôi bảo. Thực sự các anh chẳng biết nó có ý nghĩa như thế nào kể từ lúc chiến
tranh, tôi chưa lần nào hạnh phúc như vậy.
Ngày nào đó chúng mình sẽ đi câu lần nữa. Harrỉs, anh đừng quên nhé!
Chứng ta phải nhớ. Tui mình đã sống một khoảng đời hạnh phúc.
Chai nữa chứ ?”[1,171]
Ở đối thoại trên, chủ thể đối thoại bị mờ hoá, thật khó phân biệt lời nói của nhân
vật trong cuộc thoại. Chúng ta chỉ có thể hiểu họ đang nói về một cuộc đi câu nào đó,
xen vào là những khoảnh khắc thời gian hạnh phúc, tiệc rượu giã từ và nỗi đau chiến
tranh.
Rất nhiều trang tiểu thuyết của Hemingway là những đối thoại một chiều, một
người phát và tiếng nói thứ hai không vang lên :
"Anh làm sao mà bị thương khổ sở thế này ? Ông hỏi tôi. Đưa tôi xem ảnh chụp
nào. Ừ, ừ, được rồi, đúng thế. Trông anh khoẻ mạnh như một con trăn. Cô gái xinh
đẹp này là ai vậy ? Người yêu của anh hả ? Cuộc chiến tranh này rất đáng ghét có
phải không ? Anh có cảm giác gì không ? Anh thật can đảm. Tôi sẽ giúp anh bình
phục. "
2.2.1.4.Một hình thức khác trong đối thoại của Heminhway là kiểu đối thoại "ai
nói nấy nghe tức là các nhân vật đối thoại với nhau nhưng hoàn toàn không hiểu nhau.
Trong "Giã từ vũ khí ", Henry lúc lúc lại thấy Cathơrin điên khùng như một cô
gái xứ Ecotx, nói những chuyện nhảm nhí về mưa rơi, tuyết đổ :
"Mưa nặng hạt quá.
Và anh sẽ yêu em mãi mãi phải không anh ?
Phải. Đúng thế.
Và mưa cũng không đáng ngại gì phải không, anh ?
Phải. đúng thế.
Vậy thì tốt lắm. Bởi vì em sợ mưa.
Tại sao ?
Em cũng không biết nữa. [2,200-201 ]
(...) - Em thích đi dạo trong mưa. Nhưng mưa có hại cho tình yêu.
- Anh mãi mãi yêu em cơ mà.
- Còn em, em yêu anh dù mưa, dù tuyết, dù bão, dù gì gì đi nữa.
- Vậy à ?
(...) - Sao em lại sự mưa ?
- Em không biết nữa... "
Sự không hiểu nhau giữa các nhân vật cho phép ta hiểu sâu sắc về họ. Trong xã
hội Mĩ lúc đó, con người không thể đến và hiểu hoàn toàn về nhau.
Hoặc nỗi đau riêng dày vò mỗi người, hoặc họ không đủ sức quan tâm đến người
khác, ngay cả với người thân yêu nhất.
2.2.1.5.Nhiều nhà phê bình gọi văn phong Hemingway là "ngôn ngữ điện tín tác
giả vận dụng "lí thuyết bỏ sót " của mình một cách linh hoạt. Các thông tin có một
dung lượng tối thiểu nhưng lại ảnh hưởng đến yếu tố hàm lượng. Nội dung hàm ẩn
qua đối thoại của nhân vật là một hiện thực, rất phong phú và đầy nghệ thuật. Nó như
một bằng chứng để khẳng định cái thực chất "less is more " ( càng ít lại càng nhiều ).
Để làm nổi rõ hơn những yếu tô" nghệ thuật, trong việc gói gọn sự ẩn tàng về nội
dung ở một hình thức tối giản.
"- Tôi nghe đầu óc hoàn toàn thư thái và lòng can đảm, nên định đề cập đến
những vấn đề cụ thể.
- Em định sinh ở đâu ?
- Em chưa biết" [2,384 ]
Hemingway không để cho Henry và Catherin nói nhiều về hoàn cảnh hiện tại.
Chỉ một sự trao lời ngắn gọn đã thể hiện tất cả tình cảnh đáng thương của đôi lứa này.
Ta chợt hiểu rằng, những điều họ nói trước đây dù vui vẻ cũng chỉ là gượng gạo. Để
che dấu nỗi băn khoăn, sợ hãi về những ngày sắp tới.
2.2.1.6.Ngôn ngữ đối thoại của Hemingway đôi khi ngược với cử chỉ của nhân
vật. Chẳng hạn, miệng nhân vật bảo đứng lên, nhưng tác gia lại muốn y ngồi xuống.
Hay nhân vật nói một đường, làm một nẻo. Nhà văn muốn tước bỏ nội dung thông
báo, đối thoại của nhân vật chỉ còn là cái vỏ ngôn ngữ. Nhân vật vẫn nói với nhau mà
chẳng thể hiểu nhau. Đó là "đối thoại của những người điếc ". Ở hình thức đối thoại
này Hemingway đã ảnh hưởng nhiều ở Mark Twain. Với "Những cuộc phiêu lưu của
Huckerberry Finn " đoạn đối thoại giữa Huck và Finn :
"Nghe này, Jim, con mèo có nói giống chúng ta không ? "
"Không, không giống "
"Ừ, thế còn con bò ? "
"Không, cũng không giống nốt"
"Thế mèo có nói giống bò hoặc bò có nói giống mèo không ? "
"Không, chúng không giống nhau "
"Vậy thì mỗi quốc gia trên hành tinh này nói khác nhau là điều hoàn toàn tự
nhiên và họ có quyền như thế.
"Dĩ nhiên" [9,252]
2.2.1.7.Trong nhiều cuộc đối thoại, thoạt nghe tưởng như là chuyện thời tiết,
sinh hoạt hàng ngày. Nhưng ẩn sâu trong những lời đối thoại là sự trao đổi tư tưởng
giữa các nhân vật:
"Tuyết đẹp lắm, Pablo nói. Tuyết xuống thế này, chắc anh không muốn ngủ ở
ngoài nữa đấy nhỉ ?"
"- À, ra thế mày cùng nghĩ đến cả cái đó nữa, Roboc Jordan nghĩ. Pablo này,
mày lo nghĩ nhiều qua đấy phải không ?
"- Không. Anh lễ phép nói:
"Không. Lạnh lăm, Pablo nói. Am ướt lãm.
"Thế là mày không biết tại sao cái túi chăn cũ nhồi lông chìm bể ấy lại giá
những sáu mươi nhăm đôla,
(... ) "Vậy ra tôi sẽ phải ngủ ở trong này ư ? anh lễ phép hỏi.
"Phải." [4,166]
Chuyện tưởng chừng như chỉ đơn giản nói về tuyết, nhưng lại có những tầng ý
nghĩa hàm ẩn phía sau. Đó là việc ám chỉ rằng, hắn biết chuyện Jordan và Maria ngủ
trong túi chăn, hơn nữa Pablo còn hả hê vì bão tuyết sẽ làm sụp đổ kế hoạch tấn công
của Jordan. Ngược lại, Jordan không chỉ trả lời chuyện sinh hoạt có vẻ riêng tư, mà
anh còn khẳng định lập trường vững chắc của mình trước trận phá cầu.
2.2.1.8.Đặc biệt, trong khi đối thoại, tác giả để cho nhân vật lặp lại một số từ
chính ( keyvvord ), nhằm nhấn mạnh và khơi sâu thêm tình thế :
"Bà ấy có đi cùng với một người bạn cửa tôi không ?
Tôi không biết. Ông ta chưa bao giờ đến đấy cả. Ông ta người rất to. Rất, rất to.
Bà ấy rất tốt, rất, rất tốt. Đêm qua có lẽ bà ấy hơi..." [1, 73 ].
Đoạn đối thoại giữa Giếc và Bin về thành phố Buđapét, và thành phố Viên, để
nhấn mạnh về cảm xúc của họ về những nơi đó, nhà văn để cho nhân vật nhắc đi nhắc
lại tên thành phố đó trong những lời đối thoại: "Tôi mới từ Buđapét tới hôm nay
","Buđapét thế nào ? " _ "Tuyệt vời. Buđapét tuyệt vời. " Hay" Hãy hỏi anh ấy về Viên
", "Viên Là một thành phố lạ lùng " _ "Nghe như ở Viên vậy "_" Ở Viên như vậy sao
?" _ "Giống tất cả mọi thứ ở Viên". [1,101 ]
2.2.1.9.Trong đối thoại, ở nhiều đoạn,ta thấy Hemingway nhiều lần, để cho nhân
vật sử dụng tiếng bản ngữ, thổ ngữ. Ngôn ngữ gắn liền với nhân vật, nơi diễn ra sự
kiện. Có khi giận dữ, nhân vật dùng tiếng chửi của người Tây Ban Nha : Me cago en
su puta mađre Anđre chửi thề. Esta loco ( nó điên )_ "Hijo de la gran puta ! ( đồ con đĩ
)Anđres bảo hắn. Loco, _ Bandidos ( đồ ăn cướp ), "picardi.a " (lừa đảo, đểu cáng )
"_No sè ( không biết); tiếng Pháp Comment ? ( sao cơ ), "c'est entendu, monsieur " (
Vâng, thưa ông ).
Tóm lại: Pautôpxki tôn Hemingway là bậc thầy của "Loại đối thoại mang tính
cách một thứ dòng chảy ngầm " Ông xứng đáng là người "Đã làm sống lại nghệ thuật
đối thoại ". Phải chăng những đối thoại bí ẩn, đa hướng của Hemingway phần nào
chứng tỏ cuộc đời huyền thoại của nhà văn. Một người nếm trải đến tận cùng cuộc đời
này, từ những khoảnh khắc hạnh phúc nhất, tới những tình huống nguy nan nhất.
Hemingway đã sống thực những gì mà ông viết. Qua những đối thoại bí ẩn của nhà
văn, chúng ta có thể đánh gia được sự từng trải, tài năng bậc thầy của Hemingway.
Với kiểu đối thoại tối giản, gần như câu nói thường ngoài đời. Cô đọng nhưng sinh
động. Không khô cứng, ẩn rất nhiều suy tư, triết lí về nhân sinh, nhưng không bao giờ
để lộ ra. Không thuyết giáo mà lại khiến người đọc bị lôi cuốn, tin tưởng.
Những đối thoại của Hemingway như một vũ nữ nhảy những vũ điệu biến ảo.
Như một đấu sĩ đang vờn sự hiểm nguy bằng một tấm vải đỏ, mà chỉ trong gang tấc,
tất cả đối thoại có thể sụp đổ, thất bại hoặc ngược lại sẽ lung linh, huyền bí. Chỉ
những nhà văn dám đối mặt với hiểm nguy, với thất bại, với cái chết, mới đủ can đảm
viết những đối thoại kiểu ấy.
2.2.2.Khoảng trống của lời đối thoại
2.2.2.1.Trong đối thoại của Hemingway có rất nhiều khoảng trống, nó luôn đòi
hỏi độc giả phải cẩn trọng khi quan sát những dòng chữ, tiếp xúc với nó bằng thị giác.
Những khoảng trống của đối thoại như một sự thách đố người đọc, nếu không nhạy,
độc giả khó có thể khôi phục những mảng thiếu vắng mà tác giả cố tình bỏ qua.
2.2.2.2.Hemingway đã kế thừa M.Twain bằng cách bỏ trống các từ, và những ý
nghĩ có vẻ không liền mạch, người đọc sẽ tự tìm hiểu vị trí của chúng trong văn bản.
"Cớ sở để hiểu đối thoại của Hemingway phần nhiều đều nằm ngoài văn bản". [
166,307 ] Trong nhiều trường hợp, nhân vật tiến hành những đối thoại giả để che giấu
những suy nghĩ thực. Họ nói nhiều song lại là không nói gì cả, lời nói bên ngoài chỉ
như "lớp sương mù bảng lảng" che giấu vấn đề đích thực bên trong:.
"Ông ăn gì không ?thằng bé hỏi,
"Một niêu cơm gạo vàng với cá. Cháu có muốn ăn không ? "
"Thưa không. Cháu sẽ ăn ở nhà. Ông có cần cháu nhóm lửa không ? "
"Không. Để lát nữa ông nhóm. Hoặc có lẽ ông sẽ ăn cơm nguội.
"Cháu có thể mang cái lưới quăng đi chứ ? "
"Dĩ nhiên" [5,15]
Những lời đối thoại bên ngoài có vẻ cuộc sống của ông lão đầy đủ, sung túc.
Nhưng tác giả không quên giải thích thêm: "Không có cái lưới quăng nào cả, thằng bé
nhớ rõ cái lúc họ bán nó (... ) và thằng bé cũng biết chẳng có niêu cơm gạo vàng và cá
nào cả."Hay khoảnh khắc ngắn ngủi ở đêm cuối cùng, trước khi Jordan bước vào trận
đánh. Maria và Jordan đều lo lắng, họ đã giữ im lặng bằng cách nói đến những tháng
ngày tương lai hạnh phúc vô bờ ở Mađrit và ở nước Mĩ xa xôi...
"Anh này, chị Pila có bảo em, cái này, "
"Em nói đi "
"Không nói thì hơn. Chúng ta lại nói chuyện về Madrit đi. "
"Anh cảm thấy mồ hôi nách chảy xuống giữa cánh tay và mạng sườn. " [4,318]
2.2.2.3.Đặc biệt là những khoảng lặng im trong đối thoại. Có những khoảng lặng
im nói lên'sự hiểu biết, thông cảm cho nhau. Như đoạn đối thoại giữa Jake và Romero
:
"Anh đi xem đấu bò" Anh nói bằng tiếng Anh.
"Anh biết tiếng Anh" . Tôi buột miệng, rồi cảm thấy mình như một thằng ngốc.
"Không" Anh trả lời và mỉm cười" [1, 163 Ị
Ở đây, những người đấu bò không thích dùng tiếng Anh. Romero rất giỏi tiếng
Anh, nhưng khi Jake hỏi, anh lại trả lời như trên. Chỉ khi nghe Romero đối thoại với
Brett, chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa của đoạn đối thoại trên.
Cũng có khi trong những tình huống nan giải, nhân vật lo âu trước những điều
bất ổn của cuộc sống trước mắt. Hemingway để cho nhân vật tham gia, hoặc đối thoại
"luyên thuyên". Lời nói của nhân vặt ít ăn nhập vào nhau, họ nói dường như chỉ để
tìm những âm vang cho đỡ trống trải. Hoặc đôi khi họ thường im lặng đến se sắt trước
những ngón đòn của số phận. cả hai trường hợp đó, nhân vật đều cố che giấu lòng
mình. Đối thoại với nhau đấy mà người nào người nấy quay về trong khó khăn riêng,
theo đuổi những suy tư của mình :
"Anh nghĩ thế sao ? Mắt nàng lại đượm buồn "
"Anh không cười cợt theo cách ấy. Nó chỉ để giải buồn mà thôi "
"Không " Nàng đáp : "Em nghĩ nó rất xấu xa trên trái đất "
"Gặp lại nhau thật tuyệt"
"Không, em không nghĩ thế "
"Em không muốn vậ y sao ? "
"Em phải như vậy" [1,27]
Hình thức đối thoại này bộc lộ sự rạn nứt trong giao tiếp. Nhận xét về văn phong
Hemingway, Phinkensten cho rằng : "đối thoại của nhân vật Hemingvvay giống như
độc thoại bị ngắt quãng. Độ căng không nổi lên bề mặt, nhưng tấn thảm kịch diễn ra
bên dưới lời đối thoại."
2.2.2.4.Trong "Giã từ vũ khí", những người lính là nạn nhân khốn khổ của chiến
tranh, vì vậy khi bàn về chiến tranh bao giờ họ cũng bế tắc. Chiến tranh như một cái gì
thuộc về định mệnh mà trí tuệ, sức lực của con người trở nên vô nghĩa. Những cuộc
đối thoại của họ khi nào cũng để lại trong mỗi nhân vật sự tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi.
Kết thúc cuộc đối thoại có khi là những cuộc cãi vã, có khi là uống rượu và im lặng :
"Hoặc thắng, hoặc bụi chỉ có hai con đường đó thôi.
Tôi không còn tin tưởng noi sự thắng trận nữa.
Tôi cũng thế, nhưng mà tôi không thấy ta sẽ bại, song sự bại trận có lẽ dễ chịu
hơn. Còn anh anh mong gì ?
Mong được đánh một giấc ngon lành. Tôi đáp, Đến đây cha tuyên úy đứng dậy
rồi nói:
Tôi làm phiền anh vì ở đây rất lâu" [2,25 ]
2.2.2.5.Cơ sở để hiểu đối thoại của Hemingvvay phần nhiều nằm ngoài văn bản.
Hemingway thường khéo léo bỏ trống các từ, mà nến một ai biết, thì họ sẽ hiểu vị trí
của chúng trong văn bản. Người đọc tiếp nhận tác phẩm cần phải tự bổ sung thêm một
thực tại ẩn, nằm dưới những câu chữ. ở Hemingway, cả logic bình thường lẫn tính liên
tục của hội thoại đã bị bẻ gãy. Vậy nên, điều thoạt nghe thì cực kì vô lí, song lại thật
chính xác. ở đó, khả năng lịch duyệt của độc giả được văn bản tận đụng triệt để. Đây
là một trong những biểu hiện của "tảng băng trôi”, mà những câu văn chân thực của
Hemingway đã mang lại.
Đối thoại của Hemingway đầy rẫy những câu đơn, tuy rõ về cú pháp nhưng
nghĩa của nó thì vô cùng tận. Ong không làm xiếc ngôn từ mà với ông ngôn ngữ của
những đoạn đối thoại là những lời nói rất tự nhiên. Có điều nhà văn khi tái hiện đã biết
chọn một góc độ nào đó, nghe theo cách nào đó để thể hiện trong tác phẩm tính
nguyên sơ của dạng ngôn ngữ thường nhật. Đây chính là công cụ phục vụ đắc lực cho
việc khảo sát cảm xúc sâu xa và trạng thái phức tạp tâm lý con người" [160,58 ]
Hemingway làm sáng tỏ ý nghĩa tượng trưng, trong mối quan hệ giữa con người
và thế giới, trong quá trình nhận thức và phản ánh hiện thực. Đặc biệt là ở: "cái thế
giới hạn hẹp của Hemingway ẩn chứa một thế giới rộng lớn hơn nhiều" ( spilka).
Trong đối thoại của ông, âm vang những tiết tấu tinh tế, vừa quen, vừa lạ, rất khó nắm
bắt những điều bí ẩn mang ý nghĩa sâu xa. Đặc biệt,qua những phút im lặng, những
quãng ngập ngừng, những sự ám chỉ của nhân vật....Cái tiết tấu vốn có trong đời thực
nhưng phải có một giác quan thật nhạy, người đọc mới có thể nhận ra, Hemingway
luôn tạo ra "độ dư thừa hữu ích " bằng "nguyên tắc bỏ sót "của điện tín.Vì thế tạo ra
nhiều khoảng trống trong đối thoại.Đó như một sự mời gọi người đọc đồng sáng tạo,
để bổ sung thêm vào tác phẩm, mới hiểu hết những phần chìm ẩn phía sau con chữ.
CHƯƠNG 3: ĐỘC THOẠI NỘI TÂM
3.1.KHÁI NIỆM ĐỘC THOẠI NỘI TÂM:
Khuôn mặt của độc thoại nội tâm khá trẻ trung trong truyền thống văn học. Về
thời điểm xuất hiện đầu tiên của độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết cũng có nhiều ý
kiến khác nhau. Từ điển thuật ngữ văn học của Timôphêép và Turaép, đề mục Dòng
tâm tư đã viết về nghệ thuật này trong thời kì chủ nghĩa tình cảm. Đặc biệt trong tiểu
thuyết của Xtenơ với Trixtan Sandy(1767) và Cuộc phiêu lưu tình cảm (1768) ; Bux
trong Thi pháp truyện kể đã nhắc đến độc thoại nội tâm từ tiểu thuyết thời Phục hưng
với Bôcaxiô. Có nhà nghiên cứu lại coi người khai sáng ra nó là Đuygiađanh với một
cuốn sách in từ 1888 "Những cành nguyệt quế đã hái". Thậm chí có người còn nhận
định Lép Tônxtôi là nhà văn đầu tiên, có ý thức vận dụng hình thức này, và
Sécnưsépxki là nhà phê bình đầu tiên nhận ra hình thức đó. Cho đù còn nhiều ý kiến
khác nhau về thời gian ra đời của độc thoại nội tâm, nhưng thủ pháp này đã đánh dấu
một cái mốc quan trọng trên con đường phát triển văn học, làm cho văn học thể hiện
ngày càng sâu sắc, toàn diện về con người.
Vậy độc thoại nội tâm là gì ? Trước hết trong nghệ thuật tự sự, ngoài lời gián
tiếp của người kể, còn có lời trực tiếp của nhân vật. Lời trực tiếp của nhân vật là tiền
đề để xuất hiện độc thoại nội tâm. Bởi vì điều kiện thứ nhất của độc thoại nội tâm, là
nhân vật tự do nói lời của mình một cách trực tiếp, nguyên vẹn, thoát khỏi mọi ràng
buộc của lời gián tiếp tác giả, không có chỉ dẫn, dẫn dắt, hoặc chuyển ý. Đồng thời
độc thoại nội tâm cung cần đặt trong ngữ cảnh gián tiếp, nếu không thì nó khác gì lời
trần thuật theo ngôi thứ nhất? Điều kiện thứ hai là nó khác với lời độc thoại. Độc thoại
là lời nói một mình, trước và sau không gắn với lời thoại nào của ai khác, thường
được sử dụng trong kịch, trong phim. Độc thoại thường gắn liền với hành động. Trong
khi đó, độc thoại nội tâm, là lời độc thoại dùng vào việc miêu tả qua trình ý nghĩ trong
nội tâm, là lời nói thầm kín, không nhằm nói ra thành tiếng như trong kịch.
Tuy nhiên, ranh giới giữa độc thoại và độc thoại nội tâm đôi khi rất mong manh,
khó xác định. Như trong đoạn độc thoại nội tâm sau đây thì chứng ta thấy rõ ràng tính
chất hướng về hành động vẫn toát ra từ thế giới bên trong: "Hãy nghĩ tới những người
đã ra đi, anh nói. Nghĩ tới họ đang đi qua rừng. Nghĩ tới họ đang đi qua suối. Nghĩ tới
họ, đang trên mình ngựa, trong rừng dày. Nghĩ tới họ đang lên dốc núi. Nghĩ tới họ
đêm nay họ rất dễ chịu. Nghĩ tới họ đêm nay đi suốt canh thâu. Nghĩ tới họ ngày mai
phải ẩn mình. Nghĩ tới họ. Mẹ kiếp ! Hãy nghĩ tới họ. Đó là tất cả những điều mà ta có
thể làm được để nghĩ tới ho... Anh nói :Hãy nghĩ tới Môngtana. Ta chả làm nổi, nghĩ
tới Mađrit. Ta chả làm nổi. Hãy nghĩ đến một cốc nước mát. Được lắm. Cứ thế. Như
một cốc nước mát. Mày là thằng nói dối. Điều đó chẳng có nghĩa lí gì. Thế thì làm đi.
Làm cái dó đi. Bây giờ làm đi. Tới đó rồi làm đi. Không, mày phải chờ đã. Sao? Mày
biết quá đi chứ lị..." [4,726 ]
Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn nhân vật, là tiếng nói thầm kín,
là lời tự nhủ thầm, hoặc nhân vật nói to lên với mình. Độc thoại nội tâm bộc lộ đời
sống bên trong, "con ngươi bên trong" của nhân vật. Khi nói đến độc thoại nội tâm,
người ta thường hay nghĩ tới khái niệm dòng ý thức. Thật ra cho đến nay, việc phân
biệt hay đồng nhất hai khái niệm này vẫn chưa ngã ngũ. Tamara. Motưlôva không
phân biệt giữa độc thoại nội tâm và dòng ý thức. Trong khi đó, nhà văn Mĩ Keene
Denald, khi phân tích ảnh hưởng của J. Joyce đối với các nhà văn Nhật, lại tách dòng
ý thức ra khỏi độc thoại nội tâm. Một số nhà nghiên cứu khác khi dựa vào tiêu chí
phản ánh và hình thức biểu hiện đã không phân biệt được rạch ròi hai khái niệm trên.
Theo sự nghiên cứu của chúng tôi thì, dòng ý thức cũng là một hình thức của độc
thoại nội tâm, là bước tiếp nối của độc thoại nội tâm. Nhưng là độc thoại nội tâm với
một sự tự do liên tưởng, không có mục tiêu đặc biệt nào, không có sự khống chế của
lôgic. Dòng ý thức có thể cùng một lúc thể hiện hai thế giới: tiềm thức và ý thức lên
bề mặt một cách hỗn độn. Với lối viết sao chép một chuỗi suy nghĩ, đã khiến cho tất
cả chỉ còn là một chuỗi câu dài không dấu chấm phẩy. Bốn mươi sáu trang cuối của
Ulyx là dòng tuôn trào tâm tư của Mariông Blum: "...và một bông hoa trên núi ờ phải
khi mình cài hoa hồng lên tóc giống như con gái miền Angđaluđi hay mình lẽ ra đã cài
một bông màu đỏ ờ phải và khi anh ta hôn mình dưới bức tường kiểu Môrơ mình tự
nhủ anh ta hay một anh chàng khác cũng thế thôi và lúc bấy giò mình đưa mắt ra ý
bảo anh ta hãy cứ nài nữa đi ờ phải và bấy giờ anh hỏi xem mình có muốn ờ phải
muốn nói ờ được không bông hoa núi của ta và trước tiên mình quàng tay quanh
người anh ấy ờ phải và mình đã kéo anh ấy lên mình để hu cặp vú mình thơm phức ờ
phải và trái tim anh ấy đập như điên và ờ phải mình nói ờ phải em muốn lắm ờ phải"...
