Luận Văn "Quản lý tiền cho vay của ngân hàng thương mại"

1

- -

LỜI NÓI ĐẦU

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi

động quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động

theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội

Chủ Nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống nhiều

lĩnh vực hoạt động kinh tế thuộc cơ chế mới, trong đó một lĩnh vực có vị

trí hết sức quan trọng đó là lĩnh vực tiền tệ-ngân hàng. Bởi vì tiền tệ-ngân

hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Nó có vai trò rất to lớn trong

việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Kinh nghiệm phát triển kinh tế

của các nước đã chỉ ra rằng, mỗi bước thăng trầm của nền kinh tế đều có

nguyên nhân sâu xa gắn liền với chính sách tiền tệ và hoạt động của ngân

hàng.

Mặt khác, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành

theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mọi vận hành kinh tế

đều được tiền tệ hoá. Do vậy, bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào

dù ở bất kỳ cấp độ nào: gia đình, doanh nghiệp, quốc gia luôn cần một

lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ. Ngân hàng là một trong những tổ

chức cung cấp vốn quan trọng nhất cho phần lớn các hoạt động sản xuất

của nền kinh tế, ngân hàng thực hiện việc chu chuyển vốn từ nơi thừa đến

nơi thiếu. Sau khi xác định được vốn dự trữ bắt buộc theo định mức và vốn

tiền gửi có thể sử dụng để kinh doanh. Ngân hàng tìm những khách hàng

có tín nhiệm, có thể đầu tư vốn an toàn. thu hồi vốn đúng hạn, tăng được

tốc độ quay vòng vốn tín dụng, thu được nhiều lợi nhuận nhằm nâng cao

hiệu qủa sử dụng vốn. Nhưng để thực hiện việc cho vay này đúng theo

2

mong muốn thì đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện đúng nguyên tắc quản lý

- -

tiền cho vay, phải am hiểu khách hàng thị trường và những chính sách, quy

đinh của nhà nước về tiền tệ và tín dụng. Là một nhà hoạt đọng trong lĩnh

vực ngân hàng trong tương lai để có kiến thức phục vụ cho việc kinh doanh

trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng tốt hơn, đem lại lợi ích cho bản thâm

và xã hội em đã tiến hành nghiên cứu một số vấn đề quản lý tiền cho vay

của các ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay. Đây là một trong số

những lĩnh vực được các nhà ngân hàng quan tâm để tăng cường hoạt động

có lợi.

MỤC LỤC

Trang

1 Lời nói đầu

2 Nội dung.

4 Chương I. Cơ sở lý luận của việc quản lý tiền cho vay

I.1. Tín dụng là gì? 6

I.2. Bản chất của tín dụng 7

I.3. Chức năng của tín dụng 9

I.4. Vai trò của tín dụng 10

I.5. Tín dụng ngân hàng 11

I.6. Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại 17

22 Chương II. Những nguyên tắc quản lý tiền cho vay

II.1. Những thông tin cần nắm được trước khi quyết định cho vay 24

II.2. Những điều kiện cho vay và những đảm bảo cho khoản vay 25

II.3. Vấn đề quản lý tiền cho vay có hiệu quả 27

30 Chương III. Thực trạng việc cho vay của các ngân hàng thương

mại ở Việt Nam hiện nay

3

III.1. Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng 31

- -

III.2. Các loại cho vay ngắn hạn về vốn lưu động 32

III.3. Các loại cho vay trung hạn và dài hạn 35

III.4. Cho vay tiêu dùng 36

III.5. Thành tựu và hạn chế của việc cho vay của các ngân hàng 36

thương mại ở Việt Nam

40 Chương IV. Giải pháp cho vay an toàn và hiệu quả của các ngân

hàng thương mại

IV.1. Giải pháp về rủi ro cho vay 34

IV.2. Giải pháp về nguyên tắc cho vay 31

IV.3. Giải pháp về phương thức cho vay

IV.4. Giải pháp về tín dụng của ngân hàng thương mại

IV.5. Giải pháp cho vấn đề ứ đọng vốn hiện nay

IV.6. Giải pháp về nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng

Chương V. Phương hướng để nâng cao hiệu quả của việc quản lý

tiền cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

V.1. Chiến lược sử dụng vốn gắn liền với chiến lược kinh tế - xã hội

V.2. Phân bổ thành phần vốn đầu tư trong từng dự án

V.3. Nhiệm vụ đặt ra đối với ngành ngân hàng

Kết luận

Tài liệu tham khảo

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ TIỀN CHO

4

VAY

- -

I.1. Tín dụng là gì ?

Theo các nhà kinh tế học người Pháp: tín dụng là sự trao đổi một tài

hoá hiện tại để lấy một tài hoá trong tương lai. Tín dụng là việc dịch

chuyển vốn tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu.

Theo Việt Nam: tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau giữa nguyên tắc

hoàn trả kèm theo lợi tức .

I.2. Bản chất của tín dụng

Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hóa. Cần xem xét nội

dung của phạm trù này để hiểu bản chất của nó. Tín dụng là mối quan hệ

kinh tế giữa các doanh nghiệp. Vì vậy để hiểu được bản chất của tín dụng,

phải xuất phát từ quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi loại hình

doanh nghiệp khác nhau sẽ có quá trình luôn chuyển vốn khác nhau.Hơn

nữa ngay trong bản thân doanh nghiệp quả trình luôn chuyển các loại vốn

cũng khác nhau. Nên đối với một doanh nghiệp xẩy ra sự không trùng

khớp giữa nhu càu về vốn và vôn tự có,coi như tư có: hoặc là doanh nghiệp

đang tạm thời thiếu vốn hoặc là đang tự thừa vốn. Nếu doanh nghiệp đang

tạm thời thiếu vốn thì doanh nghiệp sẽ có nhu cầu huy động thêm vốn để

tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp đang tạm thời

thừa vốn thì doanh nghiệp có nhu cầu cho vay lấy lãi. Mặc dù doanh

nghiệp luân tìm cách sử dụng tối đa vốn tự có và coi như tự có, song nếu

khả năng thu hồi vốn thấp,hoặc lãi cho vay thấp không bù đáp nổi rủi ro có

thể doanh nghiệp cũng không cho vay.Nếu chúng ta xem xét nhiều doanh

nghiệp trong cùng một thời gian sẽ thấy có doanh nghiệp đang tạm thời

thiếu vốn có nhu cầu đi vay và có doanh nghiệp đang tạm thời thừa vốn có

nhu cầu cho vay. Hiện tượng kinh tế trên làm nảy sinh một số mối quan hệ

kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển tạm thời từ nơi thừa

5

sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay. Từ nội dung của

- -

quan hệ tín dụng ta thấy, thực chất của tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm bổ

sung vốn tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp. Một nhu cầu vốn

thường xuyên lớn hơn vốn tự có và coi như tự có không thể được hình

thành thông qua quan hệ tín dụng. Mặt khác tín dụng là quan hệ kinh tế

nhằm giải quyết cả hai loại nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó về bản

chất nó là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi, và mang tính thoả thuận

rất lớn.

I.3. Chức năng của tín dụng.

Huy động và phân phối vốn tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn

trả. Đây là chức nâng chủ yếu của tín dụng phản ánh bản chất cuả tín dụng.

Chức năng này của tín dụng được thể hiện thông qua các nghiệp vụ cơ bản

sau: huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã

hội, dân cư thông qua các hình thức góp vốn, huy động tiếp kiệm, phát

hành trái phiếu. Cho vay đối với các doanh nghiệp, cá nhân nhằm phục vụ

sản xuất kinh doanh và tiêu dùng dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc

bằng hàng hoá.

Kiểm soát các hoạt động kinh tế: Tín dụng là quan hệ kinh tế được

hình thành trên cơ sở rất nhiều quan hệ kinh tế khác. Bản thân quan hệ tín

dụng cũng lại bao hàm nhiều mối quan hệ như: Quan hệ vay, quan hệ về

dư nợ. Do đó quan hệ tín dụng bao hàm cả khả năng kiểm soát các loại

hoạt đọng kinh tế của các doanh nghiệp. Để hình thành được quan hệ tín

dụng, người cho vay phải biết và kiểm soát hoạt động của người đi vay như

tình vốn liếng mặt hàng sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ nói riêng và

tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác…Các trục trặc

trong quan hệ tín dụng như vay không trả được hoặc trả khong đúng hạn

phản ánh những trục trặc trong quá trình sản xuất kinh doanh như khâu tiêu

6

thụ hàng hoá, không có lãi, bị phá sản…

- -

I.4. Vai trò của tín dụng

Là một mối quan hệ kinh tế, tín dung có những tác động nhất định

đối với các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ

yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý

kinh tế của con người. Trước hết tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung

vốn rất quan trọn. Thông qua tín dụng: Các doanh nghiệp nhận khối lượng

vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động,

đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Tín dụng tâp trung các khoản tín

dụng nhỏ, lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công

trình lớn, hiệu quả cao. Tóm lại, thông qua quá trính tích tụ và tập trung

vốn, tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau nữa tín dụng là

công cụ bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận. Tín dụng giúp các nhà doanh

nghiệp đầu tư vào các ngành có tỉ suất lợi nhuận cao, kích thích khả năng

cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

chuyển hướng sản xuất kinh doanh.Tín dụng trở thành công cụ làm cho

kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động,mềm

dẻo, linh hoạt. Bên cạnh đó, tín dụng là công cụ tăng vòng quay của vốn và

tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông.

