LUẬN VĂN: Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở tỉnh Tiền Giang
lượt xem 123
download
Chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật (GDPL) đã trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, pháp luật dù hoàn thiện đến đâu cũng không thể điều chỉnh hết mọi quan hệ xã hội. Do đó, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của mỗi người dựa trên lòng tự trọng, danh dự, phẩm giá, lương tâm - biểu hiện tập...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở tỉnh Tiền Giang
- LUẬN VĂN: Kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở tỉnh Tiền Giang
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chuyển sang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật (GDPL) đã trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, pháp luật dù hoàn thiện đến đâu cũng không thể điều chỉnh hết mọi quan hệ xã hội. Do đó, ý thức tự giác chấp hành pháp luật của mỗi người dựa trên lòng tự trọng, danh dự, phẩm giá, lương tâm - biểu hiện tập trung của một nhân cách đạo đức là những yếu tố điều chỉnh xã hội không gì có thể thay thế được. Vì vậy mà GDPL và giáo dục đạo đức (GDĐĐ) phải song hành đồng thời phải có sự kết hợp với nhau là vấn đề hết sức cần thiết trong tổ chức quản lý xã hội cũng như trong hoạt động giáo dục. Học sinh nói chung, học sinh phổ thông trung học (PTTH) nói riêng là lứa tuổi đang hình thành và phát triển nhân cách. Nếu được giáo dục đúng hướng các em sẽ hình thành và phát triển những phẩm chất tích cực; ngược lại sẽ trở nên dị dạng và méo mó về nhân cách. Ngày nay, trên cơ sở coi trọng giáo dục kiến thức văn hóa, việc GDĐĐ, giáo dục ý thức công dân thông qua GDPL và GDĐĐ ở trường phổ thông chính là một trong những phương thức cơ bản nhằm đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo của Đảng và Nhà nước. Kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh ở các trường phổ thông là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình giáo dục ở Việt Nam. Cùng với những kiến thức văn hóa trên các lĩnh vực, những hiểu biết cơ bản về pháp luật và các giá trị đạo đức mà các em được lĩnh hội trong quá trình học tập, tu dưỡng là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo sự phát triển toàn diện của thế hệ công dân tương lai của đất nước, là hành trang để thế hệ trẻ bước vào đời. Những năm qua, cùng với việc tuyên truyền, GDPL gắn với cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” cho mọi tầng lớp nhân dân, việc GDPL kết hợp với GDĐĐ trong các trường phổ thông cũng được quan tâm đổi mới cả về nội dung, hình thức, ph ương pháp, làm cho hoạt động này có sự chuyển biến đáng
- kể về chất. Tuy nhiên, có một thời gian khá dài, giáo dục chỉ mới chú trọng truyền thụ cho thế hệ trẻ những kiến thức khoa học. Sự thiếu đồng bộ trong công tác giáo dục - “thiên về dạy chữ, nhẹ về dạy người” đã dẫn đến hậu quả là tình trạng xuống cấp về đạo đức, vi phạm pháp luật, tội phạm ở lớp trẻ xảy ra nghiêm trọng, chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người phạm pháp và đang có x u hướng gia tăng. Do đó, trong tình hình hiện nay, kết hợp GDPL và GD ĐĐ cho người chưa thành niên nói chung, cho học sinh nói riêng được đặt ra như một tất yếu khách quan. Ở Tiền Giang những năm gần đây, GDPL cho học sinh nói chung, học sinh PTTH nói riêng đã được quan tâm và tiến hành song song, kết hợp với GDĐĐ và huy động được sự tham gia của nhiều lực lượng XH. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc giáo dục ý thức pháp luật, ý thức đạo đức cho học sinh chưa được chú trọng đúng mức; sự liên kết giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục chưa chặt chẽ; tình trạng học sinh vi phạm nội quy, kỷ luật trường học - một biểu hiện của vi phạm đạo đức có xu hướng gia tăng, nhất là một bộ phận học sinh đã vi phạm pháp luật với tính chất ngày càng phức tạp. Thực trạng trên đã đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cả về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải nghiên cứu, giải quyết. Tuy nhiên, có thể khẳng định cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về kết hợp GDPL và GDĐĐ cho đối tượng học sinh, tạo cơ sở khoa học để vận dụng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn trong công tác giáo dục. Đây cũng là lý do tác giả chọn đề tài: “Kết hợp giáo dục pháp luật v à giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học ở tỉnh Tiền Giang” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Kết hợp GDPL và GDĐĐ nói chung và cho các đối tượng giáo dục cụ thể là một vấn đề tuy không mới nhưng luôn mang tính thời sự nên được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về GDPL và GDĐĐ dưới nhiều góc độ khác nhau.
- - Nhóm đề tài nghiên cứu về sự khác biệt và tương đồng giữa đạo đức và pháp luật cũng như sự tác động qua lại giữa chúng khi điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ở góc độ này có một số công trình nghiên cứu sau: Hoàng Thị Kim Quế (chủ nhiệm- 2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ. Nguyễn Thúy Hoa (2005), Kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Ngoài ra, cũng nghiên cứu về vấn đề trên nhưng trong phạm vi tư tưởng Hồ Chí Minh có các công trình khoa học sau: Lương Hồng Quang (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội, Luật văn thạc sĩ luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Hoàng Thị Kim Quế (2002), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Trần Nghị (2004), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. - Nhóm đề tài nghiên cứu về GDPL dưới góc độ khái quát chung và cho từng đối tượng cụ thể gồm có các công trình sau: Trần Văn Trầm (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh Bình Định- Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Đình Đặng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Đình Đặng Lục (2008), Giáo dục pháp luật trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trần Thị Sáu (2008), Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.