[56,62 ]
Khái niệm độc thoại nội tâm cũng còn nhiều tranh cãi, ý kiến của Tamara
Môtưlôva được nhiều người nhất trí hơn cả vì sức khái quát của nó: "Độc thoại nội
tâm là ngôn từ trực tiếp không diễn tả lên lời của các nhân vật, hoặc là ngôn từ của
Lác giả nhân danh mình mà nói, nhưng như vậy là sử dụng giọng điệu và từ vựng của
nhân vật, hoặc cũng có thể đối thoại bên trong, ở đó giọng nói của nhân vật bị xẻ làm
đôi, thành hai giọng đối nghịch. Nó xuất hiện dưới hình thức một chuỗi kết luận có tổ
chức cũng như dưới những ý kiến mơ hồ, hỗn loạn", [116,72]
Độc thoại nội tâm tùy thuộc rất nhiều vào phương pháp sáng tác và bản sắc riêng
của từng nhà văn. Do đó, độc thoại nội tâm trong văn học lãng mạn khác trong văn
học hiện thực. Chủ nghĩa lãng mạn hướng tới cái nên có, có thể có, mơ ước. Chủ
nghĩa hiện thực nhằm vào cái đang tồn tại thực.
Độc thoại nội tâm rất đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ. Với Xtăngđan, độc thoại nội
tâm trở thành biện phấp nghệ thuật chủ yếu thể hiện tâm lí nhân vật. Hình thức diễn
đạt, thường bằng những câu cú rành mạch, thường có nhiều từ cảm thán,vì đấy chính
là khi nhân vật xúc động mạnh hoặc đột nhiên phát hiện ra những điều mới mẻ trong
suy nghĩ, cảm xúc của mình... Thường thấy nhát là dạng câu hỏi, chứng tỏ nhân vật
đang tự vấn lương tâm, tra khảo trái tim, buộc mình phải nói thật với chính mình.
Đến Tônxtôi, độc thoại nội tâm phơi bày quá trình vận động tự thân trực tiếp của
tư duy. Chính Tônxtôi nói rõ phương pháp sáng tác của ông: "Nghệ sĩ là nghệ sĩ chỉ
bởi vì anh ta nhìn đối tượng không phải như điều anh ta mong muốn mà như nó đang
tồn tại"[70,176 ]. Độc thoại nội tâm củaTônxtôi vì thế chân thực, sát với tâm lí con
người. V. Xtaxốp, nhà phê bình nghệ thuật Nga, đã đưa ra nhận xét hết sức tinh tế về
nét đặc sắc của độc thoại nội tâm củaTônxtôi: "Tôi thấy cho đến nay mới có một
ngoại lệ duy nhất: đó là Tônxtôi. Một mình ông đưa ra trong các tiểu thuyết và các
kịch đram của mình những độc thoại thực sự với tính chệch choạc, tính ngẫu nhiên,
tính buông lửng và những nhảy cóc".[70,176 ]
Alejo Carpentier, bậc thầy của nền tiểu thuyết hiện đại có những nét độc đáo
trong việc thể hiện độc thoại nội tâm bằng cách để cho nhân vật tự phô diễn mình
trong những suy nghĩ, hồi ức, liên tưởng. Tức là để cho nhân vật được diễn tả theo
dòng ý thức, tường trình một cách trung thực qua trình diễ biến nội tâm, mà qua trình
đó chịu sự tác động mạnh mẽ của hiện thực hàng ngày. Đặc biệt ông biết kết hợp yếu
tố thời gian đồng hiện và dòng ý thức, nên diện mạo nhân vại của ông phong phú, đa
dạng, nhưng rất phức tạp.
Nếu so sánh với các nhà văn hiện sinh, họ cũng sử dụng độc thoại nội tâm như
một thủ pháp nghệ thuật quan trọng trong sáng tác. Nhân vật của họ tự bộc lộ theo
dòng ý thức, nhưng ý thức ở đây quan niệm như cái gì độc lập với thế giới xung
quanh, nên con người độc thoại nội tâm trở nên cô đơn, bất lực trong tất cả mọi trạng
thái tâm lí. Nhân vật của họ cũng sống với kí ức, hồi tưởng nhưng để rồi chịu đựng
trong cái khổng dứt ra được của ý thức bi quan, chán nản và tuyệt vọng.
Hemingway - người đề xướng phương pháp tảng băng trôi thì độc thoại nội tâm
trong tác phẩm của ông chứng tỏ ông đã thâu tóm tất cả những gì là tinh hoa của nghệ
thuật độc thoại nội tâm ở nhiều người đi trước. Chuyển hóa để tạo nên phong cách
riêng cho mình, và phải chăng trong tác phẩm của Hemingway, ông muốn đem độc
thoại nội tâm làm nội dung, mà hình thức là những trang viết.
3.2.HÌNH THỨC ĐỘC THOẠI NỘI TÂM
3.2.1.Độc thoại nội tâm với bôn tiểu thuyết tiêu biểu của Hemingway:
3.2.1.1.Hemingway là nhà văn không chủ trương chồng chất các sự kiện, các
biến cố, các hành động trong tiểu thuyết. Nhà văn thường lấy trạng thái tâm lí của các
nhân vật làm đối tượng miêu tả. Ông thường xây dựng tác phẩm trên cơ sở theo dõi
các diễn biến của ý thức nhân vật. Đấy chính là nội dung vắng bóng" cốt truyện "hiểu
theo nghĩa sơ đẳng nhất, do đó khó thuật lại, kể lại. Nhà văn lại chủ trương không
đứng ngoài quan sát, tường thuật cái thế giới nội tâm kia một cách gián tiếp, mà ông
để cho nhân vật tự bộc lộ. Vì vậy ông ít dùng ngôn ngữ người kể chuyện, mà sử dụng
chủ yếu đối thoại xen với độc thoại nội tâm. Qua đó, các trạng thái tâm lí nhân vật nổi
lên rất rõ, đồng thời nhà văn cũng gởi gắm thông điệp của mình trong những nghĩ suy
của nhân vật.
3.2.1.2.Khi tiểu thuyết "The Sun also Rises" (Mặt trời vẫn mọc) ra đời,
Hemingway trở thành đại diện xuất sắc cho lớp nhà văn thuộc "Thế hệ vứt đi" ( Lost
generation ). Có một cuộc chiến mà sự trả giá lại qua đắt, Có một thế hệ, ra khỏi cuộc
chiến ấy, bỗng trở thành thế hệ lạc lõng. Có một nhóm người đến với lễ hội để tìm
quên lãng.Người đọc như bị ám ảnh bởi một không khí ngột ngạt sau chiến tranh, nỗi
kinh hoàng về hư vô. Nhân vật của ông sống trong một thế giới giống như một khu
rừng thù địch, đầy những hiểm nguy không lường nước được, chưa kể tới các cơn ác
mộng, những cái thết luôn rình rập họ. Chiến tranh đã làm dang dở cuộc tình của
những người đàn ông với những đàn bà, nhưng không sao đập tắt được lòng ham
muốn nơi họ. Ăn sâu sau những hàng chữ, người đọc tìm thây một lập luận khá đơn
giản : "Cứ đi tìm ý nghĩa của cuộc sống, rồi sau chót, có thể là ta sẽ hiểu được, là thật
ra cuộc sống có chứa đựng những gi. sống trong một thế hệ, đù lạc lõng hay không,
Vái ý nghĩa cao đẹp nhất vẫn là trưởng thành và biết Sống cho ra sống." Đến "A
farewell to Arms " (Gia từ vũ khí), mô típ về tình yêu, tình bạn lại nổi lên như mội ốc
đảo giữa sa mạc cháy bỏng của chiến tranh, mọi ảo ảnh về tình yêu tan vỡ. Dư vị cuối
cùng vẫn là nỗi đau vô phương cứu chữa, sự bất lực và cồ đơn của con người, ngay
khi đã tìm thấy một tình yêu mãnh liệt. Với "For whom the Ben tolls " ( Chuông
nguyện hồn ai ), Hemingway muốn thể hiện "sự sống sót của tính cách giữa cõi hỗn
mang", tính cách của một con người bơ vơ nhập cuộc. Qua những ý nghĩ của Rôbơt
Jorđan, nhà văn muốn kiểm chứng thái độ của người anh hùng này, trước cái chết,
trước đau khổ và bạo lực là một thái độ phức tạp, khó diễn tả rành mạch. Bề ngoài
chán chường, phủ nhận, buông thả, che giấu một bên trong nhạy cảm, nồng nhiệt.khao
khát hành động. Hemingway còn muốn gởi gắm một thông điệp về sự cô đơn của con
người trong thế giới hiện đại mà Robơt Jorđan, dù sao, ít nhiều là một đại diện.
3.2.1.3.Có lẽ đến "The Old Man and the Sea " ( Ông già và biển cả ) thì quá trình
hủy diệt cối truyện thể hiện một cách rõ rệt nhất. Tất cả bề dày, chiều sâu của nhân
vật, được gợi lên qua những lần độc thoại nội tâm. Xen lẫn vào những suy nghĩ tưởng
chừng như rất đơn giản về cá, về biển là những chân lí lớn lao"Không trở về từ nỗi cô
đơn " và "Đã là người thì không bao giờ được bó tay chịu thua. Con người có thể bị
tiêu diệt, nhưng không thể bị khuất phục."
Người đọc nhận ra thông điệp từ những tác phẩm trên, không phải do nhà văn
diễn giải, mà chủ yếu từ những ý nghĩ nói ra lời, và những ý nghĩ không nói ra lời.
Một hiện thực rất sâu sắc về con người và thời đại dần dần hiện rõ sau những hình
thức đa dạng của độc thoại nội tâm.
3.2.2.Các hình thức độc thoại nội tâm:
Tiếp cận độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của Hemingway, ta thấy nhà văn sử
dụng linh hoạt nhiều dạng. Trong đó, phổ biến nhất là ba dạng sau:
1. Dạng lời nói trực tiếp: ở dạng này tác giả chỉ rõ nhân vật "nghĩ ", "tự nhủ", "tự
bảo", "lẩm bẩm", hoặc nhân vật nói to với mình.
2. Dạng lời nói nửa trực tiếp: ở dạng này tác giả trực tiếp phơi bày, phân tích
tâm lí nhân vật, nhưng tới một lúc nào đó giọng tác giả hòa quyện vào giọng nhân vật,
khiến ta khó phân biệt rạch ròi
3. Dạng tổng hợp: ở dạng này tác gia sử dụng xen kẽ cả hai dạng trên, kết hợp
với hồi tưởng, chiêm bao.
3.2.2.1.Qua khảo sát lác phẩm, chúng tôi nhận thấy, ngay từ tiểu thuyết đầu tiên,
Hemingway đã sử dụng độc thoại nội tâm và không ngừng gia tăng cường độ của nó
trong các tác phẩm về sau. ở "Mặt trời vẫn mọc" có ba lần độc thoại nội tâm (0,9%).
"Giã từ vũ khí" độc thoại nội tâm bảy lần (1,8%) ... "Chuông nguyện hồn ai" có 234
lần độc thoại nội tâm (13%). Đặc biệt nhất với "Ông già và biển cả", độc thoại nội tâm
kéo dài suốt 83 trang trên 111 trang văn bản tác phẩm, 256 lần ( 37%). Do tính chất
này,tác phẩm "ông già và biển cả" được xem như văn bản chính khi chúng tôi khảo sát
nghệ thuật độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của Hemingway.
3.2.2.2.Nếu xét về mặt số lượng, thì độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của
Hemingway tập trung chủ yếu ở hai tác phẩm "Chuông nguyện hồn ai” và "Ông già và
biển cả". Lời độc thoại nội tâm chiếm một khối lượng nhỏ hơn so với đối thoại trong
tác phẩm. Nhưng nó lại cực kì quan trọng về mặt thể hiện tính cách nhân vật. Nếu
lược bỏ tất cả độc thoại nội tâm khỏi tác phẩm thì chắc chắn các tác phẩm sẽ bị tổn hại
nghiêm trọng về nghệ thuật và không còn là sáng tác của Hemingway nữa.
Theo thống kế sơ bộ của chúng tôi, số lần sử dụng độc thoại nội tâm để mô tả
nhân vật trong các tiểu thuyết tập trung chủ yếu ở các nhân vật chính như Jake, Henry,
Jordan và Santiago. Điều đó chứng tỏ các nhân vật này, hoặc có cuộc sống nội tâm
phong phú, hoặc có sự căng thẳng, dằn vặt, giằng xé, mâu thuẫn trong nội tâm.
Độ ngắn dài của lời độc thoại nội tâm rát khác nhau. Có độc thoại nội tâm chỉ
vẻn vẹn có mội ý nghĩ ngắn ngủi. Khi Santiago quan sát sợi dây câu, lão thấy dường
như mấy cái phao đang chìm dần, lão nghĩ "Tiếp tục đi", "Nó sắp đớp mồi", "Nó
không thể đi". Có lời độc thoại nội tâm khoảng hai dòng "Chúa biết là nó không thể
đi. Nó đang lượn vòng. Có lẽ trước đây nó đã bị dính câu nên nó nhổ đôi điều về
chuyện ấy". Nhiều độc thoại nội tâm kéo dài vài ba trang, thậm chí có độc thoại nội
tâm dài cả chương như suy nghĩ của Henry về tình yêu và trách nhiệm dài cả chương
32. Đặc biệt ở "Chuông nguyện hồn ai" một đoạn độc thoại nội tâm đặc sắc của
Jordan về rất nhiều vấn đề: bắt đầu từ điạ điểm đặt súng, chàng nghĩ đến Maria, chàng
nghĩ tiếp đến nhiệm vụ, nghĩ đến phe Cộng Hòa, nghĩ đến đất nước Tây Ban Nha,
những người đàn bà Tây Ban Nha và Jordan còn nghĩ rất nhiều về những giờ phút
chàng đã được sống trong hạnh phúc thực sự...Tất cả những vấn đề trên là độc thoại
nội tâm của Jordan kéo dài trong hai mươi trang.
Phân bố chung của độc thoại nội tâm trong "Ông già và biển cả" khá cân đối và
hợp lí. Khi nhân vật chưa ở vào tình thế gay go,độc thoại nội tâm có vẻ thưa thớt,
những suy tư cũng ít. Nhưng đến khi họ rơi vào tình huống nguy kịch, những suy tư
nhiều hơn, thì độc thoại nội tâm dày đặc, liên tục. Nếu ta so sánh thời gian độc thoại
nội tâm thì ban ngày nhiều hơn ban đêm,như thế là rất hợp lí và có sức thuyết phục
bởi khi mục đích rõ ràng, chí đã quyết thì nhân vật chỉ còn phụ thuộc vào ngoại cảnh
để tiến hành công việc.
3.2.2.3.Độc thoại nội tâm có những chức năng khác nhau. Nó có thể là phương
thức tự sự mang tính chất quy ước khi người kể chuyện muốn thu hẹp hoặc xóa bỏ
khoảng cách thời gian giữa kể chuyện và câu chuyện được kể. Michel Butor viết: "Vì
thế khoảng cách thời gian giữa kể chuyện và chuyện được kể có xu hướng giảm đi...
và lẽ tự nhiên người ta đã cố giảm cái khoảng cách ấy đến tối thiểu, đạt tới việc kể
chuyện hoàn toàn đồng thời với câu chuyện nó kể ra."Độc thoại nội tâm có chức năng
hướng ngoại, nghĩa là bộc lộ cái nhìn thế giới, cách đánh giá con người của nhân vật :
"Con mình mình sinh ta ra đời là để sống kiếp thằng dân chài cũng như con cá kia
sinh ra là để làm phận cá. Thánh Pie xưa kia cũng là dân đánh cá và bố ông Đi Magio
trứ danh cũng vậy''. Độc thoại nội tâm chủ yếu hướng nội, nhằm để nhân vật tự ý thức,
tự vấn lương tâm, tự phê phán, tự đánh giá." Lão nghĩ bụng: đã hai ngày rồi mình
không biết đến kết quả trận đấu ra sao. Nhưng mình phải tin tưởng mới được và mình
phải xứng đáng với cầu thủ Đi Magio trứ danh là người chơi môn gì cũng cừ, mặc dầu
gót chân bị nẻ cựa gà. Không biết chứng nẻ cựa gà nó ra sao nhỉ ? (... ) Mình thì mình
chẳng chịu nổi cái chứng ấy. Giống gà chọi có khi đui một mắt hoặc cả hai mắt mà
vẫn cứ chọi nhau được, chứ mình mà như thế thì mình đến chịu. So với những giống
chim lớn và các giống vật, con người thật chẳng thấm vào đâu. Cứ nghĩ thế, mình lại
muốn được làm thân con cá nó đang bơi ]ội trong lòng biển cả tối tăm kia". Hoặc khi
nghĩ về sức mạnh của mình,ỉão so sánh : "...Cái ông Đi Magio trứ danh ấy, không biết
ông ta có bám mãi theo con cá được lâu như mình không nhỉ ? Còn lâu hơn là đằng
khác chứ lị. Mình thì mình tin chắc như thế".
Độc thoại nội tâm thường gắn với những tâm trạng cô đơn hoặc khi nhân vật rơi
vào tình huống căng thăng cần phải lựa chọn. Trong nghệ thuật tiểu thuyết của
Hemingway, độc thoại nội tâm luôn tỏ ra là một biện pháp hữu hiệu, nhưng không thể
sử dụng nó bất cứ lúc nào và với bất cứ ai. Độc thoại nội tâm thường xảy đến với
những con người cô đơn.Tác giả có chủ ý khi chọn một ông giạ đánh cá, không họ
hàng thân thích. Hoàn cảnh đó tất nhiên bắt buộc lão phải thu về cuộc sống bên trong.
Nhà văn lại cố tình xây dựng Santiago đến bạn bè cũng không có, trừ chú bé Manolin,
nhưng suốt mấy tháng trời đi không rồi lại về không, nên bố me chú bắt đi theo một
con thuyền khác. Hemingway không đặt Santiago vào thế phải lựa chọn gay go quyết
liệt, mà tung lão già ra biển khơi. Còn không gian nào mênh mông hơn, trời cao vô
tận, biển sâu hun hút, bốn phương bát ngát chẳng thấy đâu là bến bờ. Không gian
mênh mông ấy lại mang cái đơn điệu bởi sự trống vắng đến vô cùng. Chim không hiểu
được tiếng người, cá không nghe được lời người nói, nước thì mênh mông, mây thì hờ
hững, thành ra cái không gian không người giao cảm ấy cũng là nền cho độc thoại nội
tâm phát triển. Những câu độc thoại nội tâm đầu tiên lão nghĩ về số phận và cảnh cô
đơn của mình: "Con người ta không nên sống một mình khi tuổi đã xế bóng, lão nghĩ.
Nhưng không thể nào tránh khỏi". Rồi lão bắt đầu ái ngại cho con cá: "Chưa bao giờ
mình gặp một con cá nào kiêu hùng và hành động quá đỗi kỳ lạ như nó, Có lẽ nó cũng
thừa khôn ngoan để không nhảy lên. Bởi nếu cứ phóng lên hoặc lao chạy thì nó có thể
hủy hoại mình. Nhưng chắc trước kia cu cậu đã nhiều lần nếm mùi dây câu nên đã biết
đây là cách chiến đấu tốt nhất. Nó không thể biết chỉ có mỗi một người duy nhất đang
đương đầu với nó và cũng chẳng hay rằng đấy là một lão già. Nhưng cu cậu đúng là
chú cá vĩ đại và sự vĩ đại ấy còn được thể hiện ở phản thịt nơi chợ nếu thịt nó hãy còn
tươi khi được mang đến đó. Cu cậu đớp mồi hệt một trang nam tử và cái cách cu cậu
kéo cũng là của đấng hào hoa; cu cậu chống cự không một chút hoảng sợ. Ta phân vân
chẳng biết nó có mưu đồ gì không hay cũng chỉ cố gỡ gạc như cái thân của ta thôi ?".
Độc thoại nội tâm cứ thế nới dần cốt truyện, nhân vật tự hoàn thiện bức chân dung của
mình.
Độc thoại nội tâm thường xảy ra khi nhân vật rơi vào tình trạng tâm lí căng
thẳng, phải đấu tranh tư tưởng trước một quyết định lựa chọn khó khăn giữa ngã ba
đường. Qua những suy nghĩ về chiến tranh của Jorđan, ta nhận thấy những lo lắng băn
khoăn của nhân vật trước khi quyết định công việc sắp làm "Mày sẽ phá nó một ngày
nào đó, không hôm nay thì hôm khác. Hoặc nếu không phái chiếc cầu này thì sẽ là
mội chiếc cầu khác. Mày không phải là người quyết định sẽ phải làm việc gì. Mày chỉ
có việc tuân thủ mệnh lệnh. Hãy tuân thủ theo mệnh lệnh và đừng có tìm cách nghĩ
ngợi qua xa. Mệnh lệnh về việc này rất rõ ràng. Qua rõ, nhưng mày không được thắc
mắc mà cũng không được sợ hãi. Vì rằng nếu mày tự cho phép có quyền sợ hãi một
cách thông thường thì cái sợ đó sẽ lây sang những người cùng làm việc với mày đấy.
Nhưng dẫu sao thì cái chuyện cắt đầu kể cũng ghê rơn thật, anh tự nhủ". [4,146 Ị
3.2.2.4.Với tiểu thuyết "ông già và biển cả" nếu gần trăm trang sách độc thoại
nội tâm, chỉ để Santiago "tự nhủ, thầm nghĩ..." mãi thì có lẽ sẽ rất nhàm. Vì vậy, trong
tác phẩm đôi khi tác giả để cho nhân vật nói to lên một mình. "Lão không nhớ lần đầu
tiên lão nói to một minh như thế là tự bao giờ. Ngày xưa khi lủi thủi một mình, lão
thường hát; thỉnh thoảng lão hát vào ban đêm cô đơn trong phiên trực lái trên những
chiếc thuyền buồm đánh cá hay thuyền săn rùa. Có lẽ lão bắt đầu nói lớn khi chỉ có
một mình, khi thằng bé ra đi". Giữa trời mây sóng nước, lão cô đơn tuyệt đối, lão đành
tự nói chuyện với chính mình vậy. Cho dù nói rồi lại nghe, nhưng vẫn còn chút an ủi.
Đặc biệt rất nhiều lần lão nói lớn : "I wish the boy were there" ( Mình ước có
thằng bé ở đây ). Có thể coi chú bé Manolin như một người thân duy nhất của ông già
cô đơn. Bạn của ông già lại là một chú bé, một tình bạn vong niên không cùng giáp
mặt, đối đầu với hiểm nguy, gian khổ nhưng rõ ràng hai con người này gắn chặt với
nhau làm một. Đầu và cuối truyện gặp mặt, giưã truyện xa mặt nhưng chẳng cách
lòng. Gặp nguy khó hoặc thắng lợi ông gia không lần nào không nhắc đến thằng bé,
còn chú bé chẳng lúc nào không trông thuyền ngóng bến. Hai con người gắn bó với
nhau nhít thân với chồi. Chồi nhờ nhựa thân mà sống, thân cằn cỗi, chồi phát triển
thay thân. Thằng bé mang ý nghĩa của một mầm sống tiếp nối, một tương lai có sự kế
thừa và phát triển.
3.2.2.5.Độc thoại nội tâm còn là một cách diễn tả đặc biệt, chính xác nhất khi
nhân vật mổ xẻ mội cách chi li, vạch tận gốc rễ, cội nguồn những cảm xúc, những suy
tư thầm kín nhất của mình. lordan đôi lúc băn khoăn về thời cuộc, anh nghĩ :"Lúc này
anh chẳng có chính kiến gì cả, anh tự nhủ, nhưng anh thầm nghĩ. Không nên nói cho
ai biết cái đó, không bao giờ nên thừa nhận điều đó." Jack có nhiều ý nghĩ độc đáo về
phụ nữ, về cuộc đời: "Đàn bà làm nên những người bạn tuyệt vời. Rất tuyệt vời. Trước
tiên ta phải yêu một người phụ nữ để có một cơ sở của tình bạn. (... ) Cuộc đời này là
một nơi rất tốt để mình mua một chỗ. Có vẻ như một thứ triết học hay. Tôi nghĩ, năm
năm nữa nó cũng sẽ trở thành ngớ ngẩn như những thứ triết học hay ho khác tôi đã
từng có. (... ) Có lẽ càng sống mình càng học được một điều gì đố. Tôi chẳng cần biết
đó là cái gì. Tôi chỉ muốn biết là sống ở trong đó như thế nào. Có lẽ mình tìm ra được
sống trong đó như thế nào. Có lẽ mình tìm ra được sống trong đó như thế nào thì sẽ
biết được nó sẽ là cái gì. " [1,197]
3.2.2.6.Hình thức độc thoại nội tâm của Hemingway rất phong phú, có khi thể
hiện những mong muốn : "ôi ! Ước sao đó là sự thật". Cũng có khi độc thoại nội tâm
thể hiện chiều sâu tư duy, mang nặng tính triết lý : Lão lại nghĩ :"ở đời cái gì tốt đẹp
qua vần khó bền. Lúc này mình muốn mọi chuyện xảy ra kia chỉ là một giấc chiêm
bao và cứ xem như là chưa bao giờ câu được con cá ấy. " Sau cùng lão tự động viên
mình cố gắng vươn lên để giành phần thắng đối với con cá: "Đã làm người thì không
bao giờ được bó tay chịu thua. Con người có thể bị tiêu diệt nhưng không thể bị khuất
phục."
