LUẬN VĂN:
Về quyền giám sát tối cao
của quốc hội
LờI NóI ĐầU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta ,sau nhiều năm qua đã thu
được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa rất quan trọng như: nước ta đã thoát ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội .Đó là một bước ngoặt lớn trong công cuộc
đổi mới của Đảng và Nhà nước ta nhưng bên cạnh vẫn còn một số mặt chưa vững
chắc , vẫn còn nhiều khó khăn thách thức và nhiều biến động phức tạp . Cho nên
Đảng và Nhà nước ta đã phát huy kế thừa những thành tựu đạt được để góp phần
đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, để đẩy mạnh được nền kinh tế nước ta phát triển một cách vượt bậc thì
Đảng và Nhà nước ta cũng cần phải quan tâm về vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội , làm cho Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất , thực hiện
được đúng chức năng , quyền hạn theo quy định của Hiến Pháp và Pháp luật.Nghị quyết
Đại hội 9 của Đảng khẳng định: “ lãnh đạo việc đổi mới và tăng cường công tác thanh tra
của Chính phủ và các cơ quan hành pháp;phát huy vai trò giám sát của Quốc hội,Hội đồng
nhân dân , Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm
quyền của các cơ quan đó.Tăng cường công tác kiểm tra của các cấp uỷ , của uỷ ban kiểm
tra các cấp,tập trung vào các nội dung chủ yếu:Thực hiện các Nghị quyết,chủ trương,chính
sách của Đảng và Nhà nước;chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm
việc;củng cố đoàn kết,nội bộ,giáo dục, rèn luyện,nâng cao phẩm chất,đạo đức Cách mạng
của cán bộ,đảng viên ”
Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức
năng quyền hạn quan trọng của Quốc hội đã được quy định trong các bản Hiến
pháp của nước ta và được Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 83 và Điều 84 .
Do vậy,nghiên cứu về quyền giám sát tối cao của Quốc hội thực sự là một
yêu cầu khách quan và là một đòi hỏi bức xúc trong công tác giám sát của
Quốc hội về mặt lý luận và thực tiễn .
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu.
2.1.Về phạm vi
Trong phạm vi một bản khoá luận,tác giả tập trung vào giải quyết
những vấn đề sau :
Một là,xây dựng quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Trên cơ sở phân
tích nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội và rút ra những
phương thức để thực hiện quyền đó,phân biệt quyền giám sát tối cao của
Quốc hội với thẩm quyền kiểm tra việc tuân theo Hiến pháp và Pháp luật của
các cơ quan Nhà nước khác
Hai là,đưa ra thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội
năm 1997 đến năm 2002 và xác định nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội trong thời gian qua ( chủ yếu là Hiến pháp năm 1992 )
Ba là,đưa ra những kiến nghị đổi mới tổ chức và phương
pháp thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Tiêu chuẩn đại biểu
Quốc hội và những điều kiện cần thiết để đại biểu Quốc hội thực hiện được
đúng và đầy đủ quyền giám sát của mình,tăng thẩm quyền giám sát cho các
Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội hoặc thành lập Hội đồng giám sát Hiến
pháp , xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc
2.2. Về phương pháp nghiên cứu
Khi viết bài luận này,chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau: phương pháp triết học Mác xít,phương pháp biện chứng Mác – LêNin,phương pháp
so sánh,phương pháp lịch sử,phương pháp thống kê, phương pháp quy nạp,phương pháp
diễn dịch.
3. Kết cấu của bản luận văn .
Lời mở đầu .
- Chương 1:Cơ sở lý luận của quyền giám sát tối cao của Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Chương 2:Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam , nguyên nhân và bài học
- Chương 3 : Những phương pháp tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội .
Kết luận
chương I
CƠ Sở Lý LUậN QUYềN GIáM SáT TốI CAO CủA QUốC HộI NƯớC
CộNG HOà Xã HộI CHủ NGHĩA VIệT NAM
I . Vị trí pháp lý của Quốc hội, bản chấi, nội dung và phương thức thực hiện
1. Vị trí pháp lý của Quốc hội .
“ Vị trí pháp lý”là một thuật ngữ chuyên nghành của khoa học pháp lý có
nguồn gốc la tinh là“Status” dùng để khái quát hoá vị trí,mô hình của một cơ quan
nhà nước nào đó trong hệ thống các cơ quan nhà nước thông qua các quy định của
pháp luật.
Vị trí pháp lý của Quốc hội tức là chức năng, nhiệm vụ,quyền hạn và mối
quan hệ của Quốc hội với các cơ quan nhà nước khác được Hiến pháp quy định
cho Quốc hội.Vị trí pháp lý này được Hiến pháp năm 1992 quy định khái quát tại
Điều 83:“Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân,cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm
vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu
về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước’’
Theo quy định của Hiến pháp - đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước coa nhất trong toàn bộ cơ cấu tổ chức
các cơ quan Nhà nước Việt Nam.Sở dĩ,Hiến pháp quy định như vậy vì Quốc hội là
cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quyền trực tiếp bầu ra và là cơ quan duy nhất
mà thành phần đại biểu đại diện cho tất cả dân tộc của cả nước . Vì thế, Quốc hội
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân mà“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”(Điều 2 – Nghị
quyết về việc sửa đổi,bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 thông qua
ngày 25/ 12/ 2001)nên để bảo đảm cho Quốc hội thực hiện tốt là cơ quan đại biểu
của nhân dân thì Hiến pháp quy định Quốc hội được nhân dân giao nhiệm vụ và
thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực thống nhất cả nước. Nói một cách
khác,nhân dân là chủ thể tối cao của đất nước,nhân dân vừa trực tiếp vừa gián tiếp
thực hiện quyền lực Nhà nước.Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước
bằng cách bầu ra các cơ quan quyền lực Nhà nước, từ đó hình thành bộ máy Nhà
nước và nhân dân trực tiếp bàn bạc những vấn đề quan trọng của đất nước.Bên
cạnh đó, nhân dân gián tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước nghĩa là nhân dân sử
dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội để quyết định những vấn đề quan
trọng nhất của đời sống xã hội và của Nhà nước.
Ngoài tính đại diện nhân dân của Quốc hội,vị trí pháp lý của Quốc hội còn
được thể hiện ở tính quyền lực Nhà nước.Quyền lực Nhà nước là quyền quyết định
những công việc quan trọng của cả nước,cả xã hội dưới hình thức pháp luật,quyền
được tổ chức ra những lực lượng,những cơ quan để bảo đảm việc thi hành pháp
luật và quyền giám sát việc thi hành pháp luật.Và theo Điều 83 của Hiến pháp
1992 thì:“Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất Nhà nước”,Quốc hội
thay mặt nhân dân,thực hiện quyền lực của nhân dân và chỉ có Quốc hội mới có
quyền biến ý chí của nhân dân thành luật.Do vậy,quy định trên chứng tỏ việc tổ
chức quyền lực Nhà nước ta không theo nguyên tắc phân quyền,không phân chia
quyền lực như Nhà nước tư bản mà tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ
nghĩa.
Trong một thời gian dài,có quan điểm cho rằng:Quốc hội là cơ quan quyền
lực cao nhất có toàn quyền quyết định mọi vấn đề của đất nước.Nhưng vì Quốc
hội không có điều kiện thiện hiện được những quyền hạn đó nên Quốc hội phải
thành lập ra những cơ quan Nhà nước khác và giao cho chúng những nhiệm
vụ,quyền hạn của mình.Nói một cách cụ thể là sở dĩ Chính phủ, Toà án nhân
dân,Viện kiểm sát nhân dân có được quyền hạn và nhiệm vụ là do nhận được từ
Quốc hội.Thực tiễn đã cho thấy nhận thức như trên là không phù hợp với thực tế
hoạt động của bộ máy Nhà nước,nhận thức đó đã đem lại sự khó khăn khi cần xác
định trách nhiệm pháp lý của các cơ quan Nhà nước và những khó khăn do việc
không phân định rõ chức năng,quyền hạn của các cơ quan Nhà nước tạo ra.Ví
dụ,nói một cách cụ thể,nhận thức trên sẽ rất khó phân định được quyền giám sát
tối cao của Quốc hội với quyền kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao,với
quyền giám đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao và với quyền thanh tra của
Chính phủ.
Như vậy,cần nhận thức lại,đúng hơn về vị trí pháp lý của mỗi cơ quan Nhà
nước.Mỗi cơ quan trong hệ thống các cơ quan Nhà nước đều có vị trí pháp lý của
nó.Vị trí đó được xác định từ cách thức thành lập,nhiệm vụ,quyền cơ quan Nhà
nước khác như Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao.Những cơ quan Nhà nước trên
có chức năng,quyền hạn theo luật định nhưng đều phải có trách nhiệm báo cáo
trước Quốc hội và phải chịu sự giám sát của Quốc hội.
2. Bản chất , nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội .
2.1. Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một bộ phận không
thể tách rời quyền lực Nhà nước.Mà quyền lực Nhà nước được biểu hiện
trong đời sống xã hội theo những phương thức sau:
- Nhà nước đặt ra Hiến pháp và pháp luật.
- Nhà nước giám sát các cá nhân trong hoạt động thực tiễn.
- Nhà nước xử lý,trừng phạt cá nhân khi có hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp
luật
Từ những vấn đề trên cho thấy,giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là
một khâu không thể thiếu trong hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước và vì vậy
giám sát là một bộ phận không thể tách rời quyền lực Nhà nước .
2.2. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và Quốc hội nắm
quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Nguyên tắc mọi quyền lực của đất nước đều thuộc về nhân dân là nguyên tắc
được nhiều nước công bố.Nhưng quyền lực đó được tổ chức và phân công như thế
nào lại phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,điều kiện chính trị–xã hội , truyền thống
dân chủ,phong tục tập quán,thái độ tâm lý của nhân dân,quan hệ của mỗi nước với
cộng đồng quốc tế,sự lãnh đạo và đường lôí chính trị của Đảng nắm chính
quyền.Tóm lại là những điều kiện lịch sử–xã hội mà trong đó Nhà nước tồn tại.
Nhìn một cách tổng quát,xét về mặt lý thuyết các nước trên thế giới hiện nay
có bốn cách tổ chức và phân công quyền lực Nhà nước:
Cách thứ nhất:Phân lập quyền lực một cách triệt để.
Cách thứ hai:Phân công và phối hợp quyền lực .
Cách thứ ba:Quyền lực tập trung vào hành pháp hoặc lập pháp .
Cách thứ tư :Thống nhất quyền lực Nhà nước.
Nhà nước Việt Nam hiện nay tổ chức và phân công quyền lực theo cách thứ tư
. Cách tổ chức và phân công quyền lực xuất phát từ cơ sở lý luận,xuất phát từ điều
kiện kinh tế,điều kện chính trị – xã hội và mối quan hệ của nước ta với cộng đồng
quốc tế như sau:
- Về mặt lý luận: Mác- Ăngghen và LêNin không chỉ quan tâm,chú trọng đến
việc nghiên cứu bản chất của quyền lực và quyền lực của Nhà nước mà còn rất
quan tâm đến việc tổ chức và phân công quyền lực trong Nhà nước xã hội chủ
nghĩa như thế nào. Những luận điểm, những nguyên lý cơ bản về tổ chức Nhà
nước xã hội chủ nghĩa đã được LêNin thể hiện tập trung và súc tích nhất trong tác
phẩm “Nhà nước và cách mạng”LêNin đã viết: “Lấy cái gì để thay thế bộ máy
Nhà nước đã bị phá huỷ ? ”
Vấn đề này, năm 1847, trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”Mác chỉ có
một lời giải đáp hoàn toàn trừu tượng, hay nói đúng hơn,chỉ đặt ra nhiệm vụ mà 1không đề ra phương pháp giải quyết. Thay bộ máy Nhà nước bằng việc “Tổ chức
giai cấp vô sản thành giai cấp thống trị bằng dành lấy dân chủ”đó là câu giải đáp
trong “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” .
Không muốn rơi vào không tưởng, Mác chờ vào kinh nghiệm của phong trào
quần chúng để xem tổ chức ấy của giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp thống trị
sẽ theo những hình thức cụ thể nào... Mác viết “Công xã không phải là một cơ
quan đại nghị , mà là một tập thể hành động, vừa lập pháp ,vừa hành pháp
...”LêNin đã phân tích một cách sâu sắc những luận điểm cơ bản của Mác: “Công
xã thay thế chế độ đại nghị bán mình và thối nát ấy của xã hội tư bản bằng những
cơ quan, trong đó quyền tự do ngôn luận và tự do thảo luận không biến thành lừa
bịp vì các nghị sĩ phải tự mình công tác, tự mình thực hiện những luật pháp của
mình, tự mình kiểm tra lấy tác dụng của những luật pháp ấy, tự mình phải chịu
trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình ” . Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, kết hợp lý luận với thực tiễn, LêNin đã xây
dựng Nhà nước kiểu mới theo nguyên tắc “ Tất cả quyền hành thống nhất, đầy đủ
và không chia sẻ trong tay toàn thể nhân dân ” .Như vậy theo quan điểm của chủ
nghiã Mác –LêNin về Nhà nước ,muốn quyền lực thực sự là của nhân dân thì phải
tập trung thống nhất quyền lực Nhà nước cho cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
dân là Quốc hội hoặc XôViết và vì vậy trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Quốc hội
là cơ quan đại biểu cao nhất đồng thời cũng là cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất. Hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đều có quy định và thể
hiện nguyên tắc thống nhất và tập trung quyền lực trong tổ chức bộ máy Nhà nước
.Việt Nam cũng vận dụng quan điểm này và điều đó được thể hiện trong các quy
định về vị trí pháp lý của Quốc hội trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta. Sự
phân tích trên có thể dẫn đến một nhận xét là:Quyền giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật là một bộ phận không thể tách rời của quyền lực Nhà nước và
Quốc hội nước ta là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.Do đó,Quốc hội nắm
quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – LêNin về tổ chức và hoạt động
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tồn tại trong một thời gian dài và được vận
dụng vào việc tổ chức bộ máy Nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây.Nhưng cùng với sự thay đổi chính trị ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu cũng có nhiều quan điểm của các luật gia, các nhà khoa học xã
hội ở Việt Nam nhận thấy cần có sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước
là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng và cấp bách đã được ghi nhận
trong Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7. Nhưng đổi mới như thế nào,
theo khuynh hướng nào, có áp dụng lý luận phân chia quyền lực không, đó là
những vấn đề đã được đặt ra trong quá trìmh soạn thảo Hiến pháp năm 1992 của
nước ta và trong Đại hội lần thứ 7 của Đảng cộng sản Việt Nam.Cho đến nay,như
chúng ta đã thấy,Hiến pháp năm 1992 đã ra đời và khẳng định vị trí pháp lý của
Quốc hội tại Điều 83 “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ...Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước ”
Điều đó cũng thể hiện rõ quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới
tổ chức và hoạt động của Nhà nước.Nhà nước ta vẫn được tổ chức theo nguyên tắc
1 1. Cải cách hành chính Nhà nước, NXB sự thật, Hà Nội, 1991, trang 16
tập trung dân chủ nhưng có sự phân công phân cấp rành mạch.“ Quốc hội ta là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Thay mặt nhân dân cả nước thực thi quyền lực mà nhân dân giao cho, ...Với tư
cách là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao, Quốc hội vừa quyết định luật, vừa
giám sát các cơ quan Nhà nước thi hành luật. Nhưng không lẫn lộn với quyền hành
pháp của Chính phủ,cũng như quyền độc lập xét xử của Toà án.”Trong Nghị quyết
và các văn kiện khác của Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 7 đã phân tích
rõ trong điều kiện kinh tế,chính trị xã hội và quan hệ quốc tế của nước ta hiện nay
thì Nhà nước ta cần được đổi mới,cần có sự phân công,phân cấp rành mạch trong
tổ chức và hoạt động quản lý xã hội của Nhà nước nhưng vẫn cần thống nhất và
tập trung quyền lực vì điều đó là bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,là điều
đảm bảo cho quyền lực của đất nước thực sự thuộc về nhân dân.Chúng tôi nhất trí
và đồng ý với quan điểm trên của Đảng vì :
- Xét về mặt kinh tế:Nền kinh tế nước ta đang chuyển mạnh sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần nhưng đó là nền kinh tế phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa,có sự quản lý của Nhà nước.Sự vận động và phát triển của nền kinh
tế thị trường tất yếu đòi hỏi phải có một thị trường thống nhất trong cả nước và có
sự quản lý của Nhà nước bằng một hệ thống pháp luật thống nhất,đó là mong
muốn và là điểm thống nhất về lợi ích của mọi tầng lớp dân cư và mọi giai cấp
trong xã hội.Mặt khác,tuy nền kinh tế có nhiều thành phần nhưng nhân dân vẫn là
chủ sở hữu của tất cả những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của đất nước.
- Xét về mặt chínhtrị – xã hội:Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần tăng lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Sự phân biệt
giàu,nghèo trong xã hội có nhưng cơ cấu giai cấp trong xã hội chủ yếu vẫn là giai
cấp công nhân,nông dân và tầng lớp trí thức.Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là chính
đảng duy nhất đang tồn tại và vị trí lãnh đạo của Đảng đã có chiều dài lịch sử và
2 1. Đỗ Mười: Xây dựng Nhà nước của nhân dân – thành tựu – kinh nghiệm đổi mới, NXB sự thật Hà Nội 1992, trang 14
cần được xã hội thừa nhận,những quan điểm và tư tưởng của Đảng vẫn là những quan điểm và tư tưởng có tác dụng chi phối trong xã hội.2
- Xét về mối quan hệ quốc tế:Sự ổn định về chính trị của Nhà nước ta cũng là
một trong những yếu tố để Nhà nước ta tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác kinh
tế và nhiều lĩnh vực khác đối với cộng đồng quốc tế .
Từ sự phân tích trên,có thể dẫn đến kết luận là:xuất phát từ những điều kiện
lịch sử cụ thể về kinh tế,chính trị và xã hội,về quan hệ với cộng đồng quốc tế,Nhà
nước Việt Nam vẫn duy trì nguyên tắc tập trung và thống nhất quyền lực Nhà
nước,mà Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.Do đó,Quốc hội nắm
quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật,nhưng có đổi mới,đó
là việc phân công,phân cấp rành mạch trong tổ chức Nhà nước.
Trong các Nhà nước tư sản việc tổ chức và phân công quyền lực theo nguyên
tắc quyền lực được phân chia thì giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật
thường được tiến hành dưới hai hình thức sau đây :
-Kiểm tra trước:Các dự luật đã được thảo luận trước khi thông qua và công bố
đều được một cơ quan chuyên trách kiểm tra tính hợp hiến của đạo luật đó.
- Kiểm tra sau:Khi đạo luật đã ban hành và được thi hành,cơ quan chuyên trách
phát hiện ra những điều khoản không hợp hiến.
Và có hai hình thức tổ chức việc kiểm tra,giám sát :
- Thành lập một cơ quan chuyên trách do Quốc hội cử:Hội đồng bảo Hiến, Viện
bảo Hiến,Uỷ ban kiểm tra Hiến pháp.
- Thành lập cơ quan tài phán(Toà án Hiến pháp)
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 của nước ta thì quyền giám sát tối cao
của Quốc hội về việc thi hành Hiến pháp pháp luật,về việc kiểm tra tính hợp Hiến
của các đạo luật cũng được tiến hành dưới hai hình thức :
- Kiểm tra trước:Các dự án luật,pháp lệnh khi đưa ra thảo luận đều được các
Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra.Báo cáo thẩm tra được trình bày trước
Quốc hội khi một dự án luật được đem ra trước Quốc hội thảo luận.
- Kiểm tra sau:Việc thi hành Hiến pháp và pháp luật do nhiều cơ quan Nhà
nước kiểm tra:Viện kiểm sát nhân dân tối cao,... theo chức năng và quyền hạn của
các cơ quan đó.
Cách tổ chức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội là:bằng quy định
của luật,Quốc hội giao cho nhiều cơ quan Nhà nước giám sát và nghe báo cáo của
các cơ quan đó.Quốc hội tập trung giám sát trực tiếp đối với hoạt động của Chính
phủ,...Và để làm điều đó,Quốc hội giao cho các Hội đồng và Uỷ ban giám sát
trong phạm vi quyền hạn của các cơ quan này theo luật định. Quốc hội không có
cơ quan chuyên trách giám sát.
Ưu điểm lớn nhất của cách giám sát của Quốc hội được thể hiện tập trung
vào quyền lực của nhân dân.Nhân dân thông qua cơ quan đại biểu cao nhất của
mình là Quốc hội xây dựng pháp luật và nhân dân thông qua hoạt động của Quốc
hội giám sát việc thi hành pháp luật và quyền giám sát của Quốc hội là quyền giám
sát tối cao.Tuy nhiên, để bảo đảm thực hiện được mục đích trên thì cần có một cơ
chế thích hợp và những điều kiện cần thiết về nhiều mặt.
2.3. Nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội
Để hiểu đúng và đầy đủ nội dung,ý nghĩa của quyền giám sát tối cao của
Quốc hội,trước hết cần tìm hiểu thuật ngữ “giám sát”
- Theo từ điển Tiếng Việt,“giám sát”được hiểu là“sự theo dõi,xem xét làm
đúng hoặc sai những điều đã quy định”.Hoặc được hiểu là“theo dõi và kiểm tra
xem có thực hiện đúng những điều quy định không ”.
- Trong từ điển tiếng Nga“giám sát.”được hiểu là“một nhóm hoặc một tổ chức
để theo dõi người, việc nào đấy”
Tuy nhiên cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ“giám sát”có khác nhau
nhưng chúng có điểm chung nhất là:
-“Giám sát”dùng để chỉ các hoạt động theo dõi,xem xét,kiểm tra và nhận định
về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đá quy định.
- “Giám sát”luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định,tức là phải trả lời được câu
hỏi:ai(người hoặc tổ chức nào)có quyền thực hiện việc theo dõi xem xét, kiểm tra
và đưa những nhận định về một việc nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai
những điều đã quy định.
-“Giám sát cũng luôn luôn gắn với một đối tượng cụ thể,tức là phải trả lời được
câu hỏi:giám sát ai,giám sát việc gì.Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở chỗ nó
phân biệt giữa“giám sát”và“kiểm tra”.“Kiểm tra”thì chủ thể hoạt động và đối
tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau đó là việc tự
kiểm tra của chủ thể hoạt động.Nói một cách khác,tự chủ thể hoạt động xem xét kỹ
để đánh giá tình trạng tốt,xấu của công việc đang là.Nhưng “giám sát”thì không có
tình trạng tự chủ thể hoạt động theo dõi,xem xét chính hoạt động của mình.
-“Giám sát”phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể hoạt động giám sát và đối
tượng chịu sự giám sát tức là chủ thể hoạt động có những quyền và nghĩa vụ gì đối
với đối tượng chịu sự giám sát và ngược lại ...
Như vậy, thuật ngữ “giám sát”nếu chỉ hiểu theo nghĩa chung nhất thì phạm vi
của nó rất rộng rãi nên bao giờ cũng phải gắn liền với một chủ thể nhất định thì lúc
đó mới đem lại cho ta một thông tin,một nhận thức cụ thể .
Căn cứ vào những yếu tố cấu trúc của khái niệm“giám sát”,căn cứ vào những
quy định của Hiến pháp và pháp luật thì khái niệm“Quyền giám sát tối cao của
Quốc hội”gồm:
+Chủ thể của quyền giám sát tối cao:Xuất phát từ vị trí hoạt động Nhà nước ta
là nguyên tắc tập trung dân chủ và quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân
dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua hoạt động của các cơ quan đại biểu 3cao nhất và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất là Quốc hội. Quốc hội giám
sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật,điều đó được thể hiện trong các bản Hiến
pháp của Nhà nước ta.Ví dụ theo Điều 83,Hiến pháp 1992:“...Quốc hội là cơ quan
đại biểu cao nhất...giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”,vận
dụng lý luận của chủ nghĩa Mác –LêNin về Nhà nước và pháp luật,căn cứ vào quy
định trên của Hiến pháp 1992 thì Quốc hội là chủ thể duy nhất của quyền giám sát
tối cao vì Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất ở nước ta.
+Đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội.
Căn cứ vào Hiến pháp năm1992,luật Tổ chức Quốc hội,luật Tổ chức Chính
3 1. Từ điển học sinh NXB giáo dục 1971 Hà Nội, trang 305 2. Từ điển tiếng việt, Viện khoa học xã hội Việt Nam, viện ngôn ngữ học Hà Nội 1992, trang 803 3. Từ điển bách khoa luật học, Mát xcơva 1987, trang 230
phủ,luật Tổ chức Toà án nhân dân,luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì những
cơ quan Nhà nước như Chính phủ Toà án,Viện kiểm sát....tuy có những nhiệm vụ
và quyền hạn độc lập nhưng những người đứng đầu cơ quan đó đều phải chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác của mình trước đại biểu Quốc hội tại các kỳ họp Quốc
hội hoặc phải trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội.Những văn bản mà các cơ
quan Nhà nước đó ban hành phải phù hợp với Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc
hội,pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Mặt khác,Quốc hội có thể quyết
định sửa đổi hoặc huỷ bỏ,đình chỉ việc thực hiện những văn bản đó khi xét thấy có
vi phạm Hiến pháp,luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội. Điều đó cũng có nghĩa là những cơ quan Nhà nước kể trên chịu sự
giám sát của Quốc hội. Quốc hội có quyền giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong
hoạt động thực tiễn và trong nội dung văn bản của Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà
án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Đó chính là những đối tượng
chịu sự giám sát của Quốc hội.
+ Những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến,lập pháp, và quyền giám sát tối
cao.Nhưng để đảm bảo tính khách quan trong hoạt động giám sát,bảo đảm cho
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao theo đúng quy định của Hiến pháp và
luật khi thực hiện quyền giám sát của mình,Quốc hội phải có những căn cứ nhất
định :
* Quốc hội phải căn cứ vào những quy định của Hiến pháp,luật,nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
* Quốc hội căn cứ vào nội dung văn bản đã ban hành của các cơ quan Nhà
nước chịu sự giám sát của Quốc hội và căn cứ vào báo cáo thực tế hoạt động của
những cơ quan Nhà nước đó. Khi cần thiết,Quốc hội có thể chất vấn hoặc đi xem
xét thực tế tình hình có đúng như báo cáo của cơ quan Nhà nước không.
Như vậy,nội dung giám sát của Quốc hội là theo dõi,kiểm tra tính hợp hiến, hợp
pháp đối với nội dung các văn bản của cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của
Quốc hội ban hành và tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động thực tiễn của các cơ
quan Nhà nước đó.
+ Những hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát.
Để đảm bảo cho quyết định của Quốc hội được chấp hành,Quốc hội phải thực
hiện những biện pháp:
* Ra nghị quyết buộc các cơ quan Nhà nước khác phải nghiêm chỉnh chấp
hành.
