BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đặng Thị Thu Hiền
BIỂU TƯỢNG VƯỜN VÀ NƯỚC TRONG HỒNG LÂU MỘNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Đặng Thị Thu Hiền
BIỂU TƯỢNG VƯỜN VÀ NƯỚC TRONG HỒNG LÂU MỘNG
: Văn học nước ngoài : 60 22 02 45
Chuyên ngành Mã số
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH PHAN CẨM VÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả
Đặng Thị Thu Hiền
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ nhiệt tình từ thầy cô, gia đình và bạn bè. Tôi
xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Quý thầy cô trong khoa Ngữ văn và phòng Sau đại học trường Đại
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi
thực hiện đề tài này.
Cô Đinh Phan Cẩm Vân, người đã giúp đỡ, cung cấp tài liệu và
hướng dẫn tận tình trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài. Qua đây, tôi xin
gửi tới cô lời biết ơn chân thành nhất.
Gia đình, bạn bè, người thân luôn hỗ trợ, động viên tôi trong quá
trình thực hiện đề tài.
Với việc thực hiện một đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian và khả
năng của bản thân còn hạn chế, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Kính mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2014
Đặng Thị Thu Hiền
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ...................................................... 10
1.1. Biểu tượng – vấn đề thuật ngữ .............................................................. 10
1.1.1. Khái niệm biểu tượng ..................................................................... 10
1.1.2. Các cấp độ của biểu tượng ............................................................. 16
1.1.3. Vấn đề “giải mã” biểu tượng .......................................................... 17
1.2. Biểu tượng trong văn học cổ - trung đại Trung Quốc .......................... 19
1.2.1. Thời kỳ văn học Tiên Tần ............................................................... 22
1.2.2. Thời kỳ văn học cổ điển.................................................................. 26
Chương 2. BIỂU TƯỢNG VƯỜN TRONG HỒNG LÂU MỘNG .......... 31
2.1. Biểu tượng vườn trong văn hóa – văn học Trung Quốc ...................... 31
2.1.1. Biểu tượng vườn trong văn hóa Trung Quốc – niềm nuối tiếc về
một thiên đường đã mất .................................................................. 33
2.1.2. Biểu tượng vườn trong văn học Trung Quốc – sự tiếp nối những
giá trị văn hóa truyền thống ............................................................ 35
2.2. Biểu tượng vườn trong Hồng lâu mộng - những sáng tạo của Tào
Tuyết Cần ..................................................................................................... 39
2.2.1. Cách thức xây dựng biểu tượng vườn............................................. 39
2.2.2. Đặc trưng tiểu cảnh Đại Quan Viên – sự mở rộng ý nghĩa biểu
tượng ............................................................................................... 49
Chương 3. BIỂU TƯỢNG NƯỚC TRONG HỒNG LÂU MỘNG ........... 68
3.1. Biểu tượng nước trong văn hóa – văn học Trung Quốc ....................... 68
3.1.1. Biểu tượng nước trong văn hóa Trung Quốc - sự đồng điệu cùng
dòng chảy văn hóa nhân loại ........................................................... 70
3.1.2. Biểu tượng nước trong văn học Trung Quốc - tiếng đồng vọng
của văn hóa truyền thống ................................................................ 74
3.2. Biểu tượng nước trong Hồng lâu mộng - những tầng ý nghĩa .............. 78
3.2.1. Nước – biểu tượng của nữ giới ....................................................... 78
3.2.2. Biểu tượng nước và tư tưởng “sùng âm ức dương” trong Hồng
lâu mộng .......................................................................................... 88
3.2.3. Biểu tượng nước và những chuyển hóa – biến thể ....................... 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 117
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Tiểu thuyết chương hồi là một trong những “đặc sản” của văn học Trung
Quốc, có ảnh hưởng lớn tới các nước thuộc khu vực văn hóa Đông Á trong đó
có Việt Nam. Hồng lâu mộng là kiệt tác văn xuôi không chỉ được người
Trung Hoa ưu ái, ngưỡng mộ mà còn làm say mê tất cả những ai đọc nó, bình
luận về nó. Trên quê hương của mình, tiểu thuyết này được đề cao hơn hẳn so
với những tác phẩm cùng thời: “Khai đàm bất thuyết Hồng lâu mộng; Độc tận
thi thư diệc uổng nhiên!” (Mở miệng mà không nói Hồng lâu mộng thì đọc
hết cả thi thư cũng vô ích!). Bởi vậy, nó được xếp trong “Tứ tài tử” (Tây
sương ký, Tam quốc chí, Thủy Hử truyện, Hồng lâu mộng), “Tứ đại kỳ thư”
(Kim Bình Mai, Tam quốc chí, Thủy Hử truyện, Hồng lâu mộng), một trong
hai “Tuyệt thế kỳ thư” (Tây du ký, Hồng lâu mộng). Từ khi ra đời, Hồng lâu
mộng luôn là thử thách đối với người đọc bởi nó không phải là một tác phẩm
dễ đọc, dễ hiểu. “Hồng lâu mộng phản ánh kiến trúc thượng tầng từ phong
tục, tập quán, đạo đức, giáo dục, văn hóa, hội họa, y học, ẩm thực, phục
trang cho đến các quan điểm triết học, tôn giáo, kinh học, sử học” [76, tr.62].
Văn học Trung Quốc từ cổ đại, trung đại tới hiện đại luôn thu hút sự
quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu không chỉ bởi những sự đa dạng về
phong cách sáng tác, đặc sắc về nghệ thuật mà còn bởi sự nỗ lực không ngừng
của nhiều thế hệ văn nhân trên con đường tìm tòi và đổi mới bút pháp. Tiểu
thuyết Minh – Thanh là giai đoạn văn học chứng kiến sự xuất hiện của nhiều
cây bút muốn bứt phá, muốn trải nghiệm, không chấp nhận lối viết sáo mòn,
cũ kỹ của văn nhân thuở trước. Tào Tuyết Cần là bông hướng dương tiêu biểu
nhất trong một rừng hoa đang hướng về phía mặt trời. Với những quan niệm
mới mẻ về tiểu thuyết, Cần Khê đã nghiêm túc coi việc sáng tạo nghệ thuật là
vấn đề sống còn trong sáng tác của người nghệ sỹ. Một trong những đổi mới
trong bút pháp của ông chính là sử dụng hệ thống biểu tượng dày đặc, mang
2
hàm nghĩa phong phú để truyền đạt quan điểm nhân sinh và quan niệm nghệ
thuật của mình.
Việc tìm hiểu biểu tượng là một trong những con đường quan trọng để
tiếp cận thế giới nghệ thuật của nhà văn. Dựa trên nền tảng những giá trị văn
hóa tinh thần của nhân loại cũng như tinh hoa văn hóa dân tộc, chúng ta có
thể thấy được cách thức tiếp nhận, khả năng khai thác những giá trị ấy nhằm
sáng tạo ra cái mới phục vụ cho việc truyền tải tư tưởng của Tào Tuyết Cần.
Mặt khác, đến với Hồng lâu mộng là người đọc đến với thế giới của
những biểu tượng. Với tư cách là một trong những thành tố nội tại của tác
phẩm, cùng với những biểu tượng khác, vườn và nước là hai biểu tượng quan
trọng, có quan hệ mất thiết với nhau, thể hiện tư tưởng nghệ thuật cũng như
quan điểm thẩm mỹ của nhà văn.
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Biểu tượng
vườn và nước trong Hồng lâu mộng” với mong muốn đóng góp phần nhỏ
vào quá trình “giải mã” cũng như tiếp cận thế giới nghệ thuật của tác phẩm từ
mã văn hóa. Qua đó, phần nào giúp người đọc có cái nhìn toàn vẹn hơn về
“Tuyệt thế kỳ thư” này và những sáng tạo nghệ thuật của nhà văn trong dòng
chảy của văn hóa, văn học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Hồng lâu mộng không chỉ được yêu quý trên quê hương của nó mà tại
nhiều quốc gia trên thế giới (cả phương Đông và phương Tây), bộ tiểu thuyết
cũng dành được đón nhận nồng nhiệt của độc giả và sự quan tâm của giới
nghiên cứu văn học. Dựa vào những tài liệu đã thu thập được, chúng tôi chủ
yếu quái quát tình hình nghiên cứu biểu tượng nói chung trong Hồng lâu
mộng, biểu tượng vườn và nước nói riêng tại Trung Quốc cũng như Hoa Kỳ.
Hồng lâu mộng đã được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng qua nhiều thời
kỳ, thậm chí ở Trung Quốc đã có ngành nghiên cứu riêng về kiệt tác này là
3
Hồng học. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, hướng tiếp cận cũng như tiếp nhận khác
nhau nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu chủ yếu tiếp cận tác phẩm dựa
trên cơ sở lịch sử và lập trường giai cấp nên hiệu quả nghiên cứu gặp nhiều
hạn chế, thậm chí, có người còn cho rằng việc nghiên cứu về Hồng lâu mộng
đã đi tới chỗ cùng kiệt.
- Cựu Hồng học: xu hướng nghiên cứu chủ yếu là tập trung khảo chứng,
truy tìm người thật việc được dùng làm nguyên mẫu cho các nhân vật cũng
như địa danh, địa điểm trong Hồng lâu mộng.
- Tân Hồng học: tập trung tìm hiểu mối quan hệ giữa Tào Tuyết Cần với
Bảo Ngọc và gia đình họ Giả, dẫn đến việc nghiên cứu Hồng học thành
nghiên cứu Tào học.
Gần đây, tại Trung Quốc một số công trình nghiên cứu quan trọng về
Hồng lâu mộng đã được công bố:
Tác giả Dương Hải Ba với bài “Tượng trưng bản thể - mục đích tối
thượng của nghệ thuật tượng trưng trong Hồng lâu mộng” đăng trên Học san
Hồng lâu mộng kỳ 1 năm 2010 đã khái quát được quá trình nghiên cứu kiệt
tác Hồng lâu mộng theo hướng tìm hiểu về nghệ thuật tượng trưng của nhiều
học giả nổi tiếng tại Trung Quốc. Ngoài việc chỉ ra những hạn chế trong việc
nghiên cứu thủ pháp tượng trưng của những công trình ấy, Dương Hải Ba đã
đi vào phân tích rất sâu sắc về nghệ thuật tượng trưng bản thể trong Hồng lâu
mộng: ý nghĩa tượng trưng bản thể hiện thực, ý nghĩa tượng trưng bản thể của
cuộc sống, ý nghĩa tượng trưng bản thể tình cảm. Cuối cùng, tác giả khẳng
định rằng: tượng trưng bản thể vừa có tính trừu tượng, vừa có tính hiện thực;
tất cả những vấn đề trong kiệt tác này, xét cho cùng đều trở về biểu hiện một
số điều có tính cốt lõi của nhân sinh. Hồng lâu mộng là “tác phẩm văn học
hiếm có trên thế giới mang ý nghĩa tượng trưng bản thể” [134].
Như vậy, bài viết của Dương Hải Ba đã nghiên cứu về thủ pháp tượng
trưng (mà nói chính xác hơn là tượng trưng bản thể) trong Hồng lâu mộng
4
trên bình diện khá rộng và qua đó, cung cấp nhiều cứ liệu quan trọng cho
người đọc liên quan tới nội dung của Hồng lâu mộng (về hiện thực xã hội, đời
sống tinh thần của con người). Tuy vậy, bài báo rất ít đề cập tới đối tượng
nghiên cứu của luận văn, cũng như không đi sâu vào một biểu tượng cụ thể
nào đó trong tác phẩm để thấy được biểu tượng văn hóa biến đổi hay sản sinh
ý nghĩa khi đi vào tác phẩm văn học.
Công trình nghiên cứu nổi bật về Hồng lâu mộng là cuốn Hai thế giới
trong Hồng lâu mộng (The Two Worlds of Hung-lou-meng) của Dư Anh Thời
(Yu Yingshi) - giáo sư đại học Harvard, do Thượng Hải Xã hội Khoa học
Viện Xuất bản Xã xuất bản năm 2002. Một một chương trong cùng tên trong
cuốn sách này đã được Lê Thời Tân dịch sang tiếng Việt. Phần trích dịch này
chủ yếu nói về thế giới bên trong và bên ngoài Đại Quan Viên mà cụ thể là sự
đối lập giữa thanh sạch và nhơ bẩn giữa hai thế giới ấy. Bên cạnh đó, dù
không gọi chính thức vườn và nước trong Hồng lâu mộng bằng thuật ngữ
“biểu tượng” nhưng nhà nghiên cứu đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần về hai biểu
tượng này và cho rằng cả nước và vườn trong kiệt tác của Tào Tuyết Cần đều
chứa những ẩn ý nhất định. Đó là những gợi ý quan trọng giúp chúng tôi có
thêm tư liệu và cách nhìn cũng như những đánh giá về đối tượng nghiên cứu.
Tại Hoa Kỳ, bài viết “Hồng học tâm bệnh: tiếp cận Hồng lâu mộng từ
góc nhìn phân tâm học” của Ming – Donggu (Giáo sư Văn học và Ngôn ngữ
– Đại học Texas, Dallas) do Nguyễn Đào Nguyên và Trần Hải Yến dịch cũng
đề cập đến vườn Đại Quan như “một dạ con biểu tượng”. Đó là tài liệu quý
giá giúp chúng tôi có thêm một hướng tiếp cận cho đề tài của mình.
Tất cả đều là những tài liệu quan trọng, không chỉ có tác dụng gợi ý mà
còn hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, nhiều giáo trình nghiên cứu đã cho độc giả cái nhìn khái
quát về tác giả Tào Tuyết Cần (cuộc đời), tác phẩm Hồng lâu mộng (tóm tắt
5
sơ lược nội dung cốt truyện, trích dẫn những đoạn độc đáo để độc giả thưởng
thức, khái quát về nội dung và hình thức của tác phẩm, đồng thời nêu nhận
định chung của tác giả) như: Bài giảng văn học Trung Quốc (GS. Lương Duy
Thứ), Tác giả, tác phẩm văn học phương Đông (Văn học Trung Quốc) (Trần
Xuân Đề),... Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu riêng trình
bày sự chuyển biến từ thưở ban sơ cho đến khi hình thành nên một thể loại
hoàn chỉnh và phát triển rực rỡ, góp phần vào thành công của tiểu thuyết
Trung Hoa: Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc (Trần Xuân Đề), Để hiểu tám bộ
tiếu thuyết Trung Quốc (Lương Duy Thứ),... Những tài liệu trên chỉ đề cập tới
một vài khía cạnh nghệ thuật của bộ tiểu thuyết, còn vấn đề có liên quan đến
biểu tượng hầu như chưa được nhắc tới. Tuy vậy, tất cả những công trình đều
trên là nguồn tài liệu hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Trong qua tình tìm kiếm tài liệu để thực hiện đề tài, chúng tôi nhận thấy
ở Việt Nam hầu như chưa có công trình nghiên cứu về biểu tượng trong Hồng
lâu mộng. Các khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án phần lớn tập trung vào
nghiên cứu về phương diện hình thức cũng như nội dung trong kiệt tác văn
chương này. Tựu chung, các công trình nghiên cứu ấy tập trung vào các nhóm
(tạm chia) sau đây:
+ Nhóm nghiên cứu về nội dung của Hồng lâu mộng gồm: Luận văn
Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong "Hồng Lâu Mộng" của Tào Tuyết Cần do
Phan Thị Lan thực hiện tại Đại học Vinh năm 2005; Nhân vật A hoàn trong
Hồng Lâu Mộng (Nguyễn Thị Thanh Nga - Đại học Sư phạm Hà Nội, năm
2010)… và nhiều luận văn, luận án khác nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng
nhân vật, phân tích tâm lý bi kịch tình yêu và hôn nhân trong kiệt tác này.
+ Ngoài ra, còn có một số luận văn nghiên cứu một số đặc điểm nghệ
thuật của Hồng lâu mộng như: Nghệ thuật tổ chức không, thời gian trong
"Hồng Lâu Mộng" của Nguyễn Thị Minh Hậu – Đại học Sư phạm Hà Nội
năm 2002; hay Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết "Hồng lâu mộng" do
6
Nguyễn Thị Cẩn thực hiện tại Đại học Vinh, năm 2006; Lê Thị Thanh Hồng
với Kết cấu tác phẩm Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần (2006); Yếu tố "kỳ"
trong Hồng Lâu Mộng do Bùi Thị Phương Lan thực hiện - Đại học Sư phạm
Hà Nội (2007),...
Khóa luận tốt nghiệp của Võ Hương Giang thực hiện tại Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh năm 2001 với đề tài khá bao quát Bút pháp
nghệ thuật độc đáo của “Hồng lâu mộng” cũng chỉ đề cập được ba đặc điểm
nghệ thuật chính của tác phẩm là: nghệ thuật miêu tả nhân vật, kết cấu nghệ
thuật và ngôn ngữ.
Dù vườn và nước không được gọi rõ ràng bằng cái tên “biểu tượng”
nhưng rải rác trong cuốn “Tìm hiểu Hồng lâu mộng”, Tiến sĩ Đinh Phan Cẩm
Vân (Trường đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh) cũng có nhiều phân
tích và nhận định quan trọng có liên quan mật thiết với đối tượng nghiên cứu
của luận văn. Cùng với chương trích trong cuốn sách cùng tên “Hai thế giới
trong hồng lâu mộng” của Dư Anh Thời (Lê Thời Tân dịch), công trình này là
tài liệu quý giá, gợi mở ý tưởng, cung cấp những cứ liệu quan trọng để chúng
tôi bắt tay vào thực hiện đề tài của mình.
Tính đến thời điểm hiện tại, ở Việt Nam, chưa có công trình nào viết về
biểu tượng trong Hồng lâu mộng nói chung, biểu tượng vườn và biểu tượng
nước nói riêng. Chúng tôi cho rằng, nghiên cứu kiệt tác này từ bình diện biểu
tượng là hướng đi mở, cần được thực hiện nghiêm túc.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm cắt nghĩa, lý giải biểu tượng vườn và nước trong Hồng
lâu mộng từ nguồn gốc đến sự biến đổi, mở rộng ý nghĩa trong mối quan hệ
với văn hóa và những tác phẩm văn học khác. Đồng thời, luận văn tìm hiểu
thủ pháp nghệ thuật xây dựng biểu tượng cũng như chức năng mà biểu tượng
đem lại cho cuốn tiểu thuyết. Nghiên cứu biểu tượng không chỉ nằm ở yếu tố
riêng rẽ mà phải đặt chúng trong hệ thống những biểu tượng khác trong tác
7
phẩm, để thấy được đầy đủ những nét nghĩa của biểu tượng cũng như cá tính
sáng tạo độc đáo của nhà văn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hồng lâu mộng là thế giới của những biểu tượng. Tuy nhiên, trong phạm
vi hạn hẹp của luận văn, chúng tôi xin lựa chọn hai biểu tượng để nghiên cứu,
khảo sát và “giải mã” là biểu tượng vườn và biểu tượng nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi dựa vào bản dịch Hồng lâu mộng
120 hồi (80 hồi đầu là Tào Tuyết Cần viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc kế tục tinh
thần của văn sỹ họ Tào viết nên). Bộ tiểu thuyết gồm sáu tập của nhà xuất bản
Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1989, do Vũ Bội Hoàng và
Nguyễn Doãn Địch dịch theo bản Trung văn “Hồng lâu mộng thập bát hồi
hiệu bản”, do nhà xuất bản Văn học nhân dân Bắc Kinh xuất bản năm 1958.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng riêng lẻ (hoặc kết hợp) một số phương pháp nghiên
cứu chính sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu văn hóa học: Dựa trên cách tiếp cận biểu
tượng, đi sâu “giải mã” nền văn hóa nhân loại và dân tộc có ảnh hưởng đến
việc sử dụng biểu tượng.
- Phương pháp ký hiệu học: được sử dụng để nghiên cứu biểu tượng
dưới góc độ ký hiệu học, giúp giải mã các nét nghĩa cũng như cách thức phái
sinh nghĩa của từng biểu tượng cụ thể trong tác phẩm.
- Phương pháp thống kê – phân loại: nhằm thống kê về số lượng cũng
như tần số xuất hiện của từng biểu tượng được khảo sát trong đề tài nghiên
cứu.
- Phương pháp nghiên cứu văn học: Nghiên cứu biểu tượng dựa trên cơ
sở phân tích, đánh giá với việc biểu đạt nội dung ý nghĩa.
8
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: chúng tôi sử dụng phương pháp
nghiên cứu này nhằm đặt tác phẩm trong mối quan hệ với triết học, văn hóa
học, sử học, tôn giáo để góp phần làm rõ ý nghĩa của biểu tượng cũng như
quan niệm thẩm mỹ của Tào Tuyết Cần.
- Phương pháp so sánh:
+ Phân biệt “biểu tượng” với các thuật ngữ, các khái niệm dễ gây nhầm
lẫn;
+ Đối sánh những điểm giống nhau và khác nhau giữa biểu tượng được
khảo sát trong đề tài với biểu tượng bên trong cũng như bên ngoài kiệt tác
Hồng lâu mộng;
+ Chỉ ra sự tương đồng cũng như khác biệt, sáng tạo trong cách sử dụng
biểu tượng của Tào Tuyết Cần với biểu tượng văn hóa của nhân loại và văn
hóa – văn học Trung Quốc.
- Phương pháp tiểu sử: Nghiên cứu biểu tượng trên cơ sở tìm hiểu cuộc
đời nhà văn để làm sáng tỏ những nét tư tưởng cũng như quan niệm sống của
tác giả.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn bước đầu tìm hiểu hai trong số rất nhiều biểu tượng trong
Hồng lâu mộng dựa trên cơ sở tìm hiểu nghĩa gốc và sự vận dụng sáng tạo
trong tác phẩm. Từ đây, công trình nghiên cứu chỉ ra những nét khác biệt của
biểu tượng vườn và nước trong Hồng lâu mộng với văn hóa, văn học Trung
Hoa truyền thống về mặt ý nghĩa. Qua đó, người đọc có thể thấy được những
nét đặc sắc về nội dung tư tưởng, chức năng cũng như cách thức tiêu biểu
trong việc xây dựng biểu tượng của nhà văn.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Mục lục, Mở đầu, Kết luận,
Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm ba chương chính:
9
Chương 1: Những vấn đề chung
Trình bày lý thuyết về biểu tượng để làm cơ sở lý luận chung cho toàn
luận văn. Từ đó, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu khái quát về vấn đề sử dụng biểu
tượng trong văn học cổ - trung đại Trung Quốc.
Chương 2: Biểu tượng vườn trong Hồng lâu mộng
Tìm hiểu ý nghĩa của biểu tượng vườn trong văn hóa thế giới, trong văn
hóa – văn học Trung Quốc, phương thức xây dựng biểu tượng của Tào Tuyết
Cần cũng như những tiếp thu, sáng tạo khi viết về biểu tượng của nhà văn so
với ý nghĩa của biểu tượng vườn truyền thống.
Chương 3: Biểu tượng nước trong Hồng lâu mộng
Tìm hiểu ý nghĩa của biểu tượng nước trong văn hóa thế giới, trong văn
hóa – văn học Trung Quốc cũng như sự tiếp nhận, sáng tạo ý nghĩa biểu
tượng của Tào Tuyết Cần trong việc thể hiện quan niệm thẩm mỹ và nội dung
của tác phẩm.
10
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Biểu tượng – vấn đề thuật ngữ
1.1.1. Khái niệm biểu tượng
Vấn đề khái niệm biểu tượng hiện nay rất phức tạp, chưa có sự thống
nhất giữa các ngành khoa học và các lĩnh vực. Bởi vậy, trong luận văn này,
chúng tôi chỉ đi vào nắm bắt, khái quát tinh thần cơ bản của một số quan niệm
xung quanh thuật ngữ biểu tượng.
Từ tượng trưng (symbole) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp sumballein có
nghĩa là nối lại với nhau. Quá trình hình thành của biểu tượng xuất phát từ
thực tiễn đời sống. Nếu trong tiếng Việt, biểu tượng là một từ gốc Hán được
dùng lẫn lộn với hình tượng và ký hiệu (với ba nghĩa: 1- hình ảnh tượng
trưng; 2- “hình thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự
vật còn lưu giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của sự vật vào giác quan
của ta đã chấm dứt” [34, tr.99]; 3- ký hiệu bằng hình, đồ họa trên máy tính)
thì đối với nhiều ngành khoa học, nó là một thuật ngữ được sử dụng với
những nội hàm khác nhau:
Trong phạm vi tâm lý học, biểu tượng được xem như những hình ảnh cụ
thể, trực quan, là “hình ảnh của vật thể, bối cảnh và sự kiện xuất hiện trên cơ
sở nhớ lại hay tưởng tượng” [10, tr.29]. Đi từ nền tảng tâm lý, biểu tượng trở
thành đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành khoa học xã hội.
Phân tâm học trong nghiên cứu biểu tượng có được nhiều thành tựu
đáng kể. Theo S. Freud, thuật ngữ biểu tượng (symbole) chỉ sản phẩm của vô
thức cá nhân bao gồm những hình ảnh, sự vật, hiện tượng có khả năng “diễn
đạt một cách gián tiếp, bóng gió và ít nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay
các xung đột” [60, tr.XXIV]. Và như vậy, S. Freud đã quá tập trung vào lĩnh
vực bản năng vô thức, đánh đồng toàn bộ hình ảnh xuất hiện trong giấc mơ
với biểu tượng.
11
C. Jung cũng thừa nhận quá trình hình thành biểu tượng gắn liền với cái
vô thức mà cụ thể hơn là vô thức cá nhân nhưng ông lại lý giải sự hình thành
biểu tượng khác với sự luận giải dựa trên dục năng libido của Freud. Theo C.
Jung, biểu tượng được hình thành dựa trên “những dấu vết cổ xưa” hay từ vô
thức tập thể. Quan điểm của C. Jung về biểu tượng gắn với ký ức nhân loại và
cho thấy có mối liên hệ giữa biểu tượng và mẫu gốc. Mẫu gốc là những tín
hiệu xuất hiện sớm nhất (để lại dấu ấn trong tín ngưỡng, văn hóa dân gian: lễ
hội, thần thoại, truyền thuyết,…), mang tính phổ quát, còn có khả năng sản
sinh ra các hệ biểu tượng văn hóa: mặt trời, hành xác, hiến tế,…
Jung đã trình bày một cách rốt ráo về mẫu gốc (cổ mẫu). Theo ông, “các
mẫu gốc giống như những nguyên mẫu của các tập hợp biểu tượng ăn sâu
vào vô thức đến nỗi chúng trở thành như một cấu trúc” [60, tr.XXI]. Mẫu gốc
gần như là hằng số chung cho cơ cấu tinh thần. Đó là tiếng nói của giống nòi,
của tổ tiên khi đứng trước tự nhiên và trong mối liên hệ với tự nhiên. Cơ sở để
hình thành và khởi đi của các mẫu gốc là vô thức tập thể (tức ký ức nguyên
thủy của nhân loại).
Cũng theo C.Jung, mẫu gốc là yếu tố sản sinh ra các hệ biểu tượng trong
một nền văn hóa, một cộng đồng. Khi khuynh hướng vận hành của phản ứng
tinh thần tác động vào phạm vi vô thức cá nhân thì nó được biểu lộ qua các
biểu tượng. Biểu tượng của mẫu gốc là những biểu lộ bằng hình ảnh tinh thần
đặc biệt được nhận thức bởi ý thức và rất khác nhau đối với mỗi mẫu gốc
riêng biệt. Những khía cạnh khác biệt của cùng một mẫu gốc này lại được
biểu hiện qua nhiều hình ảnh khác nhau. Mẫu gốc là khuynh hướng tạo ra
những biểu tượng trong môi trường vô thức cá nhân. Những biểu tượng của
cùng mẫu gốc đã vô cùng khác nhau, nhưng đến lượt mình, biểu tượng lại
được biểu lộ bằng nhiều hình ảnh tinh thần mà ý thức có thể nắm bắt được.
Bởi vậy, biểu tượng không chỉ là hình ảnh trong mơ, mang hàm ý tính dục và
tuân thủ nguyên tắc thỏa mãn đơn thuần (theo quan điểm của Freud); mà hơn
12
thế, nó còn là sự tái sinh và biểu hiện những dấu vết trí tuệ của tổ tiên được
hình thành trong suốt chiều dài lịch sử giống nòi. Song song với điều đó, bằng
ý thức sáng tạo và tài năng của mình, người nghệ sỹ sẽ luôn làm phong phú
thêm nghĩa của biểu tượng.
Mặt khác, khi nghiên cứu vấn đề biểu tượng trong lĩnh vực tâm lý và
nghệ thuật, hai nhà phân tâm học trên đều khẳng định: trong mối quan hệ giữa
cái biểu trưng (mặt hình thức của cảm tính) và cái được biểu trưng (mặt ý
nghĩa, phi trực quan) thì cái được biểu trưng bao giờ cũng là cái vô thức. Do
đó, bình diện cái biểu trưng là rõ ràng, có thể nắm bắt được, còn bình diện cái
được biểu trưng luôn biến đổi.
Với triết học, biểu tượng là “hình ảnh trực quan - cảm tính, khái quát về
các sự vật và hiện tượng của hiện thực, được giữ lại và tái tạo trong ý thức và
không có sự tác động trực tiếp của bản thân các sự vật hiện tượng đến giác
quan” [52, tr.86]. Có hai điểm cần chú ý ở đây: là hình thức phản ánh cảm
tính, được giữ lại và tái tạo. Điều đó có nghĩa là biểu tượng như một hạt mầm
không ngừng nảy nở, xác lập và tái tạo lại nó để bản thân nó có thể chứa đựng
một lượng ý nghĩa năng động.
Theo Từ điển bách khoa văn hóa học, “biểu tượng – một loại ký hiệu đặc
biệt, thể hiện nội dung thực tế của một điều nào đó. Biểu tượng văn hóa khác
ký hiệu thông thường ở chỗ chứa đựng mối liên hệ tâm lý và tồn tại mà nó
biểu trưng” [67; tr.50]. Các nhà nghiên cứu văn hóa đều có xu hướng xem xét
biểu tượng trong mối quan hệ mang tính chất hai chiều giữa thế giới của đời
sống tâm lý cá nhân và đời sống tâm linh của cộng đồng. Tách khỏi mối quan
hệ đó, biểu tượng không còn tồn tại với những năng lực mang ý nghĩa giàu
có, tiềm tàng của nó nữa.
Đối với văn học, biểu tượng còn được gọi là tượng trưng. Theo nghĩa
rộng, “biểu tượng là đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng của văn
học nghệ thuật” [18, tr.24]. Còn theo nghĩa hẹp, “biểu tượng là một phương
13
thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một vài hình tượng nghệ thuật đặc biệt có
khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng
nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa về
con người và cuộc đời”[18, tr.24].
Trên đây là một số cách hiểu xoay quanh khái niệm biểu tượng. Mặc dù
quan niệm không hoàn toàn giống nhau nhưng các lĩnh vực, các tác giả đều có
sự gặp gỡ về một số đặc trưng của biểu tượng: 1- biểu tượng vừa là hình thức
phản ánh cảm tính của cá nhân, vừa mang nội dung xã hội; 2- biểu tượng là
một yếu tố tất yếu của ý thức; 3- biểu tượng gồm hai mặt: cái biểu trưng và
cái được biểu trưng.
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tiếp thu quan điểm của C. Jung
về biểu tượng. Theo chúng tôi, đó là những kiến giải đầy đủ nhất về nguồn
gốc, nội hàm cũng như bản chất của thuật ngữ này: biểu tượng của một nền
văn hóa, một cộng đồng được sản sinh dựa trên cơ sở của mẫu gốc; nó luôn
được tái sinh để biểu hiện những dấu vết trí tuệ của tổ tiên; vai trò sáng tạo
độc lập của người nghệ sỹ là đặc biệt quan trọng trong quá trình làm phong
phú thêm nghĩa của biểu tượng; biểu tượng gồm hai mặt: cái biểu trưng (mặt
hình thức của cảm tính, là cái vô thức - luôn rõ ràng, có thể nắm bắt được) và
cái được biểu trưng (mặt ý nghĩa, phi trực quan - luôn biến đổi).
Những cách hiểu về biểu tượng ở trên đều có nguồn gốc từ phương Tây.
Với Trung Quốc, các nhà lý luận văn học không đưa ra được một khái niệm
chặt chẽ về biểu tượng cũng như xây dựng nó thành một hệ thống lý thuyết
hoàn chỉnh như vậy nhưng họ cũng có từ ngữ khác tương đương với nội hàm
của thuật ngữ này dưới tên gọi “tượng trưng”. Theo họ, tượng trưng là “mượn
một hình tượng cụ thể nhất định nào đó để biểu hiện một ý nghĩa đặc biệt nào
đó hoặc ám chỉ một sự vật nào đó” [19, tr.215]. Xét cho cùng, tuy không hoàn
toàn đồng nhất, trùng khít về câu chữ nhưng cách “mượn một hình tượng cụ
thể” để “biểu hiện một ý nghĩa” của lý luận văn học Trung Hoa chính là nói
14
về quan hệ giữa cái biểu trưng và cái được biểu trưng mà phương Tây đề cập
tới trong nội hàm của hai chữ “biểu tượng”.
a. Đặc trưng của biểu tượng
Tính có lý do: Cái được biểu trưng (biểu đạt) của biểu tượng chỉ nảy sinh
trên cơ sở những đặc điểm bản thể của cái biểu trưng. Các ý nghĩa biểu trưng
của biểu tượng là có thể lý giải được chứ không phải là sự quy ước tùy tiện.
Tính khả biến – chính là khả năng biến đổi ý nghĩa, sức sản sinh dồi dào
của cái được biểu đạt từ một cái biểu đạt. Tính khả biến của biểu tượng nghĩa
là sự không ổn định, biến đổi theo môi trường, thời kỳ, cá nhân, cộng đồng
dân tộc… Đó là khả năng chuyển dịch liên tục, tái sinh liên hồi từ cái biểu
đạt đến cái được biểu đạt. Theo tác giả Nguyễn Thị Ngân Hoa, quá trình biến
đổi ấy được diễn ra qua hai cấp độ mô hình hóa sau đây:
(biến đổi ý nghĩa cấp độ 1)
Các biến thể từ ngữ
(hiện thực hóa quan hệ sản sinh từ mẫu gốc đến hệ biểu tượng)
Phân hóa Chi tiết hóa Tương đồng Tương phản
(biến đổi ý nghĩa cấp độ 2)
Biến thể kết hợp
(hiện thực hóa quan hệ sản sinh từ bình diện văn háo đến bình diện chủ thể)
Tương tác Cộng hưởng
(Biến đổi sắc thái ý nghĩa) (Nảy sinh nghĩa mới)
[94, tr.40]
Mô hình trên đã giải thích, cắt nghĩa triệt để tính khả biến của biểu
tượng, đồng thời cũng khái quát hóa được quy trình biến đổi ý nghĩa của biểu
15
tượng trong ngôn từ nghệ thuật.
b. Vấn đề phân loại biểu tượng
Có nhiều tiêu chí để phân loại biểu tượng như:
Dựa vào tiêu chí trương độ: gồm biểu tượng không gian và thời gian.
Dựa vào cơ chế hoạt động của tư duy: biểu tượng thay thế và biểu tượng
trí nhớ [10, tr.29]…
Dựa trên việc sử dụng biểu tượng trong các chuyên ngành khác nhau
gồm có: biểu tượng trong các ngành khoa học tự nhiên (toán học, logic
học,…) – là những biểu tượng có tính chất ước định, được lựa chọn và sử
dụng theo thỏa thuận chung; biểu tượng trong tôn giáo và triết học; biểu
tượng tronng lĩnh vực nghệ thuật nghệ thuật nói chung,...
Về mặt nguồn gốc, biểu tượng được chia làm hai loại: biểu tượng gốc và
biểu tượng quy ước.
Biểu tượng gốc: là những biểu tượng trực tiếp nảy sinh từ mẫu gốc của
nó, có thể có hình thức vật chất. Biểu tượng gốc cũng có thể không có hình
thức tồn tại vật chất mà chỉ là một ý niệm tinh thần của con người.
Biểu tượng quy ước: là một dạng của biểu tượng gốc trong nền văn hóa,
bao gồm những biểu tượng ra đời sau, dựa trên những quy ước của một cộng
đồng văn hóa nào đó. Ví dụ, cây thập tự là biểu tượng quy ước cộng đồng kitô
giáo. Tràng hạt và cây bồ đề là biểu tượng quý ước của cộng đồng Phật giáo.
Tính quy ước ở đây không phải là tuyệt đối, nó không đồng nghĩa với tính võ
đoán. Xét đến cùng thì biểu tượng quy ước chính là một dạng biểu hiện của
biểu tượng gốc trong nền văn hóa nhất định. Chúng ta có thể tìm ra được mối
liên hệ giữa biểu tượng quý ước với biểu tượng gốc hay một mẫu gốc nào đó.
Cây thập tự xuất phát từ biểu tượng gốc sự khổ hình để đạt trạng thái thăng
hoa về tinh thần. Biểu tượng này có thể thấy trong thần thoại Prômêtê bị
xiềng.
16
1.1.2. Các cấp độ của biểu tượng
• Mẫu gốc (cổ mẫu) là biểu tượng mẹ, nguyên mẫu của các biểu
tượng, đi vào trong tâm thức của các cộng đồng như là "ký tích",
"mô hình tiềm tàng" trong tâm hồn con người có tính chất kế thừa
hay tính chất bẩm sinh, tính chất di truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác.
• Biểu tượng văn hóa
Các cổ mẫu khi đi vào trong những nền văn hóa khác nhau, chịu sự tác
động về những điểu kiện kinh tế, xã hội, về tự nhiên, về tôn giáo thì có thể sản
sinh ra các biểu tượng văn hóa.
Biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần (sự vật,
hành động, ý niệm,…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng lớn hơn
hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp, một hệ thống đặc trưng
cho những nền văn hóa nhất định: nghi lễ, hành vi kiêng kỵ, thần linh, trang
phục,… Biểu tượng văn hóa bao gồm cả những biểu tượng vật thể (trong các
ngành nghệ thuật như kiến trúc, hội họa, điêu khắc: Kim tự tháp là biểu tượng
văn hóa của Ai Cập, Vạn lý trường thành là biểu tượng văn hóa của Trung
Quốc, tháp Eiffel biểu tượng văn hóa của nước Pháp…) và phi vật thể (tín
ngưỡng, tôn giáo, triết học, phong tục, văn học). Trong “Từ điển biểu tượng
văn hóa thế giới”, tác giả J. Chevalier cho rằng “biểu tượng có khả năng cùng
lúc thâm nhập vào tận bên trong cá thể xã hội” và hiểu ý nghĩa biểu tượng là
một bước trên hành trình tiếp cận bản sắc văn hóa của dân tộc đó.
Các biểu tượng văn hóa này vừa có sự duy trì những ý nghĩa biểu trưng
của mẫu gốc, vừa có sự điều chỉnh và biến đổi cả về cái biểu đạt và cái được
biểu đạt. Các biểu tượng văn hóa xuất hiện sâu rộng và có ảnh hưởng đến đời
sống tinh thần mỗi dân tộc, là nguồn mạch dân gian nuôi dưỡng những giá trị
tâm linh. Mỗi quốc gia có những biểu tượng đặc trưng cho mình, thậm chí có
khi cùng một biểu tượng nhưng ở mỗi nước lại mang ý nghĩa khác nhau.
17
Cùng với sự phát triển của đời sống, biểu tượng văn hóa ngày càng được bồi
đắp thêm ý nghĩa cũng như có sự xuất hiện nhiều biểu tượng mới theo cá tính
sáng tạo của nhà văn. Đó là sự mở rộng nội hàm ý nghĩa, vận động không
ngừng trong vũ trụ nghĩa - một đặc trưng của biểu tượng làm cho văn bản trở
nên đa chiều, tiếp thu và tiếp biến.
• Biểu tượng nghệ thuật
Từ bình diện văn hóa, biểu tượng chuyển hóa vào các loại hình nghệ
thuật, một hệ biểu tượng được sáng tạo lại theo những đặc trưng loại hình
nhất định: hội họa, sân khấu, văn học,... Vì vậy, biểu tượng nghệ thuật là “các
biến thể loại hình của biểu tượng văn hóa trong những ngành nghệ thuật khác
nhau: hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn học,…”[94, tr.35]. Các biểu tượng văn
hóa khi đi vào trong các ngành nghệ thuật sẽ được hiện thực hóa thành các
chất liệu tương ứng của ngành nghệ thuật đó.
• Biểu tượng ngôn từ nghệ thuật: Các biểu tượng nghệ thuật chịu sự
điều biến của yếu tố chủ thể sẽ được cấu tạo lại thông qua tín hiệu ngôn ngữ
trong văn học mà sản sinh ra các biểu tượng ngôn từ. Trong phạm vi ngôn
ngữ văn học, các biểu tượng tâm lý, biểu tượng văn hóa đều được chuyển
thành các từ - biểu tượng (word – symbols). Ở đây, vừa có sự duy trì những
nét nghĩa gốc của biểu tượng vừa có sự tiêu biến một số nét nghĩa nhất định
và sự sáng tạo ra một số nét nghĩa mới.
1.1.3. Vấn đề “giải mã” biểu tượng
“Mã” xuất hiện lần đầu tiên trong lý thuyết thông tin. Nó là hệ thống
những biểu trưng được chọn một cách võ đoán (không tất yếu) thông qua
những quy luật cấu tạo của ký hiệu để dùng trong các thông điệp. Ngôn ngữ
cũng được xem là một loại mã đặc biệt, tức một hệ thống những ký hiệu có
tính chất ước lệ được xây dưng theo những liên hệ và cấu trúc rất chặt chẽ,
theo những luật lệ vô hình, được cam kết một cách thống nhất tuyệt đối trong
một cộng đồng ngôn ngữ. Trong đời sống xã hội, với nhiều phạm vi giao tiếp
18
khác nhau, con người cũng tạo ra nhiều mã. Các mã được xếp thành ba loại:
mã logic, mã xã hội và mã thẩm mỹ. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn,
chúng tôi sẽ tập trung vào tìm hiểu mã thẩm mỹ. Đây là loại mã mang tính
chủ quan xúc cảm nhằm tác động vào tư tưởng, tình cảm, trí tuệ, thông qua
những hứng thú như: văn hóa, nghệ thuật,… Vì vậy, mã văn chuơng cũng là
một loại mã mang tính chất thẩm mỹ. “Giải mã” tức là giải thích mã, chuyển
dịch mã sang sự hiểu biết cụ thể khi nhận được thông điệp.
Biểu tượng được nhìn qua lăng kính của người nghệ sỹ và gắn với tư
tưởng của chủ thể sáng tạo. “Biểu tượng rơi vào ký ức nhà văn từ chiều sâu
ký ức văn hóa và được làm sống lại trong văn bản mới, như một hạt giống
đánh rơi vào lòng đất” [125]. Bởi vậy, “giải mã” là một trong những khâu
đặc biệt quan trọng trên hành trình đi tìm ý nghĩa của biểu tượng nghệ thuật
nói chung và biểu tượng văn học nói riêng. Nhờ đó, chúng ta mới có thể tìm
hiểu ý nghĩa cũng như vị trí của nó trong văn hóa của mỗi dân tộc, bao tiếng
nói từ trái tim, từ trí tuệ của người nghệ sỹ được thể hiện qua biểu tượng -
một phần trong kết cấu nội tại của tác phẩm ấy.
Theo chúng tôi, để có thể giải mã được một biểu tượng cụ thể nào đó,
chúng ta cần chú ý một số điểm cơ bản sau đây:
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu xem biểu tượng đó được xuất phát từ
biểu tượng gốc hay biểu tượng quy ước (tức là đi xác định nguồn gốc của biểu
tượng). Sau đó, từ trong đời sống văn hóa, tìm hiểu sự biến đổi ý nghĩa của
biểu tượng trong tác phẩm văn học nghệ thuật cụ thể. Chính trong sự chuyển
hóa này xuất hiện vai trò của chủ thể không phải là một nhân tố bị động mà
như một năng lực chủ động, có khả năng điều chỉnh các ý nghĩa của biểu
tượng. Đó chính là cơ sở để chúng ta từng bước tìm hiểu quá trình phái sinh
cũng như bồi đắp ý nghĩa của biểu tượng ở hiện tại.
Biểu tượng “mãi mãi gợi cảm đến bất tận: mỗi người thấy ở đấy cái mà
năng lực thị giác của mình có thể nhận ra. Thiếu sự thâm thúy sẽ chẳng nhận
19
được cái gì cả” [60, tr.XXVI]. Vì vậy, vấn đề “giải mã” biểu tượng cần có
một cái nhìn tổng thể của nhiều ngành khoa học khác nhau (triết học, tâm lý
học, văn học,văn hóa học, ký hiệu học, nhân học,…) trong đó có ký hiệu học,
văn hóa học. Hai bộ môn khoa học này đã và đang trở thành một phương
pháp tiếp cận quan trọng trong nghiên cứu về biểu tượng (biểu tượng văn hóa,
biểu tượng nghệ thuật).
Để nắm bắt tương đối đầy đủ và trọn vẹn ý nghĩa của biểu tượng, độc giả
“phải tổng hợp và đồng cảm hết mực, nghĩa là chia sẻ và cảm nghiệm một cái
nhìn nào đó về thế giới” [60, tr.XXVII]. J. Chevalier cho rằng ý nghĩa của
một biểu tượng không phải là một cấu trúc khép kín mà là một khả năng gợi
ra các chiều liên tưởng trong thực tại tinh thần của con người, những chiều
hướng này có thể rất khác nhau, rất trái ngược nhau. Mỗi người có thể tìm
thấy trong biểu tượng sự trải nghiệm tinh thần mang tính cá nhân nhưng vẫn
không tách rời cái bản chất xã hội, cái trung tâm tinh thần chi phối toàn bộ sự
vận động của chúng. Trong mối quan hệ với tâm điểm, chu vi của một biểu
tượng lại vô tận, có thể vượt quá sự hiểu biết của lý trí, và thực chất “chính vì
vô số điều nằm ngoài những phạm vi hiểu biết của con người nên chúng ta
thường xuyên dùng những từ ngữ biểu tượng để thể hiện những khái niệm mà
chúng ta không thể xác định được, cũng chẳng hiểu được trọn vẹn” [60,
tr.XXX]. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là một sự tưởng tượng hỗn loạn,
vô hướng của con người, “các vế chưa biết mà biểu tượng hướng tư duy của
ta về đó không phải là bất cứ điều ngông cuồng nào của trí tưởng tượng” [60;
tr.XXX].
1.2. Biểu tượng trong văn học cổ - trung đại Trung Quốc
Kinh Dịch là cội nguồn của triết học Trung Quốc, là mô hình tư duy triết
học cổ đại nhất, mọi phương diện của triết học truyền thống Trung Quốc đều
bắt nguồn từ nó. Tác giả Trần Lê Bảo cho rằng “đó là lối tư duy thiên về nhận
thức những biểu tượng cụ thể” [2, tr.45].
20
Ngay từ đời Phục Hy đến cuối nhà Thương, Kinh Dịch vẫn là một mớ
vạch liền, vạch đứt, chưa có tên hiệu hay chữ nghĩa gì cả. Tuy vậy, chúng vẫn
biểu trưng cho những ý nghĩa nhất định. Ký hiệu cơ bản của các quẻ trong
Kinh Dịch đoạn thẳng: một đoạn thẳng (vạch liền) “__” gọi là vạch Dương
(hào Dương) hoặc đoạn cắt (vạch đứt) “_ _” gọi là vạch Âm (hào Âm). Vạch
Dương đại diện cho dương khí, vạch Âm đại diện âm khí, sự lưu thông thống
nhất giữa hai khí này sẽ tạo ra vạn vật. Hai vạch đó gọi là NHỊ NGUYÊN
(LƯỠNG NGHI); Trên mỗi LƯỠNG NGHI thêm một nét nữa, thành ra bốn
cái hai vạch, tạo thành bốn hình khác biệt với tên: Thái Dương, Thiếu Dương,
Thái Âm, Thiếu Âm, gọi chung là TỨ TƯỢNG. Tứ Tượng là Nhật Nguyệt
Tinh Thần (mặt trời, mặt trăng, định tinh và hành tinh). Trên bốn tượng lại có
thêm một vạch nữa, tạo thành tám cái ba vạch, gọi là tám Quẻ (tức quẻ đơn).
Chữ “tượng” chính là căn cứ tạo nên Kinh Dịch. Nó có nghĩa là mô
phỏng, tượng trưng. Người Trung Quốc cổ đại cho rằng: sự vật cơ bản giữa
trời đất có tám loại: trời đất, sấm sét, gió, nước, lửa, núi và sông ngòi làm đại
diện, từ đó chia làm tám quẻ: Càn hay Kiền (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm sét),
Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (sông ngòi). “Tượng”
mang tất cả tính đại diện cụ thể của Bát quái (tức giải thích tất cả các ý nghĩa,
hiện tượng đại diện cho từng quẻ, muốn hiểu được điều đó phải đọc sách
“Thuyết Quái” của Khổng Tử soạn). Tám quẻ đơn ở trên tượng trưng cho các
vật ở vũ trụ, mỗi quẻ là hình tượng và tính chất của một hoặc nhiều vật: Kiền
là tượng trời, tượng con rồng, có sức mạnh, tượng trưng đàn ông; Khôn là
tượng đất, tượng con trâu, có tính chất nhu thuận, là đàn bà; Chấn là tượng
tiếng sấm, tượng cái cây, tính động; Khảm là tượng nước, tượng mây, tượng
mưa, tính hiểm trở; Tốn là tượng gió, tính chất luồn vào, đong đưa; Ly là
tượng lửa, là ánh sáng, tính quang đãng; Cấn là tượng núi, tính chất yên tĩnh;
Đoài là tượng đầm, tính vui vẻ. Sau cùng, Phục Hy đem quẻ nọ chồng lên quẻ
kia, điên đảo khắp lượt, tạo thành sau mươi tư cái sáu vạch, gọi là sáu mươi tư
21
Quẻ (quẻ kép). Ba vạch cắt nhau tạo nên Bát quái, Bát quái hai phần chồng
nên nhau tạo thành sáu mươi bốn quẻ. Bắt nguồn từ những vạch liền vạch đứt
kết hợp lại với nhau nhưng ảnh hưởng của Kinh Dịch hết sức lớn lao. Khi
người dân Trung Hoa chưa có chữ viết, “những quẻ là bước đầu để đi tới văn
tự. Sáu mươi bốn quẻ được Kinh Dịch Huyền Nghĩa coi như là sáu mươi bốn
dạng chữ đầu tiên” [40, tr.18]. Với việc bói toán bằng cỏ thi, bằng tiền cũng
bắt nguồn từ Kinh Dịch. Trong phong thủy và quân sự, những nguyên lý của
Dịch học cũng được áp dụng rất nhiều.
Như vậy, mô hình tư duy triết học trong Kinh Dịch đã tạo nên một hệ
thống tín hiệu, biểu tượng phong phú trong việc nhận thức thế giới. Mỗi hào,
quẻ trong hệ thống đều mang một ý nghĩa biểu trưng nào đó. Tính chất của
mỗi quẻ tượng trưng cho sự riêng biệt của nó “vì bản thân các phù hiệu tượng
trưng trên đã chứng tỏ năng lực tư duy đương thời có thể bao quát bản chất
sự việc vào một số tượng, một số phạm trù cụ thể” [2, tr.46]. Cũng theo tác
giả Trần Lê Bảo, Kinh Dịch có sức ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ trên quê
hương của nó mà còn “là đặc điểm tư duy phương Đông, trong đó có tư duy
nghệ thuật” [2, tr.46].
Nam hoa kinh là cuốn sách do Trang Tử và các đệ tử đời sau dựa trên cơ
sở tư tưởng triết học của Lão Tử (lấy “Đạo” làm tín ngưỡng căn bản và làm
cơ sở lý luận của giáo nghĩa) mà phát triển thành. Nó không chỉ là một tác
phẩm triết học mà còn được coi là một tác phẩm văn chương, được Kim
Thánh Thán xếp vào vị trí số một trong “Lục tài tử”.
Ngoài đặc điểm chung của các triết gia Trung Hoa khi viết sách là trình
bày tư tưởng của mình một cách vắn tắt, lửng lơ để dành khoảng trống cho
người đọc suy ngẫm, Trang Tử còn sử dụng nhiều ngụ ngôn cũng như ý tứ rất
thâm trầm khiến người đọc không kể công sức và thời gian để suy nghĩ về nó,
bàn luận về nó. Tác giả của Nam hoa kinh đã sử dụng vô số những hình ảnh
mang ý nghĩa ẩn dụ. Trong bài Tiêu dao du (thuộc chương Nội thiên), Trang
22
Tử đã mượn thần thoại “Tinh Vệ lấp biển” để xây dựng một hình ảnh tương tự
nhằm bày tỏ suy nghĩ của mình. Nếu như hình ảnh chim bằng không nề hà gió
bão, sóng lớn để vượt biển là biểu tượng chí lớn và lòng quyết tâm thì con ve,
con cưu mới ra ràng và con chim sẻ lại mang ý nghĩa ngược lại. Ở thiên Tề
vật luận, hình ảnh cánh bướm không chỉ nói để về quan niệm nhân sinh của
mình mà còn là biểu tượng cho giấc mộng (tỉnh và mộng – Trang Tử và
bướm). Ngoài biểu tượng cánh bướm, trong Nam hoa kinh còn xuất hiện biểu
tượng cái bóng. Chúng ta gặp đi gặp lại hai cái bóng trong thiên Tề vật luận,
Ngụ ngôn và cuộc đối thoại giữa chúng. Theo các tác giả cuốn Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới, trong tâm thức của người Trung Hoa cổ, cái bóng
được khởi thủy từ việc con người thấy sườn núi râm tối của thung lũng đối
lập với sườn chói chang ánh nắng hoặc bóng là một cổ mẫu nguyên thủy
trong tấm gương nước vô thức (theo Đào Ngọc Chương). Từ việc nghiên cứu
hình bóng, phép định hướng trong thuật địa lý cổ xưa được hình thành.