Độc thoại nội tâm của ông lão khi thốt lên thành tiếng mang tính chất đối thoại -
đối thoại mội chiều, vì chỉ có lời nói đi mà không có lời đáp lại. Santiago đối thoại với
chính mình, lão nói to lên thành tiếng : "Nhưng ông bạn ạ, ông có biết là ông chưa ngủ
được tí nào không ?...Nếu con cá kia nó cứ thủng thỉnh mà kéo đi như thế thì ông cũng
nên kiếm cách ngủ nghê tí chụt. Cứ thao láo con mắt mãi thế này thì đầu óc cũng đến
mụ ra mất thôi...". Đôi khi vì qua cô đơn lão bắt chuyện với con chim : "Mày đã bao
nhiêu tuổi hở chim ? Phải chăng đây là chuyến bay vượt biển đầu tiên của mày ? " Lão
tâm tình đầy yêu thương với cá : "Nào, ăn thêm một miếng nữa đi, ăn cho no vào "
hay "Cá ơi, tao rất yêu thương và trọng mày, tao trọng mày lắm nhưng tao cũng xẻ thịt
mày". Rồi lão tự phân thân để nối chuyện với cánh tay tê bại của mình : "Tay với chân
gì mà lại thế này ! Mày có muốn tê bại gì thì cứ việc. Trông mày có khác gì một bộ
gọng cua kia chứ. Như thế thì phỏng còn được cái tích sự gì ? " và "Nào tay ơi ! Bây
giờ mày ra sao rồi ? hay là vẫn đang còn chưa lại hồn hở mày ? ".Tuy thời gian hiện
tại là cái nền chính cho độc thoại nội tâm của Santiago,nhưng để cho độc giả hiểu rõ
hơn cuộc đời của ông lão, đôi khi tác giả để cho những độc thoại nội tâm đưa chúng ta
ngược trở về quá khứ : "Khi mặt trời lặn, lão hồi tưởng, để củng cố thêm niềm Un, về
cái hôm ở quán rượu tại Casablanca, khi lão chơi vật tay với anh chàng da đen lực
lưỡng quê ở Cienfuegos, người được xem là khoe nhất ở cảng ấy." Có khi độc thoại
nội tâm là những dự đoán của ông lão hướng về tương lai: "Ba bốn ngày nữa sẽ trở
trời đây. Nhưng chưa phải ngay bây giờ". Độc thoại nội tâm còn gợi về những kỉ niệm
buồn. Một mình giữa biển khơi, Sanlỉago nhớ lại một ngày buồn thảm nhất của mình.
Lão nhớ lần lão câu được mội con trong cặp cá kiếm. Con đực luôn để con cái ăn
trước và khi bị dính câu, con cái giẫy giụa kinh hoàng, tuyệt vọng vẫy vùng thoát thân
mạnh đến bổi chẳng mấy chốc đã kiệt sức ; suốt thời gian đó, con đực luôn ở bên bạn,
bơi qua bơi lại dưới sợi dầy và lượn tròn cùng bạn trên mặt nước. Nó bơi gần đến nỗi
ông lão sợ nó có thể tiện phăng sợi dây câu bằng cái đuôi có hình dáng, kích cỡ và sắc
tựa lưỡi hái. Khi ông lão móc con cá cái, giữ chặt cái kiếm xù xì tựa giấy nhám của nó
và vung chày quật vào đỉnh đầu cho đến khi da nó chuyển sang màu như màu thủy
ngân tráng phía sau gương, và rồi với sự trợ giúp của thằng bé, lão lôi con cá lên
thuyền trong lúc con cá đực vẫn cứ sán lại bên mạn thuyền. Rồi trong lúc lão đang rửa
sợi dây câu và xem xét lại cây lao, con cá đực tung mình nhảy vọt lên lơ lửng trong
không trung bên cạnh chiếc thuyền để xem con cá cái ở đâu, rồi rơi lặn sâu xuống ;
đôi cánh màu đỏ hồng, tức đôi vây hai bên ngực, xòe rộng phô hết ra những đường
sọc đỏ hồng rộng. Nó thật đẹp, ông lão nhớ, và nó thủy chung." Độc thoại nội tâm có
khi hòa tan thành những giấc mơ. Lão mơ về thời tuổi trẻ, liên thuyền đến Phi châu
lão đã thấy "những bờ biển cát vàng, cát trắng trải dài, trắng đến nỗi làm mắt đau
nhức, những mũi đất cao nhô ra mặt biển, những ngọn núi xám đồ sộ (... ) lão tiếp tục
mơ để thấy những mỏm trắng xỏa của những hòn đảo nhô trên biển, lát sau lão mơ về
những hải cảng khác, những vũng tàu đậu khác của quần đảo Canary." Lúc đã già, khi
vợ đã qua đời " lão không còn mơ về bão tố, về phụ nữ, về những sự kiện, những con
cá lớn, về những trận đánh, những cuộc đâu sức hay vợ lão. Bây giờ lão chỉ mơ về
nhCfng vùng đất và những con sư tử trên bờ biển. Chúng nô đùa như những chu mèo
con trong hoàng hôn, lão yêu chúng như yêu thằng bé " Đàn sư tử - tượng trưng cho
sức mạnh - cứ trở đi trở lại trong những giấc mơ của lão, như chứng nhân cho một
thời tuổi trẻ kiêu hùng, thời lão được gọi là Nhà vô địch." Lão bắt đầu mơ về bãi cát
dài vàng rực, lão thấy con sư tử đầu tiên bước ra trong bóng tối chập choạng rồi tiếp
đó là những con khác, còn lão thì tựa lên mạn con tàu đang thả neo trong làn gió nhẹ
buổi tối từ đất liền thổi đến ; lão cứ đợi xem thử còn có thêm con nào nữa không, lão
hạnh phúc" Tác phẩm kết thúc bằng đàn sư tử trong chiêm bao của Santiago|^ộc thoại
nội tâm còn hướng đến tương lai. Jordan trong khi đang chỉ huy việc phá cầu'nhưng
vẫn nghĩ về trường đại học, về hạnh phúc trong tương lai sẽ sống với Maria ở Xonvali
" Ta sẽ về sinh sống bằng cách dạy tiếng Tây Ban Nha như trước vavsẽ viết một cuốn
sách trung thực, dám chắc, anh nghĩ, dám chắc là điều đó dễ dàng thôi ".. Hoặc
"chúng ta sẽ vào khách sạn ghi tôn là bác sĩ Livinhxtơn và vợ chẳng hạn, anh nghĩ :
mình sẽ cưới Maria và chúng ta sẽ trở thành ông và bà Robert lordan ".
3.2.2.7.Liên quan chặt chẽ với hình thức độc thoại nội tâm là vấn đề đồng hiện
trong vãn học. Theo quan niệm của Giáo sư Trần Đình sử thì "Đồng hiện văn học là
sự tái hiện một từ, một câu, chi tiết, không gian, thời gian của quá khứ, hiện tại và
tương lai trong cùng một thời điểm. “Ngôn ngữ ở đây thường mang tính biểu trưng
cao độ, nó gắn với dòng chảy tâm linh, nó dung hòa lí trí và cảm xúc. Ở nhân vật Jake,
đồng hiện gắn liền với việc bộc lộ tâm trạng. "Đi bộ băng qua công viên về khách sạn,
mọi thứ trông mới và thay đổi. Tôi như thể chưa từng thấy những hàng cây, những cột
cờ và mặt tiền của nhà hát từ trước. Mọi vật, tất cả đều khác. Tôi cảm thấy những gì
tôi đã trải qua sau lần trở về nhà từ lần đá bóng bên ngoài thành phố. Tôi đang mang
va ly đựng dụng cụ bóng đá đi bộ từ nhà ga vào thành phố, nơi tôi đã sống rất lâu và
nó, tất cá đều đổi mới. Họ đang dọn những thảm cỏ và đốt lá bên đường, tôi dừng lại
khá lâu để nhìn. Mọi vật tất cả đều đổi mới. Sau đó, tôi tiếp tục, chân dường như đã
trải qua chặng đường dài, vạn vật dường như đến từ kí ức mơ hồ, tôi nghe chân mình
bước những bước xa vời. Tôi bị đánh vào đầu từ rất sớm của trận đấu. Thật thích khi
băng qua quảng trường. Thật thú vị khi bước lên cầu thang khách sạn. Đi lên cầu
thang mất khoảng thời gian dài, tôi cảm thấy như mình đang mang va li." Độc giả thật
khó minh định tâm trạng buồn hay vui ở Jake, chỉ có thể cảm nhận được tất cả quyện
lại trong xúc cảm vừa cay đắng vừa ngại ngào. Những kỉ niệm buồn, êm đềm đan xen
hòa cùng thực tại mòn mỏi. Phải chăng con người xưa nay vẫn tồn tại trong cuộc đời
với bao nhiêu tự thế đối nghịch trong tư duy và hành động ?
3.2.3.Độc thoại nội tâm và những vấn đề chiến tranh, tình yêu, hạnh phúc, triết
lí về cuộc đời:
3.2.3.1.Chiến tranh là một chủ đề được trở đi trở lại trong sáng tác của hầu hết
các nhà văn tiến bộ trên thế giới. Bởi đó là căn bệnh trầm kha cửa thế kỉ XX. Chiến
tranh đối với bất cứ dân tộc nào, đù chính nghĩa hay phi nghĩa cũng không sao tránh
khỏi màu sắc bi kịch. Trong tiểu thuyết của Hemingway, chiến tranh hiện diện không
nhằm nói về những mất mát vật chất, những thương vong mà là những ám ảnh hằn sâu
trong tâm khảm mỗi con người, khi cuộc chiến đã đi qua.Là nhà văn cả cuộc đời cầm
súng và cầm bút, chiến đấu ở Đại chiến thứ nhất, ở Tây ban Nha, ở Đại chiến thứ hai,
ông đã rút ra chân lí: "Muốn viết chân thực về chiến tranh phải trải qua rất nhiều nguy
hiểm, vì có trải qua tất cả các nguy hiểm mới có thể tìm được chân lí về chiến
tranh.(... ) khi ra tiền tuyến tìm chân lí, có trường hợp họ chỉ tìm thấy cái chết thay cho
chân lí. Nhưng nếu có 12 người ra đi mà chỉ có hai người trở về, thì lúc dó chân lí do
họ mang về sẽ thực sự là chân lí, chứ không phải là những lời đồn đại đã bị bóp méo,
xuyên tạc mà chúng ta nhận rằng đó là lịch sử" [151,170 ]. Chính nhờ điều ấy mà tác
phẩm của ông rất thực, nhân vật có sức sống, mang theo hơi thở của tâm hồn ông và
có một dáng dấp riêng. Hơn thế nữa trong các tác phẩm, chiến tranh giống như một
thứ thuốc thử cực nhạy để thử thách con người. Mọi cái cao cả, cái thấp hèn, lòng
trung thực, lòng vị tha tất cả đều được hiện lên rõ nét.
3.2.3.2.Chủ đề chiến tranh hiện diện ở những dáng vẻ khác nhau trong ba tiểu
thuyết lớn của ônn.Trong tiểu thuyết đầu tiên "Mặt trời vẫn mọc " Hemingway đã gây
cho người đọc một cảm giác chán ngán vì cảnh sinh hoạt hỗn loạn ở các hộp đêm, ở
hội đấu bò ( fiesta ) trên đất Tây Ban Nha. Những đám thanh niên sống không mục
đích, họ chôn vùi tuổi trẻ vào những cuộc tiêu khiển vô bổ, vì họ là những người đã
từng tham gia hoặc chứng kiến chiến tranh. Không trang nào nói đến khói lửa của
chiến tranh, nhưng không khí của cuộc chiến tranh tàn khốc ấy vẫn nặng nề bao trùm
lên đời sống con người. Những nhân vật như Cohn, Brett, Jack đều là nạn nhân. Họ
luôn sống trong thảng thối lo sự. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho cô gái xinh
đẹp, có tâm hồn trong sáng như Brett và chàng trai khỏe mạnh, thông minh như Jack
không thể có hạnh phúc. Họ vẫn sống bên nhau, rất yêu nhau nhưng vẫn đau khổ và
họ cũng chẳng hiểu vì sao, chẳng một lần họ truy tìm nguyên nhân thật sự của nỗi bất
hạnh ấy. Từ đầu đến cuối tác phẩm không khí nặng nề, chán ngán, bi quan đè nặng lên
mỗi nhân vật. Họ là những người của cả một thế hệ bị chiến tranh phi nghĩa nghiến
nát, dày xéo. Họ cảm thấy thất vọng và cay đắng, họ tìm lối thoát trong những ảo giác
khốc liệt nhưng vẫn bế tắc. Nhân vật Robert Coln thốt lên "Đi đến đâu cũng chẳng
thay đổi được gì hết. Tôi đã thử rồi, không phải hễ cứ đi là thoát được chính mình.
Chẳng có kết qua gì đâu ". Họ đã sống với một thái độ bất cần mọi sự trên đời. Có một
lúc nào đó họ cũng ý thức được rằng, nỗi cô đơn, thất vọng của họ là từ đâu tới. Họ cố
quên đi, nhưng "ban ngày rất dễ bất cần mọi chuyện, nhưng ban đêm thì đó là chuyện
khác, không thể bơ đi những cái mình đã sông"
3.2.3.3.Với "Giã từ vũ khí Hemingway nhìn về cuộc chiến tranh với thái độ hoài
nghi: "Chiến tranh sẽ giết hại những người lương thiện nhất, hiền lành nhất và dũng
cảm nhất mà không cần phán xét...người ta cũng sẽ giết anh chỉ có điều là không vội
vàng. "hoặc " Có lẽ ngày nay người ta không thể chiến thắng trong bài cứ cuộc chiến
tranh nào. Có lẽ cuộc chiến tranh kéo dài vô tận. Có lẽ chúng ta chứng kiến một trăm
năm chiến tranh khác nữa ". Thời gian sự kiện diễn ra trong câu chuyện là thời gian
diễn ra giữa hai khoảnh khắc : khoảnh khắc ngắn ngủi giữa tình yêu và cái chết ;
khoảnh khắc nhân vật chính nhận ra tất cả cái bi hài của cuộc chiến để rồi quyết định
"giã từ vũ khí số phận của tình yôu,của lứa đồi ở đây đã dựng trên bối cảnh khốc liệt
và li ám của chiến trường, liên quan tới sự kiện gây đổ vỡ trong cuộc sống nhân loại
đầu thế kỉ XX. Chiến tranh với tất cả sự khốc liệt của nó đã đẩy người lính Henry đến
lận cùng sự đau khổ. Lời độc thoại nội tâm cuối tác phẩm của Henry có thể coi như
kết qua của một sự đổ vỡ vô phương cứu chữa. "Nhưng sau khi đuổi họ ra khỏi phòng,
sau khi đã đóng cửa lại và tắt đèn, tôi hiểu rằng tất cả đều vô ích. Dường như tôi nói
lời vĩnh biệt với một pho tượng, Một lát, tôi đi ra và rời bệnh viện. Và tôi trở về khách
sạn, dưới mưa”.
3.2.3.4."Chuông nguyện hồn ai” là tác phẩm tiến bộ nhất trong cuộc đời sáng tác
của Hemingway. Kết qua của những năm tháng lăn lộn trong đời sống thực tế của
cuộc chiến đấu anh dũng chống bọn phát xít Phrancô là một bản anh hùng ca, ca ngợi
cuộc kháng chiến vĩ đại của những người yêu chuộng tự đo công lí, ca ngợi những
người du kích Tây Ban Nha và những chiến sĩ trong lữ đoàn Quốc tế. So với "Giã từ
vũ khí" thì "Chuông nguyện hồn ai" là một bước tiến trong cái nhìn về chiến tranh.
Nếu như trung uy Henry trốn tránh chiến tranh một cách tuyệt vọng, mù quáng, thì ở
"Chuông nguyện hồn ai " nhà văn đã để cho Robơc Jordan sáng suốt lựa chọn một
hướng đi đúng đắn. Vì căm thù chiến tranh mà cả hai đều chống chiến tranh, nhưng
Henry thì đào ngũ, bi quan còn Jordan thì lại nhập ngũ. Bởi vì bản thân tác giả đã tìm
thấy chân lí, chính nỉíhiã ở cuộc chiến .đấu của phe dân chủ Tây Ban Nha chống phát
xít. Jorđan đã chiến đấu với nhận thức sâu sắc rằng "Mình chiến đấu đến nay đã được
một năm cho những điều mình tin tưởng. Nếu ở đây mà chúng ta thắng thì chúng ta sẽ
thắng ở khắp nơi. Thế giới này thật là đẹp và đáng để cho mình chiến đấu".
3.2.3.5.Tuy nhiên trong tác phẩm, đôi khi những độc thoại nội tâm đã chỉ ra
những day dứt của người lính khi bắt buộc phải cầm súng. Anxenmo từng nghĩ ngợi:
"Mình mong rằng, mình sẽ không tham gia vào việc bắn giết. Nếu sau chiến tranh cần
phai lùm mội lỗ rửa tội lớn về việc giết người. Nếu sau chiến tranh không còn tôn giáo
nữa, thì mình cho rằng cần tổ chức một hình thức giải tội kiểu dân sự gì đó để tẩy rửa
sự chém giết, nếu không thì chúng ta sẽ không bao giờ có được một cơ sở chân chính,
nhân đạo để mà sống." [4,329] Độc thoại nội lâm làm nổi rõ những cuộc tranh luận
dai dẳng, cứ bám riết lấy từng người lính khi họ muốn cho tâm hồn mình phần nào
được thanh thản về hành động giết người : "Anh tự hỏi mình, mày đã giết bao nhiêu
người rồi ? nhưng mày yêu người dân vùng Navara hơn bất cứ người nào khác ở Tây
Ban Nha. Phải. Mà mày vẫn giết họ. Phải...mày không biết giết người là sai hay sao ?
Có vậy mà mày vẫn làm. Phải,và mày vẫn tin một cách tuyệt đối rằng mục đích của
mày là đúng ư ?"[4,109]
3.2.3.6.Qủa là chiến tranh gieo rắc bao thảm họa và không chừa bất cứ ai, ai
cũng là nạn nhân của chúng; "Đáng lẽ phải miễn cho nó như là miễn cho những người
phản đối chiến tranh vì lương tâm, nhưng những người phản đối chiến tranh và lương
tâm không được miễn trong cuộc chiến tranh này. Chẳng ai được miễn cả. Ai cũng
như ai. Phải ; chiến tranh đem đến cho những con người hòn nhái này. Bây giờ thì họ
đã bị ném vào cảnh chiến tranh rồi."
Những suy nghĩ qua độc thoại nội tâm của nhân vật, còn cho thấy nhân vật dù
còn nhiều suy nghĩ, băn khoăn về chiến tranh, nhưng họ cũng hiểu rất rõ, chỉ có một
con đường duy nhất là phải tham gia cách mạng một cách trung thành, bằng tinh thần
trách nhiệm cao: "Đáng lẽ bây giờ mình phải về trại.Bất cứ một người nào có ý thức
một chút thì phải mong mình trở về trại. Mình sẽ ở lại đây thêm một chút nữa, ông cụ
nghĩ - rồi sẽ về trại. Người lính cũng tuân thủ kỉ luật chiến đấu một cách rất nghiêm
ngặt: "Trong thời gian chiến tranh anh tuân theo kỉ luật cộng sản... Những người cộng
sản đã tỏ ra có một kỉ luật tốt nhất, chắc chắn và lành mạnh nhất để tiến hành cuộc
chiến đấụ."[4,276]
3.2.3.7.Hình ảnh cuối cùng, người chiến sĩ bị thương, gãy chân nằm lại ôm khẩu
súng máy chờ giặc đến trong buổi chiều tà, trong rừng thông xanh biếc vang lên tiếng
chuông nguyện hồn cho anh như mãi ngân nga trong lòng người đọc: "Robert Jordan
nằm sau gốc cây, cố hết sức mình để giữ cho hai bàn tay khỏi run. Chàng đợi tên sĩ
quan tới đúng chỗ có nắng, nơi những cây thông đầu tiên của khu rừng tiếp giáp với
triền dốc xanh của đồng cỏ. Chàng nghe tim mình đập sái trên mặt đai của khu rừng
phủ đầy xác lá thông." [4,728].
"Chuông nguyện hồn ai" còn là tiếng hát lạc quan của những người chiến sĩ du
kích Tây Ban Nha. Nhà văn dã đưa vào tác phẩm những con người chất phác, thật thà
nhưng tự ùn và có tinh thần yêu nước, yêu tự đo mãnh liệt. Đó là ông lão Anxenmôn,
người du kích già hồn nhiên trong sáng, trung thực, đôn hậu, giàu tình cảm nhưng can
đảm và cương quyết. Thật xúc động khi nghe ông lão tâm sự : "Tối đến thật là cô đơn.
Chỉ có một điều mà không thể có một Chúa Trời nào cướp di dược đỏ là mình đã phục
vụ tốt chế độ Cộng hòa. Mình đã ra sức hoại động cho những cái tốt đẹp mà sau này
chúng ta cùng chung chia sẻ với nhau. Mình đã hoạt động ngay từ những ngày đầu
phong trào và chưa hề làm gì đáng xấu hổ". Bên cạnh đó người du kích anh hùng
Enxôrơđô lại được Hemingway vẽ lên bằng một cách khác. Anh cương quyết, bình
tĩnh, thông minh, lúc nào cũng sáng suốt lạ thường và đã chiến đấu cho đến giọt máu
cuối cùng. Cùng đồng đội Enxôrơđô lập nên kỳ tích anh hùng trên ngọn đồi mà anh sẽ
yên nghỉ. Với tâm hồn thanh thản đón nhận cái chết, rất lạc quan, người anh hùng ấy
càng ý thức sâu sắc hơn về cuộc sống. "Chết không sao cả... Nhưng sống là cả một
cánh đồng lúa dạt dào trong nắng sớm. sống là con chim ưng trên bầu trời. sống là một
vò nước giữa bụi bặm trong buổi đập lúa, khi hạt lúa rơi và trấu bay lã chã. Sống là
cưỡi trên lưng một con ngựa, khẩu súng trường cài bên dưới yên dưới một bên chân,
sống là một ngọn đổi, một thung lũng, một dòng suối cây mọc hai bên bờ bên kia
thung lũng và khắp trên những ngọn đồi xa xa..." Hemingway dã cho người chiến sĩ
Jordan được sống trong một tình yêu thật trọn vẹn cùng với Maria trước lúc hi sinh.
Những giờ khắc thật ngắn ngủi nhưng đẹp làm sao “Có lẽ đó là một cái mà lúc này
cuộc sống dành riêng cho mình. Có lẽ đó là một cái. Có lẽ đó là một cuộc đời mình và
đáng lẽ nó là bảy mươi hai năm thì nó vẻn vẹn chỉ là bảy mươi hai giờ, cũng có thể
sống một cuộc đời đầy đủ bằng bảy mươi hai năm."[4,281]
3.2.3.8.Đối với Hemingway, chủ đề chiến tranh là chủ đề trung tâm và bao trùm
suốt cuộc đời sáng tác của ông. Trong chiến tranh con người có dịp bộc lộ tất cả mọi
mặt mạnh yếu của mình. Một trong những mặt mạnh nhất của con người là ý chí và
lòng dũng cảm.Chủ đề ấy một lần nữa được ngợi ca trong "Ông già và biển cả". Đây
là một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi, chứa đựng nhiều ý nghĩa và triết lí sâu xa. Cáu
chuyện về Santiago chiến đấu gay go, ác liệt với đàn cá dữ,cuối cùng chỉ còn một bộ
xương cá mang về, nhưng đó là chiến thắng về tinh thẫn nhờ nghị lực, ý chí, niềm tin
và lòng yêu cuộc sống vô bờ bến của con người. Độc thoại nội tâm của Jordan cũng
mang nhiều ý nghĩa nhân sinh và thể hiện ý nghĩa cuộc sống đích thực : "Chúng ta
sinh ra để làm gì nếu không phải để giúp đỡ lẫn nhau, anh nghĩ" [4,237 ] hoặc "Nếu ở
đây mà chúng ta chiến thắng thì chúng ta sẽ chiến thắng khắp mọi nơi. thế giới thài là
đẹp và đáng dể cho mình chiến đấu vì nó và mình thật ghét phải rời bỏ thế giới này, và
mày đã có được nhiều may mắn mới có được một cuộc sống tốt đẹp như thế, anh tự
nhủ" và "Trong chiến đấu không thể có cá nhân mình được. Trong chiến đấu chỉ có
thể vứt bỏ cái cá nhân đó đi mà thôi" [4,344].
