BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------------
TRẦN THỊ MỸ LIÊN
AÅN DUÏ TRONG CA TÖØ TRÒNH COÂNG SÔN
DÖÔÙI GOÙC NHÌN NGOÂN NGÖÕ HOÏC TRI NHAÄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-----------------------------------------
TRẦN THỊ MỸ LIÊN
AÅN DUÏ TRONG CA TÖØ TRÒNH COÂNG SÔN
DÖÔÙI GOÙC NHÌN NGOÂN NGÖÕ HOÏC TRI NHAÄN
Chuyeân ngaønh: Ngoân ngöõ hoïc
Maõ soá: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI TRI ÂN
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đối với sự hướng dẫn tận
tình và hỗ trợ những tài liệu quý giá về Ngôn ngữ học tri nhận của PGS.TS Dư Ngọc
Ngân;
Xin cảm ơn GS.TS Lý Toàn Thắng, người đã nhiệt tình giảng giải và động viên
tác giả luận văn trong quá trình triển khai đề tài;
Xin mãi biết ơn sự giảng dạy nhiệt tình của tất cả thầy cô đã giúp tác giả luận
văn hoàn thành các chuyên ngành trong chương trình cao học;
Xin chân thành cảm ơn Phòng Sau Đại học, Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh, với tư cách là đơn vị đào tạo và tổ chức để luận văn
được bảo vệ;
Xin khắc ghi sự động viên tinh thần của tất cả bạn bè và người thân trong thời gian
học tập, tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu của tác giả luận văn.
4TLỜI TRI ÂN4T ................................................................................................................................... 3
4TMỤC LỤC4T ...................................................................................................................................... 4
4TMỞ ĐẦU4T ......................................................................................................................................... 6
4T0.1.Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 4T ........................................................................................... 6
4T0.2.Lịch sử nghiên cứu4T ............................................................................................................................ 7
4T0.3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu4T ................................................................................... 10
4T0.4. Phương pháp nghiên cứu4T ................................................................................................................. 10
4T0.5. Ý nghĩa của đề tài4T ............................................................................................................................ 11
4T0.6. Cấu trúc của luận văn4T ...................................................................................................................... 12
4TChương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT4T ................................................................................................. 13
4T1.1 Vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận4T ..................................................................................................... 13
4T1.1.1.Thế nào là Ngôn ngữ học tri nhận?4T ........................................................................................... 13
4T1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận4T .................................................. 15
4T1.2Ẩn dụ tri nhận4T ................................................................................................................................... 16
4T1.2.1. Khái niệm ẩn dụ tri nhận4T .......................................................................................................... 16
4T1.2.2. Đặc điểm của ẩn dụ ý niệm4T ...................................................................................................... 19
4T1.2.3. Các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến ẩn dụ tri nhận4T .......................................................... 23
4T1.2.3.1. Ý niệm, phạm trù4T .............................................................................................................. 23
4T1.2.3.2. Khung/ miền/ lĩnh vực4T ...................................................................................................... 24
4T1.2.3.3. Điển dạng4T ......................................................................................................................... 24
4T1.2.4. Các loại ẩn dụ tri nhận cơ bản4T .................................................................................................. 25
4T1.2.4.1. Ẩn dụ cấu trúc (Structural metaphors)4T .............................................................................. 25
4T1.2.4.2. Ẩn dụ bản thể (Ontological metaphor)4T ............................................................................. 25
4T1.2.4.3. Ẩn dụ định hướng (Orientational metaphor)4T ..................................................................... 26
4TChương 2: ẨN DỤ Ý NIỆM CUỘC ĐỜI TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN4T ..................... 28
4T2.1.Cuộc đời là cuộc hành trình4T .............................................................................................................. 28
4T2.2.Cuộc đời là vật thể4T............................................................................................................................ 34
MỤC LỤC
4T2.3.Cuộc đời là con người4T ...................................................................................................................... 41
4T2.4.Cuộc đời là cõi tạm4T .......................................................................................................................... 46
4TChương 3: ẨN DỤ Ý NIỆM TÌNH YÊU TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN4T ..................... 53
4T3.1.Tình yêu là vật thể4T ............................................................................................................................ 53
4T3.2.Tình yêu là cuộc hành trình4T .............................................................................................................. 60
4T3.3. Tình yêu là con người. 4T ..................................................................................................................... 64
4T3.4.Tình yêu là hư vô 4T ............................................................................................................................. 68
4T3.5.Tình yêu là sự chuyển động của các mùa trong năm4T ......................................................................... 72
4TKẾT LUẬN4T ................................................................................................................................... 76
4TTÀI LIỆU THAM KHẢO4T ............................................................................................................ 80
4TPhụ lục4T .......................................................................................................................................... 83
MỞ ĐẦU
0.1.Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Nói đến ngôn ngữ ca từ Trịnh Công Sơn là người ta nghĩ đến một hiện tượng đặc
biệt trong nền văn hóa Việt Nam thế kỷ XX. Có người đã đánh giá ngôn ngữ ca từ Trịnh
Công Sơn “Đã làm một công cuộc thể nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới
của ngôn ngữ với những kết hợp từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những tri
giác dày dặn nhiều tầng, đồng thời làm sáng giá những sự vật thông thường và tầm
thường…”[9, tr.24]. Để chứng minh cho luận điểm đó, nhiều nhà nghiên cứu, bình luận đã
khám phá ca từ Trịnh Công Sơn từ nhiều góc nhìn khác nhau. Mỗi đường hướng nghiên cứu
là một công cụ để tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong ca từ của người nhạc sĩ này. Đi vào tình ý
của những khúc ca, người ta thấy rằng phần ca từ của ông có một “chiều sâu tư duy” và nó
xứng đáng được xem như là những bài thơ vì có một độ sâu riêng. Như vậy, nghiên cứu ca
từ Trịnh Công Sơn phải nghiên cứu cả vấn đề tư duy bên cạnh vấn đề cấu trúc hình thức
ngôn ngữ mới có thể tìm thấy cái “độ sâu” ấy. Với lí do đó, có thể nói, cách tiếp cận theo
hướng ngôn ngữ học tri nhận là công cụ hiệu quả để khám phá cái “chiều sâu tư duy” trong
phần lời ca của nhạc Trịnh. Và hơn hết, với ẩn dụ tri nhận, người ta có thể đi vào bản chất
năng động tiêu biểu nhất của thế giới ẩn dụ. Ở đó, ẩn dụ được mở rộng về mặt biểu đạt các
hình tượng làm cho cấu trúc ngôn ngữ luôn được mở rộng theo chiều kích năng động của tư
duy chứ không bị khuôn cứng trong các mô hình. Vì vậy, ẩn dụ tri nhận, như đã nói là một
công cụ hữu hiệu để đi vào cái vũ trụ bí ẩn, cái thế giới tinh thần mờ khuất để khám phá nơi
đó “cái nhìn thế giới” vừa gần gũi, vừa xa lạ của Trịnh Công Sơn so với cái nền tri nhận
chung của dân tộc, của nhân loại. Đó là lí do mà luận văn triển khai đề tài “Ẩn dụ trong ca
từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học tri nhận” với hi vọng được góp thêm một
phần nhỏ vào việc tìm hiểu về cái nhìn, sự phân tích và giải thích của người nghệ sĩ này về
cuộc đời, về thế giới bằng một công cụ mới của khoa học ngôn ngữ –ẩn dụ tri nhận.
Triển khai đề tài “Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học
tri nhận”, luận văn nhằm mục đích chính là vận dụng những lí thuyết về ẩn dụ tri nhận để
tìm hiểu những ý niệm về tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn, từ đó đưa ra
những nhận định về đặc điểm ngôn ngữ và tư duy của Trịnh Công Sơn thông qua ca từ của
ông.
0.2.Lịch sử nghiên cứu
Đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về Trịnh Công Sơn. Một số bài viết
chủ yếu chỉ đề cập đến con người, cuộc đời, gia đình của Trịnh Công Sơn; một số bài viết
khác là những công trình nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn theo hướng văn học, ngôn ngữ
học, âm nhạc. Có những bài là lời nhận xét chung chung và có những bài trở là những công
trình nghiên cứu rất sâu. Dù là bàn đến Trịnh Công Sơn ở khía cạnh nào, phương diện nào
vào thời điểm nào, đa phần các bài viết về ông thể hiện thái độ ca ngợi, thán phục về tài năng
và nhân cách của người nhạc sĩ này. Với tư cách là một con người,mà mỗi người là một hạt
bụi giữa nhân gian thì Trịnh Công Sơn được người đời ví như “cát bụi lộng lẫy”. Trong quan
hệ với gia đình, ông là người con hiếu thảo, người anh có trách nhiệm. Trong quan hệ với
bạn bè, ông là người bạn chân thành. Trong quan hệ với xã hội, với nghệ thuật và với cuộc
đời này, ông là ân nhân, đã mang đến những tác phẩm âm nhạc bất hủ ca ngợi con người, ca
ngợi cuộc sống, kêu gọi con người sống cho đẹp, cho hay; kêu gọi mọi người hãy đến với
nhau và yêu thương nhau, cùng nhau chống lại chiến tranh, chống lại cái xấu, cái ác…Với tư
cách là một người nghệ sĩ, Trịnh được xem là “người hát rong qua nhiều thế hệ”. Ông là một
“người hát rong” trong cuộc đời để chở những ca khúc của mình đến trái tim của mọi người
để con người gần nhau, yêu thương nhau và đến với cuộc đời , bằng trái tim bao dung đẹp
đẽ. Những ca khúc ấy vượt thời gian trở thành “những bài ca không năm tháng” tồn tại mãi
với cuộc đời này dù cho chủ nhân của những khúc ca ấy đã trở thành người thiên cổ.
Cụ thể là, giải thích về sự nổi tiếng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, dưới nhiều góc
độ khác nhau : âm nhạc, ngôn ngữ học, văn học, nhân học, xã hội học…, người ta đã viết rất
nhiều về những đề tài mang những nội dung như: ca từ đầy chất thơ, cái hay cái lạ trong ca
từ Trịnh Công Sơn, tính triết học, tính thiền trong ca từ Trịnh Công Sơn, những biểu tượng
ngôn ngữ đặc biệt trong ca từ của ông, con người thơ ca của Trịnh…. Tất cả những điều đó
được tập hợp lại trong những cuốn sách, bài viết, công trình khoa học như:
Tập thể các tác giả Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến đã sưu
tầm và biên soạn cuốn sách Trịnh Công Sơn - Một người thơ ca một cõi đi về và được xuất
bản bởi Nhà xuất bản Âm nhạc và Trung tâm Văn hóa Đông Tây, Hà Nội ngay khi Trịnh
Công Sơn mất (2001). Tiếp đó, các tác giả này tiếp tục cho xuất bản liên tục ba cuốn nữa là
Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ và
Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người cũng vào năm 2001.
Những người thân, bạn bè của Trịnh Công Sơn cũng sưu tầm và thể hiện những
tình cảm, suy nghĩ của mình về con người, cuộc đời và ca từ của Trịnh Công Sơn, có thể kể
đến là các tác giả: Trịnh Cung, Nguyễn Quốc Thái với cuốn sách Trịnh Công Sơn - Cuộc
đời, âm nhạc, thơ, hội họa & suy tưởng (năm 2001), Bửu Ý với Trịnh Công Sơn một nhạc sĩ
thiên tài (năm 2003), Nguyễn Đắc Xuân với Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế (năm
2003), Hoàng Phủ Ngọc Tường với Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử bé (năm
2005), Hoàng Tá Thích với Như những dòng sông (2007), Bùi Vĩnh Phúc với Trịnh Công
Sơn- Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (năm 2008). Và còn có những luận văn nghiên
cứu về nhạc Trịnh, đáng chú ý là có cả những công trình nghiên cứu của học viên nước
ngoài như luận văn cao học của tác giả Yoshii Michiko năm 1991 với đề tài Những bài hát
phản chiến của Trịnh Công Sơn( tại Đại học Paris). Ở Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh Thúy
với công trình luận văn Thạc sĩ tốt nghiệp tại Đại học Quy Nhơn với đề tài mang tên Vết
chân Dã Tràng cũng là công trình nghiên cứu công phu về con người, cuộc đời của Trịnh
Công Sơn …
Ngoài ra còn có các bài viết trên các trang web, bài báo, tạp chí của nhiều người
bàn về Trịnh Công Sơn và ca khúc của ông. Trước năm 1975 có thể kể đến là các bài viết
của Lê Trương trong Phong trào da vàng ca (Trước 1975), của Tạ Tỵ trong Trịnh Công
Sơn (Trước 1975), của Tô Thùy Yên trong Huyền thoại về con người (Trước 1975). Đặc
biệt, từ sau ngày Trịnh Công Sơn mất, số lượng các bài viết tăng lên rất nhiều, đa số là mang
nội dung ca ngợi tài năng và con người của Trịnh Công Sơn, chẳng hạn, Hà Vũ Trọng có bài
Chiêm ngắm đóa hoa vô thường in trên Tạp chí Hợp Lưu, Hoa kỳ năm 2001, Trần Hữu
Thục có bài Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn trên Tạp chí Văn học California, Hoa Kỳ
năm 2001. Ngoài ra còn có những bài viết, bài phát biểu của nhạc sĩ Thanh Tùng, nhạc sĩ
Nguyễn Văn Hiên, Ca sĩ Khánh Ly….trên các phương tiện thông tin.
Riêng dưới góc độ ngôn ngữ học, mà đặc biệt là tính ẩn dụ trừu tượng mang đến sự
hấp dẫn trong ca từ Trịnh Công Sơn đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu một
cách sâu sắc, công phu. Trước hết, có thể kể đến là nhận xét của Hoàng Tá Thích :
“Ngoài hình ảnh phong phú, ca từ Trịnh Công Sơn còn mang nhiều tính ẩn dụ đôi khi làm
người nghe khó hiểu, mà chính tác giả cũng không thể nào giải thích một cách đơn giản
những suy nghĩ của mình đã chuyển tải sang ngôn ngữ âm nhạc (Tương tự như một họa sĩ vẽ
tranh trừu tượng đôi khi cũng khó thể giải thích những ý tưởng rất… trừu tượng của mình
thể hiện trên tác phẩm hội họa)”[29, tr.3]
Hay như đánh giá của tác giả Bùi Vĩnh Phúc trong một cuộc phỏng vấn :
“Ca từ của Trịnh Công Sơn đã làm mới ngôn ngữ Việt Nam và đưa ra những hình
ảnh đẹp một cách rất bi thiết pha trộn với nét kỳ ảo. Tất cả những điều đó tạo nên một thế
giới riêng biệt, một thế giới chưa bị làm mòn đi bởi sự nhàm chán, sự lặp lại. Và điều ấy tạo
nên sự thu hút.” [http://www.tcs-home.org]
Còn Trịnh Chu thì khẳng định:
“Ở Nguyễn Du, tiếng Việt chỉ đẹp bởi sự chính xác, mang tính triết lý cao, và xem
ra cái “mỹ” ở đây chỉ là cái “mỹ” của hiện thực. Còn cái “đẹp” của Trịnh Công Sơn lại là
cái “đẹp” bảng lãng, sương khói của siêu thực, ấn tượng, bởi vì ông có khả năng tạo nên độ
bóng của ngôn từ. Sự vật nào được Trịnh Công Sơn đụng đến cũng bớt thật đi, và được
khoác lên một thứ ánh sáng mới, đủ sức bước ra sân khấu của ngôn từ với vẻ mặt trang
trọng…”. [http://www.tcs-home.org].
Bửu Ý cũng cho rằng :
“Lời ca của Trịnh Công Sơn đầy ắp biện pháp tu từ đủ loại: nhân hóa, tỷ dụ, hoán
dụ, phúng dụ, biểu tượng…Trong đó có hai biện pháp trở đi trở lại nhiều và đặc biệt giúp
tăng thêm tính thi ca cho bài hát: sự láy lại và ẩn dụ…”[41]
Ngoài ra, ca từ Trịnh Công Sơn còn trở thành những đề tài nghiên cứu khoa học
của nhiều sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, học viên thuộc chuyên ngành Ngôn
ngữ học, như công trình nghiên cứu về “Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ Trịnh Công Sơn”
của Nguyễn Thị Bích Hạnh, một luận văn cao học đượ in thành sách năm 2009. Công trình
này đã có những phát hiện và nhận xét sâu sắc về các hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng
như: nắng, núi, ngựa, khu vườn…Bên cạnh đó là luận văn của Bùi Thị Minh Thùy “Đặc
điểm phong cách ngôn ngữ trong ca từ Trịnh Công Sơn” (Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn, năm 2007) cũng mang đến cho người đọc những phát hiện về cái lạ, cái hay
trong việc sử dụng từ ngữ, đặc biệt là lớp từ láy và những kết hợp bất thưởng trong ngôn ngữ
dùng để sáng tác ca khúc của Trịnh….Theo hướng ngôn ngữ học tri nhận, luận văn cao học
của Nguyễn Thị Thanh Huyền (Trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn năm 2009) với
đề tài “ Ẩn dụ tri nhận - Mô hình ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn” cũng đã
vận dụng ẩn dụ cấu trúc- một trong ba loại ẩn dụ tri nhận cơ bản vào việc nghiên cứu ca từ
Trịnh Công Sơn. Luận văn này triển khai hai mô hình ý niệm “ĐỜI NGƯỜI LÀ ĐÓA HOA
VÔ THƯỜNG” và “ CUỘC ĐỜI LÀ CÕI ĐI VỀ” dựa trên ý nghĩa của hai bài hát “Đóa hoa
vô thường” và “Một cõi đi về” của Trịnh Công Sơn. …Tuy mỗi công trình nghiên cứu trên
cũng không tránh khỏi những thiếu sót nhưng đã mở ra cho luận văn những cơ sở để nghiên
cứu ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn của ẩn dụ tri nhận. Đây là nguồn tư liệu đáng quý,
giúp ích rất nhiều cho việc tìm hiểu, học hỏi, rút kinh nghiệm từ cơ sở lí thuyết, nguồn ngữ
liệu cho đến cách vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học vào nghiên cứu ca từ Trịnh Công
Sơn…Ngoài ra, những hiểu biết và nhận xét xác đáng của những người đã nghiên cứu về ca
từ, về cuộc đời của Trịnh Công Sơn cũng là cơ sở quan trọng và bổ ích để luận văn triển khai
đề tài này.
0.3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện mục đích của đề tài, luận văn hướng vào đối tượng, nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở lí thuyết của đề tài;
- Điều tra, phân tích nguồn ngữ liệu theo hướng ẩn dụ tri nhận phục vụ cho mục
đích nghiên cứu;
- Hình thành các quan hệ so sánh, đối chiếu để làm rõ bản chất của vấn đề
nghiên cứu.
Nói đến nhạc Trịnh Công Sơn, người ta thường nhắc đến ba mảng đề tài là: tình
yêu, cuộc đời và thân phận con người. Đến với đề tài này, luận văn chỉ giới hạn vấn đề
nghiên cứu ở hai mảng : vấn đề tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn.
Về phạm vi nguồn ngữ liệu chính, đã có những con số khác nhau về số lượng ca
khúc của Trịnh Công Sơn, luận văn tiến hành khảo sát 243 ca khúc mới được công bố trên
trang 4TUhttp://www.tcs-home.Org.vnU4T
0.4. Phương pháp nghiên cứu
0. 4. 1. Phương pháp thống kê và phân loại
Luận văn thống kê các lời của bài ca dựa trên các nguồn tài liệu tham khảo đã nêu
theo hướng nghiên cứu của đề tài. Sau khi thống kê, luận văn tiến hành phân loại theo vấn đề
cũng như phân loại các ý niệm trong ca từ đã sưu tầm được. Kết quả thống kê là cơ sở thực
tiễn để phân tích và trở thành cứ liệu khoa học có tính xác thực, thuyết phục và minh chứng
cho các lập luận của đề tài.
0.4.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Các phương pháp này được luận văn sử dụng trong quá trình khảo sát các từ ngữ,
câu văn trong toàn bộ các ca khúc theo hướng tri nhận phục vụ cho mục đích của đề tài.
Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích các nhân tố tác động đến việc hình thành
ý niệm trong ca từ Trịnh Công Sơn: hoàn cảnh xã hội, tâm lí và tư duy của người sáng tác.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát vấn đề, từ đó có thể rút ra những nhận
định, những mô hình ý niệm hóa có căn cứ dựa trên cứ liệu khoa học thực tế. Việc kết hợp
các phương pháp này giúp xử lí các vấn đề tốt hơn, toàn diện hơn. Đây có thể xem là phương
pháp chủ đạo để thực hiện đề tài.
0.4.3. Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả được luận văn vận dụng vào để miêu tả cấu tạo của những kết
hợp đặc biệt tạo nên những ý niệm về tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn.
Đồng thời, phương pháp này còn được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích và tổng
hợp để xác định, miêu tả miền nguồn và miền đích trong các sơ đồ ý niệm. Đây là phương
pháp quan trọng để xác định, giải thích các miền ý niệm trong việc triển khai đề tài.
0.4.4. Phương pháp so sánh
Phương pháp này được dùng để so sánh trong hệ thống và ngoài hệ thống. Vận dụng
so sánh trong hệ thống để đối chiếu các ý niệm của Trịnh Công Sơn về tình yêu, đời người ở
những tác phẩm khác nhau và giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của ông giúp cho các
phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp ngữ liệu được chính xác hơn, hiệu quả hơn.
Vận dụng so sánh ngoài hệ thống để đối chiếu những ý niệm khác nhau của cùng một vấn
đề giữa Trịnh Công Sơn với những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ khác với tư duy chung của con
người giúp tìm ra những nét tương đồng và khác biệt về quan niệm,về tư duy giữa Trịnh
Công Sơn và cá nhân, tập thể khác trước cùng một đối tượng, từ đó luận văn tìm ra đặc trưng
bản chất trong sự tri nhận của Trịnh Công Sơn thông qua ca từ của ông. Phương pháp so
sánh hỗ trợ đắc lực cho công việc khảo sát ngữ liệu của đề tài ở diện rộng.
0.5. Ý nghĩa của đề tài
0.5.1.Về mặt lí luận
Luận văn góp một phần trong việc chứng minh tính hiệu quả của lí thuyết tri nhận
trong việc phân tích ngôn từ - một hướng nghiên cứu mới của ngôn ngữ học.
0.5.2.Về mặt thực tiễn
Luận văn vận dụng lí thuyết ẩn dụ tri nhận vào việc nghiên cứu những tác phẩm
âm nhạc cụ thể của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ đó đưa ra những nhận định về thế giới quan,
nhân sinh quan của người nghệ sĩ tài năng này. Trên cơ sở đó, có thể xem ẩn dụ tri nhận như
là một công cụ để áp dụng vào phân tích các tác phẩm văn học nghệ thuật để tìm hiểu chiều
sâu của tác phẩm.
0.6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương một: Cơ sở lí thuyết
Trong chương một, luận văn trình bày cơ sở lí thuyết của đề tài, bao gồm những
vấn đề liên qua đến ngôn ngữ học tri nhận và ẩn dụ tri nhận như: thế nào là ngôn ngữ học tri
nhận, khái niệm ẩn dụ tri nhận, phân loại ẩn dụ tri nhận và những khái niệm liên quan đến ẩn
dụ tri nhận…
Chương hai: Ẩn dụ ý niệm về cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn.
Trong chương hai, luận văn trình bày những ý niệm về cuộc đời trong ca từ Trịnh
Công Sơn: cuộc đời là cuộc hành trình, cuộc đời là vật thể, cuộc đời là con người, cuộc đời
là cõi tạm.
Chương ba: Ẩn dụ ý niệm về tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn
Trong chương ba, luận văn trình bày những ý niệm về tình yêu trong ca từ Trịnh
Công Sơn: tình yêu là vật thể, tình yêu là con người, tình yêu là cuộc hành trình, tình yêu là
hư vô, tình yêu là sự chuyển động của các mùa trong năm.
Chương 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1 Vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận
1.1.1.Thế nào là Ngôn ngữ học tri nhận?
Tri nhận (cognition) là tất cả những quá trình tiếp nhận, cải biến và lưu trữ dữ liệu
trong trí nhớ con người dưới dạng những biểu tượng tinh thần (mental representation). Nó
cũng được coi như là cách xử lý thông tin dưới dạng những ký hiệu, cải biến nó từ dạng này
sang dạng khác. Hoạt động tri nhận (cognitive activity) là hoạt động tư duy dẫn đến việc
thông hiểu một nội dung nào đó.
Vậy ngôn ngữ học tri nhận là gì?
Thời gian xuất hiện của ngôn ngữ học tri nhận thường được tính từ năm 1989 sau
quyết định thành lập Hội ngôn ngữ học tri nhận tại Đức. Vậy là tính đến nay, ngôn ngữ học
tri nhận có tuổi đời chỉ mới trên 20 năm. Nghiên cứu ngôn ngữ học dưới góc độ tri nhận có
nghĩa là đặt ngôn ngữ trong chức năng làm công cụ tư duy của con người. Tuy mới xuất hiện
nhưng hướng nghiên cứu mới của ngôn ngữ học tri nhận sớm được nhiều người ủng hộ. Ở
Việt Nam, nhiều nhà Việt ngữ học cũng đã tiếp cận ngôn ngữ theo hướng tri nhận, có thể kể
đến là : Lí Toàn Thắng, Trần Văn Cơ, Nguyễn Lai, Nguyễn Đức Tồn, Hữu Đạt, Nguyễn
Hòa, Diệp Quang Ban…Trong đó, người đầu tiên bàn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tri
nhận là Lí Toàn Thắng trong một bài báo năm 1994. Tiếp đó, ông đã có một công trình
nghiên cứu khá đầy đủ và sâu sắc về ngôn ngữ học tri nhận năm 2005- cuốn sách “Ngôn ngữ
học tri nhận, từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt”. Cuốn sách này tiếp tục được tái
bản vào năm 2008 có sửa chữa và bổ sung thêm “Phần phụ lục” gồm 7 bài ở cuối cuốn sách
nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận. Trên cơ sở những
tư tưởng về ngôn ngữ học tri nhận của cuốn sách được tái bản này của tác giả Lý Toàn
Thắng, luận văn xin được tiếp nhận khái niệm ngôn ngữ học tri nhận như sau:
“Ngôn ngữ học tri nhận là một trường phái mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến
hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự tri giác của con người về thế
giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người ý niệm hóa và phạm trù hóa các sự
vật và sự tình của thế giới khách quan đó” (28, tr.13)
Sự ra đời của ngôn ngữ học tri nhận được khởi nguồn từ trường phái ngữ pháp tạo
sinh do Chomsky khởi xướng. Trường phái này đã kêu gọi ngôn ngữ phải trở thành một bộ
phận của tâm lí học tri nhận, phải coi ngôn ngữ là một hệ thống tri nhận và mục tiêu đối
tượng của ngôn ngữ là tìm hiểu cái cơ chế phổ quát của ngôn ngữ tiềm ẩn trong trí não con
người. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cũng lấy mục đích là nhận thức bản chất của ngôn ngữ
con người nhưng đi vào phân tích chiều sâu của cấu trúc ngôn ngữ với những dữ kiện quan
sát trực tiếp được và cả những dữ kiện không quan sát trực tiếp được như trí tuệ, tri thức,
kinh nghiệm . Điều này khác với ngữ pháp cải biến tạo sinh chủ trương đi vào chiều sâu của
cấu trúc ngôn ngữ chỉ trên cơ sở những dữ kiện ngôn ngữ có thể quan sát trực tiếp được và
hình thức hóa chúng đến độ lí tưởng gần giống như những công thức toán học. Như vậy, với
tuổi đời và cơ sở xuất hiện, có thể khẳng định ngôn ngữ học tri nhận còn non trẻ và nó chỉ là
một trường phái ngôn ngữ (như ngữ pháp tạo sinh) chứ không phải là một phân ngành của
ngôn ngữ học (như ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học nhân học, ngôn ngữ học tâm lí…).
