BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

-----------------------------------------

TRẦN THỊ MỸ LIÊN

AÅN DUÏ TRONG CA TÖØ TRÒNH COÂNG SÔN

DÖÔÙI GOÙC NHÌN NGOÂN NGÖÕ HOÏC TRI NHAÄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

-----------------------------------------

TRẦN THỊ MỸ LIÊN

AÅN DUÏ TRONG CA TÖØ TRÒNH COÂNG SÔN

DÖÔÙI GOÙC NHÌN NGOÂN NGÖÕ HOÏC TRI NHAÄN

Chuyeân ngaønh: Ngoân ngöõ hoïc

Maõ soá: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

LỜI TRI ÂN

 Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đối với sự hướng dẫn tận

tình và hỗ trợ những tài liệu quý giá về Ngôn ngữ học tri nhận của PGS.TS Dư Ngọc

Ngân;

 Xin cảm ơn GS.TS Lý Toàn Thắng, người đã nhiệt tình giảng giải và động viên

tác giả luận văn trong quá trình triển khai đề tài;

 Xin mãi biết ơn sự giảng dạy nhiệt tình của tất cả thầy cô đã giúp tác giả luận

văn hoàn thành các chuyên ngành trong chương trình cao học;

 Xin chân thành cảm ơn Phòng Sau Đại học, Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh, với tư cách là đơn vị đào tạo và tổ chức để luận văn

được bảo vệ;

 Xin khắc ghi sự động viên tinh thần của tất cả bạn bè và người thân trong thời gian

học tập, tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu của tác giả luận văn.

4TLỜI TRI ÂN4T ................................................................................................................................... 3

4TMỤC LỤC4T ...................................................................................................................................... 4

4TMỞ ĐẦU4T ......................................................................................................................................... 6

4T0.1.Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 4T ........................................................................................... 6

4T0.2.Lịch sử nghiên cứu4T ............................................................................................................................ 7

4T0.3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu4T ................................................................................... 10

4T0.4. Phương pháp nghiên cứu4T ................................................................................................................. 10

4T0.5. Ý nghĩa của đề tài4T ............................................................................................................................ 11

4T0.6. Cấu trúc của luận văn4T ...................................................................................................................... 12

4TChương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT4T ................................................................................................. 13

4T1.1 Vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận4T ..................................................................................................... 13

4T1.1.1.Thế nào là Ngôn ngữ học tri nhận?4T ........................................................................................... 13

4T1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận4T .................................................. 15

4T1.2Ẩn dụ tri nhận4T ................................................................................................................................... 16

4T1.2.1. Khái niệm ẩn dụ tri nhận4T .......................................................................................................... 16

4T1.2.2. Đặc điểm của ẩn dụ ý niệm4T ...................................................................................................... 19

4T1.2.3. Các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến ẩn dụ tri nhận4T .......................................................... 23

4T1.2.3.1. Ý niệm, phạm trù4T .............................................................................................................. 23

4T1.2.3.2. Khung/ miền/ lĩnh vực4T ...................................................................................................... 24

4T1.2.3.3. Điển dạng4T ......................................................................................................................... 24

4T1.2.4. Các loại ẩn dụ tri nhận cơ bản4T .................................................................................................. 25

4T1.2.4.1. Ẩn dụ cấu trúc (Structural metaphors)4T .............................................................................. 25

4T1.2.4.2. Ẩn dụ bản thể (Ontological metaphor)4T ............................................................................. 25

4T1.2.4.3. Ẩn dụ định hướng (Orientational metaphor)4T ..................................................................... 26

4TChương 2: ẨN DỤ Ý NIỆM CUỘC ĐỜI TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN4T ..................... 28

4T2.1.Cuộc đời là cuộc hành trình4T .............................................................................................................. 28

4T2.2.Cuộc đời là vật thể4T............................................................................................................................ 34

MỤC LỤC

4T2.3.Cuộc đời là con người4T ...................................................................................................................... 41

4T2.4.Cuộc đời là cõi tạm4T .......................................................................................................................... 46

4TChương 3: ẨN DỤ Ý NIỆM TÌNH YÊU TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN4T ..................... 53

4T3.1.Tình yêu là vật thể4T ............................................................................................................................ 53

4T3.2.Tình yêu là cuộc hành trình4T .............................................................................................................. 60

4T3.3. Tình yêu là con người. 4T ..................................................................................................................... 64

4T3.4.Tình yêu là hư vô 4T ............................................................................................................................. 68

4T3.5.Tình yêu là sự chuyển động của các mùa trong năm4T ......................................................................... 72

4TKẾT LUẬN4T ................................................................................................................................... 76

4TTÀI LIỆU THAM KHẢO4T ............................................................................................................ 80

4TPhụ lục4T .......................................................................................................................................... 83

MỞ ĐẦU

0.1.Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu

Nói đến ngôn ngữ ca từ Trịnh Công Sơn là người ta nghĩ đến một hiện tượng đặc

biệt trong nền văn hóa Việt Nam thế kỷ XX. Có người đã đánh giá ngôn ngữ ca từ Trịnh

Công Sơn “Đã làm một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới

của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những tri

giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời làm sáng giá những sự vật thông thường và tầm

thường…”[9, tr.24]. Để chứng minh cho luận điểm đó, nhiều nhà nghiên cứu, bình luận đã

khám phá ca từ Trịnh Công Sơn từ nhiều góc nhìn khác nhau. Mỗi đường hướng nghiên cứu

là một công cụ để tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong ca từ của người nhạc sĩ này. Đi vào tình ý

của những khúc ca, người ta thấy rằng phần ca từ của ông có một “chiều sâu tư duy” và nó

xứng đáng được xem như là những bài thơ vì có một độ sâu riêng. Như vậy, nghiên cứu ca

từ Trịnh Công Sơn phải nghiên cứu cả vấn đề tư duy bên cạnh vấn đề cấu trúc hình thức

ngôn ngữ mới có thể tìm thấy cái “độ sâu” ấy. Với lí do đó, có thể nói, cách tiếp cận theo

hướng ngôn ngữ học tri nhận là công cụ hiệu quả để khám phá cái “chiều sâu tư duy” trong

phần lời ca của nhạc Trịnh. Và hơn hết, với ẩn dụ tri nhận, người ta có thể đi vào bản chất

năng động tiêu biểu nhất của thế giới ẩn dụ. Ở đó, ẩn dụ được mở rộng về mặt biểu đạt các

hình tượng làm cho cấu trúc ngôn ngữ luôn được mở rộng theo chiều kích năng động của tư

duy chứ không bị khuôn cứng trong các mô hình. Vì vậy, ẩn dụ tri nhận, như đã nói là một

công cụ hữu hiệu để đi vào cái vũ trụ bí ẩn, cái thế giới tinh thần mờ khuất để khám phá nơi

đó “cái nhìn thế giới” vừa gần gũi, vừa xa lạ của Trịnh Công Sơn so với cái nền tri nhận

chung của dân tộc, của nhân loại. Đó là lí do mà luận văn triển khai đề tài “Ẩn dụ trong ca

từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận” với hi vọng được góp thêm một

phần nhỏ vào việc tìm hiểu về cái nhìn, sự phân tích và giải thích của người nghệ sĩ này về

cuộc đời, về thế giới bằng một công cụ mới của khoa học ngôn ngữ –ẩn dụ tri nhận.

Triển khai đề tài “Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học

tri nhận”, luận văn nhằm mục đích chính là vận dụng những lí thuyết về ẩn dụ tri nhận để

tìm hiểu những ý niệm về tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn, từ đó đưa ra

những nhận định về đặc điểm ngôn ngữ và tư duy của Trịnh Công Sơn thông qua ca từ của

ông.

0.2.Lịch sử nghiên cứu

Đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về Trịnh Công Sơn. Một số bài viết

chủ yếu chỉ đề cập đến con người, cuộc đời, gia đình của Trịnh Công Sơn; một số bài viết

khác là những công trình nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn theo hướng văn học, ngôn ngữ

học, âm nhạc. Có những bài là lời nhận xét chung chung và có những bài trở là những công

trình nghiên cứu rất sâu. Dù là bàn đến Trịnh Công Sơn ở khía cạnh nào, phương diện nào

vào thời điểm nào, đa phần các bài viết về ông thể hiện thái độ ca ngợi, thán phục về tài năng

và nhân cách của người nhạc sĩ này. Với tư cách là một con người,mà mỗi người là một hạt

bụi giữa nhân gian thì Trịnh Công Sơn được người đời ví như “cát bụi lộng lẫy”. Trong quan

hệ với gia đình, ông là người con hiếu thảo, người anh có trách nhiệm. Trong quan hệ với

bạn bè, ông là người bạn chân thành. Trong quan hệ với xã hội, với nghệ thuật và với cuộc

đời này, ông là ân nhân, đã mang đến những tác phẩm âm nhạc bất hủ ca ngợi con người, ca

ngợi cuộc sống, kêu gọi con người sống cho đẹp, cho hay; kêu gọi mọi người hãy đến với

nhau và yêu thương nhau, cùng nhau chống lại chiến tranh, chống lại cái xấu, cái ác…Với tư

cách là một người nghệ sĩ, Trịnh được xem là “người hát rong qua nhiều thế hệ”. Ông là một

“người hát rong” trong cuộc đời để chở những ca khúc của mình đến trái tim của mọi người

để con người gần nhau, yêu thương nhau và đến với cuộc đời , bằng trái tim bao dung đẹp

đẽ. Những ca khúc ấy vượt thời gian trở thành “những bài ca không năm tháng” tồn tại mãi

với cuộc đời này dù cho chủ nhân của những khúc ca ấy đã trở thành người thiên cổ.

Cụ thể là, giải thích về sự nổi tiếng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, dưới nhiều góc

độ khác nhau : âm nhạc, ngôn ngữ học, văn học, nhân học, xã hội học…, người ta đã viết rất

nhiều về những đề tài mang những nội dung như: ca từ đầy chất thơ, cái hay cái lạ trong ca

từ Trịnh Công Sơn, tính triết học, tính thiền trong ca từ Trịnh Công Sơn, những biểu tượng

ngôn ngữ đặc biệt trong ca từ của ông, con người thơ ca của Trịnh…. Tất cả những điều đó

được tập hợp lại trong những cuốn sách, bài viết, công trình khoa học như:

Tập thể các tác giả Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến đã sưu

tầm và biên soạn cuốn sách Trịnh Công Sơn - Một người thơ ca một cõi đi về và được xuất

bản bởi Nhà xuất bản Âm nhạc và Trung tâm Văn hóa Đông Tây, Hà Nội ngay khi Trịnh

Công Sơn mất (2001). Tiếp đó, các tác giả này tiếp tục cho xuất bản liên tục ba cuốn nữa là

Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ và

Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người cũng vào năm 2001.

Những người thân, bạn bè của Trịnh Công Sơn cũng sưu tầm và thể hiện những

tình cảm, suy nghĩ của mình về con người, cuộc đời và ca từ của Trịnh Công Sơn, có thể kể

đến là các tác giả: Trịnh Cung, Nguyễn Quốc Thái với cuốn sách Trịnh Công Sơn - Cuộc

đời, âm nhạc, thơ, hội họa & suy tưởng (năm 2001), Bửu Ý với Trịnh Công Sơn một nhạc sĩ

thiên tài (năm 2003), Nguyễn Đắc Xuân với Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế (năm

2003), Hoàng Phủ Ngọc Tường với Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử bé (năm

2005), Hoàng Tá Thích với Như những dòng sông (2007), Bùi Vĩnh Phúc với Trịnh Công

Sơn- Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (năm 2008). Và còn có những luận văn nghiên

cứu về nhạc Trịnh, đáng chú ý là có cả những công trình nghiên cứu của học viên nước

ngoài như luận văn cao học của tác giả Yoshii Michiko năm 1991 với đề tài Những bài hát

phản chiến của Trịnh Công Sơn( tại Đại học Paris). Ở Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh Thúy

với công trình luận văn Thạc sĩ tốt nghiệp tại Đại học Quy Nhơn với đề tài mang tên Vết

chân Dã Tràng cũng là công trình nghiên cứu công phu về con người, cuộc đời của Trịnh

Công Sơn …

Ngoài ra còn có các bài viết trên các trang web, bài báo, tạp chí của nhiều người

bàn về Trịnh Công Sơn và ca khúc của ông. Trước năm 1975 có thể kể đến là các bài viết

của Lê Trương trong Phong trào da vàng ca (Trước 1975), của Tạ Tỵ trong Trịnh Công

Sơn (Trước 1975), của Tô Thùy Yên trong Huyền thoại về con người (Trước 1975). Đặc

biệt, từ sau ngày Trịnh Công Sơn mất, số lượng các bài viết tăng lên rất nhiều, đa số là mang

nội dung ca ngợi tài năng và con người của Trịnh Công Sơn, chẳng hạn, Hà Vũ Trọng có bài

Chiêm ngắm đóa hoa vô thường in trên Tạp chí Hợp Lưu, Hoa kỳ năm 2001, Trần Hữu

Thục có bài Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn trên Tạp chí Văn học California, Hoa Kỳ

năm 2001. Ngoài ra còn có những bài viết, bài phát biểu của nhạc sĩ Thanh Tùng, nhạc sĩ

Nguyễn Văn Hiên, Ca sĩ Khánh Ly….trên các phương tiện thông tin.

Riêng dưới góc độ ngôn ngữ học, mà đặc biệt là tính ẩn dụ trừu tượng mang đến sự

hấp dẫn trong ca từ Trịnh Công Sơn đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu một

cách sâu sắc, công phu. Trước hết, có thể kể đến là nhận xét của Hoàng Tá Thích :

“Ngoài hình ảnh phong phú, ca từ Trịnh Công Sơn còn mang nhiều tính ẩn dụ đôi khi làm

người nghe khó hiểu, mà chính tác giả cũng không thể nào giải thích một cách đơn giản

những suy nghĩ của mình đã chuyển tải sang ngôn ngữ âm nhạc (Tương tự như một họa sĩ vẽ

tranh trừu tượng đôi khi cũng khó thể giải thích những ý tưởng rất… trừu tượng của mình

thể hiện trên tác phẩm hội họa)”[29, tr.3]

Hay như đánh giá của tác giả Bùi Vĩnh Phúc trong một cuộc phỏng vấn :

“Ca từ của Trịnh Công Sơn đã làm mới ngôn ngữ Việt Nam và đưa ra những hình

ảnh đẹp một cách rất bi thiết pha trộn với nét kỳ ảo. Tất cả những điều đó tạo nên một thế

giới riêng biệt, một thế giới chưa bị làm mòn đi bởi sự nhàm chán, sự lặp lại. Và điều ấy tạo

nên sự thu hút.” [http://www.tcs-home.org]

Còn Trịnh Chu thì khẳng định:

“Ở Nguyễn Du, tiếng Việt chỉ đẹp bởi sự chính xác, mang tính triết lý cao, và xem

ra cái “mỹ” ở đây chỉ là cái “mỹ” của hiện thực. Còn cái “đẹp” của Trịnh Công Sơn lại là

cái “đẹp” bảng lãng, sương khói của siêu thực, ấn tượng, bởi vì ông có khả năng tạo nên độ

bóng của ngôn từ. Sự vật nào được Trịnh Công Sơn đụng đến cũng bớt thật đi, và được

khoác lên một thứ ánh sáng mới, đủ sức bước ra sân khấu của ngôn từ với vẻ mặt trang

trọng…”. [http://www.tcs-home.org].

Bửu Ý cũng cho rằng :

“Lời ca của Trịnh Công Sơn đầy ắp biện pháp tu từ đủ loại: nhân hóa, tỷ dụ, hoán

dụ, phúng dụ, biểu tượng…Trong đó có hai biện pháp trở đi trở lại nhiều và đặc biệt giúp

tăng thêm tính thi ca cho bài hát: sự láy lại và ẩn dụ…”[41]

Ngoài ra, ca từ Trịnh Công Sơn còn trở thành những đề tài nghiên cứu khoa học

của nhiều sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, học viên thuộc chuyên ngành Ngôn

ngữ học, như công trình nghiên cứu về “Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ Trịnh Công Sơn”

của Nguyễn Thị Bích Hạnh, một luận văn cao học đượ in thành sách năm 2009. Công trình

này đã có những phát hiện và nhận xét sâu sắc về các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng

như: nắng, núi, ngựa, khu vườn…Bên cạnh đó là luận văn của Bùi Thị Minh Thùy “Đặc

điểm phong cách ngôn ngữ trong ca từ Trịnh Công Sơn” (Trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn, năm 2007) cũng mang đến cho người đọc những phát hiện về cái lạ, cái hay

trong việc sử dụng từ ngữ, đặc biệt là lớp từ láy và những kết hợp bất thưởng trong ngôn ngữ

dùng để sáng tác ca khúc của Trịnh….Theo hướng ngôn ngữ học tri nhận, luận văn cao học

của Nguyễn Thị Thanh Huyền (Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn năm 2009) với

đề tài “ Ẩn dụ tri nhận - Mô hình ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn” cũng đã

vận dụng ẩn dụ cấu trúc- một trong ba loại ẩn dụ tri nhận cơ bản vào việc nghiên cứu ca từ

Trịnh Công Sơn. Luận văn này triển khai hai mô hình ý niệm “ĐỜI NGƯỜI LÀ ĐÓA HOA

VÔ THƯỜNG” và “ CUỘC ĐỜI LÀ CÕI ĐI VỀ” dựa trên ý nghĩa của hai bài hát “Đóa hoa

vô thường” và “Một cõi đi về” của Trịnh Công Sơn. …Tuy mỗi công trình nghiên cứu trên

cũng không tránh khỏi những thiếu sót nhưng đã mở ra cho luận văn những cơ sở để nghiên

cứu ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn của ẩn dụ tri nhận. Đây là nguồn tư liệu đáng quý,

giúp ích rất nhiều cho việc tìm hiểu, học hỏi, rút kinh nghiệm từ cơ sở lí thuyết, nguồn ngữ

liệu cho đến cách vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học vào nghiên cứu ca từ Trịnh Công

Sơn…Ngoài ra, những hiểu biết và nhận xét xác đáng của những người đã nghiên cứu về ca

từ, về cuộc đời của Trịnh Công Sơn cũng là cơ sở quan trọng và bổ ích để luận văn triển khai

đề tài này.

0.3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

Để thực hiện mục đích của đề tài, luận văn hướng vào đối tượng, nhiệm vụ sau:

- Tìm hiểu cơ sở lí thuyết của đề tài;

- Điều tra, phân tích nguồn ngữ liệu theo hướng ẩn dụ tri nhận phục vụ cho mục

đích nghiên cứu;

- Hình thành các quan hệ so sánh, đối chiếu để làm rõ bản chất của vấn đề

nghiên cứu.

Nói đến nhạc Trịnh Công Sơn, người ta thường nhắc đến ba mảng đề tài là: tình

yêu, cuộc đời và thân phận con người. Đến với đề tài này, luận văn chỉ giới hạn vấn đề

nghiên cứu ở hai mảng : vấn đề tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn.

Về phạm vi nguồn ngữ liệu chính, đã có những con số khác nhau về số lượng ca

khúc của Trịnh Công Sơn, luận văn tiến hành khảo sát 243 ca khúc mới được công bố trên

trang 4TUhttp://www.tcs-home.Org.vnU4T

0.4. Phương pháp nghiên cứu

0. 4. 1. Phương pháp thống kê và phân loại

Luận văn thống kê các lời của bài ca dựa trên các nguồn tài liệu tham khảo đã nêu

theo hướng nghiên cứu của đề tài. Sau khi thống kê, luận văn tiến hành phân loại theo vấn đề

cũng như phân loại các ý niệm trong ca từ đã sưu tầm được. Kết quả thống kê là cơ sở thực

tiễn để phân tích và trở thành cứ liệu khoa học có tính xác thực, thuyết phục và minh chứng

cho các lập luận của đề tài.

0.4.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp

Các phương pháp này được luận văn sử dụng trong quá trình khảo sát các từ ngữ,

câu văn trong toàn bộ các ca khúc theo hướng tri nhận phục vụ cho mục đích của đề tài.

Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích các nhân tố tác động đến việc hình thành

ý niệm trong ca từ Trịnh Công Sơn: hoàn cảnh xã hội, tâm lí và tư duy của người sáng tác.

Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát vấn đề, từ đó có thể rút ra những nhận

định, những mô hình ý niệm hóa có căn cứ dựa trên cứ liệu khoa học thực tế. Việc kết hợp

các phương pháp này giúp xử lí các vấn đề tốt hơn, toàn diện hơn. Đây có thể xem là phương

pháp chủ đạo để thực hiện đề tài.

0.4.3. Phương pháp miêu tả

Phương pháp miêu tả được luận văn vận dụng vào để miêu tả cấu tạo của những kết

hợp đặc biệt tạo nên những ý niệm về tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn.

Đồng thời, phương pháp này còn được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích và tổng

hợp để xác định, miêu tả miền nguồn và miền đích trong các sơ đồ ý niệm. Đây là phương

pháp quan trọng để xác định, giải thích các miền ý niệm trong việc triển khai đề tài.

0.4.4. Phương pháp so sánh

Phương pháp này được dùng để so sánh trong hệ thống và ngoài hệ thống. Vận dụng

so sánh trong hệ thống để đối chiếu các ý niệm của Trịnh Công Sơn về tình yêu, đời người ở

những tác phẩm khác nhau và giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của ông giúp cho các

phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp ngữ liệu được chính xác hơn, hiệu quả hơn.

Vận dụng so sánh ngoài hệ thống để đối chiếu những ý niệm khác nhau của cùng một vấn

đề giữa Trịnh Công Sơn với những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khác với tư duy chung của con

người giúp tìm ra những nét tương đồng và khác biệt về quan niệm,về tư duy giữa Trịnh

Công Sơn và cá nhân, tập thể khác trước cùng một đối tượng, từ đó luận văn tìm ra đặc trưng

bản chất trong sự tri nhận của Trịnh Công Sơn thông qua ca từ của ông. Phương pháp so

sánh hỗ trợ đắc lực cho công việc khảo sát ngữ liệu của đề tài ở diện rộng.

0.5. Ý nghĩa của đề tài

0.5.1.Về mặt lí luận

Luận văn góp một phần trong việc chứng minh tính hiệu quả của lí thuyết tri nhận

trong việc phân tích ngôn từ - một hướng nghiên cứu mới của ngôn ngữ học.

0.5.2.Về mặt thực tiễn

Luận văn vận dụng lí thuyết ẩn dụ tri nhận vào việc nghiên cứu những tác phẩm

âm nhạc cụ thể của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ đó đưa ra những nhận định về thế giới quan,

nhân sinh quan của người nghệ sĩ tài năng này. Trên cơ sở đó, có thể xem ẩn dụ tri nhận như

là một công cụ để áp dụng vào phân tích các tác phẩm văn học nghệ thuật để tìm hiểu chiều

sâu của tác phẩm.

0.6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương một: Cơ sở lí thuyết

Trong chương một, luận văn trình bày cơ sở lí thuyết của đề tài, bao gồm những

vấn đề liên qua đến ngôn ngữ học tri nhận và ẩn dụ tri nhận như: thế nào là ngôn ngữ học tri

nhận, khái niệm ẩn dụ tri nhận, phân loại ẩn dụ tri nhận và những khái niệm liên quan đến ẩn

dụ tri nhận…

Chương hai: Ẩn dụ ý niệm về cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn.

Trong chương hai, luận văn trình bày những ý niệm về cuộc đời trong ca từ Trịnh

Công Sơn: cuộc đời là cuộc hành trình, cuộc đời là vật thể, cuộc đời là con người, cuộc đời

là cõi tạm.

Chương ba: Ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn

Trong chương ba, luận văn trình bày những ý niệm về tình yêu trong ca từ Trịnh

Công Sơn: tình yêu là vật thể, tình yêu là con người, tình yêu là cuộc hành trình, tình yêu là

hư vô, tình yêu là sự chuyển động của các mùa trong năm.

Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1 Vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận

1.1.1.Thế nào là Ngôn ngữ học tri nhận?

Tri nhận (cognition) là tất cả những quá trình tiếp nhận, cải biến và lưu trữ dữ liệu

trong trí nhớ con người dưới dạng những biểu tượng tinh thần (mental representation). Nó

cũng được coi như là cách xử lý thông tin dưới dạng những ký hiệu, cải biến nó từ dạng này

sang dạng khác. Hoạt động tri nhận (cognitive activity) là hoạt động tư duy dẫn đến việc

thông hiểu một nội dung nào đó.

Vậy ngôn ngữ học tri nhận là gì?

Thời gian xuất hiện của ngôn ngữ học tri nhận thường được tính từ năm 1989 sau

quyết định thành lập Hội ngôn ngữ học tri nhận tại Đức. Vậy là tính đến nay, ngôn ngữ học

tri nhận có tuổi đời chỉ mới trên 20 năm. Nghiên cứu ngôn ngữ học dưới góc độ tri nhận có

nghĩa là đặt ngôn ngữ trong chức năng làm công cụ tư duy của con người. Tuy mới xuất hiện

nhưng hướng nghiên cứu mới của ngôn ngữ học tri nhận sớm được nhiều người ủng hộ. Ở

Việt Nam, nhiều nhà Việt ngữ học cũng đã tiếp cận ngôn ngữ theo hướng tri nhận, có thể kể

đến là : Lí Toàn Thắng, Trần Văn Cơ, Nguyễn Lai, Nguyễn Đức Tồn, Hữu Đạt, Nguyễn

Hòa, Diệp Quang Ban…Trong đó, người đầu tiên bàn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tri

nhận là Lí Toàn Thắng trong một bài báo năm 1994. Tiếp đó, ông đã có một công trình

nghiên cứu khá đầy đủ và sâu sắc về ngôn ngữ học tri nhận năm 2005- cuốn sách “Ngôn ngữ

học tri nhận, từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt”. Cuốn sách này tiếp tục được tái

bản vào năm 2008 có sửa chữa và bổ sung thêm “Phần phụ lục” gồm 7 bài ở cuối cuốn sách

nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận. Trên cơ sở những

tư tưởng về ngôn ngữ học tri nhận của cuốn sách được tái bản này của tác giả Lý Toàn

Thắng, luận văn xin được tiếp nhận khái niệm ngôn ngữ học tri nhận như sau:

“Ngôn ngữ học tri nhận là một trường phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến

hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự tri giác của con người về thế

giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người ý niệm hóa và phạm trù hóa các sự

vật và sự tình của thế giới khách quan đó” (28, tr.13)

Sự ra đời của ngôn ngữ học tri nhận được khởi nguồn từ trường phái ngữ pháp tạo

sinh do Chomsky khởi xướng. Trường phái này đã kêu gọi ngôn ngữ phải trở thành một bộ

phận của tâm lí học tri nhận, phải coi ngôn ngữ là một hệ thống tri nhận và mục tiêu đối

tượng của ngôn ngữ là tìm hiểu cái cơ chế phổ quát của ngôn ngữ tiềm ẩn trong trí não con

người. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cũng lấy mục đích là nhận thức bản chất của ngôn ngữ

con người nhưng đi vào phân tích chiều sâu của cấu trúc ngôn ngữ với những dữ kiện quan

sát trực tiếp được và cả những dữ kiện không quan sát trực tiếp được như trí tuệ, tri thức,

kinh nghiệm . Điều này khác với ngữ pháp cải biến tạo sinh chủ trương đi vào chiều sâu của

cấu trúc ngôn ngữ chỉ trên cơ sở những dữ kiện ngôn ngữ có thể quan sát trực tiếp được và

hình thức hóa chúng đến độ lí tưởng gần giống như những công thức toán học. Như vậy, với

tuổi đời và cơ sở xuất hiện, có thể khẳng định ngôn ngữ học tri nhận còn non trẻ và nó chỉ là

một trường phái ngôn ngữ (như ngữ pháp tạo sinh) chứ không phải là một phân ngành của

ngôn ngữ học (như ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học nhân học, ngôn ngữ học tâm lí…).