3.2.3.9.Qua những tiểu thuyết của Hemingway toát lên tư tưởng chống chiến
tranh, ca ngợi phẩm giá của con người, với tất cả những cái tốt đẹp, chất nhân văn,
nhân bản trong con người. Đặc biệt ông lên án gay gắt tội ác của chiến tranh, gây ra
bao tai họa và tang tóc. Nhưng quan trọng hơn sự khủng khiếp của chiến tranh là sự
tha hóa của tâm hồn con người. Chiến tranh đẩy con người trở lại thời kì đồ đá trong
đời sống vật chất, mà nguy hại hơn là đời sống tinh thần và tình cảm.
3.2.3.10.Sáng tác của Hemingway. Mỗi chủ đề đều bị chi phối và ảnh hưởng đến
các chủ đề kia. Qua đó bộc lộ loàn bộ thế giới quan của Hemingway về cuộc sống và
cái chết. Quan niệm về cái chết của Hemingway khá rõ ràng và nhất quán. Để chết,
phải chết, tức phải sống và sống như thế nào đó để cái chết không còn ý nghĩa. Ông
cho rằng sống hết mình vì cuộc sống, vì sự sống thì cái chết cũng chỉ có nghĩa tiếp lục
sự không sống nữa mà thôi. Thậm chí còn có phần nhẹ nhõm hơn. ông đã từng nói với
mía Erenbourg "chết thật dễ dàng, còn sống thì mới khó làm sao."
3.2.3.11.Thái độ chịu đựng là một nét tính cách tiêu biểu của người Mĩ. Ở tiểu
thuyết của Hemingway, nhân vật chính mang hai nét tính cách rõ rệt: thái độ chịu
đựng và bất khả bại. Độc thoại nội tâm của Rôbert Jorđan trong những trang cuối cùng
của lác phẩm dã khẳng định lòng dũng cảm, sẩn sàng đón nhận cái chết của người
chiến sĩ tình nguyện: "...Tất cả đã diễn ra tốt đẹp biết bao khi phái đạn bắn lới, - anh
nghĩ thầm - Nhưng cũng còn may vì nó không bắn tới sớm hơn, lúc mình đang ở dưới
gầm cầu. Cùng với thời gian, tất cả các chuyện ấy của chúng ta sẽ được sắp xếp giải
quyết tốt đẹp hơn (... ) Nhưng này, có lẽ dù sao cũng làm việc ấy đi, vì nếu mình mê
man, mình sẽ không đối phó được, chúng nó sẽ bắt mình và sẽ nêu ra với mình những
câu hỏi, đủ mọi câu hỏi, cũng sẽ làm đủ mọi trò, và như thế sẽ rất tồi tệ. Cậu sẽ khó
đối phó đấy. Nhưng có ai đối phó giỏi với những chuyện ấy được ? Mình không biết,
mà cũng chẳng muốn biết. Nhưng cậu sẽ khó khăn đấy. Riêng với cậu sẽ hoàn toàn
khó khăn. Hoàn toàn khó khăn, hoàn toàn. Theo mình thì đã đến lúc làm việc ấy rồi.
Còn theo cậu thi thế nào ? Không, chưa đến lúc đâu. Vì cậu còn có thể làm việc nọ
việc kia. Cho tới lúc cậu biết rằng cậu cần phải làm cái việc ấy. Chừng nào cậu còn
nhớ rằng cái chuyện ây, cậu còn phải chờ đã. Anh em cứ rút đi ! Cứ cho họ rút đi ! Cứ
cho anh em rút đi !
3.2.3.12.Nhân vật của Hemingway khi đối diện với cái chết, họ bộc lộ khả năng,
phẩm chất đạo đức của mình. Bản thân cái chết được hiểu theo hai cách. Có những cái
chết thực và cũng có những cái chết ảo. Catherine chết khi sinh con, Jordan hi sinh vì
nhiệm vụ là những cái chết thực. Trong khi đó có thể coi cái chết của Jakc là cái chết
ảo. Anh vẫn sống nhưng không còn nguyên vẹn thiên chức của người đàn ông nữa bởi
bất lực. Cũng có thể coi nhân vật Henry còn sống mà như đã chết vì những tác hại của
chiến tranh, vì vỡ mộng, vì tình yêu đã chết và vì cô độc. Hiện tượng này là cơ sở để
Hemingway lí giải: "Người dũng cảm hẳn phải chết cả ngàn lần nếu anh ta thông
minh". Trước khi đối diện với cái chết, biết bao khía cạnh tình cảm, đạo đức, đã chết
trong tâm hồn nhân vật Henry. Ngoài ra còn có những cái chết ngầm hiểu khi nhân vật
không bảo vệ được thanh danh của mình. Nghĩa là khi nhân vật là đấu sĩ, thì anh phải
đâm chết bò. Là người đi câu, thì anh phải bắt được cá. Là người lính, anh phải chiến
thắng kẻ thù....Nếu không làm được điều đó, không bảo vệ được thanh danh của mình
thì cũng bị coi như đã chết, theo quan niệm của người hùng. Romero - tay đấu bò lừng
danh gọi những chú bò mộng là bạn bởi chúng là những sinh vật can đảm, dám chết
để giữ danh hiệu bò mộng. Nhưng anh vẫn phải giết chúng để cho mình sống.
Santiago luôn day dứt trọng suốt cả hành trình câu cá của lão: "Nghề câu cá hại mình
y hội như thể nó nuôi sống mình." Tuy con cá là bạn thân thiết của ông lão, nhưng do
làm nghề câu cá nên lão buộc phải giết nó để bảo vệ danh hiệu, sự sống của mình. Và
Jordan, lại càng cay đắng hơn. Anh phải giết chính những người Tây Ban Nha: Trong
số những người mày giết có bao nhiêu đứa thực sự là phát xít ? - Không nhiều. Song
bọn chúng đều là kẻ thù, Chúng ta phải dùng sức mạnh để chống lại chúng. Nhưng
mày yêu người dân vùng Navara hơn bất kì nơi nào khác ở Tây Ban Nha. Đúng. Mà
mày vẫn giết họ". [4,109]
3.2.3.13.Tình yêu trong tác phẩm của Hemingway luôn là khát khao, là tình cảm
đẹp nhất mà mỗi nhân vật hướng đến. Dù cho Jake, Brett, Henry, Catherine, Maria
vàiordan có được sống trong trong những khoảnh khắc ngắn ngủi của tình yêu thật sự,
thì cuối cùng, kết qua của những tình yêu ấy là chia li, tan vỡ,là mất mát, hi sinh. Giấc
mơ về hạnh phúc như một lâu đài xây trên cát,bởi lẽ hạnh phúc không tồn tại song
hành cùng chiến tranh.
Tóm lại: Đề tài về chiến tranh, lình yêu, hạnh phúc, cái chết, như đan bện nhau
trong tiểu thuyết của Hemingway. Qua độc thoại nội tâm, những suy nghĩ thầm kín
nhất của nhân vật bộc lộ sâu sắc thái độ sống, thái độ chịu đựng những mất mát, bất
hạnh mà con người vẫn luôn hứng chịu. Mỗi nhân vật trong những cảnh đời riêng, đều
se sắt chịu đựng số phận theo cách riêng của mình.
Bằng sự tìm tòi nghệ thuật của mình, nhất là độc thoại nội tâm, Hemingway đã
làm cho những tư tưởng của ông đạt tới sức sống của nó trong lòng người đọc và quan
trọng hơn ông đã sáng tạo nên những chuẩn mực đẹp trong suy nghĩ và hành động của
nhân vật.
Độc thoại nội tâm của Hemingway rất đa dạng và độc đáo. Là một nghệ sĩ bậc
thầy, Hemingway với những kĩ xảo độc thoại nội tâm đã gây được tiếng vang đối với
các nhà văn đương đại. Bằng thủ pháp nghệ thuật này, Hemingway phần nào lí giai
dược mối quan hệ giữa một con người với tất cả mọi người. Nói chính xác hơn là mối
quan hệ giữa con người và xã hội. Tài năng của ông là ở chỗ, Hemingway không tái
hiện dòng tâm tư của con người theo một chiều, mà ông nhìn thấy tất cả những dạng
phức, những mâu thuẫn không dễ gì lí giải. Nhờ điều ấy mà "Tảng băng " nghệ thuật
của ông cứ trôi mãi cùng những trăn trd của con người về chiến tranh, tình yêu, lẽ
sống...
CHƯƠNG 4: ĐỐI THOẠI – ĐỘC THOẠI NỘI TÂM VÀ
NHỮNG THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC KHÁC
4.1.NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT TIÊU THUYẾT CỦA
HEMINGWAY
4.1.1.Tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XX vẫn đang là một hiện tượng động, khó
nắm bắt,với những kĩ.thuật hiện đại và mới mẻ. Khi người ta kêu la về sự khủng
hoảng của liều thuyết, cái chết, cũng là khi xuất hiện những dâu hiệu sinh thành, phái
triển và đổi mới của no'.. Sự đổi mới chỉ có thể hiểu được trong mối liên hộ so sánh
với truyền thống. Giữa chúng không chỉ có sự khác biệt, mà những yếu tố truyền
thống luôn tồn tại song song bên cạnh sự đổi mới. Chẳng hạn như nghệ thuật độc
thoại nội lâm không phải lần đầu tiên xuất hiện ở thế kỉ XX, tiêu biểu ở các tiểu thuyết
của Hemingway,mà đã xuất hiện từ nhiều thế kĩ trước. Điều đáng nói ở đây,chính là
liều lượng khác thường của nó. Những sáng tạo về hình thức của độc thoại nội tâm
đưa đến những chất lượng mới. Từ đó chúng ta khẳng định, những đổi mới về nghệ
thuật độc thoại nội tâm ở liều thuyết của Hemingvvay.
4.1.2Cốt truyện: Khi nghiên cứu thi pháp, chúng ta thường quan niệm, tiểu
thuyết khác với truyện ngắn ở độ dài, sức chứa của nó. Nhưng cũng không vì thế mà
chúng ta cho phép đơn điệu hóa hành động của nhân vật đến mức thủ tiêu cốt truyện.
Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh cốt truyện, khi phân biệt tiểu thuyết và
thơ. Truyện có thể tóm tắt được nhờ cốt truyện. Trong khi đó thơ nếu tóm tắt, thì chỉ
là một ẩn dụ bao la về một ý nghĩa nào đó.
Trước đây, khi muốn tóm tắt một tác phẩm tự sự, chúng ta thường phải dựa vào
cốt truyện. Mà cái thúc đẩy diễn biến cốt truyện, chính là hành động của nhân vật. Với
Hemingway,ở.nhiều tác phẩm, hành động cốt lõi rất đơn giản, chỉ còn lại những động
tác, nói năng, nên truyện dường như không có cốt truyện. Hành động chính trong
"Ông già và biển cả" chỉ còn lại là cuộc săn tìm một con cá, cuộc đối thoại với trời,
mây, biển cả hoặc với chính mình. Ở "Giã từ vũ khí" hoặc "Mặt trời vẫn mọc" cũng
vậy. Trong thư cảm ơn Viện hàn lâm khoa học Thụy Điển đọc tại lễ trao giải Nobel
năm 1954, Hemingway viết :"Nhà văn phải viết ra điều anh ta muốn nói chứ không
phải nói ra điều ấy." [80,151] Ông là nhà cách tân lớn, luôn tìm tòi một lối đi mới cho
riêng mình.
4.1.3.Hemingway không bao giờ chủ trương chồng chất các sự kiện, các biến cố,
các hoạt động của nhân vật. Nhà văn thường lấy trạng thái tâm lí làm đối tượng miêu
tả. Ông xây dựng tác phẩm trên cơ sở dõi theo các diễn biến của ý thức nhân vật. Do
đó trong tác phẩm của ông, thường vắng bóng cốt truyện, hiểu theo nghĩa truyền
thống, nên khó nắm bắt.
4.1.4.Cách thể hiện tâm lí trong tiểu thuyết của Hemingway có nhiều biểu hiện
khác biệt so với sự thể hiện tâm lí ở các nhà văn thế kỉ trước. Đó là khuynh hướng gợi
mở nhiều hơn là tả và phân tích. Nhà văn tránh không dùng lời miêu tả hoặc bình luận
về cấc nhân vài. Người kể chuyện hầu như không bộc lộ thái độ tình cảm của minh mà
trung hoa, thản nhiên trước hiện tượng mô tả. Thâm chí, người kể chuyện không hề
nhận xét, binh luận,về cách xử thế của nhân vật. Do đó, nếu độc giả có thói quen chờ
đợi sự mách bảo của người kể chuyện, sẽ không (.hể hiểu được chiều sâu trong từng
nhân vật.
Ngôn từ người kể chuyện trong tác phẩm của Hemingway chẳng những bị trung
hòa, phi tính cách, mà ngôn từ của nhân vật có khi cũng giống như mã số cần tìm cách
giải, đòi hỏi sự tỉnh táo và mẫn cảm của người đọc. Gần như trong những câu chuyện
của Hemingway, "tấn kịch diễn ra bên dưới đối thoại " ( A. Môroa ) Nhà văn thường
ẩn đấu thái độ của mình bên dưới lời đối thoại của nhân vật. Nhiều khi ngay lời nhân
vật củng là một ẩn số.
Do đó, đọc văn Hemingvvay thường không phải trên những dòng chữ, mà đọc
giữa hai dòng chữ, giữa khoảng màu trắng. Đó chính là những quãng lặng trong ngôn
từ.
4.1.5.Nếu ở tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được thể hiện trong chiều dài của
thời gian, như '"Một kiếp người” của Môpaxăng, thì nhân vật của Hemingway có tính
chất đứt đoạn. Nhân vật chỉ còn một mảnh, không có chất keo liên kết giữa qua khứ,
hiện tại và tương lai, nhân vật thường chỉ mang tính gợi hơn tả. Thế giới nhân vật ấy
được nhà văn thể hiện qua lối viết, với giọng văn nhát gừng, những câu đứt đoạn,
chỏng lỏn.
4.1.6.Khi được hỏi về cách đặt tên cho tác phẩm, Hemingway trả lời: "Tôi đưa ra
rất nhiều nhan đề sau khi câu chuyện hoặc cuốn sách đã được hoàn thành. Thỉnh
thoảng con số nhan đề có khi lên đến một trăm. Tiếp đó là thao tác loại bỏ, song nhiều
lúc tôi không sử dụng một cái nào trong số đó " [ 34, 95 ]. Vì vậy, ngay từ tựa đề của
tác phẩm đã rất đa nghĩa, nội hàm của nhan đề phải được xác định kĩ qua văn bản.
Độc giả không dễ dàng hiểu hết các lớp nghĩa từ nhan đề. Chẳng hạn như "A Farewcll
lo Arms" ( Giã từ vũ khí ) hay "Soldier' s home" ( Nhà của lính ). "A Fareweli to
arms" có thể dịch theo hai cách : "Già từ những vòng tay" và "Giã từ vũ khí". Để chọn
một trong hai nhan đề, người đọc phải dựa vào đề tài của tác phẩm. Đó là sự đan xen
giữa tình yêu và chiến tranh, ở đây tình yêu còn là biểu tượng của những khát vọng
đời thường, mang giá trị nhân bản nhất. Chiến tranh lại hiện thân cho nhân tố vô đạo,
phủ nhận, tàn phá hạnh phúc của con người. Nhan đề của Hemingway đã dùng dạng
kép hình tượng này, tạo nên sự trường nghĩa. Trong khi ấy "Soldier's home" ta có thể
dịch theo ba cách : "Khi người lính trở về", " Nhà của lính" và "Người lính ở nhà".
Tác phẩm kể về anh lính trẻ tên là Krebs, từ chiến trường trở về, vỡ mộng do bao nỗi
kinh hoàng của chiến tranh. Chán chường về thời cuộc, anh lạnh lùng trước sự quan
tâm, thương yêu của người thân là cha mẹ và em gái. Thậm chí anh còn dửng dưng
với cả chính mình. Truyện ngắn này được xem là khỏi đầu của tiểu thuyết "Mặt trời
vẫn mọc". Hành động của Krebs có nét tương đồng với Jake, chỉ khác là Krebs chịu
đựng sự lưu đày ngay trong ngôi nhà của mình.
Căn nhà của anh vừa mang ý nghĩa thực, vừa là căn nhà hư ảo của những ám
ảnh. Nó đồng nghĩa với chốn ngục tù, giam cầm con người, kéo lê những chuỗi ngày
ảm đạm. Cũng như Jake trong "Mặt trời vẫn mọc", người lính Krebs vô gia cư ngay
trong tổ ấm của mình. Câu chuyện không hề nhắc đến chiến tranh, nhưng thái độ bất
thường, đáng thương ấy, đã nói lên bao điều, bao tầng ý nghĩa sâu xa. "Nhà của lính"
bao hàm thái độ mỉa mai và châm biếm, những tác hại của cuộc chiến tranh gây ra cho
con người. Nhan đề "Chuông nguyện hồn ai " đưa ra một sự nghi vấn và đã mở ra
nhiều cách hiểu cho tác phẩm. Các nhan đề "Một nơi sạch sẽ, sáng sủa "Cuộc đời
hạnh phúc ngắn ngủi của Franxix Macombơ "... cũng chẳng đơn giản gì hơn. Ngoài ra,
Hemingway còn cố ý thể hiện quan niệm triết lí ngay từ nhan đề, như "Con người của
thế giới "Sự trở về của thương gia "Mẹ của gã Pê Đê:. Khi tác gia cố ý dùng sở hữu
cũng là khi mọi gia trị hoặc mất mát, hoặc đổ vỡ, hoặc không còn gia trị. Có thể nói
nhan đề của các tác phẩm được Hemingway chọn lựa kĩ lưỡng biết chừng nào, và điều
đó rất phù hợp với thi pháp tiểu thuyết của ông. Đó là đằng sau những vấn đề tưởng
như đơn giản nhưng lại ẩn chứa các tầng ngữ nghĩa, mà lũy thuộc vào trình độ của
từng độc giả, sẽ cảm nhận được những thông điệp khác nhau.
4.1.7.Hemingway - trong cuộc sống cũng như trên trang viết, ông là người không
bao giờ nói hết. Bằng cách đồ xuất nguyên lí " Iceberg " (Tảng băng trôi), ông đã
dùng hình lượng "tảng băng" để nói lên dụng ý của mình trong sáng tác. Khi trả lời
câu hỏi của nhà báo Xô viết "Tôi muốn viết theo nguyên lí của lảng băng trôi. Với
một phần lộ ra của nó, có bẩy phần chìm dưới nước. Đó là phần gốc của nó và phần
gốc này đem lại sức mạnh và năng lực cho phần ngọn mà người ta thấy được. Anh
biết được càng nhiều bao nhiêu, phần dưới nước càng lớn bấy nhiêu thì băng đảo của
anh càng mạnh bấy nhiêu."
Về mặt lí thuyết, chỉ có bấy nhiêu từ cho một quan niệm sáng tác. Thế nhưng,
Hemingway đã phải lao tâm khổ trí đến dường nào để làm được điều đó. Để một tác
phẩm với bề ngoài rất đơn giản nhưng những điều ẩn dấu đằng sau, dưới những hàng
chữ là cả một mạch ngầm tuôn chảy đến vô cùng. Macket, nhà văn lớn của Châu Mĩ la
tinh phát biểu : "Điều tôi thích hơn cả ở Hemingway là những lời khuyên của ông về
nghề văn, ông không đưa ra những bài học về phong cách hay triết học ... ông dạy kĩ
thuật làm văn, lời khuyên của ông thật tuyệt. Một trong những lời khuyên đó có liên
quan đến núi băng. Ông cho rằng, một truyện ngắn nhìn rất đơn giản, nếu đứng vững
được không phải nhờ cái vẻ bề ngoài mà nhờ tất cả những thứ ẩn dấu đằng sau, trong
các dung lượng chứa đựng một khối lượng khổng lồ những tài liệu, thành phần thiết
yếu để viết nên một truyện ngắn." [33,98] Để diễn tả được "phần ngầm dưới nước",
"thứ ẩn giấu đằng sau", cái sườn không thấy được của tác phẩm, nhà văn phải xử lí
thêm bớt từng chi tiết, người đọc phải tự ihấy những sì nhà văn bỏ qua đó.
Thực ra không phải đến khi Hemingway đề xuất phương pháp tảng băng trôi,
chúng ta mới thấy sự xuất hiện một cách viết mới, mà trước đó, ở một số nhà văn, dù
không gọi tên ra, nhưng họ ý thức rất rõ về điều này. R. Barthis cũng từng xác định
"Không có tác phẩm lớn nào mà lại giáo điều cả" (giáo điều ở đây có nghĩa là đơn âm
- theo giáo SƯ Đặng Anh Đào giải thích) và khẳng định "Sự sống của lác phẩm không
nằm trong thông điệp của tác phẩm, mà nằm trong hệ thống tín hiệu của nó".
Điều đó nói lên rằng, quan hệ giữa "cái nói ra" và "cái được nói ra", không phải
là quan hệ dẳng lập, mà dằng sau cái nói ra, là bao điều tiềm ẩn, lẩn khuất, đòi hỏi ở
người đọc phải có một trực giác thật tinh mới thấy. Khi người đọc đồng sáng tạo với
lác giả, cũng là khi tác phẩm được nới thêm rất nhiều cả về bề rộng lẫn bề sâu. Và đó
cũng là lức độc giả chiêm nghiệm được bao điều sâu sắc về cuộc sống phức tạp mà
mình đang sống. Binkesbcheine thật xác đáng khi đánh giá tác phẩm của Hemingway
: "Bên ngoài thì đơn giản, bôn trong thì phức tạp, chính xấc mà đa nghĩa, rõ ràng mà
đi vào chiều sâu, cô đọng như ngôn ngữ điện tín mà đầy ý ngầm và chất thơ, nhưng
không phải đã lộ ra ngay lức khắc".
Khi nói về yêu cầu đổi mới của kết cấu tác phẩm trong tiểu thuyết, Bakhtin đã
chỉ ra: "Cái phạm vi của thế giới được thể hiện, làm biến đổi thể loại và thời kì phát
triển của văn học, một cách hợp lí. Nó được tổ chức theo những cách thức khác nhau,
và được giới hạn trong không gian và thời gian một cách đặc biệt. Cái phạm vi này
mang trong nó những nét rất đặc biệt".
4.1.8.Kết cấu tác phẩm thường để mở, hiểu theo nghĩa có thể có nhiều cách lí
giải khác nhau, lạo nen tính đa nghĩa. Câu mở đầu tác phẩm thường có ý nghĩa quyết
định, và cổ thể nói, hầu hết các tác phẩm của Hemingway đều được nới ra từ những
đoạn nhỏ ban đầu. Những dòng đầu trong bốn quyển ở tiểu thuyết "Giã từ vũ khí " đã
phần nào báo hiệu những đổi thay trong cuộc đời trung úy Henry: "Vào cuối hạ năm
ấy chúng tôi đóng quân trong một ngôi nhà ở mội làng trông sang sông " [2.7] "Chúng
tôi đến Milan vào lúc sáng sớm, một chiếc xe cứu thương đưa lôi đến bệnh viện Mĩ "
[2.129] "Trời sang thu, cây trơ trụi lá và đường xá đầy bùn. Từ Udine tôi đi ô tô đến
Gorizia. [2.259] và cuối cùng "Đến Milan tôi nhảy khỏi xe lửa, khi nó chạy chầm
chậm vào ga. Trời hãy còn sớm và mờ mờ. Tôi vượt qua đường sắt và sau khi lách
qua hai dãy nhà lớn, tỏi đi xuống phố " [2, 379]. Những đoạn kết thường để lại những,
suy nghĩ, trăn trở nơi độc gia. Như ở "Mặt trời vẫn mọc" : "Chúng tôi nép bên nhau.
Tôi quàng lấy nàng, nàng tựa vào tôi êm ấm. Trời rất nóng và sáng, nhà cửa trông
trắng loáng. Chúng tôi rẽ vào Granvia".
"Ôi, anh Giếc!" - Brét nói - "Lý ra chúng ta đã có thể có nhũng giây phút sung
sướng bên nhau".
(...) "Ừ - tôi nói - " Nghĩ như vậy then lừ đẹp".
Hình thức, lời lẽ của hai nhân vật Brét và Giếc cho phép người đọc có thể có
những cách hiểu khác nhau. Nếu căn cứ vào hình thức, ta thấy họ đang tràn trề hạnh
phúc. Nhưng nếu lắng nghe những lời tiếc nuối của nhân vật, ta có thể xem như họ
đang phai hứng chịu nhiều đổ vỡ trong cuộc đời.
Với "Ông già và biển cả", những câu kết thúc tác phẩm để lại ấn tượng về ý chí
và nghị lực của con người, qua nhân vật Santiago "Ở đằng kia, phía trên dốc, trong túp
lều nhỏ, lão già lại đang ngủ say. Lão vẫn nằm sấp như thế mà ngủ và thằng bé lẳng
lặng ngồi đợi một bên ... Lão đang mơ thấy đàn sư tử".