- - Nhóm đề tài nghiên cứu về GDĐĐ cho đối tượng cụ thể dưới góc độ triết học gồm có: Trần Minh Đoàn (2001), Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Thanh Hà (2007), Giáo dục giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. - Nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề GDĐĐ nói chung và GDĐĐ cho học sinh nói riêng được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm có: Đỗ Thắng (2003), Phương châm, phương pháp giáo dục thế hệ trẻ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí giáo dục. Võ Văn Nam (2004), Suy nghĩ từ những lời dạy của Bác đối với việc trồng người, Tạp chí giáo dục. Nguyễn Đức Hòa (2008), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường phổ thông, Tạp chí triết học. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên là nguồn tư liệu quý báu và quan trọng để tác giả tham khảo, định hướng cho việc nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu việc kết họp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang như đề tài tác giả đã lựa chọn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH làm cơ sở đề xuất và luận chứng các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác này. - Phạm vi nghiên cứu: luận văn không đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về GDPL, GDĐĐ mà chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về kết hợp GDPL và GDĐĐ và thực tiễn kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang từ năm học 2003 - 2004 đến năm học 2007- 2008. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH, đánh giá thực trạng và luận chứng các giải pháp kết hợp có hiệu quả GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang. Phù hợp với mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: - Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về GDPL và GDĐĐ; kết hợp GDPL và GDĐĐ; phân tích tính tất yếu kết hợp GDPL và GDĐĐ; làm rõ về mặt chủ thể, nội dung, hình thức, phương pháp và yêu cầu kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở Việt Nam hiện nay. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang để rút ra những ưu, nhược điểm cũng như tìm ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế của thực trạng đó. - Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn công tác này. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức; quan điểm, chủ trương của Đảng về GDPL, GDĐĐ mới và những tri thức lý luận của các bộ môn khoa học chuyên ngành khác liên quan như đạo đức học, tâm lý học, giáo dục học. - Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp của các bộ môn khoa học khác như phương pháp thống kê, điều tra xã hội học. Hệ thống các phương pháp trên được sử dụng cụ thể như sau: Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để giải quyết nhiệm vụ đặt ra ở cả hai chương, trong đó Chương 1 chủ yếu vận dụng phương pháp phân tích và tổng hợp; ở Chương 2, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể là phương pháp được sử dụng chủ yếu để đảm bảo đánh giá thực trạng một cách khách quan và toàn diện.
- Ngoài ra, các phương pháp thống kê, điều tra xã hội học (phiếu điều tra, phỏng vấn trực tiếp) cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu, đảm bảo sự gắn kết và tính liên thông của toàn bộ nội dung luận văn. 6. Đóng góp mới của luận văn Từ kết quả đạt được, luận văn có những điểm mới về mặt khoa học sau: - Luận văn lần đầu tiên đưa ra những luận cứ khoa học để làm sáng tỏ một cách hệ thống vấn đề kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở Việt Nam hiện nay. Những kết quả nghiên cứu của đề tài là những bổ sung vào lý luận pháp luật vấn đề kết hợp GDPL và GDĐĐ trong quản lý xã hội nói chung, trong hoạt động giáo dục nói riêng, góp phần nâng cao nhận thức lý luận về ý nghĩa, vai trò của sự kết hợp đó. - Phân tích làm rõ những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở Tiền Giang. - Đề xuất và luận chứng một cách đồng bộ các giải pháp kết hợp có hiệu quả GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH ở tỉnh Tiền Giang hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG TRUNG HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NGUYÊN TẮC VÀ TÍNH TẤT YẾU KẾT HỢP GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG TRUNG HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1.1. Khái quát những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức 1.1.1.1. Về giáo dục pháp luật - Khái niệm giáo dục pháp luật Khi pháp luật ra đời thì đồng thời cũng phát sinh nhu cầu GDPL. GDPL với tư cách là một hoạt động xã hội đã xuất hiện từ rất sớm. Ở Việt Nam cho đến nay những vấn đề lý luận về GDPL nói chung và khái niệm GDPL nói riêng vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy, khái niệm GDPL được tiếp cận từ khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm với nghĩa rộng và hẹp khác nhau. Tuy nhiên, dù tiếp cận theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, GDPL vẫn luôn là một hoạt động mang đầy đủ những tính chất chung của giáo dục, song nó có đặc điểm riêng về mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp và chủ thể. Trong khoa học pháp lý, GDPL được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục, theo đó, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có mục đích tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành. - Môc ®Ých cña giáo dục pháp luật Cũng như các dạng hoạt động giáo dục khác, GDPL có mục đích riêng của nó. Việc xác định đúng mục đích GDPL có ý nghĩa quan trọng vì trong đa số các trường hợp, nội dung, hình thức, phương pháp GDPL phụ thuộc vào mục đích của nó.