Ngôn ngữ học tri nhận, cũng như các khuynh hướng khoa học tri nhận khác có mục
tiêu chung là nghiên cứu việc thực hiện các quá trình lĩnh hội, xử lí và cải biến các tri thức
vốn quyết định bản chất của trí não con người. Điều này đồng nghĩa với việc nghiên cứu
ngôn ngữ theo hướng tri nhận không còn là nghiên cứu ngôn ngữ trong hệ thống ngôn ngữ,
nghiên cứu mối quan hệ giữa các đơn vị ngôn ngữ như ngôn ngữ học phi tri nhận nói đến mà
ngôn ngữ ở đây được đặt trong mối quan hệ với khả năng tri nhận của con người, tức là liên
quan đến thông tin, tri thức, ý niệm - những vấn đề phải xuất phát từ sự tri giác, từ kinh
nghiệm của con người. Hơn thế nữa, nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ tri nhận, chúng ta phải
chú ý đến sự khác nhau về “cái nhìn thế giới” hay cách tri nhận về thế giới được thể hiện
bằng những biểu thức ngôn ngữ của các dân tộc nói tiếng khác nhau. Ý nghĩa của ngôn ngữ
không hạn chế trong nội bộ hệ thống ngôn ngữ mà nó có nguồn gốc sâu xa từ kinh nghiệm
được hình thành trong quá trình con người và thế giới tương tác với nhau và từ tri thức và hệ
thống niềm tin của con người. Như vậy, sự tri giác,vốn kinh nghiệm và cái cách mỗi con
người, mỗi dân tộc nhìn nhận về thế giới khách quan- tài liệu của sự nhận thức - là cơ sở để
ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu các hiện tượng ngôn ngữ. Vì thế, với ngôn ngữ học tri
nhận, mọi biểu hiện của tri thức ngôn ngữ được nghiên cứu không còn đóng kín trong hệ
thống ngôn ngữ mà là vấn đề tìm hiểu cơ chế phổ quát của ngôn ngữ tiềm ẩn trong trí não
của con người.
1.1.2. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận
Trong công trình “Ngôn ngữ học tri nhận, từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn
tiếng Việt”, Lý Toàn Thắng đã xác định đối tượng của ngôn ngữ học tri nhận:
“Đối tượng cụ thể của ngôn ngữ học tri nhận là ngôn ngữ trong tư cách là một
trong những khả năng tri nhận và một trong những cấu trúc tri nhận của con người (cùng
với tri giác, tư duy, kí ức, hành động)”. (28, tr.45).
Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu ngôn ngữ như những dạng thức tương tự khác
trong bộ máy tri nhận và hoạt động tri nhận của con người như : tri giác, học tập, kí ức, tư
duy…Có nghĩa là, ngôn ngữ dưới góc độ tri nhận phải được nghiên cứu như một thuộc tính
hai mặt: vừa là một hệ thống ký hiệu đóng vai trò quan trọng trong sự biểu hiện (mã hóa) và
trong sự cải biến các thông tin trong tư cách là công cụ tri nhận, vừa được biểu hiện như là
một đối tượng độc lập với con người trong quan hệ giữa mặt lịch sử và chức năng giao tiếp.
Với cách tiếp cận này, các hình thức ngôn ngữ (các đơn vị, các phạm trù…) phải được
nghiên cứu trong mối tương liên của chúng với các cấu trúc tri nhận và sự giải thích mang
tính tri nhận trong mối quan hệ giữa các hình thức ngôn ngữ với các quá trình tri nhận và tất
cả các dạng hoạt động thông tin. Vì thế, trọng tâm nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận là ý
thức trong cách hiểu ý thức là nơi tập trung tất cả vốn kinh nghiệm tinh thần mà một con
người tích lũy được và phản ánh chúng dưới dạng những ý niệm. Vì vậy, khác với ngôn ngữ
học truyền thống, phi tri nhận luận, ở bình diện ngữ nghĩa nó coi ý nghĩa là đối tượng nghiên
cứu quan trọng nhất của mình, thì đối với ngôn ngữ học tri nhận đó là ý niệm (tiếng
Anh:concept) là kết quả của quá trình tư duy, quá trình phản ánh thế giới khách quan vào đầu
óc con người và đồng thời là sản phẩm của hoạt động tri nhận, là cái chứa đựng tri thức hay
sự hiểu biết của con người về thế giới trên cơ sở kinh nghiệm từ đời này sang đời khác.
Trong khi nghiên cứu về ý niệm, ngôn ngữ học tri nhận luôn quan tâm đến một quy luật là
cái thế giới khách quan bên ngoài khi đi vào cái “sàng lọc” não bộ của những con người
khác nhau, đặc biệt là khác nhau về không gian sinh sống, về ngôn ngữ nó sẽ cho ra những
sản phẩm là các ý niệm không còn mang tính khách quan toàn diện, đầy đủ như nó vốn có
trong hiện thực mà nó đã được lĩnh hội, xử lý, cải biến. Mục đích của ngôn ngữ học tri nhận
là nghiên cứu một cách bao quát và toàn diện cái khả năng tri nhận của ngôn ngữ, nghiên
cứu việc thực hiện các quá trình lĩnh hội, xử lý và cải biến các tri thức vốn quyết định bản
chất của trí não con người. Nói cách khác, con người- chủ thể của ngôn ngữ được ngôn ngữ
học tri nhận tiếp cận như một hệ thống xử lý các thông tin mà ở đó các tri thức ngôn ngữ
được hình thành từ ý niệm-kết quả của quá trình xử lý, cải biến của hệ thống não bộ của
con người dưới tác động của các yếu tố tâm lí, văn hóa. Vì vậy, các tri thức ngôn ngữ ấy luôn
gắn liền với sự tri nhận vừa mang tính nhân loại vừa mang tính đặc thù dân tộc.
1.2Ẩn dụ tri nhận
1.2.1. Khái niệm ẩn dụ tri nhận
Từ thời Aristotle, các nhà nghiên cứu đã bàn đến ẩn dụ nhưng chỉ trong phạm vi
của ngôn ngữ học. Gần đây, với sự xuất hiện của ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ được đề cập
đến không chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là vấn đề của tư duy. Từ đây, ẩn dụ trở thành
một trong các bộ phận quan trọng của lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận.
Trước khi thuật ngữ ẩn dụ tri nhận xuất hiện với đầy đủ những đặc trưng bản chất của nó,
nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ đã đặt ẩn dụ trong mối quan hệ với tư duy và cho rằng ẩn dụ
là một quĩ tích của những suy nghĩ chứ không phải của ngôn ngữ. Vậy là với cách tiếp cận
này, các nhà ngôn ngữ học đã đưa ẩn dụ từ trong lí thuyết ngôn ngữ học cổ điển, được coi là
một vấn đề chỉ thuộc về ngôn ngữ sang một ngoại vi mới thuộc vấn đề của tư duy trong
thuyết ẩn dụ hiện đại.
Tiếp thu những thành tựu của các nhà ngôn ngữ học đi trước, Lakoff và Johnson
đã phát triển những tư tưởng mới về ẩn dụ thành lí thuyết ẩn dụ tri nhận và được trình bày
trong công trình “Metaphor we live by”(1980). Lakoff và Johnson (1980) cho rằng: “hệ
thống ý niệm đời thường của chúng ta, mà trong khuôn khổ của những điều chúng ta suy
nghĩ và hành động, về bản chất là ẩn dụ”. Chúng ta không chỉ dùng các ẩn dụ được quy ước
hóa và từ vựng hoá và nhất là những ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor) một cách thuần tuý
ngôn ngữ học mà sự thực là chúng ta chỉ suy nghĩ hay ý niệm hoá phạm trù “ĐÍCH” thông
qua phạm trù “NGUỒN”. Như vậy, từ chỗ lối nói ẩn dụ được cho là không chỉ trong ngôn
ngữ thông tục hàng ngày và ngôn ngữ hằng ngày không có ẩn dụ đã bị phủ nhận mà thay
vào đó là một quan điểm mới về phạm vi hoạt động của ẩn dụ. Và chỗ của ẩn dụ không hề là
ở trong ngôn ngữ mà là ở trong cái cách chúng ta khái quát hóa một hiện tượng tinh thần này
bằng một hiện tượng tinh thần khác. Lí thuyết chung của ẩn dụ nằm trong những đặc điểm
của sự xác lập khái quát có tính liên tưởng. Trong quá trình đó, những khái niệm trừu tượng
hàng ngày như thời gian, trạng thái, nguyên nhân, kết quả hoặc mục đích ... đều trở nên có
tính ẩn dụ. Hệ quả là ẩn dụ (tức là khái quát có tính liên tưởng) chính là tâm điểm tuyệt đối
của ngữ nghĩa học trong ngôn ngữ thông tục tự nhiên, và việc nghiên cứu ẩn dụ văn học là
một sự mở rộng của việc nghiên cứu ẩn dụ trong ngôn ngữ hàng ngày. Phép ẩn dụ được dùng
đến hàng ngày (trong ngôn ngữ thường nhật) là một hệ thống khổng lồ gồm vô số những
khái quát liên tưởng, và hệ thống này được sử dụng trong ẩn dụ văn học. Nhờ những kết quả
thực chứng này, chữ ẩn dụ được dùng theo một cách khác trong những nghiên cứu về ẩn dụ
hiện thời. chữ ẩn dụ lúc này có nghĩa là một khái quát có tính liên tưởng trong hệ thống khái
niệm. Khái niệm sự diễn đạt có tính ẩn dụ được dùng để chỉ một biểu đạt ngôn ngữ (một chữ,
một cụm từ, hoặc một câu) thực hiện được sự khái quát có tính liên tưởng.
Với những tư tưởng chủ đạo này, Lakoff và Johnson được xem là người đặt cái mốc
quan trọng cho sự phát triển của lí thuyết ẩn dụ trong ngôn ngữ học tri nhận. Ẩn dụ ý niệm
ấn định mối quan hệ giữa những cặp tái hiện về mặt tinh thần (mental representations) , lí
thuyết ẩn dụ ý niệm cho rằng ẩn dụ là hiện tượng được định hướng nghiêm ngặt.
Ngoài ra, những ẩn dụ ý niệm tập trung phân tích mối quan hệ ý niệm nội tại
(entrenched conceptual relationships) và cách chúng được gọt giũa, lựa chọn.
Theo thời gian, ẩn dụ tri nhận được tiếp cận nghiên cứu ngày càng phổ biến và sâu
sắc, cụ thể hơn trên phạm vi toàn thế giới. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, các nhà
Việt ngữ học cũng đã đón nhận lí thuyết ngôn ngữ mới này và đã xuất hiện nhiều công trình,
bài viết nghiên cứu những vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận nói chung và vấn đề về ẩn dụ tri
nhận nói riêng như: Lí Toàn Thắng trong công trình “Ngôn ngữ học tri nhận,từ lí thuyết đại
cương đến thực tiễn tiếng Việt” đã trình bày những vấn đề cơ sở của ngôn ngữ học tri nhận
và nghiên cứu những vấn đề liên quan đến ẩn dụ tri nhận như bài viết “Nghiên cứu trường
hợp các ý niệm ra, qua, trên, dưới và bình diện nghĩa biểu hiện”, “Ngữ nghĩa của từ “cây”
và sự phân loại dân dã thực vật ở người Việt”,[28]….Nguyễn Đức Dân nghiên cứu về
“Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ”, về “Tri nhận thời gian trong tiếng
Việt” [4,tr.1-16]; Trần Văn Cơ với công trình “Khảo luận ẩn dụ tri nhận”đã bàn nhiều về
bản chất, về các khái niệm của ẩn dụ dưới góc độ tri nhận luận và áp dụng vào nghiên cứu
thơ ca trong bài viết “Nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của ngôn ngữ học
tri nhận”[2, tr.26-42]; Nguyễn Đức Tồn bàn về “Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ
tri nhận trong thành ngữ” [35, tr.20-27]; Nguyễn Lai đề cập đến vấn đề ẩn dụ ý niệm trong
thơ ca qua bài viết “Suy nghĩ về ẩn dụ khái niệm trong thế giới thơ ca từ góc nhìn của ngôn
ngữ học tri nhận”[15, tr.1-11]…. Và nhiều công trình, bài viết khác liên quan đến ẩn dụ tri
nhận từ những vấn đề mang tính lí luận khái quát cho đến những vấn đề ứng dụng cụ thể.
Đáng chú ý là những tư tưởng về ẩn dụ tri nhận của Lí Toàn Thắng trên cơ sở tiếp thu những
quan điểm của các học giả nước ngoài “Từ góc nhìn tri nhận luận, ẩn dụ ý niệm là sự
“chuyển di” hay một sự “đồ họa” cấu trúc và các quan hệ nội tại của một lĩnh vực hay mô
hình tri nhận nguồn sang một lĩnh vực hay mô hình tri nhận đích…”[28]
Bản thân thuật ngữ ẩn dụ ý niệm bao hàm rằng ẩn dụ nằm ngay ở tư duy của con
người và biểu hiện lên bề mặt ngôn ngữ. Tư duy và sau đó là ngôn ngữ về cơ bản là các quá
trình ẩn dụ gắn liền với kinh nghiệm cá nhân về các nền văn hóa. Một số lí thuyết thỏa đáng
về hệ thống ý niệm của con người là phải giải thích được các ý niệm: (1) căn cứ vào đâu, (2)
cấu trúc như thế nào, (3) có quan hệ với nhau như thế nào, và (4) được định nghĩa như thế
nào. Chẳng hạn, cái tạo nên một mệnh đề ẩn dụ “TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH”
không phải là các từ hay cụm từ cụ thể. Đó là một sự đồ chiếu xuyên suốt các phạm vi ý
niệm, từ phạm vi nguồn của cuộc hành trình cho tới phạm vi đích của tình yêu. Ẩn dụ không
phải chỉ là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là của tư duy và lí luận. Ngôn ngữ chỉ là thứ yếu, đồ
chiếu mới chính là quan yếu vì nó chi phối việc sử dụng ngôn ngữ vùng nguồn và các cấu
trúc suy ra về các khái niệm vùng đích. Đồ chiếu (đồ họa) mang tính chất quy ước, là một
phần của hệ thống ý niệm của chúng ta. Nhờ vào việc “đồ họa” mà chúng ta có thể ý niệm
hóa cái trừu tượng thành cái cụ thể. Nhờ đó cái trừu tượng trở nên rõ ràng dễ nắm bắt. Vì thế
mà một khái niệm trừu tượng như tình yêu đã có thể được hình dung đầy đủ cả về hình thái
và bản chất của nó bằng cuộc hành trình.
Như vậy, chỗ của ẩn dụ không hề là ở trong ngôn ngữ mà là ở trong cái cách chúng
ta khái quát hóa một hiện tượng tinh thần này bằng một hiện tượng tinh thần khác. Lí thuyết
chung của ẩn dụ nằm trong những đặc điểm của sự xác lập khái quát có tính liên tưởng.
Trong quá trình đó, chúng ta phải dựa vào những kinh nghiệm của mình về những con
người, những sự vật và hiện tượng cụ thể thường nhật để ý niệm hóa các phạm trù trừu
tượng. Vì thế, hầu hết ý niệm của con người được định hình và hiểu được chỉ trong khung ý
niệm có được qua trải nghiệm của con người trong một nền văn hóa cụ thể. Hay nói cách
khác là bản chất của ẩn dụ tri nhận có tính nghiệm thân. Vì vậy khi nghiên cứu ẩn dụ tri nhận
trong một sáng tác nghệ thuật bằng ngôn từ của một người nào đó, chúng ta phải quan tâm
đến những trải nghiệm của họ trước cuộc đời rộng lớn này bên cạnh những gì họ đã tiếp thu
được từ nền văn hóa của không gian mà họ đã và đang sống.
1.2.2. Đặc điểm của ẩn dụ ý niệm
Ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa phổ biến trong tất cả các ngôn ngữ. Đó là
phép sử dụng từ ngữ ở nghĩa chuyển dựa trên cơ sở tương đồng giữa một thuộc tính nào đó
của cái dùng để nói và cái muốn nói. Nói cách khác, ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi giữa hai
sự vật có quan hệ tương đồng. Vì thế, ẩn dụ không chỉ là biện pháp làm giàu từ vựng mà còn
làm cho nghĩa từ ngày càng đa dạng, tinh tế. Trong quan niệm truyền thống, ẩn dụ bao giờ
cũng mang tính quy ước do được tạo thành trong một cộng đồng văn hóa-ngôn ngữ và được
từ vựng hóa trong các hình thức từ ngữ. Các nhà phong cách học thường nói đến ẩn dụ như
là một sự so sánh ngầm, tức là so sánh chỉ có một vế. Theo lí thuyết tín hiệu của F.de.
Sausure thì mỗi tín hiệu ngôn ngữ bao giờ cũng có hai mặt: mặt âm thanh được gọi là cái
biểu đạt và mặt ý nghĩa gọi là cái được biểu đạt. Hai mặt này gắn bó khăng khít với nhau như
hai mặt của một tờ giấy. Nếu xem từ là một tín hiệu thì từ một tín hiệu đã có này muốn tạo ra
một ẩn dụ người ta phải thiết lập thêm một cái được biểu đạt mới trên cơ sở của mối quan hệ
vừa nêu. Trong thực tiễn hoạt động ngôn ngữ, khi tiến hành so sánh theo phương thức ẩn dụ,
người viết chỉ nêu ra một vế còn ẩn đi một vế để người khác tự hiểu trên cơ sở liên tưởng
dựa trên mối quan hệ giữa sự vật được nêu ra với cái ý nghĩa biểu trưng của nó như là một sự
quy ước sẵn có. Với ẩn dụ tri nhận và ẩn dụ tu từ thì cả người sử dụng ngôn ngữ và người
tiếp nhận văn bản cũng sử dụng sự liên tưởng nhưng với một thao tác tư duy trừu tượng hơn.
Ở đó, sự liên tưởng là đường dây kết nối giữa cái vỏ vật chất âm thanh của ngôn ngữ với các
sự vật, hiện tượng vô cùng vô tận của thế giới xung quanh. Tuy nhiên, khác với ẩn dụ tu từ,
ẩn dụ ý niệm (hay ẩn dụ tri nhận) ngoài chức năng quy ước hóa, từ vựng hóa còn có chức
năng ý niệm hóa, thể hiện cách tư duy, tri nhận về sự vật của người bản ngữ theo những
phương thức nhất định. Bản thân thuật ngữ ẩn dụ ý niệm đã bao hàm rằng ẩn dụ nằm ngay ở
tư duy của con người và biểu hiện lên bề mặt ngôn ngữ. Tư duy, sau đó là ngôn ngữ về cơ
bản là các quá trình ẩn dụ gắn liền với kinh nghiệm cá nhân và các nền văn hóa. Các nhà
ngôn ngữ học tri nhận cũng đã bàn luận nhiều đến quan hệ chiều sâu giữa tư duy trừu tượng
hình thành trong ý thức con người và những điều mà họ quan sát được về thế giới xung
quanh như: khoảng cách không gian, thời gian vật lý, quá trình vận động của các vật
thể…được nhận thức và mô thức hóa thành các lược đồ và thể hiện dưới hình thức của các
biểu thức ngôn ngữ theo thói quen về tâm lí, văn hóa của mỗi dân tộc cụ thể. Như vậy, có thể
coi ẩn dụ tri nhận là con đường ý niệm hóa về sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan
thông qua các từ, ngữ. Bởi thế, ẩn dụ tri nhận là một trong những hình thức ý niệm hóa, một
quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm mới và nó chính là cơ
sở để tri nhận những tri thức mới. Xét trong mối quan hệ với ẩn dụ ngôn từ, ẩn dụ ý niệm là
những ý niệm trừu tượng trong khi đó ẩn dụ ngôn từ chỉ là những từ ngữ thể hiện các ý niệm
mà thôi. Cho nên, khác với cách hiểu trong văn học truyền thống và trong tu từ học, theo
thuyết này, ẩn dụ không chỉ được hiểu đơn thuần là loại cấu trúc " so sánh gồm có một vế"
hay là "so sánh ngầm" ... mà chúng được hiểu như một cách thức tri nhận thế giới thông qua
cách biểu đạt của tư duy lô gích được định hình trong ý thức của mỗi cộng đồng ngôn ngữ
nhất định. Chẳng hạn, từ cơ sở thực tế là con người và đa số các loài động vật đều trong tư
thế nằm khi ngủ và đứng thẳng khi thức nên xuất hiện ý niệm “Ý THỨC HƯỚNG LÊN, VÔ
THỨC HƯỚNG XUỐNG”.Theo đó, ẩn dụ cơ bản là ý niệm được thể hiện chứ không phải là
ngôn ngữ thể hiện. Ẩn dụ ý niệm là các ánh xạ có tính chất hệ thống giữa hai miền ý niệm:
miền nguồn là một phạm trù trải nghiệm được ánh xạ hay phóng chiếu (đồ họa) vào miền
đích, một phạm trù trải nghiệm khác. Như vậy, ẩn dụ không còn là vấn đề ngôn ngữ mà cơ
bản là vấn đề tư tưởng và nhận thức. Cách nhìn ẩn dụ theo quan điểm này hoàn toàn khác với
quan điểm cho rằng ẩn dụ chỉ là biểu hiện với thuộc tính ngôn ngữ, nghĩa là ngôn từ và vì thế
mỗi từ ngữ riêng biệt phải có một ẩn dụ riêng biệt. Còn với ẩn dụ tri nhận, những từ ngữ ẩn
dụ được con người sử dụng còn mang tính hệ thống, bởi vì các ý niệm về ẩn dụ đều mang
tính hệ thống. Đến đây, chúng ta lại thấy một hệ luận nữa là các ẩn dụ ngôn từ gắn chặt với
các ẩn dụ ý niệm một cách hệ thống. Hay nói một cách khác là mỗi ẩn dụ ý niệm bao hàm và
chi phối một hệ thống các ẩn dụ ngôn từ. Ngoài ra, các ẩn dụ ý niệm cũng liên quan với nhau
theo một hệ thống để tạo thành một cấu trúc tôn ti trong hệ thống, nhờ đó ẩn dụ tri nhận sẽ
giúp con người hiểu sâu sắc hơn các tầng bậc ngôn ngữ cũng như chính bản thân mình.
Lakoff và Jonhson trong công trình “Metaphors we live by” đã khái quát các đặc
điểm cơ bản của ẩn dụ dưới góc nhìn tri nhận như sau:
Thứ nhất, ẩn dụ chủ yếu thuộc về lĩnh vực tư duy và hành động và chỉ phát sinh
trên lĩnh vực ngôn ngữ;
Thứ hai, ẩn dụ có thể đặt cơ sở trên sự tương đồng dù trong nhiều trường hợp
những tương đồng này dựa trên cơ sở các ẩn dụ thông thường mà không có cơ sở từ những
điểm tương đồng. Các điểm tương đồng có cơ sở là các ẩn dụ thông thường thì lại có thật
trong văn hóa của chúng ta vì các ẩn dụ thông thường đã phần nào định nghĩa những gì
chúng ta cho là có thật. Ẩn dụ có thể dựa trên các điểm tương đồng rời rạc, chúng ta vẫn
xem những tương đồng quan trọng là những tương đồng do ẩn dụ tạo ra;
Thứ ba, chức năng chủ yếu của ẩn dụ là cung cấp một phần hiểu biết về một loại
trải nghiệm dưới dạng một loại trải nghiệm khác.
Ngoài ra, sau khi tiếp thu ý kiến từ các nhà ngôn ngữ học tri nhận, luận văn cũng
lưu ý thêm một số vấn đề sau về ẩn dụ tri nhận khi vận dụng vào phân tích tác phẩm thơ ca
như sau:
Ẩn dụ khái niệm có nhiệm vụ cung cấp các suy luận hình tượng hóa cho các khái
niệm trừu tượng. Vì vậy, ẩn dụ tri nhận không chỉ dừng lại ở biện pháp tu từ với thế so sánh
tương đương về mặt từ vựng như chúng ta đã biết mà ta còn có thể đi sâu vào những bản
chất năng động nhất của thế giới ẩn dụ để từ đó có ý thức rõ hơn về một dạng cơ chế ẩn dụ
rất rộng mở vốn là hiện thân của sức mạnh hình tượng tạo ra nguồn xúc cảm thẫm mĩ cho
thơ ca.
Nói đến ẩn dụ tri nhận, chúng ta phải chú ý rằng ẩn dụ ở đây không đơn thuần là
các thủ pháp tu từ học, mà là sự dịch chuyển từ một lĩnh vực ý niệm này sang một lĩnh vực ý
niệm khác. Từ đó, khi nói đến cấu trúc khái niệm trong mối quan hệ với sự chuyển dịch của
ẩn dụ trong lĩnh vực ý niệm là cơ chế thực thi chức năng liên thông của thế giới ý niệm vô
cùng năng động trong hoạt động nhận thức của con người. Tức là đặc điểm của phương thức
chuyển nghĩa trong ẩn dụ ý niệm chính là dựa trên tính liên thông giữa các trường thị giác
gắn với mối quan hệ các phạm trù trong cách xác lập cơ chế tư duy. Vậy quá trình cung cấp
các suy luận hình tượng cho các khái niệm trừu tượng ở đây không đơn thuần là quá trình
minh họa các khái niệm trừu tượng sẵn có bằng con đường đơn thuần lí tính mà là quá trình
đào sâu và mở rộng độ tinh tế của các trường thị giác trong cách nhận thức thế giới một cách
chủ động và có hướng thẩm mĩ của con người.
Ẩn dụ ý niệm thâm nhập vào nhận thức của chúng ta về thế giới xung quanh ta và
nó mang tính đặc thù văn hóa. Quan điểm này cho rằng một miền ý niệm được thông hiểu
qua một miền ý niệm khác và được biểu diễn là, MIỀN A LÀ MIỀN B. Miền A tham chiếu
đến những khái niệm trừu tượng hay là miền đích có liên quan đến MIỀN B, là những đối
tượng cụ thể hay miền nguồn. Hiểu biết của chúng ta về hoạt động hay đặc điểm của những
miền cụ thể sẽ giúp chúng ta phần nào liên hệ được với những khái niệm trừu tượng. Qúa
trình này là đơn hướng không có sự đảo ngược. Có nghĩa là, chúng ta đi từ khái niệm cụ thể
đến trừu tượng để hiểu được cái thế giới ít cụ thể hơn.
Khi đề cập đến các miền, thường dùng chữ in hoa để hàm ý rằng ẩn dụ ý niệm vốn
là thể loại tư duy, không nhất thiết phải biểu đạt trong một ngôn ngữ. Còn các biểu ngữ ẩn dụ
thì được viết bằng chữ thường để hàm ý rằng ẩn dụ ý niệm trong một ngôn ngữ được biểu
đạt thông qua biểu ngữ ẩn dụ.
Ẩn dụ ý niệm là hiểu một miền thông qua một miền khác. Hiểu các miền có nghĩa
là hiểu những tương ứng tồn tại giữa hai miền. Những tương ứng này được xem là các ánh
xạ. Các ánh xạ là tri thức tiền giả định ẩn tàng bên dưới, được dùng khi nói về những miền
khác. Chúng ta có thể hình dung cấu trúc hai miền như sau:
TARGET SOURSE
DOMAIN DOMAIN
Miền đích A B Miền nguồn
(Thường là đối tượng (Thường là đối tượng
trừu tượng) cụ thể)
( a’ ) a
( b’) b
( c’) c
………. …………
Trong đó, các ý niệm ở miền A có thể được thể hiện đầy đủ, tương ứng với những ý
niệm ở miền B (nếu là ẩn dụ cấu trúc) hoặc không được thể hiện đầy đủ (nếu là các loại ẩn
dụ khác). Sơ đồ trên dựa vào quan niệm của Lakoff và Johnson về sự hình thành của hai
miền nguồn và đích của một ý niệm:
“Suy luận trừu tượng được hình tượng hóa của ẩn dụ khái niệm nhờ vào các phóng
chiếu ẩn dụ từ vùng cụ thể (vùng nguồn) lên vùng trừu tượng (vùng đích). Sự phóng chiếu
liên thông có tính cấu trúc giữa vùng nguồn và vùng đích này được thực hiện gắn liền với sự
hình thành nên các đường dây thần kinh nối liền giữa vùng cảm nhận tri giác với các vùng
khác trong não bộ con người”[16].
1.2.3. Các khái niệm và thuật ngữ liên quan đến ẩn dụ tri nhận
1.2.3.1. Ý niệm, phạm trù
Có thể nói, thuật ngữ trung tâm của ngôn ngữ học tri nhận nói chung và ẩn dụ tri
nhận nói riêng là ý niệm. Theo quan điểm của tâm lí học và ngôn ngữ học tri nhận cho rằng:
“ Ý niệm trước hết không phải và không chỉ là kết quả của quá trình tư duy, quá trình
phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người; mà nó là sản phẩm của hoạt động tri
nhận, nó là cái chứa đựng tri thức hay sự hiểu biết của con người về thế giới trên cơ sở kinh
nghiệm từ đời này qua đời khác, nó vừa mang tính nhân loại phổ quát vừa mang tính đặc thù
dân tộc (do chỗ nó gắn kết chặt chẽ với ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc đó)” (28, tr.285)
Vậy thì “khái niệm” trong ngôn ngữ học truyền thống khác với “ý niệm” trong
ngôn ngữ học tri nhận như thế nào? Trong ngôn ngữ học truyền thống, thuật ngữ “khái
niệm” được vay mượn từ logich học và thường được nói đến trong hai trường hợp: Khi
người ta bàn đến chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ; hoặc là khi người ta bàn đến
nghĩa “biểu niệm”(hay “sở biểu”) của từ, tức là với khái niệm mà từ biểu hiện. Cũng có thể
nói một cách khác là: nếu khái niệm là đơn vị của tư duy thì ý niệm là đơn vị của ý thức.