4.1.9.Không gian cùng với thời gian làm nên hình thức tồn tại của thế giới con
người. Không gian nghệ thuật là hình tượng không gian trong tác phẩm. Ở đây có sự
không trùng khít giữa không gian hiện thực và không gian nghệ thuật. Có tác phẩm
dài hàng ngàn trang, nhưng chỉ kể lại những sự kiện xảy ra trong có mấy chục tiếng
đồng hồ như trưòng hợp tiểu thuyết "Ulysses" của J. Joyce hoặc ngược lại. Không
gian ở đây không phải chỉ là "bối cảnh " cho tác phẩm. Chính không gian là một yếu
tố vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính nội dung, biểu đạt chủ đề tư tưởng của tác
phẩm. Hemingway đưa vào tiểu thuyết những không gian đổi thay liên tục, thể hiện sự
bất ổn, nỗi dằn vặt, lo âu của nhân vật, trong việc loay hoay đi tìm một nơi thích hợp
để sống. Đó là những nhà ga, những quán rượu, khách sạn ...Trong tiểu thuyết "Mặt
trời vẫn mọc" nhóm Brett, Jake di chuyển liên tục từ nơi này đến nơi khác. Các địa
danh xuất hiện nhiều lừ quán "Cale select", "Cafe Napolitian" đến các tiệm ăn khác
nhau. Tất cả đều diễn ra hỗn độn, quay cuồng. Họ kéo nhau từ nơi này đến nơi khác,
ra đi rồi lại quay về. Họ bế tắc, dù có cố gắng chuyển di tìm kiếm. Cuối cùng chẳng
nơi nào mang lại sự bình yên cho mỗi con người. Tác phẩm khép lại bằng khởi đầu
mội cuộc hành trình mới đi về vô định. Một lễ hội nữa bắt đầu ? Ánh sáng loé lên lúc
trưa hôm ấy và con đường trước mặt chưa hẳn đưa họ đến nơi bình an ? Những con
đường nối liền từ khách sạn đến quán bar, và những dòng sông đưa nhân vật đến
những xứ sở của hư vô và bóng tối. Đến "Ông già và biển cả" không gian duy nhất là
thiên nhiên mặt biển đứng yên, ngưng đọng với dạng vẻ bao la mênh mông của nó.
Không gian ở đây vận hành theo tay chèo, cánh buồm của ông lão, đến khi hết bị cá
kéo, ông lão lại lôi con cá vào bờ. Không gian rộng mênh mông, sâu hun hút chỉ càng
làm cho con người thêm cô đơn, trống trải. Hay không gian chiến trường, bệnh viện,
khách sạn trong "Giã từ vũ khí " chỉ gây cho ta cảm giác tạm bợ, bài an,của những con
người đang tồn tại vất vưởng nơi đó. Người đọc dễ dàng nhận ra với Hemingway, dù
không gian nghệ thuật được xây dựng với đụng ý như thế nào ? Dù không gian đổi
thay liên tục,con người vẫn bế tắc. Dù không gian hẹp hay rộng,thì con người cũng
không làm chủ được nó. Sự đổi mới của Hemingway trong việc lấy những không gian
bất thường để khái quát thành những nỗi đau, những nỗi ám ảnh của những con người
thuộc "chủ nghĩa xê địch ".
4.1.10.Thời gian là một vấn đề được lưu ý đặc biệt trong nghệ thuật kể chuyện.
Bởi lẽ khi nói đến thời gian, người ta cho rằng đó chính là nghệ thuật xếp đặt những
chuỗi tình tiết, hoặc nghệ thuật trình bày các sự việc trong mối liên hệ với thời gian.
Trong sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây, thời gian có một ý nghĩa đặc
biệt, Giectrut Xten ý thức được nhu cầu đổi mới cách thể hiện thời gian "Công việc
của nghệ thuật là sống trong hiện tại", bà có tham vọng bỏ thời gian quá khứ trong
truyện của mình, chỉ còn giữ lại những cận cảnh. Clot Ximông, nhà tiểu thuyết mới,
được giải Nobel năm 1985, tuy không phát biểu trực tiếp về lí ỉuận,song ông rất quan
tâm đối với yếu lố thời gian trong tác phẩm " Tôi bị ám ảnh bởi hai điều : tính chất đứt
đoạn, dáng vẻ không liền mạch của những xúc động, thường cảm thấy và không liên
hệ với nhau. Đồng thời là tính liên tục của chúng trong ý thức. Câu văn của tôi gắng
biểu đạt mối tiếp cận ấy. Việc sử dụng động tính từ hiện tại cho phép tôi thoát ra ngoài
thời gian qui ước".[56, 71]
Bakhtin trong "Anh hùng ca và tiểu thuyết" đã nêu lên hai đặc trưng về thời gian
trong tiểu thuyết hiện đại là: "Sự biến đổi tận gốc những bố trí về thời gian của những
hình tượng văn học trong tiểu thuyết" và "tiểu thuyết tiếp xúc tối đa với cái hiện tại
trong sự chưa kết thúc". Có lẽ những chữ ấy đã nêu lên được đặc ương thời gian, tính
chất mở của nó thường tiềm tàng trong tiểu thuyết. Chủ ý của Bakhtin là xoáy vào
dòng chảy của thời gian và tăng thêm cảm giác về thời gian hiện tại. Trong tiểu thuyết
"Giã từ vũ khí" mối ám ảnh về thời gian hiện tại được nhà văn thực hiện bằng một lát
cắt, kết thúc khi Cathơrin chết "chẳng khác gì tôi nói lời vĩnh biệt với một pho tượng.
Một lát, tôi ra ngoài và rời bệnh viện và tôi trở về khách sạn dưới mưa". Bên cạnh đó
Hcmingway còn sử dụng kĩ thuật diện ảnh, kết cấu thời gian theo những "scene". Đối
thoại, độc thoại nội tâm và những đoạn kể chuyện bị ngắt quàng, liếp nối đột ngôi.
Thời gian sự kiện trong tác phẩm có dài mấy, thì cách kể này vẫn tạo nên cảm giác
ngưng đọng, căng thẳng đầy ám ảnh.
Thế kỉ XX này chứng kiến nhiều lối viết đòi hỏi sự đồng sáng tạo của người đọc.
Như kết cấu lắp ghép, nghệ thuật cắt dán trong tiểu thuyết Kafka, Aragông... cùng với
nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật, hành động không hề được bồi đắp, giải thích chiều
dày nội tâm ở Hemingway hoặc nói rộng ra nguyên lí "tảng băng trôi " của ông, nghệ
thuật độc thoại nội tâm và dòng tâm tư ở nhiều tác giả, tất cả đều đòi hỏi khả năng
đồng sáng tạo của người đọc.
4.2.ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI NỘI TÂM VỚI BÚT PHÁP TƯỢNG
TRƯNG, HÀI HƯỚC
4.2.1. Đối thoại, độc thoại nội tâm với bút pháp tượng trưng
Hemingway, nhà văn với bút pháp đa dạng,nổi bật là bút pháp tượng trưng và
hài hước. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa về tượng trưng: "là một hình ảnh chứa
chất ý nghĩa không đơn thuần là nghĩa đen, nghĩa nôm na không đơn thuần thay thế
cho điều gì đó, nó vừa là bản thân nó, vừa là điều gì đó mà nó gợi ra khá phong phú,
mội thứ biểu hiện của điều gì đó quá phức tạp hoặc qua chàng màng không thể bộc lộ
được bằng cách nào khác". Trong tiểu thuyết của mình, Hemingway thường dùng
những biểu tượng đa nghĩa, không tham gia vào cốt truyện và hành động nhân vật,
nhưng nó giãi bày được nhiều suy nghĩ của tác giả về cuộc đời và nâng tác phẩm lên ý
nghĩa triết học và tượng trưng.
4.2.1.1.Bóng đêm: nhân vật của Hemingway thường rất sợ bóng đêm bởi nó là
hiện thân của những mất mát, đổ vỡ. Bóng tối thường đồng nghiã với chết chóc.
Catherin chết trong căn phòng lạnh lẽo, trong ánh điện yếu ớt của bệnh viện và khi
Henri tắt đòn thì bóng tối ngập tràn. Henri trở về khách sạn trong bóng đêm, xuyên
qua màn mưa. vSantiago ra đi trong đêm, mất con cá trong đêm và cũng quay trở về
trong đem. Với Brett va Jake lần đầu tiên gặp gỡ trong đêm, để rồi đến khi Brett bỏ đi
với anh chàng Romero cũng trong bóng đêm. Sự gặp gỡ, chia lia, niềm bất hạnh, hành
trình xuyên qua đêm tối của các nhân vật, chẳng bao giờ mang lại điều may mắn.
4.2.1.2.Những cơn mưa: bên cạnh bóng đêm, Hemingway thường chọn những
cơn mưa làm ẩn dụ. Mưa kéo dài suốt tác phẩm và xuất hiện lúc nào là sự bất hạnh
của con người bắt đầu từ đó, kéo dài theo cơn mưa trong suốt tác phẩm trong "Giã từ
vũ khí". Cơn mưa vừa dầm dề, vừa dai đẳng, ngay từ chương 1. Nó xuất hiện như một
điềm gở báo trước "mùa đông đến, những cơn mưa dai dẳng trút xuống, và khi cùng
với mưa là bệnh tả". Cơn mưa mùa đông làm cỏ cây thôi rữa, đường sá, chiến hào lầy
lội và bệnh tả một lúc giết chết 7000 người. Catherin rất sợ mưa, nghe tiếng mưa là cô
thảng thốt, giật mình ngay cả khi nằm bên cạnh người yêu. Trong những khoảnh khắc
hạnh phúc thật ngắn nư,ủì, nàng thú nhận "vì đôi khi em thấy chết chóc ơi đó. Và có
lúc em thấy anh chết trong mưa". Khi tiễn người yêu ra mặt trận, Catherin đứng ở ga,
cơn mưa lại xối xả. Bóng tối và cơn mưa xuất hiện trong tiểu thuyết Hemingway, như
một sự bổ sung, để nói lên tâm trạng bất ổn của nhân vật. Nhân vật trong tiểu thuyết,
dù cố gắng vùng vẫy, thì bao trùm lên số phận họ, vẫn là một màn đêm bao phủ. Và
cơn mưa dù rả rích hay xối xả vẫn làm cho tâm hồn họ buốt gia.
4.2.1.3.Hình ảnh mái tóc: những nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Hemíngvvay
được nhà văn chú ý đặc biệt một nét ngoại hình, đó là mái tóc. Mỗi nhân vật nữ được
đặc tả mái tóc khác nhau. Mái tóc của Bret trong "Mặt trời vẫn mọc mái lóc của
Catherin trong "Vĩnh biệt vũ khí ", mái tóc của Maria trong "Chuông nguyện hồn ai
Nhà văn có chủ đích khi ca ngợi mái tóc Catherin, qua ngôn ngữ của Henri "Tôi thích
gỡ tóc nàng ra. Nàng nằm trên giường không động đậy. Tôi lấy những chiếc cặp đặt
lên ra giường. Tóc nàng buông xuống và tôi ngắm nàng nằm lòn bên mép giường. Lúc
tôi rút nốt hai chiếc cặp cuối cùng, lóc nàng xòa lung ra, và nàng ngả đầu xuống và
chúng tôi vùi mình xuống dưới lớp dạ cơ hồ như một cái lều hay một ngọn thác. Nàng
có bộ tóc lộng lẫy và tôi thường ngắm nàng cuộn tóc trong ánh sáng mờ từ ngoài cửa
sổ lọt vào, ngay cả ban đêm tóc nàng cũng óng ánh như mặt nước ốnh ánh như mặt
nước óng ánh cho đến lúc trời mới rạng đông" [2,84]. Nếu mái tóc dài của Catherin
tượng trưng cho hạnh phúc khi gặp và yêu Henry, thí cũng mái lóc ấy, năm trước, khi
người yêu cũ chết, nàng định cắt tóc để tang. Với Catherin, tóc dài tượng trưng cho
hạnh phúc, còn tóc ngắn tượng trưng cho đau khổ. Cô gái chịu nhiều bất hạnh Maria,
bị bọn phát xít cắt tóc và cưỡng hiếp, Maria "trông không còn là một cô gái" nữa,
nhưng khi gặp Jordan, tóc cô đã mọc trở lại. Cô đẹp hơn, trông dịu đàng và quyến rũ
hơn. Hạnh phúc bên Jordan, cô "cảm thấy tóc mình đang mọc, dài trở lại Khi nghĩ về
tương lai, Maria vui mừng nghĩ đến lức tóc cô sẽ dài ra. Ở nhân vật Brel trong "Mặt
trời vẫn mọc mái tóc ngắn nhằm để nói lên tính cách ngang làng, tóc hất ngược ra
đằng sau, đầu đội mũ bêrê, mặc áo quần con trai và xử sự với đàn ông giống như
những người đàn ông với nhau.
4.2.1.4.Không chỉ mái tóc, mà bút pháp tượng trưng còn được Hemingway sử
dụng bằng nhiều hình tượng khác nhau. Trong "Giã từ vũ khí "để minh họa cho quan
niệm của ông về cuộc đời, và những người lính phải tham gia cuộc chiến tranh phi
nghĩa, Hemingvvay đưa ra hình ảnh Henry ngồi bên đống lửa đẩy khúc củi mục đầy
kiến vào ngọn lửa đang rực cháy. Sự hỗn loạn, cùng quẫn, bế tắc và diệt vong tất yếu
của đàn kiến, nhằm tượng trưng cho cuộc đời những người lính như Henry. Đến
"Chuông nguyện hồn ai", bằng hình tượng vòng quay bánh xe, mội lần nữa nhà văn
nhấn mạnh vào sự bế tắc, luẩn quẩn của con người. Tuy nhiên, ở đây vấn dề là sức
mạnh và ý chí của con người quyết thoát ra khỏi cái vòng trùng lặp ấy để giành lấy ý
nghĩa cuộc sống. Trong đêm cuối cùng của đời mình, Jordan nghĩ đến ý nghĩa cuộc
đời mà anh đang dâng hiến: "Người ta nói đến vòng quay của chợ phiên... Đó là một
bánh xe rộng quay trên mội mặt phảng nghiêng. Mỗi lần nó quay một vòng và rồi trở
lại điểm xuất phát. Có một phía cao hơn phía kia. Liên tiếp bánh xe nâng anh lên rồi
lại hạ anh xuống cái chỗ mà anh được nâng lên... Mỗi lần lên cao, người ta quay mà
không hề muốn. Chỉ có một vòng, một vòng tròn elip lên rồi lại hạ xuống và rồi người
ta lại thấy mình ở điểm xuất phát" [5,313]
4.2.2.Độc thoại nội tâm với bút pháp hài hước:
Ảnh hưởng từ Mác Tuên, trong tiểu thuyết của Hemingway cũng thể hiện rõ tính
hài hước. ơ "Gia từ vũ khí " Henri tham gia chiến đấu với tinh thần tự nguyện. Anh
sẵn sàng chịu đựng gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Có những lúc anh tự thấy sự phi
lí của cuộc chiến, nhưng lại tự ru ngủ mình bằng danh dự của người lính Mĩ. Dần dần
thực tế đã cho anh nhận ra, trong cuộc chiến này chẳng có gì là danh dự, là lương tâm
mà anh phải hi sinh. Anh bị thương đúng lúc đang ăn pho mát trong hầm. Nhưng điều
đó lại là công trạng để được thưởng huân chương vì lòng can đảm. Santiago trong
"Ông già và biển cả" mang về đất liền chiến lợi phẩm là một bộ xương cá, đó như một
chiến công lớn nhất của cả cuộc đời đi biển của người ngư dân. Hoặc ông lão luôn tự
nhủ "chẳng một ai phải cô đơn trên biển" thì trong tác phẩm vẫn cứ hiện diện một ông
già cô độc. Tấn bi hài kịch, sự mỉa mai ở đây càng làm tăng thêm nỗi bi đát của
Santiago.
Trên đây là mội số biểu hiện của những yếu tố tượng trưng và hài hước. Tuy
nhiên, nhà văn sử dụng những yếu tố này để chuyển tải những nội dung của các tác
phẩm, một cách khéo léo và tinh vi. Nhưng nếu gọi Hemingway là nhà văn tượng
trưng hay hài hước là hoàn toàn không thỏa đáng.
KẾT LUẬN
1.Việc nghiên cứu Hemingvvay từ trước đến nay đã có rất nhiều ý kiến khác
nhau. Hiện lượng Hemingway, cả cuộc đời và sáng tác đang còn rất nhiều tranh cãi.
Do vậy, những suy nghĩ của chúng tôi chỉ như một hợp âm, góp thêm vào dàn hợp ca
vốn đã rất nhiều bè. Mong muốn nhỏ bé của chúng tôi là nghiên cứu sự phức tạp ngay
trong cái giản dị. Đến với những văn bản đa thanh để tìm sự giao thoa chồng chéo
nhau và giải mã văn bản cuộc đời vốn không bao giờ là dễ hiểu. Illya Ehrenburg đã
nói những lời ca ngợi rất chân thành về tài năng của Hemingway :
"Mỗi khi nhìn lại con đường của mình, tôi thấy có hai nhà văn trong số những
người tôi may mắn được gặp, đã giúp tôi không những giải thoát cho mình khỏi cái
chu nghĩa tình cảm, khỏi những sự biện luận lê thê và những tầm nhìn thiển cận, mà
qua thật còn giúp tôi thở, làm việc và đứng vững được. Đó là Babel và Hemingway.
Con người ở tuổi tôi có thể thú nhận điều đó?'[33].
2.Hemingway, một nhà văn chiến sĩ, tự chọn cho mình một cuộc đời sóng gió.
Ống đối mặt với hiểm nguy, gian khổ để tạo cho mình lòng tin, để gióng lên hồi
chuông nguyện hồn ai, để nói lời giã từ vũ khí, để tin vào mặt trời vẫn mọc, và thể
hiện khí phách hiên ngang của con người trước biển cả. Với một nghệ thuật viết rất
gây ấn tượng, nhà vãn đã gợi mở biết bao vấn đề trong bốn cuốn tiểu thuyết tiêu biểu
của ông. Milan Kundera ca ngợi Hemingway: "Những cuốn sách của ông vừa cúi
xuống tận mặt đất vừa bay lên đến vòm trời nghệ thuật Đó là một thứ văn phong đơn
giản, rõ ràng, có tính ngầm văn ban, đầy các câu đối thoại "băm nhỏ"[33, 294]. Trong
tác phẩm hoàn toàn vắng bóng sự đánh giá của tác giá về những hành động, suy nghĩ
của nhân vạt và những lời bình luận, chú giải. Vì thế, văn phong của ông, từ truyện
ngắn đến liều thuyết thường để mở, có thể có nhiều cách lí giải khác nhau, tạo nên
tính đa nghĩa cho lác phẩm. Einkeschein nhận xét về tác phẩm của Hemingway -."Bên
ngoài thì đơn giản, bên trong thì phức tạp, chính xác mà đa nghĩa, rõ ràng mà đi vào
chiều sâu, cô đọng như ngôn ngữ điện tín mà đầy ý ngầm và chất thơ, nhưng không
phải đã lộ ra ngay tức khắc."
3.Những biện pháp nghệ thuật mà Hemingway sử dụng trong sáng tác nói chung,
và trong tiểu thuyết nói riêng không phải là hoàn toàn mới mẻ, chưa từng xuất hiện.
Nhưng với ông, những biện pháp này, nhất là đối thoại và độc thoại nội tâm đã phái
huy hết ưu thế của mình trong việc thể hiện tâm hồn, tình cảm, tính cách của nhân vật.
Bằng cách cho nhân vật tự bộc lộ qua đối thoại, đặt trường nhìn vào bên trong, nhập
thân vào nhân vật. Hemingvvay nghiễm nhiên trở thành bậc thầy ở hai biện pháp nghệ
thuật này.
4.Mối quan hộ giữa đối thoại và dộc thoại nội lâm giúp người đọc hiểu một cách
hoàn chỉnh hơn, sâu hơn về bản chất con người. Có thể nhận thấy rằng,£con người
theo quan niệm của Hemingway, sống là đấu tranh, con người luôn phải tự đấu tranh
với mình và đấu tranh với thế giới, để tự khẳng định mình. Xuyên suốt trong tác phẩm
là những cuộc đối thoại bên ngoài và bên trong. Chúng luôn song hành cùng nhau, xen
kẽ nhau, đan cài vào nhau. Hemingway triệt éỉể khai thác mối quan hệ chặt chẽ, để đạt
đến chiều sâu của cả hai hiện tượng. Ông đạt đến trình độ điêu luyện trong việc thể
hiện chiều sâu tâm lí của con người.
5.Đặc biệt, Hemingway đã thể hiện tay nghề của mình qua việc mở rộng khuôn
khổ của những đối thoại. Ông đưa ra một cách riêng, khác lạ để nâng cao hơn nữa khả
năng thể hiện của thủ pháp đối thoại đã góp mặt từ rất lâu trong lịch sử vãn học. Bằng
những đối thoại mang vẻ tự nhiên, dung dị trên bề mặt, nhưng lại phức tạp, đa nghĩa ở
bề sâu, Hemingway vận dụng hình thức tiết kiệm đến lối giản của thứ ngôn ngữ điện
tín, để ẩn dấu những ý tưởng sâu sác, những tầng ngầm của vãn bản. Đặc biệt là
những đối thoại ở dạng thô, chưa tinh chế, có vẻ rất khó hiểu với người đọc, nhưng lại
rất trong sáng với người trong cuộc, nhờ ngữ cảnh là cuộc sống thật.
6.Tiến trình sáng lấc của Hemingway là cả một sự chuyển di không mệt mỏi. Bắt
đầu từ đối thoại chiếm ưu thế trong truyện ngắn,sang tiểu thuyết, Hemingway tiếp lục
phát triển nghệ thuật đối thoại, cùng với độc thoại nội tâm. Ông phá tung ranh giới
kiểu ngôn ngữ truyền thống, để tạo ra một thứ ngôn ngữ nhân vật rất riêng của
Hemingway. Bắt đầu xuất hiện dòng tâm tư, yếu tố đồng hiện trong chuỗi ngôn từ của
các nhân vật.
Hemingway có những trăn trở, tìm tòi thử nghiệm nghiêm túc về những điều
muôn nói. Ông theo nguyên lí "Văn học là nhân học Văn học không phản ánh các sự
kiện, mà chủ yếu là khám phá và biểu hiện tâm hồn, tính cách, sức sống của con người
qua những số phận rất khác nhau trong muôn vàn sự kiện xảy ra trong cuộc sống.
Phẩn lớn sáng lác của ông, chứ ý đến số phận những con người trong chiến tranh. Nhà
văn đi sâu vào những bi kịch cá nhân nằm trong bi kịch chung của dân tộc Mĩ ở những
cuộc chiến. Qua những bi kịch ấy, tính cách và bản ngã con người đã được bộc lộ.
Tuy nhiên, dù viết về bi kịch, nhưng cuối cùng tác giả bao giờ cũng đem lại cho người
đọc niềm tin vào cuộc sống và con người.
7.Tiểu thuyết của Hemingway đề cập đến rất nhiều đề tài. Đó là chiến tranh, tình
yêu và câu cá.... Nhưng một đề tài chung nhất là thân phận con người. Đó là những
nỗi đau có thể gụi được tên, và những nỗi đau buốt lạnh trong tâm khảm mỗi thân
phận. Đề lài ấy được gởi gắm trong những nhân vật anh hùng kiểu Hemingway. Họ là
những người luôn quan tâm đến ý chí, nghị lực, và tư cách của con người. Trong chiến
tranh họ" là những người có kỉ luật tốt nhất, lành mạnh nhất. Họ tham gia cuộc chiến
bằng tất cả sức lực và khả năng, nhưng tự trong sâu thắm lâm hổn, các nhân vật không
tán thành chiến tranh đổ máu. Cho dù Jordan tự nguyện tham gia cuộc chiến tranh
chính nghĩa, thì đỏ cũng là việc làm bất khả kháng, giải pháp tình thế mà thôi. Đặc
biệt là cách nhìn của nhà văn về những cuộc chiến.
Hemingway không phơi bày sự tàn khốc của chiến tranh, mà đi sâu vào tâm hồn,
trí tuệ, niềm tin, lí tưởng của họ. Sự cao cả của ý nghĩ, hành động của nhân vật đã
khắc sâu hơn tính chất của mỗi cuộc chiến, họ luôn sống trong ám ảnh bởi những
thương tổn về tâm hồn. Logic của vấn đề là ở đây.
8.Kết cấu tiểu thuyết của Hemingway rất đa dạng, nhiều tầng, nhiều lớp. Quá
khứ và hiện lại dan cài, cỏ khi cả huyền thoại xen lẫn với hiện thực. Giọng điệu cũng
vậy, không chỉ một giọng mà có rất nhiều giọng khác nhau. Có giọng thật dung dị và
trầm tĩnh, có những giọng thô mộc và dân dã (của những người Tây Ban Nha). Đôi
khi xuất hiện những giọng buồn sâu lắng, đắng cay khi nói đến những thân phận.
9.Chủ nghĩa khắc kỉ là một nét đặc sắc trong những sáng tác của Hemingway.