Bước vào Nam hoa kinh là chúng ta nghe Trang Tử nói về mộng. Đó là
mộng về chim bằng, về cánh bướm, về cái bóng, con ốc sên, con ếch trong
giếng cạn,... Như vậy, thế giới của Trang Tử chỉ là những biểu tượng, là
những cái mà ông gọi là, ngụ ngôn, trùng ngôn. Ông đã gửi gắm vào những
biểu tượng nghệ thuật này những tính chất trừu tượng của ý cảnh hoặc phẩm
chất nào đó của con người. Ngụ ngôn trong tác phẩm của Trang Tử là nghệ
thuật tượng trưng, mà nói như Hêghen, nghệ thuật ấy là một “mã tinh thần”
khó có thể giải thích hết được. Cùng với phong cách lãng mạn, trí tưởng
tượng phong phú, lối nói tượng trưng tuy còn đơn giản nhưng có ảnh hưởng
rất lớn tới các nhà thơ, nhà văn đời sau như: Bạch Cư Dị, Tào Tuyết Cần,…
1.2.1. Thời kỳ văn học Tiên Tần
• Kinh thi
Ca của Trung Quốc ra đời trước khi có chữ viết, được hình thành và phát
triển dần lên trong quá trình lao động, múa hát của con người (văn học dân
23
gian). Kinh thi là bộ tổng tập thơ ca đầu tiên (từ thế kỷ XI – IV TCN – tức từ
đầu thời nhà Chu đến giữa thời Xuân Thu) cũng là một trong những tác phẩm
nổi tiếng của nền văn học cổ Trung Quốc. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho nền
văn hóa phương Bắc (cùng với triết học Khổng Mạnh).
Kinh thi được đánh giá cao không chỉ bởi đây là tuyển tập thơ ca dân
gian có nội dung làm nền tảng cho khuynh hướng hiện thực của văn học
Trung Quốc mà nghệ thuật của nó cũng rất đặc sắc. Cùng với lối kết cấu trùng
chương điệp cú, phú thì tỷ, hứng là những thủ pháp nghệ thuật nổi bật. Tỷ là
so sánh, mượn cái này để nói cái kia, mượn cái cụ thể để nói cái trừu tượng:
mượn con chuột để nói về kẻ bóc lột – Thạc thử, mượn hình ảnh cây đào non,
đào tơ để nói về sự trẻ đẹp của người con gái dậy thì – Đào yêu, mượn hình
ảnh quả mai (mơ) rụng để nói tiết cuối xuân và chỉ hương sắc dần nhạt phai
theo thời gian của người con gái – Phiếu hữu mai, lấy gió lớn để ví với người
chồng bạo tàn - Chung phong,… Hứng là khêu gợi, mượn sự vật bên ngoài để
khêu gợi tình cảm bên trong, có khi liên quan, có khi chỉ gợi âm thanh, gợi
vần: từ tiếng chim gù gọi nhau mà chàng trai mơ tưởng đến cô gái hái rau
hạnh, rồi nhớ thương, rồi trằn trọc và tưởng tượng ra ngày cưới – Quan thư,
khởi hứng từ hình ảnh con chim sẻ vàng kêu chích chích ở bụi cây gai, rồi cây
dâu mà dẫn đến chuyện tuẫn táng – Hoàng điểu,… Giữa tỷ và hứng nhiều khi
rất khó phân chia ranh giới rõ ràng bởi trong tỷ có hứng, trong hứng có tỷ.
Lưu Hiệp nói: “thể tỷ thì chứa giận dữ mà không nói thẳng; thể hứng thì ví
von xa gần để gửi sự răn đe” [77, tr.117].
Dù thuộc dòng văn học dân gian – những sáng tác thơ ca đầu tiên của
văn học Trung Quốc nhưng phép tỷ, hứng trong Kinh thi đã chứa đựng những
(biểu tượng) tượng trưng đơn giản và có ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca Trung
Quốc đời sau.
• Sở từ
Thế kỷ thứ IV TCN, nước Sở thời Chiến Quốc với nền tảng văn hóa độc
24
đáo của mình cộng thêm những ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc đã hun
đúc cho ra đời nhà thơ vĩ đại Khuất Nguyên. Khuất Nguyên cùng những
người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của ông như Tống Ngọc đã sáng tạo ra
thể thơ Sở từ - loại thơ ca ra đời trong thời Chiến Quốc, giàu màu sắc địa
phương nước Sở. Đến Sở từ, mặt hình thức của thơ ca Trung Quốc cổ đại đã
có bước phát triển mới. Ly tao là tác phẩm Sở từ kiệt xuất, tiêu biểu của Khuất
Nguyên. Đây là bài thơ trữ tình dài, xuất hiện sớm nhất trong lịch sử văn học
viết Trung Quốc. Ly tao của Khuất Nguyên ra đời không chỉ đưa thơ ca Trung
Quốc vào giai đoạn sáng tác có ghi tên tác giả cụ thể, không còn là tác giả
khuyết danh như trong Kinh thi nữa, mà còn là sáng tác văn học đầu tiên theo
khuynh hướng lãng mạn với việc sử dụng khá đầy đủ các thủ pháp biểu hiện
lãng mạn.
Trong cuốn Lý luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Khâu Chấn
Thanh đã nêu ý kiến của Tô Thức đời Tống: “Tác phẩm Ly tao của Khuất
Nguyên sở dĩ tranh được vẻ sáng với mặt trăng, mặt trời, và biến đổi cả thể
phong và nhã” (cái phong nhã nhi tái biến giả), ấy là vì nó đã có sự đổi mới,
phát triển trên cơ sở của 300 bài thơ Kinh Thi” [81, tr.304]. Qủa vậy, về mặt
biểu hiện nghệ thuật, Ly tao của Khuất Nguyên đã tham khảo thủ pháp tỷ,
hứng của Kinh thi khi sử dụng số lượng nhiều biện pháp tỷ dụ. Nhà thơ đã sử
dụng những loài hoa cỏ thơm (huệ, lan, sói, thiên lý, đỗ quyên,…) và chim
quý (phượng, loan,…) để ví với phẩm chất trung trinh của mình; dùng những
loài cỏ độc (cỏ tiêu, cỏ ngải, cỏ tranh,…), những loài ác điểu, vật tồi (chim
trấm – loài chim độc mà lông của nó ngâm rượu uống có thể chết người, chim
cưu,…) để ví với thói xiểm nịnh, nham hiểm của bon người xấu; lấy vị nữ
thần của Lạc Thủy trong thần thoại là Phục Phi và người con gái của họ là
Hữu Ngu để ví với hiền thần; lấy loài rồng và các thứ chim loan phượng bay
lượn trên trời cao để ví với người quân tử; lấy hình ảnh gió xoáy, mây trời,
mống cụt,… biến đổi vô thường để ví với kẻ tiểu nhân,…
25
Tuy bắt nguồn từ Kinh thi nhưng phép tỷ, hứng của Ly tao có sự đổi mới
rõ rệt. Trong Kinh thi, phép tỷ được thực hiện dựa trên cơ sở lợi dụng điểm
giống nhau nào đó giữa hai vật và so sánh chúng với nhau, khiến cho tư
tưởng, tình cảm hoặc quan điểm vốn trừu tượng được trình bày một cách sinh
động, cụ thể, khiến cho người đọc có ấn tượng rõ nét, hoặc trình bày một cách
uyển chuyển, hàm súc để độc giả tự tìm lấy ý vị ở những điều không tiện nói
thẳng ra; hứng mượn sự vật để khơi gợi hoặc mượn đề tài để phát huy. Lưu
Hiệp gộp tỷ, hứng trong Ly tao vào làm một khi nói rằng: “Loài rồng để so
sánh với người tốt, mây mống để so sánh với người xấu, như thế đều có cái
phong cách của tỷ hứng trong Kinh thi vậy” [77, tr.36]. Sự khác nhau lớn nhất
giữa tỷ, hứng trong Ly tao và Kinh thi, theo Khâu Chấn Thanh chính là “sự
“nghĩ nhân hóa” (nhân cách hóa) của nó. Điều đó có thể nói rằng, đó là sự
phát triển thủ pháp tỷ, hứng trong Kinh thi vậy.” [81, tr.292]. Do vậy, so với
Kinh thi, thủ pháp này trong Ly tao phức tạp và phong phú hơn nhiều.
Như vậy, với bài thơ trữ tình đầu tiên trong lịch sử văn học viết Trung
Quốc, nhà thơ không chỉ có ý thức tham khảo phép tỷ, hứng trong Kinh thi mà
còn sử dụng thủ pháp này với mật độ dày đặc nhằm làm tăng sự sinh động cụ
thể, ý nghĩa sâu sắc. Đó chính là sự phát triển phép tỷ, hứng của Kinh thi, cho
chúng ta thấy được một hệ thống tượng trưng hoàn chỉnh xuất hiện trong tác
phẩm, trở thành kinh điển cho các thi nhân đời sau học tập. Đó chính là một
trong những lý do để Tư Mã Thiên đánh giá về tài năng của Khuất Nguyên
trong cuốn Sử ký: “Dữ nhật nguyệt tranh quang khả dã” (đủ để sáng rực cùng
mặt trời, mặt trăng) [33, tr.162], hay như lời nhận xét của Lưu Hiệp trong
cuốn Văn tâm điêu long: “văn khí vượt quá người xưa, ngôn ngữ hơn hẳn đời
sau” [77, tr.37]. Nhưng suy cho cùng, tỷ, hứng ấy vẫn còn đơn giản và để phát
triển thành biểu tượng (tượng trưng), chúng còn phải trải qua nhiều chặng
đường khác.
26
1.2.2. Thời kỳ văn học cổ điển
Văn học trung đại nằm gọn trong lịch sử chế độ phong kiến Trung Quốc
(Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh) kéo dài hai mươi thế kỷ. Cùng
với sự trưởng thành và hoàn thiện của thi pháp văn học cổ điển nói chung
(bao gồm các loại hình thơ ca, tiểu thuyết,…), thủ pháp sử dụng biểu tượng
trong các tác phẩm thuộc giai đoạn này từng bước được định hình rõ ràng và
nâng lên những bậc thang mới. Đến giai đoạn văn học này, biểu tượng (tượng
trưng) đã thực sự trở thành một thủ pháp nghệ thuật đắc dụng giúp các nhà
thơ, nhà văn phản ánh hiện thực, truyền đạt nội dung tư tưởng một cách chân
thực nhất cũng như thể hiện ý đồ của người sáng tác.
• Thơ Đường
Thời Đường kéo dài khoảng ba trăm năm (năm 617 – 907) là thời kỳ thơ
ca Trung Quốc phát triển rực rỡ nhất, không chỉ chứa đựng nội dung phong
phú mà hình thức cũng rất điêu luyện. Nói tới thời kỳ hoàng kim của thơ ca
Trung Hoa là nói đến mẫu mực của thơ ca cổ điển. Kế thừa những tinh hoa
của văn học trước đó, các nhà thơ giai đoạn này đã đưa thành tựu thơ ca
Trung Hoa có thêm những bước tiến mới. Phép tỷ, hứng được bắt nguồn từ
Kinh thi, sau đó là Sở từ, những sáng tác của Đào Uyên Minh,… đến thời
Đường được phát triển cực độ trong sáng tác thi ca.
Với người đời Hán, tỷ và hứng được dùng để phúng thích những điều
chướng tai gai mắt trong xã hội. Đến thơ Đường, lối tỷ, hứng trong Kinh thi,
Ly tao hay trong thơ Đào Uyên Minh không chỉ là nghệ thuật tỷ dụ, ám dụ mà
được phát triển thành tượng trưng (mà trong thơ gọi là hứng tượng) khi ý
nghĩa của cái được biểu đạt phong phú hơn. Nhờ có phép tượng trưng mà thi
nhân có thể tác động vào tư tưởng, tình cảm của người đọc chỉ bằng cách gợi
lên một vài ý, một vài đặc điểm mà không cần dài dòng. Bàn về mối quan hệ
giữa khung cảnh và ý nghĩ trong nội tâm, khi xét trên phương diện tình cảm
và tượng trưng, Lâm Ngữ Đường goi phép đó là hứng (mà đúng hơn là hứng
27
tượng). Khái niệm này “diễn đạt tinh tế và cô đọng mối liên kết cảnh tình”
[57, tr.37]. Nếu đem cả hứng và tượng (tức tượng của vật) ra so sánh thì
“tượng có xu hướng gắn liền với cái thực, cũng chính là phần cứng hiển hiện
thuộc thế giới nghệ thuật của tác phẩm; còn “hứng” lại có xu hướng hư
không, tạo nên phần tiềm ẩn của hình tượng nghệ thuật” [39, tr.213]. Theo
tác giả Đinh Phan Cẩm Vân, sự vật được nói tới hay nội dung cụ thể của một
bài thơ là “sự tương tác giữa hình ảnh và khơi gợi, giữa bề mặt và phần chìm
sâu, giữa nghĩa phô bày và nghĩa hàm ẩn, giữa cái được nói ra và cái ám thị.
Phần bề nổi (tượng nội) và phần chìm sâu (tượng ngoại) đều phải thiết lập
thành một thế giới gắn kết về ý nghĩa” [57, tr.37]. Từ đây có thể nói, hai chữ
hứng tượng của thơ Đường khi đó rất gần gũi với thuật ngữ “biểu tượng” –
“tượng trưng” của các nhà lý luận văn học phương Tây và Trung Quốc ngày
nay.
Đến với Đường thi, độc giả như bị choáng ngợp bởi hàng loạt các hình
ảnh tượng trưng. Mỗi tượng trưng ấy không chỉ là những tỷ dụ đơn nghĩa mà
thi nhân đã bồi đắp thêm để chúng chứa đựng trong mình bao tầng nghĩa sâu
xa, biểu thị nỗi lòng tâm sự của mình. Thơ Đường có rất nhiều hình ảnh biểu
trưng như: dòng sông, dương liễu, rượu, ánh trăng… Sau đây, chúng tôi xin
điểm qua một vài hình ảnh tượng trưng tiêu biểu.
Gió là một ẩn dụ giàu ý nghĩa trong thơ Đường. Với thi nhân giai đoạn
này, gió cũng là một hình ảnh biểu trưng, được họ gửi gắm vào đó nỗi niềm
khi tiễn biệt. Có thể đó là gió xuân mang nỗi biệt ly bằng hữu khi Cao Thích
tiễn bạn là thiếu phủ Lý Thẩm lên đường mà “Xuân phong tống khách sử
nhân bi” (Gió xuân tiễn bạn lòng càng xót xa). Ở một nghĩa khác, gió gợi nỗi
niềm thương nhớ. Đến đây, gió không còn như một dấu hiệu tình cảm trong
các buổi ly biệt – một không gian nền làm tăng thêm nỗi buồn giữa những
người biệt ly mà còn như một dấu hiệu tình cảm.
Hình ảnh cánh nhạn trong thơ Đường mang những giá trị biểu trưng
28
như: tình cảm hoài hương và căn tính thích yên ổn của người Trung Hoa;
nhạn là tín sứ của tâm tưởng và tình yêu, cánh nhạn biểu thị sâu sắc sự ly biệt
hay một biểu tượng thể hiện nguyên tắc quần thể. Đồng thời qua biểu tượng
chim nhạn, các nhà thơ Đường còn bộc lộ nhân sinh quan và thái độ sống của
mình.
Hứng tượng có nguồn gốc sâu xa từ Kinh thi, sau đó trải qua các giai
đoạn phát triển: thơ văn của Khuất Nguyên, Đào Uyên Minh,… mà định hình
rõ nét, phát triển vượt bậc ở Đường thi. Điều đó giúp ngôn ngữ trong thơ
Đường trong sáng, tinh luyện, tiết kiệm ngôn từ để tạo nên tính hàm súc, cô
đọng. Thi nhân hòa cùng với thiên nhiên nhằm diễn tả triết lý người và vật
hợp nhất, vạn vật trong vũ trụ sống và cảm xúc với người, chia sẻ buồn vui
với người. Sau giai đoạn văn học này là thời đại hoàng kim của tiểu thuyết cổ
điển Minh – Thanh. Đến đây, sử dụng phép tượng trưng mới thực sự chín
muồi, đạt được những thành tựu vượt bậc, trở thành thủ pháp đặc biệt quan
trọng đối với văn nhân trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm
cũng như những quan điểm văn học, quan điểm thẩm mỹ và quan điểm chính
trị của mình.
• Tiểu thuyết Minh – Thanh
Thời Minh – Thanh, các văn nhân Trung Hoa sống trong bối cảnh lịch sử
đặc biệt. Hai triều đại Minh và Thanh lần lượt thế chân nhau cai trị đất nước
rộng lớn, đông dân này. Nhà Thanh đã thi hành những chính sách kinh tế, văn
hóa - chính trị tàn bạo nhằm đồng hóa và thống trị người Hán và các tộc
người khác. Được tắm mình trong bầu không khí của thời đại, các văn nhân
đã đã suy tư, cảm nhận và lấy đó làm nền tảng cho những sáng tạo nghệ thuật
của mình. Hoàn cảnh tâm lý xã hội cụ thể nêu trên đã chi phối trực tiếp nhãn
quan nghệ thuật của nhiều nhà văn đương thời. Những hiện thực ấy đã giúp
những người cầm bút đi tìm đáp án cho những câu hỏi: thế nào là thiện, là ác,
là cái đẹp? Thế nào là con người tự do, con người có hạnh phúc? Thế nào là
29
làm tròn trách nhiệm với quốc gia, với dân tộc và với bản thân mình để không
phải hổ thẹn khi “đã mang tiếng ở trong trời đất”? Từ suy nghĩ tới hành
động, trong tác phẩm của mình, họ đã dành nhiều tâm huyết khi xây dựng thế
giới nghệ thuật trong đó có những biểu tượng để ký thác nỗi ưu tư, bộc bạch
những quan điểm nhân sinh. Nếu như Tây du ký là tiểu thuyết chương hồi tiêu
biểu cho văn học cổ điển thời Minh thì Hồng lâu mộng cũng là tác phẩm đứng
đầu trong số những tiểu thuyết cổ điển thời Thanh. Lúc sinh thời, Tào Tuyết
Cần đã dành nhiều tâm huyết xây dựng cho đứa con tinh thần một thế giới dày
đặc những biểu tượng (đá, nước, vườn,...). Và thật trùng hợp, sau khi ra đi,
thân thế - sự nghiệp của ông cũng là biểu tượng về cuộc đời thật - ảo không
khác những điều Cần Khê đã viết trong Hồng lâu mộng là bao. Và việc đi
khám phá về biểu tượng trong bộ tiểu thuyết cũng như cuộc đời của nhà văn
không phải là việc làm dễ dàng với giới nghiên cứu và những ai yêu thích kiệt
tác văn chương này.
Tiểu kết
Qua những vấn đề lý luận liên quan tới thuật ngữ biểu tượng và hình
thức sử dụng biểu tượng trong văn học cổ - trung đại Trung Quốc, chúng tôi
xin rút ra một số nhận định ban đầu như sau:
Thứ nhất, mẫu gốc là cấp độ cơ sở đầu tiên, biểu tượng là hiện thực hóa
của mẫu gốc trong văn hóa và các loại hình nghệ thuật. Sự hiện thực hóa ấy
cho thấy một hệ biểu tượng vừa có những đặc điểm thống nhất, vừa bộc lộ
những khác biệt nhất định. Khi chuyển hóa vào một tác phẩm cụ thể, biểu
tượng vừa mang những ý nghĩa gắn với giá trị văn hóa chung (mẫu gốc), vừa
có sự điều chỉnh, tiếp nhận hay sáng tạo của người nghệ sỹ với những mẫu
văn hóa này.
Thứ hai, vấn đề “giải mã” biểu tượng nghệ thuật nói chung và biểu
tượng văn chương nói riêng cần có sự hỗ trợ của các ngành khoa học khác
nhau. Bên cạnh đó, người đọc, nhà nghiên cứu cần đặt việc sử dụng hết những
trải nghiệm của bản thân về cuộc sống song song với sự cảm nhận từ trái tim
30
mình lên hàng đầu để có thể chạm tới những vỉa đá của các lớp biểu tượng.
Có như vậy, chúng ta mới “hiểu thêm ngôn ngữ văn học, hiểu thêm quan hệ
máu thịt giữa những cái gì con người nhất, cuộc sống nhất đối với tác phẩm”
[56, tr.62] cũng như sự cống hiến và hoài bão và dụng ý của người sáng tác.
Thứ ba, biểu tượng là thuật ngữ phức tạp, mỗi ngành khoa học, mỗi lĩnh
vực của đời sống lại có quan niệm khác nhau về nó. Với các vùng văn hóa,
tuy không trùng khít nhau về tên gọi nhưng khái niệm “biểu tượng” của
phương Tây và khái niệm “tượng trưng” của phương Đông (Trung Quốc) có
sự gần gũi, tương đồng về nội hàm khái niệm. Đó là cơ sở quan trọng, có tác
dụng chỉ đường giúp chúng tôi triển khai những nội dung tiếp theo của luận
văn.
Hình thức sử dụng biểu tượng (tượng trưng) trong văn học cổ - trung đại
Trung Quốc được bắt nguồn từ phép tỷ, hứng thuộc thời kỳ văn học Tiên Tần
(Kinh thi, Sở từ). Sau đó, thủ pháp này được phát triển và hoàn thiện dần qua
các giai đoạn thuộc văn học cổ điển (thơ Đường, tiểu thuyết Minh – Thanh)
và đạt đến đỉnh cao ở Hồng lâu mộng – bộ tiểu thuyết xuất sắc và duy nhất
của Tào Tuyết Cần được độc giả biết đến. Cuộc đời của văn sỹ họ Tào vô tình
cũng thực – hư, cần được tìm đáp án và lời giải như một loạt những biểu
tượng được xây dựng dày đặc trong tác phẩm của ông vậy.
31
Chương 2. BIỂU TƯỢNG VƯỜN TRONG HỒNG LÂU MỘNG
2.1. Biểu tượng vườn trong văn hóa – văn học Trung Quốc
Vườn mẫu gốc trong văn hóa nhân loại từ ngàn xưa, “là một biểu tượng
của thiên đường trên mặt đất... của các trạng thái tinh thần như lúc được
sống trên thiên đường” [60, tr.1004]. Ở mỗi tôn giáo, mỗi dân tộc, vườn lại có
những ý nghĩa đa dạng.
Theo sách Sáng thế của Thiên chúa giáo, vườn Ê – đen là do Đức Chúa
Trời lập nên. Nơi đó không những có nhiều loại cây cối sum suê, đẹp mắt và
ăn rất ngon mà còn có một dòng sông được chia làm bốn nhánh để tưới vườn,
có nhiều loài động vật. Dẫu là nơi hoang sơ nhưng đó là chốn thật tuyệt vời
khi những con người đầu tiên trên trái đất sống và lao động tự do, tự tại.
Trong khu vườn đó, các giống vật sống rất thoải mái và con người có thể hiểu
được tiếng nói của chúng. Nhưng đồng thời, khu vườn ấy cũng là nơi chất
chứa những tội lỗi do Ađam và Eva khi cả hai nghe lời xúi giục của con rắn
mà ăn trái cấm giữa vườn. Cuối cùng, con người, dù là nam hay nữ đều có
những nỗi khổ và đớn đau riêng trong cuộc đời như một hình phạt mà Chúa
giành cho những kẻ không biết nghe lời.
Với Phật giáo, vườn Lộc Uyển (Sarnath hay còn gọi là Vườn Nai) là một
trong những thánh địa Phật giáo nổi tiếng nhất thế giới, gắn liền với những
truyền thuyết đẹp và thần bí liên quan đến Đức Phật. Sự ra đời của khu vườn
có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng cư dân bản địa coi khu rừng này là
thiên đường của nai và cũng được người đời gọi là “vườn thượng uyển”
hoang dã của hươu.
Người Ấn Độ cổ đại mô tả vũ trụ có bốn cạnh, ở trung tâm có một ngọn
núi. Theo họ, đó là khu vườn ở giữa được bao quanh bởi bốn bức tường. Cùng
với Ramayana, sử thi Mahabrahata - tác phẩm được đánh giá “chẳng khác gì
32
những kim tự tháp khổng lồ sững sững”1 kết thúc bằng cuộc hành hương của
năm anh em Panđava và nàng Đropađi lên đỉnh Mêru của ngọn núi Himalaya,
nơi đó là cõi trời. Dọc đường Đropađi và bốn anh em lần lượt bỏ xác ở trần
gian, riêng Yudihitira và con chó mà chàng gặp dọc đường nhận làm bạn
đồng hành là lên được núi. Vì thần Inđra không cho con chó vào cõi trời nên
Yudihitira đã không vào cõi Trời. Lúc ấy con chó biến thành thần Đácma vầ
cho biết đây là hành động thử thách đạo đức. Khi vào cõi Trời Yudihitira đã
xin ở lại chốn hỏa ngục với anh em và bạn bè của chàng vì đó là Yudihitira
“thiên đường của tôi”. Vườn trong văn hóa Ấn Độ gắn với quan niệm của con
người nơi đây đây về sự hòa hợp giữa thiên nhiên với con người (vũ trụ và cá
thể - Atman và Brahman). Chỉ khi đạt tới sự hòa hợp ấy con người mới được
hoàn thiện, giải thoát và lên Thiên đường. Như thế, Thiên đường (vườn)
không chỉ là chốn tĩnh lặng – nơi rào cản giữa con người và thiên nhiên bị
xóa bỏ mà còn là nơi con người dễ dàng vươn dần lên cao về mặt tinh thần.
Trong thần thoại Hy Lạp, vườn Hesperides - nơi trồng những quả táo quả
bằng vàng là Thiên đường - nơi con người hướng tới sự bất tử. Để vào được
khu vườn này, Heracles phải vượt qua rất nhiều trở ngại, nhất là khó khăn khi
chiến đấu với con rồng canh táo. Lễ cưới của thần Zeus với nữ thần Hera diễn
ra trong khu vườn kỳ diệu và huyền thoại này. Với người Hy Lạp, vườn
không chỉ là biểu tượng của Thiên đường – nơi con người sống cuộc sống bất
tử mà còn là biểu tượng của sức sản sinh mãi mãi không ngừng.
Nhìn chung, trong các tôn giáo và các nền văn hóa trên thế giới, vườn là
một biểu tượng đa dạng, bao hàm nhiều ý nghĩa. Tựu chung lại, nó mang một
số nét nghĩa cơ bản sau đây: là một nơi đẹp tuyệt vời, là trung tâm thế giới,
nơi đem lại cho con người cùng các sinh vật trên đó cuộc sống tự do, tự tại và
1 Michele – nhà phê bình văn học Pháp thế kỷ XIX
sự bất tử.
33
2.1.1. Biểu tượng vườn trong văn hóa Trung Quốc – niềm nuối tiếc
về một thiên đường đã mất
Cũng như nhiều dân thuộc nhiều vùng khác nhau trên thế giới, cuộc sống
của người Trung Hoa cổ đại phát triển từ hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên
(săn bắn, hái lượm) cho tới biết tự cải tạo cuộc sống của mình (chăn nuôi,
trồng trọt). Nơi con người canh tác, chăn nuôi ấy chính là những khu vườn
nguyên thủy của người Trung Quốc.
Bởi gắn liền với cuộc sống của con người ngay từ thuở hồng hoang,
vườn có vị trí rất quan trọng trong tâm thức người Trung Quốc cổ đại. Nó là
một Thiên đường chốn trần gian với ý nghĩa sơ khởi ban đầu là nơi có thể
cung cấp đầy đủ thực phẩm phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của con người.
Thế nhưng, cuộc sống của những con người cổ xưa ấy cùng những khu vườn
của họ phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên và bản thân họ không thể lý giải được
những hiện tượng của vũ trụ tác động vào nơi họ trồng trọt, canh tác. Thế giới
quan thần thoại đã đáp ứng được nhu cầu giải thích thế giới của con người.
Theo thần thoại từ ngàn xưa của đất nước này, khu vườn đầu tiên nằm trên
đỉnh Côn Luân – nơi cư trú giữa nhân gian của các vị thần có tên là Huyền
Phố - một khu vườn treo. Ai leo lên được khu vườn thần tiên này thì có thể hô
mưa, gọi gió. Cũng như nhiều nơi khác trên đỉnh Côn Luân, nơi đây có những
suối nước trong vắt, ngọt ngào, nhiều của sản vật hiếm có trên đời và hoa
“Mộc hòa là loại lứa nước thân gỗ, cao bốn trượng, thân cây rất to, phải năm
người ôm mới xuể. Phía đông mộc hòa là cây sa đường và cây lang can. Quả sa
đường giống như quả mận nhưng không có hạt, người ăn vào có thể nổi trên mặt
biển, xuống nước không chìm…Cây văn ngọc ở phía bắc mộc hòa là đẹp nhất, trên
cây mọc đầy ngọc quý muôn màu muôn vẻ, diễm lệ lạ thường” [78, tr.26].
thơm cỏ lạ:
Huyền Phố đi lên nữa sẽ vào tới Thiên Đình – là nơi ở của Thiên Đế đồng
thời cũng có thể trở thành thần linh. Vườn trong thần thoại Trung Hoa cổ đại
34
là biểu tượng của thiên đường chốn nhân gian, là nơi cư trú của thần tiên, là
biểu tượng của sự trường sinh bất tử và quyền năng tối thượng.
Theo các tác giả cuốn Lịch sử văn hóa Trung Quốc, vườn cảnh Trung
Hoa bắt đầu được xây dựng từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ - thời Thương và Tây
Chu (tức thế kỷ XII trước công nguyên). Khi đó, các chủ nô dựa vào khung
cảnh thiên nhiên, đã khoanh một vùng đất để trồng cây cỏ, nuôi động vật, làm
nơi săn bắn, giải trí và tiến hành các nghi lễ. Đến thời Hán, vườn tược đã
được xây dựng ở nhiều nơi với bố cục tổng thể được tổ chức hợp lý khiến cho
vườn cảnh được bố trí rất tự nhiên. Thời kỳ này mở đầu cho nghệ thuật xây
dựng vườn cảnh Trung Quốc. Sang thời Ngụy - Tấn - Nam Bắc Triều, vườn
cảnh Trung Quốc phát triển theo hướng rừng cây và sơn thủy tự nhiên (lấy
sơn thủy làm chủ đề để tạo nên cảnh sắc núi rừng là mục đích chủ yếu). Đến
hai đời Đường, Tống, những khu vườn phỏng theo cảnh “Thọ sơn Cấn nhạc”
– lấy núi đá kỳ dị và hang động âm u làm trung tâm (ở tây bắc Biện Kinh)
được xây dựng trong thành phố gọi là những khu vườn cảnh trong thành phố.
Thời Minh – Thanh là thời kỳ tổng hợp của nghệ thuật vườn cảnh. Ngoài
vườn rừng rộng lớn của hoàng gia còn có nhiều vườn tược của tầng lớp sỹ đại
phu được xây dựng trong đô thành. Vườn cảnh của hoàng gia được xây dựng
ở ngoại thành Bắc Kinh với bố cục tổng thể dựa trên sơn thủy tự nhiên kết
hợp với bàn tay tu sửa của con người tạo thành công trình hùng vĩ, màu sắc
phong phú (tiêu biểu là Viên Minh Viên và Di Hòa Viên ở Bắc Kinh). Vườn
cảnh tư nhân thường chiếm diện tích không lớn, được xử lý thuận theo tự
nhiên, bố cục linh hoạt, biến hóa nhiều vẻ, gắn liền với nhà ở khiến vườn càng
trở nên ý họa tình thơ.
Vườn trong văn hóa Trung Hoa xuất phát từ những khu vườn nguyên
thủy đầu tiên thời cổ đại. Trải qua hàng nghìn năm, mặc bao lớp trầm tích thời
gian phủ trên câu chuyện về khu vườn trong thần thoại, vườn Trung Quốc
ngày càng được cải tạo, xây dựng lớn dần về quy mô, chất lượng với ý nghĩa
35
là không gian cảnh quan nhằm thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của
con người.
2.1.2. Biểu tượng vườn trong văn học Trung Quốc – sự tiếp nối
những giá trị văn hóa truyền thống
Nếu như biểu tượng vườn trong văn hóa Trung Hoa mang ý nghĩa là
không gian cảnh quan thì khi đi vào văn học, nó mới được bồi đắp, chồng lấp
những ý nghĩa tượng trưng.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của những câu chuyện thần thoại cổ xưa về khu
vườn trên đỉnh Côn Luân, tác phẩm Nam hoa kinh của Trang Tử mang ngoài
việc đề cao chữ Đạo (biểu hiện nơi vạn sự vạn vật, bởi vậy, không sự vật nào
là không có cái tính" tự sinh", " tự trưởng", " tự hủy", " tự diệt" của nó) mà
còn mang thiên hướng thần tiên bất tử. Với mục đích miêu tả đạo thuật,
truyền bá tư tưởng Đạo giáo và chứng minh người có thể thành tiên, có thể
học được phép trường sinh bất tử, nhiều truyền thuyết của Đạo giáo ra đời.
Nằm trong số đó, truyền thuyết Lưu Thần Nguyễn Triệu miêu tả việc Lưu,
Nguyễn lạc vào núi Thiên Thai, lạc lối không về được và bị đói. Họ thấy
trong núi có vườn đào, lá vu tinh (cải củ) rồi gặp cảnh tiên (nơi khí hậu không
bao giờ thay đổi, cỏ cây xanh mướt và chim chóc hót véo von) và gặp rồi
thành thân với hai nàng tiên nơi đó. Tuy sống cuộc sống vô lo vô nghĩ, rong
chơi khắp cõi bồng lai tiên cảnh với người vợ đẹp nhưng hai người đều nhớ
quê hương và muốn trở về. Khi từ quê nhà quay lại chốn xưa thì mọi vật đã
đổi thay, họ không tìm thấy lối vào núi và hai người vợ tiên nữa. Như vậy,
khu vườn tiên trong Lưu Thần Nguyễn Triệu là biểu tượng cho khát vọng
được thành thần tiên, được trường sinh bất tử của con người. Truyền thuyết
này có ảnh hưởng rất lớn đến truyền kỳ Đường thời sau. Du tiên quật (truyền
kỳ Đường) là câu chuyện Đạo giáo đã qua bàn tay gia công của nhà văn.
Truyện kể về chuyến đi sứ Hà Nguyên của nhân vật xưng “tôi” (viên quan).
Khi ngựa chồn, người mệt, ông tới một nơi xa lạ liền đi men theo bờ liễu, thả
36
thuyền nhẹ ngược dòng, tới non Tùng Bách, suối Hoa Đào. Tại đây ông gặp
Thôi Thập Nương và Ngũ Thẩm trong động tiên, cùng họ ăn uống, vui chơi
rồi mới từ biệt. Truyện Nguyên Liễu nhị công cũng viết về chốn “Đào
nguyên” mơ ước như vậy.
Cũng cùng cấu trúc nghệ thuật: con người đi lạc vào một thế giới xa lạ
mà lý tưởng, hạnh phúc, nhưng rồi nhớ quê nhà và bỏ về, lúc quay lại thì
không thấy người xưa chốn cũ đâu nữa, Đào hoa nguyên ký (Suối hoa đào)
của Đào Uyên Minh lại mang một ý nghĩa khác. Tác phẩm kể về người đánh
cá đi lạc vào rừng hoa đào, có dòng suối xinh đẹp, cỏ thơm tươi đẹp hoa rơi
rụng rực rỡ. Không chỉ vậy, khi đi sâu vào bên trong một cái hang, ông thấy
có nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, có ruộng tốt, ao đẹp, lại có các loại trúc, luống
dâu, những đường đi thông nhau qua các cửa lớn rất thuận tiện. Ở nơi ấy già,
trẻ, trai, gái đi lại làm lụng nhộn nhịp, ai nấy đều sung sướng vui vẻ và hiếu
khách. Sau khi ra khỏi hang, ông cứ theo hướng đường cũ mà về, đi đến đâu
đánh dấu chỗ đó nhưng lúc trở lại tìm chỗ đã làm dấu nhưng mơ hồ không
thấy được con đường cũ nữa. Vườn đào của thi sỹ Đào Tiềm là biểu tượng
của chốn bình yên, an lành tuyệt đối của con người, một xã hội lý tưởng khi
không có vua quan, không giai cấp, không hình pháp, không chiến tranh,
không sưu thuế, con người sống hiền lành, chất phác. Mặt khác, nó “được
xem là tượng trưng cho nhân cách cao thượng hay cuộc sống ẩn dật cao nhã,
thoát tục, tự do, khoáng đạt” [97, tr.24] .
Biểu tượng vườn trong Đạo giáo, trong truyền kỳ Đường hay Đào hoa
nguyên ký của Đào Tiềm không chỉ mang ý nghĩa là chốn sung sướng cực lạc,
thế giới đáng mơ ước của con người mà còn bao hàm nghĩa là nơi một đi
không trở lại. Khi đã bước chân ra khỏi chốn hạnh phúc ấy thì vĩnh viễn
không bao giờ quay về chốn cũ được nữa. Bởi thế, vườn mãi mãi để lại những
luyến tiếc không bao giờ nguôi trong tâm thức người Trung Hoa.
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, loại vườn cảnh trong thành phố rất
37
phổ biến và chịu ảnh hưởng của các họa sỹ văn gia, mang nhiều đặc sắc nghệ
thuật. Đời Đường là thời kỳ cực thịnh của thơ sơn thủy. Các thi nhân dồn hết
ý thơ tình họa vào cảnh vườn, mượn cảnh để tỏ tình. Đó là tâm trạng của thi
sỹ trong cảnh loạn lạc nghĩ thương tiếc những ngày dạo chơi trước cảnh vườn
rừng trong Độ Tương giang (Qua sông Tương – Đỗ Thẩm Ngôn). Thuộc dòng
thơ biên tái (miêu tả cuộc sống, cảnh vật ở nơi biên giới, cửa ải), Sơn phòng
xuân sự (Xuân trong nếp nhà cũ trên núi) của Sầm Than miêu tả cảnh vườn
Lương (còn gọi là Thỏ Viên - tức vườn của Lương Hiến vương Lưu Vũ thời
Tây Hán) trong một buổi chiều xuân mang theo niềm lạc quan của tác giả khi
“xuân tới, hoa kia vẫn nở đều” [20, tr.50]. Khu vườn trong bài Đào hoa khê
(Suối hoa đào) lại là tình yêu cuộc sống tha thiết khi ngắm ảnh vườn với nhịp
cầu, làn khói nhẹ bay, dòng nước và con suối trong thơ Trương Húc:
“Đào hoa tận nhật tùy lưu thủy,
Động tại thanh khê hà xứ biên”.
(Hoa đào trôi mãi theo dòng nước,
Động ở bên nào mé suối trong)
[20, tr.28].
Và vườn còn được nhắc đến trong nhiều bài Đường thi khác, mỗi cảnh
vật trong vườn đều tượng trưng cho tâm trạng của thi nhân: Trùng dương tịch
thượng phú bạch cúc (Tiệc rượu ngày Trùng dương vịnh hoa cúc trắng – Bạch
Cư Dị), Nam viên (Vườn Nam – Lý Hạ), Xuân tình (Mưa tạnh ngày xuân –
Vương Giá),…
Biểu tượng vườn không chỉ được quan tâm trong thi ca mà còn đi vào cả
những trang tiểu thuyết cổ điển đời Minh – Thanh trong đó có Tây du ký của
Ngô Thừa Ân. Bắt nguồn từ những câu chuyện được lưu truyền trong nhân
gian, bộ tiểu thuyết này được viết nên và chịu ảnh hưởng sâu sắc của thần
thoại Trung Hoa cổ đại. Tác phẩm của nhà văn họ Ngô có nói đến nhiều khu
vườn lớn nhỏ khác nhau nhưng chúng tôi chỉ đề cập đến Hoa Qủa Sơn và
38
vườn Bàn Đào của Tây Vương Mẫu bởi chúng là hai không gian lớn, gần gũi
với khu vườn trong thần thoại cổ xưa hơn cả. Hoa Qủa Sơn là một ngọn núi
đẹp, được hình thành từ thuở thế giới vẫn còn hồng hoang. Nơi đây có địa
hình tuyệt đẹp, được bao phủ bởi màu xanh biêng biếc của tùng, của trắc cũng
như có nhiều loại hoa thơm cỏ lạ nở hoa thơm ngát, đào tiên chín mọng và
các loài chim thú quý hiếm (kỳ lân, rồng, chim phượng, chim thiêng, gà vàng,
cáo tiên, hươu già,…). Trong khung cảnh thơ mộng và bình yên đó, lũ khỉ
sống rất thoải mái, tự do tự tại: hết nô đùa lại leo cây, hái quả, bắt bươm
bướm, tìm chuồn chuồn,… lại xuống suối tắm mát. Cuộc sống khi ấy của Mỹ
Hầu Vương và lũ khỉ không khác vương quốc của con người là bao. Nếu có
khác thì chỉ khác ở chỗ: nếu cuộc sống bên ngoài là khuôn phép hà khắc, là
bóc lột, kìm kẹp thì ở đây, trên dưới một lòng, cuộc sống yên vui, tự tại, vô lo
vô nghĩ. Mô hình ấy tuy là của loài khỉ nhưng có ý nghĩa khái quát về mặt xã
hội: nó như một mô hình đẹp đẽ, lý tưởng của mọi cộng đồng, mọi dân tộc
trên thế giới. Hoa Quả sơn thực sự là chốn yên thân của đàn khỉ.
Vườn Bàn Đào của Tây Vương Mẫu trên thiên đình cũng thật là một nơi
không thể tìm thấy ở chốn nhân gian. Cây thì xinh tươi rực rỡ với hoa đầy
ngọn cả nghìn năm, cây thì mơn mởn rườm rà với quả trĩu cành, trái nào trái
ấy chín mọng trông rất đẹp mắt. Nếu ăn được những trái đào ấy ít sẽ thành
tiên, nhẹ mình mà thêm sức, nếu không bay như chim, trường sinh bất lão thì
cũng sống bằng trời đất. Quanh các gốc đào mọc đầy kỳ hoa dị thảo, dù thời
tiết có như thế nào thì vẫn xanh tươi. Khu vườn rộng lớn chốn thiên đình này
còn đẹp hơn bội phần khi được bao quanh bởi các lớp lâu đài quán các. Ngoài
làm tốt công việc của mình là đếm lại số cây đào, kiểm soát lại đình các thì
“cứ dăm ba ngày, Đại Thánh đi ngắm cảnh một lần” [72, tập 1, tr.135]. Cuộc
sống của Tề Thiên Đại Thánh nơi khu vườn xinh đẹp bậc nhất cõi trời ấy
cũng rất tự do, tự tại bởi hầu như nhân vật không tiếp xúc hay quan hệ với thế
giới bên ngoài.
39
Nhìn chung, những khi sống ở Hoa Qủa Sơn và vườn Bàn Đào nơi
thượng giới là khoảng thời gian mà Tôn Ngộ Không cảm thấy vui vẻ và hạnh
phúc nhất. Nếu như vườn đào của Vương Mẫu là chốn thiên đường thực sự -
nơi ngự trị của chư vị thần tiên mà con người luôn mơ ước vươn tới thì núi
Hoa Qủa chính là thiên đường chốn nhân gian, là nơi yên lành tuyệt đối cho
mọi sinh vật sống trong nó. Cả hai đều biểu hiện cái bản nguyên của sự sống,
trở về chốn đó chính là trở về vòng tay bao bọc, che chở của người mẹ tự
nhiên. Ra khỏi hai nơi này cũng đồng nghĩa với việc Hầu Vương bước chân
vào thế giới nhiều cạm bẫy và rủi ro đang rình rập.
Như vậy, khu vườn truyền thống có vai trò đặc biệt quan trọng trong văn
hóa Trung Quốc. Khởi nguyên từ những câu chuyện trong thần thoại, nó
không chỉ thể hiện niềm tôn kính với các thần linh, sự tài hoa, óc sáng tạo của
con người mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh thần của cộng đồng
dân tộc Trung Hoa.
2.2. Biểu tượng vườn trong Hồng lâu mộng - những sáng tạo của Tào
Tuyết Cần
2.2.1. Cách thức xây dựng biểu tượng vườn
Khi xây dựng biểu tượng trong tác phẩm văn học, hẳn người cầm bút đã
có ý đồ nhất định. Bởi vậy, cùng là biểu tượng vườn nhưng mỗi nhà văn lại có
một cách xây dựng biểu tượng khác nhau. Du tiên quật, Nguyên Liễu nhị công
(truyền kỳ Đường), Đào hoa nguyên ký (Đào Uyên Minh) chủ yếu lấy ngay
khu vườn trong truyền thuyết Đạo giáo (Lưu Thần Nguyễn Triệu) làm bối
cảnh cho tác phẩm của mình. Tới Tào Tuyết Cần, bằng những thử nghiệm
mới, nhà văn đi xây dựng biểu tượng vườn dựa trên sự dịch chuyển không
gian của nhân vật hòn đá thiêng (Giả Bảo Ngọc).
Xét theo sự dịch chuyển không gian của nhân vật Giả Bảo Ngọc trong
tác phẩm Hồng lâu mộng, chúng tôi nhận thấy núi Đại Hoang, Thái hư ảo
cảnh và Đại Quan Viên có mối quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời.
40
Mỗi bước đi trên cuộc hành trình của nhân vật cũng chính là từng viên gạch
mà Cần Khê đặt lên nhằm xây dựng vườn Đại Quan– biểu tượng độc đáo
trong bộ tiểu thuyết.
Liên quan tới vấn đề này, chúng tôi đặc biệt chú ý tới ý kiến của hai tác
giả Đinh Phan Cẩm Vân trong cuốn Tìm hiểu về Hồng lâu mộng và Lê Thị
Diệu Linh với bài “Thực – hư với kết cấu không gian - thời gian của Hồng lâu mộng”2. Có sự gặp gỡ giữa hai công trình nghiên cứu trên khi các tác giả
đều cho rằng Hồng lâu mộng tồn tại hai thế giới: thực và ảo (hư). Thực là thế
giới tồn tại của Đại Quan Viên, thế giới ảo bao chứa hai thế giới: “thế giới
đỉnh Vô Kê dãy Đại Hoang, nơi Nữ Oa luyện đá vá trời và thế giới Thái hư ảo
cảnh, ở cung Xích Hà, nơi Tiên Cô cai quản, trị vì; cũng là nơi chứa những
cuốn sổ định mệnh của Kim Lăng thập nhị kim thoa” [58, tr.122] hay “thế
giới hư là thế giới bên ngoài thế giới trần thế kia, nó không hiển hiện và diễn
tiến trước mắt con người bình thường, đó có thể là thế giới siêu nhiên như núi
Đại Hoang, như cõi Thái hư ảo cảnh” [3, tr.54]. Trong cuốn sách của mình,
tác giả Đinh Phan Cẩm Vân đã phân tích khá rõ ràng về mối quan hệ giữa hai
thế giới: ảo (núi Đại Hoang, Thái hư ảo cảnh) và thực (Đại Quan Viên). Nhà
nghiên cứu cho rằng quá trình vận động của hòn đá từ Đại Hoang Sơn, Thái
hư ảo cảnh đến Đại Quan Viên là sự “biến hình chuyển đổi qua các thế giới
thần, tiên, tục” [58, tr.121]. Khi phân tích về mối quan hệ giữa Thái hư ảo
cảnh (cõi ảo) và Đại Quan Viên (thực), tác giả đưa ra kết luận: “Đại Quan
Viên trở thành ảo ảnh của Thái Hư trong đời thực. Đại Quan Viên là một
thiên đường trên mặt đất – nơi ở của các thiếu nữ phủ Giả, cũng chính là các
tiên nữ cõi Thái Hư… Thái hư ảo cảnh và Đại Quan Viên là hai không gian
đóng vai trò đồng bản chất, được cấu tạo theo dạng ảnh trong gương” [58,
2 Lê Nguyên Cẩn chủ biên (2006), Tác gia, tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường: Tào Tuyết Cần, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
tr.140]. Những kết quả nghiên cứu đã nêu ở trên của hai tác giả chính là cơ sở
41
quan trọng để chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ giữa ba không gian
thuộc ba thế giới thần, tiên, tục dưới đây.
Với bài “Hồng học tâm bệnh: tiếp cận Hồng lâu mộng từ góc nhìn phân
tâm học”, tác giả Ming – Donggu cho rằng Đại Quan Viên là biểu tượng cho
dạ con của người mẹ. Dựa trên lý thuyết phân tâm học, ông đã chỉ ra rằng ở
thời kỳ bú sữa, nỗi sợ lớn nhất của đứa trẻ là bị phụ bạc và bị tước mất nguồn
an ủi hay sức mạnh (người chăm sóc đầu tiên) của chúng bởi một kẻ đối địch.
Từ đó nảy sinh tính cách ấu nhi và tâm lý “sợ thành người lớn”. Chỉ có bầu
sữa mẹ ấm áp mới xoa dịu được nỗi lo sợ ấy, đưa chúng trở lại cảm giác an
toàn như đang ở trong dạ con của người mẹ. Tiếp thu kết quả nghiên cứu cũng
như hướng tiếp cận của Min-Donggu, chúng tôi nhận thấy không chỉ có Đại
Quan Viên mà cả Đại Hoang Sơn và Thái hư ảo cảnh cũng là “một dạ con
biểu tượng” [121]. Mặt khác, cũng theo phân tâm học, nếu đứa bé phải đối
mặt với sự vắng mặt ngày một lâu hơn của người mẹ thì sẽ có xu hướng “phải
nại đến các vật thế vị” [121]. Theo đó, hành trình của hòn đá thiêng từ Đại
hoang sơn, Thái hư ảo cảnh đến Đại Quan viên là cuộc kiếm tìm nơi trú ngụ
yên lành, an toàn, giống như đứa trẻ có xu hướng đi tìm sự bao bọc, quan tâm
mới khi người mẹ không đáp ứng được nhu cầu về thể chất lẫn tinh thần cho
nó.
Trước tiên, chúng ta sẽ nói về Đại Hoang Sơn. Đỉnh Vô Kê trên núi Đại
Hoang là nơi Nữ Oa luyện đá vá trời. Theo thần thoại Trung Quốc, Nữ Oa
được cho là vị thần sáng tạo nên loài người. Mặt khác, bà cũng là người có
công bảo vệ nhân loại khi bầu trời sụp đổ, lỗ đen xuất hiện kéo theo những
cơn đại hồng thủy, quái thú đe dọa cuộc sống của con người. Nữ Oa đã lấy đá
ngũ sắc (xanh, đỏ, vàng, trắng, đen), nổi lửa lên luyện đá thành dung nham
ngũ sắc, rồi lấy dung nham đó quét lên bầu trời, vá những lỗ đen lại, chặn
đứng cơn mưa dữ. Trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần viết: “Khi xưa Nữ
Oa luyện đá vá trời ở đỉnh Vô Kê trên núi Đại Hoang, luyện được ba vạn sáu
42
nghìn năm trăm linh một viên, mỗi viên cao mười hai trượng, vuông hai mươi
bốn trượng. Nhưng bà chỉ dùng ba vạn sáu nghìn năm trăm viên, còn thừa
một viên bỏ lại chân núi Thanh Ngạnh” [73, tập 1, tr.21]. Như vậy, Nữ Oa
không chỉ là thủy tổ của loài người mà quá trình luyện đá vá trời của bà đã tạo
nên hòn đá thứ ba vạn sáu nghìn năm trăm linh một, sau khi luyện đã có linh
tính như con người. Từ đó, chúng ta dễ dàng nhận ra mối quan hệ tất yếu:
“Nữ Oa là người mẹ đầu tiên của hòn đá” [58, tr.117]. Đại Hoang Sơn – nơi
Nữ Oa luyện đá vá trời, nơi hòn đá thiêng cư trú chính là dạ con của người mẹ
tự nhiên, nguyên thủy nhất. Thế nhưng, người mẹ này có sinh ra nó (luyện
đá), rồi từ một hòn đá vô tri trở thành có linh tính (thổi vào linh hồn con
người) mà không có dưỡng, bỏ quên nó trên đỉnh núi hoang vu, lạnh lẽo,
không quan tâm chăm chút đầy đủ tới những nhu cầu và nguyện vọng của nó.
Theo lý thuyết phâm tâm học đã trình bày ở trên, hoàn cảnh của hòn đá tương
tự như đứa trẻ bị tước mất sức mạnh (sự chăm sóc và thỏa mãn những nhu
cầu khác), dẫn tới tâm lý “tủi phận”. Vì thế, khi vị đạo sỹ và nhà sư đi ngang
qua, nói chuyện với nhau về “vinh hóa phú quý dưới cõi trần” [73, tập 1,
tr.21] thì nó càng thấy chán ngán cuộc sống buồn tẻ, vô dụng nơi núi Thanh
Ngạnh. Lòng khao khát được nếm trải, được hưởng thụ một cuộc sống tại nơi
ở mới đã thôi thúc, giục giã hòn đá từ bỏ cái bụng của người mẹ tự nhiên để
đến một nơi khác với hy vọng sẽ ấm áp và sôi động hơn.