Chúng ta đã xem xét vai trò của tín dụng trên những phương diện

tích cực. Điều cần lưu ý là những vai trò trên sẽ còn tích cực, thậm sẽ là

tiêu cực dưới nhận thức và vận dụng sai lệch của con người.

I.5. Tín dụng ngân hàng.

Là một hình thức tín dụng quan trọng. Có thể nói mối quan hệ tín

dụng giữa ngân hàng với các doanh nghiệp là quan hệ tín dụng chủ yếu,

7

cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp. Với công nghệ

- -

ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng trở thành một hình thức tín

dụng chủ yếu không những ở trong nước mà còn trên trường quốc tế.

I.5.1.Bản chất của tín dụng ngân hàng

Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng.

Đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định,

là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình

đẳng và cả hai bên cùng có lợi. Đặc biệt tín dụng ngân hàng là mối quan hệ

vay mượn giữa ngân hang và tất cã các doanh nghiệp, các cá nhân khác.

Mối quan hệ tín dụng này không phải là mối quan hệ dịch chuyển vốn trực

tiếp từ nơi thừa sang nơi thiếu mà thông qua cơ quan trung gian là các ngân

hàng.

I.5.2. Chức năng của tín dụng ngân hàng.

Tín dụng ngân hàng thực hiện chức năng huy động và cho vay vốn

tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả. Đối với tín dụng ngân hàng , chức năng

này bao gồm hai nghiệp vụ được tách hẳn ra :Huy động vốn tạm thời nhàn

rỗi và cho vay đối với những nhu cầu đang thiếu tạm thời. Đó là điểm mà

nhiều loại hình tín dụng khác không có.

Kiểm soát các hoạt động kinh tế khả năng kiểm soát các hoạt động

kinh tế của tín dụng ngân hàng là rộng lớn hơn các hình thức tín dụng

khác. Bởi vì bên cạnh quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân,

ngan hàng còn có quan hệ tiền tệ, thanh toán…với họ. Các mối quan hệ

này bổ xung cho nhau, tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát các doanh

nghiệp dễ dàng hơn trong quan hệ tín dụng so với các doanh nghiệp khác.

Chẳng hạn, trước khi cho một doanh nghiệp vay,ngân hàng có thể biết

8

tương đối chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp đó

- -

I.6.Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng Thương mại.

Đối với một ngân hàng sau khi huy động được nguồn vốn thì tiến

hành kinh doanh trên nguồn vốn đó. Ngân hàng Thương mại thực hiện

nhiệm vụ cho vay đối với nền kinh tế đáp ứng nhu cầu vốn cho các thanhf

viên của nền kinh tế. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra

lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi các chi phí tiền

gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi

phí thuế và cả chi phí rủi ro đầu tư.

CHƯƠNG II: NHỮNG NGHUYÊN TẮC QUẢN LÝ TIỀN CHO

VAY.

II.1. Những thông tin cần nắm được trước khi quyết định cho vay.

Trước khi quyết định làm bất cứ việc gì, phải nắm bắt đầy đủ những

thông tin chính xác có liên quan đến việc đó thì mới tránh được những thiệt

hại do sai lầm thiếu thông tin gây ra. Trong việc cho khách hàng vay vốn,

nếu ngân hàng không có đủ những thông tin cần thiết về người đi vay thì

rất dễ dàng bị thiệt hại do không đòi được nợ hoặc nợ quá hạn tăng lên.

Ngân hàng thương mại kinh doanh trên địa bàn nào trước hết đòi hỏi

phải am hiểu tường tận địa bàn đó như: tình hình kinh tế, xã hội, lịch sử,

đất đai, hạb tầng tầng cơ sở, tài nguyên, dân cư, vốn liếng, của cải, bất

động sản, tài sản lưu động, các quan hệ giao lưu kinh tế, tài chính đối với

cấp trên, với địa bàn khác… bằng các số liệu thống kê cụ thể, chính xác do

9

ngân hàng tự điều tra, sưu tầm có thể tin cậy được.

- -

Nền kinh tế thị trường vận động, biến đổi không ngừng nên hàng

ngày phải theo dõi kịp thời diễn biến của các thị trường hàng hoá, thị

trường tiền tệ, thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, sản lượng các

sản phẩm chủ yếu của các nghành kinh tế, các chính sách kinh tế tài chính,

đầu tư, xuất nhập khẩu, tỉ giả hối đoái, lãi suất, thuế, các đạo luật mới ban

hành, những bíên động về giá hàng xuất nhập khẩu, giá vàng, giá ngoại tệ

mạnh, giá nội tệ, những biến động về đầu tư trong nước, từ nước ngoài

vào, thu chi ngân sách, những biến động có liên quan trực tiếp đến những

người gửi tiền và vay tiền ngân hàn… để dự kiến các giải pháp đối phó hay

chuẩn đối phó trong thời gian tới.

Có những thông tin kinh tế chung là điều cần thiết không thể thiếu

được, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, còn phải có thông tin nhiều mặt về đối

tượng đến vay vốn. Phải tiếp cận đến nơi đến chốn quá trình sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp, phải đánh giá được trình độ quản lý kinh doanh

của chủ doanh nghiệp, vì trình độ kinh doanh nghiệp càng kém thì khả

năng rủi ro mất vốn của ngân hàng khi cho vay càng lớn.

II.2. Những điều kiện cho vay và những đảm bảo cho khoản vay.

Ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn khi đã có đủ cơ sở để tin

tưởng khách hàng sẽ trả nợ đúng hạn đủ vốn và lãi. Chỉ khi nào khách hàng

có đủ điều kiện để ngân hàng tin tưởng, thì lúc ấy mới có quan hệ tín dụng.

Luật ngân hàng qui định: Các doanh nghiệp,tổ chức,cá nhân muốn vay tiền

ngân hàng phải có đủ các điều kiện sau:phải có đơn xin vay, được ngân

hàng kiểm tra khả năng vay nơ và khả năng trả nợ, người đi vay kí hợp

đồng tin dụng với ngân hàng, người đi vay kí hơp đồng đảm bảo tín đụng

với ngân hàng. Để đảm bảo trong hoạt động vay vốn của ngân hàng nhà

10

nước ta có những quy định chặt chẽ việc cho vay phải có:

- -

Bảo lãnh : bảo lãnh là hành động cam kết trả nợ ngân hàng bằng giấy

tờ hợp pháp của người nhận bảo lãnh cho người đi vay khi khoản nợ đã

đến hạn mà người đi vay không có khả năng trả nợ. Trong giấy bảo lãnh

phải ghi rõ tên người mắc nợ và số tền nhận bảo lãnh , như vậy có nghĩa là

người bảo lãnh chỉ hạn chế việc bảo lãnh của mình trong phạm vi số tiền

nợ mà người đi vay đã thừa nhận .

Cầm cố giấy tờ có giá, hàng hoá và tài sản khác:để được vay vốn,

người đi vay phải cầm cố cho ngân hàng tài sản của mình như giấy tờ có

giá, hàng hoá, vàng, đá quý… Nhà nước ta quy định giá trị khoản vay

không được vượt quá 70% giá trị tài sản cầm cố hoặc thế chấp, ngân hàng

Nhà Nước ban hành quyết định 217 về “giao tài sản” là việc bên cầm cố

phải đưa tài sản cho ngân hàng, hoặc bên thứ 3 nắm giữ trong suốt thời

gian hợp đồng. Và quy định bên bảo lãnh phải lập một danh mục tài sản

dùng vào việc bảo lãnh và số tiền cho vay tối đa không vượt quá 70% giá

trị tài sản dùng vào việc bảo lãnh.

Cầm cố bất động sản : bất động được cầm cố như nhà ở, đất đai,

ruộng rẫy, sau khi làm thủ tục càm cố người đi vay mới nhận được tiền

vay. Người đi vay phải trả nợ đúng hạn theo hợp đồng tín dụng, không

được đem bất động sản đã cầm cố cho ngân hàng này tiếp tục cầm cố cho

ngân hàng khác để đượcvay thêm tiền ở ngân hàng khác.

Cần chú ý thường xuyên đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng,

nếu khả năng này không có thì có nghĩa là người vay đã mất khả năng

thanh toán hoặc đã vỡ nợ. Cho nên, sau khi đã bỏ vốn ra cho các công ty

vay, việc kiểm tra sử dụng vốn vay, kiểm tra khả năng toán, trả nợ đối với

ngân hàng không lúc nào được lơ là, mà phải tiến hành thường xuyên, liên

11

tục.

- -

II.3. Vấn đề quản lý tiền cho vay có hiệu quả

Sự lựa chọn đối nghịch trong thị trường cho vay nảy sinh bởi vì

những người rất kém tín nhiệm lại là những người thường xếp hàng để vay

tiền, những người vay tiền với những dự án đầu tư rất rủi ro có nhiều cái để

được lợi nếu các dự án của họ được thành công và như vậy họ là nhữnh

người khao khát nhận món vay nhất. Mặt khác, rủi ro đạo đức nảy sinh

trong các thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực

hiện những hoạt động không đáng mong muốn theo quan điểm của người

cho vay, khi những người vay đã có món tiền vay, họ dễ có thể đàu tư vào

những dự án có rủi ro cao. Để có lợi nhuận, các ngân hàng phải vượt qua

những vấn

đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức này, những vấn đề khiến cho sự

vỡ nợ có thể xảy ra. Sự cố gắng của các ngân hàng để giải quyết các vấn đề

này giúp ta giải thích những nguyên tắc quản lý các món tiền cho vay sau

đây.

II.3.1. Sàng lọc và giám sát.