Bôrix Xuskov trong "Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực" đã nhận định:"Chủ
nghĩa khắc kỉ là tư tưởng quyết định sáng tác của Hemingway và quan niệm về thái độ
khclc kỉ đối với cuộc sống đã xuyên suốt mọi tác phẩm của ông."Tâm lí và hành vi
các nhân vật trong tiểu thuyết của Hemingway diễn biến theo tư tưởng chịu đựng
dũng cảm. Con người luôn tự chủ, bình tĩnh, nhẫn nại trong mọi hoàn cảnh. Họ luôn
bình thản sống cũng như bình thản đón nhận cái chết. Chủ nghĩa khắc kỉ còn ảnh
hưởng sâu sắc đến ngôn ngữ đối thoại. Các nhân vật của ông nói năng đơn giản, ngắn
gọn vì bản chất khắc kỉ của họ. Dường như họ không muốn bộc bạch tâm sự, nhưng
đằng sau mỗi chữ là những tâm trạng, những nghĩ suy về cuộc đời một cách rất tự
nhiên. Điều đó làm nên chất tinh tuy trong ngôn ngữ đối thoại của Hemingway. Chủ
nghĩa khắc kỉ cũng qui định sắc thái của độc thoại nội tâm. Trong đoạn độc thoại nội
tâm trước khi Catherin từ gia cõi đời, Henri đã bộc lộ nỗi đau đớn của anh, vì chỗ dựa
duy nhất của đời anh sắp mất. Cõi lòng anh tan nát bao nhiêu thì bên ngoài anh lại che
dấu nó đi bấy nhiêu. Để rồi chỉ một mình anh đơn độc đương đầu với định mệnh. Đến
"Chuông nguyện hồn ai ", độc thoại nội tâm không phải là lúc nhân vật quay về vì bất
bình với thực tại, vì sự cô độc trong sự chịu đựng những đau khổ của cuộc đời. Tác
giả muốn, qua độc thoại nội tâm của nhân vật, nhắc nhở trách nhiệm, thẩm định lại ý
thức và lòng dũng cảm hòng mỗi con người.
10.Chủ nghĩa nhân văn là một vấn đề mà bất cứ nhà văn tiến bộ nào cũng hướng
tới. "Chuông nguyện hồn ai" ỉa tên một cuốn tiểu thuyết của Hemingway được lấy lừ
những câu thơ của nhà thơ Anh thế kỉ XVII John Donne và có kèm theo đề từ :
"Không có người nào là một hòn đảo tự thân hoàn chỉnh, mỗi người là một mảnh của
đại lục, một phần của toàn đất liền; nếu một mảng đất đá bị cuốn phăng vào đại dương
thì châu Âu sẽ nhỏ đi như khi một mũi đất, như khi ngôi nhà của bạn bè anh hoặc
chính anh bị cuốn phăng đi vậy. Cái chết của bất luận một con người nào cũng làm tôi
nhỏ đi bởi tôi hợp nhất với toàn nhân loại, do đó anh đừng bao giờ hỏi chuông gọi hồn
ai. Chuông gọi hồn anh đó". Những câu thơ trên có thể làm đề từ cho tất cả những gì
Hemingway viết ra. Dù thời thế đổi thay và cả cách nhìn nhận về Hemingway cũng
thay đổi. Nhưng ở những sáng tác của ông sẽ trường tồn một giá trị về mối liên hệ
giữa một con người với tất cả mọi người. Đó là chủ nghĩa nhân văn sâu sắc trong
những sáng tác của Hemingway.
11.Chân lí bao giờ cũng giản dị và dễ hiểu, nhưng con đường đến với chân lí
hoàn toàn không đơn giản. Chẳng thế mà giá trị của tiểu thuyết Hemingway phải nhờ
đến sự kiểm nghiệm của thời gian. Thực tế cho thấy, đọc tác phẩm của ông ở những
giai đoạn khác nhau của cuộc đời, người ta sẽ có những cách hiểu, cách cảm thụ khác
nhau. Càng ngày, văn phong của Hemingway càng dược sự mến mộ vì sự giản dị,
ngắn gọn, tự nhiên, vì tính động và sức gợi của nó. Đông đảo các nhà nghiên cứu trên
thế giới thế kỉ XX khẳng định : "Hemingway là bậc thầy về cách kể chuyện hiện đại" (
Osterling ). Sigurl Hoe! cho rằng "Một trong những bí mật của sức quyến rũ trong
truyện Hemingvvay là nói một điều gì đó bằng cách không nói về nó".
12.Cái làm nên sức mạnh bí ẩn trong nghệ thuật của Hemingway là cách nhìn,
cách nghe, và cách khám phá về cuộc đời. Gioocgiơ Sneo nhận định : "ở Hemingway
có cái năng khiếu, cũng giống như khả năng âm nhạc mà tạo hóa đã phú cho Bethôven
hay những điều kiện đễ dàng nào đó đã tạo nện những bức họa tài tình của E.I.
Cireco".[ 160,157] Khi đọc Hemingway, dẫu cho nhà văn có viết về vấn đề gì, dẫu
cho đề tài của anh có phong phú đến nhường nào, thì độc giá sẽ cảm nhận sâu sắc sự
căm ghét cái cô đơn trong con người, nỗ lực thoái khỏi nó, hành động để nối kết con
người. Thậm chí khi hành động đó là tham gia chiến tranh, và có thể cái kết cục hứa
hẹn là cái chết đang chờ đợi họ ở đâu đó.
Nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway, nguyên lí tảng băng trôi, trong đó nổi
bật nghệ thuật đối thoại và độc thoại nội tâm, đang là hướng phát triển của tiểu thuyết
hiện đại. Xu thế tiểu thuyết hướng nội đang thịnh hành và dần dần thay thế tiểu thuyết
truyền thống. Tiểu thuyết thế kỉ XX nhấn mạnh đến sự tương quan giữa con người và
thế giới, mà ở đó thực tại khách quan được dưa vào sự tri giác chủ quan.
13.Grigôri Iakôplêvits Baklanốp đã từng nói: "Những con sóng đơn điệu tràn lên
và rút xuống đều đi qua một cách chóng vánh. Những quá trình diễn ra dưới đáy sâu
sẽ còn âm ỉ mãi với thời gian. Những cuốn sách mà chỉ ra được quá trình đó, ghi lại
mọi lớp tầng trong cuộc sống nhân dân. Những cuốn sách ấy sẽ vượt ra ngoài giới hạn
của thời gian. Nói một cách khác, nó sẽ làm cho tác giả sống nhiều lần với những thế
hệ tiếp nối." [151, 50] Có lẽ chúng ta cũng có thể nghĩ như vậy về Hemingway, cùng
những sáng tác của ông.
15. Do thời gian có hạn, những vấn đề mà chúng tôi nêu ra trong bản luận văn có
lẽ chưa được giải quyết thoả đáng. Chúng tôi hi vọng sẽ có dịp trở lại với đề tài mà
chúng tôi rất yêu thích này, để có thể nâng bản luận văn lên tầm cỡ xứng đáng hơn.
Ngoài một số luận điểm nêu ra trong bản luận văn, theo chúng tôi, còn có thể đi sâu
khai thác thành một luận án như : Nghệ thuật tiểu thuyết Hemingway trong sự đổi mới
nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/TIẾNG VIỆT
A/ TÁC PHẨM VĂN HỌC
1 / Mặt trời vẫn mọc - Bùi Phụng dịch, Nxb Hải Phòng, 1988.
2 / Giã từ vũ khí - Giang Hà Vy dịch, Nxb Mũi Cà Mau, 1987.
3 / Những hòn đảo giữa dòng nước ấm - Nguyễn Trí Lợi địch, Nxb Trẻ, 1988.
4 / Chuông gọi hồn ai - Huỳnh Phan Anh dịch, Nxb VH,1995.
5 / Ông già và biển cả - Huy Phương dịch, Nxb Vh, 1986.
6 / Truyện ngắn Hemingway (2 tập ) - Lê Huy Bắc dịch, Nxb VH, 1998.
7 / Thế giới đàn ông không có đàn bà - Phan Quang Định địch, Nxb Văn nghệ,
1997.
8 / Hạnh phúc ngắn ngủi của Fransix Mắccômbơ -Nxb Tác phẩm mới, TP. HCM,
1986.
9 / M. Tvvain. Tom savvyer and Huckỉeberry Finn, Everyman's library New
York 1968.
10/ Một ngày chờ đợi - Mạc Mạc dịch, sở VHTT Nghiã Bình, 1985.
11/Tuyết trên đỉnh Kilimaniarô - Phan Quang Định dịch, Nxb Văn nghệ, TP.
HCM.
12/ Đỏ và Đen ( lập I, II ) - Xtăngđan, Tuấn Đô dịch, Văn học, sở VHTT Minh
Hải, 1986.
13/ Tấn trò đời - Balzac, Lô Hồng Sâm chủ biên, Nxb thế giới, 1999.
B / BÀI BÁO VÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
14/ Nguyên An - Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài, Nxb văn học, 1999.
15/ Andreev - Văn học Pháp và "ngày tàn thế kỷ", Nguyễn Văn Dân lược thuật -
Văn học và ngôn ngữ học, 1989.
16/ Aragông - Cuộc đời này sẽ trôi qua, TCVH -số 4,1993.
17/ Archibald ( Mađeish ) - Hiểm nghèo là tấm gương soi, văn 41, 19Ố5.
18/ Nguyễn Kim Anh - Văn học Mỹ trên thị trường sách Việt Nam, châu Mỹ
ngày nay số 2, 1995.
19/ Bakhtin ( Mikhain ) - Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết, trường viết văn
Nguyễn Du, 1992.
20/ Bakhtin ( Mikhain ) - Những vấn đề thi pháp Đôxlôiepxki, Trần Đình Sử,
Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch Nxb GD, 1993.
21/ Blacch ( Anlonio ) - Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết "hậu hiện đại",
TCVH số 5, 1991.
22/ Bô- nô- ski - Bối cảnh nền văn học tiến bộ ở Mĩ, VN số 44, 1961.
23/ Lê Huy Bắc - Thế giới nhân vật của Hemingway, TCVH 8, 1995.
24/ Lê Huy Bắc - Nhân vạt và Chúa của Hemingway, Châu Mỹ ngày nay, Số 3,
1996.
25/ Lê Huy Bắc - Đồng hiện trong văn xuôi, TCVH6, 1996.
26/ Lê Huy Bắc -Đối thoại và độc thoại nội tâm của Hemingway, TCVH Số 7,
1997.
27/ Lê Huy Bắc - Vai trò người kể chuyện của nhân vật trung tâm trong sáng tác
của Hemingway, thông báo khoa học của Bộ GD và ĐT, Hà Nội,1996.
28/ Lê Huy Bắc - Đặc trưng không-thời gian và các hình ảnh tượng trưng huyền
thoại trong tiểu thuyết Hemingway. Thông báo khoa học của Trường ĐHSP Hà nội I,
số4, 1995.
29/ Lê Huy Bắc - Nguyên lý "Tảng băng trôi" và cách khai thác trong "Ông già
và biển cả". Tạp chí ĐH và GD chuyên nghiệp số 4, 1996.
30/ Lê Huy Bắc - Đọc "Ông già và biển cả". VHNN số 3, 1996 31 / Lê Huy Bắc
-Từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, TT KHXH, HN, 1997.
32/ Lê Huy Bắc - Truyện ngắn Mĩ, TT KHXH, HN, 1997.
33/ Lê Huy Bắc - Hemingway và những người đi qua đời ông, Nxb Thanh
niên,2000.
34/ Lê Huy Bắc - Erncsl Hemingway - Núi băng và hiệp sĩ, Nxb GD, 1999.
35/ Lê Đình Cúc - Hemingway và những tấc phẩm tiêu biểu của ông, TCVH số
6, 1977.
36/ Lê Đình Cúc - Mấy vấn đề về văn học so sánh và so sánh văn học, TCVH số
6, 1979.
37/ Lê Đình Cúc - Bi kịch Hemingway, TCVH số 6, 1983.
38/ Lê Đình Cúc - Nghệ thuật tiểu thuyết Hemingway, TCVH số 2,1985.
39/ Lê Đình Cúc - Hemingway con người, cuộc đời và năm tháng, TT và VH,
1986.
40/Lê Đình Cúc - Người chết một trăm lần trước khi chết, TPM số 11, 1991.
41/ Lê Đình Cúc - Các nhà văn Mĩ được giải thưởng Nobel, TCVH Số 2, 1996.
42/ Đào Ngọc Chương - về nguyên lý "tảng băng trôi" của Ernest Hemingway,
Tập san KHXH và nhân văn, TP. HCM Số2, 1977.
43/ Đỗ Hữu Châu ( chủ biên ) - Đại cương ngôn ngữ học, Nxb GD, 1993.
44/ Đỗ chuyên - kinh nghiệm viết vấn của Hemingvvay, Thể thao văn hoá
13/7/1985.
45/ Nguyễn Văn Dân - Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học hiện đại - H, 1989.
46 / Trương Đăng Dưng - Văn học dịch và những vấn để lý luận của văn học so
sánh, TCVH số 1, 1991.
47/ Phạm Huy Dũng - Mago Hemingway, nhan sắc không đem lại hạnh phúc.
Báo QĐND 29/9/1996.
48/ Vũ Dũng - Những tác phẩm lớn trong văn chương thế giới, Nxb Đà Nẵng,
1990.
49/ A. I.Daus - Festival, Hemingway ở Florida, Lê Huy Bắc dịch, VN Số 30,
1996.
50/ Huy Dương - Những vụ tự sát đầy bi kịch trong gia đình nhà văn
Hemingway, ANTG, 12/2/1997.
51/ Đặng Anh Đào - Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết, TCVH 6, 1992.
52/ Đặng Anh Đào - Sự lự do của tiểu thuyết - một khía cạnh thi pháp, TCVH Số
3, 1993.
53/ Đặng Anh Đào - Aragông đã quen và chưa biết, TCVH số 4, 1993.
54/ Đặng Anh Đào - Tính chất hiện đại của tiểu thuyết, TCVH số2, 1994.
55/ Đặng Anh Đào - tài năng và người thưởng thức, Hội nhà văn số 4 1994.
56/ Đặng Anh Đào - Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb
GD, 1995.
57/ Nguyễn Đức Đàn - Hành trình văn học Mỹ, Văn học, 1996.
58/ Bùi Thế Đức - Khám phá nghệ thuật về thế giới nhân vật trong chiến tranh
của A.v Bức ốp và B.Vaxiliep, TCVH số 6, 1995..
59/ Hà Minh Đức - Cơ sở lí luận văn học li, ĐH và THCN, 1985.
60/ Nguyễn Trung Đức - Hiệu quả nghệ thuật của không gian thời gian trong
tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G. G Mácket, TCVH số 1,1995.
61/ Nguyễn Kim Đính - Xây dựng ngôi nhà chủ yếu trong tâm hồn, TCVH số 2
1983.
62/ Phạm Quang Định - Cuộc đời sôi động đàm mê của Hemingway, VN, TP.
HCM, 1997.
63/ Cao Huy Đỉnh - Maicơn Gòn viết về hai nước Mĩ, TCVH,1996.
64/ Ehrenbung (Hyna) - Chiến trường sống và viết, TPM, 1982.
65/ Trần Phong Giao : _ Đọc văn Faulkner,văn 37 Sài Gòn,19ố5.
66/ Trần Phong Giao : _ Ernest Hemingway, văn số 41, SG, 1965.
67/ Mắcxim Gorki - bàn về văn học, Hà Nội, 1970.
68/ Robbe - Grillet ( Alain ) - Phấn đấu cho một nền tiểu thuyết mới, Trần Thiện
Đạo dịch, văn 37, 1965.
69/ Gulaiev ( N. A )- Lý luận văn học, ĐH và THCN, HN, 1982.
70/ Nguyễn Hải Hà - Thi pháp tiểu thuyết Lép Tônxtôi, Nxb GD,1992.
71/ Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình - Quan niệm nghệ thuật về con người
trong văn xuôi Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, KHXH, HN, 1995.
72/ Nguyễn văn Hạnh - Bàn về khái niệm phương pháp sáng tác trong văn học,
TCVH số 1,1983.
73/ Nguyễn văn Hạnh - Đặc điểm của tiến bộ trong văn học, bài giảng chuyên đề
cho nghiên cứu sinh chuyên ngành văn học, ĐHKHXH và nhân văn, TPHCM, 1998.
74/ Hoàng Ngọc Hiến - Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du,
1992.
75/ Hoàng Ngọc Hiến - Văn học và học văn, Nxb VH; 1997.
76/ Lê Huy Hoa - Những bậc thầy văn chương thế giới, Vh, TP HCM, 1995.
77/ La Khắc Hòa - vấn đề thể loại trong tư duy của nhân loại, chuyên đề chuẩn
hoa thạc sĩ, ĐHSPHN, 1996.
78/ Tô Hoài - Sổ tay viết văn, Tủ sách người Hà nội, HN, 1997.
79/ Nguyễn Công Hoan - Hỏi chuyện các nhà văn, Tác phẩm mới, HN,1977.
80/ Hotsơnơ ( A. F ) -Bố già Hemingway, Nxb văn học, HN, 1997.
81/ Đào Duy Hiệp - Những yếu tố thời gian qua Rutxô - Plôbe - Pruxt, TCVH số
l0, 1998.
82/ Trần Hình - Cái chết của người cháu nội nhà văn Hemingway ở Cu Ba, VN
38, 1996.
83/ Hirss - Thi pháp vãn xuôi, Trần Thanh Nam dịch, văn học và ngôn ngữ, Số
26, TTKHXH, 1992.
84/Konrat -Phương Đông và phương Tây, Nxb GD số 4, 1997.
85/ Kundera ( Milan )- Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng, 1998.
86/ Khravchenkô ( M. B ) - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn
học, Nxb TPM, HN, 1978.
87/ Khravchenkô ( M. B ) - Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, Nxb
KHXH, HN,1985.
88/ Huy Liên - Tìm hiểu phong cách nghệ thuật qua các truyện ngắn của nhà văn
Ernesl Hemingway, TCVH số 3, 1997.
89/ Huy Liên - "Ong già và biển cả" và sự cách tân của Hemingway đối với thể
loại văn xuôi thế kỷ XX, Châu Mĩ ngày nay -3/1998.
90/ Phạm Phương Liên - Văn học nghệ thuật bên ngưỡng cửa của thế kỷ XXI,
TTKHXH4, 1991.
91/ Mai Quốc Liên - Lời giới thiệu Một ngày chờ đợi, HVN Nghĩa Bình, 1985.
92/ Đặng Trường Lưu - Những vấn đề còn lại của một đề tài lớn, VNQĐ,
15/4/2000.
93/ Phương Lựu - Tim hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại, Nxb VH,
HN,1995.
94/Phương Mai - Hemingway với biển cả, VN số 18, 1965.
95/ Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb GD, HN, 1994.
96/ Nguyễn Đãng Mạnh - Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb VH, HN, 1983.
97/ Maurois ( Andre ) -Vai trò của nhà văn trong đời sống ngày nay – Vũ Đình
Lưu dịch, SG, văn 40, 1965.
98/Mackez ( G.G ) - Hemingway trong mắt tôi, VN số 51, 1981.
99/Maylac ( B.S ) - vấn đề nhịp điệu không gian thời gian trong việc nghiên cứu
sự sáng tạo, TCVH 2, 1981.
100/Nguyễn Đức Nam - Từ cái nhìn phương Tây hiện đại đến việc phân chia và
đánh giá các khuynh hướng văn học, TCVH số 3, 1976.
101/Nguyễn Đức Nam - Văn học Mỹ và hiện thực nước Mỹ số 3, 1968.
102/ Bửu Nam - Thi pháp nhân vật trong tiểu thuyết Victor Huygô, HN, 1991.
103/ Hoàng nhân - Ba nhà văn hiện đại, Nxb Trẻ, Tp HCM, 1989.
104/ Vương Trí Nhàn - Bắt đầu từ chỗ đứng của mội người lính, VNQĐ số 7,
1986.
105/ Vương Trí Nhàn - Hemingway và những đóng góp của ông vào việc đổi
mới văn xuôi hiện đại, TCVH số 6, 1992.
106/ Vương Trí Nhàn - Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác, TCVH số 6,1992.
107/ Vương Trí Nhàn - Khảo về tiểu thuyết, Hội nhà văn, HN, 1996.
108/ Hữu Ngọc - Hồ sơ văn hoa Mỹ, Nxb thế giới 4/1995.
109/ Phan Ngọc - Anh hưởng của văn học Pháp tới văn học Việt nam giai đoạn
1932-1945, TCVH 4/1993.
110/ Thảo Nguyên - Những người phụ nữ đau khổ trong cuộc đời Hemingway,
văn học và dư luận 9,1991.
111/ Mai Nhị - Sự tương hợp giữa Nít -sơ và văn học, TCVH 6, 1993.
112/ Lajos ( Nyiro ) - Việc phân tích tác phẩm theo ngữ nghĩa học, TCVH số 6,
1978.
113/ Octavio Paz - Thi pháp đồng hiện trong thơ Apollinaire, TCVH số 1, 1997.
114/ Octavio Paz - Thơ văn và tiểu luận, Nxb Đà Nẵng, 1998.
115/ Huy Phương - Lời giới thiệu Ông già và biển cả, Nxb VH, HN, 1986.
116/Poxpelov(G.N)-Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb GD,HN, 1985.
117/ Vũ Tiến Quỳnh - Jack lonđon, O. Henry, Mark Twain, Hemingway, văn
nghệ TP HCM, 1995.
118/ Vũ Tiến Quỳnh - Phê bình, bình luận về Franz Kafka, Cervantes,
Hemingway, Khánh Hòa, 1991.
119/ Phan Quí - Độ chênh về ngôn ngữ văn hoá và truyền thống văn học trong
một đoạn văn dịch, VHNN số 4, 1998.
120/ Lê Hồng Sâm - Sự uyên bác và "ma thuật giao cảm" hay là nghệ thuật viết
tiểu thuyết từ ngôi thứ nhất của Magơrit, Yuôcxơnar, TCVH số 2, 1993.
121/ Đắc Sơn - Đại cương văn học sử Hoa kỳ, TP HCM, 1996.
122/ Trần Đình Sử - Tính mơ hồ đa nghĩa của văn học, TCYH 1,1996.
123/ Trần Đình Sử - Lý luận và phê bình văn học, Hội nhà văn, 1996.
124/ Trần Đình Sử - Bàn thêm về tiếp nhận văn học, VN số 50, 1997.
125/ Trần Đình Sử - Thi pháp, bài giảng chuyên đề sau đại học, ĐHSP HN
1,1986.
126/ Lê Tây - Chủ nghĩa khắc kỷ trong tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai của
Hemingway, báo cáo khoa học, ĐHSP Huế, 1984.
127/ Trần Thị Thuận - Nghệ thuật xây dựng truyện ngắn Hemingway, Kỷ yếu
khoa học ĐHKHXH nhân văn, TP HCM, 1994.
128/ Trần Thị Thuận - Truyện ngắn Hemingway, nghệ thuật xây dựng cốt
truyện, LVSĐH, 1986.
129/ Trần Thị Thuận - Một khiá cạnh trong nghệ thuật xây dựng thế giới truyện
ngắn Hcmingway, Văn học niên giám, 1997, HNCGD.
130/ Trần Đức Thảo - Tìm cội nguồn ngôn ngữ và ý thức, Văn hoá thông tin,
HN, 1997.
131/ Timôphiep (L.I )- Nguyên lí lí luận văn học II, Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo,
Nxb Văn hóa, 1962.
132/ Phùng Văn Tửu - Phương Tây, văn học và con người, VN 12,1972.
133/ Phùng Vãn Tửu - Tiểu thuyết Pháp hiện đại những tìm tòi đổi mới, KHXH,
1990.
134/ Phùng Văn Tửu - Từ cuộc đời đến tác phẩm văn chương, TCVH 7, 1997.
135/ Phùng Văn Tửu - Phê bình và các trào lưu văn học, TCVH số 4, 1993.
136/ Chu Quang Tiềm - Tâm lý văn nghệ, TP HCM, 1991.
137/ Lê Phong Tuyết - Alain Robbe Grillet và sự đổi mới tiểu thuyết, KHXH,
HN, 1995.
138/ Lê Ngọc Trà - Lý luận văn học, Nxb Trẻ,TP HCM, ỉ990.
139/ Sông Trà - Hemingway, một nhà văn cẩn cù lao động nghệ thuật, VN 52,
1962.
140/ Hoàng Trinh - Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học, VH, HN, 1979.
141/ Hoàng Trinh - Xúc tiếp với những tinh hoa tư tưởng và nghệ thuật của loài
người qua văn học, TCVH số 3,1977.
142/ Lương Duy Trung - Một số lác. giả của thơ ca Mĩ thế kỷ XIX, TCVH số
4,1998.
143/ Nguyễn Văn Trung ~ Lược khảo văn học, Nam Sơn, SG, 1963.
144/ Lương Duy Thứ - Mấy vấn đề thi pháp Lỗ Tấn, ĐHSP Huế, 1992.
145/ Vũ Thành Vinh - Hemingway bệnh nhân người Mỹ, VN TP HCM 8/1997.
146/Lưu Kiểng Xuân -Nồi sự của Hemingway, VN Trẻ 3/4/1981.
147/ Ngân Xuyên Ám ảnh bởi Hemingway, VN Trẻ 10/1996.
C/NHÓM TÁC GIẢ
148/ Văn học phương Tây.
149/ Lý luận văn học.
150/ Chiến trường sống và viết, Nxb TPM, 1984.
151/ Nhà văn bàn về nghề văn, HVHNT, 1984.
152/ Số phận của tiểu thuyết, Nxb TPM, 1983.
153/ Từ điển văn học (tập I, II) HN, 1984.
154/ Nhập môn văn học. Trường viết văn Nguyễn Du.
155/Văn học Mĩ quá khứ và hiện tại, Nxb KHXH, HN,1997.
156/Giảng văn văn học nước ngoài 12, Nxb GD, HN, 1992.
157 / Từ điển tác gia sân khấu nước ngoài, Nxb văn hoa, HN, 1998.