Sau khi nhận được sự giúp đỡ của nhà sư và đạo sỹ, viên đá thiêng hóa
thành viên ngọc đẹp và đầu thai vào một gia đình giàu sang, quyền quý bậc
nhất, trở thành cậu ấm Giả Bảo Ngọc. Lúc này, dù sống trong cảnh giàu sang,
phú quý cậu bé mười bốn tuổi không được sống tự do, tự tại như ý nguyện mà
bị kiềm chế, bó buộc bởi những lễ giáo phong kiến và học hành, thi cử, nhất
là những cuộc giáp mặt với Giả Chính – cha của cậu. Giờ thân phận đã đổi
thay nhưng Bảo Ngọc vẫn mang tâm tính của hòn đá khi xưa, vẫn mong muốn
tìm được chốn yên thân cho mình. Vậy là bao nhiêu những ẩn ức, những suy
43
nghĩ dồn nén lại ban ngày của cậu được giải tỏa trong những giấc mơ tới cõi
Thái hư ảo cảnh. Ở hồi năm, những bước chân đầu tiên đặt tới thế giới cảnh
ảo, dù mới thấy “một chỗ lan can đỏ, thềm xây bằng ngọc, cây xanh ngắt,
suối trong veo” [73, tập 1, tr.101] mà Bảo Ngọc đã thấy sung sướng. Cậu cho
rằng “chỗ này thú lắm, ước gì ta được ở đấy suốt đời. Dù mất cả nhà cũng vui
lòng hơn là bị cha mẹ và thầy học kiềm thúc!” [73, tập 1, tr.102]. Tại đây, cậu
Bảo không chỉ được Tiên Cô tiếp đãi nồng hậu: cho uống rượu tiên, nghe
khúc hát tiên mà còn khuyên cậu đi theo đường chính đạo, nối nghiệp tổ tông,
gả vợ cho và dạy cách mây mưa (nếm trải chuyện đời). Những việc làm đó
của Tiên Cô rõ ràng rất đúng với vai trò, trách nhiệm của một người mẹ với
đứa con của mình. Với cậu, còn gì sung sướng hơn khi được quan tâm, chăm
sóc, bảo ban mà không bị áp đặt như thế? Vậy là ở cõi thần (Đại Hoang Sơn),
Nữ Oa là người tạo ra hòn đá, ban cho nó sinh mệnh; ở cõi tiên (Thái hư ảo
cảnh), Tiên Cô dạy dỗ, nhắc nhở nó về trách nhiệm của một nam nhân ở đời.
Và như thế, hai người mẹ ở hai cõi thần (Nữ Oa) và tiên (Tiên Cô) đã thay thế
nhau sinh - dưỡng nó, thúc đẩy nó trở thành một sinh mệnh hoàn hảo chốn
trần gian.
Ở những hồi cuối trong Hồng lâu mộng, rất nhiều biến cố dồn dập ập tới
gia đình họ Giả: cái chết của hàng loạt nữ nhân như Nguyên Xuân, hai chị em
họ Vưu, Nghênh Xuân, Đại Ngọc, Giả Mẫu, Phượng Thư và Thám Xuân đi
lấy chồng xa, Giả phủ bị quan binh triều đình lục soát tan tành, vườn Đại
Quan trở thành hoang phế… Không khí u ám, tang thương bao trùm lên
những con người sống nơi đó. Cậu ấm Giả Bảo Ngọc khi xưa giờ đã trưởng
thành và kết hôn với Bảo Thoa nhưng tâm hồn cậu vẫn như một đứa trẻ. Phải
chứng kiến nỗi khổ và sự ra đi của những người con gái trong nhà khiến Bảo
Ngọc đau đớn, day dứt vô cùng. Cậu chỉ giận mình không thể bảo vệ họ, giữ
họ lại bên mình. Mặt khác, cuộc gặp gỡ với Chân Bảo Ngọc diễn ra không
như ý, Giả Bảo Ngọc không tìm được kẻ tri âm mà chỉ là “con mọt ăn lộc” mà
44
thôi. Những giảng giải, thuyết giáo, trách móc của Bảo Thoa sau khi nghe tâm
sự ấy càng khiến áp lực và những đau đớn trong lòng chàng càng lúc càng
nặng thêm mà hóa ngây. Hóa ngây với Bảo Ngọc như là một cách để cậu
phản ứng lại với môi trường sống xung quanh khi có chuyện xảy ra bất ngờ
và tác động lớn lao. Sống trong thân xác của chàng thanh niên nhưng tâm hồn
vẫn còn là một đứa trẻ nên những gì đã xảy ra khiến Bảo Ngọc bị khủng
hoảng trầm trọng. Cậu cần một chốn an toàn, một nơi ấm áp để tìm về. Và
việc đi vào giấc mộng giúp viên đá thiêng trốn tránh hiện thực cuộc sống quá
tàn khốc đang diễn ra xung quanh nó, xảy đến với những người mà nó yêu
thương, quan tâm nhất. Ở hồi một trăm mười sáu, trong trạng thái ngất lịm,
Bảo Ngọc đi tìm chốn bình yên cho mình và trở lại Thái hư ảo cảnh lần thứ
hai. Trong giấc mộng, ước nguyện được gặp lại những người con gái thân tình
với mình khi xưa được thỏa mãn. Chàng gặp được Tình Văn, Đại Ngọc, cô ba
họ Vưu, Tần Thị,… nhưng tất cả bọn họ từ tính cách đến tên gọi đều khác
xưa, không còn thân mật khi hồi ở vườn Đại Quan nữa. Không chỉ như vậy,
người ta còn đuổi bắt, định giết chàng. Vậy là nơi mà hòn đá cho là yên ổn,
được bao bọc giờ đây cũng không thể che chở nổi cho nó nữa.
Nhưng cõi Thái hư ảo cảnh xinh đẹp, yên bình ấy không thường xuyên
trở về trong giấc mộng của Bảo Ngọc. Trong một trăm hai mươi hồi của cuốn
tiểu thuyết, nơi cảnh ảo chỉ đến với giấc ngủ của cậu vẻn vẹn hai lần. Một câu
hỏi đặt ra là: từ năm mười bốn tuổi cho tới khi trưởng thành (mười chín tuổi),
điều gì đã giúp cho chàng công tử đích tôn của Giả phủ vượt qua được giai
đoạn khủng hoảng tinh thần (chuyển từ một đứa trẻ sang người lớn), điều gì
đã đưa cậu vượt qua được những lễ giáo, những ngăn cấm, ép buộc học hành,
khoa cử cũng như trách nhiệm với xã hội và gia tộc? Câu trả lời không thể là
một nơi nào khác ngoài Đại Quan Viên – thế giới “Đào nguyên” lý tưởng của
con người. Đây là “một dạ con biểu tượng nơi cậu có thể thoát khỏi trong
giây lát những gánh nặng trưởng thành” [121]. Do vậy, khi được Nguyên
45
Xuân sắp xếp cho cậu và tất cả các tiểu thư trong phủ Giả chuyển vào vườn,
Bảo Ngọc đã rất vui sướng. Trong vườn, ngoài cậu ra, không có một nam
nhân nào được sống ở đây và đương nhiên, Giả Chính – người cha cùng với
những bài thuyết giảng về đạo lý thánh hiền, về chí “kinh bang tế thế” cũng
hiếm khi đặt chân tới. Bảo Ngọc chỉ gặp mặt ông những khi ra khỏi vườn để
hỏi thăm sức khỏe hay có những việc liên quan. Do vậy, cuộc sống không bị
quản thúc thường xuyên, chặt chẽ khiến cậu Bảo rất thoải mái. Cậu thích học
thì học, không thích học thì chơi, thích đọc sách gì cũng không ai quản được.
Hơn nữa, Đại Quan Viên còn là nơi hội tụ của chị em, bạn bè, hầu gái của
Bảo Ngọc. Họ là những cô gái tài năng và xinh đẹp đứng đầu đất Kim Lăng.
Ở bên họ, cậu được quan tâm, chiều chuộng, thỏa mãn mọi đòi hỏi về thể chất
và tình cảm. Còn gì sung sướng hơn khi mỗi ngày trong khu vườn lại gắn liền
với đủ mọi hoạt động sôi nổi, không bao giờ nhàm chán: cùng chị em đi câu
cá, thả diều, mở thi xã vịnh thơ, uống rượu, tán tụng,… Các chị e, a hoàn và
vú nuôi đảm nhận vai trò của người mẹ. Tất cả đều vây quanh nhân vật trung
tâm là Giả Bảo Ngọc. Rời xa vòng tay của họ, bước ra khỏi Đại Quan Viên
cũng đồng nghĩa với việc đến một thế giới khác (ở bên ngoài) đang chứa đựng
đầy những bất an, hãi hùng. Chỉ khi trở về khu vườn, trở về với đám chị em,
cậu mới có được cảm giác an toàn, ấm áp.
Bởi Đại Quan Viên là thế giới lý tưởng, đóng vai trò rất quan trọng đối
với thế giới tinh thần nhạy cảm của Bảo Ngọc nên nỗi ám ảnh, sợ hãi luôn
thường trực trong tâm trí cậu là sự sụp đổ không tránh khỏi của khu vườn.
Không ít lần cậu hoảng sợ khi nghĩ hay nghe tin một người chị em sống bên
cậu sắp rời khỏi khu vườn. Ở hồi thứ mười chín, sau khi nghe Tập Nhân nói
đùa sắp được gia đình chuộc về, Bảo Ngọc không những buồn rầu mà còn
dùng mọi lý lẽ để giữ cô ở lại. Tập Nhân tỏ vẻ kiên quyết muốn về, cậu than
thở: “Nếu sớm biết ai cũng định đi cả, thì mình chuốc đến đây làm gì. Có lẽ
sau này chỉ trơ trọi một mình” [73, tập 1, tr.357]. Cảm thấy nói như như vậy
46
vẫn chưa đủ, Bảo Ngọc còn hứa sẽ sửa chữa những thói tật bất thường của
mình, miễn là Tập Nhân chịu ở lại. Lần khác, nghe tin Đại Ngọc sẽ rời vườn
Đại Quan mà về Nam, Bảo Ngọc trở nên ngây dại rồi ngất lịm, chỉ khi nghe
Tử Quyên tới giải thích chỉ là lời đùa cợt cậu mới hết bệnh. Sau cái chết của
Đại Ngọc, Đại Quan Viên hoang tàn, lại nhận được tin Thám Xuân sắp đi lấy
“Giờ đây không thể sống được nữa! Chị em mỗi người tan tác mỗi nơi. Em
Lâm đã thành tiên, chị lớn đã chết; hàng ngày không được với nhau một chỗ, thế
cũng đành. Chị Hai gặp phải cái thằng bậy bạ không ra người. Nay em ba lại đi lấy
chồng xa, không sao gặp mặt được nữa. Cô Sử không biết sẽ phải đi đâu? Em Tiết
thì đã có nhà chồng. Bao nhiêu chị em, chẳng lẽ không để một ai ở nhà sao? Còn
lại một mình tôi để làm gì?” [73, tập 5, tr.398].
chồng, Bảo Ngọc chỉ bất lực chỉ biết khóc than:
Chúng tôi nêu ra những dẫn chứng trên để khẳng định vườn Đại Quan
không chỉ là hiện thân của một dạ con biểu tượng dung chứa, che chở cho tất
cả những con người sống trong nó mà còn là một thế giới trong trẻo, đầy đặn
trong tâm hồn Bảo Ngọc. Thế giới ấy là nơi cậu “thường xuyên quay trở về
với trạng thái vô thức của một bào thai trong dạ con người mẹ” [121].
Nhưng cuộc hành trình kéo dài mười tám năm của hòn đá xuất phát từ
núi Đại Hoang tới Đại Quan Viên không phải là điểm dừng chân cuối cùng.
Sau những ngày tháng nếm trải những hỷ, nộ, ái, ố ở chốn nhân gian, những
suy nghĩ của viên đá thiêng đã có nhiều thay đổi. Đại Hoang Sơn (cõi thần) -
nơi nó đã từng muốn rời khỏi, đến lúc này nó khao khát được quay trở lại; Đại
Quan Viên (trần tục) - nơi đánh thức “lửa trần rực cháy trong lòng” nó [73,
tập 1, tr.22], để rồi “cứ kêu nài mãi”, mong được hai vị sư mang xuống cõi
hồng trần thì cuối cùng nó lại lựa chọn trốn chạy tất cả. Theo chúng tôi, cuộc
hành trình từ Đại Hoang Sơn tới Thái hư ảo cảnh và Đại Quan Viên và từ
vườn Đại Quan trở lại núi Đại Hoang không những là quá trình trưởng thành
về nhận thức và sự tỉnh ngộ mà thực chất là chặng đường đi tìm thế giới “Đào
47
nguyên” yên bình của hòn đá thiêng. Từ một viên đá mang linh tính, không có
tài vá trời, bị bỏ quên và sống cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán trên đỉnh Vô Kê
(Đại Hoang Sơn), sau khi được nhà sư và đạo sỹ hóa phép đã trở thành một
viên ngọc quý, đầu thai vào một gia đình giàu có; nó lại được Tiên Cô ở cõi
Thái hư ảo cảnh tiếp đãi nồng hậu, dạy cách mây mưa, khuyên răn nhưng
chưa tỉnh ngộ. Chỉ khi sống ở cõi trần tục, nếm trải mọi sung sướng, hạnh
phúc lẫn khổ đau ở đời, viên đá ấy mới thực sự giác ngộ về những gì đã gặp
nơi ảo cảnh. Cuối cùng, nó lựa chọn con đường trở về trên đỉnh Vô Kê – nơi
Nữ Oa - bà mẹ nguyên thủy của thế giới tự nhiên đã sinh ra nó cùng vạn vật.
Sau những năm tháng tìm kiếm chốn yên lành tuyệt đối (tại Thái hư ảo cảnh,
Đại Quan Viên), hòn đá nhận ra rằng cuộc đời con người ngắn ngủi như chớp
mắt, vinh hoa phú quý như gió thoảng mây bay, hết vui lại đến buồn như một
vòng tuần hoàn bất tận, chỉ có chốn hoang vu như Đại Hoang Sơn mới là nơi
yên tĩnh, chốn bình an thực sự, nơi nó được sống đúng với bản chất khi bà mẹ
Nữ Oa tạo nên nó. Mười chín năm nương náu chốn trần gian, nếm trải đủ mùi
vị nơi thế tục “là quá trình hoàn nguyên của nhân vật” [58, tr.121], từ thần,
tiên đến tục rồi lại trở về cõi thần, hay nói cách khác là từ hư tới thực rồi lại
trở về hư. Tuy kết quả của quá trình ấy là hình hài của hòn đá không thay đổi
nhưng nhờ vậy, nó có sự biến đổi lớn lao về chất (trưởng thành về mặt nhận
thức). Từ đó, xét về phương diện mục đích hành động, nếu như các nhân vật
trong thần thoại, văn xuôi Trung Hoa trước Hồng lâu mộng (truyền thuyết
Đạo giáo, truyền kỳ Đường) hay truyện truyền kỳ của các nước thuộc khu vực
Đông Á (Việt Nam, Hàn Quốc,..) đều đi vào thế giới ấy hết sức tình cờ (vô
tình lạc vào cõi lạ) thì đến Tào Tuyết Cần đã có sự đổi khác lớn lao. Ông
không những vạch ra lộ trình mà còn xác định rõ lý do, mục đích thực hiện
hành động kiếm tìm thế giới lý tưởng cho hòn đá thiêng. Bởi thế, chúng ta có
thể nhận thấy, ở đây có sự tham gia đầy chủ ý cũng như sự nhào nặn, sáng tạo
dựa trên nền văn hóa truyền thống của nhà văn.
48
Cuộc hành trình của nhân vật hòn đá thiêng không đơn thuần chỉ là sự
chuyển hóa giữa ba thế giới: cõi thần (Đại Hoang Sơn), cõi tiên (Thái hư ảo
cảnh) và cõi tục (Đại Quan Viên) mà còn ẩn chứa những dụng ý khác. Trước
hết, tiếp thu triệt để ý nghĩa của cổ mẫu vườn trong văn hóa và văn học Trung
Hoa, Tào Tuyết Cần đã dùng hết tâm huyết để xây dựng nên những khu vườn
từ hoang sơn (Đại Hoang Sơn) cho tới khu vườn rộng lớn, cầu kỳ (Đại Quan
Viên). Đây chính là thế giới “Đào nguyên” - biểu tượng của chốn sung sướng,
hạnh phúc trong cuộc đời, là thiên đường chốn trần gian. Theo chúng tôi, Tào
Công tìm về với thế giới lý tưởng ấy phần lớn là do sự thúc ép của hiện thực
xã hội, hoàn cảnh cùng quẫn của bản thân và gia đình, khiến vô thức nằm sâu
thẳm trong tâm hồn bất cứ người Trung Hoa nào trỗi dậy trong ông. Sống
trong giai đoạn xã hội đầy biến động, khi tiếng kêu đòi quyền sống, đòi giải
phóng con người vang lên thống thiết, thì đó cũng là một hình thức phản
kháng, chống đối lại những gì đang diễn ra trong thực tại. Và như bản năng
sinh tồn vốn có, đi tìm thế giới lý tưởng như vậy chính là niềm mơ ước của
nhà văn về cuộc sống bình yên, hạnh phúc, như hòn đá thiêng kia luôn say mê
kiếm tìm cho dù cuối cùng vẫn trở lại chốn xưa.
Nhưng trên hết, chuyến du hành của hòn đá thiêng chính là cái cớ để
nhà văn đưa độc giả vào Đại Quan Viên. Và để làm được điều đó, nhà văn đã
rất kỳ công xây dựng những không gian bối cảnh dẫn tới không gian khu
vườn Đại Quan (núi Đại Hoang, cõi Thái Hư). Không gian bối cảnh có vai
trò làm nền để đẩy nhân vật vào không gian Đại Quan Viên. Qủa vậy, từ khi
Bảo Ngọc cùng các chị em khác vào ở trong vườn đã xảy ra hàng loạt các sự
kiện nhằm bộc lộ, phát triển tính cách nhân vật cũng như từng bước thực hiện
ý đồ sáng tác của Cần Khê. Đó chính là cách thức mà nhà văn xây dựng biểu
tượng vườn trong Hồng lâu mộng. So với lối tạo dựng những khu vườn
(Thiên đường) trong thần thoại hay trong truyền thuyết của Đạo giáo, truyền
kỳ Đường, cách xây dựng biểu tượng vườn của Tào Tuyết Cần có những khác
49
biệt rõ ràng. Chốn cực lạc không phải do đấng thần tiên nào tạo dựng mà tất
cả là do bàn tay và khối óc của văn sỹ họ Tào gây dựng nên.
2.2.2. Đặc trưng tiểu cảnh Đại Quan Viên – sự mở rộng ý nghĩa biểu
tượng
Nhiều cuốn tiểu thuyết của Trung Quốc cổ đại miêu tả về những cảnh tự
nhiên thì không chỉ ngừng lại ở cảnh thiên nhiên. Trong một số kiệt tác như
Thủy hử, Tam quốc diễn nghĩa, tuy những miêu tả còn chưa đặc sắc, nhưng
nó hình thành một số tình huống độc đáo. “Không phải những bộ tiểu thuyết
ấy không miêu tả không gian, nhưng gắn không gian nghệ thuật với tính cách
của mỗi nhân vật thì chỉ có Hồng lâu mộng là thể hiện rõ và sâu sắc nhất”
[100, tr.97]. Đến Hồng lâu mộng, lấy cảnh quan xung quanh để tượng trưng
cho tính cách và miêu tả tâm trạng nhận vật là một hình thức rất được chú
trọng. Nói đến kết cấu nội tại của Đại Quan Viên, chúng ta không thể không
nhắc tới kiến trúc cũng như cách bày trí của các tiểu cảnh nằm trong nó. Mỗi
tiểu cảnh trong Đại Quan Viên bao gồm những tình tiết được chắt lọc, kết cấu
nhằm thể hiện sự am hiểu sâu rộng nghệ thuật vườn cảnh Trung Hoa (dung
hòa những đặc điểm kiến trúc của viên lâm ở Giang Nam và sân vườn của
vua) và quá trình sáng tạo nghệ thuật của Tào Tuyết Cần. Việc xây dựng tiểu
cảnh tạo không gian cho nhân vật tồn tại, vận động, làm cho tính cách, số
phận của từng nhân vật như được soi rọi, khắc họa sâu sắc hơn. Thủ pháp
tượng trưng được nhà văn sử dụng hiệu quả, khiến cho tính cách của nhân vật
và môi trường hòa hợp với nhau, làm cho tâm tình hòa vào môi trường xung
quan và tạo cảnh ý sâu sắc, tình cảnh tương đối hòa hợp, dĩ cảnh thoát tình,
thể hiện một số tính cách điển hình trong một số môi trường điển hình.
Trong phần này, chúng tôi sẽ bắt đầu từ việc lựa chọn một số cảnh quan
bên ngoài và bên trong nơi ở của các nhân vật. Từ bố cục sân vườn, cho tới sự
bố trí cây trồng, bày trí nhà cửa, phòng ốc đều tượng trưng cho tính cách nhân
vật cũng như thể hiện sự hòa hợp cảnh ý ở mỗi nhân vật. Đại Quan Viên bao
50
gồm nhiểu tiểu cảnh: Tiêu Tương Quán (nơi ở của Lâm Đại Ngọc), Di Hồng
Viện (nơi ở của Giả Bảo Ngọc), Hành Vu Uyển (nơi ở của Tiết Bảo Thoa),
Cát Cán Sơn Trang (sau được Nguyên phi đổi tên thành Đạo Hương Thôn -
nơi ở của Lý Hoàn), Xuyết Cẩm Các (nơi ở của Nghênh Xuân), Thu Sảng
Trai (nơi ở của Thám Xuân), Lục Phong Hiên (nơi ở của Tích Xuân),... Đây
là một số tiểu cảnh nổi bật, quan trọng, gắn bó mật thiết và tượng trưng cho
tính cách chủ nhân của chúng, được Tào Tuyết Cần chú trọng nhiều hơn so
với những nơi còn lại. Ở mỗi tiểu cảnh, toàn bộ tính cách của nhân vật đều
được hiện lên hết sức đầy đặn.
Tiêu Tương Quán trong Đại Quan Viên chính là nơi ở của Lâm Đại
Ngọc. Ở hồi mười bảy, trước khi Nguyên phi về thăm nhà (Phủ Vinh), Giả
Chính dắt Bảo Ngọc và một tốp những văn nhân đi tham quan Đai Quan
Viên. Quán Tiêu Tương (khi đó chưa được đặt tên) được Tào Tuyết Cần miêu
“Chợt ngẩng đầu lên thấy trước mặt một dãy tường trắng, mấy ngôi nhà con xinh
xắn, thấp thoáng trong hàng nghìn khóm trúc xanh… Bước vào cửa là một dãy hành
lang quanh co. Dưới thềm có con đường đá. Mặt trước ba gian nhà nhỏ, sạch sẽ, cửa
khép, cửa mở. Trong nhà kê bàn ghế giường chiếu ngay ngắn gọn gàng. Từ phía
trong có mấy cây lê cao lớn, mấy cụm chuối um tùm. Lùi về phía sau lại có vài gian
nhà nhỏ” [73, tập 1, tr.301–302].
tả là:
Cảnh sắc nơi đây không chỉ được đoàn người đồng tình khen ngợi, mà còn
khiến Giả Chính phải thốt lên: “Chỗ này thú đấy. Đêm trăng mà ngồi dưới
cửa đọc sách cũng không uổng một đời” [73, tập 1, tr.302]. Đây cũng là nơi
mà Nguyên phi thích nhất và sau này dùng để miêu tả tính cách điển hình của
Đại Ngọc. Đến hồi thứ mười tám, khi Nguyên phi về thăm nhà có ra đề vịnh
thơ, Bảo Ngọc đã viết bài “Hữu thượng lai nghi” cũng vì lẽ đó.
Trước hết, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu ý nghĩa của môi trường xung quanh
nơi ở tượng trưng cho tính cách Đại Ngọc (bao gồm bố cục kiến trúc và sự bố
trí của thực vật).
51
Mặt trước Tiêu Tương Quán là một dãy hành lang quanh co, một con
đường nhỏ rải đá, cuối đường ấy là ngôi nhà nhỏ, từ cánh cửa trong nhà có thể
dẫn đến phía sau, chân tường của vài gian nhà nhỏ phía sau có một con suối
dẫn tới dãy nhà phía trước, dòng suối vòng qua rồi lại từ dưới những cây trúc
chảy ra. Không gian của hành lang tiền viện tuy nhỏ bé nhưng lại được nhà
văn sắp xếp khéo léo để trở thành một không gian sâu rộng, một cách xây
dựng cảnh quan trong tác phẩm. Những hình ảnh đó tạo nên cảnh quan “cách
nhi bất vi, tự cách nhi phi cách” (có nghĩa là: cách ly nhưng không bị rào lại,
tựa như bị chia cách mà lại không bị chia cách). Những chướng ngại vật như
hành lang sẽ giúp người tham quan có thể mở rộng thêm tầm nhìn, nơi nào
cũng sâu thẳm tĩnh mịch, khiến cho khung cảnh trở nên ý vị, thâm thúy thêm
rất nhiều. Người ta phải ngắm nhìn và suy ngẫm mới phát hiện ra cái đẹp tiềm
ẩn. Lối đi quanh co, thâm u dưới hàng cây um tùm, lúc ẩn lúc hiện, loanh
quanh một khe nước chảy, gợi nên tâm trạng trầm mặc nơi chủ nhân của nó.
Chỉ với vài câu miêu tả ngắn ngủi: “ngôi nhà nhỏ”, “cánh của nhỏ”, “con suối
nhỏ” cùng với sự phối cảnh của những vật dụng khác có ý nghĩa ngầm giới
thiệu với độc giả cảm quan thẩm mỹ, sự thông minh, khéo léo của Đại Ngọc.
Nơi đây có người có cảnh, bố cục rõ ràng, tao nhã, khiến cho con người cho
dù ở trạng thái tĩnh cũng trở nên thú vị.
Việc sắp xếp, bố trí của thực vật trong Tiêu Tương Quán cũng chứa
đựng những ý đồ nghệ thuật nhất định. Những loại thực vật chủ đạo được
trồng ở nơi đây là trúc, lê và chuối. Khi tiến hành lựa chọn và sắp xếp các loại
thực vật này hẳn văn sỹ họ Tào đã mượn những cây trồng trên để biểu trưng
cho nhân cách và tình cảm của Đại Ngọc. Cây cối trong nơi ở dường như
mang tính cách của con người, tỏa ra nhân cách quyến rũ của Đại Ngọc.
Tiêu Tương Quán nổi tiếng với việc trồng nhiều trúc (trúc Tiêu Tương
hay còn gọi là trúc vằn). Theo truyền thuyết Trung Hoa xưa, vua Thuấn đi
tuần du các vùng đất, chết tại Thương Ngô. Hai người vợ của vua Thuấn là
52
Nga Hoàng và Nữ Anh sau khi được tin bèn tìm đến Tương Giang, do quá
đau lòng và thương nhớ nên bám vào cây trúc mà khóc không ngừng, nước
mắt rơi trên những cây trúc và từ đó tạo thành vô số những sọc vằn to nhỏ
trên cây. Từ đó cây trúc đó được gọi là ban trúc và để tưởng niệm họ, người
dân còn gọi đó là Tương Phi trúc. Trên thân cây Tiêu Tương trúc có những
đốm màu tím như những giọt lệ, về sau được các thi nhân hậu thế dừng để
miêu tả về tình cảm đẹp của người vợ. Loại trúc này không chỉ có hình dáng
đẹp mà cả ý nghĩa về nó cũng đẹp. Trúc trong Tiêu Tương Quán có ngụ ý
mang thần thái của Lâm Đại Ngọc. Những đốm nhìn như vết tích của nước
mắt và hóa thành biểu tượng tượng trưng cho Đại Ngọc. Nàng là Giáng Châu
tiên thảo hạ phàm. Giáng Châu là ám chỉ huyết lệ nên rất thích hợp để tác giả
dùng những sọc lệ trên thân cây trúc so sánh với cô. Trong Hồng lâu mộng có
rất nhiều chỗ viết về mối quan hệ giữa Đại Ngọc và trúc Tương Phi. Nơi Đại
Ngọc ở gọi là Tiêu Tương Quán, bức rèm treo trong nhà của Đại Ngọc cũng
làm từ Tương Phi trúc. Tại hồi ba mươi bảy (“Thu Sảng Trai định mở xã hải
đường”), Thám Xuân đã đem điều này nói rõ hơn: “Ngày trước Nga Hoàng
và Nữ Anh khóc nhiều, nước mắt nhỏ vào cây trúc, thành vằn trúc. Bây giờ cô
ấy ở quán Tiêu Tương, tính lại hay khóc, chắc sau này những cây trúc ở đó sẽ
biến thành cây trúc vằn cả. Từ giờ chúng ta gọi cô ấy là Tiêu Tương phi tử
mới đúng” [73, tập 2, tr.286–287].
Việc bố trí hàng nghìn khóm trúc quanh nhà, lấy đặc điểm cây trúc có
nhiều đốt, tiêu diêu uyển chuyển để tượng trưng cho tính cách cao quý thuần
khiết và tâm thế thoát khỏi thế giới xung quanh của Đại Ngọc. Nàng nói: “Tôi
thích ở quán Tiêu Tương, ở đây có mấy khóm trúc quanh co, một dãy lan can
tĩnh mịch hơn chỗ khác”[ 73, tập 2, tr.46]. Đó là những lời trong lòng của Đại
Ngọc và cây trúc là hình ảnh phản chiếu về nhân cách của nàng. Bởi vậy,
thành từ trúc, bại cũng từ trúc - trúc vô tình đã miêu tả và ảnh hưởng đến tính
cách của Lâm Tiêu Tương. Vì tính cách không muốn chìm vào sự trần tục của
53
thế gian, sống khép mình nên nàng không dung hợp được với quy định
nghiêm khắc và khốc liệt của xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Chịu ảnh hưởng
rất lớn từ thủ pháp xây dựng kiến trúc vườn cảnh, tác giả dành nhiều tâm
huyết để miêu tả cây trúc mọc san sát tạo thành một dòng chảy màu xanh bao
quanh Tiêu Tương Quán. Hàng vạn cây trúc xanh cả bầu trời, che mát không
gian chính là tiêu điểm cho cảnh quan nơi đây. Mặt khác, những vạt trúc màu
xanh, không chuyển động về hướng nào hết luôn tạo cảm giác bình yên.
Những cây trúc xanh tốt bốn mùa ấy đã tạo nên môi trường sống điềm tĩnh
nho nhã, là biểu tượng cho tâm tính sáng suốt Đại Ngọc.
Loại cây được chú ý ở Tiêu Tương Quán sau trúc là lê - một giống cây
tường vi lá rụng theo mùa, đầu mùa xuân khai hoa, màu trắng như tuyết.
Người xưa thường nói “lê hoa đới vũ” (hoa lê nở mang mưa đến) để hình
dung một người con gái đang vì tổn thương mà rơi nước mắt làm cảm động
lòng người. Cùng với trúc Tiêu Tương, hoa lê cũng là loài cây biểu trưng cho
tính hay khóc của Đại Ngọc, giống như là hoa lê mang mưa đến làm cảm
động lòng người bởi hình ảnh cô gái trẻ khóc cho đến khi chết.
Chuối cũng là loại thực vật được nhắc tới trong cảnh quan Tiêu Tương
Quán. Với hình dáng cây trông có vẻ mềm mại, nho nhã, thư thái, trông đáng
yêu lại che mát tốt, loại cây này có thể dễ dàng phối với giống cây khác trong
khu vườn hay trồng trước cửa sổ, gần tường nhà. Trồng chuối dưới mái hiên
còn có thể nghe được tiếng mưa rơi trên tàu lá, khiến con người với tâm trạng
khác nhau cũng có những cảm thụ khác nhau. Bố trí trồng nhiều chuối ở nơi
“đuôi phượng ve vẩy, sáo rồng vi vu” như vậy, phải chăng nhà văn muốn nói
tới tính tình đa cảm, dễ buồn dễ vui, dễ giận hờn, tâm lý dễ bị chi phối bởi
hoàn cảnh xung quanh Đại Ngọc? Lúc chuyện tình cảm của Đại Ngọc rơi vào
trạng thái bế tắc, tâm trạng của cô Tần khi đó cũng dần thẩm thấu vào môi
trường xung quanh. Chúng ta như cảm nhận thấy gió thu kéo theo mưa mùa
thu, đập vào lá chuối bên cửa sổ, khiến cho Tiêu Tương Quán khi đó trở nên
54
đặc biệt lạnh lẽo.
Nếu kiến trúc và cách bố trí thực vật trong Tiêu Tương Quán có tác động
rất lớn, biểu trưng cho tính cách, tâm trạng của Đại Ngọc thì cách bày trí
phòng ốc cũng phần nào làm bật được tính cách của cô gái mày chau. Nơi ở
của Đại Ngọc rất đặc biệt với “cái bàn ở dưới cửa sổ có để nghiên bút, trên tủ
lại có nhiều sách” [73, tập 2, tr.345]. Những nghiên bút, sách vở ấy khiến Lưu
lão lão nhầm lẫn rằng đây là phòng của nam nhân nào đó trong phủ Giả: “Có
gì là giống buồng thêu của một vị tiểu thư đâu? So với buồng sách lịch sự
nhất lại còn đẹp hơn” [73, tập 2, tr.345]. Chỉ với một vài chi tiết miêu tả
tưởng như rất nhỏ nhặt ấy lại ẩn chứa nhiều ý đồ quan trọng của Tào Tuyết
Cần. Trong xã hội phong kiến, sách vở, bút nghiên luôn gắn với nam nhân,
hay nói cách khác, những vật dụng ấy là tượng trưng cho đấng mày râu
(buồng sách), còn kim chỉ là tượng trưng cho nữ giới (buồng thêu). Vậy tại
sao Cần Khê lại sắp đặt sách vở trong phòng của Đại Ngọc nhiều đến vậy?
Theo chúng tôi, căn phòng của nữ nhi nhưng chỉ thấy những vật dụng, đồ
dùng dành cho việc đèn sách của đấng trượng phu thể hiện ý nghĩa sau đây:
Lâm Tiêu tương là cô gái khác lạ so với tất cả những tiểu thư đang sống trong
Đại Quan Viên nói riêng và nữ nhân trong phủ Giả nói chung. Cô dám công
khai đi ngược lại, chống lại những quy phạm của xã hội mà mình đang sống.
Cái đích cuối cùng chính là nhà văn muốn bày tỏ một cách khéo léo quan
điểm của mình với tư tưởng trọng nam khinh nữ của xã hội phong kiến. Như
lời của Bảo Thoa nói với Đại Ngọc ở hồi bốn mươi hai, một nếp nghĩ ăn sâu
vào tâm thức của người dân Trung Hoa xưa là con gái “không biết chữ càng
tốt”, “chỉ nên biết thêu thùa may vá mới phải” [73, tập 3, tr.31]. Thậm chí tới
một bà lão nhà quê, chữ nghĩa học hành không có như già Lưu mà cũng thuộc
lòng đạo lý ấy, hễ thấy sách vở, nghiên bút là sẽ nghĩ ngay nam nhân: “Chắc
là buồng đọc sách của cậu nào đây?” [73, tập 2, tr.345]. Còn với tư tưởng
tiến bộ về giới và tấm lòng yêu thương, trân trọng người phụ nữ, nhà văn lại
55
nghĩ khác đi: không chỉ nam giới mới được học hành, đọc sách, viết chữ mà
nữ nhi cũng phải có được những quyền đó, thậm chí họ còn thực hiện tốt hơn
đám mày râu rất nhiều.
Tiêu Tương Quán là một nơi được tác giả dốc hết tình cảm cũng như
kinh nghiệm sống, triết lý nhân sinh, lý tưởng thẩm mỹ vào đó. Bởi cảnh
tượng trưng cho người nên ý niệm, tình cảm của Lâm tiểu thư đều được gửi
gắm vào cảnh vật xung quanh, trong cảnh có tình, trong tình có cảnh. Tất cả
đều làm cho cảnh sắc quán Tiêu Tương khắc sâu thêm sự cô đơn, u buồn, để
lại dư vị trong lòng người mãi không thôi. Vì thế, ở nơi đây, bất luận là kết
cấu kiến trúc, dòng nước, sắp xếp hoa và cây, hay là thiết kế bên trong của
ngôi nhà, không cái nào không tượng trưng cho tính cách của Đại Ngọc.
Quang cảnh khu vườn và nhân vật được miêu tả hòa vào nhau, khí chất của
nhân vật, tình cảm của sự vật được nhân hóa đã đạt được cảnh giới không thể
phân biệt giữa ý và cảnh.
Di hồng viện là khu vườn đẹp nhất trong Đại Quan Viên bởi nơi đây thể
hiện sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật vườn cảnh Giang Nam và lâm viên
của hoàng cung. Đó cũng là nơi cảnh quan có nhiều điểm đặc biệt, thu hút sự
quan tâm của độc giả.
Ở hồi thứ mười bảy, Tào Tuyết Cần đã miêu tả phòng ốc của Di Hồng
Viện sang trọng, khéo léo, mang những đặc trưng nổi bật của kiến trúc, cách
bày trí chốn cung đình. Mỗi chi tiết chạm trổ, mỗi vật dụng đều mang ý nghĩa
biểu trưng là một lời chúc tụng: Những hình trang trí hay các bộ phận kiến
trúc hình vuông và tròn có ý nghĩa sâu sắc “trời tròn đất vuông” (thiên viên
địa phương). Những biểu tượng con dơi là điềm hạnh phúc (khoẻ mạnh bình
an, chuộng đạo đức, hưởng trọn mệnh trời). Những hình chạm tùng, trúc, mai
không chỉ ngụ ý sống lâu, khi được sắp xếp giữa những cỏ cây, chim muông
khác là biểu tượng cho tiết tháo của người quân tử.
Giả Vân tới Di Hồng Viện thấy : “trong sân lơ thơ có mấy ngọn núi đá ,
56
trên trồng chuối , có hai con hạc đứng rỉa cánh ở dưới gốc cây thông . Trên
thềm treo mấy cái đèn lồng đẹp , trong có nhiề u thứ chim lạ , xung quanh có
năm gian nhà nhỏ , cánh cửa chạm các thứ hoa mới đẹp , trên treo một cái
biển có đề bốn chữ lớn: “Di hồng khoái lục” [73, tập 2, tr.95]. Nơi ở của Bảo
Ngọc được trang trí sơ sài với vài viên sơn thạch, trống vài cây tùng, nuôi vài
con chim rừng… điều này thể hiện được tính cách giản dị của Bảo Ngọc.
Cách sống như vậy trong Đại Quan Viên khác hẳn với xã hội lễ nghĩa giả dối
thời đó.
Tại hồi bốn mươi mốt, già Lưu say rượu, đi lạc vào Di Hồng Viện.
Thông qua ánh mắt hiếu kỳ và kinh ngạc của bà lão nhà quê, chúng ta thấy
được cách sắp xếp của nơi đây: một bức vẽ “một em bé gái đứng đó, cười hớn
hở” [73, tập 3, tr.17] rất sống động, cánh cửa nhỏ “trên treo rèm lụa màu
xanh cải hoa… cả gạch lát cũng đều chạm hoa xanh làm hoa cả mắt” [73, tập
3, tr.17-18]. Vẻ đẹp nữ tính ấy khiến cho bà nhìn mê mẩn, không kìm được
thốt lên: “chỗ ấy là buồng thêu của cô nào mà lịch sự thế? Khác nào được lên
trời vậy!” [73, tập 3, tr.20]. Cách sắp xếp, miêu tả ấy hẳn cũng đầy ý nghĩa
biểu trưng. Nơi ở của cậu thiếu niên mà bày trí như chốn buồng thêu của con
gái chẳng phải nhà văn muốn ám chỉ tới sự liên quan tới nữ tính của chủ nhân
nơi ở hay sao? Trong cái nhìn của Lưu lão lão, nơi đây giống như một khuê
các thì người sống ở nơi như vậy, không cần phải suy nghĩ chúng ta cũng có
thể biết rồi.
Cách sắp xếp thực vật ở Di Hồng Viện làm nổi bật màu sắc chủ đạo là
màu đỏ trên nền xanh. “Hai bên hành lang nối nhau, ở trong có lác đác mấy
ngọn núi. Một bên có mấy khóm chuối; một bên là cây hải đường của phủ tây,
trông như cái tán, hoa đỏ như son” [73, tập 1, tr.316]. Cũng bởi lý do đó mà
trong bài thơ Di Hồng khoái lục làm trong đêm Nguyên phi về tỉnh thân, Bảo
Ngọc đã cố gắng để nói bật lên đặc trưng của nơi đây với: “trời xuân xanh”,
“khói xanh”, “áo hồng”, “áo đỏ”. Những sắc màu rực rỡ ấy tượng trưng cho
57
tính cách vui vẻ, hoạt bát và hướng về tính nữ của Bảo Ngọc. Loại cây trồng
đặc biệt của viện Di Hồng khiến người ngoạn cảnh phải trầm trồ chính là hải
đường (nữ nhi đường). Giống cây có nguồn gốc từ nước Nữ Nhi này mang
nhiều ẩn ý: thứ nhất, hải đường là loài hoa đỏ như son, “ẻo lả như có bệnh,
gần giống phong độ của người trong khuê các” [73, tập 1, tr.316]; thứ hai,
theo lời của Bảo Ngọc ở hồi bảy mươi bảy, hải đường gắn với vận mệnh của
Tình Văn – người hầu gái hạng nhất bên cạnh cậu. Câu nói “Tất cả những vật
gì có lý ở trên đời cũng như người vậy, gặp người tri kỷ sẽ rất linh nghiệm”
[73, tập 4, tr.366] của Bảo Ngọc nhằm giải thích cho việc Tình Văn đang đau
ốm, bị Vương phu nhân nghi oan là quyến rũ Bảo Ngọc, bị đuổi ra khỏi vườn
Đại Quan. Hai nghĩa ấy đều có can hệ với người nữ, làm nổi bật được đặc
trưng nữ tính của chủ nhân Di Hồng Viện.
Tính cách như phụ nữ của Bảo Ngọc không phải là cái thương hoa tiếc
ngọc thông thường mà là niềm trân trọng, thương yêu vượt qua và đối đầu với
những luật lệ phân biệt nam nữ của chế độ phong kiến thời đó: đối đãi bình
đẳng, tôn trọng, quan tâm tới tất cả các nữ nhân. Chàng tự trách mình là thân
thể nam nhi bẩn đục, hận một điều là không thể sinh ra làm nữ nhi. Nhưng
Bảo Ngọc không thể phủ nhận được sự thật ấy nên chỉ có thể thay đổi nơi ở
xung quanh mình sao cho giống nơi buồng thêu của những người trong khuê
các mà thôi.
Cách bày trí nơi ở của Bảo Ngọc còn đặc biệt bởi trong phòng ngủ có
một tấm gương lớn. Ở hồi mười bảy, do đi lại cả nửa ngày trong vườn đã mệt
mỏi nên cả Giả Chính chỉ kịp nhìn lướt qua tấm gương pha lê lớn như cửa sổ
được che lại bởi màn lụa. Đến hồi bốn mươi hai, dưới con mắt của già Lưu –
người đàn bà nông dân quê mùa, lam lũ lần đầu được thấy những cảnh xa hoa,
phú quý ngợp trời nơi Giả phủ thì chiếc gương ấy mới được miêu tả chi tiết
và cận cảnh. Tấm gương nằm ở giữa bức vách chạm bóng bốn mặt, “có nút
bấm, có thể đóng mở được” [73, tập 3, tr.18], khi sờ vào chỗ bấm, cái gương
58
gạt ra một bên, hé ra một cái cửa dẫn vào giường ngủ của Bảo Ngọc. Chi tiết
tấm gương lớn đặt ở Di Hồng Viện trong khi các nơi khác không có ám thị
đến hình tượng “phong nguyệt bảo giám” (tức “cái gương báu để cho những
người say đắm tình duyên trăng gió mà tự soi để tỉnh ngộ lại” [73, tập 1,
tr.230]. Ở hồi thứ năm, Tiên Cô cõi Thái Hư nói Bảo Ngọc người “khi mới
sinh ra đã mang sẵn một mối si tình… gọi là “ý dâm”. Hai chữ “ý dâm” chỉ
có thể hiểu trong lòng chứ không thể nói ra miệng được. Riêng anh thì xứng
với hai chữ này” [73, tập 1, tr.120]. Bởi vậy, tấm gương lớn chỉ có trong
phòng ngủ của Bảo Ngọc để cậu soi vào đó mà thức tỉnh, không chìm đắm
trong biển tình nữa. Mặt khác, tấm gương ấy còn gợi nhắc chúng ta về ảo
cảnh chốn trần gian. Tất cả những gì Bảo Ngọc thấy trong mơ đều là hình ảnh
của chính mình phản chiếu trong chiếc gương vì “khi nằm trước gương chơi
đùa với bóng rồi ngủ đi…” [73, tập 3, tr.337]. Giấc mơ Giả Bảo Ngọc lạc vào
vườn hoa phủ Chân ở Giang Nam, sau đó gặp và trò chuyện với Chân Bảo
Ngọc cũng nằm trong số đó.
Hành Vu Uyển là nơi ở của Bảo Thoa – chị họ của Bảo Ngọc. Những
cảnh trí đầu tiên về nơi đây được hiện lên qua con mắt của của Giả Chính:
“Chợt thấy mặt trước có một quả núi đá cao ngất trời, xung quanh bao bọc
bằng các thứ đá đủ các màu, che kín hẳn những nhà cửa bên trong. Ở đây,
không có một gốc cây,…” [73, tập 1, tr.310]. Mượn nghệ thuật sắp xếp vườn
cảnh, Tào Tuyết Cần như ngầm thông báo với độc giả về mối quan hệ phức
tạp của chủ nhân Hành Vu Uyển trong tương lai (Tiết Bảo Thoa) với hai nhân
vật Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc. Bảo Thoa – “trâm vàng trong tuyết” là
mệnh kim. Bảo Ngọc – viên ngọc quý có nguồn gốc từ hòn đá thiêng nơi núi
Thanh Ngạnh, mà đá được sinh ra từ đất nên có mệnh thổ. Các loại đá nhiều
màu sắc tại Hành Vu Uyển gợi nhắc cho chúng ta về nguồn gốc của Bảo
Ngọc là từ đá ngũ sắc, được Nữ Oa luyện để vá trời. Tiền kiếp của Đại Ngọc
là cây Giáng Châu ở cung Xích Hà, cô lại mang họ Lâm (rừng) nên có mệnh
59
mộc. Theo thuyết Ngũ hành tương sinh thì thổ sinh kim nên quan hệ giữa Bảo
Ngọc và Bảo Thoa là “kim ngọc lương duyên”. Theo đó, tất nhiên chỗ ở của
Bảo Thoa phải được bao bọc bằng các thứ đá để hợp với mệnh kim của cô.
Cũng tương tự, theo thuyết Ngũ hành tương khắc thì kim khắc mộc, nên tại
Hành Vu Uyển “không có một gốc cây” cũng vì lẽ đó. Vậy nên, sau này có sự
xung đột ngấm ngầm giữa Bảo Thoa và Đại Ngọc từ tư tưởng cho tới hành
động, cách cư xử,…
Hành Vu Uyển trồng “toàn những cỏ lạ hoặc leo lên núi hoặc luồn qua
khe đá chui ra; lại có những dây từ mái nhà bò xuống, leo quanh cột chằng
chịt cả bờ hè, như dải xanh phất phơ, như sợi vàng uốn khúc, quả đỏ hoa
vàng, hương thơm ngào ngạt, không một thứ hoa nào có thể bì được” [73, tập
1, tr.310-311]. Những hương thảo như cỏ “chỉ lan”, “thanh cát”, “kim đăng”,
“ngọc lộ”, “thanh chỉ”,… mà Bảo Ngọc kể ra có lẽ không đẹp, nhưng có một
mùi hương thoang thoảng. Bố trí trồng các loại cỏ và dây leo ở Hành Vu
Uyển, Tào Tuyết Cần có lẽ muốn nói tới hai điều: thứ nhất, cỏ và dây leo với
vẻ ngoài không hoa lệ nhưng lại phảng phất hương thơm, tượng trưng cho
phong cách quyến rũ mê hồn của Bảo Thoa. Nó giống như cây phong lan ở
trong không cốc được Khổng Tử hết sức khen ngợi vậy, bề ngoài mộc mạc
nhưng hương thơm thì bay rất xa. Thứ hai, khác với những loại trúc, chuối, lê
ở Tiêu Tương Quán hay hải đường ở Di Hồng Viện, các thứ cỏ và dây leo
được trồng tại nơi ở của Bảo Thoa tuy không vươn mình đón ánh sáng mặt
trời nhưng có thể bò, sống len lỏi ở khắp mọi nơi, dù là trên mặt đất, trên núi
hay khe đá. Đặc tính của loài thực vật này rất phù hợp với lối sống tùy phận
theo thời của Bảo Thoa. Không thẳng thắn như Đại Ngọc, không bộc trực như
Thám Xuân, không nhu nhược như Lý Hoàn, Bảo Thoa luôn kín đáo, mềm
mỏng, sắc sảo khiến người khác phải phục tùng mình. Nàng tùy thời mà xử sự
nên được lòng tất thảy người trên kẻ dưới trong phủ Giả: Giả mẫu và Vương
phu nhân hài lòng ra mặt, còn Tập Nhân yên tâm khi Bảo Thoa trở thành “mợ
60
hai Bảo”, đến người xấu tính như dì Triệu cũng phải tấm tắc khen ngợi cô.
Những cây cỏ lạ tại nơi ở của Hành Vu Quân còn có một đặc tính khác
của là “càng lạnh bao nhiêu, lại càng xanh tốt bấy nhiêu, nó đã ra quả như
hạt đậu san hô, trĩu xuống đáng yêu” [73, tập 2, tr.357]. Điều ấy cũng có
nghĩa là môi trường sống quanh nơi rất lạnh lẽo như tính cách lạnh lùng của
Bảo Thoa. Nếu như thứ dây leo kia càng sống ở nơi lạnh giá thì càng phát
triển, ra hoa kết trái thì càng sắc lạnh, Bảo Thoa càng tiến gần hơn tới địa vị
chủ nhân của Giả phủ trong tương lai. Để người khác yêu quý mình, cô không
ngần ngại sử dụng những thủ đoạn đáng sợ. Ở hồi hai mươi bảy, khi mải đuổi
theo con bướm trắng, vô tình nghe được câu chuyện “đáng hổ thẹn” giữa
“Xưa nay những đứa gian dâm trộm cướp, bụng dạ đều ra trò cả! Nếu mở cửa, thấy
ta ở đây, lẽ nào chúng không hổ thẹn? Vả lại nghe tiếng hệt như tiếng con Hồng ở
phòng Bảo Ngọc, nó xưa nay vẫn to gan, không coi ai ra gì... Nay ta biết được sự xấu
xa của nó, nếu không cẩn thận, không những thêm chuyện mà ta cũng chẳng hay ho gì.
Bây giờ lánh đi một nơi thì không kịp, chi bằng dùng lối “kim thiền thoát xác” mới
được” [73, tập 2, tr.112].
Hồng Ngọc và Trụy Nhi trong đình Trích Thúy, Bảo Thoa giật mình:
Vậy là Bảo Thoa cố ý đi nặng bước và nói: “Chị Tần, tôi xem chị trốn đi
đâu nào?” [73, tập 2, tr.112]. Dĩ nhiên là hai cô a hoàn sẽ nghĩ Đại Ngọc đang
trốn ở đâu đó và nghe được câu chuyện của họ. Vậy là Bảo Thoa đã bày kế
“ve sầu lột xác” để đánh lừa bọn con hầu, tránh điều bất lợi cho mình đồng
thời trút hết mọi lo lắng, sợ hãi và căm ghét của hai a hoàn lên đầu Đại Ngọc.
Chưa hết, khi đi rồi, cô còn cười thầm trong bụng: “Thế là ta nói quanh che
giấu đã trôi, chẳng biết chúng nó nghĩ thế nào” [73, tập 2, tr.113]. Chỉ qua sự
kiện trên, chúng ta đã có thể nhận thấy tâm địa của Bảo Thoa thâm độc đến
mức nào. Chỉ cần bản thân được yên ổn, địa vị được củng cố và lấy lòng được
mọi người, cô sẵn sàng làm hại tới người chị em thân thiết với mình. Sự tàn
nhẫn của Bảo Thoa không dừng lại ở đó. Trước cái chết thương tâm của Kim
Xuyến, đến một người lạnh lùng như Vương phu nhân còn phải sụt sùi khóc
61
và ân hận, vậy mà Bảo Thoa vẫn tỉnh bơ như không, tìm cách đổ mọi tội lỗi
“Dì là người nhân từ, nên nghĩ như thế. Chứ cháu đoán thì không phải nó bực tức
mà đâm đầu xuống giếng đâu, có lẽ nó đứng gần hay đùa nghịch gì ở bên giếng, sểnh
chân bị ngã chăng?... Nếu vì tức khí mà liều lĩnh, thì chẳng qua là hạng hồ đồ, không
đáng tiếc làm gì?” [73, tập 2, tr.215].
lên người xấu số:
Thay vì thương tâm cho cái chết của Kim Xuyến thì Bảo Thoa lại tận
dụng cơ hội này để lấy lòng Vương phu nhân. Đến khi Vưu Tam Thư tự vẫn,
Liễu Tương Liên bỏ đi tu, Bảo Thoa cũng lạnh lùng nói với mẹ: “Theo ý con
mẹ cứ mặc họ. Mẹ cũng không cần phải vì họ mà thương cảm nữa” [73, tập 4,
tr.138]. Có thể nói, dù còn trẻ tuổi nhưng Bảo Thoa đã mang đầy đủ bản chất
tàn nhẫn, độc ác của giai cấp thống trị. Không cần bàn luận, chúng ta cũng có
thể dễ dàng dự đoán được những hành động trong tương lai của cô sẽ còn
đáng sợ hơn cả Giả mẫu, Vương phu nhân, Hình phu nhân. Vẻ bề ngoài và
đặc tính của cây dây leo chính là biểu tượng cho phong thái và tính cách của
Bảo Thoa.