Lựa chọn đối nghịch trong các thị trường cho vay đòi hỏi rằng các

ngân hàng phải lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có tiển vọng tốt ra

khỏi những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu, nhờ vậy các

món tiền cho vay sẽ có lợi cho ngân hàng đó. Nhằm thực hiện việc sàng

lọc một cách có hiệu quả, các ngân hàng phải tập hợp thông tin tin cậy về

những người vay tiền có triển vọng. Sàng lọc một cách có hiệu quả và tập

hợp thông tin, tạo ra một nguyên tắc quan trọng của việc quản lý món tiền

cho vay. Khi một người đến vay ngân hàng, ngân hàng nắm bắt thông tin

12

về người này và tiến hành phân tích xem người này có phải là người mạo

- -

hiểm và tín dụng có triển vọng tốt đến mức nào, nó dự báo liêuj người đó

có khó khăn khi tanh toán món tiền vay hay không.

Việc giám sát va cưỡng chế thi hành những qui định hạn chế. Một

khi một món tiền cho vay được thực hiện, người vay có ý muốn tiến hành

những hoạt động rủi ro để món vay này có thể ít có khả năng thanh toán.

Để giảm bớt tính chất có thể như vậy của rủi ro đạo đức, các ngân hàng

phải theo nguyên tắc quản lý tiền vay bằng cách giám sát những hoạt động

của người vay để xem liệu họ có tuân theo những quy định hay không và

cưỡng chế thi hành những quy định nếu họ không tuân theo.

II.3.2. Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng

Một cách nữa để các ngân hàng thu được thông tin về những người

vay tiền của họ là nhờ quan hệ khách hàng lâu dài-một nguyên lý quan

trọng khác của việc quản lý ngân hàng. Quan hệ khách hàng lâu dài giúp

cho các ngân hàng có thể đối phó với những sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà

ngay cả ngân hàng cũng không lườn trước được ở lúc ban đầu. Mối quan

hệ khách hàng lâu dài dễ dàng cho việc tập hợp thông tin. Ngoài ra, các

điều khoản trong thoả ước về mức tín dụng này đòi hỏi hãng đó cung cấp

thường xuyên cho ngân hàng này những thông tin về tình hình thu nhập, tài

sản có và tài sản nợ, về các hoạt động kinh doanh…một thoả ước về mức

tín dụng là một phương pháp rất hữu hiệu để giảm chi phí cho việc sàng

lọc và tạp hợp thông tin của ngân hàng .

II.3.3.Vật thế chấp và số dư bù.

Những bắt buộc về vật thế chấp đối với tiền cho vay là những công

cụ quan trọng để quản lý ngân hàng. Vật thế chấp là vật sở hữu được hứa

13

cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ. Một dạng riêng của vật thế chấp

- -

bắt buộc khi ngân hàng cho vay thương mại gọi là số dư bù. Một hãng khi

nhận đựơc tiền vay phải giữ một số vốn tối thiểu bắt buộc trong một tài

khoản séc ở ngân hàng cho nó vay. Ngoài việc có tác dụng như vật thế

chấp, các số dư bù giúp tăng được khả năng món tiền cho vay sẽ được

hoàn trả. Số dư bù đóng vai trò này giúp ngân hàng giám sát người vay đó

và ngăn ngừa rủi ro đạo đức. Bất kỳ thay đổi quan trọng nào trong các thủ

tục thanh toán của người vay đều là một tín hiệu báo cho ngân hàng rằng

phải tiến hành điều tra. Những số dư bù giúp cho ngân hàng dễ giám sát

những người vay tiền một cách hiệu quả hơn và là một công cụ quảm lý

quan trọng.

II.3.4.Hạn chế tín dụng

Một phương pháp khác để giúp những ngân hàng thành đạt đối phó

với lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là việc hạn chế tín dụng. Những

ngân hàng từ chối cho vay mặc dù những người vay sẵn lòng thanh toán lãi

suất đã được công bố thậm chí một lãi suất cao hơn. Việc hạn chế tín dụng

có hai dạng: Dạng thứ nhất diễn ra khi một ngân hàng từ chối một món cho

vay với số lượng bất kỳ nào đối với người vay, ngay cả khi người vay sẵn

lòng thanh toán một lãi suất cao hơn. Dạng thứ hai diễn ra khi một ngân

hàng sẵn lòng cho vay nhưng hạn chế mức vay đó dưới mức mà người vay

này muốn. Để đề phòng rủi ro đạo đức các ngân hàng thường thực hiện

dạng hạn chế tín dụng thứ hai vì món tiền vay được càng lớn thì người vay

càng có nhiều ý muốn thực hiện những hoạt động khiến ít có thể thanh toán

14

được món vay đó.

- -

Chương III: THỰC TRẠNG VIỆC CHO VAY CỦA CÁC NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.

III.1.Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

Quy chế này được ban hành kèm theo quyết định số 324/1998/QĐ-

NHNN nfgày 30/9/1998 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về

việc cho vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với

khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất và kinh doanh, dịch

vụ, đầu tư phát triển và đời sống. Cụ thể: quy chế quy định về: quyền tự

chủ trong cho vay của các tổ chức tín dụng, nguyên tắc vay vốn, điều kiện

vay vốn, loại cho vay, đối tượng cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho

vay, mức cho vay, trả nợ gốc và lãi.

Điều 14: Quy định về hồ sơ vay vốn.

Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng những

giấy tờ sau: Giấy đề nghị vay vốn. Giấy đề nghị vay vốn phải có nội dung

cơ bản như: tên, địa chỉ khách hàng vay vốn, số tiền cần vay, mục đích vay

vốn, các cam kết và sử dụng tiền vay, trả nợ, trả lãi và các cam kết khác.

Tổ chức tín dụng quy định cụ thể các loại tài liệu khách hàng cần phải gửi

phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng loại khách hàng.

Điều 15: Thẩm định và quyết định cho vay.

Tổ chức tín dụng xây dựng quy định trình xét duyệt cho vay theo

nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân,

trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tổ chức

tín dụng kiểm tra các tài liệu khách hàng gửi đến, đồng thời tiến hành thẩm

15

định tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh

- -

doanh và khả năng hoàn trả nợ vay. Trong thời gian không quá mười ngày

làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không quá 45 ngày làm việc đối với

cho vay trung, dài hạn kể từ khi tổ chức tín dụng nhận được đầy đủ hồ sơ

vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của tổ

chức vay đối với khách hàng. Trong trường hợp quy định không cho vay,

tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó

nêu rõ căn cứ từ chối cho vay.

Điều 16: Phương thức cho vay.

Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng về phương thức cho vay

phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn vay và khả năng kiểm tra, giám sát việc

khách hàng sử dụng vốn vay theo một trong các phương thức cho vay sau:

Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng

làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng.

Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng

xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời gian nhất

định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh.

Cho vay vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một

dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng: trong đó, có một

tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng

khác. Việc cho vay hợp vốn thức hiện theo quy định của quy chế này và

quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thông Đốc Ngân hàng

Nhà nước ban hành.

Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác

định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra

trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, tài sản mua bằng vốn vay

16

chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả nợ đủ gốc và lãi.

- -

Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam

kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín

dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu

lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho mức hạn mức tín

dụng dự phòng.

Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng:

Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay

trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ

và rút tiền tự động hoặc diểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng.

Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách

hàng phải tuân theo các quy định của chính phủ và ngân hàng Nhà nước về

phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.

Điều 18: Hợp đồng tín dụng.

Sau khi quyết định cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng ký kết

hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay,

mục đích sử dụng tiền vay, cách thức giải ngân và sử dụng vốn vay, số tiền

vay, lãi suất, thời hạn vay, phương thức và kỳ trả nợ, hình thức bảo đảm

tiền vay, giá trị tài sản đảm bảo, biện pháp xử lý tài sản làm đảm bảo,

chuyển nhượng hoặc không chuyển nhượng hợp đồng tín dụng và những

cam kết khác được các bên thoả thuận.

Điều 22: Kiểm tra, giám sát vốn vay.

Tổ chức tín dụng có thách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay

vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Tổ chức tín dụng tiến hành

17

kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vayphù hộp với đặc điểm

- -

hoạt động của tổ chức tín dụng và đặc điểm kinh doanh và sử dụng vốn

vay của khách hàng.

Điều 25: Quyền và nghĩa vụ của khách hàng.

Khách hàng vay có quyền: Từ chối yêu cầu của tổ chức tín dụng

không đúng với thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khiếu nại, khởi kiện

việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của pháp luật.

Khách hàn có nghĩa vụ: Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin,

tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nghiệm về tính chính xác

của các thông tin, tài liệu đã cung cấp. Sử dung tiền vay đúng mục đích và

thức hiện đúng các nội dung khác đã thoả thuậ trong hợp đồng tín dụng.

Trả nợ gốc và lãi tiền vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Chịu

trách nhiệm trước pháp luật khi không thứ hiện đúng những thoả thuận về

việc trả nợ vay và thức hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong

hợp đồng tín dụng.

Điều 26: Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng.

Tổ chức tín dụng có quyền: yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu

chứng minh dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, khả

năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho

vay. Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện

vay vốn, dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn không có hiệu quả, không

phù hợp với quy định của pháp luật hoặc tổ chức tín dụng không có đủ

nguồn vốn để cho vay. Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn

vay và trả nợ của khách hàng. Cấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn

khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng

18

tín dụng. Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc người bảo

- -

lãnh theo quy định của pháp luật. Khi đến hạn trả nợ, nếu các bên không có

thoả thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền bán tài sản làm bảo đảm theo

sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật

hoặc yêu cầu người bảo lãnh thức hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường

hợp người khách hàng được bảo lãnh vay vốn. Miễn, giảm lãi tiền vay, gia

hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, mua bán nợ theo quy định của ngân hàng

Nhà nước và thức hiện việc đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ theo quy đinh của

chính phủ.

