BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

TRẦN THỊ THÚY LIỄU

ĐỐI THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI NỘI TÂM

TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HEMINGWAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2001

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liêu, kết qua nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Trần Thị Thúy Liễu

LỜI CẢM ƠN

Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đối với sự hướng dẫn ân

cần chu đáo và nhiệt tình của giáo sư Lương Duy Trung. Chúng tôi xin chân thành

cảm ơn các ý kiến nhận xét, góp ý xây dựng cho bản luận văn.

Chúng tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của phòng nghiên cứu khoa học, khoa ngữ văn

trường đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.

TP .Hồ chí Minh , tháng 3 năm 2001

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ 2

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 3

MỤC LỤC ............................................................................................................ 4

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 7

1/LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................................ 7

2/ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ............................................................................................... 8

2.1/ Tiếng Việt: ...................................................................................................... 8

2.2/Tiếng Anh ...................................................................................................... 14

3/ GIỚI HẠN VẤN ĐỀ .......................................................................................... 15

3.1.Tác phẩm khảo sát ........................................................................................ 15

3.2.Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 15

4/MỤC ĐÍCH, CÂU TRÚC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ..................... 16

4.1 Mục đích của luận văn: ................................................................................ 16

4.2.Cấu trúc của luận văn: ................................................................................. 17

4.3.Những kết luận mà nhà văn hướng tới: ...................................................... 17

CHƯƠNG 1: HEMINGWAY- THỜI ĐẠI - CON NGƯỜI - TÁC PHẨM 19

1.1.NHỮNG BIẾN CỐ TƯ TƯỞNG TRONG VĂN HỌC MĨ THỂ KỶ XX ... 19

1.2.HEMINGWAY - CON NGƯỜI VÀ SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT: ............ 23

1.2.1.HEMINGWAY - một cuộc đời huyền thoại: ............................................ 23

1.2.2.Hemingway _ Quan niệm về sáng tạo nghệ thuật: .................................. 26

CHƯƠNG 2: HEMINGWAY - NHỮNG ĐỐI THOẠI BÍ ẨN .................... 31

2.1/ ĐỐI THOẠI DIỄN TRÌNH : ( DIALOGUE EXPLICATIVE ) ................. 33

2.1.6.Đối thoại _ Nhân vật tự kể về mình: ......................................................... 35

2.1.7.Đối thoại _ ngôn ngữ giản dị, tự nhiên: ................................................... 41

2.1.8.Đối thoại và người kể chuyện: .................................................................. 44

2.1.9.Đối thoại nhân vật lí giải các vấn đề của cuộc sống: ............................... 46

2.2.ĐỐI THOẠI NGƯỢC NGHĨA ( DIALOGUE CONTRADICTOIRE ) ..... 51

2.2.1.Những đối thoại chứa ẩn ý: ...................................................................... 51

2.2.2.Khoảng trống của lời đối thoại ................................................................. 58

CHƯƠNG 3: ĐỘC THOẠI NỘI TÂM ........................................................... 62

3.1.KHÁI NIỆM ĐỘC THOẠI NỘI TÂM: ......................................................... 62

3.2.HÌNH THỨC ĐỘC THOẠI NỘI TÂM ......................................................... 65

3.2.1.Độc thoại nội tâm với bôn tiểu thuyết tiêu biểu của Hemingway: .......... 65

3.2.2.Các hình thức độc thoại nội tâm:.............................................................. 67

3.2.3.Độc thoại nội tâm và những vấn đề chiến tranh, tình yêu, hạnh phúc,

triết lí về cuộc đời: ............................................................................................... 74

CHƯƠNG 4: ĐỐI THOẠI – ĐỘC THOẠI NỘI TÂM VÀ NHỮNG THỦ

PHÁP NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC KHÁC ...................................................... 82

4.1.NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT TIÊU THUYẾT CỦA

HEMINGWAY ....................................................................................................... 82

4.2.ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI NỘI TÂM VỚI BÚT PHÁP TƯỢNG TRƯNG,

HÀI HƯỚC ............................................................................................................. 89

4.2.1. Đối thoại, độc thoại nội tâm với bút pháp tượng trưng .......................... 89

4.2.2.Độc thoại nội tâm với bút pháp hài hước: ................................................ 92

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 93

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 99

1/TIẾNG VIỆT ....................................................................................................... 99

A/ TÁC PHẨM VĂN HỌC ................................................................................. 99

B / BÀI BÁO VÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ............................................ 99

C/NHÓM TÁC GIẢ .......................................................................................... 107

2/TIẾNG ANH ...................................................................................................... 108

PHỤ LỤC ......................................................................................................... 109

TƯ LIỆU VỀ MỘT SỐ PHÁT BIỂU CỦA HEMINGWAY NHỮNG TRANG

ĐỘC THỌAI NỘI TÂM TIÊU BIỂU TRONG TIỂU THUYẾT

HEMINGWAY ..................................................................................................... 109

1/Hemingway trả lói phỏng vấn tại Đại hội lần thứ hai các nhà văn Mĩ năm

1937: .................................................................................................................. 109

2/Thư của Hemingway gửi đến buổi lễ trao giải Nobel văn học năm 1954, do

Giôn Kebốt đọc tại buổi lễ: ............................................................................... 113

3/Những trang độc thoại nội tâm tiêu biểu: .................................................... 114

MỞ ĐẦU

1/LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Từ những năm đầu thế kỉ XX, văn học Mĩ bắt đầu có tiếng vang rộng rãi trên

văn đàn thế giới. Dư luận ngày càng chú ý tới những nhà văn xuất sắc như Wiliam

Faulkner, John Doss Passos, Ernest Hemingway .... Trong đó Ernest Hemingway là

người tiếp nối Wiliam Faulkner đoạt giải Nobel văn chương năm 1954. Từ đó đến nay

ông đã để lại cho nhân loại một tài sản vô giá. Tuy không nhiều về số lượng nhưng đã

chuyển tải được những vấn đề bức thiết có tính muôn thủa của nhân loại. Đặc biệt,

người Mĩ luôn tự hào về ông như một nhà văn "pop" nhất của họ. Tác phẩm của

Hemingway được tính đến đơn vị chữ, với ấn hành hàng chục triệu bản. Hơn nữa, họ

cũng rất tự hào, vì cho tới bây giờ Hemingway vẫn là một trong những nhà văn Mĩ,

viết hay nhất về đề tài chiến tranh, tình yêu, lòng trắc ẩn, và thân phận con người.

Cùng với những đóng góp về phương diện hình thức, ông được ghi nhận là một

trong những bậc thầy của văn xuôi tự sự thế kỉ XX. Nghệ thuật đặc sắc của

Hemingway có ảnh hưởng vồ cùng to lớn đối với nhiều nhà văn trên thế giới.

Tơriphônốp đã khẳng định :

"Hemingway là một trong những nhà văn gây nên sóng gió trong cái biển cả

mênh mông là văn học. Hai chục năm qua, ảnh hưởng của Hemingway mạnh đến nổi

như là tạo ra một thước đo mới cho văn xuôi. Trong một thời gian dài dường như

không ai thoát khỏi ảnh hưởng của ông".[103, 2]

Với độc giả Việt Nam, Hemingway là một nhà văn rất quen thuộc và gần gũi từ

hơn bốn mươi năm qua. Sáng tác của ông đã và đang thu hút sự quan tâm của giới phê

bình, nghiên cứu văn học. Nhiều tác phẩm đã được giảng dạy ở chương trình phổ

thông và đại học.

Các công trình nghiên cứu về Hemingway gần đây phần lớn có tính chuyên sâu,

nhiều nhà nghiên cứu đã tập trung khai thác những đặc sắc về nội dung cũng như về

nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Hemingway. Tuy nhiên, đi sâu vào

nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của Hemingway thì chưa có

công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống. Đó chính là hướng phát triển

của đề tài.

2/ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Cuộc đời và tác phẩm của Hemingway hơn nửa thế kỉ nay, đã thu hút sự chú ý

của các nhà phê bình, nghiên cứu trên toàn thế giới. Với những bài viết, những đánh

giá, nhận xét về tác giả, tác phẩm đăng rải rác trên các báo, tạp chí, các công trình

nghiên cứu, chúng tôi thu thập được, có thể hệ thống lại như sau:

2.1/ Tiếng Việt:

Năm 1961 có bài của Thu Liễu in ở báo "Tin sách tháng 4 và 5-1961". Tác giả

điểm qua sơ lược cuộc đời đầy sôi động của Hemingway cùng những tác phẩm tiêu

biểu như "Giã từ vũ khí", "Chuông nguyện hồn ai”, “ông già và biển cả" .... Bài viết

khẳng định đối với Hemingway "Mỗi tác phẩm là một sự khởi đầu, mà từ đó mỗi nhà

văn chân chính phải cố làm lấy một cái gì chưa có ai làm bao giờ".

Năm 1962, hồi kí "Con người năm tháng và cuộc đời" của I. Erenburg do

Nguyễn Thụy ứng dịch in trong "Chân dung văn học", bài viết có tựa đề

"Hemingway" đã cung cấp một số quan niệm của Hemingway về cuộc sống và sứ

mệnh của nhà văn ... "Thử hỏi tất cả các nhà văn trên đời này đã viết và đang viết về

những gì ? Có thể đếm được trên đầu ngón tay: tình yêu, cái chết, lao động, đâu tranh

tất cả các cái khác đều qui tụ vào đó hết". [150, 176]

Cũng trong năm này, tạp chí văn học số 12/1962 đăng bài giới thiệu tiểu thuyết

"Ông già và biển cả" của Phong Lê. Tác giả phân tích một số nét đặc sắc về nghệ thuật

của Hemingway. Ông bày tỏ quan điểm ... "Ta trân trọng một cách nhìn rất hiện thực

về con người sở dĩ có được chính đo lòng tha thiết tin yêu con người của

Hemingway". Bên cạnh đó ông còn khẳng định: "Chủ nghĩa nhân đạo của Hemingway

biểu hiện rõ ràng trong triết lí của câu chuyện. Con người không bao giờ chịu thua

trong khi phấn đấu để sống còn. Con người có thể bị tiêu diệt nhưng không hề bị

khuất phục".

Năm 1963, Phạm Thành Vinh giới thiệu tác phẩm "Chuông nguyện hồn ai". Tác

giả giới thiệu sơ lược tiểu sử, tác phẩm, đồng thời phân tích một số đóng góp trên

phương diện nghệ thuật của Hemingway.

Năm 1965 trên tạp chí Văn - Sài Gòn số 41, một đặc san tập trung khá nhiều bài

viết về Hemingway cùng những tác phẩm tiêu biểu của các nhà nghiên cứu trong và

ngoài nước. Tiêu biểu như "Hiểm nghèo là tấm gương soi", bài của Archibald

Macleish do Lê Bá Rông và Bửu Nghi dịch. Bài viết đưa ra quan niên của Hemingway

về công việc nhà văn: "Nhận thức bằng ngôn ngữ, nhận thức cảm giác thực sự xảy ra

trong hành động, và nhận thức cảm giác thực sự của mình, chứ không phải cảm giác

mà mình tưởng rằng mình có bằng ngôn ngữ". Philip Young trong bài nghiên cứu

"Thế giới của Hemingway" đã đưa ra nhận định: "Thế giới của Hemingway là một thế

giới trong đó, mọi vật không phất triển, và mang lại kết quả nào, mà trái lại nổ tung,

suy tàn và tan rã đi. Nó không suy sụp hẳn là nhờ khả năng, sức chịu đựng và lòng can

đảm của con người, nhờ những cuộc yêu thương ngắn ngủi trong những ngày nghỉ

phép, nhờ những cuộc đi thăm nước ngoài, đi câu và đi săn, hoặc những phút ngồi

quán cà phê, ngoài ra không còn gì hơn nữa". Đây là một trong những bài viết có

nhiều gợi ý liên quan đến đề tài. Ngoài ra Philip Young còn điểm sơ một số nét về

nghệ thuật viết của Hemingway trong bài "Văn Ernest Hemingway".

Đặc biệt chú ý là bài nghiên cứu "Ernest Hemingway" của Trần Phong Giao.

Trong bài viết của mình, tác giả đã tóm tắt sơ bộ cuộc đời và các tác phẩm tiêu biểu

của Hemingway. Trần Phong Giao đề cập đến triết lí về cuộc đời của Hemingway ở

tác phẩm "The sun also rises" (mặt trời vẫn mọc) : "Cứ đi tìm ý nghĩa của cuộc sống,

rồi sau chót, có thể là ta sẽ hiểu được, là thật ra cuộc sống có chứa đựng những gì,

sống trong một thế hệ, dù lạc lõng hay không, cái ý nghĩa cao đẹp nhất vẫn là trưởng

thành và biết sống cho ra sống". Hoặc trong tác phẩm "For whom the ben tolls"

(Chuông nguyện hồn ai), nhà văn nhận thức một cách sâu sắc: "Không con người nào

có thể sống lẻ loi như một hòn đảo, ẩn nấp trong vỏ cứng "cái tôi" mà thật ra mỗi

người chỉ là một mẩu đất nhỏ của đại lục, một phần của tất cả".

Tháng 2/1966 tạp chí văn học đăng bài "Nhà văn ở Mĩ" của Mai-cơn-Giôn, do

Cao Huy Đỉnh dịch. Tác giả nhận định, Hemingway thuộc "thế hệ lạc lõng", sau đại

chiến đã mất hết ảo tưởng đối với chủ nghĩa đế quốc Mĩ, và đưa vào văn học một thứ

chủ nghĩa bi quan thất bại chưa từng thấy.

Năm 1970 - Tạp chí văn học đăng bài viết "Hemingway, con người và nhà văn"

của Irving Howe. Do Phạm Hữu Hào dịch. Trong bài viết tác giả nói đến những quan

niệm về xã hội, luân lí của Hemingway và các nhà văn như Fitzgerald, Cumming và

Dos Passos. "Họ cũng không đi tìm kiếm những giá trị mới ; họ không có ảo vọng đó

nữa ; số phận của họ là phải sống trong cảnh bấp bênh (...). Bi kịch của họ là nền luân

lí không còn nữa. Đó là vấn đề của những nhân vật mang thương tích trong tác phẩm

của Hemingway".

Tháng 6/1977, Lê Đình Cúc với bài nghiên cứu khá kĩ những tiểu thuyết của

Hemingway "Hemingway và những tác phẩm tiêu biểu của ông". Tác giả phân tích ba

tiểu thuyết nổi tiếng của Hemingway như : "Giã từ vũ khí", "Chuông nguyện hồn ai"

và "Ông già và biển cả". Tuy nhiên cách phân tích tác phẩm của tác giả Lê Đình Cúc

chú ý tập trung vào đề tài chiến tranh. Tác giả có điểm sơ qua nghệ thuật đối thoại,

độc thoại nội tâm, cách dùng ngôn ngữ giản dị của Hemingway.

Năm 1980- Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 13 đăng bài "Bố già

Hemingway" của nhà văn Hotsne. Bài viết là một đoạn trích trong hồi kí của Hotsne,

bạn thân của Hemingvvay. Tác giã đã ghi lại những kỉ niệm thân thiết với

Hemingway, cùng những đánh giá về cuộc đời và sáng tác của Hemingway.

Năm 1981, Văn nghệ hội nhà văn Việt Nam có bài “Hemingway trong mắt tôi”

của Gabrien Gácxia Máckét, do nhà văn Nguyễn Văn Bổng dịch. ở bài viết tác giả nói

đến nghệ thuật viết văn của Hemingway cùng những công việc của nhà văn. Trong đó

có đoạn "Rất khó giải thích bao nhiêu lỗ hổng trong cấu trúc và bao nhiêu sai sót trong

vận dụng văn chương đối với một nhà kĩ thuật khôn khéo như vậy, cũng như rất khó

giải thích những đối thoại giả tạo, có khi gian đối nơi một người thợ mài giũa đối

thoại lừng lẫy trong lịch sử văn học như Hemingway".

Tháng 8/1981 - Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh đăng bài "Nỗi sợ của

Hemingway" do Lưu Kiểng Xuân viết. Tác giả bài viết đưa ra những nhận định rất

xác đáng, bổ ích về sự nghiệp văn chương cửa Hemingway.

Năm 1984 -Tạp chí văn học in bài "Sự tham gia của nhà văn trong chiến tranh"

do Vương Trí Nhàn viết. Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả nhận định

"Hemingway không miêu tả chiến tranh như ông đã nhìn thấy, điều mà nhà văn quan

tâm ở đây là những ám ảnh chiến tranh để lại trong đời sống tinh thần và số phận con

người".

Năm 1985 -Nhà nghiên cứu Lê Đình Cúc đăng hai bài ở tạp chí văn học: "Bi

kịch của Hemingway”, tác giả nói đến bi kịch của các nhà văn thuộc thế hệ "lost

generation" ( thế hệ mất mát ), đó là bi lạch của những con người nhạy cảm, thông

minh, biết nhìn những mặt trái kinh tởm của xã hội tư sản. Đó là bi kịch của cả "nước

Mĩ tươi đẹp"nhưng đã biến hoá mà "có qủy mới biết là nó sẽ thành cái gì". Lê Đình

Cúc còn điểm qua những đặc điểm cơ bản của ngòi bút Hemingway. Ngoài ra còn có

bài "Nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway". Lê Đình Cúc đã nói đến bút pháp tượng

trưng và hài hước trong tiểu thuyết của Hemingway. Cũng trong năm này, Văn nghệ

hội nhà văn Việt Nam đăng bài "Hemingway với biển cả "của Phương Mai. Bài viết

chủ yếu nói về những cuộc phiêu lưu của nhà văn Jrên biển, cùng những ngày tháng

tham gia chiến tranh thế giới lần thứ 1, lần thứ 2.

Nhìn chung, những bài viết từ 1985 trở về trước chủ yếu mang tính chất tư liệu,

hoặc nếu có tác giả nói đến nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway cũng chỉ dừng lại ở

cách phân tích xã hội học quen thuộc, hoặc có người chỉ nói sơ qua một số đặc trưng

nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway, chưa có bài viết nào phân tích một cách hệ

thống những tiểu thuyết của Hemingway từ góc độ thi pháp học.

Tháng 7/1986 - Kỉ niệm 25 năm ngày mất của Hemingway ( 1961-1986), Văn

nghệ quân đội đăng bài "Bắt đầu từ chỗ đứng của một người lính" đo Vương Trí Nhàn

viết. Tác giả bước đầu phân tích sự nghiệp Hemingway từ cái nhìn đổi mới so với

những nhà văn lớp trước. Từ nghệ thuật xây dựng nhân vật, đến nghệ thuật kết cấu tác

phẩm, nghệ thuật đối thoại, nghệ thuật độc thoại nội tâm, và những đóng góp của ông

vào sự đổi mới văn học phương Tây hiện đại. Đây là một bài viết có nhiều điểm gần

gũi với những vân đề luận văn nghiên cứu.

Năm 1990, nhân bàn về "Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới", giáo

sư Phùng Văn Tửu đã phân tích tác phẩm "ông già và biển cả" để chứng minh cho

luận điểm "Tiểu thuyết là tiền đề của tiểu thuyết". Bài viết tập trung phân tích kĩ

những đặc trứng độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết "Ông già và biển cả" của

Hemingway. Tác giả đã đề cập đến một số vấn đề đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết

của Hemingway.

Tháng 2/1991- Tác phẩm mới đăng bài "người chết 100 lần trước khi chết" của

Lê Đình Cúc. Bài viết bàn sôi nổi về cái chết bí ẩn vào ngày 1/6/1961 của

Hemingvvay. Tác giả còn bàn đến cuộc đời phong phú li kì của nhà văn. Cuối cùng Lê

Đình Cúc nhấn mạnh "toàn bộ tác phẩm của Hemingway đều toát lên tư tưởng chống

chiến tranh, ca ngợi phẩm giá của con người với tất cả những cái tốt đẹp của chủ

nghĩa nhân văn, nhân bản ở con người. Nhưng khủng khiếp hơn chiến tranh là sự tha

hoa của tâm hồn con người. Trong chiến tranh con người trỏ nên xa lạ, họ trở thành

thú dữ. Chiến tranh đẩy con người trở lại không chỉ là "thời kì đồ đá" trong đời sống

vật chất mà nguy hại hơn là trong đời sống tinh thần và tình cảm của con người.

Năm 1992, giáo sư Đặng Anh Đào trong văn học phương Tây, tập 3 đã viết về

Hemingway dưới cái nhìn của thi pháp học. Tác giả phân tích nguyên lí tảng băng trôi

cùng ba tiểu thuyết tiêu biểu của Hemingway như "Giã từ vũ khí", "Chuông nguyện

hồn ai", "Ông già và biển cả".

Năm 1996, Lê Huy Bắc đăng bài "Vai trò kể chuyện của nhân vật trung tâm

trong sáng tác của Hemingway" trong "Thông báo khoa học của trường Đại học sư

phạm Hà Nội". Tác giả đề cập đến vai trò người kể chuyện ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ

ba của Hemingway cùng những đổi mới của Hemingway ở phương diện này.

Trong năm này, tạp chí văn học cũng đăng bài "Đồng hiện trong văn xuôi" của

tác giả trên. Trong đó Lê Huy Bắc đề cập đến thủ pháp đồng hiện, độc thoại nội tâm

và dòng ý thức đã trở thành một trong những phương thức chủ yếu của Hemingway.

Năm 1997, tạp chí văn học số 3 đăng bài nghiên cứu của Huy Liên "Tìm hiểu

phong cách nghệ thuật qua các truyện ngắn của nhà văn Ernest Hemingway". Nhà

nghiên cứu đã phân tích sự thống nhất giưã nhân cách và phong cách sống, với phong

cách nghệ thuật. Ông đã khẳng định :"Tác phẩm của Hemingway có đặc điểm là cô

đọng và hàm súc hơn nhiều so với chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX. Ngôn từ ngắn gọn,

các sự kiện không nhiều Đây là một bài viết có nhiều nét gần gũi với đề tài của luận

văn.

Tạp chí văn học số 11 năm 1999 kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Ernest

Hemingway ( 1899-1961 ) đăng bài "Am hưởng thời đại trong Hemingway" của Lê

Huy Bắc. Bài viết phân tích khá súc tích, đầy đủ những đặc điểm nghệ thuật của nhà

văn Hemingway.

Tác phẩm mới số 4, 1999 cũng đưa những suy nghĩ về tiểu thuyết của nhà văn

Vũ Tú Nam "Nhân đọc Chuông nguyện hồn ai của Hemingway". Nhà văn ca ngợi

nghệ thuật tiểu thuyết độc đáo của Hemingway "ở Hemingway vừa có truyền thống

Mĩ, vừa có hơi thở của biển và rừng, có máu của Nam Mĩ và Tây Ban Nha. ông là nhà

văn của sự quyết liệt, của máu, của đấu bò, của súng săn, của bão biển; đồng thời là

nhà thơ của tình yêu, của bầu trời xanh. Ông đã sống và chết đúng như nhân vật của

ông. Ông đã sống cho đến khi chết và đã chết như chính ông và Jordan đang sống .

Năm 1999, kỉ yếu khoa học khoa ngữ văn, đại học sư phạm TP HCM cũng đăng

bài "Thế giói truyện ngắn Hemingway - Nick Adams và những ám ảnh" của Trần Thị

Thuận. Trong bài nghiên cứu của mình, tác giả đã nói những ám ảnh trong sáng tác

của Hemingway về cái ác, cái chết và cái cô đơn.

Ngoài ra trong năm này còn có một số bài đăng trên các tạp chí: Thế giới mới,

An ninh thế giới, Văn nghệ. Các bài viết chủ yếu là giới thiệu sơ lược về nhà văn,

cùng tác phẩm của ông nhân kỉ niệm lần thứ 100, ngày sinh của ông.

Ngoài ra, phải kể đến một số luận văn sau đại học của Phan Thu Hiền, Trần Thị

Thuận, Lê Huy Bắc, là những công trình nghiên cứu có giá trị.

Tháng 10/1999 Lê Huy Bắc xuất bản "Ernest Hemingway- núi băng và hiệp sĩ”.

Đây có thể xem là một tập nghiên cứu có giá trị khá đầy đủ về sáng tác của

Hemingway.

Năm 2000 Lê Huy Bắc tuyển chọn và giới thiệu "Ernest Hemingway và những

người đi qua đời ông", đây là tập tuyển chọn giới thiệu chọn lọc về nhà văn qua các

nhà nghiên cứu trên thế giới.

Qua tất cả những tài liệu thu thập được bằng tiếng việt có liên quan, hoặc không

liên quan trực tiếp đến đề tài, người viết nhận thấy số lượng bài viết về Hemingway

tương đối nhiều, hầu hết chỉ nhằm giới thiệu chung về nhà văn. Các công trình nghiên

cứu chuyên sâu chỉ tập trung ở một số người như giáo sư Đặng Anh Đào, giáo sư

Phùng Văn Tửu, ông Vương trí Nhàn, Lê Đình Cúc, Lê Huy Bắc và Phan Thu Hiền.

2.2/Tiếng Anh

1957: Literary history of the United States by Robort E. Spiller tác giả đã tổng

thuật lịch sư văn học Mỹ từ thế kỷ XVII, phần được viết rõ nhất là thế kỷ XIX yàXX.

1960: Literature and the American Tradition by Leon Howard (văn học và

truyền thông Mĩ). Tác giả đã bước đầu so sánh bút pháp của Hemingway với Faulner.

1961: The shapers of American Fiction by George Suell ( những đáng vẻ của

tiểu thuyết Mĩ ).Tác giả đề cập đến chiều thời gian trong tiểu thuyết của Hemingway.

Đặc biệt tác giả nhận định "Thế hệ vứt đi" đã cố gắng kiếm tìm những giá trị đích thực

của con người bên dưới những giá trị bị vứt bỏ bởi việc làm tan vỡ ảo tưởng.

1962: Hemingway : A collection of critical essays. Trong đó có những bài liên

quan trực tiếp đến đề tài như "Hemingway's Ambiguity : Symbolism and Irony" (sự

mơ hồ, tượng trưng và châm biếm ở Hemingway), "Observations ôn the style of

Ernest Hemingway" (Những đánh giá về bút pháp của Hemingway). "Ernest

Hemingway's religion of man" (Tín ngưỡng con người của Hemingway) ...

1964: American literature by porter, Terrie ( văn học Mỹ: chúng tôi chú ý những

đánh giá giới thiệu về mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm đặc biệt là sự đánh giá

tiểu thuyết "ông già và biển cả".

1974: "Hemingway and life as play" by E. Elliot ( cuộc sông như một vở kịch).

Tác giả phân tích các sáng tác của ông, đôi chiếu với tiểu sử để chứng minh sự gần gũi

giữa tác giả và tác phẩm.

Nhìn chung, những công trình và bài viết chủ yếu là những nhận định, đánh giá

chung về tác giả và tác phẩm. Tuy nhiên có một số nhận định là những gợi ý thiết thực

đối với đề tài của chúng tôi.

3/ GIỚI HẠN VẤN ĐỀ

3.1.Tác phẩm khảo sát

Chúng tôi chọn 4 tiểu thuyết thành công nhất của Hemingway đã được dịch ra

tiếng việt và tái bản nhiều lần :

"Mặt trời vẫn mọc" bản dịch của Bùi Phụng, từ nguyên bản tiếng Anh của nhà

xuất bản New York TheViking Press năm 1944, tái bản năm 2000.

"Giã từ vũ khí" chúng lôi chọn bản dịch của Giang Hà Vỵ, xuất bản năm 1987 -

Nhà xuất bản mũi Cà Mau.

"Ông già và biển cả " bản dịch của Huy Phương tái bản năm 1986 và bản dịch

của Lê Huy Bắc năm 1999. Khi nghiên cứu chúng tôi có đối chiếu với bản tiếng Anh

"The old man and the sea" by Charles Scribner's Sons, New York.

"Chuông nguyện hồn ai" bản dịch của Nguyễn Vĩnh, Hồ Thế Tân tái bản năm

1987 và bản dịch của Huỳnh Phan Anh, xuất bản năm 1995.

Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo một số truyện ngắn khác của Hemingway.

3.2.Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài luận văn trên cơ sở theo đúng phương

hướng nghiên cứu văn học của quan điểm Mác xít. Xem tác phẩm văn học là một

chỉnh thể nghệ thuật, với sự thống nhất hữu cơ giữa nội đung và hình thức, Mục đích

nghiên cứu, là nhằm khám phá những giá trị thẩm mĩ đích thực của tác phẩm. Cụ thể,

chúng tôi sử dụng các phương pháp sau :

Khảo sát một cách chi tiết văn bản tác phẩm. Thống kê, phân loại các hình thức

đối thoại, độc thoại nội tâm theo các tiêu chí của những cách tiếp cận khác nhau. Phân

tích tỉ mỉ văn bản về kết cấu, liều lượng, nghệ thuật sử dụng các dạng đối thoại cũng

như độc thoại nội tâm. TO đó rút ra những kết luận chính xác. Trong quá trình khảo

sát chúng tôi chủ yếu sử dụng văn bản dịch, tuy nhiên ở những chương quan trọng

chúng tôi có đối chiếu bản địch với tác phẩm nguyên tác bằng tiếng Anh.

Tiếp cận hệ thống:

Chúng tôi xem xét nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm trong mối quan hệ với

các phương tiện xây dựng nhân vật khác. Như nguyên lí "tảng băng trôi thời gian,

không gian, trong quan hệ với các thành phần ngôn ngữ khác như ngôn ngữ tác giả,

ngôn ngữ kể chuyện.

Chúng tôi đồng thời tập trung nghiên cứu mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại

giữa đối thoại và độc thoại nội tâm, vận dụng phương pháp phân tích theo hướng diễn

địch, tức là từ cái duy nhất, đi vào những cái riêng, cụ thể, rồi rút ra kết luận.

Phân tích ý nghĩa nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm trong mối quan hệ với

đề tài, chủ đề, quan niệm nghệ thuật của tác giả, hoàn cảnh sáng tác, hiện thực được

phản ánh.

* Phương pháp đối chiếu so sánh

So sánh nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm của Hemingway với các nhà văn

thế kỷ XIX như Lép Tônxtôi, Xtăngđan, Banzắc từ đó rứt ra những nét đổi mới ở

Hemingway so với các nhà văn thế kỉ trước.

So sánh giữa nghệ thuật đối thoại ở tiểu thuyết với truyện ngắn của Hemingway.

Từ đó rút ra những đóng góp của Hemingway đối với việc đổi mới nghệ thuật tiểu

thuyết phương Tây hiện đại.

4/MỤC ĐÍCH, CÂU TRÚC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

4.1 Mục đích của luận văn:

Việc nghiên cứu, khảo sát nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm trong tiểu

thuyết của Hemingway, chúng tôi nhằm hướng tới những đặc sắc trong biểu hiện nghệ

thuật của Hemingway. Qua đo', tìm ra quan niệm về nghệ thuật của nhà văn,về thế

giới và con người đặc biệt kiểu "con người ý thức". Họ ý thức về sự đổ vỡ của xã hội,

ý thức về sự cô độc của kiếp người ...

Là một giảng viên giảng dạy bộ môn văn học nước ngoài, việc nghiên cứu đề tài

khoa học "Đối thoại và độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của Hemingway" là rất cần

thiết và bổ ích đối với chúng tôi. Đây là dịp để chúng tôi chiêm nghiệm lại,và làm rõ

thêm, những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học. Từ đó, chúng tôi

sẽ tìm hiểu kĩ hơn những vấn đề đổi mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway

nói riêng và tiểu thuyết Phương Tây nói chung.

4.2.Cấu trúc của luận văn:

Luận văn gồm 4 chương Phần mở đầu

Chương 1: Hemingway - Thời đại, con người và tác phẩm:

Ở chương này chúng tôi nêu bật những nét tiêu biểu về cuộc đời huyền thoại của

nhà văn Hemingway, cùng những quan niệm về sáng tạo nghệ thuật của ông.

Chương 2: Những đối thoại bí ẩn:

Chúng tôi nghiên cứu những hình thức đối thoại của Hemingway. Từ đó rút ra

những điểm đặc sắc trong nghệ thuật đối thoại của Hemingvvay như: những đối thoại

lấp lửng, đối thoại bí ẩn, cũng như những đối thoại giả tạo nơi một người thợ mài giũa

đối thoại lừng lẫy như ông. Trong qua trình nghiên cứu, chúng tôi có so sánh với đối

thoại ở một số nhà văn đi trước.

Chương 3: Độc thoại nội tâm

Cũng như đối thoại, chúng tôi nghiên cứu các hình thức độc thoại nội tâm trong

tiểu thuyết của Hemingway. Từ đó chúng tôi đi vào tìm hiểu những suy nghĩ, quan

niệm của nhân vật về tình yêu, tình bạn, quan niệm về sống, chết...

Chương 4: Những nét đặc sắc trong nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway:

Ở chương này, bên cạnh nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm, chúng tôi mở

rộng ra nguyên Vì "Tảng băng trôi " của Hemingway. Chúng tôi nghiên cứu các vấn

đề về không gian, thời gian, cốt truyện, nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng...

Kết luận

4.3.Những kết luận mà nhà văn hướng tới:

Nêu được sắc thái riêng, sự độc đáo của Hemingway trong việc sử dụng nghệ

thuật đối thoại và độc thoại nội tâm qua bôn tiểu thuyết tiêu biểu. Đồng thời phân biệt

rõ đối thoại, độc thoại của Hemingway giông và khác các tác gia khác như thế nào.

Lí giải mối quan hệ chặt chẽ giưã đối thoại, độc thoại nội tâm và các thủ pháp

nghệ thuật khác của Hemingway. Từ đó nêu bật ý nghĩa của nguyên lí “Tảng băng

trôi" trong tiểu thuyết của Hemingway.

Những đóng góp của Hemingvvay trong việc đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết

Phương Tây hiện đại.

CHƯƠNG 1: HEMINGWAY- THỜI ĐẠI - CON NGƯỜI - TÁC

PHẨM

1.1.NHỮNG BIẾN CỐ TƯ TƯỞNG TRONG VĂN HỌC MĨ THỂ KỶ XX

Chưa lúc nào thế giới lại biến động mãnh liệt, nhanh chóng như ở thế kỉ này.

Trên khắp mọi lĩnh vực, từ triết học, kinh tế, khoa học kĩ thuật đều có sự đổi thay đến

chóng mặt. Chỉ tính riêng về số lần chiến tranh có tầm cỡ thế giới, phải hơn hai mươi

thế kỉ mới có ba cuộc chiến tranh, trong khi ấy chưa đầy ba mươi năm đã xảy ra hai

cuộc chiến tranh thế giới khủng khiếp mà trong đó có người Mĩ tham gia.

Cùng với những thảm họa đang giáng xuống con người, nhiều hệ thống triết học

ra đời nhằm thay thế nến tảng luân lí cũ, cứu nhân loai khỏi thảm họa diệt vong. Nổi

bật với thuyết siêu hình của Fr. Nietzsche, thuyết trực giác của Bergson, thuyết hiện

sinh của J.p Sartre và duy vật biện chứng của Marx -Engels ... Gắn với các triết thuyết

ấy là những trào lưu văn học nở rộ, dù có chiu ảnh hưởng trực tiếp hay không cũng đã

minh chứng cho các luận thuyết trên. Có thể kể trường phái đa đa, siêu thực, tượng

trưng và Tiểu thuyết mới ... Những trường phái ấy không chỉ biểu hiện cho vô số

những tiếng nói khác nhau, mà còn bộc lộ sự "đoản mệnh". Vừa xuất hiện chúng liền

biến tướng chuyển ngay sang hình thức của trường phái khác. Hoặc ngay chính trong

bản thân một nhà văn, chuyển di từ chủ nghĩa này sang chủ nghĩa kia là hiện tượng

phổ biến của thế kỷ XX. Điểu ấy đã bộc lộ tính chất bất thường của thời đại.

Trước thực tế phũ phàng, đối với nhiều người Mĩ, niềm hi vọng về một sự tiến

hoa của châu Âu và thế giới thế kỷ XX đã biến mất. Trên thực tế "Sự thay đổi đó

không khác gì bước lùi từ mùa xuân trở lại mùa đông". Mark Twain trong tác phẩm

của mình đã xác nhận rằng: "Đời là hoàn toàn xâu xa", cũng như với John Gray "Mọi

việc đều chứng tỏ đời là trò đùa", nhất là với những con người mà tâm hồn bị "tàn

phế", họ chỉ còn biết trú ẩn trong "tháp ngà" của riêng mình. Chiến tranh đã dạy cho

người Mĩ hiểu thế nào là bạo lực, sức mạnh, sự mong manh của kiếp người. Một tinh

thần chối bỏ thực tại để thoát khỏi những ám ảnh đã xâm nhập vào đời sống văn học,

cả trong tác phẩm lẫn trong cuộc đời nhà văn. Một số người như Gertrude Stein, Eliot,

Pounđ cùng một số môn đệ của họ sang châu Âu, tản mát khắp các nơi, nhưng tụ họp

đông nhất ở Paris, nơi đang thịnh hành một đời sống văn học thích hợp với họ. Họ coi

nước Mĩ là một nước xa lạ và phải nhiều năm sau họ mới có thể thích ứng trở lại với

đời sống Mĩ. Ngay ở tại quê hương của mình, một số nhà văn đã tự nguyện cô lập

mình như Greenvvich Village, họ đã hình thành một xã hội riêng biệt, đối lập quyết

liệt với lối sống Mĩ. Tuy vậy, những chao đảo trong tư tưởng của các nhà văn không

tồn tại lâu. Theo Hemingway thì trong thời buổi này, con người đã phải quen với

những thực tế phũ phàng, những cuộc vật lộn đầy máu lửa trong chiến tranh không dễ

gì làm cho con người ta dễ bị xúc phạm hơn là cứ giữ mãi tâm hồn lãng mạn. Vào

khoảng những năm hai mươi, đã xuất hiện một thế hệ nhà văn mới. Phần đông trong

số họ đều là những người chịu ảnh hưởng sâu xa của những năm loạn lạc sau chiến

tranh thế giới thứ nhất, và họ nhiệt thành muốn lưu đấu lại những điều họ cảm nghĩ về

thời đại của họ. Thế hệ này kịch liệt đả kích nền văn minh mà họ đa ít nhiều nhận

thấy, họ cảm thấy chiến tranh đã làm cho tâm hồn con người tan rã. Họ cố gắng đi tìm

trong con người những giá trị chân chính làm cho con người có thể sống được trong

thời bình. Họ không nhìn về qua khứ, mà nhìn về tương lai. Tuy vậy trong thời kì lộn

xộn chiến tranh, những dự cảm của họ không hoàn toàn rõ ràng, mạch lạc. Trong các

tác phẩm, ta nhận thấy bàng bạc một cuộc sống bấp bênh, tuyệt vọng mà con người

phải hứng chịu "Một thế giới ghê tởm đang lăn trên bờ vực thẳm". Lịch sử những

cuộc chiến đi qua, sau sự lắng đọng của thời gian, chúng ta phải công bằng nhìn nhận

rằng, trong thẳm sâu mỗi nhà văn, họ đều thực lòng đi tìm những gia trị khả dĩ, cứu

nhân loại khỏi thảm họa diệt vong. Và trước khi những giá trị mới đó được nhận ra,

hiểu thấu và chấp nhận, thì nhiều giá trị cũ đối với họ không thể còn chấp nhận được

mà phải kiên quyết xoa bỏ. Bên dưới những lời châm biếm chua cay, các nhà văn

muốn tìm đến một cuộc đời thật xứng đáng, trong đó tinh thần con người phải được

cải thiện tốt đẹp hơn. Ẩn dấu trong giọng hoài nghi, các nhà văn vẫn ngầm nuôi một

niềm tin ở sự tồn tại của cuộc đời. Mặc dầu những tác phẩm của họ còn nhiều chỗ văn

phong phóng túng, nhưng chúng vẫn rất ý nghĩa bởi những giá trị sâu sắc của một

thiến hướng đạo đức lành mạnh.

Tiểu thuyết Mĩ khởi sắc với những nhà văn trưởng thành sau chiến tranh thế giới

thứ nhát Thế hệ này bao gồm những nhà tiểu thuyết tiên phong trong việc "đổi mới

các phương pháp và các nguồn cảm hứng". Họ đã khai sinh ra kỉ nguyên văn học mà

người ta gọi là "Kỉ nguyên của tiểu thuyết Mĩ".

SINCLAIR LEWIS (1885-1951) là nhà văn tiên phong trong số các nhà văn Mĩ

đoạt giải Nobel ve văn chương. Ong đã rất thành công trong việc xây dựng bức tranh

toàn cảnh về đời sống Mĩ và con người Mĩ những năm 1920-1930. Trong các tác

phẩm của mình như "Main Street" ( phố chính, 1920) Lewis đã tỏ rõ thái độ bất bình

của mình đối với đời sống xã hội, của chủ nghĩa tư bản Mĩ đang trên đà phát triển

ngay từ đầu thế kỷ XX, với những bất công thối nát vô phương cứu chữa. Tiếp đó là

tiểu thuyết "Babbit" ( 1929 ), nhà văn đã xây dựng nên một thế giới mơ ước, những

con người mơ ước kiểu viễn tưởng như Wells, Antole Prance cho một xã hội công

bằng, hạnh phúc. Tiểu thuyết "Arrow Smith" thể hiện thái độ quyết liệt của Sinclair,

thông qua nhân vật Gottlitb, ông chống lại sự sa đọa về đạo đức của giai cấp tư sản

hãnh tiến, đang nắm vật chất của xã hội trong tay, họ là bọn người gian dối, tham lam,

đê tiện. Lewis châm biếm, mổ xẻ, đả kích nước Mĩ tư bản, xây dựng một xã hội trong

sáng theo kiểu B. Shaw và Wells vẫn ước mơ. Ông mổ xẻ tất cả những xấu xa trong

xã hội Mĩ. Tác phẩm của ông là luận đề về đời sống và đạo đức của xã hội thời đó, là

những bức tranh sinh động của nền văn minh Mĩ trong thế kỉ XX.

