LUẬN VĂN:

Về quyền giám sát tối cao

của quốc hội

LờI NóI ĐầU

1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta ,sau nhiều năm qua đã thu

được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng như: nước ta đã thoát ra

khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội .Đó là một bước ngoặt lớn trong công cuộc

đổi mới của Đảng và Nhà nước ta nhưng bên cạnh vẫn còn một số mặt chưa vững

chắc , vẫn còn nhiều khó khăn thách thức và nhiều biến động phức tạp . Cho nên

Đảng và Nhà nước ta đã phát huy kế thừa những thành tựu đạt được để góp phần

đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, để đẩy mạnh được nền kinh tế nước ta phát triển một cách vượt bậc thì

Đảng và Nhà nước ta cũng cần phải quan tâm về vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của

Quốc hội , làm cho Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất , thực hiện

được đúng chức năng , quyền hạn theo quy định của Hiến Pháp và Pháp luật.Nghị quyết

Đại hội 9 của Đảng khẳng định: “ lãnh đạo việc đổi mới và tăng cường công tác thanh tra

của Chính phủ và các cơ quan hành pháp;phát huy vai trò giám sát của Quốc hội,Hội đồng

nhân dân , Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm

quyền của các cơ quan đó.Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp uỷ , của uỷ ban kiểm

tra các cấp,tập trung vào các nội dung chủ yếu:Thực hiện các Nghị quyết,chủ trương,chính

sách của Đảng và Nhà nước;chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm

việc;củng cố đoàn kết,nội bộ,giáo dục, rèn luyện,nâng cao phẩm chất,đạo đức Cách mạng

của cán bộ,đảng viên ”

Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức

năng quyền hạn quan trọng của Quốc hội đã được quy định trong các bản Hiến

pháp của nước ta và được Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 83 và Điều 84 .

Do vậy,nghiên cứu về quyền giám sát tối cao của Quốc hội thực sự là một

yêu cầu khách quan và là một đòi hỏi bức xúc trong công tác giám sát của

Quốc hội về mặt lý luận và thực tiễn .

2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu.

2.1.Về phạm vi

Trong phạm vi một bản khoá luận,tác giả tập trung vào giải quyết

những vấn đề sau :

Một là,xây dựng quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Trên cơ sở phân

tích nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội và rút ra những

phương thức để thực hiện quyền đó,phân biệt quyền giám sát tối cao của

Quốc hội với thẩm quyền kiểm tra việc tuân theo Hiến pháp và Pháp luật của

các cơ quan Nhà nước khác

Hai là,đưa ra thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội

năm 1997 đến năm 2002 và xác định nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt

động giám sát của Quốc hội trong thời gian qua ( chủ yếu là Hiến pháp năm 1992 )

Ba là,đưa ra những kiến nghị đổi mới tổ chức và phương

pháp thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Tiêu chuẩn đại biểu

Quốc hội và những điều kiện cần thiết để đại biểu Quốc hội thực hiện được

đúng và đầy đủ quyền giám sát của mình,tăng thẩm quyền giám sát cho các

Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội hoặc thành lập Hội đồng giám sát Hiến

pháp , xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc

2.2. Về phương pháp nghiên cứu

Khi viết bài luận này,chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu

sau: phương pháp triết học Mác xít,phương pháp biện chứng Mác – LêNin,phương pháp

so sánh,phương pháp lịch sử,phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp,phương pháp

diễn dịch.

3. Kết cấu của bản luận văn .

Lời mở đầu .

- Chương 1:Cơ sở lý luận của quyền giám sát tối cao của Quốc hội nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

- Chương 2:Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam , nguyên nhân và bài học

- Chương 3 : Những phương pháp tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của

Quốc hội .

Kết luận

chương I

CƠ Sở Lý LUậN QUYềN GIáM SáT TốI CAO CủA QUốC HộI NƯớC

CộNG HOà Xã HộI CHủ NGHĩA VIệT NAM

I . Vị trí pháp lý của Quốc hội, bản chấi, nội dung và phương thức thực hiện

1. Vị trí pháp lý của Quốc hội .

“ Vị trí pháp lý”là một thuật ngữ chuyên nghành của khoa học pháp lý có

nguồn gốc la tinh là“Status” dùng để khái quát hoá vị trí,mô hình của một cơ quan

nhà nước nào đó trong hệ thống các cơ quan nhà nước thông qua các quy định của

pháp luật.

Vị trí pháp lý của Quốc hội tức là chức năng, nhiệm vụ,quyền hạn và mối

quan hệ của Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác được Hiến pháp quy định

cho Quốc hội.Vị trí pháp lý này được Hiến pháp năm 1992 quy định khái quát tại

Điều 83:“Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân,cơ quan quyền lực

Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp

Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm

vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu

về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của

công dân.

Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà

nước’’

Theo quy định của Hiến pháp - đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước coa nhất trong toàn bộ cơ cấu tổ chức

các cơ quan Nhà nước Việt Nam.Sở dĩ,Hiến pháp quy định như vậy vì Quốc hội là

cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quyền trực tiếp bầu ra và là cơ quan duy nhất

mà thành phần đại biểu đại diện cho tất cả dân tộc của cả nước . Vì thế, Quốc hội

là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân mà“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ

nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”(Điều 2 – Nghị

quyết về việc sửa đổi,bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 thông qua

ngày 25/ 12/ 2001)nên để bảo đảm cho Quốc hội thực hiện tốt là cơ quan đại biểu

của nhân dân thì Hiến pháp quy định Quốc hội được nhân dân giao nhiệm vụ và

thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực thống nhất cả nước. Nói một cách

khác,nhân dân là chủ thể tối cao của đất nước,nhân dân vừa trực tiếp vừa gián tiếp

thực hiện quyền lực Nhà nước.Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước

bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực Nhà nước, từ đó hình thành bộ máy Nhà

nước và nhân dân trực tiếp bàn bạc những vấn đề quan trọng của đất nước.Bên

cạnh đó, nhân dân gián tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước nghĩa là nhân dân sử

dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội để quyết định những vấn đề quan

trọng nhất của đời sống xã hội và của Nhà nước.

Ngoài tính đại diện nhân dân của Quốc hội,vị trí pháp lý của Quốc hội còn

được thể hiện ở tính quyền lực Nhà nước.Quyền lực Nhà nước là quyền quyết định

những công việc quan trọng của cả nước,cả xã hội dưới hình thức pháp luật,quyền

được tổ chức ra những lực lượng,những cơ quan để bảo đảm việc thi hành pháp

luật và quyền giám sát việc thi hành pháp luật.Và theo Điều 83 của Hiến pháp

1992 thì:“Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất Nhà nước”,Quốc hội

thay mặt nhân dân,thực hiện quyền lực của nhân dân và chỉ có Quốc hội mới có

quyền biến ý chí của nhân dân thành luật.Do vậy,quy định trên chứng tỏ việc tổ

chức quyền lực Nhà nước ta không theo nguyên tắc phân quyền,không phân chia

quyền lực như Nhà nước tư bản mà tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ

nghĩa.

Trong một thời gian dài,có quan điểm cho rằng:Quốc hội là cơ quan quyền

lực cao nhất có toàn quyền quyết định mọi vấn đề của đất nước.Nhưng vì Quốc

hội không có điều kiện thiện hiện được những quyền hạn đó nên Quốc hội phải

thành lập ra những cơ quan Nhà nước khác và giao cho chúng những nhiệm

vụ,quyền hạn của mình.Nói một cách cụ thể là sở dĩ Chính phủ, Toà án nhân

dân,Viện kiểm sát nhân dân có được quyền hạn và nhiệm vụ là do nhận được từ

Quốc hội.Thực tiễn đã cho thấy nhận thức như trên là không phù hợp với thực tế

hoạt động của bộ máy Nhà nước,nhận thức đó đã đem lại sự khó khăn khi cần xác

định trách nhiệm pháp lý của các cơ quan Nhà nước và những khó khăn do việc

không phân định rõ chức năng,quyền hạn của các cơ quan Nhà nước tạo ra.Ví

dụ,nói một cách cụ thể,nhận thức trên sẽ rất khó phân định được quyền giám sát

tối cao của Quốc hội với quyền kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,với

quyền giám đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao và với quyền thanh tra của

Chính phủ.

Như vậy,cần nhận thức lại,đúng hơn về vị trí pháp lý của mỗi cơ quan Nhà

nước.Mỗi cơ quan trong hệ thống các cơ quan Nhà nước đều có vị trí pháp lý của

nó.Vị trí đó được xác định từ cách thức thành lập,nhiệm vụ,quyền cơ quan Nhà

nước khác như Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao.Những cơ quan Nhà nước trên

có chức năng,quyền hạn theo luật định nhưng đều phải có trách nhiệm báo cáo

trước Quốc hội và phải chịu sự giám sát của Quốc hội.

2. Bản chất , nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội .

2.1. Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một bộ phận không

thể tách rời quyền lực Nhà nước.Mà quyền lực Nhà nước được biểu hiện

trong đời sống xã hội theo những phương thức sau:

- Nhà nước đặt ra Hiến pháp và pháp luật.

- Nhà nước giám sát các cá nhân trong hoạt động thực tiễn.

- Nhà nước xử lý,trừng phạt cá nhân khi có hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp

luật

Từ những vấn đề trên cho thấy,giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là

một khâu không thể thiếu trong hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước và vì vậy

giám sát là một bộ phận không thể tách rời quyền lực Nhà nước .

2.2. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và Quốc hội nắm

quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.

Nguyên tắc mọi quyền lực của đất nước đều thuộc về nhân dân là nguyên tắc

được nhiều nước công bố.Nhưng quyền lực đó được tổ chức và phân công như thế

nào lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,điều kiện chính trị–xã hội , truyền thống

dân chủ,phong tục tập quán,thái độ tâm lý của nhân dân,quan hệ của mỗi nước với

cộng đồng quốc tế,sự lãnh đạo và đường lôí chính trị của Đảng nắm chính

quyền.Tóm lại là những điều kiện lịch sử–xã hội mà trong đó Nhà nước tồn tại.

Nhìn một cách tổng quát,xét về mặt lý thuyết các nước trên thế giới hiện nay

có bốn cách tổ chức và phân công quyền lực Nhà nước:

Cách thứ nhất:Phân lập quyền lực một cách triệt để.

Cách thứ hai:Phân công và phối hợp quyền lực .

Cách thứ ba:Quyền lực tập trung vào hành pháp hoặc lập pháp .

Cách thứ tư :Thống nhất quyền lực Nhà nước.

Nhà nước Việt Nam hiện nay tổ chức và phân công quyền lực theo cách thứ tư

. Cách tổ chức và phân công quyền lực xuất phát từ cơ sở lý luận,xuất phát từ điều

kiện kinh tế,điều kện chính trị – xã hội và mối quan hệ của nước ta với cộng đồng

quốc tế như sau:

- Về mặt lý luận: Mác- Ăngghen và LêNin không chỉ quan tâm,chú trọng đến

việc nghiên cứu bản chất của quyền lực và quyền lực của Nhà nước mà còn rất

quan tâm đến việc tổ chức và phân công quyền lực trong Nhà nước xã hội chủ

nghĩa như thế nào. Những luận điểm, những nguyên lý cơ bản về tổ chức Nhà

nước xã hội chủ nghĩa đã được LêNin thể hiện tập trung và súc tích nhất trong tác

phẩm “Nhà nước và cách mạng”LêNin đã viết: “Lấy cái gì để thay thế bộ máy

Nhà nước đã bị phá huỷ ? ”

Vấn đề này, năm 1847, trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”Mác chỉ có

một lời giải đáp hoàn toàn trừu tượng, hay nói đúng hơn,chỉ đặt ra nhiệm vụ mà 1không đề ra phương pháp giải quyết. Thay bộ máy Nhà nước bằng việc “Tổ chức

giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị bằng dành lấy dân chủ”đó là câu giải đáp

trong “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” .

Không muốn rơi vào không tưởng, Mác chờ vào kinh nghiệm của phong trào

quần chúng để xem tổ chức ấy của giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp thống trị

sẽ theo những hình thức cụ thể nào... Mác viết “Công xã không phải là một cơ

quan đại nghị , mà là một tập thể hành động, vừa lập pháp ,vừa hành pháp

...”LêNin đã phân tích một cách sâu sắc những luận điểm cơ bản của Mác: “Công

xã thay thế chế độ đại nghị bán mình và thối nát ấy của xã hội tư bản bằng những

cơ quan, trong đó quyền tự do ngôn luận và tự do thảo luận không biến thành lừa

bịp vì các nghị sĩ phải tự mình công tác, tự mình thực hiện những luật pháp của

mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những luật pháp ấy, tự mình phải chịu

trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình ” . Trong quá trình lãnh đạo cách mạng

xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, kết hợp lý luận với thực tiễn, LêNin đã xây

dựng Nhà nước kiểu mới theo nguyên tắc “ Tất cả quyền hành thống nhất, đầy đủ

và không chia sẻ trong tay toàn thể nhân dân ” .Như vậy theo quan điểm của chủ

nghiã Mác –LêNin về Nhà nước ,muốn quyền lực thực sự là của nhân dân thì phải

tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước cho cơ quan đại biểu cao nhất của nhân

dân là Quốc hội hoặc XôViết và vì vậy trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Quốc hội

là cơ quan đại biểu cao nhất đồng thời cũng là cơ quan quyền lực Nhà nước cao

nhất. Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đều có quy định và thể

hiện nguyên tắc thống nhất và tập trung quyền lực trong tổ chức bộ máy Nhà nước

.Việt Nam cũng vận dụng quan điểm này và điều đó được thể hiện trong các quy

định về vị trí pháp lý của Quốc hội trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta. Sự

phân tích trên có thể dẫn đến một nhận xét là:Quyền giám sát việc tuân theo Hiến

pháp và pháp luật là một bộ phận không thể tách rời của quyền lực Nhà nước và

Quốc hội nước ta là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.Do đó,Quốc hội nắm

quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.

Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin về tổ chức và hoạt động

của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tồn tại trong một thời gian dài và được vận

dụng vào việc tổ chức bộ máy Nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa trước

đây.Nhưng cùng với sự thay đổi chính trị ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ

nghĩa ở Đông Âu cũng có nhiều quan điểm của các luật gia, các nhà khoa học xã

hội ở Việt Nam nhận thấy cần có sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy

Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước

là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng và cấp bách đã được ghi nhận

trong Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7. Nhưng đổi mới như thế nào,

theo khuynh hướng nào, có áp dụng lý luận phân chia quyền lực không, đó là

những vấn đề đã được đặt ra trong quá trìmh soạn thảo Hiến pháp năm 1992 của

nước ta và trong Đại hội lần thứ 7 của Đảng cộng sản Việt Nam.Cho đến nay,như

chúng ta đã thấy,Hiến pháp năm 1992 đã ra đời và khẳng định vị trí pháp lý của

Quốc hội tại Điều 83 “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nước Cộng hoà

xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với

toàn bộ hoạt động của Nhà nước ”

Điều đó cũng thể hiện rõ quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới

tổ chức và hoạt động của Nhà nước.Nhà nước ta vẫn được tổ chức theo nguyên tắc

1 1. Cải cách hành chính Nhà nước, NXB sự thật, Hà Nội, 1991, trang 16

tập trung dân chủ nhưng có sự phân công phân cấp rành mạch.“ Quốc hội ta là cơ

quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.

Thay mặt nhân dân cả nước thực thi quyền lực mà nhân dân giao cho, ...Với tư

cách là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao, Quốc hội vừa quyết định luật, vừa

giám sát các cơ quan Nhà nước thi hành luật. Nhưng không lẫn lộn với quyền hành

pháp của Chính phủ,cũng như quyền độc lập xét xử của Toà án.”Trong Nghị quyết

và các văn kiện khác của Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7 đã phân tích

rõ trong điều kiện kinh tế,chính trị xã hội và quan hệ quốc tế của nước ta hiện nay

thì Nhà nước ta cần được đổi mới,cần có sự phân công,phân cấp rành mạch trong

tổ chức và hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước nhưng vẫn cần thống nhất và

tập trung quyền lực vì điều đó là bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,là điều

đảm bảo cho quyền lực của đất nước thực sự thuộc về nhân dân.Chúng tôi nhất trí

và đồng ý với quan điểm trên của Đảng vì :

- Xét về mặt kinh tế:Nền kinh tế nước ta đang chuyển mạnh sang nền kinh tế

hàng hoá nhiều thành phần nhưng đó là nền kinh tế phát triển theo định hướng xã

hội chủ nghĩa,có sự quản lý của Nhà nước.Sự vận động và phát triển của nền kinh

tế thị trường tất yếu đòi hỏi phải có một thị trường thống nhất trong cả nước và có

sự quản lý của Nhà nước bằng một hệ thống pháp luật thống nhất,đó là mong

muốn và là điểm thống nhất về lợi ích của mọi tầng lớp dân cư và mọi giai cấp

trong xã hội.Mặt khác,tuy nền kinh tế có nhiều thành phần nhưng nhân dân vẫn là

chủ sở hữu của tất cả những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của đất nước.

- Xét về mặt chínhtrị – xã hội:Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần tăng lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Sự phân biệt

giàu,nghèo trong xã hội có nhưng cơ cấu giai cấp trong xã hội chủ yếu vẫn là giai

cấp công nhân,nông dân và tầng lớp trí thức.Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là chính

đảng duy nhất đang tồn tại và vị trí lãnh đạo của Đảng đã có chiều dài lịch sử và

2 1. Đỗ Mười: Xây dựng Nhà nước của nhân dân – thành tựu – kinh nghiệm đổi mới, NXB sự thật Hà Nội 1992, trang 14

cần được xã hội thừa nhận,những quan điểm và tư tưởng của Đảng vẫn là những quan điểm và tư tưởng có tác dụng chi phối trong xã hội.2

- Xét về mối quan hệ quốc tế:Sự ổn định về chính trị của Nhà nước ta cũng là

một trong những yếu tố để Nhà nước ta tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác kinh

tế và nhiều lĩnh vực khác đối với cộng đồng quốc tế .

Từ sự phân tích trên,có thể dẫn đến kết luận là:xuất phát từ những điều kiện

lịch sử cụ thể về kinh tế,chính trị và xã hội,về quan hệ với cộng đồng quốc tế,Nhà

nước Việt Nam vẫn duy trì nguyên tắc tập trung và thống nhất quyền lực Nhà

nước,mà Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.Do đó,Quốc hội nắm

quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật,nhưng có đổi mới,đó

là việc phân công,phân cấp rành mạch trong tổ chức Nhà nước.

Trong các Nhà nước tư sản việc tổ chức và phân công quyền lực theo nguyên

tắc quyền lực được phân chia thì giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật

thường được tiến hành dưới hai hình thức sau đây :

-Kiểm tra trước:Các dự luật đã được thảo luận trước khi thông qua và công bố

đều được một cơ quan chuyên trách kiểm tra tính hợp hiến của đạo luật đó.

- Kiểm tra sau:Khi đạo luật đã ban hành và được thi hành,cơ quan chuyên trách

phát hiện ra những điều khoản không hợp hiến.

Và có hai hình thức tổ chức việc kiểm tra,giám sát :

- Thành lập một cơ quan chuyên trách do Quốc hội cử:Hội đồng bảo Hiến, Viện

bảo Hiến,Uỷ ban kiểm tra Hiến pháp.

- Thành lập cơ quan tài phán(Toà án Hiến pháp)

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 của nước ta thì quyền giám sát tối cao

của Quốc hội về việc thi hành Hiến pháp pháp luật,về việc kiểm tra tính hợp Hiến

của các đạo luật cũng được tiến hành dưới hai hình thức :

- Kiểm tra trước:Các dự án luật,pháp lệnh khi đưa ra thảo luận đều được các

Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra.Báo cáo thẩm tra được trình bày trước

Quốc hội khi một dự án luật được đem ra trước Quốc hội thảo luận.

- Kiểm tra sau:Việc thi hành Hiến pháp và pháp luật do nhiều cơ quan Nhà

nước kiểm tra:Viện kiểm sát nhân dân tối cao,... theo chức năng và quyền hạn của

các cơ quan đó.

Cách tổ chức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội là:bằng quy định

của luật,Quốc hội giao cho nhiều cơ quan Nhà nước giám sát và nghe báo cáo của

các cơ quan đó.Quốc hội tập trung giám sát trực tiếp đối với hoạt động của Chính

phủ,...Và để làm điều đó,Quốc hội giao cho các Hội đồng và Uỷ ban giám sát

trong phạm vi quyền hạn của các cơ quan này theo luật định. Quốc hội không có

cơ quan chuyên trách giám sát.

Ưu điểm lớn nhất của cách giám sát của Quốc hội được thể hiện tập trung

vào quyền lực của nhân dân.Nhân dân thông qua cơ quan đại biểu cao nhất của

mình là Quốc hội xây dựng pháp luật và nhân dân thông qua hoạt động của Quốc

hội giám sát việc thi hành pháp luật và quyền giám sát của Quốc hội là quyền giám

sát tối cao.Tuy nhiên, để bảo đảm thực hiện được mục đích trên thì cần có một cơ

chế thích hợp và những điều kiện cần thiết về nhiều mặt.

2.3. Nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội

Để hiểu đúng và đầy đủ nội dung,ý nghĩa của quyền giám sát tối cao của

Quốc hội,trước hết cần tìm hiểu thuật ngữ “giám sát”

- Theo từ điển Tiếng Việt,“giám sát”được hiểu là“sự theo dõi,xem xét làm

đúng hoặc sai những điều đã quy định”.Hoặc được hiểu là“theo dõi và kiểm tra

xem có thực hiện đúng những điều quy định không ”.

- Trong từ điển tiếng Nga“giám sát.”được hiểu là“một nhóm hoặc một tổ chức

để theo dõi người, việc nào đấy”

Tuy nhiên cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ“giám sát”có khác nhau

nhưng chúng có điểm chung nhất là:

-“Giám sát”dùng để chỉ các hoạt động theo dõi,xem xét,kiểm tra và nhận định

về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đá quy định.

- “Giám sát”luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định,tức là phải trả lời được câu

hỏi:ai(người hoặc tổ chức nào)có quyền thực hiện việc theo dõi xem xét, kiểm tra

và đưa những nhận định về một việc nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai

những điều đã quy định.

-“Giám sát cũng luôn luôn gắn với một đối tượng cụ thể,tức là phải trả lời được

câu hỏi:giám sát ai,giám sát việc gì.Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó

phân biệt giữa“giám sát”và“kiểm tra”.“Kiểm tra”thì chủ thể hoạt động và đối

tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau đó là việc tự

kiểm tra của chủ thể hoạt động.Nói một cách khác,tự chủ thể hoạt động xem xét kỹ

để đánh giá tình trạng tốt,xấu của công việc đang là.Nhưng “giám sát”thì không có

tình trạng tự chủ thể hoạt động theo dõi,xem xét chính hoạt động của mình.

-“Giám sát”phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể hoạt động giám sát và đối

tượng chịu sự giám sát tức là chủ thể hoạt động có những quyền và nghĩa vụ gì đối

với đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại ...

Như vậy, thuật ngữ “giám sát”nếu chỉ hiểu theo nghĩa chung nhất thì phạm vi

của nó rất rộng rãi nên bao giờ cũng phải gắn liền với một chủ thể nhất định thì lúc

đó mới đem lại cho ta một thông tin,một nhận thức cụ thể .

Căn cứ vào những yếu tố cấu trúc của khái niệm“giám sát”,căn cứ vào những

quy định của Hiến pháp và pháp luật thì khái niệm“Quyền giám sát tối cao của

Quốc hội”gồm:

+Chủ thể của quyền giám sát tối cao:Xuất phát từ vị trí hoạt động Nhà nước ta

là nguyên tắc tập trung dân chủ và quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân

dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan đại biểu 3cao nhất và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là Quốc hội. Quốc hội giám

sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật,điều đó được thể hiện trong các bản Hiến

pháp của Nhà nước ta.Ví dụ theo Điều 83,Hiến pháp 1992:“...Quốc hội là cơ quan

đại biểu cao nhất...giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”,vận

dụng lý luận của chủ nghĩa Mác –LêNin về Nhà nước và pháp luật,căn cứ vào quy

định trên của Hiến pháp 1992 thì Quốc hội là chủ thể duy nhất của quyền giám sát

tối cao vì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất ở nước ta.

+Đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội.

Căn cứ vào Hiến pháp năm1992,luật Tổ chức Quốc hội,luật Tổ chức Chính

3 1. Từ điển học sinh NXB giáo dục 1971 Hà Nội, trang 305 2. Từ điển tiếng việt, Viện khoa học xã hội Việt Nam, viện ngôn ngữ học Hà Nội 1992, trang 803 3. Từ điển bách khoa luật học, Mát xcơva 1987, trang 230

phủ,luật Tổ chức Toà án nhân dân,luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì những

cơ quan Nhà nước như Chính phủ Toà án,Viện kiểm sát....tuy có những nhiệm vụ

và quyền hạn độc lập nhưng những người đứng đầu cơ quan đó đều phải chịu trách

nhiệm và báo cáo công tác của mình trước đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp Quốc

hội hoặc phải trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội.Những văn bản mà các cơ

quan Nhà nước đó ban hành phải phù hợp với Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc

hội,pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Mặt khác,Quốc hội có thể quyết

định sửa đổi hoặc huỷ bỏ,đình chỉ việc thực hiện những văn bản đó khi xét thấy có

vi phạm Hiến pháp,luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường

vụ Quốc hội. Điều đó cũng có nghĩa là những cơ quan Nhà nước kể trên chịu sự

giám sát của Quốc hội. Quốc hội có quyền giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong

hoạt động thực tiễn và trong nội dung văn bản của Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà

án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Đó chính là những đối tượng

chịu sự giám sát của Quốc hội.

+ Những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến,lập pháp, và quyền giám sát tối

cao.Nhưng để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động giám sát,bảo đảm cho

Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của Hiến pháp và

luật khi thực hiện quyền giám sát của mình,Quốc hội phải có những căn cứ nhất

định :

* Quốc hội phải căn cứ vào những quy định của Hiến pháp,luật,nghị quyết của

Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

* Quốc hội căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan Nhà

nước chịu sự giám sát của Quốc hội và căn cứ vào báo cáo thực tế hoạt động của

những cơ quan Nhà nước đó. Khi cần thiết,Quốc hội có thể chất vấn hoặc đi xem

xét thực tế tình hình có đúng như báo cáo của cơ quan Nhà nước không.

Như vậy,nội dung giám sát của Quốc hội là theo dõi,kiểm tra tính hợp hiến, hợp

pháp đối với nội dung các văn bản của cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của

Quốc hội ban hành và tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động thực tiễn của các cơ

quan Nhà nước đó.

+ Những hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát.

Để đảm bảo cho quyết định của Quốc hội được chấp hành,Quốc hội phải thực

hiện những biện pháp:

* Ra nghị quyết buộc các cơ quan Nhà nước khác phải nghiêm chỉnh chấp

hành.

* Điều 2,điểm 9 luật Tổ chức Quốc hội 2001:“Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch

nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân

dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết

của Quốc hội ”

* Điều 2,điểm 7 luật Tổ chức Quốc hội thông qua năm 2001:“Bầu,miễn

nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội , các Phó

Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Thủ tướng Chính

phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Căn cứ vào quy định của Hiến pháp ,căn cứ vào quy định của luật Tổ chức

Quốc hội 2001,căn cứ vào luật Tổ chức Chính phủ,luật Tổ chức Toà án nhân

dân,luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân,cho thấy,nội dung của quyền giám sát tối

cao của Quốc hội là:“quyền thực hiện việc theo dõi,xem xét,kiểm tra tính hợp

hiến,hợp pháp đối với các văn bản và hoạt động của Chủ tịch nước,Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và

Viện kiểm sát nhân dân tối cao,xử lý những vi phạm Hiến pháp,luật và Nghị quyết

của Quốc hội do những cơ quan nói trên gây ra nhằm bảo đảm cho Hiến pháp,luật

và Nghị quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp hành”

3. Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội

Theo quy định của Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 thì

Quốc hội thực hiện chức năng giám sát thông qua:

- “Xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,

Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao”

Để Quốc hội có cơ sở vững chắc xem xét các báo cáo trên của các cơ quan

Nhà nước thì theo quyết định của Chủ tịch Quốc hội hoặc theo người điều khiển

phiên họp có thể chuyển cho các Uỷ ban hữu quan của Quốc hội để thẩm

tra,nghiên cứu trước,sau đó Uỷ ban thảo luận báo cáo của các thành viên và phải

chuẩn bị báo cáo thuyết trình trước Quốc hội

Khi Quốc hội xét các báo cáo thì Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc

hội,Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao cũng phải chịu trách

nhiệm báo cáo công tác của cơ quan,của ngành mình trước Quốc hội .

Tóm lại nghe và xét báo cáo là phương thức bắt buộc đối với các cơ quan

Nhà nước.Bên cạnh đó nó còn là phương pháp giúp Quốc hội gián tiếp nhận được

thông tin một cách đầy đủ và kịp thời về tình hình tuân theo Hiến pháp và Pháp

luật trong hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội đồng thời tăng cường trách

nhiệm cá nhân của những người đứng đầu Chính phủ và các ngành về công tác của

họ trước Quốc hội .

- Chất vấn,một phương pháp giám sát quan trọng của đại biểu Quốc hội , “Đại

biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội , Thủ tướng

Chính phủ,Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,Chánh án Toà án nhân

dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao .

Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp,trong trường hợp cần

điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban Thường vụ Quốc

hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản”(Điều 98-Hiến

pháp)

Theo tinh thần của Hiến pháp,chất vấn là biện pháp thực hiện hữu hiệu quyền

giám sát của Quốc hội,chất vấn luôn phát huy tác dụng của nó và là quyền của đại

biểu Quốc hội.Chất vấn thường nêu ra các vấn đề đã được các đại biểu điều tra

nghiên cứu buộc chính quyền và người bị chất vấn phải trả lời nghiêm túc.Hiệu

quả của trả lời chất vấn là cơ sở để các nhà quản lý áp dụng hay không áp dụng

biện pháp kỷ luật đối với những người bị chất vấn,có quyền chất vấn .

Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ,Chủ tịch

nước,Chủ tịch Quốc hội...trong hoặc ngoài thời gian Quốc hội họp.Nếu đại biểu

Quốc hội mà không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch

Quốc hội đưa vấn đề ra thảo luận trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc

hội.Trong trường hợp này,Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đưa ra nghị

quyết về việc trả lời chất vấn.Như vậy,chất vấn và trả lời chất vấn biểu hiện tập

trung ở quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Thông qua chất vấn và trả lời chất

vấn,người đứng đầu các cơ quan Nhà nước thể hiện được trách nhiệm và năng lực

của mình trước nhiệm vụ được giao,trước Nhà nước,Quốc hội và nhân dân.Có thể

nói đây là hình thức được đông đảo cử tri quan tâm và đánh giá cao(Báo cáo công

tác của Quốc hội nhiệm kỳ 10) .

- Giám sát bằng hoạt động kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp và pháp

luật ở địa phương,cơ sở của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,các Hội đồng và Uỷ ban

lâm thời của Quốc hội,Uỷ ban của Quốc hội.Các Uỷ ban này thực hiện quyền giám

sát của mình bằng nhiều hình thức và yêu cầu các cơ quan Nhà nước hữu quan báo

cáo về hoạt động của cơ quan Nhà nước liên quan đến hoạt động kiểm tra,giám sát

của Uỷ ban.Ngoài ra,các Uỷ ban có thể thành lập các đoàn đi kiểm tra,giám sát ở

cơ sở,địa phương,để góp phần cùng với địa phương tìm giải pháp tháo gỡ khó

khăn,phát hiện và xử lý các vấn đề quan trọng trong nhiều lĩnh vực,giúp địa

phương thực hiện tốt chủ trương chính sách.

- Giám sát qua việc xét đơn thư khiếu nại của nhân dân .

Là một bộ phận quan trọng của Nhà nước,của dân,do dân và vì dân,với trách

nhiệm là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân cho nên khi nhận được hàng vạn

kiến nghị của nhân dân cả nước.Quốc hội,các cơ quan của Quốc hội đã chuyển đến

cơ quan hữu quan của Nhà nước và đã từng bước được hồi âm và xử lý có hiệu

quả .

Như vậy,những phương thức giám sát trên của Quốc hội có quan hệ gắn bó

với nhau và hỗ trợ cho nhau vì mỗi phương thức giám sát đều có điểm mạnh và

điểm hạn chế của nó.Vì thế,trên thực tiễn hoạt động giám sát,Quốc hội có thể lựa

chọn những phương thức giám sát khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung của vấn đề

cần phải giám sát và vào đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội .

II. Quan hệ quyền giám sát tối cao của Quốc hội với những quyền khác của Quốc hội

,sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,pháp

luật của các cơ quan Nhà nước khác.

Để hiểu rõ về bản chất và nội dung của quyền giám sát tối cao,cần phải xác

định vị trí và mối quan hệ của quyền giám sát tối cao với những quyền khác của

Quốc hội.Nhưng mặt khác cũng cần phải tìm hiểu sự khác nhau giữa quyền giám

sát tối cao với việc kiểm tra thi hành Hiến pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà

nước khác .

1. Quan hệ quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội .

1.1. Quyền giám sát tối cao với quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội .

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992,tại Điều 84,điểm1,Quốc hội có những

nhiệm vụ và quyền hạn:“Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp,làm luật và sửa

đổi;quyết định chương trình xây dựng luật,pháp lệnh”.Đây là một trong những

quyền hạn quan trọng của Quốc hội,thông qua hoạt động lập hiến,và lập pháp,ý chí

và nguyện vọng của nhân dân,đường lối và chính sách của Đảng được thể chế hoá

thành luật và trở thành công cụ sắc bén nhất để Nhà nước quản lý xã hội .

Quan hệ giữa quyền lập hiến và lập pháp với quyền giám sát là tất yếu khách

quan,không thể tách rời nhau,có quan hệ chặt chẽ với nhau quyền này bổ trợ cho

quyền kia và ngược lại;quan hệ đó được biểu hiện cụ thể như sau:

- Đối với công tác lập hiến và lập pháp thì quyền giám sát giữ một vị trí và vai

trò rất quan trọng;cụ thể trong quá trình xây dựng một văn bản luật mới và để

thông qua nó về lĩnh vực nào của xã hội thì Quốc hội phải tuân theo quy trình làm

luật mà Quốc hội đã thông qua,quy trình đó không đơn thuần là một vấn đề kỹ

thuật lập pháp mà còn bảo đảm dân chủ trong quá trình làm luật . Quy trình làm

luật,một vấn đề mà bất cứ cơ quan Nhà nước nào hoặc người trình dự án khi xây

dựng một văn bản luật cũng đều phải trình bày những cơ sở thực tế cho việc soạn

thảo một dự án văn bản luật mới.Để trả lời được vấn đề trên một cách có căn cứ thì

phải có điều tra xã hội học và sự tổng kết thực tiễn việc thi hành luật của các cơ

quan và người trình dự án luật.Nhưng về phía Quốc hội,các Hội đồng,Uỷ ban của

Quốc hội khi nghe trình bày những vấn đề trên,cũng phải có những quan điểm của

mình chứ không phải nghe các báo cáo dự thảo.Nhưng khi muốn có căn cứ để xem

xét,thẩm tra các dự án luật, Quốc hội,các Hội đồng ,Uỷ ban của Quốc hội phải dựa

vào kết quả hoạt động giám sát của chính mình về những vấn đề văn bản dự thảo

đề cập.Vì vậy,ở góc độ kỹ thuật và quy trình lập hiến,và lập pháp thì giám sát là

một khâu không thể thiếu trong quá trình làm Hiến pháp và pháp luật.Nhưng thực

tiễn cho thấy hoạt động giám sát vẫn còn là một khâu yếu,còn nhiều hạn chế,sự đổi

mới còn chậm và hiệu quả chưa cao,do đó báo cáo thẩm tra của Uỷ ban còn thiếu

cơ sở thực tiễn thi hành luật.Qua đó cho thấy,nếu như Quốc hội làm tốt các công

tác giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật thì đó chính là điều kiện để

Quốc hội,các Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật một cách có căn cứ

thực tế vững chắc,có tính thuyết phục,không phải bằng lập luận chung mà có số

liệu thống kê,chứng cứ cụ thể và do đó có khả năng thuyết phục mạnh mẽ; vì thế

giám sát nằm ngay trong quá trình lập hiến và lập pháp ,là một khâu không thể

thiếu trong qua trình lập pháp.Ngoài ra,việc giám sát thực hiện một văn bản luật

cũng giữ một vai trò quan trọng,điều đó thể hiện khi một văn bản luật ra đời.Khi

một văn bản luật ra đời,để triển khai và áp dụng luật phải có hàng loạt các văn bản

pháp quy do cơ quan Nhà nước khác ban hành.Do đó, cần phải kiểm tra tính hợp

hiến,hợp pháp của những văn bản pháp quy xem có đúng quy định của luật mới

ban hành hay không.Trong quy trình thực hiện và áp dụng luật,cần phải tăng

cường hoạt động giám sát chặt chẽ thì mới kịp thời phát hiện được những thiếu

sót,những mâu thuẫn trong văn bản luật mới thông qua và có biện pháp kịp thời

sửa đổi,bổ sung luật.Điều đó có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong tình hình hiện nay

của đất nước ta .

Trong quá trình xây dựng kế hoạch làm luật và pháp lệnh,Quốc hội phải dựa

vào kết quả hoạt động giám sát để xem xét,cần tập trung xây dựngvăn bản luật nào

là cần thiết nhất

- Đối với công tác giám sát,quyền lập hiến và lập pháp cũng giữ một vị trí

quan trọng.Việc xây dựng Hiến pháp và luật chính là việc tạo ra cơ sở,căn cứ để

Quốc hội thực hiện quyền giám sát,nếu thiếu căn cứ này thì hoạt động giám sát sẽ

mất đi tính mục đích...Chính vì vậy mà việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện

hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện để bảo đảm cho hoạt động giám

sát được thực hiện một cách có hiệu quả và bảo đảm tính mục đích của hoạt động

giám sát.Có thể nói,quyền lập pháp và việc bảo đảm thực hiện quyền đó là một

trong những điều kiện không thể thiếu được trong hoạt động giám sát .

Tóm lại,không có một chuẩn mực,không có một thước đo để đánh giá, nhận

xét về hoạt động của Chính phủ,Toà án nhân dân ,Viện kiểm sát nhân dân;vì vậy

công việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện pháp luật là điều kiện để đảm bảo

cho hoạt động giám sát có hiệu quả;do đó quyền lập pháp là một trong những điều

kiện không thể thiếu trong hoạt động giám sát và hoạt động giám sát cũng tác

động mạnh mẽ đến việc xây dựng pháp luật .

1.2. Quyền giám sát tối cao với những quyền quyết định những vấn đề quan

trọng của Nhà nước .

Cùng với việc đẩy mạnh công tác lập pháp và hoạt động giám sát,Quốc hội

ngày càng chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét,quyết định các vấn đề

quan trọng của đất nước.Việc“quyết định chính sách tài chính,tiền tệ quốc

gia;quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và việc phân bổ ngân sách Trung

ương,phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước;quy định,sửa đổi hoặc bãi bỏ các

thứ thuế ”(Điều 84, điểm 4,Hiến pháp 1992).

Theo chức năng,nhiệm vụ của mình,hàng năm Quốc hội đã xem xét quyết

định nhiệm vụ kinh tế–xã hội , dự toán ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân

sách Nhà nước.Việc chuẩn bị và thông qua các nghị quyết về nhiệm vụ và ngân

sách Nhà nước luôn được quan tâm cải tiến,các chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu được cụ

thể hoá để Quốc hội dễ thực hiện,dễ kiểm tra,dễ giám sát.Mà các quyền quyết định

về tài chính là biểu hiện quyền lực của nhân dân về kinh tế,nhân dân thực hiện

quyền lực đó thông qua Quốc hội .

Đối với quyền giám sát tối cao,quyền quyết định về những vấn đề ngân sách

Nhà nước giữ một vai trò quan trọng gần như có tính chất quyết định đối với hiệu

quả của công tác giám sát của Quốc hội vì:Thông qua hoạt động giám sát về việc

sử dụng ngân sách Nhà nước của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm

sát nhân dân tối cao,Quốc hội nắm được thực trạng tình hình hoạt động của các cơ

quan Nhà nước này.Có thể nói,Quốc hội chỉ thực sự có được quyền lực Nhà nước

cao nhất khi Quốc hội thực sự nắm được quyền quyết định về những vấn đề tài

chính và ngân sách.Thông qua việc thực hiện này,Quốc hội không chỉ kiểm

tra,giám sát việc hoạt động của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát

nhân dân tối cao mà còn điều chỉnh những hoạt động đó theo nghị quyết của Quốc

hội.Như vậy,một trong những điều kiện để bảo đảm cho quyền giám sát tối cao

của Quốc hội được thực sự thực hiện và có hiệu quả thì Quốc hội phải thực hiện

đúng và đầy đủ quyền quyết định ngân sách.

Tóm lại,quyền giám sát tối cao của Quốc hội mà thực hiện được thì cần phải

có một khoản tiền lớn,nếu Quốc hội không thực hiện và giữ được quyền phân bổ

ngân sách Nhà nước thì không thể tự quyết định được khoản chi cho hoạt động

giám sát hàng năm của Quốc hội.Nếu hoạt động giám sát của Quốc hội khi thực

hiện lại phụ thuộc vào điều kiện về tài chính do Chính phủ cấp thì không thể bảo

đảm tính khách quan trong hoạt động giám sát của Quốc hội được và ảnh hưởng

lớn đến tính khả thi của kế hoạch và chương trình giám sát mà Quốc hội đề

ra.Ngược lại ,quyền giám sát tối cao cũng có một vị trí và vai trò rất quan trọng

đối với việc thực hiện quyền về ngân sách của Quốc hội.Để có thể quyết định một

cách có căn cứ những vấn đề về tài chính và ngân sách Nhà nước,Quốc hội phải

căn cứ vào những kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội nhất là giám sát việc

thực hiện ngân sách Nhà nước của Chính phủ và những cơ quan Nhà nước chịu sự

giám sát của Quốc hội chứ không thể chỉ căn cứ vào các báo cáo của những cơ

quan Nhà nước kể trên .

1.3. Quyền giám sát của Quốc hội với quyền quyết định về tổ chức,bầu và

bãi,miễn các chức vụ cao nhất của Nhà nước .

“Bầu,miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc

hội,các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Thủ

tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối

cao;phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm,miễn

nhiệm,cách chức Phó thủ tướng,Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính

phủ”( Hiến pháp 1992)

Chỉ trên cơ sở hoạt động pháp luật của Quốc hội,Quốc hội mới có căn cứ

vững chắc để quyết định những vấn đề về tổ chức Nhà nước,về bầu và bãi ,miễn

các chức vụ cao cấp của Nhà nước.Ngược lại quyền bầu,bãi miễn được bảo

đảm,đó chính là sự thể hiện trực tiếp quyền lực của Quốc hội trong hoạt động

giám sát .

Quyền giám sát tối cao của Quốc hội là một bộ phận trong hệ thống thẩm

quyền của Quốc hội,do đó mà nó có quan hệ chặt chẽ với tất cả các quyền khác

của Quốc hội mà Hiến pháp quy định.Hoạt động giám sát là một trong những cơ

sở quyết định những vấn đề mà Hiến pháp quy định thuộc thẩm quyền của Quốc

hội.Ngược lại việc thực hiện các quyền khác là điều kiện làm cho quyền giám sát

của Quốc hội được tôn trọng và được thực hiện

2. Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến

pháp,Pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác

2.1. Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền thanh

tra của Chính phủ

- Thanh tra,kiểm tra của Chính phủ là hình thức biểu hiện của quyền kiểm soát

của Chính phủ đối với bộ máy các cơ quan,tổ chức,cá nhân trong xã hội nhằm bảo

đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung Ương đến cơ sở,theo phạm vi và lĩnh

vực thuộc thẩm quyền

Theo Điều 1 của Pháp lệnh Thanh tra thì“Thanh tra là một chức năng thiết yếu

của cơ quan quản lý Nhà nước,là phương thức bảo đảm pháp chế,tăng cường kỷ

luật trong quản lý Nhà nước,thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”nhiệm vụ

và quyền hạn của Thanh tra Nhà nước được quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh

Thanh tra.

- Xét về mặt chủ thể:Quyền Thanh tra thuộc về Chính phủ theo quy định của

Điều 112 Hiến pháp 1992,đây là hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước,tự kiểm

tra,giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong quá trình điều hành của

Chính phủ

- Xét về mặt đối tượng:Theo quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh Thanh tra thì

đối tượng của công tác Thanh tra là hoạt động quản lý của các cơ quan Nhà nước

từ cấp Bộ trở xuống .

- Xét về phương thức thực hiện và hiệu quả pháp lý:Thanh tra tiến hành theo

những quy định của Pháp lệnh Thanh tra-Điểm phân biệt Thanh tra với kiểm sát ở

đây là:Nếu có vi phạm pháp luật tới mức coi là tội phạm thì chỉ có Viện kiểm sát

nhân dân có quyền khởi tố và giữ quyền công tố Nhà nước còn Thanh tra thì chỉ

xử lý các vi phạm pháp luật chưa đến mức coi là tội phạm trong hoạt động quản lý

của cơ quan Nhà nước

2.2. Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền Giám

đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao .

- Về mặt chủ thể:Toà án tối cao giám đốc việc xét xử Toà án các cấp theo quy

định tại Điều 18,luật Tổ chức Toà án nhân dân và theo quy định tại Điều 134,Hiến

pháp năm 1992,như vậy,Toà án nhân dân tối cao là chủ thể của hoạt động giám

đốc,tức là xem xét,kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động của cơ quan

Nhà nước,vì nó quan hệ đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

trong quan hệ với Nhà nước.Nói một cách khác,giám sát tính hợp hiến,hợp pháp

trong hoạt đông xét xử của Toà án là chức năng,nhiệm vụ của Toà án nhân dân tối

cao,vì Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước

- Về mặt đối tượng chịu sự giám đốc:Căn cứ vào quy định của Hiến pháp 1992

Điều 134 thì đối tượng chịu sự giám sát mà ở đây gọi là giám đốc xét xử của Toà

án nhân dân tối cao là hoạt động xét xử của các Toà án nhân dân các cấp , các toà

án quân sự và toà án đặc biệt,trừ trường hợp các quy định khác của Quốc hội khi

thành lập các Toà án đó

- Về phương thức thực hiện:Toà án nhân dân tối cao thực hiện quyền giám đốc

theo quy định của Luật tố tụng hình sự và Luật tố tụng dân sự và những quy định

khác do luật định khi thẩm quyền xét xử của Toà án được mở rộng.

- Về hiệu quả pháp lý:Theo luật định ,khi phát hiện có sai lầm và vi phạm pháp

luật trong hoạt động xét xử,Toà án nhân dân tối cao có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ

bản án của Toà án cấp dưới .

Như vậy luật quy định thẩm quyền xử lý các vi phạm Hiến pháp và luật trong

hoạt động xét xử của Toà án là của Tòa án nhân dân tối cao và chỉ có Toà án nhân

dân tối cao mới có quyền thay đổi quyết định của các bản án do Toà án cấp dưới

đã tuyên khi xét thấy có vi phạm pháp luật.Quốc hội không phải là cơ quan xét xử

và cũng không làm thay nhiệm vụ giám đốc của Toà án nhân dân tối cao.

Nhưng Quốc hội có quyền xét báo cáo công tác của Toà án nhân dân tối cao và

khi cần thiết Quốc hội có thể ra Nghị quyết về công tác của Toà án.Do đó,khi phát

hiện những vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án, qua việc kiểm

tra tình hình thi hành pháp luật của các Toà án do các Uỷ ban của Quốc hội thực

hiện,Quốc hội không trực tiếp thay đổi quyết định trong bản án đã tuyên,nhưng

Quốc hội có quyền chất vấn Chánh án Toà án nhân dân tối cao về công tác xét xử

của Toà án hoặc ra Nghị quyết đề nghị Toà án nhân dân tối cao phải xem xét lại

các bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và báo cáo với Quốc hội

2.3.Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền kiểm

sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

- Về mặt chủ thể:“Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp

luật của các Bộ , các cơ quan ngang Bộ,các cơ quan khác thuộc Chính phủ,các cơ

quan chính quyền địa phương,tổ chức kinh tế,tổ chức xã hội,đơn vị vũ trang và

nhân dân”Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Điều 137,Hiến pháp

1992 .

- Về đối tượng chịu sự kiểm sát:Theo quy định của Hiến pháp thì đối tượng giám

sát của Viện kiểm sát nhân dân rất rộng lớn,bao gồm hoạt động của tất cả các cơ

quan Nhà nước từ cấp Bộ trở xuống,các tổ chức xã hội,đơn vị vũ trang và công

dân

- Về phương thức thực hiện:Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi thực hiện hoạt

động kiểm sát phải tuân theo những quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân và Luật tố tụng

- Về hiệu quả pháp lý:Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong hoạt động của

các đối tượng trên thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền khởi tố nếu có dấu

hiệu tội phạm,kháng nghị hoặc kiến nghị đối với vi phạm pháp luật đối với các cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết các vi phạm pháp luật đó

Như vậy,Quốc hội không phải là cơ quan thực hiện việc kiểm sát tính hợp

hiến,hợp pháp trực tiếp đối với mọi hoạt động của từng công dân...đó là công việc

của Viện kiểm sát nhân dân tối cao , nhưng hiện nay , chức năng kiểm sát chung

đã được chuyển cho Quốc hội.

Tóm lại,giám sát,kiểm sát,giám đốc là những thuật ngữ khác nhau để chỉ hoạt

động giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của những cơ quan Nhà nước

có vị trí pháp lý khác nhau.Chúng có đối tượng giám sát và phương thức thực

hiện,hiệu quả pháp lý khác nhau.Cần phân biệt hoạt động giám sát của Uỷ ban của

Quốc hội khi Uỷ ban đó đi kiểm tra tình hình thực tế việc thi hành pháp luật với

hoạt động kiểm sát và giám đốc ở chỗ:cũng đều là kiểm tra,xem xét nhưng các Uỷ

ban của Quốc hội không làm thay nhiệm vụ cho các cơ quan chức năng của Nhà

nước và cũng không trực tiếp giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật cụ thể,mà

các Uỷ ban của Quốc hội chỉ thu thập tài liệu,đưa ra các kiến nghị để các cơ quan

chức năng của Nhà nước thực hiện. Mặt khác,đó là cơ sở để giúp Quốc hội thực

hiện quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan Nhà nước thuộc thẩm quyền giám

sát trực tiếp của mình .

Sự khác nhau cơ bản giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với thẩm quyền

kiểm tra việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan Nhà nước là ở

phạm vi,đối tượng chịu sự giám sát và ở thẩm quyền xử lý các vi phạm Hiến pháp

và pháp luật.Các cơ quan Nhà nước khác có quyền kiểm tra xử lý các vi phạm

Hiến pháp và pháp luật,đó là sự phân công phân cấp rành mạch trong hoạt động

quản lý xã hộ của Nhà nước.Nhưng quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và

pháp luật cao nhất thuộc về Quốc hội.Quốc hội không làm thay chức năng,nhiệm

vụ của những cơ quan Nhà nước khác nhưng Quốc hội có quyền kiểm tra hoạt

động của các cơ quan Nhà nước đó và nếu phát hiện có sự vi phạm Hiến pháp và

pháp luật trong xã hội chưa được các cơ quan Nhà nước xử lý thì Quốc hội có

quyền yêu cầu các cơ quan chức năng của Nhà nước giải quyết theo thẩm quyền

và phải báo cáo trước Quốc hội.Nếu các cơ quan Nhà nước đó không thực hiện

những Nghị quyết của Quốc hội thì Quốc hội xử lý những vi phạm Hiến pháp và

pháp luật của các cơ quan(Thủ trưởng cơ quan)theo quy định của Hiến pháp và

pháp luật.Đó là cách tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực giám

sát của Nhà nước ta

CHƯƠNG II

Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước cộng hòa xã hộichủ

nghĩa Việt Nam,nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát

của Quốc hội

I. Những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong Hiến pháp 1992.

Hiến pháp 1992 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

thông qua ngày 15/ 4 / 1992 và được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố

ngày 18/ 4 1992,Bản Hiến pháp mới này của Nhà nước ta ra đời trong điều kiện

lịch sử trọng đại,nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang

tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh

tế–xã hội.Kế thừa và phát triển tính ưu việt của ba bản Hiến pháp trước, Hiến

pháp 1992 đã thể chế hoá đường lối cách mạng đổi mới của Đảng ta mà Nghị

quyết Đại hội Đảng lần thứ 7 đề ra thành những quy định của Hiến pháp,trong đó

có những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội.

Vị trí pháp lý và chức năng của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam được Hiến pháp 1992 quy định tại Điều 83:

“ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất

của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội là cơ quan cao nhất có quyền lập hiến và lập pháp

Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại nhiệm vụ

kinh tế-xã hội,quốc phòng,an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ

chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước,về quan hệ xã hội và hoạt động của công

dân.

Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của đất

nước”. Quy định trên khẳng định nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống nhất và

tập trung trong tay toàn thể nhân dân,nhân dân thực hiện quyền lực đó thông qua

cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của mình là Quốc

hội.Điều đó thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta là Nhà nước của dân,do

dân và vì dân.Quy định trên của Hiến pháp 1992 về cơ bản không có gì mới so với

Hiến pháp 1980 nhưng ý nghĩa quan trọng cuả nó là ở chỗ:nó khẳng định tổ chức

và hoạt động của Nhà nước ta có đổi mới và là một sự đổi mới sâu sắc nhưng có

nguyên tắc,và những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà

nước,trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- LêNin về Nhà nước vẫn được Đảng ta

tôn trọng.

Chính vì vậy,theo quy định trên,Quốc hội nước ta vẫn là cơ quan quyền lực Nhà

nước cao nhất và quyền giám sát tối cao là một bộ phận cấu thành quyền lực Nhà

nước của Quốc hội được Hiến pháp 1992 khẳng định

Để thực hiện quyền giám sát tối cao với tư cách là một bộ phận quyền lực Nhà

nước như đã trình bày ở tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của tất cả các cơ

quan Nhà nước,tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế,đơn vị vũ trang và công dân.Do đó

bằng quy định của Hiến pháp và luật,Quốc hội phân định quyền giám sát việc

tuân theo Hiến pháp và pháp luật có những cơ quan Nhà nước khác nhau theo

đúng tinh thần cuả Nghị quyềt đại hội Đảng lần thứ XII là:Tập trung thống nhất

quyền lực nhưng có sự phân công rành mạch giữa các cơ quan Nhà nước.Đó là

một bước tiến để xây dựng một Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Quốc hội chỉ

giữ lại thẩm quyền giám sát của mình đối với hoạt động của Chủ tịch nước,Chính

phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao .

Để giám sát tính hợp hiến và trong hoạt động Chính phủ, Chủ tịch nước,Toà

án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Hiến pháp 1992 quy định tại

Điều 84,điểm 2,Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn:"Thực hiện quyền giám sát

tối cao việc tuân theo Hiến pháp,Luật và Nghị quyết của Quốc hội;xét báo cáo của

Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Toà án nhân dân tối

cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao "

- Tại Điều 91,điểm5,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền:"giám sát việc thi

hành Hiến pháp,luật,Nghị quyết của Quốc hội,pháp lệnh,Nghị quyết của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội;giám sát hoật động của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao…"

- Tại Điều 94 và Điều 95:Các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội có quyền thực hiện

quyền giám sát trong phạm vi nhệm vụ,quyền hạn do luật định,kiến nghị những vấn đề

thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban.Đây là một điểm mới rất quan trọng trong quy định

của Hiến pháp 1992 về quyền giám sát của các Uỷ ban.Theo Hiến pháp 1980,các Uỷ ban

chỉ có quyền giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước trong hoạt động giám sát,cùng với quy

định trên của Hiến pháp 1992 các Uỷ ban có quyền giám sát theo luật định.Quy định này

nhằm tăng cường vị trí và vai trò của các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội trong công tác

giám sát.Đó là sự tổng kết,đúc kết kinh nghiệm thực tế giám sát của Quốc hội từ 1980 trở

lại đây .

- Tại Điều 98:"Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc

hội,Thủ tướng Chính phủ…Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước,tổ

chức xã hội , tổ chức kinh tế,đơn vị vũ trang trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội

quan tâm".Quyền chất vấn và yêu cầu của Đại biểu Quốc hội là một trong những quyền

hạn quan trọng để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình đối với các cơ

quan Nhà nước nói trên .

Để giám sát tính hợp hiến hợp pháp của các văn bản pháp quy do Chủ tịch

nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Hiến pháp 1992

quy định:

- Tại Điều 84, điểm 9 : Quốc hội có quyền:"Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước,Uỷ

ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và

Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội"

- Tại Điều 91,điểm 5:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền:"Đình chỉ các văn bản của

Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao

trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội huỷ bỏ các văn bản

đó;huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,Viện

kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội "

Để bảo đảm cho các Nghị quyết của Quốc hội trong hoạt động giám sát được

nghiêm,chỉnh chấp hành,Hiến pháp 1992 có những quy định sau :

- Tại Điều 84,điểm 4;Quốc hội có quyền"quyết định chính sách tài chính,quyết định

dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước,phê chuẩn và quyết toán

ngân sách Nhà nước…"và tại Điều 100:"Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại

biểu Quốc hội". Đây là một quyền rất quan trọng của Quốc hội,Quốc hội muốn nắm

được thực sự quyền lực Nhà nước thì trước hết phải nắm được ngân sách Nhà nước.Trong

quy định của điểm 4 Điều 84,Quốc hội còn có quyền phân bổ ngân sách Nhà nước,đó là

một quy định mới so với quy định của Hiến pháp 1980 về vấn đề này.Giám sát việc sử

dụng ngân sách là một hoạt động giám sát chặt chẽ và có hiệu quả nhất trong hoạt động

giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước.Bằng việc phân bổ ngân sách Nhà

nước,Quốc hội buộc các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của mình theo luật định phải

báo cáo hoạt động của họ trước Quốc hội và phải thuyết trình được chương trình và kế

hoạch ngân sách trong hoạt động của họ và do đó,các cơ quan phải chấp hành nghiêm

chỉnh các Nghị quyết của Quốc hội nếu họ muốn Quốc hội duyệt và cấp ngân sách Nhà

nước cho hoạt động của họ .

- Tại Điều 84 điểm7:Quốc hội có quyền "Bầu, miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch

nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội,các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên

của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối

cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về

việc thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh,phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính

phủ về việc bổ nhiệm,miễn nhiệm,cách chức Phó Thủ tướng,Bộ trưởng và các thành viên

khác của Chính phủ".

- Tại Điều 91,điểm 8:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền"Trong thời gian Quốc

hội không họp,phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn

nhiệm,cách chức Phó Thủ tướng,Bộ trưởng,các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo

với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội

Những quy định trên nhằm bảo đảm cho các Nghị quyết của Quốc hội phải được

các cơ quan Nhà nước tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.Nếu có sự vi phạm nghiêm

trọng Hiến pháp,luật,Nghị quyết của Quốc hội trong hoạt động của cá nhân người giữ các

chức vụ nói trên hoặc trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước do những người có

chức vụ nói trên phụ trách thì họ phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Quốc hội và bị xử lý

theo quy định trên .

Ngoài ra,để đảm bảo cho hiệu quả của hoạt động giám sát của Quốc hội được thực

hiện và đẩy mạnh,Hiến pháp 1992 quy định về các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội có

một số thành viên hoạt động chuyên trách theo Điều 94 và Điều 95 của Hiến pháp 1992

Hiến pháp 1992 cũng không có quy định về việc Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm Nội

các như Hiến pháp 1946 với những lý do mà chúng tôi đã trình bày ở phần Hiến pháp

1980.Những quy định trên của Hiến pháp 1992 được Luật Tổ chức Quốc hội cụ thể hoá

để có thể thực hiện được quyền giam sát tối cao của Quốc hội trong thực tế .

Còn đối với những đối tượng khác cần phải giám sát việc tuân theo Hiến

pháp và pháp luật,bằng quy định của Hiến pháp 1992,Quốc hội phân định thẩm

quyền giám sát đó cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo quy định của Điều 137

và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải chịu trách nhiệm và báo cáo

trước Quốc hội theo quy định của Điều 139;Quốc hội giao quyền giám sát việc

tuân theo Hiến pháp và luật trong hoạt động xét xử của Toà án cho Toà án nhân

dân tối cao theo quy định của Điều 134 và Chánh án Toà án nhân dân tối cao phải

chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội theo quy định của Điều 135;Quốc

hội giao quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động

quản lý của Chính phủ cho Chính phủ theo quy định của Điều 112,điểm 7 và Thủ

tướng Chính phủ phải báo cáo trước Quốc hội theo Điều 110 .

Những quy định trên của Hiến pháp 1992 về quyền giám sát tối cao của

Quốc hội cho thấy quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã xác định đúng vị trí

và tầm quan trọng của nó trong hệ thống các quyền của Quốc hội và Hiến pháp

1992 đã có những quy định rõ,cụ thể,chính xác những quyền hạn cụ thể để Quốc

hội có thể thực hiện được đúng quyền giám sát tối cao của mình theo luật định .

Nghị quyết về việc sửa đổi,bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992:

Điều 84 được sửa đổi ,bổ sung như sau :

“4 – Quyết định chính sách tài chính,tiền tệ quốc gia;quyết định dự toán

ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương,phê chuẩn quyết toán

ngân sách Nhà nước ;quy định,sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế ;”

“5 – Quyết định chính sách dân tộc,chính sách tôn giáo của Nhà nước ;”

“7–Bầu,miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch

Quốc hội,các Phó chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc

hội,Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân tối cao;phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách

thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh;bỏ phiếu tín nhiệm đối với những

người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn ;”

“13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại;phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều

ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký;phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước

quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước ;”

Điều 137 được bổ sung sửa đổi như sau:

“ Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp,góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh

và thống nhất .

Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương,các Viện kiểm sát quân sự thực

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm

do luật định.”

II. Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm

1997 đến năm 2002 và những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hoạt động giám sát của

Quốc hội

1. Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X

từ năm 1997 đến năm 2002.

A. Về hoạt động giám sát của Quốc hội .

" Giám sát là một nhiệm vụ hết sức quan trọng,được Quốc hội ,các cơ quan

của Quốc hội tích cực thực hiện,có bước đổi mới về cả nội dung,hình thức.Quốc

hội , các cơ quan của Quốc hội đã quan tâm tiến hành giám sát khá toàn diện về

việc thực hiện đường lối,chính sách của Đảng được thể chế hoá trong các

luật,pháp lệnh,Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ 5 năm,nhiệm vụ hàng năm

và nhiều vấn để quan trọng khác .

Quán triệt các Nghị quyết của Quốc hội,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã

xây dựng chương trình giám sát,đề nghị Quốc hội tiến hành giám sát nhiều vấn

để lớn và quan trọng.Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội đều đã xây

dựng và thực hiện chương trình giám sát phù hợp với chức năng nhiệm vụ của

Hội đồng,Uỷ ban. Các đại biểu Quốc hội cũng đã tích cực tham gia các hoạt động

giám sát.Nhờ đó, tuy còn có những hạn chế,hoạt động giám sát đã có tiến bộ,góp

phần thúc đẩy việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội,khắc phục được nhiều

khuyết điểm,thiếu sót,đề ra những giải pháp có hiệu quả để cùng Chính phủ,các

cơ quan hữu quan,các địa phương tháo gỡ khó khăn,hoàn thành nhiệm vụ phát

triển kinh tế-xã hội,giữ vững ổn định chính trị và trật tự,an toàn xã hội .

Nội dung giám sát tập trung vào việc thi hành Hiến pháp ,luật , pháp lệnh ,

Nghị quyết;hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện những

nhiệm vụ quan trọng về kinh tế ,về ngân sách Nhà nước,về dân tộc, miền núi,về

giáo dục,về đào đạo;khoa học công nghệ;quốc phòng,an ninh,giải quyết khiếu

nại,tố cáo của công dân,đối ngoại và các vấn đề xã hội bức xúc.Điểm nổi bật

trong nhiệm kỳ này là các cơ quan của Quốc hội đã tích cực cải tiến,tìm những

hình thức thích hợp như giám sát theo chuyên đề,đi sâu khảo sát,theo dõi sát sao

việc giải quyết kiến nghị sau giám sát về nhiều vấn đề đang sôi động trong đời

sống khinh tế -xã hội,như :chuyển dịch cơ cấu kinh tế;thực trạng và phương pháp

đổi mới hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ,trong đó có mô hình các tổng

công ty Nhà nước;biện pháp chống thất thu và quản lý ngân sách Nhà nước ;hoạt

động của các cơ quan tư pháp (bắt,giam,giữ ,đặc xá,điều tra,truy tố,xét xử,thi

hành án,giải quyết các vụ án dân sự,kinh tế lao động,việc giải quyết của các cơ

quan hữu quan về một số vụ án tiêu biểu );vấn đề cải cách hành chính;việc thí

điểm chương trình giáo dục phổ thông,quy hoạch mạng lưới các trường đại

học,caođẳng;lao động;việc làm;xoá đói giảm nghèo;đầu tư cho các vùng đồng bào

dân tộc thiểu số và miền núi…Do các làm được cải tiến một bước, nhiều chuyên

đề giám sát đã mang lại hiệu quả tích cực như hoạt động của các doanh nghiệp

Nhà nước và hợp tác xã,việc chống thất thu,bảo đảm nguồn thu ,tiết kiệm chi;vấn

đề giao lưu kinh tế qua biên giới,đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI),viện trợ phát

triển chính thức(ODA),viện trợ phi Chính phủ(NGO);việc thực hiện dự án trồng

mới 5 triệu ha rừng;chương trình 135 và việc lồng ghép các chương trình quốc gia

dành cho các vùng dân tộc thiểu số và miền núi :vấn đề cử tuyển và chính sách

đào tạo sử dụng đối với con em đồng bào các dân tộc thiểu số;hoạt động điều

tra,truy tố, kiểm tra,xét xử và giải quyết đơn thư trong lĩnh vực điều tra,truy

tố,kiểm sát,xét xử một vụ án và nhiều chuyên đề đề về xã hội ,văn hoá ,giáo dục

,khoa học ,công nghệ, quốc phòng ,an ninh….Đặc biệt,trước tình hình diễn biến

phức tạp ở Tây Nguyên đầu năm 2001 và vấn đề tôn giáo,dân tộc ở một số tỉnh

miền núi và biên giới,dưới sự lãnh đạo của Đảng,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và

các cơ quan của Quốc hội đã tiến hành kiểm tra,giám sát để cùng với Chính phủ

và các cơ quan hữu quan tìm giải pháp góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật

tự,an toàn xã hội ở các vùng này,

Hoạt động giám sát tại các kỳ họp Quốc hội,đã được chú ý đổi mới.Quốc hội đã

từng bước cải tiến việc thảo luận,xem xét báo cáo của các cơ quan Nhà nước theo hướng

tập trung vào các vấn đề nổi lên,để qua đó lựa chọn nội dung đưa vào các Nghị quyết của

Quốc hội.Nội dung giám sát tại các kỳ họp ngày càng phong phú, được thảo luận ngày

càng dân chủ hơn chất lượng được nâng cao.Thời gian dành cho việc xem xét các báo cáo

cũng được bố trí thoả đáng hơn . Hoạt động chất vấn và trảlời chất vấn , biểu hiện tập

trung nhất quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã có bước tiến bộ đáng kể , nhất là từ năm

1998 , khi các buổi sinh hoạt này được truyền trực tiếp trên sóng truyền hình,phát thanh và

tường thuật tỷ mỉ trên các báo viết . Thông qua chất vấn và trả lời chất vấn công

khai,người đứng đầu các cơ quan Nhà nước thể hiện trách nhiệm và năng lực của mình

trước nhiệm vụ được giao và trước Nhà nước,Quốc hội và nhân dân.Có thể nói đây là hình

thức giám sát được đông đảo cử tri quan tâm và đánh giá cao .

Giưã hai kỳ họp Quốc hội,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của

Quốc hội tiếp tục giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội,việc giải quyết

các vấn đề đặt ra trong báo cáo , giải quyết kiến nghị của cử tri và trả lời chất vấn

của đại biểu Quốc hội.Đoàn đại biểu Quốc hội đã xây dựng kế hoạch và thực hiện

giám sát tại địa phương;đồng thời cử đại biểu tham gia cùng các đoàn giám sát

của các cơ quan Quốc hội tại địa phương.Một số Uỷ ban đã quan tâm phối hợp tốt

với các Đoàn đại biểu Quốc hội,hoạt động giám sát có hiệu quả tích cực hơn,góp

phần cùng với địa phương tháo gỡ khó khăn,phát hiện và xử lý các vấn đề trong

nhiều lĩnh vực quan trọng;giúp địa phương thực hiện tốt chủ trương,chính sách và

nâng cao trách nhiệm của các địa phương….

Về hình thức giám sát,đã cố gắng kết hợp giữa việc giám sát t ại các kỳ họp

với các hoạt động giám sát trong thời gian giữa kỳ họp Quốc hội,giữa việc nghe

báo cáo với việc cử đoàn đi địa phương, cơ sở và làm việc với các Bộ,ngành,Tổng

công ty .

Theo kế hoạch của mình và theo sự chỉ đạo,điều hoà,phối hợp của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội,các đoàn giám sát đã được bố trí đi đến hầu khắp các địa

phương trong cả nước,đồng thời đặc biệt chú ý đến các vùng sâu,vùng xa,vùng

đặc biệt khó khăn .

Hiệu quả của hoạt động giám sát từng bước được nâng lên.Nhiều kiến nghị

qua giám sát đã được Chính phủ và các cơ quan hữu quan tiếp thu,giải quyết kịp

thời. Nhiều kiến nghị của Hội đồng dân tộc và nhiều Uỷ ban có ý nghĩa thiết

thực,được Chính phủ và các cơ quan hữu quan hoan nghênh.Thông qua hoạt động

giám sát,sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan chức năng

ngày càng tốt hơn,nhất là trong việc thảo luận,tìm biện pháp giải quyết các vấn đề

đặt ra.

Bên cạnh những kết quả tích cực,hoạt động giám sát vẫn còn là khâu

yếu,còn nhiều hạn chế,có nhiều hoạt động còn hình thức,sự đổi mới còn chậm và

hiệu quả chưa cao.Nội dung giám sát chưa bao quát hết các vấn đề cần thiết,nhất

là việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật,pháp lệnh và hoạt động của các

cơ quan tư pháp.Đặc biệt , một số vấn đề bức xúc như chống tham nhũng,quan

liêu,lãng phí, quản lý vốn và tài sản của Nhà nước,cải cách hành chính…được

nhân dân đặc biệt quan tâm và các Nghị quyết của Đảng nhiều lần đề cập nhưng

vẫn chưa được giám sát chặt chẽ,thường xuyên và hiệu quả còn thấp,trong đó,một

số vấn đề nổi cộm chưa được giám sát,phát hiện kịp thời.Phương thức giám sát

chưa có chuyển biến đáng kể, còn theo nếp cũ,có lúc còn né tránh những vấn đề

còn nổi cộm;sự tham gia hoạt động giám sát ngoài kỳ họp của Đoàn đại biểu và

đại biều Quốc hội còn ít;một số hoạt động giám sát còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ

giữa các cơ quan của Quốc hội.Nhiều kiến nghị còn chung chung;chưa thường

xuyên đôn đốc,yêu cầu báo cáo việc giải quyết kiến nghị qua giám sát.Ngay vấn

đề chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội là một hoạt động có hiệu

quả,được hoan nghênh,vẫn còn những hạn chế , vẫn còn những câu chất vấn và

trả lời chất vấn chưa đi thẳng vào vấn đề;một số nội dung tại các buổi trả lời chất

vấn chưa được thực hiện tốt…Việc sơ kết,tổng kết để rút kinh nghiệm về hoạt

động giám sát và cơ chế thực hiện kiến nghị sau giám sát chưa được xác định rõ

nên còn nhiều kiến nghị không được quan tâm giải quyết,dẫn đến hạn chế kết

quả,hiệu lực giám sát .

Sở dĩ còn có tình hình nói trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây :

- Việc xây dựng chương trình giám sát có chỗ chưa thật sự bám sát yêu cầu

thực tế của cuộc sống và các Nghị quyết của Quốc hội,nhất là Nghị quyết về

nhiệm vụ và ngân sách hàng năm;chưa tập trung vào những vấn đề nóng bỏng,cấp

bách về kinh tế-xã hội và các lĩnh vực khác

- Phương thức tổ chức giám sát còn nhiều lúng túng;nhiều lúc còn thiếu kết

hợp giưã các hình thức giám sát,thiếu phối hợp giữa các cơ quan của Quốc

hội;nhiều hoạt động còn dừng ở mức nghe báo cáo,nắm tình hình nên hiệu quả

chưacao.

- Chưa xây dựng và ban hành kịp thời luật pháp về hoạt động giám sát nên

chưa xác định rõ cơ chế,chế tài,trách nhiệm của các cơ quan bị giám sát,quyền

hạn của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám

sát,các yếu tố và điều kiện bảo đảm hiệu quả của hoạt động giám sát.Trong dịp

thảo luận về báo cáo công tác nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX,nhiều vị đại biểu Quốc

hội đề nghị sớm tổng kết,rút kinh nghiệm đầy đủ về công tác giám sát để trên cơ

sở đó,ban hành luật về hoạt động giám sát của Quốc hội,nhưng đến nay vẫn chưa

được thực hiện .

- Công tác chỉ đạo,điều hoà của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về phối hợp

công tác giám sát của Hội đồng dân tộc,các Uỷ ban của Quốc hội chưa sát sao nên

chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của các cơ quan Quốc hội,các Đoàn đại

biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội trong công tác giám sát .

- Chất lượng công tác giám sát còn nhiều hạn chế,chưa sâu , chưa phát hiện

và đề xuất giải quyết kịp thời nhiều vấn đề bức xúc , chủ yếu là do phương thức ,

do năng lực , trình độ , nể nang né tránh .

- Nhiều cơ quan Nhà nước chưa nghiêm túc thực thi pháp luật và cũng chưa

thực sự coi trọng hoạt động giám sát của Quốc hội,các cơ quan của Quốc hội;do

đó nhiều kiến nghị qua giám sát chưa được thật sự tập trung xem xét,giải quyết

nghiêm túc .

- Điều kiện đảm bảo cho hoạt động giám sát còn thiếu,đặc biệt là ở các

Đoàn đại biểu Quốc hội.Các cơ quan của Quốc hội , nhất là Hội đồng dân tộc và

các Uỷ ban của Quốc hội còn quá ít thành viên hoạt động chuyên trách nên chưa

đáp ứng đúng yêu cầu giám sát "

B . Về hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

"Hoạt động giám sát trong nhiệm kỳ qua đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc

hội tập trung quan tâm chỉ đạo.Hàng năm,trong chương trình công tác của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội,lĩnh vực giám sát được thể hiện với những nội dung ,phương

thức và sự phân công cụ thể.Cùng với việc chỉ đạo xây dựng dự án luật về hoạt

động giám sát của Quốc hội,từ đầu năm 2000,Chủ tịch Quốc hội đã làm việc với

Thường trực Hội đồng dân tộc,các Uỷ ban của Quốc hội,Văn phòng Quốc hội và

các cơ quan hữu quan để đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động

giám sát .

Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ này là,bên cạnh việc giám sát trên diện

rộng nhiều lĩnh vực quan trọng như thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội , thi

hành pháp luật,giải quyết khiếu nại,tổ chức của công dân,hoạt động của Hội dồng

nhân dân và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

đã cố gắng đổi mới phương thức,lựa chọn , đi sâu giám sát một số chuyên đề và

đã thu được những kết quả tích cực.Việc theo dõi sát sao,cụ thể cùng với những

kiến nghị qua giám sát thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội , ngân sách Nhà

nước đã góp phần quan trọng vào việc khắc phục và vượt qua khó khăn,thử thách

của khủng hoảng những năm 1998-1999,bảo đảm cho nền kinh tế nước ta vẫn giữ

được ổn định và tiếp tục phát triển.Đồng thời,thông qua giám sát,những kết quả

thu được đã tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng xây dụng các dự án

luật,các Nghị quyết của Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng như việc

ban hành của các cơ quan hữu quan .

Về nội dung giám sát:Căn cứ nội dung chương trình đề ra,Uỷ ban Thường

vụ Quốc hội đã tự mình,đồng thời giao Hội đồng dân tộc,các Uỷ ban của Quốc

hội thực hiện giám sát trên tất cả các lĩnh vực với những nội dung chủ yếu sau :

1. Việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế-xã hội và

ngân sách Nhà nước.

- Về kinh tế - ngân sách:Việc triển khai thực hiện các chương trình phát triển

nông nghiệp và kinh tế nông thôn,chuyển dịch cơ cấu kinh tế,sản xuất và tiêu

thụ,xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp ;Hoạt động của các doanh nghiệp,đặc biệt là

sắp xếp đổi mới hoạt động của khu vực doanh nghiệp Nhà nước,hoạt động của

hợp tác xã theo luật hợp tác xã;hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản,đầu tư nước

ngoài;vấn đề thu,chi, các biện pháp tăng thu,giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ

ngân sách Nhà nước; hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng .

- Về dân tộc,miền núi:Việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã

hội ở các xã đặc biệt khó khăn(chương trình 135);chế độ tuyển cử và việc sử dụng

sinh viên sau khi tốt nghiệp,bảo vệ rừng và dự án trồng mới 5 triệu ha rừng;Vấn

đề di dân tự do,di dân tái định cư trong dự án nhà máy thuỷ điện;Một số tình hình

nổi lên ở một số vùng dân tộc Tây Nguyên và Miền Bắc .

- Các vấn đề xã hội:Vấn đề lao động và việc làm,bảo hiểm xã hội;Chính

sách đối với người có công,người bị chất độc màu da cam;Vấn đề khám,chữa

bệnh,dân số;Việc thực hiện các chính sách tôn giáo;Việc khắc phục hậu quả thiên

tai;Đấu tranh,phòng chống các tệ nạn xã hội .

- Về văn hoá- giáo dục:Quản lý các hoạt động văn hoá,thông tin,bảo tồn di

sản văn hoá,đời sống văn hoá ở cơ sở;Tình hình triển khai cuộc vận động"toàn

dân xây dụng nếp sống văn hoá";Về việc thực hiện luật giáo dục,việc đổi mới

chương trình,sách giáo khoa tiểu học và trung học cơ sở,kết quả phổ cập giáo dục

tiểu học và triển khai chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở;công tác huy

động thanh niên tham gia xây dựng kinh tế-xã hội;phong trào thể dục thể thao

quần chúng và các biện pháp xây dựng đội ngũ vận động viên,huấn luyện viên

cấp cao;công tác chuẩn bị cho SEAGAME S lần thứ 22 tổ chức tại Việt Nam .

- Về khoa học,công nghệ,môi trường:Việc ứng dụng tiến bộ khoa học,công

nghệ trong sản xuất;Đổi mới quản lý Nhà nước về khoa học,công nghệ theo luật

khoa học,công nghệ;Vấn đề xử lý chất thải,bảo vệ môi trường;Việc triển khai các

công trình quan trọng quốc gia và khảo sát dự án xây dựng nhà máy thuỷ điện

Sơn La,dự án đường Hồ Chí Minh .

- Về quốc phòng,an ninh:Vấn đề phát triển kinh tế-xã hội gắn với quốc

phòng, an ninh nhất là vùng biên giới,biển đảo;Nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quốc

phòng,an ninh,xây dựng thế trận quốc phòng gắn với an ninh.Công tác đào tạo

trong các Học viện quốc phòng,công an;Tình hình an ninh,chính trị,trật tự,an toàn

xã hội ở một số điểm nóng như Tây Nguyên,Sơn La,Lai Châu;Việc đảm bảo quốc

phòng,an ninh khi thực hiện xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La .

- Về đối ngoại:Việc thực hiện Pháp lệnh về các cơ quan đại diện của Việt

Nam tại nước ngoài;vấn đề an ninh và kinh tế biên giới liên quan đến đối

ngoại,hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài;Tình hình hoạt

động và việc quản lý các nguồn vốn vayODA và nguồn viện trợ của các tổ chức

phi chính phủ (NGOS )tại Việt Nam;công tác đối ngoại địa phương .

2 . Về thi hành pháp luật

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quan tâm hơn đến mảng giám sát thi hành

Hiến pháp,luật,pháp lệnh,góp phần nâng cao ý thức tôn trọng và thực hiện pháp

luật nghiêm túc,làm cho pháp luật đi vào cuộc sống,phát huy vai trò của pháp luật

trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội . Hoạt động giám sát thi hành pháp luật

tập trung vào tổ chức thực hiện các luật,pháp lệnh mới ban hành,việc ban hành

văn bản hướng dẫn thi hành luật,Pháp lệnh và khảo sát , giám sát những luật,

Pháp lệnh phục vụ cho việc sửa đổi,bổ sung;cụ thể là:Về tình hình thực hiện các

Luật thuế mới,Luật doanh nghiệp,Luật khiếu nại tố cáo,Bộ luật lao động,Luật đất

đai, Luật ngân sách nhà nước,Luật Hợp tác xã và các luật về tổ chức bộ máy nhà

nước…Về hoạt động của các cơ quan tư pháp;Công tác điều tra,truy tố,xét xử,thi

hành án hình sự ;giải quyết các vụ án dân sự , kinh tế , lao động ; Việc giải quyết

một số các vụ án phức tạp …

3 .Giám sát việc giải quyết khiếu nại,tố cáo của dân .

Trước diễn biến phức tạp trong những năm qua,việc xem xét giải quyết khiếu

nại , tố cáo của công dân được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm . Công tác tiếp

dân , giải quyết khiếu nại , tố cáo của công dân được tổ chức thực hiện nghiêm túc

hơn,nhất là từ khi ban hành luật khiếu nại , tố cáo .Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã

dành sự quan tâm đáng kể cho công tác này,đã phân công một Phó Chủ tịch Quốc

hội theo dõi,chỉ đạo và một Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trực tiếp phụ

trách công tác tiếp dân và giám sát giải quyết khiếu nại,tố cáo;Thông qua Nghị

quyết số 228/ NQ-UBTVQH 10 về hướng dẫn đại biểu Quốc hội tiếp công dân; tiếp

nhận,chuyển đơn,theo dõi,đôn đốc giải quyết khiếu nại,tố cáo và kiến nghị của công

dân;chỉ đạo,phân công Hội đồng dân tộc,các Uỷ ban phối hợp xử lý đơn thư thuộc

lĩnh vực phụ trách;tổ chức các đoàn giám sát tại nhiều địa phương trong cả nước

…Đối với một số vụ khiếu nại gay gắt , kéo dài liên quan đến hoạt động của các cơ

quan tư pháp , Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã làm việc trực tiếp với các cơ quan

hữu quan để bàn biện pháp giải quyết dứt điểm. Sơ kết bước đầu thực hiện Nghị

quyết 228 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho thấy, hoạt động tiếp dân và theo dõi

giải quyết khiếu nại , tố cáo của các đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội đã có sự

chuyển biến , tạo niềm tin đối với cử tri và nhân dân, góp phần làm giảm bớt khiếu

kiện ở một số địa phương . Nhìn chung,công tác tiếp dân và giám sát giải quyết

khiếu nại,tố cáo của công dân đã đạt được những kết quả nhất định và dần đi vào nề

nếp.Tuy nhiên,công tác này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu,đòi hỏi của tình hình

thực tế . Số lượng người đi khiếu kiện và đơn thư gửi đến các đồng chí lãnh đạo

Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội vẫn ngày càng tăng , một số khiếu nại có nội

dung phức tạp , nhiều khiếu nại gay gắt kếo dài nhưng chưa được giải quyết dứt

điểm . Hiệu quả hoạt động giám sát trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế .

4. Giám sát việc thực hiện các Quy chế dân chủ cơ sở :

Thực hiện Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị,năm 1998,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

đã thông qua các Quy chế về thực hiện dân chủ ở phường,xã,thị trấn,trong cơ quan

Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước . Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị ,Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội đã phân công một Phó Chủ tịch Quốc hội phụ trách công tác

giám sát tình hình thực hiện các quy chế và thường xuyên tổ chức giám sát , báo

cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Ban chỉ đạo Trung ương về tình hình thực hiện

dân chủ ở cơ sở . Các đoàn công tác đã đi sâu nghiên cứu,khảo sát,giám sát tại

nhiều địa phương,cơ quan , đơn vị;Đã rút ra nhiều kiến nghị đóng góp với Chính

phủ và các cơ quan chức năng để kịp thời điều chỉnh , chỉ đạo việc thực hiện;Đóng

góp nhiều ý kiến với Ban chỉ đạo của Trung ương trong dịp sơ kết 3 năm thực hiện

các Quy chế dân chủ .

5. Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân .

Theo nhiệm vụ,quyền hạn được quy định,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã

thường xuyên nghe báo cáo tổng hợp về tình hình tổ chức,hoạt động của Hội đồng

nhân dân, phân công các thành vên trong Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tham dự kỳ

họp và giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân,trong đó có nội dung quan trọng

là giám sát cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1999 - 2004:kiểm

tra,chỉ đạo các địa phương mới chia tách trong việc tổ chức và hoạt động.Trong

nhiệm kỳ qua,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành hơn 60 văn bản hướng dẫn

Hội đồng nhân dân các cấp về các nội dung như tổ chức bầu cử,hoạt động nói

chung và tổ chức kỳ họp nói riêng,về nhiệm vụ,quyền hạn của đại biểu Hội đồng

nhân dân và các vấn đề nảy sinh khác.Theo sự chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc

hội,Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội đã có nhiều hình thức thích hợp

đề xây dựng quan hệ công tác,trao đổi kinh nghiệm với Hội đồng nhân dân,nhất là

trong hoạt động giám sát nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử

.Thông qua hoạt động giám sát và các cuộc Hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân

dân,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cùng với Chính phủ và các cơ quan hữu quan đã

tham gia đóng góp ý kiến về chủ trương,quan điểm tổ chức Hội đồng nhân dân,xây

dựng dự án sửa đổi Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân . Nhìn

chung tuy còn có những hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu,nhưng trong những

năm qua,hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp đã từng bước được đổi mới,chất

lượng,hiệu quả được nâng lên .

Về phương thức thực hiện giám sát:Đã cố gắng từng bước đổi mới phương

thức thực hiện,kết hợp nghe báo cáo với cử đoàn đi giám sát trực tiếp tại địa

phương,cơ quan,đơn vị. Việc tổ chức các đoàn giám sát đã hợp lý hơn,vừa có sự

tham gia của các cơ quan chức năng,vừa tránh cồng kềnh,bảo đảm có chất lượng

hiệu quả.Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cố gắng cải tiến trong việc chỉ đạo,điều

hoà,phối hợp hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội

nhằm đạt yêu cầu đồng bộ về nội dung và địa bàn,hạn chế chồng chéo.Đã chú ý

việc cải tiến theo dõi, đôn đốc việc xử lý những kiến nghị qua hoạt động giám

sát,góp phần cùng các cơ quan chức năng xem xét giải quyết có hiệu quả.Việc tổng

hợp hoạt động giám sát hàng quý đã được đề ra và thực hiện…

Mặc dù đã có nhiều tiến bộ và đạt được những kết quả tốt đẹp,nhưng hoạt

động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng còn một số hạn chế như :

- Hoạt động giám sát vẫn còn dàn trải về nội dung,chậm đổi mới về phương thức

tiến hành,chưa xây dựng được chương trình khả thi và tổ chức thực hiện nghiêm

túc;chưa chỉ đạo công tác tham mưu,phục vụ thực hiện tốt nhiệm vụ ;

- Việc chỉ đạo,điều hoà,phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban

của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát chưa thực hiện tốt;chưa phân định rõ phạm vi

nội dung giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội với Hội đồng dân tộc và các Uỷ

ban của Quốc hội ;

- Chưa thực hiện tốt vai trò chuẩn bị và giúp Quốc hội tăng cường,nâng cao chất

lượng,hiệu quả hoạt động giám sát.Chưa kịp thời sơ kết,tổng kết để rút kinh nghiệm

và tìm biện pháp khắc phục hữu hiệu,còn để cho những yếu kém trong hoạt động

giám sát kéo dài,ảnh hưởng đến chất lượng,hiệu quả hoạt động chung của Quốc

hội;Việc xây dựng và ban hành luật về hoạt động giám sát còn chậm " .

C . Về hoạt động giám sát của Uỷ ban pháp luật .

I . " Về tình hình thực hiện công tác giám sát .

Mặc dù công tác xây dựng pháp luật chiếm phần lớn thời gian,song Uỷ ban pháp

luật cũng đã cố gắng thực hiện công tác giám sát của mình theo quy định của pháp

luật . Trong nhiệm kỳ vừa qua,Uỷ ban đã tổ chức các hoạt động giám sát sau đây :

- Tổ chức các phiên họp toàn thể,phiên họp thường trực Uỷ ban mở rộng hoặc

họp thường trực để thẩm tra 18 báo cáo công tác hàng năm, của Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân tối cao,Chánh án Toà án nhân dân tối cao và báo cáo của Chính

phủ về công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và công tác thi

hành án ;

- Tổ chức các Đoàn giám sát do đồng chí Chủ nhiệm hoặc Phó chủ nhiệm Uỷ ban

làm Trưởng Đoàn để tiến hành khảo sát,giám sát việc triển khai thực hiện một số

luật, pháp lệnh như Luật đất đai,Luật tổ chức Toà án nhân dân,Luật tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân,Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân,Luật bầu cử

đại biểu Hội đồng nhân dân, v…v tại một số địa phương ;

- Tổ chức một số Đoàn của Uỷ ban và tham gia Đoàn của Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội đi giám sát hoạt động của Toà án nhân dân,Viện kiểm sát nhân dân,cơ

quan Công an trong việc bắt,giam,giữ,xét xử và thi hành án phạt tù tại một số địa

phương ;

- Thực hiện nhiệm vụ giám sát việc ban hành Nghị quyết,nghị định của Chính phủ,

quyết định,chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ,các văn bản của Toà án nhân dân tối

cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Uỷ ban đã yêu cầu các cơ quan,tổ chức hữu

quan báo cáo tình hình ban hành các văn bản hướng dẫn và quy định các chi tiết thi

hành luật, pháp lệnh từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khoá X đến nay;trên cơ sở đó nắm

tình hình ban hành văn bản dưới luật,pháp lệnh .

Từ năm 1999 đến năm 2001,thực hiện kết luận số 168 và 169 của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội về việc giải quyết và phân công việc giải quyết các đơn thư

khiếu nại,tố cáo của công dân về lĩnh vực tư pháp gửi tới Quốc hội,các cơ quan của

Quốc hội,Uỷ ban pháp luật đã tiếp nhận và xử lý 13478 đơn thư khiếu nại,tố cáo về

10.577 vụ việc, trong số đó có :

- 4103 vụ việc thuộc lĩnh vực hình sự ( chiếm 37,56% ) ;

- 4773 vụ việc thuộc lĩnh vực dân sự ( chiếm 44,1% );

- 456 vụ việc thuộc lĩnh vực hành chính,kinh tế,lao động (chiếm 4,74% );

- 398 vụ việc thuộc lĩnh vực thi hành án ( chiếm 3,87% );

- 373 vụ việc thuộc lĩnh vực xâm phạm hoạt động tư pháp (chiếm 0,6% );

- Còn lại là khiếu nại về các vụ việc khác ( chiếm tỉ lệ 5,39% ).

Uỷ ban pháp luật đã tổ chức các đoàn giám sát và tham gia Đoàn giám sát của

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đối với một số vụ án cụ thể .

Năm 1999 :Tiến hành 6 cuộc giám sát gồm:5 vụ án về lĩnh vực dân sự,1vụ án

thuộc lĩnh vực hình sự ;

Năm 2000 :Tiến hành 5 cuộc giám sát gồm:2 vụ án thuộc lĩnh vực hình

sự,1vụ án thuộc lĩnh vực kinh tế,1 vụ án thuộc lĩnh vực lao động,1 vụ án thuộc lĩnh

vực dân sự ;

Năm 2001:Tiến hành 3 cuộc giám sát gồm :1 vụ án thuộc lĩnh vực thi hành

án,2 vụ án thuộc lĩnh vực dân sự

II . Đánh giá về công tác giám sát

1. Kết quả đạt được

Ngay từ đầu nhiệm kỳ,Uỷ ban pháp luật đã xác định rõ trách nhiệm đối với

công tác giám sát,coi đây là một trong những nhiệm vụ chính của Uỷ ban.Do đó tuy

chưa đáp ứng được yêu cầu,nhưng Uỷ ban cũng đã thực hiện nhiều cuộc giám sát

có kết quả đáng ghi nhận.Nhiều đồng chí trong Uỷ ban đã cố gắng bố trí thời gian

tham gia vào hoạt động này.Thông qua hoạt động giám sát,Uỷ ban pháp luật có

thêm những căn cứ thực tiễn phục vụ cho việc xem xét,thẩm tra các dự án luật,pháp

lệnh,nhất là việc thẩm tra các báo cáo của Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát

nhân dân tối cao,báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án và quản lý Toà án

nhân dân địa phương về mặt tổ chức;đồng thời kiến nghị với Quốc hội,Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội những vấn đề cần tập trung giám sát .

Điều đáng quan tâm là thông qua các cuộc giám sát đối với những vụ án cụ

thể,Uỷ ban pháp luật đã phát hiện kịp thời để kiến nghị với Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội và các cơ quan hữu quan ban hành mới hoặc sửa đổi,bổ sung một số quy

định quan trọng và cấp thiết liên quan đến hoạt động tố tụng như :Quy định về công

tác giám định pháp y;về thời hiệu kháng nghị đối với các vụ tranh chấp về dân

sự,kinh tế;về trình tự,thủ tục cưỡng chế thi hành án,quyết định của Toà án về các

loại tranh chấp này.Thông qua việc thẩm tra báo cáo hoạt động của Toà án nhân

dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban pháp luật cũng đã có nhiều kiến

nghị để các cơ quan này chấn chỉnh kịp thời và khắc phục có hiệu quả tình trạng

oan,sai trong việc bắt,giam,giữ,khám xét . Trên thực tế,về các lĩnh vực này trong

những năm qua đã có nhiều tiến bộ rõ rệt đáng được hoan nghênh .

Uỷ ban pháp luật cũng đã kiến nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng thực

hiện công tác nghiên cứu về tình hình tội phạm,vi phạm pháp luật và có các giải

pháp quản lý công tác tốt hơn để báo cáo thống nhất và chính xác vơí Quốc hội về

tình hình này, nhằm thúc đẩy cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các

vi phạm pháp luật.Mặt khác,qua hoạt động,Uỷ ban pháp luật đã có những kiến nghị

với cơ quan tiến hành tố tụng những biện pháp nhằm bảo đảm việc điều tra,truy

tố,xét xử đúng người, đúng tội,đúng pháp luật,không bỏ lọt tội phạm,không làm oan

người vô tội;bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,bảo vệ tài sản Nhà nước,quyền và lợi

ích hợp pháp của công dân .

Việc tổ chức các đoàn giám sát của Uỷ ban hoặc theo ý kiến của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan Công an,Viện kiểm sát,Toà

án,Cơ quan thi hành án trong nhiệm kỳ vừa qua tuy không nhiều,nhưng đã đạt được

những kết quả tích cực.Trong quá trình giám sát đối với một số vụ án,trên cơ sở

nghiên cứu hồ sơ, xem xét tại chỗ các tài liệu và những tình tiết liên quan đến vụ

án,Uỷ ban đã có những đánh giá đúng đắn,toàn diện,đồng thời đề xuất,kiến nghị

được những giải pháp hữu hiệu,góp phần bảo đảm để hoạt động của các cơ quan

tiến hành tố tụng tuân thủ theo quy định của pháp luật,được các cơ quan hữu quan

thừa nhận và đồng tình ủng hộ, được quần chúng nhân dân hoan nghênh .

2. Một số tồn tại , nguyên nhân và bài học kinh nghiệm

- Mặc dù đã có nhiều cố gắng,song nhìn chung công tác giám sát của Uỷ ban

pháp luật vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu do có những khó khăn khách quan và

chủ quan. Việc thực hiện công tác giám sát đối với hoạt động xét xử của Toà án

nhân dân tối cao và hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao chưa

làm được nhiều và chưa bao quát hết các lĩnh vực,các giai đoạn tố tụng ;

- Chưa thu hút được nhiều thành viên Uỷ ban đang công tác tại các cơ quan ở

Trung ương và địa phương tham gia hoạt động giám sát;việc đôn đốc các cơ

quan,tổ chức hữu quan thực hiện những kiến nghị của Đoàn giám sát chưa thường

xuyên ;

Công tác giám sát việc ban hành văn bản dưới luật còn yếu ;

- Công tác nghiên cứu,phân loại,xử lý đơn thư để giám sát hoặc chuyển đến các cơ

quan hữu quan,đôn đốc và theo dõi việc giải quyết các đơn thư đó còn nhiều hạn

chế và chưa tìm ra được giải pháp hữu hiệu cho công tác này.Trong nhiều trường

hợp mới chỉ dừng lại ở việc chuyển đơn đến các cơ quan có thẩm quyền xem xét

mà chưa thường xuyên đôn đốc,yêu cầu thông báo kết quả .

- Những thiếu sót,khuyết điểm và hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân,có

nguyên nhân về mặt tổ chức của Uỷ ban,nhưng chủ yếu là do quy định của pháp

luật về giám sát vẫn chưa cụ thể,nhất là về phương thức,cơ chế,nội dung giám sát

và hậu quả pháp lý của cuộc giám sát để làm căn cứ pháp luật cho Uỷ ban hoạt

động giám sát có kết quả và hiệu quả hơn”.

D. Hoạt động giám sát của Uỷ ban Đối ngoại

“ Trong nhiệm kỳ X , song song với việc giám sát công tác Đối ngoại nói chung, theo sự

phân công của Chủ tịch Quốc hội Uỷ ban Đối ngoại đã tiến hành giám sát các hoạt động

trên lĩnh vực kinh tế Đối ngoại ,nhất là việc sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA và

NGO.Các đợt giám sát trong thời gian qua tập trung vào những nội dung sau đây :

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) đầu năm 1998 ;

- An ninh biên giới có liên quan tới Đối ngoại và kinh tế Đối ngoại biên

giới,năm 1998 và 1999;

- Hiệu quả thu hút và sử dụng viện trợ phát triển chính thức ( ODA ) , năm 1999 ;

Công tác Đối ngoại địa phương và công tác quản lý,sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước

ngoài NGO,năm 2000 và năm 2001 ;

- Việc thực hiện pháp lệnh về cơ quan đại diện ngoại giao của CHXHCN Việt

Nam ở nước ngoài .

1. Về hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực

này là cơ sở pháp lý quan trọng,góp phần khuyến khích các nhà đầu tư làm ăn lâu dài tại

Việt Nam.Trong hoàn cảnh kinh tế khu vực đang phải đương đầu với những khó khăn ,

những biện pháp mới đây của Nhà nước ta nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư đã

được dư luận và doanh nhân nước ngoài đánh giá cao .

Tuy nhiên,tại các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động kinh tế Đối

ngoại còn những điều thiếu ổn định,một số văn bản dưới luật được ban hành quá

chậm và nhiều chỗ chồng chéo,thậm chí mâu thuẫn nhau,có những nơi còn giải

thích luật một cách tuỳ tiện.Sự thiếu cụ thể của luật và có nhiều cách diễn giải đã

dẫn đến sự thi hành thiếu thống nhất một số điêù khoản giữa các ngành,giữa các

địa phương,tạo khe hở tiêu cực .

Công tác quản lý đầu tư với nước ngoài,thuế nhập khẩu,giá nguyên vật liệu,trang thiết

bị,giá chuyển giao công nghệ,giá hàng xuất,kê khai chi phí và khấu hao tài sản cố định còn

nhiều sơ hở,gây thất thu ngân sách cho Nhà nước làm thiệt thòi cho bên Việt Nam trong

liên doanh .

2. Về an ninh biên giới có liên quan tới Đối ngoại và hoạt động kinh tế Đối

ngoại biên giới

Hoạt động kinh tế Đối ngoại biên giới đã góp phần tăng trưởng kinh tế của một số địa

phương,tạo việc làm cho một bộ phận dân cư và phát triển sản xuất.Mặt khác những hiện

tượng tiêu cực cũng gia tăng như buôn lậu,tình trạng phạm tội và các tệ nạn xã hội

khác,ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội,đời sống tinh thần của nhân dân.Các tỉnh biên

giới,tuy còn đương đầu với nhiều khó khăn,đã nỗ lực huy động và tổ chức nhân dân và các

lực lượng hữu quan bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, phát triển sản xuất và thúc đẩy

quan hệ hữu nghị với các tỉnh của nước bạn có chung đường biên giới.Nhà nước đã ban

hành một số chính sách hỗ trợ,giúp đỡ các tỉnh biên giới

Để giữ vững an ninh biên giới,một trong các biện pháp quan trọng hiện nay

là đưa dân ra sinh sống và làm ăn lâu dài tại khu vực này.Nhà nước cần có chính

sách hỗ trợ đặc biệt như xây dựng cơ sở hạ tầng,y tế,trường học,tạo cuộc sống ổn

định cho nhân dân.Các tỉnh biên giới cần tận dụng sự phát triển về thương mại và

dịch vụ ở khu kinh tế biên giới để thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

hợp lý,đổi mới và nâng cao công nghệ,đảm bảo kinh tế của tỉnh phát triển bền

vững .

Trong đợt giám sát lần thứ 2 ở các địa phương có biên giới với Lào và Cam

Pu Chia . Đoàn có một số ý kiến sau(đã gửi cho các cơ quan hữu quan)

- Việc buôn lậu,đặc biệt là buôn lậu ma tuý,thuốc lá,xe máy,đường mía,việc gian

lận thương mại qua biên giới vẫn còn là một vấn đề hết sức nóng bỏng mặc dù

Chính phủ đã triển khai rất tích cực chỉ thị 853 về chống buôn lậu và cho dán tem

một số mặt hàng thường bị nhập lậu .

- Đoàn giám sát thấy cần có một chính sách biên mậu tích cực và chủ động nhằm góp

phần ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc vùng biên giới và thể hiện

mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam–Lào, mối quan hệ láng giềng tốt Việt Nam–Cam Pu

Chia , qua đó củng cố an ninh biên giới,đồng thời tiếp tục tìm những nguyên nhân sâu xa

hơn để có thêm những biện pháp trên cả hai mặt chống và xây tại biên giới và trong nội

địa

- Đặc biệt trong báo cáo về giám sát năm 1999,Uỷ ban Đối ngoại đã nêu kiến

nghị về việc nâng cao công tác quản lý những nhân viên của các cơ quan đại diện

ngoại giao kể cả tuỳ viên quân sự và những chuyên gia nước ngoài đến Tây

Nguyên.Sự kiện Tây Nguyên vừa qua cho thấy rằng cần có cơ chế và quy định rõ

ràng về trách nhiệm của các cơ quan mà trước hết là cơ quan hành pháp ở TƯ và

địa phương trong việc thực hiện yêu cầu,kiến nghị của đại biểu Quốc hội .

3. Về thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA)

Trong đợt giám sát năm 1999,Uỷ ban Đối ngoại đã nghe báo cáo của các Bộ, ngành

và tiến hành giám sát tại Thủ đô Hà Nội,TP.Hồ Chí Minh,các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ

An,Quảng Bình,Cần Thơ,Vĩnh Long,Khánh Hoà,Phú Yên,Bình Thuận và Ninh

Thuận(tháng 9 – 10 / 1999)

Trọng tâm đợt giám sát là xem xét tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn

ODA, những kết quả đạt được,những yếu tố hạn chế cần tháo gỡ để phát huy hiệu

quả sử dụng nguồn vốn này trong thời gian tới.Một số nội dung đáng chú ý rút ra

qua đợt giám sát như sau :

- Nguồn vốn ODA cam kết từ năm 1993 đến tháng 6/1999 là 13,04 tỷ USD,ta đã ký kết

được Hiệp định vay với tổng giá trị 9,2 tỷ USD.Trong cơ cấu sử dụng nguồn vốn ngành

điện chiếm 29,3%;giao thông vận tải chiếm 27,4%;nông lâm thuỷ sản 13%;tín dụng và

điều chỉnh cơ cấu 16%;y tế,giáo dục,xã hội 11%;cấp thoát nước 7%

Tuy nhiên việc quản lý Nhà nước về ODA đòi hỏi sớm giải quyết một số vấn

đề như sự thống nhất quản lý nguồn vốn ODA,cung cấp thông tin đầy đủ để các

Bộ, ngành và các địa phương qua mạng máy tính của Văn phòng Chính phủ .

Tốc độ giải ngân còn chậm do các bước thực hiện dự án còn nặng nề,mất nhều

thời gian ở mỗi khâu về phía ta,đặc biệt là khâu thẩm định,do vốn đối ứng thiếu

và không kịp thời;do chính sách đền bù,giải toả và tái định cư luôn thay đổi và

không thống nhất .

Vốn ODA khi đã ký thành Hiệp định cũng là một nguồn vốn mà Nhà nước

phải cân đối vốn đối ứng và kế hoạch trả lãi từ ngân sách Nhà nước.Việc phân

bổ,quản lý và sử dụng cần tuân theo quy định của luật ngân sách và cần có ý kiến

của Quốc hội. Đã đến lúc xem xét việc ban hành luật hoặc pháp lệnh về ODA để

công tác thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA mà hơn 80% là vốn vay từ bên

ngoài được tốt hơn nữa .

4 . Về công tác Đối ngoại địa phương và viện trợ phi Chính phủ ( NGO )nước

ngoài

Đoàn giám sát của Uỷ ban Đối ngoại đã tiến hành nhiều đợt giám sát về nội

dung trên tại các địa phương Lào Cai,Nghệ An,Hà Nội,Ninh Thuận,Lâm

Đồng,Đắc Lắc,Kon –tum,Gia Lai,Cần Thơ,Sóc Trăng,Cà Mau,Trà Vinh và Bến

Tre.Những kiến nghị sau đợt giám sát này đã được gửi tới Chính phủ và các cơ

quan hữu trách.Chính phủ cũng đã điều chỉnh một số văn bản pháp quy có liên

quan đến lĩnh vực quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA,GNO và vấn đề trồng cây

thảo quả ở Lào Cai trên cơ sở xem xét và tiếp thu các kiến nghị trực tiếp của đoàn

giám sát .

4 . 1 . Công tác Đối ngoại địa phương

Các địa phương thực hiện tốt đường lối,quan điểm và chính sách đối ngoại của

Đảng và Nhà nước ta,đảm bảo tốt các chức năng quản lý hành chính Đối ngoại và

lễ tân Đối ngoại,chưa có sai sót đáng kể.Tuy nhiên,hầu hết các cơ quan tham mưu

Đối ngoại ở địa phương còn nặng về sự vụ và do đó chưa giúp được lãnh đạo tỉnh

Uỷ và Uỷ ban về chính trị Đối ngoại,thu thập và xử lý thông tin Đối ngoại cũng

như chủ động xúc tiến quan hệ quốc tế .

Về mô hình tổ chức,Uỷ ban Đối ngoại đã kiến nghị các cơ quan của Chính

phủ tổng kết kinh nghiệm xây dựng bộ phận tham mưu Đối ngoại cho lãnh đạo địa

phương để đáp ứng được nhiệm vụ chính trrị Đối ngoại cũng như phát triển kinh

tế của tỉnh . Đồng thời,cần có sự phối hợp giữa Trung Ương và địa phương, tăng

cường công tác thông tin và đào tạo cán bộ đối ngoại ở địa phương .

4. 2 . Về hoạt động của tổ chức phi Chính phủ ( NGO )

Theo thống kê của Liên hiệp các tổ chức hoà bình hữu nghị,hiện nay tại nước ta có

khoảng 500 tổ chức phi Chính phủ đang hoạt động với khoảng 200 Văn phòng đại

diện,với tổng số vốn đầu tư khoảng 50–70 triệu USD.Nguồn đầu tư này tuy nhỏ so với

ODA,nhưng hoạt động khá hiệu quả,nếu tính đến tác động trực tiếp tới đối tượng hưởng

lợi ở cơ sở và cách làm sát dân,sát thực tiễn,sát nhu cầu.Các dự án do các tổ chức phi

Chính phủ giúp hoặc các Chính phủ nước ngoài giúp thông qua con đường phi Chính phủ

đã có tác dụng ở hầu hết địa phương trong toàn quốc,hỗ trợ các chương trình kinh tế

hơn(bản tin,tạp chí,sách chuyên đề,chương trìnhVTV4),Tuy nhiên,công tác này nhìn

chung chưa đáp ứng yêu cầu.Nguyên nhân chủ yếu là chưa quan tâm đúng mức về cơ sở

vật chất,ngân sách và cán bộ thiếu cơ chế phối hợp trong và ngoài nước trên lĩnh vực này

- Hiện nay , một số lượng đáng kể người Việt Nam đang cư trú bất hợp pháp ở nước sở

tại,nên việc bảo hộ quyền lợi của họ gặp nhiều khó khăn.Trong thời gian tới ta cần tiếp tục

đàm phán để cải thiện tình trạng này,một mặt nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của công

dân Việt Nam ở nước ngoài,mặt khác để khai thông những vướng mắc trong quan hệ song

phương về kiểu dân,cũng như ngăn chặn ảnh hưởng xấu của mọt số phần tử phản động và

tội phạm .

Các Đoàn đại biểu Quốc hội ta cũng đã kiến nghị Chính phủ tạo điều kiện

thuận lợi cần thiết về phương tiện kỹ thuật,bảo hiểm y tế cho cán bộ ngoại

giao,thương vụ hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại .”

E. Hoạt động giám sát của Uỷ ban Quốc phòng và An ninh

“ Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đã tổ chức 33 Đoàn công tác của Uỷ ban đến

làm việc với 55 lượt tỉnh,thành phố trực thuộc TƯ về thực hiện luật,pháp

lệnh,nhiệm vụ QPAN của địa phương.Tổ chức trên 60 cuộc họp làm việc với Bộ

Quốc phòng,Bộ Công an và một số Bộ,ngành hữu quan về thực hiện nhiệm vụ

QPAN,việc thực hiện nhiệm vụ ngân sách trong lĩnh vực này;về an

ninh,TTATXH,an toàn giao thông…; về diễn biến âm mưu hoạt động của các thế

lực thù địch và đối sách của ta trong tình hình mới.Đã tổ chức đi sâu nghiên cứu

05 chuyên đề về:công tác nhà trường quân đội,công an,quản lý trại giam,trại tạm

giam;tăng cường quản lý Nhà nước về an ninh biên giới,biển đảo;quản lý Nhà

nước về TTATGT;và về tình hình an ninh chính trị một số địa bàn tại các khu

vực Tây Nguyên,Tây Bắc,Tây Nam Bộ.Trong 05 chuyên đề trên có 02 chuyên

đề:công tác nhà trường quân đội,công an và tăng cường quản lý Nhà nước về an

ninh biên giới,biển đảo đã tổ chức hội nghị,hội thảo quy mô toàn quốc.Ngoài ra

giữa năm 1998,Uỷ ban đã tổ chức hội nghị chuyên đề về tình hình an ninh chính

trị,TTATXH ở nông thôn đây là chủ đề tiếp theo công việc đang nghiên cứu của

UBQPAN nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX,khái quát kết quả từng chuyên đề là:

+ Chuyên đề tăng cường quản lý Nhà nước về an ninh biên giới , biển đảo

Xét thấy tình hình an ninh biên giới,biển đảo thường xuyên có diễn biến phức

tạp và cũng để phục vụ thẩm tra luật biên giới quốc gia,ngay từ đầu khoá họp

Quốc hội , Uỷ ban đã xác định đây là một chủ đề cần tập trung đi sâu,nghiên

cứu.Đã tổ chức 14 đoàn công tác đến nghiên cứu tại 22 tỉnh biên giới,biển đảo

trong cả nước,làm việc với BQP,BCA,và Ban biên giới Chính phủ về đánh giá

tình hình,đề xuất kiến nghị với Đảng,Nhà nước những giải pháp nhằm tăng cường

quản lý Nhà nước,giữ vững an ninh biên giới,biển đảo.Sau đó,(tháng 8/ 2000)Uỷ

ban đã tổ chức hội nghị toàn quốc về chuyên đề này,21 báo cáo tham luận đã

được trình bày tại hội nghị,tập trung nêu bật diễn biến tình hình,đề xuất giải pháp

và kiến nghị.Những kiến nghị tập trung là: sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về

biên giới,biển đảo…bổ sung,sửa đổi các văn bản dưới luật cho phù hợp thực

tế;sớm có quy hoạch và chiến lược cụ thể tổng thể xây dựng và củng cố khu vực

biên giới,kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố Quốc phòng ,an

ninh..; xây dựng địa bàn trong sạch,cơ sở chính trị vững mạnh.Coi trọng đào tạo

cán bộ người dân tộc,đầu tư nâng cấp các trường dân tộc nội trú;sớm xác định các

cơ quan giúp Chính phủ chủ trì quản lý Nhà nước về biên giới,đồng thời xác định

rõ nhiệm vụ ,quyền hạn của các Bộ,ngành TƯ và địa phương trong quản lý Nhà

nước về biên giới,biển đảo và một số kiến nghị khác .

Những đề xuất kiến nghị tại hội nghị chuyên đề tăng cường quản lý Nhà nước

về an ninh biên giới,biển đảo đã được Chính phủ chỉ đạo các Bộ,ngành nghiên

cứu. Nhiều đề án đã được triển khai thực hiện trên biên giới,hải đảo nhất là các

công trình hạ tầng cơ sở(điện,đường,trường,trạm...)kè mũi Tràng Vĩ.Hệ thống đồn

biên phòng được xây dựng khang trang,cuộc sống đồng bào dân tộc có bước cải

thiện…Đến nay, những kiến nghị nói trên vẫn còn nguyên giá trị,nhất là qua diễn

biến phức tạp trên địa bàn Tây Nguyên,Tây Bắc,Tây Nam vừa qua .

+ Chuyên đề công tác nhà trường quân đội,công an

Trước yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang đáp ứng hai nhiệm vụ chiến lược

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới–thời kỳ CNH–HĐH đất nước,mà

nòng cốt là đội ngũ cán bộ–sĩ quan quân đội,công an,năm 1999 Uỷ ban đã đi sâu

nghiên cứu,khảo sát 4 học viện,17 trường của hệ thống nhà trường quân đội,công

an trong phạm vi toàn quốc,sau đó tổ chức hội nghị chuyên đề,tập trung đánh giá

trên các mặt:hệ thống tổ chức nhà trường,quy trình đào tạo đội ngũ giáo viên,cơ

sở vật chất,trang thiết bị dạy và học,công tác tuyển sinh và đề xuất,kiến

nghị.Trong phần kiến nghị đã tập trung 4 điểm sau :

Một là:Chính phủ sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện luật giáo dục trong

nhà trường,lực lượng vũ trang bao gồm cả việc đưa kiến thức giáo dục quốc

phòng,an ninh vào nội dung chương trình giảng dạy tại các trường trong hệ thống

giáo dục quốc dân và các trường thuộc hệ thống chính trị …

Hai là:ưu tiên ngân sách cho công tác nhà trường,tăng cường cơ sở vật chất

dạy và học

Ba là:sắp xếp hệ thống nhà trường cho phù hợp tình hình mới,chuẩn hoá đội

ngũ giáo viên và công tác tuyển sinh .

Bốn là:nghiên cứu để đội ngũ giáo viên trong trường quân đội,công an được

hưởng chế độ quyền lợi chung của ngành giáo dục .

+ Chuyên đề quản lý Nhà nước về TTATGT ( tháng 8 / 2000 )

Thực hiện tinh thần nghị quyết Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 về vấn đề này,nhằm

phản ánh tình hình,tìm nguyên nhân và đề xuất giải pháp kiến nghị với Quốc hội,

Chính phủ,góp phần giải quyết tình trạng ách tắc giao thông,tai nạn giao thông

đang xảy ra nghiêm trọng và ngày càng gia tăng,Uỷ ban đã tập trung nghiên

cứu,làm việc với UBATGT quốc gia,các Bộ GTVT,CA,…một số tỉnh,thành phố

như Hà Nội,Hải Phòng…,khảo sát sâu các tuyến trọng điểm:đường bộ,đường

sắt,đường thuỷ nội địa, một số cơ sở đào tạo lái xe,dạy nghề.v…v…

Báo cáo của Uỷ ban trình Quốc hội,UBTVQH và các cơ quan hữu quan đã

nói rõ thực trạng tình hình,xác định những nguyên nhân chính và đề xuất giải

pháp,kiến nghị .

Trong xác định nguyên nhân của tình hình đã chỉ rõ:ý thức tự giác chấp hành

luật lệ giao thông chưa cao,vi phạm của người tham gia giao thông còn phổ biến;

phương tiện cơ giới đường bộ tăng quá nhanh;kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu

cầu; công tác quản lý Nhà nước về đảm bảo an toàn giao thông chưa thật coi

trọng. Nguyên nhân sâu xa là Nhà nước chưa có chiến lược và quy hoạch tổng thể

về giao thông vận tải.Từ đó kiến nghị cần phải tập trung giải quyết vấn đề ý

thức,trách nhiệm của con người tham gia giao thông(trong đó đặc biệt chú ý

người điều khiển phương tiện tham gia giao thông)và công tác quản lý Nhà nước

về đảm bảo TTATGT.Tại phiên họp thứ 34 của UBTVQH tháng 9 năm 2000,Uỷ

ban đã có báo cáo về vấn đề này.Trong phần kiến nghị của Uỷ ban với Quốc

hội,Chính phủ đã nêu rõ:Cần sớm có luật giao thông,trước mắt là luật giao thông

đường bộ;đảm bảo tốt công tác đào tạo, sát hạch,cấp giấy phép lái xe và tăng

cường quản lý Nhà nước trong công tác đào tạo, sát hạch lái xe;về chất lượng

phương tiện và việc chỉ đạo nhập phương tiện; …

Với chuyên đề này,trong phạm việc chức năng đảm nhận Uỷ ban đã có tiếng

nói kịp thời và hiệu quả,góp phần để Quốc hội sớm ban hành luật giao thông

đường bộ đầu năm 2001 .

+ Chuyên đề nghiên cứu an ninh tại một số khu vực Tây Nguyên,Tây Bắc,Tây

Nam Bộ .

Đây là chuyên đề được đặt ra từ đầu năm 2001 khi tình hình an ninh tại

khu vực này có diễn biến phức tạp,các thế lực thù địch đẩy mạnh âm mưu“Diễn

biến hoà bình”bạo loạn lật đổ,núp dưới chiêu bài dân tộc,tôn giáo,dân chủ nhân

quyền,kích động,gây chia rẽ,lập khu tự trị…Uỷ ban đã tổ chức 3 đoàn công tác

đến nghiên cứu tại 8 tỉnh,8 huyện,8 xã.Làm việc với lãnh đạo địa phương,quân

khu công an,quân đội, biên giới,trực tiếp khảo sát tình hình tại cơ sở thôn,ấp,bản

và tiếp xúc với dân để nắm tâm tư,nguyện vọng.Trước khi Đoàn đi khảo sát đã

làm việc với BQP,BCA,Bộ Tư lệnh bộ đội biên phòng về các vấn đề mà Đoàn

quan tâm.Qua mỗi đợt khảo sát đều có báo cáo trình UBTVQH và cấp lãnh đạo

có thẩm quyền những vấn đề về tình hình,giải pháp và kiến nghị.Tại các kỳ họp

Quốc hội khoá X,Uỷ ban đã “ thuyết trình những vấn đề quan tâm về QP,AN trên

một số địa bàn trọng điểm trong tình hình hiện nay”.Bản thuyết trình đã được

Quốc hội đánh giá cao .

+ Chuyên đề quản lý trại giam,trại tạm giam cũng được Uỷ ban coi trọng

nghiên cứu

Uỷ ban đã cùng Bộ Công an và các cơ quan hữu quan đi nghiên cứu ở nhiều

trại giam,trại tạm giam về tình hình xây dựng,bố trí cán bộ,chiến sỹ;tình hình cơ

sở vật chất và các điều kiện bảo đảm công tác quản lý,giam giữ,giáo dục,cải tạo

can phạm, phạm nhân do Bộ Công an quản lý.Đã tổ chức hội nghị liên ngành để

thống nhất đánh giá thực trạng và đề ra biện pháp khắc phục;đồng thời kiến nghị

với Chính phủ và các Bộ,ngành hữu quan sớm có kế hoạch giải quyết:nâng pháp

lệnh thi hành án phạt tù thành luật,trước mắt sửa đổi,bổ sung một số điều cho phù

hợp;đầu tư ngân sách xây dựng trại giam,trại tạm giam,sửa chữa những trại đã

xuống cấp,đồng thời nghiên cứu cho tách ngân sách trại giam ra khỏi ngân sách

của Bộ Công an;chăm lo công tác y tế trong các trại giam ..

Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân,hoạt động giám sát vẫn còn nhiều mặt hạn

chế, hiệu quả chưa cao và chưa bao quát hết nhiệm vụ giám sát,ít nhiều còn mang

tính hình thức.Giám sát ngân sách còn nặng ở giai đoạn dự toán,chưa coi trọng

khâu phân bổ và thực hiện.Giám sát thực hiện luật,pháp lệnh,chưa sâu.Những vấn

đề lẽ ra cần tập trung giám sát như thực hiện cơ chế trong NĐ 19;mối quan hệ

giữa lực lượng biên phòng với lực lượng công an ở biên giới,cửa khẩu.Tổ

chức,chỉ huy bộ đội biên phòng còn nhiều bất cập chưa có giải pháp khắc

phục;giữa quân đội với công an trong phối hợp thực hiện phương án A2…Nhiều

kiến nghị thông qua giám sát chưa được các Bộ,ngành xem xét,giải quyết cụ

thể.Mặt khác,về phía Uỷ ban cũng chưa dành thời gian thoả đáng để xem xét loại

kiến nghị nào phải trình xin ý kiến UBTVQH,loại ý kiến nào phải làm việc cụ thể

với BQP,BCA hoặc với Chính phủ và Bộ,ngành khác.Ngoài ra cũng chưa coi

trọng đôn đốc đến nơi đến chốn để các cấp, các ngành lưu ý,giải quyết những kiến

nghị của Uỷ ban.Thuyết trình trước Quốc hội về ý kiến của Uỷ ban còn ít,nội

dung kiến nghị còn cụ thể chưa mang tính vĩ mô. Ngoài tập trung giám sát việc

thực hiện nghị quyết Quốc hội về nhiệm vụ QPAN của BQP,BCA,chưa dành

thời gian thoả đáng giám sát Bộ,ngành khác trong việc thực hiện nhiệm vụ

này.Việc phát huy vai trò của từng thành viên Uỷ ban thực hiện nhiệm vụ giám

sát còn hạn chế,từng thành viên Uỷ ban chủ động góp sức mình vào hoạt động

này còn ít .

Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ trên,thực hiện sự chỉ đạo của Uỷ ban Thường

vụ Quốc hội trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2002,Uỷ ban đã và đang

phối hợp với tiểu ban chỉ đạo bảo đảm AN,TT–ATXH trong cuộc bầu cử ĐBQH

khoá XI, tiến hành các hoạt động kiểm tra giám sát thường xuyên nắm diễn biến

tình hình; phối hợp với Chính phủ,các Bộ,các ngành hữu quan,nhất là Bộ Quốc

phòng,Bộ Công an và Uỷ ban bầu cử tỉnh,thành phố trực thuộc TƯ để có giải

pháp xử lý kịp thời và hiệu quả nhằm giữ vững ổn định tình hình,đảm bảo an toàn

tuyệt đối cuộc bầu cử ĐBQH khoá XI ” .

G. Hoạt động giám sát của Uỷ ban về các vấn đề xã hội

“ Đối với các địa phương,trong nhiệm kỳ này(tính đến tháng 2– 2002)Uỷ ban

về CVĐXH đã tiến hành 88 cuộc giám sát,khảo sát và nghiên cứu tại 53

tỉnh,thành phố với nhiều nội dung thuộc lĩnh vực chuyên môn Uỷ ban phụ

trách.Trong 53 tỉnh, thành phố thì có 29 tỉnh được giám sát một lần,16 tỉnh được

giám sát,khảo sát 2 lần; 7 tỉnh được giám sát,khảo sát,nghiên cứu 3 lần và 1 thành

phố được nghiên cứu, khảo sát,giám sát tới 6 lần.Các cuộc giám sát được tiến

hành từng đợt có trọng tâm với số cán bộ từ 3 đến 5 thành viên do một lãnh đaọ

của Uỷ ban làm trưởng đoàn.Thường trực Uỷ ban thông báo cụ thể thời gian,nội

dung giám sát,cách thức làm việc với thường trực HĐND,UBND và Đoàn ĐBQH

của địa phương và Uỷ ban tiến hành giám sát,khảo sát trong khoảng thời gian từ

15 đến 20 ngày để chuẩn bị.Rút kinh nghiệm các khoá trước,tuỳ theo địa bàn

giám sát ở từng địa phương,tuỳ theo nội dung khảo sát,giám sát mà Đoàn có cách

làm việc với chính quyền,các cơ quan có liên quan,tiếp tục khảo sát ở mỗi cơ sở

cho phù hợp.Thông thường đoàn có trao đổi thông tin và ý kiến của đoàn với lãnh

đạo địa phương và có báo cáo kết quả(bằng văn bản)với UBTVQH.Văn bản này

đồng thời gửi cho địa phương nơi tiến hành giám sát để thực hiện những kiến

nghị của đoàn.Các kiến nghị của địa phương nơi được giám sát có liên quan đến

Chính phủ,đến Bộ,ngành cũng được tách riêng để gửi cho Chính phủ,cho

Bộ,ngành để xử lý theo thẩm quyền .

Trong nhiệm kỳ này,Uỷ ban đã tổ chức hơn 30 cuộc làm việc với các

Bộ,ngành ở Trung Ương theo những chuyên đề cụ thể .

Hàng năm hoặc 6 tháng Uỷ ban đều có các cuộc làm việc xem xét tổng thể

các vấn đề hoặc là vấn đề có tính chuyên sâu.Trong 5 năm,Uỷ ban và thường trực

Uỷ ban đã có 12 cuộc làm việc với Bộ LĐTBXH;4 cuộc với Bộ Tài chính;9

cuộc với Bộ Y tế;4 cuộc với Uỷ ban QGDS – KHHGĐ;5 cuộc với Ban Tôn giáo

của Chính phủ và dự nhiều hội nghị với các ngành đó.Đến nay cách làm việc này

gần như đã trở thành thông lệ,thành nề nếp vì mục đích các cuộc làm việc là trao

đổi thông tin,cùng nhau tìm biện pháp thúc đẩy công việc của mỗi lĩnh vực ngày

càng tốt hơn.Đồng thời xem xét các kiến nghị hợp lý của địa phương .

Kết hợp giữa các hình thức giám sát nói trên,trong 5 năm Uỷ ban đã kiến

nghị nhiều vấn đề lớn với Chính phủ và các ngành Trung Ương(không kể các

kiến nghị trực tiếp đối với địa phương khi làm việc lại để kết thúc đợt giám

sát).Dưới đây là một số kiến nghị mà Chính phủ hoặc Bộ,ngành đã tiếp nhận và

xử lý

- Từ đầu năm 1998,Uỷ ban đã kiến nghị điều chỉnh một số nội dung trong chế

độ BHYT và kết quả là Bộ Y tế đã tiếp thu và trình Chính phủ xem xét,quyết

định huỷ bỏ việc thu viện phí 20% đối với đối tượng hưu trí và một số đối tượng

hưởng chính sách ưu đãi xã hội .

- Kiến nghị của Uỷ ban về di dân,tái định cư đã được Chính phủ rút kinh

nghiệm. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế mà là vấn đề xã hội rất lớn.Nơi định cư

mới phải có điều kiện sống,làm việc chí ít như nơi xuất cư và càng cao hơn càng

tốt.Kiến nghị này đã được vận dụng vào việc xây dựng công trình thuỷ điện Sơn

La(coi di dân tái định cư là một phần quan trọng của công trình,của dự án)

- Qua giám sát thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo,Uỷ ban đã có kiến nghị

một số việc mà Chính phủ đã điều chỉnh,đó là việc lựa chọn xây dựng các công trình hạ

tầng cơ sở,tuy dân được quyền lựa chọn nhưng phải phù hợp với điều kiện thực tế có thể

thực hiện được(không thể chọn xây dựng cônh trình điện hạ thế một khi lưới điện quốc

gia chưa tới,cũng không thể lựa chọn công trình xây dựng con đường của một xã hải đảo

nối với đất liền...).Uỷ ban cũng đã kiến nghị việc điều chỉnh chuẩn đói nghèo một khi tỷ lệ

hộ đói nghèo theo chuẩn cũ chỉ còn hơn 10% , Chính phủ,Bộ Lao Động và Thương Binh-

xã hội đã sửa,nâng chuẩn đói nghèo lên để thực hiện cho giai đoạn 2001- 2005(chuẩn

cũ:nông thôn miền núi,hải đảo có thu nhập 45. 000 đ/người/tháng;nông thôn đồng

bằng70.000đ/người/tháng;thành thị 100.000đ/người/tháng.Chuẩn

mới:80.000đồng,100.000đồng và150.000 đồng/người/ tháng)

- Qua giám sát thực hiện chế độ BHXH,Uỷ ban đã kiến nghị điều chỉnh mức

trừ tiền lương hưu đối với người nghỉ trước tuổi từ 2% xuống 1%;Chính phủ

chấp nhận và thể hiện trong nghị định 93/ CP ngày 12/11/1998 .

- Qua giám sát về các hoạt động y tế , chăm sóc sức khoẻ nhân dân , thực hiện

chính sách dân số và phát triển,Uỷ ban đã kiến nghị với Chính phủ và các cơ

quan hữu quan quan tâm tới vấn đề sức khoẻ sinh sản,chống suy dinh dưỡng,giải

quyết các chế độ cho cán bộ y tế và tăng ngân sách cho ngành y tế hợp lý

hơn.Đến nay Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quốc gia về dinh dưỡng,chăm

sóc sức khoẻ sinh sản và đang triển khai thí điểm sửa đổi một số vấn đề về cơ chế

quản lý,điều hành trong ngành y tế .

Nêu lên một số vấn đề được Chính phủ,các ngành tiếp thu và sửa đổi,chúng

ta có thể đi đến nhận định là:Các cuộc giám sát của Uỷ ban là thiết thực và bổ ích

góp phần sửa chữa những thiếu sót,khuyết điểm trong việc thực hiện luật pháp và

các chế độ chính sách,mặt khác cũng kiểm nghiệm xem các quy định của chính

sách luật pháp có phù hợp với thực tiễn không;kết quả các cuộc giám sát là tương

đối rõ ràng và cụ thể;sự hợp tác giữa Uỷ ban với các ngành,các địa phương vì

nhiệm vụ chung là tương đối chặt chẽ và có thiện chí.Hoạt động của Uỷ ban trên

lĩnh vực này là tích cực và đều đặn từ đầu đến hết khoá.Thông qua công tác giám

sát,các thành viên Uỷ ban với mức độ khác nhau đều tích luỹ thêm được kiến thức

và mở rộng được phạm vi hiểu biết của mình,đặc biệt là những hiểu biết về thực

tế về cuộc sống của các gia đình chính sách trong toàn quốc nhất là ở vùng sâu

vùng xa để làm việc tốt hơn,góp phần đáng kể vào việc thực hiện chính

sách,pháp luật cũng như việc xây dựng chính sách và pháp luật .

* Một số vấn đề tồn tại , khiếm khuyết đáng lưu ý là :

- Xã hội là một lĩnh vực rộng lớn,có nhiều nội dung phức tạp,nhưng chúng ta

cũng mới chỉ tập trung ở một số nội dung lớn,bức xúc,còn khá nhiều nội dung

chưa được giám sát;trong 61 tỉnh,thành cũng còn tới 8 tỉnh chưa được giám sát

về lĩnh vực xã hội(tất nhiên không yêu cầu phải đi hết các tỉnh)

- Đôi khi chúng ta chưa thực sự phát huy quyền lực của mình theo Điều 42 của

luật Tổ chức Quốc hội,trong đó có việc giám sát.Như trên đã nói các ngành,các

địa phương có thiện chí hợp tác trong công việc,nhưng cũng không phải là không

có trường hợp có nơi,có lúc chưa kết hợp chặt chẽ dẫn đến hiệu quả giám sát

thấp.Một số kiến nghị sau giám sát chưa được thực hiện một cách nghiêm

túc,thiếu thông tin phản hồi về việc thực hiện các kiến nghị của Đoàn .

- Một số kiến nghị trong giám sát cũng chưa thật đầy đủ và sâu sắc do đó có cơ

quan hành pháp cũng không thật sự lưu ý.Có tình hình này vì ở một số vấn đề

phải giám sát chúng ta cũng chưa nắm hết nội dung và tính nghiệp vụ sâu sắc của

nó ” .

H. Hoạt động giám sát của Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách

“ Thực hiện chức năng giám sát về lĩnh vực kinh tế và ngân sách,Uỷ ban

Kinh tế và Ngân sách đã tiến hành các hình thức giám sát sau :

1. Giám sát chung tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ

kinh tế – xã hội và ngân sách Nhà nước hàng năm .

Công tác giám sát chung của Uỷ ban tập trung vào việc giám sát hoạt động của

Chính phủ,của các Bộ,ngành,địa phương trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ

kế hoạch phát triển kinh tế –xã hội và ngân sách Nhà nước;việc thực hiện luật,pháp

lệnh,Nghị quyết của Quốc hội,của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quản lý

kinh tế,hoạt động kinh doanh,ngân sách,tài chính và tiền tệ.Thông qua công tác giám

sát,Uỷ ban phát hiện và kịp thời có ý kiến trực tiếp với các cơ quan,tổ chức nơi đến giám

sát những vấn đề cần khắc phục trong việc thi hành pháp luật cũng như việc tổ chức thực

hiện các nhiệm vụ kinh tế–xã hội và ngân sách Nhà nước;đồng thời qua khảo sát thực

tế,nắm được các thông tin cần thiết phục vụ cho việc thẩm tra các dự án luật,pháp lệnh và

các dự án,kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; NSNN trước khi trình ra Quốc

hội,UBTVQH;mặt khác,có cơ sở đề xuất,kiến nghị với Quốc hội và Chính phủ các chủ

trương,giải pháp về lĩnh vực kinh tế và ngân sách Nhà nước .

Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách đều có chương trình công tác giám sát hàng năm và

thường trực Uỷ ban cụ thể hoá thành chương trình công tác cụ thể hàng quý,hàng tháng

trong năm để triển khai tổ chức thực hiện .

Từ đầu nhiệm kỳ đến kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khoá X,Uỷ ban đã tổ chức

được 34 Đoàn công tác của Uỷ ban và tham gia các Đoàn của Phó Chủ tịch Quốc

hội Mai Thúc Lân về làm việc với hầu hết các tỉnh,thành phố trong cả nước,cá

biệt có tỉnh đã về làm việc được 2 lần.Tại mỗi địa phương,Đoàn đã làm việc với

thường trực HĐND,UBND,Đoàn ĐBQH và các cấp ,các ngành có liên quan ở địa

phương;đã đi thăm và làm việc với một số huyện,xã,cơ sở sản xuất–kinh doanh

trên địa bàn...Nội dung cơ bản của các đợt giám sát tại địa phương được tập

trung vào việc xem xét tình hình và kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc

hội về nhiệm vụ kinh tế–xã hội và dự toán NSNN hàng năm,trong đó chú trọng

các vấn đề;chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông–công nghiệp và dịch vụ;tiêu thụ

nông sản hàng hoá;về huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế–xã hội,vấn đề

phát triển công nghiệp gắn với phát triển nông nghiệp;hoạt động xuất nhập

khẩu,hợp tác đầu tư với nước ngoài;về lưu thông hàng hoá và diễn biến của thị

trường giá cả;về đầu tư vốn cho các chương trình mục tiêu quốc gia như :xoá đói

giảm nghèo,giải quyết việc làm,các xã đặc biệt khó khăn,trồng mới 5 triệu ha

rừng...; về các biện pháp đảm bảo thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách,triệt để

tiết kiệm trong chi tiêu .

Sau mỗi đợt giám sát tại địa phương,Đoàn công tác đã có báo cáo kết quả gửi

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ và các Bộ,các ngành có liên quan(từ đầu

nhiệm kỳ Quốc hội khoá X đến nay đã có 59 bản báo cáo.)Ngoài các báo cáo

tổng hợp, Đoàn công tác còn có các công văn gửi Chính phủ, các Bộ,ngành chức

năng ở Trung ương hoặc làm việc trực tiếp với các Bộ,ngành về một số đề nghị cụ

thể của địa phương để xem xét,quan tâm giải quyết và thông báo lại cho Uỷ ban

được biết kết quả .

Hàng năm,Uỷ ban cũng đã dành nhiều thời gian làm việc với các Bộ,ngành,các Tổng

cục,Tổng công ty,doanh nghiệp.Đối với các Bộ,ngành tổng hợp như tài chính, Bộ kế

hoạch và đầu tư,Ngân hàng Nhà nước Việt nam,Bộ thương mại,Ban vật giá Chính

phủ,quỹ hỗ trợ phát triển,Tổng cục thuế,Tổng cục hải quan,Kho bạc Nhà nước ...;Thường

trực chuyên trách của Uỷ ban hàng quý hoặc 6 tháng thường tổ chức các cuộc họp thường

trực Uỷ ban mở rộng hoặc toàn thể Uỷ ban hoặc đến làm việc trực tiếp để nghe và trao

đổi các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ kinh tế–xã hội và dự toán ngân sách

Nhà nước theo nghị quyết của Quốc hội.Đối với các Bộ quản lý chuyên ngành kinh tế

như Bộ công nghiệp , nông nghiệp và phát triển nông thôn,Thuỷ sản,Xây dựng,Giao

thông vận tải...hàng năm Thường trực Uỷ ban tổ chức làm việc 1–2 lần với từng Bộ về

tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế ngành gắn với nhiệm vụ thu,chi ngân sách.Ngoài

ra,từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khoá X đến nay Thường trực Uỷ ban cũng đã tổ chức một

số Đoàn đi làm việc 1–2 lần trực tiếp với các TCT như :Hàng không Dân dụng,Hàng

hải,Dầu khí Việt nam,Bưu chính viễn thông,Xi măng... và các Ngân hàng thương mại

quốc doanh về tình hình sản xuất– kinh doanh,thực trạng tài chính doanh nghiệp và hướng

phát triển,những khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp cần giải quyết tháo gỡ.

2. Giám sát theo chuyên đề về các vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế và ngân sách

Nhà nước.

Đây là hình thức giám sát có tính hiệu quả cao trong việc thực hiện chức

năng , nhiệm vụ của Uỷ ban

Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách đã tổ chức giám sát một số chuyên đề cụ thể với các

hình thức thích hợp như phối hợp các Bộ,ngành chức năng(Bộ Thuỷ sản,Liên minh các

HTX Việt nam...);phối hợp các Ban Kinh tế–Ngân sách của HĐND các tỉnh,thành phố

trực thuộc Trung Ương;đề nghị các Bộ,ngành,TCT,địa phương gửi báo cáo kết hợp với

việc tổ chức các Đoàn của Uỷ ban đi làm việc trực tiếp hoặc tổ chức các Hội nghị để

nghe trực tiếp ...Trên cơ sở đó,tổ chức tổng hợp,nghiên cứu và tổ chức Hội nghị hoặc Hội

thảo chuyên đề với Bộ,ngành,Tổng công ty,các địa phương có liên quan.Từ đầu nhiệm kỳ

Quốc hội khoá X đến nay,Uỷ ban đã tổ chức được các chuyên đề sau :

- Về mô hình các Tổng công ty Nhà nước ;

- Về việc triển khai thực hiện các luật thuế mới ;

- Về tình hình tài chính của các ngân hàng,tổ chức tín dụng và các giải pháp khắc

phục ;

- Về biện pháp phối hợp trong quản lý Nhà nước về đầu tư phát triển ngành thuỷ

sản ; - Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước

hiện nay ;

- Tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong lĩnh vực

kinh tế và ngân sách Nhà nước ;

- Vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước ;

- Về đánh giá thực trạng và giải pháp tiếp tục củng cố và phát triển các HTX

hiện nay ;

- Về đánh giá 5 năm thực hiện,những nội dung cần sửa đổi,bổ sung,hoàn thiện

luật NSNN ;

- Về thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ NSNN cho phát triển

nông nghiệp và nông thôn ;

- Về việc nhập khẩu linh kiện(IKD),lắp ráp xe gắn máy;

- Về chương trình mía đường ;

- Về sản xuất,nhập khẩu và tiêu thụ muối ;

Qua từng chuyên đề đã có báo cáo kết quả và các kiến nghị cụ thể gửi

UBTVQH,Chính phủ và các Bộ,ngành,địa phương có liên quan ; đồng thời cũng

có một số kỷ yếu về Hội nghị,Hội thảo chuyên đề kèm theo .

3. Giám sát việc triển khai thi hành các luật,pháp lệnh đã được Quốc

hội,UBTVQH thông qua .

Tổ chức theo dõi,đôn đốc các Bộ,ngành hữu quan sớm trình Chính phủ ban

hành các nghị định,thông tư hướng dẫn thi hành các luật và pháp lệnh đã được

Quốc hội,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua.Thường trực Uỷ ban đã tổ chức

được một số cuộc họp để xem xét việc triển khai thi hành các luật,pháp lệnh đã

được Quốc hội,UBTVQH thông qua trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá X;đồng thời

đôn đốc việc ban hành và trực tiếp tham gia vào các văn bản dưới luật , như luật

Ngân hàng Nhà nước;luật các tổ chức tín dụng;luật sửa đổi,bổ sung một số điều

của luật thuế chuyển quyền sử dụng đất;pháp lệnh du lịch;pháp lệnh thương

phiếu;pháp lệnh phí và lệ phí;luật sửa đổi,bổ sung một số điều của luật đầu tư

nước ngoài tại Việt nam; ...Tuy nhiên cũng thấy rằng,công tác giám sát trong lĩnh

vực ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật,pháp lệnh

thực hiện chưa được nhiều, chưa kịp thời và còn bị hạn chế về tác dụng và hiệu

quả .

4. Giám sát qua kiến nghị của các tổ chức,công dân về lĩnh vực kinh tế và

ngân sách .

Qua thực hiện công tác giám sát và kết hợp với việc nghiên cứu,xem xét các

kiến nghị của các tổ chức và công dân,Thường trực Uỷ ban đã có một số văn bản

gửi đến Chính phủ,các Bộ,ngành chức năng đề nghị giải trình,làm rõ trách nhiệm

và cần có biện pháp khắc phục như vấn đề di dân tự do;việc nhập khẩu

clinker;vấn đề sản xuất,tiêu thụ,giá cả về nguyên liệu chế biến bột giấy trong

nước;về tình hình cải tạo và nâng cấp quốc lộ 1A đoạn từ Vinh(Nghệ An)đến

Đông Hà(Quảng Trị);việc nhập khẩu các bộ linh kiện xe gắn máy,nhất là từ

Trung Quốc và việc sản xuất và lắp ráp xe gắn máy trong nước theo chủ trương

khuyến khích nội địa hoá;về chính sách thuế đối với doanh nghiệp;về mua tạm trữ

thóc gạo,cà phê;về tình hình nhập khẩu đường,xuất khẩu gạo,nhập khẩu những

mặt hàng mà khả năng trong nước có thể sản xuất được...Qua theo dõi thấy,các

kiến nghị của Uỷ ban đã được Chính phủ,các Bộ, ngành quan tâm có chuyển

biến tích cực,có các biện pháp khắc phục từng bước có kết quả .

Ngoài ra,sau khi nhận được đơn thư của các tổ chức,cá nhân về các vấn đề

liên quan tới lĩnh vực kinh tế và ngân sách;Thường trực Uỷ ban hoặc có công văn

chuyển đến các cơ quan hữu quan và đôn đốc việc xem xét,giải quyết hoặc

chuyển đến Vụ Dân nguyện–VPQH xem xét xử lý chung;đồng thời cũng thông

báo cho các tổ chức, cá nhân được biết .

Qua công tác giám sát của Uỷ ban trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá X có thể

khẳng định rằng hoạt động giám sát của Uỷ ban ngày càng có chất lượng,đi vào

chiều sâu , đã bao quát được các nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực kinh tế và

ngân sách,tập trung vào những vấn đề cấp bách mà Quốc hội đề ra và được cử tri

cả nước quan tâm như tình hình thực hiện nhiệm vụ và NSNN hàng năm,việc

phân bổ nhiệm vụ thu,chi NSNN,các hoạt động XNK,XDCB,đặc biệt là các dự án

quan trọng quốc gia,các chương trình mục tiêu,các mục tiêu và cân đối lớn của

nền kinh tế quốc dân... Bên cạnh đó,trong hoạt động giám sát về lĩnh vực kinh tế

và ngân sách cũng còn nhiều tồn tại và hạn chế.Cụ thể là chất lượng còn thấp,sự

phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội trong công tác giám sát và phục vụ

giám sát chưa được chặt chẽ, đồng bộ.Qua các đợt giám sát,Uỷ ban đều có các

kiến nghị cụ thể gửi các Bộ,ngành, địa phương về các vấn đề nổi lên về lĩnh vực

kinh tế,NSNN.Nhiều kiến nghị của Uỷ ban đã được các Bộ,ngành,địa phương

tiếp thu,giải quyết và có công văn phúc đáp giải trình về các vấn đề mà Uỷ ban đã

nêu.Tuy nhiên,vẫn còn nhiều kiến nghị qua hoạt động giám sát của Uỷ ban trong

lĩnh vực kinh tế và NSNN chưa thực sự được các cơ quan hữu quan thường xuyên

quan tâm tiếp nhận giải quyết kịp thời và đúng mức.Do đó ,có một số tồn tại cứ

tiếp diễn và không được khắc phục.Hoạt động giám sát trong lĩnh vực thi hành

văn bản pháp luật tuy được Uỷ ban quan tâm,nhưng thực tế chưa được thực hiện

nhiều và còn bị hạn chế về tác dụng hiệu quả ,kết quả chưa tương xứng với nhiệm

vụ được giao .

Nguyên nhân của những tồn tại ,hạn chế trong hoạt động giám sát đã nêu ở

trên là do:lực lượng bảo đảm thực hiện công tác giám sát quá mỏng ,nhất là các

thành viên hoạt động chuyên trách của Uỷ ban lại quá ít;các đoàn đi giám sát

thực tế thường được tiến hành trong khoảng thời gian ngắn nhưng nội dung còn

dàn trải,chủ yếu là nghe các báo cáo,chưa có điều kiện sâu sát hơn với tình hình

thực tế;sự tham gia của các cơ quan có liên quan trong công tác giám sát còn ít

.Việc lập kế hoạch và tổ chức các đoàn giám sát còn bị động,đặc biệt là việc theo

dõi tình hình không thường xuyên;việc theo dõi,đôn đốc các cơ quan hữu quan

tiếp nhận nghiên cứu, giải quyết và phúc đáp kiến nghị hoặc phối hợp cùng nhau

giải quyết các kiến nghị qua giám sát chưa được quan tâm đúng mức,thường

xuyên.Mặt khác,do chưa ban hành luật về hoạt động giám sát nên hiện nay một

số quy định về hoạt động giám sát trong lĩnh vực kinh tế và NSNN tuy đã có ở

nhiều văn bản khác nhau nhưng còn trùng lặp,chưa thống nhất,chưa cụ thể và

chưa có hệ thống,chưa thật sự có hiệu lực. Quyền và nghĩa vụ của các cấp,các

ngành chịu sự giám sát của Quốc hội trong lĩnh vực kinh tế và NSNN chưa

được quy định rõ ràng nên hiệu quả hiệu lực giám sát còn nhiều hạn chế ...”

I . Hoạt động giám sát của Uỷ ban Khoa học , Công nghệ và Môi

trường

“ Công tác giám sát là một trong những nhiệm vụ chính của Uỷ ban

trong nhiệm kỳ qua,Uỷ ban đã tổ chức các loại hình giám sát sau đây:

- Giám sát thường xuyên về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội,các văn bản

pháp luật trong lĩnh vực khoa học,công nghệ và môi trường tại các địa phương ;

- Giám sát việc thực hiện,triển khai các hoạt động khoa học,công nghệ của các

Bộ, ngành,các viện,trường theo các kế hoạch đã được Quốc hội thông qua ;

- Giám sát các vụ , việc xuất hiện đột xuất về khoa học , công nghệ và môi

trường ;

- Giám sát theo chuyên đề của lĩnh vực khoa học,công nghệ và môi trường có ý

nghĩa quan trọng .

1. Giám sát thường xuyên việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, văn bản

pháp luật trong lĩnh vực khoa học,công nghệ và môi trường tại các địa phương

Trong nhiệm kỳ qua,Uỷ ban đã tổ chức giám sát tại 40 địa phương với nội

dung cụ thể sau :

- Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng,nghị quyết của Quốc hội,các

văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực KHCNMT nói chung ;

- Việc tổ chức thực hiện ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống ở cơ

sở, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn;việc chuyển dịch

cơ cấu cây trồng,vật nuôi tại địa phương ;

- Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường gắn với sự phát triển kinh

tế- xã hội;tình trạng ô nhiễm môi trường ở địa phương và biện pháp khắc phục ;

- Việc triển khai hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về khoa học,công nghệ ở

địa phương theo luật khoa học và công nghệ và theo tinh thần nghị quyết TƯ2

khoá VIII;triển khai thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động khoa học theo luật khoa

học và công nghệ;hiệu quả của các đề tài nghiên cứu khoa học,công nghệ phục

vụ phát triển kinh tế - xã hội ; tình hình sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học do

ngân sách cấp .

Để tổ chức giám sát , Uỷ ban đã chú trọng phân bổ thời gian để lên kế hoạch

lập các đoàn giám sát và mời các thành viên , chuyên gia hoặc đại diện các Bộ

cùng tham gia.Tại các địa phương đoàn đều có buổi làm việc với Thường trực

HĐND, UBND,Đoàn đại biểu Quốc hội,đại diện các sở,ban,ngành có liên

quan,nghe báo cáo , đi thực tế cơ sở trong địa bàn.Cuối đợt giám sát,đoàn đã thảo

luận,trao đổi với lãnh đạo địa phương để có kết luận chung của đợt giám sát.Qua

các đợt công tác đoàn đã ghi nhận các kiến nghị,đề xuất của địa phương,có nhận

xét,có đóng góp cho công tác thực hiện triển khai,góp phần cùng địa phương đề ra

các hướng khắc phục . Sau mỗi đợt giám sát,các kiến nghị đã được gửi đến các

cơ quan hữu quan của Chính phủ xem xét,giải quyết.Đối với những vấn đề bức

xúc,Thường trực Uỷ ban đã chủ động phối hợp với các cơ quan của Chính phủ

bàn biện pháp khắc phục,giải quyết . Một số việc đã được xem xét và giải quyết

kịp thời,tuy đã có những cố gắng theo dõi giải quyết nhưng vì việc quy định thẩm

quyền đoàn giám sát,chế tài giám sát của Quốc hội chưa rõ ràng,cho nên nhiều

vấn đề bức xúc về khoa học,công nghệ,và môi trường của địa phương mà đoàn

đã kiến nghị còn chưa được giải quyết hoặc trả lời thoả đáng.Đây là một trong

những tồn tại lớn trong hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung trong đó có

những điểm yếu của công tác tổ chức giám sát của Uỷ ban nói riêng .

2. Giám sát việc thực hiện ,triển khai các hoạt động khoa học,công nghệ của

các Bộ, ngành, viện, trường và giám sát chuyên đề và các vụ, việc .

Đồng thời với việc giám sát các địa phương,Uỷ ban cũng đã tổ chức hơn 50

cuộc giám sát chuyên đề và giám sát các Bộ,ngành,kết hợp đi tìm hiểu thực tế ở

các đơn vị trực thuộc cũng như mời đại diện lãnh đạo các Bộ,ngành đến báo cáo

hoặc thông qua giám sát bằng văn bản.Nội dung giám sát tập trung vào các vấn

đề:quản lý và sử dụng vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học,công nghệ,hiệu quả và

ứng dụng kết quả của chương trình,đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ vào

sản xuất và đời sống ở địa phương ...

Công tác giám sát các Bộ,ngành đã được Uỷ ban đẩy mạnh thực hiện trong

nhiệm kỳ này,tuy nhiên Uỷ ban cũng chưa giám sát được hết tất cả các Bộ,ngành

về các lĩnh vực có liên quan.Việc giám sát cũng chưa được tiến hành kịp thời và

triệt để thời gian làm việc còn gấp gáp vì khối lượng công việc quá nhiều,lĩnh vực

được phân công quá rộng mà sự phát triển trong lĩnh vực này là rất nhanh nên

công tác giám sát của Uỷ ban đôi lúc còn chưa theo kịp .

Uỷ ban đã tổ chức các đoàn giám sát theo chuyên đề về:Bảo vệ môi trường và

xử lý chất thải trong các khu công nghiệp,về bảo vệ môi trường ở làng nghề(Bát

Tràng– Hà Nội),về khắc phục việc sử dụng quá mức túi chất dẻo gây khó khăn lớn

cho việc xử lý chất thải đô thị về bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm,về

quản lý và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật,về ứng dụng khoa học,công nghệ trong

nuôi trồng, đánh bắt thuỷ,hải sản phục vụ cho chương trình xuất khẩu thuỷ sản từ

nay đến 2005 ..

Qua các buổi làm việc này,các đoàn giám sát cũng đã đưa ra các hướng giải quyết

cụ thể cho từng loại công việc như quản lý ngân sách,cơ chế xét duyệt đề tài,vốn ở

các Bộ,ngành,giúp các Bộ,ngành thống nhất quản lý,chỉ đạo giảm bớt chồng chéo

bất hợp lý.Tuy nhiên kết quả đạt được cũng còn hạn chế,một số kiến nghị còn

chưa được Chính phủ và các Bộ giải quyết hoặc trả lời , do vậy hiệu quả giám sát

chưa cao .

Cùng với những hình thức giám sát nêu trên,căn cứ vào tình hình bức xúc,

Thường trực Uỷ ban cũng đã tổ chức các buổi làm việc bằng hình thức gửi văn bản

để giám sát các vụ,việc cụ thể,phát sinh như xử lý chất thải có chứa

pôlyetylen,việc thử nghiệm chế phẩm vi sinh EM,sự cố máy tính Y2K,vấn đề môi

trường liên quan đến dự án đường Hồ Chí Minh,quản lý công nghệ chế biến đảm

bảo vệ sinh an toàn thực phẩm,giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các

phương tiện thông tin đại chúng, cách diễn đạt tên nước ngoài trong các văn bản

của Nhà nước,công tác phòng chống lụt,bão,việc khắc phục tình trạng thiếu nước

cho sản xuất nông nghiệp,việc chống lũ cao đột xuất,việc quản lý,sử dụng mạng

internet các lĩnh vực cơ yếu,phát thanh, truyền hình ...

Thường trực Uỷ ban cũng đã có một số buổi làm việc với Phó Thủ tướng

hoặc đại diện Chính phủ để bàn biện pháp tháo gỡ và nêu các vấn đề còn vướng

mắc.Tại các buổi làm việc,đại diện Chính phủ hoan nghênh và mong muốn định

kỳ thường xuyên được phối hợp với các cơ quan của Quốc hội xem xét,giải quyết

từng vấn đề cụ thể.Uỷ ban đã góp phần giải quyết kịp thời một số vụ,việc như bảo

vệ môi trường trong hoạt động của Công ty VeDan,vấn đề táo Ixraen ở Hà

Giang,vấn đề nước sạch, kiểm dịch thực vật,tràn dầu ở Cần Giờ...nhưng cũng còn

nhiều việc mặc dù đã bỏ nhiều công sức theo dõi nhưng chưa có kết quả như hạn

chế sử dụng túi chất dẻo(PE), việc viết tên riêng nước ngoài ...

3. Giám sát các công trình quan trọng quốc gia

Đây là một nhiệm vụ mới của Uỷ ban trong giải quyết nhiệm kỳ khoá này,

dođó cũng cần được nghiên cứu,đổi mới cho công tác sau này.Uỷ ban đã giám sát

việc thực hiện các công trình:Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng;Dự án khí-

điện-đạm Bà Rịa–Vũng Tàu;Dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất;Dự án nhà máy

thuỷ điện Sơn La.

Hàng năm Uỷ ban đều tổ chức giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về

các công trình này,qua đó có báo cáo gửi Quốc hội.Nhìn chung,các công trình

quan trọng quốc gia đều triển khai chậm và không đúng theo tiến độ đã trình bày

trước Quốc hội(như dự án khí-điện-đạm.Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất)nội

dung,mục đích một số công trình cũng thay đổi(như dự án trồng mới 5 triệu ha

rừng)nhưng Chính phủ chưa báo cáo.Qua giám sát,đã thấy việc thực hiện Nghị

quyết về tiêu chuẩn các công trình quan trọng quốc gia còn chưa được chấp hành

nghiêm chỉnh một số công trình còn bị chia nhỏ quy mô thành nhiều dự án,để

tránh các tiêu chuẩn phải trình Quốc hội xem xét,quyết định dự án đường Hồ Chí

Minh...việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và giải trình nguồn vốn đầu

tư còn chưa được tiến hành đầy đủ,đúng thủ tục,trong khi công trình vẫn được

triển khai ...

4. Đánh giá hoạt động giám sát

Qua thực hiện công tác giám sát,Uỷ ban đã hoàn thành một khối lượng công

việc lớn và phức tạp,về cơ bản hoàn thành chương trình đề ra từng bước nâng cao

được chất lượng và hiệu quả giám sát.Nội dung giám sát đã bao gồm các hoạt

động trong lĩnh vực khoa học,công nghệ và bảo vệ môi trường,có chú trọng các

vấn đề bức xúc nảy sinh . Về địa điểm , lịch làm việc đã được bố trí thích

hợp,đúng trình tự,đúng thủ tục.Thường trực Uỷ ban đã hoàn thành công việc của

mình:đề xuất nhiệm vụ,lên kế hoạch,phối hợp địa phương,ban,ngành,tổ chức các

đoàn đi,phân công thành viên tham gia...Các thành viên Uỷ ban mặc dù hầu hết

kiêm nhiệm nhưng cũng đã cố gắng tham gia công tác giám sát.Vụ giúp việc đã cố

gắng bảo đảm các điều kiện phục vụ công tác giám sát .

Nhìn chung,công tác giám sát thường xuyên về hoạt động khoa học,công

nghệ và môi trường ở địa phương thời gian qua được đánh giá là thực sự đã có tác

động tốt về nhận thức và nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo địa phương nhằm

thúc đẩy hoạt động khoa học,công nghệ và bảo vệ môi trường tại địa phương nhất

là việc đẩy mạnh tiến bộ khoa học,công nghệ trong việc tạo ra giống cây,giống con

có hiệu quả thiết thực góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp trong cả nước.Tuy

nhiên,trong nhiệm kỳ vừa qua,việc phát huy mối liên hệ giữa Uỷ ban với các cơ

quan quản lý về khoa học,công nghệ và môi trường ở địa phương,với các ban của

HĐND còn chưa được thường xuyên,do đó , việc đề xuất các vấn đề cần có sự

giám sát của Uỷ ban chưa được kịp thời.Trong nhiệm kỳ tới,Uỷ ban cần phát huy

tốt mối quan hệ này để qua đó nâng cao hiệu quả giám sát tại địa phương

Bên cạnh những mặt được nêu trên,công tác giám sát của Uỷ ban cũng bộc

lộ nhiều hạn chế.Chính sách về KHCNMT ban hành trong thời gian vừa qua rất

phong phú,đa dạng nhưng công tác giám sát của Quốc hội,Hội đồng nhân dân

chưa theo kịp, hiệu quả giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu.Có lĩnh vực mà Uỷ

ban chưa tích cực tiến hành giám sát,theo dõi như các mảng về khoa học xã hội và

nhân văn.Các chuyên đề mà Uỷ ban lựa chọn để giám sát còn dàn trải,thiếu tập

trung vào các vấn đề lớn. Một số lĩnh vực còn giám sát yếu,chưa được quan tâm

thích đáng như việc thực hiện ngân sách cho KHCN đặc biệt là ngân sách KHCN

ở địa phương,về đề tài khoa học xã hội và nhân văn ở địa phương,việc lựa chọn

nhập công nghệ nước ngoài để thúc đẩy sản xuất công nghiệp,việc phát triển công

nghệ nuôi cấy mô kém hiệu quả(do công tác chuẩn bị chưa tốt) ở các địa

phương,vấn đề lũ đồng bằng sông Cửu Long,về mối quan hệ giữa Bộ KHCNMT

với địa phương,vấn đề tổ chức hoạt động KHCNMT ở cấp cơ sở...Uỷ ban cũng

chưa thường xuyên phối hợp với Bộ,ngành hữu quan và các chuyên gia đầu ngành

trong việc giám sát nhằm đạt hiệu quả cao hơn.Việc sắp xếp các đoàn đi làm việc

nhiều khi còn gấp gáp,việc lên kế hoạch, phối hợp với Hội đồng, các Uỷ ban của

Quốc hội còn chưa thực hiện được thường xuyên.Kiến nghị giám sát của Uỷ ban

còn ít được hồi âm vì Uỷ ban chưa tích cực theo dõi,đôn đốc,mặt khác một số cơ

quan và địa phương chưa thực sự quan tâm giải quyết hoặc trả lời thoả đáng.Việc

phân định trách nhiệm của Chính phủ,Quốc hội còn chưa thật rõ mà nguyên nhân

chính là thiếu những quy định cụ thể về giám sát của Quốc hội.Một số thành viên

có trọng trách của Uỷ ban còn ít tham gia giám sát ”

2.. Những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của

Quốc hội.

Để khắc phục tình trạng trên trong hoạt động giám sát của Quốc hội,trước

hết cần phải tìm,xác định được đúng những nguyên nhân chủ yếu đã hạn chế

những hoạt động giám sát của Quốc hội.Đứng về khoa học quản lý nói chung và

quản lý Nhà nước nói riêng khi thành lập một cơ quan,xác định chức năng,quyền

hạn của các cơ quan đó thì phải tính đến các mặt sau đây :

- Phải tổ chức cơ quan đó như thế nào để phù hợp với yêu cầu khách quan,tất yếu

của công việc mà cơ quan đó phải đảm nhận , nghĩa là phải xác định về mặt tổ

chức , phân định chức năng,quyền hạn và mối quan hệ trong cơ quan và ngoài cơ

quan như thế nào .

- Phải tuyển chọn người lãnh đạo cơ quan và nhân viên cơ quan như thế nào để

họ có đủ khả năng về chuyên môn,sức khoẻ và các điều kiện khác để họ có thể

đảm đương được công việc của họ .

- Phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất và những điều kiện pháp lý cần

thiết để cơ quan hoạt động được .

Vì vậy,khi có một chức năng nào đó không thực hiện được hoặc thực hiện

kém hiệu lực thì phải tìm nguyên nhân trong những yếu tố trên .

2.1. Một số đại biểu Quốc hội được bầu ra theo cơ chế cũ (luật cũ)chưa có đủ

điều kiện để đảm đương công tác giám sát của Quốc hội trong công tác đổi

mới ở nước ta .

Theo quy định của Điều 3,luật Tổ chức Quốc hội:“ Hiệu quả hoạt động của

Quốc hội được đảm bảo thực hiện bằng hiệu quả hoạt động của các kỳ họp Quốc

hội, hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,của Hội đồng,Uỷ ban

của Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội ”.Như vậy,hiệu quả của hoạt động

giám sát của Quốc hội trước hết phụ thuộc vào hoạt động giám sát của các đại biểu

Quốc hội. Trong lĩnh vực giám sát trách nhiệm của đại biểu Quốc hội lại càng

nặng nề vì đó là việc phải xem xét và quyết định những vấn đề đã,đang và sẽ xảy

ra trong thực tế đời sống xã hội chứ không còn nằm trên văn bản như các luật của

Nhà nước.Để đảm đương được công tác giám sát này người đại biểu Quốc hội cần

có được những điều kiện sau :

Người đại biểu phải thực sự là người đại diện cho nhân dân,do dân tín nhiệm

bầu ra một cách hợp pháp .

- Người đại biểu phải có năng lực làm công tác quản lý xã hội,cụ thể là có năng

lực làm công tác giám sát tức là ít nhất cá nhân đại biểu phải có trình độ pháp lý

nhất định,hiểu biết sâu sắc Hiến pháp,tất cả các luật,Pháp lệnh,Nghị quyết của

Quốc hội đã ban hành vì đó là công cụ,là chuẩn mực để đối chiếu với hoạt động

thực tế.Không có công cụ này thì đại biểu Quốc hội không thể nhận xét và quyết

định thế nào là đúng, là sai,và người đại biểu phải am hiểu một cách sâu sắc thực

tiễn ở những vấn đề giám sát .

- Đại biểu cần có những điều kiện vật chất cần thiết bảo đảm cho hoạt động của

mình được tiến hành:thời gian,thông tin,cơ sở vật chất .

- Do phần lớn đại biểuQuốc hội làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên đại biểu

Quốc hội rất ít thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu nói chung và làm nhiệm vụ

giám sát nói riêng .Trong khi đó công tác giám sát đòi hỏi có nhiều thời gian và sự

tập trung thời gian là cần thiết .

- Cũng do hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm nên phần lớn đại biểu Quốc hội đã

hưởng lương theo công việc của mình ngoài ra nhận thêm phụ cấp đại biểu ít ỏi

việc cung cấp thông tin các phương tiện vật chất cần thiết bảo đảm cho đại biểu

hoạt động cũng bị hạn chế thể hiện rõ nhất là trong các kỳ họp Quốc hội,tài

liệu,báo cáo gửi cho các đại biểu thường chậm ,quá sát thời gian họp và thảo luận

về vấn đề đó.Khi ở địa phương ,không phải nơi nào cũng có đủ trụ sở cho đoàn đại

biểu Quốc hội làm việc ,làm nhiệm vụ tiếp dân và tiếp xúc với cử tri.Muốn giám

sát thì phải có phương tiện giao thông ,thông tin cần thiết thì mới thực hiện

được,nhưng trụ sở còn thiếu thì nói gì đến những điều kiện đó

- Vì vậy hiệu quả hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội có bị hạn chế là lý do

ý thức trách nhiệm của đại biểu nhưng nguyên nhân chính là Nhà nước đã không

quan tâm một cách đúng mức và hợp lý đến những điều kiện cần và đủ để đại biểu

Quốc hội thực hiện được đúng và đầy đủ quyền hạn của mình nhất là trong hoạt

động giám sát

2.2.Cơ cấu tổ chức của Quốc hội và cách làm việc của Quốc hội chưa tương

ứng với những yêu cầu của công tác giám sát

Như trên đã trình bày ,Quốc hội có chức năng giám sát tính hợp hiến hợp

pháp của tất cả các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước ban hành và giám

sát tính hợp pháp,hợp lý trong hoạt động của cơ quan Nhà nước,đơn vị vũ trang,tổ

chức xã hội và công dân .Như vậy ,chúng ta thấy đối tượng giám sát của Quốc hội

là rất rộng ,nội dung mà Quốc hội cần giám sát cũng rất đa dạng và phức tạp trên

mọi lĩnh vực của đời sống chính trị,kinh tế,quân sự, ngoại giao…

Để thực hiện việc giám sát đó,theo quy định của Hiến pháp năm 1980 chúng

ta nhận thấy :

- Quốc hội giao cho viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo hiến

pháp và pháp luật, tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp quy dưới luật

theo Điều 138 và phải báo cáo trước quốc hội theo Điều 141.

- Quốc hội giao cho Hội đồng nhà nước giám sát việc tuân theo hiến pháp và pháp

luật, công tác của Hội đồng Bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng

Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo Điều 100,điểm 7,Hiến pháp 1980 và giám sát

Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Điều 100, điểm 9.

- Quốc hội bầu ra Hội đồng dân tộc và các uỷ ban Thường trực của Quốc hội giúp

quốc hội thực hiện việc quyền giám sát tối cao theo Điều 91 và Điều 92,Hiến

pháp năm 1980.

Và Quốc hội trực tiếp thực hiện quyền giám sát trong các kỳ họp quốc hội .

Quốc hội mỗi năm chỉ họp 2 kỳ nên trên thực tế thì chức năng giám sát của Quốc

hội do Hội đồng nhà nước, có sự giúp đỡ của Uỷ ban Thường trực đảm nhận và

chịu trách nhiệm phải báo cáo trước quốc hội.Hội đồng nhà nước chỉ có 12 thành

viên, không phải tất cả thành viên đều hoạt động chuyên trách, với một khối

lượng công việc lớn và nội dung đa dạng,phức tạp nhất là trong hoạt động quản lý

thì không thể đủ khả năng đảm đương một khối lượng công việc như vậy;các Uỷ

ban Thường trực của Quốc hội phần lớn cũng do các đại biểu kiêm nhiệm đảm

nhiệm do đó cũng không thể giúp Hội đồng Nhà nước trong một khối lượng công

việc lớn như vậy.Mặt khác ,chúng tôi nhận thấy ngay trong luật Tổ chức Quốc hội

và Hội đồng Nhà nước quy định về quyền hạn ,chức năng của các Uỷ ban trong

hoạt động giám sát cũng không xác định cụ thể và rõ ràng .Chúng ta đều biết rằng

hoạt động giám sát của Quốc hội được thể hiện ở hai mặt:

- Giám sát tính hợp hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà

nước ban hành.Trong tình hình hiện nay ,số lượng các văn bản đó rất lớn nhưng

cho đến nay Quốc hội chưa có một cơ quan chuyên trách nào đảm đương nhiệm vụ

xem xét tính hợp hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy dưới luật do Hội đồng

Bộ trưởng (Chính phủ)ban hành và những hướng dẫn thi hành luật và các văn bản

pháp quy khác do Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao ban hành .

Đối với những văn bản pháp quy dưới luật mà Hiến pháp đã giao cho Viện kiểm

sát nhân dân tối cao kiểm sát tính hợp hiến và hợp pháp và chịu trách nhiệm báo

cáo trước Quốc hội,vậy cơ quan của Quốc hội sẽ kiểm tra,giám sát công tác này

của Viện kiểm sát nhân dân .

-Về mặt giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động thực tiễn

của Hội đồng Bộ trưởng,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối

cao.Những cơ quan này có chức năng và nhiệm vụ quyền hạn rất rộng lớn và đa

dạng ,nhất là hoạt động quản lý của Hội đồng Bộ trưởng(Chính phủ)với một tổ

chức có số người ít mà lại không có chuyên trách như Hội đồng Nhà nước và các

Uỷ ban Thường trực của Quốc hội thì làm thế nào mà giám sát được.Vì vậy ,trên

thực tế hoạt động giám sát của Hội đồng Nhà nước đối với các cơ quan này chủ

yếu dựa vào việc nghe báo cáo là chính .

Việc phân định chức năng và nhiệm vụ quyền hạn của các Uỷ ban Thường

trực của Quốc hội có phần chưa rõ ràng ,cần phải quy định rõ chức năng và thẩm

quyền cho các Uỷ ban thường trực của Quốc hội nhất là trong hoạt động giám sát .

2.3. Về các điều kiện cần thiết cho hoạt động giám sát

Muốn thực hiện được quyền giám sát tối cao ,Quốc hội phải tiến hành các

hoạt động xem xét,theo dõi,đi kiểm tra thực tế…để làm được việc đó Quốc hội cần

có những điều kiện cơ bản :

+ Để tiến hành được các hoạt động giám sát một cách có hiệu quả các cơ quan của

Quốc hội cần có trụ sở làm việc,phương tiện giao thông và thông tin,có thư viện và

bộ phận lưu trữ về các tài liệu giám sát của Quốc hội,trước hết là các văn bản pháp

quy của các cơ quan chịu sự giám sát của Quốc hội,cho đến nay,những điều kiện

vật chất cần thiết đó vẫn chưa được đáp ứng.Nhất là về mặt thông tin,tư liệu và

việc xử lý các thông tin tư liệu đó .

+ Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta chưa được hoàn thiện và tình hình kinh tế –

xã hội lại luôn luôn biến động đòi hỏi phải có luật và sự sửa đổi ,bổ sung luật kịp

thời .

Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật thì trước hết phải có Hiến pháp

và một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh ,hay nói một cách khác phải có căn cứ vững

chắc để nhận xét , đánh giá một văn bản pháp quy nào đó là đúng hoặc sai hay để

kết luận một vụ việc nào đó là đúng hoặc sai đều phải dựa vào căn cứ pháp luật .

Trong khi đó ,mặc dù công tác làm luật của nước ta đã được tăng cường và đẩy

mạnh nhưng vẫn còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội chưa có luât

điều chỉnh .Ta còn thiếu luật về kinh tế và luật hành chính … Vậy trong những

trường hợp chưa có luật điều chỉnh hoạt động giám sát của Quốc hội sẽ được thực

hiện như thế nào ? Thực sự đó cũng là một khó khăn trong công tác giám sát của

Quốc hội .

Mặt khác ,nước ta đang trong thời kỳ đổi mới ,chuyển từ cơ chế cũ sang cơ

chế mới mà trước hết là sự chuyển sang cơ chế thị trường trong sản xuất kinh

doanh .Nhiều quy định của luật trước đây không còn phù hợp nữa ,nhưng vẫn chưa

được sửa đổi .Vậy trong những trường hợp này nhận xét đánh giá là khó khăn cho

công tác kiểm soát việc tuân theo pháp luật hiện nay nhưng đồng thời cũng có khó

khăn trong hoạt động giám sát của Quốc hội.

CHƯƠNG III

Những phương pháp tăng cường độ hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc

hội

Như trên đã trình bày, để thực hiện đựơc đúng chức năng và quyền hạn của Quốc hội

phải giải quyết tốt các vấn đề cơ bản là:

- Quốc hội cần có một số lượng đại biểu Quốc hội và số lượng những những

chuyên viên giúp việc hợp lý và những người đó phải có đủ những điều kiện về

trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,về độ tuổi và sức khỏe,về phẩm

chất đạo đức để có khả năng thực thi công vụ được giao.Điều đó đúng với mọi cơ

quan Nhà nước nhưng đối với Quốc hội thì vấn đề đó càng mang ý nghĩa lý luận

và thực tiễn rất quan trọng vì đaị biểu Quốc hội là người trực tiếp đại diện cho

quyền lợi của nhân dân,tham gia vào việc quyết định những vấn đề quan trọng

nhất của Nhà nước .

- Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội (kể cả cơ quan giúp việc)phải được tổ

chức chặt chẽ tức là phải có sự phân định thẩm quyền,chức năng và nhiệm vụ cho

từng đại biểu Quốc hội và cụ thể khi hoạt động,Quốc hội và các cơ quan của

Quốc hội phải tuân theo những nguyên tắc hoạt động chặt chẽ,đảm bảo được sự

phối hợp hoạt động của những cơ quan đó khi thực thi công vụ. Tức là phải có một

cơ chế tổ chức và hoạt động hợp lý.Điều đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc

là ở chỗ nó đảm bảo mọi công việc của Quốc hội phải có cơ quan của Quốc hội

đảm nhiệm và thực thi công vụ đồng thời phải có cơ sở để đánh giá,nhận xét và

xác định trách nhiệm pháp lý của các cơ quan đó trong việc thực thi công vụ mà

Quốc hội giao cho

- Quốc cần có những điều kiện cần thiết về mọi mặt để đảm bảo cho việc thực thi

nhiệm vụ và quyền hạn của mình.Trước hết là tài chính chi cho các hoạt động

hàng năm của Quốc hội và những cơ sở vật chất khác như trụ sở,nhà làm việc ,

phương tiện giao thông…tương ứng với công việc phải hoàn thành.Tất cả những

vấn đề trên phải được giải quyết một cách đồng bộ vì chúng quan hệ chặt chẽ với

nhau,do đó khi tìm nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động của Quốc hội thì cần

phân tích xem những vấn đề trên dã được giải quyết như thế nào và muốn tăng

cường hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội thì một lúc vừa phải giải quyết

những vấn đề chua hợp lý về con người vừa phải giải quyết về cơ chế hoạt động

và những điều kiện vật chất cần thiết trong việc thực hiện chức năng,quyền hạn

của Quốc hội nói chung và việc thực hiện quyền giám sát tối cao nói riêng

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng,

nhất là trong lĩnh vực giám sát là một quá trình.Không thể nào ngay một lúc có thể

giải quyết tất cả mọi vấn đề đặt ra trong hoạt động giám sát của Quốc hội theo ý

chí chủ quan của bất cứ ai mà phải dựa trên điều kiện lịch sử cụ thể về đời sống

kinh tế- văn hoá - chính trị xã hội cho phép.Vì vậy những vấn đề đổi mới tổ chức

và hoạt động giám sát của Quốc hội nêu ở đây được viết theo quan điểm lịch sử cụ

thể có những việc cần phải làm ngay nhưng cũng có những việc phải phụ thuộc

vào thời gian và điều kiện lịch sử.Do đó trước hết xuất phát từ thực tiễn của hoạt

động giám sát của Quốc hội và những điều kiện lịch sử cụ thể về mọi măt của

nước ta và tiếp thu tri thức của các nước khác trong quản lý xã hội bằng pháp

luật.Muốn tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội có lẽ nên tiến hành một số

phương pháp :

1 . Đổi mới tổ chức và phương pháp giám sát của Quốc hội.

1.1. Đổi mới tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội .

“ Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,làm việc

theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số

Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được đảm bảo bằng hiệu quả của các kỳ họp Quốc

hội,hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội và các đại

biểu Quốc Hội”(Điều 4,Luật tổ chức Quốc hội 2001). Như vậy hoạt động giám sát của

Quốc hội được thực hiện dưới những phương thức sau:

- Thông qua hoạt động của các kỳ họp Quốc hội,hoạt động của Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội,hoạt động của Hội đồng và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội , của

đoàn đại biểu Quốc hội,các đại biểu Quốc hội

Luật tổ chức Quốc hội mới có những quy định thể hiện rõ nét sự đổi mới về

quyền thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Những quy định về quyền

sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,của Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội trong

luật là khá rõ,nhất là thẩm quyền giám sát của các Hội đồng và các Uỷ ban của

Quốc hội.So với Hiến pháp 1980 và luật Tổ chức cũ thì đây là một bước tiến đáng

kể.Nhưng để Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao của mình

theo luật định thì cách tổ chức và hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội

như trên vẫn còn những điểm chưa hợp lý ở chỗ: Theo quy định của Luật Tổ chức

Quốc hội thì Quốc hội có Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng dân tộc và bảy

Uỷ ban của Quốc hội(Uỷ ban pháp luật;Uỷ ban kinh tế và ngân sách;Uỷ ban quốc

phòng và an ninh;Uỷ ban văn hoá,giáo dục,thanh niên thiếu niên và nhi đồng;Uỷ

ban về các vấn đề xã hội;Uỷ ban khoa học,công nghệ và môi trường;Uỷ ban đối

ngoại)làm việc thường xuyên và có thẩm quyền giám sát trông phạm vi nhất

định.Nhưng những cơ quan trên của Quốc hội không đủ thẩm quyền để giải quyết

những việc sau:

Theo quy định của Điều 91,điểm 5 tại Hiến pháp 1992:“Giám sát việc thi hành

Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội , pháp lệnh nghị quyết của Quốc hội,pháp

lệnh,nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,giám sát hoạt độngcủa Chính

phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đình chỉ việc thi hành

các văn bản của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện

kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội và trình

Quốc hội quyết định huỷ bỏ các văn bản đó;huỷ bỏ các văn bản của Chính

phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao

trái với pháp lệnh,nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.”Trong khi đó yêu

cầu khách quan của hoạt động giám sát với tính cách là một hoạt động quản lý cần

có sự xem xét và quyết định chính xác,kịp thời mà“Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ

do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội triệu tập” (Điều 86).Vậy trong thời gian Quốc hội

không họp,vấn đề triệu tập trên nếu xảy ra thì cơ quan nào của Quốc hội giải

quyết? Triệu tập Quốc hội họp bất thường theo quy định của Điều 86 về một văn

bản pháp quy nào đó thì bị coi là bất hợp hiến,là điều không thực tế và Quốc hội

không thể luôn luôn họp bất thường được

Trong trường hợp Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm

sát nhân dân tối cao không đồng ý với kết luận và kiến nghị của Uỷ ban Thường

vụ Quốc hội,của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội về tính hợp hiến,hợp pháp

của các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước nói trên ban hành thì ai giải

quyết hay phải chờ đến kỳ họp Quốc hội gần nhất.Làm thế nào để bảo đảm tính

khách quan và đúng đắn của các quyết định và kiến nghị của Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội và của Hội đồng,Uỷ ban Thường vụ quốc hội về tính hợp hiến,hợp pháp

cuả các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước trên ban hành khi mà cơ quan

ban hành đó chỉ có nghĩa vụ phải chấp hành những Nghị quyết của Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội và các kiến nghị của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội .

Trong trường hợp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Hội đồng và các Uỷ ban của

Quốc hội xét thấy có vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp và pháp luật trong hoạt

động của các cơ quan nhà nước kể trên nhất là những người giữ chức vụ cao trong

các cơ quan đó thì kiến nghị giải quyết như thế nào ?

Những vấn đề chưa hợp lý trên có thể giải quyết theo hai hướng:Một là, tăng

thêm thẩm quyền cho các các quan của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát. Hai là

lập ra một cơ quan mới của Quốc hội để đảm nhiệm những công việc mà các cơ

quan hiện có của Quốc hội hiện chưa làm được .

Trước hết như đã trình bày,kỳ họp Quốc hội là một hình thức tổ chức thực hiện

quyền giám sát quan trọng nhất của Quốc hội.Để đáp ứng yêu cầu khách quan

trong công tác giám sát của Quốc hội nên quy định trong luật tổ chức Quốc hội về

quyền quyết định kế hoạch giám sát hàng năm của Quốc hội .

Vấn đề này thuộc thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo quy định

của luật Tổ chức Quốc hội tại Điều 11.Cũng như chức năng lập pháp, giám sát

cũng là một chức năng rất quan trọng của Quốc hội và có quan hệ hữu cơ với chức

năng lập pháp. Vì sao kế hoạch giám sát hàng năm được Quốc hội thông qua còn

kế hoạch giám sát lại do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua và quyết định. Kế

hoạch giám sát hàng năm của Quốc hội phải do Quốc hội quyết định vì hai lý

do:Thứ nhất,việc quyết định cần tập trung hoạt giám sát của Quốc hội vào vấn đê

gì phải đươc các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua và đó là sự thể hiện

quyền lực của nhân dân trong lĩnh vực giám sát. Thứ hai,công tác giám sát có quan

hệ chặt chẽ với công tác lập pháp,là một khâu không thể thiếu trong hoạt động lập

pháp của Quốc hội như trên đã trình bày do đó kế hoạch lập pháp hàng năm của

Quốc hội không thể tách rời kế hoạch giám sát hàng năm đó.Và vấn đề cuối cùng

là Quốc hội cần quyết định vấn đề tài chính chi cho hoạt động lập pháp và hoạt

động giám sát của Quốc hội.Nếu không có kế hoạch và dự trù ngân sách cho hoạt

động giám sát trong năm đó thì kế hoạch đó thiếu đi một điều kiện quan trọng để

triển khai thực hiện.Cũng như chương trình,kế hoạch xây dựng luật,chương trình

hoạt động giám sátcủa Quốc hội cần được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chuẩn bị

và Quốc hội thông qua.Chương trình,kế hoạch đó phải ghi rõ:những vấn đề cần tập

trung giám sát trong năm,người và cơ quan thực hiện,thời gian thực hiện, kinh phí

và phương tiện để thưc hiện kế hoạch đó . Trên cơ sở của chương trình đó,mỗi Hội

đồng và Uỷ ban của Quốc hội cần có trình và kế hoạch giám sát của Hội đồng và

Uỷ ban trong phạm vi giám sát mà luật đã quy định .

Mặt khác,cần tăng cường số lần họp trong một năm của Quốc hội và thời gian của mỗi

kỳ họp cũng phải kéo dài hơn.Như chúng ta đã biết,Quốc hội của các nước khác có thời

gian họp kéo dài hơn thời gian họp của nước ta rất nhiều.Trong điều kiện kinh tế–xã hội

như nước ta hiện nay,nhất là số đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ kiêm nhiệm vẫn là

chủ yếu thì việc kéo dài quá thời gian họp của mỗi kỳ họp hoặc có quá nhiều kỳ họp trong

một nămlà điều khó có thể thực hiện được.Vì vậy trước mắt cần tăng số lượng các kỳ họp

Quốc hội trong một nămtừ hai lên ba lần và thời gian của mỗi kỳ họp có thể kéo dài tới một

tháng.Thực tiễn hoạt động của Quốc hội khoá IX trong năm 1992 cho ta thấy hoàn toàn có

thể thực hiện được vấn đề trên.Trong công cuộc đổi mới ở nước ta,chế độ hoạt động kiệm

nhiệm của đại biểu Quốc hội và số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm sẽ còn tồn tại

lâu dài và vì vậy,khả năng kéo dài thời gian họp Quốc hội như ở các nước khác là điều rất

khó thực hiện.Do đó,giải pháp thực tế nhất là tăng dần số kỳ họp Quốc hội trong một năm

lên tới bốn lần thì có thể tiến tới đạt được những yêu cầu khách quancủa hoạt động giám sát

của Quốc hội .

- Theo quy định của luật Tổ chức Quốc hội thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ

quan thường trực của Quốc hội,thẩm quyền giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

được quy định trong luật khá rõ như đã trình bày ở trên.Nhưng theo luật định,Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội cũng chưa có thẩm quyền quyết định tính hợp hiến , hợp pháp trong

hoạt động thực tiễn và trong các văn bản pháp quy của các cơ quan Nhà nước ở Trung

ương.Cùng với việc tăng số lượng các kỳ họp của Quốc hội trong một năm nên hướng của

Quốc hội là tăng thẩm quyền cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Hội đồng và các Uỷ ban

của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát.Trước đây , theo quy định của Hiến pháp 1946 thì

ban thường trực Quốc hội đã có quyền biểu quyết thông qua các sắc luật của Chính phủ.Đó

chính là sự giám sát trực tiếp tính hợp hiến,hợp pháp trong các văn bản pháp quy do Chính

phủ ban hành .Vì vậy,việc tăng thẩm quyền giám sát cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

không phải là một vấn đề mới . Trong tình hình xây dựng văn bản pháp luật như ở nước ta

hiện nay thì văn bản pháp quy dưới luật của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện

kiểm sát nhân dân tối cao đóng một vai trò rất quan trọng.Chính những văn bản pháp quy

đó đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội.Do đó cần quy định trong Hiến pháp và

pháp luật thêm thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Uỷ ban thườngvụ Quốc hội

có quyền xét và quyết định về tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ

quan nhà nước nói trên ban hành và trình Quốc hội phê chuẩn.Cần sớm khắc phục tình

trạng thực tế hiện nay là các văn bản pháp quy dưới luật của Chính phủ,của Toà án nhân

dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao không được Quốc hội giám sát chặt chẽ .

- Về thẩm quyền và phương pháp giám sát của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội tuy

đã được luật định khá rõ nhưng thực chất các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội vẫn là

giúp Quốc hội giám sát vì các uỷ ban chỉ có quyền kiến nghị chứ chưa có quyền quyết định

và xử lý những đối tượng chịu sự giám sát của các Uỷ ban theo luật định .

Cần tăng cường hơn nữa thẩm quyền giám sát của các Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để

phát huy tính độc lập,năng động trong hoạt động giám sát của các Uỷ ban của Quốc

hội.Có thể quy định cho cho các Uỷ ban của Quốc hội có quyền đình chỉ việc thự hiện các

văn bản pháp quy của Chính phủ Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân và trình Quốc

hội và quyết định tính hợp hiến , hơ pháp trong các văn bản pháp quy.Tất nhiên đó chỉ là

những văn bản pháp quy về những vấn đề của Uỷ ban đó có quyền giám sát theo luật định

.

- Vấn đề thành lập Uỷ ban giám sát của Quốc hội .

Có các ý kiến thành lập một cơ quan mới của Quốc hội để thực hiện quyền giám sát tối

cao của Quốc hội gọi là Uỷ ban giám sát của Quốc hội.Trong thời gian Quốc hội,Uỷ ban

này có thể giải quyết những vấn đề nói trên.Vấn đề này theo điều tra xã hội học của Trường

hành chính Trung ương thì :

“ a, Lập Hội đồng bảo vệ tính hợp hiến :

+ Nên:261 phiếu 54 %

+ Chưa:79 phiếu 16 % .”

- Quan điểm của chúng tôi là:Trong điều kiện của nước ta khi chưa thành lập được Toà án

Hiến pháp thì cần có Uỷ ban giám sát Hiến pháp có chức năng, quyền hạn giống như Toà

án Hiến pháp ở các nước khác chủ yếu là hai chức năng:

- Xem xét và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp, quyết định về

tính hợp Hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy do Chính phủ,Chủ tịch nước,Toà án

nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành trong thời gian Quốc hội không

họp và không chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội

- Xem xét và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,lúc Quốc hội không họp,giải quyết những

tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan Nhà nước;Chính phủ, Toà án nhân dân tối

cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao:giải quyết những khiếu nại về tính hợp hiến,hợp pháp

trong các văn bản pháp quy mà cơ quan Nhà nước nói trên không đồng ý với Nghị quyết

và kiến nghị cua Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội và

chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội

Trong quá trình soạn thảo Hiến pháp 1992,cũng có nhiều ý kiến muốn thành Hội đồng

giám sát Hiến pháp với chức năng quyền hạn trên.Chúng tôi nhận thấy quan điểm đó có

nhiều điểm hợp lý sau:

Một là:Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức

năng và quyền hạn của Quốc hội,cần có một cơ quan chuyên trách của Quốc hội

đảm nhận vì:thứ nhất,bất kỳ một công việc nào cũng có sự chuyên môn hoá cao

mới có khả năng làm tốt công việc;thứ hai việc chia nhỏ một chức năng giám sát

cho những cơ quan của Quốc hội đảm nhận là một điều rất hạn hữu trong khoa học

quản lý vì càng nhiều đầu mối thì bộ máy càng phình ra, khó theo dõi và điều hành

công việc.Quốc hội có Uỷ ban của pháp luật tại sao không có Uỷ ban giám sát?

Phải chăng giám sát bị coi nhẹ .

Hai là:Công tác lập pháp tuy ngày được đẩy mạnh nhưng xã hội ta đang vận

động nhanh,mạnh theo cơ chế thị trường.Cần giám sát kịp thời bổ sung,sửa luật

cho phù hợp vói thực tiễn xã hội.Nếu chậm thì tác dụng kìm hãm sự phát triển

kinh tế,xã hội không phải là nhỏ.Nếu cứ như cơ chế hiện nay thì không đáp ứng

được yêu cầu của Quốc hội không thể cứ luôn luôn họp bất thường chỉ để sửa luật

hoặc đình chỉ việc thi hành đạo luật nào đó .

Ba là:Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhưng có sự

phân công,phân cấp rành mạch,tức là mỗi cơ quan Nhà nước làm việc theo quyền

hạn do luật định.Vì vậy Quốc hội tuy là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao

nhưng cũng phải làm theo luật kể cả trong hoạt động giám sát nếu Chính phủ,Toà

án nhân dân tối cao…cho là mình không vi phạm Hiến pháp,không đồng ý với các

kết luận của Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội thì họ cũng phải được trình bày

trước Quốc hội và Quốc hội có cơ quan giám sát là Uỷ ban giám sát Hiến pháp để

giải quyết những vấn đề trên.Hội đồng giám sát Hiến pháp tuy chưa phải là cơ

quan tài phán như Toà án Hiến pháp của một số nước tư sản nhưng là cơ quan

giúp Quốc hội giải quyết những vấn đề trên.

1.2. Đổi mới phương pháp giám sát của Quốc hội .

Như trên đã trình bày để giám sát được hoạt động của các cơ quan Nhà nước

theo quy định của luật Quốc hội sử dụng những phương pháp sau:xét báo cáo,chất

vấn,kiểm tra thực tế giải quyết đơn thư và thông tin trên các phương tiện thông tin

đại chúng.Những phương pháp trên cần đổi mới theo phương hướng :

- Báo cáo là một hình thức cung cấp thông tin bằng văn bản của các cơ quan Nhà

nước đến với Quốc hội.Báo cáo giúp Quốc hội nắm được thông tin chính

xác,đầy đủ kịp thời tình hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong phạm vi

giám sát của Quốc hội.Mặt khác chế độ báo cáo là một hình thức quan trọng

trong việc nhắc nhở và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước

Quốc hội về việc thực hiện các chức năng,quyền hạn của các cơ quan Nhà nước

đó.Để đáp ứng được yêu cầu của Quốc hội là có được thông tin chính xác đầy đủ

và kịp thời củacác cơ quan Nhà nước cần quy định trong luật về chế độ báo

cáo,hình thức báo cáo,những quy định về nội dung,hình thức và số lượng của

văn bản báo cáo,quy trình thẩm tra báo cáo và quy định về trách nhiệm nếu báo

cáo không đạt tiêu chuẩn như thông tin sai lệch,thông tin không đầy đủ,thông tin

chậm .

- Về chế độ báo cáo:nên quy định rõ phải có ba chế độ báo cáo là:báo cáo thường

kỳ hàng năm trong kỳ họp Quốc hội;báo cáo thường kỳ hàng tháng, hàng quý

cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp,báo cáo khi có sự

kiện chính trị,kinh tế–xã hội tác động lớn đến đời sống xã hội khi Quốc hội hoặc

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu hoặc do chính các cơ quan Nhà nước yêu

cầu theo quy định của luật

- Về hình thức báo cáo,yêu cầu về một bản báo cáo:tất cả các báo cáo đều phải

dưới hình thức văn bản,có chữ ký và con dấu của cơ quan báo cáo.Nếu là báo

cáo thường kỳ thì nội dung của bản báo cáo phải cung cấp đầy đủ thông tin về

hoạt động của các cơ quan Nhà nước theo chức năng , quyền hạn mà luật quy

định(cần quy định những mẫu báo cáo cả về nội dung và hình thức).Cần ấn định

số lượng báo cáo tuỳ theo sự cần thiết cho người đọc báo cáo đó.Cần quy định

về thời gian phải nộp báo cáo.Nếu là báo cáo khác thì do Quốc hội và Uỷ ban

Thường vụ Quốc hội yêu cầu.Nội dung các báo cáo nhất thiết phải có mục:chi

tiêu khoản ngân sách mà Nhà nước cấp cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước

đó , vì giám sát được tình hình tài chính thì cũng giám sát được toàn bộ hoạt

động của cơ quan đó(hoạt động thì phải có tiền).Mặt khác,nội dung báo cáo phải

có sự phân tích tình hình,nguyên nhân,quy kết trách nhiệm và phương hướng

khắc phục .

- Về cách thẩm tra báo cáo:sau khi nhận được báo cáo,những người và cơ quan

có thẩm quyền đọc,xem xét và cần trao đổi trước những vấn đề cần hỏi, góp ý cho

báo cáo sau đó mới mời cơ quan có báo cáo đến trình bày xét thấy cần thiết.Khi

họp để thẩm tra,không cần cơ quan đó đọc lại bản báo cáo mà chỉ trả lời những

vấn đề mà những người,cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.Cũng có thể không cần

họp mà chỉ trao đổi bằng văn bản.Nếu thấy cần thiết,có thể đi thực tế kiểm tra

những điểm mà báo cáo chưa nêu rõ hoặc có những mâu thuẫn với những thông

tin khác thu nhận được qua đơn thư hoặc phương tiện thông tin đại chúng.Có thể

công khai nội dung của các báo cáo trước công luận nếu xét thấy cần thiết .

- Về trách nhiệm ngoài những quy định của bộ luật hình sự thì cần quy định

trách nhiệm của những người và cơ quan báo cáo khi báo cáo chậm thông tin

không chính xác,không đầy đủ,không kịp thời .

- Chất vấn là một phương pháp giám sát rất quan trọng của Quốc hội,luật Tổ

chức Quốc hội,Hiến pháp…đã có nhiều quy định rõ và chặt chẽ về vấn đề này .

Tuy nhiên cần bổ sung một số điểm:Về hình thức chất vấn:nên quy định và phân

loại nội dung,vấn đề nào thì bắt buộc phải chất vấn bằng văn bản,vấn đề nào có thể

bằng văn bản hoặc bằng lời nói để nâng cao trách nhiệm và chất lượng của nội

dung chất vấn của các đại biểu Quốc hội .

Về trách nhiệm và hình thức trả lời chất vấn:cần quy định mọi chất vấn phải

được trả lời công khai trước đại biểu Quốc hội trong kỳ họp Quốc hội bằng văn

bản nếu đó là chất vấn bằng văn bản hoặc có thể bằng lời nói nếu chất vấn được

thể hiện bằng lời nói.Nếu không phải trong kỳ họp thì phải bắt buộc trả lời bằng

văn bản và văn bản này phải được gửi tới tất cả các đại biểu Quốc hội .

Nên quy định về tranh luận công khai trong kỳ họp Quốc hội nếu như nội

dung các chất vấn không trả lời đầy đủ và chính xác,nếu như đại biểu có chất vấn

đưa ra lý lẽ và chứng cứ chứng minh một điểm nào đó trong báo cáo hoặc trong

nội dung trả lời chất vấn của cơ quan có báo cáo và bị chất vấn thì người đứng đầu

cơ quan Nhà nước đó phải có trách nhiệm trả lời.Có thể tiến tới áp dụng chế định

đối thoại trong một tương lai không xa để tăng cường trách nhiệm của những

người đứng đầu các cơ quan Nhà nước Trung ương về hoạt động của các cơ quan

đó trước Quốc hội .

- Về kiểm tra thực tế của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của các Hội đồng và

các Uỷ ban của Quốc hội hoặc Uỷ ban lâm thời do Quốc hội thành lập .

Kiểm tra thực tế là một phương pháp để xem xét lại những thông tin Quốc hội

nhận được có chính xác và đầy đủ không.Muốn đạt được mục đích đó,Quốc hội

cần có quy định trong luật về chế độ kiểm tra,các hình thức đi kiểm tra, trình tự và

thẩm quyền kiểm tra .

- Về chế độ kiểm tra nên có chế độ kiểm tra thường kỳ với mục đích định ra

thời hạn kiểm tra trong một năm đối với các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát

của Quốc hội.Việc kiểm tra thường kỳ có thể thông báo trước cho các cơ quan Nhà

nước chịu sự giám sát của Quốc hội biết trước và chuẩn bị báo cáo .

Mặt khác,khi cần thiết Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội có thể đi thực

tế địa phương , kiểm tra những vấn đề mà Quốc hội xét thấy cần phải thẩm tra.Với

chế độ kiểm tra đó,Quốc hội đã đặt các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của

Quốc hội vào tình trạng hoạt động trong sự giám sát,kiểm tra thường xuyên của

Quốc hội chứ không phải chỉ đến kỳ họp Quốc hội các cơ quan Nhà nước trên mới

bị đặt trong tình trạng bị giám sát .

- Về hình thức kiểm tra:có thể là kiểm tra trước hoặc kiểm tra sau khi Quốc hội

nhận được báo cáo.Việc kiểm tra của Quốc hội không thể như hoạt động giám sát

của Viện kiểm sát nhân dân hoặc hoạt động thanh tra của Chính phủ. Quốc hội và

các cơ quan của Quốc hội đi thực tế địa phương trước hết là nghe các cơ quan Nhà

nước ở địa phương báo cáo,đặt ra những câu hỏi cần thiết và đến xem tình hình

thực tế,có thể tiếp xúc với cử tri và nghe tâm tư,tình cảm, nguyện vọng của cử

tri.Việc kiểm tra nhằm mục đích thu nhận thông tin chính xác chứ không phải xử

lý tình huống.Những thông tin đó làm cơ sở thực tế cho việc chất vấn các cơ quan

chức năng có thẩm quyền của Nhà nước về những vấn đề chưa chính xác trong

báo cáo của các cơ quan Nhà nước đó .

Về trình tự và thẩm quyền kiểm tra và trách nhiệm của những cơ quan Nhà

nước cung cấp thông tin : hiện nay chưa có những quy định cụ thể về vấn đề

này,cần phải xây dựng những quy định đó để phân định hoạt động đi thực tế, kiểm

tra của các cơ quan của Quốc hội khác với hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát

nhân dân tối cao và hoạt động thanh tra của Chính phủ .

Về việc giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân và việc thu thập thông tin

qua các phương tiện thông tin đại chúng .

Hiện nay,Quốc hội chưa có một cơ quan chuyên trách đảm nhận công việc này , việc

giải quyết các đơn thư khiếu nại của nhân dân do các Uỷ ban của Quốc hội đảm nhận trong

phạm việc giám sát của Uỷ ban đó.Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay , vấn đề

mở rộng dân chủ đòi hỏi những đơn thư của công dân gửi đến Quốc hội cần phải được xử

lý kịp thời.Vì vậy cần có một cơ quan chuyên trách của Quốc hội đảm nhận việc này,có thể

thành lập cơ quan đó với tên gọi là Thanh tra Quốc hội.Thanh tra Quốc hội có chức năng,

nhiệm vụ tiếp nhận và xử lý các đơn , thư của công dân gửi đến Quốc hội,theo dõi tình hình

mọi mặt của đời sống xã hội qua các phương tiện thông tin đại chúng để nghiên cứu,kiến

nghị những biện pháp cần thiết đối với những việc việc phạm pháp luật nghiêm trọng,ảnh

hưởng lớn đến đời sống xã hội xét về bản chất,Thanh tra Quốc hội cũng có thể có tên gọi

khác là Uỷ ban dân nguyện của Quốc hội vì cơ quan đó cũng là giúp Quốc hội trong việc

thực hiện chức năng,nhiệm vụ của Quốc hội,Thanh tra Quốc hội cũng có thể tổ chức và

hoạt động như các Uỷ ban khác của Quốc hội nhưng chỉ trong lĩnh vực giải quyết các đơn

thư khiếu nại của nhân dân và thu thập tin tức về tình hình thi hành pháp luật được đưa tin

trên các phương tiện thông tin đại chúng .

Những phương pháp trên chủ yếu là dùng để giám sát hoạt động thực tế của

các cơ quan Nhà nước trong phạm vi giám sát của Quốc hội.Nhưng cũng có thể áp

dụng để thực hiện việc giám sát tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản pháp quy

do các cơ quan Nhà nước trên ban hành.Tuy nhiên,để đạt được điều đó thì cần quy

định trong việc báo cáo bằng văn bản,các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm báo

cáo trước Quốc hội phải cung cấp và báo cáo về những văn bản do cơ quan Nhà

nước đó ban hành.Trong các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội phải có một bộ

phận chuyên trách để theo dõi và nghiên cứu những văn bản pháp quy đó .

2 . Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu và điểu kiện làm việc của đại biểu trong công

tác giám sát .

Để thực hiện được nhiệm vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp,pháp luật và

nghị quyết của Quốc hội,cả đại biểu Quốc hội cần đáp ứng được những yêu cầu

sau :

- Phải thực sự là người đại diện cho ý chí của nhân dân .

- Phải am hiểu thực tế sâu sắc về lĩnh vực mà mình giám sát

- Phải hiểu biết sâu sắc về Hiến pháp , luật , Nghị quyết của Quốc hội về

những vấn đề mà mình giám sát

Về vấn đề này,luật bầu cử đại biểu Quốc hội mới được Quốc hội thông qua

ngày 15/4/1992 và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã có những đổi mới đáng kể so

với luật bầu cử cũ. uật bầu cử đại biểu Quốc hội mới rất chú trọng đến chất lượng

và tiêu chuẩn của đại biểu.Điều 3,luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:“đại biểu

Quốc hội phải là người trung thành với tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,phấn

đấu thực hiện công cuộc đổi mới,làm cho dân giầu,nước mạnh, có trình độ hiểu

biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định

các vấn đề quan trọng của đất nước,có phẩm chất và đạo đức tốt,gương mẫu chấp

hành pháp luật,được nhân dân tín nhiệm”đây là quy định mới của luật,tuy chưa thể

khái quát hoá được trình độ và năng lực làm nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội là

trình độ và năng lực về vấn đề gì,nhưng luật cũng thể hiện sự cần thiết phải nâng

cao năng lực,trí tuệ của đại biểu Quốc hội vì xét đến cùng,năng lực,trí tuệ của đại

biểu Quốc hội là một vấn đề có tính chất quyết định hiệu quả hoạt động giám sát

của Quốc hội,vì đại biểu Quốc hội là một vấn đề có tính chất quyết định hiệu quả

giám sát của Quốc hội,vì đại biêủ Quốc hội là người trực tiếp thay mặt cử tri thực

hiện quyền lực Nhà nước .

Năng lực trí tuệ của đại biểu Quốc hội bao gồm rất nhiều yếu tố khác nhau

nhưng trong hoạt động giám sát đại biểu Quốc hội cần có trình độ hiểu biết về lý

luận và thực tiễn về vấn đề mà mình giám sát và trình độ biểu biết về luật,Nghị

quyết của Quốc hội về những vấn đề mình tham gia giám sát.Mỗi đại biểu Quốc

hội có một trình độ và năng lực hiểu biết về lý luận và thực tế khác nhau nhưng để

giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật thì đòi hỏi đại biểu Quốc hội nào

cũng phải nắm vững nội dung Hiến pháp và luật mà Quốc hội đã thông qua.Nhưng

không phải đại biểu nào cũng đều là luật gia,do đó Quốc hội cần có những hình

thức tổ chức và phương pháp để nâng cao trình độ luật cho đại biểu,ở các nước tư

sản cũng không phải mọi nghị sĩ Quốc hội đều có bằng cử nhân luật,vấn đề là cách

giải quyết.Trong quy chế của đại biểu Quốc hội nên có những quy định về hình

thức tổ chức và phương pháp để nâng cao trình độ pháp luật của đại biểu Quốc

hội.Các hình thức đó là:

- Đại biểu Quốc hội phải được cung cấp đầy đủ tư liệu và tài liệu về những dự

án luật và luật đã có hiệu lực pháp luật.Cần có những hình thức phong phú để đại

biểu tham gia vào việc thảo luận và tham gia thông qua luật và nhất là phải được

các Uỷ ban của Quốc hội thuyết trình về những dự án luật đó .

- Cần tổ chức những lớp học ngắn Nhà nước hạn để đại biểu Quốc hội được học tập

một cách có hệ thống về những văn bản luật,về Hiến pháp và luật Tổ chức bộ máy Nhà

nước .

- Về chế độ và điều kiện làm việc của đại biểu Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội

cũng có những đổi mới rõ nét , nhất là vấn đề đại biểu Quốc hội làm việc chuyển

trách,theo quy định tại Điều 37 của luật:“trong số các đại biểu Quốc hội,có những

đại biêủ làm việc chuyên trách và có đại biểu làm việc theo ché độ không chuyên

trách.Số lượng đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách do Quốc hội

quyết định”và Điều 52:“lương và các khoản phụ cấp khác của đại biểu Quốc hội

do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định.”

- Về vấn đề thứ nhất,quan niệm của chúng tôi là Uỷ ban Thường vụ Quốc

hội,các Uỷ ban,Hội đồng của Quốc hội phải do các đại biểu Quốc hội làm việc

chuyên trách đảm nhận vì:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng và các Uỷ ban

của Quốc hội được luật quy định rõ thẩm quyền và nhiệm vụ kể cả nhiệm vụ giám

sát,để thực hiện được nhiệm vụ giám sát,các cơ quan trên của Quốc hội làm việc

theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số chứ không làm việc theo chế độ thủ

trưởng như trong cơ quan hành chính của Nhà nước.Do đó ,để đảm bảo cho các cơ

quan này của Quốc hội hoàn thành nhiệm vụ của mình,đưa ra dựoc những kiến

nghị đúng và kịp thời thì thành viên của những cơ quan đó phải là chuyên

trách.Nếu tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm quá nhiều thì không đảm bảo sự hoạt động

thường xuyên của các cơ quan đó được;mỗi Uỷ ban và Hội đồng có một lĩnh vực

giám sát chuyên sâu.Nếu không chuyên môn hoá cao thì ảnh hưởng trực tiếp đến

quyết định và kiến nghị của Uỷ ban.

- Vấn đề thứ hai,trong khi Nhà nước ta chưa có cải cách căn bản về chế độ tiền lương

thì quy định như ở trong luật là một giải pháp đúng.Tuy nhiên ,vì đây là vấn đề cấp bách

cần phải giải quyết do đó cũng cần tham khảo thêm về vấn đề này ở một số nuớc .

Trong điều kiện ở nước ta thì nên để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định về vấn đề

lương của đại biểu còn phụ cấp của đaị biểu thì nên lấy từ ngân sách hoạt động của Quốc

hội,tuỳ theo yêu cầu và kế hoạch hoạt động hàng năm của Quốc hội mà Uỷ ban Thường vụ

Quốc hội có thể ra những quyết định khác nhau về vấn đề này :

Để đại biểu Quốc hội làm được nhiệm vụ giám sát,Hiến pháp 1992 còn quy định hai

vấn đề quan trọng nữa là:Quyền được thông tin của đại biểu Quốc hội theo Điều 100 Hiến

pháp 1992 và luật Tổ chức quy định ở Điều 46

Trong điều kiện ở nước ta,luật cần quy định trách nhiệm Chính phủ phải

thông tin cho đại biểu Quốc hội chứ không nên quy định như trong Điều 46 của

luật hiện nay nhất là đối với hoạt động giám sát của Quốc hội.Nên quy định Chủ

tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao…phải gửi tài liệu (trước hết là:các

văn bản pháp quy do các cơ quan đó ban hành ,các tài liệu tham khảo và các tạp

chí thông tin của các cơ quan đó)về thư viện của Văn phòng Quốc hội có nhiệm vụ

in và chuyển đến các đại biểu Quốc hội những tài liệu nói trên và lưu trữ một phần

ở thư viện của Văn phòng Quốc hội .Thực tế nhiều năm qua cho thấy,vì không có

quy định này,nên thư viện của Văn phòng Quốc hội không có những tư liệu nói

trên để phục vụ hoạt động của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội cũng không thể

biết những cơ quan Nhà nước nói trên đã ban hành những văn bản nào mà yêu

cầu.Về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội quy định ở

Điều 49,quy định như vậy là chặt chẽ .

Tóm lại,những tiêu chuẩn và điều kiện để đại biểu Quốc hội làm được đúng chức

năng,nhiệm vụ của mình ,trong đó có nhiệm vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp

luật ,Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức Quốc hội mới đã có những đổi mới sâu sắc và mạnh

mẽ .

3 . Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và những điều kiện cần

thiết để đảm bảo cho Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao

của mình theo luật định

Về vấn đề này,quan niệm của chúng tôi là

3.1. Tăng cường và đổi mới công tác lập pháp của Quốc hội .

Nhà nước cần phải sớm ban hành và xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp

luật,phải pháp chế hoá các quan hệ xã hội.Đó là một trong những yếu tố đầu tiên

để Quốc hội thực hiện tốt quyền giám sát tối cao của mình.Hiến pháp và pháp luật

là một trong những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.Hiện nay

còn nhiều lĩnh vực,nhất là trong hoạt động quản lý,Nhà nước chưa có luật để điều

chỉnh các quan hệ đó hoặc những quy định của pháp luật cũ đã lạc hậu so với thực

tế xã hội.Điều đó gây khó khăn lớn cho hoạt động giám sát của Quốc hội,nhất là

việc giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động,quản lý của Chính phủ.Cần

phải nâng cao kỹ thuật lập pháp hơn nữa .Mỗi khi có một văn bản luật được trình

Quốc hội xẽ xét thì Chính phủ phải gửi kèm theo luôn những văn bản hướng dẫn

thi hành luật đó.Quốc hội chưa nắm được hết số lượng văn bản pháp quy của

Chính phủ thì cũng không thể kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản đó

3.2.Cần phải có luật về hoạt động giám sát của Quốc hội

Trước hết,về một văn bản ,Quốc hội cần có luật về giám sát chứ không phải

là quy chế hoạt động của Quốc hội hoặc văn bản pháp quy khác vì:giám sát là một

chức năng,quyền hạn quan trọng của Quốc hội,hoạt động giám sát của Quốc hội

tác động đến nhiều cơ quan Nhà nước cấp cao:Chính phủ,Toà án nhân dân tối

cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao…Nói cách khác ,Quốc hội có quan hệ với các

cơ quan cao cấp của Nhà nước trong khi thực hiện hoạt động giám sát của Quốc

hội.Những nghị quyết của Quốc hội trong công tác giám sát tác động mạnh mẽ và

sâu sắc đến hoạt động của các cơ quan Nhà nước nói trên kể cả về mặt trách nhiệm

của những người đứng đầu cơ quan đó.Vì vậy,cần phải quy định rõ mối quan hệ

giữa Quốc hội với các cơ quan Nhà nước;Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao.Viện

kiểm sát nhân dân tối cao…quan hệ giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ

quan Nhà nước ,quan hệ giữa các cơ quan giúp việc của Quốc hội với cơ quan

giúp việc của cơ quan Nhà nước nói trên trong hoạt động giám sát của Quốc hội .

tài liệu tham khảo

1. Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 9 - Nhà xuất bản chính

trị Quốc gia

2. Kết luận và kiến nghị về hoàn thiện cơ chế thanh tra,kiểm tra,giám

sát -Thanh tra Nhà nước

3. Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội (PTS Phạm Ngọc Kỳ ) -Nhà xuất

bản chính trị

4. Giáo trình Luật Hiến Pháp -Nhà xuất bản Công an nhân dân

5. Luật Hiến Pháp Việt Nam -Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh

(PGS –PTS luật học Nguyễn Đăng Dung và Ngô Đức Tuấn

6. Luật Hiến Pháp 1992 -Nhà xuất bản chính trị quốc gia

7. Lý luận Nhà nước và pháp luật --Đại học khoa học xã hội và nhân văn

8. Luật sửa đổi luật Tổ chức Quốc hội năm 2001

9. Nghị quyết sửa đổi ,bổ sung một số điều Hiến pháp 1992 thông qua ngày

25/12/2001

10. Luật Tổ chức Chính phủ

11. Luật Tổ chức Toà án nhân dân

12. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

13. L

uật sửa đổi ,bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội thông

qua ngày 25/12/2001

14. B

áo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khoá X do Chủ tịch Quốc hội

Nguyễn văn An trình bày

15. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban Quốc phòng và an ninh của

Quốc hội khóa 10(1997-2002)

16. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban kinh tế và ngân sách của

Quốc hội khoá 10(1997-2002)

17. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban khoa học ,công nghệ và môi

trường Quốc hội khoá X

18. Báo cáo về hoạt động đối ngoại của Quốc hội và công tác của Uỷ

ban đối ngoại nhiệm kỳ khoá X

19. Báo cáo tổng kết công tác của Uỷ ban pháp luật nhiệm kỳ khoá X

20. Báo cáo công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ khoá X

21. Báo cáo tổng kết hoạt động của Uỷ ban về các vấn đề xã hội nhiệm

kỳ khoáX

22. Công tác xây dựng luật,pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá X

23 . Tạp chí nghiên cứu lập pháp : 2001

24 . Tạp chí nghiên cứu Người đại biểu nhân dân : 2001

25 . Tạp chí nghiên cứu dân chủ và pháp luật : 2001

Mục lục

Trang

Lời nói đầu

1 Chương I: Cơ sở lý luận quyền giám sát tối cao của Quốc hội nước Cộng hoà

xã hội chủ nghĩa Việt Nam

I.Vị trí pháp lý của Quốc hội,bản chất,nội dung và phương thức thực hiện. 1

1.Vị trí pháp lý của Quốc hội 1

2.Bản chất,nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hội 2

3.Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội 9

11 II.Quan hệ quyền giám sát tối cao của Quốc hội với những quyền khác của

Quốc hội,sự khác nhau quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến

pháp,pháp luật của cơ quan Nhà nước khác

11 1.Quan hệ quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội

14 2.Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến

pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác

18 Chương II:Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt

động giám sát của Quốc hội

I. Những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong Hiến pháp 1992

18 II.Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ

năm 1997 đến năm 2002 ,những nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát

22 của Quốc hội và bài học

1.Thực trạng tình hình hoạt động của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm 1997

đến năm 2002

22 2.Những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội

Chương III: Những phương pháp tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội

51 1.Đổi mới tổ chức và phương pháp giám sát của Quốc hội

2.Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu và điều kiện làm việc của đại biểu trong công tác giám sát

56 3.Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và những điều kiện làm cho

Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao của mình theo luật định

57 Kết luận

Tài liệu tham khảo 65

67

69

72