Nếu như cảnh quan xung quanh ấy thể hiện rất rõ phong thái bên ngoài
đầy quyến rũ và lối sống khôn khéo của Bảo Thoa thì qua kiến trúc và cách
sắp xếp đồ đạc trong nhà, đời sống tinh thần của cô mới thực sự được bộc lộ.
Hành Vu Uyển được miêu tả rất đơn giản, không có gì đặc biệt với “năm gian
nhà mát mẻ, giàn hoa dựng lên, bốn mặt cửa sổ sơn xanh vách bóng, trông
rất thanh nhã” [73, tập 1, tr.311]. Bởi vậy, Giả Chính mới nói “tòa nhà này ở
đây chẳng có nghĩa lý gì” [73, tập 1, tr.310]. Vào tới trong phòng thì “thấy
trắng tinh, không có một thứ đồ chơi nào cả…trên giường treo cái màn the
xanh, chăn đệm thì mộc mạc xềnh xoàng lắm” [73, tập 2, tr.358]. Cách sắp
xếp nhà cửa như vậy phần nào phản ánh được tính cách của chủ nhân nó: đời
sống tinh thần gần như trống rỗng chứ không có những giằng xé, đau khổ, dằn
vặt như Đại Ngọc. Cũng do đó, chúng ta sẽ ít khi bắt gặp những đoạn độc
62
thoại nội tâm của Bảo Thoa trong Hồng lâu mộng. Nơi ở bày trí đơn giản,
nàng lại ưa ăn mặc giản dị, phong thái ung dung, giữ mình ở mức vừa đủ cùng
với mọi cử chỉ nhũn nhặn càng tôn địa vị của nàng lên.
Ngoài ba tiểu cảnh gắn với ba nhân vật mà chúng tôi đã phân tích ở
trên, Tào Tuyết Cần còn rất thành công khi xây dựng một số không gian khác
nằm trong Đại Quan Viên. Cát Cán Sơn Trang (nơi ở của Lý Hoàn) nằm trong
núi với mấy gian nhà tranh được bao quanh bởi “một bức tường thấp, đất
vàng, trên tường có rơm che” [73, tập 1, tr.305]. Ngoài ra còn có những ruộng
lúa, luống rau, giếng thơi. Đến cách bày trí trong nhà cũng đơn sơ, không có
gì là hào hoa phú quý, chỉ có “cửa sổ dán giấy, giường gỗ đơn sơ” [73, tập 1,
tr.305]. Lấy cảnh sắc của nhà nông để phối cảnh như vậy khiến chúng ta liên
tưởng tới thú điền viên của thi nhân và nho sỹ Trung Hoa vốn có từ thời Ngụy
– Tấn mà người đầu tiên khởi xướng là Đào Uyên Minh. Lý Hoàn không bon
chen, không tranh giành vị trí hay quyền lực trong phủ Giả như Hình phu
nhân, Vương phu nhân hay Phượng Thư, Bảo Thoa và nhiều nữ nhân khác dù
chị là dâu trưởng của Vinh quốc phủ. Tránh xa sự đấu đá, ồn ào của thế nhân,
người phụ nữ ấy táng một đời chỉ nghĩ đến việc thủ tiết thờ chồng và nuôi dạy
con, lấy đó là mối quan tâm duy nhất.
Xuyết Cẩm Các (lầu trăm gấm) là nơi ở của Nghênh Xuân. Theo lời
giải thích của Giả Trân ở hồi mười bảy, dòng suối Thấm Phương khi chạy đến
Đạo Hương Thôn thì phân thành nhánh chính ở phía đông bắc và nhánh phụ ở
phía đông nam, mà ở giữa hai dòng chảy này là một mảnh đất vừa khớp để
biến nó thành một hòn đảo nhỏ. Chúng ta biết rằng Xuyết Cẩm Các được xây
ở Tử Lăng Châu – nơi mảnh đất giữa hai dòng nước. Tử Lăng Châu một nơi
có nhiều thực vật thủy sinh, liễu hoa vĩ diệp, hành thảo hương lăng. Những
cây thủy sinh thường có tính chất là rất mềm yếu, trôi theo chiều nước, phù
hợp với tính cách mềm yếu, nhu nhược của Nghênh Xuân.
63
Chuối, ngô đồng là hai loại cây trồng chủ đạo ở Thu Sảng Trai – nơi ở
của Thám Xuân. Hai thứ cây ấy thể hiển được cảnh sắc mát mẻ của mùa thu.
Chúng đều có lá to, phù hợp với tính cách thoải mái, thoáng đãng của Thám
Xuân.
Trong số các chủ nhân sống trong Đại Quan Viên, văn sĩ họ Tào dường
như đã chú trọng hơn vào một số nhân vật mà ông cho là đặc biệt quan trọng,
có quan hệ mật thiết không chỉ với tiểu cảnh nơi người đó sinh sống mà còn
có quan hệ với các nhân vật khác. Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo
Thoa là những trường hợp như vậy. Bởi thế, so với các tiểu cảnh khác trong
khu vườn Đại Quan, Di Hồng Viện, Tiểu Tương Quán, Hành Vu Uyển là ba
nơi được nhà văn tập trung bút lực nhiều nhất. Ở phần trên, người viết đã tập
trung phân tích những nét cơ bản nhất về sự tương tác giữa ba tiểu cảnh tượng
trưng cho tính cách chủ nhân của chúng. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp cận
tác phẩm, chúng tôi còn đặc biệt chú ý tới sắp xếp vị trí ba tiểu không gian ấy
của văn sỹ họ Tào. Hẳn nhà văn muốn đề cập tới mối quan hệ giữa Giả Bảo
Ngọc, Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa. Nói về mối quan hệ ấy, Tào Tuyết
Cần không chỉ dựa vào lời thề cây đá (mộc thạch tiền minh) kiếp trước bên bờ
sông Linh Hà ở Tây Phương hay sự đồng điệu giữa hai tâm hồn của những kẻ
phản nghịch (Bảo Ngọc – Đại Ngọc), cùng chống lại tư tưởng Nho gia với ý
thức bổn phận, nghĩa vụ và trách nhiệm mà còn có thể lý giải theo cách bố trí
vị trí nơi ở của ba nhân vật này. Mượn việc miêu tả lộ trình du ngoạn Đại
Quan Viên của Nguyên phi, Tào Tuyết Cần đã nói về vị trí của ba tiểu cảnh
trong khu vườn: “Lối đi vào vườn, trước tiên phải qua các nơi có đề: “Hữu
phượng lai nghi”, “Hồng hương lục ngọc”, “Hạnh liêm tại vọng”, “Hành chỉ
thanh phân”,…” [73, tập 1, tr.332]. Theo chúng tôi, sự bố trí của Tào Tuyết
Cần như vậy là có chủ đích rõ ràng, thể hiện hai ý nghĩa sau: thứ nhất, sắp xếp
Di Hồng Viện (nơi biển đề “Hồng hương lục ngọc”) ở giữa Tiêu Tương Quán
64
(biển đề ““Hữu phượng lai nghi”) và Hành Vu Uyển (biển đề “Hành chỉ
thanh phân) như vậy rõ ràng là thể hiện mối quan hệ giữa ba nhân vật Giả
Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa mà Giả Bảo Ngọc là trung tâm;
thứ hai, đặt Tiêu Tương Quán ở gần Di Hồng Viện, còn từ Di Hồng Viện tới
Hành Vu Uyển phải qua Đạo Hương Thôn chính là ngầm thông báo cho độc
giả về mức độ thân thiết giữa Bảo Ngọc với hai thiếu nữ Đại Ngọc và Bảo
Thoa. Dường như sợ độc giả chưa hiểu được chủ ý của mình, Cần Khê còn
nhắc lại thêm một lần nữa ở hồi hai mươi ba qua lời đối thoại của Bảo Ngọc
với cô em họ khi cô nói muốn ở quán Tiêu Tương: “Thực đúng ý tôi! Tôi cũng
muốn cô ở đấy. Tôi ở viện Di Hồng. Hai chúng ta lại được gần nhau, và đều
được yên lặng” [73, tập 2, tr.46]. Cũng nhờ sự sắp xếp có chủ đích ấy của Cần
Khê, Bảo Ngọc và Đại Ngọc mới có cơ hội gặp mặt thường xuyên, hiểu nhau,
rồi yêu nhau và trở thành tri kỷ.
Và theo cách sắp xếp vị trí ba tiểu cảnh Di Hồng Viện, Tiêu Tương
Quán, Hành Vu Uyển như vậy, vườn (vườn Đại Quan) thực sự trở thành biểu
tượng của ái tình. Theo dõi bộ tiểu thuyết chúng ta nhận thấy một điều rõ
ràng: từ khi Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa (cùng các chị em
khác) dọn vào ở trong vườn, tình cảm của họ mới thực sự nảy sinh, phát triển
và cuối cùng đi tới kết thúc đầy nước mắt và đau đớn. Và lúc này, vườn
không chỉ mang ý nghĩa là biểu tượng cho tình yêu nữa. Nhà văn đã dứt khoát
gạt bỏ ý nghĩa tốt đẹp đáng mơ ước của biểu tượng vườn truyền thống (chốn
bình yên, hạnh phúc), để thay vào đó là ý nghĩa gắn bó với cuộc sống mà con
người không thể nào thay đổi được: vườn còn là hiện thân cho những nỗi đau,
sự bí bách, bất an trong đời sống tinh thần của nhân vật. Ban đầu, Tào Tuyết
Cần đã gắn cho Đại Quan Viên cái ý nghĩa là một Thiên đường trên mặt đất -
nơi cậu Bảo và những cô gái sống trong đó tự do tự tại, vô lo vô nghĩ. Nhưng
sự thật là những con người ấy luôn phải chịu những áp lực về tinh thần mà
cuộc sống dành riêng cho họ.
65
Đại Quan Viên bao gồm nhiều tiểu cảnh có chủ nhân sinh sống, việc
miêu tả đặc trưng của từng nơi phải thể hiện được tính cách của mỗi nhân vật
là một điều không dễ dàng. Các tiểu cảnh trong vườn Đại Quan là biểu tượng,
là tiếng vọng về đặc điểm tính cách của chủ sở hữu nó. Xây dựng mỗi tiểu
cảnh (không gian nhỏ) trong Đại Quan Viên đều không phải là một hiện
tượng ngẫu nhiên, trái lại, đó là một quá trình tìm tòi công phu, tiêu tốn rất
nhiều thời gian và tâm lực của Tào Tuyết Cần. Có như thế, các nhân vật mới
có không gian để tồn tại, để hành động và phát triển tính cách số phận của
mình. Từng tiểu cảnh gắn với mỗi nhân vật nhất định tạo thành một cặp tiểu
cảnh – nhân vật luôn sóng đôi, đồng hành cùng nhau. Bởi thế, khi nhắc đến
một địa điểm cụ thể trong Đại Quan Viên, chúng ta sẽ biết ngay đó là nơi ở
của ai. Ngược lại, khi nói tới một chủ nhân nhất định, những gì hiện lên đầu
tiên trong tâm thức của chúng ta chính là tên tiểu cảnh và những ý nghĩa
tượng trưng của nó. Trong mối quan hệ này, không gian là điểm tựa, là nơi
chốn cho quá trình vận động của nhân vật và từ đó, nảy sinh tính chất tương
xứng, tương hợp giữa không gian với tính cách nhân vật. Mặc dù tiểu không
gian vẫn tương hợp, hòa điệu với con người nhưng vẫn có sự tác động trở lại
môi trường sống của tính cách nhân vật. Mối quan hệ giữa nơi ở với nhân vật
đã trình bày ở trên không chỉ mang lại những liên tưởng thú vị, góp phần mở
rộng chân trời tư duy của độc giả mà còn như một sự khu biệt giúp chúng ta
nhận diện, phân biệt các nhân vật chính ấy với một số lượng nhân vật khổng
lồ trong Hồng lâu mộng.
Qua những phân tích ở trên chúng ta có thể thấy rằng: những vẻ riêng
của mỗi tiểu không gian đều góp phần hình thành nên Đại Quan Viên xinh
đẹp. Khu vườn của phủ Giả tồn tại nhiều tiểu cảnh như vậy là tiêu biểu cho
phương thức xây dựng một khu vườn lớn vây quanh một khu vườn nhỏ - đặc
điểm nổi bật của nghệ thuật vườn cảnh Trung Hoa truyền thống. Cách bố cục,
bày trí như vậy làm cho khu vườn nhỏ hiện lên tinh tế, lung linh giữa khu
66
vườn lớn hùng vĩ, thô kệch, khiến tổng thể trở nên hài hòa và hữu tình hơn rất
nhiều. Nhìn chung, về mặt tổng thể, khu vườn Đại Quan trong Hồng lâu mộng
vẫn tuân thủ theo đúng ý nghĩa của cổ mẫu vườn (tức là chốn sung sướng, cực
lạc, mang vẻ đẹp hiếm có). Bởi vậy, những con người sống ở đó đều yêu thích
nơi ở của mình, yên tâm và vui sướng khi được ở trong vườn.
Tuy nhiên, từng tiểu cảnh đã có những đặc trưng riêng, khác nhiều so
với ý nghĩa của khu vườn truyền thống. Ở mỗi nơi ấy, từ cây cối, bày trí nhà
cửa,... đều tượng trưng cho dáng dấp của chủ nhân. Vậy là Tào Tuyết Cần đã
làm khác đi bằng cách mở rộng thêm chứ không còn trung thành với ý nghĩa
đơn thuần về biểu tượng vườn nữa. Tuy tổng thể vườn Đại Quan được bao
bọc bởi một bức tường kiên cố, thể hiện ý nghĩa nguyên thủy về khu vườn cổ
xưa nhưng ở mỗi tiểu cảnh, đằng sau sự sung sướng, hạnh phúc của con người
đã ẩn chứa những bi kịch, xung đột: bi kịch tình yêu (Đại Ngọc, Bảo Ngọc,
Bảo Thoa), bi kịch số phận (Lý Hoàn, Thám Xuân, Nghênh Xuân), xung đột
gay gắt về tính cách, lối sống, tư tưởng (Hành Vu Quân - Lâm Tiêu Tương).
Cũng bởi lý do khu vườn luôn tiềm ẩn, chứa đựng những bi kịch, nỗi đau và
bất hạnh như vậy nên cuối cùng hòn đá thiêng (Giả Bảo Ngọc) đã tỉnh ngộ,
quyết định rời khỏi vườn Đại Quan – nơi nó ngỡ là chốn “Đào nguyên” sung
sướng, hạnh phúc để trở về dưới chân núi Thanh Ngạnh lạnh lẽo. Vậy là cổ
mẫu nằm sâu dưới những trầm tích văn hóa, khi vào trang văn của Tào Tuyết
Cần đã phái sinh những ý nghĩa riêng, khác và mới hơn so với truyền thống.
Cách tổ chức không gian trong Đại Quan Viên tuy vẫn dựa trên những ý
nghĩa của biểu tượng vườn trong văn hóa, văn học truyền thống nhưng Cần
Khê đã bồi đắp thêm cho nó nhiều tầng ý nghĩa. Biểu tượng vườn còn thể hiện
được mối quan hệ giữa các nhân vật, biểu tượng của ái tình, tượng trưng cho
những bất an, đau khổ trong đời sống nội tâm của từng nhân vật.
67
Tiểu kết chương 2
Vườn là mẫu gốc trong văn hóa Trung Hoa từ ngàn xưa. Qua mỗi thời kỳ
văn học, ý nghĩa của biểu tượng này lại được bổ sung thêm. Đến Tào Tuyết
Cần, khi xây dựng biểu tượng vườn trong Hồng lâu mộng (mà cụ thể là Đại
Quan Viên), ông đã tiếp thu triệt để ý nghĩa của biểu tượng này trong văn hóa
truyền thống Trung Quốc với ý nghĩa là chốn sung sướng cực lạc, mang vẻ
đẹp hiếm có, là thế giới đáng mơ ước của con người.
Không dừng lại ở đó, nhà văn còn dày công gây dựng nên khu vườn của
riêng mình – nơi ông gửi gắm vào đó những quan niệm nhân sinh, bao ưu tư
và nỗi niềm. Ở nơi ấy, mỗi sự vật đều tượng trưng cho tính cách và số phận
của con người khiến ý nghĩa ban đầu của cổ mẫu vườn không đơn điệu nữa
mà được bồi đắp thêm những vỉa đá mới lên lớp trầm tích văn hóa cổ xưa.
Tuy tổng thể vườn Đại Quan thể hiện ý nghĩa nguyên thủy về khu vườn cổ
xưa nhưng ở mỗi tiểu cảnh, đằng sau sự sung sướng, hạnh phúc của con người
đã ẩn chứa những bi kịch, xung đột. Khu vườn luôn tiềm ẩn, chứa đựng
những nỗi đau và bất hạnh.Vị trí của những tiểu cảnh trong vườn không chỉ
thể hiện được mối quan hệ giữa các nhân vật mà còn là biểu tượng của ái tình,
tượng trưng cho những bất an, đau khổ trong đời sống nội tâm của từng nhân
vật. Với những đóng góp đó, văn sỹ họ Tào đã góp phần làm phong phú ý
nghĩa của biểu tượng vườn trong văn hóa, văn học Trung Hoa và thế giới.
68
Chương 3. BIỂU TƯỢNG NƯỚC TRONG HỒNG LÂU MỘNG
3.1. Biểu tượng nước trong văn hóa – văn học Trung Quốc
Là một mẫu gốc trong văn hóa nhân loại từ thuở hồng hoang, nước mang
hàm nghĩa chung nhất là “khối vật chất chưa phân hóa, là hình tượng của số
lượng vô cùng lớn của những khả năng diễn biến, chứa đựng toàn bộ cái tiềm
tàng, cái phi hình, cái mầm mống của mọi mầm mống, tất cả mọi hứa hẹn về
sự phát triển, nhưng cũng chứa đựng mọi mối đe doạn bị tiêu tan” [60,
tr.709]. Bên cạnh những nét chung phổ quát ấy, ở mỗi cộng đồng dân tộc, mỗi
tôn giáo, nó lại có vị trí riêng và mang nhiều ý nghĩa.
Nước là vật chất khởi thủy cho sự sống của vạn vật trên trái đất. Thần
Ra–Atum - vị thần đầu tiên trong thần thoại của đất nước Ai Cập hàng năm
xuất hiện như nước lũ của sông Nile. Thần Ra sinh ra các bọt nước, từ đó biến
thành thần Shu (không khí) và thần Tefnut (hơi nước). Theo thần thoại Ấn
Độ, sự ra đời của Đấng Sáng Tạo Brahman là nở ra từ quả trứng vàng bơi
giữa biển nước mênh mông (hỗn mang nước) gắn với việc giải thích sự hình
thành của thế giới: “Nước là bản chất của mọi vật và mọi vật là bản chất của
nước. Nhưng ở trong nước còn có cái khí Dương chói lọi, bất diệt, tự nó đối
chiếu với nó, tự nó là mầm mống. Nó chính là cái Linh hồn này, cái Bất diệt
này, cái Brahman này” [14, tr.733]. Đó là lý do giải thích tại sao trong kinh
Veda, những dòng nước luôn được ca ngợi là mang lại sự sống, sức mạnh
thanh khiết về mặt tinh thần cũng như thể xác. Bắt đầu từ thế giới quan thần
thoại và tín ngưỡng tôn giáo như vậy, triết học cổ đại Ấn Độ được hình thành.
Kinh Veda là một trong những bộ kinh cổ nhất của người Ấn Độ và nhân loại.
Thánh ca về sự sáng tạo vũ trụ đã giải thích nguồn gốc của vũ trụ bằng tư duy
triết học: “lúc khởi thủy chỉ có bóng tối mịt mùng trong bóng tối: toàn thể vũ
trụ này chỉ là nước mênh mông” [6, tr.85]. Theo quan niệm của Do Thái giáo
và Kitô giáo,“nước trước tiên tượng trưng cho khởi đầu cuộc sáng tạo thế
69
giới” [60, tr.711]. Với ý nghĩa quan trọng ấy, nước trở thành trung tâm của sự
thanh bình, ánh sáng và là một ốc đảo chứa đựng sự sống của mọi sinh vật.
Ngoài vai trò là một năng lực cứu sinh: chữa khỏi bệnh, làm cho trẻ lại
và đưa con người vào cõi vĩnh hằng, nước còn có chức năng thanh tẩy. Bản
thân nước có khả năng làm sạch nên mang ý nghĩa thiêng liêng. Nó xóa bỏ
được mọi tội lỗi và vết nhơ, đưa con người qua một trạng thái khác: trở thành
một con người mới. Bởi tính chất đó, nước đóng vai biểu tượng mạnh mẽ và
sâu sắc trong các nghi thức và nghi lễ của nhiều tôn giáo, đã tạo nên những
sức mạnh thiêng liêng trong cuộc sống con người. Tại Ấn Độ và khu vục
Đông Nam Á, lễ tắm tượng thánh và các tín đồ của Phật giáo (nhất là trong
dịp năm mới) ngoài mục đích tẩy uế còn mang ý nghĩa tái tạo sức sống. Theo
thần thoại Ấn, dòng sông Hằng linh thiêng chảy từ trên trời xuống để rửa sạch
mọi tội lỗi của trần gian. Nếu người ta được đắm mình trong dòng nước và
gột rửa tâm hồn hay được chết bên bờ sông này thì đó là một diễm phúc lớn
nhất của cuộc đời. Với người theo Do Thái giáo, trước khi cầu nguyện thì
phải rửa tay chân thật sạch. Với đạo Hồi, nước cũng là một phương tiện để tẩy
uế. Lời cầu nguyện của đạo Hồi chỉ được coi như thực hiện đúng phép khi
người cầu nguyện đã tắm gội sạch sẽ theo những quy tắc tỷ mỉ. Đạo này quy
định trong suốt cuộc đời, nếu có khả năng thì tín đồ phải hành hương về đền
Caaba một lần. Khi nhìn thấy thánh địa Mecca, tín đồ thì phải tắm rửa thật
sạch, dừng lại ở giếng Zemzem (nơi con trai của giáo chủ Abraham từng giải
khát) để uống một ngụm nước sau đó mới đi vào đền Caaba.
Qua những tìm hiểu ở trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng nước có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống tinh thần của các dân tộc và tôn
giáo trên thế giới. Nó không chỉ là biểu tượng của sự sống mà còn giữ vị trí
đặc biệt trong thế giới tâm linh của con người, bao gồm ba ý nghĩa chính: là
nguồn sống, phương tiên thanh tẩy và trung tâm tái sinh.
70
3.1.1. Biểu tượng nước trong văn hóa Trung Quốc - sự đồng điệu
cùng dòng chảy văn hóa nhân loại
Cùng với Ấn Độ, Trung Hoa là một trong những trung tâm văn hóa rực
rỡ, phong phú và cổ xưa nhất của nền văn minh Phương Đông. Nơi đây còn là
một trong những điểm khởi sinh của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa
nước và lúa cạn. Bởi vậy, ngay từ buổi bình minh của dân tộc, cuộc sống của
người nguyên thủy nơi đây không thể tách rời yếu tố nước. Tuy nhiên, với tư
duy còn ngây thơ, chất phác, họ chỉ có thể giải thích vũ trụ quan xung quanh
mình trong đó có nước bằng thần thoại.
Bàn Cổ là vị thần sáng tạo thế giới trong thần thoại Trung Hoa. Ngoài
nói về công lao khai thiên lập địa, thần thoại còn kể về sự biến hóa của ông:
“máu huyết biến thành các dòng sông lớn nhỏ, gân mạch biến thành các
mạch nước ngầm,… mồ hôi đổ ra trên toàn thân biến thành sương và mưa
tưới mát vạn vật” [78, tr.12]. Câu chuyện đầu tiên về nước trong thế giới tâm
linh của người Trung Quốc cổ đại được lưu truyền như vậy đó. Khi Nữ Oa
sáng tạo nên loài người, ngoài đất vàng từ mặt đất, một thành phần không thể
thiếu làm nên đất sét chính là nước. Sau khi vũ trụ được hình thành và những
con người đầu tiên xuất hiện, thần thoại liên quan tới nước gắn liền với những
cơn đại hồng thủy. Chính Nữ Oa đã dùng đá ngũ sắc để luyện thành dung
nham ngũ sắc vá những lỗ hổng trên bầu trời, chặn đứng trận đại hồng thủy
hung ác. Đến truyền thuyết, thần thoại thời vua Nghiêu, thủy thần Cộng Công
chính là nguyên nhân khiến các dòng sông đều chảy ngược, gây ra các trận
đại hồng thủy kinh hoàng kéo dài từ năm này sang tháng khác. Vua Nghiêu đã
giao việc trị thủy cho Cổn - cháu của Hoàng Đế. Suốt chín năm ròng, mọi cố
gắng xây đắp đê ngăn nước lũ của đều thất bại, Cổn phải liều lấy trộm “tức
nhưỡng” – loại đất kỳ diệu của Thiên Đế để ngăn chặn nước lũ. Sau khi Cổn
bị xử tử vì tội lỗi đó, đại hồng thủy lại xuất hiện và kéo dài đến tận thời vua
Thuấn. Đại Vũ – con trai của Cổn nối tiếp công việc của cha, phụng mệnh vua
71
Thuấn trị thủy thành công, tiếp đó là đào các con sông để khơi thông dòng
nước, bình ổn mọi dòng sông trong thiên hạ, trong đó có sông Hoàng Hà ở
phương Bắc. Cuộc chiến của Vũ với trận lụt được mô tả như một cuộc chiến
lâu dài, kiên trì và anh dũng. Như vậy, cũng như với thần thoại của nhiều
nước trên thế giới, chiếm vị trí quan trọng trong thần thoại Trung hoa là chủ
đề trận đại hồng thủy.
Từ những truyện thần thoại nói trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng: từ
thuở hồng hoang của nhân loại nói chung và dân tộc Trung Hoa nói riêng, các
trận hồng thủy thường xuyên xảy ra và đe dọa tới tính mạng của con người.
Nói tới nạn đại hồng thủy là nói tới quá trình đấu tranh gian khổ của con
người với tự nhiên mà với trình độ của lúc bấy giờ, người cổ đại không thể
giải thích được. Đó cũng là lý do giải thích vì sao từ rất sớm, nước đã đi vào
tâm thức của cộng đồng các dân tộc trên thế giới và Trung Hoa, trở thành một
thứ vô thức tập thể.
Triết học cổ Trung Quốc có truyền thống lịch sử lâu đời, xuất hiện từ
cuối thiên niên kỷ thứ hai, đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Thời
kỳ Ân – Thương đến thời kỳ Tây Chu (giai đoạn đầu tiên của triết học Trung
Hoa) là giai đoạn hình thành và phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ. Khi
đó, thế giới quan thần thoại mê tín và tôn giáo duy tâm cho rằng thượng đế và
quỷ thần là những lực lượng tinh thần tối cao, chi phối và quyết định sự biến
hóa của vũ trụ và đời sống xã hội. Đối lập với những quan điểm duy tâm tôn
giáo ấy, cuối thời Tây Chu đã xuất hiện những tư tưởng triết học duy vật và
quan điểm có tính chất vô thần tiến bộ. Nổi bật trong tất cả những tư tưởng
duy vật sơ khai thời đó là Kinh Dịch – một tác phẩm vĩ địa nhất của triết học
Trung Hoa cổ đại, là cơ sở triết lý cho hầu hết các trường phái triết học Trung
Quốc sau này. Tác phẩm này đưa ra quan niệm về sự tác động, phối hợp của
Ngũ hành (tức năm yếu tố hay năm hành chất cơ bản đầu tiên tạo ra vạn vật:
kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) và quan niệm về sự tương tác, bổ sung lẫn nhau
72
giữa hai mặt đối lập, hai thế lực vật chất cơ bản của vũ trụ: “âm” và “dương”
trong Thái cực để giải thích nguồn gốc và sự tiến hóa của sự vật, hiện tượng
trong vũ trụ. Nhìn chung, với hai quan niệm trên, yếu tố “thủy” (nước) giữ vai
trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu trong quá trình hình thành và tồn tại
của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. Thiên “Hồng phạm”
trong Kinh thư viết: “Thứ nhất trong Cửu trù là ngũ hành. Thứ nhất trong ngũ
hành là thủy, nhì là hỏa, ba là mộc, bốn là kim và năm là thổ” [6, tr.309].
Điều đó có nghĩa là nước là yếu tố đầu tiên, là cái mà vạn vật trong vũ trụ từ
đó khởi sinh, là khởi đầu của mọi cái khởi đầu. Theo thuyết này, mỗi yếu tố
thuộc ngũ hành đều có những đặc điểm, tính chất riêng, trong đó, nước mang
tính lạnh, ướt, xuyên thấm và tuôn chảy xuống thấp, tạo nên vị mặn. Đối lập
với hành hỏa (mang tính nóng, bốc lên, tạo thành mùa hạ), thủy lại mang tính
giá lạnh tạo nên mùa đông, là hành mạnh ở phương Bắc và màu đen, ứng với
buổi tối. Học thuyết Ngũ hành diễn giải sự sinh hoá của vạn vật qua hai
nguyên lý cơ bản là Tương sinh và Tương khắc trong mối tương tác và quan
hệ giữa chúng. Theo đó, kim sinh thủy, thủy sinh mộc và thổ khắc thủy, thủy
luôn khắc hỏa. Người ta nhìn vào nước mà hiểu ra “đức” (tứ đức): có thể gột
sạch mọi thứ thông lưu vạn vật (nhân); có thể trở nên trong và đục, trôi đi
những thứ bẩn (nghĩa); tuy yếu mềm nhưng khó xâm phạm, yếu nhưng có thể
chiến thắng (dũng); đạo giang sơn hà, ố doanh lưu khiêm (chí). Còn theo quan
niệm âm – dương, nước cũng là yếu tố không thể thiếu trong “bát quái” – tám
hiện tượng lớn trong vũ trụ: Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm sét), Tốn (gió),
Khảm (nước), Đoài (sông ngòi). Chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm âm –
dương và ngũ hành trong Kinh Dịch, kết hợp với những kinh nghiệm về cư trú
được tích lũy từ đời này qua đời khác đã hình thành nên học thuyết phong
thủy, chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước
đến đời sống, hoạ phúc của loài người. Vị trí của nước trong phong thủy là
đặc biệt quan trọng bởi nó là yếu tố đem năng lượng đến cho ngôi nhà và gia
73
chủ, tượng trưng cho tài lộc, mang lại sự giàu sang và thịnh vượng, là nguồn
thu nạp và điều dẫn khí rất tốt. Không chỉ vậy, nước còn có thể đem lại cảm
giác bình yên và thanh thản. Một hồ nước tĩnh lặng trong vườn nhà phản
chiếu bầu trời luôn thay đổi trên cao và thu hút năng lượng từ vũ trụ, mặt trời,
mặt trăng, các vì tinh tú cũng như bóng mây, là những gì không ngừng soi rọi,
hiện diện trên mặt nước.
Các nhà triết học Trung Hoa cổ đại cũng có những quan niệm không
giống nhau về bản chất của nước. Tuân Tử lại cho nước là dân tâm, “Dân như
thủy, quân như chu; thủy khả tái chu, dã khả phúc chu” (Dân như nước, vua
như thuyền; nước có thể chở được thuyền, cũng có thể làm chìm thuyền).
Khổng Tử nhìn sông nước trôi chảy, linh động biến dịch không ngừng, tìm về
trùng dương mênh mông mà ngộ ra rằng: “thệ giả như tư phù, bất xá trú dạ”
(dòng nước chảy hoài, ngày đêm không thôi). Hầu như toàn bộ Đạo đức kinh
của Lão Tử nhằm nói đến sức mạnh của cái Nhu, của Vô vi. Nước làm lợi cho
vạn vật mà không giành giật với vật, nước mềm yếu nhưng lại chiến thắng mọi
vật cứng mạnh (vừa nhu, vừa cương). Bởi vậy, ở chương tám, nước được coi
như hình ảnh đặc thù để chuyển tải một triết lý sống và cũng chính là một nghệ
thuật sống lý tưởng. Ông cho thấy đường lối sống Đạo tự nhiên như nước chảy
xuôi: ở thì chuộng chỗ thấp, ân tình thì chuộng thâm sâu, xử sự chuộng lòng
nhân, nói thì chuộng chân thật, cai trị thì làm cho cuộc sống an bình, làm việc
thì hợp với tài năng, hành động thì hợp thời đúng lúc. Đức tính của nước là làm
lợi cho tất cả thiên hạ mà không tranh công đoạt lợi, gặp chỗ thiếu thì chảy vào,
chỗ thừa thì chảy ra, trên trời làm mưa, dưới đất thành sông lạch: “Thượng
thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh”. Từ Đạo đức kinh, nước
trở thành biểu tượng của Đạo, trở nên nghê thuật xử thế không thể thiếu của
con người trong xã hội.
Như vậy, hòa cùng dòng chảy của văn hóa nhân loại từ thuở hồng hoang,
với dân tộc Trung Hoa, từ rất sớm, nước là yếu tố giữ vai trò đặc hiệt trong
74
đời sống tâm linh cũng như trong cuộc sống thường nhật. Nhìn chung, biểu
tượng nước trong văn hóa Trung Quốc cũng có những nét lớn, gần như trùng
khít với biểu tượng nước trong văn hóa nhiều nước trên thế giới. Điều đó
cũng dễ hiểu bởi từ khi xuất hiện, con người đã có những ghi nhận trực quan
về đặc điểm vật chất của nước.
Khảo sát biểu tượng nước trong văn hóa Trung Quốc, chúng tôi nhận
thấy nước có một số ý nghĩa cơ bản sau đây: là dạng vật chất đầu tiên hình
thành nên vũ trụ; là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong đời sống tự nhiên
và là nền tảng cho đời sống xã hội; nước có đặc tính vừa nhu lại vừa cương.
Từ văn hóa, những ý nghĩa ấy của nước chảy vào văn học Trung Hoa mạnh
mẽ, bất tận.
3.1.2. Biểu tượng nước trong văn học Trung Quốc - tiếng đồng vọng
của văn hóa truyền thống
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, từ rất sớm, nước đã trở thành biểu
tượng có vị trí đặc biệt trong tâm thức và văn hóa người Trung Hoa. Trên cơ
sở đó, không khó khăn để chúng ta giải thích vì sao trong dòng chảy văn học
Trung Quốc, nước là hiện tượng phổ biến trong các sáng tác từ cổ đại cho tới
trung đại, hiện đại. Nếu biểu tượng vườn trong văn học trung Quốc mang một
ý nghĩa thống nhất, chỉ nơi thiên đường chốn trần gian thì biểu tượng nước lại
mang những ý nghĩa phong phú hơn.
Trước hết, nước trong văn học Trung Hoa là biểu tượng cho dòng chảy
vô thường của cuộc sống. Triết gia Heraclite từng nói “không ai tắm hai lần
trên một dòng sông”. Bậc thánh nhân Khổng Tử cũng nhìn dòng nước mà tiếc
nuối: “thệ giả như phù...”. Biểu tượng dòng sông đi vào những trang Đường
thi với tên gọi cụ thể, quen thuộc với bất kỳ người dân Trung Hoa
nào: Trường Giang, Hoàng Hà, Dịch Thủy,... Nó trở thành hình ảnh thuộc loại
đặc sắc nhất trong thơ Đường bởi dễ gợi lên cảm hứng trong lòng thi nhân, lại
có thể chuyên chở nhiều ý nghĩa sâu xa: là dòng hoài niệm, dòng thời gian,
75
dòng đời, là dòng cảm xúc cô đơn,… Những dòng sông ấy gắn liền tên tuổi và
tình cảm của bao thi sỹ: Thiên mạt hoài Lý Bạch (Đỗ Phủ), Hoàng Hạc lâu
tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lý Bạch), Lệ nhân hành (Đỗ Phủ),
Trường hận ca (Bạch Cư Dị),... Những dòng chảy triền miên của nó đã trở
thành biểu tượng cho dòng thời gian một đi không trở lại, gợi ra nỗi ám ảnh
về thời gian. Đó là “sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài” (Đằng vương các –
Vương Bột), là sông Hoàng Hà từ trên trời xuống, cuồn cuộn chảy ra biển
không trở lại trong Tương tiến tửu (Lý Bạch),...
Thứ hai, nước mang theo ý nghĩa là nỗi buồn triền miên, không dứt.
Dòng sông đầy khói sóng cũng khiến con người ta thấm thía nỗi cô đơn, gợi
nhắc những người con tha hương nỗi nhớ quê nhà:“Nhật mộ hương quan hà
xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu ” (Thôi Hiệu - Hoàng Hạc lâu).
Mưa – biến thể của nước không chỉ gây lụt lội, tốc nhà, cảnh vật điêu linh
như trong bài Mao ốc vị thu phong sở phá ca (Bài ca nhà tranh bị gió thu phá)
của Đỗ Phủ mà còn gắn với nỗi niềm con người nơi biên ải trong thơ của Sầm
Than. Những bông tuyết rơi trong đêm lạnh mang nỗi niềm của những chinh
phu chốn biên ải trong thơ của thi nhân thuộc dòng thơ biên tái (Tẩu Mã
xuyên hành, phụng tống Phong đại phu tây chinh - Bài ca sông Tẩu Mã đưa
tiễn Phong đại phu chinh tây, Bạch tuyết ca tống Vũ Phán quan quy kinh - Bài
ca Tuyết trắng đưa Vũ phán quan về kinh đô,…) hay nỗi đau thương, thống
khổ của những nông dân chất phác hiền hòa, chịu đựng nghèo nàn trong Thôn
cư khổ hàn – Bạch Cư Dị, Chu trung dạ tuyết hữu hoài Lư thập tứ thị ngự đệ
(Tuyết đêm, trong thuyền, nhớ em là thị ngự Lư mười bốn) của Đỗ Phủ. Nếu
như cảnh “mặt sông tuyết phủ” (Giang tuyết) trong thơ Liễu Tông Nguyên là
biểu tượng cho thế giới trầm mặc thanh tịnh và tâm tư dằn vặt, nỗi buồn tê tái
của thi nhân thì những “tuyết rơi Vân Mộng nhạn bay” trong bài thơ Tương
trung tống hữu nhân (Lý Tần) gợi lên trong lòng kẻ xa quê bao nỗi niềm, như
giục giã ước nguyện được quay trở lại cố hương của con người.
76
Thứ ba, nước chính là biểu tượng cho nguồn sống bất tận. Ở nhiều hoàn
cảnh khác, nước cùng với những biến thể của nó như một liều thuốc nâng đỡ
tinh thần con người, đem lại cho nhân gian niềm tin yêu vào cuộc đời vốn “ba
phần tư nước mắt” này. Bên cạnh việc giúp bộc lộ những nỗi niềm sâu kín
của thi nhân về con người, về cuộc đời như chúng tôi đã khái quát ở trên,
nước còn là hiện thân của những tâm hồn thơ tha thiết với cuộc sống. Với
cảnh tuyết rơi trong bài Đối tuyết, Đỗ Phủ đã tạo ra những hình ảnh thi vị,
tinh khôi như muốn quên đi những ray rứt u hoài, lo âu khắc khoải, gian nan
phiền toái của kiếp đời ly hương. Đến Tổ Vịnh, trong khung cảnh tĩnh lặng,
tuyết được diễn tả bằng những đường nét gợi cảm, hòa cùng vũ trụ bao la bát
ngát với “Tuyết rơi rơi phủ trắng vầng mây trôi” (Chung Nam vọng dư duyết
- Tổ Vịnh). Đó có thể là cơn mưa tới thỏa niềm mong ngóng của con người
như gieo vào lòng thi nhân niềm giao hoan, phấn khởi. Bài thơ Xuân tình của
Vương Giá với cảnh vật đầy hương sắc của bướm ong, hoa lá sau cơn mưa
cũng chung niềm vui ấy. Với một nhà thơ mà cuộc đời đầy dãy những gian
nan, khổ ải như Đỗ Phủ, khi mưa xuống, cảnh “Oanh vàng gù cánh tổ/ Cá
trắng nhảy tung tăng” đã cho ông chút thanh bình sau những ngày tháng loạn
lạc của chiến tranh.
Thứ tư, nước tượng trưng cho những hiểm nguy, bất trắc và khó khăn mà
con người phải gặp trong cuộc đời. Không những đem lại mưa tưới mát
Đường thi, biểu tượng nước còn chảy mãi tới những tiểu thuyết chương hồi
đời Minh – Thanh mà Tây du ký của Ngô Thừa Ân là một trong số đó. Đọc
kiệt tác này, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng: phần lớn không gian trong tác
phẩm đều được bao phủ bởi nước. Mở đầu Tây du ký, độc giả như bị choáng
ngợp bởi cái bao la, rộng lớn của biển khơi. Theo thần thoại Trung Hoa, văn
sỹ họ Ngô cũng cho rằng thế giới ấy được cai quản bởi Tứ Hải Long Vương.
Các vị thần ấy cùng với quyền năng tối thượng của mình có thể hô mưa, gọi
gió, gây hạn hán hay lũ lụt,… Thế nhưng thế giới Long Cung của họ lại là nơi
77
Tôn hành giả chiếm lĩnh, mở khóa rẽ nước, đi thẳng đến đáy bể đông rồi vào
gặp Long Vương ở Long Cung. Trên chuyến hành trình tới Tây Thiên, thầy
trò Đường Tam Tạng phải vượt qua nhiều con sông với những cái tên như:
Lưu Sa, Kinh Hà, Vị Thủy, Thiên Hà, Hắc Thủy, Tử Mẫu,.... Những dòng
sông ấy phần lớn đều có chung đặc điểm là: dài rộng, hoang vắng và dưới mặt
nước luôn tiềm ẩn những hiểm nguy và bất trắc. Nước lúc này không đơn
thuần là thử thách với thầy trò Đường Tăng mà còn là biểu tượng cho những
khó khăn, những khi không thuận buồm xuôi gió trong cuộc đời mà con
người cần có bản lĩnh và nghị lực để vượt qua.
Ngoài ý nghĩa là biểu tượng cho dòng chảy vô thường của cuộc sống, là
nỗi buồn không dứt, tượng trưng cho nguồn sống bất tận, là khó khăn mà con
người phải gặp trong cuộc đời, nước văn học Trung Quốc còn mang ý nghĩa
tái sinh. Nước cam lộ trong như sương móc, ngọt ngào của Bồ Tát còn là
phương thuốc quý giá cứu sống sinh mạng của vạn vật. Từ hồi hai mươi tư
đến hồi hai mươi sáu, chỉ vì ăn hai quả nhân sâm ở núi Vạn Thọ mà thầy trò
Đường Tăng gặp phải một phen khốn khó. Chỉ khi tới Đông Dương Đại Hải,
nhờ có Quan Âm Bồ Tát dùng nước cam lộ vẩy lên mới cứu được cây nhân
sâm hồi sinh.
Nhìn chung, văn hóa và văn học Trung Hoa đầy ắp hình ảnh của biểu
tượng nước và mang những ý nghĩa đa dạng. Bắt nguồn từ những kinh
nghiệm trực quan trong thực tiễn, nước cùng với những sức mạnh mà nó đem
lại đã đi vào những câu chuyện thần thoại cổ xưa nhất nhằm giải thích các
hiện tượng trong vũ trụ rộng lớn. Đó không chỉ là là cơ sở để các nhà triết học
duy vật cổ đại của đất nước này đi tìm bản chất thực sự của thế giới, giúp họ
vận dụng vào để giải thích các quy luât của tự nhiên và xã hội mà còn là
nguồn cảm hứng vô tận trong lòng bao thế hệ nhà thơ, nhà văn Trung Hoa.
78
3.2. Biểu tượng nước trong Hồng lâu mộng - những tầng ý nghĩa
Cũng như nhiều cộng đồng dân tộc khác trên thế giới, nhận thức của
người Trung Hoa đối với nước là sự kết hợp của lĩnh ngộ và cảm nhận, trở
thành một kinh nghiệm phổ biến được lịch sử và xã hội đồng tình để rồi đi
dần từ triết lý đến thẩm mỹ. Nước trong Hồng lâu mộng, cũng dung hòa vào
tính thẩm mỹ của nước trong văn hóa – văn học dân tộc, bao hàm nhiều tầng
ý nghĩa tượng trưng.
3.2.1. Nước – biểu tượng của nữ giới
3.2.1.1. Biểu tượng nước - nguồn gốc của nữ giới
Trong quan điểm của người Trung Quốc cổ đại, nước chính là nguồn
sống của vạn vật, điều này khiến mọi người tưởng tượng rằng khi con người
chết đi có thể phục sinh. Ví dụ như thủy thần của người Trung Quốc, rất nhiều
người chết đi đều được gia nhập vào tiên giới: hai người vợ của vua Thuấn
sau khi chìm xuống nước lại trở thành thủy thần, Dao Cơ sau khi chết trong
nước đã trở thành nữ thần có thể đi gió về mưa, giúp trị thủy,… Trước đó, câu
chuyện thần thoại cổ xưa nhất nói về chuyện Nữ Oa luyện đá ngũ sắc để vá
trời, tạo ra vạn vật và cả loài người đã nhắc tới nước: “Nữ Oa lấy đất vàng từ
mặt đất, trộn với nước, nhồi thành đất sét” [78, tr.14], sau đó bà dùng đôi tay
khéo léo của mình nặn nên loài người, ai được nặn từ đất sét trở thành người
phú quý, ai được làm thừ bùn nhão thì trở nên hèn mọn. Vậy là từ đất với
nước tạo thành người, bất luận là nam hay nữ, hai yếu tố ấy cùng hợp thành
một thể. Trong Hồng lâu mộng, Cần Khê cũng mượn ý từ câu chuyện thần
thoại trên, chọn nước làm điểm xuất phát cho quan điểm của mình.
Cách nhìn nhận về nước của các nhà tư tưởng thường theo quan điểm
triết học, các nhà lý luận thì nhìn theo hướng đạo đức, còn đối với các nhà văn
thì họ nhìn theo hướng thẩm mỹ. Văn sỹ họ Tào dựa trên cách tượng trưng
truyền thống về nước mà mở rộng những hàm ý liên quan, lấy nước để ví với
người nữ. Da thịt mềm yếu của người nữ, khí chất thanh khiết, ánh mắt trong
79
sáng của họ, khả năng sinh sôi nảy nở, tính khoan dung và đức hạnh của
người nữ và nước có nhiều đặc điểm giống nhau. Nói nữ nhân là nước thực sự
rất rõ ràng và giản dị. Với câu nói của Giả Bảo Ngọc: “Xương thịt của con
gái là nước kết thành, xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy
con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị
phải hơi dơ bẩn vậy” [73, tập 1, tr.50], tác giả đã bày tỏ, mở mang quan điểm
truyền thống về nước một cách mạch lạc rõ ràng. Trong bài viết “Hồng học
tâm bệnh : tiếp cận Hồng lâu mộng từ góc nhìn phân tâm học”, tác nhà
nghiên cứu Ming – Donggu cũng tóm lược quan điểm Freud, C. Jung, Luce
Irigaray, so sánh sự hiểu biết về bản chất người nữ của Bảo Ngọc với các nhà
phân tâm học hiện đại và chỉ ra rằng: “họ thấy mối quan hệ phức tạp và gây
tranh cãi giữa nước (thể lỏng) và thiên tính nữ” [119]. Từ đó, giáo sư Văn
học và Ngôn ngữ của đại học Texas nhận định: “những lời lẽ của Bảo Ngọc
cho thấy trực giác tiềm thức của cậu đã nhận ra nước như một vương quốc bí
ẩn tính nữ: phụ nữ như nước, như biển cả giàu sinh khí, như nguồn khí huyết,
nguồn sữa, nước ối và những nguồn dưỡng chất khác” [121].
Trong Hồng lâu mộng “nữ nhi là nước” và “nước là nữ nhi” đã có quan
hệ đặc biệt trong việc sắp xếp nhằm thể hiện ý đồ sâu xa của nhà văn. Người
nữ là nước bởi họ có đầy đủ các phong thái mà nước trong tự nhiên có. Không
chỉ dung mạo thể thái của người phụ nữ, vẻ đẹp về tính tình phẩm cách cũng
hóa thành ý tưởng từ nước, mà vận mệnh và thanh xuân, tình cảm và nỗi buồn
đều dung hòa vào một dòng trong lành thuần khiết, mềm mại uyển chuyển.
Lâm Đại Ngọc - nữ nhi tiêu biểu nhất trong Đại Quan Viên đứng đầu về cảnh
giới về thẩm mỹ, mang thái độ phong lưu và vẻ đẹp tự nhiên như nước. Tiền
thân của Đại Ngọc là Giáng Châu tiên thảo bên bờ Tam Sinh Thạch của sông
Linh Hà. Vì được Thần Anh ở trong Xích Hà Cung tắm nước cam lộ mỗi
ngày, để tuổi thọ được kéo dài, lại nhận được tinh hoa trong trời đất để tu
luyện được thân thể người con gái nên dòng máu chạy trong người nàng chính
80
là nước cam lộ. Cam lộ là tinh túy nhất của nước, Giáng Châu tiên thảo sống
nhờ vào nước cam lộ nên kiếp sau mặc nhiên sinh ra vẫn là một người tài sắc.
Nếu như Vưu Tam Thư trong lúc nói chuyện đôi mắt trông “như nước mùa
thu” [73, tập 4, tr.113] thì Đại Ngọc lại có “đôi lông mày điểm màu khói lạt,
dường như cau mà lại không cau” [73, tập 1, tr.76 ]. Lông mày cô nhạt như
làn khói, uốn lượn như dòng chạy của nước; đôi mắt của Tiêu Tương phi tử
đong đầy tình cảm, lấp lánh và dịu dàng như sóng nước; những giọt nước mắt
đọng trên mí mắt giống như những sọc vằn trên cây trúc cạnh bờ suối nơi
Tiêu Tương Quán, lại giống như những giọt sương trên những sớm trên lá
sen. Với việc lấy nước để ví với đôi mắt, nước mắt và cơ thể người nữ, Tào
Tuyết Cần dần dần đã mở rộng ý nghĩa biểu tượng về nước trong truyền
thống.
Mượn cái nhìn của Bảo Ngọc, Cần Khê đã tả phong thái của cô gái họ
Lâm: “Vẻ thư nhàn, hoa rọi mặt hồ; dáng đi đứng liễu nghiêng trước gió”
[73, tập 1, tr.76]. Điều đó không chỉ nói lên đặc điểm của Lâm Đại Ngọc
giống như những đóa hoa phù dung sống trong nước, đón lấy sương sớm mà
sống, nó còn như vẽ ra vẻ uyển chuyển như làn sóng nước của cô. Trong ngày
“Viện Di Dồng, chị em mở yến tiệc” (hồi 63), Đại Ngọc đã rút lấy quẻ “phong
lộ thanh sầu” của hoa phù dung. Hoa phù dung mộc mạc thuần khiết, có
những đặc trưng sinh sống thần bí trong nước, giống với bản chất tốt đẹp của
Đại Ngọc. Người ta dường như có thể nhìn thấy một hình bóng như lướt trên
sóng nước trong con người của Đại Ngọc. Trong số các cô gái sống trong Đại
Quan Viên, chỉ có Đại Ngọc là đến từ Dương Châu (vùng Giang Nam sông
nước), sau đó ngồi thuyền ngược dòng nước mà đến, và cũng độc nhất với
danh hiệu Tiêu Tương phi tử. Tên hoa cũng gắn liền với hàm ý nước: “Ngoại
trừ cô ấy ra, thì không còn có ai đáng làm hoa phù dung nữa” [73, tập 4,
tr.66]. Tiền kiếp của Lâm Đại Ngọc nhờ nước cam lộ mà tái sinh, nhờ tinh
hoa của đất trời mà sống, cũng giống hoa sen sống trong nước mà đón lấy
81
sương để sống.
Qua những phân tích ở trên, chúng ta có thể nói rằng: với Tào Tuyết
Cần, nước là biểu tượng cho vẻ đẹp toàn mỹ nhất của tự nhiên và Lâm Đại
Ngọc là cô gái thuần khiết nhất, hình tượng hoàn mỹ nhất của người phụ nữ.
Tuy coi nước là nguồn gốc của nữ giới và dù không có cái nhìn giai cấp
trong đánh giá về người phụ nữ, nhưng trong quan niệm của mình, Tào Tuyết
Cần vẫn có sự phân biệt khá rõ ràng. Suy nghĩ của nhân vật Giả Bảo Ngọc đã
giúp ông nói lên điều đó. Cậu Bảo dành tình yêu thương vô bờ bến cho những
cô thiếu nữ, ghét những người phụ nữ đã có chồng. Phải chăng là vì Bảo
Ngọc cho rằng khi lấy chồng thì nhan sắc của người phụ nữ không còn như
hồi con gái nữa? Thật ra, xuất phát điểm từ những gì đã mặc định trong tâm
thức, Bảo Ngọc vốn đã cho rằng “xương thịt con gái là do nước kết thành”.