THOMAS WOLFE (1900-1938), với những tác phẩm phản ánh hiện thực đời

sống Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Wolfe chú ý vào đề tài "giải phẫu" nước

Mĩ qua sự phân tích ở một thành phố nhỏ chịu ảnh hưởng của tinh thần Thanh giáo.

Tiểu thuyết "Căn lều và đá" (1939 ) là một ví dụ. Wolfe có những ảnh hưởng nhất

định đến bộ mặt văn học Mĩ. Sau Wolfe là Scott Fitzgerald ( 1896-1940 ), ông là nhà

văn thuộc "Lost generation" ( thế hệ mất mát). Là thế hệ những nhà văn tham gia

chiến tranh và bị mất lòng tin vào cuộc đời. Tiểu thuyết "Phiá bên này của thiên

đường" (1920 ) được xem là bản tuyên ngôn của thế hệ trẻ sau chiến tranh "Tất cả

thần thánh đều đã chết, tất cả hi vọng của con người đều bị lừa dối". Đó là một thế hệ

không tin vào một cái gì ngoài những thú vui xa xỉ, đôi khi còn bị đẩy đến chỗ phi đạo

đức như trong tiểu thuyết "Gasby vĩ đại" ( 1925 ). Tác phẩm "Đêm êm dịu" (1934 )

mang nặng tâm trạng buồn rầu và chán nản. Những nhân vật trong đó đi tìm phương

thức chữa trị bệnh li uất trong rượu mạnh, khiêu vũ và nhạc Jazz.

JOHN DOS PASSOS (1896-1970 ) là người đã lớn tiếng tố cáo sự vô nghĩa của

các cuộc chiến tranh, đưa ra ánh sáng những khía cạnh đen tối trong nền kinh tế của

nước Mĩ không một chút thương hại. Ông đã trình bày sự hèn nhát và ích kỉ của chủ

nghĩa tư bản. về mặt nghệ thuật, Dos Passos là một nhà cách tân lớn. Trong tác phẩm

bộ ba "ƯSA", ông đã đồng thời đưa ra hàng chục âm mưu khác nhau, đan chéo vào

nhau. Không phân tích tâm lí và không đi sâu vào nội tâm nhân vật, ông xem tiểu

thuyết như "ống kính máy quay phim". Ông nghiên cứu hành vi con người trong xã

hội qua những phản ứng cử chỉ ở nhiều góc độ khác nhau. Để chỉ định thời gian hay

không gian, Dos Passos nhờ đến sự trình bày những mảng thời sự như trích dẫn nhật

báo, diễn văn, áp phích ... Sự cách tân trong nghệ thuật của Dos Passos đã có ảnh

hưởng lớn đến tiểu thuyết Mĩ và tiểu thuyết châu Âu. Đặc biệt là Hemingway (1899-

1961 ), nhà văn tiêu biểu nhất cho"thế hệ mất mát".

WILIAM FAULKNER (1897-1962 ) là một nhà tiểu thuyết xuất sắc của thế kỉ

XX. Tác phẩm của ông là những bức tranh kì vĩ và hùng tráng của con người và thiên

nhiên miền Nam. Trong những kiệt tác ấy, nổi bật nhất là tiểu thuyết "The sounds and

the fury" (Âm thanh và cuồng nộ, 1929 ). Với cách nhìn hài hước có pha chút bi thảm,

ông đã sáng tạo nên một thế giới con người sống động, hỗn độn, quái gở, rối rắm.

Faulkner là nhà văn rất đặc sắc trong nghệ thuật độc thoại nội tầm. Tác phẩm của ông

là những giờ phút của "giằng xé lương tâm" mà trong đó khái niệm thời gian không

còn giá trị. Cách viết của Faulkner đối lập với truyền thống, ông soi rọi vào những

ham muốn khốc liệt nhất, lột trần những ẩn ức được che đấu kĩ lưỡng. Thế giới đen tối

trong tác phẩm của ông chỉ được soi sáng bằng những tia chớp bạo lực. Faulkner là

một trong những nhà văn tiên phong sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật hiện đại

và các trào lưu mĩ học hiện đại trong tiểu thuyết thế kỉ nấy.

JOHN STEINBECK ( 1902-1968 ), là người đã phát tậển truyền thống hiện thực

Mĩ lên một bước mới. "Chùm nho nổi giận" (1939 ) là một tiểu thuyết có tính sử thi,

miêu tả sự phá sản và khốn cùng của những người nông dân Mĩ, bởi sự bóc lột của tổ

hợp nông nghiệp lớn. Nghệ thuật của Steinbeck rất đa dạng. Ông viết thật hóm hỉnh

về những người dân Calffornia khốn khổ, sống ngoài lề xã hội, lười biếng, trộm cắp,

nhưng thật ra lại là những người rất tốt bụng. Trong tiểu thuyết "Căn hộ của Tortilla"

(1935 ). Steibeck cũng đạt đến độ bi tráng hiếm có ở tiểu thuyết. Nhìn chung những

tác phẩm của ông đã miêu tả một cách sâu sắc đời sống của những người nông dân

miền Nam "những người đơn giản, chất phác và những đàm mê man dại của họ

thường bột phát mãnh liệt".

Tóm lại: mỗi tác giả trước những biến cố của thời đại đều có một góc nhìn nhất

định, để tìm tòi một hiện thực mới, một phương thức biểu hiện riêng trên cơ sở kiểu

cảm thụ thẩm mĩ của riêng họ. Trong tác phẩm của mình, đời sống bên trong của con

người được nhìn từ nhiều phiá, nhưng vẫn gặp nhau ở một điểm qui chiếu nào đó, và

sẽ mang lại một cảm nhận chung về nước Mĩ, với những đổ vỡ bất thường của thế hệ

những con người "bên lề" và mang một quan niệm riêng về triết lí nhân sinh.

1.2.HEMINGWAY - CON NGƯỜI VÀ SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT:

1.2.1.HEMINGWAY - một cuộc đời huyền thoại:

1.2.1.1.Tên tuổi nhà văn lớn của nước Mĩ - Ernest Hemingway đã được cả thế

giới biết đến, ca ngợi từ nhiều năm qua. Ông không chỉ nổi tiếng vì sự nghiệp văn

chương, mà còn bởi cuộc đời sông động của ông. Khó ai có thể vẽ thật đầy đủ về chân

dung Hemingway. Bên cạnh một Hemingway to cao lực lưỡng, vai khoác súng săn,

mắt đang nheo cười và đằng sau là núi rừng châu Phi, còn một Hemingway nhà văn,

tay xách máy chữ, tay cầm súng liên thanh xông pha giữa khói lửa chiến tranh. Lại

thêm một Hemingway râu quai nón xồm xoàm, áo sơ mi mở phanh phơi bộ ngực lồng

lộng sóng gió biển khơi, quanh chỗ ông đứng có đủ thứ cá mà ông câu được cùng con

thuyền Pila bằng gỗ sến trắng. Hemingway là như thế đó, sống mạnh mẽ, sôi nổi

nhưng lại rất tinh tế dịu dàng. Là nhà văn danh tiếng nhưng cũng là người câu cá bình

dị, là nhà thể thao (đánh bốc, đá bóng, bơi lội ...) nhưng cũng là một con người nhút

nhát, dễ bối rối trước đám đông.

1.2.1.2.Cả cuộc đời nhà văn là minh chứng hùng hồn cho mẫu người đúng như lí

tưởng của ông : đó là con người vượt qua mọi thử thách trong hoàn cảnh khắc nghiệt

của nhân loại thế kỉ này. Con người can đảm đương đầu với mọi đe dọa của tai ương,

bạo lực và cái chết. Hemingway, một nhà văn cả cuộc đời cầm súng và cầm bút, con

người say mê săn bắn, thích mạo hiểm nơi rừng rậm và biển cả. Hemingway, con

người của những trận đấu bò tót, của những cuộc săn thú rừng ... ông tìm đến những

nơi nguy hiểm không phải để tìm cảm giác mới lạ, mà nhằm "đi tìm ngọn lưa tinh thần

trong con người và trong loài thú". Nói khác đi, ông muốn đối mặt với mãnh thú, đối

mặt với cái chết có thể diễn ra bất cứ lúc nào, để kiểm nghiệm khả năng của con

người, để tìm chất liệu cho những trang viết sống động của mình. Qua đó truyền đến

độc giả niềm tin rằng con người là bất diệt, không bao giờ khuất phục trước những thế

lực thù nghịch với con người.

1.2.1.3.Suốt đời mình Hemingway luôn sống cho một lí tưởng tiến bộ vì nhân

loại và hạnh phúc của mọi người. Để viết được những trang sinh động và chân thực về

chiến tranh, Hemingway đã tình nguyện vượt Đại Tây Dương sang Italia tham dự

chiến tranh thế giới thứ nhất. Ông đã chiến đấu như một người lính để rồi ra khỏi cuộc

chiến tranh này với 237 mảnh đạn và xương đầu gối bịt bạc. Hemingway đã tham dự

ba cuộc chiến tranh lớn nhất của thế kỉ này ( chiến tranh thế giới lần thứ nhất, chiến

tranh thế giới lần thứ hai, chiến tranh Tây Ban Nha) và một số cuộc chiến tranh nhỏ

hơn như chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ .... Có thể nói chiến tranh và đề tài chiến tranh luôn

gắn bó với nhà văn. ở mảng đề tài này Hemingway có dịp nhìn thấy "chiến tranh

không chỉ mang đến cái chết mà còn mang đến sự sống của con người". Trên chiến

trường ông nhìn thây được những mặt tốt đẹp nhất của con người, như đức tính dũng

cảm, phẩm chất nhân văn, khả năng đứng vững, ý chí và cả những sự thấp hèn, sự bất

lực và yếu đuối của con người. Đặc biệt bất cứ ở hoàn cảnh nào, Hemingway luôn thể

hiện tư cách mã thượng của một đấu sĩ trong cuộc sống và trên trang viết. Những nhân

vật của ông thể hiện mình một cách trọn vẹn, không che đậy, dấu điếm chỗ mạnh chỗ

yếu bên trong của mỗi con người. Thế nhưng trong con người Iiemingway có rất

nhiều mâu thuẫn, không ai có thể hiểu hết được cuộc đời nhà văn này. Vì thế nó có

sức cuốn hút kì lạ cũng như không ai có thể hiểu hết tác phẩm của ông, dù là một

truyện ngắn bình dị nhất.

1.2.1.4.Lòng yêu thiên nhiên được hình thành rất sớm ở Hemingway, nếu mẹ là

người muôn ông đi vào con đường âm nhạc thì cha lại là người hướng Hemingway

đến thiên nhiên. Bầu không khí thoáng đãng của những hồ nước, dòng suối đầy cá hồi,

cũng như những cánh rừng đầy muông thú đã quyến rũ Hemingway. Đặc biệt ông rất

yêu biển, suốt đời mình gắn bó với biển. Ông xẻ chia với biển cả mọi cay đắng ngọt

bùi của đời mình. Gần như tất cả tác phẩm của ông, ngoài thời gian tham dự chiến

tranh, lấy tư liệu ... đều được Hemingway viết trên bờ biển như biển Caribê, biển

Bimiami, đảo Oét Cây, biển La Habana.

1.2.1.5.Năm 1954, hội đồng giải thưởng Nobel quyết định tặng giải về văn học

cho ông vối tác phẩm "ông già và biển cả", nhưng ông không đến nhận. Hành động

này đã làm cho tên tuổi'của Hemingway càng chối sáng hơn.

Goethe khi bàn luận về giá trị của con người, đã khẳng định: "Những sự bận tâm

lo lắng để tô vẽ cho hình ảnh của chính mình là sự non nớt bất hạnh của con người",và

thái độ của Hemingway rất rõ ràng "Tôi muốn phỉ nhổ vào sự bất tử (...) khi lần đầu

biết cái đó đang vây bọc tôi, tôi đã khiếp sợ, hơn cả khi nghĩ về cái chết. Con người có

thể chấm đứt cuộc đời nhưng khổng thể chấm dứt sự bất tử" [ 33, 291 ]. Vào ngày trao

giải ở Stockholm Hemingway đã đi câu xa ở Cojimar, nơi ông lấy bối cảnh cho tác

phẩm "Ông gia và biển cả ". Đi cùng với Hemingway còn có Gregoreio Fuentes, thủy

thủ của ông trên con thuyền Pila dài mười hai mét. ông vẫn rất bình dị không hề muốn

thay đổi cả cuộc sống lẫn phong cách sáng tạo của mình. Một biên tập viên tạp chí

"Time " khi tiếp xúc với Hemingway đã ghi lại ý nghĩ :"Chỉ một lần thành công để đời

người nhớ bạn thì cũng đã là đủ. Nhưng nếu bạn làm được điều đó năm này sang năm

nọ thì nhiều người sẽ nhớ bạn và sẽ kể với con họ., rồi con họ,cháu họ, đều nhớ và nếu

điều đó có liên quan đến những cuốn sách thì chúng có thể đọc.Và nếu điều đó thực sự

tốt thì nó sẽ tồn tại lâu cùng nhân loại" [160, 37]. Phải chăng đó là phần thưởng duy

nhất mà một nhà văn thực sự mong đợi ?

1.2.1.6.Một người ngẫu nhiên gặp Hemingway có thể nghĩ rằng ông là một đại

biểu của lớp lãng tử lãng mạn, hay là điển hình của những tay viết lách kiểu tài tử :

thường góp mặt trong những hầm rượu, lang thang khắp thế giới, đánh cá trên đại

dương, săn bắn ở châu Phi, hiểu biết hết sức tường tận về môn đấu bò mộng, thậm chí

không biết ông viết vào lúc nào nữa. Nhưng Hemingway là một tay làm việc ghê gớm,

ông viết ngay trong cảnh đổ nát của khách sạn Frorida là nơi không thích hợp với lao

động của nhà văn. Hemingway thường nói: "Tôi thích người ta phân tích các tác phẩm

của tôi hơn là những điều vi phạm trong cuộc sống của tôi ". Evelun Naugh vốn là

một nhà phê bình nghiêm khắc, cũng đã tìm ra được những lời đúng đắn khi nói về

Hemingway : "Đằng sau tất cả những lời ồn ào, những câu chửi rủa, những qua đấm

đó, hiện lên cá i cốt cách cơ bản của tinh thần hiệp sĩ, sự tôn trọng phụ nữ, tình thương

đối với kẻ yếu, ý thức về danh dự". [ 160, 87 ]

1.2.1.7.Hemingway là một người rất vui tính, hết sức gắn bó với lối sống sôi nổi,

ông luôn hướng sự tập trung của mình vào tình yêu, vào sự nguy hiểm và cái chết.

Đặc biệt trong tình yêu, Hemingway mang nét phong trần của một hiệp sĩ. Ông đã yêu

điên cuồng, yêu đến xả thân nâng lên thành tín ngưỡng thay thế Chúa. Ông dùng tình

yêu để lãng quên Chúa. Điều này thể hiện rất rõ trong tác phẩm và cả trong chính cuộc

đời huyền thoại của ông.

1.2.1.8.Ernest Hemingway đã sống như ông đã viết, đầy cuồng nộ. Nhà văn luôn

ngưỡng mộ lòng quả cảm, suốt đời mình ông chìm trong nó, phát triển và dạy những

người khác nhiều điều về lòng quả cảm ấy. Và lòng quả cảm của chính ông thì khổng

bao giờ lìa xa ông, những gì cuối cùng đã khiến Hemingxvay chịu thua chính là thân

xác của nhà văn. Một nhân vật trong tác phẩm "Cuộc đời hạnh phúc ngắn ngủi" của

Prancis Macomber từng tuyên bố: "chết không khó, nhưng sống cho ra sống, có mục

đích, lí tưởng tốt thì lại rất khó và cần thiết phải sống như thế cho dẫu có phải hi sinh

đi mạng sống của mình".[33, 35 ]

1.2.1.9.Với Hemingway con người có thể không chủ động được trong cuộc sống

(như ông lão Santiago đã không bảo vệ được thành quả của mình là con cá kiếm),

nhưng có thể chủ động được trong cái chết của mình và muốn thế phải vượt qua, phải

chế ngự được nỗi sợ hãi từ trong sâu thẳm tâm hồn "Ta cũng có thể chết như bất kì tay

nam nhi nào", một người lính già, nhân vật của Hemingway đã từng nói vậy. Và một

nhân vật khác đã đẫn lời của Shakespeare như một thứ châm ngôn "Ta cũng cóc sợ

chi, ai thì cũng chết một lần thôi, chúng ta đều nợ cái chết với Chúa thì hãy để việc

phải đến cứ đến. Kẻ nào chết hôm nay thì ngày mai khỏi phải chết".[ 33, 36 ] Lòng

khao khát cuối cùng của Hemingway là có một nơi "sạch sẽ và sáng sủa", là đỉnh núi

Kilimarỳarô sáng ngời trong băng giá và mặt trời, nơi trước ông đã có một con báo oai

hùng tìm đến để chết, và sau con báo đó tới lượt ông!

1.2.2.Hemingway _ Quan niệm về sáng tạo nghệ thuật:

Quan niệm về sáng tạo nghệ thuật là cách hiểu, cách cắt nghĩa một sự vật, hiện

tượng, qua trình nào đó, là quan niệm đối với sự vật, hiện tượng, là tư tưởng chỉ đạo

để sáng tác một cách có hệ thống. Theo M. Bakhtin thì thế giới quan của nhà văn sẽ

chuyển hóa thành nguyên tắc của cái nhìn nghệ thuật đối với thế giới. Người nghệ sĩ

khi sáng tạo, anh ta đối diện với chất liệu và sáng tạo ra hình thức mới của cái nhìn

nghệ thuật tương ứng với một nội dung mới về cuộc sống. Theo ông, nguyên tắc cái

nhìn nghệ thuật cũng là "nguyên tắc cấu tạo văn học ", đó là một "thế giới quan trong

ý nghĩa đặc biệt một "ý thức hệ tạo hình thức có tác dụng khám phá một lớp nội dung

độc đáo từ hiện thực khách quan mà quan niệm nghệ thuật khác không phát hiện ra.

1.2.2.1.Với Hemingway, quan niệm văn chương của ông có một ý nghĩa vô cùng

đặc biệt đối với sáng tác của ông. Bởi vì, các quan niệm ấy không chỉ là của

Hemingway, một nhà văn hiện đại Mĩ, mà còn là của Hemingway, một nhà văn ra

khỏi cuộc chiến với những mất mát và hoài nghi với cuộc đời. Nhà văn của những ám

ảnh, có biệt tài trong lĩnh vực tiểu thuyết và truyện ngắn, chúng đã soi sáng những trăn

trở, tìm tòi, thể nghiệm và thành công trong sự nghiệp của Hemingway.

Hệ thống quan niệm của Hemingway bao gồm các luận điểm, đề cập đến những

vấn đề rất cơ bản, là những yếu tố cấu thành dòng liên thông từ nhà văn đến táe phẩm,

đến người đọc. ở đây chúng tôi đặc biệt chú ý đến những phương diện liên quan trực

tiếp đến tiểu thuyết của Hemingway.

1.2.2.2.Trong cuộc đời sáng tác, Hemingway ít phát biểu trực tiếp quan niệm về

nghệ thuật, nhưng những người đã đến, đã quen và yêu thích ông, cũng như tác phẩm

của ông đều thừa nhận rằng : cả cuộc đời lăn lộn, nếm trải và viết của mình,

Heraingway luôn phấn đấu vì một lời tâm niệm : "Điều khó khăn nhất trên đời này là

viết được một thứ văn xuôi hoàn toàn thành thật về con người. Trước hết phải nhận

biết đối tượng, rồi sau đó phải biết cách viết ra ". [ 34, 231] Hemingway còn nói :

"Lao động của một nhà văn đồi hỏi lòng sùng kính của một linh mục " [ 34, 231 -232 ]

Hemingway viết văn một cách rất chậm chạp, khó khăn, ròng rã từng ngày, từng tuần,

từng tháng, ông đậy vào lúc rạng đông, đọc lại những trang vừa viết hôm trước, sửa

chữa chỗ này chỗ kia, rồi bắt đầu viết lại. Bản thảo của ông cho thấy tất cả sự chăm

sóc tỉ mỉ Hemingway dành vào việc sửa chữa, gạch xóa, xét duyệt, cắt bỏ. Ông nói :

"Tôi muốn tước lột ngôn ngữ để bóc trần nó đến tận xương ". [ 34, 232]

1.2.2.3.Với Hemingway cũng như những nhà văn có trách nhiệm khác, khi anh

ta thoát li khỏi cuộc sống thì văn chương của anh ta chỉ là đồ bỏ đi. Trong bức thư gửi

cho nhà phê bình văn học Xô viết Kaskin tháng 8 -1939 ông đã viết: "Đối với tôi,

sống trong hoạt động dễ hơn là viết văn nhiều. Khi tôi hoạt động, tôi chẳng phải quan

tâm điều gì cả. Mặc dầu khó khăn, nặng nhọc tới đâu đi nữa, tôi vẫn tự an ủi là không

có thể làm gì khác được ngoài việc mình đã làm, và thế là tôi yên tâm về trách nhiệm

của mình. Nhưng khi viết văn, thì không bao giờ tôi viết được tốt như mong muốn

cả... Và đó là một công việc khó nhất trong tất cả các công việc mà tôi từng phải làm.

Chính vì thế mà tôi làm việc đó, và tôi rất sung sướng khi làm việc đó được tốt". [

160,146]

1.2.2.4.Sự thành thực trong sáng tác văn chương là cả ở sự chân thực trong cảm

xúc ( chủ thể ) và cả sự chân thực vốn có ở phạm vi hiện thực phản ánh ( khách thể ).

Nhưng cả hai mặt này lại có một mẫu số chung, không có sự thật nào quan trọng và

đáng tin cậy hơn sự thực tâm hồn nhà văn, bởi vì toàn bộ hiện thực được phản ánh

trong một sáng tác đều được lọc qua màng lọc tâm hồn và sự trải nghiệm của nhà văn.

Đúng như ý kiến của Drieu La Rochelle : "Viết văn về vấn đề gì thì viết, nhà văn cốt

nhất phải đi sâu vào trong tâm hồn mình, tìm những tính tình và cảm giác thành thực,

tức là tìm thấy tâm hồn của mọi người qua tâm hồn mình " [ 88, 281 ]. Hemingway

chỉ viết về những gì mình biết rõ và ông luôn viết với tâm lòng thành thật.

Hemingway thường nói lên những điều từ đáy lòng, và ông thêm vào đó một kích

thước hoàn toàn do ông quyết định. Hemingway đã áp dụng rất đúng điều mong ước

mà Kipling từng nói: "Trước hết, hãy nắm cho được những sự việc thực tế, rồi thì mặt

sức làm biến dạng nó theo ý anh muốn " [ 33, 232 ]. Ong rát tài tình khi tạo ra những

nhân vật thật, hoạt động ngoài những tính cách và đặc điểm của các địa vị xã hội,

Hemingway thường tìm đến những cái bí mật thật khó diễn tả trong mỗi con người.

Cái thế giới bên trong phong phú, phức tạp và đầy bí ẩn. Chính điều này đã làm nên

sức hấp dẫn cho của tiểu thuyết Hemingway.

1.2.2.5.Nhìn từ bản chất, phong cách của Hemingway chính là cách nhìn của nhà

văn trong nghệ thuật. Ông đã có một khám phá tuyệt vời về những con người chiến

thắng trong thất bại, như người đấu bò tót trên sân đấu trong "Chuông nguyện hồn ai

đó là võ sĩ chuyên nghiệp có khả năng chịu đòn không than vãn. Đó là người đi câu

giật mạnh một con cá tuyệt vời và lại để sổng nó ở "Ông già và biển cả Trong sức

mạnh, người ta biết được thất bại, Hemingvvay nói : "Mọi người đều ở trên vũ đài,

người ta chỉ sống sót nếu biết đánh trả đòn. Tôi sẽ đấu đến ngày cuối cùng, và ngày

đó, tôi sẽ đấu với chính tôi, để chấp nhận cái chết, như một cái gì đó đẹp đẽ, cùng một

vẻ đẹp như người ta vẫn thấy mỗi chủ nhật, ở các đấu trường [ 33, 233 ]

1.2.2.6.Hemingway rất thành công trong nghệ thuật viết tiểu thuyết, đa số những

tác phẩm của ông đều được bắt đầu từ truyện ngắn. Với tiểu thuyết, Hemingway luôn

viết theo mạch phát triển bên trong của nhân vật, của tư tưởng chủ đề. Nhưng với

truyện ngắn thì ông nghiền ngẫm nó hàng năm rồi mới đặt bút viết. Chúng chín trong

đầu ông đến nỗi, trang đầu chỉ có vài chữ, còn các trang tiếp theo thì hầu như không

phải chữa gì cả. Cách viết ấy đã làm Hemingway thành công ở cả hai thể loại.

1.2.2.7.Khi nói về nhiệm vụ của nhà văn, Hemingway viết: "Nhìn sự vật mà bạn

mô tả không phải bằng mắt tôi và tai tôi, mà phải bằng chính mắt của bạn và ngôn ngữ

của bạn". [33, 189] Theo kinh nghiệm của ông thì "cuộc sống biệt lập là thời điểm viết

tốt nhất" và nhà văn khi viết ở đỉnh cao là lúc sống cô độc. Đồng thời, nhà văn luôn tự

học hỏi, tìm lối đi riêng cho mình.

1.2.2.8.Hemingway là một người sống với đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống để rồi

viết thành văn. Những hoại động khác luôn phục vụ cho công việc viết của ông :

Hemingway đi săn gấu rồi về dùng cuộc đi săn đó làm đề tài viết văn. Họ không hiểu

một sự kiện căn bản và đơn giản là một tác phẩm đúng với ý nghĩa của một tác phẩm

không phải là kết qua tự nhiên của một kinh nghiệm riêng rẽ, cũng không phải là công

trình sáng tạo của một con người biên tập, mà là một sự hòa hợp cả hai.

Thành công mà Hemingway có được là do sự cần cù và làm việc nghiêm túc của

ông.Theo ông nếu thấy một trang viết nhạt nhẽo thì dừng bút, viết lại, lần thứ năm, lần

thứ mười. Tác phẩm "Mặt trời vẫn mọc " viết lần đầu chỉ mất sáu tuần nhưng phải cần

đến năm tháng mới chữa xong. Chỉ riêng đoạn kết trong "Gia từ vũ khí "ông phải chữa

đến ba mươi chín lần. Đó là chưa kể thời gian thu thập tài liệu và chuẩn bị viết một

cuốn sách mới với Hemingway có khi là cả năm sáu năm.

1.2.2.9.Hemingway - trong cuộc sống cũng như trong tác phẩm,ông là người

không bao giờ nói hết. Bằng cách đề xuất nguyên lí "tảng băng trôi", Hemingway đã

dùng hình tượng "tảng băng" để nói lên đụng ý của mình trong sáng tác khi trả lời một

nhà báo Xô viết.

Hemingvvay có cuộc đời thật đẹp của một chiến sĩ. Trong các tiểu thuyết của

mình như "Mặt trời vẫn mọc", "Giã từ vũ khí", "Chuông nguyện hồn ai" ông có nhiều

suy nghĩ độc đáo và đúng đắn về chiến tranh, lí tưởng, quan niệm về sống và chết, về

yêu và ghét, về giết người và yêu người .... Qua tất cả những tác phẩm của

Hemingway, ta luôn luôn thấy một hướng đi lên để đi đến một cái cao quy hơn, tốt

đẹp hơn là cái đang sổng, cần và phải chiến đấu mới đạt được. Ta thấy một lòng tin

mãnh liệt vào sức mạnh của con người và một lòng thương yêu thiết tha con người.

CHƯƠNG 2: HEMINGWAY - NHỮNG ĐỐI THOẠI BÍ ẨN

1.Trong hệ thống các phương tiện nghệ thuật xây dựng nhân vật nói chung, xây

dựng tâm lí nhân vật nói riêng, ngôn ngữ nhân vật đóng vai trò hết sức quan trọng,

nếu không muốn nói là chủ yếu. Tiếng nói tác giả giúp người đọc hình dung được tính

cách nhân vật qua cách kể lại sự việc, biến cố, mô tả thế giới nội tâm qua ánh mắt, cử

chỉ, hành động...Trong khi đó, tiếng nói cửa nhân vật, gồm ngôn ngữ thốt ra lời _ đối

thoại,và ngôn ngữ không thốt ra lời _độc thoại nội tâm, sẽ giúp người đọc trực tiếp

nhìn thấy tâm trạng nhân vật vì "mỗi ngôn ngữ đều vạch cho ta thấy trạng thái tâm

hồn của nhân vật."

2.Đối thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, sử dụng hình thức nói năng giữa

người này với người khác. Thông thường đặc trưng của đối thoại gồm hai yếu tố: trao

lời và đáp lời, có sự tương tác qua lại với nhau. Trong qua trình giao tiếp, sự chủ động

và thụ động được chuyển đổi luân phiên từ phía này sang phía kia (giữa những phía

tham gia giao tiếp ). Mỗi phát ngôn đều được kích thích bởi phát ngôn có trước và là

sự phản xạ lại phát ngôn ấy.

3.Sức mạnh của đối thoại chính là ở chỗ thể hiện được sinh động và sâu sắc tâm

lí nhân vật trong mối quan hệ phong phú của con người với đời sống. Như Mác đã

từng nói : "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là toàn bộ những quan hệ

xã hội." Bakhtin nhấn mạnh vai trò của đối thoại: "Đối thoại là bản chất của ý thức,

bản chất của cuộc sông con người, sống tức là tham gia đối thoại : hỏi, nghe, trả lời,

đồng ý... Con người tham gia cuộc đối thoại ấy bằng toàn bộ con người mình và toàn

bộ cuộc đời mình : bằng mắt, môi, tay, tâm hồn, tinh thần, hành vi. Nó trút hết con

người nó vào lời nói và tiếng nói của nó, gia nhập đối thoại của cuộc sống con người,

gia nhập cuộc hội thảo thế giới." [ 19, ]

4.Khác vổi độc thoại nội tâm, đối thoại hiện diện trong tác phẩm văn học từ rất

lâu đời. Trong truyện cổ dân gian, đối thoại mang tính quy ước, tính ma thuật ( phép

màu nhiệm ), chẳng hạn : "Bống bống bang bang,lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,

đừng ăn cháo hẩm cháo hoa nhà người" (Truyện Tấm Cám) ; "Vừng ơi ! Mở cửa ra"

(Truyện Nghìn lẻ một đêm). Nhân vật thường chỉ quan tâm đến việc làm, đối thoại

cũng chỉ nhằm đưa ra nội dung thông báo, ý định hay biểu thị một yêu cầu hoặc

nguyện vọng. Sang tiểu thuyết, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật rất phong phú, đa

dạng. Qua quan sát, chọn lựa, vận dụng các phương tiện lời nói, nhà văn tái hiện ngôn

ngữ nhân vật. Đặc biệt là ngôn ngữ đối thoại trong tính quy trình của thời đại, môi

trường, tầng lớp xuất thân, trình độ học vấn, lứa tuổi, cá tính, tâm trạng... sao cho sinh

động, tự nhiên như lời nói thật. Mỗi nhân vật được xây dựng với một lối nói, kiểu phát

ngôn có đặc trưng riêng, thể hiện qua trường từ vựng, kiểu câu, ngữ điệu ... để lời nói

của họ trở thành một hình tượng ngôn ngữ độc đáo, có tính chất cá tính hóa nhân vật.

"Nó có thể làm cho người ta từ lời ăn tiếng nói mà thấy được người."

5.Đối thoại là "phương tiện quan trọng nhất của tính tạo hình khách thể trong tác

phẩm tự sự và kịch." Lời đối thoại thể hiện rõ tâm lí, tính cách nhân vật, thể hiện các

trạng thái tâm lí khác nhau. Lời đối thoại của nhân vật tùy thuộc vào tình huống, hoàn

cảnh, đối tượng tiếp xúc và vấn đề đang bàn bạc. Mỗi nhà văn xây dựng cho nhân vật

của mình một hình thức đối thoại riêng, mang đậm phong cách của nhà văn đó. Balzac

rất quan tâm đến từng lời nói của nhân vật Ong quan niệm, lời nói của nhân vật là

"mâm cây hay qua chín của hành động." Do vậy ông rất kì công chọn lọc lời đối thoại

cho nhân vật của mình. Nhiều lúc không cần phải miêu tả diện mạo, thành phần xuất

thân mà chỉ cần nghe nhân vật đối đáp ta cũng hình dung đầy đủ về nhân vật. Đó là

một tiểu chủ, một thầu khoán, một công nhân, một kẻ cho vay nặng lãi, một con nợ.

Xtăngđan thường để nhân vật đối thoại với nhau trong tình huống đầy kịch tính, từ đó

nhân vật bộc lộ tính cách của mình. Lời nói của nhân vật trong "Đỏ và Đen" được cá

thể hóa rõ rệt, thể hiện tính cách của từng nhân vật: Juyliêng tính cách phức tạp, vừa

giả dối vừa chân thật, lời nói của anh lúc bột phát, thực lòng,lúc vừa giả vừa thật ; Bà

Rênan dịu dàng, đôn hậu...lời nói luôn thật thà, bộc trực, thẳng thắn ; Cô Matinđơ kiêu

ngạo, sắc sảo nhưng có vẻ đồng bóng, lời nói lúc nặng về chất lí trí,sắc cạnh, lúc lại

buông thả, điên cuồng. Trong khi đó Hemingvvay, nhà văn của ngôn từ đối thoại thì

đằng sau những câu đối thoại có vẻ "tự nhiên" ấy là cả một qua trình sàng lọc, tuyển

lựa từng câu chữ rất công phu. Qua hình thức đối thoại rất kiệm lời, mơ hồ, bảng lảng,

đầy bí ẩn, Hemingway đã khắc họa được rõ ràng tính cách nhân vật. nia Erenbua đã

từng ca ngợi cách viết của Hemingvvay : "Nhân vật của Hemingway nói năng rất

ngắn, tựa như không có gì đáng kể, nhưng mỗi chữ đều nói rõ hơn tâm trạng con

người. Khi chúng ta đọc các truyện dài và truyện ngắn của ông, chúng ta có cảm

tưởng dường như chính con người nói năng như thế. Nhưng thật ra đây không phải là

những câu nghe lỏm, những bản tốc kí mà là cái chất tinh túy của văn đối thoại mà

nhà nghệ sĩ đã lọc ra được (... ) nhưng Hemingway không dịch những đoạn đối thoại

từ tiếng này sang tiếng khác. Ông địch từ tiếng nói trong hiện thực sang tiếng nói

trong nghệ thuật" [ 64, 20 ]

Giữa đối thoại và các biện pháp kể, tả có liên quan mật thiết. Lời kể, sự tả, diễn

biến tâm lí làm cho lời đối thoại có nhiều tầng ý nghĩa.

Hemingway rất thành công ở nghệ thuật độc thoại nội tâm, song trước sau

Hemingway vẫn là nhà văn xuất chúng của ngôn từ đối thoại. Ngay từ những truyện

ngắn đầu tiên,nơi đối thoại chiếm ưu thế, nhà văn đã thể hiện rõ tài năng của mình.

Đối thoại đã tham gia vào việc chuyển tải thông tin, tham gia vào qua trình tự sự. Nhà

văn đã chuyển tải thông điệp một cách kín đáo thông qua cách nói của nhân vật. Đối

thoại trong tiểu thuyết của Hemingway có thể chia làm hai dạng:

2.1/ ĐỐI THOẠI DIỄN TRÌNH : ( DIALOGUE EXPLICATIVE )

2.1.1.Thông thường theo quan niệm truyền thống, tiểu thuyết là những câu

chuyện về các nhân vật. Để kể về nhân vật của mình, nhà văn sử dụng một hệ thống

các phương tiện nghệ thuật rất phong phú : như miêu tả ngoại hình, miêu tả thiên

nhiên,và dùng ngôn ngữ người kể chuyện để phân tích, bình luận hành vi, tính cách

của nhân vật. Đối thoại diễn trình ở Hemingway lại khấc, nó xuất hiện dưới dạng nhân

vật tự kể về mình, tự giải thích các hành động và suy nghĩ của mình. Dạng đối thoại

này đã góp phần quan trọng giải thích nhân vật trong kích thước thời gian và không

gian. Đặc điểm của nó là dài hơi và liền mạch.

2.1.2.Trong tiểu thuyết của mình, Hemingway không có ý định miêu tả ngoại

hình. Ông chỉ tập trung vào những đặc điểm in đậm dấu vết cuộc đời đã qua. Những

vết hằn sâu bởi tuổi tác, những vết cứa dọc ngang bởi nghề nghiệp lam lũ ở người

đánh cá Santiago : "Thân hình lão già và khô đét, phía sau gáy mang nhiều nếp răn sâu

hoắm. Những vết rám nâu của cái thứ ung thư vô hại ngoài da do ánh phản quang của

vầng thái dương trên mặt biển nhiệt đới gây nên in rõ trên hai má lão. Các vệt rán đó

choán khắp hai bên khuôn mặt lão và hai bàn tay lão mang nhiều vết sẹo hằn sâu là

dấu vết của nhiều phen cọ xát với những sợi dây câu trĩu cá. Nhưng không có vết sẹo

nào mới (...) ở con người của lão, cái gì nom cũng gia cỗi chỉ trừ có đôi mắt vui đời và

gan góc xanh xanh màu nước biển". [5,9-10] Miêu. tả ngoại hình của Brét trong "Mặt

trời vẫn mọc", một cô gái trẻ trung, đang hăm hở đi tìm một miền đất hứa : "Brót

trông đẹp không tưởng. Nàng mặc áo len thun chui đầu vào chiếc váy bằng vải fuýp,

tóc nàng chảy ngược ra sau như tóc con trai. Nàng bắt đầu tất cả, nàng được tạo lập

với những đường cong như thân một con thuyền đua..." [Ì, 33] Hay mái tóc ngắn của

Maria trong "Chuông nguyện hồn ai", thể hiện những khổ đau, bất hạnh do chiến tranh

gây ra. Hoặc dáng vẻ nặng nề, nông dân của Pablo : "Khuôn mặt tròn, cái đầu cũng

tròn, thụt xuống vai. Đôi mắt hắn nhỏ và dang rộng ra, đôi tai hắn nhỏ và đán vào sọ.

Đó là một người đàn ông cao lớn và dinh dàng với chân tay mập bự, mũi gãy, miệng

đứt ở một góc, một cái sẹo vắt ngang môi trên và hàm dưới hiện rõ sau những chân

râu phủ đầy mặt hắn." [ 4, 145] Hemingvvay chỉ chú ý đến những nét chúm phá cho

cuộc đời, tính cách của nhân vật qua hình thức. Vì vậy, nếu quan niệm hình thức như

các nhà văn hiện thực thế kỉ XIX thì nhân vật "dường như không có chân dung."

2.1.3.Nếu quan niệm: "hành động nhân vật là khái niệm nhằm chỉ những việc

làm của nhân vật ( ... ) không chỉ là yếu lố cần thiết để bộc lộ qứa trình phát triển của

bản than, tính cách mà còn là yếu tố không thể thiếu để góp phần thúc đẩy sự diễn

biến của hệ thống cối truyện" [59,104-105] thì trong cả bốn tiểu thuyết; hành động của

các nhân vật rất đơn giản. Một nhón thanh niên mất hối niêm tin vào cuộc sống, họ đã

chơi bời, phá phách hết cỡ trong "Mặt trời vẫn mọc ". Một người lính Mĩ ( Henry )bị

thương, nằm viện, quen và yêu mội cô y lá người Anh. Henry cùng người yêu bỏ trốn,

đi tìm một thế giới riêng cho tình yêu. Cuối cùng tình yêu rơi vào tuyệt vọng sau cái

chết của Catherine, Henry "Giã từ vũ khí" - giã từ những vòng tay. Đến "Chuông

nguyện hồn ai" là hành động của một nhóm du kích chuẩn bị phá cầu. Trong nhổm du

kích này có người chiến sĩ lình nguyện Robert Jordan. Anh chỉ huy trộn đánh cầu, và

cuối cùng Jordan bị thương nằm lại, để yểm hộ cho toàn nhóm rút lui.(Một ông lão

câu được một con cá, đấu tranh bảo vệ chiến lợi phẩm suôi ba ngày đêm trong "ông

già và biển cả". Qua những hành động có phần đơn điệu và tẻ nhạt, Hemingway muốn

lấy Ý thức_của nhân vật làm điểm tựa để xây dựng tác phẩm. Nhà văn muốn truyền

tải một thông điệp về thái độ của mỗi con người trước tình thế nan giải của cuộc sống.

2.1.4.Khác với I Iemmgway, Lép Tônxtôi dùng thiên nhiên như một cái nền, để

làm nổi bật ý nghĩa những lình huống cuộc sống hoặc như một điểm tựa, như cánh cửa

mở vào tâm hồn nhân vật. Thiên nhiên góp phần tô đậm mọi cung bậc tình cảm,

những biến chuyển tinh thần tinh tế nhất. Ánh trăng trong vườn Otradnoye làm sáng

lên tâm hồn trong trắng, hồn nhiên của Natasa. Và cũng ánh trăng tháng sáu ấy, đã rọi

vào tâm hồn Anđrây một thứ men kì lạ, khiến chàng như trẻ lại cùng cây sồi, cái cây

sồi già nua, và buồn rầu bữa nọ Hemingway nói đến thiên nhiên chỉ như một hình

tượng không gian, môi trường để ở đó nhân vật sống, hành động và bày tỏ những nghĩ

suy của mình. Trong "Mặt trời vẫn mọc " Hemingway miêu tả bầu trời, dòng sông,

ánh nắng nhưng không nhằm để tham gia vào qua trình bộc lộ tâm lí nhân vật.Thiên

nhiên không đóng vai trò hỗ trợ cho việc khắc họa tính cách nhân vật.