Chính trong khi nghiên cứu ý thức (bằng ngôn ngữ), người ta phải quan tâm đến các quá
trình ý niệm hóa và phạm trù hoá thế giới khách quan. Theo đó, các sơ đồ hình ảnh (image
schemas) cũng là những sự ý niệm hoá kinh nghiệm, và ẩn dụ cũng là một cách ý niệm hoá
kinh nghiệm. Hơn nữa ý niệm có thể được biểu hiện bằng ngôn từ và có thể không trong khi
một khái niệm bao giờ cũng phải biểu thị bằng từ ngữ. Ý niệm cũng bao quát hơn, toàn diện
hơn cái “nghĩa biểu niệm” của từ, vì nó hiện thân trong tất cả các cách sử dụng của từ (nghĩa
đen hay nghĩa bóng, bình thường hay tu từ,…) và không phải chỉ trong một từ. Cần chú ý
rằng ý niệm gắn bó chặt chẽ với phạm trù và sự phạm trù hóa. Thế giới xung quanh ta bao
gồm vô số sự vật và hiện tượng nên con người phải nhận diện, phân loại . Sự phân loại là
một quá trình tinh thần (mental process) phức tạp thường được gọi là "sự phạm trù hóa" mà
sản phẩm của nó là các phạm trù tri nhận, hay các ý niệm.
1.2.3.2. Khung/ miền/ lĩnh vực
Đây là ba thuật ngữ có mối quan hệ gần gũi với nhau. Trong đó “khung” thường
được hiểu là hệ thống ý niệm liên quan với nhau theo cái cách mà để hiểu bất kỳ một ý niệm
nào trong số đó chúng ta phải hiểu cái cấu trúc toàn thể mà ý niệm đó ăn khớp với, tức là
nhấn mạnh đến chức năng bổ trợ về mặt ngữ nghĩa của một miền ý niệm và giả định rằng
miền chứa một cấu trúc mang tính tổng thể chứ không chỉ là một bảng liệt kê các ý niệm liên
quan đến trải nghiệm. Còn “miền” hay “lĩnh vực” thường được cho là một miền ngữ nghĩa
hay nghĩa của một từ liên quan đến một miền nhất định. Ngoài ra, nhiều người còn dùng
thuật ngữ “hình” (profile) và “nền” (base) để nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa một ý niệm
và miền bao ý niệm. Trong đó, hình là một phần của toàn bộ tri thức ý niệm được nền bổ trợ
nên nó sẽ trở nên không được xác định nếu không có nền. Mối quan hệ giữa ý niệm và miền
không chỉ là mối quan hệ ngữ nghĩa bậc trên-bậc dưới trong xếp loại tôn ti mà còn biểu hiện
mối quan hệ giữa phạm trù và các thành viên của phạm trù, giữa bộ phận và toàn thể.
1.2.3.3. Điển dạng
Từ góc độ tri nhận, hầu hết các nhà ngôn ngữ học cho rằng điển dạng là một biểu
tượng tinh thần, một loại điểm quy chiếu tri nhận. Các phạm trù tri nhận, do đó có một cấu
trúc phức tạp, bao gồm các điển dạng, các thí dụ đạt và thí dụ tồi (các thành viên phạm trù
ngoại vi) và có các ranh giới mờ. Bản chất của chúng được thể hiện ở chỗ:
- Các phạm trù không biểu hiện sự phân chia võ đoán các sự vật hiện tượng của thế
giới khách quan; chúng phải dựa trên cơ sở những khả năng tri nhận của con người.
- Các phạm trù tri nhận như màu sắc, hình dáng cũng như sinh vật và các sự vật cụ
thể đều liên đới với các điển dạng nổi trội về mặt ý niệm vốn là một bộ phận trọng yếu để tạo
thành các phạm trù.
- Ranh giới của các phạm trù tri nhận là ranh giới mờ, các phạm trù lân cận không
được tách bạch rõ ràng mà chúng lẫn vào nhau.
- Nằm giữa các điển dạng và các ranh giới, các phạm trù tri nhận gồm có các thành
viên được đánh giá theo một thang độ về tính điển hình và được xếp hạng từ các ví dụ đạt
đến các ví dụ tồi.
- Các điển dạng của các phạm trù tri nhận không phải là bất biến, mà chúng có thể
thay đổi và cấu trúc nội tại tổng thể của một phạm trù cũng khả biến như vậy tùy thuộc vào
bối cảnh tri nhận cụ thể, vào mô hình tri nhận và văn hóa, vào các bậc cơ sở mà con người sử
dụng khi tương tác với các sinh thể, vật thể trong thế giới khách quan.
1.2.4. Các loại ẩn dụ tri nhận cơ bản
Trong cách nhìn của lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ tri nhận thường được
chia thành ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể và ẩn dụ định hướng (Lakoff và Johnson 1980, tái
bản 2002 )
1.2.4.1. Ẩn dụ cấu trúc (Structural metaphors)
Ẩn dụ cấu trúc là loại ẩn dụ ý niệm mà ở đó miền nguồn cung cấp những tri thức
cho miền đích một cách khá phong phú. Với ý nghĩa như vậy, những ẩn dụ cấu trúc có vai
trò là cấu trúc lại ý niệm ở miền đích về mặt nghĩa sau khi nhận được những tri thức do ý
niệm ở miền nguồn cung cấp. Nhờ đó, người ta có thể hiểu được bản chất ý niệm ở miền
đích. Sự hiểu biết này thông qua các ánh xạ giữa các yếu tố ở miền nguồn và miền đích.
Chẳng hạn, trong ẩn dụ “TRANH LUẬN LÀ CHIẾN TRANH”
Phạm trù nguồn “CHIẾN TRANH” là sự kết hợp giữa các phạm trù cơ sở như:
“SÚNG”, “XE TĂNG”, “BOM” và các phạm trù hành động như “BẮN”, “TẤN CÔNG”,
“LÁI”. Cuộc tranh luận cũng giống như một chiến trận cũng bao gồm một số các giai đoạn
khác nhau như tấn công vào vị trí của đối phương, rút lui và phản công, chiến thắng hay thất
bại. Nhờ đó mà hai vấn đề TRANH LUẬN và CHIẾN TRANH trở nên tương đồng. Vì thế
mà ta thấy xuất hiện một số biểu thức ngôn ngữ kiểu như:
- Anh ta tấn công vào các lí lẽ của tôi.
- Bạn phải bảo vệ quan điểm của mình chứ!
- Anh ta đánh trả lại luận điểm của bạn mình một cách quyết liệt.
- Cuối cùng thì luật sư A đã thắng luật sư B vì những lập luận sắc sảo của
anh ta.
1.2.4.2. Ẩn dụ bản thể (Ontological metaphor)
Ẩn dụ bản thể là loại ẩn dụ ý niệm mà ở đó những ý niệm trừu tượng được “vật
thể hóa” nhờ vào những kinh nghiệm của chúng ta trong việc tri giác đối tượng vật lí và các
chất liệu hay vật chứa. So với ẩn dụ cấu trúc, ẩn dụ bản thể cung cấp cấu trúc tri thức ít hơn
vì công cụ của ẩn dụ loại này chỉ cung cấp tình trạng bản thể dẫn đến các phạm trù chung
của các khái niệm đích trừu tượng. Vì thế, biện pháp tu từ nhân hóa có thể được xem như là
một hình thái của ẩn dụ bản thể và ở đây miền nguồn tốt nhất của nó là bản thân con người.
Chẳng hạn, những biểu thức ngôn ngữ như:
-Cần quyết liệt đấu tranh chống tham nhũng
-Lạm phát dồn anh ta vào góc tường.
-Cuộc đời đã bỏ mặc anh ta.
Ở đây, miền đích là các khái niệm trừu tượng “lạm phát”, “cuộc đời” còn miền
nguồn của nó là những thực thể có thể tác động “dồn”, “bỏ mặc”. Như vậy, ẩn dụ bản thể là
quá trình đối tượng hóa những cái trừu tượng để hình dung nó như là một đối tượng cụ thể.
Nhờ vậy, ẩn dụ bản thể là phương thức giải thích các khái niệm trừu tượng.
1.2.4.3. Ẩn dụ định hướng (Orientational metaphor)
Ẩn dụ định hướng là loại ẩn dụ ý niệm mà từ những ý niệm nguồn sẽ tạo thành
những ý niệm đích về định hướng không gian như “lên”, “xuống”, “trong”, “ngoài”, “trung
tâm” hay “ngoại biên”. Loại ẩn dụ này tạo nên một loạt các khái niệm thuộc miền đích trong
hệ thống ý niệm của con người. Thường thì sự phát triển ý niệm từ lĩnh vực nguồn sang lĩnh
vực đích của loại ẩn dụ ý niệm này chứa hai thành tố cơ bản là : 1/ Sự di chuyển ý niệm từ
lĩnh vực SỰ VẬT sang lĩnh vực KHÔNG GIAN; 2/ Sự di chuyển ý niệm từ bộ phận cơ thể
người hay vật mốc tự nhiên (thường là “trời”, “mặt đất”, ‘cánh đồng”, “đường mòn”, “nhà”,
“ô cửa”) sang khu vực không gian. Như vậy, khác với hai kiểu ẩn dụ tri nhận nói trên, ẩn dụ
định hướng liên quan tới việc định hướng trong không gian theo nhận thức về khoảng cách,
tầm nhìn nhờ các cặp đối lập như: xa/gần, trên /dưới, trong/ngoài, trước/sau, lên/xuống, vào
/ra... Ví dụ: nó béo ra, mặt cô ta tươi tỉnh hẳn lên...
Hoặc là:
-NHIỀU LÀ LÊN, ÍT LÀ XUỐNG: Nó đã lên cân- Nó đã xuống cân.
- KHỎE LÀ LÊN, ĐAU ỐM LÀ XUỐNG: Anh ta đã khỏe lên- Anh ta đã xuống sức.
- SƯỚNG LÀ LÊN, BUỒN LÀ XUỐNG: Cô ấy đã thấy dâng lên niềm vui sướng – Cô
ấy buồn rũ xuống.
Như vậy, mỗi loại ẩn dụ tri nhận có một vai trò, ý nghĩa riêng, có những đặc trưng
để nhận diện.Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp giữa các ẩn dụ tri nhận như trên có khả năng
kết hợp với nhau chứ không tồn tại tách biệt, loại trừ nhau. Chẳng hạn, ẩn dụ cấu trúc có thể
kết hợp với ẩn dụ bản thể hay định hướng, trong bản thân ẩn dụ cấu trúc đôi khi cũng có
chứa đựng ẩn dụ bản thể. Ẩn dụ là phép chiếu từ thế giới cụ thể vào thế giới trừu tượng qua
giác quan hay qua kinh nghiệm của con người, trong đó, ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể là
hai đối tượng chủ yếu được vận dụng vào làm cơ sở để triển khai đề tài. Thuyết tri nhận cùng
với quan điểm về ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể giúp khám phá các khái niệm trừu tượng
bằng cách chiếu khái niệm đó lên các chiều của không gian, hay các chiều trong trải nghiệm
của cá nhân.
• Tiểu kết
Như vậy, ngôn ngữ học tri nhận là một trường phái ngôn ngữ ra đời vào nửa sau
thế kỷ XX có đối tượng nghiên cứu là các mối quan hệ giữa ngôn ngữ và các quá trình tư
duy của con người, với ý thức của con người. Trong đó, lí thuyết ẩn dụ tri nhận có một vai
trò đặc biệt trong ngôn ngữ đời thường và cả trong ngôn ngữ thơ ca, âm nhạc. Nó là một
công cụ tri nhận mạnh mẽ để ý niệm hóa các phạm trù trừu tượng. Nhờ công cụ này mà ngôn
ngữ được coi là cánh cửa để bước vào thế giới tinh thần của con người. Và từ đây, ẩn dụ
không chỉ là vấn đề của tu từ ngôn ngữ mà trở thành phương tiện nhằm khám phá ra những
bí ẩn của quá trình tư duy mà trước đây bị coi là không thể thấu đạt của con người. Nhưng để
có thể vận dụng được “công cụ” này, chúng ta phải tuân thủ những nguyên lí của ngôn ngữ
học tri nhận nói chung, đồng thời phải hiểu được đặc điểm tính nghiệm thân, tính hệ thống
của ẩn dụ tri nhận. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tìm hiểu mối quan hệ giữa ý niệm con
người với các điều kiện tâm lí, văn hóa, nhận thức …bên ngoài và bên trong con người.
Những quan điểm được trình bày ở trên chính là cơ sở lí thuyết để luận văn vận
dụng vào triển khai đề tài “Ẩn dụ trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn ngôn ngữ học
tri nhận”
Chương 2: ẨN DỤ Ý NIỆM CUỘC ĐỜI TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
Cuộc đời là một khái niệm trừu tượng. Danh từ “cuộc đời” theo nghĩa hẹp là
“Quá trình sống của một người, một cá thể sinh vật, nhìn một cách toàn bộ từ lúc sinh ra cho
đến lúc chết”. Theo nghĩa rộng, đó là “Toàn bộ đời sống xã hội với những hoạt động, những
sự kiện xảy ra trong đó”. (21, 225). Như vậy, với nghĩa hẹp, cuộc đời là khái niệm đề cập
đến đời sống của mỗi cá nhân. Còn cuộc đời theo nghĩa rộng là nói đến đời sống của nhân
loại. Như vậy, cuộc đời là một đối tượng vừa gần gũi, vừa trừu tượng. Gần gũi vì nó gắn với
con người nhưng trừu tượng vì nó vô hình không thể nhìn thấy hay sờ nắm được. Chỉ có
những trải nghiệm mà con người chắp nhặt được trong quá trình sống của mình mới có thể
khái quát cuộc đời thành những đối tượng cụ thể hơn, dễ nắm bắt hơn. Nhưng mỗi con người
có những cái nhìn không thật sự giống nhau về cùng một đối tượng nên mỗi người cũng có
những ý niệm vừa có điểm giống, vừa có điểm khác với cuộc đời này. Chúng ta dễ dàng tìm
thấy những ý niệm cụ thể về cuộc đời ở ngôn từ trong văn học, ca từ trong âm nhạc và thậm
chí trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của con người. Hơn 60 năm sống giữa cuộc đời, chứng
kiến những sự kiện diễn ra trong cuộc đời chung của nhân loại và những biến cố trong cuộc
đời của mình, Trịnh Công Sơn cũng đã đúc kết những ý niệm về cuộc đời này. Trong chương
này, luận văn xin nêu lên những ý niệm về cuộc đời sau khi tìm hiểu, phân tích ca từ Trịnh
Công Sơn.
2.1.Cuộc đời là cuộc hành trình
Ý niệm “ Cuộc đời là cuộc hành trình” xuất hiện trong ca từ của Trịnh Công Sơn
khá dày gồm 74/ 243 ca khúc được khảo sát. Trong đó, các đối tượng của một cuộc hành
trình: chủ thể hành trình, phương tiện cách thức hành trình, không gian hành trình, đích đến
của hành trình được thể hiện khá đầy đủ để cấu trúc cho miền nguồn của ý niệm.
Về không gian hành trình, trong ca từ Trịnh Công Sơn, hình ảnh con đường mang
ý nghĩa ẩn dụ xuất hiện với tần số 18/243 ca khúc. Đây là hình ảnh tâm điểm của không gian
ý niệm về cuộc hành trình. Trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn, con đường xuất hiện
thường đi cùng với chủ thể hành trình và mang trạng thái theo tâm trạng của chủ thể.
Cuộc đời của Trịnh và cũng là của con người Việt Nam vào những năm chiến tranh
là cuộc đời mang nhiều nỗi đau mất mát. Trịnh đã nhận thấy con người quá mệt mỏi với nỗi
đau thể xác, với nỗi buồn chia ly người thân, với nỗi khiếp sợ súng đạn, bom mìn đang rình
rập. Việc chia sẻ với nhau những tâm sự của bản thân lúc này như là một việc làm xa xỉ. Vì
thế, con đường mà mỗi người đang bước đi trong cuộc hành trình của kiếp nhân sinh trở nên
quạnh quẽ, đơn côi, thiếu vắng tiếng cười. Đó là những “đường quạnh hiu”, “đường hiu
hắt”, “ đường thật buồn”, “đường mịt mù”, “đường…có gì vui”:
“…Đường nào quạnh hiu, tôi đã đi qua/ Đường về tình tôi có nắng rất la
đà…”(Bên đời hiu quạnh)
“…Một ngày hiu hắt con đường/ Một ngày bước nhỏ nhẹ nhàng ra đi/ Theo chân
cơn gió ta về/ Rời xa con phố với giờ nguy nan…”(Lời ở phố về)
“…Con đường thật buồn một ngày cuối đông/ Con đường mịt mù một ngày cuối
thu…”(Tôi ru em ngủ)
“…Đường hôm qua tôi thấy được rồi/ Đường hôm nay tôi đã cùng ngồi…có gì
vui…”(Như tiếng thở dài)
“Đường dài”, “đường xa” là không gian hành trình được cảm nhận bằng trạng thái
đơn độc, mệt mỏi của con người khi sống trong bầu không khí căng thẳng, buồn chán:
“…Đường đời xa lắm nhé/ Em không nhớ tôi sao…”(Môi hồng đào)
“…Ôi đường phố dài/ Lời ru miệt mài / Ngàn năm ngàn năm…”(Tuổi đá buồn)
“…Đường xa vạn dặm/ Mẹ bỏ con đi/ Đường xa vạn dặm/ Giấc ngủ chưa tròn/ Mẹ
bỏ tôi đi…”(Đường xa vạn dặm)
“…Không còn ai/ Đường về ôi quá dài/ Những đêm xa người…”(Phôi pha)
“…Từ đó ta ngồi mê/ Để thấy trên đường xa/ Một chuyến xe tựa như/ Vừa đến nơi
chia lìa…”(Đóa hoa vô thường)
Có những lúc quá mệt mỏi với kiếp người bị lưu đầy trong cõi nhân thế, Trịnh
Công Sơn đã nghĩ về cái đích của cuộc hành trình. Ông cũng nhận ra cái chết thật gần với sự
sống nhưng hành trình sống để đi đến cái bến đợi ngàn năm ấy của con người trong tâm thế
mệt mỏi, chán chường thật là một nỗi tuyệt vọng tác động đến chủ thể sự “ chồn chân mỏi
gối ” hay cảm giác nhận ra sự vô ích của bước chân “không tới” đích:
“…Nhật nguyệt trên cao/ Ta ngồi dưới thấp/ Một giòng trong veo, sao lòng còn đục/
Bầy vạc bay qua kêu mòn tịch lặng/ Đường đời không xa sao chồn gối chân…”(Cũng sẽ
chìm trôi)
“…Đi đi trên đường, đi đi và đi mãi/ Đi đi và không tới, xa xăm chiều réo ai…”(Đi
mãi trên đường)
Sự cô đơn làm cho chủ thể hành trình khát khao được giao cảm, được có người
đồng hành trong không gian xa vắng ấy:
“… Người đi tìm kiếm giữa mịt mùng/ Người đi tìm mãi suốt con đường tấm lòng
kia…”(Chuyện đóa quỳnh hương)
“…Dành trong bao la, con đường thật nhỏ/ Đợi sẽ có ngày em bước qua/ Đợi từ đau
thương quê hương sẽ lớn/ Đợi máu anh em chớm những nụ hồng/ Đợi cây lên xanh trên rừng
hoạn nạn/ Đợi thấy những đường không cách ngăn…”(Đợi có một ngày)
“…Xin trên những đường dài/ Cho nghe bước rộn vui…”(Nghe tiếng muôn trùng)
Những động từ thể hiện ý chủ động “tìm”, “đợi”, “xin” gắn với những sự hy
vọng, mong ước về “tấm lòng kia”, “ ngày em bước qua”, “quê hương sẽ lớn” “nụ hồng”,
“đường không cách ngăn”, “bước rộn vui” trên không gian hành trình của cuộc đời đã làm
rõ cái trạng thái cô đơn của Trịnh Công Sơn trong cái buồn, cái chia ly của đời sống chung
của nhân loại. Đồng thời, chúng ta cũng thấy nơi tấm lòng Trịnh một tình yêu bao la, cao
thượng với con người và cuộc đời này.
Đến khi đất nước dành được những chiến công, niềm hi vọng được nhen lên trong
tim mỗi con người, không gian hành trình của cuộc đời trở thành một không gian rộng lớn,
nhộn nhịp với một tập thể người cùng đồng hành. Đó là “ đường mênh mông…bao người
quen” với “ bước chân thênh thang” và “những nắm tay reo mừng”, là “đường …rực ngời
nắng mai” :
“…Đường ta đi mênh mông phố xá bao người quen/ Bàn chân ta thênh thang
những nắm tay reo mừng…”(Đồng dao hòa bình)
“…Đường hôm nay dân ta đi tới/ Những tim người rực ngời nắng mai…”(Việt
Nam ơi hãy vùng lên)
Và cuộc hành trình nào của mỗi cuộc đời cũng đi đến điểm kết thúc. Đó chính là
cái đích của cuộc hành trình. Mọi chuyến đi trên con đường của Trịnh Công Sơn đều
hướng về cõi thiên thu, hướng về miền cát bụi – cái cõi mà ông luôn nghĩ đến như một
chuyến viễn du trở về sau cuộc hành trình hơn 60 năm trên đường trần gian. Những từ ngữ
thể hiện sự kết thúc “ đến bờ” (kết thúc của chuyến lưu hành trên mặt nước), “ cuối đường” (
điểm kết thúc của một con đường), “ khăn gói, chào”( kết thúc của một cuộc gặp gỡ), “chân
núi” ( điểm kết thúc của núi tính từ đỉnh núi trở xuống), “cuối trời” (kết thúc của một giới
hạn trong không gian theo tưởng tượng), “ trở về” (kết thúc của một chuyến đi) đã được
Trịnh Công Sơn sử dụng để chỉ cái chết và cũng là cái đích của cuộc hành trình:
“…Ôi phù du/ Từng tuổi xuân đã già/ Một ngày kia đến bờ/ Đời người như gió
qua…”(Phôi pha)
“…Chiều nay em ra phố về/ Thấy đời mình là những chuyến xe/…Chiều nay em ra
phố về/ Thấy đời mình là những đám đông/ Người chia tay nhau cuối đường/ Ngày đi đêm
tới trăm tiếng hư không…”(Nghe những tàn phai)
“…Đường trần rồi khăn gói/ Mai kia chào cuộc đời/ Nghìn trùng con gió
bay…”(Những con mắt trần gian)
“…Về chân núi thăm nấm mồ/ Giữa đường trưa có tôi bơ phờ/ Chợt tôi thấy thiên
thu là một đường không bến bờ” ( Lời thiên thu gọi)
“Xin cho người vừa nằm xuống/ Thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang”Cho
người nằm xuống)
“ Tôi nay ở trọ trần gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời”( ở trọ)
Trong ca từ Trịnh Công Sơn, sau cái điểm kết thúc của con đường không phải là sự
chấm dứt tất cả mà mở ra một miền cát bụi – nơi trở về của con người. Đó cũng là tư tưởng
trong giáo lý Phật giáo mà Trịnh tiếp thu, mỗi con người là một hạt cát nhỏ trong biển cát
bao la của Hằng hà rồi cũng sẽ quay về với chính nó:
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát bụi” (Cát bụi).
Về phương tiện hành trình, ca từ Trịnh Công Sơn xuất hiện 37/ 243 ca khúc có
chứa ý niệm về phương tiện hành trình. Trong đó, hình ảnh phương tiện đôi chân mang ý
nghĩa ẩn dụ xuất hiện 28/ 243 ca khúc:
“…Từ khi có đôi chân vào đời/ Màu hoa lá quen như mặt người…”(Tình yêu tìm
thấy)
“…Tôi là ai? Là ai? Ba trăm năm trước tôi là ai?Là ai? Ra đi vời vợi/ Gót hồng lạc
dấu em ơi!/…Trở lại hóa kiếp rong chơi giữa nơi này…”(Tôi tìm tôi)
“…Những bước chân mềm mại/ Đã đi vào đời người/ Như từng viên đá cuội/ Rớt
vào lòng biển khơi…”(Tình nhớ)
“…Sống có đôi chân/ Đôi chân mệt nhoài/ Một đời tới lui…”(Giọt lệ thiên thu)
“…Nghe bên này nắng mới/ Em đi bằng bước chân vui…”(Yêu dấu tan theo)
“…Một bàn chân bước thêm/ Rời dĩ vãng chưa rời máu xương…”(Xanh lòng tàn
phai)
“…Người đi hành hương về đồi núi xa/ Người đi vẫn đi, chiều qua vẫn qua/ Chiều
đã chiều hơn/ Người vẫn âm thầm, gõ buồn gót chân…”(Hành hương trên đồi cao)
“…Vòng tay đã xanh xao nhiều/ Ôi tháng năm gót chân mòn trên phiếm
du…”(Mưa hồng)
“…Ta nghe đời rất mênh mông/ Trong chân người bước chầm chậm…”(Cho đời
chút ơn)
“…Mười năm chân bước trên đường dài/ Gặp nhau không nói không nụ cười/
Chút tình dường như hiu hắt bay…”(Có một dòng sông đã qua đời)
Sự kết hợp của “đôi chân”, “gót hồng”, “ bước chân”, “chân bước”, “bước
chân vui”, “chân người”, “gót chân”…cùng với không gian hành trình của đường đời trong
ý nghĩa toàn văn bản làm cho “chân” ở đây không còn mang ý nghĩa thực là một bộ phận của
cơ thể người mà là phương tiện để tiến hành một cuộc hành trình của kiếp nhân sinh.
Những tháng ngày đối mặt với những cảnh chia li vội vã, bất ngờ, thân người nay
còn mai mất, Trịnh Công Sơn lại nhận thấy phương tiện mà mỗi con người được trao để tiến
hành cuộc hành trình là ngựa, là xe. Hình ảnh ngựa xuất hiện 5/ 243 ca khúc và xe xuất hiện
2/ 243 ca khúc nói về phương tiện hành trình:
“…Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè/ Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê
hương…”(Xin mặt trời ngủ yên)
“…Đời vẽ tôi tên mục đồng/ Rồi vẽ thêm con ngựa hồng/ Từ đó lên đường phiêu
linh…”(Chỉ có ta trong cuộc đời)
“…Chiều nay em ra phố về/ Thấy đời mình là những chuyến xe…”(Nghe những tàn
phai)
“…Người nhìn mãi theo từng chuyến xe ngựa qua rồi/ Người nhìn dấu xe lăn dấu
lăn trên đời/..Ngựa xa rồi, ngựa xa rồi trên ngày tháng với…”(Phúc âm buồn)
Những “ chuyến xe”, những “ngựa hồng”, “xe ngựa” gắn với cuộc đời, gắn với
đường đời, gắn với cái sống, cái chết của con người nên nó không còn là phương tiện vận
chuyển hàng hóa, con người theo nghĩa thông thường mà cũng trở thành phương tiện để vận
chuyển con người trên hành trình về miền cát bụi.
Về cách thức hành trình, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta dễ bắt gặp
hình ảnh con người đang đi với bước chân vô định, buồn bã, lẻ loi:
“…Đường phố nào một đường phố nào/ Đường phố nào còn nằm che dấu/ Cho tôi đi
giữa nhân loại đớn đau…”(Có những con đường)
“…Đi đi trên đường/ Đi đi và đi mãi/ Đi đi và không tới/ Xa xăm chiều réo ai…”(Đi
mãi trên đường)
“…Đi về đâu hỡi em? Khi trong lòng không chút nắng/ Giấc mơ đời xa vắng/ Bước
chân không chờ ai đón/ Một đời em mãi lang thang…”(Đời gọi em biết bao lần)
“…Trời cao đất rộng, một mình tôi đi, một mình tôi đi/ Đời như vô tận, một mình tôi
về …với tôi…”(Lặng lẽ nơi này)
“…Một ngày hiu hắt con đường/ Một ngày bước nhỏ nhẹ nhàng ra đi…”(Lời ở phố
về)
“…Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi/ Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…”(Một cõi
đi về)
“…Tiến thoái lưỡng nan, đi về lận đận/ Ngày xưa lận đận/ Không biết về đâu/ Về đâu
cuối ngõ/ Về đâu cuối trời…”(Tiến thoái lưỡng nan)
“…Đi nhẹ vào đời thầm thì gót chân…”(Tôi ru em ngủ)
Những hình ảnh “đi”- “về” được nhắc đến gắn với con đường đời, gắn với cái
đích về của cuộc hành trình của kiếp người đã biến cách thức hành động di chuyển của con
người thành thời gian tịnh tiến của đời người, thành hành trình sống của con người.