Do vậy, khi đã lấy chồng, họ sẽ chung đụng với bùn nhơ (đàn ông) nên cũng
bị lây cái dơ bẩn ấy sang. Mặt khác, khi có gia đình, người phụ nữ dễ biến
thành kẻ có thói hư tật xấu, “đã trở thành hạt châu chết”, hóa ra ba bốn dạng,
không còn được như thời con gái nữa.
Ý nghĩa của biểu tượng nước bao gồm sự thuần khiết và sự sống mới.
Cũng giống như một số vật tàn lưu lại, nó vượt qua hết giới hạn của thời gian,
nó ẩn nấp trong quan điểm chung về nước của người Á đông. Với sự sáng tạo
của Tào Tuyết Cần, biểu tượng nước trong tác phẩm của ông được đưa đến
một xuất phát điểm cao hơn. Qua đó, nhà văn lật ngược lại thứ tôn ty trật tự
"trọng nam khinh nữ" của xã hội phong kiến, trở thành một trong những
người đi tiên phong về vấn đề nữ quyền.
3.2.1.2. Biểu tượng nước - cái đẹp tinh khiết, sạch sẽ
Bởi quan niệm xương thịt người nữ là do nước kết thành nên Bảo Ngọc
“Hai chữ “nữ nhi” đối với tôi rất tôn quý, rất trong sạch không gì sánh kịp,
hơn cả Phật Di Đà và Ngọc Đế. Các người là hạng thối mồm thối miệng, chớ nông
mới nói rằng:
82
nổi coi thường hai chữ ấy. Khi nào cần nói đến, các người phải lấy nước chè thơm
súc miệng kỹ rồi đã rồi mới được nói; nếu mà nói bậy sẽ bị bẻ răng, khoét mắt” [73,
tập 1, tr.56].
Tính chất tinh khiết của biểu tượng nước trong Hồng lâu mộng được thể
hiện không chỉ ở tính cách mà còn cả ở tâm hồn trong sạch của những thiếu
nữ trong tác phẩm.
Các cô gái trong Đại Quan Viên đều yêu sự sạch sẽ. Chính Giả mẫu
còn nhận xét về mấy đứa cháu của mình: “bọn chị em nó không thích đông
người đến chơi đâu, vì sợ bẩn nhà” [73, tập 2, tr.356]. Trong số các tiểu thư
phủ Giả thì Đại Ngọc là người ưa sạch sẽ nhất thế nên bà ngoại của cô mới
mắng yêu rằng: “con cháu Ba còn khá, chỉ có hai cháu Ngọc là đáng ghét”
[73, tập 2, tr.356].
Màn Đại Ngọc chôn hoa diễn ra ở hồi hai mươi ba, lúc Bảo Ngọc và các
tiểu thư trong thập nhị thoa vừa mới bắt đầu cuộc sống của họ trong thế giới
Đại Quan Viên lý tưởng không chỉ lãng mạn mà còn thể hiện quan niệm về sự
thanh sạch của cô. Khi Bảo Ngọc đề xuất ý kiến mang hoa thả xuống nước thì
“Thả xuống nước không được đâu. Anh tưởng nước ở đây sạch à? Khi chảy đến
chỗ gần nhà người ta ở, thì nước chứa đủ hôi thối, vẫn làm hoa dơ bẩn. Ở gò đằng
kia tôi đã đào một cái mả để chôn hoa. Nay ta quét hết, bỏ vào cái túi này, đem đến
đấy chôn. Hoa lâu ngày hóa ra đất, như thế chẳng sạch hay sao?” [73, tập 2, tr.50].
Đại Ngọc cười đáp:
Theo cô, trong vườn Đại Quan là thanh sạch, nhưng ra khỏi vườn này là
hôi thối rồi. Chôn hoa lại trong vườn, để cho hoa tan vào trong đất vườn, như
vậy mới có thể giữ cho thanh sạch mãi mãi. “Hoa” ở đây lẽ tự nhiên tượng
trưng cho các cô gái trong vườn thế nên đương nhiên, bản thân Đại Ngọc
cũng là một người thanh sạch. Cô cho đàn ông là bọn con trai thối, “xú nam
nhân” nên trừ Bảo Ngọc ra, nàng khinh nhờn những đồ mà bọn con trai đã
đụng chạm đến. Hồi mười sáu, khi Đại Ngọc vừa cùng Giả Liễn từ Giang
Nam về, Bảo Ngọc trịnh trọng đưa cho cô chuỗi ngọc thơm mà Bắc Tĩnh
83
Vương đã tặng từ trước, nhưng cậu không ngờ cô em họ lại phản ứng dữ dội.
Đại Ngọc vứt trả và nói: “Cái thứ mà hạng con trai hôi hám đã cầm rồi, tôi
không nhận đâu” [73, tập 1, tr.278]. Đó là hành động biểu thị cho lòng kiên
quyết bảo vệ cho sự trinh trắng của thiếu nữ. Đến khi sắp lìa xa cõi đời, Tiêu
Tương phi tử còn trăn trối lại cho Tử Quyên rằng: “Em ơi, thân ta vốn trong
sạch, thế nào em cũng bảo họ phải đưa ta về!” [73, tập 5, tr.360]. Vậy là cả
cuộc đời nàng, từ khi còn sống cho tới lúc chết, nàng vẫn luôn cố gắng giữ gìn
sự trong trắng, thanh khiết, không muốn những cảnh ô trọc, những con người
tàn nhẫn làm ô uế con người mình.
Trong Đại Quan Viên, có lẽ ni cô xinh đẹp trẻ tuổi Diệu Ngọc là người
có tính sạch sẽ nhất. Ngày thường nước mà cô uống chính là nước mưa và
tuyết lấy trên hoa mai. Nói là nước mưa nghĩa là nó lấy từ không trung, mà
nước mưa đó phải được cách ly sao cho tinh khiết; tuyết thì được lấy trên hoa
mai, nó lấy từ thiên nhiên nên càng tinh khiết. Diệu Ngọc khác hẳn với các cô
gái còn lại, cô yêu cầu về độ tinh khiết vượt qua cả Đại Ngọc. Tính cách sạch
sẽ của Diệu Ngọc được thể hiện rõ nhất ở hồi bốn mươi mốt của Hồng lâu
mộng. Ở hồi này, Giả mẫu đưa già Lưu cùng Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Bảo Thoa
đến am Lũng Thúy uống trà. Dưới con mắt của người ni cô trẻ, Lưu lão lão là
tục khách (không hẳn là phân biệt giai cấp) nên sau khi pha trà cho Giả mẫu
và bà lão đi cùng uống, cô liền kéo Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa sang
buồng bên cạnh, nấu riêng nước trà cho bọn họ và Bảo Ngọc uống. Cái chén
sứ Châu Thành rót trà mời già Lưu uống, nàng sợ bẩn, không lấy lại, cũng
không muốn nói chuyện với bà ấy. Khi Bảo Ngọc lòng đầy thường cảm, xin
chiếc chén đó cho bà lão nhà quê thì Diệu Ngọc thẳng thắn nói rằng: “May tôi
chưa uống đến cái chén ấy bao giờ. Đã uống rồi thì tôi đập đi, không khi nào
đem cho bà ấy. Cậu muốn cho bà ấy, xin mang ngay đi” [73, tập 3, tr.15].
Khách rời am Lũng Thúy ra về, Diệu Ngọc không những không giữ lại mà
còn muốn dùng nước sạch tẩy uế. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, mấy cậu hầu
84
nhỏ của Bảo Ngọc gánh nước để Diệu Ngọc rửa nhà cũng chỉ “để ở chân
tường ngoài cửa thôi” [73, tập 3, tr.15] chứ không được mang vào trong nhà.
Có những chi tiết ấy chúng ta mới thấy được vị ni cô trẻ, xinh đẹp này tính
tình sạch sẽ tới mức nào. Cô miệt thị đám tục khách chốn hồng trần như vậy
càng chứng tỏ cô là người trong sạch, thanh khiết. Thế nhưng người con gái
thanh sạch đệ nhất trong thế giới lý tưởng Đại Quan Viên lại là người lưu lạc
vào chốn ô uế nhất của thế giới hiện thực như lời phán từ về cô trong “Kim
Lăng thập nhị kim thoa chính sách”:
“Muốn sạch mà không sạch.
Rằng không chửa hẳn không.
Thương thay mình vàng ngọc,
Bùn lầy sa vào trong”.
[73, tập 1, tr.108].
Nhưng, dù nước mưa có trong suốt đến đâu khi rơi xuống đất cũng trở
nên đục, tuyết dù trắng đến đâu thì dính đất cũng không còn trắng nữa, chẳng
phải là “phong trần hàng tang vi tâm ý?” Diệu Ngọc phút cuối cũng lún
xuống bùn đất, có tắm gột cũng không sạch.
Kì thực Bảo Ngọc gần gũi các các thiếu nữ chẳng qua chỉ vì anh ta tìm
thấy ở họ những tâm hồn trong sạch, những nhân cách cao thượng chưa
hề bị công danh, phú quý đầu độc. Chàng cho rằng “đến cả chị em trong lầu
son gác tía cũng lây phải thói xấu ấy, thực là phụ cái ơn chung đúc khí thiêng
liêng của trời đất!” [73, tập 2, tr.267]. Ở hồi ba mươi hai và hồi ba mươi sáu,
Tương Vân và Bảo Thoa khuyên Bảo Ngọc nên đọc nhiều một chút những
cuốn sách kinh bang tế thế thì Bảo Ngọc lập tức nói với Tương Vân: “nhà tôi
đây thực sự làm nhơ bẩn đến những điều trị nước giúp dân ấy” [73, tập 2,
tr.208], rồi trả lời Bảo Thoa: “Các cô là hạng con gái trong sạch mà cũng học
lối mua chuộng hư danh, theo hùa với bọ giặc nước và bọn quỷ ăn lộc” [73,
tập 2, tr.266]. Đồng thời chàng khen ngợi Đai Ngọc - người mà trước giờ
85
không dùng những từ ngữ “nhảm nhí” như vậy, không bao giờ lấy học hành
đỗ đạt ra làm quan để bình phẩm về giá trị của một con người. Cái gọi là "lời
nhảm nhí" ở đây chính là lời khuyên "học hành đỗ đạt", "lập thân dương
danh" của Bảo Thoa. Đại Ngọc thì ngược lại - Bảo Ngọc coi văn bát cổ chỉ là
"cần câu cơm" thì Đại Ngọc cũng ghét cay ghét đắng nó. Bảo Ngọc coi bọn
quan lại là "mọt ăn lộc" thì Đại Ngọc gọi chúng là "trai thối" (xú nam nhân).
Mặt khác, nếu như tình cảm mà Đại Ngọc dành cho Bảo Ngọc là hoàn toàn
trong sáng, thuần khiết thì điều mà Bảo Thoa muốn chính là tranh thủ sự ủng
hộ của các bậc huynh trưởng để đạt tới vị trí mợ Hai trong phủ Giả. Tình yêu
của cô Bảo không phải xuất phát từ sự rung động của con tim mà đi từ lợi ích
gia thế. Điều đó đủ để nhìn thấy sự thuần khiết của Đại Ngọc, vượt xa cảnh
giới của người thường, và cũng đem tâm hồn và ý thơ của Đại Ngọc nâng cao
đến cực điểm. Cũng như Bảo Ngọc, Đại Ngọc thương cảm man mác trước số
phận bi thảm của Kim Xuyến, Tình Văn và căm ghét sự độc ác của Vương
phu nhân, sự giả dối của Bảo Thoa và Giả Mẫu. Cô giàu lòng tự trọng và kiên
quyết bảo vệ sự thuần khiết của tâm hồn. Sự trong sạch trong tâm hồn và
phẩm cách của nữ nhi trong Đại Quan Viên có lẽ không ai có thể vượt qua
được Lâm Tiêu Tương. Điều đó có nguồn gốc sâu xa. Thứ nhất, tiền kiếp của
nàng là cây cỏ Giáng Châu ở Xích Hà cung, được Thần Anh dùng nước cam
lộ bón tưới – loại nước chỉ tồn tại ở những trạng thái tinh khiết, thanh sạch
nhất, nhờ đó mà sống sót, tu luyện thành người con gái. Ở hồi sáu mươi ba,
Đại Ngọc chơi tửu lệnh và rút được thẻ vẽ một cành hoa phù dung có đề bốn
chữ “sương gió buồn tênh” là thứ hai. Hoa phù dung ở đây chính là thủy phù
dung – một tên gọi khác của hoa sen, không phải là mộc phù dung trên cạn.
Hoa sen không chỉ đẹp bởi hoa lá và hương mà còn bởi đặc trưng sống nơi
bùn lầy mà vẫn không nhiễm mùi hôi tanh. Hoa sen sống ở nơi đó chính là
hình tượng trong sạch, thanh khiết của Lâm Đại Ngọc. Trong bài “Táng hoa
từ”, Đại Ngọc có viết về bản thân mình:
86
“Thân kia trong sạch muôn vàn,
Đừng cho rơi xuống ngập tràn bùn nhơ” [73, tập 2, tr.123].
Qua những phân tích ở trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng: “phẩm
cách cao thượng và hình tượng thanh khiết của hoa sen đúng thực chỉ thích
hợp với Lâm Đại Ngọc mà thôi” [82, tr.33].
Nếu như trong Hồng lâu mộng, chúng ta gặp một Đại Ngọc – cô gái có
tâm hồn thanh sạch nhất trong số những tiểu thư sống trong Đại Quan Viên;
một ni cô Diệu Ngọc coi thường, miệt thị những kẻ quyền quý chốn hồng
trần; một Uyên Uơng dứt khoát cự tuyệt làm vợ lẽ của Giả Xá, lấy cái chết để
bảo vệ sự trong trắng của người con gái trong cảnh bùn nhơ và để giữ gìn sự
cao quý trong nhân cách con người, thì Tình Văn cũng là a hoàn tiêu biểu
mang vẻ đẹp tinh thần thanh sạch ấy. Tình Văn và Tập Nhân đều là những
người hầu xinh đẹp, phục vụ cậu chủ của mình (Giả Bảo Ngọc) tận tình và
đều có tình cảm với Bảo Ngọc. Tuy nhiên, tình cảm của Tình Văn so với Bảo
Ngọc là hoàn toàn trong sáng, không có những tính toán vụ lợi như Tập Nhân.
Tập Nhân sau khi cùng Bảo Ngọc diễn lại những gì Tiên Cô đã dạy nơi ảo
cảnh thì mối quan hệ giữa hai người trở nên thân thiết, gắn bó hơn, ngay cả
cách đối xử của Bảo Ngọc với cô cũng đặc biệt hơn những người khác. Đến
hồi ba mươi sáu, Vương phu nhân công khai tăng lương tháng cho Tập Nhân
từ hai lạng bạc lên “hai lạng và một quan tiền”, “hễ dù Triệu và dì Chu được
hưởng cái gì, thì Tập Nhân cũng được hưởng cái ấy” [73, tập 2, tr.271]. Điều
này theo thực tế mà nói thì Tập Nhân được xem như một người thiếp của Bảo
Ngọc. Bởi sự tin tưởng của Vương phu nhân nên cô gái họ Hoa luôn giữ
khoảng cách với cậu Bảo, mọi việc hầu hạ đêm hôm vẫn chỉ là Tình Văn. Nếu
có chuyện gì thì Tập Nhân vô can và Tình Văn là người mang tiếng nhất. Tập
Nhân ngoan ngoãn, phục tùng và cũng đầy tính toán ấy luôn làm theo ý sắp
đặt của Vương phu nhân và Giả mẫu, chờ ngày chính thức được ăn ở với Bảo
Ngọc, làm vợ lẽ của chàng. Với tâm tư trong sáng đẹp đẽ, Tình Văn rất khinh
87
bỉ và thường nói bóng gió Tập Nhân khi biết nàng có quan hệ tình ái với Bảo
Ngọc để nâng cao địa vị bản thân. Tuy là thân phận a hoàn, song cô có ý thức
rất rõ ràng về giá trị của của mình, không bao giờ coi nhẹ mình để dan díu hay
nịnh nọt ai, không bao giờ lộ vẻ mặt đưa tình như kẻ nô lệ . Tính nết nàng
mạnh mẽ , căm ghét hiện tượng tàn ác bất công , có gì nói nấy , thẳng thắn,
nhiệt tình nồng nàn, bỏng cháy. Cô cũng không bao giờ khuyên Bảo Ngọc
học hành, khoa cử như Tập Nhân và luôn dốc lòng ủng hộ cậu chủ của mình.
Thế nhưng một người ôm ấp mối tình riêng mà chưa bao giờ ngỏ ý với Bảo
Ngọc như Tình Văn lại bị mang tiếng là cám dỗ cậu chủ để rồi bị đuổi khỏi
vườn Đại Quan và chết trong oan ức và tủi hờn. Bởi trân trọng một người con
gái thanh khiết như Tình Văn mà sau khi cô chết, Bảo Ngọc đã làm bài “văn
tế cô phù dung” và viết rằng: “Nhớ lúc bình sinh, chất thì cao quý, vàng ngọc
cũng thua; thân lại trắng trong, tuyết băng khôn sánh. Tinh thần sáng suốt át
cả mặt trời, ngôi sao,…” [73, tập 4, tr.399].
Nếu như trong văn học truyền thống, để nói về đặc điểm, tính cách của
con người, thi nhân thường dùng sự vật để tượng trưng cho người thì đến Tào
Tuyết Cần, ông đã làm ngược lại. Sáng tạo trong cách xây dựng biểu tượng
nước của văn sỹ họ Tào chính là ở chỗ: nhà văn đã dùng tính cách, phẩm giá
của của người phụ nữ để nói tới đặc trưng, ý nghĩa của nó. Trong cả bộ truyện
Hồng lâu mộng, rất hiếm thấy tác giả dùng nước để nói về tính cách của
người phụ nữ. Với vai trò là nhân vật lý tưởng, cái loa phát ngôn của tác giả,
nhân vật Giả Bảo Ngọc luôn tâm niệm hai chữ “nữ nhi” với cậu “rất trong
sạch”. Mà nữ nhi có nguồn gốc từ nước, thế nên những phẩm chất của nữ nhi
cũng chính là đặc trưng của nước. Theo đó, các cô gái trong Hồng lâu mộng
thanh sạch từ trong cung cách sinh hoạt thể chất hàng ngày cho tới tâm hồn
thì đương nhiên, nước cũng là dạng vật chất sạch sẽ, tinh khiết nhất trong thế
giới vật chất. Xuất phát từ ý niệm nước có đặc tính thanh sạch trong văn hóa
truyền thống và văn hóa thế giới, lấy nó làm bệ phóng nhưng đồng thời, Tào
88
công cũng làm khác đi. Điều đó khiến những ý nghĩa của biểu tượng nước
trong sáng tác của ông còn đi xa hơn, mới mẻ và độc đáo thể hiện tư tưởng
tiến bộ của nhà văn.
3.2.2. Biểu tượng nước và tư tưởng “sùng âm ức dương” trong Hồng
lâu mộng
Tào Tuyết Cần quan niệm nước là biểu tượng cho tất cả những gì toàn
mỹ nhất trong tự nhiên. Cũng bởi thể, trong Hồng lâu mộng, đâu đâu chúng ta
cũng thấy thấy thoáng hình bóng của nước, thể hiện niềm yêu mến tới mức
tôn sùng tuyệt đối của nhà văn.
Xây dựng nhân vật Bảo Ngọc với cách sống, lối suy nghĩ, hành động trái
với tư tưởng của xã hội phong kiến, Tào Tuyết Cần như gián tiếp muốn bày tỏ
với độc giả thái độ trân trọng người phụ nữ của mình, đề cao họ một cách
khác thường.
Nếu như xã hội phong kiến quan niệm “trọng nam khinh nữ” thì Bảo
Ngọc lại lật ngược lại quan điểm đó. Cậu đề cao phụ nữ một cách khác
thường và chỉ khi ở bên họ, cậu mới thực sự cảm nhận được sự trong sạch,
chân thật của cuộc đời. Bởi vậy, cậu có một tình yêu tha thiết đối với con
người, mà đặc biệt là người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến tàn bạo và
hà khắc. Bảo Ngọc quan tâm đến tất cả những trước người con gái trong phủ
Giả, không phân biệt chủ tớ, quan tâm và yêu mến hết thảy . Bảo Ngọc không
chỉ yêu mến , lòng cảm thông cho những người con gái thuộc tầng lớp mình
mà còn luôn đau đáu cho những số phận nữ nhi là kép hát, con đòi đứa ở. Với
Bảo Ngọc, tầng lớp xuất thân của người phụ nữ hay vị trí giai cấp của họ trở
nên thứ yếu. Chàng trân trọng hết thảy và yêu thương tất cả . Khác với những
người trong phủ Giả, Bảo Ngọc yêu quý các a hoàn và muốn giúp đỡ họ. Ở
hồi ba mươi , khi thấy Linh Quan (người trong số mười hai cô học hát ) ngồi
ngây người vạch đi vạch lại m ấy mươi lần chữ “tường” dưới mưa , Bảo Ngọc
thương cảm. Khi Tập Nhân vô tình bị cậu đá vào bụng, cả đêm mỏi mệt nằm
89
trên giường, Bảo Ngọc đã rất lo lắng, phục dịch, chăm sóc cô hầu cả đêm (hồi
31). Tình Văn thích nghe tiếng xé quạt nên để a hoàn bậc nhất được vui cười
thoải mái, chàng sẵn lòng đem cả hộp quạt của mình ra cho cô xé (hồi 31).
Đến hồi bốn mươi hai, cái chết của Kim Xuyến khiến trong lòng Bảo Ngọc áy
náy, day dứt khôn nguôi. Bởi ngày sinh nhật của Phượng Thư trùng với ngày
sinh nhật của Kim Xuyến nên bỏ mặc sau lưng không khí vui vẻ, náo nhiệt
của phủ Giả, từ sáng sớm, chàng đã cùng Dính Yên lên ngựa ra khỏi thành để
viếng oan hồn người con gái xấu số này. Khi Tình Văn vì oan u ổng và bệnh
tật mà chết, Bảo Ngọc cũng ph ải mất một thời gian dài để nguôi ngoai tình
cảm vốn gần gũi, thân thiết với cô. Không những thế, cậu Bảo còn làm văn tế
cho cô. Thật hiếm có người chủ nào lại đối xử với đầy tớ như vậy ! Ở hồi sáu
mươi hai, ta thấy được suy nghĩ của chàng về con người Hương Lăng:
“Đáng tiếc con người như thế không có bố mẹ, quên cả họ hàng, bị người ta
dỗ đi, lại đem bán cho hạng vũ phu ấy” [73, tập 4, tr.51]. Tất cả những điều
ấy đều thể hiện Bảo Ngọc là một con người sống có tình, có nghĩa, thực sự
yêu thương, trân trọng những người ở chốn khuê phòng.
Có thể nói, đối lập với những kẻ chỉ biết chơi bời, gây họa như Tiết Bàn,
vũ phu như gã họ Tôn – chồng của Nghênh Xuân, dâm ô như cha con Giả Xá
– Giả Liễn, Bảo Ngọc là người đàn ông duy nhất trong phủ Giả thật sự trân
trọng, thương yêu những thân phận nữ nhi. Tình cảm đó xuất phát từ một trái
tim biết yêu thương, trân trọng và nâng niu cái đẹp mong manh của người nữ,
hoàn toàn trái với những suy nghĩ, định kiến của những bậc trưởng bối trong
phủ Giả và xã hội bên ngoài. Sống trong xã hội trọng nam khinh nữ đầy khắc
nghiệt, ngay cả phụ nữ cũng không thể cảm thông, bảo vệ lẫn nhau, thì chỉ có
Bảo Ngọc là người “chăm chút giới phấn son, săn sóc đám quần thoa, nguyện
làm viên quan lặng lẽ giữa chốn muôn hoa, thề giữ giới hạnh trong rừng
hương sắc, tình thương và ân trạch của chàng thấm sâu vào máu thịt bọn họ”
[82, tr.6].
90
Dường như cảm thấy tiếng nói của Giả Bảo Ngọc vẫn chưa đủ để làm rõ
thái độ trân trọng đặc biệt với nữ giới của mình, bởi vậy, rải rác trong tác
phẩm, Tào Tuyết Cần luôn cố gắng làm rõ thiên hướng thẩm mỹ của các nhân
vật nữ, coi đó là một cách để bản thân thể hiện thái độ trân trọng, yêu quý
những người trong đám quần thoa. Tuy rằng mỗi thiếu nữ đều có một tính
cách khác nhau nhưng nhìn chung, các cô gái đều yêu thích cái đẹp và biết
làm đẹp cho cuộc sống của mình. Gảy đàn, làm thơ, bình thơ, vẽ tranh, ngắm
trăng, thưởng hoa, thưởng trà, thưởng tuyết, xem kịch… là những thú vui
thường xuyên diễn ra trong Giả phủ mà phần lớn người khởi xướng và tham
gia là các tiểu thư chứ không phải là đám mày râu. Thám Xuân là người mở
hải đường thi xã, Lâm Đại Ngọc đứng ra mở thi xã đào hoa và nhiều vần thơ
vịnh cúc, vịnh mai, vịnh hải đường, vịnh cua hay những câu thơ tức cảnh tại
am Lũng Thúy, những vần thơ nối nhau tại ao Tinh Quán của các cô gái trong
Đại Quan Viên (hồi 50, hồi 76). Bởi nước là nguồn gốc của tất cả các cô gái
nên Giả Bảo Ngọc luôn tôn trọng, ngưỡng mộ, yêu quý, giống như năm xưa
Thần Anh đã quan tâm Giáng Châu tiên thảo vậy. Anh ta thành tâm bảo vệ
những viên ngọc thuần khiết, nữ nhi như nước linh lợi và thanh tú, và từ trong
tận đáy lòng hy vọng họ sẽ mãi giữ được những gì mà tạo hóa, nhật nguyệt
hun đúc mà thành.
Với Tào công, những người phụ nữ ở tầng lớp dưới tuy thân phận thấp
hèn nhưng mỗi người lại có phẩm chất tốt đẹp riêng. Thế nên dù là người hầu
nhưng Uyên Ương vẫn được xếp vào hàng hựu phó sách. Đến cả một bà lão
nông dân như già Lưu cũng được tác giả dành cho nhiều ưu ái. Tuy là người
đàn bà quê mùa, mù chữ, thô kệch, nực cười nhưng Lưu lão lão lại mang sức
sống bền bỉ, thấu hiểu đạo lý làm người, có trước có sau, khác hoàn toàn với
những kẻ cơ hội, vô ơn như Giả Vũ Thôn hay Giả Vân. Cái nhìn không có sự
phân biệt về đẳng cấp ấy của Giả Bảo Ngọc và Cần Khê thực sự tiến bộ và
vượt xa thời đại mà ông đang sống.
91
Có thể nói, trong Hồng lâu mộng, người phụ nữ luôn được ngợi ca, đề
cao và ngược lại, người nam luôn bị phê phán. Nhìn tổng thể kiệt tác Hồng
lâu mộng, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng Tào Tuyết Cần tập trung phần lớn
bút lực miêu tả các nhân vật nữ và dành ưu ái cho các thiếu nữ. Trong mắt
ông, ai trong số họ cũng là những người có nhan sắc hiếm thấy trên đời. Mỗi
người một vẻ, những nét đẹp về ngoại hình của họ khiến cho đào thẹn, hạnh
nhường, yến oanh ghen tỵ, thật khó tìm lời lẽ nào có thể tả hết được. Ngay từ
lần đầu tiên Lâm Tiêu Tương đặt chân vào Giả phủ, Bảo Ngọc đã sững sờ
trước vẻ yêu kiều, yểu điệu mà toát lên thần thái đẹp “bệnh hoạn” (bệnh thái
mỹ) của cô: “Đôi con mắt chứa chan tình tứ, dường như vui mà lại không
vui… Người hơi mệt trông càng tha thướt…” [73, tập 1, tr.76 ]. Bảo Thoa là
tiểu thư có nhan sắc tuyệt vời, trẻ trung mà đài các với: “da mặt nõn nà, khóe
mắt ong lanh, không đánh sáp mà làn môi vẫn đỏ, không kẻ mày mà nét ngài
vẫn xanh, so với Đại Ngọc lại có vẻ phong lưu thùy mị riêng” [73, tập 2,
tr.148]. Sử Tương Vân không chỉ đẹp ở dáng người “thướt tha uốn éo, như
lưng ong mình vượn, dáng hạc hình ve” [73, tập 3, tr.172] mà còn ở chỗ: dù
cải trang thành bất cứ ai nàng cũng đều rất đáng yêu. Nếu như Tương Vân có
một dáng phong lưu khác thường, mang phong độ của một danh sỹ thì Thám
Xuân lại vừa có cái nhu mì, nữ tính, vừa lộ ra vẻ cương nghị, hào sảng của
nam nhi: “vóc dáng tròn trặn, người dong dỏng cao, mặt trái xoan, mắt sắc,
lông mày dài, nhìn ngắm tình tứ, thanh tú khắc thường, trông thoát hẳn trần
tục” [73, tập 1, tr.64]. Và trong Hồng lâu mộng còn rất nhiều người phụ nữ
khác mang vẻ đẹp hiếm thấy trong cuộc đời: Phượng Thư, Bình Nhi, dì ba họ
Vưu, Tình Văn,… mỗi người đều có nét đẹp riêng, để lại những ấn tượng khó
quên trong lòng độc giả.
Trong thế giới quan của văn sỹ họ Tào, đối lập với đám nam nhân trong
– ngoài phủ Giả bất tài, không chịu học hành, thậm chí một chữ bẻ đôi không
biết như Tiết Bàn, thì người phụ nữ không chỉ có diện mạo xinh đẹp khôn tả
92
mà còn là những cô gái xuất sắc, tài tình hiếm có trên đời. Đám nam nhân phủ
Giả Dù ít dù nhiều, họ đều biết chữ, làm thơ và thưởng thức thơ mà nổi bật
hơn cả là Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa. Đây là hai nữ nhân hay chữ, đọc
nhiều sách vở và giỏi làm thơ nhất trong số các nhân vật nữ trong Hồng lâu
mộng bởi họ được học chữ từ khi còn rất nhỏ. Hai người thay phiên nhau đoạt
giải trong các cuộc thi thơ, nhiều khi tài năng ấy không phải dễ dàng để phân
biệt cao thấp. Không chỉ am hiểu thấu đáo về thơ ca từ cổ tới kim, Lâm Tiêu
Tương còn đàn giỏi, thạo về cầm thư. Chỉ cần nghe nàng nói về những lý
thuyết cơ bản của nhạc lý, nguyên tắc chơi đàn cho Bảo Ngọc ở hồi tám mươi
sáu, chúng ta cũng đủ biết sự thông hiểu kiến thức gẩy đàn của Đại Ngọc đến
như thế nào. Nắm vững lý thuyết rồi, Tiêu Tương phi tử còn tự mình làm một
bài thơ, phổ nhạc để bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình. Diệu Ngọc ngoài tài
làm thơ xuất chúng còn am hiểu rất rõ về cầm thư. Chỉ cần nghe tiếng đàn của
Đại Ngọc, cô biết được Lâm tiểu thư đang gảy ở điệp thứ mấy, âm vận mà
Đại Ngọc đang gảy là gì mà không hợp với luật khiến cho “vàng đá phải nứt”
(hồi 87). Và đi xa hơn, chủ nhân của am Lũng Thúy nghe âm vận ấy có thể
tiên đoán được rằng Đại Ngọc khó lòng mà qua khỏi, cái chết sẽ đến với cô
trong nay mai. Hành Vu Quân không giỏi đàn như Lâm Tiêu Tương và Diệu
Ngọc nhưng lại rất am tường về lý luận thơ ca và hiểu biết sâu sắc về hội họa.
Tuy răn Đại Ngọc rằng “con gái không có tài ấy là đức” và không tán thành
việc con gái đọc sách, làm thơ nhưng chính nàng lại rất giỏi làm thơ và luận
thơ. Khi luận thơ, nàng thường đưa ra những kiến giải đặc sắc về nghệ thuật
thơ ca. Ở hồi ba mươi bảy, khi nói chuyện với Sử Tương Vân về việc làm thơ
như thế nào, Bảo Thoa đã đưa ra những kiến giải rất bổ ích: “Đầu bài thơ
không nên lắt léo quá… Nếu ra đầu bài lắt léo quá, hạn vần hiểm hóc quá,
thơ không thể nào hay được, có khi đâm ra gò bó, hẹp hòi. Thơ nên tránh
những chữ sáo, nhưng không nên quá cầu kỳ, cốt lập ý cho mới, thì lời thơ sẽ
không thô tục” [73, tập 2, tr.304]. Đến hội họa, nàng Tiết cũng tỏ ra rất sành
93
sỏi như con nhà nghề. Hành Vu Quân thành thạo từ giấy vẽ cho tới những
nguyên liệu, dụng cụ vẽ tranh, bố cục bức tranh,… Những hiểu biết của Bảo
Thoa khiến cho người ta phải cúi đầu ngưỡng mộ. Tích Xuân không có được
những am tường về hội họa như Bảo Thoa nhưng cô vẽ rất đẹp và cùng với
Diệu Ngọc, cô cũng là một tay chơi cờ tài giỏi. Chúng ta như thấy đâu đó
bóng dáng của một triết gia khi nghe Sử Tương Vân giảng giải về nguyên lý
âm – dương cho cô a hoàn Thúy Lũ. Lý Hoàn tuy không giỏi làm thơ, tài
năng sáng tác cũng tầm thường nhưng lại có năng lực giám định và thưởng
thức nghệ thuật rất cao. Chủ nhân của Đạo Hương Thôn luôn bình giá thơ ca
đúng chất lượng và luôn đưa ra những lời nhận xét công bằng, hợp lẽ khiến
mọi người phải tâm phục khẩu phục. Bởi vậy, Bảo Ngọc mới nói rằng: “Đạo
Hương lão nông tuy làm thơ không hay, những xem thơ rất tinh, rất công
bằng, lời phê của “ông” ai cũng phải phục” [73, tập 2, tr.292]. Đến cô a hoàn
như Hương Lăng cũng rất yêu thơ, và khi được Đại Ngọc chỉ dạy, càng tiến
bộ, nàng hầu của Tiết Bàn càng say sưa, chăm chỉ học tập.
Giá trị của những người phụ nữ ấy còn được Tào Tuyết Cần khẳng định,
đề cao khi nhà văn đặt họ vào vị trí của những người nội tướng trong gia đình.
Người đầu tiên mà chúng ta phải kể đến chính là Vương Hy Phượng – “bậc
anh hùng trong đám phấn son, ngay bọn con trai mũ cao áo dài cũng chẳng
hơn được” [73, tập 1, tr.233-234]. Không chỉ thông minh, lanh lợi, Phượng
Thư còn rất tự tin vào tài quán xuyến và cắt đặt công việc trong đại gia đình
của mình. Nếu như đa số phụ nữ phong kiến lấy chồng, sinh con sẽ sống nép
dưới bóng chồng, chỉ biết lấy việc chăm sóc con cái, thêu thùa may vá làm
niềm vui thì chị Phượng lại tháo vát trong việc quản lý cái đại gia đình mấy
trăm con người: vấn đề thu - chi, sắp xếp công việc trong nhà ngoài phủ,
chăm sóc những thành viên trong gia đình nhà chồng, làm vui lòng Giả
mẫu,… Bởi thế, vợ Chu Thụy mới đưa ra lời nhận định xác đáng: “Đối với
gia đình đồ sộ như thế này, chỉ có người biết lo lắng, tính toán như mợ mới
94
làm được thôi. Đừng nói là đàn bà không làm nổi, dầu cho hạng đàn ông ba
đầu sáu tay cũng chưa chắc đã chống đỡ được” [73, tập 5, tr.58]. Nếu như
Vương Hy Phượng đóng vai một nữ tướng có cái hăm hở, sôi sục khi ra trận,
dùng những lời lẽ chua ngoa, cay nghiệt để đối đãi với người thì ngược lại,
Bảo Thoa và Thám Xuân lại quán xuyến gia đình theo một cách khác. Chính
Phượng Thư còn đánh giá Thám Xuân là “khá cả trong lẫn ngoài”, kẻ dưới
khó lòng mà qua mặt được và dặn dò Bình Nhi làm việc cẩn thận bởi tuy là
tiểu thư nhưng việc gì chủ nhân của Thu Sảng Trai cũng hiểu thấu, lại là
người có học. Cùng với một người giúp trông nom việc nhà rõ ràng, minh
bạch như Thám Xuân, khi đau bệnh, Phượng Thư còn được Bảo Thoa đỡ đần.
Bảo Thoa quán xuyến mọi việc cứng rắn nhưng rất khéo léo khiến đám người
hầu kẻ hạ trong nhà từ trên xuống dưới đều nể phục chứ không phải oán ngầm
chủ nhân như đối với Phượng Thư.
Không dừng lại ở ca ngợi tài năng của nữ nhi, với Tào công, họ là còn là
những người trang nhã, thanh cao, đối lập hoàn toàn với đám nam giới thô
tục. Bởi “nhã luôn được gắn với thế giới nhân vật nữ, còn tục được gắn với
thế giới nhân vật nam” [58, tr.38-39] nên văn hóa thi thư, lễ, nhạc dành cho
nam nhi nhưng trong Hồng lâu mộng lại gắn với nữ giới. Ngay từ cách bày trí
tại nơi ở đã nói lên phần nào sự thanh nhã trong tính cách của các cô gái. Ở
hồi bốn mươi, già Lưu nhìn thoáng qua phòng của Đại Ngọc, chỉ thấy để toàn
sách vở, nghiên bút. Nơi ở của Thám Xuân càng cho thấy phong thái chững
chạc, ưu tú của nữ nhi với nghiên bút kết hợp với những bức họa, câu đối của
các bậc danh nhân Trung Hoa. Không bày biện nhiều đồ như phòng của Thám
Xuân, chỗ ở của Bảo Thoa chỉ bày những vật dụng đơn giản, thiết yếu khiến
cho người đặt chân vào Hành Vu Uyển sẽ có cảm giác đây là một nơi gọn
gàng, giản dị và thanh lịch như chủ nhân của nó. Mỗi người một cách thể hiện
khác nhau nhưng nhìn chung, họ đều ưa chuộng phong cách giản dị, đĩnh đạc
hơn là vẻ mỹ miều chốn khuê phòng. Đọc Hồng lâu mộng, chúng ta như thấy
95
thấp thoáng đâu đây hình ảnh của những thi sỹ thuộc dòng văn học nữ lưu của
nền văn học Nhật Bản thời Heian, mà nữ văn sỹ tài hoa Murasaki Shikibu với
Truyện Genji là tác giả, tác phẩm điển hình. Độc giả gặp ở kiệt tác văn xuôi
này rất nhiều nữ nhân tài mạo phi phàm mà các vương công quý tộc như
hoàng tử Genji và những người bạn của anh mơ ước có được và sẵn lòng theo
đuổi. Họ có học thức, viết chữ đẹp như rồng bay phượng múa, biết ca hát, chơi thành thạo đàn koto3, mỗi bức thư viết cho ai đó đều đề thêm một vài
dòng thơ gây xúc động lòng người. Đó là nàng Utsusemi (Lốt ve) yêu Genji
nhưng lại không muốn gắn bó thân thiết, vì không muốn chàng coi thường
mình, là quận chúa Hitachi, là thứ phi Fujitsubo và Waka Murasaki – cháu gái
mồ côi của Fujitsubo, nàng Asagao, nàng Aoi no Ue,… cùng rất nhiều người
phụ nữ khác cũng ưu tú không kém.
Là nữ nhi nhưng tài năng, tính cách và cuộc sống tinh thần của họ rất
phong phú và đầy ý vị, trái ngược hoàn toàn với đám nam nhân trong tác
phẩm, phần lớn là những kẻ thô tục, bất tài, chỉ biết ăn chơi, hưởng lạc, dâm
ô. Giả Kính đứng đầu phủ Ninh nhưng chỉ biết luyện đan cầu tiên, để mặc cho
con cháu lộng hành, hư hỏng. Cha con Giả Trân - Giả Dung đều không chú ý
gì tới chữ nghĩa hay sách thánh hiền, lấy cớ là tập bắn cung để luyện võ
nhưng thực chất là tổ chức đánh bạc quy mô lớn ở Thiên Hương Lầu (hồi 75).
Trong buổi yến tiệc mừng sinh nhật Giả Kính bên phủ Ninh, cha con Giả Xá
– Giả Liễn mang tiếng là đưa ban hát, đàn sáo ra Ngưng Hy Hiên để thưởng
thức âm nhạc nhưng kỳ thực là làm những trò bẩn thỉu (hồi 11). Tiết Bàn vô
học, một chữ bẻ đôi cũng không biết, nói năng, đối đáp thô thiển, chỉ biết gây
sự đánh nhau, giết người, cưỡng đoạt nữ nhi. Xây dựng sự đối lập rõ ràng
giữa tính cách thanh nhã, trong sạch của các nhân vật nữ với những kẻ nam
nhân phàm phu tục tử, nhà văn như muốn khắc sâu vào tâm trí người đọc
những tượng đài của những người tuy thân ở chốn khuê phòng mà giá trị của 3 Đàn sáu dây của Nhật Bản.
96
họ tỏa rộng ra, sánh cùng nhật nguyệt.
Nữ nhân trong Hồng lâu mộng đều gắn với một chữ “tình”, coi trọng chữ
“tình”. Họ đều là những nàng tiên ở cõi Thái hư ảo cảnh, bởi có mối nợ gió
trăng nên xuống trần để kết thúc tình duyên ấy. Ngoài tình bạn bè, tình chủ tớ,
nữ nhi trong tác phẩm đều nặng lòng với hai từ “ái tình”. Ái tình gắn với Đại
Ngọc từ tiền kiếp bởi mối tình “hoàn lệ báo ân” (dùng nước mắt để trả ơn)
giữa Giáng Châu tiên thảo với Thần Anh thị giả bên bờ sông Linh Hà ở Tây
Phương. Bởi vậy, khi trải qua kiếp “ảo duyên” chốn trần gian, cả cuộc đời cô
mắc víu vào một chữ “tình”. Mối tình với Giả Bảo Ngọc đem lại cho người đa
sầu, đa cảm như Đại Ngọc nhiều đau khổ, bi thương. Tình yêu với Bảo Ngọc
khiến cô rơi không biết bao nhiêu nước mắt, đôi lúc lại như thứ thuốc độc từ
từ giết chết tâm hồn cô, có khi lại như loại thần dược kỳ diệu khiến bệnh tình
của cô Lâm thuyên giảm bất thường gây kinh ngạc cho nhiều người (hồi 90).
Đại Ngọc vì tình yêu mà phải đến miếu bạc mệnh. Cuối cùng, Lâm Tiêu
Tương phải dứt mối tình si với Thần Anh, kết thúc món nợ ân tình để trở về
nơi ảo cảnh.
Cũng khao khát hạnh phúc lứa đôi, mong mỏi được sống với người mình
yêu nhưng cách thể hiện ái tình của dì Ba họ Vưu khác với Đại Ngọc. Do ở
hoàn cảnh khác, dì Ba không che giấu, không sợ hãi dư luận xã hội như cô gái
họ Lâm, chị ta mạnh dạn công khai tình cảm của mình dành cho Liễu Tương
Liên với tất mọi người: “Từ nay trở đi tôi ăn chay niệm phật, hầu hạ mẹ già,
chờ anh Liễu về tôi sẽ lấy; một trăm năm nữa anh ấy không về, thì tôi đành
chịu đi tu” [73, tập 4, tr.127]. Vậy là chỉ gặp Ngọc Hàm một lần duy nhất
nhưng chị nguyện chờ đợi cả đời để được kết duyên vợ chồng với người mình
yêu. Bởi coi trọng chữ “tình” mà dì Ba khẳng khái lên án anh em Giả Trân,
Giả Liễn: “Anh đừng lấp lú ruột gan, tưởng chúng tôi không biết việc nhà các
anh hay sao? Lần này anh em nhà anh định vung một ít tiền thối ra, coi chị
em chúng tôi là hạng đĩ thõa để mua vui. Các anh đừng có nghĩ nhầm…” [73,
97
tập 4, tr.112]. Sau này, đầy khí tiết, cô lại rút gươm tự sát cũng vì cái xã hội
phong kiến gọi là “môn đăng hộ đối” mà người con gái ấy không lấy được
người yêu. Đến cả khi chỉ còn là một linh hồn mong manh tựa sương khói, dì
ba Vưu vẫn còn lưu luyến người tri kỷ vô vàn mà đi vào giấc mơ của Tương
“Thiếp vì si tình, chờ chàng đã năm năm rồi, không ngờ chàng lại lạnh nhạt như
thế. Thiếp đành lấy cái chết để báo lại mối si tình ấy. nay thiếp vâng mệnh cô tiên
Cảnh Ảo đến nơi Thái hư ảo cảnh để ghi tên một bọn ma tình đã có ở trong án. Thiếp
không nỡ chia tay ngay, nên đến đây để được gặp chàng lần cuối…. Thiếp lại từ trời
tình, đi từ đất tình. Kiếp trước đã lầm vì tình, kiếp này lại xấu hổ vì tình…” [73, tập
4, tr.135].
Liên để giãi bày hết tâm can:
Vậy là trong tình yêu, cả khi sống hay khi cận kề cái chết, dì Ba vẫn là người
phụ nữ đầy nghĩa khí.
Và còn rất nhiều người con gái khác nữa, họ si mê vì tình, đau khổ vì
tình và chết cũng vì tình. Diệu Ngọc bởi có tình với Bảo Ngọc mà cồn cào,
giằng xé tâm hồn. Tiểu Hồng vì chữ tình với Giả Vân mà thẹn thùng. Phương
Quan ngồi ngây dưới trời mưa vạch tên người yêu (Giả Tường). Tư Kỳ dám
yêu và dám chấp nhận tất cả vì tình yêu nên khi bị Phượng Thư lục soát đồ
đạc, thấy bức thư tình của Phan Hữu An gửi cho mình, cô “không nói gì và
cũng không có ý sợ hãi hổ thẹn” [73, tập 4, tr.302], sau đó dám đập đầu vào
tường vì không lấy được người mình yêu… Nếu như những người con gái ấy
đều sống bằng tấm chân tình của mình cho dù người yêu có bần hàn hay tình
yêu ấy không được người thân và xã hội cổ hủ ủng hộ thì họ vẫn lao vào lưới
tình ái vốn đầy hạnh phúc và nước mắt. Nhân vật Phan Kim Liên trong Kim
Bình Mai lại có những suy nghĩ và hành động hoàn toàn trái ngược lại với
những cô gái sống trong phủ Giả. Cô ta xinh đẹp, thông minh mà bị gả cho
một người vừa nghèo, vừa xấu xí như Võ Đại Lang nên từ lâu đã oán trách
cuộc đời, oán trách Trương Đại Hộ đã gả mình cho một kẻ như Đại Lang, dằn
vặt chồng bằng những lời than vãn… Cuối cùng, để được sống trong cảnh
98
giàu sang, phú quý và thỏa mãn nhục dục của bản thân, ả sẵn sàng cùng nhân
tình lập mưu giết chồng và chấp nhận trở thành vợ lẽ của Tây Môn
Khánh. Sau khi Tây Môn Khánh chết (hồi 80), cô ta cùng với người hầu gái
của mình là Bàng Xuân Mai (cũng là thiếp của Tây Môn Khánh) đi thông
dâm với Trần Kính Tế - con rể của Tây Môn Khánh. Cùng viết người phụ nữ
nhưng hai tác giả của Hồng lâu mộng và Kim Bình Mai lại đi vào những góc
khuất khác nhau trong tâm lý con người để độc giả nhận ra cái muôn màu
muôn vẻ của đời sống. Chính những nét tính cách đa dạng ấy mới làm nên
những hình tượng nữ nhi sống động, mang trong mình hơi thở của cuộc sống
như nó vốn có.
Như một cái đòn bẩy đưa người phụ nữ lên vị trí cao hơn, nổi bật hơn,
Cần Khê đã kỳ công xây dựng thế giới của đám nam nhân trong ngoài Giả
phủ bất tài, vô dụng, với thứ tình ái mang đậm màu sắc dục cảm. Giả Thụy
gặp Phượng Thư trong tiệc sinh nhật của Giả Kính bên phủ Ninh (hồi 11),
Tần Chung gặp Trí Năng trong am Mạn Đầu (hồi 15) để rồi cả hai phải trả giá
bằng mạng sống của mình vì đam mê sắc dục. Giả Trân thì có quan hệ bất
chính với nàng dâu Tần Khả Khanh, đến nỗi khi nàng ta chết rồi, trong đám
tang hắn thấy đau xót vô cùng, chỉ tiếc là không chết thay cho Tần thị được.
Trong đám tang Giả Kính, hai cha con giả Trân, Giả Dung lại có những hành
động vừa dâm ô, vừa bất hiếu, tranh thủ về chim chuột với dì Hai và dì Ba họ
Vưu. Không dừng lại ở đó, khi Giả Liễn đã cưới dì Hai về làm vợ, chúng lại
mò mặt tới định giở trò. Giả Xá tuy đã già nhưng vẫn nạp thêm nhiều nàng
hầu. Sau nhiều lần bị cự tuyệt, lão đã bức Uyên Ương làm thiếp ngay trong
đám tang của Giả mẫu khiến cô phải tự vẫn. Dòng máu ấy cũng chảy trong
con người giả Liễn – con trai trưởng của Giả Xá. Hắn có hai người phụ nữ
xinh đẹp, tài giỏi như Phượng Thư và Bình Nhi nhưng luôn cảm thấy chưa đủ,
đi tới đâu cũng tìm cách thỏa mãn dục vọng của mình. Chỉ hai ngày dọn ra
thư phòng ở riêng, kiêng cho con gái khỏi mau bệnh đậu mùa, Giả Liễn đã
99
không nhịn được, không những “chọn ngay một đứa hầu nhỏ sạch sẽ tạm làm
trò “tiêu khiển” [73, tập 2, tr.14] mà còn giở trò với cô “Đa” – vợ của gã nấu
bếp “Đa hồ đồ”. Trong ngày sinh nhật của Phượng Thư (hồi 44), lợi dụng lúc
vợ đi dự tiệc bên Giả mẫu, hắn dẫn vợ Bão Nhị về nhà “mây mưa”, lại vì
nhân tình mà đòi đuổi giết vợ khiến cả nhà xào xáo. Cái hủ bại, dâm ô của
đám đàn ông họ Giả đều được thu hết vào mấy câu nói của Giả Dung trong
đám tang ông nội hắn: “Nhà nào mà chẳng có chuyện phong lưu? Đừng để tôi
phải nói ra. Ngay cả ông Cả phủ bên kia cũng là tay đáo để, thế mà chú Liễn
dám tằng tịu với dì bé đấy! Thím Phượng đanh đá như thế mà chú Thụy còn
hòng gạ gẫm” [73, tập 4, tr.80].
Qua những phân tích ở trên, chúng ta dễ dàng nhận ra một điều: khi nói
về nữ giới, Tào Tuyết Cần đã đưa biểu tượng của mình xuất hiện trong trạng
thái sóng đôi với một biểu tượng khác. Nhờ đó, giá trị biểu đạt của biểu tượng
cũng tăng lên. Trong Hồng lâu mộng, biểu tượng nước xuất hiện trong một
cặp đôi mang tính tương phản với biểu tượng bùn chính là để khẳng định ý
nghĩa tinh khiết, mềm mại nhưng rất đỗi mạnh mẽ của nó. Ý nghĩa ấy lại được
nhà văn gắn với người nữ. Với sự trong sạch nguyên thủy vốn có của nước,
thì bùn – biểu tượng của vật chất nguyên thủy, xuất hiện như một quá trình
thoái hóa, một sự khởi đầu của thoái biến. “Từ đấy mà theo nghĩa tượng
trưng của đạo đức, bùn được đồng nhất với đáy sâu, với phần cặn lắng, với
những cấp độ hạ đẳng của con người: một thứ nước bẩn, đồi bại” [60,
tr.111]. Bởi vậy, nhà văn mới lấy nguyên liệu tạo người của Nữ Oa là đất và
nước rồi phân ra: nước là của người nữ và bùn đất là của người nam. Hơn
nữa, ông còn dựa vào tính chất của từng loại mà đưa ra quy ước: đất là hỗn
tạp của các chất trong nhân gian nên có tính đục; nước lại là tinh hoa của vũ
trụ cùng nhật nguyệt nên rất linh động thanh tú, khiến cho người ta sảng
khoái. Và như thế, sự tương phản giữa cặp biểu tượng nước - bùn càng mạnh
thì giá trị của nữ nhi càng lớn. Tác giả đã đem hết những gì tốt nhất của nhân
100
gian gắn cho người nữ và vì họ mà ông hết sức khen ngợi. Đó chính là điều
hoang đường trong thần thoại Nữ Oa vá trời cổ xưa, và càng hoang đường
hơn khi chúng ta đến bên bờ sông Linh Hà ở Tây Phương và cõi Thái hư ảo
cảnh trong Hồng lâu mộng. Vậy mà trong cái thời đại mà mọi quyền lực đều
nằm trong tay nam giới, điều hoang đường đó lại giúp phụ nữ nói lên tiếng
nói của mình, thức tỉnh xã hội có chút suy nghĩ về giá trị của người phụ nữ.