Tổ chức tín dụng có nghĩa vụ: thức hiệ đúng thoả thuân trong hợp

đồng tín dụng. Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.

Ngoài ra quy chế còn quy định về cho vay bằng ngoại tệ, giới hạn cho vay,

những trường hợp không cho vay được, hạn chế cho vay, ra hạn nợ, điều

chỉnh kỳ hạn trả nợ, miễn, giảm lãi tiền vay, cho vay ưu đãi, cho vay đầu

tư xây dựng theo kế hoạch Nhà nước.

III.2. Các loại cho vay ngắn hạn về vốn lưu động.

Về nguyên tắc, vốn tự có của doanh nghiệp lúc nào cũng phải thoả

mãn được các nhu cầu ngắn hạn về vốn lưu động để đảm bảo cho các

doanh nghiệp hoạt động bình thường. Nhưng thực tế không phải lúc nào

cũng diễn ra đúng như vậy, mà có lúc nhu cầu về vốn lưu động thấp hơn

vốn lưu động tự có, ngược lại có lúc nhu cầu về vốn lưu động lại cao hơn

vốn lưu động tự có khi đó doanh nghiệp phải xin vay vốn ngân hàng để bù

đắp cho đủ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh bị thiếu hụt. Thường thì các

doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất dài đều thiếu vốn lưu động, còn các

doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn ít khi thiếu vốn lưu động. Những

19

doanh nghiệp có nhiều hàng tồn kho hoặc bị khách hàng chiếm dụngvốn,

- -

sẽ phải vay vốn ngân hàng nhiều hơn. Cho vay ngắn hạn về vốn lưu động

của ngân hàng thương mại bao gồm:

Cho vay hỗ trợ ngân quỹ: loại cho va0y này được dùng để bù đắp số

vốn tạm thời thiếu hụt trong một thời gian ngắn trong quỹ của doanh

nghiệp. Do chưa đến hạn thu tiền bán hàng đã phải trả tiền mua nguyên vật

liệu sản phẩm , trả lương cho công nhân, nộp thuế… nên doanh nghiệp có

nhu cầu vay vốn trong vài ba ngày đẻ thực hiện những khoản chi trước

mắt.

Chiết khấu thương phiếu: Những người cung cấp hàng hoá, dịch vụ

chấp nhận cho khách hàng không phải trả tiền ngay mà được trả chậm theo

kỳ hạn, nhưng phải viết giấy nhận nợ do người bán lập ra. Những giấy tờ

đó gọi là thương phiếu. Trong việc cho vay chiết khấu thương phiếu

thường có hợp đòng tín dụng chiết khấu. Cơ sở đảm bảo cho tiền vay trong

tín dụng chiết khấu thương phiếu là lượng hàng hoá mua chịu của người

mua khong thể tránh khỏi trường hợp thương phiếu lập ra không có cơ sở

vật tư hàng hoá bảo đảm.

Tín dụng ứng trước: Tín dụng ứng trước là một thể thức cho vay

được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó ngân hàng chấp

nhận cho người vay sử dụng một mức cho vay trong mmọt thời gian nhất

định. Có hai loại cho vay ứng trước là cho vay ứng trước có bảo đảm và

cho vay ứng trước khong bảo đảm. Cho vay ứng trước có bảo đảm được

thực hiện khi ngân hàng chưa thực sự tin tưởng vào khả năng kinh doanh

và tình hình tài chính của người đi vay, nên đòi hỏi người đi vay phải có tài

sản đảm bảo cho khoản vay để ngân hàng yên tâm đã có một nguồn khác

trả nợ cho ngân hàng nếu khoản cho vay này khong thu hồi được khi đến

hạn trả, thông thường có một số ứng trước có đảm bảo như: ứng trước có

20

sự bảo lãnh của người thứ ba, ứng trước có đảm bảo bằng thế chấp bất

- -

động sản, ứng trước có đảm bảo bằng hàng hoá, ứng trước có đảm bảo

bàng kim loại quý hoặc chứng khoán. Cho vay trước không bảo đảm, đây

là loại tín dụng trung hạn và tín dụng tiêu dùng.

III.3. Các loại cho vay trung hạn và dài hạn.

Tín dụng trung hạn và dài hạn là loại tín dụng đầu tư bao gồm các

khoản cho vay tài sản cố định. Những khoản vay có thời hạn từ một đến

hai năm được coi là tín dụng trung hạn. Những khoản vay từ hai năm trở

nên được coi là tín dụng trung dài hạn. Đối tượng cho vay của tín dụng

trung, dài hạn là: chi phí mua đất, thuê đất, chi phí xây dựng cơ bản nông,

lâm, ngư nghiệp, chi phí xây dựng nhà xưởng, kho tàng, chi phí mua sắm

máy móc, thiết bị, phương tiện sản xuất, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng,

chi phí mua sắm phương tiện vận tải. Các khoản cho vay trung hạn và dài

hạn của ngân hàng đều được hoàn trả bằng nguồn vốn tự tài trợ của doanh

nghiệp vay vốn ngân hàng. Nguồn vốn tự tài trợ của doanh nghiệp trước

hết là các khoản khấu hao sau đó là các khoản dự trữ, dự phòng, tích trữ lợi

nhuận hàng năm của doanh nghiệp.

III.3.1. Cho vay trung hạn.

Thời hạn cho vay của cho vay trung hạn trong phạm vi từ hai đến

bẩy năm. Khi quy định thời hạn này, người ta căn cứ vào thời hạn khấu hao

của các tài sản cố định được dùng để đảm bảo cho khoản vay, đó là những

máy móc,công cụ, thiết bị nhỏ mà thời hạn khấu hao của chúng chỉ trong

phạm vi từhai đến bẩy năm. Ngân hàng quy định thời hạn của tín dụng

trung hạn đến bẩy năm nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiẹep vay vốn có

21

đủ khả năng trả nơj bằng nguồn vố tự tài trợ. Đây là loại tín dụng thích hợp

- -

với doanh nghiệp vừa và nhỏ nên được các doanh nghiệp này đem tài sản

đến cầm cố ở ngân hàng ngày càng nhiều để vay trung hạn.

III.3.2. Cho vay dài hạn.

Tín dụng dài hạn là các khoản cho vay dài hạn của các ngân hàng có

thời hạn từ bẩy năm trở nên. Trên lý thuyết, thời hạn của tín dụng dài hạn

không có giới hạn cuối cùng nhưng hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ

cho vay với thời hạn từ 10 đến 15 năm. Thời hạn cụ thể của khoản cho vay

dài hạn được xác định tuỳ theo thời hạn khấu hao của bất động sản thế

chấp nhằm tài trợ cho các doanh nghiệp mua sắm máy móc, công cụ mới

thay thế những công cụ lạc hậu, không dùng đến hoặc xây dựng những

công trình mới. Thông thường tín dụng dài hạn được cung cấp dưới hình

thức các khản cho vay. Người đi vay nhận được một số tiền để sử dụng vào

ngày cho vay với những cam kết về thời hạn trả nợ, tài sản đảm bảo khoản

vay, người bảo lãnh… theo nguyên tắc tín dụng, nhằm bảo đảm an toàn

cho khoản vay, giảm bớt ruỉ ro tín dụng cho ngân hàng.

Hiện nay, thị trường luôn luôn biến đổi không ngừng, khó mà lường

trước được mọi vấn đề, nhất là thị trường công thương nghiệp nên thời hạn

cho vay càng dài mọi dự đoán càng khó khăn, hệ số rủi ro càng lớn. Vì thế

ngân hàng cho vay dài hạn càng phải thận trọng, kiểm soát thường xuyên

và chặt chẽ số tiền đã cho vay, cũng như phải có hạn mức tín dụng hợp lý

và những tài sản đảm bảo tương ứng với khoản dư nợ của người đi vay.

III.4.Cho vay tiêu dùng.

Cho vay tiêu dùng là loại tín dụng hỗ trợ cho những nhu cầu tiêu

dùng cá nhân, giúp người tiêu dùng sử dụng được hàng hoá, dịch vụ đời

22

sống cần thiết trước khi họ có khả năng tích luỹ để chi trả. Tại nghị định

- -

178/1999/NĐCP ngày 29/12/1999 chính phủ cho phép các tổ chức tín dụng

cho vay có bảo lãnh tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị-xã hội cho cá

nhân, hộ nghèo. Văn bản số 34/CV.NHNN1 ngày 7/1/00 và số

98/CV.NHNN1 ngày 28/1/00 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước cho

phép các tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với

cán bộ, công nhân viên và thu nợ từ tiền lương, trợ cấp, các khoản thu nhập

khác. ngày 25/8/00 Thống đốc Ngân hàng nhà nước có quyết định

284/00/QĐ-NHNN1 ban hành “quy chế cho vay của tổ chứ tín dụng đối

với khách hàng”. Trong đó ở điều 5 quy định đối tượng khách hàng vay

gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ

phần, cá nhân, hộ gia đình… Đối tượng vay tập trung ở vùng thị xã, thị

trấn, những người cần mua sắm phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt gia

đình, cải tạo, sửa chữa nhà ở, mở nghề phụ để tận dụng thời gian, tăng thu

nhập… những người vay vố được thủ trưởng, chủ tịch công đoàn cơ quan

xác nhận có điều kiện thu nhập ổn định và có khả năng trả nợ theo cam kết.