Như vậy, ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH” trong ca từ Trịnh
Công Sơn được cấu trúc đầy đủ hai miền nguồn và đích. Trong đó, miền nguồn mang đầy đủ
những đặc điểm cơ bản của cuộc hành trình: có chủ thể hành trình, không gian hành trình,
phương tiện, cách thức hành trình. Tuy nhiên, đối tượng của cuộc hành trình trong ca từ
Trịnh Công Sơn rất phong phú. Thông thường, chủ thể là con người sẽ gắn với không gian là
con đường, mặt nước, với phương tiện tiến hành là ngựa, xe, thuyền, đôi chân để thực hiện
một mục đích nào đó, có thể là tìm kiếm, vui chơi, hò hẹn hay chỉ là để lang thang trong cõi
đời một cách vô định để rồi cuối cùng đích về cũng là cõi thiên thu, miền cát bụi…Còn nếu
chủ thể hóa thân thành gió, mây, hạt bụi hay cánh chim trời lấy không trung làm không gian
hành trình thì cũng nhằm vào cái đích là thoát khỏi cái thế giới trần gian để về nương náu
chính trong cái bản thể của mình để không còn chịu sự hợp tan, sống chết nữa, ấy cũng là cõi
thiên thu của con người.
Cơ sở để phát hiện ý niệm “ CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH” trong ca từ
Trịnh Công Sơn dựa trên sự liên hội của những yếu tố ngôn ngữ thuộc cùng một trường liên
tưởng về cuộc hành trình: con đường, ngựa, xe, bàn chân, bay,bước đi…Những yếu tố ngôn
ngữ này gắn với miền đích- cuộc đời- một cách trực tiếp: “Đường đời”, “bay trong đời”,
“đôi chân vào đời”,”đi nhẹ vào đời”, “đời mình là những chuyến xe”…tương ứng với miền
nguồn- cuộc hành trình của kiếp người.
Ngoài ra, để phát hiện ra ý niệm này, chúng ta còn phải dựa trên ý nghĩa hàm ẩn về
các đối tượng của cuộc hành trình. Vì vậy, để xác định được đối tượng, chúng ta phải có một
thao tác “giải mã” những tổ hợp từ “đường phố dài”, “đường xa vạn dặm”, “đường về”,
“đường xa”, “hạt bụi”, “đồi núi xa”…dựa vào ngữ cảnh mà chúng tồn tại để hiểu nó là cuộc
đời, là con người, là tháng ngày mà con người đang trải qua trong hành trình sống.
Từ những hiểu biết thực tế về miền nguồn – cuộc hành trình và những thực tế về
cái gọi là cuộc đời ở miền đích, ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH” trong ca từ
Trịnh Công Sơn có thể khái quát cơ chế như sau:
Miền đích Miền nguồn
CUỘC ĐỜI CUỘC HÀNH TRÌNH
Con người Chủ thể là con người;
Sinh ra Điểm xuất phát;
Mất đi Điểm đích;
Tâm trạng sống Phương tiện, cách thức hành trình;
Thời gian sống Con đường (Không gian hành trình).
2.2.Cuộc đời là vật thể
Sống trong những ngày bị chiến tranh vùi dập, Trịnh Công Sơn nhận ra thân
phận con người như là một vấn nạn. Giữa cõi vô thường, luôn bị kiềm kẹp bởi một “nỗi khó
sống”, người nghệ sĩ trong một phút xuất thần đã tự đồng hóa cuộc đời con người với các vật
thể trong đời sống: lá cỏ, hoa, con thuyền…. Nhưng những sự vật đó suốt ngàn năm vẫn là
nó còn con người mỗi phút giây mỗi chực vong thân.
Ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ” xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn với
miền đích là “Cuộc đời”, miền nguồn là “Vật thể” được tìm thấy ở 50/ 243 ca khúc được
khảo sát.
Trước hết, Trịnh Công Sơn xem cuộc đời như là một vật thể tức là cuộc đời là đối
tượng của tri giác nên có thể nhìn thấy hay tìm kiếm, đặc trưng này xuất hiện với tần số
không cao 4/243 ca khúc nhưng lại là cái mốc quan trọng dẫn đến những đặc trưng khác của
“ vật thể” cuộc đời.
Dường như Trịnh Công Sơn đã bước ra khỏi cuộc đời này từ rất lâu rồi. Và từ một
thế giới khác, ông nhìn về thế gian này, nhìn về lại cuộc đời của ông khi còn ở cõi nhân gian
như là con người đang nhìn về một sự vật hiện hữu trong không gian:
“…Còn hai con mắt khóc người một con/ Còn hai con mắt một con khóc người/
Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi/ Nhìn tôi lên cao, nhìn tôi xuống thấp…”(Con mắt còn lại)
“…Một ngày trên vai bão tố nguôi ngoa/ Nhìn đời quanh đây hết những mê
say..”(Tình xót xa vừa)
Vì cuộc đời là đối tượng của tri giác dẫn đến cuộc đời có hình dạng:
“…Cúi xuống nghe đời nhấp nhô, nghe tim rạng vỡ…”(Cúi xuống thật gần)
Giữa cái vô hạn của đời sống vũ trụ, Trịnh Công Sơn nhận thấy cuộc đời con
người thật mong manh, mang hình hài cỏ rơm: “…Trôi dưới chân tôi qua đi từng cọng đời/
Đời hay chiếc lá bay không buồn rơi…”(Mùa áo quan)
“…Đời ta có khi là đốm lửa/ Một hôm nhuốm trong vườn khuya/…Đời ta hết
mang điều mới lạ/ Tôi đã sống rất ơ hờ…”(Đêm thấy ta là thác đổ)
Hay cát bụi bé nhỏ: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát
bụi…”(Cát bụi)
“…Tôi tìm hạt bụi bay trong cuộc đời…”(Tôi là ai?)
Hình ảnh “đời nhấp nhô”, “cọng đời”, “đốm lửa”, “hạt bụi” làm cho ta liên
tưởng đến sự gập ghềnh không bằng phẳng và sự bé nhỏ mong manh, không cố định. Phải
chăng đó cũng là sự tri nhận của Trịnh Công Sơn về kiếp nhân sinh: rất nhiều những vấn
nạn, dễ đổi thay và bé nhỏ mong manh.
Trong ca từ Trịnh Công Sơn, cuộc đời còn được xác định có kích thước, trọng
lượng.
Những khi cuộc sống con người thoát khỏi ao tù kìm kẹp và những ngày mới
nhiều niềm vui, Trịnh Công Sơn nhận thấy cuộc đời đang rộng mở về kích thước để đón
nhận bước chân con người:
“…Ôm cuộc sống trong tay bên đời quá rộng/ Tuổi thần tiên yêu dấu dưới ngôi
trường kia…”(Tuổi đời mênh mông)
Những lúc nhìn về cõi thiên thu, Trịnh Công Sơn nhận thấy đời người như một vật
thể nhẹ tênh chỉ mang sứ mệnh tồn tại rồi ra đi:
“…Lời nào của cây, lời nào cỏ lạ/ Một chiều ngồi say, một đời thật nhẹ ngày
qua…”(Một cõi đi về)
“…Đêm từng đêm bay về/ Quê hương là nỗi nhớ/ Đời nhẹ như lá thu…”(Cánh
chim cô đơn)
Sự kết hợp bất thường “đời nhẹ” đặt trong ngữ cảnh thời gian “ngày qua”, “đêm
từng đêm” dường như đã vẽ ra được chiều dài của vật thể cuộc đời – ngắn ngủi và cả thái độ
của Trịnh Công Sơn trước sự ra đi chóng vánh của cuộc đời – bình thản và bằng lòng với
quy luật của sự sinh- diệt đời người.
Ngoài ra, cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn còn được xác định thể tồn tại của
nó trong trạng thái tồn tại của nó và trong mối quan hệ với các sự vật khác. Đây là đặc
trưng trọng tâm của vật thể cuộc đời, chiếm một tần số xuất hiện khá dày (18/ 243 ca khúc)
Với Trịnh Công Sơn, cuộc đời con người trong những tháng ngày an lành nhất
phải là hoa, là lá, là cây ở cái độ đẹp nhất của nó :
“…Ru em đầu cơn gió, em hong tóc bên hồ/ Khi sen hồng mới nở, nụ đời ôi thơm
quá…”(Ru tình)
“…Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa/ Em suối kia rất ngọt và tôi đứng hai bờ/…Em
đến bên tôi ngồi đời mở ra cuộc tình” (Hoa xuân ca)
“…Từ ruộng đồng hạt lúa nuôi dân ta/ Mầm hòa bình nở trên đời dân khốn
khó…”(Dân ta vẫn sống)
Nhưng có lúc, cuộc đời sóng gió lại như thân cây già mọc cành “hoang vu”, như
khu rừng âm u bóng tối:
“..Trên đời người trổ nhánh hoang vu/ Trên ngày đi mọc cánh lá mù…”(Cỏ xót xa
đưa)
“…Lá khô vì đợi chờ/ Cũng như đời người mãi âm u…”(Như cánh vạc bay)
Nhưng vì là bông hoa, chiếc lá, thân cây nên nó cũng mang trạng thái “héo hon”,
“nát tan”, “xác xơ” khi già cỗi, tàn úa, rơi rụng:
“…Mẹ hát lớn cho tan hoang những lao tù/ Dù đời đã héo hon…”(Hãy cố nhớ)
“…Tôi biết tôi yêu những con người, những con người còn nuôi hoài trái tim/ Biết
nghe nhỏ lệ đời héo hon/…Tôi biết tôi yêu những căn nhà, những căn nhà/ Là tình yêu, là
bến sông/ Nơi về đổ lại đời nát tan…”(Tôi biết tôi yêu)
“…Bao năm xác xơ đời/ Dân ta tắm máu tươi…”(Những ai còn là Việt Nam)
Cuộc đời trong quan niệm của Trịnh Công Sơn là vật thể nhưng vật thể ấy không
tồn tại lâu dài ở một trạng thái cố hữu mà luôn luôn biến đổi. Vì vậy, ngay cả khi Trịnh Công
Sơn vô cùng yêu mến cuộc đời, ông thấy cuộc đời của một người như một nụ hoa, như cây
xanh vào độ xuân về thì cũng sẽ thật nhanh thôi nụ hoa ấy sẽ nở ra rồi tàn rụng, thân cây sẽ
già cỗi, xác xơ và kết thúc một chu trình sinh- diệt.
Một vật thể được xem là đối tượng của tri giác theo giáo lí của đạo Phật nó cũng
sẽ được nhìn dưới lăng kính vô thường, tức là sự hiện diện của nó sẽ diễn ra theo một chu
kỳ. Ảnh hưởng của quan niệm này, Trịnh Công Sơn cũng nhận thấy cuộc đời như sự vật
vốn tồn tại trong tự nhiên, cũng có quá trình tự chuyển động, biến đổi dưới tác động của
thời gian và các sự vật khác, cũng chịu sự biến đổi không ngừng:
“…Bốn mùa thay lá, thay hoa, thay mãi đời ta…”(Bốn mùa thay lá)
“…Nở trăm năm thêm bồi đắp lại đời/ Cho ta làm người trong thế giới…”(Những
giọt máu trổ bông)
“…Từ một ngày tình ta như núi rừng cúi đầu/ Ôi tiếng buồn rơi đều/ Nhìn lại mình
đời đã xanh rêu…”(Tình xa)
“…Dường như bão qua, dòng sông nước lên/ Đời không có mưa mà vẫn ướt
mềm…”(Gần như niềm tuyệt vọng)
“…Đừng mong ai, đừng nghi ngại/ Vì đời ta hôm nay đã thắm máu
người…”(Đừng mong ai đừng nghi ngại)
Và rất nhiều lần, ta bắt gặp trong ca khúc của Trịnh Công Sơn cuộc đời được
đồng hóa với mặt nước:
“…Ta nghe đời rất mênh mông/ Trong chân người bước chầm chậm…”(Cho đời
chút ơn)
“…Tôi nay ở trọ trần gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời/ Ơ hay là một vòng
xinh/ Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời. (Ở trọ)
“…Mưa vẫn mưa bay cho đời biển động/ Làm sao em nhớ những vết chim
di…”(Diễm xưa)
Như chiếc thuyền giữa biển khơi:
“…Những ngón tay ngại ngùng, đã ru lại tình gần/ Như ngoài khơi gió động/ Hết
cuộc đời lênh đênh…”(Tình nhớ)
“…Ngọn gió hư hao, thổi suốt đêm thâu/ Đời sẽ lênh đênh nơi nào…”(Có một ngày
như thế)
“…Em đến nơi này vui buồn đi nhé/ Đời sẽ trôi xuôi qua ghềnh qua suối/ Nào có ai
hay ta gặp tình cờ…”(Hoa vàng mấy độ)
“…Một dòng sông trôi, cuốn mãi về trời, bấp bênh phận người…”(Ca dao mẹ)
Những từ ngữ chỉ trạng thái của mặt nước con thuyền “lênh đênh”, “trôi xuôi”,
“bấp bênh”, “động”, “mênh mông” được gắn với cuộc đời làm cho cuộc đời trở thành con
thuyền, mặt nước với trạng thái vô định. Đó cũng là cái nhìn của Trịnh Công Sơn về cuộc
đời đầy những biến động này.
Đồng thời, cuộc đời còn được Trịnh Công Sơn nhìn nhận như một vật chứa -
Chứa đựng mưa trời, bóng đêm, bước chân con người, sợi tóc mây của em:
“…Mưa vẫn mưa bay cho đời biển động/ Làm sao em nhớ những vết chim di…”(Diễm
xưa)
“…Xin vỗ tay cho đều khi đêm đổ xuống đời ta…”(Tình xót xa vừa)
“…Từ khi bước vào cuộc đời mưa nắng…” (Hoa buồn)
“…Tóc em từng sợi nhỏ/ Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh…”(Như cánh vạc bay)
Cuộc đời còn có thể mang trạng thái “nghiêng” của vật thể và có thể làm vật chứa
mà con người trở thành đối tượng bao chứa nó hay được bao chứa bởi nó:
“…Người ra đi bến sông nằm lạnh/ Này nhân gian có nghe đời nghiêng…”(Có
nghe đời nghiêng)
“…Hãy nghiêng đời xuống nhìn hết một mối tình/ Chỉ lặng nhìn không nói năng/
Để buốt trái tim, để buốt trái tim…”(Để gió cuốn đi)
“…Mọi người đã tới vây quanh cuộc đời/ Từng giờ tiếc nuối chia tay ngậm
ngùi…”(Vẫn nhớ cuộc đời)
“…Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời/ Để bao giờ trời đất yên vui/ Xin cho tôi xin lại
cuộc đời…”(Xin cho tôi)
“…Hôm nay thức dậy, không còn thấy loài người/ Vây phủ quanh đời/ Nói tiếng
yêu thương…”(Xa dấu mặt trời)
Và con người còn có thể đứng bên cạnh “vật chứa cuộc đời” ấy:
“…Em đến bên đời hoa vàng một đóa…”(Hoa vàng mấy độ)
“…Ôm cuộc sống trong tay bên đời quá rộng…” (Tuổi đời mênh mông)
“Vẫn có em bên đời”
Ngoài ra, với tư cách là một vật thể tồn tại trong mối quan hệ với con người, cuộc
đời còn chịu sự tạo tác, sở hữu và biến đổi dưới tác động của con người: bước vào đời, rao
bán đời, lăn đời, dựng đời, xin lại đời, cho đời, trao đời, đưa đời, làm xanh đời, kết hoa cho
đời….Đặc trưng này của ý niệm nguồn “ vật thể” trong ý niệm “Cuộc đời là vật thể” xuất
hiện 16/243 ca khúc:
“…Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời/ Để bao giờ trời đất yên vui/ Xin cho tôi xin lại
cuộc đời…”(Xin cho tôi)“…Một dòng sông trôi cuốn mãi về trời, bấp bênh phận người/ Mẹ
ngồi ru con đong đưa võng buồn, đong đưa phận mình…”(Ca dao mẹ)
“…Tim nào có bình yên/ Ta rêu rao đời mình…”(Ru ta ngậm ngùi)
“…Dựng nhà mới trên đổ nát này/ Dựng đời mới trong nụ cười…”(Dựng lại người
dựng lại nhà)
“…Từng vai áo phai sẽ xanh thêm đời/ Bàn tay làm nên những mùa vui….”(Em ở
nông trường em ra biên giới)
“…Em sẽ cho tôi cho tôi một đời/ Em sẽ cho tôi cho tôi một ngày/ …Từ chiều nay
em nên lặng lẽ tới…”(Em đã cho tôi bầu trời)
“…Mặt đường bình yên nằm ngoan như con suối/ Kết hoa vàng cho lộng lẫy
đời…”(Thành phố mùa xuân)
“…Gập ghềnh nhiều kiếp lưu vong/ Ta lăn đời đã quá đôi tay vẫn còn ôm mịt
mùng…”(Tình xót xa vừa)
Ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ” là một ẩn dụ ý niệm bản thể. Với ý niệm
“CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ”, cuộc đời được xem như một đối tượng được tri giác có hình
hài, kích thước, có thể nhìn thấy. Nhưng vật thể cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn thường
được gắn những đặc điểm: nhanh chóng thay đổi, thường ở những trạng thái không cố định.
Vì thế, những sự vật được Trịnh Công Sơn chọn để nói về cuộc đời thường là bông hoa “sớm
nở tối tàn”, là cây cối trong một trạng thái nhất thời nào đó, hay là dòng nước luôn chuyển
dời…. Và vì thế đặc điểm của “vật thể” ở miền nguồn ánh xạ lên miền đích “cuộc đời” trong
ca từ Trịnh Công Sơn mang đậm dấu ấn Phật giáo trong sự tri nhận của Trịnh về cuộc đời
chung của nhân loại cũng như cuộc đời riêng của mỗi con người trong hành trình sống của
mình. Những kết hợp bất thường như :“đời + nhẹ tênh”, “cọng + đời”, “ đời người + trổ
nhánh hoang vu”, “cho + đời”, “đời+ xanh rêu”, “xin lại+ đời”, “đời+ biển động”, “đời +
nát tan”…là cơ sở chủ yếu để hình thành ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ”. Từ cơ sở này
cho ta cơ chế hình thành ý niệm:
Miền đích Miền nguồn
CUỘC ĐỜI VẬT THỂ VÔ THƯỜNG
Có thể nhìn thấy, tìm kiếm;
Có kích thước, hình hài;
Luôn luôn đổi Có sự thay đổi bất thường không thể
thay không ngờ. lường trước được;
Nhanh chóng thay đổi theo
thời gian ;
Là vật chứa đựng;
Chịu sự tác động, sở hữu
của con người.
2.3.Cuộc đời là con người
Hằng ngày, được gặp lại mỗi gương mặt người, gặp lại cuộc sống, Trịnh Công Sơn
nhận thấy cuộc sống cũng như con người cũng gần gũi, thân quen nhưng cũng đáng thương
biết bao trong cái hoạn nạn của đất nước:
“…Mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm. Ðời sống thật sự
không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, vì sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết
hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời. Như đứa con ngoan không tuyệt tình nổi với rẫy
sắn nương khoai, nơi có bà mẹ suốt đời mắt không sáng nổi một ngày trẩy hội….”[24,
tr.197]
Vậy là mỗi cuộc đời trong suy nghĩ của Trịnh đều có định mệnh, có số phận như
con người, cuộc đời cũng chính là con người, nó được cụ thể hóa thành con người. Khảo sát
243 ca khúc của Trịnh Công Sơn, luận văn đã tìm thấy 52 ca khúc xuất hiện nhiều kết hợp
từ, câu thể hiện hành động, cảm xúc, trạng thái, thậm chí các bộ phận của con người, chỉ
dành cho con người để dùng cho cuộc đời. Và như thế, miền ý niệm đích “CON NGƯỜI”
trong ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI” được thể hiện khá đầy đủ với những đặc tính:
Có các bộ phận, cơ quan của con người, có trạng thái, hành động cảm tính, lí tính và tác
động có ý thức đến các đối tượng khác.
Trước hết, cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn được hình dung như một con
người có các bộ phận, cơ quan:
“…Từng ngày nắng úa ngoài hiên/ Một ngày buồn tênh đời giấu mặt…”(Ngậm
ngùi riêng ta)
“…Em đi cùng mùa xuân đến trong đôi tay cuộc đời/ Tim em rạng rỡ mặt trời chân
đến trường bước vội/…Em đi cùng mùa xuân đến trong đôi tay cuộc đời/ Quê hương gìn giữ
từng ngày cho em mùa xuân đầy…”(Em đến cùng mùa xuân)
“…Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng/ Ngọn gió vi vu thổi suốt xuân
thì…”(Một cõi đi về)”
“…Đời trần gian có môi hồng có mắt nhìn/…Đời trần gian có tim người có tay
chờ…”(Từng ngày qua)
Hình ảnh đôi tay, trái tim, môi, mắt, khuôn mặt là những bộ phận có tính biểu
trưng cao : đôi tay thường biểu trưng cho sức mạnh, trái tim dùng để nói đến tình yêu, khuôn
mặt là bộ phận biểu hiện sự thật, con mắt là “cửa sổ tâm hồn”, đôi môi thiếu nữ tượng trưng
cho vẻ đẹp, sự quyến rũ. Những hình ảnh này được Trịnh Công Sơn sử dụng để vẽ nên bức
chân dung của cuộc đời: là con người quyến rũ, giàu lòng nhân ái nhưng bí ẩn.
Là con người nên cuộc đời cũng nhận được cử chỉ, thái độ, tình cảm của con
người (dành cho con người): biết ơn, ban ơn, ru, dâng tặng, chào, chia tay…Đặc điểm này
được Trịnh Công Sơn nhắc đến trong 14/ 243 ca khúc
“…Hãy còn bước đi cho bình minh lên sớm/ Cho đời chút ơn biết tà áo nọ…(Cho
đời chút ơn)
“…Một ngày một ngày đã qua rồi/ Từng vùng từng vùng nắng trong/ Một ngày
một ngày biết ơn đời/…Cuộc đời này đã có em/ Từng ngày, từng ngày nhớ ơn đời…(Còn
thấy mặt người)
“…Thôi xin ơn đời, trong cơn mê này, gọi mùa thu tới…”
(Hạ trắng)
“…Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, tạ ơn ai đã đưa em về chốn
này…”(Tạ ơn)
“…Muốn một lần tạ ơn với đời/ Chút mặn nồng cho tôi…(Như một lời chia tay)
“…Những tâm hồn lá xanh tươi/ Biết ơn đời những tin vui…”
“…Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời, tạ ơn ai đã đưa em về chốn
này…”(Tạ ơn)
“…Những tâm hồn lá xanh tươi/ Biết ơn đời những tin vui…”
Khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta dễ nhận ra sự lặp lại nhiều lần của cụm
từ “tạ ơn đời”, “biết ơn đời” và một vài lần của cụm từ “cho đời…ơn”. Điều này cho thấy sự
tri nhận của Trịnh Công Sơn về cuộc đời như một con người chịu ơn và ban ơn đối với con
người. Nhưng chủ yếu cuộc đời được Trịnh Công Sơn nhìn nhận như là ân nhân của con
người, như là một đấng thiêng liêng. Qua đó, chúng ta có thể nhận ra sự trân trọng của Trịnh
Công Sơn đối với cuộc đời dù có lúc ông phải chịu đựng những đớn đau về thể xác và tâm
hồn giữa cõi đời này.
Ngoài ra, 5/243 ca khúc được khảo sát xuất hiện từ “ru đời”:
“…Em hãy yêu con người, ngọt ngào đời vẫn thế/ Em hãy dâng cho đời một nụ
hoa tình cờ” (Hoa xuân ca)
“…Ru hoài, ru đời, ru con được yên vui/…Ru hoài ru đời, ru vô vọng trên
môi…”(Lời ru đêm)
“…Ta biết em đêm đêm chờ đợi tiếng hát/ Ta biết em đêm đêm ru đời đã
mất…(Ru đời đã mất)
“…Ru đời đi nhé, cho ta nương nhờ lúc thở than/…Ru đời đi nhé, ôi môi ngon này
giữa trần gian…”(Ru đời đi nhé)
“…Chị ru con sao ru lạnh lùng/ Ru cha bỏ mình/ Ru đời chỉ còn mẹ với
con…”(Sao mắt mẹ chưa vui)
(Tình yêu tìm thấy)
“…Hơi thở ru đời, như gió ru mây…”(Xa dấu mặt trời)
Khi trả lời phỏng vấn nói về những khúc ru của mình, Trịnh Công Sơn đã cho
rằng: “Ru như thế không phải là ru em, mà thực chất là tôi tự ru tôi, tự ru để thanh lọc tâm
hồn không vương một chút oán hờn nào cho dù bị phụ rẫy”[ 23, tr. 88]. Vậy phải chăng,
đồng hóa cuộc đời với con người rồi cất tiếng ru cuộc đời cũng là hành động để Trịnh Công
Sơn ru dỗ mình, sưởi ấm đơn côi và an ủi, chia sẻ, giúp con người quên đi sự mất mát, đau
thương do chiến tranh mang lại. Đây cũng là ý nguyện nhân văn sâu sắc của Trịnh Công Sơn
đối với cuộc đời này.
Ngoài ra, chúng ta còn thấy xuất hiện hành động “chào cuộc đời”, “chia tay cùng
cuộc đời” thể hiện sự luyến tiếc của Trịnh đối với cuộc đời khi nghĩ về cõi thiên thu:
“…Đường trần rồi khăn gói/ Mai kia chào cuộc đời…” (Những con mắt trần gian)
“…Thí dụ bây giờ tôi phải ra đi/ Tôi phải đi tay chia tay cùng đời sống này/…Thí
dụ bây giờ em phải đi/ Em phải đi đôi tay em dù ưu ái đời…(Rơi lệ ru người)
Ngoài ra, mang trạng thái cảm xúc của con người là một đặc điểm nữa về cuộc
đời mà chúng ta có thể tìm thấy trong ca khúc của Trịnh Công Sơn. Đặc trưng này xuất hiện
trong 17/243 ca khúc với những từ ngữ: trăng trối, biết, buồn, vui, giá lạnh, ấm áp, bất ngờ,
băn khoăn, lo âu, già, trẻ… gắn với cuộc đời, biến cuộc đời thành con người có tâm trạng,
cảm xúc, có ý thức:
“…Một ngày như mọi ngày, đời nhẹ như mây khói/..Một ngày như mọi ngày, từng
mạch đời trăn trối…”(Một ngày như mọi ngày)
“…Em đã thôi cười nói chiều mưa/ Em đã đi đời có đâu ngờ…(Còn ai với ai)
“…Tôi xin là hôm nay, cho đời em trẻ mãi…”(Vì tôi cần thấy em yêu đời)
“…Vì có chúng em nên đời sống mãi không già/…Vì có chúng em nên mặt đất
luôn nở hoa /Vì có chúng em nên đời sống như trẻ ra…”(Đời sống không già vì có chúng
em)
“…Như một hòn bi xanh/ Trái đất này quay tròn/Đất già cho đời trẻ/ Nên đời
được yêu luôn…”(Như hòn bi xanh)
“…Một lần em đã đến/ Hân hoan ôi cuộc đời..”(Môi hồng đào)
“…Bao nhiêu năm rồi, còn mãi ra đi /đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…”(Một
cõi đi về)
“…Đời sẽ buồn như chiều hôm có cơn mưa rào/ Đời sẽ buồn như chiều đông nắng
lên nương dâu/…Đời sẽ buồn như một chiều nao…” (Như một vết thương)
“…Làm sao em biết, đời sống buồn tênh/ Đôi khi ta lắng nghe ta/ Nghe sóng âm
u dội vào đời buốt giá…”(Tình xa)
“…Người còn đứng như trăm năm vết thương chưa mờ/ Từng đêm về, từng đêm
về mang đời ngẩn ngơ…”(Phúc âm buồn)
“…Đường phố em về tóc cùng hoa quyến luyến/ Chồi lá khoe mầm cho đời biết
tên…”(Thành phố mùa xuân)
“…Chiều trên quê hương tôi/ ước bao nhiêu điều đã trôi qua/ Có riêng em cuộc
đời sẽ nhớ…”(Chiều trên quê hương tôi)
Sự xuất hiện dày đặc của những từ ngữ thể hiện tâm trạng (chủ yếu là tâm trạng
buồn đau tiêu cực), cảm xúc, ý thức của con người để gán cho cuộc đời để nhân hóa cuộc đời
cũng là để thể hiện cái nhìn của Trịnh Công Sơn về cuộc đời này: vừa yêu mến thiết tha vừa
băn khoăn, mỏi mệt .