2.1.5.Trong khi mội số nhà văn viết theo kiểu văn chương lòe loẹt trang sức ở

Mĩ đầu thế kỉ, thì Hemingway tìm cho mình một phong cách riêng. Đó là "trốn tránh

mọi thứ đễ dãi", phải tìm cách cho các nhân vật của mình hành động thay vì miêu tả

chúng". Theo ông thì đối thoại cũng là một kiểu hành động của nhân vật.

Người kể chuyện trong tiểu thuyết của Hemingway rất ít xuất hiện, nhà văn

dường như vắng bóng, nếu đôi khi xuất hiện thi cũng hướng về thái độ trung hòa.

Trở lên chúng ta thấy, khác với một số nhà văn, hầu như Hemingway rất ít đùng

ngôn ngữ miêu tả, kể chuyện, giải thích, hay lời phân tích, bình luận của tác giả để nói

lên tính cách nhân vật. Nhân vật chỉ có thể được khắc họa qua ngôn ngữ trực tiếp của

mình. Trong đó đối thoại như có sự lấn át so với độc thoại nội tâm.

2.1.6.Đối thoại _ Nhân vật tự kể về mình:

2.1.6.1.Qua đối thoại nhân vật kể cho nhau nghe về cuộc sống, những phác họa

về gia đình, những biến cố xảy ra trong cuộc đời mỗi nhân vật. Tuy nhiên, qua những

đối thoại trong tiểu thuyết của Hemingway, các nhân vật không những chỉ truyền đạt

nội dung câu chuyện, mà họ còn cho thấy thái độ, tình cảm của những nhân vật đối

thoại với câu chuyện họ quan tâm. Vì thế, đối thoại kể chuyện đóng vai trò đáng kể

trong sự thể hiện đề tài, chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

"Giã từ vũ khí ", cuốn sách kể về những tình yêu ra đời và nảy nở trong chiến

tranh. Một cuộc chiến bi đất không có đất cho tình yêu tồn tại. Catherine kể về một

cuộc tình thài đẹp trước khi gặp Henry, nhưng cũng bị tan biến nhanh như bong bỏng

xà phòng bởi chiến tranh. Nàng đau xót kể lại:

"Chiếc gậy này của một thanh niên bị giết năm ngoái.

Xin lỗi.

Anh ấy rất dễ thương, sắp cưới tôi thì bị tử thương trong trận Somme.

Khủng khiếp quá.

Ông có dự trận đó không ?

Không.

Tôi có được nghe kể lợi. (... )

Cô và anh ấy hứa hôn với nhau chưa ?

Tám năm chúng tôi sống chung trong một gia đình,

Nhưng tại sao không tổ chức cười ?

Cũng chẳng biết làm sao nữa. [2, 22]

2.1.6.2.Santiago cả cuộc đời gắn liền với biển khơi, nhưng vấn đề mà ông

thường quan tâm không chỉ là thời tiết, là biển động hay không, mà ông thường nghĩ

về những vấn đề lớn hơn, như sức mạnh trong mỗi con người, việc thắng bại trong

mỗi trận đánh. Ông kể với chú bé Manolin về trận bóng mà ông quan tâm :

"Thằng bé hỏi :

Thế còn trận đấu bóng thế nào ? Lão già nói một cách hân hoan :

Bác đã bảo rồi càn gì, trong Liên đoàn châu Mĩ, đội Hoa kì là cừ nhất.

Chú bé nói

Lần này bọn họ thua.

Chẳng sao. Cầu thủ trứ danh Đi Magiô đã lại sức rồi. Trong đội còn nhiều cầu

thủ khác nữa.

Đã đành thế. Nhưng Đi Magiô là tay cừ hơn cả. Trong trận đấu giữa Bơrukơlin

và Philađenphiơ bác dám cuộc là Bơrukơlin thế nào cũng thắng. Bác cứ nhớ anh

Địch Xitslư với những cú với bóng cảo. anh ta, cái lần ở sân bóng cũ ấy. " [5,20]

2.1.6.3.Tuổi trẻ của mỗi cuộc đời luôn là quảng thời gian đẹp nhất, tự tin nhất, vì

thế ông lão thường nghĩ về tuổi trẻ, để củng cố niềm tin, ông kể cho thằng bé nghe

những điều ấy:

"Ngày bằng tuổi cháu, bác đã từng trèo lên cột buồm một chiếc thuyền chạy

đường Phi châu và vào buổi chiều, bác đã mắt thấy những con sư tử trên các bãi biển."

[5,21]

2.1.6.4.Ở "Chuông nguyện hồn ai", chỉ trong khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi

ba ngày ba đêm, các nhân vật mới chỉ kịp quen nhau, họ đã kể cho nhau nghe về

quãng đời trước đây của mình. Những hồi ức buồn đau hòa trong những mất mát do

cuộc chiến tranh gây ra :

Qua đối thoại Maria kể cho Jordan nghe về tội ác của bọn phát xít đã gây ra cho

gia đình :

"... Cha em là một xã trưởng, một con người đáng lánh. Mẹ em là một người đàn

bà đáng kính và là một người tốt theo đạo Thiên chúa, chúng giết mẹ em và cha em vì

chánh kiến cua cha mẹ em, ông ấy theo đảng Cộng Hòa. Em đã trông thấy hai người

bị bắn. Lúc đó cha em đứng tựa vào tường lò heo trong làng và hô to "Viva ỉa

Republica". Mẹ em cũng đứng tựa vào cùng một vách tường đó, hô "Viva". Chồng tối,

xã trưởng làng này". [4, 546] Maria kể tiếp về việc chúng cai tóc nàng, đánh nàng, và

lấy i ốt viết chữ lên trán nàng. Đặc biệt, nàng kể cho Jorcian nghe về nỗi đau khủng

khiếp nhất của đời mình: "...Khi người la lăm nhục em, em vừng vẫy chơ tới khi,., cho

tới khỉ...cho tới khi một tên trong bọn hụ ngồi trên đầu .em...và em đã cấn hắn...và rồi

người ta bóp miệng em và người ta giữ chặt hai tay em ra sau đầu ...và những tên

khác làm nhục em. " [4,115]

Cũng trong tác phẩm này, Joaquin tâm sự với Pilar về số phận của những người

thân :

"Vụ tàn sát những người trong gia đình đồng chí đã xảy ra như thế nào? Pilar

hỏi Joaquin:

Không có gì đặc biệt, Joaquin nói. Những người trong gia đình tôi thuộc phe tả,

như nhiều người khác trong thành phố Valladolid. Khi bọn phát xít thanh lọc thành

phố, chúng hắn cha tôi trước. Ông đã bỏ phiếu cho những người theo xã hội chủ

nghĩa. Rồi tụi nó bắn mẹ tôi. Bà cũng đã bỏ phiếu như vậy. Đó là lần đầu tiên trong

đời bù đi bỏ phiếu. Sau đó tụi nó bắn người chồng của một trong hai người chị của

tôi. Anh này là một đoàn viên trong nghiệp đoàn tài xế xe điện. Hiển nhiên là ảnh sẽ

không lái xe điện được nếu không có chân trong nghiệp đoàn. Nhưng ảnh đâu có để ý

gì tới chính trị. Tôi biết rõ điều đó. Anh hơi nhu nhược nữa là đằng khác. Tôi lại

không tin ảnh có thể là một đồng chí tốt nữa. Kế đó là người chồng của người chị gái

khác của tôi, cũng trong nghiệp đoàn tài xế xe điện và cũng đã vào núi như tôi Tụi nó

tưởng chị biết ảnh ở đâu. Nhưng thật ra chị không biết. Cho nên tụi nó bắn chị vì chị

không chịu khai chỗ ở của ảnh." [4, 220 ]

Trong những câu chuyện tâm tình, chia sẻ với nhau, mỗi nhân vật đều như mang

nặng trong lòng những hồi ức rất u ám về quá khứ của riêng mình. Pilar đã kể cho

Jordan nghe câu chuyện về đời tư :

"Tất cả mọi người đều cần được nói chuyện với một kẻ nào đó, người đàn bà

nói. Trước đây, người ta có tôn giáo và những trò điên rồ khác. Bây giờ mỗi người

cần phải có một kẻ nào đó để nói một cách thẳng thắn. Mặc dù người ta có thể có tất

cả sự can đảm, càng lúc người ta vẫn cảm thấy cô đơn thêm.

...Đó là những lời lẽ dông dài về Valence và con người vất đi đang đi xe ngựa

kia. Tôi đã làm tổn thương hắn nhiều với câu chuyện nọ. (... )

Bằng cách nào đồng chí tới với hắn ?

Như người ta tới với bất luận kẻ nào đó. Trong những ngày đầu của cuộc chiến,

và trước đó nữa, hắn là một cái gì. Một cái gì đàng hoàng. Nhưng mà bây giờ thì hết

thời rồi. Người ta mở nứt ra và tất cả rượu đều đã chảy ra khỏi vò. " [4,147]

Pila còn kể về trận tấn công thành phố, trừng trị bọn phát xít;

"Lúc bọn cỉviỉes trong trại đầu hàng thì trời vừa mới sáng, Pilar bắt đầu.

Đồng chí đã tấn công trại lính ? Robert Jordan hỏi.

Pablo đã bao vây doanh trại trong đêm, hắn đã cắt đứt các đường dây điện

thoại, đặt chất nổ dưới một bức tường và kêu gọi bọn guardỉa civiỉ đầu hàng. Chúng

nó không đầu hàng. Và lúc tảng sáng hắn cho nổ tung bức tường. Súng nổ. Hai tên

trong bọn chúng bị hạ. Bốn bị thương và bốn đầu hàng.

Tất cả chúng tôi nằm trên mái nhà, dưới đất và dưới chân tường của các tòa nhà

trong ánh nắng của buổi sáng, đám bụi do vụ nể chưa tan vì chúng bốc lên cao trên

không và không có một cơn gió nào đến mang đi. Tất cả chúng tôi nhả đạn về phía tòa

nhà bị phá vỡ, chúng tôi nạp đạn và bắn tưới xượi vào đám khói và trong ấy còn lóe

lên mấy phát súng trường. Rồi từ trong đám khói có tiếng kêu thôi bắn, và bốn tên

civiỉes đi ra, tay giơ lên cao. Một khoảng lớn của mái nhà bị đổ xuống và tường câng

đã bay mất. Bọn chúng bước ra đầu hàng." [4, 164 ]

2.1.6.5.Qua những đoạn đối thoại trên, ta hiểu thêm về qua khứ của Pila, người

đàn bà một thời đã là vợ của anh chàng đấu bò Pinito, trước khi sống cùng người chỉ

huy du kích Pablô. Đồng thời, từ những nét tiểu sử riêng của một người phụ nữ. ta

như lại hiểu thêm về cuộc sống của Tây Ban Nha trước nội chiến. Đó là thời kì của

những lễ hội sầm uất, những điệu nhạc quyến rũ và thơ mộng. Tây Ban Nha của

những người đấu bò vốn sinh ra không phải để làm người dũng cảm. Họ bị buộc vào

cái nghề nguy hiểm chỉ vì "ở cái xứ này không một người nghèo nào có thể làm ra tiền

nếu không là một tên tội phạm (...) hoặc một tay đấu bò...". Nhưng khi đã giơ chiếc

khăn đỏ rực, đứng trước con vật hung dữ, thì biết không được quyền sợ hãi mà lui

bưóc. Những con người trung thực, qua cảm đã làm giàu đẹp xứ sở Tây Ban Nha,

bằng những hành động đũng cảm, khi tham gia chiến đấu vì một nền cộng hòa. Mỗi

cuộc đối thoại như một mảng hồi ức rời rạc, và rất riêng tư. Nhưng nếu xâu chuỗi lại,

thì đó chính là một bức họa rất nhiều mảng màu tối và buồn về cuộc đời.

2.1.6.6.Nhân vật đối thoại với nhau, không chỉ kể chuyện, để chia sẻ buồn vui,

mà họ còn bộc lộ những suy nghĩ của mình. Có những đoạn đối thoại rất ngắn, song

cũng đủ cho chúng ta hiểu được phần nào bản chất, lí tưởng của những người cộng

hòa trong "Chuông nguyện hồn ai"

"Anh có phải là người cộng sản không ?

Không, tôi là người chống phát xít.

Từ bao nhiêu lâu rồi ?

Từ ngày tôi hiểu được chủ nghĩa phát xít" [4,284]

Trình tự thời gian các sự kiện được kể có sự đảo lộn, sau câu chuyện về quá khứ,

là những dự tính cho hành động tương tương lai. Khi kết thúc câu chuyện mình bị cạo

trọc đầu, Maria thổ lộ với Tordan khao khát được tham gia trận phá cầu cùng với

Jordan, để được tự tay giết bọn Phalănggit:

"Nhưng mình sẽ giết bọn phát xít chớ ? Chính tụi đó đã làm việc ấy.

Tụi nó không có ra trận, chàng buồn bã đáp. Chúng chém giết ở hậu phương.

Chúng ta không đánh nhau với bọn chúng ngoài mặt trận. "

Nhưng mình không có cách nào giết tụi đó sao anh ? Em muốn giết vài tên cho

hả dạ" [4,551]

2.1.6.7.Trong khi kể chuyện, nhân vật đồng thời cũng bộc lộ rõ quan điểm của

mình. Pila sau khi kể xong chuyện tham gia những ngày đầu phong trào như thế nào,

đã không kết luận về cá nhân mình mà về Tây Ban Nha: "Một dân tộc thật là kiêu

ngạo, phải không Inglés ?". Nghiã là, qua đối thoại, kể với người khác về đời mình,

nhân vật luôn tìm thấy mối liên hệ qua khứ và hiện tại. Mối liên hệ giữa cuộc đời

riêng và vận mệnh dân tộc, những sức mạnh tinh thần trong mỗi con người, để từ đó

xác định trách nhiệm cá nhân trong cuộc chiến đấu sắp tới.

Nhân vật _ người kể chuyện, đã kể các mẩu chuyện xảy ra ở những thời điểm

khác nhau, ở những địa điểm khác nhau. Trong tác phẩm của mình, đối thoại cũng

tham gia vào xử lí vấn đề thời gian, không gian nghệ thuật. Các đối thoại - kể chuyện

lùi vào qua khứ, làm "căng ra " cái hiện tại. Mở rộng trường độ thời gian, các đối thoại

kể chuyện đồng thời làm hãm tốc độ, xu thế vươn tới đỉnh điểm. Khi nói về nghệ thuật

viết văn của mình, có lần Hemingway phát biểu: "Tôi thấy hình như không bao giờ

nhà văn có thể miêu tả được tất cả. Do đó có hai lối thoát: tả lướt qua tất cả các ngày,

tháng, tất cả các ý nghĩ, tất cả các tình cảm hoặc là cố gắng truyền đạt cái chung trong

cái riêng, trong một lần gặp, trong một lần chuyện trò ngắn ngủi.

Tôi chỉ viết về các chi tiết, nhưng tôi cố gắng nói về các chi tiết ấy một cách chi

tiết."

2.1.7.Đối thoại _ ngôn ngữ giản dị, tự nhiên:

2.1.7.1.Timôphiep đã nêu lên một nguyên lí chung của ngôn ngữ đối thoại:

"Ngôn ngữ nhân vật, về nguyên tắc đống vai trò những lời trích đẫn, có tính chất tiêu

biểu và điển hình trong ngôn ngữ nhân vật, nó là ngôn ngữ bị gộp chung vào trong

toàn bộ ngôn ngữ của tác giả." [131,31] Lại có một số người tỏ ra ngạc nhiên, sửng

sốt, trước những đối thoại của Hemingway, chính tác giả đã giải thích : "Một nhà phê

bình Mĩ đã nói qua quyết, và nghiêm túc đấy, rằng các đoạn đối thoại của tôi ngắn, vì

tôi dịch các câu tiếng Tây Ban Nha sang tiếng Anh".[33,173] Chúng tôi nhận thấy, đối

thoại trong tiểu thuyết của Hemingway, có tính độc lập cao, thành phần ngôn ngữ tác

giả ít xen vào đối thoại của nhân vật, cũng như sau những từ "anh hỏi", "hắn nói" ...

bao giờ cũng là lời trực tiếp của nhân vật, rất khách quan. Không hề kèm theo một lời

giải thích, hay chỉ dẫn nào.

Đối thoại giữa cô gái và người bồi trong "Mật trời vẫn mọc ":

"Nào, cô uống gì ? - tôi hỏi

Pécnô

Cái đó không tốt cho các cô gái nhỏ đâu.

Có anh là cô gái nhỏ ấy. Bảo bồi cho Pécnô đi.

Một Pécnô cho tôi nữa.

Chuyện gì vậy _ cố ta hỏi _sắp đi dự tiệc à ?

Đúng, thế còn cô ?

Tôi không biết. Người la không bao giờ biết được ở cái thành phố này.

Cô không thích Pari à ?

Không.

Thế tại sao cô không đi một nơi khác ?

Còn một nơi nào khác à ?

Cô sung sướng thế là tốt. Sung sướng cái khỉ." [ 1 ,23]

2.1.7.2.Yếu tố giọng điệu luôn góp phần thể hiện nội dung. Trong đối thoại trên,

tác giả chỉ đưa ra biên bản đối thoại hết sức tự nhiên. Tuy nhiên dựa vào ngôn ngữ của

nhân vật, ta thấy nhà văn không hề dửng dưng. Mà ông như ngầm chuyển tất cả nội

dung cuộc thoại vào giọng điệu, tiết tấu của những lời đối thoại. Vì thế, chúng ta nhận

biết nội dung của cuộc đối thoại qua giọng điệu của người nói. Hemingway đã tài tình

khi thể hiện giọng điệu của lời nhân vật. Trong tác phẩm "Ông già và biển cả" nhà văn

đã dùng nhiều giọng cho nhân vật ông lão Santiago: giọng trang nghiêm khi hướng về

Chúa, giọng trìu mến khi nhớ về thằng bé, giọng băn khoăn khi phải giết con cá kiếm,

giọng nghiêm khắc khỉ nói về bản thân. Những đối thoại không chỉ đơn thuần là

những lời đối đáp, mà bằng thứ ngôn ngữ rất tự nhiên, cùng với những giọng nói sinh

động. Người đọc như nghe các nhân vật đang chuyện trò bên cạnh mình. Như nhà phê

bình Nga Mikhoenxơ nói : "Bản thân lời nói không cung cấp tính hình tượng. Giọng

nói mới tạo hình tượng. (...) Tôi khoác màu lên giọng, khiến cho nó có một khả năng

chứa đựng tính cách: dịu dàng hay khắc nghiệt, dũng mãnh hay yếu hèn."

2.1.7.3.Đối thoại giữa wSantiago và Manolin rất gần với khẩu ngữ ngoài đời,

ngắn gọn và tự nhiên :

"Let me gel fourfrest ones "

"One " the old man said. His hope and his conỊìdence had never gone. But now

they were freshening as when the breeze rises "

"Two ", the boy said

"Two " the old man agreed. "You didnt steal them ? " "I would " the bay said.

"But I bought these" "Thanh you" [158, 23 ]

(- Để cháu đi kiếm bốn con tươi

Một thôi - ông lão nói. Niềm hy vọng và lòng tin của ông lão chưa bao giờ nguội

lạnh. Còn bây giờ thì chúng đang cuộn lên như khi gió đang thổi

Hai, thằng bé nói.

Hai, ông lão đồng ý. Cháu không ăn cắp đấy chứ ? Cháu không, thằng bé đáp,

cháu mua.

Cám ơn cháu. ) [5,13]

Trong đoạn đối thoại trên, cấu trúc ngữ pháp không thể ngắn hơn nữa, bởi dường

như chỉ xuất hiện noun (danh từ) và verb (động từ). Đó là hai thành phần tối thiểu

trong một câu nói, hoặc là số từ mang nội dung thông báo như "one", "two". Những

thành phần khác như adverb (trạng tứ) hay adjective (tính từ ) không hề xuất hiện.

Nhà văn tiết kiệm lời đến mức tối thiểu, chỉ những "say " ( nói ), và "think " ( nghĩ ),

đôi khi gây cho người đọc một cảm giác hụt hẫng, bởi những câu đối thoại cụt lun,

ngắn gọn như ngôn ngữ điện tín. Nói như Lê Huy Bắc ". Đọc văn ông ta có cảm giác

như cưỡi lên lưng một chú tuấn mã, hay thì hay thật nhưng người cưỡi vẫn có cảm

giác tưng tức bởi cái nước phi khác lạ vốn là thuộc tính của bất kì thiên lý mã nào."

Hemingway _ Người khai sinh ra trường phái "Minimalism (Chủ nghĩa cực hạn).

Phương châm sáng tạo của nhà văn là tinh giảm đến mức tối đa, kiệm lời và kiệm cả

cảm xúc. Các tình tiết đối thoại phát triển một cách khách quan. Nhà vãn không còn là

người biết tường tận mọi ngóc ngách tâm lí, hành động của đối tượng được miêu tả để

chi phôi, dẫn dắt họ theo chủ đích đã định trước :

"Có bao nhiêu người tất ?

Cố lẽ bốn

Sao ít thế ?

Không tin được.

Thế dùng để giữ ngựa ?

Phải tin lắm mới cho giữ ngựa được ?

Nếu có thể, tôi rất muốn có thêm được mười người chắc chắn.

Bốn

Anxenmô bảo tôi trong núi này có đến hơn một trâm người ?

Không tốt" [4, 233]

Cũng vậy, trong "Ông già và biển cả ", tình cảm duy nhất gắn bó với Santiago

chỉ có ở Manolin. Trong suốt truyện, rất nhiều lần ông lão nhớ thằng bé. Nhưng lần

nào cũng chỉ lặp lại một câu duy nhất: "Ông nhớ cháu". Nhà văn chỉ cần thêm một

tính từ "rất" thì mức độ tình cảm đã khác rất nhiều. Nhưng những chỗ dường như

thiếu, không đầy đủ lại làm cho đối thoại có vẻ tự nhiên hơn, gần gũi với lời nói ngoài

đời hơn.

Hemingway hết lời ca ngợi Mac Tuên về tính chất giản dị, tự nhiên, tươi tắn

trong lời đối thoại. Đến lượt ông, là người chịu ảnh hưởng rất nhiều từ những nhà văn

đi trước. Ông đã rèn dũa những đối thoại một cách kĩ lưỡng, sao cho khổng thừa một

chữ nào, sao cho những lời đối thoại không trở thành những lời tán phét, hay nói

suông, mà phải tự nhiên, sinh động như chính cuộc sống. G G Mackez đã nhận định :

"Chất dung dị của Hemingway là kết qua của sự trau dồi phi thường" [160,87]

2.1.8.Đối thoại và người kể chuyện:

2.1.8.1.Người kể chuyện là người đứng ra trần thuật trong tác phẩm. Thông qua

người kể chuyện,nhà văn mới có thể tạo dựng tác phẩm. Người kể chuyện không hoàn

toàn đồng nhất với nhà văn. Giống như những nhân vật khác, người kể chuyện chỉ là

"khoảnh khắc thăng hoa "của nhà văn. Như lời của M. Butor : "Bản thân người kể

chuyện là một hư cấu (... ) y là đại diện của tác giả... Ta cũng đừng quên rằng y cũng

là đại diện của độc giả, nói chính xác ra là điểm nhìn mà tác giả mời bạn đọc đặt mình

vào để đánh giá, thưởng thức, rút bài học cho mình về một chuỗi sự kiện nào đấy".

2.1.8.2.Khi sáng tạo văn học, bao giờ người nghệ sĩ cũng nhìn thế giới nghệ

thuật của mình dưới một góc độ nhất định. Điểm nhìn, do đó bộc lộ thái độ của nhà

văn đối với tác phẩm. Trong tác phẩm, dù xuất hiện bao nhiêu điểm nhìn, thì sâu xa

cũng chỉ xuất phát từ một điểm nhìn duy nhất, là điểm nhìn của tác giả. Nhà văn khi

sáng tác, thường "ban phát " điểm nhìn của mình cho nhân vật, để khách quan hóa

mục đích và cũng thâu tóm được hiện thực rộng hơn, đa dạng hơn.

2.1.8.3.Quan điểm về vị trí người kể chuyện trong tiểu thuyết của Hemingway

gắn liền với điểm nhìn và yếu tố giọng điệu. Người kể chuyện có thể là người tham

dự, cũng có thể là không tham dự. Người kể chuyện có khi là người thông suốt tất cả,

cũng có khi hoàn toàn khách quan, đôi khi lại chồng chéo lên nhau. Ở "Mặt trời vẫn

mọc người kể chuyện xuyên suốt tác phẩm là người tham dự ( Jake ), nhưng có lúc lại

là lời của Mike. Có khi xuất hiện nhân vật "tôi" kể về "tôi", nhưng lại trùng với giọng

kể về Cohn. Ở đây quan điểm khách quan lại trùng với quan điểm tham dự. Người kể

chuyện ngôi thứ nhất tập trung ở "Mặt trời vẫn mọc " và "Giã từ vũ khí ". Nhân vật

người kể chuyện trùng với nhân vật “tôi " và chủ thể trần thuật. Giọng điệu mang vẻ

lạnh lùng, khách quan trong "Mặt trời vẫn mọc " đã được cải thiện hơn ở "Giã từ vũ

khí ", nhưng ở đây lại xuất hiện giọng mỉa mai, châm biếm. Người kể chuyện dường

như không thể thờ ơ với thời cuộc, cho nên, mỉa mai cưng chính là hình thức phản

kháng. Bắt đầu xuất hiện kiểu nhân vật mang tính chất nhập cuộc, thay thế cho kiểu

thờ ơ, lạnh lùng trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên. Sang tiểu thuyết "ông già và biển cả

lời văn gián tiếp rất ít xuất hiện ở chủ thể trần thuật. Thay vào đó là những chuỗi độc

thoại nội tâm liên tiếp của Santiago. Vì thế giọng văn chi phối tác phẩn, chủ yếu là

giọng của ông lão. Đến "Chuông nguyện hồn ai " có rất nhiều nhân vật tham gia vào

tiến trình tự sự. Chẳng hạn như câu chuyện của đội du kích đánh tàu được kể lại từ hai

người tham dự là loakin và Raphaen. Hay khi kể về tội ác của bọn phát xít, nhiều nhân

vật cùng tham gia, như Maria, Pila, Joakin... Hemingway đã tăng số điểm nhìn, bằng

cách cho nhiều nhân vật cùng tham gia kể chuyện. Điểm này rất phù hợp với lối kể

chuyện hiện đại. Tác phẩm "Trong rừng trúc" của nhà văn Nhật Akutagavva

Ryunoske là câu chuyện về một người bị giết Tahêkirô, được kể từ bảy điểm nhìn

khác nhau như: điểm nhìn của người tiều phu, điểm nhìn của vị tu sĩ, người gác rừng,

bà gia Tatdiômmaru, người đàn bà, và cả điểm nhìn của linh hồn người bị giết. Cuối

cùng tác phẩm dừng lại với kiểu kết mở, độc giả tự tìm lấy lời kết luận của riêng

mình. Độc đáo hơn, Faulkner đã dùng mười ba điểm nhìn đối với một con sáo và ông

cho rằng, chân lí sẽ được phơi bày khi độc giả nắm được cả mười ba cách nhìn ấy.

Độc giả sẽ có một ý niệm thứ mười bốn về con sáo.

Tóm lại: Đối thoại kể chuyện trong tiểu thuyết của Hemingway có sự chuyển

dần từ một người kể chuyện tăng lên nhiều nhân vật cùng kể. Phương thức tự sự đa

chủ thể làm tăng tính khách quan, sinh động, linh hoạt trong nghệ thuật trần thuật của

tiểu thuyết Hemingway. Bằng một lối kể rất tự nhiên, chân thật kết hợp với sự gọt dũa

ngắn gọn, gần với khẩu ngữ, những đoạn đối thoại cứ làm hiện rõ lên những cảnh đời

nhiều buồn đau và mất mát. Trong khi mở rộng tầm bao quát bức tranh cuộc sống,đối

thoại kể chuyện đóng vai trò quan trọng hơn, phong phú hơn trong việc khắc họa tính

cách nhân vật.

2.1.9.Đối thoại nhân vật lí giải các vấn đề của cuộc sống:

2.1.9.1.Đối thoại là nhu cầu không (.hể thiếu của con người. Từ "đối thoại "

không chỉ mang nghĩa hai,ba hay nhiều người trò chuyện, mà còn bao hàm quan hệ

đối thoại. Nếu không có quan hệ này, thì dù nhiều người nói, cũng chỉ thành tập hợp

những độc thoại. Yếu tố cơ bản trong đối thoại là nhu cầu hay mục đích của những

cuộc đối thoại. Cụ thể là những người tham dự muốn đối thoại để giải quyết vấn đề gì

trong cuộc sống ( xã giao, bàn bạc kế hoạch, tính toán hành động, thể hiện tình cảm,

và cả trao đổi tư tưởng.)

2.1.9.2.Khi chúng ta quan niệm, mỗi con người là một vũ trụ thu nhỏ, điều ấy có

nghĩa trong suy nghĩ riêng tư cửa từng cá nhân đều thể hiện những chính kiến riêng.

Chúng phụ thuộc vào trình độ học vấn, quan niệm về cuộc sống, môi trường,hoàn

cảnh. Trong tiểu thuyết của Hemingway, lời đối thoại của nhân vật mang đẫy đủ cách

nhìn của họ trước những vấn đề mà họ quan tâm hay phải đối mặt.

Đối thoại giữa Jack và Brett trong "Mặt trời vẫn mọc" thể hiện cái nhìn gần như

trái ngược nhau trước cùng một đề tài luôn là khát khao của con người. Đó là tình yêu.

"Thật là buồn cười " - tôi nói - "Rất buồn cười và cũng rất vùi nữa khi người ta

yêu ".

"Anh nghĩ sao vậy ? ". Đôi mắt nàng trông lại phang trở lại.

"Anh không định nói vui theo kiểu đó. Đứng về một phương diện, đó là một cảm

giác thú vị ".

"Không " - nàng nói - "Em nghĩ đó là địa ngục trần gian ".

"Được gặp nhau thật là tốt đẹp ".

"Không. Em không nghĩ thế". [11,39]

Có lần Hemingway nói: "Hình thức dĩ nhiên thay đổi. Còn đề tài...Thử hỏi tất cả

các nhà văn trên đời này đã viết và đang viết về những gì ? Có thể đếm trên đầu ngón

tay: tình yêu, cái chết, lao động, đấu tranh. Tất cả những cái khác đều qui vào đó hết.

Chiến tranh, dĩ nhiên rồi. Cả biển nữa..."[33, 172 ]

2.1.9.3.Chiến tranh - một vấn đề nóng bỏng được Hemingway rất quan tâm. Ông

đã sống một cuộc sống đầy bi kịch của nạn nhân chiến tranh, của nhân chứng có mặt

trong cả hai cuộc chiến tranh Thế giới. Vì vậy, các nhân vật của ông, trong đối thoại

đã nói về chiến tranh với tất cả lòng căm ghét của họ:

"Trung úy thấy cuộc chiến tranh chó chết này ra sao ?

Một vận đen.

Chà ! Tôi tin như anh đó là một vận đen. Lạy Chúa, đúng là một vận đen.

(...)

Chắc Trung úy không thích ra tiền duyên vĩnh viễn chứ ? _ Anh ta hỏi.

Không.

Chúa ơi ! Thật là một cuộc chiến tranh khốn nạn !" [2,40]

Giống như nhiều nhà văn khác, Hemingway quan tâm đến chiến tranh, cũng

chính là quan tâm đến thân phận con người trong cuộc chiến. Khi họ từ cuộc chiến trở

về, những vết thương trên da thịt họ không là vấn đề mà họ quan tâm. Chiến tranh để

lại trong thẳm sâu mỗi tâm hồn của họ là sự mất phương hướng, mất lòng tin vào cuộc

sống. Họ trở thành những người thuộc "Thế hệ lạc lõng". Đặng Trường Lưu nói về

những vấn đề còn lại sau cuộc chiến: "Vẽ về đề tài chiến tranh cách mạng không có

nghĩa là chỉ cần cho nhân vật của mình khoác thêm khẩu súng. Càng không có nghĩa

là chỉ miêu tả trận này, trận nọ. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng ngọn gió nghiệt ngã của

nó vẫn hàng giờ thét gào trong từng thân phận".[92] Trong khi đó, nhà văn Aurel

Baranga, đã khắc họa chiến tranh bằng những hình ảnh rất độc đáo: "...Chúng ta phải

dựng một tượng đài để kỉ niệm nỗi buồn đau. Ta hãy đào một cái giếng. Trong cái

giếng đó ta lại đào một cái giếng nữa. Giữa lòng cái giếng ấy lại một cái giếng nữa

nhỏ hơn. Trong cái giếng nhỏ hơn này lại một cái giếng khác. Trong cái giếng lại một

cái giếng. Rồi một cái nữa, Để rồi trong đó ta lại đào thêm một cái giếng. Và trong

lòng nó lại một cái nữa nhỏ hơn. Cho đến khi ta có một cái giếng cuối cùng. Là một

giọt nước mắt..." [45,51]

2.1.9.4.Các đối thoại của nhân vật thể hiện rất rõ nhu cầu trao đổi tư tưởng của

họ. Qua đối thoại của Jordan với cụ Anxenmô ta thấy họ tranh luận say sưa về việc

giết người trong chiến tranh:

"Anh không thích đi săn ư ?

Không, Rôbơc Jordam đáp lại. Tôi không thích giết sức vật,

Tôi thì trái lại, ông cụ nói. Tôi không thích giết người.

Chẳng ai thích giết người cả, trừ những đứa loạn óc, Rôbơc Jordan nói. Nhưng

khi nào cần thiết thì tôi không phản đối.

(... ) Muốn chiến tranh thì cần phải tiêu diệt quân thù. Xưa nay vẫn như vậy.

Anxenmô nói: _ Cố nhiên. Trong chiến tranh thì phải giết. Nhưng mà tôi có

những ý nghĩ rất kỳ quặc" [4,80]

Đôi khi chỉ trong một đoạn đối thoại ngắn, các nhân vật đã kịp trao đổi biết bao

vấn đề lớn lao trong đời sống của con người, như sở thích, đức tin, trách nhiệm, tình

yêu, quan niệm về sống chết.

"...Tôi đã đặt nhiều ảo tưởng vào nền Cộng Hòa. Tôi tin tưởng vào nền Cộng

Hòa. Và tôi có niềm tin, tôi tin vào niềm tin của tôi giống như những người có đạo tin

vào những điều huyền bí.

Tôi tin nơi đồng chí.

Đồng chí có đức tin không ?

Nơi nền Cộng Hòa.

Tôi hài lòng lắm. Và đồng chí không sợ chớ ?

Chàng nói, thành thật:

Tôi không sợ chết.

Nhưng sợ các thứ khác không ?

Tôi chỉ sợ không làm đúng bổn phận của mình.

Nhưng đồng chí không yêu đời sao ?

Yêu chớ. Nhiều. Nhưng không nên để công việc tổn hại vì nó.

Đồng chí thích uống rượu. Tôi biết. Tôi thấy mà.

Ừ. Thích lắm..

Và đàn bà ?

Tôi thích họ lắm nhưng tôi không hề cho đó là điều quan trọng lắm.. [4,148]

2.1.9.5.Chiến tranh làm nảy sinh trong con người những suy nghĩ về sự phi lí của

cuộc đời. Nếu tôn giáo trước đây là nơi con người có thể nương náu mỗi khi khốn

khó, thì nay "Những vị Chứa đã chết " trong sáng tác của Hemingway. Đức Chúa

qiiyền uy được thay thế bằng chính "tôi "hiện hữu. Những con người nổi loạn muốn

tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng chẳng thể trông chờ nơi Thượng đế. Những đối

thoại trong tiểu thuyết của ông đã nói lên đầy đủ sự tan rã ở lòng tin vào tôn giáo của

các nhân vật.

Chúa của Catherine là Henry, nàng chỉ có một Chúa duy nhất là người nàng yêu:

"...Anh biết không, anh yêu, nếu em có đạo thì chuyện đó sẽ là một vấn đề quan

trọng đối với em, nhưng em không theo đạo nào cả.

Thế sao em cho anh tượng thánh Anthony.

Vì, tượng đó đem lại may mắn. Người ta đã cho em.

Vậy là em chẳng lo buồn gì cả phải không ?

Chỉ trừ khả năng phải xa anh thôi. Anh là lí tưởng của em. Đời em chỉ có một

mình anh thôi ". [2,120]

Cũng vậy, Chúa của Brett là Jake, nàng cảm nhận hoàn toàn cay đắng về chiến

tranh và đã sống hết mình, hiến dâng đến tận cùng cho người tình. Và cuối cùng nàng

nhận ra :

"Anh biết, khiến cho ai cảm nhận thấy tốt hơn khỉ quyết định không phải là điều

xấu.

Ừ.

Đó là những gì chứng ta có thay vì Chúa. Vài người có Chúa..." [1, 245]

Trong ý thức của mình, Hemingway cũng rất xa lạ với Chúa, điều đó được thể

hiện ngay khi ông đưa đoạn Kinh Mặt trời vẫn mọc làm đề từ cuốn sách viết về “Thế

hệ vứt đi" : "Một thế hệ qua đi, một thế hệ khác đến; nhưng trái đất thì luôn vững bền

mãi mãi...Mặt trời vẫn mọc và lặn rồi vội vã đi về nơi mặt trời mọc...Gió thổi về

phương nam rồi quay về phương bắc; cứ mãi luân hồi theo chu trình của gió... Tất cả

những dòng sông đều tuôn ra biển; nhưng biển vẫn không đầy; sông lại trở về nơi

sông đến rồi cứ xuôi chảy mãi"

2.1.9.6.Những nhà văn lớn, bao giờ trong tận cùngvẫn ý thức vẫn luôn trăn trở,

miêu tả nỗi cô đơn muôn thuở của nhân loại. Những trang đầu và cuối tiểu thuyết

"Ông già và biển cả" là những đối thoại giữa ông lão và chú bé Manolin. Đó là người

đồng chí hướng, người bạn thân thiết nhất của ông. Những phút cô đơn, những khi

hiểm nghèo, ông thầm gọi tên chú bé Manolin. Trong khi làng chài thài rộng, những

người dân chài thật đông. Điều đó chứng tỏ, con người trong thế giới hiện đại bị cô

đơn đến chừng nào. Thế mà ông vẫn giữ cho mình một niềm tin rất lạc quan "ở đời

không ai phải cô đơn nơi biển cả " và ông vẫn giữ mối liên hệ với cộng đồng, vẫn ý

thức mình "là một mảnh của toàn thể ". Ông nhắc đến dân làng chài, đến người chủ

quán sau những ngày đi biển về.

2.1.9.7.Trong bốn tiểu thuyết chúng tôi chọn để khảo sát thì ở tiểu thuyết

"Chuông nguyện hồn ai" các nhân vật khi đối thoại về các vấn đề khác nhau đều thể

hiện rõ tư tưởng riêng của mình.. Mỗi nhân vật khi tham gia đối thoại đều mang một

quan điểm, đối thoại giữa các nhân vật là đối thoại giữa các đại diện tư tưởng để đi

tìm chân lí. Nhân vật khi tiến hành đối thoại bên trong như ngầm tranh cãi với nhân

vật khác,về những quan niệm, những cách hiểu khác nhau về những vấn đề lớn, nhỏ

của cuộc sống. Qua đó nhân vật cố gắng tìm đến với tư tưởng mình cho là chân lí. Khi

ta xem xét tác phẩm từ bình diện kết cấu, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy : hành động

phá cầu của đội du kích chỉ được miêư tả gần bốn mươi trang cuối của tác phẩm.

Trong gần bảv trăm trang, chủ yếu nhà văn miêu tả thái độ của họ đối với trận đánh

ấy. Các sự kiện trong tác phẩm thường đóng vai trò những điểm nút mở ra các đối

thoại trao đổi tư tưởng, qua đó, họ bày tỏ thái độ đối với nền Cộng Hòa, đối với chủ

nghĩa phát xít và quan niệm về bạo lực cách mạng. Các nhân vật còn đề cập đến

những vấn đề nhân sinh rộng hơn như thái độ lựa chọn cách sống, trung thực, dũng

cảm, sẩn sàng hi sinh vì tập thể hay hèn nhát, ích kỉ, thái độ đối với lình bạn, tình yêu,

tình đồng chí.

2.2.ĐỐI THOẠI NGƯỢC NGHĨA ( DIALOGUE CONTRADICTOIRE )

Lời phát ngôn của nhân vật trái ngược với điều nhân vật nghĩ. Kiểu đối thoại này

còn được gọi là đối thoại ngầm hoặc ẩn. Đôi khi đối thoại kiểu này ai nói nấy nghe.

Với Hemingvvay, nhà văn xuyên suốt những tác phẩm trong cuộc đời mình chỉ

để nói lên một sự thật : Hemingway, con người là một câu đố, một bí ẩn không thể cắt

nghĩa, không thể làm sáng tỏ hoàn toàn, dù chiếu vào nó bằng bất cứ ánh sáng gì.

Hemingway, giữa con người và tác phẩm có mối tương liên. Cuộc đời nhà văn như hắt

bóng vào những tác phẩm của mình. Vì vậy, cũng như cuộc đời, tác phẩm của ông

luôn luôn hấp đẫn, bởi người đọc không thể đi suốt những tác phẩm ấy, dù là truyện

ngắn bình dị nhất.