Việc xác nhận này bước đầu đã có hiệu lực, trong một đợt quý 3/00 đã có

người vay tự trích thu nhập trả nợ dần. Ngân hàng Nhà nước và phát triển

nông thôn, quỹ tín dụng đã thu nợ gần 800 triệu đồng. Qua một thời gian

thực hiện có thể thấy được những tác dụng, lợi ích thiết thực và một số khó

khăn, hạn chế. Lợi ích đối với người tiêu dùng là được hưởng thụ các nhu

cầu cần thiết về vật chất, tinh thần khi chưa kịp có đủ nguồn để chi

tiêu.Qua đó mà gop phần ổn định, nâng mức sống, tạo phấn khởi, tich cực

trong lao động, công tac, học tập. Đối với nền kinh tế mở cho vay tiều

dùng sẽ kích thích tiêu thụ hàng hoá, thúc đẩy sản xuất, lưu thông phát

triển. Về phía ngân hàng,tổ chức tín dụng mỏ rộng thêm nghiệp vụ,đa dạng

hoá các hoạt động tín dụng. Với nhiều khách hàng vay, mỗi món vay

23

không lớn thì phân tán được rủi ro. Các phức tạp khác qua cho vay và thực

- -

hiện bảo lãnh, tổ chức đoàn thể tìm hiểu thêm thị trường vốn để huy động

và phát triển thị phần tín dụng, dịch vụ ngân hàng.

III.5.Thành tựu và hạn chế của việc cho vay của các ngân hàng thương

mại ở Việt Nam.

III.5.1.Thành tựu.

Sau những năm thực hiện đổi mới, xác định mục tiêu, phương hướng

kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo phù hợp với

giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chúng ta

rất vui mừng về những kết quả đạt được như: Các chỉ tiêu kinh tế quan

trọng đạt và vượt mức kế hoạch, tổng sản phẩm trong nước tăng sản xuất

nông nghiệp tăng, sản xuất công nghiệp tăng, các ngành dịch vụ tăng, lạm

phát được kiềm chế, hoạt động có nhiều thuận lợi, các cam kết được bảo

đảm, cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tích cực, nhiều công trình đã

được xây dựng và đưa vào hoạt động, tạo thêm việc làm và giải quyết hàng

vạn lao động, quan hệ hợp tác kinh tế- thương mại với nhiều nước, với các

tổ chức quốc tế, các tổ chức tài chính tiền tệ lớn cảu thế giới và các cộng

đồng quốc tế được mở rộng. Những kết quả của chúng ta đạt được là sự cô

gắng lớn của toàn Đảng, toàn dân. Trong thành quả chung của cả nước,

ngành ngân hàng trong những năm qua cũng có những đóng góp rất quan

trọng. Có thể nói ngành ngân hàng có nhiều tiến bộ, hoàn thành nhiều

nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước giao. Cùng với chính sách

quản lý vĩ mô chung, hoạt động ngân hàng đã tập trung thực hiện tốt chính

sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát, ổn định và nâng dần giá trị đồng tiền, đẩy

mạnh huy động vốn, tăng cường quản lý ngoại hối và thực hiện chính sách

tỉ giá, chính sách lãi suất có hiệu quả. Vấn đề cho vay của ngân hàng

24

thương mại đã đóng góp những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp phát

- -

triển đất nước. Tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp

,các gia đình, các cá nhân có vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân

hàng mở rộng các hình thức cho vay để người dân có nhiều cơ hội được

vay vốn để mở rộng sản xuất. Đồng thời ngân hàng tìm được nhiều khách

hàng để cho vay, tạo cơ hội tăng doanh thu cho ngân hàng.Ví dụ như việc

cho vay tiêu dùng thông qua người đại diện vừa đạt được hiệu quả kinh tế,

vừa đạt được hiệu quả xã hội. Người vay không phải đến ngân hàng, không

mất thời gian cho thủ tục vay và trả nợ, đảm bảo được giờ giấc làm

việc.Thủ trưởng đơn vị có điều kiện quản lí chặt chẽ việc vay nợ của công

nhân viên chức.Đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn, cho các

hộ gia đình vay để phát triển kinh tế trang trại,đàu tư vào các công trình

lớn.

III.5.2.Hạn chế.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động cho vay của các

ngân hàng thương mại ở Việt Nam cũng còn có những hạn chế, thiếu sót

càn tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.

Hành lang pháp lí cho việc cho vay theo cơ chế thị trường mới tuy đã

có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn chưa hoàn toàn đồng bộ và hoàn chỉnh.

Ngày nay nhiều văn bản đã tạo điều kiện cho ngan hàng đi vào cuộc sống

và bước đầu phát huy hiệu lực,hiệu quả. Tuy nhiên, một số văn bản vẫn

còn trong quá trình soạn thảo, chậm được ban hành theo tiến độ đã đề ra,

một số khác mới được ban hành nhưng sau một thời gian cọ sát với thực

tiễn đã bộc lộ những hạn chế, thiếu sót cần được bổ xung, sửa đổi tiếp.Do

vậy,có thể nói hệ thóng văn bản chưa hoàn toàn đồng bộ và hoàn chỉnh.

Thị trường tiền tệ-tín dụng còn non yếu, kém phát triển, một số điều

kiện cần thiết để phát huy đầy đủ vai trò tích cực của cơ chế thị trường

25

chưa được đảm bảo đầy đủ. Tuy đã được hình thành và có một quá trình

- -

phát triển, nhưng so với các nước trong khu vực, các thị trường tiền tệ-tín

dụng ở Việt Nam còn có nhiều hạn chế như: Các thị trường chưa có sự liên

kết chặt chẽ và phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau ở mức độ cần thiết. Khối lượng

hàng hoá và giao dịch trên một số thị trường mới như thị trường mở, thị

trường chứng khoán còn nhỏ, các chỉ sốvà thông tin về hoạt động thị ở

chừng mực nào đó còn bị chia cắt, thiếu kịp thời, hoạt động của một số thị

trường như thị trường chứng khoán còn phải chụi sự quản lý trực tiếp của

nhà nước.

Hiệu lực và hiệu quả của cơ chế mới chưa được phát huy đầy đủ. Cơ

chế mới đến nay thực chất vẫn đang trong quá trình hình thành và hoàn

thiện, chưa hoàn toàn loại bỏ được các tàn dư của cơ chế cũ. Nhất là các

thói quen, cách làm cũ đã ăn sâu vào tiềm thức của nhiều cán bộ không thể

loại bỏ ngay. Do vậy, các công cụ cũ, phương thức hoạt động cũ đôi khi

vẫn còn được ưa dùng. Một số tổ chức tín dụng và một số doanh nghiệp

chưa thích ứng kịp với cơ chế mới, chưa sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh

26

thường có xu hướng quay về tìm kiếm sự bảo hộ của nhà nước.

- -

CHƯƠNG IV : GIẢI PHÁP CHO VAY AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ

CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

IV.1 Giải pháp về rủi ro cho vay.

Việc cho vay của các ngân hàng thương mại thường xuyên hiện rủi

ro và các ngân hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thận

các yếu tố có liên quan đến tính chân thật và khả nâng của người đi vay

trong việc hoàn trả nợ. Tuy nhiên, sự phân tích tín dụng không đạt đến

mức có thể dự đoán hoàn toàn chính xác về một khoản cho vay có được

hoàn trả như đã thảo thuận hay không. Rủi ro có nguyên nhân khách quan,

nguyên nhân chủ quan, có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên, nhưng là

loại rủi ro nào đều có khả năng phòng ngừa với các phương phgáp có thể

khác nhau. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó

thường chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả

về khối lượng công việc, cũng như với mức độ tạo lợi nhuận. Tỉ lệ thuận

với nó là mức độ rủi ro trong nghiệp vụ này chiếm phần lớn trong tổng

mức rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài rủi ro như

các nghành kinh tế khác ngân hàng còn bị rủi ro ngay cả khi đơn vị kinh tế

này vay vốn ngân hàng gặp rủi ro dẫn đến làm ăn thua lỗ và không có khả

nâng trả nợ vốn vay ngân hàng. Như vậy ngân hàng đã gặp rủi ro khi khách

hàng của mình gặp rủi ro. Rõ ràng khả năng gặp rủi ro của ngân hàng đã

được nhân lên gấp đôi. Khi đàu tư tín dụng có nghĩa là ngân hàng đã trao

quyền sử dụng sản phẩm của mình là tiền cho khách hàng. Mà khả năng

kiểm soát quá trình sử dụng sản phẩm của ngân hàng là rất khó khăn bởi

tính phức tạp của việc sử dụng tiền vay. Lúc này hoạt động của ngân hàng

với sản phẩm của mình như: ”Đem con bỏ chợ” sự kiểm soát của ngân

27

hàng chỉ có giới hạn nên yếu tố rủi ro luôn thường trực đối vơí nghiệp vụ

- -

này. Tiền là sản phẩm của ngân hàng, khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng nó

lại là mục đích của người vay vốn. Một số doanh nghiệp làm ăn không

đúng đắn khi vay được vốn đã thực hiện mục tiêu của mình, họ không

những sử dụng quyền sử dụng đồng tiền của ngân hàng mà còn muốn

chiếm đoạt luôn quyền sở hữu chúng. Với loại doanh nghiệp này rủi ro

phát sinh ngay từ khi ngân hàng bắt đầu thực hiện nghiệp vụ tín dụng phát

tiền vay đối với họ.

Rủi ro cho vay thường dẫn đến những khoản cho vay khó đòi, khả

năng trả nợ của các doanh nghiệp đối với ngân hàng rất thấp.

IV.1.1.Những khoản cho vay khó đòi.