- + Mục đích nhận thức: GDPL góp phần hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng tri thức pháp luật của công dâ n. Tri thức pháp luật có vai trò quan trọng đối với việc hình thành tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Tri thức pháp luật giúp con người đánh giá, kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay, khi hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Đây cũng là yêu cầu của việc hoàn thiện c ơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng, dân chủ, bình đẳng, kỷ cương và trật tự. “Tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh, thống nhất, công bằ ng” [14, tr.50]. + Mục đích cảm xúc: GDPL nhằm hình thành tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Có tri thức pháp luật mà không có tình cảm, sự tôn trọng và lòng tin đối với pháp luật thì con người rất dễ hành động lệch khỏi chuẩn mực pháp luật. Ngược lại, lòng tin càng vững vàng thì hành vi càng có khả năng đúng đắn, hợp pháp. Như vậy, tình cảm, thái độ đúng đắn đối với pháp luật bao giờ cũng là sự biểu hiện và là thước đo lòng tin vào pháp luật của mỗi người. Lòng tin vào tính công bằng của pháp luật sẽ hướng dẫn hành vi hợp pháp. Nội hàm của mục đích cảm xúc là giáo dục tình cảm công bằng, ý thức trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật ở mọi lúc, mọi nơi; phê phán, lên án những biểu hiện coi thường pháp luật, các hành vi vi phạm pháp luật đồng thời ủng hộ và tích cực tham gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. + Mục đích hành vi: GDPL hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật. Có thể nói kết quả cuối cùng mà hoạt động GDPL hướng tới là thói quen xử sự theo pháp luật. Thiếu mục đích này thì hoạt động GDPL trở nên vô nghĩa. Có nhiều yếu tố tác động để hình thành hành vi của con người nhưng có thể nói GDPL là con đường cơ bản. Hoạt động này sẽ cung cấp những tri thức pháp luật, giáo dục lòng tin sâu sắc, dẫn đến việc tuân theo pháp luật một cách tự nguyện. Đó là yếu tố quan trọng để hình thành động cơ và hành vi hợp pháp. Để đạt được điều này, quá trình GDPL phải sử dụng nhiều hình thức, phương pháp, phải kiên trì và thường xuyên.
- Việc phân chia các mục đích GDPL như trên chỉ mang tính tương đối vì giữa chúng có mối quan hệ kế tiếp, đan xen qua lại và thống nhất chặt chẽ với nhau. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác; từ tính tự giác đến tính tích cực; từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược lại, khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật càng được củng cố. Do đó khi tiến hành GDPL phải hướng vào cả ba mục đích trên. Việc xác định mục đích GDPL có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn GDPL bởi việc xác định đúng tạo điều kiện đảm bảo chất lượng tương ứng của hoạt động này. - Vai trò của giáo dục pháp luật + Để phát huy vai trò của pháp luật trên thực tế, tạo lập mối quan hệ hài hòa giữa nhà nước và công dân, quyền dân chủ và tự do của công dân được tôn trọng và thực thi, bộ máy nhà nước được tổ chức và vận hành có hiệu quả thì điều kiện tiên quyết là phải có sự hiện diện của pháp luật ở mọi nơi; văn hóa pháp lý của công dân được nâng cao, nghĩa là phải tiến hành GDPL. GDPL là cầu nối quan trọng để đưa pháp luật vào đời sống bởi nếu pháp luật được ban hành dù tốt đến đâu chăng nữa nhưng nếu không được triển khai thực hiện tới mọi người dân thông qua GDPL thì không thể phát huy được hiệu lực, hiệu quả. + Nếu pháp luật là phương tiện chủ yếu nhà nước sử dụng để quản lý xã hội, phương tiện để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì GDPL có vai trò quan trọng trong việc trợ giúp các cơ quan, cán bộ công chức và mọi công dân biết cách sử dụng đúng đắn pháp luật trong công việc cũng như trong cuộc sống hằng ngày. GDPL làm cho mỗi người ý thức sâu sắc quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. + Cùng với giáo dục chính trị, tư tưởng, GDĐĐ, GDPL tạo ra những khả năng và nhân tố thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thông qua việc củng cố ở những người làm công tác quản lý, ở mọi công dân những phẩm chất tích cực trong ý thức cũng như hành vi pháp lý, tạo ra ở họ khả năng phản ứng và không đồng tình, không tiếp nhận các hành vi tiêu cực, chống đối pháp luật. Vì vậy, trong quá trình
- cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền thì GDPL càng có ý nghĩa quan trọng. + GDPL chính là tăng cường khả năng tự bảo vệ của chủ thể trước những tác động bất thường của cuộc sống. Sự hiểu biết sâu về pháp luật là nhân tố đặc biệt quan trọng, giúp cho chủ thể nhân cách tự ý thức được trách nhiệm pháp lý đối với hành vi của mình…Qua đó, tạo cho chủ thể khả năng kiềm chế cao, biết lựa chọn phương thức ứng xử thích hợp trước mọi tình huống xảy ra và tránh cho chủ thể nhân cách bị rơi vào hoàn cảnh phạm tội không tự giác [28, tr.42- 43]. + Đối với thế hệ trẻ, GDPL được tiến hành sớm sẽ giúp họ có những nhận thức cơ bản về pháp luật, nâng cao khả năng tư duy pháp lý, tránh được hành động bột phát, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. GDPL cho học sinh là biện pháp tích cực để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật ở người chưa thành niên. GDPL được tiến hành thường xuyên, sâu rộng là yếu tố quan trọng góp phần hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. 1.1.1.2. Về giáo dục đạo đức - Khái niệm giáo dục đạo đức Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống những quan niệm về cái thiện, cái ác; cái tốt, cái xấu; về lương tâm, trách nhiệm; hạnh phúc, lẽ sống; sự công bằng…và những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi, ứng xử trong quan hệ giữa con người với nhau và với xã hội. Các chuẩn mực và quy tắc đó được hình thành khách quan do nhu cầu cuộc sống và sự phát triển của xã hội. Đạo đức trong mỗi con người không phải tự nhiên có được mà hình thành trên cơ sở tiếp nhận các chuẩn mực đạo đức từ xã hội và thông qua quá trình tu dưỡng, rèn luyện của bản thân - tức thông qua con đường tự giáo dục. Con người sinh ra không phải “bản tính thiện” hay “bản tính ác” mà như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Thiện ác phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên” Như vậy, có thể hiểu: Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích đến đối tượng giáo dục nhằm giúp cho nhân cách mỗi người phát triển đúng đắn, có hành vi ứng
- xử đúng mực trong mối quan hệ cá nhân với xã hội, cá nhân với mọi người xung quanh và của cá nhân với chính mình. - Mục đích của giáo dục đạo đức + Trước hết, GDĐĐ nhằm hình thành những hiểu biết về các giá trị, chuẩn mực đạo đức và ý nghĩa của việc thực hiện các chuẩn mực đó. Sự hiểu biết về các chuẩn mực đạo đức là sự nhận thức về thiện - ác, tốt - xấu, đúng - sai, về cách ứng xử. Nếu thiếu những tri thức này con người sẽ không phân biệt được đâu là tốt, xấu, đâu là thiện, ác…và vì vậy hành động của họ dễ dẫn đến sai lầm, bởi lẽ người ta chỉ hành động đúng trong chừng mực hiểu biết chính xác. + GDĐĐ góp phần hình thành tình cảm đạo đức như lòng yêu thương, tôn trọng, niềm tin vào con người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu… Tình c ảm đạo đức là một đặc trưng mang tính bản chất của con người nói chung và nhân cách đạo đ ức nói riêng. Tình cảm đạo đ ức là một bộ phận của hệ thống tình cảm chung của con ng ười. Tình cảm đ ạo đức biểu hiện ra nh ư là nh ững phản ứng có đ iều kiện của tình cảm con ng ười đ ối với những hiện tượng đ ạo đ ức. N gười ta đồng tình, ngưỡng mộ trước hành động mang tính thiện; tức giận, c ăm phẫn tr ước những hành vi độc ác… Đó vừa là biểu hiện khả năng nhận thức, khả năng đánh giá hành vi đạo đ ức, vừa là sự biểu hiện xu thế phát triển của nhân cách đạo đ ức theo h ướng tích cực ở mỗi chủ thể. Bồi d ưỡng tình cảm đ ạo đ ức có một ý n ghĩa đặc biệt qu an tr ọng trong xây dựng nhân cách đạo đức, xây dựng con người mớ i. “Nói rèn luyện con người trước hết là nói giáo dục lòng nhân ái cho con người, vì lòng th ương người là đạo lý cuộc sống, là đạo lý làm người” [18, tr.29]. Trong tình cảm đạo đức, niềm tin là cơ sở quan trọng để xây dựng một nhân cách đạo đức tốt. Niềm tin là động lực quan trọng để thúc đẩy và quy định hành động của mỗi người vì niềm tin là cơ sở đem lại cho chúng ta một nhận thức, một tâm trạng tốt xấu, thiện, ác…trước khi hành động. Khi có niềm tin trong sáng, con người hoạt động tích cực, hướng thiện hơn, tin tưởng vào quyết định cho mỗi hành vi mà mình thực hiện. Niềm tin là điều mà nhân cách đạo đức cần phải có để thực hiện một hành vi đạo đức.