2.2.1.Những đối thoại chứa ẩn ý:

2.2.1.1.Những đối thoại bí ẩn, xuất hiện từ truyện ngắn của Hemingway. Ông

chủ yếu sử dụng đối thoại như một công cụ hữu hiệu để chiếm lĩnh hiện thực.

Hemingway đã vươn đến đỉnh cao ở kĩ thuật này với truyện ngắn "Một nơi sạch sẽ và

sáng sủa". Thật khó xác định, đó là một quán cà phê về khuya, hay một nơi ẩn mình

của nhân vật, hay là nada ( hư vô ). Cảm giác thiếu hụt, khó hiểu ấy cứ theo suốt

người đọc qua những câu đối thoại của hai người bồi:

"Mày có tuổi trẻ, lòng tin và công việc. Mày có mọi thứ. "

"Còn anh thì thiếu gì ? "

"Mọi thứ, trừ công việc "

"Anh có những gì em có "

"Không" [6,146]

Tiếng "không" này nghe như tiếng không định mệnh của nhân vật người câm

trong "Ngộ nhận" của Albert Camus. Nó rất bâng quơ và khó hiểu. Trong những đoạn

đối thoại của truyện ngắn Hemingway, bao giờ cũng có vẻ bảng lảng như thế, nguyên

nhân vì những người đối thoại không cùng nghĩ về một chuyện, họ vừa nói với nhau,

vừa tự nói với mình, vừa nghĩ ngợi lan man rồi vụt thốt thành lời, "cắt lớp " ( scanning

) dòng ý thức của họ.

"Em nghĩ chúng mình có thể ráng hết sức thu xếp êm ả mọi sự cho đến khi máy

bay tới "

"Hoặc cho đến khi máy bay không tới"

Và :

"Có thể xe cam nhông sẽ tới "

"Tôi đếch cần xe cam nhông "

"Em thì em cần "

"Cô cần biết bao nhiêu thứ mà tôi không cần" [6,242 ]

Đoạn đối thoại ngắn trên trong truyện "Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro", một trong

những tác phẩm điển hình cho lối viết "cắt lớp dòng ý thức" của Hemingway, trong đó

đoạn đối thoại giữa hai vợ chồng nhà văn Harry là những dòng ý nghĩ cắt lẫn nhau,

hoặc song song với nhau, hoặc đi về hai hướng khác nhau. Harry hướng về cái chết,

nỗi tuyệt vọng, còn vợ anh thì cố né tránh thực trạng, về chứng hoại thư của chồng,

nàng hướng về một hi vọng mù mờ của sự giải cứu. Đưa cái chết vào giữa lòng đời

sống,"sống chung với cái chết". Nhân vật luôn bị ám ảnh về một sự phi lí nhất định

nào đấy, nhưng không bao giờ họ lia bỏ đơn giản cái giới hạn cuối cùng của cuộc

sống. Họ sống hết mình, sống đến chết cho cuộc sống mà họ cho là vô thường.

2.2.1.2.Nhiều người cho rằng chính sự bí ẩn trong tâm hồn, trong đời sống tâm

linh của Hemingway đã quyết định cho sự bí ẩn của những đoạn đối thoại trong tác

phẩm ông. Uya Ehrenbourg, người từng sát cánh với nhà văn trong cuộc nội chiến

Tây Ban Nha đã thốt lên: "Các đoạn đối thoại của Hemingway vẫn cứ là một điều bí

ẩn đối với tôi. Có lẽ trong nghệ thuật, điều lớn lao nhất khi anh không hiểu sức mạnh

do đâu mà có. ở đây không có ý mới mẻ làm người ta phải nghiền ngẫm, cũng không

có những từ khác thường. Với các đoạn đối thoại của Hemingway là thế: vừa giản dị,

vựa đầy bí ẩn. Nghĩa là sự bí ẩn có thể khoác hình thức rất giản dị," [34,173 ]

Trong "Chuông nguyện hồn ai", các nhân vật tâm tình, trò chuyện trong lúc họ

căng thẳng, nằm chờ cuộc tấn công của địch :

"Anh có muốn ăn cặp bánh này nữa không ?

Ở nước anh ai cũng ăn hành à ?

Anh rất khác với cái anh đánh mìn hoạt động trước đây vói chúng tôi.

Anh đã đau khổ bao giờ chưa ?

Nhưng bây giờ anh có Maria rồi

Nếu cần thiết phải hy sinh cho công việc ngày mai thì tôi cũng vui vẻ

Primitio có thể tin được, Pila cừ hơn anh tưởng nhiều

Nhưng tôi thì tôi muốn là làm phứt đi ngay hôm nay Inglés, lúc này thấy anh có

vẻ vui lắm."[4,93-102].

Những đối thoại có vẻ chẳng theo thứ tự chủ đề nào, lộn xộn, rối rắm, nhiều chỗ

có vẻ "vô bổ" nhưng trong mỗi lời nói đều ẩn chưa một thông điệp sâu kín. Qua câu

chuyện đối thoại về mùi hành là những khám phá về nước Mĩ xa xôi, là cuộc chiến

đấu ngày mai của những người lính tình nguyện. Và vượt lên tất cả là tình yêu chung

thủy của con người, là tình cảm ấm áp của người lính, là sự hiểu biết lẫn nhau, cùng

kề vai nhau trên con đường vươn tới mục đích cao đẹp của cuộc sống, từ những điều

tưởng như giản dị, bình thường. Đúng như lời nhận định của G.G Mackez :

"Hemingway là người thợ mài dũa đối thoại lừng lẫy trong lịch sử văn học" mà ở đó

"Mỗi từ ngữ đều vạch cho ta thấy trạng thái tâm hồn của con người" [64,178].

2.2.1.3.Đối thoại của Hemingvvay rất kỳ lạ. Có khi chỉ có hai giọng, mà lắm khi

lại nghe ra rất nhiều giọng, lắm khi chỉ là một giọng, đối thoại với chính mình. Tính

mập mờ, đa hướng của câu thoại, những biểu tượng thoáng hiện rồi chìm khuất,

những cú va đập trực diện, để rồi sau đó mạch đối thoại lại bất ngờ chuyển hướng.

Thật khó để hiểu một cách rõ ràng đoạn đối thoại của Jake, Bin và Harris trong "Mặt

trời vẫn mọc ":

"Tôi nghĩ các anh thật không hiểu sự hiện diện của mình có ý nghĩa như thế nào

đôi với tôi khi các anh lên đây.

Chúng mình cũng trải qua khoảng thời gian tuyệt vời Harris nhỉ?

Harris đã chếnh choáng.

Tôi bảo. Thực sự các anh chẳng biết nó có ý nghĩa như thế nào kể từ lúc chiến

tranh, tôi chưa lần nào hạnh phúc như vậy.

Ngày nào đó chúng mình sẽ đi câu lần nữa. Harrỉs, anh đừng quên nhé!

Chứng ta phải nhớ. Tui mình đã sống một khoảng đời hạnh phúc.

Chai nữa chứ ?”[1,171]

Ở đối thoại trên, chủ thể đối thoại bị mờ hoá, thật khó phân biệt lời nói của nhân

vật trong cuộc thoại. Chúng ta chỉ có thể hiểu họ đang nói về một cuộc đi câu nào đó,

xen vào là những khoảnh khắc thời gian hạnh phúc, tiệc rượu giã từ và nỗi đau chiến

tranh.

Rất nhiều trang tiểu thuyết của Hemingway là những đối thoại một chiều, một

người phát và tiếng nói thứ hai không vang lên :

"Anh làm sao mà bị thương khổ sở thế này ? Ông hỏi tôi. Đưa tôi xem ảnh chụp

nào. Ừ, ừ, được rồi, đúng thế. Trông anh khoẻ mạnh như một con trăn. Cô gái xinh

đẹp này là ai vậy ? Người yêu của anh hả ? Cuộc chiến tranh này rất đáng ghét có

phải không ? Anh có cảm giác gì không ? Anh thật can đảm. Tôi sẽ giúp anh bình

phục. "

2.2.1.4.Một hình thức khác trong đối thoại của Heminhway là kiểu đối thoại "ai

nói nấy nghe tức là các nhân vật đối thoại với nhau nhưng hoàn toàn không hiểu nhau.

Trong "Giã từ vũ khí ", Henry lúc lúc lại thấy Cathơrin điên khùng như một cô

gái xứ Ecotx, nói những chuyện nhảm nhí về mưa rơi, tuyết đổ :

"Mưa nặng hạt quá.

Và anh sẽ yêu em mãi mãi phải không anh ?

Phải. Đúng thế.

Và mưa cũng không đáng ngại gì phải không, anh ?

Phải. đúng thế.

Vậy thì tốt lắm. Bởi vì em sợ mưa.

Tại sao ?

Em cũng không biết nữa. [2,200-201 ]

(...) - Em thích đi dạo trong mưa. Nhưng mưa có hại cho tình yêu.

- Anh mãi mãi yêu em cơ mà.

- Còn em, em yêu anh dù mưa, dù tuyết, dù bão, dù gì gì đi nữa.

- Vậy à ?

(...) - Sao em lại sự mưa ?

- Em không biết nữa... "

Sự không hiểu nhau giữa các nhân vật cho phép ta hiểu sâu sắc về họ. Trong xã

hội Mĩ lúc đó, con người không thể đến và hiểu hoàn toàn về nhau.

Hoặc nỗi đau riêng dày vò mỗi người, hoặc họ không đủ sức quan tâm đến người

khác, ngay cả với người thân yêu nhất.

2.2.1.5.Nhiều nhà phê bình gọi văn phong Hemingway là "ngôn ngữ điện tín tác

giả vận dụng "lí thuyết bỏ sót " của mình một cách linh hoạt. Các thông tin có một

dung lượng tối thiểu nhưng lại ảnh hưởng đến yếu tố hàm lượng. Nội dung hàm ẩn

qua đối thoại của nhân vật là một hiện thực, rất phong phú và đầy nghệ thuật. Nó như

một bằng chứng để khẳng định cái thực chất "less is more " ( càng ít lại càng nhiều ).

Để làm nổi rõ hơn những yếu tô" nghệ thuật, trong việc gói gọn sự ẩn tàng về nội

dung ở một hình thức tối giản.

"- Tôi nghe đầu óc hoàn toàn thư thái và lòng can đảm, nên định đề cập đến

những vấn đề cụ thể.

- Em định sinh ở đâu ?

- Em chưa biết" [2,384 ]

Hemingway không để cho Henry và Catherin nói nhiều về hoàn cảnh hiện tại.

Chỉ một sự trao lời ngắn gọn đã thể hiện tất cả tình cảnh đáng thương của đôi lứa này.

Ta chợt hiểu rằng, những điều họ nói trước đây dù vui vẻ cũng chỉ là gượng gạo. Để

che dấu nỗi băn khoăn, sợ hãi về những ngày sắp tới.

2.2.1.6.Ngôn ngữ đối thoại của Hemingway đôi khi ngược với cử chỉ của nhân

vật. Chẳng hạn, miệng nhân vật bảo đứng lên, nhưng tác gia lại muốn y ngồi xuống.

Hay nhân vật nói một đường, làm một nẻo. Nhà văn muốn tước bỏ nội dung thông

báo, đối thoại của nhân vật chỉ còn là cái vỏ ngôn ngữ. Nhân vật vẫn nói với nhau mà

chẳng thể hiểu nhau. Đó là "đối thoại của những người điếc ". Ở hình thức đối thoại

này Hemingway đã ảnh hưởng nhiều ở Mark Twain. Với "Những cuộc phiêu lưu của

Huckerberry Finn " đoạn đối thoại giữa Huck và Finn :

"Nghe này, Jim, con mèo có nói giống chúng ta không ? "

"Không, không giống "

"Ừ, thế còn con bò ? "

"Không, cũng không giống nốt"

"Thế mèo có nói giống bò hoặc bò có nói giống mèo không ? "

"Không, chúng không giống nhau "

"Vậy thì mỗi quốc gia trên hành tinh này nói khác nhau là điều hoàn toàn tự

nhiên và họ có quyền như thế.

"Dĩ nhiên" [9,252]

2.2.1.7.Trong nhiều cuộc đối thoại, thoạt nghe tưởng như là chuyện thời tiết,

sinh hoạt hàng ngày. Nhưng ẩn sâu trong những lời đối thoại là sự trao đổi tư tưởng

giữa các nhân vật:

"Tuyết đẹp lắm, Pablo nói. Tuyết xuống thế này, chắc anh không muốn ngủ ở

ngoài nữa đấy nhỉ ?"

"- À, ra thế mày cùng nghĩ đến cả cái đó nữa, Roboc Jordan nghĩ. Pablo này,

mày lo nghĩ nhiều qua đấy phải không ?

"- Không. Anh lễ phép nói:

"Không. Lạnh lăm, Pablo nói. Am ướt lãm.

"Thế là mày không biết tại sao cái túi chăn cũ nhồi lông chìm bể ấy lại giá

những sáu mươi nhăm đôla,

(... ) "Vậy ra tôi sẽ phải ngủ ở trong này ư ? anh lễ phép hỏi.

"Phải." [4,166]

Chuyện tưởng chừng như chỉ đơn giản nói về tuyết, nhưng lại có những tầng ý

nghĩa hàm ẩn phía sau. Đó là việc ám chỉ rằng, hắn biết chuyện Jordan và Maria ngủ

trong túi chăn, hơn nữa Pablo còn hả hê vì bão tuyết sẽ làm sụp đổ kế hoạch tấn công

của Jordan. Ngược lại, Jordan không chỉ trả lời chuyện sinh hoạt có vẻ riêng tư, mà

anh còn khẳng định lập trường vững chắc của mình trước trận phá cầu.

2.2.1.8.Đặc biệt, trong khi đối thoại, tác giả để cho nhân vật lặp lại một số từ

chính ( keyvvord ), nhằm nhấn mạnh và khơi sâu thêm tình thế :

"Bà ấy có đi cùng với một người bạn cửa tôi không ?

Tôi không biết. Ông ta chưa bao giờ đến đấy cả. Ông ta người rất to. Rất, rất to.

Bà ấy rất tốt, rất, rất tốt. Đêm qua có lẽ bà ấy hơi..." [1, 73 ].

Đoạn đối thoại giữa Giếc và Bin về thành phố Buđapét, và thành phố Viên, để

nhấn mạnh về cảm xúc của họ về những nơi đó, nhà văn để cho nhân vật nhắc đi nhắc

lại tên thành phố đó trong những lời đối thoại: "Tôi mới từ Buđapét tới hôm nay

","Buđapét thế nào ? " _ "Tuyệt vời. Buđapét tuyệt vời. " Hay" Hãy hỏi anh ấy về Viên

", "Viên Là một thành phố lạ lùng " _ "Nghe như ở Viên vậy "_" Ở Viên như vậy sao

?" _ "Giống tất cả mọi thứ ở Viên". [1,101 ]

2.2.1.9.Trong đối thoại, ở nhiều đoạn,ta thấy Hemingway nhiều lần, để cho nhân

vật sử dụng tiếng bản ngữ, thổ ngữ. Ngôn ngữ gắn liền với nhân vật, nơi diễn ra sự

kiện. Có khi giận dữ, nhân vật dùng tiếng chửi của người Tây Ban Nha : Me cago en

su puta mađre Anđre chửi thề. Esta loco ( nó điên )_ "Hijo de la gran puta ! ( đồ con đĩ

)Anđres bảo hắn. Loco, _ Bandidos ( đồ ăn cướp ), "picardi.a " (lừa đảo, đểu cáng )

"_No sè ( không biết); tiếng Pháp Comment ? ( sao cơ ), "c'est entendu, monsieur " (

Vâng, thưa ông ).

Tóm lại: Pautôpxki tôn Hemingway là bậc thầy của "Loại đối thoại mang tính

cách một thứ dòng chảy ngầm " Ông xứng đáng là người "Đã làm sống lại nghệ thuật

đối thoại ". Phải chăng những đối thoại bí ẩn, đa hướng của Hemingway phần nào

chứng tỏ cuộc đời huyền thoại của nhà văn. Một người nếm trải đến tận cùng cuộc đời

này, từ những khoảnh khắc hạnh phúc nhất, tới những tình huống nguy nan nhất.

Hemingway đã sống thực những gì mà ông viết. Qua những đối thoại bí ẩn của nhà

văn, chúng ta có thể đánh gia được sự từng trải, tài năng bậc thầy của Hemingway.

Với kiểu đối thoại tối giản, gần như câu nói thường ngoài đời. Cô đọng nhưng sinh

động. Không khô cứng, ẩn rất nhiều suy tư, triết lí về nhân sinh, nhưng không bao giờ

để lộ ra. Không thuyết giáo mà lại khiến người đọc bị lôi cuốn, tin tưởng.

Những đối thoại của Hemingway như một vũ nữ nhảy những vũ điệu biến ảo.

Như một đấu sĩ đang vờn sự hiểm nguy bằng một tấm vải đỏ, mà chỉ trong gang tấc,

tất cả đối thoại có thể sụp đổ, thất bại hoặc ngược lại sẽ lung linh, huyền bí. Chỉ

những nhà văn dám đối mặt với hiểm nguy, với thất bại, với cái chết, mới đủ can đảm

viết những đối thoại kiểu ấy.

2.2.2.Khoảng trống của lời đối thoại

2.2.2.1.Trong đối thoại của Hemingway có rất nhiều khoảng trống, nó luôn đòi

hỏi độc giả phải cẩn trọng khi quan sát những dòng chữ, tiếp xúc với nó bằng thị giác.

Những khoảng trống của đối thoại như một sự thách đố người đọc, nếu không nhạy,

độc giả khó có thể khôi phục những mảng thiếu vắng mà tác giả cố tình bỏ qua.

2.2.2.2.Hemingway đã kế thừa M.Twain bằng cách bỏ trống các từ, và những ý

nghĩ có vẻ không liền mạch, người đọc sẽ tự tìm hiểu vị trí của chúng trong văn bản.

"Cớ sở để hiểu đối thoại của Hemingway phần nhiều đều nằm ngoài văn bản". [

166,307 ] Trong nhiều trường hợp, nhân vật tiến hành những đối thoại giả để che giấu

những suy nghĩ thực. Họ nói nhiều song lại là không nói gì cả, lời nói bên ngoài chỉ

như "lớp sương mù bảng lảng" che giấu vấn đề đích thực bên trong:.

"Ông ăn gì không ?thằng bé hỏi,

"Một niêu cơm gạo vàng với cá. Cháu có muốn ăn không ? "

"Thưa không. Cháu sẽ ăn ở nhà. Ông có cần cháu nhóm lửa không ? "

"Không. Để lát nữa ông nhóm. Hoặc có lẽ ông sẽ ăn cơm nguội.

"Cháu có thể mang cái lưới quăng đi chứ ? "

"Dĩ nhiên" [5,15]

Những lời đối thoại bên ngoài có vẻ cuộc sống của ông lão đầy đủ, sung túc.

Nhưng tác giả không quên giải thích thêm: "Không có cái lưới quăng nào cả, thằng bé

nhớ rõ cái lúc họ bán nó (... ) và thằng bé cũng biết chẳng có niêu cơm gạo vàng và cá

nào cả."Hay khoảnh khắc ngắn ngủi ở đêm cuối cùng, trước khi Jordan bước vào trận

đánh. Maria và Jordan đều lo lắng, họ đã giữ im lặng bằng cách nói đến những tháng

ngày tương lai hạnh phúc vô bờ ở Mađrit và ở nước Mĩ xa xôi...

"Anh này, chị Pila có bảo em, cái này, "

"Em nói đi "

"Không nói thì hơn. Chúng ta lại nói chuyện về Madrit đi. "

"Anh cảm thấy mồ hôi nách chảy xuống giữa cánh tay và mạng sườn. " [4,318]

2.2.2.3.Đặc biệt là những khoảng lặng im trong đối thoại. Có những khoảng lặng

im nói lên'sự hiểu biết, thông cảm cho nhau. Như đoạn đối thoại giữa Jake và Romero

:

"Anh đi xem đấu bò" Anh nói bằng tiếng Anh.

"Anh biết tiếng Anh" . Tôi buột miệng, rồi cảm thấy mình như một thằng ngốc.

"Không" Anh trả lời và mỉm cười" [1, 163 Ị

Ở đây, những người đấu bò không thích dùng tiếng Anh. Romero rất giỏi tiếng

Anh, nhưng khi Jake hỏi, anh lại trả lời như trên. Chỉ khi nghe Romero đối thoại với

Brett, chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa của đoạn đối thoại trên.

Cũng có khi trong những tình huống nan giải, nhân vật lo âu trước những điều

bất ổn của cuộc sống trước mắt. Hemingway để cho nhân vật tham gia, hoặc đối thoại

"luyên thuyên". Lời nói của nhân vặt ít ăn nhập vào nhau, họ nói dường như chỉ để

tìm những âm vang cho đỡ trống trải. Hoặc đôi khi họ thường im lặng đến se sắt trước

những ngón đòn của số phận. cả hai trường hợp đó, nhân vật đều cố che giấu lòng

mình. Đối thoại với nhau đấy mà người nào người nấy quay về trong khó khăn riêng,

theo đuổi những suy tư của mình :

"Anh nghĩ thế sao ? Mắt nàng lại đượm buồn "

"Anh không cười cợt theo cách ấy. Nó chỉ để giải buồn mà thôi "

"Không " Nàng đáp : "Em nghĩ nó rất xấu xa trên trái đất "

"Gặp lại nhau thật tuyệt"

"Không, em không nghĩ thế "

"Em không muốn vậ y sao ? "

"Em phải như vậy" [1,27]

Hình thức đối thoại này bộc lộ sự rạn nứt trong giao tiếp. Nhận xét về văn phong

Hemingway, Phinkensten cho rằng : "đối thoại của nhân vật Hemingvvay giống như

độc thoại bị ngắt quãng. Độ căng không nổi lên bề mặt, nhưng tấn thảm kịch diễn ra

bên dưới lời đối thoại."

2.2.2.4.Trong "Giã từ vũ khí", những người lính là nạn nhân khốn khổ của chiến

tranh, vì vậy khi bàn về chiến tranh bao giờ họ cũng bế tắc. Chiến tranh như một cái gì

thuộc về định mệnh mà trí tuệ, sức lực của con người trở nên vô nghĩa. Những cuộc

đối thoại của họ khi nào cũng để lại trong mỗi nhân vật sự tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi.

Kết thúc cuộc đối thoại có khi là những cuộc cãi vã, có khi là uống rượu và im lặng :

"Hoặc thắng, hoặc bụi chỉ có hai con đường đó thôi.

Tôi không còn tin tưởng noi sự thắng trận nữa.

Tôi cũng thế, nhưng mà tôi không thấy ta sẽ bại, song sự bại trận có lẽ dễ chịu

hơn. Còn anh anh mong gì ?

Mong được đánh một giấc ngon lành. Tôi đáp, Đến đây cha tuyên úy đứng dậy

rồi nói:

Tôi làm phiền anh vì ở đây rất lâu" [2,25 ]

2.2.2.5.Cơ sở để hiểu đối thoại của Hemingvvay phần nhiều nằm ngoài văn bản.

Hemingway thường khéo léo bỏ trống các từ, mà nến một ai biết, thì họ sẽ hiểu vị trí

của chúng trong văn bản. Người đọc tiếp nhận tác phẩm cần phải tự bổ sung thêm một

thực tại ẩn, nằm dưới những câu chữ. ở Hemingway, cả logic bình thường lẫn tính liên

tục của hội thoại đã bị bẻ gãy. Vậy nên, điều thoạt nghe thì cực kì vô lí, song lại thật

chính xác. ở đó, khả năng lịch duyệt của độc giả được văn bản tận đụng triệt để. Đây

là một trong những biểu hiện của "tảng băng trôi”, mà những câu văn chân thực của

Hemingway đã mang lại.

Đối thoại của Hemingway đầy rẫy những câu đơn, tuy rõ về cú pháp nhưng

nghĩa của nó thì vô cùng tận. Ong không làm xiếc ngôn từ mà với ông ngôn ngữ của

những đoạn đối thoại là những lời nói rất tự nhiên. Có điều nhà văn khi tái hiện đã biết

chọn một góc độ nào đó, nghe theo cách nào đó để thể hiện trong tác phẩm tính

nguyên sơ của dạng ngôn ngữ thường nhật. Đây chính là công cụ phục vụ đắc lực cho

việc khảo sát cảm xúc sâu xa và trạng thái phức tạp tâm lý con người" [160,58 ]

Hemingway làm sáng tỏ ý nghĩa tượng trưng, trong mối quan hệ giữa con người

và thế giới, trong quá trình nhận thức và phản ánh hiện thực. Đặc biệt là ở: "cái thế

giới hạn hẹp của Hemingway ẩn chứa một thế giới rộng lớn hơn nhiều" ( spilka).

Trong đối thoại của ông, âm vang những tiết tấu tinh tế, vừa quen, vừa lạ, rất khó nắm

bắt những điều bí ẩn mang ý nghĩa sâu xa. Đặc biệt,qua những phút im lặng, những

quãng ngập ngừng, những sự ám chỉ của nhân vật....Cái tiết tấu vốn có trong đời thực

nhưng phải có một giác quan thật nhạy, người đọc mới có thể nhận ra, Hemingway

luôn tạo ra "độ dư thừa hữu ích " bằng "nguyên tắc bỏ sót "của điện tín.Vì thế tạo ra

nhiều khoảng trống trong đối thoại.Đó như một sự mời gọi người đọc đồng sáng tạo,

để bổ sung thêm vào tác phẩm, mới hiểu hết những phần chìm ẩn phía sau con chữ.

CHƯƠNG 3: ĐỘC THOẠI NỘI TÂM

3.1.KHÁI NIỆM ĐỘC THOẠI NỘI TÂM:

Khuôn mặt của độc thoại nội tâm khá trẻ trung trong truyền thống văn học. Về

thời điểm xuất hiện đầu tiên của độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết cũng có nhiều ý

kiến khác nhau. Từ điển thuật ngữ văn học của Timôphêép và Turaép, đề mục Dòng

tâm tư đã viết về nghệ thuật này trong thời kì chủ nghĩa tình cảm. Đặc biệt trong tiểu

thuyết của Xtenơ với Trixtan Sandy(1767) và Cuộc phiêu lưu tình cảm (1768) ; Bux

trong Thi pháp truyện kể đã nhắc đến độc thoại nội tâm từ tiểu thuyết thời Phục hưng

với Bôcaxiô. Có nhà nghiên cứu lại coi người khai sáng ra nó là Đuygiađanh với một

cuốn sách in từ 1888 "Những cành nguyệt quế đã hái". Thậm chí có người còn nhận

định Lép Tônxtôi là nhà văn đầu tiên, có ý thức vận dụng hình thức này, và

Sécnưsépxki là nhà phê bình đầu tiên nhận ra hình thức đó. Cho đù còn nhiều ý kiến

khác nhau về thời gian ra đời của độc thoại nội tâm, nhưng thủ pháp này đã đánh dấu

một cái mốc quan trọng trên con đường phát triển văn học, làm cho văn học thể hiện

ngày càng sâu sắc, toàn diện về con người.

Vậy độc thoại nội tâm là gì ? Trước hết trong nghệ thuật tự sự, ngoài lời gián

tiếp của người kể, còn có lời trực tiếp của nhân vật. Lời trực tiếp của nhân vật là tiền

đề để xuất hiện độc thoại nội tâm. Bởi vì điều kiện thứ nhất của độc thoại nội tâm, là

nhân vật tự do nói lời của mình một cách trực tiếp, nguyên vẹn, thoát khỏi mọi ràng

buộc của lời gián tiếp tác giả, không có chỉ dẫn, dẫn dắt, hoặc chuyển ý. Đồng thời

độc thoại nội tâm cung cần đặt trong ngữ cảnh gián tiếp, nếu không thì nó khác gì lời

trần thuật theo ngôi thứ nhất? Điều kiện thứ hai là nó khác với lời độc thoại. Độc thoại

là lời nói một mình, trước và sau không gắn với lời thoại nào của ai khác, thường

được sử dụng trong kịch, trong phim. Độc thoại thường gắn liền với hành động. Trong

khi đó, độc thoại nội tâm, là lời độc thoại dùng vào việc miêu tả qua trình ý nghĩ trong

nội tâm, là lời nói thầm kín, không nhằm nói ra thành tiếng như trong kịch.

Tuy nhiên, ranh giới giữa độc thoại và độc thoại nội tâm đôi khi rất mong manh,

khó xác định. Như trong đoạn độc thoại nội tâm sau đây thì chứng ta thấy rõ ràng tính

chất hướng về hành động vẫn toát ra từ thế giới bên trong: "Hãy nghĩ tới những người

đã ra đi, anh nói. Nghĩ tới họ đang đi qua rừng. Nghĩ tới họ đang đi qua suối. Nghĩ tới

họ, đang trên mình ngựa, trong rừng dày. Nghĩ tới họ đang lên dốc núi. Nghĩ tới họ

đêm nay họ rất dễ chịu. Nghĩ tới họ đêm nay đi suốt canh thâu. Nghĩ tới họ ngày mai

phải ẩn mình. Nghĩ tới họ. Mẹ kiếp ! Hãy nghĩ tới họ. Đó là tất cả những điều mà ta có

thể làm được để nghĩ tới ho... Anh nói :Hãy nghĩ tới Môngtana. Ta chả làm nổi, nghĩ

tới Mađrit. Ta chả làm nổi. Hãy nghĩ đến một cốc nước mát. Được lắm. Cứ thế. Như

một cốc nước mát. Mày là thằng nói dối. Điều đó chẳng có nghĩa lí gì. Thế thì làm đi.

Làm cái dó đi. Bây giờ làm đi. Tới đó rồi làm đi. Không, mày phải chờ đã. Sao? Mày

biết quá đi chứ lị..." [4,726 ]

Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn nhân vật, là tiếng nói thầm kín,

là lời tự nhủ thầm, hoặc nhân vật nói to lên với mình. Độc thoại nội tâm bộc lộ đời

sống bên trong, "con ngươi bên trong" của nhân vật. Khi nói đến độc thoại nội tâm,

người ta thường hay nghĩ tới khái niệm dòng ý thức. Thật ra cho đến nay, việc phân

biệt hay đồng nhất hai khái niệm này vẫn chưa ngã ngũ. Tamara. Motưlôva không

phân biệt giữa độc thoại nội tâm và dòng ý thức. Trong khi đó, nhà văn Mĩ Keene

Denald, khi phân tích ảnh hưởng của J. Joyce đối với các nhà văn Nhật, lại tách dòng

ý thức ra khỏi độc thoại nội tâm. Một số nhà nghiên cứu khác khi dựa vào tiêu chí

phản ánh và hình thức biểu hiện đã không phân biệt được rạch ròi hai khái niệm trên.

Theo sự nghiên cứu của chúng tôi thì, dòng ý thức cũng là một hình thức của độc

thoại nội tâm, là bước tiếp nối của độc thoại nội tâm. Nhưng là độc thoại nội tâm với

một sự tự do liên tưởng, không có mục tiêu đặc biệt nào, không có sự khống chế của

lôgic. Dòng ý thức có thể cùng một lúc thể hiện hai thế giới: tiềm thức và ý thức lên

bề mặt một cách hỗn độn. Với lối viết sao chép một chuỗi suy nghĩ, đã khiến cho tất

cả chỉ còn là một chuỗi câu dài không dấu chấm phẩy. Bốn mươi sáu trang cuối của

Ulyx là dòng tuôn trào tâm tư của Mariông Blum: "...và một bông hoa trên núi ờ phải

khi mình cài hoa hồng lên tóc giống như con gái miền Angđaluđi hay mình lẽ ra đã cài

một bông màu đỏ ờ phải và khi anh ta hôn mình dưới bức tường kiểu Môrơ mình tự

nhủ anh ta hay một anh chàng khác cũng thế thôi và lúc bấy giò mình đưa mắt ra ý

bảo anh ta hãy cứ nài nữa đi ờ phải và bấy giờ anh hỏi xem mình có muốn ờ phải

muốn nói ờ được không bông hoa núi của ta và trước tiên mình quàng tay quanh

người anh ấy ờ phải và mình đã kéo anh ấy lên mình để hu cặp vú mình thơm phức ờ

phải và trái tim anh ấy đập như điên và ờ phải mình nói ờ phải em muốn lắm ờ phải"...

[56,62 ]

Khái niệm độc thoại nội tâm cũng còn nhiều tranh cãi, ý kiến của Tamara

Môtưlôva được nhiều người nhất trí hơn cả vì sức khái quát của nó: "Độc thoại nội

tâm là ngôn từ trực tiếp không diễn tả lên lời của các nhân vật, hoặc là ngôn từ của

Lác giả nhân danh mình mà nói, nhưng như vậy là sử dụng giọng điệu và từ vựng của

nhân vật, hoặc cũng có thể đối thoại bên trong, ở đó giọng nói của nhân vật bị xẻ làm

đôi, thành hai giọng đối nghịch. Nó xuất hiện dưới hình thức một chuỗi kết luận có tổ

chức cũng như dưới những ý kiến mơ hồ, hỗn loạn", [116,72]

Độc thoại nội tâm tùy thuộc rất nhiều vào phương pháp sáng tác và bản sắc riêng

của từng nhà văn. Do đó, độc thoại nội tâm trong văn học lãng mạn khác trong văn

học hiện thực. Chủ nghĩa lãng mạn hướng tới cái nên có, có thể có, mơ ước. Chủ

nghĩa hiện thực nhằm vào cái đang tồn tại thực.

Độc thoại nội tâm rất đa dạng, nhiều hình nhiều vẻ. Với Xtăngđan, độc thoại nội

tâm trở thành biện phấp nghệ thuật chủ yếu thể hiện tâm lí nhân vật. Hình thức diễn

đạt, thường bằng những câu cú rành mạch, thường có nhiều từ cảm thán,vì đấy chính

là khi nhân vật xúc động mạnh hoặc đột nhiên phát hiện ra những điều mới mẻ trong

suy nghĩ, cảm xúc của mình... Thường thấy nhát là dạng câu hỏi, chứng tỏ nhân vật

đang tự vấn lương tâm, tra khảo trái tim, buộc mình phải nói thật với chính mình.

Đến Tônxtôi, độc thoại nội tâm phơi bày quá trình vận động tự thân trực tiếp của

tư duy. Chính Tônxtôi nói rõ phương pháp sáng tác của ông: "Nghệ sĩ là nghệ sĩ chỉ

bởi vì anh ta nhìn đối tượng không phải như điều anh ta mong muốn mà như nó đang

tồn tại"[70,176 ]. Độc thoại nội tâm củaTônxtôi vì thế chân thực, sát với tâm lí con

người. V. Xtaxốp, nhà phê bình nghệ thuật Nga, đã đưa ra nhận xét hết sức tinh tế về

nét đặc sắc của độc thoại nội tâm củaTônxtôi: "Tôi thấy cho đến nay mới có một

ngoại lệ duy nhất: đó là Tônxtôi. Một mình ông đưa ra trong các tiểu thuyết và các

kịch đram của mình những độc thoại thực sự với tính chệch choạc, tính ngẫu nhiên,

tính buông lửng và những nhảy cóc".[70,176 ]

Alejo Carpentier, bậc thầy của nền tiểu thuyết hiện đại có những nét độc đáo

trong việc thể hiện độc thoại nội tâm bằng cách để cho nhân vật tự phô diễn mình

trong những suy nghĩ, hồi ức, liên tưởng. Tức là để cho nhân vật được diễn tả theo

dòng ý thức, tường trình một cách trung thực qua trình diễ biến nội tâm, mà qua trình

đó chịu sự tác động mạnh mẽ của hiện thực hàng ngày. Đặc biệt ông biết kết hợp yếu

tố thời gian đồng hiện và dòng ý thức, nên diện mạo nhân vại của ông phong phú, đa

dạng, nhưng rất phức tạp.

Nếu so sánh với các nhà văn hiện sinh, họ cũng sử dụng độc thoại nội tâm như

một thủ pháp nghệ thuật quan trọng trong sáng tác. Nhân vật của họ tự bộc lộ theo

dòng ý thức, nhưng ý thức ở đây quan niệm như cái gì độc lập với thế giới xung

quanh, nên con người độc thoại nội tâm trở nên cô đơn, bất lực trong tất cả mọi trạng

thái tâm lí. Nhân vật của họ cũng sống với kí ức, hồi tưởng nhưng để rồi chịu đựng

trong cái khổng dứt ra được của ý thức bi quan, chán nản và tuyệt vọng.

Hemingway - người đề xướng phương pháp tảng băng trôi thì độc thoại nội tâm

trong tác phẩm của ông chứng tỏ ông đã thâu tóm tất cả những gì là tinh hoa của nghệ

thuật độc thoại nội tâm ở nhiều người đi trước. Chuyển hóa để tạo nên phong cách

riêng cho mình, và phải chăng trong tác phẩm của Hemingway, ông muốn đem độc

thoại nội tâm làm nội dung, mà hình thức là những trang viết.

3.2.HÌNH THỨC ĐỘC THOẠI NỘI TÂM

3.2.1.Độc thoại nội tâm với bôn tiểu thuyết tiêu biểu của Hemingway:

3.2.1.1.Hemingway là nhà văn không chủ trương chồng chất các sự kiện, các

biến cố, các hành động trong tiểu thuyết. Nhà văn thường lấy trạng thái tâm lí của các

nhân vật làm đối tượng miêu tả. Ông thường xây dựng tác phẩm trên cơ sở theo dõi

các diễn biến của ý thức nhân vật. Đấy chính là nội dung vắng bóng" cốt truyện "hiểu

theo nghĩa sơ đẳng nhất, do đó khó thuật lại, kể lại. Nhà văn lại chủ trương không

đứng ngoài quan sát, tường thuật cái thế giới nội tâm kia một cách gián tiếp, mà ông

để cho nhân vật tự bộc lộ. Vì vậy ông ít dùng ngôn ngữ người kể chuyện, mà sử dụng

chủ yếu đối thoại xen với độc thoại nội tâm. Qua đó, các trạng thái tâm lí nhân vật nổi

lên rất rõ, đồng thời nhà văn cũng gởi gắm thông điệp của mình trong những nghĩ suy

của nhân vật.

3.2.1.2.Khi tiểu thuyết "The Sun also Rises" (Mặt trời vẫn mọc) ra đời,

Hemingway trở thành đại diện xuất sắc cho lớp nhà văn thuộc "Thế hệ vứt đi" ( Lost

generation ). Có một cuộc chiến mà sự trả giá lại qua đắt, Có một thế hệ, ra khỏi cuộc

chiến ấy, bỗng trở thành thế hệ lạc lõng. Có một nhóm người đến với lễ hội để tìm

quên lãng.Người đọc như bị ám ảnh bởi một không khí ngột ngạt sau chiến tranh, nỗi

kinh hoàng về hư vô. Nhân vật của ông sống trong một thế giới giống như một khu

rừng thù địch, đầy những hiểm nguy không lường nước được, chưa kể tới các cơn ác

mộng, những cái thết luôn rình rập họ. Chiến tranh đã làm dang dở cuộc tình của

những người đàn ông với những đàn bà, nhưng không sao đập tắt được lòng ham

muốn nơi họ. Ăn sâu sau những hàng chữ, người đọc tìm thây một lập luận khá đơn

giản : "Cứ đi tìm ý nghĩa của cuộc sống, rồi sau chót, có thể là ta sẽ hiểu được, là thật

ra cuộc sống có chứa đựng những gi. sống trong một thế hệ, đù lạc lõng hay không,

Vái ý nghĩa cao đẹp nhất vẫn là trưởng thành và biết Sống cho ra sống." Đến "A

farewell to Arms " (Gia từ vũ khí), mô típ về tình yêu, tình bạn lại nổi lên như mội ốc

đảo giữa sa mạc cháy bỏng của chiến tranh, mọi ảo ảnh về tình yêu tan vỡ. Dư vị cuối

cùng vẫn là nỗi đau vô phương cứu chữa, sự bất lực và cồ đơn của con người, ngay

khi đã tìm thấy một tình yêu mãnh liệt. Với "For whom the Ben tolls " ( Chuông

nguyện hồn ai ), Hemingway muốn thể hiện "sự sống sót của tính cách giữa cõi hỗn

mang", tính cách của một con người bơ vơ nhập cuộc. Qua những ý nghĩ của Rôbơt

Jorđan, nhà văn muốn kiểm chứng thái độ của người anh hùng này, trước cái chết,

trước đau khổ và bạo lực là một thái độ phức tạp, khó diễn tả rành mạch. Bề ngoài

chán chường, phủ nhận, buông thả, che giấu một bên trong nhạy cảm, nồng nhiệt.khao

khát hành động. Hemingway còn muốn gởi gắm một thông điệp về sự cô đơn của con

người trong thế giới hiện đại mà Robơt Jorđan, dù sao, ít nhiều là một đại diện.

3.2.1.3.Có lẽ đến "The Old Man and the Sea " ( Ông già và biển cả ) thì quá trình

hủy diệt cối truyện thể hiện một cách rõ rệt nhất. Tất cả bề dày, chiều sâu của nhân

vật, được gợi lên qua những lần độc thoại nội tâm. Xen lẫn vào những suy nghĩ tưởng

chừng như rất đơn giản về cá, về biển là những chân lí lớn lao"Không trở về từ nỗi cô

đơn " và "Đã là người thì không bao giờ được bó tay chịu thua. Con người có thể bị

tiêu diệt, nhưng không thể bị khuất phục."

Người đọc nhận ra thông điệp từ những tác phẩm trên, không phải do nhà văn

diễn giải, mà chủ yếu từ những ý nghĩ nói ra lời, và những ý nghĩ không nói ra lời.

Một hiện thực rất sâu sắc về con người và thời đại dần dần hiện rõ sau những hình

thức đa dạng của độc thoại nội tâm.