Ngôn ngữ học tri nhận, cũng như các khuynh hướng khoa học tri nhận khác có mục

tiêu chung là nghiên cứu việc thực hiện các quá trình lĩnh hội, xử lí và cải biến các tri thức

vốn quyết định bản chất của trí não con người. Điều này đồng nghĩa với việc nghiên cứu

ngôn ngữ theo hướng tri nhận không còn là nghiên cứu ngôn ngữ trong hệ thống ngôn ngữ,

nghiên cứu mối quan hệ giữa các đơn vị ngôn ngữ như ngôn ngữ học phi tri nhận nói đến mà

ngôn ngữ ở đây được đặt trong mối quan hệ với khả năng tri nhận của con người, tức là liên

quan đến thông tin, tri thức, ý niệm - những vấn đề phải xuất phát từ sự tri giác, từ kinh

nghiệm của con người. Hơn thế nữa, nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ tri nhận, chúng ta phải

chú ý đến sự khác nhau về “cái nhìn thế giới” hay cách tri nhận về thế giới được thể hiện

bằng những biểu thức ngôn ngữ của các dân tộc nói tiếng khác nhau. Ý nghĩa của ngôn ngữ

không hạn chế trong nội bộ hệ thống ngôn ngữ mà nó có nguồn gốc sâu xa từ kinh nghiệm

được hình thành trong quá trình con người và thế giới tương tác với nhau và từ tri thức và hệ

thống niềm tin của con người. Như vậy, sự tri giác,vốn kinh nghiệm và cái cách mỗi con

người, mỗi dân tộc nhìn nhận về thế giới khách quan- tài liệu của sự nhận thức - là cơ sở để

ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu các hiện tượng ngôn ngữ. Vì thế, với ngôn ngữ học tri

nhận, mọi biểu hiện của tri thức ngôn ngữ được nghiên cứu không còn đóng kín trong hệ

thống ngôn ngữ mà là vấn đề tìm hiểu cơ chế phổ quát của ngôn ngữ tiềm ẩn trong trí não

của con người.

1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận

Trong công trình “Ngôn ngữ học tri nhận, từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn

tiếng Việt”, Lý Toàn Thắng đã xác định đối tượng của ngôn ngữ học tri nhận:

“Đối tượng cụ thể của ngôn ngữ học tri nhận là ngôn ngữ trong tư cách là một

trong những khả năng tri nhận và một trong những cấu trúc tri nhận của con người (cùng

với tri giác, tư duy, kí ức, hành động)”. (28, tr.45).

Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu ngôn ngữ như những dạng thức tương tự khác

trong bộ máy tri nhận và hoạt động tri nhận của con người như : tri giác, học tập, kí ức, tư

duy…Có nghĩa là, ngôn ngữ dưới góc độ tri nhận phải được nghiên cứu như một thuộc tính

hai mặt: vừa là một hệ thống ký hiệu đóng vai trò quan trọng trong sự biểu hiện (mã hóa) và

trong sự cải biến các thông tin trong tư cách là công cụ tri nhận, vừa được biểu hiện như là

một đối tượng độc lập với con người trong quan hệ giữa mặt lịch sử và chức năng giao tiếp.

Với cách tiếp cận này, các hình thức ngôn ngữ (các đơn vị, các phạm trù…) phải được

nghiên cứu trong mối tương liên của chúng với các cấu trúc tri nhận và sự giải thích mang

tính tri nhận trong mối quan hệ giữa các hình thức ngôn ngữ với các quá trình tri nhận và tất

cả các dạng hoạt động thông tin. Vì thế, trọng tâm nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận là ý

thức trong cách hiểu ý thức là nơi tập trung tất cả vốn kinh nghiệm tinh thần mà một con

người tích lũy được và phản ánh chúng dưới dạng những ý niệm. Vì vậy, khác với ngôn ngữ

học truyền thống, phi tri nhận luận, ở bình diện ngữ nghĩa nó coi ý nghĩa là đối tượng nghiên

cứu quan trọng nhất của mình, thì đối với ngôn ngữ học tri nhận đó là ý niệm (tiếng

Anh:concept) là kết quả của quá trình tư duy, quá trình phản ánh thế giới khách quan vào đầu

óc con người và đồng thời là sản phẩm của hoạt động tri nhận, là cái chứa đựng tri thức hay

sự hiểu biết của con người về thế giới trên cơ sở kinh nghiệm từ đời này sang đời khác.

Trong khi nghiên cứu về ý niệm, ngôn ngữ học tri nhận luôn quan tâm đến một quy luật là

cái thế giới khách quan bên ngoài khi đi vào cái “sàng lọc” não bộ của những con người

khác nhau, đặc biệt là khác nhau về không gian sinh sống, về ngôn ngữ nó sẽ cho ra những

sản phẩm là các ý niệm không còn mang tính khách quan toàn diện, đầy đủ như nó vốn có

trong hiện thực mà nó đã được lĩnh hội, xử lý, cải biến. Mục đích của ngôn ngữ học tri nhận

là nghiên cứu một cách bao quát và toàn diện cái khả năng tri nhận của ngôn ngữ, nghiên

cứu việc thực hiện các quá trình lĩnh hội, xử lý và cải biến các tri thức vốn quyết định bản

chất của trí não con người. Nói cách khác, con người- chủ thể của ngôn ngữ được ngôn ngữ

học tri nhận tiếp cận như một hệ thống xử lý các thông tin mà ở đó các tri thức ngôn ngữ

được hình thành từ ý niệm-kết quả của quá trình xử lý, cải biến của hệ thống não bộ của

con người dưới tác động của các yếu tố tâm lí, văn hóa. Vì vậy, các tri thức ngôn ngữ ấy luôn

gắn liền với sự tri nhận vừa mang tính nhân loại vừa mang tính đặc thù dân tộc.

1.2Ẩn dụ tri nhận

1.2.1. Khái niệm ẩn dụ tri nhận

Từ thời Aristotle, các nhà nghiên cứu đã bàn đến ẩn dụ nhưng chỉ trong phạm vi

của ngôn ngữ học. Gần đây, với sự xuất hiện của ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ được đề cập

đến không chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là vấn đề của tư duy. Từ đây, ẩn dụ trở thành

một trong các bộ phận quan trọng của lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận.

Trước khi thuật ngữ ẩn dụ tri nhận xuất hiện với đầy đủ những đặc trưng bản chất của nó,

nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã đặt ẩn dụ trong mối quan hệ với tư duy và cho rằng ẩn dụ

là một quĩ tích của những suy nghĩ chứ không phải của ngôn ngữ. Vậy là với cách tiếp cận

này, các nhà ngôn ngữ học đã đưa ẩn dụ từ trong lí thuyết ngôn ngữ học cổ điển, được coi là

một vấn đề chỉ thuộc về ngôn ngữ sang một ngoại vi mới thuộc vấn đề của tư duy trong

thuyết ẩn dụ hiện đại.

Tiếp thu những thành tựu của các nhà ngôn ngữ học đi trước, Lakoff và Johnson

đã phát triển những tư tưởng mới về ẩn dụ thành lí thuyết ẩn dụ tri nhận và được trình bày

trong công trình “Metaphor we live by”(1980). Lakoff và Johnson (1980) cho rằng: “hệ

thống ý niệm đời thường của chúng ta, mà trong khuôn khổ của những điều chúng ta suy

nghĩ và hành động, về bản chất là ẩn dụ”. Chúng ta không chỉ dùng các ẩn dụ được quy ước

hóa và từ vựng hoá và nhất là những ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor) một cách thuần tuý

ngôn ngữ học mà sự thực là chúng ta chỉ suy nghĩ hay ý niệm hoá phạm trù “ĐÍCH” thông

qua phạm trù “NGUỒN”. Như vậy, từ chỗ lối nói ẩn dụ được cho là không chỉ trong ngôn

ngữ thông tục hàng ngày và ngôn ngữ hằng ngày không có ẩn dụ đã bị phủ nhận mà thay

vào đó là một quan điểm mới về phạm vi hoạt động của ẩn dụ. Và chỗ của ẩn dụ không hề là

ở trong ngôn ngữ mà là ở trong cái cách chúng ta khái quát hóa một hiện tượng tinh thần này

bằng một hiện tượng tinh thần khác. Lí thuyết chung của ẩn dụ nằm trong những đặc điểm

của sự xác lập khái quát có tính liên tưởng. Trong quá trình đó, những khái niệm trừu tượng

hàng ngày như thời gian, trạng thái, nguyên nhân, kết quả hoặc mục đích ... đều trở nên có

tính ẩn dụ. Hệ quả là ẩn dụ (tức là khái quát có tính liên tưởng) chính là tâm điểm tuyệt đối

của ngữ nghĩa học trong ngôn ngữ thông tục tự nhiên, và việc nghiên cứu ẩn dụ văn học là

một sự mở rộng của việc nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ hàng ngày. Phép ẩn dụ được dùng

đến hàng ngày (trong ngôn ngữ thường nhật) là một hệ thống khổng lồ gồm vô số những

khái quát liên tưởng, và hệ thống này được sử dụng trong ẩn dụ văn học. Nhờ những kết quả

thực chứng này, chữ ẩn dụ được dùng theo một cách khác trong những nghiên cứu về ẩn dụ

hiện thời. chữ ẩn dụ lúc này có nghĩa là một khái quát có tính liên tưởng trong hệ thống khái

niệm. Khái niệm sự diễn đạt có tính ẩn dụ được dùng để chỉ một biểu đạt ngôn ngữ (một chữ,

một cụm từ, hoặc một câu) thực hiện được sự khái quát có tính liên tưởng.

Với những tư tưởng chủ đạo này, Lakoff và Johnson được xem là người đặt cái mốc

quan trọng cho sự phát triển của lí thuyết ẩn dụ trong ngôn ngữ học tri nhận. Ẩn dụ ý niệm

ấn định mối quan hệ giữa những cặp tái hiện về mặt tinh thần (mental representations) , lí

thuyết ẩn dụ ý niệm cho rằng ẩn dụ là hiện tượng được định hướng nghiêm ngặt.

Ngoài ra, những ẩn dụ ý niệm tập trung phân tích mối quan hệ ý niệm nội tại

(entrenched conceptual relationships) và cách chúng được gọt giũa, lựa chọn.

Theo thời gian, ẩn dụ tri nhận được tiếp cận nghiên cứu ngày càng phổ biến và sâu

sắc, cụ thể hơn trên phạm vi toàn thế giới. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, các nhà

Việt ngữ học cũng đã đón nhận lí thuyết ngôn ngữ mới này và đã xuất hiện nhiều công trình,

bài viết nghiên cứu những vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận nói chung và vấn đề về ẩn dụ tri

nhận nói riêng như: Lí Toàn Thắng trong công trình “Ngôn ngữ học tri nhận,từ lí thuyết đại

cương đến thực tiễn tiếng Việt” đã trình bày những vấn đề cơ sở của ngôn ngữ học tri nhận

và nghiên cứu những vấn đề liên quan đến ẩn dụ tri nhận như bài viết “Nghiên cứu trường

hợp các ý niệm ra, qua, trên, dưới và bình diện nghĩa biểu hiện”, “Ngữ nghĩa của từ “cây”

và sự phân loại dân dã thực vật ở người Việt”,[28]….Nguyễn Đức Dân nghiên cứu về

“Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ”, về “Tri nhận thời gian trong tiếng

Việt” [4,tr.1-16]; Trần Văn Cơ với công trình “Khảo luận ẩn dụ tri nhận”đã bàn nhiều về

bản chất, về các khái niệm của ẩn dụ dưới góc độ tri nhận luận và áp dụng vào nghiên cứu

thơ ca trong bài viết “Nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của ngôn ngữ học

tri nhận”[2, tr.26-42]; Nguyễn Đức Tồn bàn về “Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ

tri nhận trong thành ngữ” [35, tr.20-27]; Nguyễn Lai đề cập đến vấn đề ẩn dụ ý niệm trong

thơ ca qua bài viết “Suy nghĩ về ẩn dụ khái niệm trong thế giới thơ ca từ góc nhìn của ngôn

ngữ học tri nhận”[15, tr.1-11]…. Và nhiều công trình, bài viết khác liên quan đến ẩn dụ tri

nhận từ những vấn đề mang tính lí luận khái quát cho đến những vấn đề ứng dụng cụ thể.

Đáng chú ý là những tư tưởng về ẩn dụ tri nhận của Lí Toàn Thắng trên cơ sở tiếp thu những

quan điểm của các học giả nước ngoài “Từ góc nhìn tri nhận luận, ẩn dụ ý niệm là sự

“chuyển di” hay một sự “đồ họa” cấu trúc và các quan hệ nội tại của một lĩnh vực hay mô

hình tri nhận nguồn sang một lĩnh vực hay mô hình tri nhận đích…”[28]

Bản thân thuật ngữ ẩn dụ ý niệm bao hàm rằng ẩn dụ nằm ngay ở tư duy của con

người và biểu hiện lên bề mặt ngôn ngữ. Tư duy và sau đó là ngôn ngữ về cơ bản là các quá

trình ẩn dụ gắn liền với kinh nghiệm cá nhân về các nền văn hóa. Một số lí thuyết thỏa đáng

về hệ thống ý niệm của con người là phải giải thích được các ý niệm: (1) căn cứ vào đâu, (2)

cấu trúc như thế nào, (3) có quan hệ với nhau như thế nào, và (4) được định nghĩa như thế

nào. Chẳng hạn, cái tạo nên một mệnh đề ẩn dụ “TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH”

không phải là các từ hay cụm từ cụ thể. Đó là một sự đồ chiếu xuyên suốt các phạm vi ý

niệm, từ phạm vi nguồn của cuộc hành trình cho tới phạm vi đích của tình yêu. Ẩn dụ không

phải chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là của tư duy và lí luận. Ngôn ngữ chỉ là thứ yếu, đồ

chiếu mới chính là quan yếu vì nó chi phối việc sử dụng ngôn ngữ vùng nguồn và các cấu

trúc suy ra về các khái niệm vùng đích. Đồ chiếu (đồ họa) mang tính chất quy ước, là một

phần của hệ thống ý niệm của chúng ta. Nhờ vào việc “đồ họa” mà chúng ta có thể ý niệm

hóa cái trừu tượng thành cái cụ thể. Nhờ đó cái trừu tượng trở nên rõ ràng dễ nắm bắt. Vì thế

mà một khái niệm trừu tượng như tình yêu đã có thể được hình dung đầy đủ cả về hình thái

và bản chất của nó bằng cuộc hành trình.

Như vậy, chỗ của ẩn dụ không hề là ở trong ngôn ngữ mà là ở trong cái cách chúng

ta khái quát hóa một hiện tượng tinh thần này bằng một hiện tượng tinh thần khác. Lí thuyết

chung của ẩn dụ nằm trong những đặc điểm của sự xác lập khái quát có tính liên tưởng.

Trong quá trình đó, chúng ta phải dựa vào những kinh nghiệm của mình về những con

người, những sự vật và hiện tượng cụ thể thường nhật để ý niệm hóa các phạm trù trừu

tượng. Vì thế, hầu hết ý niệm của con người được định hình và hiểu được chỉ trong khung ý

niệm có được qua trải nghiệm của con người trong một nền văn hóa cụ thể. Hay nói cách

khác là bản chất của ẩn dụ tri nhận có tính nghiệm thân. Vì vậy khi nghiên cứu ẩn dụ tri nhận

trong một sáng tác nghệ thuật bằng ngôn từ của một người nào đó, chúng ta phải quan tâm

đến những trải nghiệm của họ trước cuộc đời rộng lớn này bên cạnh những gì họ đã tiếp thu

được từ nền văn hóa của không gian mà họ đã và đang sống.

1.2.2. Đặc điểm của ẩn dụ ý niệm

Ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa phổ biến trong tất cả các ngôn ngữ. Đó là

phép sử dụng từ ngữ ở nghĩa chuyển dựa trên cơ sở tương đồng giữa một thuộc tính nào đó

của cái dùng để nói và cái muốn nói. Nói cách khác, ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi giữa hai

sự vật có quan hệ tương đồng. Vì thế, ẩn dụ không chỉ là biện pháp làm giàu từ vựng mà còn

làm cho nghĩa từ ngày càng đa dạng, tinh tế. Trong quan niệm truyền thống, ẩn dụ bao giờ

cũng mang tính quy ước do được tạo thành trong một cộng đồng văn hóa-ngôn ngữ và được

từ vựng hóa trong các hình thức từ ngữ. Các nhà phong cách học thường nói đến ẩn dụ như

là một sự so sánh ngầm, tức là so sánh chỉ có một vế. Theo lí thuyết tín hiệu của F.de.

Sausure thì mỗi tín hiệu ngôn ngữ bao giờ cũng có hai mặt: mặt âm thanh được gọi là cái

biểu đạt và mặt ý nghĩa gọi là cái được biểu đạt. Hai mặt này gắn bó khăng khít với nhau như

hai mặt của một tờ giấy. Nếu xem từ là một tín hiệu thì từ một tín hiệu đã có này muốn tạo ra

một ẩn dụ người ta phải thiết lập thêm một cái được biểu đạt mới trên cơ sở của mối quan hệ

vừa nêu. Trong thực tiễn hoạt động ngôn ngữ, khi tiến hành so sánh theo phương thức ẩn dụ,

người viết chỉ nêu ra một vế còn ẩn đi một vế để người khác tự hiểu trên cơ sở liên tưởng

dựa trên mối quan hệ giữa sự vật được nêu ra với cái ý nghĩa biểu trưng của nó như là một sự

quy ước sẵn có. Với ẩn dụ tri nhận và ẩn dụ tu từ thì cả người sử dụng ngôn ngữ và người

tiếp nhận văn bản cũng sử dụng sự liên tưởng nhưng với một thao tác tư duy trừu tượng hơn.

Ở đó, sự liên tưởng là đường dây kết nối giữa cái vỏ vật chất âm thanh của ngôn ngữ với các

sự vật, hiện tượng vô cùng vô tận của thế giới xung quanh. Tuy nhiên, khác với ẩn dụ tu từ,

ẩn dụ ý niệm (hay ẩn dụ tri nhận) ngoài chức năng quy ước hóa, từ vựng hóa còn có chức

năng ý niệm hóa, thể hiện cách tư duy, tri nhận về sự vật của người bản ngữ theo những

phương thức nhất định. Bản thân thuật ngữ ẩn dụ ý niệm đã bao hàm rằng ẩn dụ nằm ngay ở

tư duy của con người và biểu hiện lên bề mặt ngôn ngữ. Tư duy, sau đó là ngôn ngữ về cơ

bản là các quá trình ẩn dụ gắn liền với kinh nghiệm cá nhân và các nền văn hóa. Các nhà

ngôn ngữ học tri nhận cũng đã bàn luận nhiều đến quan hệ chiều sâu giữa tư duy trừu tượng

hình thành trong ý thức con người và những điều mà họ quan sát được về thế giới xung

quanh như: khoảng cách không gian, thời gian vật lý, quá trình vận động của các vật

thể…được nhận thức và mô thức hóa thành các lược đồ và thể hiện dưới hình thức của các

biểu thức ngôn ngữ theo thói quen về tâm lí, văn hóa của mỗi dân tộc cụ thể. Như vậy, có thể

coi ẩn dụ tri nhận là con đường ý niệm hóa về sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan

thông qua các từ, ngữ. Bởi thế, ẩn dụ tri nhận là một trong những hình thức ý niệm hóa, một

quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm mới và nó chính là cơ

sở để tri nhận những tri thức mới. Xét trong mối quan hệ với ẩn dụ ngôn từ, ẩn dụ ý niệm là

những ý niệm trừu tượng trong khi đó ẩn dụ ngôn từ chỉ là những từ ngữ thể hiện các ý niệm

mà thôi. Cho nên, khác với cách hiểu trong văn học truyền thống và trong tu từ học, theo

thuyết này, ẩn dụ không chỉ được hiểu đơn thuần là loại cấu trúc " so sánh gồm có một vế"

hay là "so sánh ngầm" ... mà chúng được hiểu như một cách thức tri nhận thế giới thông qua

cách biểu đạt của tư duy lô gích được định hình trong ý thức của mỗi cộng đồng ngôn ngữ

nhất định. Chẳng hạn, từ cơ sở thực tế là con người và đa số các loài động vật đều trong tư

thế nằm khi ngủ và đứng thẳng khi thức nên xuất hiện ý niệm “Ý THỨC HƯỚNG LÊN, VÔ

THỨC HƯỚNG XUỐNG”.Theo đó, ẩn dụ cơ bản là ý niệm được thể hiện chứ không phải là

ngôn ngữ thể hiện. Ẩn dụ ý niệm là các ánh xạ có tính chất hệ thống giữa hai miền ý niệm:

miền nguồn là một phạm trù trải nghiệm được ánh xạ hay phóng chiếu (đồ họa) vào miền

đích, một phạm trù trải nghiệm khác. Như vậy, ẩn dụ không còn là vấn đề ngôn ngữ mà cơ

bản là vấn đề tư tưởng và nhận thức. Cách nhìn ẩn dụ theo quan điểm này hoàn toàn khác với

quan điểm cho rằng ẩn dụ chỉ là biểu hiện với thuộc tính ngôn ngữ, nghĩa là ngôn từ và vì thế

mỗi từ ngữ riêng biệt phải có một ẩn dụ riêng biệt. Còn với ẩn dụ tri nhận, những từ ngữ ẩn

dụ được con người sử dụng còn mang tính hệ thống, bởi vì các ý niệm về ẩn dụ đều mang

tính hệ thống. Đến đây, chúng ta lại thấy một hệ luận nữa là các ẩn dụ ngôn từ gắn chặt với

các ẩn dụ ý niệm một cách hệ thống. Hay nói một cách khác là mỗi ẩn dụ ý niệm bao hàm và

chi phối một hệ thống các ẩn dụ ngôn từ. Ngoài ra, các ẩn dụ ý niệm cũng liên quan với nhau

theo một hệ thống để tạo thành một cấu trúc tôn ti trong hệ thống, nhờ đó ẩn dụ tri nhận sẽ

giúp con người hiểu sâu sắc hơn các tầng bậc ngôn ngữ cũng như chính bản thân mình.

Lakoff và Jonhson trong công trình “Metaphors we live by” đã khái quát các đặc

điểm cơ bản của ẩn dụ dưới góc nhìn tri nhận như sau:

Thứ nhất, ẩn dụ chủ yếu thuộc về lĩnh vực tư duy và hành động và chỉ phát sinh

trên lĩnh vực ngôn ngữ;

Thứ hai, ẩn dụ có thể đặt cơ sở trên sự tương đồng dù trong nhiều trường hợp

những tương đồng này dựa trên cơ sở các ẩn dụ thông thường mà không có cơ sở từ những

điểm tương đồng. Các điểm tương đồng có cơ sở là các ẩn dụ thông thường thì lại có thật

trong văn hóa của chúng ta vì các ẩn dụ thông thường đã phần nào định nghĩa những gì

chúng ta cho là có thật. Ẩn dụ có thể dựa trên các điểm tương đồng rời rạc, chúng ta vẫn

xem những tương đồng quan trọng là những tương đồng do ẩn dụ tạo ra;

Thứ ba, chức năng chủ yếu của ẩn dụ là cung cấp một phần hiểu biết về một loại

trải nghiệm dưới dạng một loại trải nghiệm khác.

Ngoài ra, sau khi tiếp thu ý kiến từ các nhà ngôn ngữ học tri nhận, luận văn cũng

lưu ý thêm một số vấn đề sau về ẩn dụ tri nhận khi vận dụng vào phân tích tác phẩm thơ ca

như sau:

Ẩn dụ khái niệm có nhiệm vụ cung cấp các suy luận hình tượng hóa cho các khái

niệm trừu tượng. Vì vậy, ẩn dụ tri nhận không chỉ dừng lại ở biện pháp tu từ với thế so sánh

tương đương về mặt từ vựng như chúng ta đã biết mà ta còn có thể đi sâu vào những bản

chất năng động nhất của thế giới ẩn dụ để từ đó có ý thức rõ hơn về một dạng cơ chế ẩn dụ

rất rộng mở vốn là hiện thân của sức mạnh hình tượng tạo ra nguồn xúc cảm thẫm mĩ cho

thơ ca.

Nói đến ẩn dụ tri nhận, chúng ta phải chú ý rằng ẩn dụ ở đây không đơn thuần là

các thủ pháp tu từ học, mà là sự dịch chuyển từ một lĩnh vực ý niệm này sang một lĩnh vực ý

niệm khác. Từ đó, khi nói đến cấu trúc khái niệm trong mối quan hệ với sự chuyển dịch của

ẩn dụ trong lĩnh vực ý niệm là cơ chế thực thi chức năng liên thông của thế giới ý niệm vô

cùng năng động trong hoạt động nhận thức của con người. Tức là đặc điểm của phương thức

chuyển nghĩa trong ẩn dụ ý niệm chính là dựa trên tính liên thông giữa các trường thị giác

gắn với mối quan hệ các phạm trù trong cách xác lập cơ chế tư duy. Vậy quá trình cung cấp

các suy luận hình tượng cho các khái niệm trừu tượng ở đây không đơn thuần là quá trình

minh họa các khái niệm trừu tượng sẵn có bằng con đường đơn thuần lí tính mà là quá trình

đào sâu và mở rộng độ tinh tế của các trường thị giác trong cách nhận thức thế giới một cách

chủ động và có hướng thẩm mĩ của con người.

Ẩn dụ ý niệm thâm nhập vào nhận thức của chúng ta về thế giới xung quanh ta và

nó mang tính đặc thù văn hóa. Quan điểm này cho rằng một miền ý niệm được thông hiểu

qua một miền ý niệm khác và được biểu diễn là, MIỀN A LÀ MIỀN B. Miền A tham chiếu

đến những khái niệm trừu tượng hay là miền đích có liên quan đến MIỀN B, là những đối

tượng cụ thể hay miền nguồn. Hiểu biết của chúng ta về hoạt động hay đặc điểm của những

miền cụ thể sẽ giúp chúng ta phần nào liên hệ được với những khái niệm trừu tượng. Qúa

trình này là đơn hướng không có sự đảo ngược. Có nghĩa là, chúng ta đi từ khái niệm cụ thể

đến trừu tượng để hiểu được cái thế giới ít cụ thể hơn.

Khi đề cập đến các miền, thường dùng chữ in hoa để hàm ý rằng ẩn dụ ý niệm vốn

là thể loại tư duy, không nhất thiết phải biểu đạt trong một ngôn ngữ. Còn các biểu ngữ ẩn dụ

thì được viết bằng chữ thường để hàm ý rằng ẩn dụ ý niệm trong một ngôn ngữ được biểu

đạt thông qua biểu ngữ ẩn dụ.

Ẩn dụ ý niệm là hiểu một miền thông qua một miền khác. Hiểu các miền có nghĩa

là hiểu những tương ứng tồn tại giữa hai miền. Những tương ứng này được xem là các ánh

xạ. Các ánh xạ là tri thức tiền giả định ẩn tàng bên dưới, được dùng khi nói về những miền

khác. Chúng ta có thể hình dung cấu trúc hai miền như sau:

TARGET SOURSE

DOMAIN DOMAIN

Miền đích A B Miền nguồn

(Thường là đối tượng (Thường là đối tượng

trừu tượng) cụ thể)

( a’ ) a

( b’) b

( c’) c

………. …………

Trong đó, các ý niệm ở miền A có thể được thể hiện đầy đủ, tương ứng với những ý

niệm ở miền B (nếu là ẩn dụ cấu trúc) hoặc không được thể hiện đầy đủ (nếu là các loại ẩn

dụ khác). Sơ đồ trên dựa vào quan niệm của Lakoff và Johnson về sự hình thành của hai

miền nguồn và đích của một ý niệm:

“Suy luận trừu tượng được hình tượng hóa của ẩn dụ khái niệm nhờ vào các phóng

chiếu ẩn dụ từ vùng cụ thể (vùng nguồn) lên vùng trừu tượng (vùng đích). Sự phóng chiếu

liên thông có tính cấu trúc giữa vùng nguồn và vùng đích này được thực hiện gắn liền với sự

hình thành nên các đường dây thần kinh nối liền giữa vùng cảm nhận tri giác với các vùng

khác trong não bộ con người”[16].

1.2.3. Các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến ẩn dụ tri nhận

1.2.3.1. Ý niệm, phạm trù

Có thể nói, thuật ngữ trung tâm của ngôn ngữ học tri nhận nói chung và ẩn dụ tri

nhận nói riêng là ý niệm. Theo quan điểm của tâm lí học và ngôn ngữ học tri nhận cho rằng:

“ Ý niệm trước hết không phải và không chỉ là kết quả của quá trình tư duy, quá trình

phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người; mà nó là sản phẩm của hoạt động tri

nhận, nó là cái chứa đựng tri thức hay sự hiểu biết của con người về thế giới trên cơ sở kinh

nghiệm từ đời này qua đời khác, nó vừa mang tính nhân loại phổ quát vừa mang tính đặc thù

dân tộc (do chỗ nó gắn kết chặt chẽ với ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc đó)” (28, tr.285)

Vậy thì “khái niệm” trong ngôn ngữ học truyền thống khác với “ý niệm” trong

ngôn ngữ học tri nhận như thế nào? Trong ngôn ngữ học truyền thống, thuật ngữ “khái

niệm” được vay mượn từ logich học và thường được nói đến trong hai trường hợp: Khi

người ta bàn đến chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ; hoặc là khi người ta bàn đến

nghĩa “biểu niệm”(hay “sở biểu”) của từ, tức là với khái niệm mà từ biểu hiện. Cũng có thể

nói một cách khác là: nếu khái niệm là đơn vị của tư duy thì ý niệm là đơn vị của ý thức.