* Điều 2,điểm 9 luật Tổ chức Quốc hội 2001:“Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch
nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân
dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết
của Quốc hội ”
* Điều 2,điểm 7 luật Tổ chức Quốc hội thông qua năm 2001:“Bầu,miễn
nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội , các Phó
Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Thủ tướng Chính
phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
”
Căn cứ vào quy định của Hiến pháp ,căn cứ vào quy định của luật Tổ chức
Quốc hội 2001,căn cứ vào luật Tổ chức Chính phủ,luật Tổ chức Toà án nhân
dân,luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân,cho thấy,nội dung của quyền giám sát tối
cao của Quốc hội là:“quyền thực hiện việc theo dõi,xem xét,kiểm tra tính hợp
hiến,hợp pháp đối với các văn bản và hoạt động của Chủ tịch nước,Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và
Viện kiểm sát nhân dân tối cao,xử lý những vi phạm Hiến pháp,luật và Nghị quyết
của Quốc hội do những cơ quan nói trên gây ra nhằm bảo đảm cho Hiến pháp,luật
và Nghị quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp hành”
3. Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội
Theo quy định của Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức Quốc hội năm 2001 thì
Quốc hội thực hiện chức năng giám sát thông qua:
- “Xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao”
Để Quốc hội có cơ sở vững chắc xem xét các báo cáo trên của các cơ quan
Nhà nước thì theo quyết định của Chủ tịch Quốc hội hoặc theo người điều khiển
phiên họp có thể chuyển cho các Uỷ ban hữu quan của Quốc hội để thẩm
tra,nghiên cứu trước,sau đó Uỷ ban thảo luận báo cáo của các thành viên và phải
chuẩn bị báo cáo thuyết trình trước Quốc hội
Khi Quốc hội xét các báo cáo thì Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội,Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao cũng phải chịu trách
nhiệm báo cáo công tác của cơ quan,của ngành mình trước Quốc hội .
Tóm lại nghe và xét báo cáo là phương thức bắt buộc đối với các cơ quan
Nhà nước.Bên cạnh đó nó còn là phương pháp giúp Quốc hội gián tiếp nhận được
thông tin một cách đầy đủ và kịp thời về tình hình tuân theo Hiến pháp và Pháp
luật trong hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội đồng thời tăng cường trách
nhiệm cá nhân của những người đứng đầu Chính phủ và các ngành về công tác của
họ trước Quốc hội .
- Chất vấn,một phương pháp giám sát quan trọng của đại biểu Quốc hội , “Đại
biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội , Thủ tướng
Chính phủ,Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,Chánh án Toà án nhân
dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao .
Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp,trong trường hợp cần
điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc trả lời bằng văn bản”(Điều 98-Hiến
pháp)
Theo tinh thần của Hiến pháp,chất vấn là biện pháp thực hiện hữu hiệu quyền
giám sát của Quốc hội,chất vấn luôn phát huy tác dụng của nó và là quyền của đại
biểu Quốc hội.Chất vấn thường nêu ra các vấn đề đã được các đại biểu điều tra
nghiên cứu buộc chính quyền và người bị chất vấn phải trả lời nghiêm túc.Hiệu
quả của trả lời chất vấn là cơ sở để các nhà quản lý áp dụng hay không áp dụng
biện pháp kỷ luật đối với những người bị chất vấn,có quyền chất vấn .
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn các thành viên của Chính phủ,Chủ tịch
nước,Chủ tịch Quốc hội...trong hoặc ngoài thời gian Quốc hội họp.Nếu đại biểu
Quốc hội mà không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch
Quốc hội đưa vấn đề ra thảo luận trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội.Trong trường hợp này,Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đưa ra nghị
quyết về việc trả lời chất vấn.Như vậy,chất vấn và trả lời chất vấn biểu hiện tập
trung ở quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Thông qua chất vấn và trả lời chất
vấn,người đứng đầu các cơ quan Nhà nước thể hiện được trách nhiệm và năng lực
của mình trước nhiệm vụ được giao,trước Nhà nước,Quốc hội và nhân dân.Có thể
nói đây là hình thức được đông đảo cử tri quan tâm và đánh giá cao(Báo cáo công
tác của Quốc hội nhiệm kỳ 10) .
- Giám sát bằng hoạt động kiểm tra thực tế việc tuân theo Hiến pháp và pháp
luật ở địa phương,cơ sở của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,các Hội đồng và Uỷ ban
lâm thời của Quốc hội,Uỷ ban của Quốc hội.Các Uỷ ban này thực hiện quyền giám
sát của mình bằng nhiều hình thức và yêu cầu các cơ quan Nhà nước hữu quan báo
cáo về hoạt động của cơ quan Nhà nước liên quan đến hoạt động kiểm tra,giám sát
của Uỷ ban.Ngoài ra,các Uỷ ban có thể thành lập các đoàn đi kiểm tra,giám sát ở
cơ sở,địa phương,để góp phần cùng với địa phương tìm giải pháp tháo gỡ khó
khăn,phát hiện và xử lý các vấn đề quan trọng trong nhiều lĩnh vực,giúp địa
phương thực hiện tốt chủ trương chính sách.
- Giám sát qua việc xét đơn thư khiếu nại của nhân dân .
Là một bộ phận quan trọng của Nhà nước,của dân,do dân và vì dân,với trách
nhiệm là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân cho nên khi nhận được hàng vạn
kiến nghị của nhân dân cả nước.Quốc hội,các cơ quan của Quốc hội đã chuyển đến
cơ quan hữu quan của Nhà nước và đã từng bước được hồi âm và xử lý có hiệu
quả .
Như vậy,những phương thức giám sát trên của Quốc hội có quan hệ gắn bó
với nhau và hỗ trợ cho nhau vì mỗi phương thức giám sát đều có điểm mạnh và
điểm hạn chế của nó.Vì thế,trên thực tiễn hoạt động giám sát,Quốc hội có thể lựa
chọn những phương thức giám sát khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung của vấn đề
cần phải giám sát và vào đối tượng chịu sự giám sát của Quốc hội .
II. Quan hệ quyền giám sát tối cao của Quốc hội với những quyền khác của Quốc hội
,sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến pháp,pháp
luật của các cơ quan Nhà nước khác.
Để hiểu rõ về bản chất và nội dung của quyền giám sát tối cao,cần phải xác
định vị trí và mối quan hệ của quyền giám sát tối cao với những quyền khác của
Quốc hội.Nhưng mặt khác cũng cần phải tìm hiểu sự khác nhau giữa quyền giám
sát tối cao với việc kiểm tra thi hành Hiến pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà
nước khác .
1. Quan hệ quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội .
1.1. Quyền giám sát tối cao với quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội .
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992,tại Điều 84,điểm1,Quốc hội có những
nhiệm vụ và quyền hạn:“Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp,làm luật và sửa
đổi;quyết định chương trình xây dựng luật,pháp lệnh”.Đây là một trong những
quyền hạn quan trọng của Quốc hội,thông qua hoạt động lập hiến,và lập pháp,ý chí
và nguyện vọng của nhân dân,đường lối và chính sách của Đảng được thể chế hoá
thành luật và trở thành công cụ sắc bén nhất để Nhà nước quản lý xã hội .
Quan hệ giữa quyền lập hiến và lập pháp với quyền giám sát là tất yếu khách
quan,không thể tách rời nhau,có quan hệ chặt chẽ với nhau quyền này bổ trợ cho
quyền kia và ngược lại;quan hệ đó được biểu hiện cụ thể như sau:
- Đối với công tác lập hiến và lập pháp thì quyền giám sát giữ một vị trí và vai
trò rất quan trọng;cụ thể trong quá trình xây dựng một văn bản luật mới và để
thông qua nó về lĩnh vực nào của xã hội thì Quốc hội phải tuân theo quy trình làm
luật mà Quốc hội đã thông qua,quy trình đó không đơn thuần là một vấn đề kỹ
thuật lập pháp mà còn bảo đảm dân chủ trong quá trình làm luật . Quy trình làm
luật,một vấn đề mà bất cứ cơ quan Nhà nước nào hoặc người trình dự án khi xây
dựng một văn bản luật cũng đều phải trình bày những cơ sở thực tế cho việc soạn
thảo một dự án văn bản luật mới.Để trả lời được vấn đề trên một cách có căn cứ thì
phải có điều tra xã hội học và sự tổng kết thực tiễn việc thi hành luật của các cơ
quan và người trình dự án luật.Nhưng về phía Quốc hội,các Hội đồng,Uỷ ban của
Quốc hội khi nghe trình bày những vấn đề trên,cũng phải có những quan điểm của
mình chứ không phải nghe các báo cáo dự thảo.Nhưng khi muốn có căn cứ để xem
xét,thẩm tra các dự án luật, Quốc hội,các Hội đồng ,Uỷ ban của Quốc hội phải dựa
vào kết quả hoạt động giám sát của chính mình về những vấn đề văn bản dự thảo
đề cập.Vì vậy,ở góc độ kỹ thuật và quy trình lập hiến,và lập pháp thì giám sát là
một khâu không thể thiếu trong quá trình làm Hiến pháp và pháp luật.Nhưng thực
tiễn cho thấy hoạt động giám sát vẫn còn là một khâu yếu,còn nhiều hạn chế,sự đổi
mới còn chậm và hiệu quả chưa cao,do đó báo cáo thẩm tra của Uỷ ban còn thiếu
cơ sở thực tiễn thi hành luật.Qua đó cho thấy,nếu như Quốc hội làm tốt các công
tác giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật thì đó chính là điều kiện để
Quốc hội,các Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra các dự án luật một cách có căn cứ
thực tế vững chắc,có tính thuyết phục,không phải bằng lập luận chung mà có số
liệu thống kê,chứng cứ cụ thể và do đó có khả năng thuyết phục mạnh mẽ; vì thế
giám sát nằm ngay trong quá trình lập hiến và lập pháp ,là một khâu không thể
thiếu trong qua trình lập pháp.Ngoài ra,việc giám sát thực hiện một văn bản luật
cũng giữ một vai trò quan trọng,điều đó thể hiện khi một văn bản luật ra đời.Khi
một văn bản luật ra đời,để triển khai và áp dụng luật phải có hàng loạt các văn bản
pháp quy do cơ quan Nhà nước khác ban hành.Do đó, cần phải kiểm tra tính hợp
hiến,hợp pháp của những văn bản pháp quy xem có đúng quy định của luật mới
ban hành hay không.Trong quy trình thực hiện và áp dụng luật,cần phải tăng
cường hoạt động giám sát chặt chẽ thì mới kịp thời phát hiện được những thiếu
sót,những mâu thuẫn trong văn bản luật mới thông qua và có biện pháp kịp thời
sửa đổi,bổ sung luật.Điều đó có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong tình hình hiện nay
của đất nước ta .
Trong quá trình xây dựng kế hoạch làm luật và pháp lệnh,Quốc hội phải dựa
vào kết quả hoạt động giám sát để xem xét,cần tập trung xây dựngvăn bản luật nào
là cần thiết nhất
- Đối với công tác giám sát,quyền lập hiến và lập pháp cũng giữ một vị trí
quan trọng.Việc xây dựng Hiến pháp và luật chính là việc tạo ra cơ sở,căn cứ để
Quốc hội thực hiện quyền giám sát,nếu thiếu căn cứ này thì hoạt động giám sát sẽ
mất đi tính mục đích...Chính vì vậy mà việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện
hệ thống pháp luật là một trong những điều kiện để bảo đảm cho hoạt động giám
sát được thực hiện một cách có hiệu quả và bảo đảm tính mục đích của hoạt động
giám sát.Có thể nói,quyền lập pháp và việc bảo đảm thực hiện quyền đó là một
trong những điều kiện không thể thiếu được trong hoạt động giám sát .
Tóm lại,không có một chuẩn mực,không có một thước đo để đánh giá, nhận
xét về hoạt động của Chính phủ,Toà án nhân dân ,Viện kiểm sát nhân dân;vì vậy
công việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện pháp luật là điều kiện để đảm bảo
cho hoạt động giám sát có hiệu quả;do đó quyền lập pháp là một trong những điều
kiện không thể thiếu trong hoạt động giám sát và hoạt động giám sát cũng tác
động mạnh mẽ đến việc xây dựng pháp luật .
1.2. Quyền giám sát tối cao với những quyền quyết định những vấn đề quan
trọng của Nhà nước .
Cùng với việc đẩy mạnh công tác lập pháp và hoạt động giám sát,Quốc hội
ngày càng chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét,quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước.Việc“quyết định chính sách tài chính,tiền tệ quốc
gia;quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và việc phân bổ ngân sách Trung
ương,phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước;quy định,sửa đổi hoặc bãi bỏ các
thứ thuế ”(Điều 84, điểm 4,Hiến pháp 1992).
Theo chức năng,nhiệm vụ của mình,hàng năm Quốc hội đã xem xét quyết
định nhiệm vụ kinh tế–xã hội , dự toán ngân sách và phê chuẩn quyết toán ngân
sách Nhà nước.Việc chuẩn bị và thông qua các nghị quyết về nhiệm vụ và ngân
sách Nhà nước luôn được quan tâm cải tiến,các chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu được cụ
thể hoá để Quốc hội dễ thực hiện,dễ kiểm tra,dễ giám sát.Mà các quyền quyết định
về tài chính là biểu hiện quyền lực của nhân dân về kinh tế,nhân dân thực hiện
quyền lực đó thông qua Quốc hội .
Đối với quyền giám sát tối cao,quyền quyết định về những vấn đề ngân sách
Nhà nước giữ một vai trò quan trọng gần như có tính chất quyết định đối với hiệu
quả của công tác giám sát của Quốc hội vì:Thông qua hoạt động giám sát về việc
sử dụng ngân sách Nhà nước của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm
sát nhân dân tối cao,Quốc hội nắm được thực trạng tình hình hoạt động của các cơ
quan Nhà nước này.Có thể nói,Quốc hội chỉ thực sự có được quyền lực Nhà nước
cao nhất khi Quốc hội thực sự nắm được quyền quyết định về những vấn đề tài
chính và ngân sách.Thông qua việc thực hiện này,Quốc hội không chỉ kiểm
tra,giám sát việc hoạt động của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát
nhân dân tối cao mà còn điều chỉnh những hoạt động đó theo nghị quyết của Quốc
hội.Như vậy,một trong những điều kiện để bảo đảm cho quyền giám sát tối cao
của Quốc hội được thực sự thực hiện và có hiệu quả thì Quốc hội phải thực hiện
đúng và đầy đủ quyền quyết định ngân sách.
Tóm lại,quyền giám sát tối cao của Quốc hội mà thực hiện được thì cần phải
có một khoản tiền lớn,nếu Quốc hội không thực hiện và giữ được quyền phân bổ
ngân sách Nhà nước thì không thể tự quyết định được khoản chi cho hoạt động
giám sát hàng năm của Quốc hội.Nếu hoạt động giám sát của Quốc hội khi thực
hiện lại phụ thuộc vào điều kiện về tài chính do Chính phủ cấp thì không thể bảo
đảm tính khách quan trong hoạt động giám sát của Quốc hội được và ảnh hưởng
lớn đến tính khả thi của kế hoạch và chương trình giám sát mà Quốc hội đề
ra.Ngược lại ,quyền giám sát tối cao cũng có một vị trí và vai trò rất quan trọng
đối với việc thực hiện quyền về ngân sách của Quốc hội.Để có thể quyết định một
cách có căn cứ những vấn đề về tài chính và ngân sách Nhà nước,Quốc hội phải
căn cứ vào những kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội nhất là giám sát việc
thực hiện ngân sách Nhà nước của Chính phủ và những cơ quan Nhà nước chịu sự
giám sát của Quốc hội chứ không thể chỉ căn cứ vào các báo cáo của những cơ
quan Nhà nước kể trên .
1.3. Quyền giám sát của Quốc hội với quyền quyết định về tổ chức,bầu và
bãi,miễn các chức vụ cao nhất của Nhà nước .
“Bầu,miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc
hội,các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Thủ
tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối
cao;phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm,miễn
nhiệm,cách chức Phó thủ tướng,Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính
phủ”( Hiến pháp 1992)
Chỉ trên cơ sở hoạt động pháp luật của Quốc hội,Quốc hội mới có căn cứ
vững chắc để quyết định những vấn đề về tổ chức Nhà nước,về bầu và bãi ,miễn
các chức vụ cao cấp của Nhà nước.Ngược lại quyền bầu,bãi miễn được bảo
đảm,đó chính là sự thể hiện trực tiếp quyền lực của Quốc hội trong hoạt động
giám sát .
Quyền giám sát tối cao của Quốc hội là một bộ phận trong hệ thống thẩm
quyền của Quốc hội,do đó mà nó có quan hệ chặt chẽ với tất cả các quyền khác
của Quốc hội mà Hiến pháp quy định.Hoạt động giám sát là một trong những cơ
sở quyết định những vấn đề mà Hiến pháp quy định thuộc thẩm quyền của Quốc
hội.Ngược lại việc thực hiện các quyền khác là điều kiện làm cho quyền giám sát
của Quốc hội được tôn trọng và được thực hiện
2. Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến
pháp,Pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác
2.1. Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền thanh
tra của Chính phủ
- Thanh tra,kiểm tra của Chính phủ là hình thức biểu hiện của quyền kiểm soát
của Chính phủ đối với bộ máy các cơ quan,tổ chức,cá nhân trong xã hội nhằm bảo
đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung Ương đến cơ sở,theo phạm vi và lĩnh
vực thuộc thẩm quyền
Theo Điều 1 của Pháp lệnh Thanh tra thì“Thanh tra là một chức năng thiết yếu
của cơ quan quản lý Nhà nước,là phương thức bảo đảm pháp chế,tăng cường kỷ
luật trong quản lý Nhà nước,thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”nhiệm vụ
và quyền hạn của Thanh tra Nhà nước được quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh
Thanh tra.
- Xét về mặt chủ thể:Quyền Thanh tra thuộc về Chính phủ theo quy định của
Điều 112 Hiến pháp 1992,đây là hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước,tự kiểm
tra,giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong quá trình điều hành của
Chính phủ
- Xét về mặt đối tượng:Theo quy định tại Điều 11 của Pháp lệnh Thanh tra thì
đối tượng của công tác Thanh tra là hoạt động quản lý của các cơ quan Nhà nước
từ cấp Bộ trở xuống .
- Xét về phương thức thực hiện và hiệu quả pháp lý:Thanh tra tiến hành theo
những quy định của Pháp lệnh Thanh tra-Điểm phân biệt Thanh tra với kiểm sát ở
đây là:Nếu có vi phạm pháp luật tới mức coi là tội phạm thì chỉ có Viện kiểm sát
nhân dân có quyền khởi tố và giữ quyền công tố Nhà nước còn Thanh tra thì chỉ
xử lý các vi phạm pháp luật chưa đến mức coi là tội phạm trong hoạt động quản lý
của cơ quan Nhà nước
2.2. Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền Giám
đốc xét xử của Toà án nhân dân tối cao .
- Về mặt chủ thể:Toà án tối cao giám đốc việc xét xử Toà án các cấp theo quy
định tại Điều 18,luật Tổ chức Toà án nhân dân và theo quy định tại Điều 134,Hiến
pháp năm 1992,như vậy,Toà án nhân dân tối cao là chủ thể của hoạt động giám
đốc,tức là xem xét,kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động của cơ quan
Nhà nước,vì nó quan hệ đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
trong quan hệ với Nhà nước.Nói một cách khác,giám sát tính hợp hiến,hợp pháp
trong hoạt đông xét xử của Toà án là chức năng,nhiệm vụ của Toà án nhân dân tối
cao,vì Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhà nước
- Về mặt đối tượng chịu sự giám đốc:Căn cứ vào quy định của Hiến pháp 1992
Điều 134 thì đối tượng chịu sự giám sát mà ở đây gọi là giám đốc xét xử của Toà
án nhân dân tối cao là hoạt động xét xử của các Toà án nhân dân các cấp , các toà
án quân sự và toà án đặc biệt,trừ trường hợp các quy định khác của Quốc hội khi
thành lập các Toà án đó
- Về phương thức thực hiện:Toà án nhân dân tối cao thực hiện quyền giám đốc
theo quy định của Luật tố tụng hình sự và Luật tố tụng dân sự và những quy định
khác do luật định khi thẩm quyền xét xử của Toà án được mở rộng.
- Về hiệu quả pháp lý:Theo luật định ,khi phát hiện có sai lầm và vi phạm pháp
luật trong hoạt động xét xử,Toà án nhân dân tối cao có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ
bản án của Toà án cấp dưới .
Như vậy luật quy định thẩm quyền xử lý các vi phạm Hiến pháp và luật trong
hoạt động xét xử của Toà án là của Tòa án nhân dân tối cao và chỉ có Toà án nhân
dân tối cao mới có quyền thay đổi quyết định của các bản án do Toà án cấp dưới
đã tuyên khi xét thấy có vi phạm pháp luật.Quốc hội không phải là cơ quan xét xử
và cũng không làm thay nhiệm vụ giám đốc của Toà án nhân dân tối cao.
Nhưng Quốc hội có quyền xét báo cáo công tác của Toà án nhân dân tối cao và
khi cần thiết Quốc hội có thể ra Nghị quyết về công tác của Toà án.Do đó,khi phát
hiện những vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án, qua việc kiểm
tra tình hình thi hành pháp luật của các Toà án do các Uỷ ban của Quốc hội thực
hiện,Quốc hội không trực tiếp thay đổi quyết định trong bản án đã tuyên,nhưng
Quốc hội có quyền chất vấn Chánh án Toà án nhân dân tối cao về công tác xét xử
của Toà án hoặc ra Nghị quyết đề nghị Toà án nhân dân tối cao phải xem xét lại
các bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và báo cáo với Quốc hội
2.3.Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với quyền kiểm
sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Về mặt chủ thể:“Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của các Bộ , các cơ quan ngang Bộ,các cơ quan khác thuộc Chính phủ,các cơ
quan chính quyền địa phương,tổ chức kinh tế,tổ chức xã hội,đơn vị vũ trang và
nhân dân”Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Điều 137,Hiến pháp
1992 .
- Về đối tượng chịu sự kiểm sát:Theo quy định của Hiến pháp thì đối tượng giám
sát của Viện kiểm sát nhân dân rất rộng lớn,bao gồm hoạt động của tất cả các cơ
quan Nhà nước từ cấp Bộ trở xuống,các tổ chức xã hội,đơn vị vũ trang và công
dân
- Về phương thức thực hiện:Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi thực hiện hoạt
động kiểm sát phải tuân theo những quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân và Luật tố tụng
- Về hiệu quả pháp lý:Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong hoạt động của
các đối tượng trên thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền khởi tố nếu có dấu
hiệu tội phạm,kháng nghị hoặc kiến nghị đối với vi phạm pháp luật đối với các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết các vi phạm pháp luật đó
Như vậy,Quốc hội không phải là cơ quan thực hiện việc kiểm sát tính hợp
hiến,hợp pháp trực tiếp đối với mọi hoạt động của từng công dân...đó là công việc
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao , nhưng hiện nay , chức năng kiểm sát chung
đã được chuyển cho Quốc hội.
Tóm lại,giám sát,kiểm sát,giám đốc là những thuật ngữ khác nhau để chỉ hoạt
động giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của những cơ quan Nhà nước
có vị trí pháp lý khác nhau.Chúng có đối tượng giám sát và phương thức thực
hiện,hiệu quả pháp lý khác nhau.Cần phân biệt hoạt động giám sát của Uỷ ban của
Quốc hội khi Uỷ ban đó đi kiểm tra tình hình thực tế việc thi hành pháp luật với
hoạt động kiểm sát và giám đốc ở chỗ:cũng đều là kiểm tra,xem xét nhưng các Uỷ
ban của Quốc hội không làm thay nhiệm vụ cho các cơ quan chức năng của Nhà
nước và cũng không trực tiếp giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật cụ thể,mà
các Uỷ ban của Quốc hội chỉ thu thập tài liệu,đưa ra các kiến nghị để các cơ quan
chức năng của Nhà nước thực hiện. Mặt khác,đó là cơ sở để giúp Quốc hội thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan Nhà nước thuộc thẩm quyền giám
sát trực tiếp của mình .
Sự khác nhau cơ bản giữa quyền giám sát tối cao của Quốc hội với thẩm quyền
kiểm tra việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan Nhà nước là ở
phạm vi,đối tượng chịu sự giám sát và ở thẩm quyền xử lý các vi phạm Hiến pháp
và pháp luật.Các cơ quan Nhà nước khác có quyền kiểm tra xử lý các vi phạm
Hiến pháp và pháp luật,đó là sự phân công phân cấp rành mạch trong hoạt động
quản lý xã hộ của Nhà nước.Nhưng quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và
pháp luật cao nhất thuộc về Quốc hội.Quốc hội không làm thay chức năng,nhiệm
vụ của những cơ quan Nhà nước khác nhưng Quốc hội có quyền kiểm tra hoạt
động của các cơ quan Nhà nước đó và nếu phát hiện có sự vi phạm Hiến pháp và
pháp luật trong xã hội chưa được các cơ quan Nhà nước xử lý thì Quốc hội có
quyền yêu cầu các cơ quan chức năng của Nhà nước giải quyết theo thẩm quyền
và phải báo cáo trước Quốc hội.Nếu các cơ quan Nhà nước đó không thực hiện
những Nghị quyết của Quốc hội thì Quốc hội xử lý những vi phạm Hiến pháp và
pháp luật của các cơ quan(Thủ trưởng cơ quan)theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật.Đó là cách tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực giám
sát của Nhà nước ta
CHƯƠNG II
Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước cộng hòa xã hộichủ
nghĩa Việt Nam,nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát
của Quốc hội
I. Những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong Hiến pháp 1992.
Hiến pháp 1992 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 15/ 4 / 1992 và được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố
ngày 18/ 4 1992,Bản Hiến pháp mới này của Nhà nước ta ra đời trong điều kiện
lịch sử trọng đại,nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang
tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế–xã hội.Kế thừa và phát triển tính ưu việt của ba bản Hiến pháp trước, Hiến
pháp 1992 đã thể chế hoá đường lối cách mạng đổi mới của Đảng ta mà Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ 7 đề ra thành những quy định của Hiến pháp,trong đó
có những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Vị trí pháp lý và chức năng của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Hiến pháp 1992 quy định tại Điều 83:
“ Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan cao nhất có quyền lập hiến và lập pháp
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại nhiệm vụ
kinh tế-xã hội,quốc phòng,an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước,về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của đất
nước”. Quy định trên khẳng định nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống nhất và
tập trung trong tay toàn thể nhân dân,nhân dân thực hiện quyền lực đó thông qua
cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của mình là Quốc
hội.Điều đó thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta là Nhà nước của dân,do
dân và vì dân.Quy định trên của Hiến pháp 1992 về cơ bản không có gì mới so với
Hiến pháp 1980 nhưng ý nghĩa quan trọng cuả nó là ở chỗ:nó khẳng định tổ chức
và hoạt động của Nhà nước ta có đổi mới và là một sự đổi mới sâu sắc nhưng có
nguyên tắc,và những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà
nước,trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- LêNin về Nhà nước vẫn được Đảng ta
tôn trọng.
Chính vì vậy,theo quy định trên,Quốc hội nước ta vẫn là cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất và quyền giám sát tối cao là một bộ phận cấu thành quyền lực Nhà
nước của Quốc hội được Hiến pháp 1992 khẳng định
Để thực hiện quyền giám sát tối cao với tư cách là một bộ phận quyền lực Nhà
nước như đã trình bày ở tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động của tất cả các cơ
quan Nhà nước,tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế,đơn vị vũ trang và công dân.Do đó
bằng quy định của Hiến pháp và luật,Quốc hội phân định quyền giám sát việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật có những cơ quan Nhà nước khác nhau theo
đúng tinh thần cuả Nghị quyềt đại hội Đảng lần thứ XII là:Tập trung thống nhất
quyền lực nhưng có sự phân công rành mạch giữa các cơ quan Nhà nước.Đó là
một bước tiến để xây dựng một Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Quốc hội chỉ
giữ lại thẩm quyền giám sát của mình đối với hoạt động của Chủ tịch nước,Chính
phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao .
Để giám sát tính hợp hiến và trong hoạt động Chính phủ, Chủ tịch nước,Toà
án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Hiến pháp 1992 quy định tại
Điều 84,điểm 2,Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn:"Thực hiện quyền giám sát
tối cao việc tuân theo Hiến pháp,Luật và Nghị quyết của Quốc hội;xét báo cáo của
Chủ tịch nước,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Toà án nhân dân tối
cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao "
- Tại Điều 91,điểm5,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền:"giám sát việc thi
hành Hiến pháp,luật,Nghị quyết của Quốc hội,pháp lệnh,Nghị quyết của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội;giám sát hoật động của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao…"
- Tại Điều 94 và Điều 95:Các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội có quyền thực hiện
quyền giám sát trong phạm vi nhệm vụ,quyền hạn do luật định,kiến nghị những vấn đề
thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban.Đây là một điểm mới rất quan trọng trong quy định
của Hiến pháp 1992 về quyền giám sát của các Uỷ ban.Theo Hiến pháp 1980,các Uỷ ban
chỉ có quyền giúp Quốc hội và Hội đồng Nhà nước trong hoạt động giám sát,cùng với quy
định trên của Hiến pháp 1992 các Uỷ ban có quyền giám sát theo luật định.Quy định này
nhằm tăng cường vị trí và vai trò của các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội trong công tác
giám sát.Đó là sự tổng kết,đúc kết kinh nghiệm thực tế giám sát của Quốc hội từ 1980 trở
lại đây .
- Tại Điều 98:"Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc
hội,Thủ tướng Chính phủ…Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước,tổ
chức xã hội , tổ chức kinh tế,đơn vị vũ trang trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội
quan tâm".Quyền chất vấn và yêu cầu của Đại biểu Quốc hội là một trong những quyền
hạn quan trọng để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình đối với các cơ
quan Nhà nước nói trên .
Để giám sát tính hợp hiến hợp pháp của các văn bản pháp quy do Chủ tịch
nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Hiến pháp 1992
quy định:
- Tại Điều 84, điểm 9 : Quốc hội có quyền:"Bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước,Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội"
- Tại Điều 91,điểm 5:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền:"Đình chỉ các văn bản của
Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trái với Hiến pháp,luật và Nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội huỷ bỏ các văn bản
đó;huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội "
Để bảo đảm cho các Nghị quyết của Quốc hội trong hoạt động giám sát được
nghiêm,chỉnh chấp hành,Hiến pháp 1992 có những quy định sau :
- Tại Điều 84,điểm 4;Quốc hội có quyền"quyết định chính sách tài chính,quyết định
dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước,phê chuẩn và quyết toán
ngân sách Nhà nước…"và tại Điều 100:"Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại
biểu Quốc hội". Đây là một quyền rất quan trọng của Quốc hội,Quốc hội muốn nắm
được thực sự quyền lực Nhà nước thì trước hết phải nắm được ngân sách Nhà nước.Trong
quy định của điểm 4 Điều 84,Quốc hội còn có quyền phân bổ ngân sách Nhà nước,đó là
một quy định mới so với quy định của Hiến pháp 1980 về vấn đề này.Giám sát việc sử
dụng ngân sách là một hoạt động giám sát chặt chẽ và có hiệu quả nhất trong hoạt động
giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước.Bằng việc phân bổ ngân sách Nhà
nước,Quốc hội buộc các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của mình theo luật định phải
báo cáo hoạt động của họ trước Quốc hội và phải thuyết trình được chương trình và kế
hoạch ngân sách trong hoạt động của họ và do đó,các cơ quan phải chấp hành nghiêm
chỉnh các Nghị quyết của Quốc hội nếu họ muốn Quốc hội duyệt và cấp ngân sách Nhà
nước cho hoạt động của họ .
- Tại Điều 84 điểm7:Quốc hội có quyền "Bầu, miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch
nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch Quốc hội,các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên
của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối
cao,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về
việc thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh,phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính
phủ về việc bổ nhiệm,miễn nhiệm,cách chức Phó Thủ tướng,Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ".
- Tại Điều 91,điểm 8:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền"Trong thời gian Quốc
hội không họp,phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm,cách chức Phó Thủ tướng,Bộ trưởng,các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo
với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất của Quốc hội
Những quy định trên nhằm bảo đảm cho các Nghị quyết của Quốc hội phải được
các cơ quan Nhà nước tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành.Nếu có sự vi phạm nghiêm
trọng Hiến pháp,luật,Nghị quyết của Quốc hội trong hoạt động của cá nhân người giữ các
chức vụ nói trên hoặc trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước do những người có
chức vụ nói trên phụ trách thì họ phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Quốc hội và bị xử lý
theo quy định trên .
Ngoài ra,để đảm bảo cho hiệu quả của hoạt động giám sát của Quốc hội được thực
hiện và đẩy mạnh,Hiến pháp 1992 quy định về các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội có
một số thành viên hoạt động chuyên trách theo Điều 94 và Điều 95 của Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1992 cũng không có quy định về việc Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm Nội
các như Hiến pháp 1946 với những lý do mà chúng tôi đã trình bày ở phần Hiến pháp
1980.Những quy định trên của Hiến pháp 1992 được Luật Tổ chức Quốc hội cụ thể hoá
để có thể thực hiện được quyền giam sát tối cao của Quốc hội trong thực tế .
Còn đối với những đối tượng khác cần phải giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật,bằng quy định của Hiến pháp 1992,Quốc hội phân định thẩm
quyền giám sát đó cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo quy định của Điều 137
và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải chịu trách nhiệm và báo cáo
trước Quốc hội theo quy định của Điều 139;Quốc hội giao quyền giám sát việc
tuân theo Hiến pháp và luật trong hoạt động xét xử của Toà án cho Toà án nhân
dân tối cao theo quy định của Điều 134 và Chánh án Toà án nhân dân tối cao phải
chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội theo quy định của Điều 135;Quốc
hội giao quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động
quản lý của Chính phủ cho Chính phủ theo quy định của Điều 112,điểm 7 và Thủ
tướng Chính phủ phải báo cáo trước Quốc hội theo Điều 110 .
Những quy định trên của Hiến pháp 1992 về quyền giám sát tối cao của
Quốc hội cho thấy quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã xác định đúng vị trí
và tầm quan trọng của nó trong hệ thống các quyền của Quốc hội và Hiến pháp
1992 đã có những quy định rõ,cụ thể,chính xác những quyền hạn cụ thể để Quốc
hội có thể thực hiện được đúng quyền giám sát tối cao của mình theo luật định .
Nghị quyết về việc sửa đổi,bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992:
Điều 84 được sửa đổi ,bổ sung như sau :
“4 – Quyết định chính sách tài chính,tiền tệ quốc gia;quyết định dự toán
ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương,phê chuẩn quyết toán
ngân sách Nhà nước ;quy định,sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế ;”
“5 – Quyết định chính sách dân tộc,chính sách tôn giáo của Nhà nước ;”
“7–Bầu,miễn nhiệm,bãi nhiệm Chủ tịch nước,Phó Chủ tịch nước,Chủ tịch
Quốc hội,các Phó chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội,Thủ tướng Chính phủ,Chánh án Toà án nhân dân tối cao,Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao;phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách
thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh;bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn ;”
“13- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại;phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều
ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký;phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước
quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước ;”
Điều 137 được bổ sung sửa đổi như sau:
“ Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp,góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất .
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương,các Viện kiểm sát quân sự thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm
do luật định.”
II. Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm
1997 đến năm 2002 và những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hoạt động giám sát của
Quốc hội
1. Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X
từ năm 1997 đến năm 2002.
A. Về hoạt động giám sát của Quốc hội .
" Giám sát là một nhiệm vụ hết sức quan trọng,được Quốc hội ,các cơ quan
của Quốc hội tích cực thực hiện,có bước đổi mới về cả nội dung,hình thức.Quốc
hội , các cơ quan của Quốc hội đã quan tâm tiến hành giám sát khá toàn diện về
việc thực hiện đường lối,chính sách của Đảng được thể chế hoá trong các
luật,pháp lệnh,Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ 5 năm,nhiệm vụ hàng năm
và nhiều vấn để quan trọng khác .
Quán triệt các Nghị quyết của Quốc hội,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
xây dựng chương trình giám sát,đề nghị Quốc hội tiến hành giám sát nhiều vấn
để lớn và quan trọng.Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội đều đã xây
dựng và thực hiện chương trình giám sát phù hợp với chức năng nhiệm vụ của
Hội đồng,Uỷ ban. Các đại biểu Quốc hội cũng đã tích cực tham gia các hoạt động
giám sát.Nhờ đó, tuy còn có những hạn chế,hoạt động giám sát đã có tiến bộ,góp
phần thúc đẩy việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội,khắc phục được nhiều
khuyết điểm,thiếu sót,đề ra những giải pháp có hiệu quả để cùng Chính phủ,các
cơ quan hữu quan,các địa phương tháo gỡ khó khăn,hoàn thành nhiệm vụ phát
triển kinh tế-xã hội,giữ vững ổn định chính trị và trật tự,an toàn xã hội .
Nội dung giám sát tập trung vào việc thi hành Hiến pháp ,luật , pháp lệnh ,
Nghị quyết;hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện những
nhiệm vụ quan trọng về kinh tế ,về ngân sách Nhà nước,về dân tộc, miền núi,về
giáo dục,về đào đạo;khoa học công nghệ;quốc phòng,an ninh,giải quyết khiếu
nại,tố cáo của công dân,đối ngoại và các vấn đề xã hội bức xúc.Điểm nổi bật
trong nhiệm kỳ này là các cơ quan của Quốc hội đã tích cực cải tiến,tìm những
hình thức thích hợp như giám sát theo chuyên đề,đi sâu khảo sát,theo dõi sát sao
việc giải quyết kiến nghị sau giám sát về nhiều vấn đề đang sôi động trong đời
sống khinh tế -xã hội,như :chuyển dịch cơ cấu kinh tế;thực trạng và phương pháp
đổi mới hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ,trong đó có mô hình các tổng
công ty Nhà nước;biện pháp chống thất thu và quản lý ngân sách Nhà nước ;hoạt
động của các cơ quan tư pháp (bắt,giam,giữ ,đặc xá,điều tra,truy tố,xét xử,thi
hành án,giải quyết các vụ án dân sự,kinh tế lao động,việc giải quyết của các cơ
quan hữu quan về một số vụ án tiêu biểu );vấn đề cải cách hành chính;việc thí
điểm chương trình giáo dục phổ thông,quy hoạch mạng lưới các trường đại
học,caođẳng;lao động;việc làm;xoá đói giảm nghèo;đầu tư cho các vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi…Do các làm được cải tiến một bước, nhiều chuyên
đề giám sát đã mang lại hiệu quả tích cực như hoạt động của các doanh nghiệp
Nhà nước và hợp tác xã,việc chống thất thu,bảo đảm nguồn thu ,tiết kiệm chi;vấn
đề giao lưu kinh tế qua biên giới,đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI),viện trợ phát
triển chính thức(ODA),viện trợ phi Chính phủ(NGO);việc thực hiện dự án trồng
mới 5 triệu ha rừng;chương trình 135 và việc lồng ghép các chương trình quốc gia
dành cho các vùng dân tộc thiểu số và miền núi :vấn đề cử tuyển và chính sách
đào tạo sử dụng đối với con em đồng bào các dân tộc thiểu số;hoạt động điều
tra,truy tố, kiểm tra,xét xử và giải quyết đơn thư trong lĩnh vực điều tra,truy
tố,kiểm sát,xét xử một vụ án và nhiều chuyên đề đề về xã hội ,văn hoá ,giáo dục
,khoa học ,công nghệ, quốc phòng ,an ninh….Đặc biệt,trước tình hình diễn biến
phức tạp ở Tây Nguyên đầu năm 2001 và vấn đề tôn giáo,dân tộc ở một số tỉnh
miền núi và biên giới,dưới sự lãnh đạo của Đảng,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và
các cơ quan của Quốc hội đã tiến hành kiểm tra,giám sát để cùng với Chính phủ
và các cơ quan hữu quan tìm giải pháp góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật
tự,an toàn xã hội ở các vùng này,
Hoạt động giám sát tại các kỳ họp Quốc hội,đã được chú ý đổi mới.Quốc hội đã
từng bước cải tiến việc thảo luận,xem xét báo cáo của các cơ quan Nhà nước theo hướng
tập trung vào các vấn đề nổi lên,để qua đó lựa chọn nội dung đưa vào các Nghị quyết của
Quốc hội.Nội dung giám sát tại các kỳ họp ngày càng phong phú, được thảo luận ngày
càng dân chủ hơn chất lượng được nâng cao.Thời gian dành cho việc xem xét các báo cáo
cũng được bố trí thoả đáng hơn . Hoạt động chất vấn và trảlời chất vấn , biểu hiện tập
trung nhất quyền giám sát tối cao của Quốc hội đã có bước tiến bộ đáng kể , nhất là từ năm
1998 , khi các buổi sinh hoạt này được truyền trực tiếp trên sóng truyền hình,phát thanh và
tường thuật tỷ mỉ trên các báo viết . Thông qua chất vấn và trả lời chất vấn công
khai,người đứng đầu các cơ quan Nhà nước thể hiện trách nhiệm và năng lực của mình
trước nhiệm vụ được giao và trước Nhà nước,Quốc hội và nhân dân.Có thể nói đây là hình
thức giám sát được đông đảo cử tri quan tâm và đánh giá cao .
Giưã hai kỳ họp Quốc hội,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của
Quốc hội tiếp tục giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội,việc giải quyết
các vấn đề đặt ra trong báo cáo , giải quyết kiến nghị của cử tri và trả lời chất vấn
của đại biểu Quốc hội.Đoàn đại biểu Quốc hội đã xây dựng kế hoạch và thực hiện
giám sát tại địa phương;đồng thời cử đại biểu tham gia cùng các đoàn giám sát
của các cơ quan Quốc hội tại địa phương.Một số Uỷ ban đã quan tâm phối hợp tốt
với các Đoàn đại biểu Quốc hội,hoạt động giám sát có hiệu quả tích cực hơn,góp
phần cùng với địa phương tháo gỡ khó khăn,phát hiện và xử lý các vấn đề trong
nhiều lĩnh vực quan trọng;giúp địa phương thực hiện tốt chủ trương,chính sách và
nâng cao trách nhiệm của các địa phương….
Về hình thức giám sát,đã cố gắng kết hợp giữa việc giám sát t ại các kỳ họp
với các hoạt động giám sát trong thời gian giữa kỳ họp Quốc hội,giữa việc nghe
báo cáo với việc cử đoàn đi địa phương, cơ sở và làm việc với các Bộ,ngành,Tổng
công ty .
Theo kế hoạch của mình và theo sự chỉ đạo,điều hoà,phối hợp của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội,các đoàn giám sát đã được bố trí đi đến hầu khắp các địa
phương trong cả nước,đồng thời đặc biệt chú ý đến các vùng sâu,vùng xa,vùng
đặc biệt khó khăn .
Hiệu quả của hoạt động giám sát từng bước được nâng lên.Nhiều kiến nghị
qua giám sát đã được Chính phủ và các cơ quan hữu quan tiếp thu,giải quyết kịp
thời. Nhiều kiến nghị của Hội đồng dân tộc và nhiều Uỷ ban có ý nghĩa thiết
thực,được Chính phủ và các cơ quan hữu quan hoan nghênh.Thông qua hoạt động
giám sát,sự phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ quan chức năng
ngày càng tốt hơn,nhất là trong việc thảo luận,tìm biện pháp giải quyết các vấn đề
đặt ra.
Bên cạnh những kết quả tích cực,hoạt động giám sát vẫn còn là khâu
yếu,còn nhiều hạn chế,có nhiều hoạt động còn hình thức,sự đổi mới còn chậm và
hiệu quả chưa cao.Nội dung giám sát chưa bao quát hết các vấn đề cần thiết,nhất
là việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật,pháp lệnh và hoạt động của các
cơ quan tư pháp.Đặc biệt , một số vấn đề bức xúc như chống tham nhũng,quan
liêu,lãng phí, quản lý vốn và tài sản của Nhà nước,cải cách hành chính…được
nhân dân đặc biệt quan tâm và các Nghị quyết của Đảng nhiều lần đề cập nhưng
vẫn chưa được giám sát chặt chẽ,thường xuyên và hiệu quả còn thấp,trong đó,một
số vấn đề nổi cộm chưa được giám sát,phát hiện kịp thời.Phương thức giám sát
chưa có chuyển biến đáng kể, còn theo nếp cũ,có lúc còn né tránh những vấn đề
còn nổi cộm;sự tham gia hoạt động giám sát ngoài kỳ họp của Đoàn đại biểu và
đại biều Quốc hội còn ít;một số hoạt động giám sát còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan của Quốc hội.Nhiều kiến nghị còn chung chung;chưa thường
xuyên đôn đốc,yêu cầu báo cáo việc giải quyết kiến nghị qua giám sát.Ngay vấn
đề chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội là một hoạt động có hiệu
quả,được hoan nghênh,vẫn còn những hạn chế , vẫn còn những câu chất vấn và
trả lời chất vấn chưa đi thẳng vào vấn đề;một số nội dung tại các buổi trả lời chất
vấn chưa được thực hiện tốt…Việc sơ kết,tổng kết để rút kinh nghiệm về hoạt
động giám sát và cơ chế thực hiện kiến nghị sau giám sát chưa được xác định rõ
nên còn nhiều kiến nghị không được quan tâm giải quyết,dẫn đến hạn chế kết
quả,hiệu lực giám sát .
Sở dĩ còn có tình hình nói trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây :
- Việc xây dựng chương trình giám sát có chỗ chưa thật sự bám sát yêu cầu
thực tế của cuộc sống và các Nghị quyết của Quốc hội,nhất là Nghị quyết về
nhiệm vụ và ngân sách hàng năm;chưa tập trung vào những vấn đề nóng bỏng,cấp
bách về kinh tế-xã hội và các lĩnh vực khác
- Phương thức tổ chức giám sát còn nhiều lúng túng;nhiều lúc còn thiếu kết
hợp giưã các hình thức giám sát,thiếu phối hợp giữa các cơ quan của Quốc
hội;nhiều hoạt động còn dừng ở mức nghe báo cáo,nắm tình hình nên hiệu quả
chưacao.
- Chưa xây dựng và ban hành kịp thời luật pháp về hoạt động giám sát nên
chưa xác định rõ cơ chế,chế tài,trách nhiệm của các cơ quan bị giám sát,quyền
hạn của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám
sát,các yếu tố và điều kiện bảo đảm hiệu quả của hoạt động giám sát.Trong dịp
thảo luận về báo cáo công tác nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX,nhiều vị đại biểu Quốc
hội đề nghị sớm tổng kết,rút kinh nghiệm đầy đủ về công tác giám sát để trên cơ
sở đó,ban hành luật về hoạt động giám sát của Quốc hội,nhưng đến nay vẫn chưa
được thực hiện .
- Công tác chỉ đạo,điều hoà của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về phối hợp
công tác giám sát của Hội đồng dân tộc,các Uỷ ban của Quốc hội chưa sát sao nên
chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của các cơ quan Quốc hội,các Đoàn đại
biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội trong công tác giám sát .
- Chất lượng công tác giám sát còn nhiều hạn chế,chưa sâu , chưa phát hiện
và đề xuất giải quyết kịp thời nhiều vấn đề bức xúc , chủ yếu là do phương thức ,
do năng lực , trình độ , nể nang né tránh .
- Nhiều cơ quan Nhà nước chưa nghiêm túc thực thi pháp luật và cũng chưa
thực sự coi trọng hoạt động giám sát của Quốc hội,các cơ quan của Quốc hội;do
đó nhiều kiến nghị qua giám sát chưa được thật sự tập trung xem xét,giải quyết
nghiêm túc .
- Điều kiện đảm bảo cho hoạt động giám sát còn thiếu,đặc biệt là ở các
Đoàn đại biểu Quốc hội.Các cơ quan của Quốc hội , nhất là Hội đồng dân tộc và
các Uỷ ban của Quốc hội còn quá ít thành viên hoạt động chuyên trách nên chưa
đáp ứng đúng yêu cầu giám sát "
B . Về hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
"Hoạt động giám sát trong nhiệm kỳ qua đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội tập trung quan tâm chỉ đạo.Hàng năm,trong chương trình công tác của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội,lĩnh vực giám sát được thể hiện với những nội dung ,phương
thức và sự phân công cụ thể.Cùng với việc chỉ đạo xây dựng dự án luật về hoạt
động giám sát của Quốc hội,từ đầu năm 2000,Chủ tịch Quốc hội đã làm việc với
Thường trực Hội đồng dân tộc,các Uỷ ban của Quốc hội,Văn phòng Quốc hội và
các cơ quan hữu quan để đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động
giám sát .
Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ này là,bên cạnh việc giám sát trên diện
rộng nhiều lĩnh vực quan trọng như thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội , thi
hành pháp luật,giải quyết khiếu nại,tổ chức của công dân,hoạt động của Hội dồng
nhân dân và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
đã cố gắng đổi mới phương thức,lựa chọn , đi sâu giám sát một số chuyên đề và
đã thu được những kết quả tích cực.Việc theo dõi sát sao,cụ thể cùng với những
kiến nghị qua giám sát thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội , ngân sách Nhà
nước đã góp phần quan trọng vào việc khắc phục và vượt qua khó khăn,thử thách
của khủng hoảng những năm 1998-1999,bảo đảm cho nền kinh tế nước ta vẫn giữ
được ổn định và tiếp tục phát triển.Đồng thời,thông qua giám sát,những kết quả
thu được đã tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng xây dụng các dự án
luật,các Nghị quyết của Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng như việc
ban hành của các cơ quan hữu quan .
Về nội dung giám sát:Căn cứ nội dung chương trình đề ra,Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội đã tự mình,đồng thời giao Hội đồng dân tộc,các Uỷ ban của Quốc
hội thực hiện giám sát trên tất cả các lĩnh vực với những nội dung chủ yếu sau :
1. Việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế-xã hội và
ngân sách Nhà nước.
- Về kinh tế - ngân sách:Việc triển khai thực hiện các chương trình phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn,chuyển dịch cơ cấu kinh tế,sản xuất và tiêu
thụ,xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp ;Hoạt động của các doanh nghiệp,đặc biệt là
sắp xếp đổi mới hoạt động của khu vực doanh nghiệp Nhà nước,hoạt động của
hợp tác xã theo luật hợp tác xã;hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản,đầu tư nước
ngoài;vấn đề thu,chi, các biện pháp tăng thu,giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ
ngân sách Nhà nước; hoạt động của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng .
- Về dân tộc,miền núi:Việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã
hội ở các xã đặc biệt khó khăn(chương trình 135);chế độ tuyển cử và việc sử dụng
sinh viên sau khi tốt nghiệp,bảo vệ rừng và dự án trồng mới 5 triệu ha rừng;Vấn
đề di dân tự do,di dân tái định cư trong dự án nhà máy thuỷ điện;Một số tình hình
nổi lên ở một số vùng dân tộc Tây Nguyên và Miền Bắc .
- Các vấn đề xã hội:Vấn đề lao động và việc làm,bảo hiểm xã hội;Chính
sách đối với người có công,người bị chất độc màu da cam;Vấn đề khám,chữa
bệnh,dân số;Việc thực hiện các chính sách tôn giáo;Việc khắc phục hậu quả thiên
tai;Đấu tranh,phòng chống các tệ nạn xã hội .
- Về văn hoá- giáo dục:Quản lý các hoạt động văn hoá,thông tin,bảo tồn di
sản văn hoá,đời sống văn hoá ở cơ sở;Tình hình triển khai cuộc vận động"toàn
dân xây dụng nếp sống văn hoá";Về việc thực hiện luật giáo dục,việc đổi mới
chương trình,sách giáo khoa tiểu học và trung học cơ sở,kết quả phổ cập giáo dục
tiểu học và triển khai chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở;công tác huy
động thanh niên tham gia xây dựng kinh tế-xã hội;phong trào thể dục thể thao
quần chúng và các biện pháp xây dựng đội ngũ vận động viên,huấn luyện viên
cấp cao;công tác chuẩn bị cho SEAGAME S lần thứ 22 tổ chức tại Việt Nam .
- Về khoa học,công nghệ,môi trường:Việc ứng dụng tiến bộ khoa học,công
nghệ trong sản xuất;Đổi mới quản lý Nhà nước về khoa học,công nghệ theo luật
khoa học,công nghệ;Vấn đề xử lý chất thải,bảo vệ môi trường;Việc triển khai các
công trình quan trọng quốc gia và khảo sát dự án xây dựng nhà máy thuỷ điện
Sơn La,dự án đường Hồ Chí Minh .
- Về quốc phòng,an ninh:Vấn đề phát triển kinh tế-xã hội gắn với quốc
phòng, an ninh nhất là vùng biên giới,biển đảo;Nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quốc
phòng,an ninh,xây dựng thế trận quốc phòng gắn với an ninh.Công tác đào tạo
trong các Học viện quốc phòng,công an;Tình hình an ninh,chính trị,trật tự,an toàn
xã hội ở một số điểm nóng như Tây Nguyên,Sơn La,Lai Châu;Việc đảm bảo quốc
phòng,an ninh khi thực hiện xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La .
- Về đối ngoại:Việc thực hiện Pháp lệnh về các cơ quan đại diện của Việt
Nam tại nước ngoài;vấn đề an ninh và kinh tế biên giới liên quan đến đối
ngoại,hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài;Tình hình hoạt
động và việc quản lý các nguồn vốn vayODA và nguồn viện trợ của các tổ chức
phi chính phủ (NGOS )tại Việt Nam;công tác đối ngoại địa phương .
2 . Về thi hành pháp luật
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quan tâm hơn đến mảng giám sát thi hành
Hiến pháp,luật,pháp lệnh,góp phần nâng cao ý thức tôn trọng và thực hiện pháp
luật nghiêm túc,làm cho pháp luật đi vào cuộc sống,phát huy vai trò của pháp luật
trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội . Hoạt động giám sát thi hành pháp luật
tập trung vào tổ chức thực hiện các luật,pháp lệnh mới ban hành,việc ban hành
văn bản hướng dẫn thi hành luật,Pháp lệnh và khảo sát , giám sát những luật,
Pháp lệnh phục vụ cho việc sửa đổi,bổ sung;cụ thể là:Về tình hình thực hiện các
Luật thuế mới,Luật doanh nghiệp,Luật khiếu nại tố cáo,Bộ luật lao động,Luật đất
đai, Luật ngân sách nhà nước,Luật Hợp tác xã và các luật về tổ chức bộ máy nhà
nước…Về hoạt động của các cơ quan tư pháp;Công tác điều tra,truy tố,xét xử,thi
hành án hình sự ;giải quyết các vụ án dân sự , kinh tế , lao động ; Việc giải quyết
một số các vụ án phức tạp …
3 .Giám sát việc giải quyết khiếu nại,tố cáo của dân .