3.2.2.Các hình thức độc thoại nội tâm:

Tiếp cận độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của Hemingway, ta thấy nhà văn sử

dụng linh hoạt nhiều dạng. Trong đó, phổ biến nhất là ba dạng sau:

1. Dạng lời nói trực tiếp: ở dạng này tác giả chỉ rõ nhân vật "nghĩ ", "tự nhủ", "tự

bảo", "lẩm bẩm", hoặc nhân vật nói to với mình.

2. Dạng lời nói nửa trực tiếp: ở dạng này tác giả trực tiếp phơi bày, phân tích

tâm lí nhân vật, nhưng tới một lúc nào đó giọng tác giả hòa quyện vào giọng nhân vật,

khiến ta khó phân biệt rạch ròi

3. Dạng tổng hợp: ở dạng này tác gia sử dụng xen kẽ cả hai dạng trên, kết hợp

với hồi tưởng, chiêm bao.

3.2.2.1.Qua khảo sát lác phẩm, chúng tôi nhận thấy, ngay từ tiểu thuyết đầu tiên,

Hemingway đã sử dụng độc thoại nội tâm và không ngừng gia tăng cường độ của nó

trong các tác phẩm về sau. ở "Mặt trời vẫn mọc" có ba lần độc thoại nội tâm (0,9%).

"Giã từ vũ khí" độc thoại nội tâm bảy lần (1,8%) ... "Chuông nguyện hồn ai" có 234

lần độc thoại nội tâm (13%). Đặc biệt nhất với "Ông già và biển cả", độc thoại nội tâm

kéo dài suốt 83 trang trên 111 trang văn bản tác phẩm, 256 lần ( 37%). Do tính chất

này,tác phẩm "ông già và biển cả" được xem như văn bản chính khi chúng tôi khảo sát

nghệ thuật độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của Hemingway.

3.2.2.2.Nếu xét về mặt số lượng, thì độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết của

Hemingway tập trung chủ yếu ở hai tác phẩm "Chuông nguyện hồn ai” và "Ông già và

biển cả". Lời độc thoại nội tâm chiếm một khối lượng nhỏ hơn so với đối thoại trong

tác phẩm. Nhưng nó lại cực kì quan trọng về mặt thể hiện tính cách nhân vật. Nếu

lược bỏ tất cả độc thoại nội tâm khỏi tác phẩm thì chắc chắn các tác phẩm sẽ bị tổn hại

nghiêm trọng về nghệ thuật và không còn là sáng tác của Hemingway nữa.

Theo thống kế sơ bộ của chúng tôi, số lần sử dụng độc thoại nội tâm để mô tả

nhân vật trong các tiểu thuyết tập trung chủ yếu ở các nhân vật chính như Jake, Henry,

Jordan và Santiago. Điều đó chứng tỏ các nhân vật này, hoặc có cuộc sống nội tâm

phong phú, hoặc có sự căng thẳng, dằn vặt, giằng xé, mâu thuẫn trong nội tâm.

Độ ngắn dài của lời độc thoại nội tâm rát khác nhau. Có độc thoại nội tâm chỉ

vẻn vẹn có mội ý nghĩ ngắn ngủi. Khi Santiago quan sát sợi dây câu, lão thấy dường

như mấy cái phao đang chìm dần, lão nghĩ "Tiếp tục đi", "Nó sắp đớp mồi", "Nó

không thể đi". Có lời độc thoại nội tâm khoảng hai dòng "Chúa biết là nó không thể

đi. Nó đang lượn vòng. Có lẽ trước đây nó đã bị dính câu nên nó nhổ đôi điều về

chuyện ấy". Nhiều độc thoại nội tâm kéo dài vài ba trang, thậm chí có độc thoại nội

tâm dài cả chương như suy nghĩ của Henry về tình yêu và trách nhiệm dài cả chương

32. Đặc biệt ở "Chuông nguyện hồn ai" một đoạn độc thoại nội tâm đặc sắc của

Jordan về rất nhiều vấn đề: bắt đầu từ điạ điểm đặt súng, chàng nghĩ đến Maria, chàng

nghĩ tiếp đến nhiệm vụ, nghĩ đến phe Cộng Hòa, nghĩ đến đất nước Tây Ban Nha,

những người đàn bà Tây Ban Nha và Jordan còn nghĩ rất nhiều về những giờ phút

chàng đã được sống trong hạnh phúc thực sự...Tất cả những vấn đề trên là độc thoại

nội tâm của Jordan kéo dài trong hai mươi trang.

Phân bố chung của độc thoại nội tâm trong "Ông già và biển cả" khá cân đối và

hợp lí. Khi nhân vật chưa ở vào tình thế gay go,độc thoại nội tâm có vẻ thưa thớt,

những suy tư cũng ít. Nhưng đến khi họ rơi vào tình huống nguy kịch, những suy tư

nhiều hơn, thì độc thoại nội tâm dày đặc, liên tục. Nếu ta so sánh thời gian độc thoại

nội tâm thì ban ngày nhiều hơn ban đêm,như thế là rất hợp lí và có sức thuyết phục

bởi khi mục đích rõ ràng, chí đã quyết thì nhân vật chỉ còn phụ thuộc vào ngoại cảnh

để tiến hành công việc.

3.2.2.3.Độc thoại nội tâm có những chức năng khác nhau. Nó có thể là phương

thức tự sự mang tính chất quy ước khi người kể chuyện muốn thu hẹp hoặc xóa bỏ

khoảng cách thời gian giữa kể chuyện và câu chuyện được kể. Michel Butor viết: "Vì

thế khoảng cách thời gian giữa kể chuyện và chuyện được kể có xu hướng giảm đi...

và lẽ tự nhiên người ta đã cố giảm cái khoảng cách ấy đến tối thiểu, đạt tới việc kể

chuyện hoàn toàn đồng thời với câu chuyện nó kể ra."Độc thoại nội tâm có chức năng

hướng ngoại, nghĩa là bộc lộ cái nhìn thế giới, cách đánh giá con người của nhân vật :

"Con mình mình sinh ta ra đời là để sống kiếp thằng dân chài cũng như con cá kia

sinh ra là để làm phận cá. Thánh Pie xưa kia cũng là dân đánh cá và bố ông Đi Magio

trứ danh cũng vậy''. Độc thoại nội tâm chủ yếu hướng nội, nhằm để nhân vật tự ý thức,

tự vấn lương tâm, tự phê phán, tự đánh giá." Lão nghĩ bụng: đã hai ngày rồi mình

không biết đến kết quả trận đấu ra sao. Nhưng mình phải tin tưởng mới được và mình

phải xứng đáng với cầu thủ Đi Magio trứ danh là người chơi môn gì cũng cừ, mặc dầu

gót chân bị nẻ cựa gà. Không biết chứng nẻ cựa gà nó ra sao nhỉ ? (... ) Mình thì mình

chẳng chịu nổi cái chứng ấy. Giống gà chọi có khi đui một mắt hoặc cả hai mắt mà

vẫn cứ chọi nhau được, chứ mình mà như thế thì mình đến chịu. So với những giống

chim lớn và các giống vật, con người thật chẳng thấm vào đâu. Cứ nghĩ thế, mình lại

muốn được làm thân con cá nó đang bơi ]ội trong lòng biển cả tối tăm kia". Hoặc khi

nghĩ về sức mạnh của mình,ỉão so sánh : "...Cái ông Đi Magio trứ danh ấy, không biết

ông ta có bám mãi theo con cá được lâu như mình không nhỉ ? Còn lâu hơn là đằng

khác chứ lị. Mình thì mình tin chắc như thế".

Độc thoại nội tâm thường gắn với những tâm trạng cô đơn hoặc khi nhân vật rơi

vào tình huống căng thăng cần phải lựa chọn. Trong nghệ thuật tiểu thuyết của

Hemingway, độc thoại nội tâm luôn tỏ ra là một biện pháp hữu hiệu, nhưng không thể

sử dụng nó bất cứ lúc nào và với bất cứ ai. Độc thoại nội tâm thường xảy đến với

những con người cô đơn.Tác giả có chủ ý khi chọn một ông giạ đánh cá, không họ

hàng thân thích. Hoàn cảnh đó tất nhiên bắt buộc lão phải thu về cuộc sống bên trong.

Nhà văn lại cố tình xây dựng Santiago đến bạn bè cũng không có, trừ chú bé Manolin,

nhưng suốt mấy tháng trời đi không rồi lại về không, nên bố me chú bắt đi theo một

con thuyền khác. Hemingway không đặt Santiago vào thế phải lựa chọn gay go quyết

liệt, mà tung lão già ra biển khơi. Còn không gian nào mênh mông hơn, trời cao vô

tận, biển sâu hun hút, bốn phương bát ngát chẳng thấy đâu là bến bờ. Không gian

mênh mông ấy lại mang cái đơn điệu bởi sự trống vắng đến vô cùng. Chim không hiểu

được tiếng người, cá không nghe được lời người nói, nước thì mênh mông, mây thì hờ

hững, thành ra cái không gian không người giao cảm ấy cũng là nền cho độc thoại nội

tâm phát triển. Những câu độc thoại nội tâm đầu tiên lão nghĩ về số phận và cảnh cô

đơn của mình: "Con người ta không nên sống một mình khi tuổi đã xế bóng, lão nghĩ.

Nhưng không thể nào tránh khỏi". Rồi lão bắt đầu ái ngại cho con cá: "Chưa bao giờ

mình gặp một con cá nào kiêu hùng và hành động quá đỗi kỳ lạ như nó, Có lẽ nó cũng

thừa khôn ngoan để không nhảy lên. Bởi nếu cứ phóng lên hoặc lao chạy thì nó có thể

hủy hoại mình. Nhưng chắc trước kia cu cậu đã nhiều lần nếm mùi dây câu nên đã biết

đây là cách chiến đấu tốt nhất. Nó không thể biết chỉ có mỗi một người duy nhất đang

đương đầu với nó và cũng chẳng hay rằng đấy là một lão già. Nhưng cu cậu đúng là

chú cá vĩ đại và sự vĩ đại ấy còn được thể hiện ở phản thịt nơi chợ nếu thịt nó hãy còn

tươi khi được mang đến đó. Cu cậu đớp mồi hệt một trang nam tử và cái cách cu cậu

kéo cũng là của đấng hào hoa; cu cậu chống cự không một chút hoảng sợ. Ta phân vân

chẳng biết nó có mưu đồ gì không hay cũng chỉ cố gỡ gạc như cái thân của ta thôi ?".

Độc thoại nội tâm cứ thế nới dần cốt truyện, nhân vật tự hoàn thiện bức chân dung của

mình.

Độc thoại nội tâm thường xảy ra khi nhân vật rơi vào tình trạng tâm lí căng

thẳng, phải đấu tranh tư tưởng trước một quyết định lựa chọn khó khăn giữa ngã ba

đường. Qua những suy nghĩ về chiến tranh của Jorđan, ta nhận thấy những lo lắng băn

khoăn của nhân vật trước khi quyết định công việc sắp làm "Mày sẽ phá nó một ngày

nào đó, không hôm nay thì hôm khác. Hoặc nếu không phái chiếc cầu này thì sẽ là

mội chiếc cầu khác. Mày không phải là người quyết định sẽ phải làm việc gì. Mày chỉ

có việc tuân thủ mệnh lệnh. Hãy tuân thủ theo mệnh lệnh và đừng có tìm cách nghĩ

ngợi qua xa. Mệnh lệnh về việc này rất rõ ràng. Qua rõ, nhưng mày không được thắc

mắc mà cũng không được sợ hãi. Vì rằng nếu mày tự cho phép có quyền sợ hãi một

cách thông thường thì cái sợ đó sẽ lây sang những người cùng làm việc với mày đấy.

Nhưng dẫu sao thì cái chuyện cắt đầu kể cũng ghê rơn thật, anh tự nhủ". [4,146 Ị

3.2.2.4.Với tiểu thuyết "ông già và biển cả" nếu gần trăm trang sách độc thoại

nội tâm, chỉ để Santiago "tự nhủ, thầm nghĩ..." mãi thì có lẽ sẽ rất nhàm. Vì vậy, trong

tác phẩm đôi khi tác giả để cho nhân vật nói to lên một mình. "Lão không nhớ lần đầu

tiên lão nói to một minh như thế là tự bao giờ. Ngày xưa khi lủi thủi một mình, lão

thường hát; thỉnh thoảng lão hát vào ban đêm cô đơn trong phiên trực lái trên những

chiếc thuyền buồm đánh cá hay thuyền săn rùa. Có lẽ lão bắt đầu nói lớn khi chỉ có

một mình, khi thằng bé ra đi". Giữa trời mây sóng nước, lão cô đơn tuyệt đối, lão đành

tự nói chuyện với chính mình vậy. Cho dù nói rồi lại nghe, nhưng vẫn còn chút an ủi.

Đặc biệt rất nhiều lần lão nói lớn : "I wish the boy were there" ( Mình ước có

thằng bé ở đây ). Có thể coi chú bé Manolin như một người thân duy nhất của ông già

cô đơn. Bạn của ông già lại là một chú bé, một tình bạn vong niên không cùng giáp

mặt, đối đầu với hiểm nguy, gian khổ nhưng rõ ràng hai con người này gắn chặt với

nhau làm một. Đầu và cuối truyện gặp mặt, giưã truyện xa mặt nhưng chẳng cách

lòng. Gặp nguy khó hoặc thắng lợi ông gia không lần nào không nhắc đến thằng bé,

còn chú bé chẳng lúc nào không trông thuyền ngóng bến. Hai con người gắn bó với

nhau nhít thân với chồi. Chồi nhờ nhựa thân mà sống, thân cằn cỗi, chồi phát triển

thay thân. Thằng bé mang ý nghĩa của một mầm sống tiếp nối, một tương lai có sự kế

thừa và phát triển.

3.2.2.5.Độc thoại nội tâm còn là một cách diễn tả đặc biệt, chính xác nhất khi

nhân vật mổ xẻ mội cách chi li, vạch tận gốc rễ, cội nguồn những cảm xúc, những suy

tư thầm kín nhất của mình. lordan đôi lúc băn khoăn về thời cuộc, anh nghĩ :"Lúc này

anh chẳng có chính kiến gì cả, anh tự nhủ, nhưng anh thầm nghĩ. Không nên nói cho

ai biết cái đó, không bao giờ nên thừa nhận điều đó." Jack có nhiều ý nghĩ độc đáo về

phụ nữ, về cuộc đời: "Đàn bà làm nên những người bạn tuyệt vời. Rất tuyệt vời. Trước

tiên ta phải yêu một người phụ nữ để có một cơ sở của tình bạn. (... ) Cuộc đời này là

một nơi rất tốt để mình mua một chỗ. Có vẻ như một thứ triết học hay. Tôi nghĩ, năm

năm nữa nó cũng sẽ trở thành ngớ ngẩn như những thứ triết học hay ho khác tôi đã

từng có. (... ) Có lẽ càng sống mình càng học được một điều gì đố. Tôi chẳng cần biết

đó là cái gì. Tôi chỉ muốn biết là sống ở trong đó như thế nào. Có lẽ mình tìm ra được

sống trong đó như thế nào. Có lẽ mình tìm ra được sống trong đó như thế nào thì sẽ

biết được nó sẽ là cái gì. " [1,197]

3.2.2.6.Hình thức độc thoại nội tâm của Hemingway rất phong phú, có khi thể

hiện những mong muốn : "ôi ! Ước sao đó là sự thật". Cũng có khi độc thoại nội tâm

thể hiện chiều sâu tư duy, mang nặng tính triết lý : Lão lại nghĩ :"ở đời cái gì tốt đẹp

qua vần khó bền. Lúc này mình muốn mọi chuyện xảy ra kia chỉ là một giấc chiêm

bao và cứ xem như là chưa bao giờ câu được con cá ấy. " Sau cùng lão tự động viên

mình cố gắng vươn lên để giành phần thắng đối với con cá: "Đã làm người thì không

bao giờ được bó tay chịu thua. Con người có thể bị tiêu diệt nhưng không thể bị khuất

phục."

Độc thoại nội tâm của ông lão khi thốt lên thành tiếng mang tính chất đối thoại -

đối thoại mội chiều, vì chỉ có lời nói đi mà không có lời đáp lại. Santiago đối thoại với

chính mình, lão nói to lên thành tiếng : "Nhưng ông bạn ạ, ông có biết là ông chưa ngủ

được tí nào không ?...Nếu con cá kia nó cứ thủng thỉnh mà kéo đi như thế thì ông cũng

nên kiếm cách ngủ nghê tí chụt. Cứ thao láo con mắt mãi thế này thì đầu óc cũng đến

mụ ra mất thôi...". Đôi khi vì qua cô đơn lão bắt chuyện với con chim : "Mày đã bao

nhiêu tuổi hở chim ? Phải chăng đây là chuyến bay vượt biển đầu tiên của mày ? " Lão

tâm tình đầy yêu thương với cá : "Nào, ăn thêm một miếng nữa đi, ăn cho no vào "

hay "Cá ơi, tao rất yêu thương và trọng mày, tao trọng mày lắm nhưng tao cũng xẻ thịt

mày". Rồi lão tự phân thân để nối chuyện với cánh tay tê bại của mình : "Tay với chân

gì mà lại thế này ! Mày có muốn tê bại gì thì cứ việc. Trông mày có khác gì một bộ

gọng cua kia chứ. Như thế thì phỏng còn được cái tích sự gì ? " và "Nào tay ơi ! Bây

giờ mày ra sao rồi ? hay là vẫn đang còn chưa lại hồn hở mày ? ".Tuy thời gian hiện

tại là cái nền chính cho độc thoại nội tâm của Santiago,nhưng để cho độc giả hiểu rõ

hơn cuộc đời của ông lão, đôi khi tác giả để cho những độc thoại nội tâm đưa chúng ta

ngược trở về quá khứ : "Khi mặt trời lặn, lão hồi tưởng, để củng cố thêm niềm Un, về

cái hôm ở quán rượu tại Casablanca, khi lão chơi vật tay với anh chàng da đen lực

lưỡng quê ở Cienfuegos, người được xem là khoe nhất ở cảng ấy." Có khi độc thoại

nội tâm là những dự đoán của ông lão hướng về tương lai: "Ba bốn ngày nữa sẽ trở

trời đây. Nhưng chưa phải ngay bây giờ". Độc thoại nội tâm còn gợi về những kỉ niệm

buồn. Một mình giữa biển khơi, Sanlỉago nhớ lại một ngày buồn thảm nhất của mình.

Lão nhớ lần lão câu được mội con trong cặp cá kiếm. Con đực luôn để con cái ăn

trước và khi bị dính câu, con cái giẫy giụa kinh hoàng, tuyệt vọng vẫy vùng thoát thân

mạnh đến bổi chẳng mấy chốc đã kiệt sức ; suốt thời gian đó, con đực luôn ở bên bạn,

bơi qua bơi lại dưới sợi dầy và lượn tròn cùng bạn trên mặt nước. Nó bơi gần đến nỗi

ông lão sợ nó có thể tiện phăng sợi dây câu bằng cái đuôi có hình dáng, kích cỡ và sắc

tựa lưỡi hái. Khi ông lão móc con cá cái, giữ chặt cái kiếm xù xì tựa giấy nhám của nó

và vung chày quật vào đỉnh đầu cho đến khi da nó chuyển sang màu như màu thủy

ngân tráng phía sau gương, và rồi với sự trợ giúp của thằng bé, lão lôi con cá lên

thuyền trong lúc con cá đực vẫn cứ sán lại bên mạn thuyền. Rồi trong lúc lão đang rửa

sợi dây câu và xem xét lại cây lao, con cá đực tung mình nhảy vọt lên lơ lửng trong

không trung bên cạnh chiếc thuyền để xem con cá cái ở đâu, rồi rơi lặn sâu xuống ;

đôi cánh màu đỏ hồng, tức đôi vây hai bên ngực, xòe rộng phô hết ra những đường

sọc đỏ hồng rộng. Nó thật đẹp, ông lão nhớ, và nó thủy chung." Độc thoại nội tâm có

khi hòa tan thành những giấc mơ. Lão mơ về thời tuổi trẻ, liên thuyền đến Phi châu

lão đã thấy "những bờ biển cát vàng, cát trắng trải dài, trắng đến nỗi làm mắt đau

nhức, những mũi đất cao nhô ra mặt biển, những ngọn núi xám đồ sộ (... ) lão tiếp tục

mơ để thấy những mỏm trắng xỏa của những hòn đảo nhô trên biển, lát sau lão mơ về

những hải cảng khác, những vũng tàu đậu khác của quần đảo Canary." Lúc đã già, khi

vợ đã qua đời " lão không còn mơ về bão tố, về phụ nữ, về những sự kiện, những con

cá lớn, về những trận đánh, những cuộc đâu sức hay vợ lão. Bây giờ lão chỉ mơ về

nhCfng vùng đất và những con sư tử trên bờ biển. Chúng nô đùa như những chu mèo

con trong hoàng hôn, lão yêu chúng như yêu thằng bé " Đàn sư tử - tượng trưng cho

sức mạnh - cứ trở đi trở lại trong những giấc mơ của lão, như chứng nhân cho một

thời tuổi trẻ kiêu hùng, thời lão được gọi là Nhà vô địch." Lão bắt đầu mơ về bãi cát

dài vàng rực, lão thấy con sư tử đầu tiên bước ra trong bóng tối chập choạng rồi tiếp

đó là những con khác, còn lão thì tựa lên mạn con tàu đang thả neo trong làn gió nhẹ

buổi tối từ đất liền thổi đến ; lão cứ đợi xem thử còn có thêm con nào nữa không, lão

hạnh phúc" Tác phẩm kết thúc bằng đàn sư tử trong chiêm bao của Santiago|^ộc thoại

nội tâm còn hướng đến tương lai. Jordan trong khi đang chỉ huy việc phá cầu'nhưng

vẫn nghĩ về trường đại học, về hạnh phúc trong tương lai sẽ sống với Maria ở Xonvali

" Ta sẽ về sinh sống bằng cách dạy tiếng Tây Ban Nha như trước vavsẽ viết một cuốn

sách trung thực, dám chắc, anh nghĩ, dám chắc là điều đó dễ dàng thôi ".. Hoặc

"chúng ta sẽ vào khách sạn ghi tôn là bác sĩ Livinhxtơn và vợ chẳng hạn, anh nghĩ :

mình sẽ cưới Maria và chúng ta sẽ trở thành ông và bà Robert lordan ".

3.2.2.7.Liên quan chặt chẽ với hình thức độc thoại nội tâm là vấn đề đồng hiện

trong vãn học. Theo quan niệm của Giáo sư Trần Đình sử thì "Đồng hiện văn học là

sự tái hiện một từ, một câu, chi tiết, không gian, thời gian của quá khứ, hiện tại và

tương lai trong cùng một thời điểm. “Ngôn ngữ ở đây thường mang tính biểu trưng

cao độ, nó gắn với dòng chảy tâm linh, nó dung hòa lí trí và cảm xúc. Ở nhân vật Jake,

đồng hiện gắn liền với việc bộc lộ tâm trạng. "Đi bộ băng qua công viên về khách sạn,

mọi thứ trông mới và thay đổi. Tôi như thể chưa từng thấy những hàng cây, những cột

cờ và mặt tiền của nhà hát từ trước. Mọi vật, tất cả đều khác. Tôi cảm thấy những gì

tôi đã trải qua sau lần trở về nhà từ lần đá bóng bên ngoài thành phố. Tôi đang mang

va ly đựng dụng cụ bóng đá đi bộ từ nhà ga vào thành phố, nơi tôi đã sống rất lâu và

nó, tất cá đều đổi mới. Họ đang dọn những thảm cỏ và đốt lá bên đường, tôi dừng lại

khá lâu để nhìn. Mọi vật tất cả đều đổi mới. Sau đó, tôi tiếp tục, chân dường như đã

trải qua chặng đường dài, vạn vật dường như đến từ kí ức mơ hồ, tôi nghe chân mình

bước những bước xa vời. Tôi bị đánh vào đầu từ rất sớm của trận đấu. Thật thích khi

băng qua quảng trường. Thật thú vị khi bước lên cầu thang khách sạn. Đi lên cầu

thang mất khoảng thời gian dài, tôi cảm thấy như mình đang mang va li." Độc giả thật

khó minh định tâm trạng buồn hay vui ở Jake, chỉ có thể cảm nhận được tất cả quyện

lại trong xúc cảm vừa cay đắng vừa ngại ngào. Những kỉ niệm buồn, êm đềm đan xen

hòa cùng thực tại mòn mỏi. Phải chăng con người xưa nay vẫn tồn tại trong cuộc đời

với bao nhiêu tự thế đối nghịch trong tư duy và hành động ?

3.2.3.Độc thoại nội tâm và những vấn đề chiến tranh, tình yêu, hạnh phúc, triết

lí về cuộc đời:

3.2.3.1.Chiến tranh là một chủ đề được trở đi trở lại trong sáng tác của hầu hết

các nhà văn tiến bộ trên thế giới. Bởi đó là căn bệnh trầm kha cửa thế kỉ XX. Chiến

tranh đối với bất cứ dân tộc nào, đù chính nghĩa hay phi nghĩa cũng không sao tránh

khỏi màu sắc bi kịch. Trong tiểu thuyết của Hemingway, chiến tranh hiện diện không

nhằm nói về những mất mát vật chất, những thương vong mà là những ám ảnh hằn sâu

trong tâm khảm mỗi con người, khi cuộc chiến đã đi qua.Là nhà văn cả cuộc đời cầm

súng và cầm bút, chiến đấu ở Đại chiến thứ nhất, ở Tây ban Nha, ở Đại chiến thứ hai,

ông đã rút ra chân lí: "Muốn viết chân thực về chiến tranh phải trải qua rất nhiều nguy

hiểm, vì có trải qua tất cả các nguy hiểm mới có thể tìm được chân lí về chiến

tranh.(... ) khi ra tiền tuyến tìm chân lí, có trường hợp họ chỉ tìm thấy cái chết thay cho

chân lí. Nhưng nếu có 12 người ra đi mà chỉ có hai người trở về, thì lúc dó chân lí do

họ mang về sẽ thực sự là chân lí, chứ không phải là những lời đồn đại đã bị bóp méo,

xuyên tạc mà chúng ta nhận rằng đó là lịch sử" [151,170 ]. Chính nhờ điều ấy mà tác

phẩm của ông rất thực, nhân vật có sức sống, mang theo hơi thở của tâm hồn ông và

có một dáng dấp riêng. Hơn thế nữa trong các tác phẩm, chiến tranh giống như một

thứ thuốc thử cực nhạy để thử thách con người. Mọi cái cao cả, cái thấp hèn, lòng

trung thực, lòng vị tha tất cả đều được hiện lên rõ nét.

3.2.3.2.Chủ đề chiến tranh hiện diện ở những dáng vẻ khác nhau trong ba tiểu

thuyết lớn của ônn.Trong tiểu thuyết đầu tiên "Mặt trời vẫn mọc " Hemingway đã gây

cho người đọc một cảm giác chán ngán vì cảnh sinh hoạt hỗn loạn ở các hộp đêm, ở

hội đấu bò ( fiesta ) trên đất Tây Ban Nha. Những đám thanh niên sống không mục

đích, họ chôn vùi tuổi trẻ vào những cuộc tiêu khiển vô bổ, vì họ là những người đã

từng tham gia hoặc chứng kiến chiến tranh. Không trang nào nói đến khói lửa của

chiến tranh, nhưng không khí của cuộc chiến tranh tàn khốc ấy vẫn nặng nề bao trùm

lên đời sống con người. Những nhân vật như Cohn, Brett, Jack đều là nạn nhân. Họ

luôn sống trong thảng thối lo sự. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho cô gái xinh

đẹp, có tâm hồn trong sáng như Brett và chàng trai khỏe mạnh, thông minh như Jack

không thể có hạnh phúc. Họ vẫn sống bên nhau, rất yêu nhau nhưng vẫn đau khổ và

họ cũng chẳng hiểu vì sao, chẳng một lần họ truy tìm nguyên nhân thật sự của nỗi bất

hạnh ấy. Từ đầu đến cuối tác phẩm không khí nặng nề, chán ngán, bi quan đè nặng lên

mỗi nhân vật. Họ là những người của cả một thế hệ bị chiến tranh phi nghĩa nghiến

nát, dày xéo. Họ cảm thấy thất vọng và cay đắng, họ tìm lối thoát trong những ảo giác

khốc liệt nhưng vẫn bế tắc. Nhân vật Robert Coln thốt lên "Đi đến đâu cũng chẳng

thay đổi được gì hết. Tôi đã thử rồi, không phải hễ cứ đi là thoát được chính mình.

Chẳng có kết qua gì đâu ". Họ đã sống với một thái độ bất cần mọi sự trên đời. Có một

lúc nào đó họ cũng ý thức được rằng, nỗi cô đơn, thất vọng của họ là từ đâu tới. Họ cố

quên đi, nhưng "ban ngày rất dễ bất cần mọi chuyện, nhưng ban đêm thì đó là chuyện

khác, không thể bơ đi những cái mình đã sông"

3.2.3.3.Với "Giã từ vũ khí Hemingway nhìn về cuộc chiến tranh với thái độ hoài

nghi: "Chiến tranh sẽ giết hại những người lương thiện nhất, hiền lành nhất và dũng

cảm nhất mà không cần phán xét...người ta cũng sẽ giết anh chỉ có điều là không vội

vàng. "hoặc " Có lẽ ngày nay người ta không thể chiến thắng trong bài cứ cuộc chiến

tranh nào. Có lẽ cuộc chiến tranh kéo dài vô tận. Có lẽ chúng ta chứng kiến một trăm

năm chiến tranh khác nữa ". Thời gian sự kiện diễn ra trong câu chuyện là thời gian

diễn ra giữa hai khoảnh khắc : khoảnh khắc ngắn ngủi giữa tình yêu và cái chết ;

khoảnh khắc nhân vật chính nhận ra tất cả cái bi hài của cuộc chiến để rồi quyết định

"giã từ vũ khí số phận của tình yôu,của lứa đồi ở đây đã dựng trên bối cảnh khốc liệt

và li ám của chiến trường, liên quan tới sự kiện gây đổ vỡ trong cuộc sống nhân loại

đầu thế kỉ XX. Chiến tranh với tất cả sự khốc liệt của nó đã đẩy người lính Henry đến

lận cùng sự đau khổ. Lời độc thoại nội tâm cuối tác phẩm của Henry có thể coi như

kết qua của một sự đổ vỡ vô phương cứu chữa. "Nhưng sau khi đuổi họ ra khỏi phòng,

sau khi đã đóng cửa lại và tắt đèn, tôi hiểu rằng tất cả đều vô ích. Dường như tôi nói

lời vĩnh biệt với một pho tượng, Một lát, tôi đi ra và rời bệnh viện. Và tôi trở về khách

sạn, dưới mưa”.

3.2.3.4."Chuông nguyện hồn ai” là tác phẩm tiến bộ nhất trong cuộc đời sáng tác

của Hemingway. Kết qua của những năm tháng lăn lộn trong đời sống thực tế của

cuộc chiến đấu anh dũng chống bọn phát xít Phrancô là một bản anh hùng ca, ca ngợi

cuộc kháng chiến vĩ đại của những người yêu chuộng tự đo công lí, ca ngợi những

người du kích Tây Ban Nha và những chiến sĩ trong lữ đoàn Quốc tế. So với "Giã từ

vũ khí" thì "Chuông nguyện hồn ai" là một bước tiến trong cái nhìn về chiến tranh.

Nếu như trung uy Henry trốn tránh chiến tranh một cách tuyệt vọng, mù quáng, thì ở

"Chuông nguyện hồn ai " nhà văn đã để cho Robơc Jordan sáng suốt lựa chọn một

hướng đi đúng đắn. Vì căm thù chiến tranh mà cả hai đều chống chiến tranh, nhưng

Henry thì đào ngũ, bi quan còn Jordan thì lại nhập ngũ. Bởi vì bản thân tác giả đã tìm

thấy chân lí, chính nỉíhiã ở cuộc chiến .đấu của phe dân chủ Tây Ban Nha chống phát

xít. Jorđan đã chiến đấu với nhận thức sâu sắc rằng "Mình chiến đấu đến nay đã được

một năm cho những điều mình tin tưởng. Nếu ở đây mà chúng ta thắng thì chúng ta sẽ

thắng ở khắp nơi. Thế giới này thật là đẹp và đáng để cho mình chiến đấu".

3.2.3.5.Tuy nhiên trong tác phẩm, đôi khi những độc thoại nội tâm đã chỉ ra

những day dứt của người lính khi bắt buộc phải cầm súng. Anxenmo từng nghĩ ngợi:

"Mình mong rằng, mình sẽ không tham gia vào việc bắn giết. Nếu sau chiến tranh cần

phai lùm mội lỗ rửa tội lớn về việc giết người. Nếu sau chiến tranh không còn tôn giáo

nữa, thì mình cho rằng cần tổ chức một hình thức giải tội kiểu dân sự gì đó để tẩy rửa

sự chém giết, nếu không thì chúng ta sẽ không bao giờ có được một cơ sở chân chính,

nhân đạo để mà sống." [4,329] Độc thoại nội lâm làm nổi rõ những cuộc tranh luận

dai dẳng, cứ bám riết lấy từng người lính khi họ muốn cho tâm hồn mình phần nào

được thanh thản về hành động giết người : "Anh tự hỏi mình, mày đã giết bao nhiêu

người rồi ? nhưng mày yêu người dân vùng Navara hơn bất cứ người nào khác ở Tây

Ban Nha. Phải. Mà mày vẫn giết họ. Phải...mày không biết giết người là sai hay sao ?

Có vậy mà mày vẫn làm. Phải,và mày vẫn tin một cách tuyệt đối rằng mục đích của

mày là đúng ư ?"[4,109]

3.2.3.6.Qủa là chiến tranh gieo rắc bao thảm họa và không chừa bất cứ ai, ai

cũng là nạn nhân của chúng; "Đáng lẽ phải miễn cho nó như là miễn cho những người

phản đối chiến tranh vì lương tâm, nhưng những người phản đối chiến tranh và lương

tâm không được miễn trong cuộc chiến tranh này. Chẳng ai được miễn cả. Ai cũng

như ai. Phải ; chiến tranh đem đến cho những con người hòn nhái này. Bây giờ thì họ

đã bị ném vào cảnh chiến tranh rồi."

Những suy nghĩ qua độc thoại nội tâm của nhân vật, còn cho thấy nhân vật dù

còn nhiều suy nghĩ, băn khoăn về chiến tranh, nhưng họ cũng hiểu rất rõ, chỉ có một

con đường duy nhất là phải tham gia cách mạng một cách trung thành, bằng tinh thần

trách nhiệm cao: "Đáng lẽ bây giờ mình phải về trại.Bất cứ một người nào có ý thức

một chút thì phải mong mình trở về trại. Mình sẽ ở lại đây thêm một chút nữa, ông cụ

nghĩ - rồi sẽ về trại. Người lính cũng tuân thủ kỉ luật chiến đấu một cách rất nghiêm

ngặt: "Trong thời gian chiến tranh anh tuân theo kỉ luật cộng sản... Những người cộng

sản đã tỏ ra có một kỉ luật tốt nhất, chắc chắn và lành mạnh nhất để tiến hành cuộc

chiến đấụ."[4,276]

3.2.3.7.Hình ảnh cuối cùng, người chiến sĩ bị thương, gãy chân nằm lại ôm khẩu

súng máy chờ giặc đến trong buổi chiều tà, trong rừng thông xanh biếc vang lên tiếng

chuông nguyện hồn cho anh như mãi ngân nga trong lòng người đọc: "Robert Jordan

nằm sau gốc cây, cố hết sức mình để giữ cho hai bàn tay khỏi run. Chàng đợi tên sĩ

quan tới đúng chỗ có nắng, nơi những cây thông đầu tiên của khu rừng tiếp giáp với

triền dốc xanh của đồng cỏ. Chàng nghe tim mình đập sái trên mặt đai của khu rừng

phủ đầy xác lá thông." [4,728].

"Chuông nguyện hồn ai" còn là tiếng hát lạc quan của những người chiến sĩ du

kích Tây Ban Nha. Nhà văn dã đưa vào tác phẩm những con người chất phác, thật thà

nhưng tự ùn và có tinh thần yêu nước, yêu tự đo mãnh liệt. Đó là ông lão Anxenmôn,

người du kích già hồn nhiên trong sáng, trung thực, đôn hậu, giàu tình cảm nhưng can

đảm và cương quyết. Thật xúc động khi nghe ông lão tâm sự : "Tối đến thật là cô đơn.

Chỉ có một điều mà không thể có một Chúa Trời nào cướp di dược đỏ là mình đã phục

vụ tốt chế độ Cộng hòa. Mình đã ra sức hoại động cho những cái tốt đẹp mà sau này

chúng ta cùng chung chia sẻ với nhau. Mình đã hoạt động ngay từ những ngày đầu

phong trào và chưa hề làm gì đáng xấu hổ". Bên cạnh đó người du kích anh hùng

Enxôrơđô lại được Hemingway vẽ lên bằng một cách khác. Anh cương quyết, bình

tĩnh, thông minh, lúc nào cũng sáng suốt lạ thường và đã chiến đấu cho đến giọt máu

cuối cùng. Cùng đồng đội Enxôrơđô lập nên kỳ tích anh hùng trên ngọn đồi mà anh sẽ

yên nghỉ. Với tâm hồn thanh thản đón nhận cái chết, rất lạc quan, người anh hùng ấy

càng ý thức sâu sắc hơn về cuộc sống. "Chết không sao cả... Nhưng sống là cả một

cánh đồng lúa dạt dào trong nắng sớm. sống là con chim ưng trên bầu trời. sống là một

vò nước giữa bụi bặm trong buổi đập lúa, khi hạt lúa rơi và trấu bay lã chã. Sống là

cưỡi trên lưng một con ngựa, khẩu súng trường cài bên dưới yên dưới một bên chân,

sống là một ngọn đổi, một thung lũng, một dòng suối cây mọc hai bên bờ bên kia

thung lũng và khắp trên những ngọn đồi xa xa..." Hemingway dã cho người chiến sĩ

Jordan được sống trong một tình yêu thật trọn vẹn cùng với Maria trước lúc hi sinh.

Những giờ khắc thật ngắn ngủi nhưng đẹp làm sao “Có lẽ đó là một cái mà lúc này

cuộc sống dành riêng cho mình. Có lẽ đó là một cái. Có lẽ đó là một cuộc đời mình và

đáng lẽ nó là bảy mươi hai năm thì nó vẻn vẹn chỉ là bảy mươi hai giờ, cũng có thể

sống một cuộc đời đầy đủ bằng bảy mươi hai năm."[4,281]

3.2.3.8.Đối với Hemingway, chủ đề chiến tranh là chủ đề trung tâm và bao trùm

suốt cuộc đời sáng tác của ông. Trong chiến tranh con người có dịp bộc lộ tất cả mọi

mặt mạnh yếu của mình. Một trong những mặt mạnh nhất của con người là ý chí và

lòng dũng cảm.Chủ đề ấy một lần nữa được ngợi ca trong "Ông già và biển cả". Đây

là một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi, chứa đựng nhiều ý nghĩa và triết lí sâu xa. Cáu

chuyện về Santiago chiến đấu gay go, ác liệt với đàn cá dữ,cuối cùng chỉ còn một bộ

xương cá mang về, nhưng đó là chiến thắng về tinh thẫn nhờ nghị lực, ý chí, niềm tin

và lòng yêu cuộc sống vô bờ bến của con người. Độc thoại nội tâm của Jordan cũng

mang nhiều ý nghĩa nhân sinh và thể hiện ý nghĩa cuộc sống đích thực : "Chúng ta

sinh ra để làm gì nếu không phải để giúp đỡ lẫn nhau, anh nghĩ" [4,237 ] hoặc "Nếu ở

đây mà chúng ta chiến thắng thì chúng ta sẽ chiến thắng khắp mọi nơi. thế giới thài là

đẹp và đáng dể cho mình chiến đấu vì nó và mình thật ghét phải rời bỏ thế giới này, và

mày đã có được nhiều may mắn mới có được một cuộc sống tốt đẹp như thế, anh tự

nhủ" và "Trong chiến đấu không thể có cá nhân mình được. Trong chiến đấu chỉ có

thể vứt bỏ cái cá nhân đó đi mà thôi" [4,344].

3.2.3.9.Qua những tiểu thuyết của Hemingway toát lên tư tưởng chống chiến

tranh, ca ngợi phẩm giá của con người, với tất cả những cái tốt đẹp, chất nhân văn,

nhân bản trong con người. Đặc biệt ông lên án gay gắt tội ác của chiến tranh, gây ra

bao tai họa và tang tóc. Nhưng quan trọng hơn sự khủng khiếp của chiến tranh là sự

tha hóa của tâm hồn con người. Chiến tranh đẩy con người trở lại thời kì đồ đá trong

đời sống vật chất, mà nguy hại hơn là đời sống tinh thần và tình cảm.

3.2.3.10.Sáng tác của Hemingway. Mỗi chủ đề đều bị chi phối và ảnh hưởng đến

các chủ đề kia. Qua đó bộc lộ loàn bộ thế giới quan của Hemingway về cuộc sống và

cái chết. Quan niệm về cái chết của Hemingway khá rõ ràng và nhất quán. Để chết,

phải chết, tức phải sống và sống như thế nào đó để cái chết không còn ý nghĩa. Ông

cho rằng sống hết mình vì cuộc sống, vì sự sống thì cái chết cũng chỉ có nghĩa tiếp lục

sự không sống nữa mà thôi. Thậm chí còn có phần nhẹ nhõm hơn. ông đã từng nói với

mía Erenbourg "chết thật dễ dàng, còn sống thì mới khó làm sao."