Đặt biểu tượng vào trạng thái có tính chất liên hệ là lối tư duy quen
thuộc của người Trung Hoa nói riêng và người phương Đông nói chung. Đó
chính là cách giúp Tào Tuyết Cần nâng cao giá trị của biểu tượng nước, hay
nói chính xác hơn là nâng cao phẩm giá của người phụ nữ trong tác phẩm của
mình.
3.2.3. Biểu tượng nước và những chuyển hóa – biến thể
Trong bài “Hai thế giới trong Hồng lâu mộng”, qua việc nói về tính cách
sạch sẽ đến bệnh hoạn của ni cô Diệu Ngọc, tác giả Dư Anh Thời đã chỉ ra
rằng: “càng là người mắc chứng thích sạch sẽ càng hay bị lây bẩn” [127].
Bởi quan niệm nữ nhi có nguồn gốc từ nước nên ở đây, tính cách của Diệu
Ngọc cũng chính là bản chất của nước. Người ni cô trẻ càng sạch sẽ thì mức
độ tinh khiết của nước lại càng cao. Thế nhưng cô giữ gìn cho sạch sẽ mãi
nhưng cuối cùng vẫn trở thành dơ bẩn, vẫn bị bùn “sa vào trong”. Số phận
Diệu Ngọc đi từ thanh cao, sạch sẽ tới ô uế, thanh sạch tới dơ bẩn cũng là một
trong những hình thức chuyển hóa của nước trong Hồng lâu mộng. Đó là sự
chuyển hóa độc đáo, vốn đã được nâng lên tầm triết học trong Kinh dịch và
Đạo giáo theo quy luật “cùng tắc phản” (vật chất phát triển đến tột cùng của
nó thì sẽ chuyển hóa sang một trạng thái khác). Đây cách nhìn mới mẻ về biểu
tượng nước của Dư Anh Thời. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đi khai thác
sự chuyển hóa của biểu tượng nước ở những biến thể của nó.
Nước trong Hồng lâu mộng có nhiều hàm ẩn rất phong phú và đâu đâu
cũng có hình ảnh của nước. Suy tưởng về nước, Tào Tuyết Cần nắm bắt nước
101
ở những hình thái rõ rệt của tự nhiên (sông, suối, mưa, tuyết, sương...) hay
trạng thái của của con người (nước mắt).
3.2.3.1. Biểu tượng nước và những trạng thái trong tự nhiên
Văn sỹ họ Tào là người am hiểu sâu sắc truyền thống văn hóa của đất
nước và dân tộc mình. Ông đã hao tổn nhiều tâm sức để xây dựng nên Đại
Quan Viên - tập đại thành trong nghệ thuật viên lâm của Trung Quốc. Nghệ
thuật viên lâm của Trung Quốc là một môn nghệ thuật tổng hợp, tiếp nhận sâu
sắc sự ảnh hưởng của triết học, thơ văn, hội họa. Hơn ai hết, một người có
kiến thức uyên bác như Cần Khê hiểu rất rõ trong số những yếu tố cơ bản để
hình thành nên một khu vườn Trung Hoa cổ đại, nước là yếu tố không thể
thiếu. Không có nước thì khu vườn sẽ trở nên thiếu sức sống, giống như là
không có huyết mạch và linh hồn. Do đó mà người trồng vườn luôn coi trọng
nguyên tố thủy. Nhà văn đã khéo léo tổ chức, sắp xếp hệ thống nước trong
Đại Quan Viên một cách tự nhiên với hệ thống hồ nước, rãnh nước, sông
ngòi… nhưng có lẽ nổi bật và mang đầy dụng ý chính là các dòng suối chảy
trong khu vườn này. Đó là dòng nước chỗ chảy mạnh như thác nước đổ, chỗ
lại chảy róc rách đem lại cho con người cảm giác an tường và bầu không khí
yên tĩnh; khi gió thổi qua mặt nước, sóng gợn, mặt nước phẳng lặng như
gương, bóng của trời xanh đổ xuống nước làm tăng thêm vẻ thần bí. Suối –
một biến thể không gian chứa đựng của biểu tượng nước vẫn luôn mang
những đặc trưng mà biểu tượng gốc của nó vốn có: “mang lại sự sống, sức
mạnh và sự thanh khiết về mặt tinh thần cũng như mặt thể xác”[60, tr.709]. Ở
phần trên, chúng tôi đã phân tích, với quan niệm nước chính là nguồn gốc của
nữ giới, Tào Tuyết Cần đã mở rộng nội hàm của biểu tượng nước trong văn
hóa Trung Hoa truyền thống và văn hóa nhân loại. Cũng bởi lẽ đó, biểu tượng
dòng suối trong Hồng lâu mộng cũng mang những ý nghĩa mới mẻ hơn.
Để hiểu được phần nào ý đồ nghệ thuật của tác giả về biểu tượng dòng
suối trong tác phẩm, chúng ta hãy thử cùng nhau đi tìm hiểu về sự hình thành
102
của Thấm Phương Tuyền – nhánh chính của hệ thống nước trong Đại Quan
Viên. Từ phía đông bắc của khu vườn, nước được dẫn vào và hình thành nên
suối Thấm Phương. Nó được chia làm hai nhánh chạy theo hai hướng đông
bắc và tây nam, uốn lượn một vòng quanh vườn, hợp lại thành một dòng, sau
đó chảy ra khỏi vườn từ góc đông nam của Đại Quan Viên. Căn cứ để chúng
tôi xác định như vậy chủ yếu là dựa vào những miêu tả quá trình xây dụng
vườn Đại Quan ở hồi mười sáu và cuộc thăm xét của Giả Chính cùng các môn
khách và Bảo Ngọc ở hồi mười bảy. Chúng ta biết rằng Đại Quan Viên được
hợp thành bởi Hội Phương Viên của phủ Ninh và hoa viên Vinh phủ. “Trong
vườn Hội Phương, có một dòng suối từ góc tường phía bắc chảy qua” [73, tập
1, tr.291]. Sau khi vào xem xét ở Di Hồng Viện, Giả Chính cùng đoàn người
thấy sau khu nhà có một khe nước chắn ngang. Dòng nước này chảy từ đập
Thấm Phương – “cửa đập thông ra ngoài sông, khơi thành suối để dẫn nước
vào” [73, tập 1, tr.315], “chảy đến cửa hang, theo chỗ trũng ở núi phía đông
bắc dẫn đến trang trại. Lại có một dòng nhỏ chảy ra phía tây nam, đến đây
hợp làm một, rồi lại theo chân tường chảy đi” [73, tập 1, tr.318]. Theo cách
sắp xếp đầy chủ ý của Tào Tuyết Cần, Thấm Phương Tuyền giữ vai trò như
bộ khung xương sẽ giúp không gian phức tạp trong Đại Quan Viên trông rõ
ràng hơn nhiều. Từ dòng suối này, nước chảy đi khắp mọi nơi trong khu
vườn: nơi u tối hay qua động đá, từ những nơi có cây cỏ với dòng nước uốn
lượn,… Nó chảy về hướng của Tiêu Tương Quán, xoay tròn dưới những cây
trúc rồi trôi ra, nước càng lúc càng trong, gợn sóng, uốn lượn và cuối cùng là
chảy qua bức tường trôi ra khỏi vườn. Qua những miêu tả của nhà văn, chúng
ta có thể thấy rằng diện tích mặt nước của vườn Đại Quan rất rộng. Tại sao
tác giả lại thiết kế hệ thống dẫn nước như vậy? Theo Cần Khê, nữ nhi có
nguồn gốc từ nước, mà Đại Quan Viên là thế giới của các cô gái trong Giả
phủ (nữ nhi quốc) nên để họ có thể sống và tồn tại, một điều tất yếu phải có là
không thể thiếu nước. Phân tích từ những chi tiết trong tác phẩm ở hồi mười
103
bảy, mười tám, chúng ta có thể thấy được sự bố trí lầu gác và viên lạc (nơi ở
của đám chị em) ven theo con suối của khu vườn chính là: Hành Vu Uyển,
Đạo Hương Thôn, Xuyết Cẩm Các, Thu Sảng Trai, Ngẫu Hương Tạ, Tiêu
Tương Quán, Di Hồng Viện … Mặt khác, dòng suối Thấm Phương ấy không
chỉ trong sạch, tĩnh lặng, có dòng chạy mà còn có thêm liễu, đào mọc bên bờ,
chỉ thấy hoa rơi nhưng không thấy một hạt bụi trần. Điều này thật phù hợp với
bản chất và tính cách của những người sống ở chốn buồng thêu. Từ đó có thể
nói rằng, Thấm Phương tuyền trong không chỉ là linh hồn, huyết mạch của
Đại Quan Viên mà còn là dòng suối của nữ nhi, là máu huyết, là bản mệnh
gắn liền với tất cả những người con gái sống trong vườn. Ý nghĩa lớn lao đầu
tiên của những dòng suối trong khu vườn chính là ở chỗ ấy.
Dòng Thấm Phương cũng có ý nghĩa quan trọng đối với Đại Quan Viên
và toàn bộ tác phẩm Hồng lâu mộng. Nước ở đập Thấm Phương chảy đến cửa
hang (lối đi vào Hành Vu Uyển – nơi ở của Bảo Thoa) thì dòng suối tách ra,
chạy theo hai hướng: đông bắc dẫn đến trang trại (Đạo Hương Thôn – nơi ở
của Lý Hoàn) và tây nam sau đó hợp lại ở Di Hồng Viện (nơi ở của Bảo
Ngọc). Nằm ở dòng bên đông là Xuyết Cẩm Các (nơi ở của Thám Xuân), còn
nằm ở dòng bên tây là Ngẫu Hương Tạ (nơi ở của Tích Xuân), nằm giữa hai
dòng suối nhỏ ấy chính là Tử Lăng Châu (nơi ở của Nghênh Xuân). Dòng
suối thấm Phương chạy phân tán khắp Đại Quan Viên, qua nơi ở của các tiểu
thư phủ Giả nhưng cuối cùng thì hợp lại ở viện Di Hồng. Theo chúng tôi,
Thấm Phương Tuyền hợp lưu tại nơi ở của Giả Bảo Ngọc mang ý tượng trưng
rất quan trọng. Chỉ qua việc miêu tả dòng suối mà tác giả có thể ngầm thông
báo cho độc giả về mối quan hệ giữa nam nhân duy nhất sống trong Đại Quan
Viên với các kim thoa trong vườn và những thế lực bên ngoài khu vườn. Tất
cả phụ nữ trong vườn Đại Quan, từ các tiểu thư cho tới a hoàn theo hầu, nấu
bếp hay đám bà già, con hát,… dù số lượng đông đảo, mối quan hệ chằng chịt
nhưng họ tựu chung lại, liên quan tới Giả Bảo Ngọc. Bởi lẽ đó, trong tác
104
phẩm nói chung và trong vườn Đại Quan Viên nói riêng mới diễn ra nhiều sự
kiện, nhiều tình tiết mà hầu như tất thảy đều vây quanh, quan tâm tới cái đầu
mối là cậu Bảo. Cậu là người gợi lên tình yêu trong lòng Lâm Đại Ngọc, Diệu
Ngọc, Tình Văn; cậu đánh thức ham muốn được trở thành mợ hai, nàng hầu
của phủ Giả trong Tiết Bảo Thoa, Tập Nhân; chính cậu khiến cho trên dưới
nhà họ Giả phải lo lắng từ mẹ con Giả mẫu cho tới bọn người hầu,… Tóm lại,
Bảo Ngọc là nơi tập hợp của tất cả mọi mối quan hệ phức tạp bên trong và
bên ngoài Đại Quan Viên. Nhờ cách giới thiệu con suối như vậy mà người
đọc có thể dễ dàng hình dung một cách khái quát về khu vườn Đại Quan, dễ
dàng tìm ra sợi dây liên hệ giữa các nhân vật trong Hồng lâu mộng cũng như
tính cách, số phận của họ thông qua đầu mối là Giả Bảo Ngọc. Với vai trò và
mối quan hệ như vậy, chúng tôi cho rằng suối Thấm Phương chính là biểu
tượng của Đại Quan Viên.
Xét ở một phương diện khác, dòng suối Thấm Phương ở trong Đại Quan
Viên thấp thoáng hình ảnh phản chiếu của con sông Linh Hà chốn Tây
Phương từ tiền kiếp của Giáng Châu tiên thảo và Thần Anh thị giả. Nếu bên
sông Linh Hà là nơi một thần nam và một tiên nữ bén duyên với nhau, vướng
mắc nợ ái tình không dứt, thì suối Thấm Phương tại vườn Đại Quan ở chốn
nhân gian chính là chứng nhân cho sự bắt đầu và kết thúc nợ tình duyên của
họ sau khi hạ phàm.
Trong số những nơi thuộc Đại Quan Viên, duy nhất tại Tiêu Tương Quán
có một con suối nhỏ: “Chân tường có một dòng suối rộng chừng một thước,
quanh co theo thềm đến dãy nhà đằng trước, rồi từ trong những khóm trúc
róc rách chảy ra” [73, tập 1, tr.302]. Chi tiết này khiến chúng ta không khỏi
thắc mắc rằng tại sao nhà văn lại có sự sắp đặt đặc biệt ấy? Trước nhà, sau
nhà điều được bao quanh bởi con suối. Hình ảnh con suối nhỏ không chỉ làm
toát lên tâm trạng không được cởi mở, thoái khỏi bụi trần của của Đại Ngọc
mà còn là biểu trưng cho sinh mạng rất yếu mềm của nàng. Vì nguồn nước
105
không nằm trong khu vườn nên con suối nhỏ chảy vào từ bên dưới bức tường
vô hình khiến người ta liên tưởng tới một dòng nước chảy vô tận, có cảnh ý
đem đến niềm vui cũng như nỗi buồn. Về mặt này, nhà văn vẫn tiếp thu và
giữ nguyên ý nghĩa của biểu tượng nước trong văn học Trung Quốc trước đó.
Bởi thế mà nỗi niềm của Lâm Tiêu Tương luôn đầy ắp, nước mắt của cô cứ
chảy như dòng suối nhỏ vô tận kia. Đặt biến thể của biểu tượng (dòng suối –
nước mắt) trong mối quan hệ đặc biệt như vậy cũng là một liên tưởng mới mẻ
của nhà văn.
Một trạng thái đặc trưng khác của nước chính là mây và mưa. Theo
Kinh Dịch của người Trung Quốc, mưa có gốc ở quẻ Càn, là bản nguyên chủ
động của Trời, từ đó mọi dạng hiện hữu. Ở khắp mọi nơi, mưa đều được coi
là biểu tượng của những tác động của trời mà mặt đất tiếp nhận được. Mưa là
tác nhân làm cho đất sinh sản, nhờ mưa mà đất được phì nhiêu, màu mỡ. Từ
đó, những cái từ trên trời đi xuống mặt đất còn là sự phong nhiêu của tinh
thần, ánh sáng và các tác động tâm linh. Mưa là ơn trời, cũng là đức hiền
minh. Đặc biệt, khi mưa và sương kết hợp với nhau, nó trở thành biểu tượng
cho sự hài hoà của vũ trụ. Trong Hồng lâu mộng, biểu tượng mưa vừa có mối
liên hệ sâu xa với mẫu gốc chung của mưa trong văn hóa nhân loại vừa đồng
thời mang đặc trưng của người Trung Quốc thể hiện trong điển cố Vu Sơn.
Điển cố này nói về giấc mộng của Sở Tương Vương (Tiên Vương nước Sở),
chỉ quan hệ trai gái. Tiên Vương nước Sở ngày xưa đến chơi đầm Vân Mộng
giữa ban ngày nhưng vì mệt nên nhà vua ngủ thiếp đi. Trong giấc mộng, vua
thấy người con gái đẹp tự xưng là thần núi Vu Sơn đến xin nhà vua cho theo
hầu chăn gối. Nhà vua ái ân cùng người con gái ấy. Lúc từ biệt, nàng nói nàng
ở núi Vu Sơn, sớm làm mây, chiều làm mưa. Từ đó, mây, mưa dùng để chỉ
một hàm ý ái tình của nam nữ. Một số cô gái ở Đại Quan Viên cũng vì thế mà
có một sự liên quan nhất định.
“Tương giang thủy thệ Sở vân phi” (Sông Tương nước chảy mây Sở trôi)
106
[73, tập 1, tr.108] câu này không chỉ gắn hai chữ “Tương vân” vào trong câu
một cách khéo léo. Bốn trong mười hai cuốn sa chính có vẽ mấy làn mây
đang bay, một dòng nước, sáu trong mười hai khúc tự có nói: “Vân tán cao
đường, thủy hạc Tương giang” [73, tập 1, tr.115], mây là hàm ý của nước thì
đó là một đều rất rõ ràng, “Tương giang thủy thệ” (sông Tương nước chảy),
“thủy hạc Tương giang” (Tương giang lạnh ngắt) là hai hiện tượng đồng nhất.
Ví “Tương giang” như là nữ thần sông Tương (Nga Hoàng và Nữ Anh) vì
thương khóc vua Thuấn, nước mắt hai bà đã thấm ướt bờ sông Tương để nói
về người phụ nữ vốn nhiều tình cảm; “ Sở vân phi”, “vân phi”, “vân tán cao
đường” ý tưởng đó càng nói rõ hơn: phu thê vui vẻ bên nhau không lâu, hạnh
phúc trong trước mắt đã biến mất.
Ở một khía cạnh khác thì “mây” tượng trưng cho mưa. Mây mang nước
tạo mưa, gió ngừng mưa tạnh, mây bay, nước cũng hết, ái tình cũng thành hư
không, chỉ duy nhất lưu giữ lại một hồ nước đóng băng thấp thoáng phía xa,
khiến ta lầm tưởng hình bóng chim hạc vẫn ở đó. Hình ảnh “những mây đen
mù đục” và câu thơ “Trăng trong khó gặp, mây đẹp dễ tan” [73, tập 1, tr.106]
trong cuốn sổ Kim Lăng thập nhị kim thoa “hựu phó sách” mà Bảo Ngọc (hồi
5) như dự báo về số phận của Tình Văn – cô a hoàn nổi bật nhất Di Hồng
Viện cả về ngoại hình lẫn tính cách, phẩm chất. “Mây đẹp dễ tan” ấy chính là
nói rõ rằng: nàng hồng nhan bạc mệnh chết sớm . Xuất phát từ nghĩa gốc của
biểu tượng trong văn hóa, văn học Trung Hoa những giai đoạn trước, đến
Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần đã gán thêm cho mây một ý khác. Đó là biểu
tượng cho nhan sắc nhạt phai và số phận bi thương của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến.
Trong Hồng lâu mộng không hiếm những hình ảnh của mưa những có lẽ
mưa ở Tiêu Tương Quán là nhiều hơn cả. Tại sao lại có sự đặc biệt ấy? Phải
chăng là bởi mưa ở Tiêu Tương Quán lại gần nghĩa gần với mưa nước mắt?
Vai trò của mưa không chỉ là một yếu tố tự nhiên nói rõ được tâm trạng cô
107
độc của Lâm Đại Ngọc, mà còn nói về những linh hồn thoát tục trên trời về
tình ái. Khi trên trời nhìn xuống thấy người con gái đó, thế giới mà chân tình
đã trở nên nhạt nhòa, nhận ra rằng còn có huyết lệ vì tình mà thành, không
kìm được nước mắt cũng rơi xuống. Vì thế mà Tiêu Tương Quán thường hay
mưa, xuân cũng mưa mà thu cũng mưa, ngoài kia là nước mắt của trời, ở
trong là nước mắt của người. Trong Tiêu Tương Quán tại sao lại có cây lê và
cây chuối? Vì hoa lê mang hàm ý đem mưa đến giống như những giọt lệ của
Đại Ngọc, mà tiếng mưa rơi trên lá chuối làm nỗi buồn của Đại Ngọc cũng
thêm buồn. Tại hồi bốn mươi năm khi Đại Ngọc nghe thấy tiếng mưa trên
ngọn tre và lá chuối, tiếng mưa thẩm thấu qua những bức tường đến với Đại
Ngọc làm cho nước mắt cô lại rơi. Đại Ngọc nghe được những giọt mưa tí
tách rơi trên ngọn tre và lá chuối, trong quan cảnh lạnh lẽo đó khiến “tự nhiên
Đại Ngọc nước mắt cứ dàn ra , đến canh tư mới ngủ được ” [73, tập 3, tr.98].
Tiếng mưa tượng trưng cho âm thanh là thính giác, lệ rơi là thị giác nhìn
được, khi hai ý tưởng đó kết hợp thể hiện sự ai oán vô cùng của Đại Ngọc.
Trong văn hóa nhân loại nói chung và văn hóa cộng đồng các dân tộc
châu Á, nước “là nguồn sống và yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu
tượng khả năng sinh sối nảy nở, của tính thanh khiết, tính hiền minh, tính
khoan dung và đức hạnh” [60, tr. 710]. Với người theo quan niệm của người
dân Trung Hoa cũng như Ấn Độ và một số quốc gia khác ở khu vực Đông
Á (Việt Nam, Triều Tiên,…), Quan Âm Bồ Tát được ca ngợi có tấm lòng từ
bi, có sức mạnh huyền diệu cứu giúp họan nạn, phổ độ chúng sinh, bảo hộ
phụ nữ. Mỗi khi xuất hiện, trên tay trái của Người luôn cầm bình ngọc
Thanh tịnh, trong bình chứa nước cam lộ, tay phải cầm nhành dương liễu.
Nước cam lộ ấy không chỉ tồn tại ở trạng thái tinh khiết, đáng quý trọng
nhất mà còn có công dụng cải tử hoàn sinh, là biểu hiện của sự sống bất tử.
Mượn điển tích Tam Sinh Thạch của Phật giáo, trong tác phẩm của mình,
108
Tào Tuyết Cần triển khai câu chuyện thần thoại ở Xích Hà cung giữa Thần
“Trên bờ sông Linh Hà ở Tây phương, bên cạnh hòn đá Tam Sinh có một cây
Giáng Châu được Thần Anh làm chức chầu chực ở cung Xích Hà ngày ngày lấy
nước cam lộ tưới bón cho nó mới tươi tốt, sống lâu. Đã hấp thu tinh hoa của trời
đất, lại được nước cam lộ chăm bón, cây Giáng Châu thoát được hình cây, hóa
thành hình người con gái...” [73, tập 1, tr.28]
Anh và Giáng Châu:
Tiếp thu triệt để lớp nghĩa của nước cam lộ - một biểu tượng trong đạo
Phật, Cần Khê cũng cho rằng thứ nước ấy có công năng kỳ diệu, có thể giúp
vạn vật trong nhân gian duy trì sự sống và kéo dài tuổi thọ. Nhưng ngòi bút
của người đã trải qua “cay đắng mười năm” mới viết nên tám mươi hồi đầu
của Hồng lâu mộng không dừng lại ở thao tác sao chép sản phẩm của tôn
giáo. Ông muốn mở rộng hơn, đi sâu hơn vào bên trong lớp nghĩa của nước
cam lộ - một dạng thức tồn tại khác của biểu tượng nước. Nhờ có công tưới
bón của Thần Anh thị giả mới có người con gái mang tên Giáng Châu nên
nàng luôn mong muốn trả cái ơn ấy, “cảm thấy như còn vương vấn một mối
tình gì đây” [73, tập 1, tr.29]. Vì cam lộ chi ân, mới tạo nên mối quan hệ
không thể cắt đứt giữa Thần Anh và Giáng Chu tiên thảo: mộc thạch tiền
minh, mối quan hệ ân tình trước đây nơi tiên giới, sau đó là bi kịch tình yêu
của Bảo - Đại trong nhân gian. Vậy là nàng tiên thảo quyết định hạ phàm,
lấy nước mắt để trả nợ “ơn mưa móc” của Thần Anh khi chàng muốn xuống
trần trải qua kiếp “ảo duyên”. Từ đó mới dẫn tới chuyện tình đầy nước mắt
của Lâm Đại Ngọc (Giáng Châu) và Giả Bảo Ngọc (Thần Anh) ở kiếp sau.
Vậy là nước cam lộ không phải chỉ có ý nghĩa giúp cải tử hoàn sinh, trường
sinh bất tử cho vạn vật nữa, mà nó còn là cội nguồn xuất phát của ái tình
giữa Giáng Châu tiên thảo và Thần Anh thị giả chốn thần tiên (sau này là
Lâm Đại Ngọc và Giả Bảo Ngọc chốn trần gian).
109
Nếu như nói thế giới nước trong tự nhiên của Lâm Đại Ngọc là mưa, là
suối chạy lững lờ, là nước cam lộ thì nước được dùng miêu tả Bảo Thoa lại
là tuyết. Viên thuốc lãnh hương hoàn của Bảo Thoa dùng nước ở “tây dương
thủy”, là nước mưa rơi vào ban ngày, giọt sương ngưng tụ vào ban ngày, và
tuyết rơi ban ngày (hồi 7); trong thơ của Bảo Ngọc có “Xuất dục Thái Chân
băng tác ảnh” (Thái Chân ra tắm làn băng nuột) [73, tập 2, tr.293], Bảo
Thoa cũng có câu “Băng tuyết chiếu lai lộ thế hồn” (Băng tuyết vời về bực
móc đây) [73, tập 2, tr.293]. Bản chất của tuyết sương lộ vốn là nước, nhưng
đặc tính là lấp lánh và trong suốt, trời lạnh thì đông lại. Nó nói rằng Bảo
Thoa và các cô gái khác cũng vậy, phẩm cách cao quý, phù hợp với mệnh đề
nữ nhi như nước, đó là điều thứ nhất. Thứ hai là, nếu như lệ và tuyền (con
suối) là hai trạng thái động của nước, đem lại sự tươi mát cho cuộc sống thì
băng tuyết luôn ở trạng thái tĩnh. Đều này phù hợp với thế giới nội tâm của
Bảo Thoa khi trái tim cô dường như đã đóng băng. Tuyết băng của Bảo
Thoa, những lúc cô đơn hay cuộc sống thường ngày vẫn giữ vững tính chất
riêng của nước, tinh khiết và lạnh giá.
Dòng sông trong Hồng lâu mộng cũng là một biến thể của biểu tượng
nước. Thám Xuân cũng liên quan đến nước, nhưng khác với các cô gái trong
Đại Quan Viên. Tuy không có ái sầu triền miên như Đại Ngọc, hay cái lạnh
nhạt của Bảo Thoa, nhưng cô cũng khóc, cũng sầu. Nỗi đau cốt nhục phân ly
do bị gả đi xa là một nỗi đau khó diễn tả bằng lời, điều này trong cuốn tiểu
thuyết hóa thành nước sông. Trong lá số của cô Ba họ Giả ở hồi năm có
câu:“Nhất phàm phong vũ lộ tam thiên” (Gió đông nghìn dặm mộng xa đi).
Từ “lộ” trong câu chính là đường dẫn nước, ý nói mặt nước rộng lớn như là
sông biển. Trong cuốn “Kim Lăng thập nhị kim thoa chính sách” mà Bảo
Ngọc xem ở cõi Thái Hư có vẽ biển, trên biển có một chiếc thuyền. Người
Trung Hoa từ cổ đại đến trung đại vốn chỉ thích lên cao mà ngại đi xa. Bởi thế
nên Đỗ Phủ chỉ thích “Đăng cao”, Lý Bạch mới lên lầu Hoàng Hạc để tiễn
110
Mạnh Hạo Nhiên. Vậy mà người con gái thân thể mềm yếu như Thám Xuân
phải độc hành hết ba ngàn hải lý, phiêu du trong mưa gió. Hoàn cảnh ấy cùng
với sương chiều giăng kín khiến nàng có thể không khóc chăng? Nhưng cũng
có lúc biểu tượng dòng sông còn mang một nghĩa khác: gia viên sụp đổ “tự
sinh tự diệt”, hay cảnh bi kịch như “con cháu ly tán” của họ Giả mà Thám
Xuân đã tiên đoán được cũng giống như nước sông trôi về biển cả. Hơn nữa,
trong Hồng lâu mộng, biển ấy lại là “bể quán sầu” thì nỗi buồn cho số phận
của mình, nỗi buồn cho cả gia tộc họ Giả, nỗi buồn nhân thế của nàng thật
khó đong đếm biết nhường nào!
Biến thể của nước trong tự nhiên mà chúng tôi đã phân tích ở trên không
chỉ thể hiện được mối quan hệ giữa các nhân vật trong Hồng lâu mộng mà
mỗi biến thể ấy còn tượng trưng cho một người con gái sống trong Đại Quan
Viên. Kết hợp với mệnh đề“nữ nhi như nước”, cách xây dựng biểu tượng
nước gắn với tính cách, số phận người nữ dựa vào trạng thái, không gian tồn
tại của nước thực sự đã giúp Tào Tuyết Cần đưa mọi biến thể ấy về ý nghĩa
tượng trưng bản thể của sinh mệnh của vạn vật trong trời đất mà cụ thể là
người phụ nữ.
3.2.3.2. Biểu tượng nước và trạng thái của con người
Nước trong văn thơ truyền thống Trung Hoa luôn hàm chứa tình cảm, ý
vị sầu muộn, gắn liền với những giọt nước mắt. Thứ nước mà Bảo Ngọc uống
tại Thái hư ảo cảnh (hồi 5) là nước mắt của nữ nhân có tên “thiên hồng nhất
khốc” như báo trước về tính cách, cuộc đời và số phận của các thiếu nữ trong
Đại Quan Viên mà Tiêu Tương phi tử là người đứng đầu. Bởi thế, tác giả
cuốn Tìm hiểu về Hồng lâu mộng mới có nhận định xác đáng rằng: “Phụ nữ,
cái đẹp và nước mắt gắn với nhau như định mệnh” [58, tr.122]. Lâm Đại
Ngọc là ưu tú nhất trong các cô gái ở Đại Quan Viên, giống như một nhánh
quanh co trong nước. Trong đời sống tinh thần của cô, nước mắt chính là
phương thức biểu hiện tình cảm chủ yếu. Lần đầu vào Giả phủ nước mắt cũng
111
rơi, đêm đó lại vì Bảo Ngọc đã ném ngọc mà nước mắt rơi không ngừng,
ngày thường lại thích ở trong Tiêu Tương Quán mà khóc, đối nguyệt thương
hoài, hòa vào cảnh vật tự nhiên bên ngoài với gió thổi, mưa rơi, hoa rụng. Từ
ánh mắt đến nghe người khác cười nói cũng là nguyên nhân làm cho Đại
Ngọc lệ rơi không ngừng. Nữ thi nhân Lâm Đại Ngọc khóc trong bài thơ
Táng hoa từ về nỗi lòng, ái tình và sầu muộn của mình. Vậy vì sao mà nước
mắt nàng rơi? Đó là khóc cho thân thế phiêu du, tuổi xuân dễ mất và người
con gái đa sầu đa cảm lại đang chờ đợi một tình cảm thống khổ và chịu một
tình cảnh mịt mù. Lâm Đại Ngọc chính là Giáng Châu (ứng với từ Giáng Chu
là hồng lệ), cũng như huyết và lệ, hai từ đó nói lên cuộc đời cô là “huyết lệ”:
nước mắt trong mắt rơi ra là lệ, nước mắt trong lòng rơi ra là máu, mà máu thì
luôn đặc hơn nước, mặn hơn nước, “là biểu tượng của nỗi khổ tâm” [60,
tr.714]. Cái tên Giáng Châu nói lên việc Đai Ngọc dâng hiến hết cuộc đời linh
hồn cho tình yêu. Nước mắt Giáng Châu cho đến chết cũng không cạn để trả
nợ ân tình tiền kiếp. Ở đây, nước mắt chính là biểu tượng cho tình yêu.
Hơn nữa, nhà văn còn lấy lệ để làm đẹp con người. Với Đại Ngọc, lệ khi
đó thay cho ánh mắt nói rõ tình cảm sâu đậm của cô. Ngược lại, cuộc sống
cũng cần những giọt nước mắt để thẩm thấu qua cả đá, rửa đi bụi đất, làm cho
ngọc trở nên rực rỡ. Lệ trước giờ luôn rơi vì sự ly biệt, vậy mà lệ của Giáng
Chu không phải vì ly biệt oán hận mà rơi, rơi là vì tiếc cho viên đá ấy (kỳ
thạch), có thể thấy tiếc cho viên đá ấy cũng như tiếc cho người ấy (kỳ nhân).
Trân trọng kỳ thạch, Tiêu Tương phi tử tất cũng xót cho bụi trần bám đầy trên
đá, và thế là nước mắt làm dòng suối trong rửa sạch viên đá, thu qua đông lại,
đến chết cũng không cạn, vạn khổ bất oán. Người Trung Hoa xưa rất yêu
thích ngọc bởi họ cho rằng ngọc có “cửu đức”, nhưng phải dùng nước mới
tạo nên được tố chất như cửu đức. Cũng có nghĩa là, đức ở trong ngọc phải
dựa vào công năng gột rửa của nước. Vì vậy hai thứ này có quan hệ với nhau.
Nước có tác dụng mang lại độ ẩm cho đá, đánh đuổi đi những chỗ bẩn lì lợm,
112
giúp đá có tính ngọc. Đại Ngọc mỗi ngày đều lấy nước mắt để rửa viên ngọc
bẩn, hi vọng sớm ngày đạt được “mộc thạch tiền minh”. Nước và đá (ngọc)
không thể tách rời, làm tăng thêm tính thẩm mỹ nội tại cho cả hai biểu tượng.
Nhưng chiến thắng cuối cùng không thuộc về “mộc thạch tiền minh”, mà là
“kim ngọc lương duyên”. “Mộc thạch tiền minh” là ái tình không có hôn nhân
vốn đã đau khổ, “kim ngọc lương duyên” là hôn nhân không có ái tình, như
vậy thì càng bi thương. Bởi vậy, ái tình của Bảo - Đại từ đầu đến cuối không
chỉ là bi kịch làm cảm động lòng người mà còn “tiết lộ bản chất bi kịch hôn
nhân của loài người” [134]. Hơn nữa, ý tưởng thẩm mỹ trong biểu tượng
nước và biểu tượng đá lại đưa ý nghĩa tượng trưng cho bi kịch tình yêu của
Bảo - Đại lên một triết lý cao hơn, nó khiến cho sự sâu sắc, sự chân thành,
thuần khiết nhất trong tình yêu của loài người được thăng hoa và vượt qua
phạm vi của đời này kiếp này, vượt qua cả cảnh giới của thần thánh vĩnh hằng
và những giới hạn của sự sống.
Nước là một biểu tượng cổ mẫu nằm sâu trong vô thức tập thể của nhân
loại nói chung và dân tộc Trung Hoa nói riêng. Nó tồn tại dưới nhiều dạng
thức khác nhau, mang những ý nghĩa phổ quát nhất, gắn liền với cuộc sống
loài người từ thuở hồng hoang. Dựa trên xuất phát điểm của nền văn hóa cũng
như quan niệm triết học lâu đời trên đất nước mình, ý nghĩa của biểu tượng
gần gũi này được nhà văn không ngừng khai phá và mở rộng. Tuy nhiên, ý
nghĩa những biến thể của nó đều có liên quan mật thiết đến nữ nhi. Chúng tôi
nhận thấy rằng, khi xây dựng những biến thể ấy, Tào Tuyết Cần đã cố gắng
xây dựng một biểu tượng hoàn thiện, biểu trưng và gắn với tính cách, số phận
cuộc đời của mỗi cô gái trong vườn Đại Quan. Điều đó không chỉ vẫn thống
nhất với quan niệm “xương thịt con gái là do nước kết thành” của tác giả mà
còn lý giải cụ thể hơn, mang đậm ý nghĩa biểu trưng hơn.
113
Tiểu kết chương 3
Viết về biểu tượng nước, Tào Tuyết Cần đã đưa người đọc trở lại cội
nguồn sự sống cũng như bản chất thuần khiết của loài người từ thuở hồng
hoang. Quan điểm tiến bộ về giới: “xương thịt của con gái là nước kết thành”
đã chi phối toàn bộ những nội hàm ý nghĩa của biểu tượng nước trong Hồng
lâu mộng.
Biểu tượng nước trong Hồng lâu mộng và những biến thể của nó, dù là
trực tiếp hay gián tiếp, tất thảy đều có liên quan đến người phụ nữ và thiên
tính nữ. Biểu tượng nước trong kiệt tác này đã được Tào Tuyết Cần dùng hết
bút lực và vốn kiến thức sâu rộng của mình để cung cấp thêm nội hàm ý nghĩa
và làm mới nó. Văn sỹ họ Tào dựa trên cách tượng trưng truyền thống về
nước mà lấy nước để ví với người nữ. Nếu trong văn học truyền thống, thi
nhân thường dùng sự vật để tượng trưng cho người thì Cần Khê đã dùng tính
cách, phẩm giá của của người phụ nữ để nói tới đặc trưng, ý nghĩa của nước.
Khi nói về nữ giới, nhà văn đã đưa biểu tượng của mình xuất hiện trong
trạng thái sóng đôi với một biểu tượng khác. Nhờ đó, giá trị biểu đạt của biểu
tượng cũng tăng lên. Đó chính là cách giúp Tào Tuyết Cần nâng cao giá trị
của biểu tượng nước, hay nói chính xác hơn là nâng cao phẩm giá của người
phụ nữ trong tác phẩm của mình.
Khi xây dựng những biến thể của nước (những trạng thái trong tự nhiên,
trạng thái của con người), Tào Tuyết Cần đã cố gắng xây dựng một biểu
tượng hoàn thiện, biểu trưng và gắn với tính cách, số phận cuộc đời của mỗi
cô gái trong vườn Đại Quan.
Tất cả những cố gắng của nhà văn đều nhằm hướng tới mục đích cao đẹp
và nhân văn nhất: những người phụ nữ trong tác phẩm được phải được sống,
được khẳng định mình và giao cảm với cuộc đời bằng chính con người họ.
114
KẾT LUẬN
1. Về vấn đề biểu tượng trong sáng tác của Tào Tuyết Cần và sự ảnh
hưởng của nó
Biểu tượng là lý thuyết mới trong lý luận văn học. Chính vì vậy, giữa các
ngành khoa học, những lĩnh vực khác nhau đều có những quan điểm, khái
niệm riêng, đôi khi không đồng nhất về nội hàm ý nghĩa. Trung Quốc là cái
nôi của văn minh phương Đông, nơi chứa đựng những thành tựu văn hóa, văn
học rực rỡ, góp phần làm nên nền văn minh nhân loại. Tuy lý luận văn học
của đất nước này không trở thành hệ thống về thuật ngữ biểu tượng như lý
luận văn học phương Tây nhưng bản thân họ cũng có những khái niệm tương
ứng về nội hàm ý nghĩa.
Vấn đề “giải mã” biểu tượng trong tác phẩm nghệ thuật là điều không
đơn giản. Nghiên cứu biểu tượng trong Hồng lâu mộng nói chung và biểu
tượng vườn và biểu tượng nước nói riêng cần có sự tổng hợp kiến thức của
nhiều lĩnh vực và những trải nghiệm, cảm nhận của người nghiên cứu. Bởi
nghĩa của biểu tượng là vô tận nên những kết quả nghiên cứu của chúng tôi về
hai biểu tượng này có chưa phải là đáp án cuối cùng. Bởi vậy, vườn và nước
nói riêng, biểu tượng trong Hồng lâu mộng nói chung vẫn rất cần được tìm
hiểu, khám phá thêm những tầng nghĩa mới thông qua cách xây dựng biểu
tượng của nhà văn.
Về mặt ý thức sáng tác, Tào Tuyết Cần đã có ý thức rất rõ về ý đồ nghệ
thuật cũng như cách viết sao cho có thể truyền tải được những quan niệm, ý
tưởng của mình một cách sâu sắc và cô đọng nhất.
Về cách thức xây dựng biểu tượng, dựa vào kết quả nghiên cứu, chúng
tôi có thể nhận định rằng: khi xây dựng biểu tượng vườn và biểu tượng nước,
tuy không có được những kiến thức lý luận về biểu tượng như nhiều nhà văn
hiện đại nhưng Tào Tuyết Cần đã có ý thức rất rõ về ý đồ nghệ thuật cũng
115
như cách viết sao cho có thể truyền tải được những quan niệm, ý tưởng của
mình một cách sâu sắc và cô đọng nhất. Quá trình xây dựng biểu tượng cũng
như gán cho nó những ý nghĩa nhất định đều được Tào Tuyết Cần thực hiện
rất công phu, tâm huyết. Biểu tượng trong sáng tác của Cần Khê không đơn
thuần là sự tiếp nhận ý nghĩa của biểu tượng vốn có trong văn hóa – văn học
truyền thống của dân tộc. Nhà văn đã khai thác triệt để nghĩa gốc của biểu
tượng để mở rộng, sáng tạo và làm mới mẻ thêm ý nghĩa của biểu tượng từ
cách xây dựng biểu tượng tới việc cung cấp, gán thêm cho nó những nội hàm
nghĩa.
Nhìn chung, các biểu tượng trong Hồng lâu mộng đều có mối quan hệ
mật thiết với nhau (biểu tượng hoa, biểu tượng trăng, biểu tượng đá,..) mà cặp
quan hệ tiêu biểu là hai biểu tượng vườn và biểu tượng nước. Bởi vậy, trong
quá trình giải mã hai biểu tượng này, chúng tôi thấy nảy sinh hiện tượng:
trong ý nghĩa của biểu tượng này có sự móc nối, liên hệ với ý nghĩa của biểu
tượng kia nhằm làm nổi bật nhau lên. Thậm chí hai biểu tượng mà chúng tôi
nghiên cứu trong luận văn cũng có quan hệ với nhiều biểu tượng khác ở trong
và bên ngoài tác phẩm. Cách làm đó độc đáo, đem lại hiệu quả cao trong việc
làm khẳng định giá trị và ý nghĩa của biểu tượng nhưng cũng gây không ít trở
ngại cho quá trình nghiên cứu.
Thủ pháp sử dụng biểu tượng trong văn học Trung Hoa được bắt rễ sâu
xa từ văn học dân gian (Kinh thi). Thủ pháp ấy được hoàn thiện dần theo thời
gian, qua nhiều giai đoạn văn học, đạt tới đỉnh cao ở tiểu thuyết Minh - Thanh
mà Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần là bộ tiểu thuyết tiêu biểu nhất. Đến
Hồng lâu mộng, biểu tượng không chỉ truyền tải một (hoặc một vài) ý nghĩa
đơn thuần nữa mà còn được mở rộng, bồi đắp và làm mới thêm. Qua đó,
những quan niệm thẩm mỹ, tư tưởng sâu kín của nhà văn mới có mảnh đất để
nảy mầm, vươn tới vũ trụ bao la.
Những biểu tượng mà Cần Khê đã xây dựng trong Hồng lâu mộng là
116
một trong nhiều cách tân lớn so với văn học Trung Hoa truyền thống. Từ đây,
trên văn đàn của đất nước rộng lớn này xuất hiện rất nhiều cây bút đại thụ mà
biểu tượng trong tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng rất lớn từ lối viết của Tào
Tuyết Cần: Mạc Ngôn, Vương Mông,…
2. Về hướng nghiên cứu đề tài
Trong thời gian gần đây, nghiên cứu tác phẩm văn học nói chung và
nghiên cứu văn học cổ - trung đại nói riêng theo hướng khai thác biểu tượng
trở thành một trào lưu khá phổ biến. Các nhà nghiên cứu có thể sử dụng nhiều
phương pháp khác nhau (sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp mã văn hóa với nhiều
ngành khoa học khác) để hướng tới mục đích cuối cùng là “giải mã” biểu
tượng, đến gần hơn với những giá trị chân – thiện –mỹ của một dân tộc, một
cộng đồng người nhất định. Đó cũng chính là một trong số rất nhiều con
đường giúp nhà nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu thế giới nghệ thuật cũng như
quan niệm, tư tưởng sáng tác của nhà văn.
Đặt biểu tượng của Hồng lâu mộng trong trạng thái đối sánh để lý giải
những tầng ý nghĩa cũng là một hướng nghiên cứu hứa hẹn sẽ đem lại những
kết quả thú vị. Sử dụng biểu tượng không phải là đặc trưng duy nhất chỉ có ở
Trung Hoa mà còn xuất hiện ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. So sánh biểu
tượng trong tác phẩm này với tác phẩm khác theo hướng đồng đại hay lịch đại
dù có nhiều chỗ chưa thật sự phù hợp bởi sự cách biệt về thời gian, không
gian hay truyền thống văn hóa nhưng sẽ đem lại những đóng góp nhất định
trong nghiên cứu biểu tượng.
Hồng lâu mộng là thế giới của những biểu tượng. Vườn và nước chỉ là
hai trong số rất nhiều biểu tượng mà Tào Tuyết Cần đã dày công xây dựng
trong kiệt tác này. Vì thế, đây sẽ là mảnh đất màu mỡ đang chờ đợi những
người yêu mến Cần Khê và tác phẩm của ông tới khai phá.
117
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
Tài liệu sách
1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
2. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Lê Nguyên Cẩn chủ biên (2006), Tác gia, tác phẩm văn học nước ngoài
trong nhà trường: Tào Tuyết Cần, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà
Nội.
4. Lê Khánh Cường dịch, Trần Cương Thiết, Nguyễn Bích Hằng hiệu đính
(2001), Từ điển văn hóa cổ truyền Trung Hoa, Nxb Văn hóa – thông
tin, Hà Nội.
5. Nguyễn Mạnh Cường (2012), Đạo giáo: tri thức cơ bản, Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội.
6. Doãn Chính (2003), Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
7. Mai Ngọc Chừ (2008), Giới thiệu văn hóa phương Đông, Nxb Hà Nội,
Hà Nội.
8. Đào Ngọc Chương (2007), Phê bình huyền thoại, Nxb Đại học quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Vũ Dũng (2012), Từ điển thuật ngữ tâm lý học, Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
11. Đường Đắc Dương (2003), Cội nguồn văn hóa Trung Hoa, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
12. Tản Đà, Nghiêm Thượng Văn, Đặng Đức Tô (1992), Kinh thi, Nxb
118
thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Sĩ Đại (2007), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt đời
Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
14. Cao Huy Đỉnh (1964), Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ, Nxb Khoa học, Hà
Nội.
15. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học: nghiên cứu, văn
bản, thuật ngữ, Nxb Văn học: Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Tp.
Hồ Chí Minh.
16. Trần Xuân Đề (1998), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
17. Trần Xuân Đề (2000), Tác giả tác phẩm văn học phương Đông: Trung
Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Phạm Thị Hảo (2008), Khái niệm và thuật ngữ lý luận văn học Trung
Quốc, Nxb Văn học, Hà Nội.
20. Hồ Sĩ Hiệp (2007), Đến với thơ Đường tuyệt cú, Nxb Đại học sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
21. Đỗ Minh Hợp (2009), Tôn giáo phương Đông, quá khứ và hiện tại, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
22. Phạm Khang, Lê Minh (2011), Tìm hiểu văn hóa Trung Hoa, Nxb Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội.
23. Đinh Gia Khánh (2008), Thần thoại Trung Quốc, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
24. Đinh Gia Khánh (2005), Điển cố văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
25. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa,
Nxb Văn học, Hà Nội.
26. Nguyễn Hiến Lê (1992), Chu Dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
119
27. Vũ Bội Liêu (2000), Những sự gặp gỡ của Đông Phương và Tây Phương
trong ngôn ngữ và văn chương, Nxb Văn học, Trung tâm ngôn ngữ
văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
28. Phương Lựu (1986), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
29. Phương Lựu (1996), Văn hóa, văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ
ở Việt Nam, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
30. Phạm Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb Đại
học quốc gia thành phố Hồ chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
31. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
32. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học Trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Bách Tôn Nhan (2000), Bách khoa thư văn hóa cổ điển Trung Quốc,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
34. Hoàng Phê (2012), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
35. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1997), Về thi pháp thơ Đường, Nxb
Đà Nẵng, Đà Nẵng.
36. Nguyễn Khắc Phi (1998), Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Nguyễn Khắc Phi (2004), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn
học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Nguyễn Quốc Phong, Thái Trọng Lai (2001), Tiểu thuyết sử thoại các
thời đại Trung Quốc, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ
Chí Minh.
39. Nguyễn Đình Phức (2013), Thi pháp thơ Đường, Nxb Đại học quốc gia
thành phố Hồ chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
40. Mộng Bình Sơn (1996), Ảnh hưởng Kinh Dịch trong văn học và cuộc
120
sống, Nxb Văn học, Hà Nội.
41. Trần Đình Sử, Phan Huy Dũng, La Khắc Hòa, Lê Lưu Oanh (2004),
Giáo trình lý luận văn học - Tập I: Bản chất và đặc trưng văn học,
Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
42. Trần Đình Sử, Phan Huy Dũng, La Khắc Hòa, Phùng Ngọc Kiếm, Lê
Lưu Oanh (2007), Giáo trình lý luận văn học - Tập II: Tác phẩm và
thể loại văn học, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
43. Từ Huy Tập, Phong Đảo (2000), Mười đại văn hào Trung Quốc, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
44. Đỗ Anh Thơ (2009), Trí tuệ Tào Tuyết Cần , Nxb Lao động - Xã hội, Hà
Nội.
45. Mai Thục, Đỗ Đức Hiểu (2001), Điển tích văn học, Nxb Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
46. Đỗ Lai Thúy (2004), Phân tâm học và văn học, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
47. Lương Duy Thứ (1995), Để hiểu tám bộ tiếu thuyết Trung Quốc, Nxb Cà
Mau, Cà Mau.
48. Lương Duy Thứ, Nguyễn Lộc (1997), Thơ ca cổ điển Trung Quốc, Hội
nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ,
Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
49. Lương Duy Thứ và nhiều người khác (1998), Đại cương văn hóa
phương Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Lương Duy Thứ (2000), Bài giảng văn học Trung Quốc, Nxb Đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
51. Lương Duy Thứ (2008), Giáo trình văn học Trung Quốc, Nxb Đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
52. Cung Kim Tiến (2002), Từ điển triết học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
121
53. Lê Huy Tiêu (2004), Cảm nhận mới về văn hóa và văn học Trung Quốc,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
54. Lao Tử, Thịnh Lê (2001), Từ điển Nho, Phật, Đạo, Nxb Văn học, Hà
Nội.
55. Võ Gia Trị (2003), Quy luật của văn chương (lý luận phê bình), Nxb
Văn hóa thông tin – Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
56. Hoàng Trinh (1997), Từ ký hiệu hoc đến thi pháp học, Nxb Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
57. Đinh Phan Cẩm Vân (2011), Tiếp cận thể loại văn học cổ Trung Quốc,
Nxb Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
58. Đinh Phan Cẩm Vân (2014), Tìm hiểu H ồng lâu mộng, Nxb Giáo dục ,
Tp. Hồ Chí Minh.
59. Bakhtin M. (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
60. Chevailier J., Gheerbrant A. (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
Nxb Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du, Đà Nẵng.
61. Freud S., Jung C.G., Bachelard G., Tucci G., Dunnes V. (2000), Phân
tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
62. Jung C. G. (2007), Thăm dò tiềm thức, Nxb tri thức, Hà Nội.
63. Lisevich I.S. (1994), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
64. Lotman I.U. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
65. Luc Benoist (2006), Dấu hiệu, biểu trưng và thần thoại, Nxb Thế giới,
Hà Nội.
66. Morton S.W., Lewis C.M. (2008), Lịch sử văn hóa Trung Quốc, Nxb
Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh.
67. Radugin A.A. (2001), Từ điển bách khoa Văn hóa học, Nxb Viện nghiên
122
cứu văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
68. Saussure F. (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
69. Wellek R., Warren A. (2009), Lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
70. Will Durant (1996), Lịch sử văn minh Ấn Độ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà
Nội.
71. Will Durant (2004), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
72. Ngô Thừa Ân (2001), Tây du ký (trọn bộ 5 tập), Nxb Văn học, Hà Nội.
73. Tào Tuyết Cần (1989), Hồng lâu mộng (trọn bộ 6 tập), Nxb Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
74. Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường,
Nxb Văn học, Hà Nội.
75. Lâm Ngữ Đường (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Nxb
Văn hóa, Hà Nội.
76. Lâm Ngữ Đường (2001), Trung Hoa đất nước con người, Nxb Văn hóa
– Thông tin, Hà Nội.
77. Lưu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông
Tây, Nxb Lao động, Hà Nội.
78. Trần Liên Sơn (2012), Truyền thuyết, thần thoại Trung Quốc, Nxb Tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
79. Lỗ Tấn (1996), Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Nxb Văn học,
Hà Nội.
80. Trang Tử (2001), Nam hoa kinh, Nxb Văn học, Trung tâm ngôn ngữ văn
hóa Đông Tây, Hà Nội.
81. Khâu Chấn Thanh (1994), Lý luận văn học - nghệ thuật cổ điển Trung
Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
123
82. Trương Khánh Thiện, Lưu Vĩnh Lương (2002), Mạn đàm về Hồng lâu
mộng, Nxb Thuận Hóa, Thừa Thiên Huế.
83. Sử Trọng Văn, Trần Kiều Sinh (2012), Văn hóa trung Quốc, Nxb Tổng
hợp, Tp. Hồ Chí Minh.
84. Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh (2011), Truyện tích Kinh
Thánh dành cho thiếu nhi, Tp. Hồ Chí Minh.
85. Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc (Lê
Huy Tiêu chủ biên, Lương Duy Thứ, Nguyễn Trung Hiền, Lê Đức
Niệm, Trần Thanh Niêm dịch) (2007), Lịch sử văn học Trung Quốc
(tập 1), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
86. Tập thể 74 tác giả (2000), Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc (tập 1),
Nxb Thế giới, Hà Nội.