Là con người trong ý niệm của Trịnh Công Sơn nên cuộc đời cũng mang những
hành động có ý thức của con người. Khảo sát 243 ca khúc, luận văn tìm thấy 8 ca khúc
nhắc đến cuộc đời có hành động như một con người : có thể cho, nhận, giấu, ban ơn, kêu gọi,
đốt nến, nâng bước, vỗ về…
“…Từng ngày nắng úa ngoài hiên/ Một ngày buồn tênh đời giấu mặt…”(Ngậm
ngùi riêng ta)
“…Đời vẽ tôi tên mục đồng/ Rồi vẽ thêm con ngựa hồng/…Đời vẽ trong tôi một
ngày/ Rồi vẽ thêm đêm thật dài/ ..Đời vẽ tôi tên tuyệt vọng/..Đời vẽ tóc em thật dài/ Rồi vẽ
môi thơm nụ cười/..Đời vẽ tim em lạ kỳ/…Đời vẽ tôi trong cuộc tình/ Đầy những yêu thương
giận hờn/…Đời vẽ tôi tên tuyệt vọng/…Đời đã cho tôi ngậm ngùi/ Đời sẽ cho thêm ngọt bùi/
Đời sống chan hòa trong tôi/ Đời đã cho tôi một ngày/ Nhìn thấy gian manh loài
người..”(Chỉ có ta trong cuộc đời)
“…Còn đây những đêm này/ Còn em hãy yêu tôi/ Đời đốt nến chia phôi/ Dù nhớ
thương cũng hoài…”(Còn có bao ngày)
“…Đời cho ta thế hãy cất bước đi mọi nơi/ Gặp nhau trong phố xin yêu không
nguôi những thân người/Đời cho ta thế đứng giữa bão tố không buồn vui/ Tự nghìn năm xưa
bao nhiêu chim muông cũng xa bầy/ Đời cho ta thế với những sớm tối không đổi thay/ Dù
tình vu vơ hay yêu thiên thu cũng chìm trôi…”(Đời cho ta thế )
“…Em về đâu hỡi em/ Hãy lâu khô dòng nước mắt/ Đời gọi em biết bao lần/…Đời
nhẹ nâng bước chân em/ Về lại trong phố thênh thang/…Bao buồn xưa sẽ quên/ Hãy yêu khi
đời mang đến/…Đời gọi em về giữa yêu thương/ Để trả em ngày tháng êm đềm…”(Đời gọi
em biết bao lần )
“…Cuộc đời cho tôi, cho tôi tiếng nói đôi khi vui tươi/ Cuộc đời cho tôi, cho tôi
tiếng nói đôi khi ngậm ngùi/ …Cuộc đời cho thêm , cho tôi trái cấm trên đôi môi em/ Cuộc
đời cho thêm, cho em có cánh bay đi vội vàng…”(Giọt lệ thiên thu)
“…Từ khi trăng là nguyệt, tôi nghe đời gõ nhịp ca/..Từ khi trăng là nguyệt, tôi
nghe đời vỗ về tôi…”(Nguyệt ca)
“…Làm sao đi đến từng trái tim mọi người/ Muốn nghe đời gọi giùm sống
thôi…”(Tôi sẽ nhớ)
Những hành động của cuộc đời có thể mang đến niềm vui, hạnh phúc, thời gian…
cũng có thể đem lại sự chia ly, nỗi thống khổ cho con người. Nhìn nhận cuộc đời như một
con người có những khả năng đặc biệt như vậy, phải chăng Trịnh Công Sơn muốn gửi gắm
cái nhìn của mình về hai chữ “định mệnh” của cuộc đời.
Cơ sở chủ yếu để phát hiện ra ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI” trong ca từ
Trịnh Công Sơn là sử dụng phương thức hoán dụ. Trong đó có sự kết hợp giữa một/ một số
yếu tố chỉ cảm xúc, hành động, trạng thái, bộ phận…của con người với “đời”/ “cuộc
đời”…Ẩn dụ ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI” là một loại ẩn dụ bản thể được mở
rộng sang thể nhân cách hóa. Nhân cách hóa được biểu đạt trong ẩn dụ ý niệm qua một miền
nguồn mà được gắn vào những đặc trưng của con người. Điều này cho phép ta hiểu được các
hiện tượng xảy ra trong cuộc đời này dựa trên cơ sở con người - là cơ sở mà qua đó chúng ta
có thể hiểu biết được về cuộc đời dựa vào động cơ, mục tiêu, hành động, tâm lý… của chính
chúng ta. Cách nhìn nhận một đối tượng trừu tượng là cuộc đời như một đối tượng cụ thể là
con người trong ca từ Trịnh Công Sơn là cách giải thích được cho nhiều người cùng hiểu về
bản chất của cuộc đời. Đồng thời, qua đó, chúng ta hiểu nhiều hơn về thái độ của Trịnh Công
Sơn đối với cuộc đời này. Cơ chế hình thành ý niệm này có thể được hình dung như sau:
Miền đích Miền nguồn
CUỘC ĐỜI CON NGƯỜI
Có bộ phận, cơ quan;
Có tâm trạng, cảm xúc;
Có hành động ý thức;
Có số phận con người;
Nhận hành động, thái độ,
tình cảm của con người
dành cho con người.
2.4.Cuộc đời là cõi tạm
Những đau thương, tang tóc mà Trịnh Công Sơn đã chứng kiến khiến ông luôn bị
“ Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ cho đến sau này vẫn
luôn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và cái chết trở thành một vấn đề lớn trong đời sống
tinh thần của tôi. Có lẽ suy cho cùng từ đâu mà ra cái suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cuộc sống,
sợ mất nó. Mất mát một cái gì đó mà mình từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng
tìm thấy như tình yêu, như cái gì đẹp nhất của cuộc sống sợ ngày nào sẽ mất đi. Sự mất mát và
cái chết là nỗi ám ảnh lớn nhất đời tôi”.[24,119].
ám ảnh về cái chết. Trịnh Công Sơn từng nói:
Nhưng đồng thời cũng thấy nó là một lẽ thường- lẽ thường đến nỗi nó trở thành
cái nơi quen thuộc như là nhà của mình, là quê hương, nguồn cội, là nơi vĩnh hằng để con
người trở về. Ý niệm “ CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM” đã xuất hiện 37/ 243 ca khúc.
Trước hết,Trịnh Công Sơn nhận thấy cõi chết là nơi vĩnh hằng. Ý niệm này xuất
hiện 6/243 ca khúc được khảo sát. Trịnh Công Sơn luôn đón chờ cái chết như trở về cõi thiên
thu (cõi nghìn năm-cõi vô lượng vô biên)
“…Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này…”(Phúc âm buồn )
“…Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua/ Chìm dưới đất kia một người sống
thiên thu/ Chìm khuất trong ta một lời vu vơ/ Chìm dưới thiên thu là một đóa thơm
tho…”(Chìm dưới cơn mưa)
“…Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây/ Còn bao lâu cho thiên thu xuống
trên thân này…” ( Phúc âm buồn )
“Chìm dưới cơn mưa một người chết đêm qua/ Chìm dưới đất kia một người sống
thiên thu”(Chìm dưới cơn mưa)
Bởi vì giữa “ đường thiên thu” và đường trần tuy hai mà một, không cách ngăn
nhau:
“Chợt tôi thấy thiên thu là một đường không bến bờ”,
“…Đêm sâu không xa lạ, kéo gần đêm thiên thu” (Đêm)
Hai tiếng “thiên thu” trở đi trở lại nhiều lần trong ca khúc Trịnh Công Sơn để nhắc
về cái chết – nỗi ám ảnh của Trịnh Công Sơn, đồng thời là luật định mà con người phải đón
nhận trong cõi nhân sinh này.
Cuộc sống con người trong những năm chiến tranh, tử thần luôn rình rập. Ở nơi
nào cái chết cũng vay quanh, chờ đợi. Cái sống và cái chết vì thế luôn song hành với nhau.
Vì thế, Trịnh đã nhìn thấy sự sống và cái chết rất gần nhau. Đây là ý niệm xuất hiện 13/
243 ca khúc . Trịnh nhận thấy con người khi sinh ra là đã nhìn thấy cái chết, là hẹn hò với cái
chết. Sống và chết luôn song hành nhau:
“…Sống từng ngày, chết từng ngày/ Còn hẹn sống một ngày là hẹn chết mai đây/
Sống từng ngày, chết từng ngày/ Còn sống một ngày là hẹn chết không may…”(Buồn từng
phút giây)
Mỗi kiếp người sinh ra vào lúc ấy như là một cái “nợ lưu vong” phải gánh lấy, là
“nỗi nhục chung thân” trên cõi đời bão tố:
“…Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn/ Giọt lệ ăn năn đưa con
về trần tủi nhục chung thân/ Một dòng sông trôi cuốn mãi về trời bấp bênh phận người/…Mẹ
ngồi ru con, nghe đất gọi thầm trọn nợ lưu vong…”(Ca dao mẹ)
Thân người sinh ra trên cõi đời cũng chỉ là hạt bụi, sống tạm bợ rồi trở lại cái bản
thể ban đầu của nó:
“…Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi/ Để một mai tôi về làm cát bụi/…Ôi cát bụi
tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi…”(Cát bụi)
Khi cất tiếng khóc chào đời, con người đã biết đến nỗi ám ảnh về cái chết. Lúc ở
tuổi xuân thì, con người đã nghĩ về cõi thiên thu. Giữa sống và chết không có một giới hạn
nào, mà trở thành một đường thẳng nối liền:
“…Về chân núi thăm nấm mồ/Giữa đường trưa có tôi bơ phờ/ Chợt tôi thấy thiên
thu là/ Một đường không bến bờ…”(Lời thiên thu gọi)
“…Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ/ Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa…/…Người đã
đến và người sẽ về bên kia núi/…Những ngày ngồi rủ tóc âm u/ Nghe tiền thân về chào bóng
lạ/ Những mai hồng ngồi nhớ thiên thu..”(Cỏ xót xa đưa)
Đến với cuộc đời, mỗi con người đều biết cuộc sống là chuỗi ngày ngắn ngủi. Ra đi
xa lìa thế gian là một định luật tất yếu, dù có níu kéo những ngày đã sống, đã vui cũng không
thể. Vì thế, nhắc đến “ngày về”, Trịnh luôn thấy tiếc nuối những chuỗi ngày “hò hẹn” với
nhân gian:
“…Đêm ta nằm bóng tối che ngang/ Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm/…Còn đây
có bao ngày/ Còn ta cứ vui chơi/ Rồi mai sẽ ra đi/ Dù nhớ thương con người/..Trong hội trần
gian/ Bao nhiêu ngày yêu dấu cũng không còn/ Từng dòng nước mắt sẽ nhớ thương con
người/ Từng dòng nước mắt sẽ tiếc cho ngày vui…”(Còn có bao ngày)
Và kêu gọi con người đừng hững hờ với những phút giây ngắn ngủi trên cõi thế:
“…Người nằm xuống nghe tiếng ru/ Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ…”(Mưa
hồng)
Thân người như thân cỏ, đời người như đời cỏ cây, như gió thoảng mây bay,
sống-chết chỉ là cái khoảnh khắc mong manh:
“…Sống có bao năm vui vui buồn buồn, người người ngợm ngợm/Sống chết
mong manh, như thân cỏ hèn, mọc đầy núi non…”(Giọt lệ thiên thu)
“…Ôi phù du, từng tuổi xuân đã già/ Một ngày kia đến bờ/ Đời người như gió
qua…”(Phôi pha)
Trong ca từ của Trịnh Công Sơn, chúng ta dễ dàng tìm thấy một tư tưởng nữa về
cuộc đời: chết là trở về nơi quen thuộc, trần gian chỉ là nơi trú chân. Với Trịnh Công Sơn,
cái chết là điều không ai tránh khỏi. Tiến trình hiện hữu của một con người chẳng qua là một
cuộc rong chơi của con người trên cõi thế. Còn cõi thiên thu mới là nơi về của con người. Ý
niệm này xuất hiện khá dày 18 trong số 243 ca khúc được khảo sát.
“Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây/ Đã vui chơi trong cuộc đời này/….Anh
nằm xuống như một lần vào viễn du/ Đứa con xưa đã tìm về nhà/ Đất hoang vu khép lại hẹn
hò…”(Cho một người nằm xuống)
“Người đã đến và người sẽ về bên kia núi” (Cỏ xót xa đưa), như là phút giây con người
chia tay nhau ở cuối một con đường để trở về nơi quen thuộc của mình:
“…Chiều nay em ra phố về, thấy đời mình là những đám đông/ Người chia tay nhau
cuối đường, ngày đi đêm tới trăm tiếng hư không”(Nghe những tàn phai).
Hay như là một người khách đến chơi rồi khăn gói lên đường ra về:
“…Đường trần rồi khăn gói, mai kia chào cuộc đời/ Nghìn trùng con gió bay…”
(Những con mắt trần gian).
Và mặt đất này chỉ là nơi con người rong chơi:
“…Hãy yêu nhau đi quên những ngày u tối/ Dù vẫn biết mai đây xa lìa thế giới /Mặt
đất cho ta những ngày vui với/ Hãy nhìn vào mặt người lần cuối trong đời…”(Hãy yêu nhau
đi)
Về với đất mẹ chính là về với sự vĩnh hằng, là về với sự nghỉ ngơi muôn đời, sau
cuộc hành trình mệt mỏi:
“…Mệt quá thân ta này, tìm đến với đất nghỉ ngơi/ Mệt quá thân ta này/ Nằm
xuống với đất muôn đời/ Kìa còn biết bao người/ Dìu dắt tới quanh đây…”(Ngẫu nhiên)
“…Vết lăn, vết lăn trầm/ Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền/ Như có lần chim
muông hằn dấu chân/ Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà/…Ôi vết hằn ghi trên
bồn gió hoang/ Chờ ta da du một chuyến…”(Vết lăn trầm)
“…Những hẹn hò từ nay khép lại, thân nhẹ nhàng như mây/ Đóa hoa vàng mỏng
manh cuối trời như một lời chia tay…”(Như một lời chia tay)
“…Chiều nay em ra phố về, thấy đời mình là những đám đông/ Người chia tay nhau
cuối đường/ Ngày đi đêm tới trăm tiếng hư không…”(Nghe những tàn phai)
“…Đường trần rồi khăn gói/ Mai kia chào cuộc đời/ Nghìn trùng con gió
bay…”(Những con mắt trần gian )
“…Tôi là ai, là ai, ba trăm năm trước tôi là ai, là ai, là ai?/Trở lại hóa kiếp rong chơi
giữa nơi này…”(Tôi tìm ai)
Từ chỉ hướng “về”,và từ chỉ thời gian “muôn đời” dùng gắn với cõi chết và “chia
tay”, “chào”, “hẹn hò” dùng gắn với cuộc đời, với sự sống đã nói lên sự tri nhận của Trịnh
Công Sơn về cuộc đời, đó là một cuộc hẹn hò gặp gỡ rồi đến lúc cũng cần chia tay với nó để
trở về nơi quen thuộc – cõi chết.
Trong một số ca khúc, chúng ta còn nhận thấy cái nhìn của Trịnh Công Sơn về
cuộc đời chỉ như là nơi trọ, nơi sống tạm bợ của con người:
“…Mọi người đã tới vây quanh cuộc đời/ Từng giờ tiếc nuối chia tay ngậm
ngùi/…Nhìn lại quanh đây lô nhô loài người/ Một ngày bỗng thấy gắn bó cuộc đời/ Mọi
người vẫn tới ta chưa lạc loài/ Dù còn phút cuối xin em nụ cười…”(Vẫn nhớ cuộc đời)
“…Hôm nay thức dậy, không còn thấy mặt trời/ Không còn thấy loài người/ Vây
phủ quanh đời/ Nói tiếng yêu thương…”(Xa dấu mặt trời)
“…Tôi nay ở trọ trần gian/ Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời…”(Ở trọ)
“…Xin cho tôi ra khỏi cuộc đời/ Để bao giờ trời đất yên vui/ Xin cho tôi, xin lại
cuộc đời…”(Xin cho tôi)
Ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM” là một ẩn dụ cấu trúc được cấu tạo đầy đủ
hai miền. Trong đó miền nguồn là “CÕI TẠM” mang những đặc điểm: không gian tồn tại
mong manh, không tồn tại vĩnh hằng, chóng mất đi, nơi dừng chân nghỉ ngơi của con người
ánh xạ lên miền đích tương ứng - “CUỘC ĐỜI”. Đây là trường hợp đặc biệt của ẩn dụ cấu
trúc. Bởi vì cả hai miền nguồn và đích đều là hai đối tượng trừu tượng. Vì vậy, cơ sở để phát
hiện ra ý niệm này dựa trên những suy luận phức tạp, dựa trên những trải nghiệm của con
người đối với sự sống, cái chết. Chẳng hạn, để nhận ra cuộc đời không tồn tại vĩnh hằng,
chúng ta phải dựa trên tư tưởng nhị nguyên của bản thể: sống- chết, vĩnh hằng- nhất thời.
Nếu cái chết là sự vĩnh hằng thì sự sống chỉ là nhất thời tạm bợ. Từ đó, đặc điểm cuả cõi tạm
cũng như cuộc đời là không tồn tại vĩnh hằng mới được bộc lộ. Để nhận ra bản chất mong
manh, dễ mất của cuộc đời tương ứng với cõi tạm, chúng ta cũng phải dựa trên nhiều đối
tượng trung gian: mối tương quan giữa sự sống, cái chết trong quan hệ với con người, mức
độ gần gũi giữa sống- chết, mối quan hệ giữa không gian và thời gian…Đặc điểm của cuộc
đời chỉ là cõi tạm, là nơi trú trọ, dừng chân tạm bợ của con người cũng phải dựa trên một
chuỗi suy luận : Thái độ của con người với cuộc đời –> thái độ đối với cái chết ->quan hệ
thân thiết, gần gũi của con người với cõi chết ->quan hệ tạm bợ của con người với sự sống ->
cuộc đời chỉ là nơi tạm dừng chân, nơi trọ tạm thời trong cuộc hành trình của con
người…Như vậy, cơ sở hình thành nên ý niệm “ CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM” chủ yếu dựa
trên sự suy ý, được xác định thông qua sự đối lập giữa sống và chết:
SỰ SỐNG CÁI CHẾT
Chóng kết thúc >< vĩnh hằng, cõi thiên thu
Cuộc hẹn hò >< chia tay trở về
Nơi trọ >< quê nhà
Ra đi >< trở về
Sự ngẫu nhiên >< Sự hiển nhiên
Từ sự đối lập giữa sự sống và cái chết như trên, tạo thành cơ sở cho ý niệm “
CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM” với cơ chế như sau:
Miền đích Miền nguồn
CUỘC ĐỜI CÕI TẠM
Sự sống rất ngắn ngủi Không phải là nơi vĩnh hằng;
Sự sống chỉ là tạm bợ Là nơi trú chân tạm bợ;
Sự sống và cái chết rất gần nhau Là nơi rất gần với cái chết.
*Tiểu kết
Trên 60 năm sống với cuộc đời, Trịnh Công Sơn chứng kiến những thăng trầm của
đời sống con người gắn với vận mệnh đất nước. Đặc biệt là bản thân ông đã có lần nằm trong
tình cảnh “thập tử nhất sinh” của số mệnh nên bản thân đã có những chiêm nghiệm về cuộc
đời chỉ như “bóng câu qua cửa sổ”, con người luôn đối diện với cái chết một cách nghiệt
ngã. Từ đó đã hình thành trong ông những ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM”, “CUỘC
ĐỜI LÀ VẬT THỂ” . Và con người sống là đang tiến hành một cuộc hành trình nhưng cái
đích của nó cũng là để trở về miền cát bụi mà thôi “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH”.
Dù biết rằng con người sống phải chấp nhận một sự thật là có một ngày phải chia tay với đời
sống này, phải rời xa nó để hoàn thành cuộc hành trình rong ruổi của kiếp người. Nhưng
mỗi ngày còn sống với cuộc đời, Trịnh Công Sơn vẫn luôn thể hiện thái độ tích cực đối với
nó. Ông trân trọng cuộc đời trong từng phút giây, từng nhịp thở, luôn yêu mến nó và có lúc
đã đồng hóa nó như một người bạn, người tình, như người ban ơn và cũng nhìn thấy nó trăn
trở, đau thương, thấy nó cũng chịu những rủi may như kiếp người. Điều này làm xuất hiện
thêm ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI” mà luận văn đã nói đến ở trên. Như vậy, ý
niệm về cuộc đời ở miền đích đã được sự ánh xạ, phóng chiếu của miền nguồn với bốn ý
niệm tương ứng: cuộc hành trình, vật thể , cõi tạm, con người. Trong đó, có những miền
nguồn được cấu trúc đầy đủ và ánh xạ lên miền đích tạo thành ẩn dụ ý niệm cấu trúc:
“CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH”, “CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM”. Có miền nguồn
được tạo nên từ trải nghiệm với bản thể thành ẩn dụ bản thể: “CUỘC ĐỜI LÀ CON
NGƯỜI”, “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ”. Có lẽ những ý niệm này không xa lạ với chúng ta
nhưng đến với ca từ Trịnh Công Sơn chúng mang một dấu ấn riêng bàng bạc sắc màu của
Phật giáo, của triết lý nhân sinh. Điều đặc biệt nữa là, hầu hết những ý niệm này được phát
hiện trên những cơ chế kết hợp từ mới lạ, độc đáo trong ca từ Trịnh Công Sơn tạo nên cái
hay, cái lạ, cái đẹp trong cái bất thường của sự kiến tạo từ ngữ ấy. Qua những ý niệm ở miền
nguồn, miền đích và trong mối liên hệ giữa chúng, chúng ta hiểu thêm về cái nhìn của Trịnh
Công Sơn đối với cuộc đời.
Chương 3: ẨN DỤ Ý NIỆM TÌNH YÊU TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN
Cũng như cuộc đời, tình yêu là một khái niệm trừu tượng. Theo nghĩa rộng, “tình
yêu là tình cảm nồng nhiệt làm cho gắn bó mật thiết và có trách nhiệm với người, với vật,
như “tình yêu quê hương”. Theo nghĩa hẹp, tình yêu là tình cảm yêu đương giữa nam và nữ,
như “tình yêu son sắt, thủy chung” [21, tr. 997]
Đối với tình yêu,Trịnh Công Sơn từng cho rằng: 12T“Tôi là kẻ vô đạo trong tình yêu
những khi tôi giận hờn cuộc đời. Khi cuộc đời yêu tôi, tôi sẽ là tín đồ của tình yêu.” [24,
tr.193]. Và vì thế, tình yêu xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn là sự kết tinh của niềm hân
12T “Tình yêu cho phép những ca khúc ra đời. Nỗi đau và niềm hân hoan làm thành bào
hoan và nỗi thống khổ mà người nhạc sĩ này đón nhận trong cuộc đời. Nó cũng là cuộc đời :
thai sinh nở ra âm nhạc. Âm nhạc như thế là tình yêu, là trong bản thân nó hàm chứa một
cõi nhân sinh bề bộn những khổ đau và hoan lạc. Không có bất hạnh và nụ cười có lẽ âm
12T Vậy là những bất hạnh mà Trịnh đón nhận trong cuộc đời chính là diễm phúc để
nhạc cũng không thể có duyên ra đời.”[24, tr.194].
nền âm nhạc Việt Nam đón nhận những tình ca bất hủ.Tình yêu trong nhạc Trịnh vì vậy
mang không ít những giọt nước mắt. Nhưng đó là giọt nước mắt long lanh, thanh khiết chứa
đựng sự bao dung cao cả . Và từ một ý nghĩa trừu tượng nó chuyển hóa thành những sự vật,
hiện tượng, con người cụ thể tạo thành những ý niệm vừa quen thuộc vừa lạ trong ca từ
Trịnh Công Sơn.
3.1.Tình yêu là vật thể
Trong thơ ca, đã có nhiều người nói đến tình yêu như một vật thể. Có thể dẫn ra
đây là nhà thơ Xuân Diệu, người được mệnh danh là ông hoàng của thơ tình Việt Nam.
Trong bài “Giục giã”:
“Mau lên chứ vội vàng lên với chứ/ Em em ơi tình non sắp già rồi…”[20,tr.565]
Trong bài “Hư vô”:
“Kẻ uống tình yêu dập cả môi/ Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi…”
“Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất/ Anh trao em kèm với một lá thơ/ Em không lấy
và tình anh đã mất/ Tình đã cho không lấy lại bao giờ…”[20,555]
Như vậy, với Xuân Diệu, tình yêu có thể được xem như một vật thể hiện hữu rõ
ràng có trạng thái “non, già” của trái cây, có thể “uống” như nước, có thể cho đi…Đến với
Trịnh Công Sơn, tình yêu cũng được xem như vật thể nhưng là vật thể đặc biệt. Và ý niệm
“TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ” đã xuất hiện 43/243 ca khúc được khảo sát. Tuy nhiên, không
giống với Xuân Diệu, vật thể tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn lại được tồn tại trong một
thể thức đặc biệt:
“…Ru em tình như lá, trăm năm vẫn quay về/ Môi em là đốm lửa, cuộc đời đâu biết
thế/ Xin em còn đâu đó, riêng tôi còn tiếng ru/ Ru em ngồi yên đấy, tôi tìm cuộc tình
cho…”(Ru tình)
“…Với bao ngày sống buồn vui/ Có những tình yêu tìm thấy…”(Tình yêu tìm
thấy)
“…Tình yêu như trái phá, con tim mù lòa/…Rồi tình vui trong mắt, rồi tình mềm
trong tay…”(Tình sầu)
“…Tình trong hai tay, một hôm biến mất…”(Con mắt còn lại)”.
“…Bờ vai như giấy mới/ Sợ nghiêng hết tình tôi…”
(Thương một người )
Sự xuất hiện của động từ “tìm” gắn với đối thể tình yêu và cụm từ “trong mắt”,
“trong tay” trong quan hệ vật chứa đựng và vật bị chứa đựng với tình yêu đã cho chúng ta
cảm giác tình yêu như một vật thể tồn tại trong không gian. Nhưng Trịnh Công Sơn nhắc
đến tình yêu không phải với ý nghĩa như một vật thể được vẽ ra đầy đủ hình hài của nó, được
xác định một cách chính xác về nó mà nó chỉ được cảm nhận qua cái không gian của sự tồn
tại mà thôi. Có thể là ở một không gian bị che khuất nên phải “tìm kiếm”, có thể là không
gian của đôi mắt “vui trong mắt”, không gian cảm giác của đôi bàn tay “tình trong hai tay”,
“tình mềm trong tay” hay trên đôi vai nhỏ bé của người tình. Đó là những không gian tồn tại
đặc biệt của tình yêu, những cảm nhận rất hay về tình yêu nhưng lại gần gũi với cảm thức
chung của người Việt Nam. Chẳng hạn như nói về ánh mắt trong tình yêu, dân gian hay dùng
cách nói “con gái yêu bằng lổ tai, con trai yêu bằng mắt” hay Nguyễn Du trong Truyện Kiều
đã để cho Từ Hải hỏi Thúy Kiều “ Mắt xanh đã để ai vào hay chưa?”; nói về đôi tay trong
tình yêu, dân gian lại có câu: “bắt cá hai tay” để chỉ những người đàn ông đa tình, cũng có
đôi lúc dùng từ “trắng tay” để nói đến sự ra đi của tình yêu; còn đôi vai cũng được sử dụng
trong những câu nói bình thường với ý nghĩa là nơi “gánh” tình “chưa một mảnh tình vắt
vai”. Đến với những bài hát của Trịnh Công Sơn, những ý niệm quen thuộc ấy được hóa
thân thành những lời ca hay, đầy sức quyến rũ.
Trịnh Công Sơn đã nhiều lần đến với tình yêu và cũng nhiều lần chia tay với tình
yêu. Lúc đến ai không hạnh phúc nhưng lúc tình ra đi để lại cho ông những vết thương lòng
quá sâu. Ông đã chiêm nghiệm tình yêu như những vật thể khó nắm bắt và dễ nghiêng rơi:
“…Bờ vai như giấy mới/ Sợ nghiêng hết tình tôi…(Thương một người)
Trong ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta còn dễ bắt gặp sự đồng hóa tình yêu với vật
thể ở nét tương đồng về lượng. Nghĩa là tình yêu có thể đong đo được. Đặc điểm này được
khảo sát và xuất hiện 10/243 ca khúc.