3.2.3.11.Thái độ chịu đựng là một nét tính cách tiêu biểu của người Mĩ. Ở tiểu

thuyết của Hemingway, nhân vật chính mang hai nét tính cách rõ rệt: thái độ chịu

đựng và bất khả bại. Độc thoại nội tâm của Rôbert Jorđan trong những trang cuối cùng

của lác phẩm dã khẳng định lòng dũng cảm, sẩn sàng đón nhận cái chết của người

chiến sĩ tình nguyện: "...Tất cả đã diễn ra tốt đẹp biết bao khi phái đạn bắn lới, - anh

nghĩ thầm - Nhưng cũng còn may vì nó không bắn tới sớm hơn, lúc mình đang ở dưới

gầm cầu. Cùng với thời gian, tất cả các chuyện ấy của chúng ta sẽ được sắp xếp giải

quyết tốt đẹp hơn (... ) Nhưng này, có lẽ dù sao cũng làm việc ấy đi, vì nếu mình mê

man, mình sẽ không đối phó được, chúng nó sẽ bắt mình và sẽ nêu ra với mình những

câu hỏi, đủ mọi câu hỏi, cũng sẽ làm đủ mọi trò, và như thế sẽ rất tồi tệ. Cậu sẽ khó

đối phó đấy. Nhưng có ai đối phó giỏi với những chuyện ấy được ? Mình không biết,

mà cũng chẳng muốn biết. Nhưng cậu sẽ khó khăn đấy. Riêng với cậu sẽ hoàn toàn

khó khăn. Hoàn toàn khó khăn, hoàn toàn. Theo mình thì đã đến lúc làm việc ấy rồi.

Còn theo cậu thi thế nào ? Không, chưa đến lúc đâu. Vì cậu còn có thể làm việc nọ

việc kia. Cho tới lúc cậu biết rằng cậu cần phải làm cái việc ấy. Chừng nào cậu còn

nhớ rằng cái chuyện ây, cậu còn phải chờ đã. Anh em cứ rút đi ! Cứ cho họ rút đi ! Cứ

cho anh em rút đi !

3.2.3.12.Nhân vật của Hemingway khi đối diện với cái chết, họ bộc lộ khả năng,

phẩm chất đạo đức của mình. Bản thân cái chết được hiểu theo hai cách. Có những cái

chết thực và cũng có những cái chết ảo. Catherine chết khi sinh con, Jordan hi sinh vì

nhiệm vụ là những cái chết thực. Trong khi đó có thể coi cái chết của Jakc là cái chết

ảo. Anh vẫn sống nhưng không còn nguyên vẹn thiên chức của người đàn ông nữa bởi

bất lực. Cũng có thể coi nhân vật Henry còn sống mà như đã chết vì những tác hại của

chiến tranh, vì vỡ mộng, vì tình yêu đã chết và vì cô độc. Hiện tượng này là cơ sở để

Hemingway lí giải: "Người dũng cảm hẳn phải chết cả ngàn lần nếu anh ta thông

minh". Trước khi đối diện với cái chết, biết bao khía cạnh tình cảm, đạo đức, đã chết

trong tâm hồn nhân vật Henry. Ngoài ra còn có những cái chết ngầm hiểu khi nhân vật

không bảo vệ được thanh danh của mình. Nghĩa là khi nhân vật là đấu sĩ, thì anh phải

đâm chết bò. Là người đi câu, thì anh phải bắt được cá. Là người lính, anh phải chiến

thắng kẻ thù....Nếu không làm được điều đó, không bảo vệ được thanh danh của mình

thì cũng bị coi như đã chết, theo quan niệm của người hùng. Romero - tay đấu bò lừng

danh gọi những chú bò mộng là bạn bởi chúng là những sinh vật can đảm, dám chết

để giữ danh hiệu bò mộng. Nhưng anh vẫn phải giết chúng để cho mình sống.

Santiago luôn day dứt trọng suốt cả hành trình câu cá của lão: "Nghề câu cá hại mình

y hội như thể nó nuôi sống mình." Tuy con cá là bạn thân thiết của ông lão, nhưng do

làm nghề câu cá nên lão buộc phải giết nó để bảo vệ danh hiệu, sự sống của mình. Và

Jordan, lại càng cay đắng hơn. Anh phải giết chính những người Tây Ban Nha: Trong

số những người mày giết có bao nhiêu đứa thực sự là phát xít ? - Không nhiều. Song

bọn chúng đều là kẻ thù, Chúng ta phải dùng sức mạnh để chống lại chúng. Nhưng

mày yêu người dân vùng Navara hơn bất kì nơi nào khác ở Tây Ban Nha. Đúng. Mà

mày vẫn giết họ". [4,109]

3.2.3.13.Tình yêu trong tác phẩm của Hemingway luôn là khát khao, là tình cảm

đẹp nhất mà mỗi nhân vật hướng đến. Dù cho Jake, Brett, Henry, Catherine, Maria

vàiordan có được sống trong trong những khoảnh khắc ngắn ngủi của tình yêu thật sự,

thì cuối cùng, kết qua của những tình yêu ấy là chia li, tan vỡ,là mất mát, hi sinh. Giấc

mơ về hạnh phúc như một lâu đài xây trên cát,bởi lẽ hạnh phúc không tồn tại song

hành cùng chiến tranh.

Tóm lại: Đề tài về chiến tranh, lình yêu, hạnh phúc, cái chết, như đan bện nhau

trong tiểu thuyết của Hemingway. Qua độc thoại nội tâm, những suy nghĩ thầm kín

nhất của nhân vật bộc lộ sâu sắc thái độ sống, thái độ chịu đựng những mất mát, bất

hạnh mà con người vẫn luôn hứng chịu. Mỗi nhân vật trong những cảnh đời riêng, đều

se sắt chịu đựng số phận theo cách riêng của mình.

Bằng sự tìm tòi nghệ thuật của mình, nhất là độc thoại nội tâm, Hemingway đã

làm cho những tư tưởng của ông đạt tới sức sống của nó trong lòng người đọc và quan

trọng hơn ông đã sáng tạo nên những chuẩn mực đẹp trong suy nghĩ và hành động của

nhân vật.

Độc thoại nội tâm của Hemingway rất đa dạng và độc đáo. Là một nghệ sĩ bậc

thầy, Hemingway với những kĩ xảo độc thoại nội tâm đã gây được tiếng vang đối với

các nhà văn đương đại. Bằng thủ pháp nghệ thuật này, Hemingway phần nào lí giai

dược mối quan hệ giữa một con người với tất cả mọi người. Nói chính xác hơn là mối

quan hệ giữa con người và xã hội. Tài năng của ông là ở chỗ, Hemingway không tái

hiện dòng tâm tư của con người theo một chiều, mà ông nhìn thấy tất cả những dạng

phức, những mâu thuẫn không dễ gì lí giải. Nhờ điều ấy mà "Tảng băng " nghệ thuật

của ông cứ trôi mãi cùng những trăn trd của con người về chiến tranh, tình yêu, lẽ

sống...

CHƯƠNG 4: ĐỐI THOẠI – ĐỘC THOẠI NỘI TÂM VÀ

NHỮNG THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC KHÁC

4.1.NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT TIÊU THUYẾT CỦA

HEMINGWAY

4.1.1.Tiểu thuyết phương Tây thế kỉ XX vẫn đang là một hiện tượng động, khó

nắm bắt,với những kĩ.thuật hiện đại và mới mẻ. Khi người ta kêu la về sự khủng

hoảng của liều thuyết, cái chết, cũng là khi xuất hiện những dâu hiệu sinh thành, phái

triển và đổi mới của no'.. Sự đổi mới chỉ có thể hiểu được trong mối liên hộ so sánh

với truyền thống. Giữa chúng không chỉ có sự khác biệt, mà những yếu tố truyền

thống luôn tồn tại song song bên cạnh sự đổi mới. Chẳng hạn như nghệ thuật độc

thoại nội lâm không phải lần đầu tiên xuất hiện ở thế kỉ XX, tiêu biểu ở các tiểu thuyết

của Hemingway,mà đã xuất hiện từ nhiều thế kĩ trước. Điều đáng nói ở đây,chính là

liều lượng khác thường của nó. Những sáng tạo về hình thức của độc thoại nội tâm

đưa đến những chất lượng mới. Từ đó chúng ta khẳng định, những đổi mới về nghệ

thuật độc thoại nội tâm ở liều thuyết của Hemingvvay.

4.1.2Cốt truyện: Khi nghiên cứu thi pháp, chúng ta thường quan niệm, tiểu

thuyết khác với truyện ngắn ở độ dài, sức chứa của nó. Nhưng cũng không vì thế mà

chúng ta cho phép đơn điệu hóa hành động của nhân vật đến mức thủ tiêu cốt truyện.

Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh cốt truyện, khi phân biệt tiểu thuyết và

thơ. Truyện có thể tóm tắt được nhờ cốt truyện. Trong khi đó thơ nếu tóm tắt, thì chỉ

là một ẩn dụ bao la về một ý nghĩa nào đó.

Trước đây, khi muốn tóm tắt một tác phẩm tự sự, chúng ta thường phải dựa vào

cốt truyện. Mà cái thúc đẩy diễn biến cốt truyện, chính là hành động của nhân vật. Với

Hemingway,ở.nhiều tác phẩm, hành động cốt lõi rất đơn giản, chỉ còn lại những động

tác, nói năng, nên truyện dường như không có cốt truyện. Hành động chính trong

"Ông già và biển cả" chỉ còn lại là cuộc săn tìm một con cá, cuộc đối thoại với trời,

mây, biển cả hoặc với chính mình. Ở "Giã từ vũ khí" hoặc "Mặt trời vẫn mọc" cũng

vậy. Trong thư cảm ơn Viện hàn lâm khoa học Thụy Điển đọc tại lễ trao giải Nobel

năm 1954, Hemingway viết :"Nhà văn phải viết ra điều anh ta muốn nói chứ không

phải nói ra điều ấy." [80,151] Ông là nhà cách tân lớn, luôn tìm tòi một lối đi mới cho

riêng mình.

4.1.3.Hemingway không bao giờ chủ trương chồng chất các sự kiện, các biến cố,

các hoạt động của nhân vật. Nhà văn thường lấy trạng thái tâm lí làm đối tượng miêu

tả. Ông xây dựng tác phẩm trên cơ sở dõi theo các diễn biến của ý thức nhân vật. Do

đó trong tác phẩm của ông, thường vắng bóng cốt truyện, hiểu theo nghĩa truyền

thống, nên khó nắm bắt.

4.1.4.Cách thể hiện tâm lí trong tiểu thuyết của Hemingway có nhiều biểu hiện

khác biệt so với sự thể hiện tâm lí ở các nhà văn thế kỉ trước. Đó là khuynh hướng gợi

mở nhiều hơn là tả và phân tích. Nhà văn tránh không dùng lời miêu tả hoặc bình luận

về cấc nhân vài. Người kể chuyện hầu như không bộc lộ thái độ tình cảm của minh mà

trung hoa, thản nhiên trước hiện tượng mô tả. Thâm chí, người kể chuyện không hề

nhận xét, binh luận,về cách xử thế của nhân vật. Do đó, nếu độc giả có thói quen chờ

đợi sự mách bảo của người kể chuyện, sẽ không (.hể hiểu được chiều sâu trong từng

nhân vật.

Ngôn từ người kể chuyện trong tác phẩm của Hemingway chẳng những bị trung

hòa, phi tính cách, mà ngôn từ của nhân vật có khi cũng giống như mã số cần tìm cách

giải, đòi hỏi sự tỉnh táo và mẫn cảm của người đọc. Gần như trong những câu chuyện

của Hemingway, "tấn kịch diễn ra bên dưới đối thoại " ( A. Môroa ) Nhà văn thường

ẩn đấu thái độ của mình bên dưới lời đối thoại của nhân vật. Nhiều khi ngay lời nhân

vật củng là một ẩn số.

Do đó, đọc văn Hemingvvay thường không phải trên những dòng chữ, mà đọc

giữa hai dòng chữ, giữa khoảng màu trắng. Đó chính là những quãng lặng trong ngôn

từ.

4.1.5.Nếu ở tiểu thuyết truyền thống, nhân vật được thể hiện trong chiều dài của

thời gian, như '"Một kiếp người” của Môpaxăng, thì nhân vật của Hemingway có tính

chất đứt đoạn. Nhân vật chỉ còn một mảnh, không có chất keo liên kết giữa qua khứ,

hiện tại và tương lai, nhân vật thường chỉ mang tính gợi hơn tả. Thế giới nhân vật ấy

được nhà văn thể hiện qua lối viết, với giọng văn nhát gừng, những câu đứt đoạn,

chỏng lỏn.

4.1.6.Khi được hỏi về cách đặt tên cho tác phẩm, Hemingway trả lời: "Tôi đưa ra

rất nhiều nhan đề sau khi câu chuyện hoặc cuốn sách đã được hoàn thành. Thỉnh

thoảng con số nhan đề có khi lên đến một trăm. Tiếp đó là thao tác loại bỏ, song nhiều

lúc tôi không sử dụng một cái nào trong số đó " [ 34, 95 ]. Vì vậy, ngay từ tựa đề của

tác phẩm đã rất đa nghĩa, nội hàm của nhan đề phải được xác định kĩ qua văn bản.

Độc giả không dễ dàng hiểu hết các lớp nghĩa từ nhan đề. Chẳng hạn như "A Farewcll

lo Arms" ( Giã từ vũ khí ) hay "Soldier' s home" ( Nhà của lính ). "A Fareweli to

arms" có thể dịch theo hai cách : "Già từ những vòng tay" và "Giã từ vũ khí". Để chọn

một trong hai nhan đề, người đọc phải dựa vào đề tài của tác phẩm. Đó là sự đan xen

giữa tình yêu và chiến tranh, ở đây tình yêu còn là biểu tượng của những khát vọng

đời thường, mang giá trị nhân bản nhất. Chiến tranh lại hiện thân cho nhân tố vô đạo,

phủ nhận, tàn phá hạnh phúc của con người. Nhan đề của Hemingway đã dùng dạng

kép hình tượng này, tạo nên sự trường nghĩa. Trong khi ấy "Soldier's home" ta có thể

dịch theo ba cách : "Khi người lính trở về", " Nhà của lính" và "Người lính ở nhà".

Tác phẩm kể về anh lính trẻ tên là Krebs, từ chiến trường trở về, vỡ mộng do bao nỗi

kinh hoàng của chiến tranh. Chán chường về thời cuộc, anh lạnh lùng trước sự quan

tâm, thương yêu của người thân là cha mẹ và em gái. Thậm chí anh còn dửng dưng

với cả chính mình. Truyện ngắn này được xem là khỏi đầu của tiểu thuyết "Mặt trời

vẫn mọc". Hành động của Krebs có nét tương đồng với Jake, chỉ khác là Krebs chịu

đựng sự lưu đày ngay trong ngôi nhà của mình.

Căn nhà của anh vừa mang ý nghĩa thực, vừa là căn nhà hư ảo của những ám

ảnh. Nó đồng nghĩa với chốn ngục tù, giam cầm con người, kéo lê những chuỗi ngày

ảm đạm. Cũng như Jake trong "Mặt trời vẫn mọc", người lính Krebs vô gia cư ngay

trong tổ ấm của mình. Câu chuyện không hề nhắc đến chiến tranh, nhưng thái độ bất

thường, đáng thương ấy, đã nói lên bao điều, bao tầng ý nghĩa sâu xa. "Nhà của lính"

bao hàm thái độ mỉa mai và châm biếm, những tác hại của cuộc chiến tranh gây ra cho

con người. Nhan đề "Chuông nguyện hồn ai " đưa ra một sự nghi vấn và đã mở ra

nhiều cách hiểu cho tác phẩm. Các nhan đề "Một nơi sạch sẽ, sáng sủa "Cuộc đời

hạnh phúc ngắn ngủi của Franxix Macombơ "... cũng chẳng đơn giản gì hơn. Ngoài ra,

Hemingway còn cố ý thể hiện quan niệm triết lí ngay từ nhan đề, như "Con người của

thế giới "Sự trở về của thương gia "Mẹ của gã Pê Đê:. Khi tác gia cố ý dùng sở hữu

cũng là khi mọi gia trị hoặc mất mát, hoặc đổ vỡ, hoặc không còn gia trị. Có thể nói

nhan đề của các tác phẩm được Hemingway chọn lựa kĩ lưỡng biết chừng nào, và điều

đó rất phù hợp với thi pháp tiểu thuyết của ông. Đó là đằng sau những vấn đề tưởng

như đơn giản nhưng lại ẩn chứa các tầng ngữ nghĩa, mà lũy thuộc vào trình độ của

từng độc giả, sẽ cảm nhận được những thông điệp khác nhau.

4.1.7.Hemingway - trong cuộc sống cũng như trên trang viết, ông là người không

bao giờ nói hết. Bằng cách đồ xuất nguyên lí " Iceberg " (Tảng băng trôi), ông đã

dùng hình lượng "tảng băng" để nói lên dụng ý của mình trong sáng tác. Khi trả lời

câu hỏi của nhà báo Xô viết "Tôi muốn viết theo nguyên lí của lảng băng trôi. Với

một phần lộ ra của nó, có bẩy phần chìm dưới nước. Đó là phần gốc của nó và phần

gốc này đem lại sức mạnh và năng lực cho phần ngọn mà người ta thấy được. Anh

biết được càng nhiều bao nhiêu, phần dưới nước càng lớn bấy nhiêu thì băng đảo của

anh càng mạnh bấy nhiêu."

Về mặt lí thuyết, chỉ có bấy nhiêu từ cho một quan niệm sáng tác. Thế nhưng,

Hemingway đã phải lao tâm khổ trí đến dường nào để làm được điều đó. Để một tác

phẩm với bề ngoài rất đơn giản nhưng những điều ẩn dấu đằng sau, dưới những hàng

chữ là cả một mạch ngầm tuôn chảy đến vô cùng. Macket, nhà văn lớn của Châu Mĩ la

tinh phát biểu : "Điều tôi thích hơn cả ở Hemingway là những lời khuyên của ông về

nghề văn, ông không đưa ra những bài học về phong cách hay triết học ... ông dạy kĩ

thuật làm văn, lời khuyên của ông thật tuyệt. Một trong những lời khuyên đó có liên

quan đến núi băng. Ông cho rằng, một truyện ngắn nhìn rất đơn giản, nếu đứng vững

được không phải nhờ cái vẻ bề ngoài mà nhờ tất cả những thứ ẩn dấu đằng sau, trong

các dung lượng chứa đựng một khối lượng khổng lồ những tài liệu, thành phần thiết

yếu để viết nên một truyện ngắn." [33,98] Để diễn tả được "phần ngầm dưới nước",

"thứ ẩn giấu đằng sau", cái sườn không thấy được của tác phẩm, nhà văn phải xử lí

thêm bớt từng chi tiết, người đọc phải tự ihấy những sì nhà văn bỏ qua đó.

Thực ra không phải đến khi Hemingway đề xuất phương pháp tảng băng trôi,

chúng ta mới thấy sự xuất hiện một cách viết mới, mà trước đó, ở một số nhà văn, dù

không gọi tên ra, nhưng họ ý thức rất rõ về điều này. R. Barthis cũng từng xác định

"Không có tác phẩm lớn nào mà lại giáo điều cả" (giáo điều ở đây có nghĩa là đơn âm

- theo giáo SƯ Đặng Anh Đào giải thích) và khẳng định "Sự sống của lác phẩm không

nằm trong thông điệp của tác phẩm, mà nằm trong hệ thống tín hiệu của nó".

Điều đó nói lên rằng, quan hệ giữa "cái nói ra" và "cái được nói ra", không phải

là quan hệ dẳng lập, mà dằng sau cái nói ra, là bao điều tiềm ẩn, lẩn khuất, đòi hỏi ở

người đọc phải có một trực giác thật tinh mới thấy. Khi người đọc đồng sáng tạo với

lác giả, cũng là khi tác phẩm được nới thêm rất nhiều cả về bề rộng lẫn bề sâu. Và đó

cũng là lức độc giả chiêm nghiệm được bao điều sâu sắc về cuộc sống phức tạp mà

mình đang sống. Binkesbcheine thật xác đáng khi đánh giá tác phẩm của Hemingway

: "Bên ngoài thì đơn giản, bôn trong thì phức tạp, chính xấc mà đa nghĩa, rõ ràng mà

đi vào chiều sâu, cô đọng như ngôn ngữ điện tín mà đầy ý ngầm và chất thơ, nhưng

không phải đã lộ ra ngay lức khắc".

Khi nói về yêu cầu đổi mới của kết cấu tác phẩm trong tiểu thuyết, Bakhtin đã

chỉ ra: "Cái phạm vi của thế giới được thể hiện, làm biến đổi thể loại và thời kì phát

triển của văn học, một cách hợp lí. Nó được tổ chức theo những cách thức khác nhau,

và được giới hạn trong không gian và thời gian một cách đặc biệt. Cái phạm vi này

mang trong nó những nét rất đặc biệt".

4.1.8.Kết cấu tác phẩm thường để mở, hiểu theo nghĩa có thể có nhiều cách lí

giải khác nhau, lạo nen tính đa nghĩa. Câu mở đầu tác phẩm thường có ý nghĩa quyết

định, và cổ thể nói, hầu hết các tác phẩm của Hemingway đều được nới ra từ những

đoạn nhỏ ban đầu. Những dòng đầu trong bốn quyển ở tiểu thuyết "Giã từ vũ khí " đã

phần nào báo hiệu những đổi thay trong cuộc đời trung úy Henry: "Vào cuối hạ năm

ấy chúng tôi đóng quân trong một ngôi nhà ở mội làng trông sang sông " [2.7] "Chúng

tôi đến Milan vào lúc sáng sớm, một chiếc xe cứu thương đưa lôi đến bệnh viện Mĩ "

[2.129] "Trời sang thu, cây trơ trụi lá và đường xá đầy bùn. Từ Udine tôi đi ô tô đến

Gorizia. [2.259] và cuối cùng "Đến Milan tôi nhảy khỏi xe lửa, khi nó chạy chầm

chậm vào ga. Trời hãy còn sớm và mờ mờ. Tôi vượt qua đường sắt và sau khi lách

qua hai dãy nhà lớn, tỏi đi xuống phố " [2, 379]. Những đoạn kết thường để lại những,

suy nghĩ, trăn trở nơi độc gia. Như ở "Mặt trời vẫn mọc" : "Chúng tôi nép bên nhau.

Tôi quàng lấy nàng, nàng tựa vào tôi êm ấm. Trời rất nóng và sáng, nhà cửa trông

trắng loáng. Chúng tôi rẽ vào Granvia".

"Ôi, anh Giếc!" - Brét nói - "Lý ra chúng ta đã có thể có nhũng giây phút sung

sướng bên nhau".

(...) "Ừ - tôi nói - " Nghĩ như vậy then lừ đẹp".

Hình thức, lời lẽ của hai nhân vật Brét và Giếc cho phép người đọc có thể có

những cách hiểu khác nhau. Nếu căn cứ vào hình thức, ta thấy họ đang tràn trề hạnh

phúc. Nhưng nếu lắng nghe những lời tiếc nuối của nhân vật, ta có thể xem như họ

đang phai hứng chịu nhiều đổ vỡ trong cuộc đời.

Với "Ông già và biển cả", những câu kết thúc tác phẩm để lại ấn tượng về ý chí

và nghị lực của con người, qua nhân vật Santiago "Ở đằng kia, phía trên dốc, trong túp

lều nhỏ, lão già lại đang ngủ say. Lão vẫn nằm sấp như thế mà ngủ và thằng bé lẳng

lặng ngồi đợi một bên ... Lão đang mơ thấy đàn sư tử".

4.1.9.Không gian cùng với thời gian làm nên hình thức tồn tại của thế giới con

người. Không gian nghệ thuật là hình tượng không gian trong tác phẩm. Ở đây có sự

không trùng khít giữa không gian hiện thực và không gian nghệ thuật. Có tác phẩm

dài hàng ngàn trang, nhưng chỉ kể lại những sự kiện xảy ra trong có mấy chục tiếng

đồng hồ như trưòng hợp tiểu thuyết "Ulysses" của J. Joyce hoặc ngược lại. Không

gian ở đây không phải chỉ là "bối cảnh " cho tác phẩm. Chính không gian là một yếu

tố vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính nội dung, biểu đạt chủ đề tư tưởng của tác

phẩm. Hemingway đưa vào tiểu thuyết những không gian đổi thay liên tục, thể hiện sự

bất ổn, nỗi dằn vặt, lo âu của nhân vật, trong việc loay hoay đi tìm một nơi thích hợp

để sống. Đó là những nhà ga, những quán rượu, khách sạn ...Trong tiểu thuyết "Mặt

trời vẫn mọc" nhóm Brett, Jake di chuyển liên tục từ nơi này đến nơi khác. Các địa

danh xuất hiện nhiều lừ quán "Cale select", "Cafe Napolitian" đến các tiệm ăn khác

nhau. Tất cả đều diễn ra hỗn độn, quay cuồng. Họ kéo nhau từ nơi này đến nơi khác,

ra đi rồi lại quay về. Họ bế tắc, dù có cố gắng chuyển di tìm kiếm. Cuối cùng chẳng

nơi nào mang lại sự bình yên cho mỗi con người. Tác phẩm khép lại bằng khởi đầu

mội cuộc hành trình mới đi về vô định. Một lễ hội nữa bắt đầu ? Ánh sáng loé lên lúc

trưa hôm ấy và con đường trước mặt chưa hẳn đưa họ đến nơi bình an ? Những con

đường nối liền từ khách sạn đến quán bar, và những dòng sông đưa nhân vật đến

những xứ sở của hư vô và bóng tối. Đến "Ông già và biển cả" không gian duy nhất là

thiên nhiên mặt biển đứng yên, ngưng đọng với dạng vẻ bao la mênh mông của nó.

Không gian ở đây vận hành theo tay chèo, cánh buồm của ông lão, đến khi hết bị cá

kéo, ông lão lại lôi con cá vào bờ. Không gian rộng mênh mông, sâu hun hút chỉ càng

làm cho con người thêm cô đơn, trống trải. Hay không gian chiến trường, bệnh viện,

khách sạn trong "Giã từ vũ khí " chỉ gây cho ta cảm giác tạm bợ, bài an,của những con

người đang tồn tại vất vưởng nơi đó. Người đọc dễ dàng nhận ra với Hemingway, dù

không gian nghệ thuật được xây dựng với đụng ý như thế nào ? Dù không gian đổi

thay liên tục,con người vẫn bế tắc. Dù không gian hẹp hay rộng,thì con người cũng

không làm chủ được nó. Sự đổi mới của Hemingway trong việc lấy những không gian

bất thường để khái quát thành những nỗi đau, những nỗi ám ảnh của những con người

thuộc "chủ nghĩa xê địch ".

4.1.10.Thời gian là một vấn đề được lưu ý đặc biệt trong nghệ thuật kể chuyện.

Bởi lẽ khi nói đến thời gian, người ta cho rằng đó chính là nghệ thuật xếp đặt những

chuỗi tình tiết, hoặc nghệ thuật trình bày các sự việc trong mối liên hệ với thời gian.

Trong sự đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết Phương Tây, thời gian có một ý nghĩa đặc

biệt, Giectrut Xten ý thức được nhu cầu đổi mới cách thể hiện thời gian "Công việc

của nghệ thuật là sống trong hiện tại", bà có tham vọng bỏ thời gian quá khứ trong

truyện của mình, chỉ còn giữ lại những cận cảnh. Clot Ximông, nhà tiểu thuyết mới,

được giải Nobel năm 1985, tuy không phát biểu trực tiếp về lí ỉuận,song ông rất quan

tâm đối với yếu lố thời gian trong tác phẩm " Tôi bị ám ảnh bởi hai điều : tính chất đứt

đoạn, dáng vẻ không liền mạch của những xúc động, thường cảm thấy và không liên

hệ với nhau. Đồng thời là tính liên tục của chúng trong ý thức. Câu văn của tôi gắng

biểu đạt mối tiếp cận ấy. Việc sử dụng động tính từ hiện tại cho phép tôi thoát ra ngoài

thời gian qui ước".[56, 71]

Bakhtin trong "Anh hùng ca và tiểu thuyết" đã nêu lên hai đặc trưng về thời gian

trong tiểu thuyết hiện đại là: "Sự biến đổi tận gốc những bố trí về thời gian của những

hình tượng văn học trong tiểu thuyết" và "tiểu thuyết tiếp xúc tối đa với cái hiện tại

trong sự chưa kết thúc". Có lẽ những chữ ấy đã nêu lên được đặc ương thời gian, tính

chất mở của nó thường tiềm tàng trong tiểu thuyết. Chủ ý của Bakhtin là xoáy vào

dòng chảy của thời gian và tăng thêm cảm giác về thời gian hiện tại. Trong tiểu thuyết

"Giã từ vũ khí" mối ám ảnh về thời gian hiện tại được nhà văn thực hiện bằng một lát

cắt, kết thúc khi Cathơrin chết "chẳng khác gì tôi nói lời vĩnh biệt với một pho tượng.

Một lát, tôi ra ngoài và rời bệnh viện và tôi trở về khách sạn dưới mưa". Bên cạnh đó

Hcmingway còn sử dụng kĩ thuật diện ảnh, kết cấu thời gian theo những "scene". Đối

thoại, độc thoại nội tâm và những đoạn kể chuyện bị ngắt quàng, liếp nối đột ngôi.

Thời gian sự kiện trong tác phẩm có dài mấy, thì cách kể này vẫn tạo nên cảm giác

ngưng đọng, căng thẳng đầy ám ảnh.

Thế kỉ XX này chứng kiến nhiều lối viết đòi hỏi sự đồng sáng tạo của người đọc.

Như kết cấu lắp ghép, nghệ thuật cắt dán trong tiểu thuyết Kafka, Aragông... cùng với

nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật, hành động không hề được bồi đắp, giải thích chiều

dày nội tâm ở Hemingway hoặc nói rộng ra nguyên lí "tảng băng trôi " của ông, nghệ

thuật độc thoại nội tâm và dòng tâm tư ở nhiều tác giả, tất cả đều đòi hỏi khả năng

đồng sáng tạo của người đọc.

4.2.ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI NỘI TÂM VỚI BÚT PHÁP TƯỢNG

TRƯNG, HÀI HƯỚC

4.2.1. Đối thoại, độc thoại nội tâm với bút pháp tượng trưng

Hemingway, nhà văn với bút pháp đa dạng,nổi bật là bút pháp tượng trưng và

hài hước. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa về tượng trưng: "là một hình ảnh chứa

chất ý nghĩa không đơn thuần là nghĩa đen, nghĩa nôm na không đơn thuần thay thế

cho điều gì đó, nó vừa là bản thân nó, vừa là điều gì đó mà nó gợi ra khá phong phú,

mội thứ biểu hiện của điều gì đó quá phức tạp hoặc qua chàng màng không thể bộc lộ

được bằng cách nào khác". Trong tiểu thuyết của mình, Hemingway thường dùng

những biểu tượng đa nghĩa, không tham gia vào cốt truyện và hành động nhân vật,

nhưng nó giãi bày được nhiều suy nghĩ của tác giả về cuộc đời và nâng tác phẩm lên ý

nghĩa triết học và tượng trưng.

4.2.1.1.Bóng đêm: nhân vật của Hemingway thường rất sợ bóng đêm bởi nó là

hiện thân của những mất mát, đổ vỡ. Bóng tối thường đồng nghiã với chết chóc.

Catherin chết trong căn phòng lạnh lẽo, trong ánh điện yếu ớt của bệnh viện và khi

Henri tắt đòn thì bóng tối ngập tràn. Henri trở về khách sạn trong bóng đêm, xuyên

qua màn mưa. vSantiago ra đi trong đêm, mất con cá trong đêm và cũng quay trở về

trong đem. Với Brett va Jake lần đầu tiên gặp gỡ trong đêm, để rồi đến khi Brett bỏ đi

với anh chàng Romero cũng trong bóng đêm. Sự gặp gỡ, chia lia, niềm bất hạnh, hành

trình xuyên qua đêm tối của các nhân vật, chẳng bao giờ mang lại điều may mắn.

4.2.1.2.Những cơn mưa: bên cạnh bóng đêm, Hemingway thường chọn những

cơn mưa làm ẩn dụ. Mưa kéo dài suốt tác phẩm và xuất hiện lúc nào là sự bất hạnh

của con người bắt đầu từ đó, kéo dài theo cơn mưa trong suốt tác phẩm trong "Giã từ

vũ khí". Cơn mưa vừa dầm dề, vừa dai đẳng, ngay từ chương 1. Nó xuất hiện như một

điềm gở báo trước "mùa đông đến, những cơn mưa dai dẳng trút xuống, và khi cùng

với mưa là bệnh tả". Cơn mưa mùa đông làm cỏ cây thôi rữa, đường sá, chiến hào lầy

lội và bệnh tả một lúc giết chết 7000 người. Catherin rất sợ mưa, nghe tiếng mưa là cô

thảng thốt, giật mình ngay cả khi nằm bên cạnh người yêu. Trong những khoảnh khắc

hạnh phúc thật ngắn nư,ủì, nàng thú nhận "vì đôi khi em thấy chết chóc ơi đó. Và có

lúc em thấy anh chết trong mưa". Khi tiễn người yêu ra mặt trận, Catherin đứng ở ga,

cơn mưa lại xối xả. Bóng tối và cơn mưa xuất hiện trong tiểu thuyết Hemingway, như

một sự bổ sung, để nói lên tâm trạng bất ổn của nhân vật. Nhân vật trong tiểu thuyết,

dù cố gắng vùng vẫy, thì bao trùm lên số phận họ, vẫn là một màn đêm bao phủ. Và

cơn mưa dù rả rích hay xối xả vẫn làm cho tâm hồn họ buốt gia.

4.2.1.3.Hình ảnh mái tóc: những nhân vật nữ trong tiểu thuyết của Hemíngvvay

được nhà văn chú ý đặc biệt một nét ngoại hình, đó là mái tóc. Mỗi nhân vật nữ được

đặc tả mái tóc khác nhau. Mái tóc của Bret trong "Mặt trời vẫn mọc mái lóc của

Catherin trong "Vĩnh biệt vũ khí ", mái tóc của Maria trong "Chuông nguyện hồn ai

Nhà văn có chủ đích khi ca ngợi mái tóc Catherin, qua ngôn ngữ của Henri "Tôi thích

gỡ tóc nàng ra. Nàng nằm trên giường không động đậy. Tôi lấy những chiếc cặp đặt

lên ra giường. Tóc nàng buông xuống và tôi ngắm nàng nằm lòn bên mép giường. Lúc

tôi rút nốt hai chiếc cặp cuối cùng, lóc nàng xòa lung ra, và nàng ngả đầu xuống và

chúng tôi vùi mình xuống dưới lớp dạ cơ hồ như một cái lều hay một ngọn thác. Nàng

có bộ tóc lộng lẫy và tôi thường ngắm nàng cuộn tóc trong ánh sáng mờ từ ngoài cửa

sổ lọt vào, ngay cả ban đêm tóc nàng cũng óng ánh như mặt nước ốnh ánh như mặt

nước óng ánh cho đến lúc trời mới rạng đông" [2,84]. Nếu mái tóc dài của Catherin

tượng trưng cho hạnh phúc khi gặp và yêu Henry, thí cũng mái lóc ấy, năm trước, khi

người yêu cũ chết, nàng định cắt tóc để tang. Với Catherin, tóc dài tượng trưng cho

hạnh phúc, còn tóc ngắn tượng trưng cho đau khổ. Cô gái chịu nhiều bất hạnh Maria,

bị bọn phát xít cắt tóc và cưỡng hiếp, Maria "trông không còn là một cô gái" nữa,

nhưng khi gặp Jordan, tóc cô đã mọc trở lại. Cô đẹp hơn, trông dịu đàng và quyến rũ

hơn. Hạnh phúc bên Jordan, cô "cảm thấy tóc mình đang mọc, dài trở lại Khi nghĩ về

tương lai, Maria vui mừng nghĩ đến lức tóc cô sẽ dài ra. Ở nhân vật Brel trong "Mặt

trời vẫn mọc mái tóc ngắn nhằm để nói lên tính cách ngang làng, tóc hất ngược ra

đằng sau, đầu đội mũ bêrê, mặc áo quần con trai và xử sự với đàn ông giống như

những người đàn ông với nhau.

4.2.1.4.Không chỉ mái tóc, mà bút pháp tượng trưng còn được Hemingway sử

dụng bằng nhiều hình tượng khác nhau. Trong "Giã từ vũ khí "để minh họa cho quan

niệm của ông về cuộc đời, và những người lính phải tham gia cuộc chiến tranh phi

nghĩa, Hemingvvay đưa ra hình ảnh Henry ngồi bên đống lửa đẩy khúc củi mục đầy

kiến vào ngọn lửa đang rực cháy. Sự hỗn loạn, cùng quẫn, bế tắc và diệt vong tất yếu

của đàn kiến, nhằm tượng trưng cho cuộc đời những người lính như Henry. Đến

"Chuông nguyện hồn ai", bằng hình tượng vòng quay bánh xe, mội lần nữa nhà văn

nhấn mạnh vào sự bế tắc, luẩn quẩn của con người. Tuy nhiên, ở đây vấn dề là sức

mạnh và ý chí của con người quyết thoát ra khỏi cái vòng trùng lặp ấy để giành lấy ý

nghĩa cuộc sống. Trong đêm cuối cùng của đời mình, Jordan nghĩ đến ý nghĩa cuộc

đời mà anh đang dâng hiến: "Người ta nói đến vòng quay của chợ phiên... Đó là một

bánh xe rộng quay trên mội mặt phảng nghiêng. Mỗi lần nó quay một vòng và rồi trở

lại điểm xuất phát. Có một phía cao hơn phía kia. Liên tiếp bánh xe nâng anh lên rồi

lại hạ anh xuống cái chỗ mà anh được nâng lên... Mỗi lần lên cao, người ta quay mà

không hề muốn. Chỉ có một vòng, một vòng tròn elip lên rồi lại hạ xuống và rồi người

ta lại thấy mình ở điểm xuất phát" [5,313]

4.2.2.Độc thoại nội tâm với bút pháp hài hước:

Ảnh hưởng từ Mác Tuên, trong tiểu thuyết của Hemingway cũng thể hiện rõ tính

hài hước. ơ "Gia từ vũ khí " Henri tham gia chiến đấu với tinh thần tự nguyện. Anh

sẵn sàng chịu đựng gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Có những lúc anh tự thấy sự phi

lí của cuộc chiến, nhưng lại tự ru ngủ mình bằng danh dự của người lính Mĩ. Dần dần

thực tế đã cho anh nhận ra, trong cuộc chiến này chẳng có gì là danh dự, là lương tâm

mà anh phải hi sinh. Anh bị thương đúng lúc đang ăn pho mát trong hầm. Nhưng điều

đó lại là công trạng để được thưởng huân chương vì lòng can đảm. Santiago trong

"Ông già và biển cả" mang về đất liền chiến lợi phẩm là một bộ xương cá, đó như một

chiến công lớn nhất của cả cuộc đời đi biển của người ngư dân. Hoặc ông lão luôn tự

nhủ "chẳng một ai phải cô đơn trên biển" thì trong tác phẩm vẫn cứ hiện diện một ông

già cô độc. Tấn bi hài kịch, sự mỉa mai ở đây càng làm tăng thêm nỗi bi đát của

Santiago.

Trên đây là mội số biểu hiện của những yếu tố tượng trưng và hài hước. Tuy

nhiên, nhà văn sử dụng những yếu tố này để chuyển tải những nội dung của các tác

phẩm, một cách khéo léo và tinh vi. Nhưng nếu gọi Hemingway là nhà văn tượng

trưng hay hài hước là hoàn toàn không thỏa đáng.

KẾT LUẬN

1.Việc nghiên cứu Hemingvvay từ trước đến nay đã có rất nhiều ý kiến khác

nhau. Hiện lượng Hemingway, cả cuộc đời và sáng tác đang còn rất nhiều tranh cãi.

Do vậy, những suy nghĩ của chúng tôi chỉ như một hợp âm, góp thêm vào dàn hợp ca

vốn đã rất nhiều bè. Mong muốn nhỏ bé của chúng tôi là nghiên cứu sự phức tạp ngay

trong cái giản dị. Đến với những văn bản đa thanh để tìm sự giao thoa chồng chéo

nhau và giải mã văn bản cuộc đời vốn không bao giờ là dễ hiểu. Illya Ehrenburg đã

nói những lời ca ngợi rất chân thành về tài năng của Hemingway :

"Mỗi khi nhìn lại con đường của mình, tôi thấy có hai nhà văn trong số những

người tôi may mắn được gặp, đã giúp tôi không những giải thoát cho mình khỏi cái

chu nghĩa tình cảm, khỏi những sự biện luận lê thê và những tầm nhìn thiển cận, mà

qua thật còn giúp tôi thở, làm việc và đứng vững được. Đó là Babel và Hemingway.

Con người ở tuổi tôi có thể thú nhận điều đó?'[33].

2.Hemingway, một nhà văn chiến sĩ, tự chọn cho mình một cuộc đời sóng gió.

Ống đối mặt với hiểm nguy, gian khổ để tạo cho mình lòng tin, để gióng lên hồi

chuông nguyện hồn ai, để nói lời giã từ vũ khí, để tin vào mặt trời vẫn mọc, và thể

hiện khí phách hiên ngang của con người trước biển cả. Với một nghệ thuật viết rất

gây ấn tượng, nhà vãn đã gợi mở biết bao vấn đề trong bốn cuốn tiểu thuyết tiêu biểu

của ông. Milan Kundera ca ngợi Hemingway: "Những cuốn sách của ông vừa cúi

xuống tận mặt đất vừa bay lên đến vòm trời nghệ thuật Đó là một thứ văn phong đơn

giản, rõ ràng, có tính ngầm văn ban, đầy các câu đối thoại "băm nhỏ"[33, 294]. Trong

tác phẩm hoàn toàn vắng bóng sự đánh giá của tác giá về những hành động, suy nghĩ

của nhân vạt và những lời bình luận, chú giải. Vì thế, văn phong của ông, từ truyện

ngắn đến liều thuyết thường để mở, có thể có nhiều cách lí giải khác nhau, tạo nên

tính đa nghĩa cho lác phẩm. Einkeschein nhận xét về tác phẩm của Hemingway -."Bên

ngoài thì đơn giản, bên trong thì phức tạp, chính xác mà đa nghĩa, rõ ràng mà đi vào

chiều sâu, cô đọng như ngôn ngữ điện tín mà đầy ý ngầm và chất thơ, nhưng không

phải đã lộ ra ngay tức khắc."