2/TIẾNG ANH
158/ Charles scribner 's - The Old man and the sea.
159/ Carey ( Gary 0 - The sun also rises, notes NY- cliffs notes, 1991.
160/ C. Baker (ed) - Hemingway and his crities, Hill and Wang, NY, 1961.
161/ Bradley (ed) - The American tradition in literalure, w.w morton, NY 1991.
162/ E. Eliolt (ed) - American literature. A Prentice Hall anthology, vol 2,
PrenticeHall, USA 1991.
163/ Hotchner ( A.E ) - Papa Hemingway, A personal memoir, Bantam Books,
Toronlo, 1966.
164/ Killinger ( John ) - Hemingway and the dead gods, NY, Citadel Press,
1965.
165/ Mark ( Spilka )- The Death of love in the sun also rises, Hemingway and
his Crilics.
PHỤ LỤC
TƯ LIỆU VỀ MỘT SỐ PHÁT BIỂU CỦA HEMINGWAY NHỮNG
TRANG ĐỘC THỌAI NỘI TÂM TIÊU BIỂU TRONG TIỂU THUYẾT
HEMINGWAY
1/Hemingway trả lói phỏng vấn tại Đại hội lần thứ hai các nhà văn Mĩ năm
1937:
Hỏi: Thưa ông Hemingway, ông đã bắt đầu viết về một quyển sách như thế nào?
Trả lời: Tôi luôn luôn muốn viết. Tôi viết trên giấy học trò, và trò chơi đầu tiên
của tôi là viết. Sau khi tốt nghiệp Đại học, tôi về thành phố Kenxatx làm việc ở tòa
soạn báo Ngôi sao. Công việc đều đặn ở báo là:Ai bắn ai? Ai đập phá cái gì? Ở đâu ?
Khi nào ? Ra sao ? Nhưng chả bao giờ "Vì sao". Không hề có "Vì sao".
Hỏi: về quyển "Chuông nguyện hồn ai", tôi biết ông đang ở Tây Ban Nha, nhưng
ông đang làm gì ở dó ?
Trả lời: Tôi đến để lấy tài liệu về cuộc Nội chiến cho liên đoàn báo chí Bắc Mĩ.
Tôi lái vài chiếc xe cứu thương về phía Cộng hòa.
Hỏi: Tại sao lại về phía Cộng hòa?
Trả lời: Tôi đã thấy nước Cộng hòa đang chớm dậy. Tôi ở đấy khi vua An-
phông-sô bỏ ngôi và tôi theo dõi nhân dân đang viết bàn Hiến pháp của họ. Đó là
nước Cộng hòa cuối cùng đang bắt đầu ở châu Âu, và tôi tin tưởng ở nó. Tôi tin rằng
phía Cộng hòa sẽ thắng trong cuộc chiến tranh này và sẽ có nước Cộng hòa ngày nay
ở Tây Ban Nha. Mọi người đều nhập vào cuộc chiến tranh, nhưng biết có người Tây
Ban Nha, tôi tin rằng nước Cộng hòa sẽ đưa tất cả những người không phải Tây Ban
Nha ra, khi chiến tranh đã kết thúc. Họ không muốn bất cứ một dân tộc nào khác xen
vào việc của họ.
Hỏi: Nền giáo dục hợp thức của ông là như thế nào?
Trả lời: Tôi học ở trường Đại học Óac Pác bang Mi-noi. Đáng lẽ đi học thì tôi lại
đi vào chiến tranh, khi tôi từ chiến trường về thì đã quá muộn để có thể đi học lại. Hồi
đó chưa có trường G.I.Biu.
Hỏi: Khi ông bắt đầu viết "Ông già và biển cả", ông đã lập ý như thế nào?
Trả lời: Tôi có biết về mội người trong hoàn cảnh ấy và con cá. Tôi có biết việc
gì xảy ra trên một chiếc làu trên biển khi chiến đấu với con cá.Thế là tới dựng cái
người mà lôi biết trên hai mươi năm thành một nhân vật và tưởng tượng anh ta ở trong
những trường hợp ấy.
Hỏi: Ông đã phái triển phong cách viết của ông như thế nào ? Ông có viết để
buôn bán hoặc sáng tác theo yêu cầu của người đọc không ?
Trả lời: Cố nói cho càng đầy đủ càng tốt, sự việc thật chân thực, đấy thường là
việc rất khó, và tôi viết rất vụng, cái vụng về đó người ta gọi là phong cách của tôi.
Tất cả sự nhầm lẫn đều rất dễ nhìn thấy, và họ gọi đó là phong cách.
Hỏi: Ông phải dành bao nhiêu thời giờ cho một quyển sách?
Trả lời: Điều đó tùy ở quyển sách và tùy ở sự tiến triển của nó. Một quyển sách
hay phải mất đến một năm rưỡi.
Hỏi: Ông làm việc mỗi ngày mấy giờ?
Trả lời: Tôi dậy lúc sáu giờ và gắng không làm việc quá mười hai giờ.
Hỏi: Mười hai giờ đêm?
Trả lời: Mười hai giờ trưa.
Hỏi: Có khi nào ông bị hẫng đi không ?
Trả lời: Ngày nào chả có, nếu anh không tiến hành tốt công việc của anh. Khi
anh bắt tay vào viết thì không bao giờ bị. Anh nghĩ rằng nó sẽ tuyệt vời và anh đang
gặp lúc may. Anh cho rằng viết thì dễ, và anh thích thú về chuyện ấy. Nhưng đó là anh
nghĩ thế, không phải người đọc. Người đọc không hứng thú lắm đâu. về sau khi anh
đã biết là phải viết cho người đọc, thì lúc ấy viết không còn là dễ nữa đâu. Thực ra,
khi cuối cùng anh nhớ lại bất cứ cái gì anh đã viết thì anh sẽ thấy viết được nó khó
khăn như thế nào.
Hỏi: Khi ông còn trẻ và mới bắt đầu viết lần đầu, ông có sợ phê bình không?
Trả lời: Chả có gì phải sợ cả. Khi bắt đầu viết, tôi chả tính gì đến món đó cả và
cố hết sức viết cho hay. Tôi tin ở cái tôi viết. Và nếu họ không thích, đây là lỗi của họ.
về sau rồi họ sẽ thích, thực tình, tôi không quan tâm gì đến chuyện phê bình cả, và
cũng không gần gũi, tiếp xúc với họ. Lần đầu anh viết anh không được chú ý, đấy là
cái may mắn của lúc bắt đầu.
Hỏi: Ông có tính trước sự thất bại không ?
Trả lời: Nếu anh tính trước sự thất bại thì anh sẽ thất bại. Tất nhiên anh biết nếu
thất bại thì cái gì sẽ xảy đến và anh sẽ phải có kế hoạch tìm lối thoát, nếu không thế
thì quả là anh là người kém thông minh - nhưng anh không nên tính trước thất bại
trong việc anh làm. Giờ tôi không muốn các anh nghĩ rằng tôi không bao uiờ bị đe
doa, song nếu anh không làm chủ nỗi sợ của anh thì không có cuộc tấn công nào chùn
lại cả.
Hỏi: Ông có phác thảo trước cuốn sách ông định viết, hoặc ghi chép thật kỹ
không ?
Trả lời : Không, tôi cứ bắt đầu viết. Viễn tưởng là sáng tạo từ những điều hiểu
biết sẩn có của anh. Nếu anh sáng tạo thành công thì nó còn thật hơn cả cái mà anh cố
nhớ lại cho được. Cái dối lớn còn dễ tiếp nhận hơn cái thật nữa. Người viết viễn
tưởng, nếu nhu không từ bỏ cái viễn tưởng đó, sẽ là người nói dối thành công.
Hỏi: Ông đã viết bao nhiêu quyển rồi.
Trả lời : Có lẽ mười ba. Thế không phải là nhiều, nhưng lôi dùng rất nhiều thì
giờ để viết một quyển sách và giưã hai quyển lôi muốn được nghỉ, chơi cho vui. Hơn
nữa có nhiều chiến tranh quá, và trong lúc đỏ tôi phải bỏ công việc này khá lâu.
Hỏi: Trong tiểu thuyết của ông, ông có viết về ông không ?
Trả lời: Một nhà văn còn biết ai rõ hơn nữa ?
Hỏi: Ông phải mất bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng để viết quyển Giã từ vũ khí?
Trả lời : Tôi phác thảo ở Pari vào mùa đông và viết ở Cu Ba, ở Ki Oetx, ở Phơ-
lo-ri -đa vào đầu mua xuân, rồi ở Pich gát, ở Ác- ken- xatx, nơi có bà con bên vợ tôi,
rồi cắm ở Kenxatx nơi đưa con trai tôi sinh va hoàn tất ở Bích Hooc, ở Uaiômin, trong
khu thác. Bản đầu tiên mất tám tháng, bản sưa lại mất năm tháng nưa, lất cá là mười
ba tháng.
Hỏi: Ông có bao giờ Ihấy nản không ? Có bao giờ ỏng bỏ cuộc không ?
Trả lời: Nản thì có, nhơn" không thể bỏ cuộc - cũng chẳng biết chạy đi đâu. Ông
Giô Lui nói rất đúng : "Anh có thể chạy nhưng không có thể tốn được".
Hỏi : Có bao giờ ông đưa nhân vật của ông vào điểm bí mà họ không làm sao
thoát được không ?
Trả lời: Anh cố tránh điều ấy còn nếu không thì cung chịu thôi.
Hỏi : Tất cả các truyện ngắn của ông đều viết về châu Phi, sao ông thích châu
Phi đến thế ?
Trả lời : Có vài ba nước anh yêu, vài ba nơi anh không thể thích được. Tôi yêu
châu Phi đó là một. Có mấy chỗ ở đây, ở Iđaho giống châu Phi và Tây Ban Nha. vì
vậy nên nhiều người dân Basque đến đây.
Hỏi: Chắc ông đọc nhiều lắm ?
Trả lời : Vâng tôi đọc luôn. Trong một ngày, khi thôi không viết, tô muốn suy
nghĩ về cái đã viết, thế là tôi đọc.
Hỏi: Ông có nghiên cứu những người hiện tại để viết sách của ông không ? Trả
lời: Tôi không đi để nhằm mục đích đó. Tôi chỉ đi nơi nào tôi thấy cần cho cuộc sống
của lôi thôi. Có những điều anh làm vì anh thích làm, có những điều khác anh làm vì
phải làm. Trong khi làm những việc đó anh sẽ tìm được những người anh sẽ viết về
họ.
Hỏi : Ông viết truyện và tiểu luận suốt thời gian ở trường. Việc đó hình nhưng
không phải là khó lắm phải không ông ?
Trả lời : Không phải đâu. Tất cả những điều anh cần có là tai thính, cường độ say
mê rất cao và sự tận tụy với tác phẩm, như một vị linh mục tận tụy với Chuá của mình
vậy, sự dũng cảm, kiên trì của một thằng ăn trộm, anh không có một ý thức nào khác
ngoài chuyện viết và anh phải ở trong tất cả những điều đó. Dễ ư? Không bao giờ nên
nghĩ như thế. Nhiều người bị bắt buộc phải viết. Chả có luật lệ nào ngăn cấm cả, họ
cảm thấy sung sướng khi họ viết và có phần nhẹ nhàng thoải mái. Nhưng người ta
khuyên nhà văn miễn cưỡng này không viết. Nếu anh ta cứ làm, anh ta sẽ chịu số phận
như một nhà kiến trúc sư cưỡng ép, rốt cuộc chỉ có một mình thôi, như số phận anh
chàng thổi sáo miễn cưỡng vậy.
Hỏi: Ông làm sao mà học được nhiều thứ tiếng thế ?
Trả lời: Bằng cách sống ngay trong những nước ấy. Tiếng Latinh tôi học lúc ở
trường, giúp cho lôi học những thứ tiếng khác dễ hơn, đặc biệt là tiếng Italia. Tôi ở
Italia gần như suốt cả thời kỳ Đại chiến thố giới lần thứ nhất, và tôi học tiếng nhanh
lắm, nói thì khá hơn. Nhưng sau đấy tôi bị thương, tôi phải chữa bệnh một ít lâu, phải
tập luyện cái chân bị thương và kết bạn với một sĩ quan Itali cũng đang nằm chữa
bệnh. Tôi nói với anh ta rằng tôi cho tiếng Italia là dễ học. Anh ta khen tôi nói rất khá.
Tôi nói tôi không có gì là đáng khen lắm vì tiếng đó dễ học. Anh ta bảo : "Trong
trường hợp này, anh nên học thêm ngữ pháp". Thế là tôibắt đầu học ngữ pháp Itaỉia và
tôi thôi không nói trong nhiều thúng. Tôi nhận thấy muốn học được tiếng Rôman dễ
hơn thì phải đọc báo - đọc báo Anh buổi sáng, và báo bằng những thứ tiếng khác vào
buổi chiều. Cũng là những tin đó, những sự kiện đó nó giúp tôi hiểu được báo buổi
chiều dỗ hơn.
Hỏi: Sau khi viết xong một quyển sách, ông có đọc lại không ?
Trả lời : Có. Hôm nay tôi đang đọc lại và viết lại bốn chương. Anh đặt bút xuống
khi đang sôi nổi, hăng hái, giờ anh chữa lại trong lúc bình tĩnh hơn.
Hỏi: Thông thường ông viết mấy tiếng ?
Trả lời : Không quá sáu tiếng. Sau đó anh đã mệt và không còn sáng suốt nữa.
Khi tôi viết mội quyển sách, tôi cố gắng ngày nào cũng viết, trừ ngày chủ nhật. Tôi
không viết vào ngày chủ nhật, đấy là ngày xấu. Đôi khi cũng có viết, nhưng nói chung
là ngày xấu".
2/Thư của Hemingway gửi đến buổi lễ trao giải Nobel văn học năm 1954, do
Giôn Kebốt đọc tại buổi lễ:
"Thưa các viện sĩ viện Hàn lâm Thụy Điển
Thưa các ông các bà,
Vì tôi không có biệt tài viết diễn văn, cũng không có tài hùng biện, không có
năng khiếu về khoa ngôn ngữ, nên tôi chỉ muốn cảm ơn những người quản lí di sản
đẹp đẽ của A.Nồben về giải thưởng này. Mọi nhà văn đều biết rằng không một nhà
văn lớn nào được tặng giải thưởng này mà không khúm núm nhận nó. Không cần phải
kể tên những nhà văn đó làm gì. Mỗi nhà văn ở đây đều có thể kể lấy cho mình tùy
theo sự hiểu biết và lương tâm của họ.
Thật tôi không thể nhờ đại sứ nước tôi đọc hộ một bài diễn văn trong đó nhà văn
nói ra tai cả những điều có sẩn trong lòng anh ta. Không phải những gì một nhà vãn
viết ra đều có thể được tiếp nhộn ngay tức khắc và về mặt ấy, đôi khi anh ta lại gặp
may. Nhưng cuối cùng điều anh ta định nói ra sẽ rõ ràng, dễ hiểu và về điểm này tùy ở
mức độ chắt lọc anh có được, anh ta sẽ còn mãi hay sẽ bị quyên đi. Cuộc đời của mội
nhà văn vốn là cuộc đời riêng. Những tổ chức sẽ làm giảm bớt đi nỗi cô độc của nhà
văn, nhưng tôi không tin chắc rằng nhờ thố tác phẩm sẽ có giá trị hơn. Khi anh ta bỏ
cái thế đơn độc đi, thì có thể là vị trí của anh ta trong xã hội sẽ được nâng lên, nhưng
thông thường thì tác phẩm sẽ bị thiệt thòi. Bởi anh viết tác phẩm của anh một mình và
nếu anh đúng là một nhà văn có tài, thì hàng ngày hoặc là anh giáp mặt với vĩnh cửu,
hoặc là anh mất hẳn. Với một nhà văn chân chính thì mỗi tác phẩm là mội bát đầu
mới, ở đó anh ta lại cố gắng tìm dược cái gì ở ngoài tầm tay với. Anh ta sẽ luôn luôn
cố tìm đến một cái chưa ai làm được hoặc nhiều người khác đã thử làm nhưng không
làm nổi. Và thế đấy, đôi khi, anh ta lại may mắn thành công. Nếu chỉ cần biết khác
những gì đã có người viết hay rồi, thì nghề văn thật cũng qua giản đơn. Chính vì trong
quá khứ ta đã có nhiều nhà văn lớn qúa, nên bây giờ một nhà văn phải đi qua cái nơi
anh ta có thể đến được, và ở đó thì không ai có thể giúp anh cả.
Tôi đã qua nhiều lời đối với một nhà văn. Một nhà văn phải viết những điều anh
ta muốn nói chứ không phải nói. Một lẫn nữa, xin cám ơn các ngài." ( Bố gia
Hemingway, Af. Hotsơnơ, Nxb văn học trang 151 )
3/Những trang độc thoại nội tâm tiêu biểu:
"Tôi nằm trên sàn tàu cạnh những khẩu đại bác dưới tấm bạt, ướt, lạnh và đói lả.
Sau cùng tôi trở mình nằm sấp xuống, gối đầu lên đôi cánh tay. Đầu gối tôi cứng đờ
nhưng bây giờ đã dễ chịu lắm. Công trình giải phẫu của bác sĩ Valentini thật là tài
tình. Tôi đã đi bộ nửa đoạn đường rút lui và bơi trên một khúc sông Tagliamento với
cái đầu gối này. Chính thật là cái đầu gối của bác sĩ. Còn cái đầu gối kia mới thật là
của tôi. Bác sĩ đã chữa cho ta một bộ phận nào trong cơ thể thì bộ phận ấy sẽ không
còn thuộc về ta nữa. Khối óc thuộc về tôi và cả dạ dày nữa. Dạ dày đang kêu đói dữ
lắm. Tôi cảm thấy nó đang lộn tung bên trong. Khối óc là của tôi nhưng tôi không
dùng nó được trong lúc này, không suy nghĩ gì được và không còn nhớ gì nhiều nữa
Tôi có thể nhớ dấn Cathcrin nhưng tôi biết rằng tôi sẽ điên lên nếu tôi nghĩ đến
nàng vì không biết rồi đây tôi có còn gặp lại nàng nữa không. Vì vậy không nên nghĩ
đến nàng nữa... dù chỉ trong khoảnh khắc,dù chỉ nghĩ đến nàng mà thôi! Trong toa tàu
chạy chầm chậm và tiếng bánh xe nghiên đều đều trên đường sắt với ánh sáng lờ mờ
xuyên qua lần bạt và tôi nằm với Catherin trên sàn gỗ loa xe. Nằm trên sàn gỗ cứng
trong toa xe không dám nghĩ ngợi mà chỉ mơ màng đến thời xa cách đã lâu, với bộ
quần áo ướt đầm... sàn gỗ chỉ tiến chầm chậm...nỗi cô đơn ở dưới...chỉ còn một mình
với quần áo ươi cùng ván cứng thay cho phụ nữ. Không ai ưa thích sàn toa tàu, hay
súng đại bác trùm vải bạt, hoặc mùi kim khí thoa mỡ, hay tấm vải bạt ri rí nước mưa.
Vậy mà mình vẫn thấy thoải mái dưới tấm vải bạt bên cạnh những khẩu đại bác. Khi
thương nhớ đến một người mà mình biết chắc người ấy không thể có mặt được nơi
đây, để rồi nằm sấp hồi tưởng lại một cách rõ rệt và lạnh lùng, nhưng nhai là rõ rệt và
vô ích-rằng mìnhđã mục kíchsự rút lui của một đạo quân và sự tiến lên của một đạo
quân khác, rằng mình đã mất hết cả xe và binh sĩ giống như một anh chàng coi hàng
đã để hàng hóa cháy hết trong một trận hỏa họan. Một khi đã giải quyết và không còn
trách nhiệm nữa.
Dòng sông đã cuốn theo nỗi căm hờn cùng tất cả trách nhiệm của tôi. Vả lại
trách nhiệm đó cũng đã chấm dứt khi bọn hiến binh đã thập cổ tôi. Tôi muốn vứt bỏ
bộ quân phục dù còn đôi chút trách nhiệm tôi bị ràng buộc bởi cấp hiệu bề ngoài. Tồi
đã tháo những sao cấp hiệu nhưng đólà vì lo xa chứ không phải vì danh dự. Về cơ
bản, tôi không hề phản kháng. Tôi được giải thoát. Tôi cầu chúc mọi người được may
mắn. Một số người, những người tốt dũng cảm, bình tĩnh, thông minh xứng đáng được
hưởng. Riêng tôi, tôi không còn ở trong số những diễn viên của vở hài kịch và tôi chỉ
mong sau chuyến tàu quý hóa này tới Mestre để được ăn và khỏi phải nghĩ ngợi gì
nữa. Phải chấm dứt tuyệt đối.
Piani sẽ nói lại là tôi đã bị bắn. Họ thường hay lục túi và lây hết giấy tờ của
những người bị xử bắn. Họ không lấy được giấy tờ gì của tôi cả, họ sẽ cho là tôi đã bị
chết đuối. Tôi không rõ bên Mĩ người ta sẽ được tin như thế nào. Tử thương hay vì
duyên cớ nào khác. Chúa ơi, đói đói qua. Tôi tự hỏi không rõ trong các buổi ăn chung,
vị linh mục này ra sao, và Rinaldi nữa. Có lẽ anh chàng đang ở Pordcnone nếu họ
không rút lui xa hơn nữa. Thôi, có lẽ từ nay tôi không còn bao giờ được gặp lại anh ta
nữa, không còn bao giờgặp lại được một người nào trong bọn họ nữa. Cuộc đời quân
nhân thế là chấm dứt.
Tôi không muốn nghĩ ngợi nữa. Tôi muốn ăn. Chúa ơi, phải rồi. Ăn uống và ngủ
với Catherine. Có lẽ đêm nay... không, điều đó không thể được. Nhưng đêm mai... và
một bữa ăn ngon lành... và chăn gối nữa... và không bao giờ đi đâu cả trừ phi hai đứa
cùng đi với nhau. Có lẽ phải ra đi gấp mới được. Nàng sẽ đến. Tôi biết nàng sẽ đến.
Khi nào chúng ta sẽ ra đi đây ? Phải nghĩ đến điều đó. Đêm đã đến. Tôi nằm và nghĩ
ngự! xem chung tôi sẽ đi đến phương trời nào. Điạ điểm không thiếu."
( Chương 32, Giã từ vũ khí, Nxb Vhtt, trang373-376)
"Chàng bước bên cạnh nàng nhưng đầu óc chàng mãi bận rộn với vấn đề cây
cầu. Tất cả đều chắc chắn, rõ ràng như lúc ống kính máy chụp hình đã được điều
chỉnh. Chàng trông thấy hai cái đồn canh và Anselmo cùng tên du mục đang canh
chừng.chàng thấy con đường vắng vẻ và lại nhìn thấy những sinh hoạt trên đó. Chàng
tìm ra địa điểm mà chàng sẽ đặt hai khẩu súng tự động để có được một trường bắn lý
tưởng nhất. Và ai sẽ sử dụng chúng đây ? Sau cùng là lôi, chàng nghĩ, nhưng để bắt
đầu là ai ? Chàng đặt những thỏi thuốc nổ, chôm và cột chúng lại, tháo dây, mắc
chúng lại và trở lại địa điểm nơi chàng đã đặt cái hộpđựng bộ phận làm nổ, đoạn
chàng bắt đầu nghĩ tới tất cả những gì có thể xảy ra và tất cả những gì có thể sai lạc đi.
chàng nhủ thầm vậy là đủ rồi. Mày đã làm tình với con bé đó, giờ đây thì đầu óc mày
đang minh mẫn, quá minh mẫn và mày khởi sự lo âu, người ta có thể nghĩ ngợi mà
không cần phải lo âu gì cả. Đừng lo âu, mày không được lo âu. Mày biết tất cả những
điều phải làm và mày biết điểu gì có thể xảy tới. Chắc chắn rồi, điều đó có thể xảy tới.
Mày đã vào cuộc đồng thời biết tại sao mày chiến đấu. Người ta chiến đấu và
người ta làm điều phải làm để có cơ hội thắng lợi. Chính vì vậy mà giờ đây Robert
Jordan bó buộc phải dùng những người mà chàng yêu mến như người ta dùng những
người chiến sĩ và không được có.một tình cảm nào với họ nếu chàng muốn thành
công. Pablo hiển nhiên là người thông minh nhất trong cả bọn. Hắn dã biết ngay công
việc khó khăn, tệ hại tới đâu. Người đàn bà thì hoàn loàn thích hợp với công tác, bà ta
vẫn còn tiếp tục như vậy, nhưng mà ý thức về lầm vóc thật sự của vấn đề đã dần dần
xâm chiếm lấy tâm hồn bà ta và đã làm cho bà ta thay đổi nhiều. Sordo đã hiểu ra tức
thì và ông ta hẳn phải làm lất cả những gì phải làm nhưng không hăng hái bằng chính
Robert Jordan.
Vậy thì, chàng nghĩ, có phải mày bảo rằng mày bận tâm về điều có thể xảy ra
cho người đàn bà, cho cô gái và cho tất cả mọi người chớ không phải bận tâm về điều
có lliể xảy ra cho mày à ? Cho là đúng đi. Điều gì sẽ xảy ra cho họ nếu mày không tới
đây ? Không nên nghĩ tới điều đó. Mày không trách nhiệm vé họ trong hành động.