“…Không xa tình đầy và cũng không xa lạc loài…”(Đời cho ta thế)
“…Vì có chúng em nên tình yêu đã nhiều thêm…”(Đời sống không già vì có chúng
em)
“…Làm sao ru được tình vơi…”(Lặng lẽ nơi này)
“…Tình ngỡ đã phôi pha, nhưng tình vẫn còn đầy…”(Tình nhớ)
“…Tình mong manh như nắng/ Tình còn đầy không em?...”(Tình sầu)
Có lúc tình yêu được gắn với cái lượng “tí chút”:
“…Và riêng tôi xin có một ngày, ngồi thong dong trao đến mọi loài chút tình
tôi…”(Như tiếng thở dài)
“…Mười năm chân bước trên đường dài/ Gặp nhau không nói không nụ cười/
Chút tình dường như hiu hắt bay…”(Có một dòng sông đã qua đời )
“...Tàn đông con nước kéo lên/ Chút tình mới chớm đã viên thành…”
( Đóa hoa vô thường)
“…Em mang cho ta một chút tình/ Miệng cười khúc khích trên lưng…” (Quỳnh
hương)
Những từ ngữ “đầy”, “vơi”, “nhiều”, “ít” ấy dùng để định lượng của sự vật kết
hợp với đối thể “tình” là một khái niệm trừu tượng thuộc về phạm trù tình cảm của con
người làm cho tình yêu ở đây mang dáng dấp của vật thể trong những kết hợp “tình đầy”,
“tình vơi”, “ tình nhiều thêm”, “chút tình”. Tuy nhiên cái lượng ở đây của “ vật thể” tình
yêu cũng chỉ để ước lượng chứ không phải định lượng chính xác: “nhiều” khi cuộc sống con
người chan hòa với nhau, “ đầy” khi tình yêu đôi lứa ở giai đoạn đẹp nhất, “chút” khi con
người mang tình cảm đến với nhau, đến với cuộc đời một cách khiêm tốn hay khi tình yêu
đôi lứa đã nhạt phai,“vơi”để nói đến giai đoạn “trầm”, lúc nhạt phai của tình yêu.
Trong không gian, tình yêu còn tồn tại với khoảng cách có thể xác định:
“…Những ngón tay ngại ngùng, đã ru lại tình gần..”(Tình nhớ)
“Tình xa”
Cái gần, cái xa ở đây là khoảng cách được ước định của một vật thể hiện hữu nào
đó trong không gian, trong mối quan hệ với một đối tượng hiện hữu khác. Dùng “xa”, “gần”
gắn với đối thể tình yêu làm cho nó được đồng hóa với những vật thể hiện hữu ấy. Đây là
cách diễn đạt mới mẻ của Trịnh Công Sơn nhằm để nói đến mối liên hệ tình cảm (ở đây là
tình yêu nam nữ) giữa hai con người, lúc mặn nồng “gần”, lúc cách ngăn, không còn yêu
nhau “xa”. Cách sử dụng khoảng cách “xa”, “gần” để nói về biểu hiện của tình yêu đã giúp
chúng ta có thể liên tưởng đến tình yêu như một sự vật trong không gian.
Ngoài ra, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta còn bắt gặp sự xuất hiện khá
dày (14/243 ca khúc ) của những vật thể mang tính chất di động.
Có lúc như là con thuyền giữa biển khơi:
“…Một người về đỉnh cao, một người về vực sâu/ Để cuộc tình chìm mau, như
bóng chim cuối đèo…”(Tình nhớ)
“…cuộc tình nào đã ra khơi ta còn mãi nơi đây…”(Tình xa)
“…Xin vỗ tay cho đều khi đêm đổ xuống đời ta/ Xin vỗ tay cho đều khi tình trôi đã
trôi xa..”(Tình xót xa vừa )
“…Hôm nay thức dậy, không còn thấy ai/ Cuộc tình chìm xuống…”(Xa dấu mặt
trời)
Sự liên hội của những từ ngữ : “ chìm”, “ra khơi”, “trôi”, “chìm xuống” là động
thái của con thuyền trên mặt nước được gắn với chủ thể “cuộc tình”, “tình” làm cho tình yêu
trở thành vật thể là con thuyền. Hình ảnh con thuyền trên mặt nước là hình ảnh của sự trôi
nổi, biến động. Phải chăng đó cũng là đặc tính của tình yêu mà Trịnh Công Sơn đã chiêm
nghiệm được.
Có lúc, tình yêu như con sóng dưới lòng biển hồ:
“…Cúi xuống cho tình dấy lên, cho da thịt mềm…”(Cúi xuống thật gần)
Hình ảnh con sóng biểu trưng cho tình yêu không hiếm trong thơ ca. Xuân Quỳnh
có hẳn một bài thơ “Sóng” rất hay, Xuân Diệu trong nhiều bài thơ cũng mang hình ảnh sóng
để nghĩ về tình yêu, Lưu Trọng Lư cũng vậy, trong bài “Còn chi nữa”, nhà thơ cũng tri nhận
tình yêu như sóng nước vỗ vào mạn thuyền với thể thức đều đều, nhè nhẹ và thường xuyên:
“Giờ đây hoa hoang dại
Bên sông, rụng tơi bời
Đã qua rồi cơn mộng,
Đừng vỗ nữa tình ơi!...”[20, tr.103]
Còn với Trịnh Công Sơn, con sóng ở đây phải là sóng dưới lòng biển sâu “dấy
lên”. Chỉ là một chút gợn nhẹ của con sóng. Nhưng cái gợn ấy đột ngột vô cùng, bất ngờ vô
cùng và có chiều sâu vô cùng. Tri nhận tình yêu như con sóng như vậy, phải chăng Trịnh
muốn nói đến sự biến động bất thường của tình yêu- nhẹ nhàng, khó nhận ra là thế nhưng nó
gây ra biến đổi sâu sắc và bất chợt vô cùng.
Ngoài ra, chúng ta còn gặp không ít trường hợp, tình yêu được đồng hóa thành
cây, hoa, lá:
“…Hãy yêu cho tình còn xanh mãi/ Hãy chia cho đều những cuộc đời vui…”(Tôi sẽ
nhớ)
“Ru em tình như lá, trăm năm vẫn quay về…”( Ru tình )
Những phút giây ban đầu, tình yêu như nụ hoa chớm nở:
“…Tìm lại con trăng cho cuộc tình mới chớm…”(Đôi mắt nào mở ra)
“…Tàn đông con nước kéo lên/ Chút tình mới chớm đã viên thành..”(Đóa hoa vô
thường)
Hình như vật thể tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn được ông nhìn ngắm vào
cái trạng thái của nó chứ không phải vào hình hài của nó. Vì thế, Trịnh đã thấy nó trong cái
trạng thái tồn tại “xanh mãi”của cây, trong sự “rụng về cội” của lá hay sự “mới chớm” của
hoa. Phải chăng, tư tưởng Phật giáo nhìn mọi cái trong sự biến đổi, trong sự luân hồi đã ảnh
hưởng đến cái nhìn của Trịnh Công Sơn về cuộc đời, con người và cả tình yêu nữa. Cái xanh
của cây dù có thế nào cũng đâu thể bất biến, cái chớm của hoa đến lúc nào đó sẽ tàn và lá
xanh non sẽ úa rồi rơi rụng. Tình yêu cũng chóng đổi thay như cái trạng thái vô thường ấy
của hoa, lá, cây.
Một đặc điểm nữa góp phần tạo nên vật thể tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn là
chịu sự biến đổi dưới tác động của con người. Đặc điểm này xuất hiện 13/243 ca khúc.
Đến với ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta bắt gặp hình ảnh con người có thể mang
tình yêu để trao cho nhau:
“…Và riêng tôi xin có một ngày/ Ngồi thong dong trao đến mọi loài, chút tình
tôi…”(Như tiếng thở dài)
“…Em mang cho ta một chút tình/ Miệng cười khúc khích trên lưng…”(Quỳnh
hương)
“…Tạ ơn đời, tạ ơn ai/ Đã cho tôi tình sáng ngời như sao xuống từ trời…”(Tạ ơn)
Có thể đem tình ra để phơi, để treo như tấm áo:
“ Môi nào hãy còn thơm/ Cho ta phơi cuộc tình…”(Ru ta ngậm ngùi)
“…Xin đứng yên trong chiều, phơi tình cho nắng khô mau/…Xin đứng yên trong
chiều, treo tình trên chiếc đinh không…”(Tình xót xa vừa)
Có thể mang tình trên vai, làm rơi tình:
“…Bờ vai như giấy mới/ Sợ nghiêng hết tình tôi…”(Thương một người)
Cũng có thể ôm tình như một vật thể hiện hữu:
“…Sống có đôi tay, đôi tay thật dài, ôm quanh tình người…”(Giọt lệ thiên thu)
“…Ta ôm tình nặng trĩu, nghe quanh đời mưa bão…”(Yêu dấu tan theo)
Con người cũng có thể nối tình:
“…Những ngón tay ngại ngùng, đã ru lại tình gần…”(Tình nhớ )
“…Những ngón tay thơm, nối cuộc tình, nối lòng đổ nát…”(Ta thấy gì đêm nay)
Hay lăn tình: “Ta lăn tình đã quá đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng”
Những từ chỉ hành động của con người tác động vào vật thể hiện hữu: “mang”,
“cho”, “nối”, “treo”, “lăn”, “phơi”, “nghiêng” kết hợp với đối thể tình yêu làm cho tình
yêu phút chốc biến thành những vật thể chịu sự tác động của con người. Điều này khẳng
định thêm ý nghĩa con người là chủ thể của tình yêu, đồng thời cũng làm đậm thêm cái chất
vô thường, bất ổn và phụ thuộc vào hành động con người của tình yêu.
Như vậy, tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn là vật thể. Trong mối quan hệ với
con người, tình yêu có thể tri giác được (có thể nhìn thấy, có thể còn - mất); con người có thể
cầm, nắm, lăn, phơi, cho nhau, chắp nối….Trong quan hệ với không gian, tình yêu có thể
được xác định khoảng cách xa-gần trong quan hệ với đối tượng khác và cũng được ước
lượng “nhiều, ít, chút, đầy, vơi…” ; có thể là chất lỏng, là chiếc áo, là bông hoa, là lá, là cây,
là dòng sông, con thuyền, là biển cả…Có điều đặc biệt là vật thể tình yêu có thể nhìn thấy đó
nhưng mất đó, có lượng đó nhưng không thể định một cách rõ ràng, cả cái thể tồn tại của nó
là “mong manh” nhưng là “mong manh như nắng”. Có mấy ai có thể xác định được cái vẻ
mong manh ấy bằng con mắt thường hay không. Như vậy, cái mong manh ấy không còn là
cái mong manh của hình hài để tri giác mà là cái bản chất của sự vật- chóng phai tàn như ánh
nắng trong ngày, có đó rồi mất đó. Và tình yêu là sự vật trong thế giới, nhưng đó chỉ là
những sự vật mong manh chóng tàn, chóng đổi thay: hoa nở sẽ tàn, cây lá xanh tươi rồi héo
úa và sẽ trút lá khi đông về, dòng nước hay con thuyền cũng luôn luôn di dời đổi thay không
gian trú ngụ… Đó là những vật thể nằm trong cái luật vô thường, biến ảo. Tình yêu cũng
vậy, nó là cái trừu tượng được cụ thể hóa thành vật thể trong ca từ Trịnh Công Sơn. Nhưng
cái vật thể ấy cũng nhằm nói lên tính chất vô thường, biến ảo, tính chất mong manh, cái đẹp
siêu thực của tình yêu mà thôi. Cơ sở tạo nên những phát hiện ở miền nguồn “VẬT THỂ ”
trong ý niệm “TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ” là do những kết hợp bất thường thể hiện tính chất
hiện hữu của vật thể tình yêu :“tình yêu tìm thấy”, “tình mềm”, “tình mong manh”, “chút
tình”, “tình nhiều thêm”, “tình xa”, “tình gần”, “tình xanh”, “tình yêu mật ngọt”, “tình
yêu mật đắng”, “tình dấy lên”, ‘tình chìm xuống”, “tình trôi xa”, “nối cuộc tình”, “treo
tình”, “phơi tình”, “lăn tình”, “tình mới chớm”,…
Ẩn dụ ý niệm “TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ” là một trường hợp thể hiện sự tương
hợp của các ẩn dụ bản thể trong một cấu trúc ẩn dụ đơn lẻ mà trong đó các cặp ẩn dụ kéo
theo dựa trên thực tế về các vật thể hiện hữu trong thế giới khách quan tạo nên tính hệ thống
của ẩn dụ. Chúng ta có thể hình dung ra cơ sở suy luận của nó như sau:
Thực tế về vật thể:
Nằm trong giới hạn tri giác của con người;
Được xác định trong không gian về hình, lượng;
Xác định được trong quan hệ với các sự vật khác;
Chịu sự tác động của con người;
Các kéo theo ẩn dụ:
Tình yêu là sự hiện hữu;
Tình yêu làm cho con người có thể nhận biết nó bằng cơ quan thị giác;
Con người có thể tác động làm biến đổi tình yêu.
Từ đây hình thành cơ chế của ý niệm “TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ” như sau:
Miền đích Miền nguồn
TÌNH YÊU VẬT THỂ
Nằm trong giới hạn tri giác của
con người;
Được xác định về hình,
lượng trong không gian;
Xác định được trong
quan hệ với sự vật khác;
Luôn ở trạng thái di dời, thay đổi
Con người có thể tác động
làm biến đổi.
3.2.Tình yêu là cuộc hành trình
Đây là ý niệm xuất hiện trong 14/ 243 ca khúc được khảo sát.
Trịnh Công Sơn quan niệm tình yêu là cuộc hành trình. Nhưng không gian hành trình của tình
yêu không phải là một con đường bằng phẳng, thẳng tắp mà là con đường quanh co, đầy bí ẩn, nó
đưa con người đến nơi vô định:
“Tình yêu hình như không di chuyển trên một mặt phẳng. Nó thường dẫn người trong cuộc đi
qua những nơi chốn không hề dự phòng trước. Thế rồi một hôm bỗng dưng mọi chuyện cứ lệch lạc
hẳn đi và người trong cuộc thấy mình không còn là mình nữa.” [http://www.petalia.org/Loveland/
trinhcongson.htm]
Vậy là, con người đi trên đường tình là hành động vô cùng mạo hiểm. Con người đi nhưng
không biết trước được có đến đích hay không.
Trước hết, những trải nghiệm về tình yêu đã cho Trịnh Công Sơn nhận thấy tình yêu là
một cuộc hành trình trên con đường dài nghiệt ngã:
“…Đi trong tình dài, có người đã tới/ Sao trong hồn này tiếng lời hấp hối…”(Bay
đi thầm lặng)
Không giống với cuộc đời, chủ thể của hành trình tình yêu phải có đôi có cặp.
Nhưng có lúc họ lạc nhau trên con đường gập ghềnh và thậm chí mãi mãi không tìm lại được
nhau nữa:
“…Người tình kia mất con đường về, và trời kia mất em từ độ…”(Níu tay nghìn
trùng)
Con đường tình yêu là một không gian để người trải lòng với người. Nhân loại đã
đến với nó biết bao lần. Một con người cũng có thể đến với tình yêu nhiều lần. Trịnh Công
Sơn là người đã gặp gỡ tình yêu nhiều lần trong suốt hành trình sống của mình. Trịnh nhận
thấy mỗi cuộc tình qua đi đều để lại nỗi đau. Nỗi đau sau chồng lên nỗi đau trước. Vết
thương sau khắc sâu thêm vết thương vốn chưa lành. Vì thế, tình yêu đối với Trịnh Công
Sơn là một con đường đã đi qua nhiều lần. Nhưng điều đặc biệt là, dẫu có thất bại có bị tình
phụ thì trái tim yêu đương dù thoi thóp cũng không rời bỏ con đường quen thuộc ấy:
“…Khi tình đã vội quên, tim lăn trên đường mòn/ Trên giọt máu cuồng điên, con
chim đứng lặng câm…”(Ru ta ngậm ngùi)
Đó là con đường mà kẻ si tình luôn đứng để đợi một gót hài em đi qua:
“…Em đi qua chốn này, ối a sao em đành vội/ Tôi xin làm đá cuội và lăn theo gót
hài…”(Biết đâu nguồn cội)
Cũng giống như cuộc đời, tình yêu là cuộc hành trình định mệnh đối với Trịnh.
Chính tình yêu đã làm cho trái tim ông nhiều lần nhói đau.
Tình yêu trong nhạc Trịnh rất đẹp nhưng chóng tàn. Những đổ vỡ của tình yêu,
những trái ngang mà Trịnh gánh chịu cũng như những mối tình đơn phương mà Trịnh ngậm
ngùi đeo mang đã tạo nên không gian của con đường tình yêu trong nhạc Trịnh là không
gian luôn ở trạng thái buồn tẻ, héo hắt. Những cụm từ “đường…nỉ non”, “đường quạnh
hiu”, “đường…có nắng la đà”, “lời quạnh hiu suốt con đường tình” đã gợi nhắc đến không
gian buồn, trống vắng của đường tình.
“…Đường nào quạnh hiu tôi đã đi qua/Đường về tình tôi có nắng rất la
đà…”(Bên đời hiu quạnh)
“…Đường tình yêu nghe tiếng ai nỉ non…”(Có những con đường)
“12TNếu có dịp chạm vào tình yêu thì hãy thử mượn một cỗ xe chở lòng bất kính đến trước. Có
thể không hẳn là lòng bất kính mà một cái gì đó gần với sự thờ ơ, lãnh đạm hoặc một phương cách
lịch sự bóng bẩy phường tuồng. Đó là lá chắn cần thiết, một thứ bùa hộ mạng để chống đỡ những
mũi dao vô đạo có thể gây thương tích bất ngờ trên lòng tự trọng.”12T
[http://www.petalia.org/Loveland/ trinhcongson.htm]
Trịnh đã cảnh báo cho bất cứ ai đã, đang và sẽ yêu:
Bởi vì đoạn cuối của con đường hành trình yêu đương bao giờ cũng là sự khổ
đau: “Hãy khóc đi em, cuối cuộc tình còn đây những ngày buồn/…Hãy khóc hãy khóc đi em
cuối cuộc tình còn đây những mặn nồng/…Hãy khóc hãy khóc đi em, có còn gì tình đã mất
đường về…” (Hãy khóc đi em)
Điểm khởi đầu của tình yêu khó ai có thể biết được nó bắt đầu từ đâu, như Xuân
Diệu đã khẳng định:
“Đố ai định nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn
tôi bằng kỷ niệm/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu…”(Vì sao?)
Còn Xuân Quỳnh, trong bài “Sóng” cũng không thể tìm thấy cái “bắt đầu” của tình
yêu:
“Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu
nhau…”
Khảo sát 243 ca khúc của Trịnh Công Sơn chúng ta cũng không thể tìm được một
từ ngữ chính xác nào để xác định thời gian, địa điểm xuất phát của tình yêu, ta không thể tìm
được cái mốc khởi đầu của cuộc hành trình yêu đương. Có chăng chỉ là cái dấu hiệu “Từ
khi”: “ Từ khi trăng là nguyệt…”(Nguyệt ca) hay là “từ đó”: “Từ đó có em thì thầm…”.
Nhưng cái “đó”, cái “khi” ấy là lúc nào không ai có thể xác định được. Thế nhưng, kết thúc
của một cuộc tình ai cũng có thể nhận ra. Với nhiều người, đoạn cuối của tình yêu có thể là
một cái đích hạnh phúc, hôn nhân là cái đích đến của mỗi cuộc tình. Nhưng với Trịnh Công
Sơn, cho đến thời điểm ông mất đi, ông vẫn là một người độc hành trên con đường tình, với
“lý lịch” không vợ, không con và có rất nhiều người tình…đã xa. Vì thế, chưa đến cái đích
của con đường tình, sự chia ly đã xảy ra với tình yêu trong ca từ của Trịnh. Nên không gian
trong cuộc hành trình tình yêu với Trịnh luôn là một không gian buồn tẻ. Nhưng điều đặc
biệt là sự chia ly ấy không mang dấu chấm hết mà nó mang dấu chấm lững của dư âm. Và vì
thế, con đường tình trong sự tri nhận của Trịnh Công Sơn là một con đường hư ảo không rõ
điểm đầu, điểm kết và hướng đi của nó. Cũng vì vậy mà chủ thể dấn thân vào tình yêu dễ rơi
vào những cơn mộng mị mà quên mất đường về:
“…Người tình kia mất con đường về/ Và trời kia mất em từ độ…/ Và từ đó có em
thì thầm/ Lời quạnh hiu suốt con đường tình…”(Níu tay nghìn trùng)
Như vậy, con đường với ý nghĩa là không gian của cuộc hành trình tình yêu có thể
được xác định bằng các đặc điểm sau:
CON ĐƯỜNG
Có chiều dài;
Có trạng thái không gian;
Có người đi lại;
Điểm mở đầu và kết thúc con đường không được xác định rõ;
Không gian vắng vẻ,quạnh hiu.
Là con đường, tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn được xác định có chiều dài, có
khoảng cách, có trạng thái không gian, có người đi lại là đôi tình nhân. Nhưng con đường
trong ca từ của ông không thể có chiều dài cụ thể vì nó không được xác định điểm đầu và
điểm cuối. Còn không gian hành trình thì vắng vẻ, quạnh hiu. Hay nói một cách khác, đó là
con đường hư ảo. Vì cuộc hành trình của tình yêu là cuộc hành trình trên con đường hư ảo
nên đây là cuộc hành trình kỳ lạ, không xác định được đích đến và cũng không thể xác định
được điểm xuất phát của nó. Vì thế cách thức hành trình có “đi”, “trôi” hay “lăn” thì chủ thể
hành trình cũng trong trạng thái vô định. Và rồi kẻ hành trình đến đoạn cuối con đường luôn
độc hành dấn bước.
Như vậy, ý niệm “TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH KỲ” trong ca từ Trịnh
Công Sơn là một ẩn dụ cấu trúc, được tạo nên từ hai miền nguồn và đích tương ứng: TÌNH
YÊU (miền đích), CUỘC HÀNH TRÌNH (miền nguồn)
Ý niệm này có thể được hành thành từ cơ chế sau:
Miền đích Miền nguồn
TÌNH YÊU CUỘC HÀNH TRÌNH
Không xác định rõ nơi bắt đầu Con đường hư ảo (không
và kết thúc xác định rõ điểm đầu và cuối);
Không có Không xác định hướng đến;
Hôn nhân
Bị tình phụ Chủ thể ở tâm thế lẻ loi, đơn độc.
3.3. Tình yêu là con người.
Đây là ý niệm xuất hiện trong 19/ 243 ca khúc khảo sát.
Dù là người chịu nhiều mất mát, đau thương trong tình yêu nhưng khi bàn đến tình
yêu, Trịnh Công Sơn khẳng định rằng “Cuộc sống không thể thiếu tình yêu” và đồng thời nói
12T “Người ta nói trên trái đất không có gì ở ngoài qui luật cả. Nhưng tình yêu hình
rõ tính hai mặt của nó:
như cũng có lúc là một ngoại lệ. Tình yêu có thể nâng bổng con người nhưng cũng lắm lúc
12T Với Trịnh, tình yêu như là một con người và hơn nữa đó là một con người có uy
nhấn chìm kẻ háo hức”.[http://www.nhantrachoc.net.vn]
lực rất lớn, có thể làm cho người ta vui hoặc buồn, phấn chấn hay gục ngã.
Trước hết, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta sẽ tìm thấy sự đồng hóa tình
yêu với con người bằng cách cho tình yêu mang những hành động của con người. Đặc
điểm này xuất hiện với tần số 5/ 243 ca khúc.
Đã đến với tình yêu nhiều lần và chia tay nhiều lần với nó. Lúc đến, tình yêu vô
cùng đẹp, có thể hóa kiếp cho con người từ khổ đau thành hạnh phúc, có thể như người thợ
điêu luyện phá hủy bức tường sỏi đá trong con người. Trịnh đã nhận ra uy lực ghê ghớm của
tình yêu :
“…Mặt trời nào soi sáng tim tôi/ Để tình yêu xây mòn thành đá cuội…”(Cát bụi)
Vì thế, con người sinh ra cần phải đón nhận tình yêu - dù đó là tình yêu lứa đôi
hay tình yêu nhân loại. Chính tiếng nói của tình yêu cũng có thể đem lại cho con người sự
định hướng trong dòng đời xuôi ngược:
“…Em về đâu hỡi em/ Có nghe tình yêu lên tiếng…”(Đời gọi em biết bao lần)
Tình yêu có thể mang lại hạnh phúc cho con người mà cũng có thể làm tắt nụ cười
trên môi con người. Nó có thể nâng bổng con người mà cũng có thể vùi dập con người, đày
đọa, làm khổ đau con người:
“…Tình khâu môi cười/ Hình hài xưa đã thay/..Tình chia nhau gian dối/ Tình đày
tình đôi nơi/…Tình thắp cơn sầu/ Tình chìm qua hố sâu/ Tình vời lên núi cao/ Rồi trong cơn
yêu dấu/ Tình đày tình xa nhau/…Tình đi âm thầm/ Nghìn trùng như vết sương…”(Tình sầu)
Tiếng gọi yêu đương nằm tận sâu trong mỗi đáy lòng người. Hai trái tim xa nhau,
gọi lại nhau cũng trong sự thầm lặng héo hon:
“…Tình réo tình âm thầm/ Sầu réo sầu bên bờ vực sâu…”(Tình xa)
Những từ ngữ chỉ hoạt động của con người: xây, khâu, thắp, đày, đi âm thầm được
gắn với chủ thể tình yêu làm cho tình yêu trở thành con người cụ thể lúc hiện lên với hành
động tiêu cực “khâu môi”, “thấp sầu”, đày đọa, lúc thì lặng lẽ “đi âm thầm”. Nhưng có lẽ, dù
thế nào thì những hành động ấy cũng tạo nên những kết quả không tích cực, tạo sự đau
thương. Phải chăng đó là những điều mà Trịnh đã đúc kết được về tình yêu trong những trải
nghiệm với nó của mình – tình yêu đem lại sự khổ đau cho con người.
Ngoài ra, mang trạng thái của con người là một đặc điểm nữa về “con người” tình
yêu trong ca từ của Trịnh Công Sơn. Đây là đặc điểm xuất hiện 11/243 ca khúc.
Nếu như mỗi con người có những trạng thái không giống nhau trong những hoàn
cảnh khác nhau thì tình yêu cũng có những trạng thái khác nhau:
“…Biển ơi, có tình vui đùa, có tình ơ hờ..là tại sao/ …Có tình ân cần, có tình
không tình giữa vực sâu…”(Muôn trùng biển ơi)
Những trạng thái đối lập của con người: vui đùa/ ơ hờ, ân cần/ không tình được gán
cho tình yêu. Làm cho tình yêu mang những trạng thái đối lập. Phải chăng sự đối lập ấy là
căn nguyên của những bất thường và đa dạng trong những biểu hiện của tình yêu.
Nếu như Hàn Mặc Tử trong bài “ Trút linh hồn” đã từng nói đến tình yêu trong cái
mệnh “chết yểu” của nó :
“Máu đã khô rồi thơ cũng khô/ Tình ta chết yểu tự bao giờ!”
Thì Trịnh Công Sơn cũng thấy cái chết của tình yêu dưới bàn tay trù dập của đôi
tình nhân:
“…Ai đã chia người mãi xa người/ Ai giết đi tình đang lứa đôi..”(Còn ai với ai)
Nếu như chúng ta đã từng biết đến cái “thiên thu” của đời người mà Trịnh Công
Sơn đã nhắc đến khi nói về cuộc đời thì đối với tình yêu nó cũng có một cõi “nghìn
thu”tương ứng:
“…Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu…”(Còn tuổi nào cho em)
Khi đã mỏi mệt với những vết thương, giấc ngủ thiên thu sẽ về trên cuộc tình:
“…Tình vừa ngủ yên, dưới bóng tối tăm…”(Vẫn nhớ cuộc đời)
Tình yêu khi không còn trọn vẹn nó rơi vào trạng thái cô đơn, lạc lỏng:
“…Em đứng lên mùa thu tàn tạ/ Hàng cây khô tình bơ vơ…”(Gọi tên bốn mùa)
Con người cũng có thể rơi vào nỗi buồn khi cô đơn, trống vắng. Mỗi cuộc tình cũng
mang trạng thái ấy :
“…Tình reo vui trong nắng, tình buồn làm cơn say/…Một dòng sông nước cuốn,
một cuộc tình không may/…Rồi tình trong im tiếng, rồi tình ngoài hư hao…”(Tình sầu )
“…Nghe tình chợt buồn trong lá xôn xao/ Để mùa xuân sau, mua riêng tình
sầu…”(Tôi ru em ngủ )
“…Tình sẽ buồn như là nấm hoang/ Ôi hiu quạnh với nến tàn…”(Như là vết
thương)
Mỗi con người được sinh ra từ bào thai của mẹ, mỗi cuộc tình được sinh ra trên
chính tiếng nói từ đôi môi em:
“…Ru em chờ em nói/ Trên môi tình thoát thai/…Ru em ngồi yên đấy/ Tôi tìm
cuộc tình cho…”(Ru tình)
Theo giáo lý của đạo Phật, cái không và cái có là thường hằng bên nhau “có có,
không không..” trong cuộc sống con người. Trịnh Công Sơn cũng nhìn nhận những cuộc tình
trong cái trạng thái ấy- ngỡ không nhưng lại có, ngỡ đã mất nhưng còn trong lòng người đi,
kẻ ở:
“…Tình ngỡ chết trong nhau/ Nhưng tình vẫn rộn ràng…”(Tình nhớ)
Khi người tình ra đi, để lại một vết thương đau cho cuộc tình. Một lần người tình
ấy trở về tạ tội, cuộc tình mang vết thương kia có thể làm dịu đi nỗi đau ấy:
“…Bao nhiêu năm bỗng lại nhiệm màu/ Trả nợ một lần quên hết tình đau…”(Xin
trả nợ người)
Những sự kết hợp bất thường “tình đau”, “ tình nghìn thu”, “tình chết”, “tình
buồn”, “tình reo vui”, “tình ân cần”, “tình ơ hờ”, “tình ngủ yên”, “tình thoát thai” đã giúp
đồng hóa tình yêu với con người. Từ những cụm từ kết hợp ấy liên hội lại với nhau tạo nên
sự liên tưởng của chúng ta về trạng thái của con người. Nhưng trạng thái cũng nằm trong sự
thay đổi, lúc thế này, lúc thế kia. Phải chăng đó cũng là ý nghĩ về tình yêu mà Trịnh gửi gắm
qua các ca khúc của mình.
Bên cạnh đó, Trịnh Công Sơn còn đồng hóa tình yêu với con người bằng cách cho
nó có số phận, cuộc đời như con người. Ý niệm này xuất hiện với tần số 3/243 ca khúc.
Mỗi một cuộc tình còn có số phận riêng của nó. Trên hành trình lênh đênh, nó có
thể gặp rủi ro:
“…Một dòng sông nước cuốn/ Một cuộc tình không may…”(Tình sầu)
Và còn có cuộc đời riêng của mỗi cuộc tình:
“…Từng ngày chôn chân nhớ phố lang thang/ Đời tình nuôi quên những sáng
mênh mông…”(Tình xót xa vừa)
“…Đời tình nhân đã bao lần giá rét…”(Từng ngày qua)
Ý niệm “TÌNH YÊU LÀ CON NGƯỜI” trong ca từ Trịnh Công Sơn được hình
thành trên cơ sở kết hợp một/ một số từ thuộc trường từ vựng chỉ con người với từ vựng chỉ
tình yêu (tình/ tình yêu/ cuộc tình). Sự kết hợp từ và chuyển nghĩa theo phương thức nhân
hóa đã chuyển hóa tình yêu từ một khái niệm trừu tượng trở thành một đối tượng cụ thể đó là
con người và hơn nữa là một con người kỳ lạ. Vì ở con người này không chỉ là một con
người bình thường có các bộ phận (có tay, có mắt, có môi…), có số phận, có hành động
mang ý thức của con người, có vẻ đẹp, có trạng thái cảm xúc mà còn được sinh ra từ những
nơi không ngờ nhất: trong gió, trong mây, trên đôi môi… và có những quyền năng vô lượng:
có thể làm thay đổi cuộc đời, thay đổi thế giới quan, thay đổi tâm trạng, làm tắt nụ cười hay
ban ân huệ cho con người.
Như vậy ý niệm “TÌNH YÊU LÀ CON NGƯỜI” là một ẩn dụ bản thể được tạo
thành từ cơ chế sau:
Miền đích Miền nguồn
TÌNH YÊU CON NGƯỜI
Có các bộ phận, cơ quan của con người
Có tâm trạng cảm xúc;
Hành động có ý thức
Có quyền năng kỳ lạ.
3.4.Tình yêu là hư vô
Đây là ý niệm xuất hiện với tần số 23/ 243 ca khúc.
Trước hết, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta bắt gặp cái nhìn của ông về tình
yêu như là hương vị, màu sắc không có hình hài và thoáng chốc mất đi. Tình cảm là một
phạm trù có lẽ khó nắm bắt nhất trong tất cả các phạm trù. Không riêng gì Trịnh Công Sơn,
nhiều người cũng nói về đặc tính hư vô, tạm bợ của tình yêu. Xuân Diệu trong bài “Chỉ ở
lòng ta”cũng thừa nhận tình yêu chỉ như những thứ tạm bợ, như một “quán trọ bên đường”,
“mái tranh tàn”, “vò nước lã” để sử dụng trong những trường hợp nhất thời mà thôi:
“…Cuộc đời cũng đìu hiu nơi dặm khách/ Mà tình yêu như quán trọ bên đường/
Mái tranh tàn đỡ rét một đêm sương/ Vò nước lã mát xoàng đôi buổi nắng…”[19,561]
Hay là tình yêu như hương gửi trong gió:
“…Tình yêu muôn thuở vẫn là hương/ Biết mấy lòng thơm mở giữa đường/Đã
mất tình yêu trong gió rủi/ Không người thấu rõ đến nguồn thương…”
(Gửi hương cho gió)
Đến với ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta bắt gặp tình yêu được tồn tại trong
những dạng thức tồn tại của hương vị, màu sắc:
“…Bước chân về với gian nhà với trái tim còn nặng nề/ Xót xa gì oán thương gì
đã biết mùi hương chia ly/… Hồn lìa rồi nhưng em ơi, tình còn nồng đôi con ngươi…”( Chủ
nhật buồn)
“…Mười năm chân bước trên đường dài/ Gặp nhau không nói không nụ cười/ Chút
tình dường như hiu hắt bay…”( Có một dòng sông đã qua đời)
“…Tim mỗi người là quê nhà nhỏ/ Tình nồng thắm như mặt trời xa…”
(Em là hoa hồng nhỏ)
Em mang tình yêu đến với tôi như mang mùi hương đến trong con phố nhưng
hương yêu ấy chỉ thoảng qua và bay mất:
“…Em đến bên đời hoa vàng một đóa/ Một thoáng hương bay bên trời phố hạ/ Nào
có ai hay ta gặp tình cờ/ Như là cơn gió/ Em còn cứ mãi bay đi…”(Hoa vàng mấy độ)
“…Có chút tình thoảng như gió vội/ Tôi chợt nhận ra tôi…”(Như một lời chia tay)
Em đến mang tình yêu đến như là ân huệ cho tôi và em ra đi cũng còn vương vấn
mãi mùi hương”nhân từ”:
“…Mưa xa mờ mịt áo em phai nhòa/ Không gian còn lại chút hương nhân
từ…”(Mưa mùa hạ)
Hương yêu quen thuộc, ngọt ngào nhưng chóng mất đi:
“…Tình reo vui trong mắt/ Tình buồn làm cơn say/…Tình yêu như hương áo quen
hơi ngọt ngào/ Rời nhau hôm nào hồn mình như vá khâu…”(Tình sầu)
Tình yêu có lúc là vị ngọt, có khi là vị đắng:
“…Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi/ Tình yêu mật đắng, mật đắng trong
đời…”(Lặng lẽ nơi này)
Khi mất đi, khi không còn mặn nồng nữa, khi đến hồi kết thúc, tình yêu cũng đi
vào trạng thái phai, nhạt, phôi pha như trạng thái của sắc màu:
“…Tìm tình tìm tình trên núi em gặp mây bay/ Ô hay tìm tình giữa chợ tình phai
mất rồi…(Bống không là Bống)
“…Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai/ Tình trong hai tay một hôm biến
mất…”(Con mắt còn lại)
“…Đi không còn biên giới/ Chút tình kia đã phai…”(Đi mãi trên đường)
“…Chuyện chúng mình ngày xưa anh ghi bằng nhiều thu vắng/ Đến thu này thì
mộng nhạt phai…”(Nhìn những mùa thu đi)
“…Bống về nơi nào/ Vó ngựa tình sâu/ Đất nồng nỗi nhớ/ Tình Bống nhạt
nhòa…”(Thuở Bống là người)
“…Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy…”(Tình nhớ)
Có một thứ cảm xúc trên cõi đời này chóng đến chóng đi, chóng đổi thay như
hương thoảng trong gió, như sự đổi thay sắc màu của lá cây, đó là tình yêu:
“…Tình tựa lá bỗng vàng bỗng xanh/ Em ra đi như thoáng gió thầm…”(Tạ ơn)
Sự gắn kết của những từ ngữ chỉ trạng thái tồn tại, sắp mất đi hay cách thức hoạt
động, đặc tính của hương thơm, màu sắc “nồng”, “thắm”, “phai”, “bay”, “nhạt nhòa”,
“phôi pha”, “ngọt”, “đắng” với từ chỉ tình yêu tạo thành những kết hợp “tình nồng”, “tình
thắm”, “tình phai”, “tình…nhạt nhòa”, “tình phôi pha”, “tình..ngọt”, “tình…đắng”, Trịnh
Công Sơn qua đó đã đồng hóa tình yêu thành hương vị, sắc màu. Đó là những phạm trù phi
vật thể, không thể sờ nắm được, đặc biệt nhanh chóng thay đổi và tồn tại trong khoảnh khắc
rất ngắn. Phải chăng, đồng hóa tình yêu với hương vị, màu sắc, Trịnh Công Sơn muốn công
nhận ở nó đặc tính vô thường, dễ mất.
Ngoài ra, tìm hiểu ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta còn bắt gặp những ý niệm cho
rằng tình yêu không thể tìm kiếm nơi hữu thể.
Có lúc, tưởng rằng không gian tồn tại của tình yêu là nắng. Nắng là sự vật không
hình hài, là một hiện tượng tự nhiên.Vì vậy, cái đối tượng được gọi là tình yêu chứa đựng
trong cái không gian vô hình, vô lượng ấy cũng chỉ có thể là cái vô hình, vô lượng nên cũng
đâu dễ kiếm tìm. Thế nhưng tìm mãi ở những vật hữu thể như trên núi, giữa chợ cũng không
thể tìm kiếm được, cả không gian động và tĩnh đều không thể tìm thấy tình yêu:
“…Tìm tình, tìm tình trong nắng em gặp cơn mưa/ Ô hay tìm tình giữa ngọ buồn lưa thưa
về/ Tìm tình, tìm tình trên núi em gặp mây bay/ Ô hay tìm tình giữa chợ tình phai mất
rồi…”(Bống không là Bống)
Tìm hiểu ca từ Trịnh Công Sơn, chúng ta phát hiện rất nhiều lần động từ “tìm”
được lặp lại gắn kết với đối thể tình yêu. Nhưng kết quả của việc tìm kiếm hình như không
thể nào thấy được. Nếu có thì cái đối tượng ấy vẫn không phải là tình yêu:
“…Tìm trong gió vô tình/ Tìm trong cõi lặng im/..Tìm nhau giữa vô cùng/ Ta tìm
trong nỗi nhớ/ Ta tìm trong ngọn gió hư vô…”(Còn mãi tìm nhau)
Vì tình yêu là hư vô ảo vọng nên thoáng chốc rồi nó cũng “biến mất” đi:
“…Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai/ Tình trong hai tay một hôm biến
mất…”(Con mắt còn lại)
Là cái hư vô nên tình yêu cũng chỉ tìm kiếm trong cái hư vô, cái phù du của
mây gió trời, của nỗi nhớ mà thôi:
“…Tìm nhau giữa vô cùng/ Ta tìm trong nỗi nhớ/ Ta tìm trong ngọn gió hư vô…”
“…Từ đó trong vườn khuya/ Ôi áo xưa em là một chút mây phù du/ Đã thoáng qua
đời ta/…Từ đó em là sương/ Rụng mát trong bình minh/ Từ đó ta là đêm/ Nở đóa hoa vô
thường…”(Đóa hoa vô thường)
“… Sài Gòn nắng mưa em ngày ấy/ Còn là hạt bụi giữa hư vô…”(Hai mươi mùa
nắng hạ)
“…Tay hư vô che dấu/ Chiều qua truông mây sâu/ Rồi tình yêu cũng qua
mau…”(Lời của dòng sông)
“…Em gọi nụ hồng vừa tàn cuối sân/ Nghe tình chợt buồn trong lá xôn xao/ Để
mùa xuân sau mua riêng tình sầu…”(Tôi ru em ngủ)
Và thậm chí, với Trịnh, tình yêu còn là nắng. Trịnh Công Sơn từng tâm sự:
“Trước kia mình tưởng mưa buồn, nhưng giờ mình thấy nắng thật sự buồn. Bởi dung
nhan của nắng luôn thay đổi và màu sắc của nó mới thật gần với đời sống của con người. Nó
có sớm mai, có trưa, có tàn phai, có một buổi chiều của một đời người. Còn mưa chỉ ào
xuống rồi thôi, và mưa chỉ có một màu”. [26, tr.197]
Với quan niệm như vậy, Trịnh Công Sơn nhận thấy tình yêu cũng như đời sống của
con người là những cái dễ biến động, dễ đổi thay cũng như nắng của một ngày.
Khi tình yêu của con người đi đến giai đoạn kết thúc thì cũng giống như ánh nắng
chiều hôm không còn nữa:
“…Tình như nắng vội tắt chiều hôm/ Tình không xa nhưng không thật gần…”(Như
một lời chia tay)
Nắng là biểu tượng của tình yêu trong tim con người:
“…Đi về đâu hỡi em, khi trong lòng không chút nắng/…Trả lại nắng trong tim, trả
lại thoáng hương thơm…”(Đời gọi em biết bao lần)
Ở Trịnh, dường như tình yêu nó có một lẽ bất thường, nó là niềm vui là hạnh phúc
của con người nhưng giá trị của nó lại tỷ lệ thuận với nỗi đau. Vì thế tình yêu càng lớn thì
nỗi đau càng nhiều. So sánh tình yêu với “chút nắng” là cách khẳng định sự chóng đổi thay
của nó.
“…Tình ngỡ đã phôi pha/ Nhưng tình vẫn còn đầy/…Khi cơn đau chưa dài/ Thì
tình như chút nắng/ Khi cơn đau lên đầy/ Thì tình đã mênh mông…”(Tình nhớ)
Tình đến rồi tình đi. Có lúc tưởng nó ở lại, nó lại ra đi. Có lúc tưởng nó bền vững,
nó lại không còn. Chỉ cần một cái chạm khẽ, tình yêu có thể ra đi như ánh nắng sớm mất đi
vì một bóng râm của đám mây bay ngang trời và mất đi khi tà dương ập xuống:
“…Tình mong manh như nắng/ Tình còn đầy không em…”(Tình sầu)
Suốt cuộc hành trình của tình yêu, Trịnh Công Sơn như là người cứ mãi đuổi theo
một cái bóng. Hết cái bóng này lại đến cái bóng kia. Và rồi có những mối tình tưởng chừng đã
có kết thúc có hậu với hôn nhân nhưng kết cục nó vẫn chỉ là con số không. Tuy nhiên, dù kết
thúc có buồn như vậy thì mỗi cuộc tình đã qua đi trong cuộc đời Trịnh Công Sơn vẫn là những
mối tình đẹp, không có oán hận, trách cứ. Thế nên, sau mỗi cuộc tình, Trịnh chiêm nghiệm thấy
tình yêu là điều hư ảo nhưng nó vẫn động lại cái dư âm thơm đẹp như khoảnh khắc tồn tại của
hương vị, của sắc màu và của ánh nắng. Và ý niệm “TÌNH YÊU LÀ HƯ VÔ” xuất hiện trong ca
từ Trịnh Công Sơn tuy buồn thật nhưng vẫn thấp thoáng một vẻ đẹp lung linh, một hương thơm
thanh khiết. Ý niệm này được hình thành theo cơ chế sau:
Miền đích
Miền nguồn
TÌNH YÊU HƯ VÔ
Vô hình Không thể định hình;
Chóng mất Không tồn tại lâu dài theo thời gian
(như mùi hương sắc hoa);
Khó tìm Không thể tìm kiếm nơi hữu thể.
Quan niệm của Trịnh Công Sơn như vậy về tình yêu giúp chúng ta hiểu rõ bản
chất của nó. Đây cũng là cơ sở để chúng ta lý giải tính vô thường của vạn vật trong cõi nhân
sinh. Qua đối chiếu với cuộc đời, tình yêu của Trịnh Công Sơn, dù ông không được trọn vẹn
trong tình yêu nhưng ông thật đáng trân trọng biết bao ngay trong cái thế giới tình yêu hư vô,
ảo vọng ấy. Sự tri nhận này của Trịnh Công Sơn về tình yêu có thể mượn lời của Bửu Ý
trong bài viết “Trịnh Công Sơn – Kẻ du ca”: “Tình yêu, với Trịnh Công Sơn là diễm tình.
Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan
vỡ” [41,tr.16].
3.5.Tình yêu là sự chuyển động của các mùa trong năm
Con người sống trên cõi đời này, không ai thoát ra khỏi thời gian cả. Con người
chịu sự tác động của thời gian, vận động biến đổi theo thời gian. Bước ra ngoài thời gian có
nghĩa là ra ngoài vũ trụ để sang một trật tự khác, một vũ trụ khác, bởi thời gian gắn chặt với
không gian, hai thứ không thể tách rời. Mùa là đại lượng để đo vòng quay của thời gian theo
thứ tự vận hành của trái đất. Xét theo mùa thiên văn, người ta chia ra mùa xuân, mùa hạ, mùa
thu, mùa đông. Xét theo mùa thời tiết, có mùa mưa và mùa nắng. Trong ca từ Trịnh Công
Sơn, cảm thức mùa trong sự chảy trôi của thời gian còn là cảm thức về tình yêu của hồn
người.
Trước hết, ý niệm “TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA
TRONG NĂM” đã được thể hiện bằng cảm thức của Trịnh về sự 12T tồn/ vong của tình yêu
gắn với cảm thức về thời gian của các mùa trong năm.
Có lẽ ý niệm ‘TÌNH YÊU LÀ CÁC MÙA TRONG NĂM” cũng không trở nên
quá xa lạ với ý niệm chung của nhiều người. Đa số đều cho mùa xuân là khởi đầu, là tươi
đẹp và nói đến tình yêu, gắn với mùa xuân cũng là gắn với sự tròn đầy, hạnh phúc. Nhưng
với Trịnh Công Sơn, mùa xuân cũng là hạnh phúc của tình yêu nhưng nó mang theo một cái
12T“Mùa xuân là bờ hay bến? than ôi, mùa xuân chỉ là bờ. Ai ai trong đời này cũng có lần
lẽ vô thường:
ghé qua cái bến tạm mùa xuân. Cái bờ bến mùa xuân nhập nhằng những dặm trường lận
đận. Thoắt nhiên bến xuân chỉ còn lại là bờ. Cái bến đi qua, rồi cái bờ ở lại. Cái bến hiu hắt
của một thuở tưởng rằng thời hoàng kim bến sẽ mãi mãi không bao giờ là bờ. Thế rồi tuổi
đời người người -đến đến – đi đi cứ mộng vờ, hoang tưởng hão huyền một thứ bờ bờ - bến
12T
12T Có thể bến cho em và bờ cho tôi. Tôi cứ mãi đi và em ở lại. Cái thân phận thuyền
bến, không biết nơi nào để neo lại một thân thể phiêu bồng.
quyên ấy đừng làm đau xót đời. Cuối cùng, trong cõi mông lung mờ mờ ảo ảo, em vẫn chính
12T (12T4TUhttp://www.petalia.org/lovedland/U4T12Ttrinhcongson.htm)
12T Vì thế ngay ở cái bờ của mùa xuân, người nhạc sĩ này nghĩ về cái bến của sự ra đi
là cái bến hư ảo một cách vẹn toàn mà tôi có lúc mỏi mệt sẽ tìm về nương tựa.”
một mối tình, bến mùa thu:
“…Mùa xuân yêu em đồi núi thênh thang, hồ nước long lanh ngàn cánh vàng/
Ngày ta yêu em màu lá thanh xuân/ Chờ đến thu sang rồi hãy tàn…”(Người về bỗng nhớ)
Và mùa hạ sẽ là mùa chuẩn bị cho một mối tình xuân: “…Em vào mùa hạ, thấp
nắng trên cao/ Và mùa xuân nào, ngẩn ngơ tình mới/…Nghe tình chợt buồn trong lá xôn
xao/ Để mùa xuân sau, mua riêng tình sầu…”(Tôi ru em ngủ)
Điều đặc biệt là, hình như ít có bài hát nào của Trịnh Công Sơn viết về mùa mà chỉ
có một mùa. Trong những ca khúc của ông, đặc biệt là những tình khúc luôn xuất hiện bốn
mùa song hành, hoặc cái úa tàn của mùa thu đặt bên cạnh cái ảm đạm lạnh lẽo của mùa
đông; sự buồn bã của mùa hạ đặt bên cạnh bước đi vội vã của mùa xuân, hoặc giao cắt nhau.
Những tín hiệu mùa vì thế trở thành tín hiệu về trạng thái của tình yêu: mùa xuân- tình yêu
thanh xuân, mùa hạ - tình yêu bắt đầu, mùa thu- tình yêu úa tàn, phôi pha tình người. Và cứ
thế tình yêu cứ quay vòng chuyển động theo các mùa. Gắn với các mùa là trạng thái kèm
theo của nó. Hết trạng thái này lại đến trạng thái khác.
Ngoài ra, trong cảm thức của Trịnh Công Sơn, tình yêu còn là nơi trú ngụ của
các mùa trong năm:
“…Tìm về trong suối nguồn/ Trái tim bốn mùa vẫn dịu dàng ngân…”(Về trong suối
nguồn)
“…Đời vẽ tim em lạ kỳ/ Tình có trong em nhiều mùa/ Từ đó thiên hạ quá ưu
tư…”(Chỉ có ta trong cuộc đời)
“…Ngày ra đi với gió/ Ta nghe tình đổi mùa…”(Những con mắt trần gian)
Vậy là trong ca từ của Trịnh Công Sơn, cảm thức xoay vần của các mùa trở thành
cảm thức về sự chuyển động của tình yêu. Mùa đã trở thành một điểm tựa quan trọng của
miền nguồn để thể hiện cảm nhận của Trịnh Công Sơn về một miền đích vô cùng trừu tượng
– tình yêu. Ẩn dụ ý niệm cấu trúc “TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA
TRONG NĂM” đã thể hiện nỗi ám ảnh lớn của Trịnh Công Sơn về sự chia ly thường trực
trong lòng – cuộc chia tay với những mối tình “Không hẹn mà đến, không chờ mà đi” và “
Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ/ Ôi những dòng sông nhỏ/ Lời hẹn thề là
những cơn mưa…”
Vì vậy, trước cảm thức chảy trôi của thời gian mùa, Trịnh Công Sơn đã liên tưởng
đến sự chuyển di của tình yêu vào trong ấy. Cái bánh xe thời gian luân chuyển không ngừng
hết xuân, đến hạ, sang thu, rồi tới đông. Và cứ thế, các mùa được lặp đi lặp lại theo một vòng
tròn khép kín, không có điểm dừng theo thời gian cũng như những cuộc tình mà Trịnh Công
Sơn đã trải qua không có cuộc tình nào ở lại mãi mãi với ông. Cuộc tình này tiếp nối cuộc
tình kia. Nhưng tất cả chỉ là một vòng xoay không ngừng nghỉ. Cơ chế để hình thành nên ý
niệm “TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA TRONG NĂM” có thể được
khái quát như sau:
Miền đích Miền nguồn
TÌNH YÊU SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA
CÁC MÙA TRONG NĂM
Khi tồn tại tươi đẹp Hết mùa sự vật tươi đẹp đến mùa
lúc mất đi tàn phai; sự vật phai tàn;
Mối tình sau tiếp nối Sau mùa này lại đến
mối tình trước; mùa khác;
chưa bao giờ có sự dừng lại Theo chu kỳ thời gian
mãi ở bất cứ mối tình nào. không có kết thúc.
*Tiểu kết
Cũng giống như cuộc đời, tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn là cuộc hành trình
nhưng là một cuộc hành trình không có điểm đích và chủ thể hành trình dễ gặp rủi ro trên
đường tình. Tình yêu cũng được đồng hóa với con người nhưng con người ở đây có quyền
lực vạn năng đối với tinh thần, thể xác của chủ thể tình yêu. Tình yêu cũng được đồng hóa
với những vật thể: là con thuyền, dòng nước, là bông hoa, cây lá, là chiếc áo…Đó cũng vẫn
là những vật thể thường ở trạng thái thay đổi về không gian cư trú hay về hình thể, sắc màu.
Trong mối quan hệ với thời gian, tình yêu cũng được đồng hóa với sự chuyển động theo các
mùa trong năm. Đó là một sự thay đổi không dừng lại và cũng là sự thật trong cảm thức về
tình yêu của Trịnh Công Sơn – tình yêu không có điểm đích trong cái vòng tròn thời gian.
Những sự vô thường, biến ảo và kết cục là ra đi mãi mãi của những cuộc tình mà Trịnh đã
nếm trải đã cho ông cái nhìn hư vô về tình yêu. Những miền nguồn được cấu trúc từ những
trải nghiệm tinh thần ( cuộc hành trình, hư vô, sự chuyển động của các mùa trong năm) cùng
những miền nguồn được tạo thành từ trải nghiệm vật thể (vật thể, con người) với những đặc
điểm của nó ánh xạ lên miền đích tình yêu đã thể hiện quan điểm của Trịnh Công Sơn về
tình yêu: là đối tượng gần gũi, gắn bó với con người trong hành trình sống nhưng nó vô cùng
mong manh, dễ vỡ mà lại có tác động vô cùng lớn đối với tinh thần con người. Nhưng dù thế
nào thì đối với Trịnh Công Sơn, tình yêu luôn đẹp, đẹp trong cả sự dang dở và tan vỡ. Chính
tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn đã nâng lòng người lên sự cao thượng, nâng tâm hồn
người đến đỉnh cao của cái chân – thiện – mỹ.
KẾT LUẬN
Qua phân tích ý niệm về tình yêu và cuộc đời trong ca từ Trịnh Công Sơn dưới
góc độ ngôn ngữ học tri nhận trong phạm vi khảo sát 243 tác phẩm âm nhạc của ông, luận
văn đã khái quát được 9 mô hình ý niệm. Trong đó, có 4 mô hình ý niệm về cuộc đời (CUỘC
ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH, CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ, CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI,
CUỘC ĐỜI LÀ CÕI TẠM) và 5 mô hình ý niệm về tình yêu (TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ,
TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH, TÌNH YÊU LÀ CON NGƯỜI, TÌNH YÊU LÀ HƯ
VÔ, TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA TRONG NĂM). Có thể khái
quát hai miền nguồn và đích của những ẩn dụ ý niệm trên như sau:
CUỘC ĐỜI TÌNH YÊU
Miền đích
Miền nguồn
Con người Con người Con người
Vật thể Vật thể Vật thể
Thời gian Sự chuyển động của các mùa
Cuộc hành trình Cuộc hành trình Cuộc hành trình
Thế giới tinh thần Cõi tạm Hư vô
Như vậy, chúng ta nhận thấy miền nguồn trong các ý niệm đã xác định khá phong
phú. Đó là thời gian, là vật thể, là cuộc hành trình hay những đối tượng thuộc về thế giới tinh
thần được hình thành từ những trải nghiệm tinh thần hay từ những trải nghiệm bản thể. Từ
những ý niệm ở miền nguồn phóng chiếu lên miền đích (tình yêu, cuộc đời) đã được tìm
thấy, luận văn xin đưa ra một số nhận xét về ngôn ngữ ca từ Trịnh Công Sơn. Qua đó, rút ra
những nhận định của bản thân về quan niệm, thái độ của Trịnh Công Sơn đối với tình yêu và
cuộc đời như sau:
Trước hết, trong quá trình phân tích, khảo sát ca từ Trịnh Công Sơn để tìm ra các ý
niệm, luận văn nhận thấy cái riêng và cũng đồng thời là cái hay cái lạ trong cấu trúc ngôn từ
của nhạc Trịnh chính là những kết hợp bất thường, đột ngột, lạ lẫm của từ ngữ. Chính điều
này đã làm cơ sở cho những suy luận, phát hiện ra các miền ý niệm trong ca từ Trịnh Công
Sơn. Nhờ vậy mà miền đích (tình yêu, cuộc đời) mang tính trừu tượng như thế nhưng nó
được cấu trúc lại một cách đầy đủ và rõ ràng nên có ý nghĩa cụ thể hơn. Cơ chế hình thành
nên ý niệm này có thể hình dung như sau: từ miền nguồn ( con người, cuộc hành trình, vật
thể, cõi tạm, hư vô, sự chuyển động của các mùa trong năm) được nhận ra trên cơ sở sự kết
hợp bất thường và sự liên hội của các yếu tố ngôn ngữ phóng chiếu vào miền đích - Cuộc đời
và Tình yêu bằng những đặc điểm của nó. Những ý niệm từ miền nguồn làm cho miền đích
vốn rất trừu tượng trở nên cụ thể hơn, được hình dung ra.