87. Tập thể tác giả đại học sư phạm Hà Nội, Trung tâm Trung Quốc học
(2002), Đạo gia và văn hóa, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
Tài liệu báo – Tạp chí
88. Phạm Đức Dương (2002), “Thế giới biểu tượng (Tiếp cận dưới góc độ
văn hóa học)”, Tạp chí Khoa học xã hội, (2), tr.71-77.
89. Đặng Anh Đào (1992), “Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết”, Tạp chí
Văn học, (3), tr.44-46.
90. Hà Minh Đức (2007), “Giá trị văn hóa, nhận thức và chuyển đổi”, Tạp
chí Nghiên cứu văn học, (1), tr.3-9.
91. Đoàn Lê Giang (2000), “Thần trong tư tưởng nghệ thuật cổ Trung Quốc
và Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (3), tr.66-69.
92. Mai Văn Hai (2000), “Văn hóa biểu tượng từ hướng tiếp cận xã hội
học”, Tạp chí Xã hội học, (2), tr.3-7.
93. Mai Văn Hai (2002), “Biểu tượng và văn hóa biểu tượng trong tư duy xã
hội học”, Tạp chí Xã hội học, (2), tr.10-14.
94. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2006), “Tìm hiểu những nhân tố tác động tới
124
quá trình biến đổi ý nghĩa của biểu tượng trong ngôn ngữ nghệ
thuật”, Tạp chí Ngôn ngữ, (10), tr.35-44.
95. Đoàn Ánh Loan (2000), “Ảnh hưởng của quan niệm thẩm mỹ cổ phương
Đông trong việc sử dụng điển cố”, Tạp chí Văn học (3), tr.70-74.
96. Nguyễn Thị Thanh Lưu (2008), “Biểu tượng nước trong thơ ca dân gian
và thơ ca hiện đại các dân tộc ít người”, Tạp chí Nghiên cứu văn học,
(6), tr.109-123.
97. Lưu Hồng Sơn (2014), "Đào nguyên – Thế giới tâm linh của văn nhân
Đông Á”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (1), tr. 22-36.
98. Nguyễn Chí Tình (2001), “Các nhà tiểu thuyết phương Tây và vấn đề kết
cấu – xây dựng cốt truyện”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, (3), tr.113-
117.
99. Đinh Phan Cẩm Vân (2000), “Cái kỳ trong tiểu thuyết truyền kỳ”, Tạp
chí Văn học, (10), tr.48-53.
100. Hà Thanh Vân (2001), ‘‘Miêu tả nhân vật qua thời gian và không gian
nghệ thuật – một thành tựu của tác phẩm Hồng lâu mộng’’, Tạp chí
Khoa học xã hội (6), tr. 94-97.
101. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2007), “Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (1), tr.105-130.
102. Lotman Ju. (Trần Đình Sử dịch) (2012), “Biểu tượng trong hệ thống văn
hóa”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (10), tr.18-31.
Tài liệu Luận văn – Luận án
103. Vũ Thị Thanh Dung (2008), Hồng Lâu Mộng sự khởi đầu của tư tưởng
và cách viết mới, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
104. Nguyễn Thị Cẩn (2006 ), Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết
"Hồng lâu mộng", Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Trường đại học Vinh,
Nghệ An.
125
105. Võ Hương Giang (2001), Bút pháp nghệ thuật độc đáo của “Hồng lâu
mộng”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
106. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2005), Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng
trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam, Luận án Tiến sĩ ngữ
văn, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
107. Lê Thị Thanh Hồng (2006), Kết cấu tác phẩm Hồng Lâu Mộng của Tào
Tuyết Cần, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Trường đại học Vinh, Nghệ
An.
108. Phan Thị Lan (2005) Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong "Hồng Lâu
Mộng" của Tào Thuyết Cần, Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Trường đại
học Vinh, Nghệ An.
109. Bùi Thị Phương Lan (2007), Yếu tố “kỳ” trong Hồng lâu mộng, Luận
văn Thạc sĩ Ngữ Văn, Trường đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
110. Nguyễn Hoàng Long (2000), Không gian nghệ thuật trong Tây du ký,
Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường đại học Sư phạm thành phố Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Minh.
111. Nguyễn Thị Thanh Nga (2010), Nhân vật A hoàn trong Hồng Lâu Mộng,
Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
112. Hà Thanh Vân (1999), Sự tương đồng về thi pháp nhân vật Truyện Kiều
và Hồng lâu mộng, Luận văn Thạc sĩ, Trường đại học Khoa học xã
hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
Tài liệu website
113. Đoàn Lê Giang (01/12/2007), “Những nguồn mạch chính và khả năng
ứng dụng mới của lý luận văn học cổ”, Tạp chí Văn hóa học,
(http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-
trung-hoa/107-doan-le-giang-nhung-nguon-mach-chinh-va-kha-
nang-ung-dung-moi-.html).
126
114. Nguyễn Văn Hậu (12/7/2013), “Về tính hình tượng và tính biểu tượng
trong văn học nghệ thuật”, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
(http://huc.edu.vn/chi-tiet/1463/.html).
115. Nguyễn Thị Hưởng (7/4/2014), “Giải mã biểu tượng Mưa trong thơ
Đường -hành trình từ mã văn học đến mã văn hóa”, Trường Trung
học phổ thông Chu Văn An – Yên Bái (http://thpt-chuvanan-
yenbai.edu.vn/forums/forum_posts.asp?TID=6023).
116. Ngô Trà Mi (31/1 2013), “Hội họa cổ điển Trung Hoa trong Hồng lâu
mộng”, Tạp chí Văn hóa và du lịch Sài Gòn
(http://dulichsaigonact.vn/index.php/nghien-cuu/so-7/item/390-hoi-
hoa-co-dien-trung-hoa-trong-hong-lau-mong).
117. Trần Nữ Phượng Nhi (16/8/2014), “Về cổ mẫu và cổ mẫu nước trong thơ
Bùi Giáng, Tạp chí Ngôn ngữ”, Khoa Văn học và ngôn ngữ - Trường
Đại học khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh
((http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article
&id=2894%3Av-c-mu-va-c-mu-nc-trong-th-bui-
giang&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-
hc&Itemid=135&lang=vi’).
(10/5/2014), “Giấc Vu Sơn”, 4phuong.net 118. Nguyễn Tử Quang
(http://4phuong.net/ebook/12918617/19083422/giac-vu-son.html).
119. Nguyễn Bích Nhã Trúc (5/3/2014), “Biểu tượng cổ mẫu và thực tại phức
diện qua tiểu thuyết Murakami Haruki”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật
(http://vhnt.org.vn/NewsDetails.aspx?NewID=593&cate=97).
120. Hawkes T. (10/4/2014), “Khoa học về các ký hiệu”, Tạp chí Văn chương
Việt
(http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=d
etail&id=18502).
127
121. Ming-Donggu (16/8/2012), “Hồng học tâm bệnh: tiếp cận Hồng lâu
mộng từ góc nhìn phân tâm học”, Tạp chí Phê bình văn học
(http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=2994).
122. Raymond Firth (16/4/2012), “Khám phá những biểu tượng trong văn
học”, Tạp chí Phê bình văn học
(http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=410).
123. Lotman Iu.M (15/6/2013), “Ký hiệu quyển và vấn đề truyện kể”, Tạp chí
Phê bình văn học (http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=9404#more-
9404).
124. Lotman Ju. M. (15/2/2014) , “Ký hiệu học văn hóa và khái niệm văn
bản”, Khoa Ngữ văn – trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh
(http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=ar
ticle&id=11864:ki-hiu-hc-vn-hoa-va-khai-nim-vn-
bn&catid=4188:vn--vn-hc&Itemid=7197&lang=zh&site=30).
125. Lotman Ju. M. (10/11/2013), “Biểu tượng trong hệ thống văn hóa”, Tạp
chí Sông Hương (http://tapchisonghuong.com.vn/tin-
tuc/p0/c7/n11198/Bieu-tuong-trong-he-thong-van-hoa.html).
126. Riftin L. (19/10/2013), “Thể loại trong văn học Trung Quốc thời trung
đại”, Khoa Văn học và ngôn ngữ - trường Đại học khoa học xã hội
và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh (http://www.khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article
&id=1194:th-loi-trong-vn-hc-trung-quc-thi-trung-i&catid=64:vn-hc-
nc-ngoai-va-vn-hc-so-sanh&Itemid=108).
127. Dư Anh Thời (17/9/2013), “Hai thế giới trong Hồng lâu mộng”, Khoa
ngữ văn – Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
(http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=a
rticle&id=14869%3A2013-09-17-14-39-04&catid=4242%3At-liu-
128
vn-hc&Itemid=7335&lang=vi&site=30).
128. Thân Tài Xuân (12/6/2013), “Đạo giáo và truyền kỳ đời Đường”, Khoa
Văn học và ngôn ngữ – trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh (http://khoavanhoc-
ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article
&id=3119%3Ao-giao-va-truyn-k-i-ng&catid=64%3Avn-hc-nc-
ngoai-va-vn-hc-so-sanh&Itemid=108&lang=vi).
TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
129. Blanka Knotkova-Capkova (5/3/2006), “Symbols of Water and Woman
on Selected Examples of Modern Bengali Literature in the Context
of Mythological Tradition”
(http://appweb.cortland.edu/ojs/index.php/Wagadu/article/viewArticl
e/250/464).
130. Tristan Gerard Brown (15/12/2013), The Metaphorical Dimension of
Symbol Price and Red – World values in Hong lou meng
(http://thjcs.web.nthu.edu.tw/ezfiles/662/1662/img/1294/THJCS414-
6.pdf).
131. William H. Nienhauser Jr. (University of Wisconsin) (29/11/2013), Haun
Saussy (Yale University) and Michelle Yeh (University of
California-Davis), Flowers in the Mirror, Moonlight on the Water:
Images of a Deluded Mind, Magazine CLEAR
(http://www.jstor.org/discover/10.2307/823478?uid=3739320&uid=
2134&uid=2477145677&uid=2477145667&uid=2&uid=70&uid=3
&uid=60&purchase-
type=both&accessType=none&sid=21103087981937&showMyJstor
Pss=false&seq=1&showAccess=false).
132. Li Xiaodong và Yeo Kang Shua (1/1/2014), The Propensity of Chinese
Space: Architecture in the Novel Dream of the Red Chamber,
129
magazine TDSR volume XIII, number II, 2002, page 49
(http://iaste.berkeley.edu/pdfs/13.2e-Spr02li-yeo-sml.pdf).
133. XU Xiang-dong (30/11/2013),中国古代长篇小说象征现象初探,
Huaibei Normal University Anhui (http://www.xzbu.com/5/view-
1859200.htm).
134. 杨海波 (7/3/2014), “本体象征_红楼梦_象征艺术的终极旨归”,
“红楼梦学刊”2010年01期
(http://wenku.baidu.com/view/dcb4b5fc04a1b0717fd5dd5e.html).
135. 程晓芝 (2/4/2014),《红楼梦》象征主义创作方法初探, 江南大学
文学院 ,江苏 无锡
(http://zzs.jiangnan.edu.cn/UploadFile/2006_12_8_73013_161436.p
df).
136. 董文成 (12/6/2014),
论《金云翘传》对《红楼梦》艺术创新的多重影响(下),
《红楼梦学刊》, 1999年第4期
(http://www.ilf.cn/Theo/75155.html).
137. (15/6/2014), “学学《红楼梦》中大观园的山、水、植物造园”,
(http://www.yllhzx.com/news/12251083.html).
138. (10/8/2014), “从大观园探曹雪芹的造园思想”,
(http://www.yllhzx.com/news/12251434.html)
139. (12/8/2014)《红楼梦》的园林艺术”
(http://www.yllhzx.com/news/12359519.html).
140. (4/9/2014), 大清疑案真相之曹雪芹家世谜案真相”, 中国历史网, ,
(http://www.baijiajiangtan.org/zhonghualishi/qingchao/1654.html).
PHỤ LỤC
本体象征 —《红楼梦》象征艺术的终极旨归
( 杨海波)
“红楼梦学刊”2010年01期
11/2/2014, (http://wenku.baidu.com/view/dcb4b5fc04a1b0717fd5dd5e)
内容提要:就象征艺术来讲,本体象征是《红楼梦》最根本的艺术特
质,是《红楼梦》象征艺术的终极旨归。其具体表现在:一、以现实主义
创作原则,固守生活本体,关注生活本身,揭示生活本质,具有现实本体象
征意义;二、以深邃神秘的神话世界和超现实描写,追问人生本源,思考人
生价值,领悟人生哲理,具有生命本体象征意义;三、以纪实与写意、真实
与梦幻交织的神奇笔法,深刻表现男女爱情悲剧,尽情彰显人类本真情感,
具有情感本体象征意义。 关键词:《红楼梦》 本体象征 终极旨归
生活本质 人生哲理 本真情感
***
二十世纪九十年代以来,探讨《红楼梦》象征艺术的文章很多。这
些文章以不同的视角和切入点,从不同的角度、不同的层面探讨了《红
楼梦》的象征艺术:或认为《红楼梦》中顽石补天、木石前盟、太虚幻
境等神话世界具有象征功能;或认为《红楼梦》中的建筑、匾额、器物
、花草、文赋、诗歌、戏曲、吟句、签令、谜语、笑话等许多细微之
处充满象征意味;或认为《红楼梦》的一些人物形象具有象征意义……
等等
①
不一而足。以上观点,客观讲都触及到了《红楼梦》的象征艺术,有些研
究也还比较深入。但是,如果再更进一步探讨,就会发现,这些研究,大多
数还只是局限于某一方面或局部,认为《红楼梦》只是在某一方面、局
部运用了一些象征手法而已。而在所有探讨《红楼梦》象征艺术的文
章中,周思源先生的《论〈红楼梦〉的象征主义》
和李庆信先生的《〈红楼梦〉象征形态论》 ②
两篇颇具代表性。周思源先生认为《红楼梦》是“曹雪芹有意革新创作 ③
方法,自觉运用象征主义方法创作的小说”,“象征主义在小说中有总体性
、全方位、多层次的表现”。李庆信先生认为《红楼梦》
“不仅是一般含有象征意义,而是包容了作为艺术表现方法的几种主要象
征形态”,“就象征形态来讲有本体象征、寓言象征、符号象征”等。周思
源先生从“主义”的高度来论述《红楼梦》的象征艺术,确有其深刻之处,
但说《红楼梦》是象征主义小说,实在违背了《红楼梦》的现实主义精
神。李庆信先生认为《红楼梦》包含有本体象征、寓言象征、符号象
征等,就象征形态来讲似乎比较全面。但寓言象征、符号象征等概念,限
制了《红楼梦》深邃的思想艺术意蕴,更何况本体象征在《红楼梦》中
只局限于某一方面,显然也不符合《红楼梦》的实际。所以,以上观点均
还不能从根本上揭示出《红楼梦》象征艺术的独特本质。 笔者以为
《红楼梦》严格遵循现实主义的创作原则,十分细致逼真地反映了
一个封建家族的日常生活和封建末世的社会生活。但《红楼梦》的现
实主义不只是从一般意义上遵循了区别于其他创作方法的现实主义,而
是从更高、更深层面反映了现实。《红楼梦》在反映现实———
一个封建家族由盛而衰、由衰而亡的全部历史时,更细致、更逼真、更
客观、更艺术,即《红楼梦》展示的完全是现实生活的最原始、最本真
状态。因此,《红楼梦》作为一部伟大的文学作品,就其艺术掌握世界的
方式来讲,并不刻意追求某种象征手法或象征艺术,但《红楼梦》却以其
卓越的现实主义描写,以其发现、构建的一个平实的现实生活的客观世
界,来与现实世界整体对应,用艺术世界里的一切,隐喻整体世界。即作为
《红楼梦》象征体的文本,相对于客观世界来讲,具有本体意义。所以,《
红楼梦》既不同于隐喻式的符号象征,也不同于以怪异故事为外象的寓
言象征,而是具有本体象征意义。而且本体象征在《红楼梦》中具有整
体性,是《红楼梦》最根本的艺术特质,是《红楼梦》象征艺术的终极旨
归。无论是《红楼梦》的现实主义描写,还是《红楼梦》的神话世界。
为行文方便起见,本文将本体,或者世界本体分为现实本体、生命本体和
情感本体,分别从以上三个方面进行分析论述。
一、《红楼梦》以现实主义创作原则,固守生活本体,关注生活本身,揭示
生活本质,具有现实本体象征意义。
《红楼梦》反映的是一个封建家族、主要是荣、宁二府由盛而衰、由
衰而亡的全部历史。小说以其杰出的现实主义创作方法,紧紧围绕现实
生活本身,严格遵循生活本身的逻辑,通过深刻发掘现实生活本身的客观
原因,以及对琐碎的家庭生活内部深层矛盾和纠葛的逼真刻画,排除一切
神力、外力、命运、气数等对现实生活的歪曲描写,十分真实而又艺术
地再现了这个家族腐烂衰败的过程,从而揭示了那个时代灭亡的必然规
律。因此,《红楼梦》固守生活本体,关注生活本身,揭示生活本质,具有
现实本体象征意义。
《红楼梦》展示的是一个封建贵族大家庭的物质生活和精神生活的方
方面面,并影射到当时广阔的社会图景,其反映现实生活的深度和广度,及
其写实的程度和力度都达到了空前的水平。《红楼梦》第一回曹雪芹
针对当时小说创作中“假拟妄称”的积习,公开申明他的小说是一部写实
作品,并提出了一系列写实主义的文学创作主张。他借石头之口对《红
楼梦》中的情节、人物作过如下说明:至若悲欢离合,兴衰际遇,则又追踪
摄迹,不敢稍加穿凿,徒为供人之目而反失其真。……我半世亲睹亲闻的
这几个女子,虽不敢说强似前代书中所有之人,但事迹原委,亦可以消愁破
闷……。
可见,曹雪芹明确认为文学创作必须以现实生活为基础:无论写情节还是 ④
写人物,都必须有来自现实生活的素材和“亲睹亲闻”的模特—
决不能凭空杜撰。曹雪芹正是在这样的写实主义文学主张的指导下进
行他的文学创作的。也正因为如此,《红楼梦》故事的“悲欢离合,兴衰
际遇”,都是如实的“追踪蹑迹,不敢稍加穿凿”,即使是“家庭闺阁中一饮一
食”也“比历来风月故事更加琐碎细腻”,《红楼梦》完全将生活的一种原
生态呈现在读者面前。
《红楼梦》对现实生活的固守和关注,对现实生活的真实反映,主要表现
在对人情世态描写的细致入微、逼真如见。众所周知,《红楼梦》中确
有一些历来为人所称道的、富有典型意义的大事件,如“秦可卿之死”、“
元妃省亲”、“宝玉挨打”、“抄检大观园”等,还有一些特别富有诗意的小
事件,如“宝钗扑蝶”、“晴雯撕扇”、“香菱解裙”、“平儿理妆”、“湘云醉
卧”等。以上事件在整个《红楼梦》故事中,对推进情节和刻画人物都举
足轻重、不可替代。小说对这些事件的来龙去脉、情节场面交代和刻
画得自然浓墨重彩,细致入微。但《红楼梦》更难能可贵的是对一些既
非大事、也无任何诗意的生活琐事也能做到准确捕捉、如实描写,使人
过目不忘。如小说第五十九回至第六十一回所写的“柳叶渚边嗔莺叱燕,
绛云轩里召将飞符”、“茉莉粉替去蔷薇硝,玫瑰露引出茯苓霜”以及“投
鼠忌器宝玉瞒脏,判冤决狱平儿行权”等情节,这些故事实在不被一般读
者所重视,就连研究者也很少提及,但《红楼梦》却作了非常详细的描写,
交待了一些小人物如芳官、藕官、春燕、春燕娘、春燕姑妈、赵姨娘
、贾环、彩云、柳家的、柳五儿、小蝉、翠墨、夏婆子等的恩恩怨怨
、是是非非,以及一些矛盾纠葛的来龙去脉。这些生活琐事,确实与大事
件和主要人物似乎没有关系或者关系不很紧密,小说也似乎可以不写或
者略写,但《红楼梦》却写得细腻、逼真。正是这种对生活琐事的细腻
、逼真刻画,才表现了整个贾府上上下下矛盾重重,一片混乱,也使《红楼
梦》深入到了社会生活的底层,从更写实、更真实的层面“叙贾府盛衰情
事”。这一切完全得力于作者对现实生活本体的执着固守和对生活本身
的强烈关注。还是清人王希廉说得好,他说:
一部书中,翰墨则诗词歌赋、制艺尺牍、爰书戏曲,以及对联扁额、酒令
灯谜、说书笑话、无不精善;技艺则琴棋书画、医卜星相,及匠作构造、
栽种花果、畜养禽鱼、针黼烹调、巨细无遗;人物则方正阴邪、贞淫顽
善、节烈豪侠、刚强懦弱,及前代女将、外洋诗女、仙佛鬼怪、尼僧女
道、娼妓优伶、黯奴豪仆、盗贼邪魔、醉汉无赖,色色俱有;事迹则繁华
筵宴、奢纵宣淫、操守贪廉、
宫闱仪制、庆吊盛衰、判狱靖寇,以及讽经设坛、贸易钻营,事事皆
全;甚至寿终夭折、暴病亡故、丹栽药误,及自刎被杀、投河跳井、悬梁
受逼、吞金服毒、撞阶脱精等事,亦件件皆有。可谓包罗万象,囊括无遗,
岂别部小
二
一年 第一辑 88 说所能望见项背。
对于《红楼梦》的写实以及对现实生活本体的执着固守和对生活本身 ⑤
的强烈关注,鲁迅也给予很高评价,他说:“正因为写实,转成新鲜。”
“其要点在敢于如实描写,并不讳饰。” ⑥
的确,《红楼梦》确实是严格意义上的现实主义,严格用“写实”之笔,将人 ⑦
情百态尽收笔底,使其妍媸毕现,真正到了“化工”的境界。所以,《红楼梦
》始终固守生活本体,关注生活本身,像生活本身一样细致逼真、丰富多
彩。
但《红楼梦》表现现实生活又并非毫无选择的自然主义描写,而是比现
实生活更集中,更真实,更典型。也就是说,《红楼梦》并不是照录生活,
只表现生活的表象,而是通过对生活素材进行提炼加工揭示生活本质,从
而达到艺术真实。这个本质和真实,就是通过对一系列富有典型意义的
事件的现实主义描写,揭示贾府必然衰亡这一历史趋势。
曹雪芹在《红楼梦》第一回中明确提出“追踪蹑迹”,“亲睹亲闻”的主张,
但他同时认为《红楼梦》“只取其事体情理罢了” ,也就是说《红楼梦
》是根据客观生活固有的“情理”,选取最符合这个“情理”的“事体”,来进 ⑧
行文艺创作,决不是生活的如实照录。第四十二回,曹雪芹通过薛宝钗谈
画,就表达了他写实而不是实录的主张。这段关于绘画的理论,实际上反
映了他的文学创作主张。他认为尽管园子本身“像画儿一般”,但若照样
往纸上一画,是“必不能讨好
”的,即文艺作品反映生活必须通过艺术加工。《红楼梦》正是曹雪
芹这种文学主张的成功实践。小说一开始就写贾府已经落入“百足之虫,
死而不僵”的境地了,外表虽还气象峥嵘,但内囊却也尽上来了。紧接着
通过一系列富有典型意义的事件和故事情节,揭示了贾府一步步走向衰
亡的整个过程。而造成这种情况的原因首先在于合府上下贪图享乐者
多,操心谋划的少,导致经济上的入不敷出。再则还有贾府大小主子的你
争我夺,只顾一己之私,而不顾家庭全局利益,所以抄家的风暴一来,这个
封建大家族再也撑不住轩峻的外壳,呼喇喇地坍塌了。在贾府的衰亡过
程中,人的因素是最大的,小说详细刻画了贾府的各色人等:贾政虽端方古
直,但治家无能;贾赦、贾珍、贾琏一伙淫乐无度,实乃家庭败类;贾宝玉
来历非凡、衔玉而生,被认为是众多的子孙中唯一像他爷爷的,却沉溺于
自己固有的生活,对家族的兴衰了不关心;王熙凤的才能虽无人能比,但却
表现出对权势、金钱令人生畏的强烈贪欲。正是由于她的作势弄权,为
贾府的衰败种下了无数孽根。至于探春理家所采取的兴利除弊的改革
措施,也未能挽救贾府的颓势,以失败而告终,贾府终于“忽喇喇似大厦倾”
,彻底败落,“落了片白茫茫大地真干净”。可以看出,《红楼梦》不像《封
神演义》《金瓶梅》把朝代更替、家庭衰亡的悲剧归结为命运、气数
或善恶报应、因果轮回,而是通过艺术加工,真实地写出了家庭内部的矛
盾重重,写出只有内部腐烂了,外边杀来才会一败涂地这样一个事实,从更
真实、更典型的程度揭示了贾府由盛而衰、由衰而亡的本质特征。
因此,《红楼梦》确实是以一个平实的客观世界,冷静地反映了人类的社
会生活,以“伟大的现实性”,即最普通最宏大的现实生活本身表现了深刻
的思想意蕴,更加典型、深刻地揭示了生活的本质,从而达到本体象征的
高度。二知道人把《红楼梦》与《史记》中的世家相比,说:“太史公三
十世家,曹雪芹只记一家”,“曹雪芹记一世家能包括万千世家,假语村言不
啻于晨钟暮鼓。”
⑨
这是对《红楼梦》通过如实、客观、典型的现实主义描写,进而揭示贾
府必然衰亡这一生活本质,从而达到本体象征意义的最好评价.
二、《红楼梦》以深邃神秘的神话世界和超现实描写,追问人生本
源,思考人生价值,领悟人生哲理,具有生命本体象征意义。
《红楼梦》细致入微地反映了一个封建家族的衰亡史,其创作方法总体
上讲是现实主义的。但《红楼梦》在如实反映现实的同时,又创造了一
个深邃神秘的神话世界,夹杂着类似魔幻色彩的超现实描写。《红楼梦
》的神话世界和超现实描写,不是一般意义上的神话故事:或表现对美好
理想的执著追求,或表现正义对邪恶的胜利,只是在某一方面具有局部象
征意义。
而是同《红楼梦》的现实主义描写扭结在一起,二者共同建构了意蕴深 ⑩
刻的红楼世界,是《红楼梦》现实主义描写不可分割的有机组成部分,因
此,更有其
深刻的象征意蕴。《红楼梦》中的这些神话和超现实描写其实是对人
生本源的追问,对人生价值的思考,对人生哲理的领悟。它表现的是世间
万物千变万化,揭示的是社会、人生、生命的运动规律,是对人类生命本
体的考问和思索,因而具有生命本体象征意义。
第一,《红楼梦》中“顽石补天”、“木石前盟”和“太虚幻境”三个神话追
问人生本源,思考人生价值,领悟人生哲理,具有生命本体象征意义。
正如有的学者所指出的,《红楼梦》就叙事意蕴角度讲建构了“空”、“色
”、“情”三个世界。λϖ这三个世界分别对应着《红楼梦》的三个层面:
即现实层面、神话层面、现实和神话交织的层面。其中,“色的世界”对
应着现实层面,即贾府的衰亡史。“情的世界”既对应现实层面,又对应神
话层面,因为《红楼梦》对情的描写既是现实的,又是非现实的。所谓现
实的,主要指现实世界的宝黛爱情悲剧。所谓非现实的,是指《红楼梦》
对情的描写又与众多神话密不可分。而“空的世界”则完全属于神话层
面,主要由“顽石补天”
“木石前盟”和“太虚幻境”三个神话组成。整个《红楼梦》对“空的世界”
虽然着墨不多,但它却是《红楼梦》全书的终极纲领,在三个世界中处于
最高层面,非常具有哲理意味和极为深刻的思想意蕴。不仅是《红楼梦
》全书所描写一切人物、事件的本源,而且又派生了“色的世界”和“情的
世界”,还是“色”、“情”两个世界的最终归宿。而在三个神话中,“顽石补
天”神话又处于最高层面,是整个红楼故事的本源,是它开启了红楼故事,
又贯穿着红楼故事的始终。其主要功能是交待顽石的来历和归宿,也即
贾宝玉的来历和归宿。因此,这一神话,绝非一般意义上的一个简单神话,
而是有深刻的象征意蕴:首先,顽石(贾宝玉)因无才补天,便到“花柳繁华
地,温柔富贵乡”的贾府来享受荣华富贵,在经历了一番世态炎凉之后,最
后又复归青埂峰下。顽石的这一历劫经历非常明显的隐含着人从何处
来,又到何处去,即人的来历和归宿这一深刻的哲学命题。其次,“顽石补
天”神话中,作为全书主要人物贾宝玉人生历程的起点和归宿,所谓“大荒
山无稽崖”,也就是荒诞无稽之意,其抽象意蕴便是荒诞和虚无。又因为,“
空”、“无”对应着“色”、“有”,所以,贾宝玉所生活的“色的世界”中的封建
大家族也就成了“贾(假)府”,成了瞬息万变的假象。这里,作者显然是“以
幻作真”,把“空”、“无”视为真,将“色”、“有”视为假,即认为“大荒山无稽
崖”也就是“空”乃是世界之本源,这也是一个极具思辨色彩的哲学命题,与
第一个象征意义一样,是对人生本源和世界本源的深刻追问。第三,整个
《红楼梦》表现的是石头(贾宝玉)“因空见色,由色生情,传情入色,自色悟
空”的醒悟过程。曹雪芹通过石头(贾宝玉)的历劫经历与醒悟表达了自
己的人生幻灭感。石头的最后回归已不是原来的石头,而是在“觉今是而
昨非”的心理体验基础上的一次回归,是对自然本体世界的重新归返,是
对自己精神家园的深深依恋。石头通过下凡历劫,在经过了人世风雨的
刮垢磨光,经过了绛珠泪水的洗涤之后,明显带着重重困惑和矛盾之情,当
然也镌刻着人生温馨而痛苦的记忆。所以,石头的最后回归是一种超越
与提升,是觉悟后的另一种境界。因此,石头(贾宝玉)的轮回过程,其象征
意蕴便是:人生必须经过现实世界的磨洗与理想境界的追求与幻灭方可
达成,这显然又是从经验世界到超验世界的提升过程,是以“情”为纽带从
形而下的“色”的体验到形而上的“空”的升华。可见,“曹雪芹在《红楼梦
》中所关心的不是世俗的生活,而是人类灵魂的去向、精神的有无”
λω,关注的是人类生命本源及其走向的深刻问题。
“木石前盟”神话是一个带有忧伤意味的美丽爱情神话。当初神瑛侍者
每日辛苦采集甘露浇灌绛珠仙草,后来,绛珠仙草化为黛玉,泪水涟涟,以
泪洗石。“这首先说明爱的起点正在于奉献而非索取,也说明人类社会男
人和女人应相互关怀,相互塑造,相互净化,缺失任何一方,人生将失去生
命和活力”。
λξ同时,因为木石皆自然之物,所以这个神话也意味着姻缘自然、自发、
质朴、美丽、符合人的天性等本质。而宝黛姻缘又起于甘露与眼泪,所
以具有至清、至纯、至柔、至悲的性质。后来,“木石前盟”转化为大观
园里的宝黛爱情,构成了“情的世界”的核心内容。它与“色的世界”中的“
金玉良缘”相对立,又与皮肤滥淫相比照。滥淫者为蠢物,浸透着被“色的
世界”所污染、所异化的“欲”,已与真情无缘。金、玉皆为造作之物,是富
贵的象征,代表着庸俗和势利。故“金玉良缘”为矫情,是“色的世界”对人
情、人性的异化和扭曲。然而故事最终的结果是有盟的未能成为眷属,
却带走了对方的心;有缘的成了眷属,却永远也找不到精神的归宿。因此,
这一神话故事不仅使现世爱情蒙上了一层神秘朦胧而又凄美的悲剧色
彩与感人魅力,更表露出曹雪芹浓重的人生困惑:人故当为情而生,缘何情
缘又总归虚幻?人生于世的目的和价值究竟何在?
“太虚幻境”是“空的世界”又一个重要的组成部分。它是天上的女儿国,
处于“离恨天之上,灌愁海之中”,珍藏着“普天下所有女子过去未来的簿册
”。主管者为兼爱神、美神于一身的警幻仙姑。她“司人间之风情月债,
掌尘世之女怨男痴”,掌管着天下女子(包括贾宝玉)过去未来的命运。所
以这一神话表示着人生的归宿与命运指向,也隐寓着人向何处去这一哲
学命题。为了与太虚幻境相对应,曹雪芹又为众女儿和贾宝玉建造了地
上的太虚幻境大观园。大观园是地上的女儿国,曹雪芹的乌托邦,贾宝玉
的伊甸园。遗憾的是大观园最终也无可挽回地毁灭了,大观园的最终毁
灭象征着曹雪芹理想的破灭,贾宝玉现实人生的无所皈依,精神家园的丧
失。从太虚幻境的幻设到大观园的毁灭,曹雪芹真实再现了处于封建末
世中的贾宝玉和众女子的悲剧命运,揭示出人生无路可走、悲哀无奈的
存在状态,这也是对人生哲理的深刻思考。
总之,《红楼梦》的三个神话以石头神话为主体,相互联系,形成一个统一
的神话结构体系和象征系统。《红楼梦》全书的主要情节与人物命运
均受这一神话体系的制约。如宝黛爱情源自木石前盟的神话,大观园中
众女子的命运均受太虚幻境的制约,贾宝玉的人生命运也为石头神话所
规定。所以,《红楼梦》的神话世界是形而上的本体世界,是天地万物的
本体。这一神话体系的构筑表现出曹雪芹对人生价值和本源的深刻思
索,对人的现实存在的深度焦虑,其思考和追问的焦点是生命存在的价值
与意义等形而上意味的最高哲理问题,显然具有生命本体象征意义。
第二,《红楼梦》其他超现实描写,表现世间万物千变万化,揭示社会、人
生、生命的运动规律,具有生命本体象征意义。
《红楼梦》除上述三个神话外,在其他很多地方运用超现实描写等各种
艺术手段思考人生、社会哲理,表现世间万物千变万化,周而复始,揭示了
社会、人生、生命的运动规律。《红楼梦》第一回,作者就以石头与一
僧一道谈话的方式写道:“那红尘中虽有些乐事,但不能永远依恃,……瞬
息间则又乐极生悲,人非物换,究竟是到头一梦,万境归空。”同回中又写
跛足道人所唱《好了歌》和甄士隐所作《好了歌》解注,清楚地表明世
间人事变换,盛衰交替之状。此一歌一谣虽具世事难料,万事皆空的消极
意味,实际却道出了人类社会生活的运动规律。即事物是在不断发展变
化,盛极必衰,乐极生悲。自古及今,从来没有一成不变的东西。无论是自
然界的星转斗移,月盈月亏,春夏秋冬季节的变换,植物的生长荣枯,人类
的幼成老死,国家的兴衰成败等等,莫不如此。再如第五回中写贾宝玉梦
游太虚幻境时所听《红楼梦》十二支曲之《虚花悟》、《聪明累》、
《晚韶华》以及《收尾・飞鸟各投林》等曲,在咏叹人物悲剧命运的同
时,也程度不同地流露出祸福相倚,瞬息万变的旨义。最典型的则是第十
三回所写秦可卿临终前对凤姐嘱咐所说:“月满则亏,水满则溢”、“登高必
跌重”、“盛宴必散”、“乐极悲生”和“否极泰来,荣辱自古周而复始”
等语。虽为表现秦可卿之见识非凡,但更主要的则是体现了曹雪芹
对人生、对社会哲理、对事物和生命运动规律的感悟和认识,不仅给人
以深刻的哲理警示,也使《红楼梦》的生命本体象征意义向纵深开展。
苏联电影理论家马契列特在《关于电影艺术的诗学》一书中指出纪实
性艺术必须具备几个最基本的美学特征,其中有两条是最重要的:一是强
调生活面貌令人信服的逼 © 1994-2011 China Academic Journal
Electronic Publishing House. All rights reserved. http://www.cnki.ne
本体象征———《红楼梦》象征艺术的终极旨归 95
真,作品中出现的现象最好就象“移植”生活一般,而不要热衷于戏剧性的“
重组”;二是要把一切散淡风致都升华为象征的表现力而直通哲理。
λψ这两条其实就是本体象征的真谛所在。生活是哲理化的,哲理也是生
活化的。生活———哲理———
艺术三位一体,互相依存,共同构成一个宏伟的审美盛典,通向了生活、哲
理、艺术共归的理想,从而散发着本体象征的迷人馨香。
三、《红楼梦》以纪实与写意、真实与梦幻交织的神奇笔法,深刻表现
男女爱情悲剧,尽情彰显人类本真情感,具有情感本体象征意义。
毫无疑问,《红楼梦》是一部写“情”的小说,堪称“言情”之最。脂评说:“
《石头记》之为书,情之至极,言之至确”(第十八回夹批)。花月痴人也说
:“《红楼梦》情书也,
作是书者,盖生于情,发于情;钟于情,笃于情;深于情,恋于情;纵于情,困于
情;癖于情,痴于情;乐于情,苦于情;失于情,断于情;至极乎情,终不能忘于
情。唯不忘乎情,凡一言一事,一举一动,无在不用其情,此之谓情书。”
λζ在中国小说史上,没有哪一部小说像《红楼梦》这样对“情”的描写如
此震撼人心、博大深沉。因而,《红楼梦》也具有情感本体象征意义。
第一,围绕宝黛爱情悲剧,表现了人类爱情婚姻悲剧的深层问题,
揭示了人类爱情婚姻悲剧的本质,蕴涵着非常丰富而深刻的时代和
社会内容,具有情感本体象征意义。
《红楼梦》通过宝黛爱情悲剧大力弘扬志趣相投、互为知己的忠贞不
渝的爱情,开拓了中国文学史上爱情描写的新领域。宝黛爱情悲剧不是
一个简单的郎才女貌、才子佳人爱情被破坏最后酿成的悲剧。《红楼
梦》通过深刻的描写和刻画,揭示出宝黛爱情悲剧的根本原因是“情”与“
礼”的冲突,也就是木石前盟和金玉良缘的冲突,这种冲突直指爱情婚姻
问题的本质。对贾宝玉来说,可以任意选择爱情对象。钗黛都是才貌兼
美的绝世佳人,环肥燕瘦,各有千秋,国色天香,难分轩轾。但后来,随着了
解的日渐深入,宝玉的态度日渐明朗,最后选择的是木石前盟,而非金玉良
缘。促成这一抉择的决定性因素主要不是才和貌,而是思想志趣的一致
。黛玉重“情”,宝钗守“礼”,所以,宝钗虽然“艳冠群芳”,但却因冷漠“无情”,
而得不到宝玉的爱情。这种严重的思想隔阂,是宝玉否定金玉良缘的关
键原因。同理,木石前盟———
宝黛爱情正是有坚实的思想基础,所以才成为宝玉执着追求的目标。但
不幸的是,最后胜利不属于木石前盟,而是金玉良姻。黛玉在宝玉和宝钗
成婚的鼓乐声中,魂归离恨天,木石前盟的梦想彻底被打碎。更为可
悲的是,黛玉“红消香断”,宝玉抱恨终身,宝钗也并未因宝玉最后”悬崖撒
手”而从“金玉良姻”中得到幸福。木石前盟是没有婚姻的爱情,本来可悼,
金玉良缘是没有爱情的婚姻,更觉可悲。所以,宝黛爱情是“彻头彻尾的
悲剧”,非常震撼人心。而且悲剧的制造者既不是宝钗,也不是宝玉,而是
两种思想的格格不入、水火不容。因此,《红楼梦》中宝黛爱情对人类
爱情婚姻悲剧的表现极为深刻,揭示了人类爱情婚姻悲剧的本质,就爱情
悲剧来讲,实在具有本体意义。
《红楼梦》不仅深刻表现了宝黛爱情悲剧,而且围绕宝黛爱情悲剧,创造
了一个人间社会“情的世界”———
生活在大观园中的一群天真无邪、活泼烂漫的少男少女。《红楼梦》
通过这些少男少女,对“情”进行了热情的赞美。在这里,曹雪芹将
“情”作为人生的最高理想:美好的人生理想和美好的爱情理想。他
认为人生即为情,人生即有情,情在则人生有意义,情亡则人生无意义。显
然,这是对中国古代“至情论”的情感至上主义的进一步发展,是对明中叶
以来倡导真情、抒写“性灵”的人文主义思潮的进一步开拓。然而,曹雪
芹毕竟是一个清醒的现实主义者,《红楼梦》又深刻展现了这群少男少
女的爱情婚姻悲剧。司棋为潘又安、尤三姐为柳湘莲悲壮殉情;金钏投
井,尤二姐吞金,晴雯夭亡;还有袭人、香菱、芳官、贾府四艳、妙玉、湘
云、李纨……“情的世界”在作者笔下尽管被渲染得无限妩媚多姿,充满
着诗情画意,然而在和“无情世界”的对抗中很快归于消亡。“情的世界”
如此脆弱,说明作者又对“无情世界”的冷酷有着清醒的认识,对“有情世界
”的光明前景和美好理想充满迷茫。“更有情痴抱恨长”,美好生活的逝去,
爱情理想的破灭,镜花水月一般的梦幻意识浸透了曹雪芹的人生观和世
界观,更浸透了曹雪芹对“情”的极度深刻领悟。
第二,贾宝玉形象,尽情彰显人类本真情感,凝聚着作者对“情”的世界极广
泛的开拓和极深远的思考,具有情感本体象征意义。
首先,作为人类本真情感理想的化身,贾宝玉除了他和林黛玉刻骨铭心、
动人心魄的爱情悲剧外,小说还极力突出他是一个绝世“情痴”、“情种”
、“情圣”。他为情所生,为情而活,对世间一切他都钟情博爱。小说中写
道:贾宝玉从小行为上就很“怪僻”,一岁时抓周只捡了脂粉簪环;童年时又
习惯在内闱厮混;后来更形成了他独特的理论“水泥骨肉论”和“女儿三变
论”。在日常生活中,他将“情痴”、“情种”、“情圣”的性格特征发挥到了
极致,对所有女孩都一贯作小伏低,不顾身份的高低贵贱,尽情体贴,话语
缠绵,以至于见到单纯质朴的村姑都“恨不得一时跟了去”。这种对身边
所有青春少女体贴用情,以致“博爱而心劳”,甚至到了匪夷所思的地步。
《红楼梦》第十九回有一段文字:宝玉见一个人没有,因想:“这里素日有
个小书房,内曾挂着一轴美人,极画的得神。今日这般热闹,想那里自然无
人,那美人也自然是寂寞的,须得我去望慰他一回。”
λ{对贾宝玉的这些怪癖行为,蒙古王府本又有一条旁批曰:“天生一段痴
情,所谓‘情不情’也。”“情不情”,正是贾宝玉作为“情痴”的重要性格特征,
也是他作为人类本真情感理想化身的具体表现。这种“情不情”在中国
文学史上确实罕见,《西厢记》中的张生,《聊斋志异》中的孙子楚(《阿
宝》)、耿生(《青凤》
)都无法与贾宝玉相比,充其量是“情情”罢了。相较之下,贾宝玉确实为情
痴中古今未见之人。显然,作者在贾宝玉身上寄托着人类的情感理想,贾
宝玉体现的是人世间最清爽的“真人”、“真性情”、“真灵魂”。
不仅如此,曹雪芹还通过贾宝玉,表现了他心目中“情”的更高更宽广的境
界,即万物皆有情。《红楼梦》中写贾宝玉与燕子、鱼儿说话,对着月亮
长吁短叹,把花木也都看作有情之物。如《红楼梦》第七十七回写晴雯
被逐,贾宝玉为此担心、伤心,与袭人有一段对话:宝玉道:“这阶下一株好
好的海棠花,竟无辜死了半边,我就知有异事。果然应验在他身上。”袭
人听了,又笑起来,因说道:“……草木怎么关系起人来?若不婆婆妈妈的,
真也成了个呆子了!”宝玉叹道:“你们哪里知道,不单草木,凡天下之物皆
是有情有理的,也和人一样得了知己,便极有灵验的。若用大题目比,就有
孔子庙前之桧、坟前之蓍,诸葛祠前之柏,岳武穆坟前之松。这都是堂堂
正大随人之正气,千古不磨之物。世乱则萎,世治则荣,几千百年了,枯而
复生者几次。这不是兆应?小题目比,就有杨太真沉香亭前之木芍药,端
正楼之相思树,王昭君冢上之草,岂不也有灵验?所以这海棠亦应其人欲
亡,故先就死了半边。”
λ|这段文字不但表现了贾宝玉之“情不情”,更体现出曹雪芹至情至性、至
真至善的天性和心地,是他对“情”的内涵的进一步开拓。这一认识和境
界,是对古已有之“天人感应”意义的延伸。因为在曹雪芹看来,人有情,自
然万物亦应有情,“情”涵盖自然万物,人与人,人与自然应能互感而沟通,
达到和谐和统一。这是对自然、对社会乃至整个宇宙的哲理思考和睿
智把握,有着更为深远的精神指向。
其次,贾宝玉形象的核心是他的“意淫”,《红楼梦》通过“意淫”尽情彰显
了人类本真情感。贾宝玉梦游“太虚幻境”时,警幻仙姑以“意淫”来点化
他,正是由于在这里的所看、所思、所问,成为“以情为本”的贾宝玉本真
有情生命的启蒙。“意淫”使我们从另一个层面看到了贾宝玉作为一个“
情痴”、“情种”、“情圣”之惊世骇俗、惊天动地、可歌可泣的一生!本来,
就词语含义而言,“意淫”是指人类情感在精神向度上超常、过度的释放,
具有无法限定,无比丰富的特质。但《红楼梦》中警幻仙姑指出贾宝玉
的“意淫”是人的正常情感欲求。之所以被警幻独许为“天下古今第一淫
人”,就是因为贾宝玉的情感生命“搏击掀发”,“在正常健康的本能欲求之
内在动力的驱动与强烈崇高的精神神性之引领下,具有从感性欲求向精
神欲求不断生发、不断升华的特质。”
λ}“意淫”说揭示了人类情感的本真世界,显示了人类情感精神层面所具
有的不断生成、不断生发、无限丰富、无比深邃的内涵,它是对人类本
真情感生命的言说.
所以,曹雪芹让“情”,包括博爱、自由、平等、个性解放、人文情怀
、“意淫”等人类本真情感君临贾宝玉形象,使“以情为本”的贾宝玉形象
成为一种宏大精神的起落点,溶铸着世俗的、时代的、民族的、阶级的
、人类乃至宇宙的精神和特点,是对现实生活极广泛的开拓和极深远的
思考,具备俯瞰社会、洞穿历史的视野,不仅使贾宝玉形象具有了本体象
征意义,而且也使《红楼梦》对“情”的描写和反映具备了本体象征意义
。
以上主要从三个方面对《红楼梦》的本体象征意义进行了分析论述,其
实,《红楼梦》思想内容博大精深,本体象征意义还有多方面表现,但限于
篇幅,恕不赘述。 艺术,就其本质而论是一种象征,是一种有限形式对无
限内容的直观显示。而本体象征则是象征艺术王冠上的璀璨明珠,它以
艺术作品发现构建的一个平实的客观世界来与世界整体对应。它要求
艺术作品必须客观冷静地反映人类的社会生活,作品的思想内容和人物
形象必须达到高度的现实性,作品的一切深刻思想意蕴都要发自于最普
通最宏大的现实生活本身。同时,本体象征又是一种涵盖客观世界和主
体精神的宽广现象,它在形象和精神的融合中以精神为终端,而不是以形
象为终端。它不单需要对现实生活的精细体察、全方位反映以及艺术
表现的娴熟技巧,而且需要对现实生活的极广泛的开拓和极深远的思考
。现代绘画大师康定斯基说:“现代的艺术体现着已经成熟达到启示的精
神,体现着形式可以安排在两个‘极’之间。
Bài dịch
TƯỢNG TRƯNG BẢN THỂ - MỤC ĐÍCH TỐI THƯỢNG CỦA
NGHỆ THUẬT TƯỢNG TRƯNG TRONG “HỒNG LÂU MỘNG”
Tác giả: Dương Hải Ba
Học san “Hồng lâu mộng” năm 2010 kỳ 1
(7/6/2014),
(http://wenku.baidu.com/view/dcb4b5fc04a1b0717fd5dd5e.html)
Tóm tắt nội dung: lấy nghệ thuật tượng trưng mà nói, tượng trưng bản
thể là cái độc đáo căn bản nhất của “Hồng lâu mộng”. Nó là nội dung cuối
của nghệ thuật tượng trưng trong tiểu thuyết này. Điều đó được biểu hiện cụ
thể ở chỗ:
1/ Lấy nguyên tắc sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực, tham gia với
những bản thể trong cuộc sống, quan tâm đến bản thân sự sống, tiết lộ bản
chất của cuộc sống, có ý nghĩa của tượng trưng bản thể hiện thực.
2/ Miêu tả sâu vào thế giới thần thoại và siêu hiện thực, truy vấn nguồn
gốc ban đầu của loài người, suy ngẫm về giá trị của con người, lĩnh ngộ
được triết lý của cuộc sống, có ý nghĩa tượng trưng bản thể của cuộc sống.
3/ Lấy tài liệu viết về ý, bút pháp thần kỳ kết hợp hài hòa sự chân thật
và mộng tưởng, biểu hiện sâu sắc bi kịch ái tình của nam nữ, làm nổi bật bản
chất tình cảm của loài người, có ý nghĩa tượng trưng bản thể tình cảm.
Các từ quan trọng: tượng trưng bản thể trong “Hồng lâu mộng” cuối
cùng cũng quy về bản chất cuộc sống, triết lí nhân sinh, sự thật về tình cảm.
****
Từ những năm 90 của thế kỷ XX cho đến nay đã có nhiều bài viết viết
về nghệ thuật tượng trưng trong “Hồng lâu mộng”. Những bài viết đó bắt
đầu từ những góc nhìn khác nhau, các tầng khác nhau, cách dẫn nhập khác
nhau mà viết về nghệ thuật tượng trưng trong “Hồng lâu mộng”. Hoặc là cho
rằng luyện đá và trời, mộc thạch tiền minh, Thái hư ảo cảnh,... các thế giới
thần bí trong “Hồng lâu mộng” có công năng tượng trưng. Hoặc là cho rằng
kiến trúc, biển bảng, vật dụng, hoa cỏ, thơ ca, câu đố, câu hát, truyện cười,
câu ca kịch... trong “Hồng lâu mộng” cũng chứa đầy ý vị tượng trưng. Hoặc
cho rằng một số nhân vật trong “Hồng lâu mộng” mang ý vị tượng trưng...
Những quan điểm nêu trên, nếu nói một cách khách quan thì nó cũng thể
hiện được nghệ thuật tương trưng trong “Hồng lâu mộng”. Có một số bài
nghiên cứu cũng tương đối sâu sắc về điều này nhưng nếu tìm hiểu kỹ hơn
thì ta có thể phát hiện đại đa số đều còn hạn chế ở một vài phương diện hoặc
còn cục bộ khi cho rằng “Hồng lâu mộng” chỉ vận dụng một vài thủ pháp
tượng trưng mà thôi. Mà trong số những bài viết đó, đại diện là bài luận
Nghệ thuật tượng trưng trong “Hồng lâu mộng” của thầy Châu Ân Nguyên
và bài Luận hình thái tượng trưng “Hồng lâu mộng” của thầy Lí Khánh Tín.
