
LUẬN VĂN:
Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh
tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
hiện nay

Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển chung của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trước mắt
phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng trong GDP của dịch vụ là 42- 43%, công nghiệp - xây dựng
là 40 - 41% và nông nghiệp là 16-17% [7]. Như vậy ngành kinh tế dịch vụ được coi là một
trong những ngành kinh tế có vị trí quan trọng và có tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu nền
kinh tế nước ta đến thời điểm đó.
Nếu so sánh với một số địa phương như: Hải Phòng, Nghệ An, Khánh Hòa v.v... thì
Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong những tỉnh có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển các
ngành dịch vụ như: Dịch vụ dầu khí, dịch vụ vận tải, dịch vụ thủy sản, dịch vụ du lịch,
dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ bưu chính viễn thông v.v...
Năm 2000 GDP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đạt 41.359 tỷ đồng, tính theo bình quân
đầu người là: 40.620.000 đồng/người/năm, cao nhất trong cả nước. Trong cơ cấu kinh tế
nếu tính cả dầu khí thì: công nghiệp - xây dựng chiếm 81,5%, nông nghiệp chiếm: 4,06%,
và dịch vụ chiếm 14,36%; nếu không kể dầu khí thì: công nghiệp - xây dựng: 47,26%, dịch
vụ 41,17%, nông nghiệp 11,62% và là một trong 10 tỉnh đóng góp nguồn ngân sách lớn
nhất cho nhà nước 20,01%, đứng thứ hai sau thành phố Hồ Chí Minh (33,05%) [2]. Đây là
những thành tựu quan trọng để Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, với những kết quả đạt đựơc nêu trên, trong toàn bộ nền kinh tế thì các
hoạt động kinh doanh dịch vụ vẫn chưa tương xứng với những tiềm năng, lợi thế mà ngành
dịch vụ có thể khai thác, quá trình đầu tư để khai thác còn nhiều hạn chế trong các lĩnh vực
như chính sách quản lý, mô hình phát triển, nguồn nhân lực, vốn, kỹ thuật v.v... Một số
lĩnh vực dịch vụ mới chỉ khai thác được một phần rất nhỏ như: Dịch vụ dầu khí, dịch vụ vận
tải, du lịch, nông nghiệp … Vì vậy, để phù hợp với mục tiêu kinh tế chung của cả nước
đồng thời muốn phát triển ngành kinh tế dịch vụ đạt mức tỷ trọng cao trong cơ cấu của địa
phương và để khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế phát triển kinh tế dịch vụ trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi cần phải có những đánh giá đúng mức về

tiềm năng, lợi thế và thực trạng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, trên cơ sở đó đưa ra
những giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế mà tỉnh đã đề ra, góp phần xác lập một
cơ cấu kinh tế hợp lý của địa phương. Đây là lý do để tác giả chọn đề tài: " Kinh tế dịch vụ
trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay ".
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có một số luận văn, luận án có liên quan đến đề tài được được bảo
vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh như: "Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu", Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần Quốc Nhật, 1995; "Nghiên
cứu về đầu tư khai thác dầu khí" của TS. Trần Đức Chính, 2000; "Phát triển kinh tế du lịch
của tỉnh Vĩnh Phúc - tiềm năng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần
Ngọc Tư, 2000; "Kinh tế dịch vụ và dịch vụ du lịch tỉnh Ninh Bình", Luận văn thạc sĩ kinh
tế của Phạm Xuân Thu, 1995; "Phát triển kinh tế du lịch ở Nghệ An", Luận văn thạc sĩ
kinh tế của Hoàng Đức Cường, 1999... và một số bài viết trên các báo, tạp chí nghiên cứu
của Trung ương và địa phương.
Song các luận văn, luận án, các bài viết nêu trên chỉ nghiên cứu về một ngành cụ
thể trong kinh tế dịch vụ ở các địa phương khác, chưa nghiên cứu kinh tế dịch vụ từ góc độ
một nhóm ngành trong cơ cấu kinh tế ở
địa bàn cấp tỉnh. Đặc biệt là đối với kinh tế dịch vụ của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì chưa có
một công trình nào nghiên cứu trung tên với đề tài của luận văn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn của luận văn
Mục đích, nhiệm vụ: Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về kinh tế dịch vụ
và xác định vai trò, tầm quan trọng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu.
Phân tích thực trạng kinh tế dịch vụ của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong những năm
qua để thấy được những thành tựu, những hạn chế, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp
chủ yếu để phát triển kinh tế dịch vụ tại tỉnh trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Giới hạn của luận văn:

Với một tỉnh có nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh với hàng trăm các hoạt
động kinh doanh dịch vụ phục vụ cho các nhu cầu sản xuất, trong khuôn khổ của một luận
văn thạc sĩ, tác giả không thể nghiên cứu toàn bộ các ngành kinh tế dịch vụ mà chỉ đi sâu
nghiên cứu một số ngành dịch vụ chủ yếu trên địa bàn của tỉnh như: Dịch vụ dầu khí, dịch
vụ thủy sản, dịch vụ du lịch, dịch vụ vận tải, dịch vụ nông nghiệp để làm rõ vai trò, thực
trạng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Về thời gian,
luận văn chỉ nghiên cứu kinh tế dịch vụ của địa phương trong khoảng 10 năm từ 1991 -
2000.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, dựa vào chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, của Đảng bộ
và chính quyền tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tham khảo có chọn lọc các công trình nghiên cứu,
các bài viết của nhiều tác giả có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu của môn kinh
tế chính trị, phương pháp khảo sát thực tế, phân tích, so sánh, tổng hợp các kết quả nghiên
cứu, từ đó đánh giá và giải quyết những vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của luận văn.
5. ý nghĩa của luân văn
Tuy nghiên cứu trong một phạm vi một địa bàn cấp tỉnh, song luận văn là một
công trình nghiên cứu thực tế về phát triển kinh tế dịch vụ ở Bà Rịa - Vũng Tàu; luận văn
có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các ngành, các cơ quan trong việc hoạch định các
mục tiêu và phương hướng cũng như các giải pháp phát triển các ngành kinh tế dịch vụ và
cho các đối tượng có liên quan khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.

Chương 1
VAI TRò CủA KINH Tế DịCH Vụ
TRONG NềN KINH Tế QUốC DÂN
Vấn đề lựa chọn một mô hình, một cơ cấu kinh tế cho hợp lý là một nội dung hết sức
quan trọng có ý nghĩa quyết định quyết định đến sự tồn tại và phát triển của bất kỳ quốc gia
nào. Thực tế những quốc gia chậm phát triển thường lựa chọn cho mình mô hình kinh tế theo
cơ cấu: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ; nhiều quốc gia đã và đang phát triển lại thường
chọn cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp. Đặc biệt mấy chục năm lại đây
nhiều nước lại chọn cho mình mô hình kinh tế theo cơ cấu: Dịch vụ - Công nghiệp - Nông
nghiệp như Singapo, Hồng Kông, Đài Loan v.v... Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông
nghiệp còn tương đối lạc hậu, đã và đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Do đó trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước chúng
ta cần phải lựa chọn cho mình một mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh đất nước, để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực
và thế giới. Mục tiêu phát triển kinh tế mà Đảng ta đề ra trong văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX cũng ghi rõ: "Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Tỷ trọng
GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp: 40 - 41%, dịch vụ: 42- 43%" [11]. Rõ ràng kinh
tế dịch vụ từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo sẽ chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ
cấu kinh tế của đất nước và kinh tế dịch vụ sẽ giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh
tế - xã hội của nước ta.
1.1. KHáI NIệM DịCH Vụ Và KINH Tế DịCH Vụ
1.1.1. Khái niệm
a) Dịch vụ
Thuật ngữ "Dịch vụ" (Service) lúc đầu người ta dùng để chỉ các hoạt động cung
ứng về mặt hậu cần cho quân đội, sau đó dần dần được sử dụng nhiều hơn trong kinh tế và
trở thành tên gọi lĩnh vực kinh tế gồm một số ngành. Do những quan niệm khác nhau nên
việc nhận dạng các hoạt động dịch vụ trong thực tiễn cũng khác nhau; cho đến những năm