Chính trong khi nghiên cứu ý thức (bằng ngôn ngữ), người ta phải quan tâm đến các quá

trình ý niệm hóa và phạm trù hoá thế giới khách quan. Theo đó, các sơ đồ hình ảnh (image

schemas) cũng là những sự ý niệm hoá kinh nghiệm, và ẩn dụ cũng là một cách ý niệm hoá

kinh nghiệm. Hơn nữa ý niệm có thể được biểu hiện bằng ngôn từ và có thể không trong khi

một khái niệm bao giờ cũng phải biểu thị bằng từ ngữ. Ý niệm cũng bao quát hơn, toàn diện

hơn cái “nghĩa biểu niệm” của từ, vì nó hiện thân trong tất cả các cách sử dụng của từ (nghĩa

đen hay nghĩa bóng, bình thường hay tu từ,…) và không phải chỉ trong một từ. Cần chú ý

rằng ý niệm gắn bó chặt chẽ với phạm trù và sự phạm trù hóa. Thế giới xung quanh ta bao

gồm vô số sự vật và hiện tượng nên con người phải nhận diện, phân loại . Sự phân loại là

một quá trình tinh thần (mental process) phức tạp thường được gọi là "sự phạm trù hóa" mà

sản phẩm của nó là các phạm trù tri nhận, hay các ý niệm.

1.2.3.2. Khung/ miền/ lĩnh vực

Đây là ba thuật ngữ có mối quan hệ gần gũi với nhau. Trong đó “khung” thường

được hiểu là hệ thống ý niệm liên quan với nhau theo cái cách mà để hiểu bất kỳ một ý niệm

nào trong số đó chúng ta phải hiểu cái cấu trúc toàn thể mà ý niệm đó ăn khớp với, tức là

nhấn mạnh đến chức năng bổ trợ về mặt ngữ nghĩa của một miền ý niệm và giả định rằng

miền chứa một cấu trúc mang tính tổng thể chứ không chỉ là một bảng liệt kê các ý niệm liên

quan đến trải nghiệm. Còn “miền” hay “lĩnh vực” thường được cho là một miền ngữ nghĩa

hay nghĩa của một từ liên quan đến một miền nhất định. Ngoài ra, nhiều người còn dùng

thuật ngữ “hình” (profile) và “nền” (base) để nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa một ý niệm

và miền bao ý niệm. Trong đó, hình là một phần của toàn bộ tri thức ý niệm được nền bổ trợ

nên nó sẽ trở nên không được xác định nếu không có nền. Mối quan hệ giữa ý niệm và miền

không chỉ là mối quan hệ ngữ nghĩa bậc trên-bậc dưới trong xếp loại tôn ti mà còn biểu hiện

mối quan hệ giữa phạm trù và các thành viên của phạm trù, giữa bộ phận và toàn thể.

1.2.3.3. Điển dạng

Từ góc độ tri nhận, hầu hết các nhà ngôn ngữ học cho rằng điển dạng là một biểu

tượng tinh thần, một loại điểm quy chiếu tri nhận. Các phạm trù tri nhận, do đó có một cấu

trúc phức tạp, bao gồm các điển dạng, các thí dụ đạt và thí dụ tồi (các thành viên phạm trù

ngoại vi) và có các ranh giới mờ. Bản chất của chúng được thể hiện ở chỗ:

- Các phạm trù không biểu hiện sự phân chia võ đoán các sự vật hiện tượng của thế

giới khách quan; chúng phải dựa trên cơ sở những khả năng tri nhận của con người.

- Các phạm trù tri nhận như màu sắc, hình dáng cũng như sinh vật và các sự vật cụ

thể đều liên đới với các điển dạng nổi trội về mặt ý niệm vốn là một bộ phận trọng yếu để tạo

thành các phạm trù.

- Ranh giới của các phạm trù tri nhận là ranh giới mờ, các phạm trù lân cận không

được tách bạch rõ ràng mà chúng lẫn vào nhau.

- Nằm giữa các điển dạng và các ranh giới, các phạm trù tri nhận gồm có các thành

viên được đánh giá theo một thang độ về tính điển hình và được xếp hạng từ các ví dụ đạt

đến các ví dụ tồi.

- Các điển dạng của các phạm trù tri nhận không phải là bất biến, mà chúng có thể

thay đổi và cấu trúc nội tại tổng thể của một phạm trù cũng khả biến như vậy tùy thuộc vào

bối cảnh tri nhận cụ thể, vào mô hình tri nhận và văn hóa, vào các bậc cơ sở mà con người sử

dụng khi tương tác với các sinh thể, vật thể trong thế giới khách quan.

1.2.4. Các loại ẩn dụ tri nhận cơ bản

Trong cách nhìn của lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ tri nhận thường được

chia thành ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể và ẩn dụ định hướng (Lakoff và Johnson 1980, tái

bản 2002 )

1.2.4.1. Ẩn dụ cấu trúc (Structural metaphors)

Ẩn dụ cấu trúc là loại ẩn dụ ý niệm mà ở đó miền nguồn cung cấp những tri thức

cho miền đích một cách khá phong phú. Với ý nghĩa như vậy, những ẩn dụ cấu trúc có vai

trò là cấu trúc lại ý niệm ở miền đích về mặt nghĩa sau khi nhận được những tri thức do ý

niệm ở miền nguồn cung cấp. Nhờ đó, người ta có thể hiểu được bản chất ý niệm ở miền

đích. Sự hiểu biết này thông qua các ánh xạ giữa các yếu tố ở miền nguồn và miền đích.

Chẳng hạn, trong ẩn dụ “TRANH LUẬN LÀ CHIẾN TRANH”

Phạm trù nguồn “CHIẾN TRANH” là sự kết hợp giữa các phạm trù cơ sở như:

“SÚNG”, “XE TĂNG”, “BOM” và các phạm trù hành động như “BẮN”, “TẤN CÔNG”,

“LÁI”. Cuộc tranh luận cũng giống như một chiến trận cũng bao gồm một số các giai đoạn

khác nhau như tấn công vào vị trí của đối phương, rút lui và phản công, chiến thắng hay thất

bại. Nhờ đó mà hai vấn đề TRANH LUẬN và CHIẾN TRANH trở nên tương đồng. Vì thế

mà ta thấy xuất hiện một số biểu thức ngôn ngữ kiểu như:

- Anh ta tấn công vào các lí lẽ của tôi.

- Bạn phải bảo vệ quan điểm của mình chứ!

- Anh ta đánh trả lại luận điểm của bạn mình một cách quyết liệt.

- Cuối cùng thì luật sư A đã thắng luật sư B vì những lập luận sắc sảo của

anh ta.

1.2.4.2. Ẩn dụ bản thể (Ontological metaphor)

Ẩn dụ bản thể là loại ẩn dụ ý niệm mà ở đó những ý niệm trừu tượng được “vật

thể hóa” nhờ vào những kinh nghiệm của chúng ta trong việc tri giác đối tượng vật lí và các

chất liệu hay vật chứa. So với ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể cung cấp cấu trúc tri thức ít hơn

vì công cụ của ẩn dụ loại này chỉ cung cấp tình trạng bản thể dẫn đến các phạm trù chung

của các khái niệm đích trừu tượng. Vì thế, biện pháp tu từ nhân hóa có thể được xem như là

một hình thái của ẩn dụ bản thể và ở đây miền nguồn tốt nhất của nó là bản thân con người.

Chẳng hạn, những biểu thức ngôn ngữ như:

-Cần quyết liệt đấu tranh chống tham nhũng

-Lạm phát dồn anh ta vào góc tường.

-Cuộc đời đã bỏ mặc anh ta.

Ở đây, miền đích là các khái niệm trừu tượng “lạm phát”, “cuộc đời” còn miền

nguồn của nó là những thực thể có thể tác động “dồn”, “bỏ mặc”. Như vậy, ẩn dụ bản thể là

quá trình đối tượng hóa những cái trừu tượng để hình dung nó như là một đối tượng cụ thể.

Nhờ vậy, ẩn dụ bản thể là phương thức giải thích các khái niệm trừu tượng.

1.2.4.3. Ẩn dụ định hướng (Orientational metaphor)

Ẩn dụ định hướng là loại ẩn dụ ý niệm mà từ những ý niệm nguồn sẽ tạo thành

những ý niệm đích về định hướng không gian như “lên”, “xuống”, “trong”, “ngoài”, “trung

tâm” hay “ngoại biên”. Loại ẩn dụ này tạo nên một loạt các khái niệm thuộc miền đích trong

hệ thống ý niệm của con người. Thường thì sự phát triển ý niệm từ lĩnh vực nguồn sang lĩnh

vực đích của loại ẩn dụ ý niệm này chứa hai thành tố cơ bản là : 1/ Sự di chuyển ý niệm từ

lĩnh vực SỰ VẬT sang lĩnh vực KHÔNG GIAN; 2/ Sự di chuyển ý niệm từ bộ phận cơ thể

người hay vật mốc tự nhiên (thường là “trời”, “mặt đất”, ‘cánh đồng”, “đường mòn”, “nhà”,

“ô cửa”) sang khu vực không gian. Như vậy, khác với hai kiểu ẩn dụ tri nhận nói trên, ẩn dụ

định hướng liên quan tới việc định hướng trong không gian theo nhận thức về khoảng cách,

tầm nhìn nhờ các cặp đối lập như: xa/gần, trên /dưới, trong/ngoài, trước/sau, lên/xuống, vào

/ra... Ví dụ: nó béo ra, mặt cô ta tươi tỉnh hẳn lên...

Hoặc là:

-NHIỀU LÀ LÊN, ÍT LÀ XUỐNG: Nó đã lên cân- Nó đã xuống cân.

- KHỎE LÀ LÊN, ĐAU ỐM LÀ XUỐNG: Anh ta đã khỏe lên- Anh ta đã xuống sức.

- SƯỚNG LÀ LÊN, BUỒN LÀ XUỐNG: Cô ấy đã thấy dâng lên niềm vui sướng – Cô

ấy buồn rũ xuống.

Như vậy, mỗi loại ẩn dụ tri nhận có một vai trò, ý nghĩa riêng, có những đặc trưng

để nhận diện.Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp giữa các ẩn dụ tri nhận như trên có khả năng

kết hợp với nhau chứ không tồn tại tách biệt, loại trừ nhau. Chẳng hạn, ẩn dụ cấu trúc có thể

kết hợp với ẩn dụ bản thể hay định hướng, trong bản thân ẩn dụ cấu trúc đôi khi cũng có

chứa đựng ẩn dụ bản thể. Ẩn dụ là phép chiếu từ thế giới cụ thể vào thế giới trừu tượng qua

giác quan hay qua kinh nghiệm của con người, trong đó, ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể là

hai đối tượng chủ yếu được vận dụng vào làm cơ sở để triển khai đề tài. Thuyết tri nhận cùng

với quan điểm về ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể giúp khám phá các khái niệm trừu tượng

bằng cách chiếu khái niệm đó lên các chiều của không gian, hay các chiều trong trải nghiệm

của cá nhân.

• Tiểu kết

Như vậy, ngôn ngữ học tri nhận là một trường phái ngôn ngữ ra đời vào nửa sau

thế kỷ XX có đối tượng nghiên cứu là các mối quan hệ giữa ngôn ngữ và các quá trình tư

duy của con người, với ý thức của con người. Trong đó, lí thuyết ẩn dụ tri nhận có một vai

trò đặc biệt trong ngôn ngữ đời thường và cả trong ngôn ngữ thơ ca, âm nhạc. Nó là một

công cụ tri nhận mạnh mẽ để ý niệm hóa các phạm trù trừu tượng. Nhờ công cụ này mà ngôn

ngữ được coi là cánh cửa để bước vào thế giới tinh thần của con người. Và từ đây, ẩn dụ

không chỉ là vấn đề của tu từ ngôn ngữ mà trở thành phương tiện nhằm khám phá ra những

bí ẩn của quá trình tư duy mà trước đây bị coi là không thể thấu đạt của con người. Nhưng để

có thể vận dụng được “công cụ” này, chúng ta phải tuân thủ những nguyên lí của ngôn ngữ

học tri nhận nói chung, đồng thời phải hiểu được đặc điểm tính nghiệm thân, tính hệ thống

của ẩn dụ tri nhận. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tìm hiểu mối quan hệ giữa ý niệm con

người với các điều kiện tâm lí, văn hóa, nhận thức …bên ngoài và bên trong con người.

Những quan điểm được trình bày ở trên chính là cơ sở lí thuyết để luận văn vận

dụng vào triển khai đề tài “Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học

tri nhận”

Chương 2: ẨN DỤ Ý NIỆM CUỘC ĐỜI TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

Cuộc đời là một khái niệm trừu tượng. Danh từ “cuộc đời” theo nghĩa hẹp là

“Quá trình sống của một người, một cá thể sinh vật, nhìn một cách toàn bộ từ lúc sinh ra cho

đến lúc chết”. Theo nghĩa rộng, đó là “Toàn bộ đời sống xã hội với những hoạt động, những

sự kiện xảy ra trong đó”. (21, 225). Như vậy, với nghĩa hẹp, cuộc đời là khái niệm đề cập

đến đời sống của mỗi cá nhân. Còn cuộc đời theo nghĩa rộng là nói đến đời sống của nhân

loại. Như vậy, cuộc đời là một đối tượng vừa gần gũi, vừa trừu tượng. Gần gũi vì nó gắn với

con người nhưng trừu tượng vì nó vô hình không thể nhìn thấy hay sờ nắm được. Chỉ có

những trải nghiệm mà con người chắp nhặt được trong quá trình sống của mình mới có thể

khái quát cuộc đời thành những đối tượng cụ thể hơn, dễ nắm bắt hơn. Nhưng mỗi con người

có những cái nhìn không thật sự giống nhau về cùng một đối tượng nên mỗi người cũng có

những ý niệm vừa có điểm giống, vừa có điểm khác với cuộc đời này. Chúng ta dễ dàng tìm

thấy những ý niệm cụ thể về cuộc đời ở ngôn từ trong văn học, ca từ trong âm nhạc và thậm

chí trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của con người. Hơn 60 năm sống giữa cuộc đời, chứng

kiến những sự kiện diễn ra trong cuộc đời chung của nhân loại và những biến cố trong cuộc

đời của mình, Trịnh Công Sơn cũng đã đúc kết những ý niệm về cuộc đời này. Trong chương

này, luận văn xin nêu lên những ý niệm về cuộc đời sau khi tìm hiểu, phân tích ca từ Trịnh

Công Sơn.

2.1.Cuộc đời là cuộc hành trình

Ý niệm “ Cuộc đời là cuộc hành trình” xuất hiện trong ca từ của Trịnh Công Sơn

khá dày gồm 74/ 243 ca khúc được khảo sát. Trong đó, các đối tượng của một cuộc hành

trình: chủ thể hành trình, phương tiện cách thức hành trình, không gian hành trình, đích đến

của hành trình được thể hiện khá đầy đủ để cấu trúc cho miền nguồn của ý niệm.

Về không gian hành trình, trong ca từ Trịnh Công Sơn, hình ảnh con đường mang

ý nghĩa ẩn dụ xuất hiện với tần số 18/243 ca khúc. Đây là hình ảnh tâm điểm của không gian

ý niệm về cuộc hành trình. Trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn, con đường xuất hiện

thường đi cùng với chủ thể hành trình và mang trạng thái theo tâm trạng của chủ thể.

Cuộc đời của Trịnh và cũng là của con người Việt Nam vào những năm chiến tranh

là cuộc đời mang nhiều nỗi đau mất mát. Trịnh đã nhận thấy con người quá mệt mỏi với nỗi

đau thể xác, với nỗi buồn chia ly người thân, với nỗi khiếp sợ súng đạn, bom mìn đang rình

rập. Việc chia sẻ với nhau những tâm sự của bản thân lúc này như là một việc làm xa xỉ. Vì

thế, con đường mà mỗi người đang bước đi trong cuộc hành trình của kiếp nhân sinh trở nên

quạnh quẽ, đơn côi, thiếu vắng tiếng cười. Đó là những “đường quạnh hiu”, “đường hiu

hắt”, “ đường thật buồn”, “đường mịt mù”, “đường…có gì vui”:

“…Đường nào quạnh hiu, tôi đã đi qua/ Đường về tình tôi có nắng rất la

đà…”(Bên đời hiu quạnh)

“…Một ngày hiu hắt con đường/ Một ngày bước nhỏ nhẹ nhàng ra đi/ Theo chân

cơn gió ta về/ Rời xa con phố với giờ nguy nan…”(Lời ở phố về)

“…Con đường thật buồn một ngày cuối đông/ Con đường mịt mù một ngày cuối

thu…”(Tôi ru em ngủ)

“…Đường hôm qua tôi thấy được rồi/ Đường hôm nay tôi đã cùng ngồi…có gì

vui…”(Như tiếng thở dài)

“Đường dài”, “đường xa” là không gian hành trình được cảm nhận bằng trạng thái

đơn độc, mệt mỏi của con người khi sống trong bầu không khí căng thẳng, buồn chán:

“…Đường đời xa lắm nhé/ Em không nhớ tôi sao…”(Môi hồng đào)

“…Ôi đường phố dài/ Lời ru miệt mài / Ngàn năm ngàn năm…”(Tuổi đá buồn)

“…Đường xa vạn dặm/ Mẹ bỏ con đi/ Đường xa vạn dặm/ Giấc ngủ chưa tròn/ Mẹ

bỏ tôi đi…”(Đường xa vạn dặm)

“…Không còn ai/ Đường về ôi quá dài/ Những đêm xa người…”(Phôi pha)

“…Từ đó ta ngồi mê/ Để thấy trên đường xa/ Một chuyến xe tựa như/ Vừa đến nơi

chia lìa…”(Đóa hoa vô thường)

Có những lúc quá mệt mỏi với kiếp người bị lưu đầy trong cõi nhân thế, Trịnh

Công Sơn đã nghĩ về cái đích của cuộc hành trình. Ông cũng nhận ra cái chết thật gần với sự

sống nhưng hành trình sống để đi đến cái bến đợi ngàn năm ấy của con người trong tâm thế

mệt mỏi, chán chường thật là một nỗi tuyệt vọng tác động đến chủ thể sự “ chồn chân mỏi

gối ” hay cảm giác nhận ra sự vô ích của bước chân “không tới” đích:

“…Nhật nguyệt trên cao/ Ta ngồi dưới thấp/ Một giòng trong veo, sao lòng còn đục/

Bầy vạc bay qua kêu mòn tịch lặng/ Đường đời không xa sao chồn gối chân…”(Cũng sẽ

chìm trôi)

“…Đi đi trên đường, đi đi và đi mãi/ Đi đi và không tới, xa xăm chiều réo ai…”(Đi

mãi trên đường)

Sự cô đơn làm cho chủ thể hành trình khát khao được giao cảm, được có người

đồng hành trong không gian xa vắng ấy:

“… Người đi tìm kiếm giữa mịt mùng/ Người đi tìm mãi suốt con đường tấm lòng

kia…”(Chuyện đóa quỳnh hương)

“…Dành trong bao la, con đường thật nhỏ/ Đợi sẽ có ngày em bước qua/ Đợi từ đau

thương quê hương sẽ lớn/ Đợi máu anh em chớm những nụ hồng/ Đợi cây lên xanh trên rừng

hoạn nạn/ Đợi thấy những đường không cách ngăn…”(Đợi có một ngày)

“…Xin trên những đường dài/ Cho nghe bước rộn vui…”(Nghe tiếng muôn trùng)

Những động từ thể hiện ý chủ động “tìm”, “đợi”, “xin” gắn với những sự hy

vọng, mong ước về “tấm lòng kia”, “ ngày em bước qua”, “quê hương sẽ lớn” “nụ hồng”,

“đường không cách ngăn”, “bước rộn vui” trên không gian hành trình của cuộc đời đã làm

rõ cái trạng thái cô đơn của Trịnh Công Sơn trong cái buồn, cái chia ly của đời sống chung

của nhân loại. Đồng thời, chúng ta cũng thấy nơi tấm lòng Trịnh một tình yêu bao la, cao

thượng với con người và cuộc đời này.

Đến khi đất nước dành được những chiến công, niềm hi vọng được nhen lên trong

tim mỗi con người, không gian hành trình của cuộc đời trở thành một không gian rộng lớn,

nhộn nhịp với một tập thể người cùng đồng hành. Đó là “ đường mênh mông…bao người

quen” với “ bước chân thênh thang” và “những nắm tay reo mừng”, là “đường …rực ngời

nắng mai” :

“…Đường ta đi mênh mông phố xá bao người quen/ Bàn chân ta thênh thang

những nắm tay reo mừng…”(Đồng dao hòa bình)

“…Đường hôm nay dân ta đi tới/ Những tim người rực ngời nắng mai…”(Việt

Nam ơi hãy vùng lên)

Và cuộc hành trình nào của mỗi cuộc đời cũng đi đến điểm kết thúc. Đó chính là

cái đích của cuộc hành trình. Mọi chuyến đi trên con đường của Trịnh Công Sơn đều

hướng về cõi thiên thu, hướng về miền cát bụi – cái cõi mà ông luôn nghĩ đến như một

chuyến viễn du trở về sau cuộc hành trình hơn 60 năm trên đường trần gian. Những từ ngữ

thể hiện sự kết thúc “ đến bờ” (kết thúc của chuyến lưu hành trên mặt nước), “ cuối đường” (

điểm kết thúc của một con đường), “ khăn gói, chào”( kết thúc của một cuộc gặp gỡ), “chân

núi” ( điểm kết thúc của núi tính từ đỉnh núi trở xuống), “cuối trời” (kết thúc của một giới

hạn trong không gian theo tưởng tượng), “ trở về” (kết thúc của một chuyến đi) đã được

Trịnh Công Sơn sử dụng để chỉ cái chết và cũng là cái đích của cuộc hành trình:

“…Ôi phù du/ Từng tuổi xuân đã già/ Một ngày kia đến bờ/ Đời người như gió

qua…”(Phôi pha)

“…Chiều nay em ra phố về/ Thấy đời mình là những chuyến xe/…Chiều nay em ra

phố về/ Thấy đời mình là những đám đông/ Người chia tay nhau cuối đường/ Ngày đi đêm

tới trăm tiếng hư không…”(Nghe những tàn phai)

“…Đường trần rồi khăn gói/ Mai kia chào cuộc đời/ Nghìn trùng con gió

bay…”(Những con mắt trần gian)

“…Về chân núi thăm nấm mồ/ Giữa đường trưa có tôi bơ phờ/ Chợt tôi thấy thiên

thu là một đường không bến bờ” ( Lời thiên thu gọi)

“Xin cho người vừa nằm xuống/ Thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang”Cho

người nằm xuống)

“ Tôi nay ở trọ trần gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời”( ở trọ)

Trong ca từ Trịnh Công Sơn, sau cái điểm kết thúc của con đường không phải là sự

chấm dứt tất cả mà mở ra một miền cát bụi – nơi trở về của con người. Đó cũng là tư tưởng

trong giáo lý Phật giáo mà Trịnh tiếp thu, mỗi con người là một hạt cát nhỏ trong biển cát

bao la của Hằng hà rồi cũng sẽ quay về với chính nó:

“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát bụi” (Cát bụi).

Về phương tiện hành trình, ca từ Trịnh Công Sơn xuất hiện 37/ 243 ca khúc có

chứa ý niệm về phương tiện hành trình. Trong đó, hình ảnh phương tiện đôi chân mang ý

nghĩa ẩn dụ xuất hiện 28/ 243 ca khúc:

“…Từ khi có đôi chân vào đời/ Màu hoa lá quen như mặt người…”(Tình yêu tìm

thấy)

“…Tôi là ai? Là ai? Ba trăm năm trước tôi là ai?Là ai? Ra đi vời vợi/ Gót hồng lạc

dấu em ơi!/…Trở lại hóa kiếp rong chơi giữa nơi này…”(Tôi tìm tôi)

“…Những bước chân mềm mại/ Đã đi vào đời người/ Như từng viên đá cuội/ Rớt

vào lòng biển khơi…”(Tình nhớ)

“…Sống có đôi chân/ Đôi chân mệt nhoài/ Một đời tới lui…”(Giọt lệ thiên thu)

“…Nghe bên này nắng mới/ Em đi bằng bước chân vui…”(Yêu dấu tan theo)

“…Một bàn chân bước thêm/ Rời dĩ vãng chưa rời máu xương…”(Xanh lòng tàn

phai)

“…Người đi hành hương về đồi núi xa/ Người đi vẫn đi, chiều qua vẫn qua/ Chiều

đã chiều hơn/ Người vẫn âm thầm, gõ buồn gót chân…”(Hành hương trên đồi cao)

“…Vòng tay đã xanh xao nhiều/ Ôi tháng năm gót chân mòn trên phiếm

du…”(Mưa hồng)

“…Ta nghe đời rất mênh mông/ Trong chân người bước chầm chậm…”(Cho đời

chút ơn)

“…Mười năm chân bước trên đường dài/ Gặp nhau không nói không nụ cười/

Chút tình dường như hiu hắt bay…”(Có một dòng sông đã qua đời)

Sự kết hợp của “đôi chân”, “gót hồng”, “ bước chân”, “chân bước”, “bước

chân vui”, “chân người”, “gót chân”…cùng với không gian hành trình của đường đời trong

ý nghĩa toàn văn bản làm cho “chân” ở đây không còn mang ý nghĩa thực là một bộ phận của

cơ thể người mà là phương tiện để tiến hành một cuộc hành trình của kiếp nhân sinh.

Những tháng ngày đối mặt với những cảnh chia li vội vã, bất ngờ, thân người nay

còn mai mất, Trịnh Công Sơn lại nhận thấy phương tiện mà mỗi con người được trao để tiến

hành cuộc hành trình là ngựa, là xe. Hình ảnh ngựa xuất hiện 5/ 243 ca khúc và xe xuất hiện

2/ 243 ca khúc nói về phương tiện hành trình:

“…Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè/ Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê

hương…”(Xin mặt trời ngủ yên)

“…Đời vẽ tôi tên mục đồng/ Rồi vẽ thêm con ngựa hồng/ Từ đó lên đường phiêu

linh…”(Chỉ có ta trong cuộc đời)

“…Chiều nay em ra phố về/ Thấy đời mình là những chuyến xe…”(Nghe những tàn

phai)

“…Người nhìn mãi theo từng chuyến xe ngựa qua rồi/ Người nhìn dấu xe lăn dấu

lăn trên đời/..Ngựa xa rồi, ngựa xa rồi trên ngày tháng với…”(Phúc âm buồn)

Những “ chuyến xe”, những “ngựa hồng”, “xe ngựa” gắn với cuộc đời, gắn với

đường đời, gắn với cái sống, cái chết của con người nên nó không còn là phương tiện vận

chuyển hàng hóa, con người theo nghĩa thông thường mà cũng trở thành phương tiện để vận

chuyển con người trên hành trình về miền cát bụi.

Về cách thức hành trình, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta dễ bắt gặp

hình ảnh con người đang đi với bước chân vô định, buồn bã, lẻ loi:

“…Đường phố nào một đường phố nào/ Đường phố nào còn nằm che dấu/ Cho tôi đi

giữa nhân loại đớn đau…”(Có những con đường)

“…Đi đi trên đường/ Đi đi và đi mãi/ Đi đi và không tới/ Xa xăm chiều réo ai…”(Đi

mãi trên đường)

“…Đi về đâu hỡi em? Khi trong lòng không chút nắng/ Giấc mơ đời xa vắng/ Bước

chân không chờ ai đón/ Một đời em mãi lang thang…”(Đời gọi em biết bao lần)

“…Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi/ Đời như vô tận, một mình tôi

về …với tôi…”(Lặng lẽ nơi này)

“…Một ngày hiu hắt con đường/ Một ngày bước nhỏ nhẹ nhàng ra đi…”(Lời ở phố

về)

“…Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi/ Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…”(Một cõi

đi về)

“…Tiến thoái lưỡng nan, đi về lận đận/ Ngày xưa lận đận/ Không biết về đâu/ Về đâu

cuối ngõ/ Về đâu cuối trời…”(Tiến thoái lưỡng nan)

“…Đi nhẹ vào đời thầm thì gót chân…”(Tôi ru em ngủ)

Những hình ảnh “đi”- “về” được nhắc đến gắn với con đường đời, gắn với cái

đích về của cuộc hành trình của kiếp người đã biến cách thức hành động di chuyển của con

người thành thời gian tịnh tiến của đời người, thành hành trình sống của con người.