Lệnh không đến từ mày. Nó đến từ Golz, mà Golz là ai? Đó là một ông tướng tốt. Ông
tướng giỏi nhất mà mày được phục vụ dưới quyền. Nhưng mà một người liệu có bổn
phận phải thi hành những mệnh lệnh khó khăn cực cùng khi biết chúng đưa mình đi
tới đâu không ? Ngay khi chúng phát xuất từ Golz, và Golz chính là đảng đồng thời lại
là quân đội ? Đúng, Chàng phải thực hiện chúng. Không thử thì làm sao biết được ?
Ngay trong lúc đón nhận mệnh lệnh, nếu mọi người đều bảo rằng đó là những mệnh
lệnh không thể thực hiện được thì thử hỏi người ta sẽ đi đến đâu ? Chúng ta sẽ đi về
đâu nếu chỉ biết nói "không thể được" mỗi khi nhận lệnh ?
Chàng đã từng biết tới nhiều cấp trên chỉ biết đưa ra những mệnh lệnh không thể
thực hiện được. Như tên đểu Gomez ở Estramadure chẳng hạn. Chàng đã từng biết tới
những cuộc tấn công, trong đó cánh quân hai mạn sườn không tiến lên được vì tiến lên
là chuyện vô khả hữu. Không, chàng sẽ thi hành lệnh trên nhưng chàng không được
thương yêu những người cùng thực hiện công tác với chàng.
Trong mọi công tác của họ, những du kích quân luôn mang lại bội phần nguy
hiểm và rủi ro cho những người có bổn phận che chở và giúp đỡ họ. Với mục đích gì
đây ? Rốt cuộc lại là để cho đất nước được thoát khỏi gian nguy và để mọi người có
thể sống bình yên trên đó. Điều này đúng và nó có vẻ tầm thường nữa.
Nếu phe Cộng Hòa thua trận thì những ai tin tưởng nơi đó sẽ không sống được ở
Tây Ban Nha này. Nhưng mà liệu có chắc như vậy không đấy ? Chắc chắn như vậy,
chàng thừa hiểu điều đó căn cứ theo những gì xảy ra tại các vùng bị phát xít chiếm
đóng.
Pablo là một tay đểu cáng nhưng những người khác là những tâm hồn cừ khôi
đáng khen. Và thử hỏi khi bắt họ thi hành công tác này, điều này có phải là phản bội
lại họ hay không ? Có thể, nhưng mà nếu không thì hai trung đội kỵ binh sẽ tới đánh
bật họ khỏi vùng núi này trong vòng một tuần lễ.
Không. Để họ yên, người ta chả được gì. Trừ phi phải để yên mọi người và
không quấy rầy ai. Chàng nghĩ, Vậy thì mày tin thế à, mày tin rằng lý tưởng nhất là để
mọi người được yên thân à ? Đúng, chàng tin như vậy. Nhưng rồi sau đó, xã hội có tổ
chức cùng tất cả những thứ khác thì sao ? Đó là việc của kẻ khác. Còn chàng thì chàng
có việc khác để lo sau trận giặc này. Chàng hiện chiến đấu trong trận giặc này bởi nó
đã khởi sự trong một xứ sở mà chàng yêu mến, bởi chàng tin tưởng ở nền Cộng Hòa
và bởi nếu nó bị hủy diệt thì tất cả những ai tin tưởng nơi nó sẽ khó sống được. Ở đây,
tại nước Tây Ban Nha này, chính những người cộng sản đã cung cấp thứ kỷ luật tốt
đẹp nhất, thứ kỷ luật hợp lý và lành mạnh nhất để theo đuổi chiến tranh. Chàng chấp
nhận những huấn điều của họ trong khoảng thời gian thi hành công tác bởi vì trong
vấn đề chỉ dạo chiến tranh, họ là đảng duy nhất có chương trình và kỷ luật khiến
chàng nể nang.
Nhưng những quan điểm chính trị của chàng thì sao ? Bây giờ thì chàng không
có. Chàng nghĩ, nhưng mày đừng bảo ai biết điều đó. đừng bao giờ thú thật điều đó.
Và mày sẽ làm gì sau này ? Tôi sỗ trở về nước tôi và tôi sẽ mưu sinh bằng việc dạy
tiếng Tây Ban Nha như trước đây và tôi sẽ viết một cuốn sách xác thật. Chàng nghĩ,
tôi có cảm tưởng rằng việc đó không khó khăn gì.
Hẳn chàng phải nói chuyện chính trị với Pablo. Chắc hẳn là chàng sẽ lấy làm lý
thú được biết tiến trình tiến trình về chính trị của hắn. Rất có thể đó là diễn biến cổ
điển đi từ lả sang hữu phái. Giống như lão già Lerroux. Pablo rất giống Lerroux. Còn
Prietro thì không bằng.
Pablo và Prietro có niềm tin tưởng gần như ngang nhau ở thắng lợi sau cùng. Cả
hai cùng có quan điểm chính trị của kẻ ăn cắp ngựa. Chàng thì tin ở nền Cộng Hòa
như một hình thức chính phủ, nhưng nền Cộng Hòa phải thoát khỏi bước đường cùng
gặp phải khi cuộc nổi loạn dấy lên. Liệu đã có một dân tộc nào mà giai cấp lành đạo
thật sự là kẻ thù của nó như dân tộc này chưa ?
Kẻ thù của dân tộc. Đó chính là một từ ngữ phải tránh một sáo ngữ phải dứt bỏ.
Đó chính là hậu quả của cuộc chung chạ với Maria. Từ ít lâu nay, những ý tưởng
chính trị của chàng đã trở nên chật hẹp và công thức chẳng khác gì một tâm hồn mê
muội, và những từ ngữ như "kẻ thù của dân tộc" vẫn đến với chàng trong sự lười
biếng thụ động của chính chàng. Tất cả những sáo ngữ về cách mạng và lòng ái quốc,
tư tưởng chàng du nhập chúng mà không chỉ trích, luận bàn. Qủa thật là chúng đúng
đó, nhưng có điều là chàng làm quen với chúng một cách dễ dãi. Tuy nhiên, kể từ đêm
trước và từ buổi chiều nay, tinh thần chàng minh mẫn và thuần khiết hơn trước những
vấn đề đó. Lòng mê muội kể cũng kỳ cục. Để trở nên một người mê muội, người ta
tuyệt đối phải chắc chắn mình có lý, và không gì cho ta sự xác tín -tình cảm về sự hợp
lý của mình - bằng sự tiết dục. Sự tiết dục là kẻ thù của tà thuyết.
Ý tưởng này liệu có gây khó khăn cho người ta không ? Rất có thể là những
người cộng san đã vịn vào đó mà buộc tội khá nhiều người dân du mục. Khi người la
say rượu hay khi người ta phạm tội xác thịt hoặc tội ngoại tình, người ta khám phá sự
hư hỏng của mình ngay trong sự chuyển hoa linh động của niềm ùn giáo sĩ: đường lối
của đảng. Đả đảo hạng người phóng đãng, tội lỗi của Mayakovsky.
Nhưng Mayakovsky đã trở thành một ông thánh trở lại. Bởi vì ông đã chết và đã
được chôn cất, diều này đã hẳn như vậy rồi. Bây giờ thì thôi đừng nghĩ dông dài nữa.
Hãy nghĩ tới Maria.
Maria đã từng chốnu đối kịch liệt sự cuồng tín của chàng. Cho tới giờ phút này,
nàng không ảnh hưởng gì tới quyết định của chàng, nhưng chàng không muốn chết tí
nào. Chàng sẽ lấy làm vui sướng mà từ chối cái chết của một ông thánh hay mội kẻ tử
vì đạo. Chàng không vọng tới trận Thermopyles, chàng khôn*! thích làm một thứ
Horatius của bất luận một cây cầu nào, cũng không muốn làm một cậu bé Hòa Lan với
ngổn tay thọc vào trong một cái lỗ của con đê. Không. Chàng khoái được sống một
thời gian bên cạnh Maria. Chính đó là biểu tượng đơn sơ nhất của những gì chàng ao
ước. Chàng khoái sống với nàng trong một khoảng thời gian thật lâu dài, trong một
vĩnh cửu. Chàng không tin rằng còn có một "vĩnh cửu" cho chàng trên mặt đất này,
nhưng nếu có nó, chàng mong được sống trọn vẹn với nàng. Ta có thể tới khách sạn
và ghi tên ông tấn sĩ và bà Livingstone. Tại sao không ? Chàng nhủ thầm.
Tại sao không cưới nàng làm vợ ? Chàng nghĩ, chắc hẳn rồi, tôi sẽ cưới nàng.
Lúc đó, chúng lôi sẽ làm ông và bà Robert .ĩordan ở Sun Valley, Idaho. Hoặc Corpus
Christi, Texas, hoặc Biỉíe, Monlana.
Đàn bà Tây Ban Nha là những người vợ kỳ diệu. Tôi biết điều đó bởi vì tôi chưa
hề có vợ. Và khi tôi trở lại với công việc của tôi tại đại học, nàng sẽ là một bà vợ giáo
sư rất tốt, và bọn sinh viên Tây Ban Nha đến nhà vào buổi chiều để hút thuốc và bàn
thảo một cách tự do và bổ ích, về Queveđo, Lope de Vega, Galclos cùng những người
quá cố tuyệt vời khác. Maria có thể kể lại cho họ nghe chuyện những quân thập tự của
niềm tin đích thật mặc áo xanh, đã ngồi trên đầu nàng trong khi những người khác vặn
tay nàng, vén váy nàng lên và nhét vào họng nàng ra sao.
Tôi tự hỏi bằng cách nào Maria có thể làm' vừa lòng mọi người ở Missoula,
montana trong trường hợp tôi tìm lại được việc làm ở Missoula. Tôi giả dụ rằng hiện
tôi bị chụp cho một chiếc mũ đỏ và người ta sẽ liệt tôi vào một danh sách đen, mặc dù
đúng ra không ai biết được, không ai nói gì được. Họ không có bằng cớ gì về hành
tung của mọi người và ngoài ra cho dù người ta kể lại cho họ nghe về điều đó, họ
cũng không khi nào chịu tin. Giấy thông hành của tôi cỏ giá trị ở Tây Ban Nha trước
khí ban hành những điều luật mới.
Tôi không thể trở về trước mùa thu năm 37. Tôi bỏ đi vào mùa hè năm 36 và
thời gian nghỉ phép chỉ kéo dài trong một năm, và tôi không cần có mặt ở đó trước khi
mãn hạn kỳ vào năm tới. Từ bây giờ đến ngày đó, thì giờ hãy còn lâu. Không, tôi
không tin rằng mình phải lo lắng gì về công việc ở đại học. Mày chỉ cần tới đó vào
mùa thu và mọi việc sẽ êm xuôi. Hãy cố mà trở về kịp lóc đó.
Nhưng mà kỳ lạ thay, nếp sống mà mày đã kéo dài từ bấy lâu nay. Kỳ lạ một
cách nghiệt ngã ! Tây Ban Nha chính là công việc của mày, nghề nghiệp của mày, vậy
thì mày có mặt ở Tây Ban Nha là chuyện tự nhiên rồi. Mày đã làm việc suốt nhiều
mùa hè về những dự án xây cất và những công tác kiểm lâm liên quan tới việc làm
đường xá. Mày đã học cách sử dụng thuốc nổ và những công tác phá hoại của nó cũng
binh thường và tự nhiên cho mày không kém. Luôn luôn phải hối hả một chút, nhưng
mà lại bình thường.
Một khi đã chấp nhận ý tưởng về phá hoại dưới hình thức một vấn đề, người ta
không còn vấn đề gì nữa. Nhưng những công cuộc phá hoại luôn kèm theo những chi
tiết sẽ làm cho chúng trở nên phức tạp hơn mặc dù là người ta xem chúng nhẹ như
không. Chàng nhủ thầm, có một nỗ lực cố định để tạo những điều kiện tốt đẹp nhất
nhằm thực hiện những cuộc ám sát khi kèm theo những công tác phá hoại. Liệu những
danh từ dao to búa lớn có biện giải được những hành động đó không ? Liệu chúng có
giúp người ta giết người êm ái hơn không ? Chàng nhủ thầm, nếu mày cần một ý kiến,
thì đây, mày làm được việc một cách dễ dàng. Và mày thành cái gì, hay đúng hơn,
điều gì phù hợp với mày khi mày rời khỏi công tác của phe Cộng Hòa ? Điều đó có vẻ
như bấp bênh vô cùng, chàng nghĩ. Nhưng mà có lẽ mày sẽ thoát khỏi tất cả những kỷ
niệm này khi mày ném chúng lên giấy trắng. Mày có một quyển sách hay để viết, nếu
mày có khả năng viết. Hay hơn quyển sách kia nhiều.
Nhưng trong khi chờ đợi, tất cả cuộc sống mà mày có được trong hiện tại cũng
như trong lương lai, đó chính là ngày hôm nay, là buổi chiều nay, là ngày mai, hôm
nay, chiều nay, ngày mai và mãi mãi như thế đến vô tận ( hi vọng như thế). Vậy thì tối
hơn hết là mày nên đón lấy cơ hội xảy đến và cảm ơn số phận. Và nếu vụ cây cầu
không diễn ra tốt đẹp thì sao ?... Hiện bây giờ thì nó khơi mào không sáng sủa gì lắm.
Nhưng mà Ma ria thì ngoan ngoãn. Có phải không ? Ờ ! Chàng nghĩ, nàng đã
ngoan ngoãn với mày biết bao. Đó có thể là điều mà cuộc đời dành riêng cho tôi. Có
thể đó chính là cuộc sống của tôi và thay vì kéo dài sáu mươi năm, nó chỉ kéo dài
(rong sáu mươi tiếng đồng hồ. Hay đúng ra là bảy mươi hai tiếng đồng lui, trong ba
ngày.
Tôi nghĩ người ta có thể sống trọn một đời người trong bảy mươi tiếng đồng hồ
cũng như trong bay mươi năm... với điều kiện là đời sống bạn phải tràn đầy cho tới
lúc khởi đầu của bảy mươi tiếng đồng hồ và lúc người ta đã đạt tới một tuổi nào đổ.
Bậy thật ! Chàng nghĩ. Cứ nghĩ ngợi một mình như vầy thì ngu xuẩn thật. Đúng
là ngu xuẩn. có thể nó không đến nỗi ngu xuẩn đến như vậy, nghĩ cho cùng. Thôi
được, để rồi xem lần cuối cùng tôi ngủ với một đứa con gái, là ở Madrid. Không, ở
Escurial kia. Tôi đã thức giấc vào nửa đêm, tưởng người đang nằm bên cạnh mình là
một người nào khác, và tôi đã vui sướng tới điên khùng lên, mãi cho tới lúc nhận ra
mình lầm, lần đó tôi đã chỉ khơi dậy một đống tro tàn. Nhưng mà ngoài việc làm đó ra
thì đêm đó không đến nỗi tệ lắm. Lần trước nữa là ở Madrid. Tôi đã tự dối mình một
chút và trong những trò nghịch ngợm, tôi đã lai rai đùa giỡn về lai lịch cô gái. Rốt
cuộc thì luôn luôn vẫn là cùng một câu chuyện. Tôi không phải là kẻ ngưỡng mộ đầy
lãng mạn trước người đàn bà Tây Ban Nha và ngoài ra ở bất luận nước nào, tôi cũng
vẫn luôn xem một trò qua đường là một trò qua đường. Thế mà tôi đã yêu Maria đến
độ khi gần nàng, tôi cảm thấy mình chết thật sự tôi không bao giờ tin rằng chuyện đó
có thể xảy ra được.
Bởi vậy cuộc đời mày có thể đổi bảy mươi năm lấy bảy mươi tiếng đồng hồ: giờ
đây tôi đã sở hữu được kho vàng quí báu đó và tôi may mắn được chiêm ngưỡng nó.
Nếu không có được những cái "lâu bền", những cái "trọn đời", những cái "từ đây mãi
mãi về sau", mà chỉ có cái "bây giờ", thì phải tạ ơn chính cái giây phút hiện tại này và
tôi lấy làm sung sướng với nó. Bây giờ : ahora, now, heule. Bây giờ, một từ ngữ kỳ
cục dùng chỉ cả một thế giới và một đời sống. Đêm nay: tonight, esta noche, heute
avend. Life và wife. Đời sống và đàn bà. Vie, Marie, mari. Đời sống, Marie, chồng.
Không, nghe không ổn à ? Để chỉ "bây giờ", có tiếng now và frau, nhưng cũng không
chứng tỏ được gì. Như tiếng chết, người ta có mort, muerto và tot. Trong ba tiếng này
chỉ có tiếng tot là diễn tả ý tưởng về cái chết đúng hơn hết. Chiến tranh: guerre, guerra
và krieg. Tiếng krieg nghe gần gũi với ý nghĩa chiến tranh nhiều nhất. Không đúng
hay sao ? Hay chính vì chàng biết tiếng Đức ít hơn những tiếng khác ? Còn những
tiếng chỉ người tình nhưchérie, sweethart, prenda và schatz, những tiếng đó, chàng
luôn đổi chúng ra "Maria" cả. Maria, đúng đó là một cái lên.
Được lắm, chúng nhập vào cái tên đó hết thảy và bây giờ thì không còn chi dài
dòng nữa. Qua thật là vụ cây cầu càng lúc càng cho thấy những triệu chứng xấu. Đó là
một công tác mà người ta không thể thực hiện một cách tốt đẹp vào buổi sáng. Những
vị trí không giữ nổi phải đợi đến đêm mới rời bỏ được. Người ta cố gắng kéo dài cho
tới đêm. Công việc sẽ êm xuôi với điều kiện là người ta có thể đợi tới đêm để rút lui.
Còn phải cầm cự từ sáng đến chiều... Và ông già ngốc Sordo đáng thương kia nữa,
ông ta bỏ cái thứ tiếng Tây Ban Nha bối để giải thích cặn kẽ cho chàng nghe. Như thể
chàng đã không từng sống với ý nghĩ cố định đầy khổ tâm đó kể từ đêm hôm kia
chẳng khác gì một thứ bột khó tiêu lúc nào cũng làm cho ta nặng bụng.
Chuyện kỳ cục ! Trọn đời người ta tin rằng những cuộc phiêu lưu tương tự có
một ỹ nghĩa gì khá ghê gớm, và sau cùng chúng không có một ý nghĩa gì cả. Chúng
không hề có một ý nghĩa nào. Người ta tưởng sẽ không đời nào biết tới điều đó. Để rồi
trong một công việc đầy phiền toái như việc phối hợp hai nhóm du kích quân vô tích
sự để giúp người ta giựt sập một cây cầu trong những điều kiện khó khăn vượt bậc, để
đập tan một cuộc phản công có thể đã khởi sự rồi, người ta sa ngã trước một người
đàn bà như con bé Maria kia. Qua thật việc đó phải đến với mày. Mày đã yêu nàng hơi
muộn, chỉ có thế thôi.
Vậy, một người đàn bà như Pilar kia đã thật sự đẩy con bé đó vào trong túi của
màv và cái gì xảy ra ? Phải, cái gì xảy ra ? Cái gì xảy ra ? Hãy vui lòng nói cái gì xảy
ra. ừ. Đó là điều xảy ra. Đó chính thật là điều đã xảy ra.
Mày dối lòng với chính mày khi cho rằng Pilar đã đẩy con bé kia vào túi ngủ của
mày. May đừnií gắng sức chối bỏ mọi sự hay bôi bẩn mọi sự làm chi cho thất công.
May đã bị hối hồn ngay khi mày thấy mặt Maria. Lần đầu tiên khi nàng mở miệng và
nói chuyện với mày, thì đâu đó đã xong xuôi rồi, và mày biết như thế rồi mà. Giờ đây
khi mày đã nắm giữ được kho vàng quí báu trong tay rồi, mày không có lý do gì để
trách cứ, viện lẽ rằng mày đã chưa hề nghĩ tới một ngày nào đó mày chiếm hữu được
nó. Mày thừa hiểu rằng mày chiếm hữu lấy nó và thừa hiểu ngay từ cái phút đầu tiên
khi mày nhìn Maria, từ lúc nàng nghiêng người bước ra ngoài, tay bưng mâm sắt nọ.
Điều đó đã hốt hồn mày ngay từ cái khoảnh khắc nọ và mày biólt rõ như thế, vậy
thì tại sao mày lại dối lòng ? Trong bụng mày, mày tự cảm thấy kỳ lạ mỗi khi mày
nhìn nàng hay nàng nhìn mày. Vậy thi tại sao lại không chịu nhìn nhận chớ ? Được
rồi. Tốt lắm. Tôi nhìn nhận nó rồi đó. Và đến lượt Pilar khi đẩy nàng tới trước mặt
mày, Pilar chỉ xử sự như một người đàn bà thông minh: bà ta đã săn sóc con bé kia
khá chu đáo và bà ta thừa biết chuyện gi đang xảy ra ngay từ cái phút con bé trở vào
hang với cái mâm đồ ăn.
Sau đó, bà ta đã biến mọi sự thành dễ dàng. Bà ta đã biến mọi sự thành đễ dàng
để rồi mới xảy ra cái buổi chiều hôm qua và cái buổi xế chiều hôm nay. Bà ta vãn
minh hơn mày quá đỗi và bà ta biết rõ giá trị của thời gian. Bà ta đã chuồn êm bơi vì
bà ta không muốn kẻ khác phải mất mát điều bà ta từng mất mát. Sau đó, vì ý tưởng
về sự mất mát lại vượt quá sự chịu đựng của mình, bà ta muốn thối lui vào trong vùng
đồi núi kia, và tôi nghĩ rằng chúng tôi đã không giúp đỡ bà ta được gì.
Vậy thì đó là điều đang xảy đến và điều đã xảy đến cho mày. Mày có thể chấp
nhận nó một cách dễ dàng. Mày sẽ không bao giờ nua trải qua hai đêm trọn với nàng.
Không có được một đời để sống trọn, không có được một đời để sống chung với nhau,
không có những điều rất bình thường của tất cả mọi người, không có gì ráo trọi. Chỉ
có một đêm đã sống qua, một lần vào buổi chiều nay, một đêm sắp tới, có thể. Không
đâu, ngài ạ.
Mày không có thì giờ, không có hạnh phúc, không có lạc thú, không có con cái,
không có nhà cửa, không có buồng tắm, không có đồ pyjama sạch sẽ, không có tờ
nhại báo buổi sáng, không có phút thức giấc rực lên với ý nghĩ rang nàng còn nằm bên
cạnh đó và minh không cô đơn. Không có, không cố tất cả những thứ đó đâu. Nhưng
bởi Vỉ đó là tất cả những điều mày ước ao trong cuộc sống, bơi vì may đã lìm thấy nó,
tại sao lại không có đươc đến một đêm, chỉ một đêm thôi, nằm trên giường với những
gối chăn ấm cúng ?
Mày luôn đòi hỏi cái không thể xảy ra được. Mày luôn đòi hỏi chính cái vô khả
hữu. Vậy nếu mày yêu con bé đó như mày đã từng thứ thật, tốt hơn hết là mày nên yêu
nó như vũ bão và hãy đạt tron cho bằng được những gì mày thiếu hụi trong thời gian
và trong sự liên tục. Mày nghe chưa đó ? ngày xưa người ta phó thác vào đó cả một
đời người. Và giờ đây khi mày đã tìm thấy nó, nếu mày có dược hai đêm, mày tự hỏi
sự may mắn từ đâu mà có. Hai đêm. Hai đỏm để thương yêu, ngưỡng vọng và trìu
mến. Trong cái tốt đẹp nhất và trốn à; cái tồi tệ nhất. Trong bịnh hoạn và sức khỏe.
Cho đến khi nào cái chết ngăn cách chúng ta. Trong hai đêm. Có hơn thế nữa, và bây
giờ thì mày hãy dứt bỏ những ý tưởng đó đi. Bây giờ mày có thể ngừng suy nghĩ. Cái
đó không tốt cho mày đâu. Đừng làm điều gì không tốt cho mày. Đừng làm điều gì
không tốt cho mày. Và chắc chắn là cái đó không tốt rồi.
("Chuông nguyện hồn ai" - Nxb văn học - 259-270)
Hemingway ở Việt Nam
Evgheni Evtushenko
Tôi đâu có đủ quyền xét đoán công tâm
Khi Anh sống, cũng như khi Anh chết,
Nhưng có một điều, khi tới đây, tôi biết rằng
Anh không đi chệch hướng bao giờ.
Đối với nhà văn
Không chịu bán mình
Thì tự bắn vào đầu
Cũng không là tự tử !
Tự tử, đối với đời nghệ sĩ
Là giữ mình không trong sạch vẹn toàn,
Đã chịu bán tài năng thì đắt, rẻ mặc lòng
Đều từ đó hoá thành vô sỉ.
Tự tử, đối với đời nghệ sĩ
Đâu phải viên đạn chì, hay một nút dây thừng,
Bao kẻ sống phây phây, mặt mũi đỏ bừng
Nhai thịt gà, uống rượu vang ừng ực,
Nhưng khi ngồi vào bàn viết
Thì té ra: họ tự tử lâu rồi
... Anh là người trung thực nhất đời
Từ trận đánh trở về, mang nỗi đau cháy bỏng
Anh lên đạn khẩu Willcheste cổ lỗ
Chỉ bắn nỗi đau kia
đâu bắn tấm lòng mình ?
( Bản dịch tiếng Việt của nhà thơ Bằng Việt)