- + GDĐĐ giúp con người biết lựa chọn và thực hiện hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn mực đạo đức trong những tình huống cụ thể của cuộc sống. Đạo đức khi đã trở thành chuẩn mực xã hội và quy tắc xử sự chung, thông qua giáo dục, dư luận xã hội và niềm tin nội tâm, nó sẽ điều chỉnh hành vi con người cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội. Sự điều chỉnh này nhiều khi còn mạnh mẽ và hiệu quả hơn các phương tiện quản lý khác [44, tr.10]. Có thể nói kết quả cuối cùng mà hoạt động GDĐĐ hướng tới là thói quen xử sự theo các chuẩn mực đạo đức đã được cộng đồng thừa nhận. Xét đến cùng, các mục đích trên đều nhằm phục vụ cho mục đích hành vi. Thiếu mục đích này thì hoạt động giáo dục, rèn luyện đạo đức trở nên vô nghĩa. - Vai trò của giáo dục đạo đức Hiện nay, GDĐĐ được nhiều nước coi là khâu quan trọng nhất tạo ra bộ mặt nhân cách của thế hệ trẻ nói riêng, của con người thời kỳ văn minh hậu công nghiệp nói chung. GDĐĐ là yếu tố cơ bản tạo ra tâm lực của cá nhân và cùng với các quá trình giáo dục khác khai thác nguồn lực con người - tài nguyên vô tận vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Có thể đề cập vai trò cụ thể của GDĐĐ như sau: + GDĐĐ có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, lối sống. Đạo đức là những chuẩn mực để con người rèn luyện, tu dưỡng nhân cách; là những quan điểm, quan niệm, tư tưởng về đạo lý làm người, là “nguyên tắc sống chủ yếu của con người” [61, tr.13]. Không có đạo đức, người ta vẫn có thể là một nhà chuyên môn giỏi nhưng không thể là một con người hoàn hảo như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không làm lợi gì cho loài người [34, tr.172]. Nhờ có đạo đức, mỗi người tự xác định được vị trí, vai trò của mình trong xã hội để từ đó có những hành vi, xử sự cho phù hợp với những chuẩn mực chung của xã hội, đảm bảo hài hòa lợi ích cá nhân trong mối quan hệ với lợi ích của cộng đồng.
- + GDĐĐ còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố và duy trì, ổn định xã hội. Xã hội nguyên thủy chưa có pháp luật, ở đó đạo đức là công cụ quan trọng bậc nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ cho xã hội ổn định, trật tự. Trong xã hội có giai cấp, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật không phải là công cụ duy nhất, công cụ vạn năng. Ngoài pháp luật còn có những công cụ điều chỉnh khác như đạo đức, tín điều tôn giáo, tập quán, quy định của các tổ chức xã hội…trong đó đạo đức là công cụ quan trọng, thích ứng được với việc điều chỉnh mọi quan hệ, mọi đối tượng trong xã hội. Đạo đức điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội từ giản đơn đến phức tạp, nhạy cảm, từ hẹp đến rộng, từ biểu hiện bằng hành vi cho đến những suy nghĩ, tư tưởng lẩn khuất bên trong mỗi người…Đây là những quan hệ xã hội mà pháp luật và các công cụ khác khó có thể can thiệp, thậm chí nhiều khi sự can thiệp của pháp luật chỉ đem đến kết quả ngược lại. + GDĐĐ còn ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển tài năng. Tài năng của con người muốn phát triển phải dựa trên sự phát triển của nhân cách đạo đức. Không có được những phẩm chất, giá trị đạo đức làm nền tảng, tài năng sẽ rất khó phát triển hoặc phát triển một cách méo mó, lệch lạc, thậm chí còn có thể trở thành tội ác, phản đạo đức. Khi mỗi người có được nhân cách đạo đức tốt, lối ứng xử đúng mực do GDĐĐ mang lại, thì đó là cơ sở cho tài năng phát triển. Một người có lòng yêu nước thiết tha, có lý tưởng, ước mơ, hoài bão lớn, sống hòa mình với mọi người, họ sẽ là người cần cù trong học tập, nghiên cứu khoa học, hăng hái trong lao động, nhiệt tình trong công tác, có nhiều đóng góp cho xã hội. + GDĐĐ còn có vai trò quan trọng trong trường hợp pháp luật chưa hoàn thiện, còn nhiều chỗ trống. Bởi vì, nhờ có đạo đức, người ta sẽ biết kiềm chế, không lợi dụng khe hở của pháp luật để thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi tuy chưa phải là trái pháp luật (vì chưa có luật điều chỉnh) nhưng không phù hợp với những chuẩn mực đạo đức. 1.1.1.3. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức Về lý luận cũng như thực tiễn, GDPL và GDĐĐ luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Điều đó được quy định khách quan bởi mối quan hệ hữu cơ giữa pháp luật và đạo đức. Trước khi nhà nước và pháp luật ra đời, xã hội đã được điều chỉnh bằng các quy
- phạm đạo đức. Khi pháp luật trở thành phương tiện chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội, thì đạo đức vẫn giữ một vai trò quan trọng và không thể thiếu trong điều chỉnh hành vi con người. Chỉ với sự đảm bảo bằng quyền lực nhà nước thôi thì pháp luật khó đi vào cuộc sống. Trước tiên không phải là cưỡng chế mà chính đạo đức và các quy phạm xã hội khác giúp cho pháp luật không chỉ được thực hiện một cách nghiêm chỉnh mà còn được thực hiện một cách tự giác, tự nguyện. Nhưng pháp luật không chỉ dựa vào đạo đức để đi vào đời sống xã hội, pháp luật còn là một trong những phương tiện để nhà nước đưa các quan điểm, quan niệm đạo đức của giai cấp thống trị thành các quy phạm đạo đức chính thống trong xã hội - tức chuyển hóa các quy phạm đạo đức thành quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật tiến bộ đều có sự phù hợp với đạo