Như vậy, ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH” trong ca từ Trịnh

Công Sơn được cấu trúc đầy đủ hai miền nguồn và đích. Trong đó, miền nguồn mang đầy đủ

những đặc điểm cơ bản của cuộc hành trình: có chủ thể hành trình, không gian hành trình,

phương tiện, cách thức hành trình. Tuy nhiên, đối tượng của cuộc hành trình trong ca từ

Trịnh Công Sơn rất phong phú. Thông thường, chủ thể là con người sẽ gắn với không gian là

con đường, mặt nước, với phương tiện tiến hành là ngựa, xe, thuyền, đôi chân để thực hiện

một mục đích nào đó, có thể là tìm kiếm, vui chơi, hò hẹn hay chỉ là để lang thang trong cõi

đời một cách vô định để rồi cuối cùng đích về cũng là cõi thiên thu, miền cát bụi…Còn nếu

chủ thể hóa thân thành gió, mây, hạt bụi hay cánh chim trời lấy không trung làm không gian

hành trình thì cũng nhằm vào cái đích là thoát khỏi cái thế giới trần gian để về nương náu

chính trong cái bản thể của mình để không còn chịu sự hợp tan, sống chết nữa, ấy cũng là cõi

thiên thu của con người.

Cơ sở để phát hiện ý niệm “ CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH” trong ca từ

Trịnh Công Sơn dựa trên sự liên hội của những yếu tố ngôn ngữ thuộc cùng một trường liên

tưởng về cuộc hành trình: con đường, ngựa, xe, bàn chân, bay,bước đi…Những yếu tố ngôn

ngữ này gắn với miền đích- cuộc đời- một cách trực tiếp: “Đường đời”, “bay trong đời”,

“đôi chân vào đời”,”đi nhẹ vào đời”, “đời mình là những chuyến xe”…tương ứng với miền

nguồn- cuộc hành trình của kiếp người.

Ngoài ra, để phát hiện ra ý niệm này, chúng ta còn phải dựa trên ý nghĩa hàm ẩn về

các đối tượng của cuộc hành trình. Vì vậy, để xác định được đối tượng, chúng ta phải có một

thao tác “giải mã” những tổ hợp từ “đường phố dài”, “đường xa vạn dặm”, “đường về”,

“đường xa”, “hạt bụi”, “đồi núi xa”…dựa vào ngữ cảnh mà chúng tồn tại để hiểu nó là cuộc

đời, là con người, là tháng ngày mà con người đang trải qua trong hành trình sống.

Từ những hiểu biết thực tế về miền nguồn – cuộc hành trình và những thực tế về

cái gọi là cuộc đời ở miền đích, ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH” trong ca từ

Trịnh Công Sơn có thể khái quát cơ chế như sau:

Miền đích Miền nguồn

CUỘC ĐỜI CUỘC HÀNH TRÌNH

Con người Chủ thể là con người;

Sinh ra Điểm xuất phát;

Mất đi Điểm đích;

Tâm trạng sống Phương tiện, cách thức hành trình;

Thời gian sống Con đường (Không gian hành trình).

2.2.Cuộc đời là vật thể

Sống trong những ngày bị chiến tranh vùi dập, Trịnh Công Sơn nhận ra thân

phận con người như là một vấn nạn. Giữa cõi vô thường, luôn bị kiềm kẹp bởi một “nỗi khó

sống”, người nghệ sĩ trong một phút xuất thần đã tự đồng hóa cuộc đời con người với các vật

thể trong đời sống: lá cỏ, hoa, con thuyền…. Nhưng những sự vật đó suốt ngàn năm vẫn là

nó còn con người mỗi phút giây mỗi chực vong thân.

Ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ” xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn với

miền đích là “Cuộc đời”, miền nguồn là “Vật thể” được tìm thấy ở 50/ 243 ca khúc được

khảo sát.

Trước hết, Trịnh Công Sơn xem cuộc đời như là một vật thể tức là cuộc đời là đối

tượng của tri giác nên có thể nhìn thấy hay tìm kiếm, đặc trưng này xuất hiện với tần số

không cao 4/243 ca khúc nhưng lại là cái mốc quan trọng dẫn đến những đặc trưng khác của

“ vật thể” cuộc đời.

Dường như Trịnh Công Sơn đã bước ra khỏi cuộc đời này từ rất lâu rồi. Và từ một

thế giới khác, ông nhìn về thế gian này, nhìn về lại cuộc đời của ông khi còn ở cõi nhân gian

như là con người đang nhìn về một sự vật hiện hữu trong không gian:

“…Còn hai con mắt khóc người một con/ Còn hai con mắt một con khóc người/

Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi/ Nhìn tôi lên cao, nhìn tôi xuống thấp…”(Con mắt còn lại)

“…Một ngày trên vai bão tố nguôi ngoa/ Nhìn đời quanh đây hết những mê

say..”(Tình xót xa vừa)

Vì cuộc đời là đối tượng của tri giác dẫn đến cuộc đời có hình dạng:

“…Cúi xuống nghe đời nhấp nhô, nghe tim rạng vỡ…”(Cúi xuống thật gần)

Giữa cái vô hạn của đời sống vũ trụ, Trịnh Công Sơn nhận thấy cuộc đời con

người thật mong manh, mang hình hài cỏ rơm: “…Trôi dưới chân tôi qua đi từng cọng đời/

Đời hay chiếc lá bay không buồn rơi…”(Mùa áo quan)

“…Đời ta có khi là đốm lửa/ Một hôm nhuốm trong vườn khuya/…Đời ta hết

mang điều mới lạ/ Tôi đã sống rất ơ hờ…”(Đêm thấy ta là thác đổ)

Hay cát bụi bé nhỏ: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát

bụi…”(Cát bụi)

“…Tôi tìm hạt bụi bay trong cuộc đời…”(Tôi là ai?)

Hình ảnh “đời nhấp nhô”, “cọng đời”, “đốm lửa”, “hạt bụi” làm cho ta liên

tưởng đến sự gập ghềnh không bằng phẳng và sự bé nhỏ mong manh, không cố định. Phải

chăng đó cũng là sự tri nhận của Trịnh Công Sơn về kiếp nhân sinh: rất nhiều những vấn

nạn, dễ đổi thay và bé nhỏ mong manh.

Trong ca từ Trịnh Công Sơn, cuộc đời còn được xác định có kích thước, trọng

lượng.

Những khi cuộc sống con người thoát khỏi ao tù kìm kẹp và những ngày mới

nhiều niềm vui, Trịnh Công Sơn nhận thấy cuộc đời đang rộng mở về kích thước để đón

nhận bước chân con người:

“…Ôm cuộc sống trong tay bên đời quá rộng/ Tuổi thần tiên yêu dấu dưới ngôi

trường kia…”(Tuổi đời mênh mông)

Những lúc nhìn về cõi thiên thu, Trịnh Công Sơn nhận thấy đời người như một vật

thể nhẹ tênh chỉ mang sứ mệnh tồn tại rồi ra đi:

“…Lời nào của cây, lời nào cỏ lạ/ Một chiều ngồi say, một đời thật nhẹ ngày

qua…”(Một cõi đi về)

“…Đêm từng đêm bay về/ Quê hương là nỗi nhớ/ Đời nhẹ như lá thu…”(Cánh

chim cô đơn)

Sự kết hợp bất thường “đời nhẹ” đặt trong ngữ cảnh thời gian “ngày qua”, “đêm

từng đêm” dường như đã vẽ ra được chiều dài của vật thể cuộc đời – ngắn ngủi và cả thái độ

của Trịnh Công Sơn trước sự ra đi chóng vánh của cuộc đời – bình thản và bằng lòng với

quy luật của sự sinh- diệt đời người.

Ngoài ra, cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn còn được xác định thể tồn tại của

nó trong trạng thái tồn tại của nó và trong mối quan hệ với các sự vật khác. Đây là đặc

trưng trọng tâm của vật thể cuộc đời, chiếm một tần số xuất hiện khá dày (18/ 243 ca khúc)

Với Trịnh Công Sơn, cuộc đời con người trong những tháng ngày an lành nhất

phải là hoa, là lá, là cây ở cái độ đẹp nhất của nó :

“…Ru em đầu cơn gió, em hong tóc bên hồ/ Khi sen hồng mới nở, nụ đời ôi thơm

quá…”(Ru tình)

“…Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa/ Em suối kia rất ngọt và tôi đứng hai bờ/…Em

đến bên tôi ngồi đời mở ra cuộc tình” (Hoa xuân ca)

“…Từ ruộng đồng hạt lúa nuôi dân ta/ Mầm hòa bình nở trên đời dân khốn

khó…”(Dân ta vẫn sống)

Nhưng có lúc, cuộc đời sóng gió lại như thân cây già mọc cành “hoang vu”, như

khu rừng âm u bóng tối:

“..Trên đời người trổ nhánh hoang vu/ Trên ngày đi mọc cánh lá mù…”(Cỏ xót xa

đưa)

“…Lá khô vì đợi chờ/ Cũng như đời người mãi âm u…”(Như cánh vạc bay)

Nhưng vì là bông hoa, chiếc lá, thân cây nên nó cũng mang trạng thái “héo hon”,

“nát tan”, “xác xơ” khi già cỗi, tàn úa, rơi rụng:

“…Mẹ hát lớn cho tan hoang những lao tù/ Dù đời đã héo hon…”(Hãy cố nhớ)

“…Tôi biết tôi yêu những con người, những con người còn nuôi hoài trái tim/ Biết

nghe nhỏ lệ đời héo hon/…Tôi biết tôi yêu những căn nhà, những căn nhà/ Là tình yêu, là

bến sông/ Nơi về đổ lại đời nát tan…”(Tôi biết tôi yêu)

“…Bao năm xác xơ đời/ Dân ta tắm máu tươi…”(Những ai còn là Việt Nam)

Cuộc đời trong quan niệm của Trịnh Công Sơn là vật thể nhưng vật thể ấy không

tồn tại lâu dài ở một trạng thái cố hữu mà luôn luôn biến đổi. Vì vậy, ngay cả khi Trịnh Công

Sơn vô cùng yêu mến cuộc đời, ông thấy cuộc đời của một người như một nụ hoa, như cây

xanh vào độ xuân về thì cũng sẽ thật nhanh thôi nụ hoa ấy sẽ nở ra rồi tàn rụng, thân cây sẽ

già cỗi, xác xơ và kết thúc một chu trình sinh- diệt.

Một vật thể được xem là đối tượng của tri giác theo giáo lí của đạo Phật nó cũng

sẽ được nhìn dưới lăng kính vô thường, tức là sự hiện diện của nó sẽ diễn ra theo một chu

kỳ. Ảnh hưởng của quan niệm này, Trịnh Công Sơn cũng nhận thấy cuộc đời như sự vật

vốn tồn tại trong tự nhiên, cũng có quá trình tự chuyển động, biến đổi dưới tác động của

thời gian và các sự vật khác, cũng chịu sự biến đổi không ngừng:

“…Bốn mùa thay lá, thay hoa, thay mãi đời ta…”(Bốn mùa thay lá)

“…Nở trăm năm thêm bồi đắp lại đời/ Cho ta làm người trong thế giới…”(Những

giọt máu trổ bông)

“…Từ một ngày tình ta như núi rừng cúi đầu/ Ôi tiếng buồn rơi đều/ Nhìn lại mình

đời đã xanh rêu…”(Tình xa)

“…Dường như bão qua, dòng sông nước lên/ Đời không có mưa mà vẫn ướt

mềm…”(Gần như niềm tuyệt vọng)

“…Đừng mong ai, đừng nghi ngại/ Vì đời ta hôm nay đã thắm máu

người…”(Đừng mong ai đừng nghi ngại)

Và rất nhiều lần, ta bắt gặp trong ca khúc của Trịnh Công Sơn cuộc đời được

đồng hóa với mặt nước:

“…Ta nghe đời rất mênh mông/ Trong chân người bước chầm chậm…”(Cho đời

chút ơn)

“…Tôi nay ở trọ trần gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời/ Ơ hay là một vòng

xinh/ Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời. (Ở trọ)

“…Mưa vẫn mưa bay cho đời biển động/ Làm sao em nhớ những vết chim

di…”(Diễm xưa)

Như chiếc thuyền giữa biển khơi:

“…Những ngón tay ngại ngùng, đã ru lại tình gần/ Như ngoài khơi gió động/ Hết

cuộc đời lênh đênh…”(Tình nhớ)

“…Ngọn gió hư hao, thổi suốt đêm thâu/ Đời sẽ lênh đênh nơi nào…”(Có một ngày

như thế)

“…Em đến nơi này vui buồn đi nhé/ Đời sẽ trôi xuôi qua ghềnh qua suối/ Nào có ai

hay ta gặp tình cờ…”(Hoa vàng mấy độ)

“…Một dòng sông trôi, cuốn mãi về trời, bấp bênh phận người…”(Ca dao mẹ)

Những từ ngữ chỉ trạng thái của mặt nước con thuyền “lênh đênh”, “trôi xuôi”,

“bấp bênh”, “động”, “mênh mông” được gắn với cuộc đời làm cho cuộc đời trở thành con

thuyền, mặt nước với trạng thái vô định. Đó cũng là cái nhìn của Trịnh Công Sơn về cuộc

đời đầy những biến động này.

Đồng thời, cuộc đời còn được Trịnh Công Sơn nhìn nhận như một vật chứa -

Chứa đựng mưa trời, bóng đêm, bước chân con người, sợi tóc mây của em:

“…Mưa vẫn mưa bay cho đời biển động/ Làm sao em nhớ những vết chim di…”(Diễm

xưa)

“…Xin vỗ tay cho đều khi đêm đổ xuống đời ta…”(Tình xót xa vừa)

“…Từ khi bước vào cuộc đời mưa nắng…” (Hoa buồn)

“…Tóc em từng sợi nhỏ/ Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh…”(Như cánh vạc bay)

Cuộc đời còn có thể mang trạng thái “nghiêng” của vật thể và có thể làm vật chứa

mà con người trở thành đối tượng bao chứa nó hay được bao chứa bởi nó:

“…Người ra đi bến sông nằm lạnh/ Này nhân gian có nghe đời nghiêng…”(Có

nghe đời nghiêng)

“…Hãy nghiêng đời xuống nhìn hết một mối tình/ Chỉ lặng nhìn không nói năng/

Để buốt trái tim, để buốt trái tim…”(Để gió cuốn đi)

“…Mọi người đã tới vây quanh cuộc đời/ Từng giờ tiếc nuối chia tay ngậm

ngùi…”(Vẫn nhớ cuộc đời)

“…Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời/ Để bao giờ trời đất yên vui/ Xin cho tôi xin lại

cuộc đời…”(Xin cho tôi)

“…Hôm nay thức dậy, không còn thấy loài người/ Vây phủ quanh đời/ Nói tiếng

yêu thương…”(Xa dấu mặt trời)

Và con người còn có thể đứng bên cạnh “vật chứa cuộc đời” ấy:

“…Em đến bên đời hoa vàng một đóa…”(Hoa vàng mấy độ)

“…Ôm cuộc sống trong tay bên đời quá rộng…” (Tuổi đời mênh mông)

“Vẫn có em bên đời”

Ngoài ra, với tư cách là một vật thể tồn tại trong mối quan hệ với con người, cuộc

đời còn chịu sự tạo tác, sở hữu và biến đổi dưới tác động của con người: bước vào đời, rao

bán đời, lăn đời, dựng đời, xin lại đời, cho đời, trao đời, đưa đời, làm xanh đời, kết hoa cho

đời….Đặc trưng này của ý niệm nguồn “ vật thể” trong ý niệm “Cuộc đời là vật thể” xuất

hiện 16/243 ca khúc:

“…Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời/ Để bao giờ trời đất yên vui/ Xin cho tôi xin lại

cuộc đời…”(Xin cho tôi)“…Một dòng sông trôi cuốn mãi về trời, bấp bênh phận người/ Mẹ

ngồi ru con đong đưa võng buồn, đong đưa phận mình…”(Ca dao mẹ)

“…Tim nào có bình yên/ Ta rêu rao đời mình…”(Ru ta ngậm ngùi)

“…Dựng nhà mới trên đổ nát này/ Dựng đời mới trong nụ cười…”(Dựng lại người

dựng lại nhà)

“…Từng vai áo phai sẽ xanh thêm đời/ Bàn tay làm nên những mùa vui….”(Em ở

nông trường em ra biên giới)

“…Em sẽ cho tôi cho tôi một đời/ Em sẽ cho tôi cho tôi một ngày/ …Từ chiều nay

em nên lặng lẽ tới…”(Em đã cho tôi bầu trời)

“…Mặt đường bình yên nằm ngoan như con suối/ Kết hoa vàng cho lộng lẫy

đời…”(Thành phố mùa xuân)

“…Gập ghềnh nhiều kiếp lưu vong/ Ta lăn đời đã quá đôi tay vẫn còn ôm mịt

mùng…”(Tình xót xa vừa)

Ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ” là một ẩn dụ ý niệm bản thể. Với ý niệm

“CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ”, cuộc đời được xem như một đối tượng được tri giác có hình

hài, kích thước, có thể nhìn thấy. Nhưng vật thể cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn thường

được gắn những đặc điểm: nhanh chóng thay đổi, thường ở những trạng thái không cố định.

Vì thế, những sự vật được Trịnh Công Sơn chọn để nói về cuộc đời thường là bông hoa “sớm

nở tối tàn”, là cây cối trong một trạng thái nhất thời nào đó, hay là dòng nước luôn chuyển

dời…. Và vì thế đặc điểm của “vật thể” ở miền nguồn ánh xạ lên miền đích “cuộc đời” trong

ca từ Trịnh Công Sơn mang đậm dấu ấn Phật giáo trong sự tri nhận của Trịnh về cuộc đời

chung của nhân loại cũng như cuộc đời riêng của mỗi con người trong hành trình sống của

mình. Những kết hợp bất thường như :“đời + nhẹ tênh”, “cọng + đời”, “ đời người + trổ

nhánh hoang vu”, “cho + đời”, “đời+ xanh rêu”, “xin lại+ đời”, “đời+ biển động”, “đời +

nát tan”…là cơ sở chủ yếu để hình thành ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ”. Từ cơ sở này

cho ta cơ chế hình thành ý niệm:

Miền đích Miền nguồn

CUỘC ĐỜI VẬT THỂ VÔ THƯỜNG

Có thể nhìn thấy, tìm kiếm;

Có kích thước, hình hài;

Luôn luôn đổi Có sự thay đổi bất thường không thể

thay không ngờ. lường trước được;

Nhanh chóng thay đổi theo

thời gian ;

Là vật chứa đựng;

Chịu sự tác động, sở hữu

của con người.

2.3.Cuộc đời là con người

Hằng ngày, được gặp lại mỗi gương mặt người, gặp lại cuộc sống, Trịnh Công Sơn

nhận thấy cuộc sống cũng như con người cũng gần gũi, thân quen nhưng cũng đáng thương

biết bao trong cái hoạn nạn của đất nước:

“…Mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm. Ðời sống thật sự

không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, vì sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết

hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời. Như đứa con ngoan không tuyệt tình nổi với rẫy

sắn nương khoai, nơi có bà mẹ suốt đời mắt không sáng nổi một ngày trẩy hội….”[24,

tr.197]

Vậy là mỗi cuộc đời trong suy nghĩ của Trịnh đều có định mệnh, có số phận như

con người, cuộc đời cũng chính là con người, nó được cụ thể hóa thành con người. Khảo sát

243 ca khúc của Trịnh Công Sơn, luận văn đã tìm thấy 52 ca khúc xuất hiện nhiều kết hợp

từ, câu thể hiện hành động, cảm xúc, trạng thái, thậm chí các bộ phận của con người, chỉ

dành cho con người để dùng cho cuộc đời. Và như thế, miền ý niệm đích “CON NGƯỜI”

trong ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI” được thể hiện khá đầy đủ với những đặc tính:

Có các bộ phận, cơ quan của con người, có trạng thái, hành động cảm tính, lí tính và tác

động có ý thức đến các đối tượng khác.

Trước hết, cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn được hình dung như một con

người có các bộ phận, cơ quan:

“…Từng ngày nắng úa ngoài hiên/ Một ngày buồn tênh đời giấu mặt…”(Ngậm

ngùi riêng ta)

“…Em đi cùng mùa xuân đến trong đôi tay cuộc đời/ Tim em rạng rỡ mặt trời chân

đến trường bước vội/…Em đi cùng mùa xuân đến trong đôi tay cuộc đời/ Quê hương gìn giữ

từng ngày cho em mùa xuân đầy…”(Em đến cùng mùa xuân)

“…Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng/ Ngọn gió vi vu thổi suốt xuân

thì…”(Một cõi đi về)”

“…Đời trần gian có môi hồng có mắt nhìn/…Đời trần gian có tim người có tay

chờ…”(Từng ngày qua)

Hình ảnh đôi tay, trái tim, môi, mắt, khuôn mặt là những bộ phận có tính biểu

trưng cao : đôi tay thường biểu trưng cho sức mạnh, trái tim dùng để nói đến tình yêu, khuôn

mặt là bộ phận biểu hiện sự thật, con mắt là “cửa sổ tâm hồn”, đôi môi thiếu nữ tượng trưng

cho vẻ đẹp, sự quyến rũ. Những hình ảnh này được Trịnh Công Sơn sử dụng để vẽ nên bức

chân dung của cuộc đời: là con người quyến rũ, giàu lòng nhân ái nhưng bí ẩn.

Là con người nên cuộc đời cũng nhận được cử chỉ, thái độ, tình cảm của con

người (dành cho con người): biết ơn, ban ơn, ru, dâng tặng, chào, chia tay…Đặc điểm này

được Trịnh Công Sơn nhắc đến trong 14/ 243 ca khúc

“…Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm/ Cho đời chút ơn biết tà áo nọ…(Cho

đời chút ơn)

“…Một ngày một ngày đã qua rồi/ Từng vùng từng vùng nắng trong/ Một ngày

một ngày biết ơn đời/…Cuộc đời này đã có em/ Từng ngày, từng ngày nhớ ơn đời…(Còn

thấy mặt người)

“…Thôi xin ơn đời, trong cơn mê này, gọi mùa thu tới…”

(Hạ trắng)

“…Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, tạ ơn ai đã đưa em về chốn

này…”(Tạ ơn)

“…Muốn một lần tạ ơn với đời/ Chút mặn nồng cho tôi…(Như một lời chia tay)

“…Những tâm hồn lá xanh tươi/ Biết ơn đời những tin vui…”

“…Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, tạ ơn ai đã đưa em về chốn

này…”(Tạ ơn)

“…Những tâm hồn lá xanh tươi/ Biết ơn đời những tin vui…”

Khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta dễ nhận ra sự lặp lại nhiều lần của cụm

từ “tạ ơn đời”, “biết ơn đời” và một vài lần của cụm từ “cho đời…ơn”. Điều này cho thấy sự

tri nhận của Trịnh Công Sơn về cuộc đời như một con người chịu ơn và ban ơn đối với con

người. Nhưng chủ yếu cuộc đời được Trịnh Công Sơn nhìn nhận như là ân nhân của con

người, như là một đấng thiêng liêng. Qua đó, chúng ta có thể nhận ra sự trân trọng của Trịnh

Công Sơn đối với cuộc đời dù có lúc ông phải chịu đựng những đớn đau về thể xác và tâm

hồn giữa cõi đời này.

Ngoài ra, 5/243 ca khúc được khảo sát xuất hiện từ “ru đời”:

“…Em hãy yêu con người, ngọt ngào đời vẫn thế/ Em hãy dâng cho đời một nụ

hoa tình cờ” (Hoa xuân ca)

“…Ru hoài, ru đời, ru con được yên vui/…Ru hoài ru đời, ru vô vọng trên

môi…”(Lời ru đêm)

“…Ta biết em đêm đêm chờ đợi tiếng hát/ Ta biết em đêm đêm ru đời đã

mất…(Ru đời đã mất)

“…Ru đời đi nhé, cho ta nương nhờ lúc thở than/…Ru đời đi nhé, ôi môi ngon này

giữa trần gian…”(Ru đời đi nhé)

“…Chị ru con sao ru lạnh lùng/ Ru cha bỏ mình/ Ru đời chỉ còn mẹ với

con…”(Sao mắt mẹ chưa vui)

(Tình yêu tìm thấy)

“…Hơi thở ru đời, như gió ru mây…”(Xa dấu mặt trời)

Khi trả lời phỏng vấn nói về những khúc ru của mình, Trịnh Công Sơn đã cho

rằng: “Ru như thế không phải là ru em, mà thực chất là tôi tự ru tôi, tự ru để thanh lọc tâm

hồn không vương một chút oán hờn nào cho dù bị phụ rẫy”[ 23, tr. 88]. Vậy phải chăng,

đồng hóa cuộc đời với con người rồi cất tiếng ru cuộc đời cũng là hành động để Trịnh Công

Sơn ru dỗ mình, sưởi ấm đơn côi và an ủi, chia sẻ, giúp con người quên đi sự mất mát, đau

thương do chiến tranh mang lại. Đây cũng là ý nguyện nhân văn sâu sắc của Trịnh Công Sơn

đối với cuộc đời này.

Ngoài ra, chúng ta còn thấy xuất hiện hành động “chào cuộc đời”, “chia tay cùng

cuộc đời” thể hiện sự luyến tiếc của Trịnh đối với cuộc đời khi nghĩ về cõi thiên thu:

“…Đường trần rồi khăn gói/ Mai kia chào cuộc đời…” (Những con mắt trần gian)

“…Thí dụ bây giờ tôi phải ra đi/ Tôi phải đi tay chia tay cùng đời sống này/…Thí

dụ bây giờ em phải đi/ Em phải đi đôi tay em dù ưu ái đời…(Rơi lệ ru người)

Ngoài ra, mang trạng thái cảm xúc của con người là một đặc điểm nữa về cuộc

đời mà chúng ta có thể tìm thấy trong ca khúc của Trịnh Công Sơn. Đặc trưng này xuất hiện

trong 17/243 ca khúc với những từ ngữ: trăng trối, biết, buồn, vui, giá lạnh, ấm áp, bất ngờ,

băn khoăn, lo âu, già, trẻ… gắn với cuộc đời, biến cuộc đời thành con người có tâm trạng,

cảm xúc, có ý thức:

“…Một ngày như mọi ngày, đời nhẹ như mây khói/..Một ngày như mọi ngày, từng

mạch đời trăn trối…”(Một ngày như mọi ngày)

“…Em đã thôi cười nói chiều mưa/ Em đã đi đời có đâu ngờ…(Còn ai với ai)

“…Tôi xin là hôm nay, cho đời em trẻ mãi…”(Vì tôi cần thấy em yêu đời)

“…Vì có chúng em nên đời sống mãi không già/…Vì có chúng em nên mặt đất

luôn nở hoa /Vì có chúng em nên đời sống như trẻ ra…”(Đời sống không già vì có chúng

em)

“…Như một hòn bi xanh/ Trái đất này quay tròn/Đất già cho đời trẻ/ Nên đời

được yêu luôn…”(Như hòn bi xanh)

“…Một lần em đã đến/ Hân hoan ôi cuộc đời..”(Môi hồng đào)

“…Bao nhiêu năm rồi, còn mãi ra đi /đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…”(Một

cõi đi về)

“…Đời sẽ buồn như chiều hôm có cơn mưa rào/ Đời sẽ buồn như chiều đông nắng

lên nương dâu/…Đời sẽ buồn như một chiều nao…” (Như một vết thương)

“…Làm sao em biết, đời sống buồn tênh/ Đôi khi ta lắng nghe ta/ Nghe sóng âm

u dội vào đời buốt giá…”(Tình xa)

“…Người còn đứng như trăm năm vết thương chưa mờ/ Từng đêm về, từng đêm

về mang đời ngẩn ngơ…”(Phúc âm buồn)

“…Đường phố em về tóc cùng hoa quyến luyến/ Chồi lá khoe mầm cho đời biết

tên…”(Thành phố mùa xuân)

“…Chiều trên quê hương tôi/ ước bao nhiêu điều đã trôi qua/ Có riêng em cuộc

đời sẽ nhớ…”(Chiều trên quê hương tôi)

Sự xuất hiện dày đặc của những từ ngữ thể hiện tâm trạng (chủ yếu là tâm trạng

buồn đau tiêu cực), cảm xúc, ý thức của con người để gán cho cuộc đời để nhân hóa cuộc đời

cũng là để thể hiện cái nhìn của Trịnh Công Sơn về cuộc đời này: vừa yêu mến thiết tha vừa

băn khoăn, mỏi mệt .