Trước diễn biến phức tạp trong những năm qua,việc xem xét giải quyết khiếu
nại , tố cáo của công dân được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm . Công tác tiếp
dân , giải quyết khiếu nại , tố cáo của công dân được tổ chức thực hiện nghiêm túc
hơn,nhất là từ khi ban hành luật khiếu nại , tố cáo .Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
dành sự quan tâm đáng kể cho công tác này,đã phân công một Phó Chủ tịch Quốc
hội theo dõi,chỉ đạo và một Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trực tiếp phụ
trách công tác tiếp dân và giám sát giải quyết khiếu nại,tố cáo;Thông qua Nghị
quyết số 228/ NQ-UBTVQH 10 về hướng dẫn đại biểu Quốc hội tiếp công dân; tiếp
nhận,chuyển đơn,theo dõi,đôn đốc giải quyết khiếu nại,tố cáo và kiến nghị của công
dân;chỉ đạo,phân công Hội đồng dân tộc,các Uỷ ban phối hợp xử lý đơn thư thuộc
lĩnh vực phụ trách;tổ chức các đoàn giám sát tại nhiều địa phương trong cả nước
…Đối với một số vụ khiếu nại gay gắt , kéo dài liên quan đến hoạt động của các cơ
quan tư pháp , Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã làm việc trực tiếp với các cơ quan
hữu quan để bàn biện pháp giải quyết dứt điểm. Sơ kết bước đầu thực hiện Nghị
quyết 228 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho thấy, hoạt động tiếp dân và theo dõi
giải quyết khiếu nại , tố cáo của các đại biểu và Đoàn đại biểu Quốc hội đã có sự
chuyển biến , tạo niềm tin đối với cử tri và nhân dân, góp phần làm giảm bớt khiếu
kiện ở một số địa phương . Nhìn chung,công tác tiếp dân và giám sát giải quyết
khiếu nại,tố cáo của công dân đã đạt được những kết quả nhất định và dần đi vào nề
nếp.Tuy nhiên,công tác này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu,đòi hỏi của tình hình
thực tế . Số lượng người đi khiếu kiện và đơn thư gửi đến các đồng chí lãnh đạo
Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội vẫn ngày càng tăng , một số khiếu nại có nội
dung phức tạp , nhiều khiếu nại gay gắt kếo dài nhưng chưa được giải quyết dứt
điểm . Hiệu quả hoạt động giám sát trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế .
4. Giám sát việc thực hiện các Quy chế dân chủ cơ sở :
Thực hiện Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị,năm 1998,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
đã thông qua các Quy chế về thực hiện dân chủ ở phường,xã,thị trấn,trong cơ quan
Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước . Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị ,Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đã phân công một Phó Chủ tịch Quốc hội phụ trách công tác
giám sát tình hình thực hiện các quy chế và thường xuyên tổ chức giám sát , báo
cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Ban chỉ đạo Trung ương về tình hình thực hiện
dân chủ ở cơ sở . Các đoàn công tác đã đi sâu nghiên cứu,khảo sát,giám sát tại
nhiều địa phương,cơ quan , đơn vị;Đã rút ra nhiều kiến nghị đóng góp với Chính
phủ và các cơ quan chức năng để kịp thời điều chỉnh , chỉ đạo việc thực hiện;Đóng
góp nhiều ý kiến với Ban chỉ đạo của Trung ương trong dịp sơ kết 3 năm thực hiện
các Quy chế dân chủ .
5. Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân .
Theo nhiệm vụ,quyền hạn được quy định,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
thường xuyên nghe báo cáo tổng hợp về tình hình tổ chức,hoạt động của Hội đồng
nhân dân, phân công các thành vên trong Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tham dự kỳ
họp và giám sát hoạt động của Hội đồng nhân dân,trong đó có nội dung quan trọng
là giám sát cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 1999 - 2004:kiểm
tra,chỉ đạo các địa phương mới chia tách trong việc tổ chức và hoạt động.Trong
nhiệm kỳ qua,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành hơn 60 văn bản hướng dẫn
Hội đồng nhân dân các cấp về các nội dung như tổ chức bầu cử,hoạt động nói
chung và tổ chức kỳ họp nói riêng,về nhiệm vụ,quyền hạn của đại biểu Hội đồng
nhân dân và các vấn đề nảy sinh khác.Theo sự chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội,Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội đã có nhiều hình thức thích hợp
đề xây dựng quan hệ công tác,trao đổi kinh nghiệm với Hội đồng nhân dân,nhất là
trong hoạt động giám sát nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan dân cử
.Thông qua hoạt động giám sát và các cuộc Hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân
dân,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cùng với Chính phủ và các cơ quan hữu quan đã
tham gia đóng góp ý kiến về chủ trương,quan điểm tổ chức Hội đồng nhân dân,xây
dựng dự án sửa đổi Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân . Nhìn
chung tuy còn có những hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu,nhưng trong những
năm qua,hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp đã từng bước được đổi mới,chất
lượng,hiệu quả được nâng lên .
Về phương thức thực hiện giám sát:Đã cố gắng từng bước đổi mới phương
thức thực hiện,kết hợp nghe báo cáo với cử đoàn đi giám sát trực tiếp tại địa
phương,cơ quan,đơn vị. Việc tổ chức các đoàn giám sát đã hợp lý hơn,vừa có sự
tham gia của các cơ quan chức năng,vừa tránh cồng kềnh,bảo đảm có chất lượng
hiệu quả.Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã cố gắng cải tiến trong việc chỉ đạo,điều
hoà,phối hợp hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
nhằm đạt yêu cầu đồng bộ về nội dung và địa bàn,hạn chế chồng chéo.Đã chú ý
việc cải tiến theo dõi, đôn đốc việc xử lý những kiến nghị qua hoạt động giám
sát,góp phần cùng các cơ quan chức năng xem xét giải quyết có hiệu quả.Việc tổng
hợp hoạt động giám sát hàng quý đã được đề ra và thực hiện…
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ và đạt được những kết quả tốt đẹp,nhưng hoạt
động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng còn một số hạn chế như :
- Hoạt động giám sát vẫn còn dàn trải về nội dung,chậm đổi mới về phương thức
tiến hành,chưa xây dựng được chương trình khả thi và tổ chức thực hiện nghiêm
túc;chưa chỉ đạo công tác tham mưu,phục vụ thực hiện tốt nhiệm vụ ;
- Việc chỉ đạo,điều hoà,phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban
của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát chưa thực hiện tốt;chưa phân định rõ phạm vi
nội dung giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội với Hội đồng dân tộc và các Uỷ
ban của Quốc hội ;
- Chưa thực hiện tốt vai trò chuẩn bị và giúp Quốc hội tăng cường,nâng cao chất
lượng,hiệu quả hoạt động giám sát.Chưa kịp thời sơ kết,tổng kết để rút kinh nghiệm
và tìm biện pháp khắc phục hữu hiệu,còn để cho những yếu kém trong hoạt động
giám sát kéo dài,ảnh hưởng đến chất lượng,hiệu quả hoạt động chung của Quốc
hội;Việc xây dựng và ban hành luật về hoạt động giám sát còn chậm " .
C . Về hoạt động giám sát của Uỷ ban pháp luật .
I . " Về tình hình thực hiện công tác giám sát .
Mặc dù công tác xây dựng pháp luật chiếm phần lớn thời gian,song Uỷ ban pháp
luật cũng đã cố gắng thực hiện công tác giám sát của mình theo quy định của pháp
luật . Trong nhiệm kỳ vừa qua,Uỷ ban đã tổ chức các hoạt động giám sát sau đây :
- Tổ chức các phiên họp toàn thể,phiên họp thường trực Uỷ ban mở rộng hoặc
họp thường trực để thẩm tra 18 báo cáo công tác hàng năm, của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao,Chánh án Toà án nhân dân tối cao và báo cáo của Chính
phủ về công tác quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và công tác thi
hành án ;
- Tổ chức các Đoàn giám sát do đồng chí Chủ nhiệm hoặc Phó chủ nhiệm Uỷ ban
làm Trưởng Đoàn để tiến hành khảo sát,giám sát việc triển khai thực hiện một số
luật, pháp lệnh như Luật đất đai,Luật tổ chức Toà án nhân dân,Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân,Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân,Luật bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân, v…v tại một số địa phương ;
- Tổ chức một số Đoàn của Uỷ ban và tham gia Đoàn của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đi giám sát hoạt động của Toà án nhân dân,Viện kiểm sát nhân dân,cơ
quan Công an trong việc bắt,giam,giữ,xét xử và thi hành án phạt tù tại một số địa
phương ;
- Thực hiện nhiệm vụ giám sát việc ban hành Nghị quyết,nghị định của Chính phủ,
quyết định,chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ,các văn bản của Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,Uỷ ban đã yêu cầu các cơ quan,tổ chức hữu
quan báo cáo tình hình ban hành các văn bản hướng dẫn và quy định các chi tiết thi
hành luật, pháp lệnh từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khoá X đến nay;trên cơ sở đó nắm
tình hình ban hành văn bản dưới luật,pháp lệnh .
Từ năm 1999 đến năm 2001,thực hiện kết luận số 168 và 169 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội về việc giải quyết và phân công việc giải quyết các đơn thư
khiếu nại,tố cáo của công dân về lĩnh vực tư pháp gửi tới Quốc hội,các cơ quan của
Quốc hội,Uỷ ban pháp luật đã tiếp nhận và xử lý 13478 đơn thư khiếu nại,tố cáo về
10.577 vụ việc, trong số đó có :
- 4103 vụ việc thuộc lĩnh vực hình sự ( chiếm 37,56% ) ;
- 4773 vụ việc thuộc lĩnh vực dân sự ( chiếm 44,1% );
- 456 vụ việc thuộc lĩnh vực hành chính,kinh tế,lao động (chiếm 4,74% );
- 398 vụ việc thuộc lĩnh vực thi hành án ( chiếm 3,87% );
- 373 vụ việc thuộc lĩnh vực xâm phạm hoạt động tư pháp (chiếm 0,6% );
- Còn lại là khiếu nại về các vụ việc khác ( chiếm tỉ lệ 5,39% ).
Uỷ ban pháp luật đã tổ chức các đoàn giám sát và tham gia Đoàn giám sát của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đối với một số vụ án cụ thể .
Năm 1999 :Tiến hành 6 cuộc giám sát gồm:5 vụ án về lĩnh vực dân sự,1vụ án
thuộc lĩnh vực hình sự ;
Năm 2000 :Tiến hành 5 cuộc giám sát gồm:2 vụ án thuộc lĩnh vực hình
sự,1vụ án thuộc lĩnh vực kinh tế,1 vụ án thuộc lĩnh vực lao động,1 vụ án thuộc lĩnh
vực dân sự ;
Năm 2001:Tiến hành 3 cuộc giám sát gồm :1 vụ án thuộc lĩnh vực thi hành
án,2 vụ án thuộc lĩnh vực dân sự
II . Đánh giá về công tác giám sát
1. Kết quả đạt được
Ngay từ đầu nhiệm kỳ,Uỷ ban pháp luật đã xác định rõ trách nhiệm đối với
công tác giám sát,coi đây là một trong những nhiệm vụ chính của Uỷ ban.Do đó tuy
chưa đáp ứng được yêu cầu,nhưng Uỷ ban cũng đã thực hiện nhiều cuộc giám sát
có kết quả đáng ghi nhận.Nhiều đồng chí trong Uỷ ban đã cố gắng bố trí thời gian
tham gia vào hoạt động này.Thông qua hoạt động giám sát,Uỷ ban pháp luật có
thêm những căn cứ thực tiễn phục vụ cho việc xem xét,thẩm tra các dự án luật,pháp
lệnh,nhất là việc thẩm tra các báo cáo của Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát
nhân dân tối cao,báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án và quản lý Toà án
nhân dân địa phương về mặt tổ chức;đồng thời kiến nghị với Quốc hội,Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội những vấn đề cần tập trung giám sát .
Điều đáng quan tâm là thông qua các cuộc giám sát đối với những vụ án cụ
thể,Uỷ ban pháp luật đã phát hiện kịp thời để kiến nghị với Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội và các cơ quan hữu quan ban hành mới hoặc sửa đổi,bổ sung một số quy
định quan trọng và cấp thiết liên quan đến hoạt động tố tụng như :Quy định về công
tác giám định pháp y;về thời hiệu kháng nghị đối với các vụ tranh chấp về dân
sự,kinh tế;về trình tự,thủ tục cưỡng chế thi hành án,quyết định của Toà án về các
loại tranh chấp này.Thông qua việc thẩm tra báo cáo hoạt động của Toà án nhân
dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Uỷ ban pháp luật cũng đã có nhiều kiến
nghị để các cơ quan này chấn chỉnh kịp thời và khắc phục có hiệu quả tình trạng
oan,sai trong việc bắt,giam,giữ,khám xét . Trên thực tế,về các lĩnh vực này trong
những năm qua đã có nhiều tiến bộ rõ rệt đáng được hoan nghênh .
Uỷ ban pháp luật cũng đã kiến nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện công tác nghiên cứu về tình hình tội phạm,vi phạm pháp luật và có các giải
pháp quản lý công tác tốt hơn để báo cáo thống nhất và chính xác vơí Quốc hội về
tình hình này, nhằm thúc đẩy cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các
vi phạm pháp luật.Mặt khác,qua hoạt động,Uỷ ban pháp luật đã có những kiến nghị
với cơ quan tiến hành tố tụng những biện pháp nhằm bảo đảm việc điều tra,truy
tố,xét xử đúng người, đúng tội,đúng pháp luật,không bỏ lọt tội phạm,không làm oan
người vô tội;bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,bảo vệ tài sản Nhà nước,quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân .
Việc tổ chức các đoàn giám sát của Uỷ ban hoặc theo ý kiến của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan Công an,Viện kiểm sát,Toà
án,Cơ quan thi hành án trong nhiệm kỳ vừa qua tuy không nhiều,nhưng đã đạt được
những kết quả tích cực.Trong quá trình giám sát đối với một số vụ án,trên cơ sở
nghiên cứu hồ sơ, xem xét tại chỗ các tài liệu và những tình tiết liên quan đến vụ
án,Uỷ ban đã có những đánh giá đúng đắn,toàn diện,đồng thời đề xuất,kiến nghị
được những giải pháp hữu hiệu,góp phần bảo đảm để hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng tuân thủ theo quy định của pháp luật,được các cơ quan hữu quan
thừa nhận và đồng tình ủng hộ, được quần chúng nhân dân hoan nghênh .
2. Một số tồn tại , nguyên nhân và bài học kinh nghiệm
- Mặc dù đã có nhiều cố gắng,song nhìn chung công tác giám sát của Uỷ ban
pháp luật vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu do có những khó khăn khách quan và
chủ quan. Việc thực hiện công tác giám sát đối với hoạt động xét xử của Toà án
nhân dân tối cao và hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao chưa
làm được nhiều và chưa bao quát hết các lĩnh vực,các giai đoạn tố tụng ;
- Chưa thu hút được nhiều thành viên Uỷ ban đang công tác tại các cơ quan ở
Trung ương và địa phương tham gia hoạt động giám sát;việc đôn đốc các cơ
quan,tổ chức hữu quan thực hiện những kiến nghị của Đoàn giám sát chưa thường
xuyên ;
Công tác giám sát việc ban hành văn bản dưới luật còn yếu ;
- Công tác nghiên cứu,phân loại,xử lý đơn thư để giám sát hoặc chuyển đến các cơ
quan hữu quan,đôn đốc và theo dõi việc giải quyết các đơn thư đó còn nhiều hạn
chế và chưa tìm ra được giải pháp hữu hiệu cho công tác này.Trong nhiều trường
hợp mới chỉ dừng lại ở việc chuyển đơn đến các cơ quan có thẩm quyền xem xét
mà chưa thường xuyên đôn đốc,yêu cầu thông báo kết quả .
- Những thiếu sót,khuyết điểm và hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân,có
nguyên nhân về mặt tổ chức của Uỷ ban,nhưng chủ yếu là do quy định của pháp
luật về giám sát vẫn chưa cụ thể,nhất là về phương thức,cơ chế,nội dung giám sát
và hậu quả pháp lý của cuộc giám sát để làm căn cứ pháp luật cho Uỷ ban hoạt
động giám sát có kết quả và hiệu quả hơn”.
D. Hoạt động giám sát của Uỷ ban Đối ngoại
“ Trong nhiệm kỳ X , song song với việc giám sát công tác Đối ngoại nói chung, theo sự
phân công của Chủ tịch Quốc hội Uỷ ban Đối ngoại đã tiến hành giám sát các hoạt động
trên lĩnh vực kinh tế Đối ngoại ,nhất là việc sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA và
NGO.Các đợt giám sát trong thời gian qua tập trung vào những nội dung sau đây :
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) đầu năm 1998 ;
- An ninh biên giới có liên quan tới Đối ngoại và kinh tế Đối ngoại biên
giới,năm 1998 và 1999;
- Hiệu quả thu hút và sử dụng viện trợ phát triển chính thức ( ODA ) , năm 1999 ;
Công tác Đối ngoại địa phương và công tác quản lý,sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước
ngoài NGO,năm 2000 và năm 2001 ;
- Việc thực hiện pháp lệnh về cơ quan đại diện ngoại giao của CHXHCN Việt
Nam ở nước ngoài .
1. Về hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực
này là cơ sở pháp lý quan trọng,góp phần khuyến khích các nhà đầu tư làm ăn lâu dài tại
Việt Nam.Trong hoàn cảnh kinh tế khu vực đang phải đương đầu với những khó khăn ,
những biện pháp mới đây của Nhà nước ta nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư đã
được dư luận và doanh nhân nước ngoài đánh giá cao .
Tuy nhiên,tại các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hoạt động kinh tế Đối
ngoại còn những điều thiếu ổn định,một số văn bản dưới luật được ban hành quá
chậm và nhiều chỗ chồng chéo,thậm chí mâu thuẫn nhau,có những nơi còn giải
thích luật một cách tuỳ tiện.Sự thiếu cụ thể của luật và có nhiều cách diễn giải đã
dẫn đến sự thi hành thiếu thống nhất một số điêù khoản giữa các ngành,giữa các
địa phương,tạo khe hở tiêu cực .
Công tác quản lý đầu tư với nước ngoài,thuế nhập khẩu,giá nguyên vật liệu,trang thiết
bị,giá chuyển giao công nghệ,giá hàng xuất,kê khai chi phí và khấu hao tài sản cố định còn
nhiều sơ hở,gây thất thu ngân sách cho Nhà nước làm thiệt thòi cho bên Việt Nam trong
liên doanh .
2. Về an ninh biên giới có liên quan tới Đối ngoại và hoạt động kinh tế Đối
ngoại biên giới
Hoạt động kinh tế Đối ngoại biên giới đã góp phần tăng trưởng kinh tế của một số địa
phương,tạo việc làm cho một bộ phận dân cư và phát triển sản xuất.Mặt khác những hiện
tượng tiêu cực cũng gia tăng như buôn lậu,tình trạng phạm tội và các tệ nạn xã hội
khác,ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội,đời sống tinh thần của nhân dân.Các tỉnh biên
giới,tuy còn đương đầu với nhiều khó khăn,đã nỗ lực huy động và tổ chức nhân dân và các
lực lượng hữu quan bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia, phát triển sản xuất và thúc đẩy
quan hệ hữu nghị với các tỉnh của nước bạn có chung đường biên giới.Nhà nước đã ban
hành một số chính sách hỗ trợ,giúp đỡ các tỉnh biên giới
Để giữ vững an ninh biên giới,một trong các biện pháp quan trọng hiện nay
là đưa dân ra sinh sống và làm ăn lâu dài tại khu vực này.Nhà nước cần có chính
sách hỗ trợ đặc biệt như xây dựng cơ sở hạ tầng,y tế,trường học,tạo cuộc sống ổn
định cho nhân dân.Các tỉnh biên giới cần tận dụng sự phát triển về thương mại và
dịch vụ ở khu kinh tế biên giới để thúc đẩy sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hợp lý,đổi mới và nâng cao công nghệ,đảm bảo kinh tế của tỉnh phát triển bền
vững .
Trong đợt giám sát lần thứ 2 ở các địa phương có biên giới với Lào và Cam
Pu Chia . Đoàn có một số ý kiến sau(đã gửi cho các cơ quan hữu quan)
- Việc buôn lậu,đặc biệt là buôn lậu ma tuý,thuốc lá,xe máy,đường mía,việc gian
lận thương mại qua biên giới vẫn còn là một vấn đề hết sức nóng bỏng mặc dù
Chính phủ đã triển khai rất tích cực chỉ thị 853 về chống buôn lậu và cho dán tem
một số mặt hàng thường bị nhập lậu .
- Đoàn giám sát thấy cần có một chính sách biên mậu tích cực và chủ động nhằm góp
phần ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc vùng biên giới và thể hiện
mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam–Lào, mối quan hệ láng giềng tốt Việt Nam–Cam Pu
Chia , qua đó củng cố an ninh biên giới,đồng thời tiếp tục tìm những nguyên nhân sâu xa
hơn để có thêm những biện pháp trên cả hai mặt chống và xây tại biên giới và trong nội
địa
- Đặc biệt trong báo cáo về giám sát năm 1999,Uỷ ban Đối ngoại đã nêu kiến
nghị về việc nâng cao công tác quản lý những nhân viên của các cơ quan đại diện
ngoại giao kể cả tuỳ viên quân sự và những chuyên gia nước ngoài đến Tây
Nguyên.Sự kiện Tây Nguyên vừa qua cho thấy rằng cần có cơ chế và quy định rõ
ràng về trách nhiệm của các cơ quan mà trước hết là cơ quan hành pháp ở TƯ và
địa phương trong việc thực hiện yêu cầu,kiến nghị của đại biểu Quốc hội .
3. Về thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA)
Trong đợt giám sát năm 1999,Uỷ ban Đối ngoại đã nghe báo cáo của các Bộ, ngành
và tiến hành giám sát tại Thủ đô Hà Nội,TP.Hồ Chí Minh,các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ
An,Quảng Bình,Cần Thơ,Vĩnh Long,Khánh Hoà,Phú Yên,Bình Thuận và Ninh
Thuận(tháng 9 – 10 / 1999)
Trọng tâm đợt giám sát là xem xét tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn
ODA, những kết quả đạt được,những yếu tố hạn chế cần tháo gỡ để phát huy hiệu
quả sử dụng nguồn vốn này trong thời gian tới.Một số nội dung đáng chú ý rút ra
qua đợt giám sát như sau :
- Nguồn vốn ODA cam kết từ năm 1993 đến tháng 6/1999 là 13,04 tỷ USD,ta đã ký kết
được Hiệp định vay với tổng giá trị 9,2 tỷ USD.Trong cơ cấu sử dụng nguồn vốn ngành
điện chiếm 29,3%;giao thông vận tải chiếm 27,4%;nông lâm thuỷ sản 13%;tín dụng và
điều chỉnh cơ cấu 16%;y tế,giáo dục,xã hội 11%;cấp thoát nước 7%
Tuy nhiên việc quản lý Nhà nước về ODA đòi hỏi sớm giải quyết một số vấn
đề như sự thống nhất quản lý nguồn vốn ODA,cung cấp thông tin đầy đủ để các
Bộ, ngành và các địa phương qua mạng máy tính của Văn phòng Chính phủ .
Tốc độ giải ngân còn chậm do các bước thực hiện dự án còn nặng nề,mất nhều
thời gian ở mỗi khâu về phía ta,đặc biệt là khâu thẩm định,do vốn đối ứng thiếu
và không kịp thời;do chính sách đền bù,giải toả và tái định cư luôn thay đổi và
không thống nhất .
Vốn ODA khi đã ký thành Hiệp định cũng là một nguồn vốn mà Nhà nước
phải cân đối vốn đối ứng và kế hoạch trả lãi từ ngân sách Nhà nước.Việc phân
bổ,quản lý và sử dụng cần tuân theo quy định của luật ngân sách và cần có ý kiến
của Quốc hội. Đã đến lúc xem xét việc ban hành luật hoặc pháp lệnh về ODA để
công tác thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA mà hơn 80% là vốn vay từ bên
ngoài được tốt hơn nữa .
4 . Về công tác Đối ngoại địa phương và viện trợ phi Chính phủ ( NGO )nước
ngoài
Đoàn giám sát của Uỷ ban Đối ngoại đã tiến hành nhiều đợt giám sát về nội
dung trên tại các địa phương Lào Cai,Nghệ An,Hà Nội,Ninh Thuận,Lâm
Đồng,Đắc Lắc,Kon –tum,Gia Lai,Cần Thơ,Sóc Trăng,Cà Mau,Trà Vinh và Bến
Tre.Những kiến nghị sau đợt giám sát này đã được gửi tới Chính phủ và các cơ
quan hữu trách.Chính phủ cũng đã điều chỉnh một số văn bản pháp quy có liên
quan đến lĩnh vực quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA,GNO và vấn đề trồng cây
thảo quả ở Lào Cai trên cơ sở xem xét và tiếp thu các kiến nghị trực tiếp của đoàn
giám sát .
4 . 1 . Công tác Đối ngoại địa phương
Các địa phương thực hiện tốt đường lối,quan điểm và chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta,đảm bảo tốt các chức năng quản lý hành chính Đối ngoại và
lễ tân Đối ngoại,chưa có sai sót đáng kể.Tuy nhiên,hầu hết các cơ quan tham mưu
Đối ngoại ở địa phương còn nặng về sự vụ và do đó chưa giúp được lãnh đạo tỉnh
Uỷ và Uỷ ban về chính trị Đối ngoại,thu thập và xử lý thông tin Đối ngoại cũng
như chủ động xúc tiến quan hệ quốc tế .
Về mô hình tổ chức,Uỷ ban Đối ngoại đã kiến nghị các cơ quan của Chính
phủ tổng kết kinh nghiệm xây dựng bộ phận tham mưu Đối ngoại cho lãnh đạo địa
phương để đáp ứng được nhiệm vụ chính trrị Đối ngoại cũng như phát triển kinh
tế của tỉnh . Đồng thời,cần có sự phối hợp giữa Trung Ương và địa phương, tăng
cường công tác thông tin và đào tạo cán bộ đối ngoại ở địa phương .
4. 2 . Về hoạt động của tổ chức phi Chính phủ ( NGO )
Theo thống kê của Liên hiệp các tổ chức hoà bình hữu nghị,hiện nay tại nước ta có
khoảng 500 tổ chức phi Chính phủ đang hoạt động với khoảng 200 Văn phòng đại
diện,với tổng số vốn đầu tư khoảng 50–70 triệu USD.Nguồn đầu tư này tuy nhỏ so với
ODA,nhưng hoạt động khá hiệu quả,nếu tính đến tác động trực tiếp tới đối tượng hưởng
lợi ở cơ sở và cách làm sát dân,sát thực tiễn,sát nhu cầu.Các dự án do các tổ chức phi
Chính phủ giúp hoặc các Chính phủ nước ngoài giúp thông qua con đường phi Chính phủ
đã có tác dụng ở hầu hết địa phương trong toàn quốc,hỗ trợ các chương trình kinh tế
hơn(bản tin,tạp chí,sách chuyên đề,chương trìnhVTV4),Tuy nhiên,công tác này nhìn
chung chưa đáp ứng yêu cầu.Nguyên nhân chủ yếu là chưa quan tâm đúng mức về cơ sở
vật chất,ngân sách và cán bộ thiếu cơ chế phối hợp trong và ngoài nước trên lĩnh vực này
- Hiện nay , một số lượng đáng kể người Việt Nam đang cư trú bất hợp pháp ở nước sở
tại,nên việc bảo hộ quyền lợi của họ gặp nhiều khó khăn.Trong thời gian tới ta cần tiếp tục
đàm phán để cải thiện tình trạng này,một mặt nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của công
dân Việt Nam ở nước ngoài,mặt khác để khai thông những vướng mắc trong quan hệ song
phương về kiểu dân,cũng như ngăn chặn ảnh hưởng xấu của mọt số phần tử phản động và
tội phạm .
Các Đoàn đại biểu Quốc hội ta cũng đã kiến nghị Chính phủ tạo điều kiện
thuận lợi cần thiết về phương tiện kỹ thuật,bảo hiểm y tế cho cán bộ ngoại
giao,thương vụ hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại .”
E. Hoạt động giám sát của Uỷ ban Quốc phòng và An ninh
“ Uỷ ban Quốc phòng và An ninh đã tổ chức 33 Đoàn công tác của Uỷ ban đến
làm việc với 55 lượt tỉnh,thành phố trực thuộc TƯ về thực hiện luật,pháp
lệnh,nhiệm vụ QPAN của địa phương.Tổ chức trên 60 cuộc họp làm việc với Bộ
Quốc phòng,Bộ Công an và một số Bộ,ngành hữu quan về thực hiện nhiệm vụ
QPAN,việc thực hiện nhiệm vụ ngân sách trong lĩnh vực này;về an
ninh,TTATXH,an toàn giao thông…; về diễn biến âm mưu hoạt động của các thế
lực thù địch và đối sách của ta trong tình hình mới.Đã tổ chức đi sâu nghiên cứu
05 chuyên đề về:công tác nhà trường quân đội,công an,quản lý trại giam,trại tạm
giam;tăng cường quản lý Nhà nước về an ninh biên giới,biển đảo;quản lý Nhà
nước về TTATGT;và về tình hình an ninh chính trị một số địa bàn tại các khu
vực Tây Nguyên,Tây Bắc,Tây Nam Bộ.Trong 05 chuyên đề trên có 02 chuyên
đề:công tác nhà trường quân đội,công an và tăng cường quản lý Nhà nước về an
ninh biên giới,biển đảo đã tổ chức hội nghị,hội thảo quy mô toàn quốc.Ngoài ra
giữa năm 1998,Uỷ ban đã tổ chức hội nghị chuyên đề về tình hình an ninh chính
trị,TTATXH ở nông thôn đây là chủ đề tiếp theo công việc đang nghiên cứu của
UBQPAN nhiệm kỳ Quốc hội khoá IX,khái quát kết quả từng chuyên đề là:
+ Chuyên đề tăng cường quản lý Nhà nước về an ninh biên giới , biển đảo
Xét thấy tình hình an ninh biên giới,biển đảo thường xuyên có diễn biến phức
tạp và cũng để phục vụ thẩm tra luật biên giới quốc gia,ngay từ đầu khoá họp
Quốc hội , Uỷ ban đã xác định đây là một chủ đề cần tập trung đi sâu,nghiên
cứu.Đã tổ chức 14 đoàn công tác đến nghiên cứu tại 22 tỉnh biên giới,biển đảo
trong cả nước,làm việc với BQP,BCA,và Ban biên giới Chính phủ về đánh giá
tình hình,đề xuất kiến nghị với Đảng,Nhà nước những giải pháp nhằm tăng cường
quản lý Nhà nước,giữ vững an ninh biên giới,biển đảo.Sau đó,(tháng 8/ 2000)Uỷ
ban đã tổ chức hội nghị toàn quốc về chuyên đề này,21 báo cáo tham luận đã
được trình bày tại hội nghị,tập trung nêu bật diễn biến tình hình,đề xuất giải pháp
và kiến nghị.Những kiến nghị tập trung là: sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về
biên giới,biển đảo…bổ sung,sửa đổi các văn bản dưới luật cho phù hợp thực
tế;sớm có quy hoạch và chiến lược cụ thể tổng thể xây dựng và củng cố khu vực
biên giới,kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố Quốc phòng ,an
ninh..; xây dựng địa bàn trong sạch,cơ sở chính trị vững mạnh.Coi trọng đào tạo
cán bộ người dân tộc,đầu tư nâng cấp các trường dân tộc nội trú;sớm xác định các
cơ quan giúp Chính phủ chủ trì quản lý Nhà nước về biên giới,đồng thời xác định
rõ nhiệm vụ ,quyền hạn của các Bộ,ngành TƯ và địa phương trong quản lý Nhà
nước về biên giới,biển đảo và một số kiến nghị khác .
Những đề xuất kiến nghị tại hội nghị chuyên đề tăng cường quản lý Nhà nước
về an ninh biên giới,biển đảo đã được Chính phủ chỉ đạo các Bộ,ngành nghiên
cứu. Nhiều đề án đã được triển khai thực hiện trên biên giới,hải đảo nhất là các
công trình hạ tầng cơ sở(điện,đường,trường,trạm...)kè mũi Tràng Vĩ.Hệ thống đồn
biên phòng được xây dựng khang trang,cuộc sống đồng bào dân tộc có bước cải
thiện…Đến nay, những kiến nghị nói trên vẫn còn nguyên giá trị,nhất là qua diễn
biến phức tạp trên địa bàn Tây Nguyên,Tây Bắc,Tây Nam vừa qua .
+ Chuyên đề công tác nhà trường quân đội,công an
Trước yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang đáp ứng hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới–thời kỳ CNH–HĐH đất nước,mà
nòng cốt là đội ngũ cán bộ–sĩ quan quân đội,công an,năm 1999 Uỷ ban đã đi sâu
nghiên cứu,khảo sát 4 học viện,17 trường của hệ thống nhà trường quân đội,công
an trong phạm vi toàn quốc,sau đó tổ chức hội nghị chuyên đề,tập trung đánh giá
trên các mặt:hệ thống tổ chức nhà trường,quy trình đào tạo đội ngũ giáo viên,cơ
sở vật chất,trang thiết bị dạy và học,công tác tuyển sinh và đề xuất,kiến
nghị.Trong phần kiến nghị đã tập trung 4 điểm sau :
Một là:Chính phủ sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện luật giáo dục trong
nhà trường,lực lượng vũ trang bao gồm cả việc đưa kiến thức giáo dục quốc
phòng,an ninh vào nội dung chương trình giảng dạy tại các trường trong hệ thống
giáo dục quốc dân và các trường thuộc hệ thống chính trị …
Hai là:ưu tiên ngân sách cho công tác nhà trường,tăng cường cơ sở vật chất
dạy và học
Ba là:sắp xếp hệ thống nhà trường cho phù hợp tình hình mới,chuẩn hoá đội
ngũ giáo viên và công tác tuyển sinh .
Bốn là:nghiên cứu để đội ngũ giáo viên trong trường quân đội,công an được
hưởng chế độ quyền lợi chung của ngành giáo dục .
+ Chuyên đề quản lý Nhà nước về TTATGT ( tháng 8 / 2000 )
Thực hiện tinh thần nghị quyết Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 về vấn đề này,nhằm
phản ánh tình hình,tìm nguyên nhân và đề xuất giải pháp kiến nghị với Quốc hội,
Chính phủ,góp phần giải quyết tình trạng ách tắc giao thông,tai nạn giao thông
đang xảy ra nghiêm trọng và ngày càng gia tăng,Uỷ ban đã tập trung nghiên
cứu,làm việc với UBATGT quốc gia,các Bộ GTVT,CA,…một số tỉnh,thành phố
như Hà Nội,Hải Phòng…,khảo sát sâu các tuyến trọng điểm:đường bộ,đường
sắt,đường thuỷ nội địa, một số cơ sở đào tạo lái xe,dạy nghề.v…v…
Báo cáo của Uỷ ban trình Quốc hội,UBTVQH và các cơ quan hữu quan đã
nói rõ thực trạng tình hình,xác định những nguyên nhân chính và đề xuất giải
pháp,kiến nghị .
Trong xác định nguyên nhân của tình hình đã chỉ rõ:ý thức tự giác chấp hành
luật lệ giao thông chưa cao,vi phạm của người tham gia giao thông còn phổ biến;
phương tiện cơ giới đường bộ tăng quá nhanh;kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu
cầu; công tác quản lý Nhà nước về đảm bảo an toàn giao thông chưa thật coi
trọng. Nguyên nhân sâu xa là Nhà nước chưa có chiến lược và quy hoạch tổng thể
về giao thông vận tải.Từ đó kiến nghị cần phải tập trung giải quyết vấn đề ý
thức,trách nhiệm của con người tham gia giao thông(trong đó đặc biệt chú ý
người điều khiển phương tiện tham gia giao thông)và công tác quản lý Nhà nước
về đảm bảo TTATGT.Tại phiên họp thứ 34 của UBTVQH tháng 9 năm 2000,Uỷ
ban đã có báo cáo về vấn đề này.Trong phần kiến nghị của Uỷ ban với Quốc
hội,Chính phủ đã nêu rõ:Cần sớm có luật giao thông,trước mắt là luật giao thông
đường bộ;đảm bảo tốt công tác đào tạo, sát hạch,cấp giấy phép lái xe và tăng
cường quản lý Nhà nước trong công tác đào tạo, sát hạch lái xe;về chất lượng
phương tiện và việc chỉ đạo nhập phương tiện; …
Với chuyên đề này,trong phạm việc chức năng đảm nhận Uỷ ban đã có tiếng
nói kịp thời và hiệu quả,góp phần để Quốc hội sớm ban hành luật giao thông
đường bộ đầu năm 2001 .
+ Chuyên đề nghiên cứu an ninh tại một số khu vực Tây Nguyên,Tây Bắc,Tây
Nam Bộ .
Đây là chuyên đề được đặt ra từ đầu năm 2001 khi tình hình an ninh tại
khu vực này có diễn biến phức tạp,các thế lực thù địch đẩy mạnh âm mưu“Diễn
biến hoà bình”bạo loạn lật đổ,núp dưới chiêu bài dân tộc,tôn giáo,dân chủ nhân
quyền,kích động,gây chia rẽ,lập khu tự trị…Uỷ ban đã tổ chức 3 đoàn công tác
đến nghiên cứu tại 8 tỉnh,8 huyện,8 xã.Làm việc với lãnh đạo địa phương,quân
khu công an,quân đội, biên giới,trực tiếp khảo sát tình hình tại cơ sở thôn,ấp,bản
và tiếp xúc với dân để nắm tâm tư,nguyện vọng.Trước khi Đoàn đi khảo sát đã
làm việc với BQP,BCA,Bộ Tư lệnh bộ đội biên phòng về các vấn đề mà Đoàn
quan tâm.Qua mỗi đợt khảo sát đều có báo cáo trình UBTVQH và cấp lãnh đạo
có thẩm quyền những vấn đề về tình hình,giải pháp và kiến nghị.Tại các kỳ họp
Quốc hội khoá X,Uỷ ban đã “ thuyết trình những vấn đề quan tâm về QP,AN trên
một số địa bàn trọng điểm trong tình hình hiện nay”.Bản thuyết trình đã được
Quốc hội đánh giá cao .
+ Chuyên đề quản lý trại giam,trại tạm giam cũng được Uỷ ban coi trọng
nghiên cứu
Uỷ ban đã cùng Bộ Công an và các cơ quan hữu quan đi nghiên cứu ở nhiều
trại giam,trại tạm giam về tình hình xây dựng,bố trí cán bộ,chiến sỹ;tình hình cơ
sở vật chất và các điều kiện bảo đảm công tác quản lý,giam giữ,giáo dục,cải tạo
can phạm, phạm nhân do Bộ Công an quản lý.Đã tổ chức hội nghị liên ngành để
thống nhất đánh giá thực trạng và đề ra biện pháp khắc phục;đồng thời kiến nghị
với Chính phủ và các Bộ,ngành hữu quan sớm có kế hoạch giải quyết:nâng pháp
lệnh thi hành án phạt tù thành luật,trước mắt sửa đổi,bổ sung một số điều cho phù
hợp;đầu tư ngân sách xây dựng trại giam,trại tạm giam,sửa chữa những trại đã
xuống cấp,đồng thời nghiên cứu cho tách ngân sách trại giam ra khỏi ngân sách
của Bộ Công an;chăm lo công tác y tế trong các trại giam ..
Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân,hoạt động giám sát vẫn còn nhiều mặt hạn
chế, hiệu quả chưa cao và chưa bao quát hết nhiệm vụ giám sát,ít nhiều còn mang
tính hình thức.Giám sát ngân sách còn nặng ở giai đoạn dự toán,chưa coi trọng
khâu phân bổ và thực hiện.Giám sát thực hiện luật,pháp lệnh,chưa sâu.Những vấn
đề lẽ ra cần tập trung giám sát như thực hiện cơ chế trong NĐ 19;mối quan hệ
giữa lực lượng biên phòng với lực lượng công an ở biên giới,cửa khẩu.Tổ
chức,chỉ huy bộ đội biên phòng còn nhiều bất cập chưa có giải pháp khắc
phục;giữa quân đội với công an trong phối hợp thực hiện phương án A2…Nhiều
kiến nghị thông qua giám sát chưa được các Bộ,ngành xem xét,giải quyết cụ
thể.Mặt khác,về phía Uỷ ban cũng chưa dành thời gian thoả đáng để xem xét loại
kiến nghị nào phải trình xin ý kiến UBTVQH,loại ý kiến nào phải làm việc cụ thể
với BQP,BCA hoặc với Chính phủ và Bộ,ngành khác.Ngoài ra cũng chưa coi
trọng đôn đốc đến nơi đến chốn để các cấp, các ngành lưu ý,giải quyết những kiến
nghị của Uỷ ban.Thuyết trình trước Quốc hội về ý kiến của Uỷ ban còn ít,nội
dung kiến nghị còn cụ thể chưa mang tính vĩ mô. Ngoài tập trung giám sát việc
thực hiện nghị quyết Quốc hội về nhiệm vụ QPAN của BQP,BCA,chưa dành
thời gian thoả đáng giám sát Bộ,ngành khác trong việc thực hiện nhiệm vụ
này.Việc phát huy vai trò của từng thành viên Uỷ ban thực hiện nhiệm vụ giám
sát còn hạn chế,từng thành viên Uỷ ban chủ động góp sức mình vào hoạt động
này còn ít .
Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ trên,thực hiện sự chỉ đạo của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2002,Uỷ ban đã và đang
phối hợp với tiểu ban chỉ đạo bảo đảm AN,TT–ATXH trong cuộc bầu cử ĐBQH
khoá XI, tiến hành các hoạt động kiểm tra giám sát thường xuyên nắm diễn biến
tình hình; phối hợp với Chính phủ,các Bộ,các ngành hữu quan,nhất là Bộ Quốc
phòng,Bộ Công an và Uỷ ban bầu cử tỉnh,thành phố trực thuộc TƯ để có giải
pháp xử lý kịp thời và hiệu quả nhằm giữ vững ổn định tình hình,đảm bảo an toàn
tuyệt đối cuộc bầu cử ĐBQH khoá XI ” .
G. Hoạt động giám sát của Uỷ ban về các vấn đề xã hội
“ Đối với các địa phương,trong nhiệm kỳ này(tính đến tháng 2– 2002)Uỷ ban
về CVĐXH đã tiến hành 88 cuộc giám sát,khảo sát và nghiên cứu tại 53
tỉnh,thành phố với nhiều nội dung thuộc lĩnh vực chuyên môn Uỷ ban phụ
trách.Trong 53 tỉnh, thành phố thì có 29 tỉnh được giám sát một lần,16 tỉnh được
giám sát,khảo sát 2 lần; 7 tỉnh được giám sát,khảo sát,nghiên cứu 3 lần và 1 thành
phố được nghiên cứu, khảo sát,giám sát tới 6 lần.Các cuộc giám sát được tiến
hành từng đợt có trọng tâm với số cán bộ từ 3 đến 5 thành viên do một lãnh đaọ
của Uỷ ban làm trưởng đoàn.Thường trực Uỷ ban thông báo cụ thể thời gian,nội
dung giám sát,cách thức làm việc với thường trực HĐND,UBND và Đoàn ĐBQH
của địa phương và Uỷ ban tiến hành giám sát,khảo sát trong khoảng thời gian từ
15 đến 20 ngày để chuẩn bị.Rút kinh nghiệm các khoá trước,tuỳ theo địa bàn
giám sát ở từng địa phương,tuỳ theo nội dung khảo sát,giám sát mà Đoàn có cách
làm việc với chính quyền,các cơ quan có liên quan,tiếp tục khảo sát ở mỗi cơ sở
cho phù hợp.Thông thường đoàn có trao đổi thông tin và ý kiến của đoàn với lãnh
đạo địa phương và có báo cáo kết quả(bằng văn bản)với UBTVQH.Văn bản này
đồng thời gửi cho địa phương nơi tiến hành giám sát để thực hiện những kiến
nghị của đoàn.Các kiến nghị của địa phương nơi được giám sát có liên quan đến
Chính phủ,đến Bộ,ngành cũng được tách riêng để gửi cho Chính phủ,cho
Bộ,ngành để xử lý theo thẩm quyền .
Trong nhiệm kỳ này,Uỷ ban đã tổ chức hơn 30 cuộc làm việc với các
Bộ,ngành ở Trung Ương theo những chuyên đề cụ thể .
Hàng năm hoặc 6 tháng Uỷ ban đều có các cuộc làm việc xem xét tổng thể
các vấn đề hoặc là vấn đề có tính chuyên sâu.Trong 5 năm,Uỷ ban và thường trực
Uỷ ban đã có 12 cuộc làm việc với Bộ LĐTBXH;4 cuộc với Bộ Tài chính;9
cuộc với Bộ Y tế;4 cuộc với Uỷ ban QGDS – KHHGĐ;5 cuộc với Ban Tôn giáo
của Chính phủ và dự nhiều hội nghị với các ngành đó.Đến nay cách làm việc này
gần như đã trở thành thông lệ,thành nề nếp vì mục đích các cuộc làm việc là trao
đổi thông tin,cùng nhau tìm biện pháp thúc đẩy công việc của mỗi lĩnh vực ngày
càng tốt hơn.Đồng thời xem xét các kiến nghị hợp lý của địa phương .
Kết hợp giữa các hình thức giám sát nói trên,trong 5 năm Uỷ ban đã kiến
nghị nhiều vấn đề lớn với Chính phủ và các ngành Trung Ương(không kể các
kiến nghị trực tiếp đối với địa phương khi làm việc lại để kết thúc đợt giám
sát).Dưới đây là một số kiến nghị mà Chính phủ hoặc Bộ,ngành đã tiếp nhận và
xử lý
- Từ đầu năm 1998,Uỷ ban đã kiến nghị điều chỉnh một số nội dung trong chế
độ BHYT và kết quả là Bộ Y tế đã tiếp thu và trình Chính phủ xem xét,quyết
định huỷ bỏ việc thu viện phí 20% đối với đối tượng hưu trí và một số đối tượng
hưởng chính sách ưu đãi xã hội .
- Kiến nghị của Uỷ ban về di dân,tái định cư đã được Chính phủ rút kinh
nghiệm. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế mà là vấn đề xã hội rất lớn.Nơi định cư
mới phải có điều kiện sống,làm việc chí ít như nơi xuất cư và càng cao hơn càng
tốt.Kiến nghị này đã được vận dụng vào việc xây dựng công trình thuỷ điện Sơn
La(coi di dân tái định cư là một phần quan trọng của công trình,của dự án)
- Qua giám sát thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo,Uỷ ban đã có kiến nghị
một số việc mà Chính phủ đã điều chỉnh,đó là việc lựa chọn xây dựng các công trình hạ
tầng cơ sở,tuy dân được quyền lựa chọn nhưng phải phù hợp với điều kiện thực tế có thể
thực hiện được(không thể chọn xây dựng cônh trình điện hạ thế một khi lưới điện quốc
gia chưa tới,cũng không thể lựa chọn công trình xây dựng con đường của một xã hải đảo
nối với đất liền...).Uỷ ban cũng đã kiến nghị việc điều chỉnh chuẩn đói nghèo một khi tỷ lệ
hộ đói nghèo theo chuẩn cũ chỉ còn hơn 10% , Chính phủ,Bộ Lao Động và Thương Binh-
xã hội đã sửa,nâng chuẩn đói nghèo lên để thực hiện cho giai đoạn 2001- 2005(chuẩn
cũ:nông thôn miền núi,hải đảo có thu nhập 45. 000 đ/người/tháng;nông thôn đồng
bằng70.000đ/người/tháng;thành thị 100.000đ/người/tháng.Chuẩn
mới:80.000đồng,100.000đồng và150.000 đồng/người/ tháng)
- Qua giám sát thực hiện chế độ BHXH,Uỷ ban đã kiến nghị điều chỉnh mức
trừ tiền lương hưu đối với người nghỉ trước tuổi từ 2% xuống 1%;Chính phủ
chấp nhận và thể hiện trong nghị định 93/ CP ngày 12/11/1998 .
- Qua giám sát về các hoạt động y tế , chăm sóc sức khoẻ nhân dân , thực hiện
chính sách dân số và phát triển,Uỷ ban đã kiến nghị với Chính phủ và các cơ
quan hữu quan quan tâm tới vấn đề sức khoẻ sinh sản,chống suy dinh dưỡng,giải
quyết các chế độ cho cán bộ y tế và tăng ngân sách cho ngành y tế hợp lý
hơn.Đến nay Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quốc gia về dinh dưỡng,chăm
sóc sức khoẻ sinh sản và đang triển khai thí điểm sửa đổi một số vấn đề về cơ chế
quản lý,điều hành trong ngành y tế .
Nêu lên một số vấn đề được Chính phủ,các ngành tiếp thu và sửa đổi,chúng
ta có thể đi đến nhận định là:Các cuộc giám sát của Uỷ ban là thiết thực và bổ ích
góp phần sửa chữa những thiếu sót,khuyết điểm trong việc thực hiện luật pháp và
các chế độ chính sách,mặt khác cũng kiểm nghiệm xem các quy định của chính
sách luật pháp có phù hợp với thực tiễn không;kết quả các cuộc giám sát là tương
đối rõ ràng và cụ thể;sự hợp tác giữa Uỷ ban với các ngành,các địa phương vì
nhiệm vụ chung là tương đối chặt chẽ và có thiện chí.Hoạt động của Uỷ ban trên
lĩnh vực này là tích cực và đều đặn từ đầu đến hết khoá.Thông qua công tác giám
sát,các thành viên Uỷ ban với mức độ khác nhau đều tích luỹ thêm được kiến thức
và mở rộng được phạm vi hiểu biết của mình,đặc biệt là những hiểu biết về thực
tế về cuộc sống của các gia đình chính sách trong toàn quốc nhất là ở vùng sâu
vùng xa để làm việc tốt hơn,góp phần đáng kể vào việc thực hiện chính
sách,pháp luật cũng như việc xây dựng chính sách và pháp luật .
* Một số vấn đề tồn tại , khiếm khuyết đáng lưu ý là :
- Xã hội là một lĩnh vực rộng lớn,có nhiều nội dung phức tạp,nhưng chúng ta
cũng mới chỉ tập trung ở một số nội dung lớn,bức xúc,còn khá nhiều nội dung
chưa được giám sát;trong 61 tỉnh,thành cũng còn tới 8 tỉnh chưa được giám sát
về lĩnh vực xã hội(tất nhiên không yêu cầu phải đi hết các tỉnh)
- Đôi khi chúng ta chưa thực sự phát huy quyền lực của mình theo Điều 42 của
luật Tổ chức Quốc hội,trong đó có việc giám sát.Như trên đã nói các ngành,các
địa phương có thiện chí hợp tác trong công việc,nhưng cũng không phải là không
có trường hợp có nơi,có lúc chưa kết hợp chặt chẽ dẫn đến hiệu quả giám sát
thấp.Một số kiến nghị sau giám sát chưa được thực hiện một cách nghiêm
túc,thiếu thông tin phản hồi về việc thực hiện các kiến nghị của Đoàn .
- Một số kiến nghị trong giám sát cũng chưa thật đầy đủ và sâu sắc do đó có cơ
quan hành pháp cũng không thật sự lưu ý.Có tình hình này vì ở một số vấn đề
phải giám sát chúng ta cũng chưa nắm hết nội dung và tính nghiệp vụ sâu sắc của
nó ” .
H. Hoạt động giám sát của Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách
“ Thực hiện chức năng giám sát về lĩnh vực kinh tế và ngân sách,Uỷ ban
Kinh tế và Ngân sách đã tiến hành các hình thức giám sát sau :
1. Giám sát chung tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ
kinh tế – xã hội và ngân sách Nhà nước hàng năm .
Công tác giám sát chung của Uỷ ban tập trung vào việc giám sát hoạt động của
Chính phủ,của các Bộ,ngành,địa phương trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
kế hoạch phát triển kinh tế –xã hội và ngân sách Nhà nước;việc thực hiện luật,pháp
lệnh,Nghị quyết của Quốc hội,của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quản lý
kinh tế,hoạt động kinh doanh,ngân sách,tài chính và tiền tệ.Thông qua công tác giám
sát,Uỷ ban phát hiện và kịp thời có ý kiến trực tiếp với các cơ quan,tổ chức nơi đến giám
sát những vấn đề cần khắc phục trong việc thi hành pháp luật cũng như việc tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế–xã hội và ngân sách Nhà nước;đồng thời qua khảo sát thực
tế,nắm được các thông tin cần thiết phục vụ cho việc thẩm tra các dự án luật,pháp lệnh và
các dự án,kế hoạch phát triển kinh tế xã hội; NSNN trước khi trình ra Quốc
hội,UBTVQH;mặt khác,có cơ sở đề xuất,kiến nghị với Quốc hội và Chính phủ các chủ
trương,giải pháp về lĩnh vực kinh tế và ngân sách Nhà nước .
Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách đều có chương trình công tác giám sát hàng năm và
thường trực Uỷ ban cụ thể hoá thành chương trình công tác cụ thể hàng quý,hàng tháng
trong năm để triển khai tổ chức thực hiện .
Từ đầu nhiệm kỳ đến kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khoá X,Uỷ ban đã tổ chức
được 34 Đoàn công tác của Uỷ ban và tham gia các Đoàn của Phó Chủ tịch Quốc
hội Mai Thúc Lân về làm việc với hầu hết các tỉnh,thành phố trong cả nước,cá
biệt có tỉnh đã về làm việc được 2 lần.Tại mỗi địa phương,Đoàn đã làm việc với
thường trực HĐND,UBND,Đoàn ĐBQH và các cấp ,các ngành có liên quan ở địa
phương;đã đi thăm và làm việc với một số huyện,xã,cơ sở sản xuất–kinh doanh
trên địa bàn...Nội dung cơ bản của các đợt giám sát tại địa phương được tập
trung vào việc xem xét tình hình và kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc
hội về nhiệm vụ kinh tế–xã hội và dự toán NSNN hàng năm,trong đó chú trọng
các vấn đề;chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông–công nghiệp và dịch vụ;tiêu thụ
nông sản hàng hoá;về huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế–xã hội,vấn đề
phát triển công nghiệp gắn với phát triển nông nghiệp;hoạt động xuất nhập
khẩu,hợp tác đầu tư với nước ngoài;về lưu thông hàng hoá và diễn biến của thị
trường giá cả;về đầu tư vốn cho các chương trình mục tiêu quốc gia như :xoá đói
giảm nghèo,giải quyết việc làm,các xã đặc biệt khó khăn,trồng mới 5 triệu ha
rừng...; về các biện pháp đảm bảo thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách,triệt để
tiết kiệm trong chi tiêu .
Sau mỗi đợt giám sát tại địa phương,Đoàn công tác đã có báo cáo kết quả gửi
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Chính phủ và các Bộ,các ngành có liên quan(từ đầu
nhiệm kỳ Quốc hội khoá X đến nay đã có 59 bản báo cáo.)Ngoài các báo cáo
tổng hợp, Đoàn công tác còn có các công văn gửi Chính phủ, các Bộ,ngành chức
năng ở Trung ương hoặc làm việc trực tiếp với các Bộ,ngành về một số đề nghị cụ
thể của địa phương để xem xét,quan tâm giải quyết và thông báo lại cho Uỷ ban
được biết kết quả .
Hàng năm,Uỷ ban cũng đã dành nhiều thời gian làm việc với các Bộ,ngành,các Tổng
cục,Tổng công ty,doanh nghiệp.Đối với các Bộ,ngành tổng hợp như tài chính, Bộ kế
hoạch và đầu tư,Ngân hàng Nhà nước Việt nam,Bộ thương mại,Ban vật giá Chính
phủ,quỹ hỗ trợ phát triển,Tổng cục thuế,Tổng cục hải quan,Kho bạc Nhà nước ...;Thường
trực chuyên trách của Uỷ ban hàng quý hoặc 6 tháng thường tổ chức các cuộc họp thường
trực Uỷ ban mở rộng hoặc toàn thể Uỷ ban hoặc đến làm việc trực tiếp để nghe và trao
đổi các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ kinh tế–xã hội và dự toán ngân sách
Nhà nước theo nghị quyết của Quốc hội.Đối với các Bộ quản lý chuyên ngành kinh tế
như Bộ công nghiệp , nông nghiệp và phát triển nông thôn,Thuỷ sản,Xây dựng,Giao
thông vận tải...hàng năm Thường trực Uỷ ban tổ chức làm việc 1–2 lần với từng Bộ về
tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế ngành gắn với nhiệm vụ thu,chi ngân sách.Ngoài
ra,từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khoá X đến nay Thường trực Uỷ ban cũng đã tổ chức một
số Đoàn đi làm việc 1–2 lần trực tiếp với các TCT như :Hàng không Dân dụng,Hàng
hải,Dầu khí Việt nam,Bưu chính viễn thông,Xi măng... và các Ngân hàng thương mại
quốc doanh về tình hình sản xuất– kinh doanh,thực trạng tài chính doanh nghiệp và hướng
phát triển,những khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp cần giải quyết tháo gỡ.
2. Giám sát theo chuyên đề về các vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế và ngân sách
Nhà nước.
Đây là hình thức giám sát có tính hiệu quả cao trong việc thực hiện chức
năng , nhiệm vụ của Uỷ ban
Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách đã tổ chức giám sát một số chuyên đề cụ thể với các
hình thức thích hợp như phối hợp các Bộ,ngành chức năng(Bộ Thuỷ sản,Liên minh các
HTX Việt nam...);phối hợp các Ban Kinh tế–Ngân sách của HĐND các tỉnh,thành phố
trực thuộc Trung Ương;đề nghị các Bộ,ngành,TCT,địa phương gửi báo cáo kết hợp với
việc tổ chức các Đoàn của Uỷ ban đi làm việc trực tiếp hoặc tổ chức các Hội nghị để
nghe trực tiếp ...Trên cơ sở đó,tổ chức tổng hợp,nghiên cứu và tổ chức Hội nghị hoặc Hội
thảo chuyên đề với Bộ,ngành,Tổng công ty,các địa phương có liên quan.Từ đầu nhiệm kỳ
Quốc hội khoá X đến nay,Uỷ ban đã tổ chức được các chuyên đề sau :
- Về mô hình các Tổng công ty Nhà nước ;
- Về việc triển khai thực hiện các luật thuế mới ;
- Về tình hình tài chính của các ngân hàng,tổ chức tín dụng và các giải pháp khắc
phục ;
- Về biện pháp phối hợp trong quản lý Nhà nước về đầu tư phát triển ngành thuỷ
sản ; - Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước
hiện nay ;
- Tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội trong lĩnh vực
kinh tế và ngân sách Nhà nước ;
- Vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước ;
- Về đánh giá thực trạng và giải pháp tiếp tục củng cố và phát triển các HTX
hiện nay ;
- Về đánh giá 5 năm thực hiện,những nội dung cần sửa đổi,bổ sung,hoàn thiện
luật NSNN ;
- Về thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư từ NSNN cho phát triển
nông nghiệp và nông thôn ;
- Về việc nhập khẩu linh kiện(IKD),lắp ráp xe gắn máy;
- Về chương trình mía đường ;
- Về sản xuất,nhập khẩu và tiêu thụ muối ;
Qua từng chuyên đề đã có báo cáo kết quả và các kiến nghị cụ thể gửi
UBTVQH,Chính phủ và các Bộ,ngành,địa phương có liên quan ; đồng thời cũng
có một số kỷ yếu về Hội nghị,Hội thảo chuyên đề kèm theo .
3. Giám sát việc triển khai thi hành các luật,pháp lệnh đã được Quốc
hội,UBTVQH thông qua .
Tổ chức theo dõi,đôn đốc các Bộ,ngành hữu quan sớm trình Chính phủ ban
hành các nghị định,thông tư hướng dẫn thi hành các luật và pháp lệnh đã được
Quốc hội,Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua.Thường trực Uỷ ban đã tổ chức
được một số cuộc họp để xem xét việc triển khai thi hành các luật,pháp lệnh đã
được Quốc hội,UBTVQH thông qua trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá X;đồng thời
đôn đốc việc ban hành và trực tiếp tham gia vào các văn bản dưới luật , như luật
Ngân hàng Nhà nước;luật các tổ chức tín dụng;luật sửa đổi,bổ sung một số điều
của luật thuế chuyển quyền sử dụng đất;pháp lệnh du lịch;pháp lệnh thương
phiếu;pháp lệnh phí và lệ phí;luật sửa đổi,bổ sung một số điều của luật đầu tư
nước ngoài tại Việt nam; ...Tuy nhiên cũng thấy rằng,công tác giám sát trong lĩnh
vực ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật,pháp lệnh
thực hiện chưa được nhiều, chưa kịp thời và còn bị hạn chế về tác dụng và hiệu
quả .
4. Giám sát qua kiến nghị của các tổ chức,công dân về lĩnh vực kinh tế và
ngân sách .
Qua thực hiện công tác giám sát và kết hợp với việc nghiên cứu,xem xét các
kiến nghị của các tổ chức và công dân,Thường trực Uỷ ban đã có một số văn bản
gửi đến Chính phủ,các Bộ,ngành chức năng đề nghị giải trình,làm rõ trách nhiệm
và cần có biện pháp khắc phục như vấn đề di dân tự do;việc nhập khẩu
clinker;vấn đề sản xuất,tiêu thụ,giá cả về nguyên liệu chế biến bột giấy trong
nước;về tình hình cải tạo và nâng cấp quốc lộ 1A đoạn từ Vinh(Nghệ An)đến
Đông Hà(Quảng Trị);việc nhập khẩu các bộ linh kiện xe gắn máy,nhất là từ
Trung Quốc và việc sản xuất và lắp ráp xe gắn máy trong nước theo chủ trương
khuyến khích nội địa hoá;về chính sách thuế đối với doanh nghiệp;về mua tạm trữ
thóc gạo,cà phê;về tình hình nhập khẩu đường,xuất khẩu gạo,nhập khẩu những
mặt hàng mà khả năng trong nước có thể sản xuất được...Qua theo dõi thấy,các
kiến nghị của Uỷ ban đã được Chính phủ,các Bộ, ngành quan tâm có chuyển
biến tích cực,có các biện pháp khắc phục từng bước có kết quả .
Ngoài ra,sau khi nhận được đơn thư của các tổ chức,cá nhân về các vấn đề
liên quan tới lĩnh vực kinh tế và ngân sách;Thường trực Uỷ ban hoặc có công văn
chuyển đến các cơ quan hữu quan và đôn đốc việc xem xét,giải quyết hoặc
chuyển đến Vụ Dân nguyện–VPQH xem xét xử lý chung;đồng thời cũng thông
báo cho các tổ chức, cá nhân được biết .
Qua công tác giám sát của Uỷ ban trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá X có thể
khẳng định rằng hoạt động giám sát của Uỷ ban ngày càng có chất lượng,đi vào
chiều sâu , đã bao quát được các nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực kinh tế và
ngân sách,tập trung vào những vấn đề cấp bách mà Quốc hội đề ra và được cử tri
cả nước quan tâm như tình hình thực hiện nhiệm vụ và NSNN hàng năm,việc
phân bổ nhiệm vụ thu,chi NSNN,các hoạt động XNK,XDCB,đặc biệt là các dự án
quan trọng quốc gia,các chương trình mục tiêu,các mục tiêu và cân đối lớn của
nền kinh tế quốc dân... Bên cạnh đó,trong hoạt động giám sát về lĩnh vực kinh tế
và ngân sách cũng còn nhiều tồn tại và hạn chế.Cụ thể là chất lượng còn thấp,sự
phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội trong công tác giám sát và phục vụ
giám sát chưa được chặt chẽ, đồng bộ.Qua các đợt giám sát,Uỷ ban đều có các
kiến nghị cụ thể gửi các Bộ,ngành, địa phương về các vấn đề nổi lên về lĩnh vực
kinh tế,NSNN.Nhiều kiến nghị của Uỷ ban đã được các Bộ,ngành,địa phương
tiếp thu,giải quyết và có công văn phúc đáp giải trình về các vấn đề mà Uỷ ban đã
nêu.Tuy nhiên,vẫn còn nhiều kiến nghị qua hoạt động giám sát của Uỷ ban trong
lĩnh vực kinh tế và NSNN chưa thực sự được các cơ quan hữu quan thường xuyên
quan tâm tiếp nhận giải quyết kịp thời và đúng mức.Do đó ,có một số tồn tại cứ
tiếp diễn và không được khắc phục.Hoạt động giám sát trong lĩnh vực thi hành
văn bản pháp luật tuy được Uỷ ban quan tâm,nhưng thực tế chưa được thực hiện
nhiều và còn bị hạn chế về tác dụng hiệu quả ,kết quả chưa tương xứng với nhiệm
vụ được giao .
Nguyên nhân của những tồn tại ,hạn chế trong hoạt động giám sát đã nêu ở
trên là do:lực lượng bảo đảm thực hiện công tác giám sát quá mỏng ,nhất là các
thành viên hoạt động chuyên trách của Uỷ ban lại quá ít;các đoàn đi giám sát
thực tế thường được tiến hành trong khoảng thời gian ngắn nhưng nội dung còn
dàn trải,chủ yếu là nghe các báo cáo,chưa có điều kiện sâu sát hơn với tình hình
thực tế;sự tham gia của các cơ quan có liên quan trong công tác giám sát còn ít
.Việc lập kế hoạch và tổ chức các đoàn giám sát còn bị động,đặc biệt là việc theo
dõi tình hình không thường xuyên;việc theo dõi,đôn đốc các cơ quan hữu quan
tiếp nhận nghiên cứu, giải quyết và phúc đáp kiến nghị hoặc phối hợp cùng nhau
giải quyết các kiến nghị qua giám sát chưa được quan tâm đúng mức,thường
xuyên.Mặt khác,do chưa ban hành luật về hoạt động giám sát nên hiện nay một
số quy định về hoạt động giám sát trong lĩnh vực kinh tế và NSNN tuy đã có ở
nhiều văn bản khác nhau nhưng còn trùng lặp,chưa thống nhất,chưa cụ thể và
chưa có hệ thống,chưa thật sự có hiệu lực. Quyền và nghĩa vụ của các cấp,các
ngành chịu sự giám sát của Quốc hội trong lĩnh vực kinh tế và NSNN chưa
được quy định rõ ràng nên hiệu quả hiệu lực giám sát còn nhiều hạn chế ...”
I . Hoạt động giám sát của Uỷ ban Khoa học , Công nghệ và Môi
trường
“ Công tác giám sát là một trong những nhiệm vụ chính của Uỷ ban
trong nhiệm kỳ qua,Uỷ ban đã tổ chức các loại hình giám sát sau đây:
- Giám sát thường xuyên về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội,các văn bản
pháp luật trong lĩnh vực khoa học,công nghệ và môi trường tại các địa phương ;
- Giám sát việc thực hiện,triển khai các hoạt động khoa học,công nghệ của các
Bộ, ngành,các viện,trường theo các kế hoạch đã được Quốc hội thông qua ;
- Giám sát các vụ , việc xuất hiện đột xuất về khoa học , công nghệ và môi
trường ;
- Giám sát theo chuyên đề của lĩnh vực khoa học,công nghệ và môi trường có ý
nghĩa quan trọng .
1. Giám sát thường xuyên việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, văn bản
pháp luật trong lĩnh vực khoa học,công nghệ và môi trường tại các địa phương
Trong nhiệm kỳ qua,Uỷ ban đã tổ chức giám sát tại 40 địa phương với nội
dung cụ thể sau :
- Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng,nghị quyết của Quốc hội,các
văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực KHCNMT nói chung ;
- Việc tổ chức thực hiện ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất và đời sống ở cơ
sở, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn;việc chuyển dịch
cơ cấu cây trồng,vật nuôi tại địa phương ;
- Vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường gắn với sự phát triển kinh
tế- xã hội;tình trạng ô nhiễm môi trường ở địa phương và biện pháp khắc phục ;
- Việc triển khai hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về khoa học,công nghệ ở
địa phương theo luật khoa học và công nghệ và theo tinh thần nghị quyết TƯ2
khoá VIII;triển khai thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động khoa học theo luật khoa
học và công nghệ;hiệu quả của các đề tài nghiên cứu khoa học,công nghệ phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội ; tình hình sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học do
ngân sách cấp .
Để tổ chức giám sát , Uỷ ban đã chú trọng phân bổ thời gian để lên kế hoạch
lập các đoàn giám sát và mời các thành viên , chuyên gia hoặc đại diện các Bộ
cùng tham gia.Tại các địa phương đoàn đều có buổi làm việc với Thường trực
HĐND, UBND,Đoàn đại biểu Quốc hội,đại diện các sở,ban,ngành có liên
quan,nghe báo cáo , đi thực tế cơ sở trong địa bàn.Cuối đợt giám sát,đoàn đã thảo
luận,trao đổi với lãnh đạo địa phương để có kết luận chung của đợt giám sát.Qua
các đợt công tác đoàn đã ghi nhận các kiến nghị,đề xuất của địa phương,có nhận
xét,có đóng góp cho công tác thực hiện triển khai,góp phần cùng địa phương đề ra
các hướng khắc phục . Sau mỗi đợt giám sát,các kiến nghị đã được gửi đến các
cơ quan hữu quan của Chính phủ xem xét,giải quyết.Đối với những vấn đề bức
xúc,Thường trực Uỷ ban đã chủ động phối hợp với các cơ quan của Chính phủ
bàn biện pháp khắc phục,giải quyết . Một số việc đã được xem xét và giải quyết
kịp thời,tuy đã có những cố gắng theo dõi giải quyết nhưng vì việc quy định thẩm
quyền đoàn giám sát,chế tài giám sát của Quốc hội chưa rõ ràng,cho nên nhiều
vấn đề bức xúc về khoa học,công nghệ,và môi trường của địa phương mà đoàn
đã kiến nghị còn chưa được giải quyết hoặc trả lời thoả đáng.Đây là một trong
những tồn tại lớn trong hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung trong đó có
những điểm yếu của công tác tổ chức giám sát của Uỷ ban nói riêng .
2. Giám sát việc thực hiện ,triển khai các hoạt động khoa học,công nghệ của
các Bộ, ngành, viện, trường và giám sát chuyên đề và các vụ, việc .
Đồng thời với việc giám sát các địa phương,Uỷ ban cũng đã tổ chức hơn 50
cuộc giám sát chuyên đề và giám sát các Bộ,ngành,kết hợp đi tìm hiểu thực tế ở
các đơn vị trực thuộc cũng như mời đại diện lãnh đạo các Bộ,ngành đến báo cáo
hoặc thông qua giám sát bằng văn bản.Nội dung giám sát tập trung vào các vấn
đề:quản lý và sử dụng vốn đầu tư cho nghiên cứu khoa học,công nghệ,hiệu quả và
ứng dụng kết quả của chương trình,đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ vào
sản xuất và đời sống ở địa phương ...
Công tác giám sát các Bộ,ngành đã được Uỷ ban đẩy mạnh thực hiện trong
nhiệm kỳ này,tuy nhiên Uỷ ban cũng chưa giám sát được hết tất cả các Bộ,ngành
về các lĩnh vực có liên quan.Việc giám sát cũng chưa được tiến hành kịp thời và
triệt để thời gian làm việc còn gấp gáp vì khối lượng công việc quá nhiều,lĩnh vực
được phân công quá rộng mà sự phát triển trong lĩnh vực này là rất nhanh nên
công tác giám sát của Uỷ ban đôi lúc còn chưa theo kịp .
Uỷ ban đã tổ chức các đoàn giám sát theo chuyên đề về:Bảo vệ môi trường và
xử lý chất thải trong các khu công nghiệp,về bảo vệ môi trường ở làng nghề(Bát
Tràng– Hà Nội),về khắc phục việc sử dụng quá mức túi chất dẻo gây khó khăn lớn
cho việc xử lý chất thải đô thị về bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm,về
quản lý và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật,về ứng dụng khoa học,công nghệ trong
nuôi trồng, đánh bắt thuỷ,hải sản phục vụ cho chương trình xuất khẩu thuỷ sản từ
nay đến 2005 ..
Qua các buổi làm việc này,các đoàn giám sát cũng đã đưa ra các hướng giải quyết
cụ thể cho từng loại công việc như quản lý ngân sách,cơ chế xét duyệt đề tài,vốn ở
các Bộ,ngành,giúp các Bộ,ngành thống nhất quản lý,chỉ đạo giảm bớt chồng chéo
bất hợp lý.Tuy nhiên kết quả đạt được cũng còn hạn chế,một số kiến nghị còn
chưa được Chính phủ và các Bộ giải quyết hoặc trả lời , do vậy hiệu quả giám sát
chưa cao .
Cùng với những hình thức giám sát nêu trên,căn cứ vào tình hình bức xúc,
Thường trực Uỷ ban cũng đã tổ chức các buổi làm việc bằng hình thức gửi văn bản
để giám sát các vụ,việc cụ thể,phát sinh như xử lý chất thải có chứa
pôlyetylen,việc thử nghiệm chế phẩm vi sinh EM,sự cố máy tính Y2K,vấn đề môi
trường liên quan đến dự án đường Hồ Chí Minh,quản lý công nghệ chế biến đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm,giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên các
phương tiện thông tin đại chúng, cách diễn đạt tên nước ngoài trong các văn bản
của Nhà nước,công tác phòng chống lụt,bão,việc khắc phục tình trạng thiếu nước
cho sản xuất nông nghiệp,việc chống lũ cao đột xuất,việc quản lý,sử dụng mạng
internet các lĩnh vực cơ yếu,phát thanh, truyền hình ...
Thường trực Uỷ ban cũng đã có một số buổi làm việc với Phó Thủ tướng
hoặc đại diện Chính phủ để bàn biện pháp tháo gỡ và nêu các vấn đề còn vướng
mắc.Tại các buổi làm việc,đại diện Chính phủ hoan nghênh và mong muốn định
kỳ thường xuyên được phối hợp với các cơ quan của Quốc hội xem xét,giải quyết
từng vấn đề cụ thể.Uỷ ban đã góp phần giải quyết kịp thời một số vụ,việc như bảo
vệ môi trường trong hoạt động của Công ty VeDan,vấn đề táo Ixraen ở Hà
Giang,vấn đề nước sạch, kiểm dịch thực vật,tràn dầu ở Cần Giờ...nhưng cũng còn
nhiều việc mặc dù đã bỏ nhiều công sức theo dõi nhưng chưa có kết quả như hạn
chế sử dụng túi chất dẻo(PE), việc viết tên riêng nước ngoài ...
3. Giám sát các công trình quan trọng quốc gia
Đây là một nhiệm vụ mới của Uỷ ban trong giải quyết nhiệm kỳ khoá này,
dođó cũng cần được nghiên cứu,đổi mới cho công tác sau này.Uỷ ban đã giám sát
việc thực hiện các công trình:Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng;Dự án khí-
điện-đạm Bà Rịa–Vũng Tàu;Dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất;Dự án nhà máy
thuỷ điện Sơn La.
Hàng năm Uỷ ban đều tổ chức giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về
các công trình này,qua đó có báo cáo gửi Quốc hội.Nhìn chung,các công trình
quan trọng quốc gia đều triển khai chậm và không đúng theo tiến độ đã trình bày
trước Quốc hội(như dự án khí-điện-đạm.Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất)nội
dung,mục đích một số công trình cũng thay đổi(như dự án trồng mới 5 triệu ha
rừng)nhưng Chính phủ chưa báo cáo.Qua giám sát,đã thấy việc thực hiện Nghị
quyết về tiêu chuẩn các công trình quan trọng quốc gia còn chưa được chấp hành
nghiêm chỉnh một số công trình còn bị chia nhỏ quy mô thành nhiều dự án,để
tránh các tiêu chuẩn phải trình Quốc hội xem xét,quyết định dự án đường Hồ Chí
Minh...việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và giải trình nguồn vốn đầu
tư còn chưa được tiến hành đầy đủ,đúng thủ tục,trong khi công trình vẫn được
triển khai ...
4. Đánh giá hoạt động giám sát
Qua thực hiện công tác giám sát,Uỷ ban đã hoàn thành một khối lượng công
việc lớn và phức tạp,về cơ bản hoàn thành chương trình đề ra từng bước nâng cao
được chất lượng và hiệu quả giám sát.Nội dung giám sát đã bao gồm các hoạt
động trong lĩnh vực khoa học,công nghệ và bảo vệ môi trường,có chú trọng các
vấn đề bức xúc nảy sinh . Về địa điểm , lịch làm việc đã được bố trí thích
hợp,đúng trình tự,đúng thủ tục.Thường trực Uỷ ban đã hoàn thành công việc của
mình:đề xuất nhiệm vụ,lên kế hoạch,phối hợp địa phương,ban,ngành,tổ chức các
đoàn đi,phân công thành viên tham gia...Các thành viên Uỷ ban mặc dù hầu hết
kiêm nhiệm nhưng cũng đã cố gắng tham gia công tác giám sát.Vụ giúp việc đã cố
gắng bảo đảm các điều kiện phục vụ công tác giám sát .
Nhìn chung,công tác giám sát thường xuyên về hoạt động khoa học,công
nghệ và môi trường ở địa phương thời gian qua được đánh giá là thực sự đã có tác
động tốt về nhận thức và nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo địa phương nhằm
thúc đẩy hoạt động khoa học,công nghệ và bảo vệ môi trường tại địa phương nhất
là việc đẩy mạnh tiến bộ khoa học,công nghệ trong việc tạo ra giống cây,giống con
có hiệu quả thiết thực góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp trong cả nước.Tuy
nhiên,trong nhiệm kỳ vừa qua,việc phát huy mối liên hệ giữa Uỷ ban với các cơ
quan quản lý về khoa học,công nghệ và môi trường ở địa phương,với các ban của
HĐND còn chưa được thường xuyên,do đó , việc đề xuất các vấn đề cần có sự
giám sát của Uỷ ban chưa được kịp thời.Trong nhiệm kỳ tới,Uỷ ban cần phát huy
tốt mối quan hệ này để qua đó nâng cao hiệu quả giám sát tại địa phương
Bên cạnh những mặt được nêu trên,công tác giám sát của Uỷ ban cũng bộc
lộ nhiều hạn chế.Chính sách về KHCNMT ban hành trong thời gian vừa qua rất
phong phú,đa dạng nhưng công tác giám sát của Quốc hội,Hội đồng nhân dân
chưa theo kịp, hiệu quả giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu.Có lĩnh vực mà Uỷ
ban chưa tích cực tiến hành giám sát,theo dõi như các mảng về khoa học xã hội và
nhân văn.Các chuyên đề mà Uỷ ban lựa chọn để giám sát còn dàn trải,thiếu tập
trung vào các vấn đề lớn. Một số lĩnh vực còn giám sát yếu,chưa được quan tâm
thích đáng như việc thực hiện ngân sách cho KHCN đặc biệt là ngân sách KHCN
ở địa phương,về đề tài khoa học xã hội và nhân văn ở địa phương,việc lựa chọn
nhập công nghệ nước ngoài để thúc đẩy sản xuất công nghiệp,việc phát triển công
nghệ nuôi cấy mô kém hiệu quả(do công tác chuẩn bị chưa tốt) ở các địa
phương,vấn đề lũ đồng bằng sông Cửu Long,về mối quan hệ giữa Bộ KHCNMT
với địa phương,vấn đề tổ chức hoạt động KHCNMT ở cấp cơ sở...Uỷ ban cũng
chưa thường xuyên phối hợp với Bộ,ngành hữu quan và các chuyên gia đầu ngành
trong việc giám sát nhằm đạt hiệu quả cao hơn.Việc sắp xếp các đoàn đi làm việc
nhiều khi còn gấp gáp,việc lên kế hoạch, phối hợp với Hội đồng, các Uỷ ban của
Quốc hội còn chưa thực hiện được thường xuyên.Kiến nghị giám sát của Uỷ ban
còn ít được hồi âm vì Uỷ ban chưa tích cực theo dõi,đôn đốc,mặt khác một số cơ
quan và địa phương chưa thực sự quan tâm giải quyết hoặc trả lời thoả đáng.Việc
phân định trách nhiệm của Chính phủ,Quốc hội còn chưa thật rõ mà nguyên nhân
chính là thiếu những quy định cụ thể về giám sát của Quốc hội.Một số thành viên
có trọng trách của Uỷ ban còn ít tham gia giám sát ”
2.. Những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của
Quốc hội.
Để khắc phục tình trạng trên trong hoạt động giám sát của Quốc hội,trước
hết cần phải tìm,xác định được đúng những nguyên nhân chủ yếu đã hạn chế
những hoạt động giám sát của Quốc hội.Đứng về khoa học quản lý nói chung và
quản lý Nhà nước nói riêng khi thành lập một cơ quan,xác định chức năng,quyền
hạn của các cơ quan đó thì phải tính đến các mặt sau đây :
- Phải tổ chức cơ quan đó như thế nào để phù hợp với yêu cầu khách quan,tất yếu
của công việc mà cơ quan đó phải đảm nhận , nghĩa là phải xác định về mặt tổ
chức , phân định chức năng,quyền hạn và mối quan hệ trong cơ quan và ngoài cơ
quan như thế nào .
- Phải tuyển chọn người lãnh đạo cơ quan và nhân viên cơ quan như thế nào để
họ có đủ khả năng về chuyên môn,sức khoẻ và các điều kiện khác để họ có thể
đảm đương được công việc của họ .
- Phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất và những điều kiện pháp lý cần
thiết để cơ quan hoạt động được .
Vì vậy,khi có một chức năng nào đó không thực hiện được hoặc thực hiện
kém hiệu lực thì phải tìm nguyên nhân trong những yếu tố trên .
2.1. Một số đại biểu Quốc hội được bầu ra theo cơ chế cũ (luật cũ)chưa có đủ
điều kiện để đảm đương công tác giám sát của Quốc hội trong công tác đổi
mới ở nước ta .
Theo quy định của Điều 3,luật Tổ chức Quốc hội:“ Hiệu quả hoạt động của
Quốc hội được đảm bảo thực hiện bằng hiệu quả hoạt động của các kỳ họp Quốc
hội, hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,của Hội đồng,Uỷ ban
của Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội ”.Như vậy,hiệu quả của hoạt động
giám sát của Quốc hội trước hết phụ thuộc vào hoạt động giám sát của các đại biểu
Quốc hội. Trong lĩnh vực giám sát trách nhiệm của đại biểu Quốc hội lại càng
nặng nề vì đó là việc phải xem xét và quyết định những vấn đề đã,đang và sẽ xảy
ra trong thực tế đời sống xã hội chứ không còn nằm trên văn bản như các luật của
Nhà nước.Để đảm đương được công tác giám sát này người đại biểu Quốc hội cần
có được những điều kiện sau :
Người đại biểu phải thực sự là người đại diện cho nhân dân,do dân tín nhiệm
bầu ra một cách hợp pháp .
- Người đại biểu phải có năng lực làm công tác quản lý xã hội,cụ thể là có năng
lực làm công tác giám sát tức là ít nhất cá nhân đại biểu phải có trình độ pháp lý
nhất định,hiểu biết sâu sắc Hiến pháp,tất cả các luật,Pháp lệnh,Nghị quyết của
Quốc hội đã ban hành vì đó là công cụ,là chuẩn mực để đối chiếu với hoạt động
thực tế.Không có công cụ này thì đại biểu Quốc hội không thể nhận xét và quyết
định thế nào là đúng, là sai,và người đại biểu phải am hiểu một cách sâu sắc thực
tiễn ở những vấn đề giám sát .
- Đại biểu cần có những điều kiện vật chất cần thiết bảo đảm cho hoạt động của
mình được tiến hành:thời gian,thông tin,cơ sở vật chất .
- Do phần lớn đại biểuQuốc hội làm việc theo chế độ kiêm nhiệm nên đại biểu
Quốc hội rất ít thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu nói chung và làm nhiệm vụ
giám sát nói riêng .Trong khi đó công tác giám sát đòi hỏi có nhiều thời gian và sự
tập trung thời gian là cần thiết .
- Cũng do hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm nên phần lớn đại biểu Quốc hội đã
hưởng lương theo công việc của mình ngoài ra nhận thêm phụ cấp đại biểu ít ỏi
việc cung cấp thông tin các phương tiện vật chất cần thiết bảo đảm cho đại biểu
hoạt động cũng bị hạn chế thể hiện rõ nhất là trong các kỳ họp Quốc hội,tài
liệu,báo cáo gửi cho các đại biểu thường chậm ,quá sát thời gian họp và thảo luận
về vấn đề đó.Khi ở địa phương ,không phải nơi nào cũng có đủ trụ sở cho đoàn đại
biểu Quốc hội làm việc ,làm nhiệm vụ tiếp dân và tiếp xúc với cử tri.Muốn giám
sát thì phải có phương tiện giao thông ,thông tin cần thiết thì mới thực hiện
được,nhưng trụ sở còn thiếu thì nói gì đến những điều kiện đó
- Vì vậy hiệu quả hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội có bị hạn chế là lý do
ý thức trách nhiệm của đại biểu nhưng nguyên nhân chính là Nhà nước đã không
quan tâm một cách đúng mức và hợp lý đến những điều kiện cần và đủ để đại biểu
Quốc hội thực hiện được đúng và đầy đủ quyền hạn của mình nhất là trong hoạt
động giám sát
2.2.Cơ cấu tổ chức của Quốc hội và cách làm việc của Quốc hội chưa tương
ứng với những yêu cầu của công tác giám sát
Như trên đã trình bày ,Quốc hội có chức năng giám sát tính hợp hiến hợp
pháp của tất cả các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước ban hành và giám
sát tính hợp pháp,hợp lý trong hoạt động của cơ quan Nhà nước,đơn vị vũ trang,tổ
chức xã hội và công dân .Như vậy ,chúng ta thấy đối tượng giám sát của Quốc hội
là rất rộng ,nội dung mà Quốc hội cần giám sát cũng rất đa dạng và phức tạp trên
mọi lĩnh vực của đời sống chính trị,kinh tế,quân sự, ngoại giao…
Để thực hiện việc giám sát đó,theo quy định của Hiến pháp năm 1980 chúng
ta nhận thấy :
- Quốc hội giao cho viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo hiến
pháp và pháp luật, tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp quy dưới luật
theo Điều 138 và phải báo cáo trước quốc hội theo Điều 141.
- Quốc hội giao cho Hội đồng nhà nước giám sát việc tuân theo hiến pháp và pháp
luật, công tác của Hội đồng Bộ trưởng, Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo Điều 100,điểm 7,Hiến pháp 1980 và giám sát
Hội đồng nhân dân các cấp theo quy định của Điều 100, điểm 9.
- Quốc hội bầu ra Hội đồng dân tộc và các uỷ ban Thường trực của Quốc hội giúp
quốc hội thực hiện việc quyền giám sát tối cao theo Điều 91 và Điều 92,Hiến
pháp năm 1980.
Và Quốc hội trực tiếp thực hiện quyền giám sát trong các kỳ họp quốc hội .
Quốc hội mỗi năm chỉ họp 2 kỳ nên trên thực tế thì chức năng giám sát của Quốc
hội do Hội đồng nhà nước, có sự giúp đỡ của Uỷ ban Thường trực đảm nhận và
chịu trách nhiệm phải báo cáo trước quốc hội.Hội đồng nhà nước chỉ có 12 thành
viên, không phải tất cả thành viên đều hoạt động chuyên trách, với một khối
lượng công việc lớn và nội dung đa dạng,phức tạp nhất là trong hoạt động quản lý
thì không thể đủ khả năng đảm đương một khối lượng công việc như vậy;các Uỷ
ban Thường trực của Quốc hội phần lớn cũng do các đại biểu kiêm nhiệm đảm
nhiệm do đó cũng không thể giúp Hội đồng Nhà nước trong một khối lượng công
việc lớn như vậy.Mặt khác ,chúng tôi nhận thấy ngay trong luật Tổ chức Quốc hội
và Hội đồng Nhà nước quy định về quyền hạn ,chức năng của các Uỷ ban trong
hoạt động giám sát cũng không xác định cụ thể và rõ ràng .Chúng ta đều biết rằng
hoạt động giám sát của Quốc hội được thể hiện ở hai mặt:
- Giám sát tính hợp hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà
nước ban hành.Trong tình hình hiện nay ,số lượng các văn bản đó rất lớn nhưng
cho đến nay Quốc hội chưa có một cơ quan chuyên trách nào đảm đương nhiệm vụ
xem xét tính hợp hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy dưới luật do Hội đồng
Bộ trưởng (Chính phủ)ban hành và những hướng dẫn thi hành luật và các văn bản
pháp quy khác do Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành .
Đối với những văn bản pháp quy dưới luật mà Hiến pháp đã giao cho Viện kiểm
sát nhân dân tối cao kiểm sát tính hợp hiến và hợp pháp và chịu trách nhiệm báo
cáo trước Quốc hội,vậy cơ quan của Quốc hội sẽ kiểm tra,giám sát công tác này
của Viện kiểm sát nhân dân .
-Về mặt giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động thực tiễn
của Hội đồng Bộ trưởng,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.Những cơ quan này có chức năng và nhiệm vụ quyền hạn rất rộng lớn và đa
dạng ,nhất là hoạt động quản lý của Hội đồng Bộ trưởng(Chính phủ)với một tổ
chức có số người ít mà lại không có chuyên trách như Hội đồng Nhà nước và các
Uỷ ban Thường trực của Quốc hội thì làm thế nào mà giám sát được.Vì vậy ,trên
thực tế hoạt động giám sát của Hội đồng Nhà nước đối với các cơ quan này chủ
yếu dựa vào việc nghe báo cáo là chính .
Việc phân định chức năng và nhiệm vụ quyền hạn của các Uỷ ban Thường
trực của Quốc hội có phần chưa rõ ràng ,cần phải quy định rõ chức năng và thẩm
quyền cho các Uỷ ban thường trực của Quốc hội nhất là trong hoạt động giám sát .
2.3. Về các điều kiện cần thiết cho hoạt động giám sát
Muốn thực hiện được quyền giám sát tối cao ,Quốc hội phải tiến hành các
hoạt động xem xét,theo dõi,đi kiểm tra thực tế…để làm được việc đó Quốc hội cần
có những điều kiện cơ bản :
+ Để tiến hành được các hoạt động giám sát một cách có hiệu quả các cơ quan của
Quốc hội cần có trụ sở làm việc,phương tiện giao thông và thông tin,có thư viện và
bộ phận lưu trữ về các tài liệu giám sát của Quốc hội,trước hết là các văn bản pháp
quy của các cơ quan chịu sự giám sát của Quốc hội,cho đến nay,những điều kiện
vật chất cần thiết đó vẫn chưa được đáp ứng.Nhất là về mặt thông tin,tư liệu và
việc xử lý các thông tin tư liệu đó .
+ Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta chưa được hoàn thiện và tình hình kinh tế –
xã hội lại luôn luôn biến động đòi hỏi phải có luật và sự sửa đổi ,bổ sung luật kịp
thời .
Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật thì trước hết phải có Hiến pháp
và một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh ,hay nói một cách khác phải có căn cứ vững
chắc để nhận xét , đánh giá một văn bản pháp quy nào đó là đúng hoặc sai hay để
kết luận một vụ việc nào đó là đúng hoặc sai đều phải dựa vào căn cứ pháp luật .
Trong khi đó ,mặc dù công tác làm luật của nước ta đã được tăng cường và đẩy
mạnh nhưng vẫn còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội chưa có luât
điều chỉnh .Ta còn thiếu luật về kinh tế và luật hành chính … Vậy trong những
trường hợp chưa có luật điều chỉnh hoạt động giám sát của Quốc hội sẽ được thực
hiện như thế nào ? Thực sự đó cũng là một khó khăn trong công tác giám sát của
Quốc hội .
Mặt khác ,nước ta đang trong thời kỳ đổi mới ,chuyển từ cơ chế cũ sang cơ
chế mới mà trước hết là sự chuyển sang cơ chế thị trường trong sản xuất kinh
doanh .Nhiều quy định của luật trước đây không còn phù hợp nữa ,nhưng vẫn chưa
được sửa đổi .Vậy trong những trường hợp này nhận xét đánh giá là khó khăn cho
công tác kiểm soát việc tuân theo pháp luật hiện nay nhưng đồng thời cũng có khó
khăn trong hoạt động giám sát của Quốc hội.
CHƯƠNG III
Những phương pháp tăng cường độ hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc
hội
Như trên đã trình bày, để thực hiện đựơc đúng chức năng và quyền hạn của Quốc hội
phải giải quyết tốt các vấn đề cơ bản là:
- Quốc hội cần có một số lượng đại biểu Quốc hội và số lượng những những
chuyên viên giúp việc hợp lý và những người đó phải có đủ những điều kiện về
trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,về độ tuổi và sức khỏe,về phẩm
chất đạo đức để có khả năng thực thi công vụ được giao.Điều đó đúng với mọi cơ
quan Nhà nước nhưng đối với Quốc hội thì vấn đề đó càng mang ý nghĩa lý luận
và thực tiễn rất quan trọng vì đaị biểu Quốc hội là người trực tiếp đại diện cho
quyền lợi của nhân dân,tham gia vào việc quyết định những vấn đề quan trọng
nhất của Nhà nước .
- Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội (kể cả cơ quan giúp việc)phải được tổ
chức chặt chẽ tức là phải có sự phân định thẩm quyền,chức năng và nhiệm vụ cho
từng đại biểu Quốc hội và cụ thể khi hoạt động,Quốc hội và các cơ quan của
Quốc hội phải tuân theo những nguyên tắc hoạt động chặt chẽ,đảm bảo được sự
phối hợp hoạt động của những cơ quan đó khi thực thi công vụ. Tức là phải có một
cơ chế tổ chức và hoạt động hợp lý.Điều đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc
là ở chỗ nó đảm bảo mọi công việc của Quốc hội phải có cơ quan của Quốc hội
đảm nhiệm và thực thi công vụ đồng thời phải có cơ sở để đánh giá,nhận xét và
xác định trách nhiệm pháp lý của các cơ quan đó trong việc thực thi công vụ mà
Quốc hội giao cho
- Quốc cần có những điều kiện cần thiết về mọi mặt để đảm bảo cho việc thực thi
nhiệm vụ và quyền hạn của mình.Trước hết là tài chính chi cho các hoạt động
hàng năm của Quốc hội và những cơ sở vật chất khác như trụ sở,nhà làm việc ,
phương tiện giao thông…tương ứng với công việc phải hoàn thành.Tất cả những
vấn đề trên phải được giải quyết một cách đồng bộ vì chúng quan hệ chặt chẽ với
nhau,do đó khi tìm nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động của Quốc hội thì cần
phân tích xem những vấn đề trên dã được giải quyết như thế nào và muốn tăng
cường hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội thì một lúc vừa phải giải quyết
những vấn đề chua hợp lý về con người vừa phải giải quyết về cơ chế hoạt động
và những điều kiện vật chất cần thiết trong việc thực hiện chức năng,quyền hạn
của Quốc hội nói chung và việc thực hiện quyền giám sát tối cao nói riêng
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung và Quốc hội nói riêng,
nhất là trong lĩnh vực giám sát là một quá trình.Không thể nào ngay một lúc có thể
giải quyết tất cả mọi vấn đề đặt ra trong hoạt động giám sát của Quốc hội theo ý
chí chủ quan của bất cứ ai mà phải dựa trên điều kiện lịch sử cụ thể về đời sống
kinh tế- văn hoá - chính trị xã hội cho phép.Vì vậy những vấn đề đổi mới tổ chức
và hoạt động giám sát của Quốc hội nêu ở đây được viết theo quan điểm lịch sử cụ
thể có những việc cần phải làm ngay nhưng cũng có những việc phải phụ thuộc
vào thời gian và điều kiện lịch sử.Do đó trước hết xuất phát từ thực tiễn của hoạt
động giám sát của Quốc hội và những điều kiện lịch sử cụ thể về mọi măt của
nước ta và tiếp thu tri thức của các nước khác trong quản lý xã hội bằng pháp
luật.Muốn tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội có lẽ nên tiến hành một số
phương pháp :
1 . Đổi mới tổ chức và phương pháp giám sát của Quốc hội.
1.1. Đổi mới tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội .
“ Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,làm việc
theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số
Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được đảm bảo bằng hiệu quả của các kỳ họp Quốc
hội,hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội và các đại
biểu Quốc Hội”(Điều 4,Luật tổ chức Quốc hội 2001). Như vậy hoạt động giám sát của
Quốc hội được thực hiện dưới những phương thức sau:
- Thông qua hoạt động của các kỳ họp Quốc hội,hoạt động của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội,hoạt động của Hội đồng và các Uỷ ban thường trực của Quốc hội , của
đoàn đại biểu Quốc hội,các đại biểu Quốc hội
Luật tổ chức Quốc hội mới có những quy định thể hiện rõ nét sự đổi mới về
quyền thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội.Những quy định về quyền
sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,của Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội trong
luật là khá rõ,nhất là thẩm quyền giám sát của các Hội đồng và các Uỷ ban của
Quốc hội.So với Hiến pháp 1980 và luật Tổ chức cũ thì đây là một bước tiến đáng
kể.Nhưng để Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao của mình
theo luật định thì cách tổ chức và hình thức thực hiện quyền giám sát của Quốc hội
như trên vẫn còn những điểm chưa hợp lý ở chỗ: Theo quy định của Luật Tổ chức
Quốc hội thì Quốc hội có Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng dân tộc và bảy
Uỷ ban của Quốc hội(Uỷ ban pháp luật;Uỷ ban kinh tế và ngân sách;Uỷ ban quốc
phòng và an ninh;Uỷ ban văn hoá,giáo dục,thanh niên thiếu niên và nhi đồng;Uỷ
ban về các vấn đề xã hội;Uỷ ban khoa học,công nghệ và môi trường;Uỷ ban đối
ngoại)làm việc thường xuyên và có thẩm quyền giám sát trông phạm vi nhất
định.Nhưng những cơ quan trên của Quốc hội không đủ thẩm quyền để giải quyết
những việc sau:
Theo quy định của Điều 91,điểm 5 tại Hiến pháp 1992:“Giám sát việc thi hành
Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội , pháp lệnh nghị quyết của Quốc hội,pháp
lệnh,nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,giám sát hoạt độngcủa Chính
phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đình chỉ việc thi hành
các văn bản của Chính phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp,luật,nghị quyết của Quốc hội và trình
Quốc hội quyết định huỷ bỏ các văn bản đó;huỷ bỏ các văn bản của Chính
phủ,Thủ tướng Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trái với pháp lệnh,nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.”Trong khi đó yêu
cầu khách quan của hoạt động giám sát với tính cách là một hoạt động quản lý cần
có sự xem xét và quyết định chính xác,kịp thời mà“Quốc hội họp mỗi năm hai kỳ
do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội triệu tập” (Điều 86).Vậy trong thời gian Quốc hội
không họp,vấn đề triệu tập trên nếu xảy ra thì cơ quan nào của Quốc hội giải
quyết? Triệu tập Quốc hội họp bất thường theo quy định của Điều 86 về một văn
bản pháp quy nào đó thì bị coi là bất hợp hiến,là điều không thực tế và Quốc hội
không thể luôn luôn họp bất thường được
Trong trường hợp Chủ tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm
sát nhân dân tối cao không đồng ý với kết luận và kiến nghị của Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội,của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội về tính hợp hiến,hợp pháp
của các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước nói trên ban hành thì ai giải
quyết hay phải chờ đến kỳ họp Quốc hội gần nhất.Làm thế nào để bảo đảm tính
khách quan và đúng đắn của các quyết định và kiến nghị của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội và của Hội đồng,Uỷ ban Thường vụ quốc hội về tính hợp hiến,hợp pháp
cuả các văn bản pháp quy do các cơ quan Nhà nước trên ban hành khi mà cơ quan
ban hành đó chỉ có nghĩa vụ phải chấp hành những Nghị quyết của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội và các kiến nghị của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội .
Trong trường hợp Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Hội đồng và các Uỷ ban của
Quốc hội xét thấy có vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp và pháp luật trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước kể trên nhất là những người giữ chức vụ cao trong
các cơ quan đó thì kiến nghị giải quyết như thế nào ?
Những vấn đề chưa hợp lý trên có thể giải quyết theo hai hướng:Một là, tăng
thêm thẩm quyền cho các các quan của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát. Hai là
lập ra một cơ quan mới của Quốc hội để đảm nhiệm những công việc mà các cơ
quan hiện có của Quốc hội hiện chưa làm được .
Trước hết như đã trình bày,kỳ họp Quốc hội là một hình thức tổ chức thực hiện
quyền giám sát quan trọng nhất của Quốc hội.Để đáp ứng yêu cầu khách quan
trong công tác giám sát của Quốc hội nên quy định trong luật tổ chức Quốc hội về
quyền quyết định kế hoạch giám sát hàng năm của Quốc hội .
Vấn đề này thuộc thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội theo quy định
của luật Tổ chức Quốc hội tại Điều 11.Cũng như chức năng lập pháp, giám sát
cũng là một chức năng rất quan trọng của Quốc hội và có quan hệ hữu cơ với chức
năng lập pháp. Vì sao kế hoạch giám sát hàng năm được Quốc hội thông qua còn
kế hoạch giám sát lại do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua và quyết định. Kế
hoạch giám sát hàng năm của Quốc hội phải do Quốc hội quyết định vì hai lý
do:Thứ nhất,việc quyết định cần tập trung hoạt giám sát của Quốc hội vào vấn đê
gì phải đươc các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua và đó là sự thể hiện
quyền lực của nhân dân trong lĩnh vực giám sát. Thứ hai,công tác giám sát có quan
hệ chặt chẽ với công tác lập pháp,là một khâu không thể thiếu trong hoạt động lập
pháp của Quốc hội như trên đã trình bày do đó kế hoạch lập pháp hàng năm của
Quốc hội không thể tách rời kế hoạch giám sát hàng năm đó.Và vấn đề cuối cùng
là Quốc hội cần quyết định vấn đề tài chính chi cho hoạt động lập pháp và hoạt
động giám sát của Quốc hội.Nếu không có kế hoạch và dự trù ngân sách cho hoạt
động giám sát trong năm đó thì kế hoạch đó thiếu đi một điều kiện quan trọng để
triển khai thực hiện.Cũng như chương trình,kế hoạch xây dựng luật,chương trình
hoạt động giám sátcủa Quốc hội cần được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chuẩn bị
và Quốc hội thông qua.Chương trình,kế hoạch đó phải ghi rõ:những vấn đề cần tập
trung giám sát trong năm,người và cơ quan thực hiện,thời gian thực hiện, kinh phí
và phương tiện để thưc hiện kế hoạch đó . Trên cơ sở của chương trình đó,mỗi Hội
đồng và Uỷ ban của Quốc hội cần có trình và kế hoạch giám sát của Hội đồng và
Uỷ ban trong phạm vi giám sát mà luật đã quy định .
Mặt khác,cần tăng cường số lần họp trong một năm của Quốc hội và thời gian của mỗi
kỳ họp cũng phải kéo dài hơn.Như chúng ta đã biết,Quốc hội của các nước khác có thời
gian họp kéo dài hơn thời gian họp của nước ta rất nhiều.Trong điều kiện kinh tế–xã hội
như nước ta hiện nay,nhất là số đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ kiêm nhiệm vẫn là
chủ yếu thì việc kéo dài quá thời gian họp của mỗi kỳ họp hoặc có quá nhiều kỳ họp trong
một nămlà điều khó có thể thực hiện được.Vì vậy trước mắt cần tăng số lượng các kỳ họp
Quốc hội trong một nămtừ hai lên ba lần và thời gian của mỗi kỳ họp có thể kéo dài tới một
tháng.Thực tiễn hoạt động của Quốc hội khoá IX trong năm 1992 cho ta thấy hoàn toàn có
thể thực hiện được vấn đề trên.Trong công cuộc đổi mới ở nước ta,chế độ hoạt động kiệm
nhiệm của đại biểu Quốc hội và số đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm sẽ còn tồn tại
lâu dài và vì vậy,khả năng kéo dài thời gian họp Quốc hội như ở các nước khác là điều rất
khó thực hiện.Do đó,giải pháp thực tế nhất là tăng dần số kỳ họp Quốc hội trong một năm
lên tới bốn lần thì có thể tiến tới đạt được những yêu cầu khách quancủa hoạt động giám sát
của Quốc hội .
- Theo quy định của luật Tổ chức Quốc hội thì Uỷ ban Thường vụ Quốc hội là cơ
quan thường trực của Quốc hội,thẩm quyền giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
được quy định trong luật khá rõ như đã trình bày ở trên.Nhưng theo luật định,Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội cũng chưa có thẩm quyền quyết định tính hợp hiến , hợp pháp trong
hoạt động thực tiễn và trong các văn bản pháp quy của các cơ quan Nhà nước ở Trung
ương.Cùng với việc tăng số lượng các kỳ họp của Quốc hội trong một năm nên hướng của
Quốc hội là tăng thẩm quyền cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội , Hội đồng và các Uỷ ban
của Quốc hội trong lĩnh vực giám sát.Trước đây , theo quy định của Hiến pháp 1946 thì
ban thường trực Quốc hội đã có quyền biểu quyết thông qua các sắc luật của Chính phủ.Đó
chính là sự giám sát trực tiếp tính hợp hiến,hợp pháp trong các văn bản pháp quy do Chính
phủ ban hành .Vì vậy,việc tăng thẩm quyền giám sát cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
không phải là một vấn đề mới . Trong tình hình xây dựng văn bản pháp luật như ở nước ta
hiện nay thì văn bản pháp quy dưới luật của Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đóng một vai trò rất quan trọng.Chính những văn bản pháp quy
đó đưa pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội.Do đó cần quy định trong Hiến pháp và
pháp luật thêm thẩm quyền của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.Uỷ ban thườngvụ Quốc hội
có quyền xét và quyết định về tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản pháp quy do các cơ
quan nhà nước nói trên ban hành và trình Quốc hội phê chuẩn.Cần sớm khắc phục tình
trạng thực tế hiện nay là các văn bản pháp quy dưới luật của Chính phủ,của Toà án nhân
dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao không được Quốc hội giám sát chặt chẽ .
- Về thẩm quyền và phương pháp giám sát của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc hội tuy
đã được luật định khá rõ nhưng thực chất các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội vẫn là
giúp Quốc hội giám sát vì các uỷ ban chỉ có quyền kiến nghị chứ chưa có quyền quyết định
và xử lý những đối tượng chịu sự giám sát của các Uỷ ban theo luật định .
Cần tăng cường hơn nữa thẩm quyền giám sát của các Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để
phát huy tính độc lập,năng động trong hoạt động giám sát của các Uỷ ban của Quốc
hội.Có thể quy định cho cho các Uỷ ban của Quốc hội có quyền đình chỉ việc thự hiện các
văn bản pháp quy của Chính phủ Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân và trình Quốc
hội và quyết định tính hợp hiến , hơ pháp trong các văn bản pháp quy.Tất nhiên đó chỉ là
những văn bản pháp quy về những vấn đề của Uỷ ban đó có quyền giám sát theo luật định
.
- Vấn đề thành lập Uỷ ban giám sát của Quốc hội .
Có các ý kiến thành lập một cơ quan mới của Quốc hội để thực hiện quyền giám sát tối
cao của Quốc hội gọi là Uỷ ban giám sát của Quốc hội.Trong thời gian Quốc hội,Uỷ ban
này có thể giải quyết những vấn đề nói trên.Vấn đề này theo điều tra xã hội học của Trường
hành chính Trung ương thì :
“ a, Lập Hội đồng bảo vệ tính hợp hiến :
+ Nên:261 phiếu 54 %
+ Chưa:79 phiếu 16 % .”
- Quan điểm của chúng tôi là:Trong điều kiện của nước ta khi chưa thành lập được Toà án
Hiến pháp thì cần có Uỷ ban giám sát Hiến pháp có chức năng, quyền hạn giống như Toà
án Hiến pháp ở các nước khác chủ yếu là hai chức năng:
- Xem xét và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp, quyết định về
tính hợp Hiến ,hợp pháp của các văn bản pháp quy do Chính phủ,Chủ tịch nước,Toà án
nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành trong thời gian Quốc hội không
họp và không chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội
- Xem xét và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,lúc Quốc hội không họp,giải quyết những
tranh chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan Nhà nước;Chính phủ, Toà án nhân dân tối
cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao:giải quyết những khiếu nại về tính hợp hiến,hợp pháp
trong các văn bản pháp quy mà cơ quan Nhà nước nói trên không đồng ý với Nghị quyết
và kiến nghị cua Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của Hội đồng,Uỷ ban của Quốc hội và
chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội
Trong quá trình soạn thảo Hiến pháp 1992,cũng có nhiều ý kiến muốn thành Hội đồng
giám sát Hiến pháp với chức năng quyền hạn trên.Chúng tôi nhận thấy quan điểm đó có
nhiều điểm hợp lý sau:
Một là:Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là một trong những chức
năng và quyền hạn của Quốc hội,cần có một cơ quan chuyên trách của Quốc hội
đảm nhận vì:thứ nhất,bất kỳ một công việc nào cũng có sự chuyên môn hoá cao
mới có khả năng làm tốt công việc;thứ hai việc chia nhỏ một chức năng giám sát
cho những cơ quan của Quốc hội đảm nhận là một điều rất hạn hữu trong khoa học
quản lý vì càng nhiều đầu mối thì bộ máy càng phình ra, khó theo dõi và điều hành
công việc.Quốc hội có Uỷ ban của pháp luật tại sao không có Uỷ ban giám sát?
Phải chăng giám sát bị coi nhẹ .
Hai là:Công tác lập pháp tuy ngày được đẩy mạnh nhưng xã hội ta đang vận
động nhanh,mạnh theo cơ chế thị trường.Cần giám sát kịp thời bổ sung,sửa luật
cho phù hợp vói thực tiễn xã hội.Nếu chậm thì tác dụng kìm hãm sự phát triển
kinh tế,xã hội không phải là nhỏ.Nếu cứ như cơ chế hiện nay thì không đáp ứng
được yêu cầu của Quốc hội không thể cứ luôn luôn họp bất thường chỉ để sửa luật
hoặc đình chỉ việc thi hành đạo luật nào đó .
Ba là:Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhưng có sự
phân công,phân cấp rành mạch,tức là mỗi cơ quan Nhà nước làm việc theo quyền
hạn do luật định.Vì vậy Quốc hội tuy là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao
nhưng cũng phải làm theo luật kể cả trong hoạt động giám sát nếu Chính phủ,Toà
án nhân dân tối cao…cho là mình không vi phạm Hiến pháp,không đồng ý với các
kết luận của Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội thì họ cũng phải được trình bày
trước Quốc hội và Quốc hội có cơ quan giám sát là Uỷ ban giám sát Hiến pháp để
giải quyết những vấn đề trên.Hội đồng giám sát Hiến pháp tuy chưa phải là cơ
quan tài phán như Toà án Hiến pháp của một số nước tư sản nhưng là cơ quan
giúp Quốc hội giải quyết những vấn đề trên.
1.2. Đổi mới phương pháp giám sát của Quốc hội .
Như trên đã trình bày để giám sát được hoạt động của các cơ quan Nhà nước
theo quy định của luật Quốc hội sử dụng những phương pháp sau:xét báo cáo,chất
vấn,kiểm tra thực tế giải quyết đơn thư và thông tin trên các phương tiện thông tin
đại chúng.Những phương pháp trên cần đổi mới theo phương hướng :
- Báo cáo là một hình thức cung cấp thông tin bằng văn bản của các cơ quan Nhà
nước đến với Quốc hội.Báo cáo giúp Quốc hội nắm được thông tin chính
xác,đầy đủ kịp thời tình hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong phạm vi
giám sát của Quốc hội.Mặt khác chế độ báo cáo là một hình thức quan trọng
trong việc nhắc nhở và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước
Quốc hội về việc thực hiện các chức năng,quyền hạn của các cơ quan Nhà nước
đó.Để đáp ứng được yêu cầu của Quốc hội là có được thông tin chính xác đầy đủ
và kịp thời củacác cơ quan Nhà nước cần quy định trong luật về chế độ báo
cáo,hình thức báo cáo,những quy định về nội dung,hình thức và số lượng của
văn bản báo cáo,quy trình thẩm tra báo cáo và quy định về trách nhiệm nếu báo
cáo không đạt tiêu chuẩn như thông tin sai lệch,thông tin không đầy đủ,thông tin
chậm .
- Về chế độ báo cáo:nên quy định rõ phải có ba chế độ báo cáo là:báo cáo thường
kỳ hàng năm trong kỳ họp Quốc hội;báo cáo thường kỳ hàng tháng, hàng quý
cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp,báo cáo khi có sự
kiện chính trị,kinh tế–xã hội tác động lớn đến đời sống xã hội khi Quốc hội hoặc
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu hoặc do chính các cơ quan Nhà nước yêu
cầu theo quy định của luật
- Về hình thức báo cáo,yêu cầu về một bản báo cáo:tất cả các báo cáo đều phải
dưới hình thức văn bản,có chữ ký và con dấu của cơ quan báo cáo.Nếu là báo
cáo thường kỳ thì nội dung của bản báo cáo phải cung cấp đầy đủ thông tin về
hoạt động của các cơ quan Nhà nước theo chức năng , quyền hạn mà luật quy
định(cần quy định những mẫu báo cáo cả về nội dung và hình thức).Cần ấn định
số lượng báo cáo tuỳ theo sự cần thiết cho người đọc báo cáo đó.Cần quy định
về thời gian phải nộp báo cáo.Nếu là báo cáo khác thì do Quốc hội và Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội yêu cầu.Nội dung các báo cáo nhất thiết phải có mục:chi
tiêu khoản ngân sách mà Nhà nước cấp cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước
đó , vì giám sát được tình hình tài chính thì cũng giám sát được toàn bộ hoạt
động của cơ quan đó(hoạt động thì phải có tiền).Mặt khác,nội dung báo cáo phải
có sự phân tích tình hình,nguyên nhân,quy kết trách nhiệm và phương hướng
khắc phục .
- Về cách thẩm tra báo cáo:sau khi nhận được báo cáo,những người và cơ quan
có thẩm quyền đọc,xem xét và cần trao đổi trước những vấn đề cần hỏi, góp ý cho
báo cáo sau đó mới mời cơ quan có báo cáo đến trình bày xét thấy cần thiết.Khi
họp để thẩm tra,không cần cơ quan đó đọc lại bản báo cáo mà chỉ trả lời những
vấn đề mà những người,cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.Cũng có thể không cần
họp mà chỉ trao đổi bằng văn bản.Nếu thấy cần thiết,có thể đi thực tế kiểm tra
những điểm mà báo cáo chưa nêu rõ hoặc có những mâu thuẫn với những thông
tin khác thu nhận được qua đơn thư hoặc phương tiện thông tin đại chúng.Có thể
công khai nội dung của các báo cáo trước công luận nếu xét thấy cần thiết .
- Về trách nhiệm ngoài những quy định của bộ luật hình sự thì cần quy định
trách nhiệm của những người và cơ quan báo cáo khi báo cáo chậm thông tin
không chính xác,không đầy đủ,không kịp thời .
- Chất vấn là một phương pháp giám sát rất quan trọng của Quốc hội,luật Tổ
chức Quốc hội,Hiến pháp…đã có nhiều quy định rõ và chặt chẽ về vấn đề này .
Tuy nhiên cần bổ sung một số điểm:Về hình thức chất vấn:nên quy định và phân
loại nội dung,vấn đề nào thì bắt buộc phải chất vấn bằng văn bản,vấn đề nào có thể
bằng văn bản hoặc bằng lời nói để nâng cao trách nhiệm và chất lượng của nội
dung chất vấn của các đại biểu Quốc hội .
Về trách nhiệm và hình thức trả lời chất vấn:cần quy định mọi chất vấn phải
được trả lời công khai trước đại biểu Quốc hội trong kỳ họp Quốc hội bằng văn
bản nếu đó là chất vấn bằng văn bản hoặc có thể bằng lời nói nếu chất vấn được
thể hiện bằng lời nói.Nếu không phải trong kỳ họp thì phải bắt buộc trả lời bằng
văn bản và văn bản này phải được gửi tới tất cả các đại biểu Quốc hội .
Nên quy định về tranh luận công khai trong kỳ họp Quốc hội nếu như nội
dung các chất vấn không trả lời đầy đủ và chính xác,nếu như đại biểu có chất vấn
đưa ra lý lẽ và chứng cứ chứng minh một điểm nào đó trong báo cáo hoặc trong
nội dung trả lời chất vấn của cơ quan có báo cáo và bị chất vấn thì người đứng đầu
cơ quan Nhà nước đó phải có trách nhiệm trả lời.Có thể tiến tới áp dụng chế định
đối thoại trong một tương lai không xa để tăng cường trách nhiệm của những
người đứng đầu các cơ quan Nhà nước Trung ương về hoạt động của các cơ quan
đó trước Quốc hội .
- Về kiểm tra thực tế của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và của các Hội đồng và
các Uỷ ban của Quốc hội hoặc Uỷ ban lâm thời do Quốc hội thành lập .
Kiểm tra thực tế là một phương pháp để xem xét lại những thông tin Quốc hội
nhận được có chính xác và đầy đủ không.Muốn đạt được mục đích đó,Quốc hội
cần có quy định trong luật về chế độ kiểm tra,các hình thức đi kiểm tra, trình tự và
thẩm quyền kiểm tra .
- Về chế độ kiểm tra nên có chế độ kiểm tra thường kỳ với mục đích định ra
thời hạn kiểm tra trong một năm đối với các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát
của Quốc hội.Việc kiểm tra thường kỳ có thể thông báo trước cho các cơ quan Nhà
nước chịu sự giám sát của Quốc hội biết trước và chuẩn bị báo cáo .
Mặt khác,khi cần thiết Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội có thể đi thực
tế địa phương , kiểm tra những vấn đề mà Quốc hội xét thấy cần phải thẩm tra.Với
chế độ kiểm tra đó,Quốc hội đã đặt các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát của
Quốc hội vào tình trạng hoạt động trong sự giám sát,kiểm tra thường xuyên của
Quốc hội chứ không phải chỉ đến kỳ họp Quốc hội các cơ quan Nhà nước trên mới
bị đặt trong tình trạng bị giám sát .
- Về hình thức kiểm tra:có thể là kiểm tra trước hoặc kiểm tra sau khi Quốc hội
nhận được báo cáo.Việc kiểm tra của Quốc hội không thể như hoạt động giám sát
của Viện kiểm sát nhân dân hoặc hoạt động thanh tra của Chính phủ. Quốc hội và
các cơ quan của Quốc hội đi thực tế địa phương trước hết là nghe các cơ quan Nhà
nước ở địa phương báo cáo,đặt ra những câu hỏi cần thiết và đến xem tình hình
thực tế,có thể tiếp xúc với cử tri và nghe tâm tư,tình cảm, nguyện vọng của cử
tri.Việc kiểm tra nhằm mục đích thu nhận thông tin chính xác chứ không phải xử
lý tình huống.Những thông tin đó làm cơ sở thực tế cho việc chất vấn các cơ quan
chức năng có thẩm quyền của Nhà nước về những vấn đề chưa chính xác trong
báo cáo của các cơ quan Nhà nước đó .
Về trình tự và thẩm quyền kiểm tra và trách nhiệm của những cơ quan Nhà
nước cung cấp thông tin : hiện nay chưa có những quy định cụ thể về vấn đề
này,cần phải xây dựng những quy định đó để phân định hoạt động đi thực tế, kiểm
tra của các cơ quan của Quốc hội khác với hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và hoạt động thanh tra của Chính phủ .
Về việc giải quyết đơn thư khiếu nại của công dân và việc thu thập thông tin
qua các phương tiện thông tin đại chúng .
Hiện nay,Quốc hội chưa có một cơ quan chuyên trách đảm nhận công việc này , việc
giải quyết các đơn thư khiếu nại của nhân dân do các Uỷ ban của Quốc hội đảm nhận trong
phạm việc giám sát của Uỷ ban đó.Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay , vấn đề
mở rộng dân chủ đòi hỏi những đơn thư của công dân gửi đến Quốc hội cần phải được xử
lý kịp thời.Vì vậy cần có một cơ quan chuyên trách của Quốc hội đảm nhận việc này,có thể
thành lập cơ quan đó với tên gọi là Thanh tra Quốc hội.Thanh tra Quốc hội có chức năng,
nhiệm vụ tiếp nhận và xử lý các đơn , thư của công dân gửi đến Quốc hội,theo dõi tình hình
mọi mặt của đời sống xã hội qua các phương tiện thông tin đại chúng để nghiên cứu,kiến
nghị những biện pháp cần thiết đối với những việc việc phạm pháp luật nghiêm trọng,ảnh
hưởng lớn đến đời sống xã hội xét về bản chất,Thanh tra Quốc hội cũng có thể có tên gọi
khác là Uỷ ban dân nguyện của Quốc hội vì cơ quan đó cũng là giúp Quốc hội trong việc
thực hiện chức năng,nhiệm vụ của Quốc hội,Thanh tra Quốc hội cũng có thể tổ chức và
hoạt động như các Uỷ ban khác của Quốc hội nhưng chỉ trong lĩnh vực giải quyết các đơn
thư khiếu nại của nhân dân và thu thập tin tức về tình hình thi hành pháp luật được đưa tin
trên các phương tiện thông tin đại chúng .
Những phương pháp trên chủ yếu là dùng để giám sát hoạt động thực tế của
các cơ quan Nhà nước trong phạm vi giám sát của Quốc hội.Nhưng cũng có thể áp
dụng để thực hiện việc giám sát tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản pháp quy
do các cơ quan Nhà nước trên ban hành.Tuy nhiên,để đạt được điều đó thì cần quy
định trong việc báo cáo bằng văn bản,các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm báo
cáo trước Quốc hội phải cung cấp và báo cáo về những văn bản do cơ quan Nhà
nước đó ban hành.Trong các Hội đồng và Uỷ ban của Quốc hội phải có một bộ
phận chuyên trách để theo dõi và nghiên cứu những văn bản pháp quy đó .
2 . Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu và điểu kiện làm việc của đại biểu trong công
tác giám sát .
Để thực hiện được nhiệm vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp,pháp luật và
nghị quyết của Quốc hội,cả đại biểu Quốc hội cần đáp ứng được những yêu cầu
sau :
- Phải thực sự là người đại diện cho ý chí của nhân dân .
- Phải am hiểu thực tế sâu sắc về lĩnh vực mà mình giám sát
- Phải hiểu biết sâu sắc về Hiến pháp , luật , Nghị quyết của Quốc hội về
những vấn đề mà mình giám sát
Về vấn đề này,luật bầu cử đại biểu Quốc hội mới được Quốc hội thông qua
ngày 15/4/1992 và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã có những đổi mới đáng kể so
với luật bầu cử cũ. uật bầu cử đại biểu Quốc hội mới rất chú trọng đến chất lượng
và tiêu chuẩn của đại biểu.Điều 3,luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:“đại biểu
Quốc hội phải là người trung thành với tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,phấn
đấu thực hiện công cuộc đổi mới,làm cho dân giầu,nước mạnh, có trình độ hiểu
biết và năng lực thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội, tham gia quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước,có phẩm chất và đạo đức tốt,gương mẫu chấp
hành pháp luật,được nhân dân tín nhiệm”đây là quy định mới của luật,tuy chưa thể
khái quát hoá được trình độ và năng lực làm nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội là
trình độ và năng lực về vấn đề gì,nhưng luật cũng thể hiện sự cần thiết phải nâng
cao năng lực,trí tuệ của đại biểu Quốc hội vì xét đến cùng,năng lực,trí tuệ của đại
biểu Quốc hội là một vấn đề có tính chất quyết định hiệu quả hoạt động giám sát
của Quốc hội,vì đại biểu Quốc hội là một vấn đề có tính chất quyết định hiệu quả
giám sát của Quốc hội,vì đại biêủ Quốc hội là người trực tiếp thay mặt cử tri thực
hiện quyền lực Nhà nước .
Năng lực trí tuệ của đại biểu Quốc hội bao gồm rất nhiều yếu tố khác nhau
nhưng trong hoạt động giám sát đại biểu Quốc hội cần có trình độ hiểu biết về lý
luận và thực tiễn về vấn đề mà mình giám sát và trình độ biểu biết về luật,Nghị
quyết của Quốc hội về những vấn đề mình tham gia giám sát.Mỗi đại biểu Quốc
hội có một trình độ và năng lực hiểu biết về lý luận và thực tế khác nhau nhưng để
giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật thì đòi hỏi đại biểu Quốc hội nào
cũng phải nắm vững nội dung Hiến pháp và luật mà Quốc hội đã thông qua.Nhưng
không phải đại biểu nào cũng đều là luật gia,do đó Quốc hội cần có những hình
thức tổ chức và phương pháp để nâng cao trình độ luật cho đại biểu,ở các nước tư
sản cũng không phải mọi nghị sĩ Quốc hội đều có bằng cử nhân luật,vấn đề là cách
giải quyết.Trong quy chế của đại biểu Quốc hội nên có những quy định về hình
thức tổ chức và phương pháp để nâng cao trình độ pháp luật của đại biểu Quốc
hội.Các hình thức đó là:
- Đại biểu Quốc hội phải được cung cấp đầy đủ tư liệu và tài liệu về những dự
án luật và luật đã có hiệu lực pháp luật.Cần có những hình thức phong phú để đại
biểu tham gia vào việc thảo luận và tham gia thông qua luật và nhất là phải được
các Uỷ ban của Quốc hội thuyết trình về những dự án luật đó .
- Cần tổ chức những lớp học ngắn Nhà nước hạn để đại biểu Quốc hội được học tập
một cách có hệ thống về những văn bản luật,về Hiến pháp và luật Tổ chức bộ máy Nhà
nước .
- Về chế độ và điều kiện làm việc của đại biểu Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội
cũng có những đổi mới rõ nét , nhất là vấn đề đại biểu Quốc hội làm việc chuyển
trách,theo quy định tại Điều 37 của luật:“trong số các đại biểu Quốc hội,có những
đại biêủ làm việc chuyên trách và có đại biểu làm việc theo ché độ không chuyên
trách.Số lượng đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ chuyên trách do Quốc hội
quyết định”và Điều 52:“lương và các khoản phụ cấp khác của đại biểu Quốc hội
do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định.”
- Về vấn đề thứ nhất,quan niệm của chúng tôi là Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội,các Uỷ ban,Hội đồng của Quốc hội phải do các đại biểu Quốc hội làm việc
chuyên trách đảm nhận vì:Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,Hội đồng và các Uỷ ban
của Quốc hội được luật quy định rõ thẩm quyền và nhiệm vụ kể cả nhiệm vụ giám
sát,để thực hiện được nhiệm vụ giám sát,các cơ quan trên của Quốc hội làm việc
theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số chứ không làm việc theo chế độ thủ
trưởng như trong cơ quan hành chính của Nhà nước.Do đó ,để đảm bảo cho các cơ
quan này của Quốc hội hoàn thành nhiệm vụ của mình,đưa ra dựoc những kiến
nghị đúng và kịp thời thì thành viên của những cơ quan đó phải là chuyên
trách.Nếu tỷ lệ đại biểu kiêm nhiệm quá nhiều thì không đảm bảo sự hoạt động
thường xuyên của các cơ quan đó được;mỗi Uỷ ban và Hội đồng có một lĩnh vực
giám sát chuyên sâu.Nếu không chuyên môn hoá cao thì ảnh hưởng trực tiếp đến
quyết định và kiến nghị của Uỷ ban.
- Vấn đề thứ hai,trong khi Nhà nước ta chưa có cải cách căn bản về chế độ tiền lương
thì quy định như ở trong luật là một giải pháp đúng.Tuy nhiên ,vì đây là vấn đề cấp bách
cần phải giải quyết do đó cũng cần tham khảo thêm về vấn đề này ở một số nuớc .
Trong điều kiện ở nước ta thì nên để Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định về vấn đề
lương của đại biểu còn phụ cấp của đaị biểu thì nên lấy từ ngân sách hoạt động của Quốc
hội,tuỳ theo yêu cầu và kế hoạch hoạt động hàng năm của Quốc hội mà Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội có thể ra những quyết định khác nhau về vấn đề này :
Để đại biểu Quốc hội làm được nhiệm vụ giám sát,Hiến pháp 1992 còn quy định hai
vấn đề quan trọng nữa là:Quyền được thông tin của đại biểu Quốc hội theo Điều 100 Hiến
pháp 1992 và luật Tổ chức quy định ở Điều 46
Trong điều kiện ở nước ta,luật cần quy định trách nhiệm Chính phủ phải
thông tin cho đại biểu Quốc hội chứ không nên quy định như trong Điều 46 của
luật hiện nay nhất là đối với hoạt động giám sát của Quốc hội.Nên quy định Chủ
tịch nước,Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao…phải gửi tài liệu (trước hết là:các
văn bản pháp quy do các cơ quan đó ban hành ,các tài liệu tham khảo và các tạp
chí thông tin của các cơ quan đó)về thư viện của Văn phòng Quốc hội có nhiệm vụ
in và chuyển đến các đại biểu Quốc hội những tài liệu nói trên và lưu trữ một phần
ở thư viện của Văn phòng Quốc hội .Thực tế nhiều năm qua cho thấy,vì không có
quy định này,nên thư viện của Văn phòng Quốc hội không có những tư liệu nói
trên để phục vụ hoạt động của Quốc hội và từng đại biểu Quốc hội cũng không thể
biết những cơ quan Nhà nước nói trên đã ban hành những văn bản nào mà yêu
cầu.Về quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội,luật Tổ chức Quốc hội quy định ở
Điều 49,quy định như vậy là chặt chẽ .
Tóm lại,những tiêu chuẩn và điều kiện để đại biểu Quốc hội làm được đúng chức
năng,nhiệm vụ của mình ,trong đó có nhiệm vụ giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp
luật ,Hiến pháp 1992 và luật Tổ chức Quốc hội mới đã có những đổi mới sâu sắc và mạnh
mẽ .
3 . Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và những điều kiện cần
thiết để đảm bảo cho Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao
của mình theo luật định
Về vấn đề này,quan niệm của chúng tôi là
3.1. Tăng cường và đổi mới công tác lập pháp của Quốc hội .
Nhà nước cần phải sớm ban hành và xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp
luật,phải pháp chế hoá các quan hệ xã hội.Đó là một trong những yếu tố đầu tiên
để Quốc hội thực hiện tốt quyền giám sát tối cao của mình.Hiến pháp và pháp luật
là một trong những căn cứ để Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao.Hiện nay
còn nhiều lĩnh vực,nhất là trong hoạt động quản lý,Nhà nước chưa có luật để điều
chỉnh các quan hệ đó hoặc những quy định của pháp luật cũ đã lạc hậu so với thực
tế xã hội.Điều đó gây khó khăn lớn cho hoạt động giám sát của Quốc hội,nhất là
việc giám sát tính hợp hiến,hợp pháp trong hoạt động,quản lý của Chính phủ.Cần
phải nâng cao kỹ thuật lập pháp hơn nữa .Mỗi khi có một văn bản luật được trình
Quốc hội xẽ xét thì Chính phủ phải gửi kèm theo luôn những văn bản hướng dẫn
thi hành luật đó.Quốc hội chưa nắm được hết số lượng văn bản pháp quy của
Chính phủ thì cũng không thể kiểm tra tính hợp hiến,hợp pháp của các văn bản đó
3.2.Cần phải có luật về hoạt động giám sát của Quốc hội
Trước hết,về một văn bản ,Quốc hội cần có luật về giám sát chứ không phải
là quy chế hoạt động của Quốc hội hoặc văn bản pháp quy khác vì:giám sát là một
chức năng,quyền hạn quan trọng của Quốc hội,hoạt động giám sát của Quốc hội
tác động đến nhiều cơ quan Nhà nước cấp cao:Chính phủ,Toà án nhân dân tối
cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao…Nói cách khác ,Quốc hội có quan hệ với các
cơ quan cao cấp của Nhà nước trong khi thực hiện hoạt động giám sát của Quốc
hội.Những nghị quyết của Quốc hội trong công tác giám sát tác động mạnh mẽ và
sâu sắc đến hoạt động của các cơ quan Nhà nước nói trên kể cả về mặt trách nhiệm
của những người đứng đầu cơ quan đó.Vì vậy,cần phải quy định rõ mối quan hệ
giữa Quốc hội với các cơ quan Nhà nước;Chính phủ,Toà án nhân dân tối cao.Viện
kiểm sát nhân dân tối cao…quan hệ giữa các cơ quan của Quốc hội với các cơ
quan Nhà nước ,quan hệ giữa các cơ quan giúp việc của Quốc hội với cơ quan
giúp việc của cơ quan Nhà nước nói trên trong hoạt động giám sát của Quốc hội .
tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 9 - Nhà xuất bản chính
trị Quốc gia
2. Kết luận và kiến nghị về hoàn thiện cơ chế thanh tra,kiểm tra,giám
sát -Thanh tra Nhà nước
3. Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội (PTS Phạm Ngọc Kỳ ) -Nhà xuất
bản chính trị
4. Giáo trình Luật Hiến Pháp -Nhà xuất bản Công an nhân dân
5. Luật Hiến Pháp Việt Nam -Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh
(PGS –PTS luật học Nguyễn Đăng Dung và Ngô Đức Tuấn
6. Luật Hiến Pháp 1992 -Nhà xuất bản chính trị quốc gia
7. Lý luận Nhà nước và pháp luật --Đại học khoa học xã hội và nhân văn
8. Luật sửa đổi luật Tổ chức Quốc hội năm 2001
9. Nghị quyết sửa đổi ,bổ sung một số điều Hiến pháp 1992 thông qua ngày
25/12/2001
10. Luật Tổ chức Chính phủ
11. Luật Tổ chức Toà án nhân dân
12. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
13. L
uật sửa đổi ,bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội thông
qua ngày 25/12/2001
14. B
áo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khoá X do Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn văn An trình bày
15. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban Quốc phòng và an ninh của
Quốc hội khóa 10(1997-2002)
16. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban kinh tế và ngân sách của
Quốc hội khoá 10(1997-2002)
17. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ của Uỷ ban khoa học ,công nghệ và môi
trường Quốc hội khoá X
18. Báo cáo về hoạt động đối ngoại của Quốc hội và công tác của Uỷ
ban đối ngoại nhiệm kỳ khoá X
19. Báo cáo tổng kết công tác của Uỷ ban pháp luật nhiệm kỳ khoá X
20. Báo cáo công tác của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ khoá X
21. Báo cáo tổng kết hoạt động của Uỷ ban về các vấn đề xã hội nhiệm
kỳ khoáX
22. Công tác xây dựng luật,pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khoá X
23 . Tạp chí nghiên cứu lập pháp : 2001
24 . Tạp chí nghiên cứu Người đại biểu nhân dân : 2001
25 . Tạp chí nghiên cứu dân chủ và pháp luật : 2001
Mục lục
Trang
Lời nói đầu
1 Chương I: Cơ sở lý luận quyền giám sát tối cao của Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
I.Vị trí pháp lý của Quốc hội,bản chất,nội dung và phương thức thực hiện. 1
1.Vị trí pháp lý của Quốc hội 1
2.Bản chất,nội dung quyền giám sát tối cao của Quốc hội 2
3.Phương thức thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội 9
11 II.Quan hệ quyền giám sát tối cao của Quốc hội với những quyền khác của
Quốc hội,sự khác nhau quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến
pháp,pháp luật của cơ quan Nhà nước khác
11 1.Quan hệ quyền giám sát tối cao với những quyền khác của Quốc hội
14 2.Sự khác nhau giữa quyền giám sát tối cao với kiểm tra việc thi hành Hiến
pháp,pháp luật của các cơ quan Nhà nước khác
18 Chương II:Thực trạng hoạt động giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt
động giám sát của Quốc hội
I. Những quy định về quyền giám sát tối cao của Quốc hội trong Hiến pháp 1992
18 II.Thực trạng tình hình hoạt động giám sát của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ
năm 1997 đến năm 2002 ,những nguyên nhân hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát
22 của Quốc hội và bài học
1.Thực trạng tình hình hoạt động của Quốc hội nước ta nhiệm kỳ X từ năm 1997
đến năm 2002
22 2.Những nguyên nhân chủ yếu hạn chế hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội
Chương III: Những phương pháp tăng cường hiệu quả giám sát của Quốc hội
51 1.Đổi mới tổ chức và phương pháp giám sát của Quốc hội
2.Đổi mới tiêu chuẩn đại biểu và điều kiện làm việc của đại biểu trong công tác giám sát
56 3.Xây dựng luật về hoạt động giám sát của Quốc hội và những điều kiện làm cho
Quốc hội thực hiện đúng và đầy đủ quyền giám sát tối cao của mình theo luật định
57 Kết luận
Tài liệu tham khảo 65
67
69
72