Khoản cho vay khó đòi là những khoản mà người vay không có khả

năng trả nợ hoặc người vay chốn nợ. Nguyên nhân của những khoản cho

vay khó đòi là: Các khoản cho vay tiêu dùng: khi người vay bị thất nghiệp

hoặc ảnh hưởng do tình huống cá nhân dẫn đến không đủ khả năng trả nợ,

khoản cho vay vì mục đích sản xuất: các doanh nghiệp bị phá sản. Tổn thất

của cho vay khó đòi là: Các tổn thất cho vay ròng, lạm phát cao, các khoản

cho vay không hoạt động. Dấu hiệu của khoản cho vay khó đòi là: Trì hoãn

nộp các báo cáo tài chính, chậm trễ trong việc dàn xếp ngũng cuộc viếng

thăm nhà máy, số dư tiền ký thác giảm sút, xuất hiện séc rút quá số dư

hoặc bị trả lại, một sự gia tăng bất thường số hàng tồn kho, hoàn trả vay

ngân hàng chậm hoặc quá thời hạn, sự gia tăng của các tích sản cố định, sự

thay đổi nhà quản lý, cách bố trí tài chính mới hoặc các khoản nợ mới, các

thảm hoạ về thiên tai.

28

IV1.2. Giải pháp của khoản cho vay khó đòi.

- -

Khi gặp phải rủi ro tín dụng chúng ta phải xử lý các khoản cho vay

này. Trong xử lý các khoản cho vay có vấn đề, ngân hàng thương mại có

hai sự lựa chọn tổng quát khai thác hoặc thanh lý: Khai thác là một quá

trình làm việc với người vay cho đến khi khoản cho vay được trả một phần

hay toàn bộ và không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc thu ngân.

Thanh lý là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay,

áp dụng và thực hiện tất cả các biện pháp pháp lý để đạt mục tiêu.

Mặt khác, để không gặp rủi ro cho vay khó đòi chúng ta phải ngăn

ngừa và có biện pháp phòng ngừa có thể áp dụng để giảm bớt các thiệt hại

bao gồm: Tăng chio phí giám sát, thu ngân, mất vốn và những ảnh hưởng

đến cấu trúc tài chính nếu chúng xảy ra. Ngay khi có bằng chứng là người

vay đã gặp khó khăn tài chính chúng ta phải có biện pháp để xử lý chúng.

Phải có quy định về bảo lãnh, cầm cố, cho vay có bảo đảm.

IV.2. Giải pháp về nguyên tắc cho vay.

Các ngân hàng thương mại phải xác định được khi nào thì cho vay và

cho vay đối tượng nào. Thường thì cho các doanh nghiệp nhỏ vay thì bao

giờ cũng rủi ro hơn cho các doanh nghiệp lớn vay. Mặc dù nguyên tắc cho

vay được áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ cũng tương tự như các doanh

nghiệp lớn, nhưng trong doanh nghiệp nhỏ có ít người quản lý hơn, doanh

nghiệp nhỏ hơn có thể dễ dàng hơn trong việc đạt được sự nhất quán của

các nhân viên đối với mục tiêu của công ty. Trong các doanh nghiệp nhỏ,

nguồn tài chính cũng hạn hẹp hơn.

Thực hiện chất lượng tín dụng quan trọng hơn việc mở rộng tín dụng.

Chúng ta đã biết câu ngạn ngữ cổ “bất kỳ một thằng ngốc nào cũng có thể

29

cho vay tiền nhưng để thu được nợ thì cần một cái đầu thông minh”. Ngay

- -

từ đầu, tất cả các khoản cho vay phải có hai phương án trả nợ tách biệt:

Phương án một là mọi chuyện đều trôi chảy, cho vay thành công. Phương

án hai là dự phòng trường hợp nếu dự án không thành công thì doanh

nghiệp phải lấy tài sản của họ để trả nợ hay đi vay để trả nợ, bao gồm cả

việc sử dụng công cụ vay nợ trên thị trường…Phẩm chất đòi hỏi đối với

người vay tiền là hoàn toàn trung thực: Nếu ngân hàng nghi ngờ sự trung

thực, tư cách đạo đức hoặc ý định của người đi vay thì tốt nhất không tiến

hành cho vay. Nếu không hiểu rõ về doanh nghiệp thì đừng quyết định cho

vay: các ngân hàng thành công thường xác định một cách chính xác các

điều kiện cho vay phù hợp với các tài sản có mức độ rủi ro khác nhau và

họ phải chấp nhận những thiệt hại để có thể hiểu được khu vực thị trường

mà họ định tiếp cận.

Việc có cho vay tiền hay không là quyết định của ngân hàng, ngân

hàng phải cảm thấy hoàn toàn thoải mái khi ra quyết định cho vay: Việc có

cho vay hay không là một quyết định mang tính độc lập. Người ta không

thể đưa ra quyết định này mà chỉ trên những văn bản hướng dẫn hay những

kỹ thuật phân tích. Mỗi cán bộ tín dụng phải có sự nhạy cảm và khả năng

đánh giá chính xác. Với tư cách là người cho vay, cán bộ tín dụng phải dự

tính được mọi khả năng xẩy ra chứ không phải chỉ đối phó trước tình thế

một cách thụ động. Bạn phải thực sự cảm thấy chắc chắn về quyết định của

mình bởi vì bạn sẽ phải chịu trách nhiệm về nó.

Mục tiêu của khoản tiền cho vay phải hàm chứa cơ sở việc trả nợ: Để

hiểu được đầy đủ nguyên tắc này, bạn phải xem xét biểu phân bổ tài sản

của một ngân hàng xét trên phương diện tính lỏng.

Một ngân hàng phải có nhiều cơ sở dữ liệu thông tin về khoản cho

vay: Ngân hàng phải cố gắng biết được thông tin. Cán bộ tín dụng ngân

30

hàng cần quan tâm nhiều đến doanh nghiệp xin vay để nắm bắt thông tin

- -

của doanh nghiệp. Những người đi vay muốn giao dịch với những người

cho vay hiểu biết về lĩnh vực mà họ đang hoạt động. Cơ sở thông tin rất

hữu ích và nếu được sắp xếp tổ chức một cách phù hợp sẽ tạo điều kiện

cho việc quyết định cho vay dễ dàng hơn rất nhiều.

Cần phải đánh giá chất lượng quản lý của doanh nghiệp bên cạch

đánh giá các báo cáo tài chính: chất lượng quản lý thể hiện trên nhiều

phương diện đó là sự lựa chọn mang tính độc đoán hay dân chủ đối với

một cung cách thích hợp cho nghành công nghiệp và công ty đang hoạt

động, sự dễ dàng hoặc khắt khe trong việc cho phép nhũng người bên

ngoài công ty lắm giữ những chức vụ quan trọng, phong cách hoạt động

của các văn phòng công ty, cách thức tiến hành đổi mới, danh tiếng trong

cạnh tranh.

Các khoản thế chấp không thể được coi là thay thế cho việc trả nợ:

Việc tin rằng lắm được tài sản thế chấp là cầm chắc việc thu hồi khoản nợ

của người vay chẳng khác gì chuyện “đười ươi giữ ống”.

Khi khoản vay được đảm bảo bằng thế chấp thì các tài sản thế chấp

phải có tính khả mại, đồng thời ngân hàng nên có cách nhìn nhận ở góc độ

chuyên môn và không thiên vị đối với những tài sản này: các khoản nợ

được lấy từ nguồn vốn luân chuỷên. Chính vì vậy, các khoản thế chấp được

thiết lập một phần là để ngăn chặn việc những tài sản này được thanh toán

cho những người đi vay khác và một phần là để người cho vay được vị thế

mạnh hơn.

Không đựơc cẩu thả trong việc lập hồ sơ tín dụng kể cả các chi tiết

nhỏ vì chúng dễ làm hỏng khoản vay mà đáng lẽ có chất lượng tốt: Tỉ lệ

khoanh lớn thườnglà kết quả của việc tổ chức và quản lý sổ sách cẩu thả.

Không nên lúc nào cũng cho rằng các hợp đồng tín dụng sẽ không được

31

tôn trọng. Thông thường chỉ có những hợp đồng được chuẩn bị một cách

- -

vội vàng, cẩu thả mới hay xảy ra tranh chấp, mà kết cục sẽ được giải quyết

ở toà án.

Các ngân hàng địa phương phải là những người cho các doanh

nghiệp địa phương vay: Đây là một dấu hiệu báo trước nguy cơ rủi ro khi

các ngân hàng địa phương lại không phải là người cho các doanh nghiệp

địa phương vay.

Cần xem xét thái độ nôn nóng khi vay tiền của doanh nghiệp: Bất kỳ

ai thúc giục bạn sớm ra quyết định cho vay đều nên được xem xét kỹ

lưỡng. Mặt khác, việc chuẩn bị kỹ trước khi trả lời người đi vay cũng phải

tốn nhiều công sức.

Nếu một khoản nợ vay được bảo lãnh thì phải chắc chắn rằng lợi ích và

trách nhiệmcủa người bảo lãnh cũng tương đương như người đi vay. Khi

một nhà bảo lãnh ký một hợp đồng bảo lãnh, cán bộ tín dụng chắc chắn

dựa trên cam kết của nhà bảo lãnh này đối với việc thu hồi nợ thì bạn cũng

cần phải thận trọng. Cán bộ tín dụng cần phải biết rằng người bảo lãnh

hoàn toàn nhận thức được trách nhiệm của mình.

Cần phải biết chắc rằng khoản tiền mà ngân hàng cho vay được

doanh nghịêp dùng vào việc gì: Nếu như cán bộ tín dụng không trực tiếp

đến thăm doanh nghiệp thì cán bộ tín dụng không bao giờ cảm nhận được

môi trường, phong cách công ty và những tài sản vô hình khác. Thường

thường, bạn phải mất nhiều công sức trong việc thẩm định lại những gì mà

Giám đốc doanh nghệp nói, đặc biệt là với các doanh nghiệp nhỏ.

Trước hết phải nghĩ về lợi ích của ngan hàng, khi các nguyên tắc cho

vay bị vi phạm thì rủi ro sẽ tăng lên: Đánh giá tài sản là một danh mục

chính thức về tất cả tài sản có và tất cả tài sản nợ.

32

IV.3. Giải pháp về phương thức cho vay

- -

Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận

hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Vì vậy ngân hàng

thương mại phải có phương thức cho vay phù hợp với cơ chế thi trường

hiện nay.

Phương thức cho là một nội dung quan trọng thuộc kỹ thuật cung

ứng vốn tín dụng đối với các tổ chức kinh tế, khi xác định phương cho vay

thích hợp với một tổ chức kinh tế, sẽ tạo điều kiện tốt nhất để thực hiện các

nguyên tắc tín dụng, gắn sự vận động của vốn tín dụng với sự hoạt động

của đối tượng vay vốn. Ngày nay chúng ta nên vận dụng phương thức cho

vay theo nguyên tắc sau:

Trước hết, việc áp dụng phương thức cho vay này hay phương thức

cho vay khác phải trên cơ sở chu chuyển vốn và uy tín (độ tin cậy) của

khách hàng vay vốn đối với ngân hàng, không phân biệt thành phần kinh

tế, tránh tình trạng theo ý muốn chủ quan muốn giành phần lợi về mình.

Phương thức cho vay theo món: Nên áp dụng cho những khách hàng

vay vốn không thường xuyên, chu chuyển vốn chạm. Quá trình sản xuất

kinh doanh dịch vụ dứt điểm từng dụ án hay từng “thương vụ” nhất định

hoặc thiếu tín nhiệm trong quan hệ vay- trả với ngân hàng.

Áp dụng, có vận dụng phương thức cho vay luân chuyển: Đây là

phương thức cho vay rất phù hợp với tính năng động, nhanh nhậy của cơ

chế thị trường, rất thuận lợi cho khách hàng vay vốn có số vốn quay vòng

thường xuyên, hàng ngày, tạo điều kiện để vốn tín dụng luân chuyển đều

đặn qua quĩ ngân hàng. Qua đó tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát của

tín dụng trong quá trình sử dụng vốn vay, bổ trợ chức năng Giám đốc bằng

đồng tiền của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Nhưng phương thức này

cũng dễ làm cho ngân hàng mất thế chủ động về nguồn vốn kinh doanh, vì

33

các nội dung đã cam kết trong bản hợp đồng vay- trả.

- -

IV.4. Giải pháp về tín dụng của ngân hàng thương mại

Trong số các chức năng của ngân hangf thương mại thì chức năng

tập trung và phân phối lại vốn của nền kinh tế giữ vai trò trung tâm có ảnh

hưởng dến các chức năng khác và là chức năng quan trọng nhất. Trong thời

gian qua, các ngân hàng thương mại đã làm được chức năng này một cách

khá rõ nét. Tuy nhiên, những bất cập trong tập trung và phân phối vốn nói

trên vẫn đặt ra những câu hỏi lớn cần được phân tích để làm sáng tỏ. Nhìn

từ khía cạch là các trung tâm cung ứng cho nền kinh tế, mà cụ thể là các

doanh nghiệp thì các phương thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của doanh nghiệp. Nói một cách khác,

các sản phẩm tín dụng của ngân hàng thương mại với tính năng cụ thể ra

sao, có phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp hay không giữ vai trò lớn

quyết định hiệu quả sử dụng của người mua sản phẩm đó. Theo tiêu chí

của ngân hàng Thế giới (WB), thì các ngân hàng thương mại không được

đánh giá cao khi sản phẩm của họ chủ yếu là tín dụng, tức các ngân hàng

hoạt động chủ yếu là đi vay để cho vay. Các ngân hàng mạnh không chỉ

thể hện ở chỗ cung ứng một khối lượng tín dụng to lớn cho thị trường mà

còn ở chỗ phương thức cấp tín dụng như thế nào. Việc cho vay của các

ngân hàng không chỉ phụ thuộc quy mô hay cơ cấu nguồn vốn của mình

mà phải dựa trên sức mua của khách hàng, nhất là đặc điểm kinh tế, kỹ

thuật của đối tượng cho vay, đặc điểm tài chính của bên vay. Nói tóm lại là

có nhiều loại cho vay cụ thể để khách hàng lựa chọn phù hợp với yêu cầu

và khả năng của họ. Ttong thực tế hiện nay, các khách hàng hầu như ít có

cơ hội lựa chọn, nhiều khách hàng cần vốn dài hạn nhưng bắt buộc phải

vay vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Đây là điều bất cập mà ngay cả chính

34

các ngân hàng cũng lúng túng khi khách hàng đáo hạn phải dàn xếp cho

- -

khách hàng gia hạn hay đảo nợ mà đáng lẽ các ngân hàng có thể khắc phục

được bằng cách đưa ra các loại chi vay phù hợp với yêu cầu của khách

hàng. Chính vì thế các ngân hàng thương mại cần phải đa dạng hoá sản

phẩm tín dụng.

IV.5. Giải pháp cho vấn đề ứ đọng vốn hiện nay

Hiện nay trong hệ thống ngân hàng thương mại đang phải gặp một

trở ngại đáng tiếc là sự ứ đọng vốn đã được huy động chưa tìm kiếm được

đầu ra. Điều này cần phải tìm cho hệ thống ngân hàng thương mại một

giải pháp thích hợp để giải toả số vốn đang ứ đọng cần phải tìm nguyên

nhân của nó: nguyên nhân thứ nhất là sự hạn chế về đầu ra, nguyên nhân

thứ hai thuộc về chính sách tiền tệ.Để giải quyết vấn đề ứ đọng vốn trong

hệ thống ngân hàng chúng ta cần phải thực hiện những vấn đề sau:

Nhà nước cần phát hành các trái phiếu dài hạn với lãi suất tương đối

hấp dẫn đẻ thu hút nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội. Điều này sẽ thu hút

một bộ phận vốn đang có ngoài hệ thống ngân hàng và cả một vốn đang

nằm trong hệ thống ngân hàng do dân chúng rút lại tiền gửi để mua trái

phiếu dài hạn của nhà nước.

Nhà nước cho phép các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có triển

vọng mở rộng sản xuất, kinh doanh và trên cơ sở đó phát hành các trái

phiếu dài hạn, hoặc cổ phiếu đẻ thu hút vốn. Bên cạnh đó các ngân hàng

thương mại, các tổ chức tín dụng tích cực chuẩn bị tinh thần, điều kiện và

thực hiện phương thức tín dụng chiết khấu trái phiếu cho các chủ thể đã

mua trái phiếu nhưng hiện tại họ đang cầm tiền để chi tiêu.

Một biện pháp khác cần phải thực hiện ngay trên thị trường liên

ngân hàng một cách có hiệu quả. Tất cả ngân hàng thương mại đều có thế

tham gia để vay mượn lẫn nhau, qua đó ngân hàng. Nhà nước thực hiện

35

điều hoà lưu thông tiền tệ trên cương vị là người vay hoặc cho vay cuối

- -

cùng. Cần phải nghiêm túc nhìn nhận sự ứ đọng vốn trong nền kinh tế hiện

nay, đặc biệt là trong hệ thống ngân hàng là kết quả của toàn bộ hoạt động

của toàn bộ quá trình kinh tế vừa qua chứ không phải do kết quả điều hành

chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước.

IV.6. Giải pháp về nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng.

Vì môi trường kinh doanh tiền tệ ngày càng trở nên phức tạp, các

ngân hàng không ngừng yêu cầu các nhân viên tín dụng phải nâng cao

trình độ nghiệp vụ. Trái với thông lệ trước đây của một số ngân hàng, nhân

viên thường được đề bạt lên các chức vụ phụ trách tín dụng đều dựa vào

thời gian làm việc và tuổi tác cùng với một chút quan tâm về năng lực

chuyên môn thì hiện nay phần lớn các ngân hàng yêu cầu những người

muốn lầm cán bộ tín dụng phải có bằng cấp về ngân hàng, tài chính, kế

toán hoặc quản trị kinh doanh, hoặc có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

Nhiều ngân hàng cỡ lớn còn đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có bằng thạc sĩ về

kinh tế. Trên thực tế, do trình độ của khách hàng được nâng lên nên đòi hỏi

đội ngũ cán bộ tín dụng trong các ngân hàng thương mại tối thiểu phải có

trình độ tương đương với khách hàng của mình. Nhiều ngân hàng thương

mại xây dựng cho mình một chương trình đào tạo chính thức đối với cán

bộ tín dụng. Cơ chế một kèm một là cách tốt nhất để một học viên trực tiếp

học hỏi kiến thức từ nghiệp vụ tín dụng hàng ngày. Cán bộ tín dụng còn

được đào tạo bằng cách tham gia hội thảo, hội nghị, học tập ở các trường

đại học. Chương trình đào tạo cán bộ tín dụng của các tổ chức rất coi trọng

các kiến thức về chuyên môn cơ bản cho cán bộ tín dụng. Ngoài ra chương

trình đào tạo tín dụng thường được chú trọng vào các kinh nghiệm về quản

lý tín dụng trong các quy định về chính sách. Và được trang bị kiến thức

chuyên sâu về tín dụng cho vay bất động sản. Ngoài những tổ chức như các

36

trường, các viện… đào tạo mang tính chất chính quy, còn có những tổ chức

- -

khác để đào tạo lại hoặc nâng cao kiến thức và sự hiểu biết cho cán bộ tín

dụng đã có những thời gian làm việc nhất định. Bên cạnh đó trong tất cả

các ngân hàng thương mại đều có những thư viện lớn để các cán bộ tín

37

dụng đi sâu tìm hiểu, tự học hỏi để nâng cao trình độ của mình.

- -

CHƯƠNG V: PHƯƠNG HƯỚNG ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA

VIỆC QUẢN LÝ TIỀN CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Chúng ta biết rằng có vốn là điều kiện cần, nhưng chưa đủ để đạt tới

mục tiêu tăng trưởng. Cần phải có những giải pháp cụ thể, chi tiết và khoa

học nhằm định hướng sử dụng các nguồn vốn trong giai đoạn tới.

V.1.Chiến lược sử dụng vốn gắn với chiến lược kinh tế – xã hội.

Điều này thể hiện ở việc bố trí cơ cấu vốn đầu tư giữa các ngành các

vùng kinh tế. Vì vậy nguồn vốn đầu tư cần bố trí theo trình tự ưu tiên vào

các ngành và lĩnh vực như sau:

Vốn đầu tư tập trung mạnh mẽ cho khu vực sản xuất các loại hàng

hoá tiêu dùng và xuất khẩu với mục đích thu hồi vốn nhanh và tạo ra sự

phong phú cho thị trường hàng hoá, đồng thời tìm kiếm và tiến tới ổn định

thị trường ngoài nước và mặt hàng xuất khẩu chủ lực có khả năng cạnh

tranh mạnh và tiếp đó đầu tư cho phát triển một số ngành then chốt. Các dự

án đầu tư về kết cấu hạ tầng cần được thực hiện trên cơ sở kết hợp một

phần vốn huy động trong nước với phần huy động vốn từ nước ngoài, trong

đó cố gắng tạo được các nguồn vốn hỗ trợ chủ yếu từ nước ngoài.

V.2.Phân bổ thành phần vốn đầu tư trong từng dự án.

Phải khuyến khích mạnh mẽ và tạo mọi điều kiện cần thiết cho các

nhà đàu tư tập trung đàu tư cho máy móc, thiết bị và công nghệ. Đồng thời,

giảm tới mức thấp nhất các chi phí đầu tư cho công trìng xây lắp về kỹ

thuật cơ bản khác. áp dụng tiến bộ kỹ thuật và dây truyền công nghệ tiên

tiến, hiện đại phải trở thành một chính sách lớn của chính phủ đối với tất cả

38

các chủ đầu tư và phải thể hiện công khai và rõ ràng trong tất cả các sắc

- -

luật về thuế kháo và ngiã vụ. Có như vậy, nền sản xuất của chúng ta mới

thoát khỏi cảnh trạng hiện nay và mới toạ ra được môi trường sinh hoạt

công nghệ trong sản xuất và trong đời sống, đòng vốn đầu tư mới có thể

mang lại hiệu quả cao với chất lượng đảm bảo có khả năng cạnh tranh trên

thị trường. Bên cạnh đó, phải nâng cao hệ số đổi mới thiết bị nên ít nhất

bầng mức thiết bị của thế giới. Sớm nghiên cứu, xây dụng và thi hành các

giẩi pháp nhằm khuyến khính và bắt buộc các doanh nghiệp sử dụng tối đa

công suất máy móc thiết bị, khai thác hết mọi khả năng, tiềm tàng về lao

động, vật tư, tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Tất nhiên, việc khai thác

và sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đất nước càn được thể hiện trên cơ

sở các dự án quy hoạch tổng thể để đảm bảo hiệu quả và tránh những ảnh

hưởng xấu tới hệ sinh thái.

V.3. Nhiệm vụ đặt ra đối với nghành ngân hàng.

Tiếp tục thực hiện tốt mục tiêu ổn định sức mua đồng tiền một cách

vững chắc coi đây là nhiệm vụ hàng đầu xuyên suốt quá trình ổn định và

phát triển đất nước. Ngân hàng phải lường trước được những khó khăn của

nền kinh tế, cảnh giác với những nguy cơ tiềm ẩn của sự bùng nổ lạm phát,

chủ động điều hành tốt hơn chính sách tiền tệ, chính sách tỉ giá và quản lý

ngoại hối để góp phần kiềm chế lạm phát theo mục tiêu quốc hội đã đề ra.

Đồng thời ngân hàng phải thường xuyên quán xuyến mục tiêu lâu dài là

trên đất nước Việt Nam chỉ tiêu tiền Việt Nam.

Vấn đề cung ứng vốn cho nền kinh tế đang là đòi hỏi rất lớn, đặc biệt

là vốn trung, dài hạn để đầu tư phát triển, cải tạo và mở rộng năng lực sản

xuất. Đáp ứng yêu cầu này ngành ngân hàng phải tập trung mọi biện pháp

để khai thác vốn cả trong nước và ngoài nước. Cần phải phối hợp với cán

39

bộ các ngành xây dựng và tổ chức thị trường vốn, mở thị trường thứ cấp để

- -

tạo điều kiện cho dân mạnh dạn đầu tư vốn dài hạn. Có như vậy mới có

vốn để phục vụ cho nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hoá là nhiệm vụ

trọng tâm của giai đoạn mới.

Nâng cao chất lượng tín dụng, bao đảm an toàn hệ thống ngân hàng

mỗi ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống cần phải phân tích các loại dư

nợ để xác định nguyên nhân và biện pháp xử lý. Nợ quá hạn, mất vốn do

quản lý yếu kém, do chủ quan cá nhân gây ra phải chịu trách nhiệm thu hồi

hoặc xử lý trước pháp luật. Nợ quá hạn do khánh quan cần phối hợp với

các bộ ngành liên quan thống kê tập hợp để trình Chính Phủ các phương án

xử lý nhằm lành mạnh hoá và trong sạch về tài chính của hệ thống ngân

hàng. Toàn ngành phải có biện pháp khắc phục đến mức thấp nhất nợ quá

hạn mới phát sinh, nghiêm khắc và kiên quyết xử lý đưa ra khỏi ngành

ngân hàng những cán bộ vi phạm pháp luật và quy chế chế độ, tham

nhũng,thiếu trách nhiệm, tư lợi cá nhân.

Cần chủ động xử lý những vi phạm và tồn tại theo kết luận của tổng

thanh tra nhà nước và chỉ đạo của thủ tướng chính phủ. Tất cả các trường

hợp vi phạm pháp luật, vi phạm chế độ quản lý của ngành đều được xử lý

nghiêm túc. Những vi phạm pháp luật của các ngân hàng thương mại là

nghiêm trọng, nếu không có các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và khắc

phục sẽ gây tác hại rất lớn đối với kinh tế đất nước và những hậu quả xấu

khác về mặt xã hội.

Vấn đề thanh tra, kiểm tra phải được tăng cường và phải làm thường

xuyên nhằm ngăn chặn và phát hiện kịp thời những vi phạm. Các ngân

hàng phải chú trọng kiểm soát nội bộ, ngăn chặn các vụ việc phát sinh, sử

lý kịp thời những vi ngay trong bản thân mỗi một ngân hàng.

Cuối cùng là vấn đề cán bộ và đào tạo cán bộ. Thực tiễn những vấp

40

váp, vi phạm, tồn tại vừa qua, rõ ràng vấn đề không phải chỉ do cơ chế

- -

chính sách không đúng hoặc chưa đủ, mà quan trọng nhất là do con người

thực hiện không nghiêm túc, do phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ của

một số cán bộ kém. Vì vậy công tác đào tạo, tuyển chọn và sử dụng cán bộ

là vô cùng quan trọng, bao gồm đào tạo cả về kiến thức và phẩm chất đạo

41

đức…

- -

KẾT LUẬN

Qua việc nghiên cứu đề tài” Một số vấn đề về quản lý tiền cho vay

của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay” với những tài liệu

khá phong phú, cập nhật em đã hiểu được việc quản lý tiền cho vay của các

ngân hàng thương mại hiện nay là một vấn đề quan trọng. Nó có ý nghĩa

qyuết định đến việc kinh doanh của ngân hàng có lợi hay không và việc

thực hiện đúng đắn, chính xác những nguyên tắc quản lý tiền cho vay là

một vấn đề rất lớn nó ảnh hưởng đến cả một quá trình sản xuất kinh doanh

của các doanh nghiệp hiện nay và sự tăng trưởng, ổn định của nền kinh tế.

Nước ta là một trong những nước đang phát triển so với sự phát triển

chung của thế giới.Trình độ của chúng ta còn thấp nhiều khi gây ra những

thiệt hại lớn cho đất nước. Vì vậy, là một chính sách quan trọng của nhà

nước ta, chính sách tài chính tiền tệ phải làm sao đầu tư vào những ngành,

nghề chủ chốt, những dự án khả thi…thúc đẩy quá trình sản xuất để năng

cao năng xuất lao động, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên

42

của đất nước, giảm bớt lạm phát…

- -

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại

2. Cẩm nang quản lí tín dụng ngân hàng

3. Những giải pháp huy đọng và sử dụng các nguồn vốn

4. Tiền tệ và hoạt động ngân hàng- Lê Vinh Danh

5. Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính-Miskin

6. Cẩm nang quan quản lí tín dụng ngân hàng

7. Các tạp chí ngân hàng số 7/01, 12/99, 3/95, 2/01…

8. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ

43

9. Tạp chí kinh tế phát trển

- -

44

- -