Là con người trong ý niệm của Trịnh Công Sơn nên cuộc đời cũng mang những

hành động có ý thức của con người. Khảo sát 243 ca khúc, luận văn tìm thấy 8 ca khúc

nhắc đến cuộc đời có hành động như một con người : có thể cho, nhận, giấu, ban ơn, kêu gọi,

đốt nến, nâng bước, vỗ về…

“…Từng ngày nắng úa ngoài hiên/ Một ngày buồn tênh đời giấu mặt…”(Ngậm

ngùi riêng ta)

“…Đời vẽ tôi tên mục đồng/ Rồi vẽ thêm con ngựa hồng/…Đời vẽ trong tôi một

ngày/ Rồi vẽ thêm đêm thật dài/ ..Đời vẽ tôi tên tuyệt vọng/..Đời vẽ tóc em thật dài/ Rồi vẽ

môi thơm nụ cười/..Đời vẽ tim em lạ kỳ/…Đời vẽ tôi trong cuộc tình/ Đầy những yêu thương

giận hờn/…Đời vẽ tôi tên tuyệt vọng/…Đời đã cho tôi ngậm ngùi/ Đời sẽ cho thêm ngọt bùi/

Đời sống chan hòa trong tôi/ Đời đã cho tôi một ngày/ Nhìn thấy gian manh loài

người..”(Chỉ có ta trong cuộc đời)

“…Còn đây những đêm này/ Còn em hãy yêu tôi/ Đời đốt nến chia phôi/ Dù nhớ

thương cũng hoài…”(Còn có bao ngày)

“…Đời cho ta thế hãy cất bước đi mọi nơi/ Gặp nhau trong phố xin yêu không

nguôi những thân người/Đời cho ta thế đứng giữa bão tố không buồn vui/ Tự nghìn năm xưa

bao nhiêu chim muông cũng xa bầy/ Đời cho ta thế với những sớm tối không đổi thay/ Dù

tình vu vơ hay yêu thiên thu cũng chìm trôi…”(Đời cho ta thế )

“…Em về đâu hỡi em/ Hãy lâu khô dòng nước mắt/ Đời gọi em biết bao lần/…Đời

nhẹ nâng bước chân em/ Về lại trong phố thênh thang/…Bao buồn xưa sẽ quên/ Hãy yêu khi

đời mang đến/…Đời gọi em về giữa yêu thương/ Để trả em ngày tháng êm đềm…”(Đời gọi

em biết bao lần )

“…Cuộc đời cho tôi, cho tôi tiếng nói đôi khi vui tươi/ Cuộc đời cho tôi, cho tôi

tiếng nói đôi khi ngậm ngùi/ …Cuộc đời cho thêm , cho tôi trái cấm trên đôi môi em/ Cuộc

đời cho thêm, cho em có cánh bay đi vội vàng…”(Giọt lệ thiên thu)

“…Từ khi trăng là nguyệt, tôi nghe đời gõ nhịp ca/..Từ khi trăng là nguyệt, tôi

nghe đời vỗ về tôi…”(Nguyệt ca)

“…Làm sao đi đến từng trái tim mọi người/ Muốn nghe đời gọi giùm sống

thôi…”(Tôi sẽ nhớ)

Những hành động của cuộc đời có thể mang đến niềm vui, hạnh phúc, thời gian…

cũng có thể đem lại sự chia ly, nỗi thống khổ cho con người. Nhìn nhận cuộc đời như một

con người có những khả năng đặc biệt như vậy, phải chăng Trịnh Công Sơn muốn gửi gắm

cái nhìn của mình về hai chữ “định mệnh” của cuộc đời.

Cơ sở chủ yếu để phát hiện ra ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI” trong ca từ

Trịnh Công Sơn là sử dụng phương thức hoán dụ. Trong đó có sự kết hợp giữa một/ một số

yếu tố chỉ cảm xúc, hành động, trạng thái, bộ phận…của con người với “đời”/ “cuộc

đời”…Ẩn dụ ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI” là một loại ẩn dụ bản thể được mở

rộng sang thể nhân cách hóa. Nhân cách hóa được biểu đạt trong ẩn dụ ý niệm qua một miền

nguồn mà được gắn vào những đặc trưng của con người. Điều này cho phép ta hiểu được các

hiện tượng xảy ra trong cuộc đời này dựa trên cơ sở con người - là cơ sở mà qua đó chúng ta

có thể hiểu biết được về cuộc đời dựa vào động cơ, mục tiêu, hành động, tâm lý… của chính

chúng ta. Cách nhìn nhận một đối tượng trừu tượng là cuộc đời như một đối tượng cụ thể là

con người trong ca từ Trịnh Công Sơn là cách giải thích được cho nhiều người cùng hiểu về

bản chất của cuộc đời. Đồng thời, qua đó, chúng ta hiểu nhiều hơn về thái độ của Trịnh Công

Sơn đối với cuộc đời này. Cơ chế hình thành ý niệm này có thể được hình dung như sau:

Miền đích Miền nguồn

CUỘC ĐỜI CON NGƯỜI

Có bộ phận, cơ quan;

Có tâm trạng, cảm xúc;

Có hành động ý thức;

Có số phận con người;

Nhận hành động, thái độ,

tình cảm của con người

dành cho con người.

2.4.Cuộc đời là cõi tạm

Những đau thương, tang tóc mà Trịnh Công Sơn đã chứng kiến khiến ông luôn bị

“ Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau này vẫn

luôn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và cái chết trở thành một vấn đề lớn trong đời sống

tinh thần của tôi. Có lẽ suy cho cùng từ đâu mà ra cái suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cuộc sống,

sợ mất nó. Mất mát một cái gì đó mà mình từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng

tìm thấy như tình yêu, như cái gì đẹp nhất của cuộc sống sợ ngày nào sẽ mất đi. Sự mất mát và

cái chết là nỗi ám ảnh lớn nhất đời tôi”.[24,119].

ám ảnh về cái chết. Trịnh Công Sơn từng nói:

Nhưng đồng thời cũng thấy nó là một lẽ thường- lẽ thường đến nỗi nó trở thành

cái nơi quen thuộc như là nhà của mình, là quê hương, nguồn cội, là nơi vĩnh hằng để con

người trở về. Ý niệm “ CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM” đã xuất hiện 37/ 243 ca khúc.

Trước hết,Trịnh Công Sơn nhận thấy cõi chết là nơi vĩnh hằng. Ý niệm này xuất

hiện 6/243 ca khúc được khảo sát. Trịnh Công Sơn luôn đón chờ cái chết như trở về cõi thiên

thu (cõi nghìn năm-cõi vô lượng vô biên)

“…Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này…”(Phúc âm buồn )

“…Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua/ Chìm dưới đất kia một người sống

thiên thu/ Chìm khuất trong ta một lời vu vơ/ Chìm dưới thiên thu là một đóa thơm

tho…”(Chìm dưới cơn mưa)

“…Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây/ Còn bao lâu cho thiên thu xuống

trên thân này…” ( Phúc âm buồn )

“Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua/ Chìm dưới đất kia một người sống

thiên thu”(Chìm dưới cơn mưa)

Bởi vì giữa “ đường thiên thu” và đường trần tuy hai mà một, không cách ngăn

nhau:

“Chợt tôi thấy thiên thu là một đường không bến bờ”,

“…Đêm sâu không xa lạ, kéo gần đêm thiên thu” (Đêm)

Hai tiếng “thiên thu” trở đi trở lại nhiều lần trong ca khúc Trịnh Công Sơn để nhắc

về cái chết – nỗi ám ảnh của Trịnh Công Sơn, đồng thời là luật định mà con người phải đón

nhận trong cõi nhân sinh này.

Cuộc sống con người trong những năm chiến tranh, tử thần luôn rình rập. Ở nơi

nào cái chết cũng vay quanh, chờ đợi. Cái sống và cái chết vì thế luôn song hành với nhau.

Vì thế, Trịnh đã nhìn thấy sự sống và cái chết rất gần nhau. Đây là ý niệm xuất hiện 13/

243 ca khúc . Trịnh nhận thấy con người khi sinh ra là đã nhìn thấy cái chết, là hẹn hò với cái

chết. Sống và chết luôn song hành nhau:

“…Sống từng ngày, chết từng ngày/ Còn hẹn sống một ngày là hẹn chết mai đây/

Sống từng ngày, chết từng ngày/ Còn sống một ngày là hẹn chết không may…”(Buồn từng

phút giây)

Mỗi kiếp người sinh ra vào lúc ấy như là một cái “nợ lưu vong” phải gánh lấy, là

“nỗi nhục chung thân” trên cõi đời bão tố:

“…Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn/ Giọt lệ ăn năn đưa con

về trần tủi nhục chung thân/ Một dòng sông trôi cuốn mãi về trời bấp bênh phận người/…Mẹ

ngồi ru con, nghe đất gọi thầm trọn nợ lưu vong…”(Ca dao mẹ)

Thân người sinh ra trên cõi đời cũng chỉ là hạt bụi, sống tạm bợ rồi trở lại cái bản

thể ban đầu của nó:

“…Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát bụi/…Ôi cát bụi

tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi…”(Cát bụi)

Khi cất tiếng khóc chào đời, con người đã biết đến nỗi ám ảnh về cái chết. Lúc ở

tuổi xuân thì, con người đã nghĩ về cõi thiên thu. Giữa sống và chết không có một giới hạn

nào, mà trở thành một đường thẳng nối liền:

“…Về chân núi thăm nấm mồ/Giữa đường trưa có tôi bơ phờ/ Chợt tôi thấy thiên

thu là/ Một đường không bến bờ…”(Lời thiên thu gọi)

“…Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ/ Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa…/…Người đã

đến và người sẽ về bên kia núi/…Những ngày ngồi rủ tóc âm u/ Nghe tiền thân về chào bóng

lạ/ Những mai hồng ngồi nhớ thiên thu..”(Cỏ xót xa đưa)

Đến với cuộc đời, mỗi con người đều biết cuộc sống là chuỗi ngày ngắn ngủi. Ra đi

xa lìa thế gian là một định luật tất yếu, dù có níu kéo những ngày đã sống, đã vui cũng không

thể. Vì thế, nhắc đến “ngày về”, Trịnh luôn thấy tiếc nuối những chuỗi ngày “hò hẹn” với

nhân gian:

“…Đêm ta nằm bóng tối che ngang/ Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm/…Còn đây

có bao ngày/ Còn ta cứ vui chơi/ Rồi mai sẽ ra đi/ Dù nhớ thương con người/..Trong hội trần

gian/ Bao nhiêu ngày yêu dấu cũng không còn/ Từng dòng nước mắt sẽ nhớ thương con

người/ Từng dòng nước mắt sẽ tiếc cho ngày vui…”(Còn có bao ngày)

Và kêu gọi con người đừng hững hờ với những phút giây ngắn ngủi trên cõi thế:

“…Người nằm xuống nghe tiếng ru/ Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ…”(Mưa

hồng)

Thân người như thân cỏ, đời người như đời cỏ cây, như gió thoảng mây bay,

sống-chết chỉ là cái khoảnh khắc mong manh:

“…Sống có bao năm vui vui buồn buồn, người người ngợm ngợm/Sống chết

mong manh, như thân cỏ hèn, mọc đầy núi non…”(Giọt lệ thiên thu)

“…Ôi phù du, từng tuổi xuân đã già/ Một ngày kia đến bờ/ Đời người như gió

qua…”(Phôi pha)

Trong ca từ của Trịnh Công Sơn, chúng ta dễ dàng tìm thấy một tư tưởng nữa về

cuộc đời: chết là trở về nơi quen thuộc, trần gian chỉ là nơi trú chân. Với Trịnh Công Sơn,

cái chết là điều không ai tránh khỏi. Tiến trình hiện hữu của một con người chẳng qua là một

cuộc rong chơi của con người trên cõi thế. Còn cõi thiên thu mới là nơi về của con người. Ý

niệm này xuất hiện khá dày 18 trong số 243 ca khúc được khảo sát.

“Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây/ Đã vui chơi trong cuộc đời này/….Anh

nằm xuống như một lần vào viễn du/ Đứa con xưa đã tìm về nhà/ Đất hoang vu khép lại hẹn

hò…”(Cho một người nằm xuống)

“Người đã đến và người sẽ về bên kia núi” (Cỏ xót xa đưa), như là phút giây con người

chia tay nhau ở cuối một con đường để trở về nơi quen thuộc của mình:

“…Chiều nay em ra phố về, thấy đời mình là những đám đông/ Người chia tay nhau

cuối đường, ngày đi đêm tới trăm tiếng hư không”(Nghe những tàn phai).

Hay như là một người khách đến chơi rồi khăn gói lên đường ra về:

“…Đường trần rồi khăn gói, mai kia chào cuộc đời/ Nghìn trùng con gió bay…”

(Những con mắt trần gian).

Và mặt đất này chỉ là nơi con người rong chơi:

“…Hãy yêu nhau đi quên những ngày u tối/ Dù vẫn biết mai đây xa lìa thế giới /Mặt

đất cho ta những ngày vui với/ Hãy nhìn vào mặt người lần cuối trong đời…”(Hãy yêu nhau

đi)

Về với đất mẹ chính là về với sự vĩnh hằng, là về với sự nghỉ ngơi muôn đời, sau

cuộc hành trình mệt mỏi:

“…Mệt quá thân ta này, tìm đến với đất nghỉ ngơi/ Mệt quá thân ta này/ Nằm

xuống với đất muôn đời/ Kìa còn biết bao người/ Dìu dắt tới quanh đây…”(Ngẫu nhiên)

“…Vết lăn, vết lăn trầm/ Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền/ Như có lần chim

muông hằn dấu chân/ Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà/…Ôi vết hằn ghi trên

bồn gió hoang/ Chờ ta da du một chuyến…”(Vết lăn trầm)

“…Những hẹn hò từ nay khép lại, thân nhẹ nhàng như mây/ Đóa hoa vàng mỏng

manh cuối trời như một lời chia tay…”(Như một lời chia tay)

“…Chiều nay em ra phố về, thấy đời mình là những đám đông/ Người chia tay nhau

cuối đường/ Ngày đi đêm tới trăm tiếng hư không…”(Nghe những tàn phai)

“…Đường trần rồi khăn gói/ Mai kia chào cuộc đời/ Nghìn trùng con gió

bay…”(Những con mắt trần gian )

“…Tôi là ai, là ai, ba trăm năm trước tôi là ai, là ai, là ai?/Trở lại hóa kiếp rong chơi

giữa nơi này…”(Tôi tìm ai)

Từ chỉ hướng “về”,và từ chỉ thời gian “muôn đời” dùng gắn với cõi chết và “chia

tay”, “chào”, “hẹn hò” dùng gắn với cuộc đời, với sự sống đã nói lên sự tri nhận của Trịnh

Công Sơn về cuộc đời, đó là một cuộc hẹn hò gặp gỡ rồi đến lúc cũng cần chia tay với nó để

trở về nơi quen thuộc – cõi chết.

Trong một số ca khúc, chúng ta còn nhận thấy cái nhìn của Trịnh Công Sơn về

cuộc đời chỉ như là nơi trọ, nơi sống tạm bợ của con người:

“…Mọi người đã tới vây quanh cuộc đời/ Từng giờ tiếc nuối chia tay ngậm

ngùi/…Nhìn lại quanh đây lô nhô loài người/ Một ngày bỗng thấy gắn bó cuộc đời/ Mọi

người vẫn tới ta chưa lạc loài/ Dù còn phút cuối xin em nụ cười…”(Vẫn nhớ cuộc đời)

“…Hôm nay thức dậy, không còn thấy mặt trời/ Không còn thấy loài người/ Vây

phủ quanh đời/ Nói tiếng yêu thương…”(Xa dấu mặt trời)

“…Tôi nay ở trọ trần gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời…”(Ở trọ)

“…Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời/ Để bao giờ trời đất yên vui/ Xin cho tôi, xin lại

cuộc đời…”(Xin cho tôi)

Ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM” là một ẩn dụ cấu trúc được cấu tạo đầy đủ

hai miền. Trong đó miền nguồn là “CÕI TẠM” mang những đặc điểm: không gian tồn tại

mong manh, không tồn tại vĩnh hằng, chóng mất đi, nơi dừng chân nghỉ ngơi của con người

ánh xạ lên miền đích tương ứng - “CUỘC ĐỜI”. Đây là trường hợp đặc biệt của ẩn dụ cấu

trúc. Bởi vì cả hai miền nguồn và đích đều là hai đối tượng trừu tượng. Vì vậy, cơ sở để phát

hiện ra ý niệm này dựa trên những suy luận phức tạp, dựa trên những trải nghiệm của con

người đối với sự sống, cái chết. Chẳng hạn, để nhận ra cuộc đời không tồn tại vĩnh hằng,

chúng ta phải dựa trên tư tưởng nhị nguyên của bản thể: sống- chết, vĩnh hằng- nhất thời.

Nếu cái chết là sự vĩnh hằng thì sự sống chỉ là nhất thời tạm bợ. Từ đó, đặc điểm cuả cõi tạm

cũng như cuộc đời là không tồn tại vĩnh hằng mới được bộc lộ. Để nhận ra bản chất mong

manh, dễ mất của cuộc đời tương ứng với cõi tạm, chúng ta cũng phải dựa trên nhiều đối

tượng trung gian: mối tương quan giữa sự sống, cái chết trong quan hệ với con người, mức

độ gần gũi giữa sống- chết, mối quan hệ giữa không gian và thời gian…Đặc điểm của cuộc

đời chỉ là cõi tạm, là nơi trú trọ, dừng chân tạm bợ của con người cũng phải dựa trên một

chuỗi suy luận : Thái độ của con người với cuộc đời –> thái độ đối với cái chết ->quan hệ

thân thiết, gần gũi của con người với cõi chết ->quan hệ tạm bợ của con người với sự sống ->

cuộc đời chỉ là nơi tạm dừng chân, nơi trọ tạm thời trong cuộc hành trình của con

người…Như vậy, cơ sở hình thành nên ý niệm “ CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM” chủ yếu dựa

trên sự suy ý, được xác định thông qua sự đối lập giữa sống và chết:

SỰ SỐNG CÁI CHẾT

Chóng kết thúc >< vĩnh hằng, cõi thiên thu

Cuộc hẹn hò >< chia tay trở về

Nơi trọ >< quê nhà

Ra đi >< trở về

Sự ngẫu nhiên >< Sự hiển nhiên

Từ sự đối lập giữa sự sống và cái chết như trên, tạo thành cơ sở cho ý niệm “

CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM” với cơ chế như sau:

Miền đích Miền nguồn

CUỘC ĐỜI CÕI TẠM

Sự sống rất ngắn ngủi Không phải là nơi vĩnh hằng;

Sự sống chỉ là tạm bợ Là nơi trú chân tạm bợ;

Sự sống và cái chết rất gần nhau Là nơi rất gần với cái chết.

*Tiểu kết

Trên 60 năm sống với cuộc đời, Trịnh Công Sơn chứng kiến những thăng trầm của

đời sống con người gắn với vận mệnh đất nước. Đặc biệt là bản thân ông đã có lần nằm trong

tình cảnh “thập tử nhất sinh” của số mệnh nên bản thân đã có những chiêm nghiệm về cuộc

đời chỉ như “bóng câu qua cửa sổ”, con người luôn đối diện với cái chết một cách nghiệt

ngã. Từ đó đã hình thành trong ông những ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM”, “CUỘC

ĐỜI LÀ VẬT THỂ” . Và con người sống là đang tiến hành một cuộc hành trình nhưng cái

đích của nó cũng là để trở về miền cát bụi mà thôi “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH”.

Dù biết rằng con người sống phải chấp nhận một sự thật là có một ngày phải chia tay với đời

sống này, phải rời xa nó để hoàn thành cuộc hành trình rong ruổi của kiếp người. Nhưng

mỗi ngày còn sống với cuộc đời, Trịnh Công Sơn vẫn luôn thể hiện thái độ tích cực đối với

nó. Ông trân trọng cuộc đời trong từng phút giây, từng nhịp thở, luôn yêu mến nó và có lúc

đã đồng hóa nó như một người bạn, người tình, như người ban ơn và cũng nhìn thấy nó trăn

trở, đau thương, thấy nó cũng chịu những rủi may như kiếp người. Điều này làm xuất hiện

thêm ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI” mà luận văn đã nói đến ở trên. Như vậy, ý

niệm về cuộc đời ở miền đích đã được sự ánh xạ, phóng chiếu của miền nguồn với bốn ý

niệm tương ứng: cuộc hành trình, vật thể , cõi tạm, con người. Trong đó, có những miền

nguồn được cấu trúc đầy đủ và ánh xạ lên miền đích tạo thành ẩn dụ ý niệm cấu trúc:

“CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH”, “CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM”. Có miền nguồn

được tạo nên từ trải nghiệm với bản thể thành ẩn dụ bản thể: “CUỘC ĐỜI LÀ CON

NGƯỜI”, “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ”. Có lẽ những ý niệm này không xa lạ với chúng ta

nhưng đến với ca từ Trịnh Công Sơn chúng mang một dấu ấn riêng bàng bạc sắc màu của

Phật giáo, của triết lý nhân sinh. Điều đặc biệt nữa là, hầu hết những ý niệm này được phát

hiện trên những cơ chế kết hợp từ mới lạ, độc đáo trong ca từ Trịnh Công Sơn tạo nên cái

hay, cái lạ, cái đẹp trong cái bất thường của sự kiến tạo từ ngữ ấy. Qua những ý niệm ở miền

nguồn, miền đích và trong mối liên hệ giữa chúng, chúng ta hiểu thêm về cái nhìn của Trịnh

Công Sơn đối với cuộc đời.

Chương 3: ẨN DỤ Ý NIỆM TÌNH YÊU TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

Cũng như cuộc đời, tình yêu là một khái niệm trừu tượng. Theo nghĩa rộng, “tình

yêu là tình cảm nồng nhiệt làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với người, với vật,

như “tình yêu quê hương”. Theo nghĩa hẹp, tình yêu là tình cảm yêu đương giữa nam và nữ,

như “tình yêu son sắt, thủy chung” [21, tr. 997]

Đối với tình yêu,Trịnh Công Sơn từng cho rằng: 12T“Tôi là kẻ vô đạo trong tình yêu

những khi tôi giận hờn cuộc đời. Khi cuộc đời yêu tôi, tôi sẽ là tín đồ của tình yêu.” [24,

tr.193]. Và vì thế, tình yêu xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn là sự kết tinh của niềm hân

12T “Tình yêu cho phép những ca khúc ra đời. Nỗi đau và niềm hân hoan làm thành bào

hoan và nỗi thống khổ mà người nhạc sĩ này đón nhận trong cuộc đời. Nó cũng là cuộc đời :

thai sinh nở ra âm nhạc. Âm nhạc như thế là tình yêu, là trong bản thân nó hàm chứa một

cõi nhân sinh bề bộn những khổ đau và hoan lạc. Không có bất hạnh và nụ cười có lẽ âm

12T Vậy là những bất hạnh mà Trịnh đón nhận trong cuộc đời chính là diễm phúc để

nhạc cũng không thể có duyên ra đời.”[24, tr.194].

nền âm nhạc Việt Nam đón nhận những tình ca bất hủ.Tình yêu trong nhạc Trịnh vì vậy

mang không ít những giọt nước mắt. Nhưng đó là giọt nước mắt long lanh, thanh khiết chứa

đựng sự bao dung cao cả . Và từ một ý nghĩa trừu tượng nó chuyển hóa thành những sự vật,

hiện tượng, con người cụ thể tạo thành những ý niệm vừa quen thuộc vừa lạ trong ca từ

Trịnh Công Sơn.

3.1.Tình yêu là vật thể

Trong thơ ca, đã có nhiều người nói đến tình yêu như một vật thể. Có thể dẫn ra

đây là nhà thơ Xuân Diệu, người được mệnh danh là ông hoàng của thơ tình Việt Nam.

Trong bài “Giục giã”:

“Mau lên chứ vội vàng lên với chứ/ Em em ơi tình non sắp già rồi…”[20,tr.565]

Trong bài “Hư vô”:

“Kẻ uống tình yêu dập cả môi/ Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi…”

“Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất/ Anh trao em kèm với một lá thơ/ Em không lấy

và tình anh đã mất/ Tình đã cho không lấy lại bao giờ…”[20,555]

Như vậy, với Xuân Diệu, tình yêu có thể được xem như một vật thể hiện hữu rõ

ràng có trạng thái “non, già” của trái cây, có thể “uống” như nước, có thể cho đi…Đến với

Trịnh Công Sơn, tình yêu cũng được xem như vật thể nhưng là vật thể đặc biệt. Và ý niệm

“TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ” đã xuất hiện 43/243 ca khúc được khảo sát. Tuy nhiên, không

giống với Xuân Diệu, vật thể tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn lại được tồn tại trong một

thể thức đặc biệt:

“…Ru em tình như lá, trăm năm vẫn quay về/ Môi em là đốm lửa, cuộc đời đâu biết

thế/ Xin em còn đâu đó, riêng tôi còn tiếng ru/ Ru em ngồi yên đấy, tôi tìm cuộc tình

cho…”(Ru tình)

“…Với bao ngày sống buồn vui/ Có những tình yêu tìm thấy…”(Tình yêu tìm

thấy)

“…Tình yêu như trái phá, con tim mù lòa/…Rồi tình vui trong mắt, rồi tình mềm

trong tay…”(Tình sầu)

“…Tình trong hai tay, một hôm biến mất…”(Con mắt còn lại)”.

“…Bờ vai như giấy mới/ Sợ nghiêng hết tình tôi…”

(Thương một người )

Sự xuất hiện của động từ “tìm” gắn với đối thể tình yêu và cụm từ “trong mắt”,

“trong tay” trong quan hệ vật chứa đựng và vật bị chứa đựng với tình yêu đã cho chúng ta

cảm giác tình yêu như một vật thể tồn tại trong không gian. Nhưng Trịnh Công Sơn nhắc

đến tình yêu không phải với ý nghĩa như một vật thể được vẽ ra đầy đủ hình hài của nó, được

xác định một cách chính xác về nó mà nó chỉ được cảm nhận qua cái không gian của sự tồn

tại mà thôi. Có thể là ở một không gian bị che khuất nên phải “tìm kiếm”, có thể là không

gian của đôi mắt “vui trong mắt”, không gian cảm giác của đôi bàn tay “tình trong hai tay”,

“tình mềm trong tay” hay trên đôi vai nhỏ bé của người tình. Đó là những không gian tồn tại

đặc biệt của tình yêu, những cảm nhận rất hay về tình yêu nhưng lại gần gũi với cảm thức

chung của người Việt Nam. Chẳng hạn như nói về ánh mắt trong tình yêu, dân gian hay dùng

cách nói “con gái yêu bằng lổ tai, con trai yêu bằng mắt” hay Nguyễn Du trong Truyện Kiều

đã để cho Từ Hải hỏi Thúy Kiều “ Mắt xanh đã để ai vào hay chưa?”; nói về đôi tay trong

tình yêu, dân gian lại có câu: “bắt cá hai tay” để chỉ những người đàn ông đa tình, cũng có

đôi lúc dùng từ “trắng tay” để nói đến sự ra đi của tình yêu; còn đôi vai cũng được sử dụng

trong những câu nói bình thường với ý nghĩa là nơi “gánh” tình “chưa một mảnh tình vắt

vai”. Đến với những bài hát của Trịnh Công Sơn, những ý niệm quen thuộc ấy được hóa

thân thành những lời ca hay, đầy sức quyến rũ.

Trịnh Công Sơn đã nhiều lần đến với tình yêu và cũng nhiều lần chia tay với tình

yêu. Lúc đến ai không hạnh phúc nhưng lúc tình ra đi để lại cho ông những vết thương lòng

quá sâu. Ông đã chiêm nghiệm tình yêu như những vật thể khó nắm bắt và dễ nghiêng rơi:

“…Bờ vai như giấy mới/ Sợ nghiêng hết tình tôi…(Thương một người)

Trong ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta còn dễ bắt gặp sự đồng hóa tình yêu với vật

thể ở nét tương đồng về lượng. Nghĩa là tình yêu có thể đong đo được. Đặc điểm này được

khảo sát và xuất hiện 10/243 ca khúc.

“…Không xa tình đầy và cũng không xa lạc loài…”(Đời cho ta thế)

“…Vì có chúng em nên tình yêu đã nhiều thêm…”(Đời sống không già vì có chúng

em)

“…Làm sao ru được tình vơi…”(Lặng lẽ nơi này)

“…Tình ngỡ đã phôi pha, nhưng tình vẫn còn đầy…”(Tình nhớ)

“…Tình mong manh như nắng/ Tình còn đầy không em?...”(Tình sầu)

Có lúc tình yêu được gắn với cái lượng “tí chút”:

“…Và riêng tôi xin có một ngày, ngồi thong dong trao đến mọi loài chút tình

tôi…”(Như tiếng thở dài)

“…Mười năm chân bước trên đường dài/ Gặp nhau không nói không nụ cười/

Chút tình dường như hiu hắt bay…”(Có một dòng sông đã qua đời )

“...Tàn đông con nước kéo lên/ Chút tình mới chớm đã viên thành…”

( Đóa hoa vô thường)

“…Em mang cho ta một chút tình/ Miệng cười khúc khích trên lưng…” (Quỳnh

hương)

Những từ ngữ “đầy”, “vơi”, “nhiều”, “ít” ấy dùng để định lượng của sự vật kết

hợp với đối thể “tình” là một khái niệm trừu tượng thuộc về phạm trù tình cảm của con

người làm cho tình yêu ở đây mang dáng dấp của vật thể trong những kết hợp “tình đầy”,

“tình vơi”, “ tình nhiều thêm”, “chút tình”. Tuy nhiên cái lượng ở đây của “ vật thể” tình

yêu cũng chỉ để ước lượng chứ không phải định lượng chính xác: “nhiều” khi cuộc sống con

người chan hòa với nhau, “ đầy” khi tình yêu đôi lứa ở giai đoạn đẹp nhất, “chút” khi con

người mang tình cảm đến với nhau, đến với cuộc đời một cách khiêm tốn hay khi tình yêu

đôi lứa đã nhạt phai,“vơi”để nói đến giai đoạn “trầm”, lúc nhạt phai của tình yêu.

Trong không gian, tình yêu còn tồn tại với khoảng cách có thể xác định:

“…Những ngón tay ngại ngùng, đã ru lại tình gần..”(Tình nhớ)

“Tình xa”

Cái gần, cái xa ở đây là khoảng cách được ước định của một vật thể hiện hữu nào

đó trong không gian, trong mối quan hệ với một đối tượng hiện hữu khác. Dùng “xa”, “gần”

gắn với đối thể tình yêu làm cho nó được đồng hóa với những vật thể hiện hữu ấy. Đây là

cách diễn đạt mới mẻ của Trịnh Công Sơn nhằm để nói đến mối liên hệ tình cảm (ở đây là

tình yêu nam nữ) giữa hai con người, lúc mặn nồng “gần”, lúc cách ngăn, không còn yêu

nhau “xa”. Cách sử dụng khoảng cách “xa”, “gần” để nói về biểu hiện của tình yêu đã giúp

chúng ta có thể liên tưởng đến tình yêu như một sự vật trong không gian.

Ngoài ra, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta còn bắt gặp sự xuất hiện khá

dày (14/243 ca khúc ) của những vật thể mang tính chất di động.

Có lúc như là con thuyền giữa biển khơi:

“…Một người về đỉnh cao, một người về vực sâu/ Để cuộc tình chìm mau, như

bóng chim cuối đèo…”(Tình nhớ)

“…cuộc tình nào đã ra khơi ta còn mãi nơi đây…”(Tình xa)

“…Xin vỗ tay cho đều khi đêm đổ xuống đời ta/ Xin vỗ tay cho đều khi tình trôi đã

trôi xa..”(Tình xót xa vừa )

“…Hôm nay thức dậy, không còn thấy ai/ Cuộc tình chìm xuống…”(Xa dấu mặt

trời)

Sự liên hội của những từ ngữ : “ chìm”, “ra khơi”, “trôi”, “chìm xuống” là động

thái của con thuyền trên mặt nước được gắn với chủ thể “cuộc tình”, “tình” làm cho tình yêu

trở thành vật thể là con thuyền. Hình ảnh con thuyền trên mặt nước là hình ảnh của sự trôi

nổi, biến động. Phải chăng đó cũng là đặc tính của tình yêu mà Trịnh Công Sơn đã chiêm

nghiệm được.

Có lúc, tình yêu như con sóng dưới lòng biển hồ:

“…Cúi xuống cho tình dấy lên, cho da thịt mềm…”(Cúi xuống thật gần)

Hình ảnh con sóng biểu trưng cho tình yêu không hiếm trong thơ ca. Xuân Quỳnh

có hẳn một bài thơ “Sóng” rất hay, Xuân Diệu trong nhiều bài thơ cũng mang hình ảnh sóng

để nghĩ về tình yêu, Lưu Trọng Lư cũng vậy, trong bài “Còn chi nữa”, nhà thơ cũng tri nhận

tình yêu như sóng nước vỗ vào mạn thuyền với thể thức đều đều, nhè nhẹ và thường xuyên:

“Giờ đây hoa hoang dại

Bên sông, rụng tơi bời

Đã qua rồi cơn mộng,

Đừng vỗ nữa tình ơi!...”[20, tr.103]

Còn với Trịnh Công Sơn, con sóng ở đây phải là sóng dưới lòng biển sâu “dấy

lên”. Chỉ là một chút gợn nhẹ của con sóng. Nhưng cái gợn ấy đột ngột vô cùng, bất ngờ vô

cùng và có chiều sâu vô cùng. Tri nhận tình yêu như con sóng như vậy, phải chăng Trịnh

muốn nói đến sự biến động bất thường của tình yêu- nhẹ nhàng, khó nhận ra là thế nhưng nó

gây ra biến đổi sâu sắc và bất chợt vô cùng.

Ngoài ra, chúng ta còn gặp không ít trường hợp, tình yêu được đồng hóa thành

cây, hoa, lá:

“…Hãy yêu cho tình còn xanh mãi/ Hãy chia cho đều những cuộc đời vui…”(Tôi sẽ

nhớ)

“Ru em tình như lá, trăm năm vẫn quay về…”( Ru tình )

Những phút giây ban đầu, tình yêu như nụ hoa chớm nở:

“…Tìm lại con trăng cho cuộc tình mới chớm…”(Đôi mắt nào mở ra)

“…Tàn đông con nước kéo lên/ Chút tình mới chớm đã viên thành..”(Đóa hoa vô

thường)

Hình như vật thể tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn được ông nhìn ngắm vào

cái trạng thái của nó chứ không phải vào hình hài của nó. Vì thế, Trịnh đã thấy nó trong cái

trạng thái tồn tại “xanh mãi”của cây, trong sự “rụng về cội” của lá hay sự “mới chớm” của

hoa. Phải chăng, tư tưởng Phật giáo nhìn mọi cái trong sự biến đổi, trong sự luân hồi đã ảnh

hưởng đến cái nhìn của Trịnh Công Sơn về cuộc đời, con người và cả tình yêu nữa. Cái xanh

của cây dù có thế nào cũng đâu thể bất biến, cái chớm của hoa đến lúc nào đó sẽ tàn và lá

xanh non sẽ úa rồi rơi rụng. Tình yêu cũng chóng đổi thay như cái trạng thái vô thường ấy

của hoa, lá, cây.

Một đặc điểm nữa góp phần tạo nên vật thể tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn là

chịu sự biến đổi dưới tác động của con người. Đặc điểm này xuất hiện 13/243 ca khúc.

Đến với ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta bắt gặp hình ảnh con người có thể mang

tình yêu để trao cho nhau:

“…Và riêng tôi xin có một ngày/ Ngồi thong dong trao đến mọi loài, chút tình

tôi…”(Như tiếng thở dài)

“…Em mang cho ta một chút tình/ Miệng cười khúc khích trên lưng…”(Quỳnh

hương)

“…Tạ ơn đời, tạ ơn ai/ Đã cho tôi tình sáng ngời như sao xuống từ trời…”(Tạ ơn)

Có thể đem tình ra để phơi, để treo như tấm áo:

“ Môi nào hãy còn thơm/ Cho ta phơi cuộc tình…”(Ru ta ngậm ngùi)

“…Xin đứng yên trong chiều, phơi tình cho nắng khô mau/…Xin đứng yên trong

chiều, treo tình trên chiếc đinh không…”(Tình xót xa vừa)

Có thể mang tình trên vai, làm rơi tình:

“…Bờ vai như giấy mới/ Sợ nghiêng hết tình tôi…”(Thương một người)

Cũng có thể ôm tình như một vật thể hiện hữu:

“…Sống có đôi tay, đôi tay thật dài, ôm quanh tình người…”(Giọt lệ thiên thu)

“…Ta ôm tình nặng trĩu, nghe quanh đời mưa bão…”(Yêu dấu tan theo)

Con người cũng có thể nối tình:

“…Những ngón tay ngại ngùng, đã ru lại tình gần…”(Tình nhớ )

“…Những ngón tay thơm, nối cuộc tình, nối lòng đổ nát…”(Ta thấy gì đêm nay)

Hay lăn tình: “Ta lăn tình đã quá đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng”

Những từ chỉ hành động của con người tác động vào vật thể hiện hữu: “mang”,

“cho”, “nối”, “treo”, “lăn”, “phơi”, “nghiêng” kết hợp với đối thể tình yêu làm cho tình

yêu phút chốc biến thành những vật thể chịu sự tác động của con người. Điều này khẳng

định thêm ý nghĩa con người là chủ thể của tình yêu, đồng thời cũng làm đậm thêm cái chất

vô thường, bất ổn và phụ thuộc vào hành động con người của tình yêu.

Như vậy, tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn là vật thể. Trong mối quan hệ với

con người, tình yêu có thể tri giác được (có thể nhìn thấy, có thể còn - mất); con người có thể

cầm, nắm, lăn, phơi, cho nhau, chắp nối….Trong quan hệ với không gian, tình yêu có thể

được xác định khoảng cách xa-gần trong quan hệ với đối tượng khác và cũng được ước

lượng “nhiều, ít, chút, đầy, vơi…” ; có thể là chất lỏng, là chiếc áo, là bông hoa, là lá, là cây,

là dòng sông, con thuyền, là biển cả…Có điều đặc biệt là vật thể tình yêu có thể nhìn thấy đó

nhưng mất đó, có lượng đó nhưng không thể định một cách rõ ràng, cả cái thể tồn tại của nó

là “mong manh” nhưng là “mong manh như nắng”. Có mấy ai có thể xác định được cái vẻ

mong manh ấy bằng con mắt thường hay không. Như vậy, cái mong manh ấy không còn là

cái mong manh của hình hài để tri giác mà là cái bản chất của sự vật- chóng phai tàn như ánh

nắng trong ngày, có đó rồi mất đó. Và tình yêu là sự vật trong thế giới, nhưng đó chỉ là

những sự vật mong manh chóng tàn, chóng đổi thay: hoa nở sẽ tàn, cây lá xanh tươi rồi héo

úa và sẽ trút lá khi đông về, dòng nước hay con thuyền cũng luôn luôn di dời đổi thay không

gian trú ngụ… Đó là những vật thể nằm trong cái luật vô thường, biến ảo. Tình yêu cũng

vậy, nó là cái trừu tượng được cụ thể hóa thành vật thể trong ca từ Trịnh Công Sơn. Nhưng

cái vật thể ấy cũng nhằm nói lên tính chất vô thường, biến ảo, tính chất mong manh, cái đẹp

siêu thực của tình yêu mà thôi. Cơ sở tạo nên những phát hiện ở miền nguồn “VẬT THỂ ”

trong ý niệm “TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ” là do những kết hợp bất thường thể hiện tính chất

hiện hữu của vật thể tình yêu :“tình yêu tìm thấy”, “tình mềm”, “tình mong manh”, “chút

tình”, “tình nhiều thêm”, “tình xa”, “tình gần”, “tình xanh”, “tình yêu mật ngọt”, “tình

yêu mật đắng”, “tình dấy lên”, ‘tình chìm xuống”, “tình trôi xa”, “nối cuộc tình”, “treo

tình”, “phơi tình”, “lăn tình”, “tình mới chớm”,…

Ẩn dụ ý niệm “TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ” là một trường hợp thể hiện sự tương

hợp của các ẩn dụ bản thể trong một cấu trúc ẩn dụ đơn lẻ mà trong đó các cặp ẩn dụ kéo

theo dựa trên thực tế về các vật thể hiện hữu trong thế giới khách quan tạo nên tính hệ thống

của ẩn dụ. Chúng ta có thể hình dung ra cơ sở suy luận của nó như sau:

Thực tế về vật thể:

Nằm trong giới hạn tri giác của con người;

Được xác định trong không gian về hình, lượng;

Xác định được trong quan hệ với các sự vật khác;

Chịu sự tác động của con người;

Các kéo theo ẩn dụ:

Tình yêu là sự hiện hữu;

Tình yêu làm cho con người có thể nhận biết nó bằng cơ quan thị giác;

Con người có thể tác động làm biến đổi tình yêu.

Từ đây hình thành cơ chế của ý niệm “TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ” như sau:

Miền đích Miền nguồn

TÌNH YÊU VẬT THỂ

Nằm trong giới hạn tri giác của

con người;

Được xác định về hình,

lượng trong không gian;

Xác định được trong

quan hệ với sự vật khác;

Luôn ở trạng thái di dời, thay đổi

Con người có thể tác động

làm biến đổi.

3.2.Tình yêu là cuộc hành trình

Đây là ý niệm xuất hiện trong 14/ 243 ca khúc được khảo sát.

Trịnh Công Sơn quan niệm tình yêu là cuộc hành trình. Nhưng không gian hành trình của tình

yêu không phải là một con đường bằng phẳng, thẳng tắp mà là con đường quanh co, đầy bí ẩn, nó

đưa con người đến nơi vô định:

“Tình yêu hình như không di chuyển trên một mặt phẳng. Nó thường dẫn người trong cuộc đi

qua những nơi chốn không hề dự phòng trước. Thế rồi một hôm bỗng dưng mọi chuyện cứ lệch lạc

hẳn đi và người trong cuộc thấy mình không còn là mình nữa.” [http://www.petalia.org/Loveland/

trinhcongson.htm]

Vậy là, con người đi trên đường tình là hành động vô cùng mạo hiểm. Con người đi nhưng

không biết trước được có đến đích hay không.

Trước hết, những trải nghiệm về tình yêu đã cho Trịnh Công Sơn nhận thấy tình yêu là

một cuộc hành trình trên con đường dài nghiệt ngã:

“…Đi trong tình dài, có người đã tới/ Sao trong hồn này tiếng lời hấp hối…”(Bay

đi thầm lặng)

Không giống với cuộc đời, chủ thể của hành trình tình yêu phải có đôi có cặp.

Nhưng có lúc họ lạc nhau trên con đường gập ghềnh và thậm chí mãi mãi không tìm lại được

nhau nữa:

“…Người tình kia mất con đường về, và trời kia mất em từ độ…”(Níu tay nghìn

trùng)

Con đường tình yêu là một không gian để người trải lòng với người. Nhân loại đã

đến với nó biết bao lần. Một con người cũng có thể đến với tình yêu nhiều lần. Trịnh Công

Sơn là người đã gặp gỡ tình yêu nhiều lần trong suốt hành trình sống của mình. Trịnh nhận

thấy mỗi cuộc tình qua đi đều để lại nỗi đau. Nỗi đau sau chồng lên nỗi đau trước. Vết

thương sau khắc sâu thêm vết thương vốn chưa lành. Vì thế, tình yêu đối với Trịnh Công

Sơn là một con đường đã đi qua nhiều lần. Nhưng điều đặc biệt là, dẫu có thất bại có bị tình

phụ thì trái tim yêu đương dù thoi thóp cũng không rời bỏ con đường quen thuộc ấy:

“…Khi tình đã vội quên, tim lăn trên đường mòn/ Trên giọt máu cuồng điên, con

chim đứng lặng câm…”(Ru ta ngậm ngùi)

Đó là con đường mà kẻ si tình luôn đứng để đợi một gót hài em đi qua:

“…Em đi qua chốn này, ối a sao em đành vội/ Tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót

hài…”(Biết đâu nguồn cội)

Cũng giống như cuộc đời, tình yêu là cuộc hành trình định mệnh đối với Trịnh.

Chính tình yêu đã làm cho trái tim ông nhiều lần nhói đau.

Tình yêu trong nhạc Trịnh rất đẹp nhưng chóng tàn. Những đổ vỡ của tình yêu,

những trái ngang mà Trịnh gánh chịu cũng như những mối tình đơn phương mà Trịnh ngậm

ngùi đeo mang đã tạo nên không gian của con đường tình yêu trong nhạc Trịnh là không

gian luôn ở trạng thái buồn tẻ, héo hắt. Những cụm từ “đường…nỉ non”, “đường quạnh

hiu”, “đường…có nắng la đà”, “lời quạnh hiu suốt con đường tình” đã gợi nhắc đến không

gian buồn, trống vắng của đường tình.

“…Đường nào quạnh hiu tôi đã đi qua/Đường về tình tôi có nắng rất la

đà…”(Bên đời hiu quạnh)

“…Đường tình yêu nghe tiếng ai nỉ non…”(Có những con đường)

“12TNếu có dịp chạm vào tình yêu thì hãy thử mượn một cỗ xe chở lòng bất kính đến trước. Có

thể không hẳn là lòng bất kính mà một cái gì đó gần với sự thờ ơ, lãnh đạm hoặc một phương cách

lịch sự bóng bẩy phường tuồng. Đó là lá chắn cần thiết, một thứ bùa hộ mạng để chống đỡ những

mũi dao vô đạo có thể gây thương tích bất ngờ trên lòng tự trọng.”12T

[http://www.petalia.org/Loveland/ trinhcongson.htm]

Trịnh đã cảnh báo cho bất cứ ai đã, đang và sẽ yêu:

Bởi vì đoạn cuối của con đường hành trình yêu đương bao giờ cũng là sự khổ

đau: “Hãy khóc đi em, cuối cuộc tình còn đây những ngày buồn/…Hãy khóc hãy khóc đi em

cuối cuộc tình còn đây những mặn nồng/…Hãy khóc hãy khóc đi em, có còn gì tình đã mất

đường về…” (Hãy khóc đi em)

Điểm khởi đầu của tình yêu khó ai có thể biết được nó bắt đầu từ đâu, như Xuân

Diệu đã khẳng định:

“Đố ai định nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn

tôi bằng kỷ niệm/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…”(Vì sao?)

Còn Xuân Quỳnh, trong bài “Sóng” cũng không thể tìm thấy cái “bắt đầu” của tình

yêu:

“Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu

nhau…”

Khảo sát 243 ca khúc của Trịnh Công Sơn chúng ta cũng không thể tìm được một

từ ngữ chính xác nào để xác định thời gian, địa điểm xuất phát của tình yêu, ta không thể tìm

được cái mốc khởi đầu của cuộc hành trình yêu đương. Có chăng chỉ là cái dấu hiệu “Từ

khi”: “ Từ khi trăng là nguyệt…”(Nguyệt ca) hay là “từ đó”: “Từ đó có em thì thầm…”.

Nhưng cái “đó”, cái “khi” ấy là lúc nào không ai có thể xác định được. Thế nhưng, kết thúc

của một cuộc tình ai cũng có thể nhận ra. Với nhiều người, đoạn cuối của tình yêu có thể là

một cái đích hạnh phúc, hôn nhân là cái đích đến của mỗi cuộc tình. Nhưng với Trịnh Công

Sơn, cho đến thời điểm ông mất đi, ông vẫn là một người độc hành trên con đường tình, với

“lý lịch” không vợ, không con và có rất nhiều người tình…đã xa. Vì thế, chưa đến cái đích

của con đường tình, sự chia ly đã xảy ra với tình yêu trong ca từ của Trịnh. Nên không gian

trong cuộc hành trình tình yêu với Trịnh luôn là một không gian buồn tẻ. Nhưng điều đặc

biệt là sự chia ly ấy không mang dấu chấm hết mà nó mang dấu chấm lững của dư âm. Và vì

thế, con đường tình trong sự tri nhận của Trịnh Công Sơn là một con đường hư ảo không rõ

điểm đầu, điểm kết và hướng đi của nó. Cũng vì vậy mà chủ thể dấn thân vào tình yêu dễ rơi

vào những cơn mộng mị mà quên mất đường về:

“…Người tình kia mất con đường về/ Và trời kia mất em từ độ…/ Và từ đó có em

thì thầm/ Lời quạnh hiu suốt con đường tình…”(Níu tay nghìn trùng)

Như vậy, con đường với ý nghĩa là không gian của cuộc hành trình tình yêu có thể

được xác định bằng các đặc điểm sau:

CON ĐƯỜNG

Có chiều dài;

Có trạng thái không gian;

Có người đi lại;

Điểm mở đầu và kết thúc con đường không được xác định rõ;

Không gian vắng vẻ,quạnh hiu.

Là con đường, tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn được xác định có chiều dài, có

khoảng cách, có trạng thái không gian, có người đi lại là đôi tình nhân. Nhưng con đường

trong ca từ của ông không thể có chiều dài cụ thể vì nó không được xác định điểm đầu và

điểm cuối. Còn không gian hành trình thì vắng vẻ, quạnh hiu. Hay nói một cách khác, đó là

con đường hư ảo. Vì cuộc hành trình của tình yêu là cuộc hành trình trên con đường hư ảo

nên đây là cuộc hành trình kỳ lạ, không xác định được đích đến và cũng không thể xác định

được điểm xuất phát của nó. Vì thế cách thức hành trình có “đi”, “trôi” hay “lăn” thì chủ thể

hành trình cũng trong trạng thái vô định. Và rồi kẻ hành trình đến đoạn cuối con đường luôn

độc hành dấn bước.

Như vậy, ý niệm “TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH KỲ” trong ca từ Trịnh

Công Sơn là một ẩn dụ cấu trúc, được tạo nên từ hai miền nguồn và đích tương ứng: TÌNH

YÊU (miền đích), CUỘC HÀNH TRÌNH (miền nguồn)

Ý niệm này có thể được hành thành từ cơ chế sau:

Miền đích Miền nguồn

TÌNH YÊU CUỘC HÀNH TRÌNH

Không xác định rõ nơi bắt đầu Con đường hư ảo (không

và kết thúc xác định rõ điểm đầu và cuối);

Không có Không xác định hướng đến;

Hôn nhân

Bị tình phụ Chủ thể ở tâm thế lẻ loi, đơn độc.

3.3. Tình yêu là con người.

Đây là ý niệm xuất hiện trong 19/ 243 ca khúc khảo sát.

Dù là người chịu nhiều mất mát, đau thương trong tình yêu nhưng khi bàn đến tình

yêu, Trịnh Công Sơn khẳng định rằng “Cuộc sống không thể thiếu tình yêu” và đồng thời nói

12T “Người ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài qui luật cả. Nhưng tình yêu hình

rõ tính hai mặt của nó:

như cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có thể nâng bổng con người nhưng cũng lắm lúc

12T Với Trịnh, tình yêu như là một con người và hơn nữa đó là một con người có uy

nhấn chìm kẻ háo hức”.[http://www.nhantrachoc.net.vn]

lực rất lớn, có thể làm cho người ta vui hoặc buồn, phấn chấn hay gục ngã.

Trước hết, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta sẽ tìm thấy sự đồng hóa tình

yêu với con người bằng cách cho tình yêu mang những hành động của con người. Đặc

điểm này xuất hiện với tần số 5/ 243 ca khúc.

Đã đến với tình yêu nhiều lần và chia tay nhiều lần với nó. Lúc đến, tình yêu vô

cùng đẹp, có thể hóa kiếp cho con người từ khổ đau thành hạnh phúc, có thể như người thợ

điêu luyện phá hủy bức tường sỏi đá trong con người. Trịnh đã nhận ra uy lực ghê ghớm của

tình yêu :

“…Mặt trời nào soi sáng tim tôi/ Để tình yêu xây mòn thành đá cuội…”(Cát bụi)

Vì thế, con người sinh ra cần phải đón nhận tình yêu - dù đó là tình yêu lứa đôi

hay tình yêu nhân loại. Chính tiếng nói của tình yêu cũng có thể đem lại cho con người sự

định hướng trong dòng đời xuôi ngược:

“…Em về đâu hỡi em/ Có nghe tình yêu lên tiếng…”(Đời gọi em biết bao lần)

Tình yêu có thể mang lại hạnh phúc cho con người mà cũng có thể làm tắt nụ cười

trên môi con người. Nó có thể nâng bổng con người mà cũng có thể vùi dập con người, đày

đọa, làm khổ đau con người:

“…Tình khâu môi cười/ Hình hài xưa đã thay/..Tình chia nhau gian dối/ Tình đày

tình đôi nơi/…Tình thắp cơn sầu/ Tình chìm qua hố sâu/ Tình vời lên núi cao/ Rồi trong cơn

yêu dấu/ Tình đày tình xa nhau/…Tình đi âm thầm/ Nghìn trùng như vết sương…”(Tình sầu)

Tiếng gọi yêu đương nằm tận sâu trong mỗi đáy lòng người. Hai trái tim xa nhau,

gọi lại nhau cũng trong sự thầm lặng héo hon:

“…Tình réo tình âm thầm/ Sầu réo sầu bên bờ vực sâu…”(Tình xa)

Những từ ngữ chỉ hoạt động của con người: xây, khâu, thắp, đày, đi âm thầm được

gắn với chủ thể tình yêu làm cho tình yêu trở thành con người cụ thể lúc hiện lên với hành

động tiêu cực “khâu môi”, “thấp sầu”, đày đọa, lúc thì lặng lẽ “đi âm thầm”. Nhưng có lẽ, dù

thế nào thì những hành động ấy cũng tạo nên những kết quả không tích cực, tạo sự đau

thương. Phải chăng đó là những điều mà Trịnh đã đúc kết được về tình yêu trong những trải

nghiệm với nó của mình – tình yêu đem lại sự khổ đau cho con người.

Ngoài ra, mang trạng thái của con người là một đặc điểm nữa về “con người” tình

yêu trong ca từ của Trịnh Công Sơn. Đây là đặc điểm xuất hiện 11/243 ca khúc.

Nếu như mỗi con người có những trạng thái không giống nhau trong những hoàn

cảnh khác nhau thì tình yêu cũng có những trạng thái khác nhau:

“…Biển ơi, có tình vui đùa, có tình ơ hờ..là tại sao/ …Có tình ân cần, có tình

không tình giữa vực sâu…”(Muôn trùng biển ơi)

Những trạng thái đối lập của con người: vui đùa/ ơ hờ, ân cần/ không tình được gán

cho tình yêu. Làm cho tình yêu mang những trạng thái đối lập. Phải chăng sự đối lập ấy là

căn nguyên của những bất thường và đa dạng trong những biểu hiện của tình yêu.

Nếu như Hàn Mặc Tử trong bài “ Trút linh hồn” đã từng nói đến tình yêu trong cái

mệnh “chết yểu” của nó :

“Máu đã khô rồi thơ cũng khô/ Tình ta chết yểu tự bao giờ!”

Thì Trịnh Công Sơn cũng thấy cái chết của tình yêu dưới bàn tay trù dập của đôi

tình nhân:

“…Ai đã chia người mãi xa người/ Ai giết đi tình đang lứa đôi..”(Còn ai với ai)

Nếu như chúng ta đã từng biết đến cái “thiên thu” của đời người mà Trịnh Công

Sơn đã nhắc đến khi nói về cuộc đời thì đối với tình yêu nó cũng có một cõi “nghìn

thu”tương ứng:

“…Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu…”(Còn tuổi nào cho em)

Khi đã mỏi mệt với những vết thương, giấc ngủ thiên thu sẽ về trên cuộc tình:

“…Tình vừa ngủ yên, dưới bóng tối tăm…”(Vẫn nhớ cuộc đời)

Tình yêu khi không còn trọn vẹn nó rơi vào trạng thái cô đơn, lạc lỏng:

“…Em đứng lên mùa thu tàn tạ/ Hàng cây khô tình bơ vơ…”(Gọi tên bốn mùa)

Con người cũng có thể rơi vào nỗi buồn khi cô đơn, trống vắng. Mỗi cuộc tình cũng

mang trạng thái ấy :

“…Tình reo vui trong nắng, tình buồn làm cơn say/…Một dòng sông nước cuốn,

một cuộc tình không may/…Rồi tình trong im tiếng, rồi tình ngoài hư hao…”(Tình sầu )

“…Nghe tình chợt buồn trong lá xôn xao/ Để mùa xuân sau, mua riêng tình

sầu…”(Tôi ru em ngủ )

“…Tình sẽ buồn như là nấm hoang/ Ôi hiu quạnh với nến tàn…”(Như là vết

thương)

Mỗi con người được sinh ra từ bào thai của mẹ, mỗi cuộc tình được sinh ra trên

chính tiếng nói từ đôi môi em:

“…Ru em chờ em nói/ Trên môi tình thoát thai/…Ru em ngồi yên đấy/ Tôi tìm

cuộc tình cho…”(Ru tình)

Theo giáo lý của đạo Phật, cái không và cái có là thường hằng bên nhau “có có,

không không..” trong cuộc sống con người. Trịnh Công Sơn cũng nhìn nhận những cuộc tình

trong cái trạng thái ấy- ngỡ không nhưng lại có, ngỡ đã mất nhưng còn trong lòng người đi,

kẻ ở:

“…Tình ngỡ chết trong nhau/ Nhưng tình vẫn rộn ràng…”(Tình nhớ)

Khi người tình ra đi, để lại một vết thương đau cho cuộc tình. Một lần người tình

ấy trở về tạ tội, cuộc tình mang vết thương kia có thể làm dịu đi nỗi đau ấy:

“…Bao nhiêu năm bỗng lại nhiệm màu/ Trả nợ một lần quên hết tình đau…”(Xin

trả nợ người)

Những sự kết hợp bất thường “tình đau”, “ tình nghìn thu”, “tình chết”, “tình

buồn”, “tình reo vui”, “tình ân cần”, “tình ơ hờ”, “tình ngủ yên”, “tình thoát thai” đã giúp

đồng hóa tình yêu với con người. Từ những cụm từ kết hợp ấy liên hội lại với nhau tạo nên

sự liên tưởng của chúng ta về trạng thái của con người. Nhưng trạng thái cũng nằm trong sự

thay đổi, lúc thế này, lúc thế kia. Phải chăng đó cũng là ý nghĩ về tình yêu mà Trịnh gửi gắm

qua các ca khúc của mình.

Bên cạnh đó, Trịnh Công Sơn còn đồng hóa tình yêu với con người bằng cách cho

nó có số phận, cuộc đời như con người. Ý niệm này xuất hiện với tần số 3/243 ca khúc.

Mỗi một cuộc tình còn có số phận riêng của nó. Trên hành trình lênh đênh, nó có

thể gặp rủi ro:

“…Một dòng sông nước cuốn/ Một cuộc tình không may…”(Tình sầu)

Và còn có cuộc đời riêng của mỗi cuộc tình:

“…Từng ngày chôn chân nhớ phố lang thang/ Đời tình nuôi quên những sáng

mênh mông…”(Tình xót xa vừa)

“…Đời tình nhân đã bao lần giá rét…”(Từng ngày qua)

Ý niệm “TÌNH YÊU LÀ CON NGƯỜI” trong ca từ Trịnh Công Sơn được hình

thành trên cơ sở kết hợp một/ một số từ thuộc trường từ vựng chỉ con người với từ vựng chỉ

tình yêu (tình/ tình yêu/ cuộc tình). Sự kết hợp từ và chuyển nghĩa theo phương thức nhân

hóa đã chuyển hóa tình yêu từ một khái niệm trừu tượng trở thành một đối tượng cụ thể đó là

con người và hơn nữa là một con người kỳ lạ. Vì ở con người này không chỉ là một con

người bình thường có các bộ phận (có tay, có mắt, có môi…), có số phận, có hành động

mang ý thức của con người, có vẻ đẹp, có trạng thái cảm xúc mà còn được sinh ra từ những

nơi không ngờ nhất: trong gió, trong mây, trên đôi môi… và có những quyền năng vô lượng:

có thể làm thay đổi cuộc đời, thay đổi thế giới quan, thay đổi tâm trạng, làm tắt nụ cười hay

ban ân huệ cho con người.

Như vậy ý niệm “TÌNH YÊU LÀ CON NGƯỜI” là một ẩn dụ bản thể được tạo

thành từ cơ chế sau:

Miền đích Miền nguồn

TÌNH YÊU CON NGƯỜI

Có các bộ phận, cơ quan của con người

Có tâm trạng cảm xúc;

Hành động có ý thức

Có quyền năng kỳ lạ.

3.4.Tình yêu là hư vô

Đây là ý niệm xuất hiện với tần số 23/ 243 ca khúc.

Trước hết, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta bắt gặp cái nhìn của ông về tình

yêu như là hương vị, màu sắc không có hình hài và thoáng chốc mất đi. Tình cảm là một

phạm trù có lẽ khó nắm bắt nhất trong tất cả các phạm trù. Không riêng gì Trịnh Công Sơn,

nhiều người cũng nói về đặc tính hư vô, tạm bợ của tình yêu. Xuân Diệu trong bài “Chỉ ở

lòng ta”cũng thừa nhận tình yêu chỉ như những thứ tạm bợ, như một “quán trọ bên đường”,

“mái tranh tàn”, “vò nước lã” để sử dụng trong những trường hợp nhất thời mà thôi:

“…Cuộc đời cũng đìu hiu nơi dặm khách/ Mà tình yêu như quán trọ bên đường/

Mái tranh tàn đỡ rét một đêm sương/ Vò nước lã mát xoàng đôi buổi nắng…”[19,561]

Hay là tình yêu như hương gửi trong gió:

“…Tình yêu muôn thuở vẫn là hương/ Biết mấy lòng thơm mở giữa đường/Đã

mất tình yêu trong gió rủi/ Không người thấu rõ đến nguồn thương…”

(Gửi hương cho gió)

Đến với ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta bắt gặp tình yêu được tồn tại trong

những dạng thức tồn tại của hương vị, màu sắc:

“…Bước chân về với gian nhà với trái tim còn nặng nề/ Xót xa gì oán thương gì

đã biết mùi hương chia ly/… Hồn lìa rồi nhưng em ơi, tình còn nồng đôi con ngươi…”( Chủ

nhật buồn)

“…Mười năm chân bước trên đường dài/ Gặp nhau không nói không nụ cười/ Chút

tình dường như hiu hắt bay…”( Có một dòng sông đã qua đời)

“…Tim mỗi người là quê nhà nhỏ/ Tình nồng thắm như mặt trời xa…”

(Em là hoa hồng nhỏ)

Em mang tình yêu đến với tôi như mang mùi hương đến trong con phố nhưng

hương yêu ấy chỉ thoảng qua và bay mất:

“…Em đến bên đời hoa vàng một đóa/ Một thoáng hương bay bên trời phố hạ/ Nào

có ai hay ta gặp tình cờ/ Như là cơn gió/ Em còn cứ mãi bay đi…”(Hoa vàng mấy độ)

“…Có chút tình thoảng như gió vội/ Tôi chợt nhận ra tôi…”(Như một lời chia tay)

Em đến mang tình yêu đến như là ân huệ cho tôi và em ra đi cũng còn vương vấn

mãi mùi hương”nhân từ”:

“…Mưa xa mờ mịt áo em phai nhòa/ Không gian còn lại chút hương nhân

từ…”(Mưa mùa hạ)

Hương yêu quen thuộc, ngọt ngào nhưng chóng mất đi:

“…Tình reo vui trong mắt/ Tình buồn làm cơn say/…Tình yêu như hương áo quen

hơi ngọt ngào/ Rời nhau hôm nào hồn mình như vá khâu…”(Tình sầu)

Tình yêu có lúc là vị ngọt, có khi là vị đắng:

“…Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi/ Tình yêu mật đắng, mật đắng trong

đời…”(Lặng lẽ nơi này)

Khi mất đi, khi không còn mặn nồng nữa, khi đến hồi kết thúc, tình yêu cũng đi

vào trạng thái phai, nhạt, phôi pha như trạng thái của sắc màu:

“…Tìm tình tìm tình trên núi em gặp mây bay/ Ô hay tìm tình giữa chợ tình phai

mất rồi…(Bống không là Bống)

“…Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai/ Tình trong hai tay một hôm biến

mất…”(Con mắt còn lại)

“…Đi không còn biên giới/ Chút tình kia đã phai…”(Đi mãi trên đường)

“…Chuyện chúng mình ngày xưa anh ghi bằng nhiều thu vắng/ Đến thu này thì

mộng nhạt phai…”(Nhìn những mùa thu đi)

“…Bống về nơi nào/ Vó ngựa tình sâu/ Đất nồng nỗi nhớ/ Tình Bống nhạt

nhòa…”(Thuở Bống là người)

“…Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy…”(Tình nhớ)

Có một thứ cảm xúc trên cõi đời này chóng đến chóng đi, chóng đổi thay như

hương thoảng trong gió, như sự đổi thay sắc màu của lá cây, đó là tình yêu:

“…Tình tựa lá bỗng vàng bỗng xanh/ Em ra đi như thoáng gió thầm…”(Tạ ơn)

Sự gắn kết của những từ ngữ chỉ trạng thái tồn tại, sắp mất đi hay cách thức hoạt

động, đặc tính của hương thơm, màu sắc “nồng”, “thắm”, “phai”, “bay”, “nhạt nhòa”,

“phôi pha”, “ngọt”, “đắng” với từ chỉ tình yêu tạo thành những kết hợp “tình nồng”, “tình

thắm”, “tình phai”, “tình…nhạt nhòa”, “tình phôi pha”, “tình..ngọt”, “tình…đắng”, Trịnh

Công Sơn qua đó đã đồng hóa tình yêu thành hương vị, sắc màu. Đó là những phạm trù phi

vật thể, không thể sờ nắm được, đặc biệt nhanh chóng thay đổi và tồn tại trong khoảnh khắc

rất ngắn. Phải chăng, đồng hóa tình yêu với hương vị, màu sắc, Trịnh Công Sơn muốn công

nhận ở nó đặc tính vô thường, dễ mất.

Ngoài ra, tìm hiểu ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta còn bắt gặp những ý niệm cho

rằng tình yêu không thể tìm kiếm nơi hữu thể.

Có lúc, tưởng rằng không gian tồn tại của tình yêu là nắng. Nắng là sự vật không

hình hài, là một hiện tượng tự nhiên.Vì vậy, cái đối tượng được gọi là tình yêu chứa đựng

trong cái không gian vô hình, vô lượng ấy cũng chỉ có thể là cái vô hình, vô lượng nên cũng

đâu dễ kiếm tìm. Thế nhưng tìm mãi ở những vật hữu thể như trên núi, giữa chợ cũng không

thể tìm kiếm được, cả không gian động và tĩnh đều không thể tìm thấy tình yêu:

“…Tìm tình, tìm tình trong nắng em gặp cơn mưa/ Ô hay tìm tình giữa ngọ buồn lưa thưa

về/ Tìm tình, tìm tình trên núi em gặp mây bay/ Ô hay tìm tình giữa chợ tình phai mất

rồi…”(Bống không là Bống)

Tìm hiểu ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta phát hiện rất nhiều lần động từ “tìm”

được lặp lại gắn kết với đối thể tình yêu. Nhưng kết quả của việc tìm kiếm hình như không

thể nào thấy được. Nếu có thì cái đối tượng ấy vẫn không phải là tình yêu:

“…Tìm trong gió vô tình/ Tìm trong cõi lặng im/..Tìm nhau giữa vô cùng/ Ta tìm

trong nỗi nhớ/ Ta tìm trong ngọn gió hư vô…”(Còn mãi tìm nhau)

Vì tình yêu là hư vô ảo vọng nên thoáng chốc rồi nó cũng “biến mất” đi:

“…Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai/ Tình trong hai tay một hôm biến

mất…”(Con mắt còn lại)

Là cái hư vô nên tình yêu cũng chỉ tìm kiếm trong cái hư vô, cái phù du của

mây gió trời, của nỗi nhớ mà thôi:

“…Tìm nhau giữa vô cùng/ Ta tìm trong nỗi nhớ/ Ta tìm trong ngọn gió hư vô…”

“…Từ đó trong vườn khuya/ Ôi áo xưa em là một chút mây phù du/ Đã thoáng qua

đời ta/…Từ đó em là sương/ Rụng mát trong bình minh/ Từ đó ta là đêm/ Nở đóa hoa vô

thường…”(Đóa hoa vô thường)

“… Sài Gòn nắng mưa em ngày ấy/ Còn là hạt bụi giữa hư vô…”(Hai mươi mùa

nắng hạ)

“…Tay hư vô che dấu/ Chiều qua truông mây sâu/ Rồi tình yêu cũng qua

mau…”(Lời của dòng sông)

“…Em gọi nụ hồng vừa tàn cuối sân/ Nghe tình chợt buồn trong lá xôn xao/ Để

mùa xuân sau mua riêng tình sầu…”(Tôi ru em ngủ)

Và thậm chí, với Trịnh, tình yêu còn là nắng. Trịnh Công Sơn từng tâm sự:

“Trước kia mình tưởng mưa buồn, nhưng giờ mình thấy nắng thật sự buồn. Bởi dung

nhan của nắng luôn thay đổi và màu sắc của nó mới thật gần với đời sống của con người. Nó

có sớm mai, có trưa, có tàn phai, có một buổi chiều của một đời người. Còn mưa chỉ ào

xuống rồi thôi, và mưa chỉ có một màu”. [26, tr.197]

Với quan niệm như vậy, Trịnh Công Sơn nhận thấy tình yêu cũng như đời sống của

con người là những cái dễ biến động, dễ đổi thay cũng như nắng của một ngày.

Khi tình yêu của con người đi đến giai đoạn kết thúc thì cũng giống như ánh nắng

chiều hôm không còn nữa:

“…Tình như nắng vội tắt chiều hôm/ Tình không xa nhưng không thật gần…”(Như

một lời chia tay)

Nắng là biểu tượng của tình yêu trong tim con người:

“…Đi về đâu hỡi em, khi trong lòng không chút nắng/…Trả lại nắng trong tim, trả

lại thoáng hương thơm…”(Đời gọi em biết bao lần)

Ở Trịnh, dường như tình yêu nó có một lẽ bất thường, nó là niềm vui là hạnh phúc

của con người nhưng giá trị của nó lại tỷ lệ thuận với nỗi đau. Vì thế tình yêu càng lớn thì

nỗi đau càng nhiều. So sánh tình yêu với “chút nắng” là cách khẳng định sự chóng đổi thay

của nó.

“…Tình ngỡ đã phôi pha/ Nhưng tình vẫn còn đầy/…Khi cơn đau chưa dài/ Thì

tình như chút nắng/ Khi cơn đau lên đầy/ Thì tình đã mênh mông…”(Tình nhớ)

Tình đến rồi tình đi. Có lúc tưởng nó ở lại, nó lại ra đi. Có lúc tưởng nó bền vững,

nó lại không còn. Chỉ cần một cái chạm khẽ, tình yêu có thể ra đi như ánh nắng sớm mất đi

vì một bóng râm của đám mây bay ngang trời và mất đi khi tà dương ập xuống:

“…Tình mong manh như nắng/ Tình còn đầy không em…”(Tình sầu)

Suốt cuộc hành trình của tình yêu, Trịnh Công Sơn như là người cứ mãi đuổi theo

một cái bóng. Hết cái bóng này lại đến cái bóng kia. Và rồi có những mối tình tưởng chừng đã

có kết thúc có hậu với hôn nhân nhưng kết cục nó vẫn chỉ là con số không. Tuy nhiên, dù kết

thúc có buồn như vậy thì mỗi cuộc tình đã qua đi trong cuộc đời Trịnh Công Sơn vẫn là những

mối tình đẹp, không có oán hận, trách cứ. Thế nên, sau mỗi cuộc tình, Trịnh chiêm nghiệm thấy

tình yêu là điều hư ảo nhưng nó vẫn động lại cái dư âm thơm đẹp như khoảnh khắc tồn tại của

hương vị, của sắc màu và của ánh nắng. Và ý niệm “TÌNH YÊU LÀ HƯ VÔ” xuất hiện trong ca

từ Trịnh Công Sơn tuy buồn thật nhưng vẫn thấp thoáng một vẻ đẹp lung linh, một hương thơm

thanh khiết. Ý niệm này được hình thành theo cơ chế sau:

Miền đích

Miền nguồn

TÌNH YÊU HƯ VÔ

Vô hình Không thể định hình;

Chóng mất Không tồn tại lâu dài theo thời gian

(như mùi hương sắc hoa);

Khó tìm Không thể tìm kiếm nơi hữu thể.

Quan niệm của Trịnh Công Sơn như vậy về tình yêu giúp chúng ta hiểu rõ bản

chất của nó. Đây cũng là cơ sở để chúng ta lý giải tính vô thường của vạn vật trong cõi nhân

sinh. Qua đối chiếu với cuộc đời, tình yêu của Trịnh Công Sơn, dù ông không được trọn vẹn

trong tình yêu nhưng ông thật đáng trân trọng biết bao ngay trong cái thế giới tình yêu hư vô,

ảo vọng ấy. Sự tri nhận này của Trịnh Công Sơn về tình yêu có thể mượn lời của Bửu Ý

trong bài viết “Trịnh Công Sơn – Kẻ du ca”: “Tình yêu, với Trịnh Công Sơn là diễm tình.

Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan

vỡ” [41,tr.16].

3.5.Tình yêu là sự chuyển động của các mùa trong năm

Con người sống trên cõi đời này, không ai thoát ra khỏi thời gian cả. Con người

chịu sự tác động của thời gian, vận động biến đổi theo thời gian. Bước ra ngoài thời gian có

nghĩa là ra ngoài vũ trụ để sang một trật tự khác, một vũ trụ khác, bởi thời gian gắn chặt với

không gian, hai thứ không thể tách rời. Mùa là đại lượng để đo vòng quay của thời gian theo

thứ tự vận hành của trái đất. Xét theo mùa thiên văn, người ta chia ra mùa xuân, mùa hạ, mùa

thu, mùa đông. Xét theo mùa thời tiết, có mùa mưa và mùa nắng. Trong ca từ Trịnh Công

Sơn, cảm thức mùa trong sự chảy trôi của thời gian còn là cảm thức về tình yêu của hồn

người.

Trước hết, ý niệm “TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA

TRONG NĂM” đã được thể hiện bằng cảm thức của Trịnh về sự 12T tồn/ vong của tình yêu

gắn với cảm thức về thời gian của các mùa trong năm.

Có lẽ ý niệm ‘TÌNH YÊU LÀ CÁC MÙA TRONG NĂM” cũng không trở nên

quá xa lạ với ý niệm chung của nhiều người. Đa số đều cho mùa xuân là khởi đầu, là tươi

đẹp và nói đến tình yêu, gắn với mùa xuân cũng là gắn với sự tròn đầy, hạnh phúc. Nhưng

với Trịnh Công Sơn, mùa xuân cũng là hạnh phúc của tình yêu nhưng nó mang theo một cái

12T“Mùa xuân là bờ hay bến? than ôi, mùa xuân chỉ là bờ. Ai ai trong đời này cũng có lần

lẽ vô thường:

ghé qua cái bến tạm mùa xuân. Cái bờ bến mùa xuân nhập nhằng những dặm trường lận

đận. Thoắt nhiên bến xuân chỉ còn lại là bờ. Cái bến đi qua, rồi cái bờ ở lại. Cái bến hiu hắt

của một thuở tưởng rằng thời hoàng kim bến sẽ mãi mãi không bao giờ là bờ. Thế rồi tuổi

đời người người -đến đến – đi đi cứ mộng vờ, hoang tưởng hão huyền một thứ bờ bờ - bến

12T

12T Có thể bến cho em và bờ cho tôi. Tôi cứ mãi đi và em ở lại. Cái thân phận thuyền

bến, không biết nơi nào để neo lại một thân thể phiêu bồng.

quyên ấy đừng làm đau xót đời. Cuối cùng, trong cõi mông lung mờ mờ ảo ảo, em vẫn chính

12T (12T4TUhttp://www.petalia.org/lovedland/U4T12Ttrinhcongson.htm)

12T Vì thế ngay ở cái bờ của mùa xuân, người nhạc sĩ này nghĩ về cái bến của sự ra đi

là cái bến hư ảo một cách vẹn toàn mà tôi có lúc mỏi mệt sẽ tìm về nương tựa.”

một mối tình, bến mùa thu:

“…Mùa xuân yêu em đồi núi thênh thang, hồ nước long lanh ngàn cánh vàng/

Ngày ta yêu em màu lá thanh xuân/ Chờ đến thu sang rồi hãy tàn…”(Người về bỗng nhớ)

Và mùa hạ sẽ là mùa chuẩn bị cho một mối tình xuân: “…Em vào mùa hạ, thấp

nắng trên cao/ Và mùa xuân nào, ngẩn ngơ tình mới/…Nghe tình chợt buồn trong lá xôn

xao/ Để mùa xuân sau, mua riêng tình sầu…”(Tôi ru em ngủ)

Điều đặc biệt là, hình như ít có bài hát nào của Trịnh Công Sơn viết về mùa mà chỉ

có một mùa. Trong những ca khúc của ông, đặc biệt là những tình khúc luôn xuất hiện bốn

mùa song hành, hoặc cái úa tàn của mùa thu đặt bên cạnh cái ảm đạm lạnh lẽo của mùa

đông; sự buồn bã của mùa hạ đặt bên cạnh bước đi vội vã của mùa xuân, hoặc giao cắt nhau.

Những tín hiệu mùa vì thế trở thành tín hiệu về trạng thái của tình yêu: mùa xuân- tình yêu

thanh xuân, mùa hạ - tình yêu bắt đầu, mùa thu- tình yêu úa tàn, phôi pha tình người. Và cứ

thế tình yêu cứ quay vòng chuyển động theo các mùa. Gắn với các mùa là trạng thái kèm

theo của nó. Hết trạng thái này lại đến trạng thái khác.

Ngoài ra, trong cảm thức của Trịnh Công Sơn, tình yêu còn là nơi trú ngụ của

các mùa trong năm:

“…Tìm về trong suối nguồn/ Trái tim bốn mùa vẫn dịu dàng ngân…”(Về trong suối

nguồn)

“…Đời vẽ tim em lạ kỳ/ Tình có trong em nhiều mùa/ Từ đó thiên hạ quá ưu

tư…”(Chỉ có ta trong cuộc đời)

“…Ngày ra đi với gió/ Ta nghe tình đổi mùa…”(Những con mắt trần gian)

Vậy là trong ca từ của Trịnh Công Sơn, cảm thức xoay vần của các mùa trở thành

cảm thức về sự chuyển động của tình yêu. Mùa đã trở thành một điểm tựa quan trọng của

miền nguồn để thể hiện cảm nhận của Trịnh Công Sơn về một miền đích vô cùng trừu tượng

– tình yêu. Ẩn dụ ý niệm cấu trúc “TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA

TRONG NĂM” đã thể hiện nỗi ám ảnh lớn của Trịnh Công Sơn về sự chia ly thường trực

trong lòng – cuộc chia tay với những mối tình “Không hẹn mà đến, không chờ mà đi” và “

Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ/ Ôi những dòng sông nhỏ/ Lời hẹn thề là

những cơn mưa…”

Vì vậy, trước cảm thức chảy trôi của thời gian mùa, Trịnh Công Sơn đã liên tưởng

đến sự chuyển di của tình yêu vào trong ấy. Cái bánh xe thời gian luân chuyển không ngừng

hết xuân, đến hạ, sang thu, rồi tới đông. Và cứ thế, các mùa được lặp đi lặp lại theo một vòng

tròn khép kín, không có điểm dừng theo thời gian cũng như những cuộc tình mà Trịnh Công

Sơn đã trải qua không có cuộc tình nào ở lại mãi mãi với ông. Cuộc tình này tiếp nối cuộc

tình kia. Nhưng tất cả chỉ là một vòng xoay không ngừng nghỉ. Cơ chế để hình thành nên ý

niệm “TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA TRONG NĂM” có thể được

khái quát như sau:

Miền đích Miền nguồn

TÌNH YÊU SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA

CÁC MÙA TRONG NĂM

Khi tồn tại tươi đẹp Hết mùa sự vật tươi đẹp đến mùa

lúc mất đi tàn phai; sự vật phai tàn;

Mối tình sau tiếp nối Sau mùa này lại đến

mối tình trước; mùa khác;

chưa bao giờ có sự dừng lại Theo chu kỳ thời gian

mãi ở bất cứ mối tình nào. không có kết thúc.

*Tiểu kết

Cũng giống như cuộc đời, tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn là cuộc hành trình

nhưng là một cuộc hành trình không có điểm đích và chủ thể hành trình dễ gặp rủi ro trên

đường tình. Tình yêu cũng được đồng hóa với con người nhưng con người ở đây có quyền

lực vạn năng đối với tinh thần, thể xác của chủ thể tình yêu. Tình yêu cũng được đồng hóa

với những vật thể: là con thuyền, dòng nước, là bông hoa, cây lá, là chiếc áo…Đó cũng vẫn

là những vật thể thường ở trạng thái thay đổi về không gian cư trú hay về hình thể, sắc màu.

Trong mối quan hệ với thời gian, tình yêu cũng được đồng hóa với sự chuyển động theo các

mùa trong năm. Đó là một sự thay đổi không dừng lại và cũng là sự thật trong cảm thức về

tình yêu của Trịnh Công Sơn – tình yêu không có điểm đích trong cái vòng tròn thời gian.

Những sự vô thường, biến ảo và kết cục là ra đi mãi mãi của những cuộc tình mà Trịnh đã

nếm trải đã cho ông cái nhìn hư vô về tình yêu. Những miền nguồn được cấu trúc từ những

trải nghiệm tinh thần ( cuộc hành trình, hư vô, sự chuyển động của các mùa trong năm) cùng

những miền nguồn được tạo thành từ trải nghiệm vật thể (vật thể, con người) với những đặc

điểm của nó ánh xạ lên miền đích tình yêu đã thể hiện quan điểm của Trịnh Công Sơn về

tình yêu: là đối tượng gần gũi, gắn bó với con người trong hành trình sống nhưng nó vô cùng

mong manh, dễ vỡ mà lại có tác động vô cùng lớn đối với tinh thần con người. Nhưng dù thế

nào thì đối với Trịnh Công Sơn, tình yêu luôn đẹp, đẹp trong cả sự dang dở và tan vỡ. Chính

tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn đã nâng lòng người lên sự cao thượng, nâng tâm hồn

người đến đỉnh cao của cái chân – thiện – mỹ.

KẾT LUẬN

Qua phân tích ý niệm về tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới

góc độ ngôn ngữ học tri nhận trong phạm vi khảo sát 243 tác phẩm âm nhạc của ông, luận

văn đã khái quát được 9 mô hình ý niệm. Trong đó, có 4 mô hình ý niệm về cuộc đời (CUỘC

ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH, CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ, CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI,

CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM) và 5 mô hình ý niệm về tình yêu (TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ,

TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH, TÌNH YÊU LÀ CON NGƯỜI, TÌNH YÊU LÀ HƯ

VÔ, TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA TRONG NĂM). Có thể khái

quát hai miền nguồn và đích của những ẩn dụ ý niệm trên như sau:

CUỘC ĐỜI TÌNH YÊU

Miền đích

Miền nguồn

Con người Con người Con người

Vật thể Vật thể Vật thể

Thời gian Sự chuyển động của các mùa

Cuộc hành trình Cuộc hành trình Cuộc hành trình

Thế giới tinh thần Cõi tạm Hư vô

Như vậy, chúng ta nhận thấy miền nguồn trong các ý niệm đã xác định khá phong

phú. Đó là thời gian, là vật thể, là cuộc hành trình hay những đối tượng thuộc về thế giới tinh

thần được hình thành từ những trải nghiệm tinh thần hay từ những trải nghiệm bản thể. Từ

những ý niệm ở miền nguồn phóng chiếu lên miền đích (tình yêu, cuộc đời) đã được tìm

thấy, luận văn xin đưa ra một số nhận xét về ngôn ngữ ca từ Trịnh Công Sơn. Qua đó, rút ra

những nhận định của bản thân về quan niệm, thái độ của Trịnh Công Sơn đối với tình yêu và

cuộc đời như sau:

Trước hết, trong quá trình phân tích, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn để tìm ra các ý

niệm, luận văn nhận thấy cái riêng và cũng đồng thời là cái hay cái lạ trong cấu trúc ngôn từ

của nhạc Trịnh chính là những kết hợp bất thường, đột ngột, lạ lẫm của từ ngữ. Chính điều

này đã làm cơ sở cho những suy luận, phát hiện ra các miền ý niệm trong ca từ Trịnh Công

Sơn. Nhờ vậy mà miền đích (tình yêu, cuộc đời) mang tính trừu tượng như thế nhưng nó

được cấu trúc lại một cách đầy đủ và rõ ràng nên có ý nghĩa cụ thể hơn. Cơ chế hình thành

nên ý niệm này có thể hình dung như sau: từ miền nguồn ( con người, cuộc hành trình, vật

thể, cõi tạm, hư vô, sự chuyển động của các mùa trong năm) được nhận ra trên cơ sở sự kết

hợp bất thường và sự liên hội của các yếu tố ngôn ngữ phóng chiếu vào miền đích - Cuộc đời

và Tình yêu bằng những đặc điểm của nó. Những ý niệm từ miền nguồn làm cho miền đích

vốn rất trừu tượng trở nên cụ thể hơn, được hình dung ra.