đức. Pháp luật càng phù hợp với đạo đức thì hiệu quả điều chỉnh càng cao. Pháp luật tiến bộ luôn hướng con người đấu tranh chống lại cái ác, vươn tới cái thiện. Nói cách khác, pháp luật tiến bộ là hiện thân của đạo đức, bảo vệ đạo đức. Có thể nói, pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tại bình thường của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng; bởi vì: Pháp luật là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu như việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội [1, tr.177]. Cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị chân, thiện, mỹ, đều liên quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con người và xã hội. Pháp luật buộc người ta hành động bằng áp lực từ bên ngoài, còn đạo đức buộc người ta hành động bằng áp lực nội tâm, tức bằng lương tâm, sự giác ngộ và thôi thúc từ bên trong. Hành vi con người đạt hiệu quả cao và bền vững nếu nó phù hợp với động cơ nội tại bên trong. Sự khác biệt nhưng lại thống nhất này là cơ sở để pháp luật và đạo đức bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Chính mối quan hệ này giải thích vì sao trong quản lý xã hội nói chung, trong giáo dục nói riêng phải kết hợp chặt chẽ giữa GDPL với GDĐĐ. Văn kiện Đại hội VIII đã khẳng định: “Tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi
- trọng giáo dục, nâng cao đạo đức” [15, tr.45]. GDPL tạo ra khả năng thiết lập những nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho mỗi người. GDĐĐ sẽ hình thành ở công dân sự tôn trọng sâu sắc đối với pháp luật. Đạo đức là tiền đề cần thiết, quan trọng cho việc hình thành nhân cách con người. Nếu chỉ chú trọng pháp luật, không chú ý đạo đức thì các hiện tượng vi phạm đạo đức sẽ diễn ra. Bởi lẽ, người ta có thể thực hiện đúng pháp luật, nhưng vẫn có thể vi phạm về mặt đạo đức. Mặt khác, bản thân pháp luật sẽ không có tác dụng nếu không có “gốc” đạo đức và tuân thủ pháp luật là một giá trị đạo đức cơ bản, hàng đầu của mọi công dân. Như vậy, giữa pháp luật và đạo đức có sự thống nhất về mục tiêu, sự hỗ trợ, tác động đồng thuận, từ đó nâng cao được hiệu quả giáo dục chung, làm cho việc thực hiện pháp luật trở nên tự giác, tức là đáp ứng những yêu cầu của các chuẩn mực đạo đức. Sự thống nhất đó đòi hỏi sự tác động tổng hợp của cả hai dạng giáo dục này để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau nhằm hình thành hành vi không những hợp pháp mà còn hợp đạo đức. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học 1.1.2.1. Khái niệm kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức GDPL và GDĐĐ đều hướng con người đến việc thực hiện những hành vi phù hợp với các chuẩn mực đã được xã hội thừa nhận trên cơ sở những tri thức được lĩnh hội và tình cảm, niềm tin hình thành trong mỗi cá nhân. Tuy nhiên, GDPL sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều nếu nó được tiến hành trong một môi trường xã hội lành mạnh, với những con người trọng đạo lý, tình nghĩa. Ngược lại, GDĐĐ cũng sẽ có hiệu quả hơn nếu nó được tiến hành trong một tổ chức có trật tự, kỷ cương, với những con người có ý thức về các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý, có sự hiểu biết về pháp luật. Kết hợp được giữa GDPL và GDĐĐ do vậy sẽ nâng cao hơn rất nhiều hiệu quả giáo dục chung đối với con người. Ở đây, sự kết hợp giữa GDPL và GDĐĐ được hiểu là toàn bộ hoạt động thực tiễn được tiến hành theo nội dung, hình thức, phương pháp và theo một cơ chế nhất định nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của các chủ thể trong tác động hình thành ý thức pháp luật, nhân cách đạo đức, hành vi, xử sự của con người, đáp ứng cao nhất yêu cầu của nhà nước và đòi hỏi của xã hội.
- 1.1.2.2. Đặc điểm của kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học Theo quan niệm trên, kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH có những đặc điểm chung và đặc điểm riêng sau: - Thứ nhất: Đặc điểm chung của kết hợp GDPL và GDĐĐ + Kết hợp GDPL và GDĐĐ là hoạt động được tiến hành thường xuyên, liên tục và lâu dài. Pháp luật và đạo đức không phải ngẫu nhiên có được mà hình thành trên cơ sở đòi hỏi và nhu cầu của cuộc sống. Các chuẩn mực pháp luật, đạo đức không phải là cố định, bất biến vì bên cạnh những chuẩn mực tồn tại lâu dài, ổn định, vẫn có nhiều chuẩn mực biến đổi do tác động của điều kiện kinh tế, xã hội. Trong khi đó, hoạt động của con người từ môi trường gia đình đến môi trường xã hội đều chịu sự tác động của hai loại quy phạm có tính phổ biến này. Do đó, nếu không có sự kết hợp GDPL và GDĐĐ một cách thường xuyên, lâu dài thì việc thiếu hiểu biết, thiếu ý thức dễ dẫn con người đến những hành vi lệch chuẩn. + Kết hợp GDPL và GDĐĐ là hoạt động do nhiều chủ thể tiến hành, gồm chủ thể chuyên nghiệp và cả những chủ thể không chuyên nghiệp. Vì vậy, đây là sự tác động nhiều chiều, trong đó mỗi chủ thể với vị trí, vai trò, chuyên môn khác nhau có những hình thức, phương pháp, nội dung giáo dục khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích cuối cùng là định hướng hành vi của đối tượng giáo dục theo những yêu cầu của pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội. + Kết hợp GDPL và GDĐĐ diễn ra từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng. Ở phạm vi hẹp là giáo dục gia đình, thông qua ứng xử, lối sống, tấm gương của cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình. Ở phạm vi rộng là những tác động giáo dục trong mỗi cơ quan, tổ chức, rộng hơn là tác động giáo dục của toàn xã hội. Sự tác động đó có đặc trưng là luôn có mối liên hệ và sự hỗ trợ, thống nhất với nhau. Nếu tác động giáo dục từ các loại hình giáo dục ấy mâu thuẫn với nhau thì có thể dẫn đến triệt tiêu tính tích cực của chủ thể vốn đã được hình thành từ trước đó. Điều này lý giải tại sao phần lớn trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật có nguyên nhân từ gia đình (cha mẹ vi phạm pháp luật) trong khi ở trường các em được giáo dục toàn những điều hay lẽ phải. Hiển nhiên, cũng không loại