Thầy Châu Ân Nguyên cho rằng Tào Tuyết Cần có ý cách tân phương pháp
sáng tác trong “Hồng lâu mộng”, tự giác vận dụng phương pháp sáng tác
tiểu thuyết theo chủ nghĩa tượng trưng. Chủ nghĩa tượng trưng trong tiểu
thuyết có biểu hiện tính tổng thể, toàn diện, nhiều tầng thứ. Thầy Lí Khánh
Tín cho rằng “Hồng lâu mộng” không chỉ là một con thuyền mang cả chủ
nghĩa tượng trưng, mà nó còn bao hàm cả hình thái tượng trưng chủ yếu của
phương pháp biểu hiện nghệ thuật. Lấy hình thái tượng trưng để nói về
tượng trưng bản thể, tượng trưng ngụ ngôn, tượng trưng biểu tượng... Thầy
Châu Ân Nguyên từ góc nhìn cao độ của “chủ nghĩa” để luận về nghệ thuật
tượng trưng trong nhưng lại bao hàm cả những gì sâu sắc nhất của nó. Nếu
như nói “Hồng lâu mộng” là tiểu thuyết chủ nghĩa tượng trưng thì lại vi
phạm tinh thần chủ nghĩa hiện thực của tác phẩm. Thầy Lí Khánh Tín cho
rằng hình thái tượng trưng trong “Hồng lâu mộng” có vẻ tương đối toàn
diện, bao hàm tượng trưng bản thể, tượng trưng ngụ ngôn, tượng trưng biểu
tượng... Nhưng khái niệm về tượng trưng ngụ ngôn, tượng trưng biểu tượng
thì lại hạn chế tư tưởng nghệ thuật sâu sắc của “Hồng lâu mộng”, huống hồ
tượng trưng bản thể trong “Hồng lâu mộng” có thể hạn chế ở một phương
diện, và nó cũng không phù hợp với tính thực tế trong tác phẩm. Cho nên,
những quan điểm trên đây căn bản chưa thể chỉ rõ bản chất độc đáo của nghệ
thuật tượng trưng trong “Hồng lâu mộng”. Những tác giả ấy cho rằng “Hồng
lâu mộng” tuân theo nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực bởi nó đã
phản ánh rõ nét một bức tranh sinh hoạt đời thường của một gia tộc phong
kiến. Nhưng chủ nghĩa hiện thực của “Hồng lâu mộng” không chỉ xuất phát
từ những ý nghĩa thông thường để tạo được sự khác biệt trong phương pháp
sáng tác chủ nghĩa hiện thực, mà còn từ góc độ cao hơn và sâu hơn khi phản
ánh hiện thực lịch sử một gia tộc phong kiến vì quá thịnh vượng dẫn tới tang
thương và diệt vong. Từ đầu đến cuối, “Hồng lâu mộng” đã phản ảnh toàn
bộ cuộc sống hiện thực một cách tỷ mỷ, chân thật, khách quan, nghệ thuật
nên nó được xem là một tác phẩm lớn. “Hồng lâu mộng” không có ý theo
đuổi bất cứ thủ pháp tượng trưng nào hoặc nghệ thuật tượng trưng nào,
nhưng lại dùng chủ nghĩa hiện thực của mình miêu tả, lấy đó mà phát hiện
và xây dựng một thế giới khác qua của cuộc sống hiện thực, để ứng với thế
giới hiện thực, dùng mọi thứ trong thế giới nghệ thuật để ẩn dụ toàn bộ thế
giới. Văn thể tượng trưng trong “Hồng lâu mộng” đối với thế giới quan mà
nói thì nó có ý nghĩa bản thể. Cho nên, “Hồng lâu mộng” đã không giống
với tượng trưng biểu tượng trong ẩn dụ, cũng không giống với tượng trưng
ngụ ngôn với những câu truyện quái dị, mà nó có ý nghĩa tượng trưng bản
thể. Tượng trưng bản thể trong “Hồng lâu mộng” có tính chỉnh thể, là nội
dung cuối của nghệ thuật tượng trưng. Bất kể là miêu tả về chủ nghĩa hiện
thực hay thế giới thần thoại trong “Hồng lâu mộng”, nó là tính chất đặc
trưng căn bản nhất. Để tiện cho lối hành văn, bài biết này lấy bản thể, hoặc
giới hạn bản thể, phân thành bản thể hiện thực, bản thể sinh mệnh và bản thể
tình cảm. Từ ba mặt trên tiến hành phân tích luận thuật:
1. “Hồng lâu mộng” đã dùng nguyên tắc sáng tác theo chủ nghĩa
hiện thực, giữ lấy bản thể cuộc sống, quan tâm bản thể cuộc sống, tiết lộ
bản chất cuộc sống, chứa đựng ý nghĩa tượng trưng bản thể hiện thực.
“Hồng lâu mộng” phản ánh lịch sử một gia tộc phong kiến, chủ yếu là
Vinh, Ninh - hai phủ vì thịnh mà thương, vì thương mà vong. Tiểu thuyết
dùng phương pháp sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực kiệt xuất mà bao quát
chặt chẽ bản thân của cuộc sống, tuân theo logic cuộc sống một cách nghiêm
túc, thông qua khai quật sâu vào những nguyên nhân khách quan của cuộc
sống. Lấy những mâu thuẫn sâu sắc trong cuộc sống gia đình để khắc họa
lên một gia đình vụn vỡ không những bài trừ tất cả thần lực, ngoại lực, vận
mệnh, khí số... khi miêu tả những khúc lệch vô cùng chân thật của cuộc sống
mà còn tái hiện được quá trình mục nát của gia tộc đó, thể hiện được quy
luật diệt vong của một thời đại. Do đó, “Hồng lâu mộng” cố giữ lại bản chất
cuộc sống, quan tâm đến bản thân cuộc sống, tiết lộ bản chất của cuộc sống,
chứa đựng ý nghĩa tượng trưng bản thể hiện thực.
“Hồng lâu mộng” thể hiện cả về phương diện cuộc sống vật chất lẫn
tinh thần của một gia tộc quý tộc phong kiến, và cũng phản ánh được bức
tranh xã hội thời đó ở cả độ sâu lẫn chiều rộng của cuộc sống hiện thực với
trình độ miêu tả đạt đến mức cao. Trong hồi thứ nhất của “Hồng lâu mộng”,
Tào Tuyết Cần có nói về những cuốn tiểu thuyết đương đại có thói quen “giả
nghĩ vong xưng” rêu rao câu chuyện. Ông không những công khai rằng cuốn
tiểu thuyết của mình là tác phẩm viết thật mà còn đưa ra hàng loạt các chủ
trương sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực. Mượn lời hòn đá để nói rõ các tình
tiết, nhân vật trong “Hồng lâu mộng”: “ngay cả bi hoan li hợp, hưng thoái
cũng phải đi theo tình tiết, không được thêm bớt, đừng vì cái nhìn của người
khác mà làm mất đi tính chân thật của nó....nửa đời tôi từng nghe từng thấy
về những người con gái đó, tuy không dám nói là giống các nhân vật khác
trong sách trước đây, nhưng sự tích thì nguyên vẹn có thể xóa đi sầu
muộn...”.
④ Có thể nói, Tào Tuyết Cần cho rằng việc sáng tác văn chương thì cần
phải thông qua cuộc sống thực tế để lấy đó làm cơ sở: cho dù là viết về tình
tiết hay nhân vật, cũng cần phải đến từ thực tế trong cuộc sống và cũng phải
mắt thấy tai nghe, tuyệt không thể viết bừa. Tào Tuyết Cần cũng từ cách viết
theo chủ nghĩa viết thực mà tiến hành viết tác phẩm văn học của mình. Và
cũng vì điều đó mà “bi hoan li hợp, hưng suy tế ngộ” trong “Hồng lâu
mộng” cũng được viết theo cách ấy. “Hồng lâu mộng” đem toàn bộ viêc sinh
hoạt đời thường phơi bày trước mắt độc giả, từ việc việc ăn uống cũng chi
tiết hơn câu chuyện lịch lai phong nguyệt.
“Hồng lâu mộng” giữ được và quan tâm đến lối sống hiện thực, phản
ánh chân thật cuộc sống hiện thực, chủ yếu là biểu hiện đối với nhân tình thế
thái mà miêu tả, phản hồi chân thật, giúp người đọc như nhìn thấy được sự
vật. Như chúng ta đều biết, “Hồng lâu mộng” có một vài nhân vật xưa nay
vốn được người xưng đạo, đó là một câu chuyện chứa đầy ý nghĩa điển hình
như: “cái chết của Tần Khả Khanh”, “Nguyên Phi tỉnh thân”, “Bảo Ngọc bị
đòn”, “sao kiểm Đại Quan Viên” ... và một số sự kiện nhỏ cũng chứa đầy ý
thơ trong đó như: “Bảo Thoa bắt bướm”, “Tình Văn xé quạt”, “Lý Bình Nhi
trang điểm”, “Tương Vân say ngủ bên hoa thược dược”, ... Những câu
chuyện trên trong “Hồng lâu mộng” có tác dụng khắc họa thêm cho nhân vật
và tình tiết, không thể thay thế được. Những tình tiết đó làm cho ý nghĩa cốt
truyện thêm rõ ràng, khắc họa mô tả hình ảnh câu chuyện sinh động tự
nhiên. Cái hay của “Hồng lâu mộng” làm cho những tình tiết nhỏ nhặt, và
không có nhiều ý thơ trong cuộc sống trở nên sinh động và niêu tả như thật,
khiến người đọc rồi khó quên. Giống như hồi năm mươi chín đến hồi sáu
mươi mốt viết: “Bến liễu diệp tủi phận yến oanh; Hiên Giáng Vân nhờ tay
ấn quyết”, “Đem phấn mạt ly thay cho bột tường vi; Biếu mai quế lộ lòi ra
bột phục linh” và “Ném chuột sợ vỡ đồ, Bảo Ngọc đành phải nhận lỗi; Xét
việc thấy oan uổng, Bình Nhi khéo biết tòng quyền”. Những câu chuyện như
vậy thường sẽ không được những độc giả chú trọng, ngay cả những người
nghiên cứu về nó cũng ít đề cập đến, nhưng “Hồng lâu mộng” lại miêu tả về
nó vô cùng tường tận, giao phó một số nhân vật nhỏ như Phương Quan,
Ngẫu Quan, Xuân Yến, mẹ Xuân Yến, cô Xuân Yến, dì Triệu, Giả Hoàn,
Giả Vân, Liễu gia, Liễu Ngũ Nhi, Tiểu Hồng, Thúy Mặc,.... ngọn ngành các
ân oán thị phi và mâu thuẫn. Những việc vặt trên không liên quan hoặc ít
liên quan đến những việc quan trọng và nhân vật chủ chốt của câu chuyện.
Trong các cuốn tiểu thuyết, điều ấy có thể viết hoặc lược bỏ, nhưng “Hồng
lâu mộng” lại viết rất chi tiết và thật. Chính vì các việc vặt trong tiểu thuyết
được viết một các tinh tế như vậy, mới thể hiện rõ được sự mâu thuẫn trên
trên dưới dưới trong Giả phủ. Đó là một mớ hỗn loạn, và giúp cho “Hồng
lâu mộng” có thể thâm nhập và các tầng lớp thấp hơn trong xã hội, từ việc
viết càng thật, thuật lại sự thịnh suy của Giả phủ. Điều đó thể hiện từ việc tác
giả cố gắng giữ lại và quan tâm đến bản chất thật của cuộc sống.
Phong cách viết chân thực của “Hồng lâu mộng” là quan tâm đến bản
thân cuộc sống và bản thể cuộc sống. Lỗ Tấn cũng từng đưa ra những lời
đánh giá rất cao về điều này, ông nói: “cũng vì đây là viết thật, nên nó cũng
,“chỉ cần dám viết như thật , chứ trở nên mới mẻ trong mắt mọi người”
không phải đem nó như một công cụ trang sức” . Chắc chắn rằng chủ
⑥ nghĩa hiện thực trong “Hồng lâu mộng” có một ý nghĩa rất quan trọng. Bởi ⑦
nhà văn dùng ngòi bút hiện thực một cách nghiêm túc, đem nhân tình thế
thái viết dưới ngòi bút của mình nên “Hồng lâu mộng” từ đầu đến cuối cũng
là bản thể của cuộc sống, quan tâm đến bản thân cuộc sống, giống một bức
họa thật về cuộc sống tràn đầy màu sắc.
Nhưng “Hồng lâu mộng” viết về cuộc sống hiện thực không phải là
không có cách miêu tả theo chủ nghĩa tự nhiên trong đó, mà là nó tập trung
hơn so với chủ nghĩa hiện thực, càng chân thật, càng điển hình. Cũng có thể
nói là “Hồng lâu mộng” không viết hệt như cuộc sống hằng ngày, nó chỉ là
một biểu tượng của cuộc sống hiện thực mà nó trải qua những tìm hiểu về
cuộc sống tiến hành gia công và vẽ nên bản chất của cuộc sống để từ đó đạt
được tính chân thật trong nghệ thuật. Bản chất và sự thật này được thể hiện
qua một loạt những sự kiện có ý nghĩa điển hình, miêu tả lại bằng chủ nghĩa
hiện thực, tiết lộ xu thế đang suy vong của Giả phủ. Tào Tuyết Cần trong hồi
thứ nhất của “Hồng lâu mộng” có nói rõ chủ trương “đi theo tìm hiểu”, “mắt
thấy tai nghe”, nhưng đồng thời ông cũng cho rằng “Hồng lâu mộng” “chỉ
lấy một tình lý sự thể mà thôi” . Từ đó cũng có thể nói là “Hồng lâu
mộng” căn cứ theo tình lý cố hữu khách quan trong cuộc sống, lựa chọn sự ⑧
thể phù hợp nhất với tình lý để tiến hành sáng tác, tuyệt không phải là hoàn
toàn theo hệt như cuộc sống. Tại hồi bốn mươi hai, Tào Tuyết Cần thông
qua câu chuyện của Bảo Thoa để nói rằng cách viết của ông không phải
hoàn toàn là mô phỏng. Đoạn này liên quan về lý luận hội họa, trên thực tế
là phản ánh về chủ trương sáng tác văn học của ông. Ông cho rằng cho dù
bản thân của khu vườn giống như trong bức họa, nhưng nếu cứ bắt chước
theo đó mà vẽ lên giấy, thì không thể hoàn hảo được, vì thế trong văn học
nghệ thuật cũng vậy, để phản ánh nên cuộc sống thì cũng phải trải qua các
bước gia công. Kinh nghiệm thực tế là một thành công của Tào Tuyết Cần
theo chủ trương viết như vậy. Mở đầu tiểu thuyết, Tào Tuyết Cần đã viết Giả
phủ rơi vào cảnh địa như một con sâu nhiều chân, chết mà không cứng, bề
ngoài nhìn vẫn vững nhưng bên trong thì sắp suy sụp. Tiếp đó, thông qua
hàng loạt sự kiện và tình tiết có ý nghĩa điển hình nhằm tiết lộ Giả phủ đang
từng bước từng bước hướng đến suy vong mà nguyên nhân tạo thành tình
trạng như vậy đầu tiên nằm ở những kẻ tham hưởng lạc trong Giả phủ nhiều,
những người quan tâm lo lắng thì ít, dẫn đến thu nhập kinh tế giảm. Thêm
vào đó là sự tranh đoạt lẫn nhau giữa các nam nhân, chỉ lo cho lợi ích riêng
của bản thân mình mà quên đi lợi ích chung của cả gia đình. Cho nên khi
phong ba ập vào Giả phủ thì gia tộc phong kiến này đã không giữ được lớp
vỏ bên ngoài mà sụp đổ. Trong quá trình suy vong của Giả phủ thì yếu tố
con người là lớn nhất. Tiểu thuyết cũng khắc họa một cách tỷ mỉ tính cách
của từng nhân vật trong Giả phủ như: Giả Chính tuy đoan phương cố chấp,
nhưng không có năng lực trị gia; Giả Xá, Giả Chân, Giả Liễn là một bọn
dâm lạc vô độ, là những kẻ bại hoại; Giả Bảo Ngọc lai lịch phi phàm, ngậm
ngọc mà sống, là người duy nhất được cho là giống với cụ nội, nhưng lại
chìm đắm trong cuộc sống của cá nhân mình, đối với sự hưng suy của gia
tộc thí không quan tâm; tài năng của Vương Hy Phượng thì khó có ai bì kịp
nhưng lại thể hiện tham vọng đối với quyền thế, tiền bạc. Chính vì hành
động làm quyền làm thế đó mà Giả phủ cũng có phần bị suy sup. Ngay cả
trong gia đình, Thám Xuân có áp dụng chính sách bài trừ thói xấu cũng
không thể cứu giúp Giả phủ. Lấy thất bại mà cáo chung, Giả phủ cuối cùng
“từ những ngôi nhà rộng lớn” khi đã sụp đổ thì “để lại một mảng đất trống
thật sạch sẽ”. Có thể thấy rằng, “Hồng lâu mộng” không giống với “Phong
thần diễn nghĩa” hay “Kim Bình Mai”, lấy việc thay thế một triều đại, vận
mệnh được quy kết trong bi kịch của một gia đình suy vong, khí số thiện ác
báo ứng, nhân quả luân hồi, mà là thông qua cách gia công nghệ thuật, chân
thật để vẽ nên một bức tranh mâu thuẫn trong nội bộ gia đình, bên trong vốn
đã thối nát, còn bên ngoài thì sụp đổ. Từ đó miêu tả chân thật nguyên nhân
Giả phủ do thịnh mà suy, do suy mà vong. Do đó, “Hồng lâu mộng” là một
thế giới khách quan hiện thực, lạnh lùng phản ảnh cuộc sống trong xã hội
con người, lấy tính hiện thực to lớn và tư tưởng sâu sắc thể hiện được bản
thân cuộc sống. Có người đem thế giới trong “Hồng lâu mộng” và “Sử ký”
ra để so sánh rồi nói: “Thái Sử Công tam thập thế gia, Tào Tuyết Cần chỉ
cần miêu tả một gia đình”. “Tào Tuyết Cần chỉ cần miêu tả về một gia đình
là có thể bao hàm hết toàn bộ gia đình” - điều này là đúng chủ nghĩa hiện
thực của “Hồng lâu mộng”: miêu tả như thật, khách quan, điển hình. Từ việc
tái hiện bản chất Giả phủ khi suy vong, tác phẩm đạt đến giá trị cao nhất về
ý nghĩa tượng trưng bản thể.
2. “Hồng lâu mộng” lấy những câu chuyện huyền thoại và siêu hiện
thực để miêu tả, truy vấn nguồn gốc loài người, suy nghĩ về già trị cuộc
sống, lĩnh ngộ triết lý cuộc sống, có ý nghĩa tượng trưng bản thể của sinh
mệnh.
Nếu xem phương pháp sáng tác của “Hồng lâu mộng” mà nói, nó còn
phản ảnh hình ảnh suy vong của một gia tộc phong kiến theo chủ nghĩa hiện
thực. Nhưng “Hồng lâu mộng” cùng lúc phản ánh hiện thực như thật còn
sáng tạo được một thế giới thần thoại huyền bí, miêu tả siêu hiện thực về
những loại như ma thuật. Thế giới siêu hiện thực trong “Hồng lâu mộng”
không phải mang ý nghĩa của một câu chuyện thần thoại thông thường cũng
không phải là cố chấp, cũng không phải là thể hiện chính nghĩa luôn chiến
thắng tà ác mà theo một lý tưởng tốt đẹp. Chỉ ở một mặt nào đó nó mang ý
nghĩa tượng trưng cục bộ. Từ đó, đem chủ nghĩa hiện thực trong “Hồng
lâu mộng” kết hợp lại, tạo thành một thế giới Hồng lâu. Miêu tả theo chủ ⑩
nghĩa hiện thực trong “Hồng lâu mộng” giống như các phần hữu cơ không
thể phân chia nó thành các bộ phận. Do đó, ý nghĩa của nó càng trở nên sâu
sắc. Thế giới siêu hiện thực trong “Hồng lâu mộng” thực chất là lời truy vấn
đối với nguồn gốc loài người, là sự lĩnh ngộ đối với triết lý nhân sinh. Nó thể
hiện một thế giới vạn vật thiên biến vạn hóa, tiết lộ quy luật vận động của xã
hội, nhân sinh, sinh mệnh, là một câu hỏi đối với bản thể sinh mệnh của
nhân loại. Vì vậy, nó chứa ý nghĩa tượng trưng bản thể cuộc sống.
Một là, trong “Hồng lâu mộng” có “luyện đá vá trời”, “mộc thạch tiền
minh” và Thái hư ảo cảnh. Đó là ba câu chuyện thần thoại đặt ra câu hỏi về
nguồn gốc loài người. Đã từng có học giả chỉ ra rằng, “Hồng lâu mộng”
thuật lại theo góc độ của ba thế giới: “không”, “sắc”, “tình”. Ba thế giới này
tương ứng với ba tầng diện trong “Hồng lâu mộng”: tầng diện hiện thực,
tầng diện thần thoại, tầng diện giao kết giữa hiện thực và thần thoại. Trong
đó, “thế giới sắc” ứng với tầng diện hiện thực và sự suy vong của Giả phủ,
“thế giới tình” cũng ứng với tầng diện hiện thực và cũng ứng với tầng diện
thần thoại. Bởi vì “Hồng lâu mộng” miêu tả về tình cảm, vừa là hiện thực
vừa là phi hiện thực nên cái mà gọi là hiện thực chủ yếu là thế giới hiện thực
trong bi kịch ái tình của Bảo - Đại, còn cái gọi là phi hiện thực là chỉ “Hồng
lâu mộng” miêu tả về ái tình lại không thể tách rời nhiều câu chuyện thần
thoại. Mà cái “thế giới không” thì hoàn toàn thuộc về tầng diện thần thoại,
chủ yếu là tổ hợp thành từ ba câu chuyện thần thoại là: “luyện đá vá trời”,
“mộc thạch tiền minh” và “Thái hư ảo cảnh”. Toàn bộ “Hồng lâu mộng” tuy
không tốn nhiều giấy mực cho phần này nhưng nó lại là cương lĩnh cuối
cùng của toàn bộ cuốn “Hồng lâu mộng”. Ba thế giới đó xuất hiện trong cả
ba tầng diện cao nhất, mang đậm triết lý và tư tưởng sâu sắc. Không chỉ là
toàn bộ cuốn “Hồng lâu mộng” có miêu tả nguồn gốc tất cả các nhân vật, sự
kiện mà nó còn phái sinh “thế giới sắc” và “thế giới tình”, hay là “tình”,
“sắc” cuối cùng lại quy thành một. Mà trong ba câu chuyện thần thoại thì
“luyện đá vá trời” xuất hiện ở tầng diện cao nhất, là bản nguyên của cả câu
chuyện, nó là bắt đầu và đi hết câu chuyện Hồng lâu. Công năng chủ yếu của
nó là nó lên lai lịch và nơi mà viên đá thuộc về, nó cũng nói về lai lịch của
Giả Bảo Ngọc. Do đó, đây chính làm một câu chuyện thần thoại có ý nghĩa
tượng trưng sâu sắc. Đầu tiên là viên đá (Giả Bảo Ngọc) vì không thể vá trời
nên đến “hoa liễu phồn hoa địa, ôn nhu phú quý hương” của Giả phủ để mà
hưởng vinh hoa phú quý, sau khi trải qua một cơn nóng lạnh, cuối cùng lại
quay về dưới chân núi Thanh Ngạnh. Câu chuyện viên đá rõ ràng hàm ẩn ý
loài người từ đâu đến, rồi lại đi về đâu, nó là một mệnh đề triết học. Thứ hai,
trong câu chuyện thần thoại “luyện đá vá trời”, hình thành nên sự khởi điểm
và nơi đến cuối cùng trong lịch trình của nhân vật chính Giả Bảo Ngọc. Cái
mà gọi là “Đại Hoang Sơn, Vô Kê Nhai”, cũng là hoang đản Vô Kê mang ý
nghĩa trừu tượng về hoang đản và hư vô. Cũng vì “không”, “vô đối ứng với
“sắc”, “hữu cho nên thế giới “sắc” nơi mà Giả Bảo Ngọc sinh sống trong
một gia tộc phong kiến nên Giả phủ cũng trở thành giả tưởng phút chốc vạn
biến. Ở đây, tác giả hiển nhiên lấy huyền ảo để làm thật, lấy “không”, “vô”
để làm thật, lấy “sắc”, “hữu” để làm giả, và cho rằng “Đại Hoang Sơn, Vô
Kê Nhai” cũng là bản nguyên của thế giới. Đây cũng là một mệnh đề triết
học cũng giống như là ý nghĩa tượng trưng, truy vần về bản nguyên của nhân
loại và thế giới. Thứ ba, cả cuốn “Hồng lâu mộng” thể hiện quá trình lĩnh
ngộ “từ không thấy sắc, do sắc thấy tình, chuyển tình nhập sắc, tự sắc ngộ
không” của hòn đá (Giả Bảo Ngọc). Tào Tuyết Cần thông qua sự trải
nghiệm và tỉnh ngộ của cục đá (Giả Bảo Ngọc) mà biểu đạt sự giác ngộ của
mình đối với nhân sinh. Hòn đá cuối cùng cũng quy về, không còn là hòn đá
ban đá ban đầu nữa, mà là ở nơi mà tâm lý đã từng thể nghiệm trong một lần
hồi quy, cũng là sự trở lại lần nữa của thế giới bản thể tự nhiên. Đó là một sự
quyến luyến sâu sắc với tinh thần gia viên của mình. Hòn đá đã thông qua
việc hạ phàm, trải qua mưa gió trong nhân thế, tắm qua Giáng Châu lệ thủy,
rõ ràng mang theo tình cảm mâu thuẫn và ràng buộc, đương nhiên đã khắc
sâu ký ức đau khổ cũng như ấm áp trong nhân sinh. Cho nên hòn đá cuối
cùng quy hồi là một cảnh giới sau giác ngộ. Do đó, quá trình luân hồi của
hòn đá (Giả Bảo Ngọc) ý vận tượng trưng của nó là: nhân sinh phải trải qua
mài dũa trong thế giới hiện thực, theo đuổi đến một cảnh giới lí tưởng và
tiêu tan mà đạt thành. Cái này phải trải qua quá trình nâng cấp từ kinh
nghiệm đến siêu việt, lấy “tình” làm liên kết từ thể nghiệm của siêu hình của
sắc đến thăng hoa của siêu hình của “không”. Có thể thấy điều mà Tào tuyết
Cần quan tâm đến không phải cuôc sống thế tục trong “Hồng lâu mộng”, mà
là linh hồn tinh thần hữu vô”, quan tâm đến nguồn gốc loài người và hướng
đi của nó. Câu chuyện thần thoại “mộc thạch tiền minh” là một mối tình đẹp
nhưng đau buồn. Lúc đầu Thần Anh mỗi ngày cực khổ lấy nước cam lộ tưới
cho Giáng Châu tiên thảo, về sau, Giáng Châu tiên thảo hóa thành Đại Ngọc,
nước mắt triền miên, lấy nước mắt mình mà rửa đá. Điều đó nói về khởi
điểm của tình yêu, chính là sự cống hiến mà không bao giờ cần lấy lại, cũng
nói về sự quan tâm qua lại lẫn nhau của nam và nữ trong xã hội, mô phỏng
lẫn nhau, thanh lọc lẫn nhau, thiếu đi một bên, nhân sinh sẽ mất đi sức sống
của mình. Đồng thời, mộc thạch là hình ảnh mượn từ tự nhiên, cho nên câu
chuyện thần thoại này cũng nói về nhân duyên tự nhiên, tự phát, chất phác,
đẹp đẽ... đều là bản chất phù hợp với thiên tính của con người. Mà nhân
duyên của Bảo - Đại bắt nguồn từ cam lộ và nước mắt, cho nên nó có tính
trong suốt, thuần khiết, mềm mại, bi thương. Sau đó, “mộc thạch tiền minh”
chuyển hóa thành ái tình Bảo - Đại trong Đại Quan Viên, cấu thành nội dung
khắc tâm của “thế giới tình”. Nó đối lập với “thế giới sắc” trong “kim ngọc
lương duyên”, nhưng lại đối chiếu với lớp vỏ lạm dâm. Người lạm dâm lấy
những vật ngu ngốc thẩm thấu và làm ô nhiễm “thế giới sắc”. Cho nên chữ
“dục” bị dị hóa, trở nên vô duyên với chân tình. Kim, ngọc chỉ vật chế tác, là
tượng trưng của phú quý, đại diện cho dung tục và thế lực. Câu chuyên “kim
ngọc lương duyên” được cho là tình cảm giả tạo, là “thế giới sắc” đối với
nhân tình, sự dị hóa và xoay chuyển của nhân tính. Vậy mà khúc cuối của
câu chuyện, kết quả là lời thề đó không thể đem họ trở thành gia đình. Chỉ
cướp mất trái tim của đối phương. Hữu duyên kết vợ chồng nhưng lại không
tìm thấy ngôi nhà tinh thần, do đó, câu chuyện ái tình thần thoại này tăng
thêm một tầng thần bí mông lung, lại vừa buồn vừa đẹp, có một sự lôi cuốn
cảm động người đọc. Càng biểu lộ sự thấu hiểu của Tào Tuyết Cần đối với
sự nghi hoặc của nhân sinh: phải chăng con người được cho là sống vì tình
duyên và tình duyên lại luôn được quy về hư ảo? Mục đích và giá trị nhân
sinh đến với thế giới này rốt cuộc là ở đâu? “Thái hư ảo cảnh” – “ thế giới
không” là một bộ phận hợp thành quan trọng. Nó là nữ nhi quốc ở trên trời,
nơi “ly hận thiên chi thượng, tiềm sầu hải chi trung”, nơi cất giấu cuốn sách
viết về quá khứ tương lai của tất cả nữ nhi trên thế giới. Người chủ quản
kiêm cả ái thần, mỹ thần là ảo cảnh Tiên Cô. Đó là người chịu trách nhiệm
về tình cảm trong nhân gian - nơi mà nữ oán nam si. Quản lý vận mệnh, quá
khứ tương lai của nữ tử trên thế gian (bao gồm Giả Bảo Ngọc). Cho nên câu
chuyện thần thoại này nói về phương hướng vận mệnh của nhân sinh, cũng
ẩn chứa mệnh đề triết học con người sẽ đi về đâu. Để đối ứng với Thái hư ảo
cảnh, Tào Tuyết Cần lại vì các cô gái và Giả Bảo Ngọc tạo nên một thái hư
ảo cảnh trần gian – Đại Quan Viên. Đại Quan Viên chính là nữ nhi quốc trên
trần gian của Tào Tuyết Cần, vườn Eden của Giả Bảo Ngọc. Điều đáng tiếc
là Đại Quan Viên đến phút cuối cũng bị hủy diệt, gia viên tinh thần đó bị tổn
hại cuộc sống của Giả Bảo Ngọc không chốn quy y. Từ Thái hư ảo cảnh xây
dựng thành hình ảnh Đại Quan Viên bị hủy diệt, Tào Tuyết Cần tái hiện
chân thật vận mệnh bi kịch của Giả Bảo Ngọc và các cô gái trong những
ngày tận thế của chế độ phong kiến, hé lộ nhân sinh vô lộ khả tẩu, trạng thái
tồn tại vô cùng bi ai. Đó cũng là sự suy nghĩ sâu sắc đối với nhân sinh. Tóm
lại, ba câu chuyện thần thoại trong “Hồng lâu mộng” đều lấy thần thoại về
đá làm chủ thể, tác động qua lại lẫn nhau, hình thành một kết cấu truyện thần
thoại thống nhất có hệ thống. Tình tiết chủ yếu và vận mệnh của nhân vật
trong “Hồng lâu mộng” chịu ảnh hưởng của sự hạn chế trong thần thoại: ái
tình Bảo - Đại đến từ câu chuyện thần thoại “ngọc thạch tiền minh”, vận
mệnh của các cô gái trong Đại quan viên chịu sự hạn chế của Thái hư ảo
cảnh, vân mệnh của Giả Bảo Ngọc cũng chịu sự quy định của thần thoại về
viên đá. Cho nên thế giới thần thoại trong “Hồng lâu mộng” là một thế giới
bản thể siêu hình, là bản thể của vạn vật trong trời đất.
Hai là, những miêu tả siêu hiện thực khác của “Hồng lâu mộng”
biểu hiện được tính thiên biến vạn hóa của vạn vật trên thế giới, tiết lộ quy
luật vận động của xã hội, nhân sinh, sinh mệnh, mang ý nghĩa tượng
trưng bản thể của sinh mệnh. Ngoại trừ ba câu chuyện thần thoại vừa nêu
trên, trong “Hồng lâu mộng” còn sử dụng nhiều hình ảnh siêu hiện thực
miêu tả về nhân sinh, triết lý trong xã hội, quy luật thế gian, biểu hiện sự
biến hóa của vạn vật trên thế giới. Tại hồi thứ nhất trong “Hồng lâu mộng”,
tác giả lấy cuộc đàm thoại giữa đá và Không Không đạo nhân nói: “trong
hồng trần kia tuy có chút ít lạc sự, nhưng nó không thể là vĩnh viễn,... phút
chốc thay đổi thành bi thương, nhân phi vật hoán, rốt cuộc phút cuối chỉ là
mộng, vạn cảnh quy không”. Cũng trong hồi đó có viết lời hát của bồ túc
đạo nhân “Hảo liễu ca” và Chân Sĩ Ẩn làm chú thích cho “Hảo liễu ca” thể
hiện được sử chuyển hoán trong nhân gian một cách rõ ràng, thịnh suy luân
phiên. Bài ca này khi ngâm lên tuy có chứa thế sự khó lường, mang ý nghĩa
tiêu cực (vạn sự đều là không), thực tế lại chỉ ra quy luật vận động của cuộc
sống xã hội loài người. Và sự vật thì không ngừng phát triển và biến hóa,
đến mức cực thịnh thì sẽ suy, cực lạc sẽ sinh bi. Tự cổ chí kim, không có vật
gì mà giữ nguyên không đổi. Bất luận là thế giới tự nhiên như vì sao chuyển
dời, trăng tròng trăng khuyết, xuân hạ thu đông, thực vật sinh trưởng rồi khô
héo, nhân loại sinh lão bệnh tử, quốc gia hưng thịnh thành bại... Trong hồi
thứ năm viết về việc Giả Bảo Ngọc mộng du Thái hư ảo cảnh, nghe được hai
mươi khúc trong “Hồng lâu mộng” như “Hư hoa ngộ”, “thông minh
lụy”,”Vãn thiều hoa” và “thụ vĩ phi điểu các đầu lâm”. Nó ngâm thán về vận
mệnh bi kịch của nhân vật. Điển hình nhất là hồi mười ba có viết việc Tần
Khả Khanh trước lúc lâm chung nói với Phượng tỷ: “trăng tròn có lúc đục,
nước đầy có lúc tràn” “trèo cao sẽ ngã đau”, “tiệc vui rồi cũng sẽ tàn”,
“cực lạc sẽ sinh bi”, “phủ cực thái lai, danh dự tự cổ vẫn trong vòng lẫn
quẩn”. Tuy nó nói về những thị phi mà Tần Khả Khanh từng chứng kiến, nó
cũng nói về những gì Tào Tuyết Cần chứng kiến, thể hiện triết lý của ông
đối với xã hội, đối với sự vật, nhân thức và cảm ngộ đối với quy luật vận
động của sinh mệnh. Không chỉ cho người khác một sự nhận thức sâu sắc về
triết học, nó còn làm cho ý nghĩa tượng trưng bản thể sinh mệnh của “Hồng
lâu mộng” phát triển theo chiều sâu. Nhà phê bình điện ảnh người liên xô
Maqiliete trong cuốn sách “Nói về thi học trong nghệ thuật điện ảnh” đã chỉ
ra rằng: nghệ thuật thực tình phải có một vài đặc trưng nghệ thuật cơ bản
nhất, trong đó có hai điều quan trong nhất: một là cường điệu diện mạo của
cuộc sống khiến người khác tin như thật. Những hiện tượng thường xuất
hiện trong tác phẩm thường là được cấy ghép, nó không theo tình tiết câu
truyện mà viết lại; hai là đem tất cả cho tan theo gió đều thăng hoa thành
biểu hiện của tượng trưng mà thông qua triết lý. Hai điều này thực chất
chính là sự tồn tại thực của tượng trưng bản thể. Triết lý hóa của cuộc sống,
triết lý cũng là cuộc sống hóa. Cuộc sống - triết lý - nghệ thuật cùng nhau
tồn tại, cùng nhau cấu thành một lễ hội thẫm mỹ lớn, thông hết lý tưởng
cuộc sống, triết lý, nghệ thuật. Từ đó tỏa ra ra hương thơm mê người của
tượng trưng bản thể.
Ba là, lấy tài liệu viết về ý, chân thật và mộng ảo giao kết thành một
bút pháp thần kỳ, thể hiển bi kịch ái tình nam nữ sâu sắc, tận tình thể
hiện được tình cảm chân thật của nhân loại, mang ý nghĩa tưởng trưng
bản thể tình cảm. Không chút vấn đề khi nói “Hồng lâu mộng” là một cuốn
tiểu thuyết ái tình, thậm chí là ngôn tình. Người phê bình nói: “Thạch đầu
ký” chi vi thư, tình chi chí cực, ngôn chi chí xác” (hồi 18). Hoa Nguyệt Si
nhân cũng nói: “Hồng lâu mộng” là cuốn sách tình, làm là sách, xây dựng ở
tình, phát ở tình; chung ở tình, chân thật ở tình; thâm ở tình, luyến ở tình;
túng ở tình, khốn ở tình; nghiện ở tình, si ở tình, khổ ở tình; thất ở tình, đoạn
ở tình; chí cực ở tình, suốt đời không quên bởi chữ tình. Duy nhất không
quên đó là tình, phàm nhất ngôn nhất sự, nhất cử nhất động, vô tại bất dụng
kỳ tình, đó chính là tình thư. Trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, không có
cuốn tiểu thuyết nào giống như là “Hồng lâu mộng” khi miêu tả tình cảm
chấn động lòng người. Vì vậy, “Hồng lâu mộng” cũng mang ý nghĩa tượng
trưng bản thể tình cảm.
Thứ nhất, là xoay quan bi kịch tình cảm của Bảo Đại, thể hiện vấn đề
bi kịch trong hôn nhân tình ái của loài người, hé lộ bản chất bi kịch trong
hôn nhân tình ái của loài người, hàm chứa nội dung xã hội và thời đại vô
cùng phong phú và sâu sắc, mang ý nghĩa tượng trưng bản thể tình cảm.
“Hồng lâu mộng” thông qua bi kịch ái tình của Bảo - Đại, vì ái tình với
người tri kỷ của mình mà một đời vẫn chung thủy, mở ra một lĩnh vực mới
về miêu tả ái tình trong văn học Trung Quốc. Bi kịch ái tình Bảo Đại không
phải là một cặp ái tinh trai tài gái sắc, tài tử giai nhân thông thường bị phá
hoại đến phút cuối thành bi kịch. “Hồng lâu mộng” thông qua cách miêu tả
và khắc họa sâu sắc của mình hé lộ nguyên nhân bi kịch ái tình của Bảo Đại
là sự xung đột giữa “tình” và “lễ”, cũng là sự xung đột của mộc thạch tiền
minh và kim ngọc lương duyên. Sự xung đột này chính là bản chất vấn đề
trực tiếp của ái tình hôn nhân của họ. Đối với Giả Bảo Ngọc mà nói thì anh
có thể chọn đối tượng yêu đương của mình. Thoa - Đại đều là tuyệt thế giai
nhân, quốc sắc thiên hương, tài sắc vẹn toàn nhưng về sau, trải qua từng
ngày tìm hiểu, thái độ của Bảo Ngọc rõ ràng hơn, anh chọn mộc thạch tiền
minh, không chọn kim ngọc lương duyên. Dẫn đến sự lựa chọn nhanh chóng
như vậy chủ yếu không phải vì tài sắc tướng mạo, mà là vì có cùng tư tưởng
hứng thú. Đại Ngọc trọng “tình”, Bảo Thoa trong “lễ”, cho nên tuy Bảo
Thoa “diễm quán quần phương” nhưng lạnh nhạt “vô tình”, nên không
chiếm được ái tình của Bảo Ngọc. Tư tưởng bị ngăn cách một cách nghiêm
trong là nguyên nhân mấu chốt khiến cho Bảo Ngọc phủ định kim ngọc
lương duyên đó. Cũng lý lẽ đó, “mộc thạch tiền minh” - ái tình của Đại
Ngọc có cơ sở tư tưởng vững chắc, cho nên trở thành mục tiêu theo đuổi của
Bảo Ngọc. Nhưng điều không may đó là, chiến thắng cuối cùng không thuộc
về mộc thạch tiền minh, mà là kim ngoc lương duyên. Đại Ngọc trong tiếng
nhạc trống vui vẻ trong hôn lễ của Bảo Ngọc và Bảo Thoa, hồn quy ly hận
thiên, mộng tưởng “mộc thạch tiền minh” cũng vì thế mà bị vỡ nát. Càng bi
thương hơn là, Đại Ngọc “hồn tiêu hương đoạn”, Bảo Ngọc ôm hận một đời,
Bảo Thoa cũng không vì Bảo Ngọc “phút cuối buông tay” mà từ “kim ngọc
lương duyên” đạt được hạnh phúc. “Mộc thạch tiền minh” là ái tình không
có hôn nhân, vốn là có thể mất đi, “kim ngọc lương duyên” là hôn nhân
không có ái tình, như vây thì càng bi thương. Cho nên ái tình của Bảo - Đại
từ đầu đến cuối cũng là bi kịch làm cảm động lòng người. Mà người tạo ra bi
kịch đó không phải Bảo Thoa, cũng không phải Bảo Ngọc, mà là hai loại tư
tưởng không hòa nhập vào nhau như thủy hỏa bất dung. Do đó ái tình Bảo -
Đại trong “Hồng lâu mộng” biểu hiện sâu sắc bi kịch ái tình của loài người.
Tiết lộ bản chất bi kịch hôn nhân của loài người, lấy bi kịch ái tình mà nói
thì nó chứa ý nghĩa bản thể. “Hồng lâu mộng” không chỉ thể hiển bi kich ái
tình của Bảo - Đại, mà còn xoay quanh bi kịch ái tình đó để sáng tạo một thế
giới tình trong xã hội nhân gian - tồn tại trong Đại Quan Viên nhưng tất thảy
nam nữ đều ngây thơ và không tà ác, hoạt bát lãng mạn. “Hồng lâu mộng”
thông qua những thiếu nam thiếu nữ tô điểm thêm vẻ đẹp của ái tình. ở đây
Tào Tuyết Cần lấy “tình” làm lý tưởng cao nhất của đời người: lý tưởng đẹp
của nhân sinh và lý tưởng đẹp của ái tình. Ông cho rằng nhân sinh vì tình,
nhân sinh và hữu tình, tình yêu tồn tại thì con người sống mới có ý nghĩa.
Đây rõ ràng là “chí tình luận” của Trung Quốc cổ đại với chủ nghĩa tình cảm
trên hết, đó là Minh Trung Diệp về sau sáng tạo ra chân tình, tiến thêm một
bước trong chủ nghĩa nhân văn miêu tả về tâm linh. Tào Tuyết Cần là một
nhà chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo, “Hồng lâu mộng” thể hiện sâu sắc bi kịch
ái tình trong hôn nhân của những chàng trai cô gái trẻ này. Tư Kỳ vì Phan
Hựu An, Vưu Tam Thư vì Liễu Tương Liên là những bi kịch của tình yêu,
Kim Xuyến nhảy xuống giếng tử vẫn, Vưu Nhị Thư nuốt vàng sống, Tình
Văn chết yểu; còn có Tập Nhân, Hương Lăng, Phương Quan, Giả phủ tứ
diễm, Diệu Ngọc, Tương Vân, Lý Hoàn …… “Thế giới tình”dưới ngòi bút
của tác giả vẫn được miêu tả đầy quyến rũ, tràn đầy thơ tình họa ý. Vậy mà
đối lập với “thế giới vô tình” thì lại bị diệt vong. “Thế giới tình” thật mong
manh, nói rõ sự lãnh đạm của tác giả đối với “thế giới vô tình” có một sự
nhận thức tỉnh táo. Lý tưởng tốt đẹp và hình ảnh tươi sáng đối với “thế giới
hữu tình” bây giờ vô cùng mơ màng. “Càng hữu tình si bao hận trường”.
Mất đi một thế giới tươi đẹp, sự vụn vỡ của lý tưởng ái tình, ý thức sự mộng
tưởng trong thế giới hư ảo đã thấm vào thế giới quan và nhân sinh quan của
Tào Tuyết Cần, càng thấm sâu vào sự lĩnh ngộ cực độ đối với “tình” của Tào
Tuyết Cần.
Thứ hai, hình tượng Giả Bảo Ngọc thể hiện được bản chất tình cảm của
loài người, ngưng tụ tư tưởng sâu sắc và rộng mở của tác giả đối với thế
giới “tình”, mang ý nghĩa tượng trưng bản thể tình cảm. Đầu tiên, là hóa
thân của lý tưởng tình cảm của loài người: Giả Bảo Ngọc ngoài mối tình
khắc cốt ghi tâm, cảm động lòng người với Lâm Đại Ngọc ra, tiểu thuyết
còn chỉ ra nó là một tuyệt thế “tình si”, “tình chủng”, “tình thánh”. Anh vì
tình mà sống, chung tình với tất cả những gì trên thế giới. Trong tiểu thuyết
cũng nói: từ những hành vi của Giả Bảo Ngọc rất “lập dị”, năm một tuổi đã
chọn đồ chơi là son phấn; thời thiếu niên thì thích chơi ở trong nhà; về sau
hình thành lý luận kỳ quặc của anh “thủy ni cốt nhục luận” và “nữ nhi tam
biến luận”. Trong cuộc sống thường nhật, anh đem tình cách đặc trưng của
“tình si”, “tình chủng”, “tình thánh” phát huy đến cực độ, luôn gần gũi với
các cô gái và cũng không quan trong đến thân phận cao quý của mình, tận
tình ngọt ngào, nói chuyện không ngừng, ngay cả khi gặp một cô thôn nữ
giản dị cũng “hận một nỗi không thể theo cô đi”. Dụng tình của loại tình
cảm đối với các thiếu nữ bên cảnh mình như là “bác ái mà tâm lao” thậm chí
đến mức không tưởng tưởng nổi. Tại hồi mười chín trong “Hồng lâu mộng”
có đoạn: Bảo Ngọc không thấy ai, nên nghĩ: “nơi đây thường ngày có một
tiểu thư phòng, bên trong có treo một bức họa các mỹ nhân vẽ rất có thần.
Hôm nay rất náo nhiệt, chắc là chỗ kia không có người, nên mỹ nhân đó có
lẽ cũng rất cô đơn, vậy tôi sẽ đến đó và thăm cô ấy một chuyến”. Đối với
hành vi lập dị như vậy của Giả Bảo Ngọc, ở Mông Cổ vương phủ có ghi:
“thiên sinh nhất đoạn si tình, sở vị ‘tình bất tình dạ”, “tình bất tình”, chính là
đặc trưng tính cách Giả Bảo Ngọc trở thành “tình si”. Đó cũng là biểu hiện
cụ thể của anh đối với hóa thân lý tưởng tình cảm của loài người. Cái loại
tình bất tình này trong lịch sử văn học Trung Quốc thực sự là hiếm thấy,
Trương Sinh trong “Tây sương ký”, Tôn Tử Sở (a Bảo), Cảnh Sinh (Thanh
Phong) trong “Liêu trai chí dị”, đều không thể sánh với Bảo Ngọc bởi đó chỉ
là “tình tình” mà thôi. Tương đối mà nói thì Giả Bảo Ngọc là người si tình
nhất mà trước giờ người ta thấy. Tác giả đã gửi gắm lý tưởng tình cảm của
nhân loại vào Giả Bảo Ngọc, chàng là hiện thân của “chân nhân”, “chân
tình”, “chân linh hồn”. Không chỉ như vậy, Tào Tuyết Cần còn thông qua
Giả Bảo Ngọc thể hiện một cảnh giới càng cao rộng của chữ “tình” trong
mắt ông. “Hồng lâu mộng” viết về Giả Bảo Ngọc nói chuyện với chim yến
và cá, than ngắn thở dài với mặt trăng, đến cả cây cỏ cũng xem như là những
vật hữu tình. Như hồi bảy mươi bảy, trong “Hồng lâu mộng” có viết về
chuyện Tình Văn bị đuổi, Giả Bảo Ngọc vì đó mà lo lắng, đau lòng. Khi nói
chuyện với Tập Nhân, Bảo Ngọc nói: “bậc thang này đi xuống là một cây
hoa hải đường rất đẹp, nhưng lại bị chết mất một bên, tôi biết ngay có
chuyện. Quả nhiên ứng nghiệm với cô ấy”. Tâp Nhân nghe cười rồi nói:
“...... cây cỏ làm sao lại liên quan được đến người? Lại không phải là bà bà
hoặc mẹ, thật sự cũng thành một kẻ khờ rồi!” Bảo Ngọc thở dài rồi nói: “mọi
người đâu ai biết, không chỉ cỏ cây, phàm những vật trên đất trời đều có
tình có lý, đều giống người mà thành tri kỷ. Nếu dùng câu hỏi lớn mà so
sánh thì có cây bách xù trước đền Khổng Tử, hoa lan trước mộ. Cây bách
trước đền Gia Cát, cây tùng trước mộ của của Nhạc Vũ Mục”. Điều này rõ
ràng là có nhân khí, thiên cổ bất diệt chi vật. Thế loạn thì héo, thế trị thì
vinh, mấy ngàn năm nay khô héo rồi lại tái sinh đến mấy lần. Đoạn văn đó
không chỉ thể hiện “tình bất tình” của Giả Bảo Ngọc càng thể hiển cái chí
tình chí tính, chí chân chí thiện của Tào Tuyết Cần, đó cũng là nội hàm của
ông đối với “tình” được mởi rộng thêm một bước nữa. Cảnh giới nhận thức
ấy là từ cổ đã có ý nghĩa “thiên nhân cảm ứng”. Bởi vì trong cách nhìn của
Tào Tuyết Cần, nhân hữu tình thì tự nhiên vạn vật cũng hữu tình, tình bao
hàm cả vạn vật, người và người, người và tự nhiên cũng đực gắn kết với
nhau, đạt đến sự hòa hợp và thống nhất. Đó là sự nắm bắt cũng như lý
tưởng triết lý đối với tự nhiên, xã hội và cả vũ trụ.
Thứ ba, hình tưởng khắc tâm của Giả Bảo Ngọc là “ý dâm”, “Hồng
lâu mộng” thông qua “ý dâm” làm nổi bật sự thật tình cảm loài người. Giả
Bảo Ngọc mộng “Thái hư ảo cảnh”, cảnh ảo Tiên Cô lấy “ ý dâm” để điểm
hóa anh, chính vì những gì đã từng thấy, nghĩ, hỏi, trở thành lời dạy cho
cuộc sống hữu tình của Giả Bảo Ngọc. “Ý dâm” làm cho chúng ta từ một
tầng diện khác đi đến một Giả Bảo Ngọc “tình si”, “tình chủng”, “tình
thánh” kinh thiên động địa, một đời có thể ca cũng có thể khóc! Vốn dĩ, theo
từ ngữ hàm nghĩa mà nói thì, “ý dâm” là chỉ tình cảm của con người về mặt
tinh thần siêu thường, trải qua phóng thích và không thể hạn định, và có đặc
tính vô cùng phong phú. Nhưng trong “Hồng lâu mộng” cảnh ảo Tiên Cô chỉ
cho Giả Bảo Ngọc về “ý dâm” là cảm tình và dục cầu thông thường của loài
người. Cho nên Tiên Cô cho chàng là “thiên hạ để nhất dâm nhân”, chính là
vì tình cảm sinh mệnh của Giả Bảo Ngọc “bộc phát”, “bản năng dục cầu
trong điều kiện sức khỏe bình thường mang một động lực mạnh mẽ trong
tinh thần, nó không ngừng phát sinh không ngừng thăng hoa từ cảm tính dục
cầu hướng về tinh thần dục cầu. “Ý dâm” cũng hé lộ sự thật thế giới tình
cảm và thể hiển tầng diện tình cảm của loài người, nội hàm mang tính sinh
thành, phát sinh không ngừng, vô cùng phong phú. Cho nên Tào Tuyết Cần
để “tình” bao bọc bác ái, tự do. Bình đẳng, giải phóng cá tính, “ý dâm”,... và
các bản chất tình cảm của loài người vào trong hình tượng Giả Bảo Ngọc,
làm cho hình tượng “dĩ tình vi bản” của Giả Bảo Ngọc trở thành điểm nhấn
tinh thần to lớn của thời đại, dân tộc, giai cấp, nhân loại. Đó là sự suy nghĩ
sâu sắc đối với cuộc sống nhân sinh, nó không chỉ làm cho hình tượng Giả
Bảo Ngọc mang ý nghĩa tưởng trưng bản thể, mà còn làm giúp cho “Hồng
lâu mộng” miêu tả về “tình và phản ánh ý nghĩa tượng trưng bản thể của nó.
Trên đây là ba phương diện chủ yếu phân tích về ý nghĩa tượng trưng
bản thể trong “Hồng lâu mộng”. Kỳ thực, những nội dung tư tưởng trong tác
phẩm này rất sâu sắc, ý nghĩa tượng trưng bản thể còn rất nhiều phương diện
biểu đạt, nhưng hạn chế trong khuôn khổ bài báo ngắn không thể viết hết
được. Nghệ thuật chính là luận về bản chất của một loại tượng trưng - hình
thức thể hiện trực quan hữu hạn đối với vô hạn mà tượng trưng bản thể chính
là một viên ngọc sáng nằm trên chiếc vương miên nghệ thuật, nó lấy tác
phẩm nghệ thuật phát hiện ra một thế giới khách quan bình thường và đối
ứng với chỉnh thể thế giới đó. Tào Tuyết Cần yêu cầu tác phẩm nghệ thuật
phải phản ảnh cuộc sống xã hội loài người một cách khách quan và lạnh
lùng; nội dung tư tưởng và hình tượng nhân vật trong tác phẩm phải đạt đến
tính hiện thực cực cao, những ý nghĩa tư tưởng trong tác phẩm phải xuất
phát từ những gì phổ biến và đời thường nhất trong cuộc sống. Đồng thời,
tượng trưng bản thể cũng là một thế giới khách quan và là hiện tượng của
tinh thần chủ thể, nó lấy sự dung hòa của tinh thần và hình tượng làm mục
đích cuối cùng chứ không phải là hình tượng. Để làm được điều đó, không
chỉ phải tìm hiểu kỹ lưỡng cuộc sống hiện thực, phản ánh toàn bộ các
phương vị và kỹ xảo biểu đạt nghệ thuật, mà còn phải suy xét sâu rộng về
cuộc sống hiện thực. Nhà hội họa hiện đại 康定斯基 nói: “Các nhà làm nghệ
thuật hiện đại đã đạt đến mức thành thục đó, hình thức thể hiện có thể sắp
xếp thành hai đặc trưng: 1/ tính trừu tượng to lớn, 2/ tính hiện thực to lớn”.
Nó càng nói rõ hơn về tượng trưng bản thể. “Hồng lâu mộng” lấy nguyên tắc
viết thực làm chủ đạo, đồng thời mượn thêm bút pháp siêu hiện thực trong
nội dung tư tưởng, hình tượng nhân vật và chủ đề... đều được mở rộng và
suy xét kỹ lưỡng, là tác phẩm văn học hiếm có trên thế giới mang ý nghĩa
tượng trưng bản thể.