Về phần nội dung của các ý niệm, luận văn cũng tìm thấy những cái riêng trong

thế giới ý niệm thể hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn, qua đó thể hiện những cảm thức riêng

của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi nhân sinh và tình yêu của con người.

Nói về cuộc đời, từ những ý niệm được khái quát: “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH

TRÌNH”, “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI”, “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ ”, “CUỘC ĐỜI LÀ

CÕI TẠM”, luận văn đưa ra những nhận định về cái nhìn của Trịnh Công Sơn đối với cuộc

đời: ông yêu mến và trân trọng cuộc đời, trân trọng cõi nhân sinh nhưng đồng thời trong tư

tưởng của ông ảnh hưởng của triết lý Phật giáo cho rằng cuộc sống con người trên cõi thế chỉ

là tạm bợ, chóng mất đi và mang tính bất định.

Còn về tình yêu, hơn 60 năm sống trên cõi đời, đến lúc mất đi, Trịnh Công Sơn

vẫn chỉ là kẻ lẻ loi trên đường tình. Với những ý niệm được khái quát: “TÌNH YÊU LÀ

CON NGƯỜI”, “TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH”, “TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ”,

“TÌNH YÊU LÀ HƯ VÔ”, “TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA

TRONG NĂM”, Trịnh Công Sơn đã nói lên những cảm nhận của mình về tình yêu: tình yêu

chính là nơi nương náu quyến rũ của con người ở cõi thế u buồn này. Nhưng vì tình yêu,

cũng như vạn vật, chỉ là tạm bợ nên tình yêu không phải là nơi nương náu vững vàng cho

mỗi người. Tình yêu tuyệt đẹp nhưng phù du, chóng đến chóng đi.

Ý niệm là một đối tượng của tư duy gắn liền với những cảm quan riêng của con

người khi nhìn về hiện thực khách quan. Bởi thế, bất cứ đối tượng nào của ẩn dụ ý niệm

được hình thành trong miền nguồn gắn với miền đích cũng có nguyên do của nó, cũng gắn

với ý thức và hoàn cảnh khách quan tác động vào nhận thức của cá nhân. Đi tìm hiểu về cuộc

đời Trịnh Công Sơn, chúng ta có thể khẳng định nguyên nhân sâu xa hình thành nên những ý

niệm của Trịnh Công Sơn về tình yêu và cuộc đời là từ thế giới quan phật giáo. Trịnh Công

Sơn đã sớm tiếp thu luật vô thường sinh-trụ-dị-diệt trong nhà chùa. Trong giáo lí của đạo

Phật cho rằng các sự vật hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn chuyển động

biến đổi (gọi là Vô thường Anitya) theo một chu trình: Thành- trụ- hoại- diệt. Với quan niệm

này, đạo Phật cho rằng không phải sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (chết) đi

mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết mà chết là điều kiện của

một sinh thành mới. Vì thế, sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật

hiện tượng, cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Trịnh Công Sơn cũng như quan niệm

của nhiều người đã tìm ra sự tương ứng giữa cuộc đời và tình yêu là cuộc hành trình, là vật

thể, là con người trong mối quan hệ với con người, với tự nhiên, là cõi tạm, là hư vô ảo

vọng nhưng ở Trịnh những đối tượng ấy được phủ lên màu sắc của Phật giáo. Chẳng hạn,

Trịnh Công Sơn không phải là người đầu tiên phát hiện ra ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC

HÀNH TRÌNH” mà đây là một ý niệm quen thuộc trong cách nghĩ của người Việt Nam nói

riêng và cả nhân loại nói chung. Thế Lữ trong “ Cây đàn muôn điệu” [20,31] cũng từng cho

mình là kẻ bộ hành phiêu lãng giữa trần gian này:

“Tôi là người bộ hành phiêu lãng

Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi:

Tìm cảm giác hay trong tiếng khóc câu cười.

Trong lúc gian lao, trong giờ sung sướng.

Khi phấn đấu cũng như hồi mơ tưởng.

Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm than,

Cảnh thương tâm, ghê gớm hay diệu dàng,

Cảnh rực rỡ, ái ân hay dữ dội…”.

Nhưng trong ca từ Trịnh Công Sơn, cái mục đích của cuộc hành trình là đi về

miền cát bụi. Đó là cái mới nhuốm màu sắc tôn giáo trong ca từ của ông; tình yêu cũng được

nhiều người cho là câu chuyện “hư vô ảo vọng” nhưng đến với Trịnh nó thấp thoáng vẻ đẹp

nhân từ, lung linh màu sắc cao thượng, tinh khiết; cả tình yêu và cuộc đời được người ta

đồng hóa với con người nhưng con người được dùng để đồng hóa với các đối tượng này

trong ca từ của Trịnh cũng mang vẻ buồn, cũng có số phận và đặc biệt là sẵn sàng ban

ơn…Qua phân tích ca từ của Trịnh Công Sơn, chúng ta đã đi sâu hơn vào tâm hồn, vào thế

giới tinh thần của người nghệ sĩ này. Có người đã cho rằng, tất cả những hình ảnh trong ca

từ Trịnh Công Sơn đều là những hình ảnh không có tính hiện thực mà dường như đó chỉ là

thế giới của ý niệm mà thôi. Và đúng như vậy, thế giới ý niệm ấy là thế giới tinh thần được

tạo nên từ chính cuộc đời, từ chính những trải nghiệm mà Trịnh Công Sơn đã đeo mang

trong cuộc sống. Vì vậy, việc tìm hiểu những dấu ấn tinh thần mà Trịnh Công Sơn đưa vào

trong các ca khúc của mình thông qua công cụ tri nhận của ngôn ngữ cũng chính là thao tác

tìm hiểu con người, cuộc đời của Trịnh Công Sơn và bối cảnh xã hội mà ông sống. Qua đó,

ta thêm hiểu và trân trọng thêm vốn sống, sự trải nghiệm, cái nhìn nhân văn của Trịnh Công

Sơn đối với tình yêu và cuộc đời: dù cuộc đời có khi mang nhiều “ nỗi khó sống” và tình yêu

có lúc “ruồng rẫy” đối với người nhạc sĩ này thì ông vẫn yêu mến, mong chờ và trân trọng nó

trong từng phút giây.Thấp thoáng trong những ý niệm đó, ta cũng tìm thấy những chân lý,

những quy luật về tình yêu, về đời người, về cõi nhân sinh này.

Ngôn ngữ học tri nhận là hướng nghiên cứu mới mẻ của ngôn ngữ học và hơn nữa

đi tìm hiểu những ý nghĩa sâu xa thuộc về thế giới tinh thần trong nhạc Trịnh thông qua ẩn

dụ tri nhận là vấn đề hết sức khó khăn. Bởi vì cái chiều sâu của ca từ trong các ca khúc của

Trịnh Công Sơn là vô cùng, nó chứa đựng những ý nghĩa tinh thần rất lớn khó có thể hiểu hết

những tầng nghĩa, những ám thị mà người nhạc sĩ sống nội tâm này gửi gắm vào những bài

ca của mình. Luận văn cũng chỉ dừng lại là một cuộc thể nghiệm vận dụng ngôn ngữ học tri

nhận vào tìm kiếm và phân tích các miền ý niệm trong ca từ Trịnh Công Sơn trên cơ sở vận

dụng ẩn dụ tri nhận và những thông tin về con người, cuộc đời của Trịnh cũng như những

bài viết, những công trình khoa học nghiên cứu về Trịnh Công Sơn, về sáng tác của ông dưới

nhiều góc độ, đặc biệt là dưới góc độ ngôn ngữ học. Với những hiểu biết còn non nớt về

ngôn ngữ học tri nhận, sự chưa thấu đáo trong việc tìm hiều các vấn đề liên quan đến đề tài

nghiên cứu, luận văn không tránh khỏi những sai sót trong quá trình phân tích, tìm hiểu, thu

thập tư liệu để triển khai đề tài này. Mong được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô và những

người nghiên cứu ngôn ngữ học cũng như nghiên cứu về Trịnh Công Sơn và ca từ của ông.

Về hướng mở rộng của đề tài, luận văn nhận thấy Trịnh Công Sơn có những cái

nhìn rất hay, rất lạ về thời gian, không gian, con người… thể hiện qua các ca khúc của ông.

Tuy nhiên giới hạn về dung lượng của một luận văn Thạc sĩ cũng như giới hạn về thời gian

đã không cho phép luận văn mở rộng nghiên cứu sang những ẩn dụ ý niệm về thời gian,

không gian, con người…trong ca từ Trịnh Công Sơn. Hy vọng của luận văn sẽ được tiếp tục

công việc này trong những công trình nghiên cứu ngôn ngữ trong tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Trần Văn Cơ (2009), Khảo luận ẩn dụ tri nhận, Nxb Lao Động Xã hội.

2.Trần Văn Cơ (2008), “ Nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của ngôn ngữ

học tri nhận”, Ngôn ngữ (số 5), 26-42.

3.Trịnh Cung, Nguyễn Quốc Thái ( 2001), Trịnh Công Sơn - Cuộc đời, âm

nhạc, thơ, hội họa & suy tưởng, Nxb Văn nghiệp,Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Nguyễn Đức Dân (2009), “Tri nhận thời gian trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 12), 1-16.

5.Võ Thị Dung (2003), Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận,

Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Ferdinand De Sausure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

7. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2009), “ Biểu tượng “nắng” trong ca từ Trịnh Công Sơn”, Ngôn

ngữ và đời sống (số 9), 32-38.

8. Hồng Hạnh (2008), “Bước đầu khảo sát mối quan hệ giữa ẩn dụ và cấu trúc hình thức

của thành ngữ”, Ngôn ngữ (số 11), 57-63.

9. Lê Thị Tuyết Hạnh (2003), “Tính dung hợp triết lí trong ngôn ngữ ca từ Trịnh

Công Sơn”, Ngôn ngữ và đời sống (số 12), 24.

10. Nguyễn Ḥòa (2007), “ Sự tri nhận và biểu đạt thời gian trong tiếng Việt qua các ẩn dụ

không gian”, Ngôn ngữ (số 7), 1-8.

11. Phan Thế Hưng (2009), Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, Luận án Tiến sĩ,

Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

12. Đinh Trọng Lạc (2002), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục Hà

Nội.

13. Lí Lan (2009), “Biểu trưng tình cảm bằng các bộ phận cơ thể từ góc nhìn tri nhận của

người bản ngữ tiếng Anh và tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 12), 25-37.

14. Lí Lan ( 2009), “Về các ý niệm và phạm trù tình cảm cơ bản của con người

(Trên dẫn liệu tiếng Anh)”, Ngôn ngữ và đời sống (số 9), 21-26.

15. Nguyễn Lai (2009), Suy nghĩ về ẩn dụ khái niệm trong thế giới thơ ca từ góc nhìn

của ngôn ngữ học tri nhận, Ngôn ngữ (số 10), 1-11.

16. Lakoff G. and Johnson M.(1980), Metaphor we live by, Chicago, London. 17. Lê

Hồng Linh (2009), “Đặc trưng văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ (Một số liên hệ với

tiếng Việt và tiếng Anh )”, Ngôn ngữ và đời sống (số 5), 22-28.

18. Nguyễn Thế Lịch (2009), “Yếu tố cơ sở so sánh trong cấu trúc so sánh nghệ thuật”, Ngôn

ngữ (số 3), 1-14.

19. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thượng), Nxb Văn

học.

20. Nhiều tác giả (1999), Thơ mới (1932-1945), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

21. Hoàng Phê (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

22. Bùi Vĩnh Phúc (2008), Trịnh Công Sơn- Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật, Nxb

Văn hóa Sài G̣òn.

23. Nguyễn Quang Sáng (1990), Paris – Tiếng hát Trịnh Công Sơn, Nxb Tác phẩm

mới.

24. Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến (sưu tầm và biên soạn

2001a) Trịnh Công Sơn - Một người thơ ca một cõi đi về, Nxb Âm nhạc và

Trung tâm Văn hóa Đông Tây, Hà Nội.

25. Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến (2001b), Trịnh Công

Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Nxb Thuận Hóa.

26. Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến (2001c), Trịnh Công Sơn

- Người hát rong qua nhiều thế hệ, Nxb Trẻ.

27. Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến (2001d), Trịnh Công

Sơn - Rơi lệ ru người, Nxb Phụ nữ (Qúy II).

28. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận- Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn

tiếng Việt, Nxb Phương Đông.

29. Hoàng Tá Thích (2007) Như những dòng sông, Nxb Văn nghệ.

30. Bùi Thị Minh Thùy (2007), Đặc điểm phong cách ngôn ngữ trong ca từ của

Trịnh Công Sơn, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

31. Nguyễn Thị Thanh Thúy (2008) Vết chân dã Tràng, Luận văn thạc sĩ, Đại học

Quy Nhơn.

32. Trần Bá Tiến (2009), “Ẩn dụ về sự tức giận và niềm vui trong tiếng Anh và tiếng Việt”,

Ngôn ngữ (số 7), 22-35.

33. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2005), Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử

bé , NxbTrẻ.

34. Phạm Minh Tiến (2008), “Văn hóa thể hiện qua hình ảnh tôn và con người trong thành

ngữ so sánh tiếng Hán và tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 7), 66-73. 35. Nguyễn Đức Tồn

(2008), “Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong thành ngữ (kì I)”,

Ngôn ngữ (số 12), 20-27.

36. Nguyễn Đức Tồn ( 2009), “ Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong

thành ngữ (Tiếp theo và hết)”, Ngôn ngữ (số 1), 12-24.

37. Lưu Trọng Tuấn (2009), “Ẩn dụ tình yêu trong thơ ca”, Ngôn ngữ (số 10), 23-29.

38. Lê Đình Tường (2008), “Thử phân tích một bài ca dao hài hước từ bình diện ngôn ngữ

học tri nhận”, Ngôn ngữ (số 9), 51-57.

39. Nguyễn Ngọc Vũ ( 2008), “Hoán dụ ý niệm “Bộ phận cơ thể người biểu trưng

cho sự chú ý” trong thành ngữ chứa yếu tố “mắt”, “mũi” và “tai” tiếng Anh và

tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 9), 17-23.

40. Nguyễn Đắc Xuân (2003), Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế, NxbVăn học.

41. Bửu Ý (2003), Trịnh Công Sơn một nhạc sĩ thiên tài, NxbTrẻ.

42 .Yoshii Michiko (1991) Những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, Luận

văn cao học, Đại học Paris, Pháp (Bản dịch tiếng Việt)

4TUhttp://www.nhantrachoc.net.vnU4T

Ngoài ra luận văn còn tham khảo ở một số trang web sau:

4TUhttp://www.petalia.org/lovedland/trinhcongson.htmU4T

1.

4TUhttp://www.tcs-home.orgU4T

2.

3.

Phụ lục

NHỮNG CA KHÚC ĐƯỢC DÙNG ĐỂ KHẢO SÁT

1.4TUAi ngoài cánh cửaU4T

?

2.4TUBài ca dành cho những xác ngườiU4T

1968

3.4TUBay đi thầm lặngU4T

1972

4.4TUBên đời hiu quạnhU4T

1970-1971

5.4TUBến sôngU4T

1959

6.4TUBiển nghìn thu ở lạiU4T

1999

7.4TUBiển nhớU4T

1962

8.4TUBiển sángU4T

1981?

9.4TUBiết đâu nguồn cộiU4T

1972?

10.4TUBốn mùa thay lá U4T

1981

11.4TUBống bồng ơiU4T

1993

12.4TUBống không là bốngU4T

1995

13.4TUBuồn từng phút giâyU4T

1970-1971

14.4TUCa dao mẹU4T

1965

15.4TUCánh chim cô đơnU4T

1980

16.4TUCánh đồng hoà bìnhU4T

1968

17.4TUCát bụiU4T

1965

18.4TUChỉ có ta trong một đờiU4T

1970

19.4TUChiếc lá thu phaiU4T

1973

20.4TUChiều một mình qua phố U4T

1961

21.4TUChiều trên quê hương tôiU4T

1980

22.4TUChìm dưới cơn mưaU4T

1974

Tên bài hát Năm sáng tác

23.4TUChính chúng ta phải nóiU4T

1969

24.4TUCho đời chút ơnU4T

1993

25.4TUCho một người nằm xuốngU4T

1968

26.4TUChờ nhìn quê hương sáng chóiU4T

1967

27.4TUCho quê hương mỉm cườiU4T

1967

28.4TUChưa mất niềm tinU4T

1968

29.4TUChưa mòn giấc mơU4T

1969

30.4TUChuyện đoá quỳnh hươngU4T

1982

31.4TUCó duyên không nợU4T

1998

32.4TUCó một dòng sông đã qua đờiU4T

1966?

33.4TUCó một ngày như thếU4T

1994

34.4TUCó nghe đời nghiêngU4T

1973-74

35.4TUCó những con đườngU4T

1973-74

36.4TUCỏ xót xa đưaU4T

1969

37.4TUCòn ai với aiU4T

1993

38.4TUCòn có bao ngàyU4T

1969

39.4TUCon đường mùa xuânU4T

1976

40.4TUCon mắt còn lạiU4T

1992

41.4TUCòn thấy mặt ngườiU4T

1970

42.4TUCòn tuổi nào cho emU4T

1964

43.4TUCúi xuống thật gầnU4T

1966

44.4TUCũng sẽ chìm trôiU4T

1973

45.4TUCuối cùng cho một tình yêuU4T

1958

46.4TUDã tràng caU4T

1962

47.4TUDân ta vẫn sốngU4T

1968

48.4TUDấu chân địa đàngU4T

1962

49.4TUDiễm xưaU4T

1960

50.4TUDu mụcU4T

1965

51.4TUDựng lại người dựng lại nhàU4T

1968

52.4TUĐại bác ru đêmU4T

1967

53.4TUĐể gió cuốn điU4T

1971

54.4TUĐêmU4T

?

55.4TUĐêm bây giờ đêm maiU4T

1967

56.4TUĐêm thấy ta là thác đổ U4T

1971

57.4TUĐi mãi trên đườngU4T

1999

58.4TUĐi tìm quê hươngU4T

1967

59.4TUĐóa hoa vô thườngU4T

1972

60.4TUĐoản khúc thu Hà NộiU4T

1995

61.4TUĐời cho ta thếU4T

1973

62.4TUĐợi có một ngàyU4T

1972

63.4TUĐời gọi em biết bao lầnU4T

1980

64.4TUĐôi mắt nào mở raU4T

1968

65.4TUĐời sống không già vì có chúng emU4T

1991

66.4TUĐốm lửa hồngU4T

2001

67.4TUĐồng dao 2000U4T

2000

68.4TUĐồng dao hoà bìnhU4T

1968

69.4TUĐừng mong ai, đừng nghi ngạiU4T

1969

70.4TUĐường xa vạn dặmU4T

1992

71.4TUEm còn nhớ hay em đã quênU4T

1980

72.4TUEm đã cho tôi bầu trờiU4T

1970

73.4TUEm đến cùng mùa xuânU4T

1991

74.4TUEm đến từ nghìn xưaU4T

1980

75.4TUEm đi bỏ lại con đườngU4T

1995

76.4TUEm đi trong chiềuU4T

1969

77.4TUEm hãy ngủ điU4T

1970

78.4TUEm là hoa hồng nhỏ U4T

1982-1984

79.4TUEm ở nông trường em ra biên giớiU4T

1981

80.4TUGần như niềm tuyệt vọngU4T

1973

1965

81.4TUGia tài của mẹU4T

1973-1974

82.4TUGiọt lệ thiên thu U4T

1990

83.4TUGiọt nước cành senU4T

1964

84.4TUGọi đời lên mauU4T

1963

85.4TUGọi tên bốn mùaU4T

1969-1970

86.4TUGóp lá mùa xuânU4T

1961

87.4TUHạ trắngU4T

1995

88.4TUHai mươi mùa nắng lạU4T

1961

89.4TUHành caU4T

1962

90.4TUHành hương trên đồi caoU4T

2001

91.4TUHạt điều khăn điềuU4T

1968

92.4TUHát trên những xác ngườiU4T

1967

93.4TUHãy cố nhưU4T

1969

94.4TUHãy cứ vui như mọi ngàyU4T

1968

95.4TUHãy đi cùng nhauU4T

1972

96.4TUHãy khóc đi emU4T

1972

97.4TUHãy nhìn lạiU4T

1967

98.4TUHãy nói giùm tôiU4T

1970

99.4TUHãy yêu nhau điU4T

1981

100.4TUHoa vàng mấy độ U4T

1986

101.4TUHoa xuân caU4T

1972

102.4TUHòa bình là cơm áo U4T

1993

103.4TUHôm nay tôi ngheU4T

104.4TUHuế Sài Gòn Hà nộiU4T

1969

105. 4TUHuyền thoại mẹU4T

1985

106.4TUKhăn quàng thắp sáng bình minhU4T

1991

107.4TUKhói trời mênh môngU4T

1972

108.4TULại gần với nhauU4T

1965

109.4TULặng lẽ nơi nàyU4T

1987

110.4TULời buồn thánhU4T

1959

111.4TULời của dòng sôngU4T

1964

112.4TULời mẹ ruU4T

1964

113. 4TULời ở phố vềU4T

1972

114.4TULời ru đêmU4T

1972

115. 4TULời thiên thu gọiU4T

1972

116. 4TUMẹ đi vắngU4T

1982

117.4TUMẹ của anhU4T

?

118.4TUMênh mông Đồng ThápU4T

1986

119. 4TUMôi hồng đàoU4T

1973-1974

120. 4TUMỗi ngày tôi chọn một niềm vuiU4T

1977

121. 4TUMột buổi sáng mùa xuânU4T

1969

122.4TUMột cõi đi vềU4T

1974

123. 4TUMột lần thoáng cóU4T

1972

124.4TUMột ngày như mọi ngàyU4T

1969

125. 4TUMột ngày vinh quang một ngày tuyệt vọngU4T

1972

126. 4TUMùa áo quanU4T

1972

127.4TUMùa hè đếnU4T

1991

128. 4TUMùa phục hồiU4T

1973

129.4TUMưa hồngU4T

1964

130. 4TUMưa mùa hạU4T

1990

131. 4TUMừng sinh nhật U4T

?

132.4TUMuôn trùng biển ơiU4T

1996

133. 4TUNắng thuỷ tinhU4T

1963

134. 4TUNày em có nhớU4T

1972

135. 4TUNgậm ngùi riêng taU4T

1973

136.4TUNgẫu nhiênU4T

1972

137.4TUNgày dài trên quê hươngU4T

1967

138.4TUNgày mai đây bình yênU4T

1968

139. 4TUNgày nay không còn béU4T

1993

140.4TUNgày vềU4T

1969-1970

141.4TUNghe những tàn phaiU4T

1972

142.4TUNghe tiếng muôn trùngU4T

1972

143.4TUNgọn lửaU4T

1971

144.4TUNgọn lửa vĩnh cửu ở MatxcơvaU4T

1985

145. 4TUNgủ đi conU4T

1967

146.4TUNgụ ngôn của mùa ĐôngU4T

1967

147.4TUNgười con gái Việt NamU4T

1965

148.4TUNgười già em béU4T

1965

149.4TUNgười mẹ Ô LýU4T

1971-1972

150.4TUNgười về bỗng nhớU4T

1971

151.4TUNguyệt caU4T

1972

152.4TUNhân danh Việt NamU4T

1970

153.4TUNhìn những mùa thu điU4T

1961

154.4TUNhớ mùa thu Hà nộiU4T

1984

155. 4TUNhư cánh vạc bayU4T

1964?

156. 4TUNhư chim ưu phiềnU4T

1993

157.4TUNhư hòn bi xanhU4T

1980

158.4TUNhư một lời chia tayU4T

1981?

159.4TUNhư một vết thươngU4T

1973-1974

160.4TUNhư tiếng thở dàiU4T

1973-1974

161. 4TUNhững ai còn là Việt namU4T

1969

162.4TUNhững con mắt trần gianU4T

1965

163.4TUNhững giọt máu trổ bôngU4T

1969

164.4TUNhững giọt mưa khuyaU4T

1959

165. 4TUNhưng hôm nayU4T

1967

166. 4TUNíu tay nghìn trùngU4T

1973-1974

167. 4TUNối vòng tay lớnU4T

1968

168. 4TUNước mắt cho Quê hươngU4T

1965

169. 4TUỞ trọU4T

1973

170.4TUÔng Tiên vuiU4T

1963

171.4TUPhôi phaU4T

1960

172. 4TUPhúc âm buồnU4T

1965

173. 4TUQuê hươngU4T

?

174. 4TUQuê hương nặng đauU4T

1971

175.4TUQuỳnh hươngU4T

1974

176. 4TURa đồng giữa ngọ U4T

1973-1974

177.4TURồi như đá ngây ngô U4T

1970-1972

178. 4TURơi lệ ru ngườiU4T

1976?

179. 4TURu đời đã mất U4T

1972

180. 4TURu đời đi nhéU4T

1973-1974

181. 4TURu emU4T

1965

182. 4TURu em từng ngón xuân nồngU4T

1964?

183. 4TURu ta ngậm ngùiU4T

1970-1971

184.4TURu tìnhU4T

1993

185. 4TURừng xanh xanh mãiU4T

1992

186. 4TURừng xưa đã khépU4T

1972

187.4TUSao mắt mẹ chưa vuiU4T

1968

188. 4TUSẽ còn aiU4T

1972

189.4TUSóng về đâuU4T

1995

190.4TUTa đi dựng cờU4T

1969

191.4TUTạ ơnU4T

1964

192. 4TUTa phải thấy mặt trờiU4T

1969

193. 4TUTa quyết phải sốngU4T

1969

194.4TUTa thấy gì đêm nayU4T

1968

195.4TUTết suối hồngU4T

1991

196.4TUThành phố mùa xuânU4T

1982

197.4TUThanh quan caU4T

1970

198.4TUThiên sứ bâng khuângU4T

1999

199.4TUThuở bống là ngườiU4T

1998

200.4TUThương một ngườiU4T

1959

201.4TUTiến thoái lưỡng nanU4T

1998

202.4TUTiếng ve gọi hèU4T

1961

203.4TUTình ca của người mất tríU4T

1967

204.4TUTình khúc Ơ-BaiU4T

1988

205.4TUTình nhớU4T

1966?

206. 4TUTình sầuU4T

1965

207. 4TUTình xaU4T

1966-1967

208. 4TUTình xót xa vừaU4T

1970

209.4TUTình yêu tìm thấyU4T

1982

210. 4TUTôi biết tôi yêuU4T

1972

211.4TUTôi đã mất U4T

1970

212.4TUTôi đang lắng ngheU4T

1981

213.4TUTôi ơi đừng tuyệt vọngU4T

1992

214.4TUTôi ru em ngủU4T

1967

215.4TUTôi sẽ đi thămU4T

1967

216.4TUTôi sẽ nhớU4T

1980

217.4TUTrả lại emU4T

1980

218.4TUTrong mỗi đời riêngU4T

1980?

218.4TUTrong nỗi đau tình cờU4T

1981

219.4TUTự tình khúcU4T

1970

220.4TUTừng ngày quaU4T

1972

221.4TUTuổi đá buồnU4T

1961

222.4TUTuổi đời mênh môngU4T

1982

223.4TUTuổi trẻ Việt NamU4T

1969

224.4TUTưởng rằng đã quênU4T

1972

225.4TUƯớc mơ về dòng điệnU4T

1980

226.4TUƯớt miU4T

1958

227.4TUVẫn có em bên đờiU4T

1986

228.4TUVẫn nhớ cuộc đờiU4T

1972

229.4TUVàng phai trước ngõ U4T

1973-1974

230.4TUVề giữa Trị AnU4T

1985

231.4TUVề thăm mái trường xưaU4T

1990?

232.4TUVề trong suối nguồnU4T

1986

233.4TUVết lăn trầmU4T

1963

234.4TUVì tôi cần thấy em yêu đờiU4T

1980

235.4TUViệt nam ơi hãy vùng lênU4T

1969

236. 4TUVườn xưaU4T

1993

237. 4TUXa dấu mặt trờiU4T

1965?

238.4TUXác ta xác thùU4T

1972

239.4TUXanh lòng phai tànU4T

1972

240.4TUXin cho tôiU4T

1965

241.4TUXin mặt trời ngủ yênU4T

1964

242.4TUXin trả nợ ngườiU4T

1993

243.4TUYêu dấu tan theo U4T

1972