3.Những biện pháp nghệ thuật mà Hemingway sử dụng trong sáng tác nói chung,

và trong tiểu thuyết nói riêng không phải là hoàn toàn mới mẻ, chưa từng xuất hiện.

Nhưng với ông, những biện pháp này, nhất là đối thoại và độc thoại nội tâm đã phái

huy hết ưu thế của mình trong việc thể hiện tâm hồn, tình cảm, tính cách của nhân vật.

Bằng cách cho nhân vật tự bộc lộ qua đối thoại, đặt trường nhìn vào bên trong, nhập

thân vào nhân vật. Hemingvvay nghiễm nhiên trở thành bậc thầy ở hai biện pháp nghệ

thuật này.

4.Mối quan hộ giữa đối thoại và dộc thoại nội lâm giúp người đọc hiểu một cách

hoàn chỉnh hơn, sâu hơn về bản chất con người. Có thể nhận thấy rằng,£con người

theo quan niệm của Hemingway, sống là đấu tranh, con người luôn phải tự đấu tranh

với mình và đấu tranh với thế giới, để tự khẳng định mình. Xuyên suốt trong tác phẩm

là những cuộc đối thoại bên ngoài và bên trong. Chúng luôn song hành cùng nhau, xen

kẽ nhau, đan cài vào nhau. Hemingway triệt éỉể khai thác mối quan hệ chặt chẽ, để đạt

đến chiều sâu của cả hai hiện tượng. Ông đạt đến trình độ điêu luyện trong việc thể

hiện chiều sâu tâm lí của con người.

5.Đặc biệt, Hemingway đã thể hiện tay nghề của mình qua việc mở rộng khuôn

khổ của những đối thoại. Ông đưa ra một cách riêng, khác lạ để nâng cao hơn nữa khả

năng thể hiện của thủ pháp đối thoại đã góp mặt từ rất lâu trong lịch sử vãn học. Bằng

những đối thoại mang vẻ tự nhiên, dung dị trên bề mặt, nhưng lại phức tạp, đa nghĩa ở

bề sâu, Hemingway vận dụng hình thức tiết kiệm đến lối giản của thứ ngôn ngữ điện

tín, để ẩn dấu những ý tưởng sâu sác, những tầng ngầm của vãn bản. Đặc biệt là

những đối thoại ở dạng thô, chưa tinh chế, có vẻ rất khó hiểu với người đọc, nhưng lại

rất trong sáng với người trong cuộc, nhờ ngữ cảnh là cuộc sống thật.

6.Tiến trình sáng lấc của Hemingway là cả một sự chuyển di không mệt mỏi. Bắt

đầu từ đối thoại chiếm ưu thế trong truyện ngắn,sang tiểu thuyết, Hemingway tiếp lục

phát triển nghệ thuật đối thoại, cùng với độc thoại nội tâm. Ông phá tung ranh giới

kiểu ngôn ngữ truyền thống, để tạo ra một thứ ngôn ngữ nhân vật rất riêng của

Hemingway. Bắt đầu xuất hiện dòng tâm tư, yếu tố đồng hiện trong chuỗi ngôn từ của

các nhân vật.

Hemingway có những trăn trở, tìm tòi thử nghiệm nghiêm túc về những điều

muôn nói. Ông theo nguyên lí "Văn học là nhân học Văn học không phản ánh các sự

kiện, mà chủ yếu là khám phá và biểu hiện tâm hồn, tính cách, sức sống của con người

qua những số phận rất khác nhau trong muôn vàn sự kiện xảy ra trong cuộc sống.

Phẩn lớn sáng lác của ông, chứ ý đến số phận những con người trong chiến tranh. Nhà

văn đi sâu vào những bi kịch cá nhân nằm trong bi kịch chung của dân tộc Mĩ ở những

cuộc chiến. Qua những bi kịch ấy, tính cách và bản ngã con người đã được bộc lộ.

Tuy nhiên, dù viết về bi kịch, nhưng cuối cùng tác giả bao giờ cũng đem lại cho người

đọc niềm tin vào cuộc sống và con người.

7.Tiểu thuyết của Hemingway đề cập đến rất nhiều đề tài. Đó là chiến tranh, tình

yêu và câu cá.... Nhưng một đề tài chung nhất là thân phận con người. Đó là những

nỗi đau có thể gụi được tên, và những nỗi đau buốt lạnh trong tâm khảm mỗi thân

phận. Đề lài ấy được gởi gắm trong những nhân vật anh hùng kiểu Hemingway. Họ là

những người luôn quan tâm đến ý chí, nghị lực, và tư cách của con người. Trong chiến

tranh họ" là những người có kỉ luật tốt nhất, lành mạnh nhất. Họ tham gia cuộc chiến

bằng tất cả sức lực và khả năng, nhưng tự trong sâu thắm lâm hổn, các nhân vật không

tán thành chiến tranh đổ máu. Cho dù Jordan tự nguyện tham gia cuộc chiến tranh

chính nghĩa, thì đỏ cũng là việc làm bất khả kháng, giải pháp tình thế mà thôi. Đặc

biệt là cách nhìn của nhà văn về những cuộc chiến.

Hemingway không phơi bày sự tàn khốc của chiến tranh, mà đi sâu vào tâm hồn,

trí tuệ, niềm tin, lí tưởng của họ. Sự cao cả của ý nghĩ, hành động của nhân vật đã

khắc sâu hơn tính chất của mỗi cuộc chiến, họ luôn sống trong ám ảnh bởi những

thương tổn về tâm hồn. Logic của vấn đề là ở đây.

8.Kết cấu tiểu thuyết của Hemingway rất đa dạng, nhiều tầng, nhiều lớp. Quá

khứ và hiện lại dan cài, cỏ khi cả huyền thoại xen lẫn với hiện thực. Giọng điệu cũng

vậy, không chỉ một giọng mà có rất nhiều giọng khác nhau. Có giọng thật dung dị và

trầm tĩnh, có những giọng thô mộc và dân dã (của những người Tây Ban Nha). Đôi

khi xuất hiện những giọng buồn sâu lắng, đắng cay khi nói đến những thân phận.

9.Chủ nghĩa khắc kỉ là một nét đặc sắc trong những sáng tác của Hemingway.

Bôrix Xuskov trong "Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực" đã nhận định:"Chủ

nghĩa khắc kỉ là tư tưởng quyết định sáng tác của Hemingway và quan niệm về thái độ

khclc kỉ đối với cuộc sống đã xuyên suốt mọi tác phẩm của ông."Tâm lí và hành vi

các nhân vật trong tiểu thuyết của Hemingway diễn biến theo tư tưởng chịu đựng

dũng cảm. Con người luôn tự chủ, bình tĩnh, nhẫn nại trong mọi hoàn cảnh. Họ luôn

bình thản sống cũng như bình thản đón nhận cái chết. Chủ nghĩa khắc kỉ còn ảnh

hưởng sâu sắc đến ngôn ngữ đối thoại. Các nhân vật của ông nói năng đơn giản, ngắn

gọn vì bản chất khắc kỉ của họ. Dường như họ không muốn bộc bạch tâm sự, nhưng

đằng sau mỗi chữ là những tâm trạng, những nghĩ suy về cuộc đời một cách rất tự

nhiên. Điều đó làm nên chất tinh tuy trong ngôn ngữ đối thoại của Hemingway. Chủ

nghĩa khắc kỉ cũng qui định sắc thái của độc thoại nội tâm. Trong đoạn độc thoại nội

tâm trước khi Catherin từ gia cõi đời, Henri đã bộc lộ nỗi đau đớn của anh, vì chỗ dựa

duy nhất của đời anh sắp mất. Cõi lòng anh tan nát bao nhiêu thì bên ngoài anh lại che

dấu nó đi bấy nhiêu. Để rồi chỉ một mình anh đơn độc đương đầu với định mệnh. Đến

"Chuông nguyện hồn ai ", độc thoại nội tâm không phải là lúc nhân vật quay về vì bất

bình với thực tại, vì sự cô độc trong sự chịu đựng những đau khổ của cuộc đời. Tác

giả muốn, qua độc thoại nội tâm của nhân vật, nhắc nhở trách nhiệm, thẩm định lại ý

thức và lòng dũng cảm hòng mỗi con người.

10.Chủ nghĩa nhân văn là một vấn đề mà bất cứ nhà văn tiến bộ nào cũng hướng

tới. "Chuông nguyện hồn ai" ỉa tên một cuốn tiểu thuyết của Hemingway được lấy lừ

những câu thơ của nhà thơ Anh thế kỉ XVII John Donne và có kèm theo đề từ :

"Không có người nào là một hòn đảo tự thân hoàn chỉnh, mỗi người là một mảnh của

đại lục, một phần của toàn đất liền; nếu một mảng đất đá bị cuốn phăng vào đại dương

thì châu Âu sẽ nhỏ đi như khi một mũi đất, như khi ngôi nhà của bạn bè anh hoặc

chính anh bị cuốn phăng đi vậy. Cái chết của bất luận một con người nào cũng làm tôi

nhỏ đi bởi tôi hợp nhất với toàn nhân loại, do đó anh đừng bao giờ hỏi chuông gọi hồn

ai. Chuông gọi hồn anh đó". Những câu thơ trên có thể làm đề từ cho tất cả những gì

Hemingway viết ra. Dù thời thế đổi thay và cả cách nhìn nhận về Hemingway cũng

thay đổi. Nhưng ở những sáng tác của ông sẽ trường tồn một giá trị về mối liên hệ

giữa một con người với tất cả mọi người. Đó là chủ nghĩa nhân văn sâu sắc trong

những sáng tác của Hemingway.

11.Chân lí bao giờ cũng giản dị và dễ hiểu, nhưng con đường đến với chân lí

hoàn toàn không đơn giản. Chẳng thế mà giá trị của tiểu thuyết Hemingway phải nhờ

đến sự kiểm nghiệm của thời gian. Thực tế cho thấy, đọc tác phẩm của ông ở những

giai đoạn khác nhau của cuộc đời, người ta sẽ có những cách hiểu, cách cảm thụ khác

nhau. Càng ngày, văn phong của Hemingway càng dược sự mến mộ vì sự giản dị,

ngắn gọn, tự nhiên, vì tính động và sức gợi của nó. Đông đảo các nhà nghiên cứu trên

thế giới thế kỉ XX khẳng định : "Hemingway là bậc thầy về cách kể chuyện hiện đại" (

Osterling ). Sigurl Hoe! cho rằng "Một trong những bí mật của sức quyến rũ trong

truyện Hemingvvay là nói một điều gì đó bằng cách không nói về nó".

12.Cái làm nên sức mạnh bí ẩn trong nghệ thuật của Hemingway là cách nhìn,

cách nghe, và cách khám phá về cuộc đời. Gioocgiơ Sneo nhận định : "ở Hemingway

có cái năng khiếu, cũng giống như khả năng âm nhạc mà tạo hóa đã phú cho Bethôven

hay những điều kiện đễ dàng nào đó đã tạo nện những bức họa tài tình của E.I.

Cireco".[ 160,157] Khi đọc Hemingway, dẫu cho nhà văn có viết về vấn đề gì, dẫu

cho đề tài của anh có phong phú đến nhường nào, thì độc giá sẽ cảm nhận sâu sắc sự

căm ghét cái cô đơn trong con người, nỗ lực thoái khỏi nó, hành động để nối kết con

người. Thậm chí khi hành động đó là tham gia chiến tranh, và có thể cái kết cục hứa

hẹn là cái chết đang chờ đợi họ ở đâu đó.

Nghệ thuật tiểu thuyết của Hemingway, nguyên lí tảng băng trôi, trong đó nổi

bật nghệ thuật đối thoại và độc thoại nội tâm, đang là hướng phát triển của tiểu thuyết

hiện đại. Xu thế tiểu thuyết hướng nội đang thịnh hành và dần dần thay thế tiểu thuyết

truyền thống. Tiểu thuyết thế kỉ XX nhấn mạnh đến sự tương quan giữa con người và

thế giới, mà ở đó thực tại khách quan được dưa vào sự tri giác chủ quan.

13.Grigôri Iakôplêvits Baklanốp đã từng nói: "Những con sóng đơn điệu tràn lên

và rút xuống đều đi qua một cách chóng vánh. Những quá trình diễn ra dưới đáy sâu

sẽ còn âm ỉ mãi với thời gian. Những cuốn sách mà chỉ ra được quá trình đó, ghi lại

mọi lớp tầng trong cuộc sống nhân dân. Những cuốn sách ấy sẽ vượt ra ngoài giới hạn

của thời gian. Nói một cách khác, nó sẽ làm cho tác giả sống nhiều lần với những thế

hệ tiếp nối." [151, 50] Có lẽ chúng ta cũng có thể nghĩ như vậy về Hemingway, cùng

những sáng tác của ông.

15. Do thời gian có hạn, những vấn đề mà chúng tôi nêu ra trong bản luận văn có

lẽ chưa được giải quyết thoả đáng. Chúng tôi hi vọng sẽ có dịp trở lại với đề tài mà

chúng tôi rất yêu thích này, để có thể nâng bản luận văn lên tầm cỡ xứng đáng hơn.

Ngoài một số luận điểm nêu ra trong bản luận văn, theo chúng tôi, còn có thể đi sâu

khai thác thành một luận án như : Nghệ thuật tiểu thuyết Hemingway trong sự đổi mới

nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại.

THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1/TIẾNG VIỆT

A/ TÁC PHẨM VĂN HỌC

1 / Mặt trời vẫn mọc - Bùi Phụng dịch, Nxb Hải Phòng, 1988.

2 / Giã từ vũ khí - Giang Hà Vy dịch, Nxb Mũi Cà Mau, 1987.

3 / Những hòn đảo giữa dòng nước ấm - Nguyễn Trí Lợi địch, Nxb Trẻ, 1988.

4 / Chuông gọi hồn ai - Huỳnh Phan Anh dịch, Nxb VH,1995.

5 / Ông già và biển cả - Huy Phương dịch, Nxb Vh, 1986.

6 / Truyện ngắn Hemingway (2 tập ) - Lê Huy Bắc dịch, Nxb VH, 1998.

7 / Thế giới đàn ông không có đàn bà - Phan Quang Định địch, Nxb Văn nghệ,

1997.

8 / Hạnh phúc ngắn ngủi của Fransix Mắccômbơ -Nxb Tác phẩm mới, TP. HCM,

1986.

9 / M. Tvvain. Tom savvyer and Huckỉeberry Finn, Everyman's library New

York 1968.

10/ Một ngày chờ đợi - Mạc Mạc dịch, sở VHTT Nghiã Bình, 1985.

11/Tuyết trên đỉnh Kilimaniarô - Phan Quang Định dịch, Nxb Văn nghệ, TP.

HCM.

12/ Đỏ và Đen ( lập I, II ) - Xtăngđan, Tuấn Đô dịch, Văn học, sở VHTT Minh

Hải, 1986.

13/ Tấn trò đời - Balzac, Lô Hồng Sâm chủ biên, Nxb thế giới, 1999.

B / BÀI BÁO VÀ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

14/ Nguyên An - Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài, Nxb văn học, 1999.

15/ Andreev - Văn học Pháp và "ngày tàn thế kỷ", Nguyễn Văn Dân lược thuật -

Văn học và ngôn ngữ học, 1989.

16/ Aragông - Cuộc đời này sẽ trôi qua, TCVH -số 4,1993.

17/ Archibald ( Mađeish ) - Hiểm nghèo là tấm gương soi, văn 41, 19Ố5.

18/ Nguyễn Kim Anh - Văn học Mỹ trên thị trường sách Việt Nam, châu Mỹ

ngày nay số 2, 1995.

19/ Bakhtin ( Mikhain ) - Những vấn đề thi pháp tiểu thuyết, trường viết văn

Nguyễn Du, 1992.

20/ Bakhtin ( Mikhain ) - Những vấn đề thi pháp Đôxlôiepxki, Trần Đình Sử,

Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch Nxb GD, 1993.

21/ Blacch ( Anlonio ) - Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết "hậu hiện đại",

TCVH số 5, 1991.

22/ Bô- nô- ski - Bối cảnh nền văn học tiến bộ ở Mĩ, VN số 44, 1961.

23/ Lê Huy Bắc - Thế giới nhân vật của Hemingway, TCVH 8, 1995.

24/ Lê Huy Bắc - Nhân vạt và Chúa của Hemingway, Châu Mỹ ngày nay, Số 3,

1996.

25/ Lê Huy Bắc - Đồng hiện trong văn xuôi, TCVH6, 1996.

26/ Lê Huy Bắc -Đối thoại và độc thoại nội tâm của Hemingway, TCVH Số 7,

1997.

27/ Lê Huy Bắc - Vai trò người kể chuyện của nhân vật trung tâm trong sáng tác

của Hemingway, thông báo khoa học của Bộ GD và ĐT, Hà Nội,1996.

28/ Lê Huy Bắc - Đặc trưng không-thời gian và các hình ảnh tượng trưng huyền

thoại trong tiểu thuyết Hemingway. Thông báo khoa học của Trường ĐHSP Hà nội I,

số4, 1995.

29/ Lê Huy Bắc - Nguyên lý "Tảng băng trôi" và cách khai thác trong "Ông già

và biển cả". Tạp chí ĐH và GD chuyên nghiệp số 4, 1996.

30/ Lê Huy Bắc - Đọc "Ông già và biển cả". VHNN số 3, 1996 31 / Lê Huy Bắc

-Từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, TT KHXH, HN, 1997.

32/ Lê Huy Bắc - Truyện ngắn Mĩ, TT KHXH, HN, 1997.

33/ Lê Huy Bắc - Hemingway và những người đi qua đời ông, Nxb Thanh

niên,2000.

34/ Lê Huy Bắc - Erncsl Hemingway - Núi băng và hiệp sĩ, Nxb GD, 1999.

35/ Lê Đình Cúc - Hemingway và những tấc phẩm tiêu biểu của ông, TCVH số

6, 1977.

36/ Lê Đình Cúc - Mấy vấn đề về văn học so sánh và so sánh văn học, TCVH số

6, 1979.

37/ Lê Đình Cúc - Bi kịch Hemingway, TCVH số 6, 1983.

38/ Lê Đình Cúc - Nghệ thuật tiểu thuyết Hemingway, TCVH số 2,1985.

39/ Lê Đình Cúc - Hemingway con người, cuộc đời và năm tháng, TT và VH,

1986.

40/Lê Đình Cúc - Người chết một trăm lần trước khi chết, TPM số 11, 1991.

41/ Lê Đình Cúc - Các nhà văn Mĩ được giải thưởng Nobel, TCVH Số 2, 1996.

42/ Đào Ngọc Chương - về nguyên lý "tảng băng trôi" của Ernest Hemingway,

Tập san KHXH và nhân văn, TP. HCM Số2, 1977.

43/ Đỗ Hữu Châu ( chủ biên ) - Đại cương ngôn ngữ học, Nxb GD, 1993.

44/ Đỗ chuyên - kinh nghiệm viết vấn của Hemingvvay, Thể thao văn hoá

13/7/1985.

45/ Nguyễn Văn Dân - Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học hiện đại - H, 1989.

46 / Trương Đăng Dưng - Văn học dịch và những vấn để lý luận của văn học so

sánh, TCVH số 1, 1991.

47/ Phạm Huy Dũng - Mago Hemingway, nhan sắc không đem lại hạnh phúc.

Báo QĐND 29/9/1996.

48/ Vũ Dũng - Những tác phẩm lớn trong văn chương thế giới, Nxb Đà Nẵng,

1990.

49/ A. I.Daus - Festival, Hemingway ở Florida, Lê Huy Bắc dịch, VN Số 30,

1996.

50/ Huy Dương - Những vụ tự sát đầy bi kịch trong gia đình nhà văn

Hemingway, ANTG, 12/2/1997.

51/ Đặng Anh Đào - Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết, TCVH 6, 1992.

52/ Đặng Anh Đào - Sự lự do của tiểu thuyết - một khía cạnh thi pháp, TCVH Số

3, 1993.

53/ Đặng Anh Đào - Aragông đã quen và chưa biết, TCVH số 4, 1993.

54/ Đặng Anh Đào - Tính chất hiện đại của tiểu thuyết, TCVH số2, 1994.

55/ Đặng Anh Đào - tài năng và người thưởng thức, Hội nhà văn số 4 1994.

56/ Đặng Anh Đào - Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb

GD, 1995.

57/ Nguyễn Đức Đàn - Hành trình văn học Mỹ, Văn học, 1996.

58/ Bùi Thế Đức - Khám phá nghệ thuật về thế giới nhân vật trong chiến tranh

của A.v Bức ốp và B.Vaxiliep, TCVH số 6, 1995..

59/ Hà Minh Đức - Cơ sở lí luận văn học li, ĐH và THCN, 1985.

60/ Nguyễn Trung Đức - Hiệu quả nghệ thuật của không gian thời gian trong

tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của G. G Mácket, TCVH số 1,1995.

61/ Nguyễn Kim Đính - Xây dựng ngôi nhà chủ yếu trong tâm hồn, TCVH số 2

1983.

62/ Phạm Quang Định - Cuộc đời sôi động đàm mê của Hemingway, VN, TP.

HCM, 1997.

63/ Cao Huy Đỉnh - Maicơn Gòn viết về hai nước Mĩ, TCVH,1996.

64/ Ehrenbung (Hyna) - Chiến trường sống và viết, TPM, 1982.

65/ Trần Phong Giao : _ Đọc văn Faulkner,văn 37 Sài Gòn,19ố5.

66/ Trần Phong Giao : _ Ernest Hemingway, văn số 41, SG, 1965.

67/ Mắcxim Gorki - bàn về văn học, Hà Nội, 1970.

68/ Robbe - Grillet ( Alain ) - Phấn đấu cho một nền tiểu thuyết mới, Trần Thiện

Đạo dịch, văn 37, 1965.

69/ Gulaiev ( N. A )- Lý luận văn học, ĐH và THCN, HN, 1982.

70/ Nguyễn Hải Hà - Thi pháp tiểu thuyết Lép Tônxtôi, Nxb GD,1992.

71/ Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình - Quan niệm nghệ thuật về con người

trong văn xuôi Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, KHXH, HN, 1995.

72/ Nguyễn văn Hạnh - Bàn về khái niệm phương pháp sáng tác trong văn học,

TCVH số 1,1983.

73/ Nguyễn văn Hạnh - Đặc điểm của tiến bộ trong văn học, bài giảng chuyên đề

cho nghiên cứu sinh chuyên ngành văn học, ĐHKHXH và nhân văn, TPHCM, 1998.

74/ Hoàng Ngọc Hiến - Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du,

1992.

75/ Hoàng Ngọc Hiến - Văn học và học văn, Nxb VH; 1997.

76/ Lê Huy Hoa - Những bậc thầy văn chương thế giới, Vh, TP HCM, 1995.

77/ La Khắc Hòa - vấn đề thể loại trong tư duy của nhân loại, chuyên đề chuẩn

hoa thạc sĩ, ĐHSPHN, 1996.

78/ Tô Hoài - Sổ tay viết văn, Tủ sách người Hà nội, HN, 1997.

79/ Nguyễn Công Hoan - Hỏi chuyện các nhà văn, Tác phẩm mới, HN,1977.

80/ Hotsơnơ ( A. F ) -Bố già Hemingway, Nxb văn học, HN, 1997.

81/ Đào Duy Hiệp - Những yếu tố thời gian qua Rutxô - Plôbe - Pruxt, TCVH số

l0, 1998.

82/ Trần Hình - Cái chết của người cháu nội nhà văn Hemingway ở Cu Ba, VN

38, 1996.

83/ Hirss - Thi pháp vãn xuôi, Trần Thanh Nam dịch, văn học và ngôn ngữ, Số

26, TTKHXH, 1992.

84/Konrat -Phương Đông và phương Tây, Nxb GD số 4, 1997.

85/ Kundera ( Milan )- Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng, 1998.

86/ Khravchenkô ( M. B ) - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn

học, Nxb TPM, HN, 1978.

87/ Khravchenkô ( M. B ) - Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, Nxb

KHXH, HN,1985.

88/ Huy Liên - Tìm hiểu phong cách nghệ thuật qua các truyện ngắn của nhà văn

Ernesl Hemingway, TCVH số 3, 1997.

89/ Huy Liên - "Ong già và biển cả" và sự cách tân của Hemingway đối với thể

loại văn xuôi thế kỷ XX, Châu Mĩ ngày nay -3/1998.

90/ Phạm Phương Liên - Văn học nghệ thuật bên ngưỡng cửa của thế kỷ XXI,

TTKHXH4, 1991.

91/ Mai Quốc Liên - Lời giới thiệu Một ngày chờ đợi, HVN Nghĩa Bình, 1985.

92/ Đặng Trường Lưu - Những vấn đề còn lại của một đề tài lớn, VNQĐ,

15/4/2000.

93/ Phương Lựu - Tim hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại, Nxb VH,

HN,1995.

94/Phương Mai - Hemingway với biển cả, VN số 18, 1965.

95/ Nguyễn Đăng Mạnh - Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,

Nxb GD, HN, 1994.

96/ Nguyễn Đãng Mạnh - Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb VH, HN, 1983.

97/ Maurois ( Andre ) -Vai trò của nhà văn trong đời sống ngày nay – Vũ Đình

Lưu dịch, SG, văn 40, 1965.

98/Mackez ( G.G ) - Hemingway trong mắt tôi, VN số 51, 1981.

99/Maylac ( B.S ) - vấn đề nhịp điệu không gian thời gian trong việc nghiên cứu

sự sáng tạo, TCVH 2, 1981.

100/Nguyễn Đức Nam - Từ cái nhìn phương Tây hiện đại đến việc phân chia và

đánh giá các khuynh hướng văn học, TCVH số 3, 1976.

101/Nguyễn Đức Nam - Văn học Mỹ và hiện thực nước Mỹ số 3, 1968.

102/ Bửu Nam - Thi pháp nhân vật trong tiểu thuyết Victor Huygô, HN, 1991.

103/ Hoàng nhân - Ba nhà văn hiện đại, Nxb Trẻ, Tp HCM, 1989.

104/ Vương Trí Nhàn - Bắt đầu từ chỗ đứng của mội người lính, VNQĐ số 7,

1986.

105/ Vương Trí Nhàn - Hemingway và những đóng góp của ông vào việc đổi

mới văn xuôi hiện đại, TCVH số 6, 1992.

106/ Vương Trí Nhàn - Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác, TCVH số 6,1992.

107/ Vương Trí Nhàn - Khảo về tiểu thuyết, Hội nhà văn, HN, 1996.

108/ Hữu Ngọc - Hồ sơ văn hoa Mỹ, Nxb thế giới 4/1995.

109/ Phan Ngọc - Anh hưởng của văn học Pháp tới văn học Việt nam giai đoạn

1932-1945, TCVH 4/1993.

110/ Thảo Nguyên - Những người phụ nữ đau khổ trong cuộc đời Hemingway,

văn học và dư luận 9,1991.

111/ Mai Nhị - Sự tương hợp giữa Nít -sơ và văn học, TCVH 6, 1993.

112/ Lajos ( Nyiro ) - Việc phân tích tác phẩm theo ngữ nghĩa học, TCVH số 6,

1978.

113/ Octavio Paz - Thi pháp đồng hiện trong thơ Apollinaire, TCVH số 1, 1997.

114/ Octavio Paz - Thơ văn và tiểu luận, Nxb Đà Nẵng, 1998.

115/ Huy Phương - Lời giới thiệu Ông già và biển cả, Nxb VH, HN, 1986.

116/Poxpelov(G.N)-Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb GD,HN, 1985.

117/ Vũ Tiến Quỳnh - Jack lonđon, O. Henry, Mark Twain, Hemingway, văn

nghệ TP HCM, 1995.

118/ Vũ Tiến Quỳnh - Phê bình, bình luận về Franz Kafka, Cervantes,

Hemingway, Khánh Hòa, 1991.

119/ Phan Quí - Độ chênh về ngôn ngữ văn hoá và truyền thống văn học trong

một đoạn văn dịch, VHNN số 4, 1998.

120/ Lê Hồng Sâm - Sự uyên bác và "ma thuật giao cảm" hay là nghệ thuật viết

tiểu thuyết từ ngôi thứ nhất của Magơrit, Yuôcxơnar, TCVH số 2, 1993.

121/ Đắc Sơn - Đại cương văn học sử Hoa kỳ, TP HCM, 1996.

122/ Trần Đình Sử - Tính mơ hồ đa nghĩa của văn học, TCYH 1,1996.

123/ Trần Đình Sử - Lý luận và phê bình văn học, Hội nhà văn, 1996.

124/ Trần Đình Sử - Bàn thêm về tiếp nhận văn học, VN số 50, 1997.

125/ Trần Đình Sử - Thi pháp, bài giảng chuyên đề sau đại học, ĐHSP HN

1,1986.

126/ Lê Tây - Chủ nghĩa khắc kỷ trong tiểu thuyết Chuông nguyện hồn ai của

Hemingway, báo cáo khoa học, ĐHSP Huế, 1984.

127/ Trần Thị Thuận - Nghệ thuật xây dựng truyện ngắn Hemingway, Kỷ yếu

khoa học ĐHKHXH nhân văn, TP HCM, 1994.

128/ Trần Thị Thuận - Truyện ngắn Hemingway, nghệ thuật xây dựng cốt

truyện, LVSĐH, 1986.

129/ Trần Thị Thuận - Một khiá cạnh trong nghệ thuật xây dựng thế giới truyện

ngắn Hcmingway, Văn học niên giám, 1997, HNCGD.

130/ Trần Đức Thảo - Tìm cội nguồn ngôn ngữ và ý thức, Văn hoá thông tin,

HN, 1997.

131/ Timôphiep (L.I )- Nguyên lí lí luận văn học II, Lê Đình Kỵ, Cao Xuân Hạo,

Nxb Văn hóa, 1962.

132/ Phùng Văn Tửu - Phương Tây, văn học và con người, VN 12,1972.

133/ Phùng Vãn Tửu - Tiểu thuyết Pháp hiện đại những tìm tòi đổi mới, KHXH,

1990.

134/ Phùng Văn Tửu - Từ cuộc đời đến tác phẩm văn chương, TCVH 7, 1997.

135/ Phùng Văn Tửu - Phê bình và các trào lưu văn học, TCVH số 4, 1993.

136/ Chu Quang Tiềm - Tâm lý văn nghệ, TP HCM, 1991.

137/ Lê Phong Tuyết - Alain Robbe Grillet và sự đổi mới tiểu thuyết, KHXH,

HN, 1995.

138/ Lê Ngọc Trà - Lý luận văn học, Nxb Trẻ,TP HCM, ỉ990.

139/ Sông Trà - Hemingway, một nhà văn cẩn cù lao động nghệ thuật, VN 52,

1962.

140/ Hoàng Trinh - Ký hiệu, nghĩa và phê bình văn học, VH, HN, 1979.

141/ Hoàng Trinh - Xúc tiếp với những tinh hoa tư tưởng và nghệ thuật của loài

người qua văn học, TCVH số 3,1977.

142/ Lương Duy Trung - Một số lác. giả của thơ ca Mĩ thế kỷ XIX, TCVH số

4,1998.

143/ Nguyễn Văn Trung ~ Lược khảo văn học, Nam Sơn, SG, 1963.

144/ Lương Duy Thứ - Mấy vấn đề thi pháp Lỗ Tấn, ĐHSP Huế, 1992.

145/ Vũ Thành Vinh - Hemingway bệnh nhân người Mỹ, VN TP HCM 8/1997.

146/Lưu Kiểng Xuân -Nồi sự của Hemingway, VN Trẻ 3/4/1981.

147/ Ngân Xuyên Ám ảnh bởi Hemingway, VN Trẻ 10/1996.

C/NHÓM TÁC GIẢ

148/ Văn học phương Tây.

149/ Lý luận văn học.

150/ Chiến trường sống và viết, Nxb TPM, 1984.

151/ Nhà văn bàn về nghề văn, HVHNT, 1984.

152/ Số phận của tiểu thuyết, Nxb TPM, 1983.

153/ Từ điển văn học (tập I, II) HN, 1984.

154/ Nhập môn văn học. Trường viết văn Nguyễn Du.

155/Văn học Mĩ quá khứ và hiện tại, Nxb KHXH, HN,1997.

156/Giảng văn văn học nước ngoài 12, Nxb GD, HN, 1992.

157 / Từ điển tác gia sân khấu nước ngoài, Nxb văn hoa, HN, 1998.

2/TIẾNG ANH

158/ Charles scribner 's - The Old man and the sea.

159/ Carey ( Gary 0 - The sun also rises, notes NY- cliffs notes, 1991.

160/ C. Baker (ed) - Hemingway and his crities, Hill and Wang, NY, 1961.

161/ Bradley (ed) - The American tradition in literalure, w.w morton, NY 1991.

162/ E. Eliolt (ed) - American literature. A Prentice Hall anthology, vol 2,

PrenticeHall, USA 1991.

163/ Hotchner ( A.E ) - Papa Hemingway, A personal memoir, Bantam Books,

Toronlo, 1966.

164/ Killinger ( John ) - Hemingway and the dead gods, NY, Citadel Press,

1965.

165/ Mark ( Spilka )- The Death of love in the sun also rises, Hemingway and

his Crilics.

PHỤ LỤC

TƯ LIỆU VỀ MỘT SỐ PHÁT BIỂU CỦA HEMINGWAY NHỮNG

TRANG ĐỘC THỌAI NỘI TÂM TIÊU BIỂU TRONG TIỂU THUYẾT

HEMINGWAY

1/Hemingway trả lói phỏng vấn tại Đại hội lần thứ hai các nhà văn Mĩ năm

1937:

Hỏi: Thưa ông Hemingway, ông đã bắt đầu viết về một quyển sách như thế nào?

Trả lời: Tôi luôn luôn muốn viết. Tôi viết trên giấy học trò, và trò chơi đầu tiên

của tôi là viết. Sau khi tốt nghiệp Đại học, tôi về thành phố Kenxatx làm việc ở tòa

soạn báo Ngôi sao. Công việc đều đặn ở báo là:Ai bắn ai? Ai đập phá cái gì? Ở đâu ?

Khi nào ? Ra sao ? Nhưng chả bao giờ "Vì sao". Không hề có "Vì sao".

Hỏi: về quyển "Chuông nguyện hồn ai", tôi biết ông đang ở Tây Ban Nha, nhưng

ông đang làm gì ở dó ?

Trả lời: Tôi đến để lấy tài liệu về cuộc Nội chiến cho liên đoàn báo chí Bắc Mĩ.

Tôi lái vài chiếc xe cứu thương về phía Cộng hòa.

Hỏi: Tại sao lại về phía Cộng hòa?

Trả lời: Tôi đã thấy nước Cộng hòa đang chớm dậy. Tôi ở đấy khi vua An-

phông-sô bỏ ngôi và tôi theo dõi nhân dân đang viết bàn Hiến pháp của họ. Đó là

nước Cộng hòa cuối cùng đang bắt đầu ở châu Âu, và tôi tin tưởng ở nó. Tôi tin rằng

phía Cộng hòa sẽ thắng trong cuộc chiến tranh này và sẽ có nước Cộng hòa ngày nay

ở Tây Ban Nha. Mọi người đều nhập vào cuộc chiến tranh, nhưng biết có người Tây

Ban Nha, tôi tin rằng nước Cộng hòa sẽ đưa tất cả những người không phải Tây Ban

Nha ra, khi chiến tranh đã kết thúc. Họ không muốn bất cứ một dân tộc nào khác xen

vào việc của họ.

Hỏi: Nền giáo dục hợp thức của ông là như thế nào?

Trả lời: Tôi học ở trường Đại học Óac Pác bang Mi-noi. Đáng lẽ đi học thì tôi lại

đi vào chiến tranh, khi tôi từ chiến trường về thì đã quá muộn để có thể đi học lại. Hồi

đó chưa có trường G.I.Biu.

Hỏi: Khi ông bắt đầu viết "Ông già và biển cả", ông đã lập ý như thế nào?

Trả lời: Tôi có biết về mội người trong hoàn cảnh ấy và con cá. Tôi có biết việc

gì xảy ra trên một chiếc làu trên biển khi chiến đấu với con cá.Thế là tới dựng cái

người mà lôi biết trên hai mươi năm thành một nhân vật và tưởng tượng anh ta ở trong

những trường hợp ấy.

Hỏi: Ông đã phái triển phong cách viết của ông như thế nào ? Ông có viết để

buôn bán hoặc sáng tác theo yêu cầu của người đọc không ?

Trả lời: Cố nói cho càng đầy đủ càng tốt, sự việc thật chân thực, đấy thường là

việc rất khó, và tôi viết rất vụng, cái vụng về đó người ta gọi là phong cách của tôi.

Tất cả sự nhầm lẫn đều rất dễ nhìn thấy, và họ gọi đó là phong cách.

Hỏi: Ông phải dành bao nhiêu thời giờ cho một quyển sách?

Trả lời: Điều đó tùy ở quyển sách và tùy ở sự tiến triển của nó. Một quyển sách

hay phải mất đến một năm rưỡi.

Hỏi: Ông làm việc mỗi ngày mấy giờ?

Trả lời: Tôi dậy lúc sáu giờ và gắng không làm việc quá mười hai giờ.

Hỏi: Mười hai giờ đêm?

Trả lời: Mười hai giờ trưa.

Hỏi: Có khi nào ông bị hẫng đi không ?

Trả lời: Ngày nào chả có, nếu anh không tiến hành tốt công việc của anh. Khi

anh bắt tay vào viết thì không bao giờ bị. Anh nghĩ rằng nó sẽ tuyệt vời và anh đang

gặp lúc may. Anh cho rằng viết thì dễ, và anh thích thú về chuyện ấy. Nhưng đó là anh

nghĩ thế, không phải người đọc. Người đọc không hứng thú lắm đâu. về sau khi anh

đã biết là phải viết cho người đọc, thì lúc ấy viết không còn là dễ nữa đâu. Thực ra,

khi cuối cùng anh nhớ lại bất cứ cái gì anh đã viết thì anh sẽ thấy viết được nó khó

khăn như thế nào.

Hỏi: Khi ông còn trẻ và mới bắt đầu viết lần đầu, ông có sợ phê bình không?

Trả lời: Chả có gì phải sợ cả. Khi bắt đầu viết, tôi chả tính gì đến món đó cả và

cố hết sức viết cho hay. Tôi tin ở cái tôi viết. Và nếu họ không thích, đây là lỗi của họ.

về sau rồi họ sẽ thích, thực tình, tôi không quan tâm gì đến chuyện phê bình cả, và

cũng không gần gũi, tiếp xúc với họ. Lần đầu anh viết anh không được chú ý, đấy là

cái may mắn của lúc bắt đầu.

Hỏi: Ông có tính trước sự thất bại không ?

Trả lời: Nếu anh tính trước sự thất bại thì anh sẽ thất bại. Tất nhiên anh biết nếu

thất bại thì cái gì sẽ xảy đến và anh sẽ phải có kế hoạch tìm lối thoát, nếu không thế

thì quả là anh là người kém thông minh - nhưng anh không nên tính trước thất bại

trong việc anh làm. Giờ tôi không muốn các anh nghĩ rằng tôi không bao uiờ bị đe

doa, song nếu anh không làm chủ nỗi sợ của anh thì không có cuộc tấn công nào chùn

lại cả.

Hỏi: Ông có phác thảo trước cuốn sách ông định viết, hoặc ghi chép thật kỹ

không ?

Trả lời : Không, tôi cứ bắt đầu viết. Viễn tưởng là sáng tạo từ những điều hiểu

biết sẩn có của anh. Nếu anh sáng tạo thành công thì nó còn thật hơn cả cái mà anh cố

nhớ lại cho được. Cái dối lớn còn dễ tiếp nhận hơn cái thật nữa. Người viết viễn

tưởng, nếu nhu không từ bỏ cái viễn tưởng đó, sẽ là người nói dối thành công.

Hỏi: Ông đã viết bao nhiêu quyển rồi.

Trả lời : Có lẽ mười ba. Thế không phải là nhiều, nhưng lôi dùng rất nhiều thì

giờ để viết một quyển sách và giưã hai quyển lôi muốn được nghỉ, chơi cho vui. Hơn

nữa có nhiều chiến tranh quá, và trong lúc đỏ tôi phải bỏ công việc này khá lâu.

Hỏi: Trong tiểu thuyết của ông, ông có viết về ông không ?

Trả lời: Một nhà văn còn biết ai rõ hơn nữa ?

Hỏi: Ông phải mất bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng để viết quyển Giã từ vũ khí?

Trả lời : Tôi phác thảo ở Pari vào mùa đông và viết ở Cu Ba, ở Ki Oetx, ở Phơ-

lo-ri -đa vào đầu mua xuân, rồi ở Pich gát, ở Ác- ken- xatx, nơi có bà con bên vợ tôi,

rồi cắm ở Kenxatx nơi đưa con trai tôi sinh va hoàn tất ở Bích Hooc, ở Uaiômin, trong

khu thác. Bản đầu tiên mất tám tháng, bản sưa lại mất năm tháng nưa, lất cá là mười

ba tháng.