- trừ trường hợp tác động tích cực của những quan hệ ngoài phạm vi gia đình đã loại bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của quan hệ gia đình trước đó. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả kết hợp GDPL và GDĐĐ đòi hỏi phải có sự thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau giữa các môi trường. - Thứ hai: Đặc điểm riêng của kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH Kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH là một bộ phận của kết hợp GDPL và GDĐĐ cho toàn xã hội, do đó nó cũng mang những đặc điểm chung của hoạt động này. Tuy nhiên, do những đặc trưng riêng về đối tượng giáo dục nên kết hợp GDPL và GDĐĐ học sinh PTTH có đặc thù riêng sau: + Về mục đích: kết hợp GDPL và GDĐĐ không chỉ nhằm hình thành ở học sinh những hiểu biết về pháp luật, các chuẩn mực đạo đức mà quan trọng hơn những hiểu biết đó giúp các em hình thành thái độ đúng đắn, lối ứng xử phù hợp với những quy tắc, chuẩn mực của xã hội trong quan hệ với trường lớp, với gia đình và với cộng đồng, biết dung hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích chung của tập thể, của xã hội. + Chủ thể kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh rất đa dạng, bao gồm: nhà trường (các thầy cô giáo, tổ chức đoàn, các tổ chức khác trong trường học); cha mẹ và các thành viên khác của gia đình; các ban, ngành, đoàn thể xã hội. Mỗi chủ thể có vai trò, nhiệm vụ khác nhau khi tham gia vào quá trình này, vừa thể hiện sự phân công rõ ràng vừa thể hiện sự phối hợp với nhau. + Đối tượng của kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH là các em học sinh phần lớn trong độ tuổi từ 16 đến dưới 18 (đang học lớp 10 đến lớp 12 các trường PTTH). Đây là lứa tuổi có nhiều biến đổi về tâm sinh lý trong đó sự hiếu thắng, thích khám phá cái mới, thích làm theo thần tượng và bốc đồng, dễ tổn thương là một trong những đặc điểm tâm lý nổi bật. + Học sinh PTTH là những người còn đang ngồi trên ghế nhà trường do đó kết hợp GDPL và GDĐĐ chủ yếu được tiến hành song song với hoạt động học tập văn hóa. Vì vậy, từ nội dung, hình thức cho đến phương pháp giáo dục đòi hỏi phải có tính sư phạm. Tuy nhiên, khác với việc dạy và học các môn khác, GDPL kết hợp với GDĐĐ không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục
- phải được thể hiện thành tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của học sinh và quá trình đó không chỉ bó hẹp trong những giờ lên lớp mà còn được thể hiện thông qua tất cả hoạt động có thể có trong nhà trường và cả những hoạt động ngoài trường học. 1.1.2.3. Nguyên tắc kết hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học Kết hợp GDPL và GDĐĐ cho học sinh PTTH được thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc sau: - Thứ nhất: GDĐĐ là nền tảng, GDPL là trọng yếu: Đạo đức là “gốc”, là cơ sở để hình thành nên một nhân cách tốt. Giáo dục con người muốn đạt hiệu quả phải dựa trên cái “gốc” đạo đức và gắn liền với quá trình GDĐĐ. Đối với học sinh, để các em trở thành những người vừa có tài vừa có đức, quá trình giáo dục cũng phải dựa trên nền đạo đức và không thể thoát ly được quá trình GDĐĐ. Nhưng đạo đức con người phải tuân thủ công lý nghĩa là phải dựa trên cơ sở hệ chuẩn mực đúng, sai của pháp luật. Mặt khác, là công dân của một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì tuân thủ pháp luật phải là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu. Do đó GDPL phải là khâu trọng yếu hướng con người đến hành động không những hợp đạo lý mà còn hợp pháp. - Thứ hai: Trong GDĐĐ có GDPL, trong GDPL có GDĐĐ. Đạo đức và pháp luật tuy có những điểm khác biệt nhau nhưng luôn có sự bổ sung, hỗ trợ cho nhau tạo nên hiệu quả của việc điều chỉnh xã hội. Vì vậy, GDPL cũng như GDĐĐ không thể tiến hành biệt lập mà phải kết hợp, lồng ghép với nhau cả trong nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục. - Thứ ba: Kết hợp GDPL và GDĐĐ phải có sự linh hoạt, sáng tạo. GDPL kết hợp với GDĐĐ tuy được tiến hành theo những nội dung, hình thức và phương pháp nhất định cho cùng một đối tượng là học sinh PTTH trong một chừng mực nhất định với những điểm tương đồng về tâm sinh lý. Tuy nhiên, mỗi học sinh là một con người cụ thể, không ai giống ai. Mặt khác, điều kiện, hoàn cảnh của từng nơi, từng môi trường giáo dục cũng khác nhau do đó trên cơ sở cái chung về nội dung, hình thức, phương pháp mà vận dụng một cách phù hợp với đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh.