Về phần nội dung của các ý niệm, luận văn cũng tìm thấy những cái riêng trong
thế giới ý niệm thể hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn, qua đó thể hiện những cảm thức riêng
của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi nhân sinh và tình yêu của con người.
Nói về cuộc đời, từ những ý niệm được khái quát: “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC HÀNH
TRÌNH”, “CUỘC ĐỜI LÀ CON NGƯỜI”, “CUỘC ĐỜI LÀ VẬT THỂ ”, “CUỘC ĐỜI LÀ
CÕI TẠM”, luận văn đưa ra những nhận định về cái nhìn của Trịnh Công Sơn đối với cuộc
đời: ông yêu mến và trân trọng cuộc đời, trân trọng cõi nhân sinh nhưng đồng thời trong tư
tưởng của ông ảnh hưởng của triết lý Phật giáo cho rằng cuộc sống con người trên cõi thế chỉ
là tạm bợ, chóng mất đi và mang tính bất định.
Còn về tình yêu, hơn 60 năm sống trên cõi đời, đến lúc mất đi, Trịnh Công Sơn
vẫn chỉ là kẻ lẻ loi trên đường tình. Với những ý niệm được khái quát: “TÌNH YÊU LÀ
CON NGƯỜI”, “TÌNH YÊU LÀ CUỘC HÀNH TRÌNH”, “TÌNH YÊU LÀ VẬT THỂ”,
“TÌNH YÊU LÀ HƯ VÔ”, “TÌNH YÊU LÀ SỰ CHUYỂN ĐỘNG CỦA CÁC MÙA
TRONG NĂM”, Trịnh Công Sơn đã nói lên những cảm nhận của mình về tình yêu: tình yêu
chính là nơi nương náu quyến rũ của con người ở cõi thế u buồn này. Nhưng vì tình yêu,
cũng như vạn vật, chỉ là tạm bợ nên tình yêu không phải là nơi nương náu vững vàng cho
mỗi người. Tình yêu tuyệt đẹp nhưng phù du, chóng đến chóng đi.
Ý niệm là một đối tượng của tư duy gắn liền với những cảm quan riêng của con
người khi nhìn về hiện thực khách quan. Bởi thế, bất cứ đối tượng nào của ẩn dụ ý niệm
được hình thành trong miền nguồn gắn với miền đích cũng có nguyên do của nó, cũng gắn
với ý thức và hoàn cảnh khách quan tác động vào nhận thức của cá nhân. Đi tìm hiểu về cuộc
đời Trịnh Công Sơn, chúng ta có thể khẳng định nguyên nhân sâu xa hình thành nên những ý
niệm của Trịnh Công Sơn về tình yêu và cuộc đời là từ thế giới quan phật giáo. Trịnh Công
Sơn đã sớm tiếp thu luật vô thường sinh-trụ-dị-diệt trong nhà chùa. Trong giáo lí của đạo
Phật cho rằng các sự vật hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn chuyển động
biến đổi (gọi là Vô thường Anitya) theo một chu trình: Thành- trụ- hoại- diệt. Với quan niệm
này, đạo Phật cho rằng không phải sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (chết) đi
mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết mà chết là điều kiện của
một sinh thành mới. Vì thế, sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật
hiện tượng, cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Trịnh Công Sơn cũng như quan niệm
của nhiều người đã tìm ra sự tương ứng giữa cuộc đời và tình yêu là cuộc hành trình, là vật
thể, là con người trong mối quan hệ với con người, với tự nhiên, là cõi tạm, là hư vô ảo
vọng nhưng ở Trịnh những đối tượng ấy được phủ lên màu sắc của Phật giáo. Chẳng hạn,
Trịnh Công Sơn không phải là người đầu tiên phát hiện ra ý niệm “CUỘC ĐỜI LÀ CUỘC
HÀNH TRÌNH” mà đây là một ý niệm quen thuộc trong cách nghĩ của người Việt Nam nói
riêng và cả nhân loại nói chung. Thế Lữ trong “ Cây đàn muôn điệu” [20,31] cũng từng cho
mình là kẻ bộ hành phiêu lãng giữa trần gian này:
“Tôi là người bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi:
Tìm cảm giác hay trong tiếng khóc câu cười.
Trong lúc gian lao, trong giờ sung sướng.
Khi phấn đấu cũng như hồi mơ tưởng.
Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm than,
Cảnh thương tâm, ghê gớm hay diệu dàng,
Cảnh rực rỡ, ái ân hay dữ dội…”.
Nhưng trong ca từ Trịnh Công Sơn, cái mục đích của cuộc hành trình là đi về
miền cát bụi. Đó là cái mới nhuốm màu sắc tôn giáo trong ca từ của ông; tình yêu cũng được
nhiều người cho là câu chuyện “hư vô ảo vọng” nhưng đến với Trịnh nó thấp thoáng vẻ đẹp
nhân từ, lung linh màu sắc cao thượng, tinh khiết; cả tình yêu và cuộc đời được người ta
đồng hóa với con người nhưng con người được dùng để đồng hóa với các đối tượng này
trong ca từ của Trịnh cũng mang vẻ buồn, cũng có số phận và đặc biệt là sẵn sàng ban
ơn…Qua phân tích ca từ của Trịnh Công Sơn, chúng ta đã đi sâu hơn vào tâm hồn, vào thế
giới tinh thần của người nghệ sĩ này. Có người đã cho rằng, tất cả những hình ảnh trong ca
từ Trịnh Công Sơn đều là những hình ảnh không có tính hiện thực mà dường như đó chỉ là
thế giới của ý niệm mà thôi. Và đúng như vậy, thế giới ý niệm ấy là thế giới tinh thần được
tạo nên từ chính cuộc đời, từ chính những trải nghiệm mà Trịnh Công Sơn đã đeo mang
trong cuộc sống. Vì vậy, việc tìm hiểu những dấu ấn tinh thần mà Trịnh Công Sơn đưa vào
trong các ca khúc của mình thông qua công cụ tri nhận của ngôn ngữ cũng chính là thao tác
tìm hiểu con người, cuộc đời của Trịnh Công Sơn và bối cảnh xã hội mà ông sống. Qua đó,
ta thêm hiểu và trân trọng thêm vốn sống, sự trải nghiệm, cái nhìn nhân văn của Trịnh Công
Sơn đối với tình yêu và cuộc đời: dù cuộc đời có khi mang nhiều “ nỗi khó sống” và tình yêu
có lúc “ruồng rẫy” đối với người nhạc sĩ này thì ông vẫn yêu mến, mong chờ và trân trọng nó
trong từng phút giây.Thấp thoáng trong những ý niệm đó, ta cũng tìm thấy những chân lý,
những quy luật về tình yêu, về đời người, về cõi nhân sinh này.
Ngôn ngữ học tri nhận là hướng nghiên cứu mới mẻ của ngôn ngữ học và hơn nữa
đi tìm hiểu những ý nghĩa sâu xa thuộc về thế giới tinh thần trong nhạc Trịnh thông qua ẩn
dụ tri nhận là vấn đề hết sức khó khăn. Bởi vì cái chiều sâu của ca từ trong các ca khúc của
Trịnh Công Sơn là vô cùng, nó chứa đựng những ý nghĩa tinh thần rất lớn khó có thể hiểu hết
những tầng nghĩa, những ám thị mà người nhạc sĩ sống nội tâm này gửi gắm vào những bài
ca của mình. Luận văn cũng chỉ dừng lại là một cuộc thể nghiệm vận dụng ngôn ngữ học tri
nhận vào tìm kiếm và phân tích các miền ý niệm trong ca từ Trịnh Công Sơn trên cơ sở vận
dụng ẩn dụ tri nhận và những thông tin về con người, cuộc đời của Trịnh cũng như những
bài viết, những công trình khoa học nghiên cứu về Trịnh Công Sơn, về sáng tác của ông dưới
nhiều góc độ, đặc biệt là dưới góc độ ngôn ngữ học. Với những hiểu biết còn non nớt về
ngôn ngữ học tri nhận, sự chưa thấu đáo trong việc tìm hiều các vấn đề liên quan đến đề tài
nghiên cứu, luận văn không tránh khỏi những sai sót trong quá trình phân tích, tìm hiểu, thu
thập tư liệu để triển khai đề tài này. Mong được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô và những
người nghiên cứu ngôn ngữ học cũng như nghiên cứu về Trịnh Công Sơn và ca từ của ông.
Về hướng mở rộng của đề tài, luận văn nhận thấy Trịnh Công Sơn có những cái
nhìn rất hay, rất lạ về thời gian, không gian, con người… thể hiện qua các ca khúc của ông.
Tuy nhiên giới hạn về dung lượng của một luận văn Thạc sĩ cũng như giới hạn về thời gian
đã không cho phép luận văn mở rộng nghiên cứu sang những ẩn dụ ý niệm về thời gian,
không gian, con người…trong ca từ Trịnh Công Sơn. Hy vọng của luận văn sẽ được tiếp tục
công việc này trong những công trình nghiên cứu ngôn ngữ trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trần Văn Cơ (2009), Khảo luận ẩn dụ tri nhận, Nxb Lao Động Xã hội.
2.Trần Văn Cơ (2008), “ Nghiên cứu ngôn ngữ Hồ Chí Minh dưới góc nhìn của ngôn ngữ
học tri nhận”, Ngôn ngữ (số 5), 26-42.
3.Trịnh Cung, Nguyễn Quốc Thái ( 2001), Trịnh Công Sơn - Cuộc đời, âm
nhạc, thơ, hội họa & suy tưởng, Nxb Văn nghiệp,Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Đức Dân (2009), “Tri nhận thời gian trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 12), 1-16.
5.Võ Thị Dung (2003), Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Ferdinand De Sausure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Thị Bích Hạnh (2009), “ Biểu tượng “nắng” trong ca từ Trịnh Công Sơn”, Ngôn
ngữ và đời sống (số 9), 32-38.
8. Hồng Hạnh (2008), “Bước đầu khảo sát mối quan hệ giữa ẩn dụ và cấu trúc hình thức
của thành ngữ”, Ngôn ngữ (số 11), 57-63.
9. Lê Thị Tuyết Hạnh (2003), “Tính dung hợp triết lí trong ngôn ngữ ca từ Trịnh
Công Sơn”, Ngôn ngữ và đời sống (số 12), 24.
10. Nguyễn Ḥòa (2007), “ Sự tri nhận và biểu đạt thời gian trong tiếng Việt qua các ẩn dụ
không gian”, Ngôn ngữ (số 7), 1-8.
11. Phan Thế Hưng (2009), Ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, Luận án Tiến sĩ,
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
12. Đinh Trọng Lạc (2002), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục Hà
Nội.
13. Lí Lan (2009), “Biểu trưng tình cảm bằng các bộ phận cơ thể từ góc nhìn tri nhận của
người bản ngữ tiếng Anh và tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 12), 25-37.
14. Lí Lan ( 2009), “Về các ý niệm và phạm trù tình cảm cơ bản của con người
(Trên dẫn liệu tiếng Anh)”, Ngôn ngữ và đời sống (số 9), 21-26.
15. Nguyễn Lai (2009), Suy nghĩ về ẩn dụ khái niệm trong thế giới thơ ca từ góc nhìn
của ngôn ngữ học tri nhận, Ngôn ngữ (số 10), 1-11.
16. Lakoff G. and Johnson M.(1980), Metaphor we live by, Chicago, London. 17. Lê
Hồng Linh (2009), “Đặc trưng văn hóa dân tộc trong ngôn ngữ (Một số liên hệ với
tiếng Việt và tiếng Anh )”, Ngôn ngữ và đời sống (số 5), 22-28.
18. Nguyễn Thế Lịch (2009), “Yếu tố cơ sở so sánh trong cấu trúc so sánh nghệ thuật”, Ngôn
ngữ (số 3), 1-14.
19. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thượng), Nxb Văn
học.
20. Nhiều tác giả (1999), Thơ mới (1932-1945), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
21. Hoàng Phê (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
22. Bùi Vĩnh Phúc (2008), Trịnh Công Sơn- Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật, Nxb
Văn hóa Sài G̣òn.
23. Nguyễn Quang Sáng (1990), Paris – Tiếng hát Trịnh Công Sơn, Nxb Tác phẩm
mới.
24. Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến (sưu tầm và biên soạn
2001a) Trịnh Công Sơn - Một người thơ ca một cõi đi về, Nxb Âm nhạc và
Trung tâm Văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
25. Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến (2001b), Trịnh Công
Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Nxb Thuận Hóa.
26. Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến (2001c), Trịnh Công Sơn
- Người hát rong qua nhiều thế hệ, Nxb Trẻ.
27. Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến (2001d), Trịnh Công
Sơn - Rơi lệ ru người, Nxb Phụ nữ (Qúy II).
28. Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận- Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn
tiếng Việt, Nxb Phương Đông.
29. Hoàng Tá Thích (2007) Như những dòng sông, Nxb Văn nghệ.
30. Bùi Thị Minh Thùy (2007), Đặc điểm phong cách ngôn ngữ trong ca từ của
Trịnh Công Sơn, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
31. Nguyễn Thị Thanh Thúy (2008) Vết chân dã Tràng, Luận văn thạc sĩ, Đại học
Quy Nhơn.
32. Trần Bá Tiến (2009), “Ẩn dụ về sự tức giận và niềm vui trong tiếng Anh và tiếng Việt”,
Ngôn ngữ (số 7), 22-35.
33. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2005), Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử
bé , NxbTrẻ.
34. Phạm Minh Tiến (2008), “Văn hóa thể hiện qua hình ảnh tôn và con người trong thành
ngữ so sánh tiếng Hán và tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 7), 66-73. 35. Nguyễn Đức Tồn
(2008), “Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong thành ngữ (kì I)”,
Ngôn ngữ (số 12), 20-27.
36. Nguyễn Đức Tồn ( 2009), “ Đặc trưng tư duy của người Việt qua ẩn dụ tri nhận trong
thành ngữ (Tiếp theo và hết)”, Ngôn ngữ (số 1), 12-24.
37. Lưu Trọng Tuấn (2009), “Ẩn dụ tình yêu trong thơ ca”, Ngôn ngữ (số 10), 23-29.
38. Lê Đình Tường (2008), “Thử phân tích một bài ca dao hài hước từ bình diện ngôn ngữ
học tri nhận”, Ngôn ngữ (số 9), 51-57.
39. Nguyễn Ngọc Vũ ( 2008), “Hoán dụ ý niệm “Bộ phận cơ thể người biểu trưng
cho sự chú ý” trong thành ngữ chứa yếu tố “mắt”, “mũi” và “tai” tiếng Anh và
tiếng Việt”, Ngôn ngữ (số 9), 17-23.
40. Nguyễn Đắc Xuân (2003), Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế, NxbVăn học.
41. Bửu Ý (2003), Trịnh Công Sơn một nhạc sĩ thiên tài, NxbTrẻ.
42 .Yoshii Michiko (1991) Những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, Luận
văn cao học, Đại học Paris, Pháp (Bản dịch tiếng Việt)
4TUhttp://www.nhantrachoc.net.vnU4T
Ngoài ra luận văn còn tham khảo ở một số trang web sau:
4TUhttp://www.petalia.org/lovedland/trinhcongson.htmU4T
1.
4TUhttp://www.tcs-home.orgU4T
2.
3.
Phụ lục
NHỮNG CA KHÚC ĐƯỢC DÙNG ĐỂ KHẢO SÁT
1.4TUAi ngoài cánh cửaU4T
?
2.4TUBài ca dành cho những xác ngườiU4T
1968
3.4TUBay đi thầm lặngU4T
1972
4.4TUBên đời hiu quạnhU4T
1970-1971
5.4TUBến sôngU4T
1959
6.4TUBiển nghìn thu ở lạiU4T
1999
7.4TUBiển nhớU4T
1962
8.4TUBiển sángU4T
1981?
9.4TUBiết đâu nguồn cộiU4T
1972?
10.4TUBốn mùa thay lá U4T
1981
11.4TUBống bồng ơiU4T
1993
12.4TUBống không là bốngU4T
1995
13.4TUBuồn từng phút giâyU4T
1970-1971
14.4TUCa dao mẹU4T
1965
15.4TUCánh chim cô đơnU4T
1980
16.4TUCánh đồng hoà bìnhU4T
1968
17.4TUCát bụiU4T
1965
18.4TUChỉ có ta trong một đờiU4T
1970
19.4TUChiếc lá thu phaiU4T
1973
20.4TUChiều một mình qua phố U4T
1961
21.4TUChiều trên quê hương tôiU4T
1980
22.4TUChìm dưới cơn mưaU4T
1974
Tên bài hát Năm sáng tác
23.4TUChính chúng ta phải nóiU4T
1969
24.4TUCho đời chút ơnU4T
1993
25.4TUCho một người nằm xuốngU4T
1968
26.4TUChờ nhìn quê hương sáng chóiU4T
1967
27.4TUCho quê hương mỉm cườiU4T
1967
28.4TUChưa mất niềm tinU4T
1968
29.4TUChưa mòn giấc mơU4T
1969
30.4TUChuyện đoá quỳnh hươngU4T
1982
31.4TUCó duyên không nợU4T
1998
32.4TUCó một dòng sông đã qua đờiU4T
1966?
33.4TUCó một ngày như thếU4T
1994
34.4TUCó nghe đời nghiêngU4T
1973-74
35.4TUCó những con đườngU4T
1973-74
36.4TUCỏ xót xa đưaU4T
1969
37.4TUCòn ai với aiU4T
1993
38.4TUCòn có bao ngàyU4T
1969
39.4TUCon đường mùa xuânU4T
1976
40.4TUCon mắt còn lạiU4T
1992
41.4TUCòn thấy mặt ngườiU4T
1970
42.4TUCòn tuổi nào cho emU4T
1964
43.4TUCúi xuống thật gầnU4T
1966
44.4TUCũng sẽ chìm trôiU4T
1973
45.4TUCuối cùng cho một tình yêuU4T
1958
46.4TUDã tràng caU4T
1962
47.4TUDân ta vẫn sốngU4T
1968
48.4TUDấu chân địa đàngU4T
1962
49.4TUDiễm xưaU4T
1960
50.4TUDu mụcU4T
1965
51.4TUDựng lại người dựng lại nhàU4T
1968
52.4TUĐại bác ru đêmU4T
1967
53.4TUĐể gió cuốn điU4T
1971
54.4TUĐêmU4T
?
55.4TUĐêm bây giờ đêm maiU4T
1967
56.4TUĐêm thấy ta là thác đổ U4T
1971
57.4TUĐi mãi trên đườngU4T
1999
58.4TUĐi tìm quê hươngU4T
1967
59.4TUĐóa hoa vô thườngU4T
1972
60.4TUĐoản khúc thu Hà NộiU4T
1995
61.4TUĐời cho ta thếU4T
1973
62.4TUĐợi có một ngàyU4T
1972
63.4TUĐời gọi em biết bao lầnU4T
1980
64.4TUĐôi mắt nào mở raU4T
1968
65.4TUĐời sống không già vì có chúng emU4T
1991
66.4TUĐốm lửa hồngU4T
2001
67.4TUĐồng dao 2000U4T
2000
68.4TUĐồng dao hoà bìnhU4T
1968
69.4TUĐừng mong ai, đừng nghi ngạiU4T
1969
70.4TUĐường xa vạn dặmU4T
1992
71.4TUEm còn nhớ hay em đã quênU4T
1980
72.4TUEm đã cho tôi bầu trờiU4T
1970
73.4TUEm đến cùng mùa xuânU4T
1991
74.4TUEm đến từ nghìn xưaU4T
1980
75.4TUEm đi bỏ lại con đườngU4T
1995
76.4TUEm đi trong chiềuU4T
1969
77.4TUEm hãy ngủ điU4T
1970
78.4TUEm là hoa hồng nhỏ U4T
1982-1984
79.4TUEm ở nông trường em ra biên giớiU4T
1981
80.4TUGần như niềm tuyệt vọngU4T
1973
1965
81.4TUGia tài của mẹU4T
1973-1974
82.4TUGiọt lệ thiên thu U4T
1990
83.4TUGiọt nước cành senU4T
1964
84.4TUGọi đời lên mauU4T
1963
85.4TUGọi tên bốn mùaU4T
1969-1970
86.4TUGóp lá mùa xuânU4T
1961
87.4TUHạ trắngU4T
1995
88.4TUHai mươi mùa nắng lạU4T
1961
89.4TUHành caU4T
1962
90.4TUHành hương trên đồi caoU4T
2001
91.4TUHạt điều khăn điềuU4T
1968
92.4TUHát trên những xác ngườiU4T
1967
93.4TUHãy cố nhưU4T
1969
94.4TUHãy cứ vui như mọi ngàyU4T
1968
95.4TUHãy đi cùng nhauU4T
1972
96.4TUHãy khóc đi emU4T
1972
97.4TUHãy nhìn lạiU4T
1967
98.4TUHãy nói giùm tôiU4T
1970
99.4TUHãy yêu nhau điU4T
1981
100.4TUHoa vàng mấy độ U4T
1986
101.4TUHoa xuân caU4T
1972
102.4TUHòa bình là cơm áo U4T
1993
103.4TUHôm nay tôi ngheU4T
104.4TUHuế Sài Gòn Hà nộiU4T
1969
105. 4TUHuyền thoại mẹU4T
1985
106.4TUKhăn quàng thắp sáng bình minhU4T
1991
107.4TUKhói trời mênh môngU4T
1972
108.4TULại gần với nhauU4T
1965
109.4TULặng lẽ nơi nàyU4T
1987
110.4TULời buồn thánhU4T
1959
111.4TULời của dòng sôngU4T
1964
112.4TULời mẹ ruU4T
1964
113. 4TULời ở phố vềU4T
1972
114.4TULời ru đêmU4T
1972
115. 4TULời thiên thu gọiU4T
1972
116. 4TUMẹ đi vắngU4T
1982
117.4TUMẹ của anhU4T
?
118.4TUMênh mông Đồng ThápU4T
1986
119. 4TUMôi hồng đàoU4T
1973-1974
120. 4TUMỗi ngày tôi chọn một niềm vuiU4T
1977
121. 4TUMột buổi sáng mùa xuânU4T
1969
122.4TUMột cõi đi vềU4T
1974
123. 4TUMột lần thoáng cóU4T
1972
124.4TUMột ngày như mọi ngàyU4T
1969
125. 4TUMột ngày vinh quang một ngày tuyệt vọngU4T
1972
126. 4TUMùa áo quanU4T
1972
127.4TUMùa hè đếnU4T
1991
128. 4TUMùa phục hồiU4T
1973
129.4TUMưa hồngU4T
1964
130. 4TUMưa mùa hạU4T
1990
131. 4TUMừng sinh nhật U4T
?
132.4TUMuôn trùng biển ơiU4T
1996
133. 4TUNắng thuỷ tinhU4T
1963
134. 4TUNày em có nhớU4T
1972
135. 4TUNgậm ngùi riêng taU4T
1973
136.4TUNgẫu nhiênU4T
1972
137.4TUNgày dài trên quê hươngU4T
1967
138.4TUNgày mai đây bình yênU4T
1968
139. 4TUNgày nay không còn béU4T
1993
140.4TUNgày vềU4T
1969-1970
141.4TUNghe những tàn phaiU4T
1972
142.4TUNghe tiếng muôn trùngU4T
1972
143.4TUNgọn lửaU4T
1971
144.4TUNgọn lửa vĩnh cửu ở MatxcơvaU4T
1985
145. 4TUNgủ đi conU4T
1967
146.4TUNgụ ngôn của mùa ĐôngU4T
1967
147.4TUNgười con gái Việt NamU4T
1965
148.4TUNgười già em béU4T
1965
149.4TUNgười mẹ Ô LýU4T
1971-1972
150.4TUNgười về bỗng nhớU4T
1971
151.4TUNguyệt caU4T
1972
152.4TUNhân danh Việt NamU4T
1970
153.4TUNhìn những mùa thu điU4T
1961
154.4TUNhớ mùa thu Hà nộiU4T
1984
155. 4TUNhư cánh vạc bayU4T
1964?
156. 4TUNhư chim ưu phiềnU4T
1993
157.4TUNhư hòn bi xanhU4T
1980
158.4TUNhư một lời chia tayU4T
1981?
159.4TUNhư một vết thươngU4T
1973-1974
160.4TUNhư tiếng thở dàiU4T
1973-1974
161. 4TUNhững ai còn là Việt namU4T
1969
162.4TUNhững con mắt trần gianU4T
1965
163.4TUNhững giọt máu trổ bôngU4T
1969
164.4TUNhững giọt mưa khuyaU4T
1959
165. 4TUNhưng hôm nayU4T
1967
166. 4TUNíu tay nghìn trùngU4T
1973-1974
167. 4TUNối vòng tay lớnU4T
1968
168. 4TUNước mắt cho Quê hươngU4T
1965
169. 4TUỞ trọU4T
1973
170.4TUÔng Tiên vuiU4T
1963
171.4TUPhôi phaU4T
1960
172. 4TUPhúc âm buồnU4T
1965
173. 4TUQuê hươngU4T
?
174. 4TUQuê hương nặng đauU4T
1971
175.4TUQuỳnh hươngU4T
1974
176. 4TURa đồng giữa ngọ U4T
1973-1974
177.4TURồi như đá ngây ngô U4T
1970-1972
178. 4TURơi lệ ru ngườiU4T
1976?
179. 4TURu đời đã mất U4T
1972
180. 4TURu đời đi nhéU4T
1973-1974
181. 4TURu emU4T
1965
182. 4TURu em từng ngón xuân nồngU4T
1964?
183. 4TURu ta ngậm ngùiU4T
1970-1971
184.4TURu tìnhU4T
1993
185. 4TURừng xanh xanh mãiU4T
1992
186. 4TURừng xưa đã khépU4T
1972
187.4TUSao mắt mẹ chưa vuiU4T
1968
188. 4TUSẽ còn aiU4T
1972
189.4TUSóng về đâuU4T
1995
190.4TUTa đi dựng cờU4T
1969
191.4TUTạ ơnU4T
1964
192. 4TUTa phải thấy mặt trờiU4T
1969
193. 4TUTa quyết phải sốngU4T
1969
194.4TUTa thấy gì đêm nayU4T
1968
195.4TUTết suối hồngU4T
1991
196.4TUThành phố mùa xuânU4T
1982
197.4TUThanh quan caU4T
1970
198.4TUThiên sứ bâng khuângU4T
1999
199.4TUThuở bống là ngườiU4T
1998
200.4TUThương một ngườiU4T
1959
201.4TUTiến thoái lưỡng nanU4T
1998
202.4TUTiếng ve gọi hèU4T
1961
203.4TUTình ca của người mất tríU4T
1967
204.4TUTình khúc Ơ-BaiU4T
1988
205.4TUTình nhớU4T
1966?
206. 4TUTình sầuU4T
1965
207. 4TUTình xaU4T
1966-1967
208. 4TUTình xót xa vừaU4T
1970
209.4TUTình yêu tìm thấyU4T
1982
210. 4TUTôi biết tôi yêuU4T
1972
211.4TUTôi đã mất U4T
1970
212.4TUTôi đang lắng ngheU4T
1981
213.4TUTôi ơi đừng tuyệt vọngU4T
1992
214.4TUTôi ru em ngủU4T
1967
215.4TUTôi sẽ đi thămU4T
1967
216.4TUTôi sẽ nhớU4T
1980
217.4TUTrả lại emU4T
1980
218.4TUTrong mỗi đời riêngU4T
1980?
218.4TUTrong nỗi đau tình cờU4T
1981
219.4TUTự tình khúcU4T
1970
220.4TUTừng ngày quaU4T
1972
221.4TUTuổi đá buồnU4T
1961
222.4TUTuổi đời mênh môngU4T
1982
223.4TUTuổi trẻ Việt NamU4T
1969
224.4TUTưởng rằng đã quênU4T
1972
225.4TUƯớc mơ về dòng điệnU4T
1980
226.4TUƯớt miU4T
1958
227.4TUVẫn có em bên đờiU4T
1986
228.4TUVẫn nhớ cuộc đờiU4T
1972
229.4TUVàng phai trước ngõ U4T
1973-1974
230.4TUVề giữa Trị AnU4T
1985
231.4TUVề thăm mái trường xưaU4T
1990?
232.4TUVề trong suối nguồnU4T
1986
233.4TUVết lăn trầmU4T
1963
234.4TUVì tôi cần thấy em yêu đờiU4T
1980
235.4TUViệt nam ơi hãy vùng lênU4T
1969
236. 4TUVườn xưaU4T
1993
237. 4TUXa dấu mặt trờiU4T
1965?
238.4TUXác ta xác thùU4T
1972
239.4TUXanh lòng phai tànU4T
1972
240.4TUXin cho tôiU4T
1965
241.4TUXin mặt trời ngủ yênU4T
1964
242.4TUXin trả nợ ngườiU4T
1993
243.4TUYêu dấu tan theo U4T
1972