Hỏi: Ông có bao giờ Ihấy nản không ? Có bao giờ ỏng bỏ cuộc không ?

Trả lời: Nản thì có, nhơn" không thể bỏ cuộc - cũng chẳng biết chạy đi đâu. Ông

Giô Lui nói rất đúng : "Anh có thể chạy nhưng không có thể tốn được".

Hỏi : Có bao giờ ông đưa nhân vật của ông vào điểm bí mà họ không làm sao

thoát được không ?

Trả lời: Anh cố tránh điều ấy còn nếu không thì cung chịu thôi.

Hỏi : Tất cả các truyện ngắn của ông đều viết về châu Phi, sao ông thích châu

Phi đến thế ?

Trả lời : Có vài ba nước anh yêu, vài ba nơi anh không thể thích được. Tôi yêu

châu Phi đó là một. Có mấy chỗ ở đây, ở Iđaho giống châu Phi và Tây Ban Nha. vì

vậy nên nhiều người dân Basque đến đây.

Hỏi: Chắc ông đọc nhiều lắm ?

Trả lời : Vâng tôi đọc luôn. Trong một ngày, khi thôi không viết, tô muốn suy

nghĩ về cái đã viết, thế là tôi đọc.

Hỏi: Ông có nghiên cứu những người hiện tại để viết sách của ông không ? Trả

lời: Tôi không đi để nhằm mục đích đó. Tôi chỉ đi nơi nào tôi thấy cần cho cuộc sống

của lôi thôi. Có những điều anh làm vì anh thích làm, có những điều khác anh làm vì

phải làm. Trong khi làm những việc đó anh sẽ tìm được những người anh sẽ viết về

họ.

Hỏi : Ông viết truyện và tiểu luận suốt thời gian ở trường. Việc đó hình nhưng

không phải là khó lắm phải không ông ?

Trả lời : Không phải đâu. Tất cả những điều anh cần có là tai thính, cường độ say

mê rất cao và sự tận tụy với tác phẩm, như một vị linh mục tận tụy với Chuá của mình

vậy, sự dũng cảm, kiên trì của một thằng ăn trộm, anh không có một ý thức nào khác

ngoài chuyện viết và anh phải ở trong tất cả những điều đó. Dễ ư? Không bao giờ nên

nghĩ như thế. Nhiều người bị bắt buộc phải viết. Chả có luật lệ nào ngăn cấm cả, họ

cảm thấy sung sướng khi họ viết và có phần nhẹ nhàng thoải mái. Nhưng người ta

khuyên nhà văn miễn cưỡng này không viết. Nếu anh ta cứ làm, anh ta sẽ chịu số phận

như một nhà kiến trúc sư cưỡng ép, rốt cuộc chỉ có một mình thôi, như số phận anh

chàng thổi sáo miễn cưỡng vậy.

Hỏi: Ông làm sao mà học được nhiều thứ tiếng thế ?

Trả lời: Bằng cách sống ngay trong những nước ấy. Tiếng Latinh tôi học lúc ở

trường, giúp cho lôi học những thứ tiếng khác dễ hơn, đặc biệt là tiếng Italia. Tôi ở

Italia gần như suốt cả thời kỳ Đại chiến thố giới lần thứ nhất, và tôi học tiếng nhanh

lắm, nói thì khá hơn. Nhưng sau đấy tôi bị thương, tôi phải chữa bệnh một ít lâu, phải

tập luyện cái chân bị thương và kết bạn với một sĩ quan Itali cũng đang nằm chữa

bệnh. Tôi nói với anh ta rằng tôi cho tiếng Italia là dễ học. Anh ta khen tôi nói rất khá.

Tôi nói tôi không có gì là đáng khen lắm vì tiếng đó dễ học. Anh ta bảo : "Trong

trường hợp này, anh nên học thêm ngữ pháp". Thế là tôibắt đầu học ngữ pháp Itaỉia và

tôi thôi không nói trong nhiều thúng. Tôi nhận thấy muốn học được tiếng Rôman dễ

hơn thì phải đọc báo - đọc báo Anh buổi sáng, và báo bằng những thứ tiếng khác vào

buổi chiều. Cũng là những tin đó, những sự kiện đó nó giúp tôi hiểu được báo buổi

chiều dỗ hơn.

Hỏi: Sau khi viết xong một quyển sách, ông có đọc lại không ?

Trả lời : Có. Hôm nay tôi đang đọc lại và viết lại bốn chương. Anh đặt bút xuống

khi đang sôi nổi, hăng hái, giờ anh chữa lại trong lúc bình tĩnh hơn.

Hỏi: Thông thường ông viết mấy tiếng ?

Trả lời : Không quá sáu tiếng. Sau đó anh đã mệt và không còn sáng suốt nữa.

Khi tôi viết mội quyển sách, tôi cố gắng ngày nào cũng viết, trừ ngày chủ nhật. Tôi

không viết vào ngày chủ nhật, đấy là ngày xấu. Đôi khi cũng có viết, nhưng nói chung

là ngày xấu".

2/Thư của Hemingway gửi đến buổi lễ trao giải Nobel văn học năm 1954, do

Giôn Kebốt đọc tại buổi lễ:

"Thưa các viện sĩ viện Hàn lâm Thụy Điển

Thưa các ông các bà,

Vì tôi không có biệt tài viết diễn văn, cũng không có tài hùng biện, không có

năng khiếu về khoa ngôn ngữ, nên tôi chỉ muốn cảm ơn những người quản lí di sản

đẹp đẽ của A.Nồben về giải thưởng này. Mọi nhà văn đều biết rằng không một nhà

văn lớn nào được tặng giải thưởng này mà không khúm núm nhận nó. Không cần phải

kể tên những nhà văn đó làm gì. Mỗi nhà văn ở đây đều có thể kể lấy cho mình tùy

theo sự hiểu biết và lương tâm của họ.

Thật tôi không thể nhờ đại sứ nước tôi đọc hộ một bài diễn văn trong đó nhà văn

nói ra tai cả những điều có sẩn trong lòng anh ta. Không phải những gì một nhà vãn

viết ra đều có thể được tiếp nhộn ngay tức khắc và về mặt ấy, đôi khi anh ta lại gặp

may. Nhưng cuối cùng điều anh ta định nói ra sẽ rõ ràng, dễ hiểu và về điểm này tùy ở

mức độ chắt lọc anh có được, anh ta sẽ còn mãi hay sẽ bị quyên đi. Cuộc đời của mội

nhà văn vốn là cuộc đời riêng. Những tổ chức sẽ làm giảm bớt đi nỗi cô độc của nhà

văn, nhưng tôi không tin chắc rằng nhờ thố tác phẩm sẽ có giá trị hơn. Khi anh ta bỏ

cái thế đơn độc đi, thì có thể là vị trí của anh ta trong xã hội sẽ được nâng lên, nhưng

thông thường thì tác phẩm sẽ bị thiệt thòi. Bởi anh viết tác phẩm của anh một mình và

nếu anh đúng là một nhà văn có tài, thì hàng ngày hoặc là anh giáp mặt với vĩnh cửu,

hoặc là anh mất hẳn. Với một nhà văn chân chính thì mỗi tác phẩm là mội bát đầu

mới, ở đó anh ta lại cố gắng tìm dược cái gì ở ngoài tầm tay với. Anh ta sẽ luôn luôn

cố tìm đến một cái chưa ai làm được hoặc nhiều người khác đã thử làm nhưng không

làm nổi. Và thế đấy, đôi khi, anh ta lại may mắn thành công. Nếu chỉ cần biết khác

những gì đã có người viết hay rồi, thì nghề văn thật cũng qua giản đơn. Chính vì trong

quá khứ ta đã có nhiều nhà văn lớn qúa, nên bây giờ một nhà văn phải đi qua cái nơi

anh ta có thể đến được, và ở đó thì không ai có thể giúp anh cả.

Tôi đã qua nhiều lời đối với một nhà văn. Một nhà văn phải viết những điều anh

ta muốn nói chứ không phải nói. Một lẫn nữa, xin cám ơn các ngài." ( Bố gia

Hemingway, Af. Hotsơnơ, Nxb văn học trang 151 )

3/Những trang độc thoại nội tâm tiêu biểu:

"Tôi nằm trên sàn tàu cạnh những khẩu đại bác dưới tấm bạt, ướt, lạnh và đói lả.

Sau cùng tôi trở mình nằm sấp xuống, gối đầu lên đôi cánh tay. Đầu gối tôi cứng đờ

nhưng bây giờ đã dễ chịu lắm. Công trình giải phẫu của bác sĩ Valentini thật là tài

tình. Tôi đã đi bộ nửa đoạn đường rút lui và bơi trên một khúc sông Tagliamento với

cái đầu gối này. Chính thật là cái đầu gối của bác sĩ. Còn cái đầu gối kia mới thật là

của tôi. Bác sĩ đã chữa cho ta một bộ phận nào trong cơ thể thì bộ phận ấy sẽ không

còn thuộc về ta nữa. Khối óc thuộc về tôi và cả dạ dày nữa. Dạ dày đang kêu đói dữ

lắm. Tôi cảm thấy nó đang lộn tung bên trong. Khối óc là của tôi nhưng tôi không

dùng nó được trong lúc này, không suy nghĩ gì được và không còn nhớ gì nhiều nữa

Tôi có thể nhớ dấn Cathcrin nhưng tôi biết rằng tôi sẽ điên lên nếu tôi nghĩ đến

nàng vì không biết rồi đây tôi có còn gặp lại nàng nữa không. Vì vậy không nên nghĩ

đến nàng nữa... dù chỉ trong khoảnh khắc,dù chỉ nghĩ đến nàng mà thôi! Trong toa tàu

chạy chầm chậm và tiếng bánh xe nghiên đều đều trên đường sắt với ánh sáng lờ mờ

xuyên qua lần bạt và tôi nằm với Catherin trên sàn gỗ loa xe. Nằm trên sàn gỗ cứng

trong toa xe không dám nghĩ ngợi mà chỉ mơ màng đến thời xa cách đã lâu, với bộ

quần áo ướt đầm... sàn gỗ chỉ tiến chầm chậm...nỗi cô đơn ở dưới...chỉ còn một mình

với quần áo ươi cùng ván cứng thay cho phụ nữ. Không ai ưa thích sàn toa tàu, hay

súng đại bác trùm vải bạt, hoặc mùi kim khí thoa mỡ, hay tấm vải bạt ri rí nước mưa.

Vậy mà mình vẫn thấy thoải mái dưới tấm vải bạt bên cạnh những khẩu đại bác. Khi

thương nhớ đến một người mà mình biết chắc người ấy không thể có mặt được nơi

đây, để rồi nằm sấp hồi tưởng lại một cách rõ rệt và lạnh lùng, nhưng nhai là rõ rệt và

vô ích-rằng mìnhđã mục kíchsự rút lui của một đạo quân và sự tiến lên của một đạo

quân khác, rằng mình đã mất hết cả xe và binh sĩ giống như một anh chàng coi hàng

đã để hàng hóa cháy hết trong một trận hỏa họan. Một khi đã giải quyết và không còn

trách nhiệm nữa.

Dòng sông đã cuốn theo nỗi căm hờn cùng tất cả trách nhiệm của tôi. Vả lại

trách nhiệm đó cũng đã chấm dứt khi bọn hiến binh đã thập cổ tôi. Tôi muốn vứt bỏ

bộ quân phục dù còn đôi chút trách nhiệm tôi bị ràng buộc bởi cấp hiệu bề ngoài. Tồi

đã tháo những sao cấp hiệu nhưng đólà vì lo xa chứ không phải vì danh dự. Về cơ

bản, tôi không hề phản kháng. Tôi được giải thoát. Tôi cầu chúc mọi người được may

mắn. Một số người, những người tốt dũng cảm, bình tĩnh, thông minh xứng đáng được

hưởng. Riêng tôi, tôi không còn ở trong số những diễn viên của vở hài kịch và tôi chỉ

mong sau chuyến tàu quý hóa này tới Mestre để được ăn và khỏi phải nghĩ ngợi gì

nữa. Phải chấm dứt tuyệt đối.

Piani sẽ nói lại là tôi đã bị bắn. Họ thường hay lục túi và lây hết giấy tờ của

những người bị xử bắn. Họ không lấy được giấy tờ gì của tôi cả, họ sẽ cho là tôi đã bị

chết đuối. Tôi không rõ bên Mĩ người ta sẽ được tin như thế nào. Tử thương hay vì

duyên cớ nào khác. Chúa ơi, đói đói qua. Tôi tự hỏi không rõ trong các buổi ăn chung,

vị linh mục này ra sao, và Rinaldi nữa. Có lẽ anh chàng đang ở Pordcnone nếu họ

không rút lui xa hơn nữa. Thôi, có lẽ từ nay tôi không còn bao giờ được gặp lại anh ta

nữa, không còn bao giờgặp lại được một người nào trong bọn họ nữa. Cuộc đời quân

nhân thế là chấm dứt.

Tôi không muốn nghĩ ngợi nữa. Tôi muốn ăn. Chúa ơi, phải rồi. Ăn uống và ngủ

với Catherine. Có lẽ đêm nay... không, điều đó không thể được. Nhưng đêm mai... và

một bữa ăn ngon lành... và chăn gối nữa... và không bao giờ đi đâu cả trừ phi hai đứa

cùng đi với nhau. Có lẽ phải ra đi gấp mới được. Nàng sẽ đến. Tôi biết nàng sẽ đến.

Khi nào chúng ta sẽ ra đi đây ? Phải nghĩ đến điều đó. Đêm đã đến. Tôi nằm và nghĩ

ngự! xem chung tôi sẽ đi đến phương trời nào. Điạ điểm không thiếu."

( Chương 32, Giã từ vũ khí, Nxb Vhtt, trang373-376)

"Chàng bước bên cạnh nàng nhưng đầu óc chàng mãi bận rộn với vấn đề cây

cầu. Tất cả đều chắc chắn, rõ ràng như lúc ống kính máy chụp hình đã được điều

chỉnh. Chàng trông thấy hai cái đồn canh và Anselmo cùng tên du mục đang canh

chừng.chàng thấy con đường vắng vẻ và lại nhìn thấy những sinh hoạt trên đó. Chàng

tìm ra địa điểm mà chàng sẽ đặt hai khẩu súng tự động để có được một trường bắn lý

tưởng nhất. Và ai sẽ sử dụng chúng đây ? Sau cùng là lôi, chàng nghĩ, nhưng để bắt

đầu là ai ? Chàng đặt những thỏi thuốc nổ, chôm và cột chúng lại, tháo dây, mắc

chúng lại và trở lại địa điểm nơi chàng đã đặt cái hộpđựng bộ phận làm nổ, đoạn

chàng bắt đầu nghĩ tới tất cả những gì có thể xảy ra và tất cả những gì có thể sai lạc đi.

chàng nhủ thầm vậy là đủ rồi. Mày đã làm tình với con bé đó, giờ đây thì đầu óc mày

đang minh mẫn, quá minh mẫn và mày khởi sự lo âu, người ta có thể nghĩ ngợi mà

không cần phải lo âu gì cả. Đừng lo âu, mày không được lo âu. Mày biết tất cả những

điều phải làm và mày biết điểu gì có thể xảy tới. Chắc chắn rồi, điều đó có thể xảy tới.

Mày đã vào cuộc đồng thời biết tại sao mày chiến đấu. Người ta chiến đấu và

người ta làm điều phải làm để có cơ hội thắng lợi. Chính vì vậy mà giờ đây Robert

Jordan bó buộc phải dùng những người mà chàng yêu mến như người ta dùng những

người chiến sĩ và không được có.một tình cảm nào với họ nếu chàng muốn thành

công. Pablo hiển nhiên là người thông minh nhất trong cả bọn. Hắn dã biết ngay công

việc khó khăn, tệ hại tới đâu. Người đàn bà thì hoàn loàn thích hợp với công tác, bà ta

vẫn còn tiếp tục như vậy, nhưng mà ý thức về lầm vóc thật sự của vấn đề đã dần dần

xâm chiếm lấy tâm hồn bà ta và đã làm cho bà ta thay đổi nhiều. Sordo đã hiểu ra tức

thì và ông ta hẳn phải làm lất cả những gì phải làm nhưng không hăng hái bằng chính

Robert Jordan.

Vậy thì, chàng nghĩ, có phải mày bảo rằng mày bận tâm về điều có thể xảy ra

cho người đàn bà, cho cô gái và cho tất cả mọi người chớ không phải bận tâm về điều

có lliể xảy ra cho mày à ? Cho là đúng đi. Điều gì sẽ xảy ra cho họ nếu mày không tới

đây ? Không nên nghĩ tới điều đó. Mày không trách nhiệm vé họ trong hành động.

Lệnh không đến từ mày. Nó đến từ Golz, mà Golz là ai? Đó là một ông tướng tốt. Ông

tướng giỏi nhất mà mày được phục vụ dưới quyền. Nhưng mà một người liệu có bổn

phận phải thi hành những mệnh lệnh khó khăn cực cùng khi biết chúng đưa mình đi

tới đâu không ? Ngay khi chúng phát xuất từ Golz, và Golz chính là đảng đồng thời lại

là quân đội ? Đúng, Chàng phải thực hiện chúng. Không thử thì làm sao biết được ?

Ngay trong lúc đón nhận mệnh lệnh, nếu mọi người đều bảo rằng đó là những mệnh

lệnh không thể thực hiện được thì thử hỏi người ta sẽ đi đến đâu ? Chúng ta sẽ đi về

đâu nếu chỉ biết nói "không thể được" mỗi khi nhận lệnh ?

Chàng đã từng biết tới nhiều cấp trên chỉ biết đưa ra những mệnh lệnh không thể

thực hiện được. Như tên đểu Gomez ở Estramadure chẳng hạn. Chàng đã từng biết tới

những cuộc tấn công, trong đó cánh quân hai mạn sườn không tiến lên được vì tiến lên

là chuyện vô khả hữu. Không, chàng sẽ thi hành lệnh trên nhưng chàng không được

thương yêu những người cùng thực hiện công tác với chàng.

Trong mọi công tác của họ, những du kích quân luôn mang lại bội phần nguy

hiểm và rủi ro cho những người có bổn phận che chở và giúp đỡ họ. Với mục đích gì

đây ? Rốt cuộc lại là để cho đất nước được thoát khỏi gian nguy và để mọi người có

thể sống bình yên trên đó. Điều này đúng và nó có vẻ tầm thường nữa.

Nếu phe Cộng Hòa thua trận thì những ai tin tưởng nơi đó sẽ không sống được ở

Tây Ban Nha này. Nhưng mà liệu có chắc như vậy không đấy ? Chắc chắn như vậy,

chàng thừa hiểu điều đó căn cứ theo những gì xảy ra tại các vùng bị phát xít chiếm

đóng.

Pablo là một tay đểu cáng nhưng những người khác là những tâm hồn cừ khôi

đáng khen. Và thử hỏi khi bắt họ thi hành công tác này, điều này có phải là phản bội

lại họ hay không ? Có thể, nhưng mà nếu không thì hai trung đội kỵ binh sẽ tới đánh

bật họ khỏi vùng núi này trong vòng một tuần lễ.

Không. Để họ yên, người ta chả được gì. Trừ phi phải để yên mọi người và

không quấy rầy ai. Chàng nghĩ, Vậy thì mày tin thế à, mày tin rằng lý tưởng nhất là để

mọi người được yên thân à ? Đúng, chàng tin như vậy. Nhưng rồi sau đó, xã hội có tổ

chức cùng tất cả những thứ khác thì sao ? Đó là việc của kẻ khác. Còn chàng thì chàng

có việc khác để lo sau trận giặc này. Chàng hiện chiến đấu trong trận giặc này bởi nó

đã khởi sự trong một xứ sở mà chàng yêu mến, bởi chàng tin tưởng ở nền Cộng Hòa

và bởi nếu nó bị hủy diệt thì tất cả những ai tin tưởng nơi nó sẽ khó sống được. Ở đây,

tại nước Tây Ban Nha này, chính những người cộng sản đã cung cấp thứ kỷ luật tốt

đẹp nhất, thứ kỷ luật hợp lý và lành mạnh nhất để theo đuổi chiến tranh. Chàng chấp

nhận những huấn điều của họ trong khoảng thời gian thi hành công tác bởi vì trong

vấn đề chỉ dạo chiến tranh, họ là đảng duy nhất có chương trình và kỷ luật khiến

chàng nể nang.

Nhưng những quan điểm chính trị của chàng thì sao ? Bây giờ thì chàng không

có. Chàng nghĩ, nhưng mày đừng bảo ai biết điều đó. đừng bao giờ thú thật điều đó.

Và mày sẽ làm gì sau này ? Tôi sỗ trở về nước tôi và tôi sẽ mưu sinh bằng việc dạy

tiếng Tây Ban Nha như trước đây và tôi sẽ viết một cuốn sách xác thật. Chàng nghĩ,

tôi có cảm tưởng rằng việc đó không khó khăn gì.

Hẳn chàng phải nói chuyện chính trị với Pablo. Chắc hẳn là chàng sẽ lấy làm lý

thú được biết tiến trình tiến trình về chính trị của hắn. Rất có thể đó là diễn biến cổ

điển đi từ lả sang hữu phái. Giống như lão già Lerroux. Pablo rất giống Lerroux. Còn

Prietro thì không bằng.

Pablo và Prietro có niềm tin tưởng gần như ngang nhau ở thắng lợi sau cùng. Cả

hai cùng có quan điểm chính trị của kẻ ăn cắp ngựa. Chàng thì tin ở nền Cộng Hòa

như một hình thức chính phủ, nhưng nền Cộng Hòa phải thoát khỏi bước đường cùng

gặp phải khi cuộc nổi loạn dấy lên. Liệu đã có một dân tộc nào mà giai cấp lành đạo

thật sự là kẻ thù của nó như dân tộc này chưa ?

Kẻ thù của dân tộc. Đó chính là một từ ngữ phải tránh một sáo ngữ phải dứt bỏ.

Đó chính là hậu quả của cuộc chung chạ với Maria. Từ ít lâu nay, những ý tưởng

chính trị của chàng đã trở nên chật hẹp và công thức chẳng khác gì một tâm hồn mê

muội, và những từ ngữ như "kẻ thù của dân tộc" vẫn đến với chàng trong sự lười

biếng thụ động của chính chàng. Tất cả những sáo ngữ về cách mạng và lòng ái quốc,

tư tưởng chàng du nhập chúng mà không chỉ trích, luận bàn. Qủa thật là chúng đúng

đó, nhưng có điều là chàng làm quen với chúng một cách dễ dãi. Tuy nhiên, kể từ đêm

trước và từ buổi chiều nay, tinh thần chàng minh mẫn và thuần khiết hơn trước những

vấn đề đó. Lòng mê muội kể cũng kỳ cục. Để trở nên một người mê muội, người ta

tuyệt đối phải chắc chắn mình có lý, và không gì cho ta sự xác tín -tình cảm về sự hợp

lý của mình - bằng sự tiết dục. Sự tiết dục là kẻ thù của tà thuyết.

Ý tưởng này liệu có gây khó khăn cho người ta không ? Rất có thể là những

người cộng san đã vịn vào đó mà buộc tội khá nhiều người dân du mục. Khi người la

say rượu hay khi người ta phạm tội xác thịt hoặc tội ngoại tình, người ta khám phá sự

hư hỏng của mình ngay trong sự chuyển hoa linh động của niềm ùn giáo sĩ: đường lối

của đảng. Đả đảo hạng người phóng đãng, tội lỗi của Mayakovsky.

Nhưng Mayakovsky đã trở thành một ông thánh trở lại. Bởi vì ông đã chết và đã

được chôn cất, diều này đã hẳn như vậy rồi. Bây giờ thì thôi đừng nghĩ dông dài nữa.

Hãy nghĩ tới Maria.

Maria đã từng chốnu đối kịch liệt sự cuồng tín của chàng. Cho tới giờ phút này,

nàng không ảnh hưởng gì tới quyết định của chàng, nhưng chàng không muốn chết tí

nào. Chàng sẽ lấy làm vui sướng mà từ chối cái chết của một ông thánh hay mội kẻ tử

vì đạo. Chàng không vọng tới trận Thermopyles, chàng khôn*! thích làm một thứ

Horatius của bất luận một cây cầu nào, cũng không muốn làm một cậu bé Hòa Lan với

ngổn tay thọc vào trong một cái lỗ của con đê. Không. Chàng khoái được sống một

thời gian bên cạnh Maria. Chính đó là biểu tượng đơn sơ nhất của những gì chàng ao

ước. Chàng khoái sống với nàng trong một khoảng thời gian thật lâu dài, trong một

vĩnh cửu. Chàng không tin rằng còn có một "vĩnh cửu" cho chàng trên mặt đất này,

nhưng nếu có nó, chàng mong được sống trọn vẹn với nàng. Ta có thể tới khách sạn

và ghi tên ông tấn sĩ và bà Livingstone. Tại sao không ? Chàng nhủ thầm.

Tại sao không cưới nàng làm vợ ? Chàng nghĩ, chắc hẳn rồi, tôi sẽ cưới nàng.

Lúc đó, chúng lôi sẽ làm ông và bà Robert .ĩordan ở Sun Valley, Idaho. Hoặc Corpus

Christi, Texas, hoặc Biỉíe, Monlana.

Đàn bà Tây Ban Nha là những người vợ kỳ diệu. Tôi biết điều đó bởi vì tôi chưa

hề có vợ. Và khi tôi trở lại với công việc của tôi tại đại học, nàng sẽ là một bà vợ giáo

sư rất tốt, và bọn sinh viên Tây Ban Nha đến nhà vào buổi chiều để hút thuốc và bàn

thảo một cách tự do và bổ ích, về Queveđo, Lope de Vega, Galclos cùng những người

quá cố tuyệt vời khác. Maria có thể kể lại cho họ nghe chuyện những quân thập tự của

niềm tin đích thật mặc áo xanh, đã ngồi trên đầu nàng trong khi những người khác vặn

tay nàng, vén váy nàng lên và nhét vào họng nàng ra sao.

Tôi tự hỏi bằng cách nào Maria có thể làm' vừa lòng mọi người ở Missoula,

montana trong trường hợp tôi tìm lại được việc làm ở Missoula. Tôi giả dụ rằng hiện

tôi bị chụp cho một chiếc mũ đỏ và người ta sẽ liệt tôi vào một danh sách đen, mặc dù

đúng ra không ai biết được, không ai nói gì được. Họ không có bằng cớ gì về hành

tung của mọi người và ngoài ra cho dù người ta kể lại cho họ nghe về điều đó, họ

cũng không khi nào chịu tin. Giấy thông hành của tôi cỏ giá trị ở Tây Ban Nha trước

khí ban hành những điều luật mới.

Tôi không thể trở về trước mùa thu năm 37. Tôi bỏ đi vào mùa hè năm 36 và

thời gian nghỉ phép chỉ kéo dài trong một năm, và tôi không cần có mặt ở đó trước khi

mãn hạn kỳ vào năm tới. Từ bây giờ đến ngày đó, thì giờ hãy còn lâu. Không, tôi

không tin rằng mình phải lo lắng gì về công việc ở đại học. Mày chỉ cần tới đó vào

mùa thu và mọi việc sẽ êm xuôi. Hãy cố mà trở về kịp lóc đó.

Nhưng mà kỳ lạ thay, nếp sống mà mày đã kéo dài từ bấy lâu nay. Kỳ lạ một

cách nghiệt ngã ! Tây Ban Nha chính là công việc của mày, nghề nghiệp của mày, vậy

thì mày có mặt ở Tây Ban Nha là chuyện tự nhiên rồi. Mày đã làm việc suốt nhiều

mùa hè về những dự án xây cất và những công tác kiểm lâm liên quan tới việc làm

đường xá. Mày đã học cách sử dụng thuốc nổ và những công tác phá hoại của nó cũng

binh thường và tự nhiên cho mày không kém. Luôn luôn phải hối hả một chút, nhưng

mà lại bình thường.

Một khi đã chấp nhận ý tưởng về phá hoại dưới hình thức một vấn đề, người ta

không còn vấn đề gì nữa. Nhưng những công cuộc phá hoại luôn kèm theo những chi

tiết sẽ làm cho chúng trở nên phức tạp hơn mặc dù là người ta xem chúng nhẹ như

không. Chàng nhủ thầm, có một nỗ lực cố định để tạo những điều kiện tốt đẹp nhất

nhằm thực hiện những cuộc ám sát khi kèm theo những công tác phá hoại. Liệu những

danh từ dao to búa lớn có biện giải được những hành động đó không ? Liệu chúng có

giúp người ta giết người êm ái hơn không ? Chàng nhủ thầm, nếu mày cần một ý kiến,

thì đây, mày làm được việc một cách dễ dàng. Và mày thành cái gì, hay đúng hơn,

điều gì phù hợp với mày khi mày rời khỏi công tác của phe Cộng Hòa ? Điều đó có vẻ

như bấp bênh vô cùng, chàng nghĩ. Nhưng mà có lẽ mày sẽ thoát khỏi tất cả những kỷ

niệm này khi mày ném chúng lên giấy trắng. Mày có một quyển sách hay để viết, nếu

mày có khả năng viết. Hay hơn quyển sách kia nhiều.

Nhưng trong khi chờ đợi, tất cả cuộc sống mà mày có được trong hiện tại cũng

như trong lương lai, đó chính là ngày hôm nay, là buổi chiều nay, là ngày mai, hôm

nay, chiều nay, ngày mai và mãi mãi như thế đến vô tận ( hi vọng như thế). Vậy thì tối

hơn hết là mày nên đón lấy cơ hội xảy đến và cảm ơn số phận. Và nếu vụ cây cầu

không diễn ra tốt đẹp thì sao ?... Hiện bây giờ thì nó khơi mào không sáng sủa gì lắm.

Nhưng mà Ma ria thì ngoan ngoãn. Có phải không ? Ờ ! Chàng nghĩ, nàng đã

ngoan ngoãn với mày biết bao. Đó có thể là điều mà cuộc đời dành riêng cho tôi. Có

thể đó chính là cuộc sống của tôi và thay vì kéo dài sáu mươi năm, nó chỉ kéo dài

(rong sáu mươi tiếng đồng hồ. Hay đúng ra là bảy mươi hai tiếng đồng lui, trong ba

ngày.

Tôi nghĩ người ta có thể sống trọn một đời người trong bảy mươi tiếng đồng hồ

cũng như trong bay mươi năm... với điều kiện là đời sống bạn phải tràn đầy cho tới

lúc khởi đầu của bảy mươi tiếng đồng hồ và lúc người ta đã đạt tới một tuổi nào đổ.

Bậy thật ! Chàng nghĩ. Cứ nghĩ ngợi một mình như vầy thì ngu xuẩn thật. Đúng

là ngu xuẩn. có thể nó không đến nỗi ngu xuẩn đến như vậy, nghĩ cho cùng. Thôi

được, để rồi xem lần cuối cùng tôi ngủ với một đứa con gái, là ở Madrid. Không, ở

Escurial kia. Tôi đã thức giấc vào nửa đêm, tưởng người đang nằm bên cạnh mình là

một người nào khác, và tôi đã vui sướng tới điên khùng lên, mãi cho tới lúc nhận ra

mình lầm, lần đó tôi đã chỉ khơi dậy một đống tro tàn. Nhưng mà ngoài việc làm đó ra

thì đêm đó không đến nỗi tệ lắm. Lần trước nữa là ở Madrid. Tôi đã tự dối mình một

chút và trong những trò nghịch ngợm, tôi đã lai rai đùa giỡn về lai lịch cô gái. Rốt

cuộc thì luôn luôn vẫn là cùng một câu chuyện. Tôi không phải là kẻ ngưỡng mộ đầy

lãng mạn trước người đàn bà Tây Ban Nha và ngoài ra ở bất luận nước nào, tôi cũng

vẫn luôn xem một trò qua đường là một trò qua đường. Thế mà tôi đã yêu Maria đến

độ khi gần nàng, tôi cảm thấy mình chết thật sự tôi không bao giờ tin rằng chuyện đó

có thể xảy ra được.

Bởi vậy cuộc đời mày có thể đổi bảy mươi năm lấy bảy mươi tiếng đồng hồ: giờ

đây tôi đã sở hữu được kho vàng quí báu đó và tôi may mắn được chiêm ngưỡng nó.

Nếu không có được những cái "lâu bền", những cái "trọn đời", những cái "từ đây mãi

mãi về sau", mà chỉ có cái "bây giờ", thì phải tạ ơn chính cái giây phút hiện tại này và

tôi lấy làm sung sướng với nó. Bây giờ : ahora, now, heule. Bây giờ, một từ ngữ kỳ

cục dùng chỉ cả một thế giới và một đời sống. Đêm nay: tonight, esta noche, heute

avend. Life và wife. Đời sống và đàn bà. Vie, Marie, mari. Đời sống, Marie, chồng.

Không, nghe không ổn à ? Để chỉ "bây giờ", có tiếng now và frau, nhưng cũng không

chứng tỏ được gì. Như tiếng chết, người ta có mort, muerto và tot. Trong ba tiếng này

chỉ có tiếng tot là diễn tả ý tưởng về cái chết đúng hơn hết. Chiến tranh: guerre, guerra

và krieg. Tiếng krieg nghe gần gũi với ý nghĩa chiến tranh nhiều nhất. Không đúng

hay sao ? Hay chính vì chàng biết tiếng Đức ít hơn những tiếng khác ? Còn những

tiếng chỉ người tình nhưchérie, sweethart, prenda và schatz, những tiếng đó, chàng

luôn đổi chúng ra "Maria" cả. Maria, đúng đó là một cái lên.

Được lắm, chúng nhập vào cái tên đó hết thảy và bây giờ thì không còn chi dài

dòng nữa. Qua thật là vụ cây cầu càng lúc càng cho thấy những triệu chứng xấu. Đó là

một công tác mà người ta không thể thực hiện một cách tốt đẹp vào buổi sáng. Những

vị trí không giữ nổi phải đợi đến đêm mới rời bỏ được. Người ta cố gắng kéo dài cho

tới đêm. Công việc sẽ êm xuôi với điều kiện là người ta có thể đợi tới đêm để rút lui.

Còn phải cầm cự từ sáng đến chiều... Và ông già ngốc Sordo đáng thương kia nữa,

ông ta bỏ cái thứ tiếng Tây Ban Nha bối để giải thích cặn kẽ cho chàng nghe. Như thể

chàng đã không từng sống với ý nghĩ cố định đầy khổ tâm đó kể từ đêm hôm kia

chẳng khác gì một thứ bột khó tiêu lúc nào cũng làm cho ta nặng bụng.

Chuyện kỳ cục ! Trọn đời người ta tin rằng những cuộc phiêu lưu tương tự có

một ỹ nghĩa gì khá ghê gớm, và sau cùng chúng không có một ý nghĩa gì cả. Chúng

không hề có một ý nghĩa nào. Người ta tưởng sẽ không đời nào biết tới điều đó. Để rồi

trong một công việc đầy phiền toái như việc phối hợp hai nhóm du kích quân vô tích

sự để giúp người ta giựt sập một cây cầu trong những điều kiện khó khăn vượt bậc, để

đập tan một cuộc phản công có thể đã khởi sự rồi, người ta sa ngã trước một người

đàn bà như con bé Maria kia. Qua thật việc đó phải đến với mày. Mày đã yêu nàng hơi

muộn, chỉ có thế thôi.

Vậy, một người đàn bà như Pilar kia đã thật sự đẩy con bé đó vào trong túi của

màv và cái gì xảy ra ? Phải, cái gì xảy ra ? Cái gì xảy ra ? Hãy vui lòng nói cái gì xảy

ra. ừ. Đó là điều xảy ra. Đó chính thật là điều đã xảy ra.

Mày dối lòng với chính mày khi cho rằng Pilar đã đẩy con bé kia vào túi ngủ của

mày. May đừnií gắng sức chối bỏ mọi sự hay bôi bẩn mọi sự làm chi cho thất công.

May đã bị hối hồn ngay khi mày thấy mặt Maria. Lần đầu tiên khi nàng mở miệng và

nói chuyện với mày, thì đâu đó đã xong xuôi rồi, và mày biết như thế rồi mà. Giờ đây

khi mày đã nắm giữ được kho vàng quí báu trong tay rồi, mày không có lý do gì để

trách cứ, viện lẽ rằng mày đã chưa hề nghĩ tới một ngày nào đó mày chiếm hữu được

nó. Mày thừa hiểu rằng mày chiếm hữu lấy nó và thừa hiểu ngay từ cái phút đầu tiên

khi mày nhìn Maria, từ lúc nàng nghiêng người bước ra ngoài, tay bưng mâm sắt nọ.

Điều đó đã hốt hồn mày ngay từ cái khoảnh khắc nọ và mày biólt rõ như thế, vậy

thì tại sao mày lại dối lòng ? Trong bụng mày, mày tự cảm thấy kỳ lạ mỗi khi mày

nhìn nàng hay nàng nhìn mày. Vậy thi tại sao lại không chịu nhìn nhận chớ ? Được

rồi. Tốt lắm. Tôi nhìn nhận nó rồi đó. Và đến lượt Pilar khi đẩy nàng tới trước mặt

mày, Pilar chỉ xử sự như một người đàn bà thông minh: bà ta đã săn sóc con bé kia

khá chu đáo và bà ta thừa biết chuyện gi đang xảy ra ngay từ cái phút con bé trở vào

hang với cái mâm đồ ăn.

Sau đó, bà ta đã biến mọi sự thành dễ dàng. Bà ta đã biến mọi sự thành đễ dàng

để rồi mới xảy ra cái buổi chiều hôm qua và cái buổi xế chiều hôm nay. Bà ta vãn

minh hơn mày quá đỗi và bà ta biết rõ giá trị của thời gian. Bà ta đã chuồn êm bơi vì

bà ta không muốn kẻ khác phải mất mát điều bà ta từng mất mát. Sau đó, vì ý tưởng

về sự mất mát lại vượt quá sự chịu đựng của mình, bà ta muốn thối lui vào trong vùng

đồi núi kia, và tôi nghĩ rằng chúng tôi đã không giúp đỡ bà ta được gì.

Vậy thì đó là điều đang xảy đến và điều đã xảy đến cho mày. Mày có thể chấp

nhận nó một cách dễ dàng. Mày sẽ không bao giờ nua trải qua hai đêm trọn với nàng.

Không có được một đời để sống trọn, không có được một đời để sống chung với nhau,

không có những điều rất bình thường của tất cả mọi người, không có gì ráo trọi. Chỉ

có một đêm đã sống qua, một lần vào buổi chiều nay, một đêm sắp tới, có thể. Không

đâu, ngài ạ.

Mày không có thì giờ, không có hạnh phúc, không có lạc thú, không có con cái,

không có nhà cửa, không có buồng tắm, không có đồ pyjama sạch sẽ, không có tờ

nhại báo buổi sáng, không có phút thức giấc rực lên với ý nghĩ rang nàng còn nằm bên

cạnh đó và minh không cô đơn. Không có, không cố tất cả những thứ đó đâu. Nhưng

bởi Vỉ đó là tất cả những điều mày ước ao trong cuộc sống, bơi vì may đã lìm thấy nó,

tại sao lại không có đươc đến một đêm, chỉ một đêm thôi, nằm trên giường với những

gối chăn ấm cúng ?

Mày luôn đòi hỏi cái không thể xảy ra được. Mày luôn đòi hỏi chính cái vô khả

hữu. Vậy nếu mày yêu con bé đó như mày đã từng thứ thật, tốt hơn hết là mày nên yêu

nó như vũ bão và hãy đạt tron cho bằng được những gì mày thiếu hụi trong thời gian

và trong sự liên tục. Mày nghe chưa đó ? ngày xưa người ta phó thác vào đó cả một

đời người. Và giờ đây khi mày đã tìm thấy nó, nếu mày có dược hai đêm, mày tự hỏi

sự may mắn từ đâu mà có. Hai đêm. Hai đỏm để thương yêu, ngưỡng vọng và trìu

mến. Trong cái tốt đẹp nhất và trốn à; cái tồi tệ nhất. Trong bịnh hoạn và sức khỏe.

Cho đến khi nào cái chết ngăn cách chúng ta. Trong hai đêm. Có hơn thế nữa, và bây

giờ thì mày hãy dứt bỏ những ý tưởng đó đi. Bây giờ mày có thể ngừng suy nghĩ. Cái

đó không tốt cho mày đâu. Đừng làm điều gì không tốt cho mày. Đừng làm điều gì

không tốt cho mày. Và chắc chắn là cái đó không tốt rồi.

("Chuông nguyện hồn ai" - Nxb văn học - 259-270)

Hemingway ở Việt Nam

Evgheni Evtushenko

Tôi đâu có đủ quyền xét đoán công tâm

Khi Anh sống, cũng như khi Anh chết,

Nhưng có một điều, khi tới đây, tôi biết rằng

Anh không đi chệch hướng bao giờ.

Đối với nhà văn

Không chịu bán mình

Thì tự bắn vào đầu

Cũng không là tự tử !

Tự tử, đối với đời nghệ sĩ

Là giữ mình không trong sạch vẹn toàn,

Đã chịu bán tài năng thì đắt, rẻ mặc lòng

Đều từ đó hoá thành vô sỉ.

Tự tử, đối với đời nghệ sĩ

Đâu phải viên đạn chì, hay một nút dây thừng,

Bao kẻ sống phây phây, mặt mũi đỏ bừng

Nhai thịt gà, uống rượu vang ừng ực,

Nhưng khi ngồi vào bàn viết

Thì té ra: họ tự tử lâu rồi

... Anh là người trung thực nhất đời

Từ trận đánh trở về, mang nỗi đau cháy bỏng

Anh lên đạn khẩu Willcheste cổ lỗ

Chỉ bắn nỗi đau kia

đâu bắn tấm lòng mình ?

( Bản dịch tiếng Việt của nhà thơ Bằng Việt)