- - Thứ tư: Nhà trường, gia đình, xã hội phải có sự phân công rành mạch về nghĩa vụ, trách nhiệm đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. GDPL kết hợp với GDĐĐ là công việc rất khó khăn, phức tạp. Trong quá trình giáo dục này, học sinh tiếp nhận tác động từ nhiều phía: nhà trường, gia đình, xã hội. Công tác giáo dục chỉ đạt hiệu quả khi các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục có sự phân định rõ ràng về nghĩa vụ, trách nhiệm để tránh sự chồng chéo và đùn đẩy trách nhiệm cho nhau; đồng thời phải phối hợp chặt chẽ nhằm làm cho các tác động giáo dục đến đối tượng giáo dục được thực hiện theo những yêu cầu thống nhất, tạo ra sự hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của từng thiết chế. Mặt khác, sự phối hợp này còn giúp cho mỗi chủ thể hiểu đầy đủ hơn về đối tượng giáo dục của mình, từ đó lựa chọn biện pháp tác động phù hợp. Việc kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội từ lâu đã được xem là nguyên lý cơ bản của giáo dục. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc kết hợp ba môi trường này. Trong công tác giáo dục thế hệ trẻ, Người chỉ thị cho mọi nhà trường: Phải liên hệ mật thiết với gia đình học trò bởi vì giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn [38, tr.101]. - Thứ năm: Xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh cho việc hình thành và phát triển nhân cách. Môi trường giáo dục giữ vai trò rất quan trọng trong giáo dục nói chung, GDPL kết hợp với GDĐĐ nói riêng vì môi trường đó tác động đến quá trình giáo dục trước hết ở khía cạnh tâm lý, đạo đức. Đó là quan hệ giữa người dạy với người học, với tập thể lớp, tổ chức Đoàn, hội, với chính quyền, nhân dân địa phương…Những yếu tố này có ảnh hưởng quan trọng đến tâm lý, tình cảm, thái độ, ý thức, hành vi của người học. Một môi trường lành mạnh là một môi trường trong đó người học luôn cảm thấy mình được yêu thương, tôn trọng, được đánh giá đúng; một môi trường mà trong đó các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực khác không có điều kiện tồn tại hoặc nếu có xuất hiện thì cũng nhanh chóng bị loại trừ.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: TÍCH HỢP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC SINH HỌC 9
109 p | 194 | 61
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sử dụng phương pháp dạy học hợp tác nhóm nhỏ trong dạy học Hóa học lớp 11 – chương trình Nâng cao ở trường THPT
123 p | 173 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục: Quản lý hoạt động dạy học theo hướng tích hợp tại Trường trung học cơ sở Tứ Mỹ huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ
47 p | 216 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Ứng dụng công nghệ thông tin, thiết kế bài lên lớp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Hóa học ở trường trung học cơ sở
151 p | 227 | 35
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Kết hợp dạy một số kĩ năng sống cho học sinh trong dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ thông
169 p | 142 | 29
-
Luận văn:Kết hợp chuẩn opengis và hệ quản trị cơ sở dữ liệu để giải quyết một số bài toán tối ưu trên mạng giao thông thành phố
0 p | 129 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn phần Hợp chất hữu cơ có nhóm chức lớp 11 Cơ bản
144 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập hỗ trợ việc tự học cho học sinh phần dẫn xuất Hiđrocacbon Hóa học 11 nâng cao trường THPT
186 p | 132 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Kết hợp kiến thức quy trình và khái niệm về Đại số lớp 10
78 p | 70 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Xây dựng website hỗ trợ phương pháp dạy học theo vấn đề (problem based learning) để dạy phần Mặt trời và các hành tinh cho sinh viên Vật lý
151 p | 82 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thiết kế tài liệu hỗ trợ dạy học nhằm nâng cao kết quả học tập phần hóa vô cơ lớp 12 trung học phổ thông
158 p | 79 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay
25 p | 115 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng thi công xây dựng có sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Uông Bí, Tỉnh Quảng Ninh
82 p | 76 | 7
-
Luật văn Thạc sĩ Luật học: Kết hợp giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho người chưa thành niên ở nước Việt Nam hiện nay
125 p | 30 | 7
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục: Sử dụng kết hợp thí nghiệm thực và thí nghiệm mô phỏng trong dạy học phần “Quang hình học” Vật lí 11 Trung học phổ thông
14 p | 27 | 5
-
Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu giải pháp nâng cao thể chất cho sinh viên Trường Đại học Nha Trang bằng các hoạt động ngoại khóa
39 p | 65 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Sư phạm Ngữ văn: Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 6 thông qua dạy học văn bản truyện hiện đại Việt Nam
108 p | 54 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn