ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------
DƢƠNG THỊ HUỆ
CẢI CÁCH THỂ CHẾ KHOA HỌC KỸ THUẬT
Ở TRUNG QUỐC VÀ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành: Đông Phƣơng học
Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60 31 06 01
Hà Nội – 2015
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------
DƢƠNG THỊ HUỆ
CẢI CÁCH THỂ CHẾ KHOA HỌC KỸ THUẬT
Ở TRUNG QUỐC VÀ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
Ngành: Đông Phƣơng học
Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60 31 06 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐÔNG PHƢƠNG HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nghiêm Thúy Hằng
Hà Nội – 2015
ii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. I
1. Lý do lựa chọn đề tài ................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 5
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 6
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ................................................................ 12
5. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................ 13
6. Nguồn tài liệu sử dụng .............................................................................. 13
7. Bố cục luận văn .......................................................................................... 13
CHƢƠNG 1 .................................................................................................... 15
NGUYÊN NHÂN TRUNG QUỐC TIẾN HÀNH CẢI CÁCH THỂ CHẾ KHOA HỌC KỸ THUẬT ............................................................................ 15
1.1. Khái niệm ................................................................................................ 15
1.1.1. Thể chế khoa học kỹ thuật .................................................................... 15
1.1.2. Khái niệm cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ...................................... 16
1.2. Nguyên nhân Trung Quốc tiến hành cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ................................................................................................................ 18
1.2.1. Nguyên nhân bên trong ......................................................................... 18
1.2.2. Nguyên nhân bên ngoài ......................................................................... 21
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................... 28
CHƢƠNG 2 .................................................................................................... 29
QUÁ TRÌNH VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH THỂ CHẾ KHOA HỌC ...... 29
KỸ THUẬT TRUNG QUỐC ....................................................................... 29
2.1. Bối cảnh ra đời của cải cách .................................................................. 29
2.2. Khái quát quá trình cải cách ................................................................. 31
2.2.1. Giai đoạn 1978-1985 ............................................................................. 32
2.2.2. Giai đoạn 1985-1996 ............................................................................. 33
2.2.3. Giai đoạn 1996-2006 ............................................................................. 37
2.2.4.Giai đoạn từ năm 2006 đến nay ............................................................. 39
iii
2.3. Nội dung cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ...................................... 42
2.4.Thành tựu, tồn tại và giải pháp cải cách thể chế khoa học kỹ thuật Trung Quốc .................................................................................................... 46
2.4.1. Thành tựu .............................................................................................. 46
2.4.2. Những vấn đề còn tồn tại ...................................................................... 48
2.4.3. Giải pháp cải cách ................................................................................. 56
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................... 59
CHƢƠNG 3 .................................................................................................... 60
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM .......................................... 60
3.1. Thực trạng cơ chế chính sách quản lý, phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam trong những năm gần đây .................................................... 60
3.1.1. Cơ chế, chính sách đầu tƣ tài chính cho khoa học công nghệ .............. 62
3.1.2. Cơ chế quản lý nhân lực khoa học công nghệ ...................................... 67
3.1.3. Cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ . 70
3.2. Những ý kiến gợi mở góp phần đổi mới cơ chế, chính sách quản lý phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam ................................................. 72
3.2.1.Cơ chế tài chính cho khoa học công nghệ ............................................. 72
3.2.2. Cơ chế quản lý nhân lực khoa học công nghệ ...................................... 75
3.2.3. Cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ................ 78
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 ............................................................................... 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 89
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CSDLCơ sở dữ liệu
ĐTPT Đầu tƣ phát triển
KH&CN Khoa học và công nghệ
KH&PT Khoa học và phát triển
NC&PTNghiên cứu và phát triển
NSNN Ngân sách nhà nƣớc
USD Đô la Mỹ
v
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1: Đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc cho khoa học 6
công nghệ 3
Bảng 3.2: Ngân sách đầu tƣ cho khoa học công nghệ của 6
một số nƣớc năm 2011 3
Bảng 3.3: Tỷ lệ cơ cấu chi đầu tƣ phát triển KH&CN từ 6
NSNN theo khu vực 5
Bảng 3.4: Chi cho NC&PT của một số nƣớc theo nguồn 6
cấp và khu vực thực hiện năm 2011 6
Bảng 3.5: Nhân lực NC&PT theo thành phần kinh tế 6
và chức năng. 8
vi
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trung Quốc là một quốc gia lớn, dân số đông. Hiện nay, cải cách của
Trung Quốc đang bƣớc vào “giai đoạn công kiên” và “vùng nƣớc sâu”. Sau
hơn 30 năm cải cách, nhờ thực hiện cải cách - mở cửa, Trung Quốc đã đạt
đƣợc nhiều thành tựu to lớn đáng khâm phục: Kinh tế tăng trƣởng nhanh, sức
mạnh tổng hợp quốc gia đƣợc tăng cƣờng, đời sống nhân dân đƣợc cải thiện,
vị thế quốc tế đƣợc nâng cao. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những
thành công trong cải cách mở cửa là nhờ đóng góp to lớn của khoa học và
công nghệ; đồng thời một trong những biện pháp nhằm giải quyết những vấn
đề còn tồn tại để tiếp tục phát triển cũng bắt đầu từ khoa học và công nghệ.
Để cho khoa học và công nghệ phát huy hết vai trò to lớn của mình trong phát
triển đất nƣớc, yêu cầu đặt ra đối với Trung Quốc là cần tiếp tục tiến hành cải
cách thể chế khoa học kỹ thuật.
Trung Quốc đƣợc biết tới nhƣ một trong những chiếc nôi của văn
minh nhân loại với nhiều sáng chế của văn minh khoa học kỹ thuật nhƣ : Giấy,
kỹ thuật in, la bàn, thuốc súng. Tuy nhiên, do xuất phát từ một nƣớc có nền
văn minh nông nghiệp nên những sáng chế có tính chất khoa học - kỹ thuật
chƣa đƣợc coi trọng nhiều.
Từ năm 1949 -1978 là giai đoạn thăng trầm của lịch sử Trung Quốc.
Đây là giai đoạn vật lộn với những thách thức để dò tìm một con đƣờng tiến
lên. Giai đoạn này, trên thực tế đã tác động không nhỏ tới sự phát triển của
nhân tài Trung Quốc, đặc biệt là nhân tài thuộc giới tri thức và khoa học kỹ
thuật. Trong giai đoạn này, nền kinh tế Trung Quốc mô phỏng theo thể chế
kinh tế kế hoạch tập trung cao độ của Liên Xô, điều đó kéo theo cải cách khoa
học kỹ thuật của Trung Quốc học theo mô hình của Liên Xô gắn với mô hình
kinh tế kế hoạch. Đến tháng 3 năm 1978 tại lễ khai mạc Đại hội Khoa học
1
toàn quốc, Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh : “Bốn hiện đại hóa quan trọng nhất
là hiện đại hóa khoa học - kỹ thuật. Không hiện đại hóa khoa học - kỹ thuật
cũng không thể có nền kinh tế phát triển tốc độ cao”.1 Khi đó, địa vị chiến
lƣợc của khoa học kỹ thuật trong sự nghiệp hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa đặc
sắc Trung Quốc đã bắt đầu đƣợc xác lập.
Sau năm 1979 Đặng Tiểu Bình đã đƣa ra quan điểm “Khoa học - kỹ
thuật là lực lượng sản xuất hàng đầu”2 nhƣng chƣa thực sự đi sâu vào cải
cách. Nhƣng từ cuối những năm 70 cho đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX,
Đặng Tiểu Bình đã hình thành và phát triển quan điểm “sự nghiệp hiện đại
hóa phải dựa vào khoa học và giáo dục”. Quan điểm ấy đã đặt cơ sở lý luận
vững chắc cho việc đề xuất và thực thi chiến lƣợc “Khoa giáo hƣng quốc”. Và
dựa theo tƣ tƣởng chiến lƣợc này, đến năm 1985 Đảng Cộng sản Trung Quốc
tuyên bố quyết định cải cách thể chế khoa học - kỹ thuật và cải cách thể chế
giáo dục, xác lập phƣơng châm chiến lƣợc “Phát triển kinh tế phải dựa vào
khoa học kỹ thuật, công tác khoa học kỹ thuật phải hƣớng tới phát triển kinh
tế” và “giáo dục phải phục vụ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phải dựa vào giáo dục”. Năm 1995, Trung
ƣơng Đảng Cộng sản và Quốc vụ viện Trung Quốc đã đƣa ra “Quyết định của
Trung ƣơng Đảng Cộng sản và Quốc vụ viện Trung Quốc về việc tăng cƣờng
tiến bộ khoa học - kỹ thuật”, mở Đại hội Khoa học - kỹ thuật toàn quốc, lần
đầu tiên chính thức đề xuất thực thi chiến lƣợc “Khoa giáo hƣng quốc”. Tại
1 四个现代化〃关现是科学技现现代化。没有现代科学技现〃就不可能建现现代现现〃
现代工现〃现代国防。没有科学技现的高速现展〃也就不可能有国民现现的高速度现展
2 科学技现是第一生现力
Đại hội Khoa học - kỹ thuật toàn quốc, Giang Trạch Dân chỉ ra rằng: “Khoa
2
giáo hƣng quốc là thực thi toàn diện tƣ tƣởng khoa học - kỹ thuật, là lực
lƣợng sản xuất số một, kiên trì giáo dục làm nền tảng, …” .
Đặc trƣng quan trọng của sự phát triển kinh tế thế giới ở những thập
niên cuối của thế kỷ XX là khoa học công nghệ cao nhanh chóng đƣợc áp
dụng vào sản xuất. Chính vì vậy nhằm mục đích bắt kịp và đón đầu với tiến
bộ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, Trung Quốc đã có “kế hoạch
nghiên cứu phát triển công nghệ cao” mà Trung Quốc gọi là “kế hoạch 863”
đƣợc nêu ra vào tháng 3 năm 1986. Nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch này là
theo dõi sự phát triển của thế giới về công nghệ tiên tiến và đề xuất kế hoạch
thực hiện phù hợp với Trung Quốc, xuất phát từ xu thế phát triển công nghệ
cao thế giới và nhu cầu cùng năng lực của Trung Quốc, kế hoạch “863” ƣu
tiên 7 lĩnh vực nhƣ: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự
động hóa, công nghệ vũ trụ, công nghệ la-de, công nghệ năng lƣợng mới và
công nghệ vật liệu mới làm trọng điểm nghiên cứu và phát triển. Các trọng
điểm này đƣợc ƣu tiên bố trí đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật giỏi để tiến
hành nhiệm vụ nghiên cứu.
Hơn nữa, dựa theo chiến lƣợc “Khoa giáo hƣng quốc”, để xây dựng
Trung Quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh giáo
dục có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát
triển kinh tế - xã hội, vai trò quan trọng của nhân tài và tri thức trong sự
nghiệp phát triển giáo dục.
Bƣớc sang thế kỷ XXI, khi xu thế toàn cầu hóa đang xóa bỏ dần khái
niệm “chảy máu chất xám” để thay vào đó là sự xuất hiện của một khái niệm
mới - “lƣu thông chất xám”, cũng là lúc cuộc cạnh tranh về nhân tài giữa các
nƣớc trở nên gay gắt chƣa từng có. Cái gọi là “lƣu thông chất xám” chính là
thực tế chất xám sẽ di chuyển đến nơi mà nó có điều kiện phát triển tốt nhất.
3
Vì vậy, quốc gia nào thành công trong việc thu hút, phát triển nhân tài, quốc
gia đó sẽ giành đƣợc ƣu thế vƣợt trội trên trƣờng quốc tế. Là một đất nƣớc
đƣợc biết đến nhƣ một “điểm nóng” về nhân tài trong khu vực châu Á, Trung
Quốc đã ý thức từ rất sớm tầm quan trọng của vấn đề và đi đến nhận thức
“Nhân tài là nguồn tài nguyên số một”, “khai thác nhân tài là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu” trên con đƣờng thực hiện tham vọng trở thành siêu cƣờng thế
giới. Trong hai cuộc họp vào ngày 23 tháng 5 và 24 tháng 11 năm 2003 của
Bộ chính trị Trung Quốc đã đi đến xác định coi: khoa học kỹ thuật là lực
lƣợng sản xuất số một, phát triển nền kinh tế theo khuynh hƣớng chú trọng
vào chất nhằm tăng cƣờng sức sản xuất, làm nổi bật vị trí hàng đầu của phát
triển nhân tài đối với việc tăng cƣờng sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao
vị thế cạnh tranh quốc tế. Tiếp theo, tại Hội nghị về công tác nhân tài diễn ra
trong hai ngày 19-20/12/2003, lần đầu tiên trong lịch sử quốc gia này kể từ
khi thành lập nƣớc, Trung ƣơng Đảng Cộng sản đã tổ chức Hội nghị về công
tác nhân tài diễn ra trên quy mô toàn quốc. Hội nghị đã thảo luận và đề xuất
thực thi chiến lƣợc “Nhân tài cƣờng quốc”. Theo đó, ngày 26 tháng 12 năm
2003, Quốc vụ viện, Trung ƣơng Đảng Cộng sản đã đƣa ra Quyết định về vấn
đề từng bƣớc tăng cƣờng công tác nhân tài. Điều này đã cho thấy Trung Quốc
đã sớm nhận ra tầm quan trọng của khoa học kỹ thuật đối với sự phát triển đất
nƣớc và việc xây dựng thể chế khoa học kỹ thuật phù hợp, tiến hành cải cách
thể chế khoa học kỹ thuật. Và cho đến những năm gần đây với sự phát triển
vũ bảo của khoa học kỹ thuật nhƣ Internet khiến cho các nhà lãnh đạo Trung
Quốc phải nhìn lại và phát triển hơn nữa các chính sách về khoa học kỹ thuật
và tiếp tục cải cách thể chế khoa học kỹ thuật Trung Quốc.
Đứng trƣớc tình hình mới của thế giới, khu vực và những yêu cầu mới
đặt ra của cải cách mở cửa, Hội nghị Trung ƣơng 3 khóa 18 Đảng Cộng sản
4
Trung Quốc (11-2013) đã thông qua bản Quyết định đi sâu cải cách toàn diện
trong đó đã nhấn mạnh vấn đề: “Đi sâu cải cách thể chế khoa học kỹ thuật”.
Điều này cho thấy, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang rất quan tâm và coi
trọng vấn đề cải cách thể chế khoa học kỹ thuật.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nƣớc láng giềng có nhiều điểm tƣơng
đồng. Việt Nam cũng đang tiến hành công cuộc Đổi mới toàn diện đất nƣớc.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
rất coi trọng vai trò của khoa học kỹ thuật và đặt vấn đề đổi mới cơ chế quản
lý khoa học kỹ thuật. Trong bản Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 2011-
2020 đƣợc thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản
Việt Nam (1-2011) đã đặt vấn đề: “Đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ
chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học, công nghệ”. Còn trong bản Cƣơng
lĩnh Xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách
khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng khoa học,
công nghệ”. Với ý thức “lấy ngoài phục vụ trong”, trên cơ sở thu thập và hệ
thống hóa tài liệu, em mạnh dạn lựa chọn chủ đề “Cải cách thể chế khoa học
kỹ thuật của Trung Quốc” để tìm hiểu, nghiên cứu và làm luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung vào mục tiêu và những nhiệm vụ nghiên cứu chủ
yếu nhƣ sau:
Mục tiêu nghiên cứu:
Trong thời đại ngày nay, khoa học và kỹ thuật ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Nó đã trở thành yếu tố
cốt tử của sự phát triển, là lực lƣợng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn
cầu. Điều này đƣợc phản ánh rõ trong việc hoạch định các chính sách và
chiến lƣợc phát triển khoa học, kỹ thuật và kinh tế của nhiều nƣớc trên thế
giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ phát triển cụ thể của từng nƣớc mà việc
5
xây dựng chiến lƣợc, chính sách phát triển khoa học kỹ thuật tƣơng đối đa
dạng và mang tính đặc thù đối với từng giai đoạn phát triển cụ thể phù hợp
với hoàn cảnh, điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc gia. Điều nổi bật rút ra
từ chiến lƣợc, chính sách của các nƣớc trên thế giới từ những nƣớc có nền
kinh tế phát triển đứng hàng đầu thế giới cho đến những nƣớc có nền kinh tế
chậm phát triển và lạc hậu, đó chính là quan điểm: “Sự phát triển khoa học và
kỹ thuật là một phƣơng hƣớng quan trọng mới, có tính quyết định trong việc
phát triển kinh tế quốc gia”. Chính vì vậy, việc nghiên cứu cải cách thể chế
khoa học kỹ thuật của các nƣớc trên thế giới và trong khu vực để áp dụng và
phát huy một cách sáng tạo vào hoàn cảnh của đất nƣớc mình có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với các nƣớc trên con đƣờng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá nói chung và đối với Việt Nam nói riêng hiện nay.
Mục đích của luận văn là tìm hiểu và nghiên cứu quá trình cải cách thể
chế khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc; phân tích những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu quan niệm của Trung Quốc về thể chế khoa học kỹ thuật và
cải cách thể chế khoa học kỹ thuật;
- Phân tích nguyên nhân dẫn đến tiến hành cải cách thể chế khoa học
kỹ thuật ở Trung Quốc;
-Tìm hiểu quá trình cải cách, nội dung của cải cách thể chế khoa học
kỹ thuật ở Trung Quốc;
- Phân tích đánh giá những thành tựu, tồn tại và giải pháp của cải cách
thể chế khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc;
- Rút ra những bài học kinh nghiệm mà Việt Nam có thể tham khảo.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khoa học và kỹ thuật ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc
phát triển nền kinh tế của mỗi đất nƣớc. Bên cạnh đó, Trung Quốc là một
6
trong những nƣớc có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ dựa trên những đóng góp
tích cực của khoa học và kỹ thuật. Chính vì vậy, các vấn đề liên quan đến cải
cách thể chế khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc là một trong những đề tài thu
hút không ít các nhà nghiên cứu của Trung Quốc. Tuy nhiên, đối với các
nghiên cứu của học giả phƣơng Tây và học giả Việt Nam, đề tài này vẫn còn
tƣơng đối mới và số lƣợng công trình nghiên cứu khá khiêm tốn.
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu của học giả Việt Nam về khoa học kỹ thuật
không phải quá nhiều. Các công trình tiêu biểu có thể kể đến nhƣ: Nguyễn
Chiến Thắng với công trình Phát triển thị trường khoa học công nghệ Việt
Nam. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ các nhân tố thúc đẩy và kìm hãm
sự phát triển của thị trƣờng khoa học công nghệ giai đoạn 2001-2010. Đồng
thời, tác giả cũng phân tích các nhân tố mới trong giai đoạn tái cơ cấu nền
kinh tế 2011-2020 tác động đến thị trƣờng khoa học công nghệ của Việt Nam,
trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của thị trƣờng khoa
học công nghệ cho giai đoạn mới này.
Trong một công trình khác, “Thị trường khoa học và công nghệ ở Việt
Nam”, của tác giả Danh Sơn đã làm rõ đƣợc khái niệm thị trƣờng khoa học
công nghệ và các bộ phận cấu thành nên thị trƣờng khoa học công nghệ.
Ngoài ra, bài viết nhận định thị trƣờng khoa học công nghệ ở Việt Nam còn
rất sơ khai và còn thiếu nhiều điều kiện để phát triển. Đồng thời, bài viết đƣa
ra một số ý kiến về chính sách và giải pháp thúc đẩy thị trƣờng khoa học công
nghệ ở Việt Nam trong thời gian tới sẽ phải tập trung vào việc hình thành và
phát triển các chủ thể cấu thành thị trƣờng khoa học công nghệ và đổi mới
hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý nhà nƣớc đối với thị trƣờng khoa học
công nghệ.
7
Viết về cải cách khoa học kỹ thuật của Trung Quốc, Nguyễn Điền cho
công bố công trình “Tình hình phát triển khoa học kỹ thuật nông nghiệp ở
Trung Quốc trong thời kỳ cải cách”. Tác giả cũng đã tiến hành phân tích rõ
tình hình phát triển khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp qua từng
giai đoạn của thời kỳ cải cách. Từ đó, bài viết chỉ rõ những đóng góp to lớn
đáng khích lệ của khoa học kỹ thuật trong việc phục vụ nông nghiệp ở Trung
Quốc trong ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Công trình cũng chỉ ra rằng,
bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc vẫn
chƣa đủ đáp ứng yêu cầu đặt ra của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Tình hình nghiên cứu ở Trung Quốc
Các học giả Trung Quốc rất quan tâm đến vấn để cải cách thể chế
khoa học kỹ thuật, điều này thể hiện qua khá nhiều công trình với những đóng
góp nhất định. Tác giả Phƣơng Tâm 方新〃关于深化科技体制改革的思考
〃中国科学院院刊〃北京, 2003 (Phƣơng Tâm, Suy nghĩ về việc đi sâu cải
cách thể chế khoa học kỹ thuật, Tạp chí Viện khoa học Trung Quốc, Bắc kinh,
2003). Bài viết chủ yếu khái quát và đánh giá quá trình cải cách thể chế khoa
học kỹ thuật hơn 10 năm qua của Trung Quốc. Bên cạnh đó, bài viết cũng chỉ
ra việc tăng cƣờng cải cách thể chế quản lý khoa học kỹ thuật vĩ mô đã trở
thành nhiệm vụ cấp thiết, đặc biệt là yêu cầu xây dựng hiện đại hóa đất nƣớc
đối với cải cách thể chế khoa học kỹ thuật. Bài viết chủ yếu đi sâu vào ba nội
dung chính sau: Nhìn lại khái quát về cải cách thể chế khoa học kỹ thuật;
Thích ứng với yêu cầu thời đại, cải cách thể chế quản lý vĩ mô; Thảo luận một
số vấn đề trong việc cải cách thể chế khoa học kỹ thuật vĩ mô.
李振京〃现林山, “十二五”现期科技体制改革与国家现新体系建
现〃宏现现现管理, 北京, 2010 (Lý Chấn Kinh, Trƣơng Lâm Sơn, Thời kỳ
8
kế hoạch 5 năm lần thứ 12 xây dựng hệ thống đổi mới đất nước và cải cách
thể chế khoa học kỹ thuật, Quản lý kinh tế vĩ mô, Bắc Kinh, 2010). Bài viết
nêu rõ những thành tựu to lớn mà Trung Quốc đạt đƣợc kể từ khi cải cách mở
cửa cho đến nay trong việc xây dựng hệ thống đổi mới và thể chế khoa học kỹ
thuật của Trung Quốc. Bài viết chỉ ra: Hệ thống đổi mới đất nƣớc phải lấy
chuyển hóa thành quả và thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật làm nội dung
chính, sẽ trải qua sự chuyển biến sâu sắc từ mô hình kế hoạch tập trung sang
mô hình thị trƣờng tập trung, việc ứng dụng, mở rộng và chuyển hóa trong
lĩnh vực kinh tế có tác dụng thúc đẩy các thành quả và tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Bên cạnh đó, bài viết còn nêu lên những bất cập, hạn chế chƣa đƣợc cải
cách triệt để trong hệ thống đổi mới của Trung Quốc.
王天现〃中国科技体制改革、科技现源配置与现新效率〃现现现
现〃北京〃 2014 年 02 期 (Vƣơng Thiên Kiêu, Đổi mới hiệu suất và phân
bổ nguồn lực khoa học kỹ thuật, cải cách thể chế khoa học kỹ thuật Trung
Quốc, Vấn đề kinh tế, Bắc Kinh, kỳ 2/2014). Tác giả đứng từ góc độ phân bổ
nguồn vốn và hiệu quả đổi mới để nghiên cứu cải cách thể chế khoa học kỹ
thuật Trung Quốc và đƣa ra các quan điểm mới: Giai đoạn đầu cải cách thì
việc phân bổ nguồn vốn khoa học kỹ thuật và hiệu quả đổi mới vẫn chƣa có
những cải thiện đáng kể; việc ngành nghề hóa kỹ thuật bên ngoài và giá thành
dành cho việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở bên trong tƣơng đối cao dẫn
đến việc thu lại kết quả của cơ cấu khoa học kỹ thuật doanh nghiệp nội bộ,
doanh nghiệp chủ yếu dựa vào sự cải tạo khoa học kỹ thuật để tích lũy năng
lực đổi mới; Giai đoạn hai buộc chuyển đổi cơ cấu doanh nghiệp nghiên cứu
khoa học, đồng thời hạ thấp giá thành của thị trƣờng giao dịch kỹ thuật và
nghiên cứu nội bộ, ngành nghề hóa kỹ thuật, nâng cao rõ rệt hiệu quả đổi mới
doanh nghiệp, và mức vốn khoa học kỹ thuật, hiệu suất của cơ cấu nghiên cứu
9
khoa học tuy đã đƣợc nâng cao nhƣng vẫn thấp ở doanh nghiệp, nguyên nhân
là do hiệu suất của thiết bị và nhân công đều tƣơng đối thấp.
现 毅, 现现中国科技体制改革, 民主与科学〃北京〃 2012 年
05 期 ( Nhiễu Nghị, Bàn về cải cách thể chế khoa học kỹ thuật Trung Quốc,
Dân chủ và Khoa học, Bắc Kinh, kỳ 5/2012). Bài viết khái quát vai trò của
khoa học trên nhiều lĩnh vực nhƣ: y tế, giáo dục, kinh tế…để chứng minh tầm
quan trọng của nó đối với sự giàu mạnh của nhân dân và thịnh vƣợng quốc
gia. Bài viết chủ yếu xoanh quanh ba vấn đề chính: Khoa học là vấn đề đáng
đƣợc mọi ngƣời quan tâm chú ý đến; Trình độ khoa học của Trung Quốc vẫn
có rất nhiều không gian để phát triển; Thể chế nghiên cứu khoa học hiện nay
của Trung Quốc có thể đƣợc cải cách.
Trong một công trình khác (唐现, 科技现新推现现现现展方式现现
的理现研究述现, 湖北现现学院学现〃湖北〃2013 年第 1 期(Đƣờng
Long, Bình luận nghiên cứu lý luận về đổi mới khoa học kỹ thuật nhằm thúc
đẩy chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, Học báo học viện kinh tế Hồ
Bắc, Hồ Bắc, kỳ 1/2013, tác giả đã nhận định rằng: Điều cốt lõi của việc đổi
mới khoa học kỹ thuật hỗ trợ cho chuyển đổi phƣơng thức phát triển kinh tế là
nâng cao sự đóng góp của tiến bộ và đổi mới khoa học kỹ thuật đối với tăng
trƣởng kinh tế, khiến nó trở thành động lực quan trọng nhất của tăng trƣởng
kinh tế. Đóng góp của bài viết là đã tiến hành nghiên cứu vai trò và cách thức
đổi mới khoa học và kỹ thuật để đẩy mạnh chuyển đổi phƣơng thức phát triển
trong lĩnh vực kinh tế một cách cụ thể và rõ ràng.
Tác giả Chu Lệ Lan đã cho công bố công trình “Khoa giáo hưng
quốc: quyết sách chiến lược quan trọng của Trung Quốc khi bước vào thế kỷ
21” (朱现现〃科技兴国:中国迈向 21 世现的重大现略决策〃中共中央
10
党校出版社, 北京〃1995). Phần mở đầu, tác giả đi vào giới thiệu những
quyết sách, những bài phát biểu của lãnh đạo Trung Quốc có liên quan đến
vấn đề khoa học kỹ thuật và giáo dục nhƣ: quyết sách tăng cƣờng thúc đẩy
tiến bộ khoa học kỹ thuật của Quốc vụ viện, bài phát biểu tại Đại hội Khoa
học kỹ thuật toàn quốc của các nhà lãnh đạo Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Ôn
Gia Bảo…Tiếp theo, tác giả đƣa ra về sự thành công, những kinh nghiệm và
bài học phát triển của các quốc gia lớn nhƣ Mỹ, Anh, Đức, Nhật, Liên Xô,
…từ đó cho thấy vai trò to lớn của khoa học kỹ thuật đối với sự phát triển
kinh tế, xã hội của một đất nƣớc, và cuối cùng là kiến nghị những chính sách
để thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật Trung Quốc. Đây có thể coi là một
trong những công trình có đóng góp lớn cho việc nghiên cứu cải cách khoa
học kỹ thuật ở Trung Quốc.
Chen Ru, Chinese Science and Technology: Reform and
Development(Beijing: China Intercontinental Press, 2004. Tác giả cho rằng
“Khoa học kỹ thuật của Trung Quốc đƣợc phát triển theo kế hoạch dài dạn
trong vòng 5 năm và phần đầu tiên của bản kế hoạch này đƣợc giới thiệu vào
năm 1956”.
Tại nước ngoài:
Các công trình nghiên cứu của học giả phƣơng Tây mà tác giả có cơ
hội đƣợc tiếp cận là không nhiều. Có thể kể đến hai công trình tiêu biểu sau:
Martin L. Weitzman and Chenggang Xu 1994; “Chinese Township–Village
Enterprises as Vaguely Defined Cooperatives.” Dani Rodrik 2006. Trong
công trình này, tác giả cho rằng “Chính sách cải cách của Trung Quốc thƣờng
không thích ứng với bản chất của chế độ cơ bản và thỉnh thoảng làm cản trở
việc phát huy tính ƣu việt của chế độ cơ bản”.
Công trình “Science anh technology policies, industrial reform and
technical progress in China” (Chính sách khoa học và công nghệ, cải cách
11
công nghiệp và sự tiến bộ trong khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc) của tác giả
Alberto Gabriele (tháng 8 năm 2001, tại United Nation Conference on Trade
and Development) cũng đƣợc đánh giá là một công trình có đóng góp cho
việc nghiên cứu những cải cách thể chế khoa học kỹ thuật nhằm phục vụ cho
phát triển kinh tế ở Trung Quốc. Công trình đã đi vào phân tích các nhiệm vụ
trong tiến trình cải cách khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc - một nƣớc lớn đang
ở giai đoạn bán công nghiệp và phát triển theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa.
Công trình chủ yếu đề cập đến những khía cạnh trong cải cách hệ thống khoa
học kỹ thuật của Trung Quốc có liên quan đến năng lực tổng thể của nền kinh
tế, từ đó tạo ra các tiến bộ kỹ thuật phục vụ cho lĩnh vực sản xuất và phân
phối. Công trình đã đƣa ra kết luận rằng hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa của
Trung Quốc sau khi trải qua những cải cách quan trọng trong khoa học kỹ
thuật cùng với sự định hƣớng lại thị trƣờng, sẽ có những bƣớc tăng tốc đột
phá, tuy nhiên vẫn cần phải hiểu một cách rộng hơn đây là sự cải cách về
khoa học kỹ thuật.
Nhìn lại tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, tác giả
nhận thấy các công trình nghiên cứu đã làm rõ nhiều khía cạnh trong vấn đề
cải các thể chế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc. Tuy nhiên, tại Việt Nam
những nghiên cứu đối với cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc
vẫn còn mới mẻ, tƣơng đối khiêm tốn và hạn chế.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích các
cải cách trong lĩnh vực thể chế khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung đi sâu vào nghiên cứu nội
dung tiến hành cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc không bao
gồm các lãnh thổ Hồng Kông, Ma Cao và Đài Loan: (i) tập trung phân tích
những nguyên nhân tác động đến cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ở
12
Trung Quốc; (ii) Phân tích quá trình, nội dung cải cách thể chế khoa học
kỹ thuật ở Trung Quốc để thấy đƣợc những thành tựu, hạn chế trong cải
cách; (iii) Thực trạng cơ chế quản lý, phát triển khoa học công nghệ ở
Việt Nam.
5. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cách tiếp cận: Luận văn đặt việc nghiên cứu cải cách thể chế khoa
học kỹ thuật trong toàn bộ tiến trình cải cách thể chế nói riêng và cải cách mở
cửa nói chung của Trung Quốc.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu nhƣ tổng hợp, phân tích, lịch sử,...
6. Nguồn tài liệu sử dụng
6.1. Nguồn tài liệu cấp 1(tài liệu gốc) chủ yếu bao gồm:
- Các văn kiện gốc của Đảng và Nhà nƣớc Trung Quốc về cải cách thể
chế khoa học kỹ thuật.
- Các báo cáo của chính phủ, chính quyền các cấp về việc thực hiện
các cải cách thể chế khoa học kỹ thuật.
6.2. Nguồn tài liệu thứ cấp:
- Các công trình khoa học đã đƣợc công bố bao gồm các bài viết về
khoa học kỹ thuật, cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của các nhà khoa học
Trung Quốc, quốc tế.
- Các thông tin từ báo chí chính thống, các Website của Trung Quốc,
Việt Nam và các nƣớc khác.
7. Bố cục luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Nguyên nhân Trung Quốc tiến hành cải cách thể thế khoa
học kỹ thuật.
13
Chƣơng này tập trung giới thiệu các khái niệm có liên quan về thể chế
và cải cách thể chế khoa học kỹ thuật; phân tích các nguyên nhân bên trong và
bên ngoài dẫn đến cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc.
Chƣơng 2: Quá trình và nội dung cải cách thể chế khoa học kỹ thuật
Trung Quốc
Chƣơng này luận văn đã nêu ra bối cảnh ra đời và khái quát quá trình
cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc. Nội dung, thành tựu cũng
nhƣ những tồn tại và giải pháp của Trung Quốc cho cải cách thể chế khoa học
kỹ thuật cũng đã đƣợc luận văn phân tích và làm rõ.
Chƣơng 3: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Chƣơng này luận văn đã nêu rõ thực trạng cơ chế chính sách quản lý,
phát triển của khoa học công nghệ Việt Nam trong những năm gần đây thông
qua phân tích đánh giá một số vấn đề cơ bản nhƣ: cơ chế tài chính, cơ chế
quản lý nhân lực khoa học công nghệ... Ngoài ra, luận văn đã đƣa ra ý kiến
gợi mở góp phần đổi mới cơ chế, chính sách quản lý phát triển khoa học công
nghệ ở Việt Nam phù hợp với nhu cầu thực tế.
Cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc là một chủ đề còn ít
đƣợc tìm hiểu và nghiên cứu ở Việt Nam. Vì vậy, mặc dù đã rất cố gắng, em
tự nhận thấy bản luận văn này vẫn còn nhiều mặt cần đƣợc hoàn thiện. Em rất
mong Quý Thầy/ Cô trong Hội đồng đóng góp ý kiến và chỉ bảo.
14
CHƢƠNG 1
NGUYÊN NHÂN TRUNG QUỐC TIẾN HÀNH CẢI CÁCH THỂ CHẾ
KHOA HỌC KỸ THUẬT
1.1. Khái niệm
1.1.1. Thể chế khoa học kỹ thuật
Hiện nay trên thế giới nói chung cũng nhƣ ở Việt Nam nói riêng vẫn
chƣa hình thành một khái niệm thống nhất về thể chế khoa học kỹ thuật. Đại
đa số các học giả khi nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến thể chế
khoa học kỹ thuật đều chƣa đƣa ra đƣợc định nghĩa chính xác về thể chế khoa
học kỹ thuật. Nhƣng nội hàm của thể chế khoa học kỹ thuật là những nhận
thức hiểu biết chung mà các học giả nghiên cứu về thể chế khoa học kỹ
thuật đã đƣa ra. Trong bối cảnh nhƣ vậy, điều cần thiết là chúng ta cần phải
nắm bắt đƣợc nội hàm của khoa học kỹ thuật từ góc độ thực tiễn.
Cổ Tiêu Nhân (2003) cho rằng:“Về bản chất, thể chế là hình thái hiện thực cụ thể của chế độ, bao hàm trong phạm trù chế độ”.3 Chính vì vậy, bản
chất của thể chế khoa học kỹ thuật là việc chế độ hóa của các hoạt động khoa
học kỹ thuật, cũng là hệ thống thể chế xã hội của khoa học kỹ thuật. Nội dung
của cải cách thể chế khoa học kỹ thuật chủ yếu bao gồm: Cơ cấu tổ chức khoa
học kỹ thuật, điều chỉnh pháp quy chính sách khoa học kỹ thuật và chuyển
dịch của cơ chế vận hành khoa học kỹ thuật. Cùng với đó, các học giả nghiên
cứu cũng cho rằng thể chế khoa học kỹ thuật bao gồm ba nội dung, đó là: Cơ
cấu tổ chức khoa học kỹ thuật, pháp quy chính sách khoa học kỹ thuật và cơ
chế vận hành khoa học kỹ thuật. Điều này phản ánh giới học thuật có nhận
3 “从本现上现,体制是制度的具体现现形现,包含在制度的范畴内”. 古现仁 (2003)〃 “现现型现 期科技体制的现迁及其现现现现展的促现”。南宁:广西大学科学技现哲学现士现文, 2 现.
thức chung nhất quán đối với nội hàm của thể chế khoa học kỹ thuật. Hiện tại,
15
chƣa có nhà nghiên cứu nào đi sâu tiến hành phân tích và mô tả chi tiết về các
khái niệm và nội hàm của thể chế khoa học kỹ thuật. Phƣơng Tâm Tại trong
bài viết “ Khung phân tích trong nghiên cứu thể chế khoa học” đã đƣa ra giới
định về nội hàm và khái niệm của thể chế khoa học kỹ thuật. Đó là “Thể phức
hợp của sự phát triển các tổ chức khoa học kỹ thuật. Các tổ chức này có liên
quan đến việc phân bổ nguồn lực để đáp ứng nhu cầu của cá nhân, tập thể và
đất nước. Nó chủ yếu bao gồm hai mặt kết cấu hệ thống khoa học kỹ thuật (hệ
thống tổ chức) và cơ chế vận hành (hệ thống quy tắc). Hai mặt này hỗ trợ cho
nhau, là điều kiện để cùng nhau tồn tại. Trong đó, cơ chế vận hành là nguyên
tắc để cá nhân và tổ chức trong thể chế khoa học kỹ thuật triển khai hoạt
động; thực hiện quản lý khoa học kỹ thuật, nó thuộc các tổ chức của hệ thống
nội bộ, thể hiện mối quan hệ giữa các tổ chức với nhau, giữa tổ chức và cá
nhân, thể hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa môi trường bên ngoài và hệ
thống khoa học kỹ thuật”. Theo tôi, thể chế khoa học kỹ thuật là cơ chế vận
hành và cơ cấu tổ chức của khoa học kỹ thuật.
1.1.2. Khái niệm cải cách thể chế khoa học kỹ thuật
Khoa học kỹ thuật là động lực để phát triển kinh tế. Và khi kinh tế
phát triển lại đòi hỏi khoa học kỹ thuật cũng phải thay đổi phù hợp với sự
phát triển của kinh tế xã hội. Nên cải cách kinh tế tất yếu sẽ kéo theo cải
cách khoa học kỹ thuật.
Kinh tế kế hoạch trƣớc kia của Trung Quốc học theo mô hình của Liên
Xô đã đóng vai trò nhất định trong thời kỳ kinh tế phát triển theo chiều rộng.
Nhƣng khi kinh tế bƣớc đến giai đoạn phát triển theo chiều sâu thì thể chế
kinh tế kế hoạch đã dần bộc lộ những hạn chế: thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm
phát triển khoa học công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với ngƣời lao
động, kìm hãm tính năng động sáng tạo… Thực tế đã đặt ra yêu cầu Trung
Quốc phải tiến hành cải cách thể chế kinh tế từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế
16
thị trƣờng. Trƣớc tiên ở nông thôn, Trung Quốc đã từng bƣớc thực hiện chế
độ trách nhiệm khoán sản lƣợng đến hộ gia đình, khiến cho những ngƣời nông
dân trở thành chủ thể kinh tế kinh doanh tự chủ, nâng cao giá trị sản phẩm
nông sản, mở cửa thị trƣờng thành thị và nông thôn. Sau đó, ở thành thị thì
tiến hành thí điểm cải cách mở rộng quyền tự chủ kinh doanh xí nghiệp, giảm
bớt kế hoạch pháp lệnh đối với sản xuất và tiêu thụ…Những cải cách này có
hiệu quả thể chế rất rõ, kinh tế nông thôn và kinh tế thành thị trở nên nhộn
nhịp, thu nhập của những ngƣời dân tăng lên đáng kể. Chính những điều này
đã thuyết phục mạnh mẽ đông đảo ngƣời dân chấp nhận cải cách thể chế kinh
tế theo hƣớng thị trƣờng.
Kinh tế thị trƣờng tạo động lực lao động tích cực, tự giác cho từng
ngƣời lao động thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy chuyên môn hóa ngày
càng sâu để phát huy tiềm năng nhiều mặt của ngƣời lao động, phối hợp, điều
tiết hành vi của mọi ngƣời một cách tự giác thông qua cơ chế trao đổi hàng
hóa một cách tự nguyện, thỏa thuận theo quy luật cung - cầu. So với cơ chế kế
hoạch hóa tập trung của Nhà nƣớc trong thời bao cấp, kinh tế thị trƣờng
không tốn chi phí lập và điều hành kế hoạch, mà lại phát huy đƣợc sức mạnh
của con ngƣời.
Cải cách kinh tế từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trƣờng đã góp
phần to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội. Trong đó vai trò nòng cốt của
khoa học kỹ thuật trong phát triển kinh tế ngày càng đƣợc nhận thức rõ ràng.
Các thành tựu khoa học kỹ thuật là động lực chủ yếu cho phát triển kinh tế.
Yêu cầu đặt ra đối với cải cách thể chế khoa học kỹ thuật để phù hợp với sự
phát triển của kinh tế xã hội là đòi hỏi tất yếu đối với mỗi quốc gia trên con
đƣờng xây dựng đất nƣớc.
Để thúc đẩy sự phát triển đất nƣớc, một trong những điều quan trọng
nhất là phải cải cách thể chế khoa học kỹ thuật. Hiện nay, khoa học kỹ thuật
17
ngày càng có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế xã hội cũng nhƣ sự
phát triển ổn định lâu dài của đất nƣớc. Bởi vì, khi khoa học kỹ thuật phù hợp
với sự phát triển của thời đại, của nhu cầu xã hội nó sẽ góp phần thúc đẩy mọi
mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của quốc gia. Ngƣợc lại nếu khoa
học kỹ thuật lỗi thời, kém phát triển nó sẽ trở thành nhân tố cản trở kìm
hãm sự phát triển tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia.
Theo tôi, cải cách thể chế khoa học kỹ thuật là thay đổi căn bản thể
chế khoa học kỹ thuật cũ trƣớc đây chứa đựng nhiều khiếm khuyết, thiếu sót
không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội, xây dựng thể chế
khoa học kỹ thuật mới làm cho nó đƣợc hoàn thiện và phát huy hơn nữa để
phù hợp với nhu cầu phát triển của kinh tế xã hội.
1.2. Nguyên nhân Trung Quốc tiến hành cải cách thể chế khoa học
kỹ thuật
Nguyên nhân dẫn đến cải cách thể chế khoa học kỹ thuật chính là
những mâu thuẫn bên trong của thể chế khoa học kỹ thuật và những áp lực
của nhân tố bên ngoài. Sự tác động của hai nhân tố này là nguyên nhân quan
trọng đã dẫn đến cải cách thể chế khoa học kỹ thuật.
1.2.1. Nguyên nhân bên trong
Cho dù là do cải cách thể chế khoa học kỹ thuật hay là do sự tự biến
đổi một cách tự phát của khoa học kỹ thuật thì nó đều xuất phát từ sự không
thích ứng của kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật và thể chế khoa học kỹ thuật
dẫn đến. Trƣớc tiên, sự không thích ứng này thể hiện ở mâu thuẫn bên trong
của thể chế khoa học kỹ thuật. Một là, mẫu thuẫn giữa phân bổ nguồn lực và
cơ cấu tổ chức. Hai là, mâu thuẫn giữa cơ chế vận hành và cơ cấu tổ chức. Ba
là, mâu thuẫn giữa cơ chế vận hành, cơ cấu tổ chức và chức năng. Những mâu
thuẫn này không chỉ tự phát từ nội tại của thể chế khoa học kỹ thuật mà
18
còn bị tác động bởi điều kiện của bên ngoài, khiến cho thể chế khoa học kỹ
thuật nảy sinh nhiều vấn đề. Những vấn đề đó đƣợc cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, cơ chế vận hành đơn nhất. Sự vận hành của hệ thống khoa
học kỹ thuật ở Trung Quốc trƣớc đây chỉ đơn thuần là dựa vào kế hoạch mang
tính mệnh lệnh và tính hành chính để tiến hành quản lý, không coi trọng vai
trò của đòn bẩy kinh tế và cơ chế thị trƣờng, thiếu áp lực và động lực hƣớng
lên việc xây dựng kinh tế.
Thứ hai, sự tách rời giữa kinh tế và khoa học kỹ thuật. Tại Trung
Quốc, các kết quả nghiên cứu chƣa đƣợc ứng dụng rộng rãi, do thiếu sự kết
hợp giữa doanh nghiệp và nhà nghiên cứu. Các tổ chức nghiên cứu thƣờng
chú trọng tính học thuật của các kết quả nghiên cứu khoa học mà không chú ý
đến ứng dụng các thành quả nghiên cứu đó vào thực tiễn đời sống. Bên cạnh
đó, chi phí về tài chính, cơ sở vật chất và nhân lực cho các nghiên cứu về
khoa học kỹ thuật bị hạn chế nên thời gian hoàn thành luôn bị trì hoãn kéo
dài, không theo kịp xu hƣớng phát triển của kinh tế thị trƣờng. Điều đó ảnh
hƣởng đến tính ứng dụng trong thực tiễn của các nghiên cứu. Mặt khác, theo
thể chế truyền thống, khả năng nghiên cứu và phát triển khoa học kỹ thuật của
doanh nghiệp là rất yếu. Việc nghiên cứu, thiết kế và sản xuất lại càng thiếu
mối liên hệ mật thiết với nhau.
Thứ ba, các cơ quan nghiên cứu thiếu sức sống. Ở Trung Quốc đội
ngũ nhân viên, kinh phí, và nhiệm vụ nghiên cứu của các cơ quan nghiên cứu
thƣờng do cơ quan chủ quản quản lý, thành quả nghiên cứu do nhà nƣớc thu
nhận. Chính phủ Trung Quốc đã can thiệp quá sâu vào nhiều phƣơng diện
hoạt động của tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật, tổ chức nghiên cứu thiếu
quyền tự chủ cần có, và cũng thiếu trách nhiệm và áp lực kinh tế.
19
Thứ tư, thiếu sự gắn kết giữa các cơ quan nghiên cứu. Hiện nay, hệ
thống các cơ quan nghiên cứu của Trung Quốc bao gồm: Viện Khoa học
Trung Quốc, Đơn vị nghiên cứu thuộc các Bộ ban ngành Trung ƣơng, Đơn vị
nghiên cứu của quân đội, các tổ chức nghiên cứu của các trƣờng đại học, các
đơn vị nghiên cứu khoa học địa phƣơng. Các đơn vị nghiên cứu này thiếu sự
giao lƣu trao đổi khoa học với nhau. Lực lƣợng khoa học kỹ thuật phân tán,
chồng chéo. Các cơ quan nghiên cứu đƣợc sắp xếp và kinh phí hoạt động
nghiên cứu đƣợc phân bổ theo quan hệ lệ thuộc hành chính, tạo nên tình trạng
sở hữu của bộ ban ngành, sở hữu của địa phƣơng, sự chia rẽ giữa dân sự và
quân sự v.v… Tình trạng hiệu quả nghiên cứu thấp rất phổ biến, nguồn lực về
con ngƣời và tài chính bị phân tán và lãng phí, gây khó khăn cho việc xây
dựng kinh tế.
Thứ năm, chế độ nhân sự cứng nhắc. Chính phủ Trung Quốc thi hành
chế độ quản lý bao cấp đối với đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực khoa học kỹ
thuật, phân cấp thứ bậc đối với những ngƣời có thâm niên, việc tuyển dụng;
luân chuyển nhân sự không thƣờng xuyên diễn ra. Những hạn chế trong quản
lý nhân sự khiến cho đội ngũ những ngƣời làm công tác khoa học kỹ thuật
khó có thể phát huy hết tài năng của họ.
Thứ sáu, thiếu tổ chức trung gian trong khoa học kỹ thuật. Trong thời
kỳ kinh tế bao cấp, không gian tồn tại của các tổ chức trung gian khoa học kỹ
thuật rất chật hẹp, không có sự nhận thức rõ ràng đối với tầm quan trọng của
nó. Vì vậy, ở Trung Quốc thƣờng thiếu kênh và môi trƣờng giao lƣu, trao đổi
khoa học kỹ thuật, việc phổ biến thông tin khoa học kỹ thuật lại không thuận
lợi, thành quả khoa học lại thiếu không gian phát triển.
Những nguyên nhân trên làm cho thể chế khoa học kỹ thuật không thể
đáp ứng đƣợc nhu cầu phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu phát triển kinh
20
tế xã hội. Chỉ có thông qua cải cách thể chế khoa học kỹ thuật mới có thể
thích ứng đƣợc sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và kinh tế
xã hội.
1.2.2. Nguyên nhân bên ngoài
Vấn đề tồn tại trong nội tại thể chế khoa học kỹ thuật là cơ sở cho sự
biến đổi và cải cách thể chế khoa học kỹ thuật, đồng thời, sự biến đổi thể chế
khoa học kỹ thuật không thể tách rời áp lực từ bên ngoài. Xu thế toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế của xã hội hiện đại, làm cho vai trò của các yếu tố bên
ngoài ngày càng trở nên quan trọng. Do vậy, việc xem xét những áp lực bên
ngoài tác động đến việc thay đổi thể chế khoa học kỹ thuật sẽ giúp nắm bắt
chính xác đặc trƣng và xu thế quan trọng của thay đổi thể chế khoa học kỹ
thuật. Những áp lực này thể hiện tập trung dƣới những mặt sau:
1.2.2.1. Áp lực của phát triển khoa học kỹ thuật
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đại Trung Quốc đã sớm bƣớc
vào quỹ đạo phát triển nhanh chóng, là một xu hƣớng tăng trƣởng vƣợt bậc.
Hiện nay, các ngành khoa học nhƣ :Vũ trụ học, hải dƣơng học, sinh vật học,
sinh thái học v.v.... đều đang phát triển mạnh mẽ. Cùng với đó, các loại kỹ
thuật công nghệ cũng đang phát triển với tốc độ nhanh chóng, đặc biệt là sự
phát triển của kỹ thuật công nghệ cao.
Trước hết, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã thể hiện đặc trƣng
nhất thể hóa. Lịch sử phát triển của khoa học kỹ thuật cho thấy rằng, khoa học
và kỹ thuật vốn là hai sự vật phát triển độc lập, nhƣng từ thế kỷ 19 đến nay,
mối quan hệ giữa khoa học và kỹ thuật ngày càng trở nên chặt chẽ hơn. Cho
đến nay sự phát triển của khoa học và kỹ thuật đã không thể tách rời nhau với
biểu hiện đặc trƣng của sự phát triển nhất thể hóa của chúng. Đặc trƣng này
21
biểu hiện trong mối liên hệ mật thiết thúc đẩy lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau giữa
khoa học và kỹ thuật.
Một mặt, khoa học dƣới sự thúc đẩy và hỗ trợ của kỹ thuật mới có thể
phát triển nhanh chóng. Sự phát triển của khoa học cần phải có thực nghiệm,
thiết bị thí nghiệm là phƣơng tiện vật chất để tiến hành thí nghiệm khoa học,
tách ra khỏi thiết bị thí nghiệm của hiện đại hóa, sự phát triển của khoa học
hiện nay mất đi cơ sở hỗ trợ vật chất quan trọng nhất. Với những hệ thống
thiết bị lớn, tinh vi mà lại phức tạp của trình độ phát triển khoa học hiện đại
và là chỉ số quan trọng của toàn bộ quá trình hóa, chỉ có dựa vào cơ sở kinh tế
xã hội vững chắc và hệ thống sản xuất công nghiệp mạnh mẽ, kỹ thuật tiên
tiến làm hậu thuẫn, mới có thể thiết kế, chế tạo ra nó, và đạt đƣợc ứng dụng
hiệu quả rộng rãi, từ đó có sức để hỗ trợ phát triển nhanh chóng toàn bộ khoa
học kỹ thuật và khoa học hiện đại.
Mặt khác, sự phát triển của kỹ thuật hiện đại lại là phụ thuộc vào sự
phát triển của khoa học hiện đại, sự phát triển của khoa học hiện đại là mở
rộng con đƣờng tiến bộ của kỹ thuật hiện đại. Đặc biệt là sự phát triển của kỹ
thuật mới nổi hiện nay, nếu nhƣ không có cơ sở khoa học vững chắc thì sẽ
không có sức sống để phát triển và chịu đựng.
Thứ hai, kỹ thuật công nghệ cao trở thành điểm nóng của khoa học kỹ
thuật các nƣớc phát triển.
Kỹ thuật mới hiện nay với tiền thân là thông tin kỹ thuật vi điện tử, lấy
kỹ thuật vật liệu mới làm cơ sở, lấy kỹ thuật năng lƣợng mới làm trụ cột. Xét
từ góc độ vĩ mô, khoa học công nghệ đang hƣớng vào việc phát triển các
nhóm công nghệ sinh học, nhóm công nghệ biển và công nghệ vũ trụ.
Thể chế khoa học kỹ thuật là chế độ tổ chức của hoạt động khoa học
kỹ thuật, nó cần liên tục thích ứng với những hƣớng thay đổi của phát triển
22
khoa học. Chính áp lực từ sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật là
động lực thúc đẩy cho cải cách thể chế khoa học kỹ thuật.
1.2.2.2. Áp lực của phát triển kinh tế
Áp lực phát triển kinh tế lên cải cách thể chế khoa học kỹ thuật trƣớc
tiên xuất phát từ áp lực của phát triển kinh tế quốc dân.
Từ khi cải cách mở cửa cho đến nay, kinh tế quốc dân của Trung Quốc
có sự phát triển rất vƣợt bậc. Để tiếp tục đáp ứng nhu cầu cải thiện nâng cao
cuộc sống của ngƣời dân, để nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nƣớc
phát triển, kinh tế quốc dân của Trung Quốc vẫn cần phát triển với tốc độ
nhanh và bền vững. Nhƣng trong quá khứ, sự phát triển và tăng trƣởng kinh tế
của Trung Quốc chủ yếu dựa vào mô hình phát triển thiếu bền vững, dựa vào
sự khai thác sử dụng tài nguyên thiên nhiên để thúc đẩy tăng trƣởng, không
chú trọng đến hàm lƣợng khoa học kỹ thuật. Hội nghị Trung ƣơng 5 khóa 14
của Đảng Cộng sản Trung Quốc đề xuất việc thực hiện kế hoạch “5 năm lần
thứ 9” và mục tiêu tầm nhìn đến năm 2010, điều quan trọng là thực hiện hai
thay đổi mang tính căn bản có ý nghĩa toàn cầu đó là: Thứ nhất là thể chế kinh
tế từ thể chế kinh tế bao cấp truyền thống chuyển sang thể chế kinh tế thị trƣờng
xã hội chủ nghĩa; thứ hai, chuyển đổi phƣơng thức tăng trƣởng kinh tế phát triển
nâng cao hiệu quả sử dụng và chất lƣợng các yếu tố sản xuất.
Vì vậy, phát triển và tăng trƣởng kinh tế của Trung Quốc cần chuyển
đổi phƣơng thức phát triển chủ yếu dựa vào việc thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Việc thay đổi của phƣơng thức phát triển và tăng trƣởng kinh tế đã đƣa
ra những thách thức đối với phát triển khoa học kỹ thuật, đồng thời cũng làm
tăng thêm áp lực lớn đối với quá trình thay đổi thể chế khoa học kỹ thuật. Đối
với việc kết hợp giữa kinh tế và khoa học kỹ thuật, cả hai chuyển đổi phát
triển kinh tế không những đòi hỏi phát triển khoa học cần hƣớng tới kinh tế,
23
mà còn đƣa ra yêu cầu hỗ trợ ngày càng cao và then chốt của khoa học kỹ
thuật đối với phát triển và tăng trƣởng kinh tế. Để khoa học kỹ thuật trở thành
một thứ quan trọng và hỗ trợ của tăng trƣởng và phát triển kinh tế, không
những khoa học kỹ thuật phải phát triển với tốc độ nhanh chóng, mà thành tựu
khoa học kỹ thuật cũng phải có hiệu quả nhanh chóng để chuyển hóa thành
sức sản xuất thực tế và sản phẩm thực tế.
Khoa học kỹ thuật nếu nhƣ chỉ tồn tại ở dạng tri thức thì chức năng
kinh tế, sản xuất của nó không thể thực hiện đƣợc. Thành quả khoa học kỹ
thuật cần chuyển biến thành sản phẩm thực tế, sức sản xuất thực tế mới có thể
thực hiện chức năng kinh tế, sản xuất của khoa học kỹ thuật. Thể chế khoa
học kỹ thuật của Trung Quốc không những cản trở nghiêm trọng tới sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, mà còn cản trở nghiêm trọng tới việc khoa học kỹ
thuật chuyển hóa thành sức sản xuất thực tế. Thể chế khoa học kỹ thuật đối
diện nhƣ thế nào để thích ứng với áp lực của phát triển kinh tế quốc dân là
một câu hỏi đang đƣợc đặt ra cho giới nghiên cứu.
Cải cách thể chế khoa học kỹ thuật còn chịu áp lực từ toàn cầu hóa
kinh tế.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế phát triển của thế giới hiện nay, nó làm
sự phân chia lao động quốc tế giữa các nƣớc ngày càng trầm trọng, làm cho
nƣớc phát triển sử dụng ƣu thế nhƣ: Lợi ích kinh tế, khoa học kỹ thuật của
mình, để tiêu thụ sản phẩm của mình và lợi dụng việc khai thác tài nguyên
thiên nhiên của các nƣớc trên phạm vi thế giới. Trung Quốc là một nƣớc đang
phát triển với số lƣợng dân đông, một mặt việc cải cách mở cửa làm cho
Trung Quốc thu hút vốn quốc tế lớn, có tác dụng thúc đẩy rất lớn đối với phát
triển kinh tế Trung Quốc; mặt khác lại kìm hãm sự phát triển của các ngành
công nghiệp liên quan của Trung Quốc, đẩy Trung Quốc vào vị trí bất lợi
trong việc phân chia lao động quốc tế. Để thay đổi tình trạng này, Trung Quốc
chỉ có nâng cao chất lƣợng và sản phẩm có hàm lƣợng khoa học kỹ thuật của
24
mình, bên cạnh đó dựa vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật để nhanh
chóng bắt kịp với trình độ tiên tiến của quốc tế, đặc biệt là cần nắm bắt cơ hội
phát triển kỹ thuật công nghệ mới. Vì vậy, việc thay đổi thể chế khoa học kỹ
thuật phải đối mặt với áp lực lớn của toàn cầu hóa kinh tế.
1.2.2.3. Áp lực cạnh tranh quốc tế
Thế giới mở cửa đồng thời cũng là thế giới cạnh tranh, xu thế toàn cầu
hóa trong việc phát triển thế giới nhân loại, do đó sự cạnh tranh giữa các quốc
gia ngày càng tăng cƣờng. Trong thế giới hiện nay, khoa học kỹ thuật phát
triển một cách nhanh chóng, kinh tế tri thức đang nổi lên, cạnh tranh giữa các
quốc gia đã không chỉ thể hiện trong lĩnh vực kinh tế công nghiệp và nông
nghiệp, xung quanh việc cạnh tranh đã thể hiện rõ việc thúc đẩy đến lĩnh vực
đổi mới khoa học kỹ thuật, trọng tâm của cạnh tranh cũng không đơn thuần là
kinh tế mà là sự hội nhập và kết hợp của khoa học kỹ thuật, quản lý, thể chế
và văn hóa, mức độ cạnh tranh đƣợc cải thiện đáng kể. Trong cạnh tranh quốc
tế, sức mạnh của quốc gia quyết định vị thế quốc tế của một quốc gia, quyết
định quyền phát ngôn của Trung Quốc tham gia trong các vấn đề quốc tế. Mà
sức mạnh của quốc gia, bao gồm sức mạnh kinh tế, sức mạnh quân sự
v.v…đều có mối liên hệ mật thiết và không thể tách rời với trình độ phát triển
khoa học kỹ thuật của từng quốc gia nói chung và của Trung Quốc nói riêng,
thậm chí có thể nói khoa học kỹ thuật ở vị trí quan trọng hơn. Nhƣ vậy, sự
cạnh tranh giữa các quốc gia, nói cho cùng là sự cạnh tranh phát triển khoa
học kỹ thuật của quốc gia, đặc biệt là khả năng cạnh tranh đổi mới khoa học
kỹ thuật. Nguyên Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã chỉ ra rằng “đổi
4 “江现民:现新是一个民族现步的灵魂”, http://www.china.com.cn/chinese/zhuanti/zhshchq/1205250. htm
mới là linh hồn của tiến bộ dân tộc, là động lực vô tận cho sự phát triển thịnh vƣợng của đất nƣớc”.4
25
Thể chế khoa học kỹ thuật là chỗ dựa cho sự phát triển khoa học kỹ
thuật, thể chế khoa học kỹ thuật có thể hoạt động hiệu quả cao hay không liên
quan đến triển vọng phát triển của kinh tế khoa học kỹ thuật và sự thành công
hay thất bại của cạnh tranh.
1.2.2.4. Áp lực của chuyển đổi thể chế
Kể từ khi cải cách mở cửa cho đến nay, kinh tế xã hội của Trung Quốc
trải qua những thay đổi to lớn, những thay đổi này thƣờng đƣợc gọi là chuyển
dịch xã hội. Chuyển dịch xã hội của Trung Quốc hiện nay là lấy chuyển đổi
thể chế kinh tế làm trung tâm, do quá trình quá độ xã hội truyền thống đến xã
hội hiện nay, đặc biệt là chuyển đổi thể chế kinh tế là động lực lớn nhất để
thay đổi thể chế khoa học kỹ thuật.
Sau Đại hội Đảng lần thứ 14, vào cuối năm 1992, Trung Quốc chính
thức lấy thể chế kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa làm mục tiêu cải cách
toàn bộ thể chế kinh tế, từ đó cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc đã phát
sinh thay đổi cơ bản. Thể chế quản lý kinh tế kế hoạch tập trung cao độ trƣớc
đây đang dần bị phá vỡ, một mặt là lấy chế độ sở hữu công cộng và phân phối
lao động làm chủ thể, mặt khác lấy thành phần kinh tế và phƣơng thức phân
phối khác là bộ phận cấu thành quan trọng của thể chế quản lý kinh tế thị
trƣờng đang dần đƣợc hình thành. Vai trò của kinh tế thị trƣờng đối với điều
tiết cơ bản và phân bổ nguồn lực trong các mắt xích nhƣ: Chi phí, phân phối,
trao đổi, sản xuất của quá trình tổng sản xuất xã hội ngày càng đƣợc phát huy
đầy đủ. Vì thế, chuyển đổi kinh tế của Trung Quốc bắt đầu từ việc chuyển đổi
thể chế kinh tế kế hoạch truyền thống sang thể chế kinh tế thị trƣờng xã hội
chủ nghĩa.
Vai trò chi phối của chuyển đổi thể chế kinh tế đối với chuyển đổi thể
chế khoa học kỹ thuật chủ yếu ở hai khía cạnh sau:
26
Trước tiên, là phát triển hệ thống thị trƣờng, hoàn thiện cơ chế thị
trƣờng, thúc đẩy cơ chế thị trƣờng trở thành cơ sở của việc phân bổ nguồn
lực. Điều này có vai trò quyết định đối với việc chỉnh vốn đầu tƣ và phân bổ
nguồn lực khoa học kỹ thuật nhƣ thế nào trong hoạt động khoa học kỹ thuật.
Thay đổi phƣơng thức phân bổ nguồn lực khoa học kỹ thuật là vai trò chuyển
đổi thể chế kinh tế nhƣ là một cầu nối quan trọng của việc chuyển đổi thể chế
khoa học kỹ thuật. Thông qua cầu nối này, cơ cấu thể chế khoa học kỹ thuật,
cơ chế vận hành sẽ có những thay đổi mang tính cơ bản. Tiếp theo, chính là
việc cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc ở Trung Quốc, xây dựng chế độ doanh
nghiệp hiện đại, để cho doanh nghiệp nhà nƣớc trở thành chủ thể của kinh tế
thị trƣờng. Nó có ảnh hƣởng to lớn đến việc cải cách thể chế khoa học kỹ
thuật, thúc đẩy doanh nghiệp trở thành chủ thể sáng tạo khoa học kỹ thuật.
Những điều trình bày trên đây cho thấy, cải cách thể chế khoa học kỹ
thuật ở Trung Quốc đến từ hai phía bên trong và bên ngoài; tuy nhiên, nguyên
nhân bên trong đóng vai trò quyết định, còn nguyên nhân bên ngoài là quan
trọng. Vì vậy, Trung Quốc không có lựa chọn nào khác là phải tìm tòi cải cách
thể chế khoa học kỹ thuật để thích ứng với yêu cầu cải cách kinh tế và phù
hợp với xu thế chung của thế giới.
27
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Hiểu một cách đơn giản nhất thể chế khoa học kỹ thuật là cơ chế vận
hành và cơ cấu tổ chức của khoa học kỹ thuật. Do vậy cải cách thể chế khoa
học kỹ thuật chính là thay đổi những thiếu sót, hạn chế trong cơ chế vận hành,
cơ cấu tổ chức của khoa học kỹ thuật theo hƣớng hoàn thiện và phù hợp với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Dựa trên việc tìm hiểu và nghiên cứu có thể thấy, những áp lực bên
trong của thể chế khoa học kỹ thuật Trung Quốc và những áp lực bên ngoài là
hai nhân tố chính dẫn đến cải cách thể chế khoa học kỹ thuật Trung Quốc.
Đầu tiên là những áp lực, thiếu sót bên trong của thể chế khoa học kỹ
thuật Trung Quốc nhƣ: Cơ chế vận hành đơn nhất, sự tách rời của kinh tế và
khoa học kỹ thuật, cơ chế quản lý nhân lực cứng nhắc… làm lĩnh vực khoa
học kỹ thuật của Trung Quốc nảy sinh nhiều hạn chế, kém phát triển, không
phát huy đƣợc vai trò cốt lõi của mình trong sự nghiệp phát triển đất nƣớc.
Điều này đòi hỏi Trung Quốc phải khắc phục những bất cập, hạn chế đó.
Bên cạnh đó, những áp lực bên ngoài cũng góp phần thúc đẩy việc
tiến hành cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc. Sự phát triển
khoa học kỹ thuật hiện đại của Trung Quốc đã sớm bƣớc vào quỹ đạo phát
triển nhanh chóng, thể chế khoa học kỹ thuật cũ sẽ không còn phù hợp với xu
hƣớng phát triển vƣợt bậc này. Sự phát triển vƣợt bậc của nền kinh tế khi
Trung Quốc thực hiện cải cách mở cửa cùng với xu thế toàn cầu hóa - khoa
học kỹ thuật trở thành yếu tố cạnh tranh quan trọng. Đòi hỏi khoa học kỹ
thuật của Trung Quốc phải phát triển tƣơng xứng để không kìm hãm sự phát
triển của kinh tế. Ngoài ra, việc Trung Quốc chuyển đổi thể chế kinh tế đòi
hỏi thể chế khoa học kỹ thuật cũng phải có sự thay đổi để phù hợp, thống nhất
với thể chế kinh tế nói riêng và tạo ra sự nhất quán trong cơ chế vận hành của
đất nƣớc nói chung.
28
CHƢƠNG 2
QUÁ TRÌNH VÀ NỘI DUNG CẢI CÁCH THỂ CHẾ KHOA HỌC
KỸ THUẬT TRUNG QUỐC
2.1. Bối cảnh ra đời của cải cách
Trƣớc năm 1978, Trung Quốc thừa hƣởng hệ thống phát triển kỹ thuật
trƣớc đây của Liên Xô,5 xây dựng thể chế khoa học kỹ thuật mang tính kế
hoạch. Thực hiện chiến lƣợc phát triển “đại nhảy vọt”, mục tiêu của chiến
lƣợc là trong thời gian ngắn bắt kịp và vƣợt qua trình độ tiên tiến, đứng vào
hàng ngũ các nƣớc có trình độ khoa học kỹ thuật cao của thế giới. Trung
Quốc áp dụng một hệ thống khoa học kỹ thuật thông qua kế hoạch triển khai
các dự án nghiên cứu riêng lẻ, độc lập không có sự gắn kết với nhau giữa các
viện sở nghiên cứu, các trƣờng đại học, các đơn vị nghiên cứu quốc phòng.
Trong bối cảnh bị phong tỏa và sự khan hiếm về nguồn lực khoa học
kỹ thuật, hệ thống này đã huy động nguồn lực có hạn để tập trung cho mục
tiêu chiến lƣợc. Trong khoảng thời gian hơn chục năm, nhờ sự nỗ lực của
mình cùng với sự giúp đỡ của Liên Xô Trung Quốc cũng đã xây dựng đƣợc
một hệ thống tổ chức khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tƣơng đối hoàn
chỉnh, bồi dƣỡng đƣợc một số lƣợng lớn các đội ngũ các nhà hoạt động lĩnh
vực khoa học kỹ thuật có trình độ, giải quyết đƣợc một loạt các vấn đề khoa
học kỹ thuật cho việc xây dựng quốc phòng, phát triển kinh tế xã hội của đất
nƣớc. Về tổng thể, Trung Quốc đã bƣớc đầu thu hẹp đƣợc khoảng cách giữa
5方新〃柳卸林 (2004)〃“我国科技体制改革的回现及展望”, 求是,.第5期〃43 现.
khoa học kỹ thuật của mình với trình độ tiên tiến trên thế giới. Biểu hiện cụ
29
thể là vào năm 1964 Trung Quốc đã thử thành công bom nguyên tử và bƣớc
vào Câu lạc bộ các nƣớc có vũ khí hạt nhân của thế giới.
Nhƣng cuối những năm 70 của thế kỷ 20, cùng với sự khủng hoảng về
kinh tế xã hội do những cuộc đấu tranh chính trị gây ra mà đỉnh cao là Cách
mạng văn hóa, thể chế khoa học kỹ thuật mang tính kế hoạch này của Trung
Quốc đã gặp phải những thách thức to lớn.
Trên thế giới, làn sóng cách mạng kỹ thuật mới đến dồn dập, hầu hết
các lĩnh vực khoa học đều có những biến đổi sâu sắc, thành quả của khoa học
kỹ thuật đƣợc ứng dụng nhanh chóng, dẫn đến sự thay đổi to lớn cho sức sản
xuất của xã hội, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy điều chỉnh cơ cấu
ngành nghề và tăng trƣởng kinh tế của thế giới. Sự cạnh tranh giữa các quốc
gia không còn giới hạn trong phạm vi cạnh tranh sức mạnh quân sự, sức mạnh
kinh tế, mà đã mở rộng ra cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia với hạt
nhân là khoa học kỹ thuật. Tại Trung Quốc, nhƣ đã nói ở trên do ảnh hƣởng
của “Cách mạng văn hóa”, các hoạt động khoa học kỹ thuật đã phải hứng chịu
sự kìm kẹp nặng nề, làm cho khoảng cách về năng lực cạnh tranh khoa học kỹ
thuật của Trung Quốc so với các nƣớc phƣơng Tây ngày càng nới rộng.
Cuối năm 1978, Hội nghị Trung ƣơng 3 khóa 11 Đảng Cộng sản
Trung Quốc đã họp và ra một quyết định mang tính lịch sử là chuyển trọng
tâm công tác của toàn Đảng từ “lấy đấu tranh giai cấp là chính” sang coi
xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, tiến hành cải cách và mở cửa.6 Điều
này đòi hỏi khoa học kỹ thuật phải có những đóng góp vào quá trình cải cách
6程萍(2012),“我国科技体制和文化体制改革比现”, 中国科技论论. 第 8 期, 157 现.
kinh tế. Năm 1995, Trung ƣơng Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu lên phƣơng
30
châm thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật theo đó chỉ rõ: “ Xây dựng kinh tế
cần dựa vào khoa học kỹ thuật, khoa học kỹ thuật cần hƣớng về xây dựng
kinh tế”7.
Nhƣ vậy, sự phát triển kinh tế và xã hội trong thời kỳ mới ở Trung
Quốc đã đặt ra nhu cầu đa dạng, nhiều tầng lớp đối với khoa học kỹ thuật. Cải
cách thể chế khoa học kỹ thuật trở thành yêu cầu tất yếu, nếu không cải cách
thể chế khoa học kỹ thuật, công cuộc cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc
rất khó thành công.
2.2. Khái quát quá trình cải cách
Quá trình cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc có thể
đƣợc chia thành các giai đoạn nhƣ sau:
Giai đoạn thứ nhất (1978 - 1985): Giai đoạn “nghỉ ngơi tĩnh dƣỡng”
sau “Cách mạng văn hóa” và vẫn trong khuôn khổ của mô hình kinh tế kế
hoạch tập trung quan liêu bao cấp.
Giai đoạn thứ hai (1985 - 1996): Giai đoạn chủ yếu xây dựng thị
trƣờng khoa học và nâng cao tiếng nói của các tổ chức nghiên cứu khoa học
trong bối cảnh Trung Quốc thực hiện cải cách chế độ bao cấp.
Giai đoạn thứ ba (1996 - 2006): Giai đoạn đề xuất và thực hiện chiến
lƣợc “khoa giáo hƣng quốc”.
Giai đoạn thứ tư ( từ năm 2006 đến nay): Giai đoạn khích lệ tinh thần
7 “中共中央、国现院关于加速科学技现现步的决定”, http://www.most.gov.cn/ztzl/qgkjdh/qgkjdhbjzl/ qgkjdhbjkjdh/bjzl-dh-9502.htm
sáng tạo và xây dựng, hoàn thiện hệ thống sáng tạo quốc gia.
31
2.2.1. Giai đoạn 1978-1985
Đây là giai đoạn công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc mới
đƣợc tiến hành, trong đó trọng tâm là cải cách ở nông thôn và trong lĩnh vực
nông nghiệp. Đối với khoa học kỹ thuật, giai đoạn này đƣợc đánh dấu bằng sự
kiện Đại hội đại biểu Khoa học toàn quốc tổ chức tại Bắc Kinh vào tháng 3
năm 1978. Chủ đề của Đại hội này là vận động toàn dân tập trung cho công
cuộc hiện đại hóa khoa học kỹ thuật. Đại hội tập trung phê phán với những tƣ
tƣởng còn sót lại từ “Cách mạng văn hóa” trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật.
Ngoài ra, Đại hội cũng đã đề ra một loạt phƣơng châm, chính sách để phát
triển khoa học kỹ thuật Trung Quốc, thông qua bản “Cƣơng lĩnh quy hoạch
phát triển khoa học kỹ thuật toàn quốc 1978 - 1985” hay còn gọi là “Cƣơng
lĩnh quy hoạch 8 năm”.
“Cƣơng lĩnh quy hoạch 8 năm” đã nêu lên phƣơng châm “sắp xếp toàn
diện, đột phá trọng điểm”; xác định 8 lĩnh vực phát triển là nông nghiệp, năng
lƣợng, tài nguyên, công nghệ thông tin, quang học, vũ trụ, vật lý lƣợng tử, di
truyền và đƣa ra 108 dự án nghiên cứu trọng điểm. Cƣơng lĩnh này đƣợc coi
là đã đề cập đến mức độ cao nhất của sự phát triển khoa học kỹ thuật.
Tuy nhiên, vấn đề mà Trung Quốc muốn giải quyết lúc này là khắc
phục những tàn dƣ của cuộc “Cách mạng văn hóa” trong xã hội Trung Quốc.
Bản “Cƣơng lĩnh quy hoạch 8 năm” ra đời nhằm mục đích thông qua cải tiến
kế hoạch và phƣơng thức quản lý, từng bƣớc khôi phục trật tự khoa học kỹ
thuật trƣớc “Cách mạng văn hóa”. Tuy nhiên, xem xét một cách nghiêm túc
bản Cƣơng lĩnh này vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề do chƣa nhận thức đƣợc một
cách đầy đủ và triệt để vai trò của khoa học kỹ thuật. Cùng với đó, bản Cƣơng
lĩnh cũng chƣa nêu ra những biện pháp cụ thể cho cải cách thể chế khoa học kỹ
32
thuật, mới chỉ đề ra những mục tiêu phấn đấu quá tiềm năng của nền kinh tế Trung Quốc lúc bấy giờ.8
Trong quá trình thực hiện, “Cƣơng lĩnh quy hoạch 8 năm ” cũng đã
cho thấy vai trò tìm tòi và thí điểm cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của nó.
Trong thời gian đó, Trung Quốc đã nhiều lần thí điểm tạo điều kiện tự chủ, cổ
vũ việc trao đổi, hợp tác giao lƣu giữa các cơ quan nghiên cứu, thí điểm chế
độ hợp đồng và chế độ trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật, bƣớc
đầu phát triển đƣợc thị trƣờng khoa học kỹ thuật và trao đổi mua bán sản
phẩm khoa học công nghệ. Tóm lại, ở giai đoạn này Trung Quốc đã xây dựng
đƣợc thể chế khoa học kỹ thuật mới, nhƣng vẫn nằm trong khuôn khổ của mô
hình kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp.
2.2.2. Giai đoạn 1985-1996
Đây là giai đoạn công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc bắt đầu
mở rộng ra khu vực đô thị với trọng điểm là cải cách trong lĩnh vực công
nghiệp; đồng thời xây dựng các đặc khu kinh tế, thực hiện mở cửa “3 vùng
ven” (ven biển, ven sông, ven biên giới). Đối với khoa học kỹ thuật, giai đoạn
này đánh dấu bằng sự tiến triển vƣợt bậc của cải cách thể chế khoa học giáo
dục khi có đƣợc một sự định hƣớng rõ ràng. Tháng 3 năm 1985, Chính phủ
Trung Quốc công bố bản “Quyết định về cải cách thể chế khoa học kỹ thuật”,
đã chỉ rõ, bản thân hệ thống khoa học kỹ thuật trở thành đối tƣợng và trọng
điểm của công cuộc cải cách. Trên cơ sở tổng kết các bài học kinh nghiệm,
Trung Quốc đã ý thức rõ ràng hơn về sự nghiêm trọng của việc thiếu tính kết
nối giữa sáng tạo kỹ thuật và ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào
8 寇宗来(2008)〃“中国科技体制改革三十年”〃世界论论文论〃第 1 期〃79 现.
thực tiễn, việc chuyển giao thành quả khoa học kỹ thuật, thiếu hụt động lực
33
nghiên cứu. Đây chính là trở ngại lớn kìm hãm sự phát triển và tiến bộ của
khoa học kỹ thuật trong thể chế kế hoạch tập trung.
Quyết định này có ý nghĩa quan trọng bởi nó tạo nên một khuôn khổ
cơ bản cho cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc nhiều năm về
sau. Nó yêu cầu hoạt động giải ngân kinh phí cho khoa học kỹ thuật của cơ
quan tài chính Trung ƣơng và địa phƣơng trong một giai đoạn nào đó về sau,
nên thƣờng cao hơn so với tốc độ tăng trƣởng thu nhập ngày một gia tăng. Nó
cũng khuyến khích các bộ, ngành, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội đầu tƣ
vào khoa học kỹ thuật. Điều quan trọng nhất là bản Quyết định đặt ra yêu cầu
cải cách đối với thể chế giải ngân kinh phí cho các tổ chức nghiên cứu theo
hƣớng phải dựa vào đặc điểm, loại hình khác nhau của các hoạt động khoa
học kỹ thuật; đồng thời thực hiện việc phân loại quản lý kinh phí. Đối với các
cơ quan nghiên cứu khoa học mà hoạt động chủ yếu là phát triển công nghệ
thì nhà nƣớc sẽ từng bƣớc tiến hành thực hiện chế độ hợp tác về công nghệ,
cố gắng trong thời gian từ 3 đến 5 năm, giảm bớt thậm chí xóa bỏ việc sử
dụng vốn từ ngân sách quốc gia.
Ngày 1 tháng 12 năm 1991, Hiệp hội khoa học kỹ thuật quốc gia đã
công bố bản “Đề cƣơng quy hoạch 10 năm phát triển khoa học công nghệ
nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa (1991-2000)” và kế hoạch “5
năm lần thứ 8” (1991-1995)”; trong đó nêu rõ nền khoa học công nghệ những
năm 1990 là cần “hƣớng trọng tâm vào xây dựng kinh tế”, kiên trì phƣơng
châm chiến lƣợc “xây dựng kinh tế bắt buộc phải dựa vào khoa học công
9 “现现建现必现依靠科学技现〃科学技现工作必现面向现现建现” 寇宗来(2008)〃“中国科技
体制改革三十年”〃世界论论文论〃第 1 期〃80 现.
nghệ, hoạt động khoa học công nghệ phải hƣớng tới xây dựng kinh tế”9, kiên
34
định coi “khoa học kỹ thuật là lực lƣợng sản xuất hàng đầu”,10 thúc đẩy khoa
học kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với kinh tế, phát huy tối đa vai trò của khoa học
kỹ thuật đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
Năm 1992, trong phát biểu tại chuyến tuần du phƣơng Nam Trung
Quốc, Đặng Tiểu Bình đã phát biểu: “Ở góc độ vĩ mô, nền kinh tế Trung
Quốc bƣớc vào giai đoạn mới của kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa. Song
song với nó, nhiệm vụ mà thể chế khoa học kỹ thuật phải đối mặt là thông qua
các phƣơng thức khác nhau để tiến hành cải cách”.
Năm 1995, Trung ƣơng Đảng Cộng sản và Chính phủ Trung Quốc đã
ban hành “Quyết định về việc đẩy nhanh tiến bộ của khoa học công nghệ”,
nêu lên chiến lƣợc “Khoa giáo hƣng quốc” (nghĩa là khoa học và giáo dục
chấn hƣng đất nƣớc); đồng thời khẳng định “trọng điểm của đi sâu cải cách
thể chế khoa học kỹ thuật sau này là điều chỉnh cơ cấu khoa học kỹ thuật và
phân bổ nhân lực”.
Ngoài ra, xét về mặt thể chế đến thời điểm này, Trung Quốc vẫn cần
phải giải quyết tình trạng các tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật chồng
chéo lẫn nhau; nguồn lực phân tán, thiếu sự kết nối giữa khoa học và kinh tế;
năng lực nghiên cứu phát triển khoa học kỹ thuật của doanh nghiệp cần đƣợc
tăng cƣờng; từ đó thúc đẩy sự kết hợp hữu cơ giữa nền kinh tế và khoa học
công nghệ. Nhƣng xét về phƣơng diện lựa chọn các biện pháp cụ thể, bản
“ 科 学 技 现 是 第 一 生 现 力 ”, Trên
(ngày
truy
10 1978 年 3 月 18 日〃在全国科学大会上〃现小平所做的开幕现指出〃四个现代化的关现是科学 技现现代化〃要大力现展我国的科技教育事现。他着重现述了科学 技现是生现力现一现克思主 现的现点。1985 年 3 月 7 日〃他在全国科技工作会现上〃又现一步肯定了“科学技现是生现力”的 现 述 . 刘 建 美 , trang mạng http://dangshi.people.com.cn/GB/221024/221027/14907120.html cập: 15/11/2014)
Quyết định nêu trên đặt vấn đề phải tuân thủ phƣơng châm “Nắm chắc một
35
đầu, nới rộng một loạt” (nghĩa là nhà nƣớc luôn ủng hộ các nghiên cứu cơ
bản, triển khai nghiên cứu có hàm lƣợng khoa học cao và triển khai các
nghiên cứu quan trọng, định vị việc phân loại các cơ quan nghiên cứu, ƣu hóa
kết cấu và bố cục của cơ quan nghiên cứu khoa học cơ sở và mở rộng các cơ
quan phát triển nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho xây dựng kinh tế và phát
triển xã hội, triển khai việc thƣơng mại hóa các thành quả nghiên cứu khoa
học, các hoạt động công nghiệp hóa, khiến chúng vận hành theo định hƣớng
của thị trƣờng),11 nhằm tối ƣu hóa cơ cấu của hệ thống khoa học công nghệ
và phân bổ nguồn nhân lực. Khi đó, Chính phủ Trung Quốc đã nhấn mạnh bắt
buộc phải tăng cƣờng đẩy mạnh sự tiến bộ khoa học công nghệ trong doanh
nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp từng bƣớc trở thành chủ thể của sự phát triển
công nghệ. Đồng thời phải tiếp tục thúc đẩy kết hợp giữa nhà sản xuất, trƣờng
học và cơ quan nghiên cứu; khuyến khích lực lƣợng nghiên cứu khoa học kỹ
thuật của Viện nghiên cứu, các trƣờng cao đẳng thông qua các hình thức khác
tham gia vào các doanh nghiệp hoặc tập đoàn, tham gia vào quá trình cải tiến
và nghiên cứu phát triển công nghệ của doanh nghiệp thậm chí có thể hợp tác
để thiết lập các cơ sở thí nghiệm, các công trình phát triển công nghệ v.v…
đẩy nhanh chuyển giao thành quả khoa học công nghệ tiên tiến trong doanh
nghiệp. Giai đoạn này Trung Quốc đã tiến bộ hơn và xây dựng thể chế khoa
tại
11 “现住一现〃开放一片”: “国家科委、国家体改委关于论布《适论社会主论市论论论论展,深化 科 技 体 制 改 革 论 施 要 点 》 的 通 知 ”, trang mạng; http://cpc.people.com.cn/GB/64184/64186/66700/4495209.html (Thời gian truy cập: 14/11/2014).
học kỹ thuật trong bối cảnh Trung Quốc thực hiện cải cách chế độ bao cấp.
36
2.2.3. Giai đoạn 1996-2006
Đây là giai đoạn công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc đã đạt
đƣợc những thành tựu bƣớc đầu, đặt nền móng quan trọng cho những bƣớc
phát triển tiếp theo; đồng thời tích cực đàm phán gia nhập WTO, hội nhập sâu
rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
Năm 1996, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Quyết định “Kế hoạch
5 năm lần thứ 9 phát triển kinh tế và xã hội quốc dân”, và bản “Báo cáo cƣơng yếu mục tiêu viễn cảnh đến năm 2010”12; theo đó, phƣơng châm
“Khoa giáo hƣng quốc” đƣợc định vị thành quốc sách cơ bản của đất nƣớc
này. Sau đó, Quốc hội và Chính phủ Trung Quốc tiếp tục ban hành một loạt
văn bản quy phạm pháp luật, làm sâu sắc hơn nữa cải cách thể chế khoa học
kỹ thuật, thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật; trong đó bao gồm: “Luật
thúc đẩy chuyển giao thành quả khoa học kỹ thuật nƣớc Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa” (5/1996), “Quyết định liên quan đến việc đi sâu vào cải cách thể
chế khoa học kỹ thuật trong giai đoạn 5 năm lần thứ 9” (3/10/1996) v.v. . .
Mặc dù chiến lƣợc “Khoa giáo hƣng quốc” đƣợc đề ra từ năm 1995,
nhƣng nếu xem xét tính hiệu quả của cải cách thế chế khoa học kỹ thuật trên
thực tế thì đến năm 1998 công cuộc cải cách này mới thực sự đƣợc thực hiện.
Điều đó buộc Chính phủ Trung Quốc phải tiến hành chuyển đổi cơ cấu nghiên
cứu khoa học với quy mô lớn, dựa vào đó để thúc đẩy chuyển giao thành quả
khoa học kỹ thuật và bắt tay vào xây dựng một hệ thống sáng tạo quốc gia.
Cuối năm 1998, Chính phủ Trung Quốc quyết định tiến hành cải cách thể chế
12 “关于国民现现和社会现展“九五”现划和2010年现景目现现要的现告”, tại trang mạng http://news.xinhuanet.com/ziliao/2004-10/19/content_2109858.htm (Thời gian truy cập: 15/11/2014)
quản lý đối với 242 viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật trực thuộc 10 Bộ ban
37
ngành của Trung ƣơng, chuyển các cơ quan nghiên cứu này thành các doanh
nghiệp khoa học kỹ thuật hoặc tổ chức phục vụ môi giới khoa học kỹ thuật
hoặc sáp nhập chúng vào một số doanh nghiệp hiện có lúc đó, nhờ vậy đã phá
bỏ đƣợc các rào cản giữa việc sáng tạo khoa học kỹ thuật với việc ứng dụng
nó vào sản xuất. Cùng với đó, vào năm 1999, Chính phủ Trung Quốc đã ban
hành một loạt chính sách hỗ trợ có liên quan nhƣ tiếp tục giải ngân kinh phí
sự nghiệp cho các tổ chức hoạt động khoa học công nghệ vốn đã đƣợc hƣởng,
thực hiện các ƣu đãi của chính phủ nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa
học kỹ thuật nhƣ miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 5 năm,
miễn thuế kinh doanh cho những nguồn thu từ chuyển giao công nghệ,
miễn thuế sử dụng đất cho công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật trên
đất nƣớc mình v.v...
Nhằm “luật hóa việc thúc đẩy chuyển giao thành quả khoa học kỹ
thuật vào các năm 1996 và 1999, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành văn
kiện “Một số quy định liên quan đến việc thúc đẩy chuyển giao thành quả
khoa học”; trong đó có những chính sách thể hiện sự đột phá so với trƣớc đây
nhƣ: yêu cầu các cơ quan nghiên cứu, trƣờng đại học… cần thực hiện chuyển
giao thành tựu khoa học và công nghệ; căn cứ theo pháp luật hiện hành quy định
chính sách cổ vũ, khuyến khích những ngƣời có thành tích trong nghiên cứu
khoa học kỹ thuật và những ngƣời có đóng góp cho tiến trình chuyển giao thành
quả khoa học kỹ thuật.
Chính phủ Trung Quốc còn ban hành một loạt chính sách mới về thúc
đẩy công nghiệp hóa lĩnh vực khoa học công nghệ. Ví dụ năm 1999, Chính
phủ Trung Quốc đã ban hành bản “Quyết định về tăng cƣờng sáng tạo công
38
nghệ, phát triển công nghệ cao, thực hiện ngành nghề hóa”13; năm 2000,
Chính phủ Trung Quốc tiếp tục ban hành “Một số chính sách khuyến khích
phát triển công nghiệp phần mềm và phát triển công nghệ vi mạch điện tử”14.
Những văn bản này có tác dụng thúc đẩy to lớn đối với sự phát triển các
ngành nghề có liên quan.
2.2.4.Giai đoạn từ năm 2006 đến nay
Đây là giai đoạn công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc đã bƣớc
vào thời kỳ mới theo sự chỉ đạo của “Tƣ tƣởng Ba đại diện”; đồng thời tích
cực và chủ động tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
Đối với lĩnh vực khoa học kỹ thuật, tháng 2 năm 2006, Chính phủ
Trung Quốc đã ban hành bản “Cƣơng lĩnh quy hoạch phát triển khoa học và
kỹ thuật quốc gia giai đoạn trung và dài hạn (2006-2020)”15, trong đó xác
định rõ con đƣờng phát triển khoa học kỹ thuật là: “Tự chủ sáng tạo, trọng
điểm vƣợt trội, hỗ trợ phát triển, hƣớng tới tƣơng lai”. Ngoài việc đƣa ra
những quy định đối với những lĩnh vực trọng điểm và chủ đề ƣu tiên, bản
Cƣơng lĩnh còn đặt vấn đề đi sâu xây dựng một hệ thống lý luận về sáng tạo
quốc gia và cải cách thể chế khoa học kỹ thuật, bao gồm các phƣơng diện sau:
Một là, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp trở thành chủ thể của công cuộc
sáng tạo khoa học kỹ thuật; hai là, đi sâu cải cách các tổ chức nghiên cứu
13 “中共中央、国论院关于加强技论论新、论展高科技、论论论论化的决定”, tại trang mạng, http://www.most.gov.cn/gxjscykfq/wj/200203/t20020315_9009.htm (thời gian truy cập: 14/11/2014) 14 “ 国 论 院 关 于 印 论 鼓 励 论 件 论 论 和 集 成 论 路 论 论 论 展 若 干 政 策 ”, tại trang mạng, http://dzs.miit.gov.cn/n11293472/n11295210/n11298418/11651847.html (thời gian truy cập: 14/11/2014) 15 “ 国 家 中 论 期 科 学 和 技 论 论 展 论 划 论 要 ”, tại trang mạng, http://www.gov.cn/jrzg/2006- 02/09/content_183787.htm (thời gian truy cập: 14/11/2014)
khoa học công nghệ, xây dựng một thể chế các viện nghiên cứu khoa học
39
công nghệ hiện đại; ba là, thúc đẩy cải cách thể chế quản lý khoa học công
nghệ; bốn là, thúc đẩy toàn diện xây dựng hệ thống sáng tạo quốc gia đặc sắc
Trung Quốc.
Đồng thời, bản Cƣơng lĩnh cũng đƣa ra một số biện pháp và chính
sách thực hiện quan trọng trong 9 lĩnh vực, trải rộng từ các lĩnh vực nhƣ
thuế, mua sắm công, tài chính, ngành nghề, khu vực v.v... Hơn nữa, bản
Cƣơng lĩnh cũng đặt vấn đề cần tăng cƣờng chiến lƣợc về quyền sở hữu trí
tuệ và chiến lƣợc tiêu chuẩn liên quan đến công nghệ, khuyến khích doanh
nghiệp đi theo con đƣờng “lấy tự chủ sáng tạo thay thế cho nhập khẩu công
nghệ”.
So sánh với các giai đoạn trƣớc đây, bản Cƣơng lĩnh năm 2006 đƣợc
nêu lên trong thời kỳ nền kinh tế Trung Quốc đạt đƣợc sự tăng trƣởng nhanh
sau gần 30 năm cải cách. Lúc này, mặc dù Trung Quốc vẫn nhấn mạnh tính
cần thiết và tất yếu của việc nhập khẩu công nghệ, nhƣng nƣớc này cũng đã
nhận thức rõ ràng rằng, một số công nghệ quan trọng không thể dựa dẫm mãi
vào việc nhập khẩu công nghệ từ nƣớc ngoài, mà chỉ có thể nhờ vào sự sáng
tạo của bản thân. Hơn nữa, cùng với quá trình hội nhập ngày càng sâu vào nền
kinh tế thế giới, khi hàng rào thuế quan ngày càng giảm, lợi ích về quyền sở
hữu trí tuệ sẽ trở thành rào cản quan trọng nhất, buộc doanh nghiệp Trung
Quốc phải mở rộng thị trƣờng ra nƣớc ngoài. Vì vậy, Cƣơng lĩnh năm 2006
đặc biệt nhấn mạnh đến chiến lƣợc sở hữu trí tuệ và chiến lƣợc tiêu chuẩn.
Trên thực tế, điểm mấu chốt của việc tự chủ sáng tạo nằm ở chỗ tiêu chuẩn
quyền sở hữu trí tuệ và sản phẩm, tiêu chuẩn ngành nghề. Đồng thời, khi một
quốc gia có đƣợc năng lực tự chủ nghiên cứu, phát triển khoa học kỹ thuật
mới, họ có thể đƣa ra những phản ứng kịp thời đối với những biến động của
thị trƣờng.
40
Bản Quyết định của hội nghị Trung ƣơng 3 khóa 18 đã dành một mục
đặt vấn đề đi sâu cải cách thể chế khoa học kỹ thuật bao gồm một số nội dung
chủ yếu nhƣ sau: Một là, xây dựng kiện toàn cơ chế thể chế khuyến khích
sáng tạo ban đầu, sáng tạo tập trung, tiếp nhận sau đó tái sáng tạo; kiện toàn
cơ chế sáng tạo kỹ thuật mới theo hƣớng thị trƣờng; phát huy vai trò định
hƣớng của thị trƣờng đối với phƣơng hƣớng nghiên cứu kỹ thuật, lựa chọn
con đƣờng, giá cả yếu tố, sáng tạo trong phân bổ các yếu tố mới. Xây dựng cơ
chế sáng tạo có sự hiệp đồng giữa sản xuất, học tập và nghiên cứu khoa học,
coi trọng địa vị chủ thể của doanh nghiệp trong đổi mới kỹ thuật, phát huy vai
trò chủ chốt mới của những doanh nghiệp có quy mô lớn, kích hoạt sức sáng
tạo của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy cải cách doanh nghiệp hoá,
thị trƣờng hoá cơ cấu nghiên cứu ứng dụng, xây dựng hệ thống sáng tạo
quốc gia.
Hai là, tăng cƣờng việc vận dụng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kiện
toàn cơ chế khuyến khích sáng tạo kỹ thuật, tìm tòi xây dựng toà án về quyền
sở hữu trí tuệ. Xóa bỏ việc chỉ đạo hành chính và phân tách các ban ngành,
xây dựng cơ chế dự án sáng tạo và phân bổ kinh phí, đánh giá thành quả kỹ
thuật chủ yếu do thị trƣờng quyết định. Phát triển thị trƣờng công nghệ, kiện
toàn cơ chế chuyển giao công nghệ, cải thiện điều kiện huy động vốn của các
doanh nghiệp công nghệ loại vừa và nhỏ, hoàn thiện cơ chế đầu tƣ rủi ro, đổi
mới mô hình kinh doanh, thúc đẩy sản nghiệp hoá, vốn hoá các thành quả
khoa học kỹ thuật.
Ba là, chỉnh hợp giữa quy hoạch và nguồn lực khoa học kỹ thuật,
hoàn thiện tính cơ chế hỗ trợ đối với những nghiên cứu khoa học có tính đón
trƣớc và tính chung. Cở sở hạ tầng nghiên cứu quan trọng cấp quốc gia cần
phải căn cứ theo quy định, mở cửa đối với xã hội. Xây dựng cơ chế điều tra
41
và báo cáo sáng tạo, gây dựng cơ chế đánh giá và quản lý tài nguyên nghiên
cứu khoa học quốc gia một cách công khai, minh bạch.
Bốn là, cải cách thể chế quản lý và bầu chọn Viện sĩ, tối ƣu hóa việc
bố trí các ngành, nâng cao tỷ lệ các tài năng trẻ, thực hiện chế độ hƣu trí và
thôi chức của các Viện sĩ. Giai đoạn từ năm 2006 - nay, Trung Quốc đang dần
dần xây dựng và hoàn thiện thể chế khoa học kỹ thuật nhằm thích ứng với
tình hình mới trong phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc.
Tóm lại, trong quá trình cải cách thể chế khoa học kỹ thuật, sự nghiệp
khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc đã ngày càng đƣợc chú trọng, mức độ phụ
thuộc của phát triển kinh tế - xã hội vào khoa học kỹ thuật ngày càng mật
thiết chặt chẽ, khiến cho khoa học kỹ thuật ngày càng có vị trí quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội của Trung Quốc.
2.3. Nội dung cải cách thể chế khoa học kỹ thuật
Thực hiện cải cách thể chế khoa học kỹ thuật, điều quan trọng là phải
phát huy hết vai trò tác dụng của khoa học - kỹ thuật đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Chính vì thế, cải cách thể chế khoa học kỹ thuật
Trung Quốc đƣợc thể hiện trên bốn nội dung chính nhƣ sau:
Một là, xây dựng cơ cấu tổ chức một cách hợp lý, tối ƣu hóa theo
16 “现住一现〃放开一片” 方现: 现住一现包括两方面的含现。一是国家现定支持 基现性研究〃 开展高技现研究和事关现现建现、社会现展和国防事现现现现展的重大研究开现〃形成现现力量 〃力争重大突破〃提高中国整体科技现力、科技水平和 现展后现〃保持一支能在国现前沿现行 拼搏的精干科研现伍。二是现研究机构分类定位〃现化基现性科研机构的现构和布局〃现准现“ 现住”的科研院所提供现代科研院所的现现体制模式。 放开一片是指放开各类直接现现现建现和社会现展服现的研究开现机构〃开展科技成果商品化、 现现化活现〃使之以市现现现向运行。如鼓励各类研究机构现行技工现一体化〃与企现合作现现 〃鼓励科研机构现行企现化管理(即现现企现、现入企现成现企现的技现中心〃或与企现现合现 三种方式)〃支持和扶植技现中介机构等。(Phƣơng châm “Nắm chắc 1 đầu, nới rộng một loạt”: Nắm chắc một đầu bao gồm 2 ý nghĩa. Một là nhà nƣớc luôn ủng hộ các nghiên cứu cơ bản, triển khai
phƣơng châm “Nắm chắc 1 đầu, nới rộng một loạt”16; tăng cƣờng, đẩy mạnh
42
các khâu trung gian trong quá trình chuyển giao thành quả kỹ thuật thành sức
sản xuất; nâng cao năng lực sáng tạo, khai phát và ứng dụng khoa học kỹ
thuật của các doanh nghiệp; thúc đẩy việc liên kết và hợp tác giữa các doanh
nghiệp với các trƣờng đại học, tổ chức nghiên cứu khoa học, thúc đẩy việc
lƣu thông nhân tài một cách hợp lý.
Nội dung này đƣợc thể hiện rất rõ trong chiến lƣợc “Khoa giáo hƣng
quốc” và chiến lƣợc “Nhân tài cƣờng quốc”.
Trên cơ sở thực tiễn phát triển khoa học - kỹ thuật và giáo dục, chiến
lƣợc “Khoa giáo hƣng quốc” đã xác định cần phải tăng cƣờng thúc đẩy thực
thi phát triển khoa học - kỹ thuật và giáo dục. Lĩnh vực khoa học - kỹ thuật
phải tiến hành từ việc tăng cƣờng nghiên cứu khoa học cơ bản, phát triển kỹ
thuật mới công nghệ cao thực hiện công nghiệp hóa, thúc đẩy ứng dụng thành
tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, tăng cƣờng đội ngũ nghiên cứu, xây
dựng hệ thống sáng tạo quốc gia.
Đối với vấn đề lƣu thông nhân tài một cách hợp lý, Trung Quốc tiếp
tục loại bỏ những hạn chế về khu vực, ngành nghề, thân phận trong lƣu thông
nghiên cứu có hàm lƣợng khoa học cao và triển khai các nghiên cứu quan trọng nhƣ: xây dựng kinh tế, phát triển xã hội và sự phát triển lâu dài của sự nghiệp quốc phòng. Hình thành lực lƣợng chất lƣợng cao, có sức đột phá lớn, nâng cao tổng thể năng lực khoa học kỹ thuật, trình độ khoa học kỹ thuật và phát triển hậu cần của Trung Quốc, đảm bảo xây dựng đƣợc một đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học tinh nhuệ có thể sánh bƣớc cùng thế giới. Hai là định vị việc phân loại các cơ quan nghiên cứu, ƣu hóa kết cấu và bố cục của cơ quan nghiên cứu khoa học cơ sở, nhằm chuyển bị mô hình thể chế tổ chức các Viện nghiên cứu hiện đại cho các Viện nghiên cứu khoa học “ổn định”. Nới rộng một loạt chính là mở rộng các cơ quan phát triển nghiên cứu phục vụ trực tiếp cho xây dựng kinh tế và phát triển xã hội, triển khai việc thƣơng mại hóa các thành quả nghiên cứu khoa học, các hoạt động công nghiệp hóa, khiến chúng vận hành theo định hƣớng của thị trƣờng. Ví dụ nhƣ khuyến khích các cơ quan nghiên cứu thực hiện nhất thể hóa kỹ thuật –công nghiệp và thƣơng mại, hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp, khuyến khích cơ quan nghiên cứu thi hành quản lý doanh nghiệp hóa (chính là 3 cách: trở thành doanh nghiệp; thâm nhập vào doanh nghiệp, trở thành trung tâm nghiên cứu kỹ thuật của doanh nghiệp; hoặc kết hợp cùng doanh nghiệp), duy trì hỗ trợ cơ quan kỹ thuật trung gian,v.v…)“科技体制改革, tại trang mạng http://guoqing.china.com.cn/2012-11/03/content_26992984.htm (Thời gian truy cập 13/11/14).
nhân tài; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu nhân tài một cách xã hội hóa;
43
khuyến khích các phƣơng thức lƣu thông nhân tài kỹ thuật chuyên nghiệp
thông qua kiêm nhiệm chức vụ, phục vụ theo định kỳ, phát triển kỹ thuật, thu
nạp các hạng mục, tƣ vấn kỹ thuật… Tăng cƣờng sự chỉ đạo sâu rộng đối với
vấn đề lƣu thông nhân tài, thực thi có hiệu quả, thu hút nhân tài về những
vùng xã hội đang có nhu cầu nhƣ miền Tây và những khu vực cơ sở khó khăn,
khuyến khích nhân tài yên tâm công tác tại cơ sở. Đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của nhân tài trong đơn vị, bảo đảm tính cởi mở và có quy tắc trong vấn
đề lƣu thông nhân tài;
Hai là, xây dựng cơ chế vận hành kết hợp giữa sáng tạo khoa học và
kinh tế thị trƣờng; cải cách cơ chế giải ngân, phân bổ kinh phí; mở rộng thị
trƣờng khoa học công nghệ; đồng thời thực hiện quản lý kế hoạch đối với
mục tiêu trọng điểm quốc gia; vận dụng cơ chế điều tiết thị trƣờng; nâng cao
năng lực tự phát triển và sức sống phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển
kinh tế của các tổ chức khoa học kỹ thuật.
Trong nội dung này, Trung Quốc đã xác định cần phải từng bƣớc hình
thành và xây dựng tƣ tƣởng phát triển theo định hƣớng kinh tế trong giới
nghiên cứu khoa học kỹ thuật; tăng cƣờng nhận thức của các cán bộ khoa học
kỹ thuật đối với việc chuyển hóa những thành tựu cơ bản; nâng cao ý thức và
quan niệm về thị trƣờng; hình thành cơ chế thƣơng mại hóa các thành tựu
khoa học kỹ thuật; tiến hành cải cách thể chế hành chính; thành lập các Viện
nghiên cứu có nguồn kinh phí hoạt động từ thị trƣờng, các doanh nghiệp công
nghệ cao của tƣ nhân; hình thành cơ chế đầu tƣ công nghệ đa dạng; hình
thành cơ chế sáng tạo công nghệ trong doanh nghiệp; điều chỉnh cơ cấu hệ
thống khoa học kỹ thuật để hình thành cục diện phát triển thịnh vƣợng theo
hƣớng đa tầng, đa kênh và đa dạng về hình thức cùng tồn tại, phát triển; xây
dựng một xã hội tôn trọng tri thức, trọng dụng nhân tài;
44
Ba là, xây dựng cơ cấu tổ chức hiện đại của các doanh nghiệp khoa
học kỹ thuật và các tổ chức khoa học kỹ thuật, thực hiện việc phân chia chức
năng hành chính rõ ràng, xác định rõ quan hệ quyền sở hữu trí tuệ, cải cách cơ
chế nhân sự, phát huy đầy đủ tính tích cực và tài năng sáng tạo của đội ngũ
làm công tác khoa học kỹ thuật. Điều này tƣơng đƣơng với việc mở rộng
phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp từ nghiên cứu đào tạo đến sản xuất
và dịch vụ khoa học kỹ thuật. Xây dựng các tổ chức khoa học kỹ thuật ngoài
nhà nƣớc, có nguồn kinh phí hoạt động từ thị trƣờng, hình thành các cơ sở sản
xuất trong các tổ chức khoa học kỹ thuật (viện nghiên cứu, trƣờng đại học…)
để ứng dụng nhanh chóng và hiệu quả kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Xây
dựng quy định về quyền sở hữu trí tuệ để nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật
về sở hữu trí tuệ, khuyến khích các tổ chức nghiên cứu khoa học quan tâm
khai thác, thƣơng mại hóa các kết quả nghiên cứu. Để phát huy đầy đủ tính
tích cực và tài năng sáng tạo của đội ngũ làm công tác khoa học kỹ thuật phải
xây dựng một chế độ hợp đồng, khen thƣởng hợp lý, chính sách trọng dụng
nhân tài, phát huy quyền chủ động cho cán bộ khoa học và công nghệ;
Bốn là, xây dựng thể chế quản lý khoa học kỹ thuật vĩ mô để thích
ứng với thể chế kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa, chuyển đổi chức năng ở
các cấp quản lý, tăng cƣờng chức năng kiểm soát vĩ mô. Điều này đòi hỏi nhà
nƣớc phải xây dựng một thể chế quản lý khoa học kỹ thuật có sự thống nhất
trong quản lý nhà nƣớc về khoa học kỹ thuật, có sự phân công phân cấp rõ
ràng về chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc
trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật; tiến hành cải cách thể chế khoa học kỹ thuật
đƣợc thực hiện một cách đồng bộ, phù hợp và trong mối tƣơng quan với các
lĩnh vực khác phụ trợ với nó, phù hợp với phát triển kinh tế xã hội; xây dựng
quy hoạch khoa học kỹ thuật đặt trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
xã hội quốc dân.
45
2.4.Thành tựu, tồn tại và giải pháp cải cách thể chế khoa học kỹ
thuật Trung Quốc
2.4.1. Thành tựu
Cải cách thể chế khoa học kỹ thuật đƣợc xem nhƣ một cuộc cách
mạng trong việc giải phóng và đi tiên phong trong lĩnh vực nâng cao năng
suất lao động khoa học kỹ thuật. Mƣời năm trở lại đây, cuộc cải cách đó đã
đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn, mang lại sức sống mở ra một diện mạo mới
cho sự phát triển của nền khoa học kỹ thuật Trung Quốc.
Dƣới sự chỉ đạo của phƣơng châm, chính sách của Đảng Cộng sản
Trung Quốc, công cuộc cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của nƣớc này đã
đạt đƣợc rất nhiều thành tựu. Những thành tựu chủ yếu đƣợc thể hiện ở những
khía cạnh sau:
Thứ nhất, chiến lƣợc “Khoa giáo hƣng quốc” đã đạt đƣợc những bƣớc
đi quan trọng. Đề cao năng lực sáng tạo tự chủ đƣợc đặt ở vị trí nổi bật trong
công tác khoa học - kỹ thuật, tăng cƣờng năng lực sáng tạo tự chủ đã trở
thành chiến lƣợc quốc gia, đƣợc quán triệt đến các địa phƣơng, các ngành
nghề, các lĩnh vực của sự nghiệp xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Tăng cƣờng xây dựng hệ thống sáng tạo khoa học kỹ thuật hoàn chỉnh trong
các trƣờng đại học, các nhà máy xí nghiệp và các tổ chức nghiên cứu khoa
học kỹ thuật.
Dƣới sự chỉ đạo của tƣ tƣởng sáng tạo khoa học - kỹ thuật Đặng Tiểu
Bình, đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật Trung Quốc đã khắc phục khó khăn,
nỗ lực sáng tạo và đạt đƣợc một số thành tựu quan trọng nhƣ: Ngày
27/10/1966, Trung Quốc lần đầu tiên thử thành công tên lửa đạn đạo, mang
đầu đạn hạt nhân; ngày 17/6/1967, quả bom khinh khí đầu tiên của Trung
Quốc đƣợc thử nổ thành công tại một địa điểm ở miền Tây; ngày 23/9/1969,
lần đầu tiên Trung Quốc thử vũ khí hạt nhân dƣới lòng đất thành công; ngày
46
24/4/1970, lần đầu tiên Trung Quốc phóng thành công vệ tinh trái đất; tháng
12/1987, xây dựng hệ thống tính toán “Ngân hà”; ngày 20/2/1985 xây dựng
trạm Nam Trƣờng Thành; ngày 12/10/1985 lần đầu tiên tàu ngầm dƣới nƣớc
phóng thành công tên lửa thể rắn, trở thành quốc gia thứ 5 sau Mỹ, Liên Xô,
Pháp, Anh có năng lực phóng tên lửa dƣới nƣớc v.v...
Có thể nói, chiến lƣợc “Khoa giáo hƣng quốc” đã mang lại những cơ
hội phát triển trƣớc nay chƣa từng có đối với sự nghiệp khoa học - kỹ thuật và
giáo dục của Trung Quốc, từ đó cung cấp động lực to lớn cho sự phát triển
kinh tế - xã hội đất nƣớc.
Thứ hai, hình thành tƣ tƣởng phát triển theo định hƣớng kinh tế trong
giới nghiên cứu khoa học kỹ thuật; tập trung giải quyết những khó khăn,
vƣớng mắc và những vấn đề nóng trong quá trình xây dựng nền kinh tế quốc
dân; nhận thức của các cán bộ khoa học kỹ thuật đối với việc chuyển hóa
những thành tựu cơ bản đƣợc hình thành; ý thức và quan niệm về thị trƣờng
không ngừng đƣợc nâng cao; tác dụng của cơ chế thị trƣờng trong việc vận
hành khoa học kỹ thuật và sắp xếp nguồn tài nguyên ngày càng đƣợc nâng
cao; hình thành cơ chế thƣơng mại hóa các thành tựu khoa học kỹ thuật; tiến
hành cải cách thể chế hành chính; thành lập một số lƣợng lớn Viện nghiên cứu
có nguồn kinh phí hoạt động từ thị trƣờng; hình thành cơ chế đầu tƣ công
nghệ đa dạng, nhiều doanh nghiệp công nghệ cao của tƣ nhân đƣợc thành lập;
tiến bộ khoa học kỹ thuật ở nông thôn từng bƣớc đƣợc cải thiện; cơ chế sáng
tạo công nghệ trong doanh nghiệp bắt đầu đƣợc hình thành; cơ cấu hệ thống
khoa học kỹ thuật đƣợc điều chỉnh hình thành cục diện phát triển thịnh vƣợng
theo hƣớng đa tầng, đa kênh và đa dạng về hình thức cùng tồn tại, phát triển;
xã hội tôn trọng tri thức, trọng dụng nhân tài đƣợc hình thành; phát triển kinh
tế dần đi vào quỹ đạo gắn với sự phụ thuộc vào tiến bộ khoa học kỹ thuật và
47
nâng cao tố chất của ngƣời lao động; nhận thức của xã hội về khoa học kỹ
thuật ngày càng đƣợc nâng cao v.v... Tất cả những yếu tố trên góp phần tạo
nền tảng cho việc xây dựng cơ chế khoa học kỹ thuật mới theo định hƣớng xã
hội chủ nghĩa và kinh tế thị trƣờng. Các nhà khoa học đã cống hiến trí tuệ và
sức lực, mang lại nhiều thành tựu cho sự phát triển kinh tế và nền văn minh
khoa học.
2.4.2. Những vấn đề còn tồn tại
Cùng với việc khẳng định những thành tựu đã đạt đƣợc ở trên,
nền khoa học kỹ thuật của Trung Quốc cũng còn những mặt hạn chế
tồn tại nhƣ sau:
Một là, hệ thống quản lý “chồng chéo”. Căn nguyên của những vấn
đề liên quan đến hạn chế phát triển sức sản xuất khoa học kỹ thuật Trung
Quốc là ở thể chế quản lý vĩ mô. Những vấn đề này đã đƣợc khái quát nhƣ
sau “cơ chế quản lý chồng chéo, cơ chế vận hành đóng, manh mún, thiếu sự
gắn kết giữa doanh nghiệp và cơ quan khoa học, lãng phí nguồn lực”.17
Xét ở tầm vĩ mô, cơ chế quản lý chồng chéo dễ nhận thấy là tình trạng
hiện có nhiều cơ quan khác nhau có chức năng quản lý nhà nƣớc về khoa học
kỹ thuật nhƣ: Bộ Khoa học Công nghệ, Ủy ban phát triển và cải cách, Ủy ban
Khoa học Công nghệ thuộc Quốc phòng, Bộ Giáo dục. Các cơ quan này đều
có những chính sách liên quan đến khoa học công nghệ, nhƣng những chính
sách này hiện không tƣơng thích với nhau. Ngoài ra, trong vấn đề phân bổ
nguồn kinh phí dành cho hoạt động khoa học kỹ thuật, kinh phí đƣợc phân bổ
17 黄涛〃 “中国科技体制改革面现六大突出现现”, 科技论论〃2010, 28(2).
và giải ngân xuất phát từ nhiều cơ quan chức năng của chính phủ.
48
“Cơ chế vận hành đóng” thể hiện ở chỗ: Rất nhiều các dự án, đề tài
nghiên cứu từ giai đoạn xây dựng đề cƣơng, tham gia bảo vệ đề cƣơng,
nghiệm thu chỉ tiến hành trong phạm vi cơ quan nghiên cứu và do ngƣời
nghiên cứu không có sự tham gia giám sát của cơ quan cấp kinh phí, cơ quan
này chỉ nhận đƣợc một bản kết luận cuối cùng của nhóm chuyên gia nghiệm
thu đề tài.18
Sự “manh mún” trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật chủ yếu thể hiện
ở chỗ: Ngành nào, cấp nào, bộ nào cũng có chức năng quản lý khoa học kỹ
thuật, thiếu một cơ chế quản lý điều tiết vĩ mô và thiết kế thƣợng tầng liên
quan đến việc đầu tƣ cho tài nguyên công nghệ.
“Thiếu tính gắn kết” thể hiện ở chỗ: Hiện nay, các trƣờng đại học, cơ
quan nghiên cứu ở Trung Quốc còn thiếu mối liên hệ đối với doanh nghiệp -
những nơi có nhu cầu rất lớn về ứng dụng thành quả khoa học kỹ thuật, dẫn
đến mối liên kết lỏng lẻo giữa ngƣời sở hữu trí tuệ về khoa học kỹ thuật và ngƣời sử dụng khoa học kỹ thuật giàu tiềm năng.19 Điều này đã làm ảnh
hƣởng đến việc ứng dụng các thành quả khoa học kỹ thuật vào thực tế. Những
ngƣời làm công tác nghiên cứu không nắm vững đƣợc nhu cầu thực tế về
khoa học công nghệ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn sử dụng thành
quả khoa học công nghệ lại không nắm đƣợc nơi nào có thể đáp ứng nhu cầu
18 现曾现。 现中国行政科技体制弊现及改革的迫切性.社会科学现现, 2008(4):52-63. 19 OECD. Reviews of innovation policy; China. OECD Publishing, 2008:47. 20 Chang Paolong, Shih Hsinyu. The Innovation systems of Taiwan and China: A comparative analysis. Technovation, 2004(24): 529-539.
khoa học công nghệ, và năng lực của các tổ chức nghiên cứu khoa học công nghệ đến đâu.20
49
Hai là, cơ chế vận hành “mang nặng tính hành chính”. Thể chế khoa
học kỹ thuật của Trung Quốc tuân theo mô hình với động lực là những thủ tục
hành chính từ trên xuống dƣới do chính phủ chỉ đạo, dẫn đến một số vấn đề nhƣ“quan bản vị21, luật bất thành văn, bệnh hình thức, coi trọng số lƣợng hơn
chất lƣợng”.
“Quan bản vị” và “luật bất thành văn” gắn bó chặt chẽ với nhau, dẫn
đến hiện tƣợng “mua bán chức tƣớc” ngày càng nghiêm trọng. Kết quả là đội
ngũ nhân tài ngày càng bị mai một, gây trở ngại cho sự xuất hiện của những
thành tựu sáng tạo, gây ảnh hƣởng không nhỏ tới quá trình sáng tạo của đội
ngũ những ngƣời làm khoa học. Việc thành lập các cơ quan khoa học kỹ
thuật, xây dựng cơ chế hoạt động của các tổ chức nghiên cứu, biên chế và tiền
lƣơng của các nhà nghiên cứu khoa học kỹ thuật, thực hiện các kế hoạch
nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đều do chính phủ quyết định và xây dựng quy
hoạch trƣớc.
Hiện nay, Trung Quốc vẫn chƣa chú trọng đến các nhu cầu ngày càng
đa dạng hóa của giới khoa học và quy luật nội tại của lĩnh vực hoạt động khoa
học kỹ thuật riêng của họ, làm triệt tiêu quyền tự chủ của cộng đồng khoa
học, khiến các nhà nghiên cứu không thể tập trung cho hoạt động nghiên cứu
“khoa học kỹ thuật”, làm tiêu hao nguồn lực và năng lực cho các hoạt động chính trị bên ngoài “khoa học kỹ thuật”.22 Việc quản lý khoa học kỹ thuật của
Trung Quốc hiện vẫn đang trong giai đoạn “nhân trị”, các mối quan hệ xã hội
(Thời
21“官本位”是中国几千年的封建社会现物。受其影响〃中国社会是重"官"的社会〃人现都想当官 〃又都怕官〃因现当官就会有特权〃官越大权越大〃享受待遇就越高〃地位就越现赫〃就可以现 得 比 别 人 多 的 利 益 。 董 婷 〃 “ 官 特 权 源 自 官 本 位 ” 〃 tại trang mạng dẫn: trích gian http://cpc.people.com.cn/pinglun/n/2014/0912/c241220-25651241.html 15/11/2014). 22 李建现.中国科技体制建现的基本现程及 “路径依现性”. 湖南文理学院学论. 2005(1): 60-65.
trong giới nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở nhiều tầng lớp vẫn giữ vai trò chủ
50
đạo, ƣu thế về chuyên môn trong hệ thống quản lý khoa học kỹ thuật hiện nay
vẫn chƣa phát huy đƣợc vai trò thích hợp của nó. Tình trạng này đến từ truyền
thống văn hóa lịch sử của ngƣời Trung Quốc, một phần do tàn dƣ việc học tập mô hình quản lý khoa học công nghệ của Liên Xô trƣớc kia.23 Tình trạng dựa
vào các mối quan hệ, quyền lực, phi cạnh tranh để có đƣợc những nguồn lực
phục vụ nghiên cứu khoa học vẫn còn tồn tại ở Trung Quốc, sức mạnh của cơ
chế hành chính vẫn còn rất lớn trong các dự án, đề tài nghiên cứu, trong việc phân bổ nguồn lực phục vụ nghiên cứu.24 Các chuyên gia, nhà khoa học chƣa
tạo đƣợc tầm ảnh hƣởng hiệu quả trong các vấn đề trọng đại của quốc gia.
Một số lĩnh vực khoa học kỹ thuật mà Trung Quốc coi trọng hiện nay, không
phải xuất phát từ những đề xuất của các nhà khoa học xuất phát từ xu thế phát
triển của khoa học thế giới, mà vẫn còn chịu ảnh hƣởng của các nhân tố phi khoa học tác động.25 Những điều này rất dễ làm nảy sinh vấn đề tham nhũng,
bệnh hình thức trong hoạt động quản lý và nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
Ba là, mô hình nghiên cứu phát triển “thúc đẩy khoa học”. Mô hình
phát triển khoa học kỹ thuật của Trung Quốc vốn là “thúc đẩy khoa học”. Vấn
đề này có nghĩa là một đơn vị nghiên cứu khoa học tiến hành nghiên cứu và
phát triển ra một công nghệ mới, sau đó đi tìm doanh nghiệp để ứng dụng vào
sản xuất, sau khi sản xuất ra sản phẩm, tiếp tục đi tìm kiếm thị trƣờng tiêu
thụ. Thực tế cho thấy, quy trình này thƣờng nảy sinh nhiều vấn đề. Lý do là vì
mặc dù có sự sáng tạo công nghệ mới, nhƣng doanh nghiệp lại không thể ứng
23 Rao Yi, Lu Bai, Tsou Chenlu. A Fundamental transition from rule- by man to rule –by- merit ̶ What will be the legacy of the Mid – to – Long term Plan of Science and Technology?. Nature, 2004, 432: A12- A17. 24 现振演. 反思当今的中国科技体制改革. 论略与管理, 2003(3): 101-107. 25 现毅. 中国在重要科学现域缺席所反映的科技体制和文化现现. 南方周末, 2002-10-17.
dụng công nghệ đó, hoặc doanh nghiệp có muốn sử dụng công nghệ đó hay
51
không. Một vấn đề khác là sản phẩm đƣợc sản xuất ra bằng công nghệ mới, nhƣng doanh nghiệp ứng dụng có tìm đƣợc thị trƣờng tiêu thụ hay không.26
Trong thời kỳ Trung Quốc thực hiện mô hình kinh tế kế hoạch, các cơ quan
nghiên cứu nhà nƣớc giữ vai trò chi phối, chính phủ luôn đặt các cơ quan
nghiên cứu, các trƣờng học vào vị trí trung tâm của thể chế sáng tạo quốc gia,
giá trị quan của những ngƣời làm công tác nghiên cứu khoa học đƣợc định
hƣớng vào việc nghiên cứu và phát biểu thành quả nghiên cứu, không định
hƣớng vào thị trƣờng và vấn đề đăng kí bản quyền. Điều này cũng đồng nghĩa
với việc chƣa chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch truyền thống “nghiên
cứu - thị trƣờng” sang mô hình kinh tế thị trƣờng “thị trƣờng - nghiên cứu”,
đã dẫn tới vị trí của các chủ thể sáng tạo tri thức và chủ thể sáng tạo khoa học
kỹ thuật bị đặt nhầm chỗ.
Bốn là, chỉ tập trung vào vi mô, thiếu sự chú trọng đến vĩ mô. Vấn đề
tồn tại liên quan đến các tầng cải cách chủ yếu là vấn đề thể chế khoa học kỹ
thuật của Trung Quốc tập trung vào các vấn đề vi mô, mà ít chú trọng đến các
vấn đề vĩ mô. Trong giai đoạn tiến hành cải cách thể chế khoa học kỹ thuật
những năm 1980, Trung Quốc đặt trọng điểm vào cải cách các cơ cấu tổ chức
nghiên cứu khoa học, đặc biệt là tập trung cải cách các cơ sở nghiên cứu cơ
bản, đối tƣợng chủ yếu là nhắm vào các nhà khoa học tại các trƣờng đại học
và các viện nghiên cứu. Việc cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ở góc độ vĩ
mô phải cho đến năm 1995 mới đƣợc đƣa vào nghị trình của công cuộc cải cách.27 Ngoài ra, công cuộc cải cách thể chế khoa học kỹ thuật còn cần tiến
hành cải cách đồng bộ các vấn đề khác phụ trợ với nó. Cơ chế của Chính phủ
26 成思危. “现新型国家与学现型现现”. 中国论科学〃2007 (2): 1-3. 27 Giống ghi chú 15 (黄涛〃 “中国科技体制改革面现六大突出现现”, 科技论论〃2010, 28(2).)
Trung Quốc đầu tƣ vào khoa học công nghệ, chủ yếu vẫn thực hiện thông qua
52
các kế hoạch khoa học kỹ thuật công nghệ. Điều này cho đến nay vẫn chƣa có
sự chuyển biến rõ rệt. Việc dự toán liên quan đến khoa học kỹ thuật và cơ chế
đầu tƣ hiện có của Chính phủ Trung Quốc khiến cho các bộ ban ngành tổng
hợp, các bộ chuyên trách và các bộ phụ trách công ích xã hội có quyền đƣa ra
những kế hoạch nghiên cứu độc lập trong tất cả các giai đoạn từ lập kế hoạch,
bảo vệ đề cƣơng, dự toán đến giai đoạn thực hiện đều cho thấy mục đích có
đƣợc lợi ích lớn nhất cho bộ ban ngành của mình, việc phối kết hợp, điều tiết với nhau chƣa tốt.28 Do vậy, đứng từ góc độ vi mô có thể thấy rằng, việc quản
lý khoa học kỹ thuật của Trung Quốc rất có trật tự và hệ thống. Tuy nhiên,
nếu xét trên góc độ vĩ mô, không khó để nhận ra rằng, hoạt động quản lý khoa
học kỹ thuật của Trung Quốc hiện nay thiếu tính trật tự, cơ cấu tổng thể và
các chức năng của nó chƣa đƣợc tối ƣu hóa một cách tối đa.
Năm là, tính hai mặt của cải cách khoa học kỹ thuật theo “định hƣớng
thị trƣờng”. Đây là một trong những vấn đề tồn tại kể từ khi thể chế nghiên
cứu khoa học hiện đại của Trung Quốc đƣợc hình thành. Tính hai mặt của nó
đƣợc thể hiện ở chỗ “thị trƣờng định hƣớng, coi trọng kỹ thuật, coi nhẹ khoa
học, vai trò chính phủ mờ nhạt”. Trong quá trình cải cách, Trung Quốc sử
dụng một số chính sách cải cách của giới kinh tế, quá coi trọng sức sản xuất
và định hƣớng thị trƣờng mà không xem xét đến những yếu tố khác biệt trong
hoạt động nghiên cứu, từ đó triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ
thuật theo định hƣớng của thị trƣờng.
Ngoài ra, việc nhận thức chƣa đầy đủ về hoạt động khoa học kỹ thuật
cũng là một trong những vấn đề tồn tại, mọi ngƣời còn nhầm lẫn giữa “khoa
28 Giống chú thích 3(方新-柳卸林〃我国科技体制改革的回现及展望〃求是〃2004 年第 5 期).
học” và “công nghệ”, đánh đồng hai khái niệm, lấy phƣơng thức quản lý
53
“khoa học” để áp dụng vào quản lý “công nghệ”. Trên thực tế, ứng dụng và
phát triển cần chú trọng đến phản ứng của thị trƣờng, nghiên cứu cơ bản, đặc
biệt điểm nổi bật của nghiên cứu cơ bản là tính sáng tạo và tìm hiểu một
cách tự do, không nên lấy thị trƣờng làm định hƣớng. Chính phủ Trung
Quốc hiện vẫn chƣa thể hiện tốt vai trò của mình trong quá trình quản lý
khoa học kỹ thuật, vẫn còn tình trạng sai lệch trong quản lý vĩ mô khoa học
kỹ thuật.
Sáu là, hiệu quả cải cách của “bƣớc đầu kết hợp” chƣa cao. Thúc đẩy
kết hợp giữa khoa học kỹ thuật và kinh tế là mục tiêu tổng thể của cải cách
thể chế khoa học kỹ thuật. Sau khi cải cách, thể chế khoa học kỹ thuật Trung
Quốc vẫn còn tồn tại một số vấn đề nhƣ :“Thừa sự nhiệt tình, thiếu chỗ dựa,
sự kết hợp mới chỉ ở giai đoạn đầu, cung không đủ cầu”. Thể chế khoa học kỹ
thuật tuy đã có sự tích cực chủ động hƣớng tới thị trƣờng kinh tế, nhƣng cùng
với nó là tình trạng dựa chủ yếu vào nhập khẩu công nghệ, các doanh nghiệp
Trung Quốc chủ yếu phụ thuộc vào công nghệ kỹ thuật của nƣớc ngoài. Điều
này không những tạo nên sự phụ thuộc vào khoa học kỹ thuật của nƣớc ngoài
mà còn nảy sinh vấn đề an ninh khoa học kỹ thuật.
Ngoài ra, hiện nay Trung Quốc đang phải đối mặt với tình trạng thiếu
hụt nguồn lực cho khoa học kỹ thuật, công nghệ và thiết bị công nghệ đƣợc sử
dụng trong các ngành nghề sản xuất trọng điểm đều phải phụ thuộc vào nguồn
cung cấp từ các nhà cung cấp nƣớc ngoài. Nói cách khác, cho đến hiện nay
Trung Quốc vẫn còn lệ thuộc nhiều vào công nghệ của nƣớc ngoài để thúc đẩy
sản xuất. Hơn nữa, đội ngũ các nhà làm khoa học có trình độ cao của Trung
Quốc vẫn chƣa theo kịp trình độ của các nƣớc phát triển, chƣa có đƣợc những
thành tựu tƣơng xứng với vị thế của một nền kinh tế lớn thứ 2 trong cộng đồng
quốc tế.
54
Thể chế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc vẫn chƣa đáp ứng đƣợc
yêu cầu phát triển khoa học kỹ thuật theo cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa. Xét từ góc độ cơ cấu, kinh phí và thể chế vẫn còn tồn tại nhiều vấn
đề. Đây cũng là những trở ngại chính trong việc phân bổ một cách hợp lý các
nguồn lực công nghệ thông tin và phát triển công nghệ.
Hệ thống khoa học kỹ thuật mất cân bằng trong tỷ lệ kết cấu của nó.
Các tổ chức nghiên cứu, phát triển công nghệ của chính phủ đều nằm ngoài
các doanh nghiệp, tình trạng bất hợp lý căn bản chƣa đƣợc giải quyết. Do cơ
chế lãnh đạo theo hƣớng phân mảnh, dẫn đến hình thành việc tự đóng cửa,
phân tán lực lƣợng nghiên cứu công nghệ, lãng phí tài nguyên công nghệ, khó
tăng cƣờng những điểm mạnh, hiệu quả tổng thể khó phát huy, thiết kế giáo
trình cũ, cơ cấu nhân sự không hợp lý gây bất lợi cho quá trình sáp nhập.
Trong môi trƣờng kinh tế vĩ mô, sau khi cải cách thể chế tài chính, do
nguồn kinh phí quá ít ỏi nên đã gây ra nhiều khó khăn cho cơ chế nghiên cứu.
Bản thân các doanh nghiệp lớn và vừa gặp phải rất nhiều khó khăn, các doanh
nghiệp nhỏ xuất hiện ngày càng phổ biến, kinh phí đầu tƣ cho công nghệ ít,
gây khó khăn cho quá trình chuyển giao và mở rộng cơ cấu công nghệ. Có
giai đoạn xảy ra tình trạng coi nhẹ công nghệ, thiếu yếu tố công nghệ kỹ thuật
trong quá trình xây dựng và thu hút những dự án lớn, thiếu sự liên kết, hợp tác
giữa các bộ ngành liên quan.
Thêm vào đó, cơ chế nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp lại không
chịu cùng một áp lực cạnh tranh, không có căn cứ về thể chế, doanh nghiệp
thiếu nhu cầu, không có động lực, các đơn vị kỹ thuật khó phát huy đƣợc tác
dụng. Trong bối cảnh đó, sự kết hợp giữa công nghệ và doanh nghiệp không
phải là vấn đề chỉ cần dựa vào sự nỗ lực của giới khoa học kỹ thuật là có thể
giải quyết đƣợc mà là vấn đề mang tính toàn diện. Giải quyết tất cả những vấn
đề trên, cải cách thể chế khoa học kỹ thuật một cách sâu rộng, thúc đẩy khoa
55
học kỹ thuật phát triển đang là nhiệm vụ nặng nề đặt lên vai giới khoa học,
công nghệ và nhân viên kỹ thuật Trung Quốc.
2.4.3. Giải pháp cải cách
Do nhận thức cải cách thể chế khoa học kỹ thuật là nhiệm vụ cấp bách
hiện nay để xây dựng một đất nƣớc, Trung Quốc đang tích cực nghiên cứu,
định ra các giải pháp cụ thể cho cải cách thể chế khoa học kỹ thuật. Các giải
pháp cho cải cách thể chế khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc hiện nay bao gồm:
Một là, đẩy nhanh thành lập hệ thống đổi mới kỹ thuật lấy doanh
nghiệp làm mối liên kết giữa chủ thể và các nhà khoa học, thúc đẩy sự kết
hợp chặt chẽ giữa thể chế khoa học kỹ thuật và thể chế kinh tế. Hạn chế đầu
tƣ của chính phủ trong lĩnh vực cạnh tranh, khiến cho thị trƣờng đóng vai trò
quyết định trong việc phân bổ nguồn lực khoa học kỹ thuật; tăng cƣờng các
mặt nhƣ bồi dƣỡng doanh nghiệp, lƣu thông vốn, thúc đẩy doanh nghiệp khoa
học kỹ thuật trở thành chủ thể của đổi mới kỹ thuật. Đồng thời, Nhà nƣớc
cũng đặt vấn đề tăng cƣờng xây dựng pháp luật, điều chỉnh thị trƣờng, nhằm
tạo ra một môi trƣờng xã hội thuận lợi cho đổi mới khoa học kỹ thuật.
Hai là, căn cứ vào quy luật và đặc điểm của phát triển khoa học kỹ
thuật, tiến hành đổi mới thể chế quản lý hành chính khoa học kỹ thuật, quy
hoạch tổng thể khoa học kỹ thuật, phối hợp quản lý khoa học kỹ thuật. Thể
chế quản lý hành chính khoa học kỹ thuật bao gồm các khía cạnh quan trọng
nhƣ: Dự án quy hoạch và dự án tổ chức, tiến độ nghiên cứu kiểm tra và giám
sát kinh phí, đánh giá xác định thành quả khoa học kỹ thuật, chuyển giao
thành quả khoa học kỹ thuật. Không chỉ những khía cạnh trên, thể chế quản lý
hành chính khoa học kỹ thuật còn đề cập đến nhiều bộ phận khác. Để nâng
cao hiệu quả, quy mô quản lý cơ quan quản lý nhà nƣớc về khoa học công
nghệ đặt vấn đề tăng cƣờng quy hoạch khoa học kỹ thuật và nâng cao chính
sách khoa học kỹ thuật. Quy hoạch khoa học kỹ thuật sẽ gia nhập vào hệ
56
thống quy hoạch tổng thể phát triển xã hội và kinh tế quốc dân. Để tăng
cƣờng sự chỉ đạo quy hoạch khoa học kỹ thuật đƣợc thống nhất, việc đầu tƣ
khoa học kỹ thuật của chính phủ một mặt sẽ giải quyết triệt để các dự án nhỏ;
mặt khác cần “tập trung lực lƣợng để làm việc lớn”, tuân thủ thực hiện quản
lý thống nhất.
Ba là, căn cứ vào giá trị xã hội và tính sáng tạo độc lập của thành quả
khoa học kỹ thuật để thiết lập cơ chế đánh giá hiệu quả khoa học. Việc đánh
giá công bằng thành quả khoa học kỹ thuật là xu hƣớng tất yếu mà chính phủ
dự tính thực hiện và quản lý thông suốt, là khía cạnh quan trọng thúc đẩy đổi
mới khoa học kỹ thuật, thúc đẩy sự phát triển tốt của các nhà nghiên cứu. Vì
vậy, xoay quanh mức độ đổi mới của thành quả khoa học kỹ thuật, đứng từ
nhiều góc độ, nhiều mặt để tiến hành đánh giá thành quả khoa học kỹ thuật
nhƣ: Đánh giá toàn diện hệ thống các yếu tố đầu vào, đầu ra, những ảnh
hƣởng tích cực và tiêu cực về xã hội, kinh tế, môi trƣờng, qua đó xác định giá
trị và rủi ro của đổi mới khoa học kỹ thuật, cung cấp tài liệu tham khảo quyết
sách chính xác cho chính phủ và các cơ quan quyết sách.
Bốn là, đào tạo một số lƣợng lớn nhân lực sáng tạo. Trong bài phát
biểu tại buổi hội nghị viện lần thứ 8 Viện Kỹ thuật Trung Quốc và hội nghị
viện lần thứ 13 Viện Khoa học Trung Quốc ngày 5-6-2006, Chủ tịch Trung
Quốc lúc đó là Hồ Cẩm Đào đã chỉ ra rằng bồi dƣỡng đào tạo nhân tài đổi
mới khoa học kỹ thuật là một dự án có hệ thống, cần sự nỗ lực của cộng đồng
toàn xã hội và Viện nghiên cứu khoa học, đảng ủy các cấp, chính phủ, các bộ
phận có liên quan, và hiệu trƣởng các trƣờng đại học. Trong công tác đào tạo
nhân lực cần tập trung vào 5 lĩnh vực quan trọng. Thứ nhất, cải thiện hệ thống
đào tạo; thứ hai, lựa chọn giữa các nhân tài; thứ ba, hoàn thiện chế độ và bảo
đảm chính sách; thứ tư, tiến hành đào tạo kiểu mở rộng; thứ năm, khuyến
khích tạo ra môi trƣờng xã hội đổi mới khoa học kỹ thuật.
57
Tóm lại, nhằm nâng cao hơn nữa cơ chế quản lý khoa học kỹ thuật và
phù hợp với yêu cầu của sự phát triển kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa,
Chính phủ Trung Quốc đã và đang thúc đẩy cơ hội kết hợp giữa nhân tố đổi
mới khoa học kỹ thuật và nhân tố sản xuất khác của xã hội. Khoa học kỹ thuật
hình thành một cơ chế tốt sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội;
ngƣợc lại, xã hội sẽ không ngừng nâng cao đầu tƣ cho khoa học kỹ thuật. Bên
cạnh đó, Nhà nƣớc còn đặt vấn đề hoàn thiện phƣơng thức phân bổ nguồn lực
khoa học kỹ thuật, tối ƣu hóa việc phân bổ các nguồn lực, thúc đẩy sự cởi mở
và chia sẻ các nguồn lực khoa học kỹ thuật, hình thành một loạt các cơ chế
hợp tác đổi mới đa cấp, thiết lập kiện toàn cơ chế đánh giá và cơ chế phân bổ
nguồn lực hiệu suất tối ƣu, khuyến khích, gia tăng đổi mới, vừa cạnh tranh
vừa hợp tác để phát triển. Để từng bƣớc xây dựng nền khoa học kỹ thuật phát
triển có đặc sắc, Nhà nƣớc Trung Quốc đang nỗ lực tạo một môi trƣờng thoải
mái, toàn dân có thể tham gia sáng tạo độc lập, cạnh tranh công bằng và tự do
bình luận, đánh giá.
58
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Trƣớc sự phát triển của kinh tế - xã hội Trung Quốc nói riêng và xu
thế phát triển của thế giới nói chung, đặc biệt là làn sóng cách mạng kinh tế
mới thì việc tiến hành cải cách thể chế khoa học kỹ thuật Trung Quốc là yêu
cầu tất yếu.
Cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc đƣợc nhen nhóm
từ khi đất nƣớc thực hiện cải cách thể chế kinh tế. Quá trình cải cách thể chế
khoa học kỹ thuật đƣợc bắt đầu từ những năm 1978 và đƣợc chia làm 4 giai
đoạn chính. Trong mỗi giai đoạn, Trung Quốc đã cố gắng tập trung xác định
những hạn chế, thiếu sót trong định hƣớng cũng nhƣ nội dung của cải cách thể
chế khoa học kỹ thuật để đƣa ra những biện pháp giải quyết nhằm đẩy mạnh
sự phát triển của khoa học kỹ thuật.
Với việc xác định rõ ràng 4 nội dung chính cần phải đƣợc thực hiện
trong quá trình cải cách thể chế khoa học kỹ thuật, Trung Quốc đã có những
bƣớc đi vƣợt bậc trong khoa học kỹ thuật, đạt đƣợc nhiều thành tựu, mang lại
sức sống nhất định cho sự phát triển của nền khoa học kỹ thuật đất nƣớc. Tuy
nhiên bên cạnh đó cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc vẫn còn
tồn tại những mặt hạn chế đang chờ đợi đƣợc khắc phục.
59
CHƢƠNG 3
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Trong các chƣơng trên, chúng tôi đã trình bày và phân tích quá trình,
nội dung, thành tựu, và những vấn đề đặt ra trong cải cách thể chế khoa học
kỹ thuật của Trung Quốc. Phần này, luận văn tập trung nhận diện thực trạng
cơ chế chính sách quản lý phát triển khoa học kỹ thuật Việt Nam, sau đó gợi
mở một số ý kiến về hoàn thiện các cơ chế chính sách này.
3.1. Thực trạng cơ chế chính sách quản lý, phát triển khoa học
công nghệ của Việt Nam trong những năm gần đây
Sự tụt hậu về khoa học và công nghệ cùng với xu thế phát triển tất yếu
của thế giới buộc khoa học và công nghệ của nƣớc ta phải thay đổi để theo
kịp xu hƣớng. Chính vì vậy vấn đề đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa
học công nghệ đƣợc đặt ra và là một trong những nhiệm vụ quan trọng của
Đảng và Nhà nƣớc. Đổi mới về cơ chế quản lý khoa học đƣợc nêu lên từ khi
Luật khoa học công nghệ ban hành (năm 2000), sau đó đƣợc Bộ khoa học và
công nghệ xây dựng thành đề án đổi mới quản lý khoa học công nghệ (phê
duyệt năm 2004). Sau hơn 10 năm thực hiện, cơ chế quản lý khoa học và công
nghệ của nƣớc ta từng bƣớc đƣợc hoàn thiện, đổi mới và đạt đƣợc một số kết
quả bƣớc đầu.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khoa học công nghệ cơ bản
đã đƣợc hình thành và liên tục phát triển, hoàn thiện đáng kể. Từ năm 2000
đến nay, với 8 đạo luật chuyên ngành cùng với chiến lƣợc phát triển khoa học
công nghệ và gần 300 văn bản dƣới luật đã góp phần hình thành nên hệ thống
hành lang pháp lý tƣơng đối hoàn chỉnh, toàn diện trên các lĩnh vực khác nhau
của hoạt động khoa học công nghệ. Đặc biệt, năm 2013, kỳ họp thứ 5 Quốc
60
hội khóa XIII đã thông qua và ban hành Luật khoa học công nghệ thay thế
Luật khoa học công nghệ năm 2000. Đây đƣợc coi là mốc quan trọng trong
việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về khoa học công nghệ. Tổ chức
bộ máy quản lý khoa học công nghệ đã đƣợc kiện toàn cơ bản và theo hƣớng
ngày càng hoàn thiện, tách biệt chức năng quản lý nhà nƣớc với hoạt động sự
nghiệp, phân định rõ nhiệm vụ của các đơn vị quản lý nhà nƣớc với các tổ
chức sự nghiệp.
Việc triển khai thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các
tổ chức khoa học công nghệ công lập đã dần có hiệu quả; bƣớc đầu hình thành
lực lƣợng doanh nghiệp khoa học công nghệ đi tiên phong trong một số lĩnh
vực, tạo nền tảng phát triển thị trƣờng công nghệ. Ngoài các tổ chức khoa học
công nghệ công lập, các tổ chức khoa học công nghệ ngoài công lập hoạt
động theo cơ chế tự chủ đã ra đời. Theo thống kê của Bộ khoa học và công
nghệ, đến tháng 12/2012, cả nƣớc có trên 2.200 tổ chức khoa học công nghệ,
trong đó có 1.074 tổ chức công lập và 1.154 tổ chức ngoài công lập.
Hoạt động của thị trƣờng công nghệ có nhiều khởi sắc và hứa hẹn
tiềm năng to lớn. Sự ra đời của Chợ công nghệ và thiết bị (Techmart) đã tạo
môi trƣờng gắn kết nhà khoa học, nhà quản lý với nhà sản xuất, kinh doanh.
Số lƣợng giao dịch mua bán công nghệ giai đoạn 2009-2012 đã tăng hơn 3
lần, tổng giá trị giao dịch thông qua các hợp đồng đƣợc ký kết tăng gần 2,5
lần so với giai đoạn 2005-2008 và đạt gần 6.000 tỷ đồng. Ngoài ra, các
Techmart ảo, Techmart vùng đã đƣợc triển khai ở nhiều địa phƣơng và hỗ trợ
tích cực cho các hoạt động hậu Techmart nhƣ: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng…
Cùng với đó, sự ra đời của Quỹ Phát triển khoa học công nghệ Quốc
gia (năm 2008), Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (năm 2011) đã đánh dấu sự
61
ra đời của một mô hình mới trong quản lý tài chính khoa học công nghệ, góp
phần đa dạng hóa các kênh đầu tƣ, tạo cơ hội rộng mở cho mọi thành phần
trong xã hội đƣợc tiếp cận với các nguồn tài chính của chính phủ khi tiến
hành hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Đặc biệt, việc
triển khai các chƣơng trình tài trợ của Quỹ Phát triển khoa học công nghệ
Quốc gia theo cơ chế mới nhƣ tài trợ nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự
nhiên đã đƣợc cộng đồng khoa học đánh giá nhƣ một “bƣớc tiến thành công
có tính cách mạng” trong quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam.
Trong thời gian qua, những cơ chế, chính sách bƣớc đầu nêu trên đã
có tác động tích cực và hiệu quả trong việc thúc đẩy hoạt động khoa học công
nghệ phát triển, đóng góp thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc. Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực thì cơ chế quản lý
khoa học công nghệ của nƣớc ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc và
hạn chế cần tiếp tục đổi mới nhƣ: Cơ chế tài chính, cơ chế quản lý khoa học
công nghệ …
3.1.1. Cơ chế, chính sách đầu tƣ tài chính cho khoa học công nghệ
* Ngân sách nhà nƣớc chi cho khoa học công nghệ còn hạn chế
Thực hiện Luật khoa học công nghệ, bắt đầu từ năm 2001 đến nay,
hàng năm Nhà nƣớc dành 2% tổng chi ngân sách (tƣơng đƣơng 0.5 - 0.6%
GDP) để đầu tƣ cho khoa học công nghệ. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây, ngân sách nhà nƣớc chi cho khoa học công nghệ chƣa đạt đến mức 2%.
Theo số liệu báo cáo của Bộ khoa học và công nghệ, số liệu tuyệt đối về tổng
chi cho khoa học công nghệ đã tăng từ 6.310 tỷ đồng năm 2007 lên 14.144 tỷ
đồng vào năm 2013. Nhƣng tỷ lệ này so với ngân sách lại giảm từ 1,81%
xuống còn 1,44%.
62
Mặc dù mức đầu tƣ cho khoa học công nghệ của nƣớc ta đạt 0.5 -
0.6% GDP không thấp so với các quốc gia trên thế giới, nhƣng con số tuyệt
đối tính trên đầu ngƣời dân cũng nhƣ tổng đầu tƣ cho khoa học công nghệ lại
vào loại thấp trong khu vực và thế giới. (Bảng 3.2)
Bảng 3.1: Đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc cho khoa học công nghệ
Tổng chi cho Tỷ lệ chi cho Tốc độ tăng
Năm KH&CN từ NSNN KH&CN so với trƣởng kinh phí
(tỷ đồng) tổng chi NSNN (%) cho KH&CN (%)
2007 6.310 1,81 16,22
2008 6.585 1,69 4,36
2009 7.867 1,62 19,46
2010 9.178 1,60 16,66
2011 11.499 1,58 25,28
2012 13.168 1,46 14,51
2013 14.144 1,44 7,41
Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ
Bảng 3.2: Ngân sách đầu tƣ cho khoa học công nghệ của một số
nƣớc và vùng lãnh thổ năm 2011
Dân số GDP Tỷ lệ chi cho Tên nƣớc (triệu ngƣời) (tỉ USD) KH&CN/GDP (%)
Việt Nam 87,8 123,96 0,24
Thái Lan 69,5 345,65 0,25
Malaysia 28,3 305,83 0,63
Indonesia 242,3 846,83 0,07
Singapore 5,2 259,85 2,2
63
Hàn Quốc 48,9 1556 3,0
Nhật Bản 126,7 4440 3,3
Trung Quốc 1347,4 11299 1,4
Phần Lan 5,4 266,55 3,1
Áo 8,4 352 2,5
Hoa kỳ 314,4 15094 2,7
Thụy Điển 9,5 381,7 3,3
Đài Loan 23,3 446,8 2,3
Philippines 103,8 411,9 0,09
Nguồn: Theo thống kê của UNESCO
* Chính sách đầu tƣ dàn trải, chƣa có trọng điểm
Trong thời gian qua, việc chi cho hoạt động khoa học công nghệ
thƣờng đƣợc phân bổ đều cho các tỉnh, thành phố và các bộ, ngành dựa trên tỷ
lệ dân số từ Trung ƣơng đến địa phƣơng mà không có trọng điểm, không dựa
vào những căn cứ, tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Tổng kinh phí đầu tƣ phát triển từ
ngân sách cho khoa học công nghệ gần nhƣ cào bằng 50-50 giữa tổ chức khoa
học công nghệ Trung ƣơng và địa phƣơng (Bảng 3.3). Điều này dẫn tới một
thực tế là tiềm lực khoa học công nghệ ở nhiều địa phƣơng còn yếu, thiếu đội
ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao nhƣng vẫn đƣợc giao kinh phí khá lớn
dẫn đến việc sử dụng không hết hoặc đầu tƣ cho các hạng mục công trình
khác. Năm 2007, Bộ Khoa học và Công nghệ buộc phải hoàn lại cho ngân
sách nhà nƣớc 125 tỉ đồng vì không phân phối hết cho các đề án nghiên cứu.
Trƣớc đó, năm 2006, con số đƣợc Bộ Khoa học và Công nghệ hoàn trả lên
đến 321 tỉ đồng. Trong khi đó, các bộ, ngành có tiềm lực khoa học công nghệ
mạnh, đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao rất đông đảo thì kinh phí đƣợc
giao lại quá ít.
64
Bảng 3.3: Tỷ lệ cơ cấu chi đầu tƣ phát triển KH&CN từ NSNN
theo khu vực
Ngân sách Trung ƣơng Ngân sách địa phƣơng
Năm Vốn ĐTPT Số tiền (tỷ Số tiền (tỷ Tỷ lệ % Tỷ lệ % đồng) đồng)
2007 2.730 1.530 56 1.200 44
2008 2.758 1.268 46 1.490 54
2009 3.477 1.862 53,5 1.615 46,5
2010 4.088 1.939 47,4 2.149 52,6
2011 5.069 2.354 46,4 2.715 53,6
2012 6.008 3.018 50,2 2.990 49,8
2013 6.136 2.836 46,2 3.300 53,8
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bên cạnh đó, kinh phí của Nhà nƣớc đầu tƣ cho khoa học công nghệ
gồm hai nguồn là đầu tƣ phát triển và đầu tƣ sự nghiệp đƣợc giao cho hai bộ
khác nhau. Bộ Kế hoạch và đầu tƣ tổ chức xây dựng kế hoạch, phân bổ kinh
phí về đầu tƣ phát triển khoa học công nghệ, còn đầu tƣ cho sự nghiệp khoa
học công nghệ đƣợc giao cho Bộ Khoa học và công nghệ. Tại địa phƣơng,
kinh phí đầu tƣ phát triển khoa học công nghệ đƣợc giao cho đơn vị phụ trách
về xây dựng cơ bản, quản trị thiết bị còn kinh phí sự nghiệp khoa học công
nghệ đƣợc giao cho đơn vị khác. Điều đó cho thấy, cùng nguồn kinh phí đầu
tƣ, cùng mục tiêu đầu tƣ nhƣng lại giao cho hai cơ quan quản lý, điều hành.
Hậu quả dẫn tới là đầu tƣ dàn trải, chồng chéo, thiếu tính hệ thống, thiếu tập
trung, thống nhất. Hơn nữa, cơ chế giám sát sử dụng kinh phí đối với các
nhiệm vụ khoa học công nghệ vẫn còn lạc hậu, chậm đƣợc đổi mới.
* Khó huy động được vốn đầu tư của khu vực tư nhân
Do mức chi NSNN dành cho lĩnh vực khoa học công nghệ còn hạn
chế, nên trong đổi mới chính sách đầu tƣ tài chính cho khoa học công nghệ,
65
quan điểm đa dạng hoá các nguồn đầu tƣ cho khoa học công nghệ chƣa đƣợc
coi trọng trong khi đó đây đƣợc coi là một trong những giải pháp tài chính
quan trọng nhằm giảm gánh nặng của ngân sách nhà nƣớc cho hoạt động khoa
học công nghệ. Có thể nói, hiện nay đầu tƣ cho khoa học công nghệ của nƣớc
ta vẫn chủ yếu là từ khu vực nhà nƣớc. Theo số liệu thống kê, năm 2011 chỉ
có 28% tổng đầu tƣ toàn xã hội cho nghiên cứu và phát triển khoa học công
nghệ đến từ khu vực doanh nghiệp, Nhà nƣớc là nhà đầu tƣ chính (chiếm
64%). Trong khi đó, tại các nƣớc có nền kinh tế phát triển thì khu vực doanh
nghiệp là khu vực chính cấp kinh phí cho phát triển khoa học công nghệ. Đặc
biệt, Trung Quốc đã có sự chuyển biến mạnh mẽ với tỷ lệ cấp tài chính khoa
học công nghệ từ Nhà nƣớc chỉ có 24,26%, còn từ doanh nghiệp là 74,35%.
(Bảng 3.4)
Bảng 3.4: Chi cho NC&PT của một số nƣớc theo nguồn cấp và
khu vực thực hiện năm 2011
Nƣớc (năm có số liệu) Nhà nƣớc
Nguồn cấp kinh phí (%) Các nguồn trong nƣớc khác 0,55 Doanh nghiệp 45,50 Áo Tổng chi(triệu USD ppp) 9.761,91 38,09 Nƣớc ngoài 15,86
Đan mạch 7.052,44 27,57 60,17 3,53 8,73
Phần Lan 7.634,75 25,03 67,01 1,41 6,54
Nhật Bản (2009) 137.451,21 17,68 75,27 6,63 0,42
Hàn Quốc (2010) 53.156,57 26,75 71,80 1,23 0,22
Thụy Điển 13.216,23 27,53 58,15 3,46 10,86
Anh 39.627,15 32,25 44,60 6,18 16,98
Hoa Kỳ 415.193,00 33,39 59,96 6,65 0
Trung Quốc 148.936,24 24,26 74,35 0 1,39 (2009)
Nga 33.721,36 67,08 27,68 0,96 4,28
66
Việt Nam 616,33 64,29 28,21 3,03 4,47
Nguồn: CSDL thống kê của UNESCO
Nguyên nhân của tình trạng này đƣợc nhiều ngƣời đánh giá là một
phần do chính sách khoa học công nghệ hiện nay chƣa khuyến khích đƣợc
doanh nghiệp đầu tƣ cho khoa học công nghệ, phần chủ yếu do đa số doanh
nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, vốn ít, năng suất lao
động thấp nên không có khả năng đầu tƣ lớn, dài hạn cho khoa học công
nghệ. Hiện nay, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cho phép các doanh nghiệp
đƣợc trích tối đa 10% lợi nhuận trƣớc thuế để đầu tƣ cho khoa học công nghệ.
Tuy nhiên, quy định này đƣợc nhiều ngƣời cho rằng không hiệu quả, do
không có tính chất bắt buộc và không có chế tài đối với các doanh nghiệp vi
phạm. Hầu hết các doanh nghiệp không trích hoặc trích không đủ. Bên cạnh
đó, với những doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nếu có trích đến 10% lợi nhuận
trƣớc thuế thì khoản trích ấy cũng chỉ từ vài chục đến vài trăm triệu đồng,
không đủ để đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ của chính doanh nghiệp.
3.1.2. Cơ chế quản lý nhân lực khoa học công nghệ
Trong những năm qua, nhân lực khoa học công nghệ tiềm năng của
Việt Nam đã có sự phát triển rõ nét. Theo kết quả thống kê cho thấy, nhân lực
tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển tính theo đầu ngƣời năm 2011 là
134.780. Trong đó có tới 119.582 (88,72%) nhân lực thuộc khu vực của Nhà
nƣớc. Nhƣ vậy, phần lớn nhân lực khoa học và công nghệ hiện đang tập trung
làm việc ở khu vực nhà nƣớc, trong khu vực tƣ nhân và doanh nghiệp còn rất
thấp. Ngoài ra, cơ cấu tỷ lệ nhân lực của Việt Nam còn chƣa thực sự hợp lý
67
khi 105.230 (78,07%) là cán bộ nghiên cứu chỉ có 9.781 (7,26%) là cán bộ kỹ
thuật và 14.245 (10,57%) là cán bộ hỗ trợ.
Bảng 3.5: Nhân lực NC&PT theo thành phần kinh tế và chức năng
Chia theo chức năng làm việc Tổng
nhân lực Cán bộ Cán bộ Thành phần kinh tế Cán bộ nghiên nghiên kỹ Khác hỗ trợ cứu cứu thuật
Nhân lực NC&PT 134.780 105.230 9.781 14.245 5.525 Chia theo:
119.582 94.101 8.351 12.853 4.277 Nhà nƣớc
Ngoài nhà nƣớc 12.321 9.739 934 896 752
Có vốn đầu tƣ nƣớc 2.877 1.390 4 96 496 496 ngoài
Nguồn: Tổng hợp từ Điều tra NC&PT và Điều tra doanh nghiệp 2012
Một điểm đáng lƣu ý nữa là số cán bộ nghiên cứu có trình độ cao tập
trung khá đông ở các trƣờng đại học. Tuy nhiên, lực lƣợng này lại dành rất ít
thời gian cho hoạt động nghiên cứu, chƣa thực sự gắn giảng dạy, học tập với
nghiên cứu khoa học. Theo thống kê, hiện nay nƣớc ta có 70% tiến sĩ không
hoạt động nghiên cứu mà chỉ làm các chức vụ hành chính, quản lý. Chính vì
vậy, mặc dù nguồn nhân lực khoa học công nghệ của nƣớc ta tăng về số lƣợng
nhƣng chất lƣợng cán bộ nói chung còn thấp; năng suất khoa học chƣa cao;
tác động thấp đối với cộng đồng nghiên cứu quốc tế.
Nhà nƣớc vẫn còn thiếu quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học
trình độ cao thuộc các lĩnh vực khoa học và công nghệ ƣu tiên, tiên tiến. Số
lƣợng các nhà khoa học đầu ngành, có trình độ chuyên môn cao và hiện đang
68
tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học mang tính chuyên nghiệp là rất ít
và ngày càng suy giảm. Trong khi đó, các cán bộ khoa học trẻ lại không đƣợc
tạo động lực để phấn đấu theo đuổi và gắn bó với sự nghiệp khoa học lâu dài.
Số lƣợng cán bộ khoa học công nghệ đông, số tổ chức khoa học công nghệ
nhiều, nhƣng không có các tập thể khoa học mạnh, các tổ chức khoa học công
nghệ đạt trình độ quốc tế.
Bên cạnh đó, để khắc phục tình trạng chảy máu chất xám trong khoa
học công nghệ thì các chính sách thu hút, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài, trí
thức khoa học công nghệ đã đƣợc đề cập trong nhiều văn kiện của Đảng và
Nhà nƣớc. Nhƣng trên thực tế chúng ta mới chỉ áp dụng một số hình thức tôn
vinh, khen thƣởng còn hầu nhƣ chƣa có đƣợc chính sách đầy đủ, cụ thể để
thực sự trọng dụng, sử dụng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học
công nghệ. Ngoài ra, việc chậm chuyển đổi từ chế độ công chức sang chế độ
viên chức và hợp đồng, chƣa tạo điều kiện thuận lợi cho việc lƣu chuyển và
đổi mới cán bộ. Điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ và trang thiết bị nghiên
cứu của nhiều tổ chức khoa học và công nghệ chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu cho
hoạt động nghiên cứu ở trình độ quốc tế. Hầu hết các tổ chức khoa học và
công nghệ là các đơn vị sự nghiệp, nhƣng lại đang đƣợc áp dụng cơ chế quản
lý nhƣ đối với cơ quan quản lý hành chính với chế độ tiền lƣơng còn nhiều
bất hợp lý (nhà khoa học nhận tiền lƣơng thấp theo ngạch bậc nhƣ đối với các
cơ quan hành chính, không tính đến năng lực nghiên cứu, hiệu quả công việc;
không có bất cứ loại phụ cấp nào đối với loại hình lao động chất xám này).
Chính hạn chế này đã làm triệt tiêu động lực sáng tạo của các nhà khoa học,
không khuyến khích họ toàn tâm gắn bó với sự nghiệp khoa học của đất nƣớc.
69
3.1.3. Cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và
công nghệ
Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ đã từng bƣớc đƣợc
đổi mới theo hƣớng xã hội hoá và gắn kết với sản xuất, kinh doanh; tuy nhiên
vẫn chƣa phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và cơ chế kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Những bất cập trong cơ chế quản lý hoạt
động khoa học công nghệ của nƣớc ta thể hiện ngay từ khâu đầu xác định
nhiệm vụ khoa học và công nghệ đến khâu tuyển chọn, giao nhiệm vụ. Nhiệm
vụ khoa học và công nghệ chƣa bám sát yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
nhiều yêu cầu thiết yếu của quốc gia, ngành và địa phƣơng; chƣa hƣớng đến
sản phẩm cuối cùng có thể thƣơng mại hóa, ứng dụng. Tiêu chuẩn lựa chọn và
việc lựa chọn chuyên gia tham gia các hội đồng tƣ vấn để xác định, tuyển
chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ còn bất cập.
Công tác đánh giá kết quả nghiên cứu chƣa tƣơng hợp với chuẩn mực quốc tế.
Trong quản lý hoạt động khoa học công nghệ, còn thiếu các hƣớng ƣu
tiên phù hợp, các chính sách, giải pháp mạnh mẽ để tạo đột phá trong những
lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế. Vì vậy, chƣa hình thành đƣợc các lĩnh vực
khoa học công nghệ mũi nhọn, đạt trình độ tiên tiến, có khả năng cạnh tranh
bình đẳng với khu vực và thế giới. Định mức chi và thủ tục thanh quyết toán
nhiệm vụ khoa học công nghệ trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Thiếu cơ sở
dữ liệu thống kê quốc gia tin cậy, đồng bộ về khoa học công nghệ và đổi mới
sáng tạo. Chậm hình thành hệ thống đánh giá độc lập và bộ chỉ số đánh giá
hoạt động khoa học công nghệ. Mối liên kết giữa nghiên cứu và đào tạo, giữa
nghiên cứu với thị trƣờng, giữa nhà khoa học với doanh nghiệp còn yếu.
70
Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện việc chuyển đổi hoạt động của
các tổ chức khoa học công nghệ công lập theo cơ chế tự chủ. Theo số liệu
tổng hợp từ báo cáo của các Bộ, ngành, địa phƣơng đến 31/12/2014, trong
tổng số 642 tổ chức khoa học công nghệ công lập (gồm 473 tổ chức thuộc
các Bộ, ngành và 169 tổ chức thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ƣơng), có:
- 488 tổ chức đã đƣợc phê duyệt Đề án thực hiện cơ chế tự chủ (đạt
76%), trong đó có 380 tổ chức thuộc các Bộ, ngành và 108 tổ chức thuộc các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng.
- 154 tổ chức đang xây dựng hoặc đang trình cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt Đề án thực hiện cơ chế tự chủ, trong đó có 93 tổ chức thuộc các Bộ,
ngành và 61 tổ chức thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng.
Nhƣ vậy, đến nay nƣớc ta vẫn còn 154 tổ chức chƣa đƣợc phê duyệt
đề án thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, mặc dù Nghị định 115 sửa
đổi quy định hạn cuối cùng các tổ chức phải đƣợc phê duyệt đề án là ngày
31/12/2013.
Giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi hoạt động của các tổ chức
khoa học công nghệ công lập kéo dài đến 10 năm mà vẫn chƣa xong, chƣa
thực sự hiệu quả do nhiều nguyên nhân. Trong đó, vƣớng mắc lớn nhất chính
là nhận thức và ý chí hành động từ ngƣời đứng đầu các tổ chức khoa học công
nghệ đến lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phƣơng chƣa đúng đắn, đầy đủ, thiếu
quyết liệt, nghiêm túc trong triển khai. Việc làm khoa học trong cơ chế bao
cấp quá lâu khiến cho khi bƣớc vào cơ chế thị trƣờng, nhiều ngƣời đứng đầu
các tổ chức khoa học công nghệ bỡ ngỡ, thậm chí lo sợ.
Rất nhiều ngƣời lầm tƣởng chuyển sang cơ chế tự chủ sẽ bị cắt nguồn
ngân sách, cắt giảm biên chế. Nhƣng thực tế, chuyển sang cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm thì ngân sách nhà nƣớc sẽ đƣợc giao theo cơ chế đặt hàng
71
các nhiệm vụ, đề tài dự án, sản phẩm thay vì giao theo biên chế. Cùng với
vƣớng mắc từ nhận thức, thì việc xây dựng chính sách, ban hành các văn bản
hƣớng dẫn còn chậm. Nghị định ban hành từ năm 2005 nhƣng mãi đến năm
2014 mới có Thông tƣ hƣớng dẫn xây dựng, quản lý, sử dụng và quyết toán
kinh phí thực hiện thƣờng xuyên của tổ chức khoa học công nghệ, trong khi
đó đây lại là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến tính tự chủ của các đơn vị.
3.2. Những ý kiến gợi mở góp phần đổi mới cơ chế, chính sách
quản lý phát triển khoa học công nghệ ở Việt Nam
3.2.1.Cơ chế tài chính cho khoa học công nghệ
3.2.1.1. Đa dạng hóa nguồn đầu tư cho khoa học công nghệ, thu hút
đầu tư từ doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và toàn xã hội
Để phát triển khoa học và công nghệ, cần có sự nỗ lực không chỉ của
đội ngũ các nhà khoa học mà còn là sự quan tâm của toàn xã hội và đặc biệt là
các doanh nghiệp. Chỉ khi nào các doanh nghiệp thực sự coi khoa học công
nghệ là một phần không thể thiếu của sức sáng tạo, năng lực cạnh tranh là sự
sống còn của doanh nghiệp, nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ là
nhu cầu nội tại của doanh nghiệp, thì khoa học công nghệ mới có thể trở
thành động lực thực sự của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện đầu tƣ của nhà nƣớc còn hạn hẹp nhƣ hiện nay, nhà
nƣớc cần đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động khoa học công nghệ: Xây dựng và
thực thi cơ chế, chính sách huy động đƣợc nhiều nguồn lực tham gia vào hoạt
động khoa học công nghệ. Cần xây dựng cơ chế hữu hiệu để huy động các
nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tƣ cho hoạt động khoa học công nghệ, sửa đổi
Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp theo hƣớng tăng thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp để đảm bảo trích tối thiểu 10% lợi nhuận trƣớc thuế cho Quỹ phát triển
khoa học công nghệ của chính doanh nghiệp hoặc đóng góp cho Quỹ phát triển
72
khoa học công nghệ của địa phƣơng và hƣớng dẫn sử dụng tốt, hiệu quả Quỹ
phát triển khoa học công nghệ doanh nghiệp. Bổ sung quy định cụ thể về bắt
buộc trích lập và sử dụng Quỹ phát triển khoa học công nghệ trong các Trƣờng
đại học, cơ sở đào tạo và các tổ chức khoa học công nghệ.
Nhà nƣớc cần phải nhanh chóng tái cấu trúc lĩnh vực đầu tƣ công theo
hƣớng tăng cƣờng đầu tƣ cho khoa học công nghệ, giáo dục, y tế trên cơ sở
giảm đầu tƣ vào các lĩnh vực khác kém hiệu quả và có thể thu hút đƣợc đầu tƣ
của các doanh nghiệp thông qua các hợp đồng cùng góp vốn. Bên cạnh đó,
nhà nƣớc cũng cần có các chính sách hỗ trợ tài chính, ƣu đãi thuế và tín dụng
cũng nhƣ các điều kiện để doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, đổi
mới công nghệ, huy động doanh nghiệp trích lợi nhuận dành cho KH&PT
khoa học công nghệ. Giải pháp này không những giúp tăng cƣờng năng lực
tài chính về khoa học công nghệ của các doanh nghiệp, mà còn đồng thời
chia sẻ rủi ro với các doanh nghiệp trong việc thực hiện các dự án, đề án
nghiên cứu.
Để tăng cƣờng huy động các nguồn lực tài chính cho khoa học công
nghệ, Nhà nƣớc cũng cần có những ƣu đãi nhằm khuyến khích các hình thức
đầu tƣ mạo hiểm trong lĩnh vực khoa học công nghệ, trong đó có việc đa dạng
hóa về sở hữu đối với các tổ chức khoa học công nghệ, ƣu tiên việc thành lập
các công ty cổ phần có liên doanh, liên kết với nƣớc ngoài. Tăng cƣờng khai
thác các nguồn vốn từ hợp tác quốc tế cho phát triển khoa học công nghệ. Có
chính sách để thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam trong các hoạt động
khoa học công nghệ
3.2.1.2. Đầu tư có trọng điểm, tránh trùng lặp, lãng phí
Xu hƣớng rải đều ngân sách cho khoa học công nghệ nhƣ hiện nay của
nƣớc ta là không phù hợp. Cần phải tập trung nguồn lực vào nơi làm việc hiệu
quả, không phân biệt các đơn vị thuộc nhà nƣớc hay bên ngoài. Ƣu tiên các đề
73
tài có tính ứng dụng cao, giảm đầu tƣ cắt khúc. Bởi vì, bấy lâu nay các nhà
quản lý, nhà khoa học vẫn quan niệm lƣợng hơn chất nên nhiều năm qua, hầu
nhƣ chỉ chú trọng quản lý đầu vào, buông lỏng đầu ra. Kết quả là sản phẩm
các chƣơng trình đầu tƣ trọng điểm cấp nhà nƣớc không theo chuỗi thống
nhất, ở dạng dàn trải, tức là ai có nhu cầu thì Nhà nƣớc hỗ trợ nhƣng không
ghép lại với nhau để tạo thành sản phẩm chủ lực hay chuỗi giá trị.
Ban hành cơ chế, chính sách để khắc phục cơ bản tình trạng phân tán
nguồn vốn ngân sách nhà nƣớc về đầu tƣ phát triển khoa học công nghệ; đổi
mới cơ cấu và phƣơng thức phân bổ, điều tiết, sử dụng ngân sách nhà nƣớc
dành cho khoa học công nghệ. Cần quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của
Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ trong công
tác xây dựng dự toán, phân bổ, điều tiết, sử dụng ngân sách nhà nƣớc hàng
năm chi cho khoa học công nghệ (bao gồm cả kinh phí đầu tƣ phát triển
và kinh phí sự nghiệp khoa học công nghệ) trên cơ sở gắn với trách
nhiệm về hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ, phát triển tiềm lực
khoa học công nghệ.
Tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ việc cấp và quản lý kinh phí theo cơ chế
quỹ phát triển khoa học công nghệ, đấu thầu, đặt hàng và khoán chi thực chất
đến sản phẩm cuối cùng; bảo đảm chi đúng mục đích và hiệu quả. Quan trọng
là nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ trong quản lý tài chính, tăng
cƣờng kiểm tra, giám sát đối với kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ, tiến
tới xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn thành và chất lƣợng thực
hiện nhiệm vụ đƣợc giao của các đơn vị khoa học công nghệ gắn với việc sử
dụng kinh phí ngân sách. Việc hoàn thiện chế độ thông tin báo cáo, công tác
tài chính kế toán và trách nhiệm giải trình về kết quả nghiên cứu khoa học
cũng là mục tiêu quan trọng cần đƣợc đặt ra.
74
3.2.2. Cơ chế quản lý nhân lực khoa học công nghệ
Trong giai đoạn kinh tế thị trƣờng hiện nay, mặc dù các Nghị quyết
của Đảng, các văn bản pháp luật luôn quan tâm và đề cao vai trò của nhân tài
khoa học, nhƣng trên thực tế chúng ta hầu nhƣ chƣa có chính sách cụ thể nào
để thực sự trọng dụng, sử dụng và tôn vinh cán bộ khoa học. Đã đến lúc phải
thay đổi tƣ duy về chính sách đãi ngộ và trọng dụng cán bộ khoa học công
nghệ, đây là một vấn đề cấp bách cần đƣợc giải quyết kịp thời.
3.2.2.1. Xây dựng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học
công nghệ
Quy hoạch phát triển nhân lực khoa học công nghệ phải gắn kết chặt
chẽ với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đáp ứng nhu cầu phát triển của
đất nƣớc trong hiện tại và cả tƣơng lai.
Cần xây dựng quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao
thuộc các lĩnh vực khoa học và công nghệ ƣu tiên, lĩnh vực then chốt, mũi
nhọn. Bên cạnh đó, cần hình thành một mạng lƣới tổ chức khoa học công
nghệ trong các ngành. Xây dựng Quy hoạch phát triển nhân lực khoa học
công nghệ trong từng mốc thời gian cụ thể để có kế hoạch triển khai đào tạo.
Thiết lập mối quan hệ ổn định giữa doanh nghiệp - nhà khoa học, bao gồm
mạng lƣới chuyên gia, để tìm đầu ra cho các sản phẩm khoa học công
nghệ. Huy động các nguồn lực khoa học công nghệ thực hiện các sản
phẩm quốc gia.
Cần thiết phải có các giải pháp tăng cƣờng chính sách xã hội hóa hoạt
động nghiên cứu và phát triển để tăng tỷ lệ nhân lực nghiên cứu ở khu vực
ngoài nhà nƣớc.
3.2.2.2. Tiếp tục đẩy mạnh và hoàn thiện các chính sách đãi ngộ,
trọng dụng cán bộ khoa học công nghệ
Nhận thức rõ tầm quan trọng của khoa học công nghệ và xuất phát từ
tình hình thực tế, Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng đã ban hành Nghị quyết
số 20 ngày 1/11/2012 về phát triển khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp
75
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc trong điều kiện kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết có những nội dung
quan trọng liên quan đến phát triển đội ngũ trí thức:
Thứ nhất, cần “xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dƣỡng,
trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ; tạo môi
trƣờng thuận lợi, điều kiện vật chất để đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ
phát triển bằng tài năng và hƣởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng
tạo của mình”.
Thứ hai, “có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ khoa học
công nghệ đầu ngành, cán bộ khoa học công nghệ đƣợc giao nhiệm vụ chủ trì
các nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, cán bộ khoa học công nghệ trẻ tài
năng” (mức lƣơng, nhà ở, bổ nhiệm, giao quyền hạn, chế độ tự chủ tài
chính…).
Thứ ba, phải “đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí, đánh giá và bổ
nhiệm cán bộ khoa học công nghệ. Có chính sách tiếp tục sử dụng cán bộ
khoa học công nghệ trình độ cao đã hết tuổi lao động”. “Cải tiến hệ thống giải
thƣởng khoa học công nghệ quốc gia, danh hiệu vinh dự nhà nƣớc cho cán bộ
khoa học công nghệ”.
Tuy nhiên, việc xây dựng và triển khai các chính sách cụ thể về đãi
ngộ, trọng dụng nhân lực khoa học công nghệ theo các nội dung mà Nghị
quyết đã nêu ở trên còn rất chậm. Trong đó, chính sách tiền lƣơng của giới
viên chức khoa học đang chịu thiệt thòi là đối tƣợng làm công ăn lƣơng duy
nhất không đƣợc hƣởng các chế độ phụ cấp đặc thù (phụ cấp nghề, phụ cấp
thâm niên…) giống nhƣ viên chức của ngành giáo dục, y tế hay các lĩnh vực
khác. Nhƣng tiền lƣơng chỉ là một trong những vấn đề, điều mà các nhà khoa
học quan tâm nhiều hơn là điều kiện, môi trƣờng làm việc. Cụ thể là các nhà
khoa học cần đƣợc tin tƣởng trọng dụng và có môi trƣờng học thuật tự do,
76
độc lập, chuyên nghiệp, các ý kiến của họ cần đƣợc các nhà quản lý tôn trọng
lắng nghe, kể cả những ý kiến trái ngƣợc. Đặc biệt, nhà nƣớc cần tôn vinh
những ngƣời có đóng góp lớn cho khoa học và xã hội vì điều đó với họ nhiều
khi còn quan trọng hơn cả tiền bạc. Các nhà khoa học hàng đầu phải đƣợc
giao nguồn kinh phí đầy đủ cần thiết để họ có thể tập hợp quanh mình một đội
ngũ nghiên cứu mạnh, đồng thời đào tạo và gây dựng phát triển đội ngũ
kế cận là thế hệ các nhà nghiên cứu trẻ, do đa số các nhà nghiên cứu trẻ
hiện nay còn thiếu kinh nghiệm, chƣa thể tự mình đăng ký tài trợ cho các
đề tài khoa học.
Hiện nay, do chúng ta còn thiếu một cơ chế hỗ trợ các cán bộ trẻ, tạo
điều kiện để họ chín muồi trƣớc khi trở thành nhà khoa học, những ngƣời sau
khi có bằng tiến sĩ vẫn cần thêm khoảng 6 năm để tự hoàn thiện – nên nhiều
ngƣời giỏi không muốn hoặc không thể tiếp tục theo đuổi nghiên cứu khoa
học, hậu quả là năng lực, trình độ của thế hệ trẻ ngày nay đang thua kém các
thế hệ cũ. Để thay đổi thực trạng này, nhà nƣớc cần có chính sách hỗ trợ cho
những ngƣời trẻ tuổi trên diện rộng, không chỉ giới hạn ở những ngƣời xuất
sắc. Trƣớc hết phải có các quỹ học bổng cho ngƣời làm nghiên cứu sinh và
sau tiến sĩ (giới hạn thời gian 3 năm đối với sau tiến sĩ). Tiêu chí về trọng
dụng nhà khoa học trẻ tuổi không thể quá khắt khe, ví dụ với các tiêu chí mà
Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng (nhƣ có công trình công bố quốc
tế xuất sắc khi dƣới 35 tuổi) thì ngành toán hầu nhƣ không có ngƣời đáp ứng.
Cần có chính sách thu hút chuyên gia giỏi là ngƣời Việt Nam ở nƣớc
ngoài và chuyên gia nƣớc ngoài tới Việt Nam tham gia công tác đào tạo cán
bộ nghiên cứu, giảng dạy, tƣ vấn, giữ các chức vụ quản lý nghiên cứu khoa
học và công nghệ
3.2.2.3 Phát huy năng lực của cán bộ nghiên cứu trong các trường
đại học
77
Do các trƣờng đại học không có biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp
và không có nguồn kinh phí thƣờng xuyên để chăm lo cho đội ngũ nghiên cứu
này nên hoạt động của cán bộ khoa học công nghệ trong khu vực này chƣa đạt
hiệu quả cao. Một trong những biện pháp để khắc phục tình trạng này, các
trƣờng đại học cần có một đội ngũ nghiên cứu chuyên nghiệp và cần dành
một phần kinh phí sự nghiệp khoa học để hỗ trợ chi thƣờng xuyên và giao đề
tài nghiên cứu cho số cán bộ này. Bên cạnh đó đội ngũ nghiên cứu này vẫn có
quyền tham gia vào công tác đào tạo của các trƣờng đại học, nhƣng chỉ hạn
chế trong việc giảng dạy các chuyên đề cho sinh viên năm cuối hoặc chuyên
đề cho học viên cao học hay nghiên cứu sinh.
3.2.3. Cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ
Để cơ chế quản lý và hoạt động của tổ chức khoa học công nghệ đƣợc
thực hiện khoa học, hiệu quả, năng lực của đội ngũ lãnh đạo các tổ chức khoa
học công nghệ cần phải nâng cao. Chúng ta cần có các buổi hƣớng dẫn, tập
huấn để các cán bộ nhận thức đầy đủ và đúng đắn các văn bản pháp luật, nghị
định về khoa học công nghệ để có thể triển khai thực hiện theo đúng quy
định. Đặc biệt là các cán bộ ở khu vực miền núi, địa phƣơng.
Đổi mới cơ bản việc xây dựng và quản lý các nhiệm vụ khoa học công
nghệ theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế, đặc biệt đối với các nhiệm vụ chiến
lƣợc, trọng tâm, mũi nhọn mang tính đột phá, nhảy vọt. Việc đề xuất nhiệm
vụ khoa học công nghệ nên đƣợc tiến hành thƣờng xuyên không theo mùa kế
hoạch hoặc mùa vụ hành chính.
Thực hiện tốt thống kê khoa học công nghệ. Đánh giá hoạt động
khoa học công nghệ cần có phản biện độc lập về kết quả kèm theo nội
dung chính đƣợc đăng tải trên tạp chí chuyên ngành, các công nghệ thông
tin thuộc khoa học công nghệ để dần hình thành nên hệ thống cơ sở dữ
liệu về khoa học công nghệ.
78
Thực hiện triệt để cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa
học và công nghệ công lập về nhân lực, kinh phí hoạt động dựa trên kết quả
và hiệu quả hoạt động theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP. Tăng cƣờng liên kết
giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp trong việc thực hiện
nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực. Thí
điểm thực hiện cơ chế hợp tác công - tƣ, đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ.
79
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Cũng nhƣ Trung Quốc và nhiều quốc gia khác, Việt Nam cũng nhận
thức rõ hơn vai trò của khoa học công nghệ với sự phát triển của đất nƣớc
trong thời đại ngày nay. Đề án “Đổi mới cơ chế quản lý khoa học công nghệ
cùng với Luật khoa học công nghệ đổi mới năm 2013” sau hơn 10 năm triển
khai thực hiện đã có nhiều đóng góp lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa nói chung và sự phát triển khoa học công nghệ nói riêng. Mặc dù,
chúng ta đang có những bƣớc đổi mới đáng kể trong cơ chế, chính sách quản
lý khoa học công nghệ nhƣng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế bất cập cần đƣợc
giải quyết, khắc phục. Từ thực trạng cơ chế, chính sách quản lý khoa học
công nghệ của Việt Nam và những phân tích, đánh giá về một số hạn chế còn
tồn tại của quá trình cải cách thể chế khoa học kỹ thuật Trung Quốc tại
Chƣơng 2, luận văn đƣa ra một số ý kiến gợi mở nhằm góp phần đổi mới cơ
chế, chính sách quản lý khoa học công nghệ nhà nƣớc.
80
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế phát triển và đi sâu nhƣ hiện nay,
khoa học kỹ thuật ngày càng đóng vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế xã
hội, là thƣớc đo đánh giá vị thế của một đất nƣớc trên trƣờng quốc tế. Khoa
học và công nghệ chính là động lực và nền tảng đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nƣớc. Thực tiễn đã chứng minh, nơi nào đầu tƣ và khai thác
đúng mức việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ sản
xuất và đời sống thì nơi đó nền kinh tế phát triển nhanh, đời sống ngƣời dân
đƣợc cải thiện. Chính vì vậy, muốn đất nƣớc phát triển thì việc đẩy mạnh sự
phát triển của khoa học kỹ thuật là đòi hỏi tất yếu của mỗi quốc gia. Trong đó,
để có thể phát triển khoa học kỹ thuật, điều quan trọng nhất là phải xây dựng
một thể chế khoa học kỹ thuật tƣơng thích với sự vận động và phát triển của
đất nƣớc cũng nhƣ xu thế phát triển toàn cầu.
Trong quá trình hoàn thiện đề tài “Cải cách thể chế khoa học kỹ thuật
ở Trung Quốc và gợi mở cho Việt Nam”, luận văn đã đƣa ra cái nhìn khái quát
về bối cảnh ra đời, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cải cách thể chế khoa học kỹ
thuật ở Trung Quốc. Cải cách thể chế khoa học kỹ thuật của Trung Quốc là
kết quả tất yếu của sự phát triển và sửa đổi mạnh mẽ về kinh tế - xã hội nói
riêng và tình hình thế giới nói chung, đặc biệt là lĩnh vực khoa học kỹ thuật.
Trên cơ sở xác định đƣợc yêu cầu tất yếu đó, Trung Quốc đã định hƣớng và
hoạch định rõ những nhiệm vụ cần phải thực hiện trong công cuộc cải cách
thể chế khoa học kỹ thuật. Những nhiệm vụ đó đƣợc cụ thể hóa thông qua
những chiến lƣợc, chính sách tƣơng đối hiệu quả. Nó thể hiện sự nhạy bén và
tầm nhìn chiến lƣợc của Đảng và Nhà nƣớc Trung Quốc trƣớc nhiều thách
thức hội nhập quốc tế. Cải cách thể chế khoa học kỹ thuật là con đƣờng giúp
81
Trung Quốc khắc phục nhanh chóng chuyển đổi phƣơng thức phát triển và hội
nhập quốc tế, từ đó góp phần rút ngắn khoảng cách khoa học kỹ thuật trong
nƣớc với trình độ tiên tiến trên thế giới, đặc biệt là các nƣớc phƣơng Tây. Từ
đó đƣa khoa học kỹ thuật trở thành động lực quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Con đƣờng này hoàn toàn phù hợp với tình hình cụ thể ở
Trung Quốc lúc bấy giờ.
Luận văn tập trung trình bày những thành tựu mà cải cách thể chế
khoa học kỹ thuật đã đạt đƣợc. Sau hơn 30 năm cải cách, thể chế khoa học kỹ
thuật của Trung Quốc đã có những thay đổi theo hƣớng dần hoàn thiện, khắc
phục những hạn chế của thể chế khoa học kỹ thuật đƣợc xây dựng theo mô
hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp trƣớc đó. Bên cạnh đó, luận văn cũng
nêu lên và phân tích những mặt hạn chế, tồn tại cần phải khắc phục. Những
thành tựu và thách thức này là kết quả mà việc cải cách đạt đƣợc, nhƣng nó
cũng đòi hỏi Chính phủ Trung Quốc phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc tự
điều chỉnh, định ra các chính sách phù hợp giảm bớt những hạn chế trong thể
chế khoa học kỹ thuật.
Bên cạnh đó, luận văn cũng so sánh liên hệ với thực trạng đổi mới cơ
chế, chính sách quản lý khoa học công nghệ ở Việt Nam. Từ những thành tựu
thách thức của Trung Quốc và thực tế cơ chế chính sách quản lý khoa học
công nghệ của nƣớc ta, tác giả luận văn mạnh dạn đề xuất một số ý kiến có
tính gợi mở với hy vọng công cuộc đổi mới cơ chế chính sách quản lý khoa
học công nghệ mà chúng ta đang tiến hành sẽ gặt hái nhiều thành công, đóng
góp quan trọng cho sự nghiệp đổi mới, trƣớc mắt là tái cấu trúc nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trƣởng ở Việt Nam hiện nay.
82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.Tài liệu tiếng Việt
1. Đinh Văn Ân và Vũ Xuân Nguyệt Hồng (2004), Phát triển thị
trường khoa học và công nghệ ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
2. Nguyễn Kim Bảo (2002), Thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa có đặc sắc Trung Quốc, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Khoa học và Công nghệ Việt
Nam năm 2013, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Căn (2006), Quá trình cải cách giáo dục ở CHND
Trung Hoa thời kỳ 1978-2003, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Khoa học
xã hội Việt Nam, Hà Nội.
5. Phạm Văn Dũng (2010), Phát triển thị trường khoa học - công
nghệ Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Phan Xuân Dũng (2010), Một số vấn đề về khoa học công nghệ
ngành cơ khí chế tạo Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Vũ Cao Đàm (1998), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học,
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Điền (1997), Tình hình phát triển khoa học kỹ thuật nông
nghiệp ở Trung Quốc trong thời kỳ cải cách, Nghiên cứu Trung Quốc, số 6, tr.
3-6.
10. Nguyễn Thị Hƣờng (2007), Phát triển thị trường khoa học và
công nghệ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản
Lý luận chính trị, Hà Nội.
83
11. Trình Ân Phú (2010), Đặc trƣng và nội hàm của thể chế kinh tế
theo mô hình Trung Quốc, Nghiên cứu Trung Quốc, số 3, tr. 3-13.
12. Nguyễn Thị Thu Phƣơng (2011), Kinh nghiệm xây dựng lộ trình
phát triển nhân tài của Trung Quốc – Một số gợi mở với Việt Nam, Nghiên
cứu Trung Quốc, số 12, tr. 22-31.
13. Nguyễn Thu Phƣơng (2012), Chiến lược nhân tài của Trung
Quốc từ năm 1978 đến nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Phạm Thái Quốc (2014), Vấn đề phát triển kinh tế xanh của
Trung Quốc, Nghiên cứu Trung Quốc, số 1, tr. 7-16.
15. Danh Sơn (2003), Thị trƣờng khoa học và công nghệ ở Việt Nam,
Nghiên cứu kinh tế, số 10, tr. 50-57.
16. Nguyễn Chiến Thắng (2013), Phát triển khoa học công nghệ Việt
Nam hướng tới 2020, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, Tư duy mới về chiến lược
khoa học kỹ thuật tiên tiến của Hồ Cẩm Đào( số 168/2005), tr. 1-5.
18. Chu Văn Tuấn (2012), Một số kinh nghiệm thành công và hạn
chế trong quá trình cải cách mở cửa của Trung Quốc, Nghiên cứu Trung
Quốc, số 6, tr. 3-12.
19. Hà Hồng Vân (2010), Cải cách tài chính của Trung Quốc trong
10 năm đầu thế kỷ XXI, Nghiên cứu Trung Quốc, số 11, tr. 3-10.
84
B. Tài liệu tiếng nƣớc ngoài:
12. Alberto Gabriele. 2001. “Science anh technology policies,
industrial reform and technical progress in China.” United Nation
Conference on Trade and Development.
13. Weitzman, Martin L., and Chenggang Xu. 1994. “Chinese
Township–Village Enterprises as Vaguely Defined Cooperatives.” Journal of
Comparative Eco-nomics, 18(2): 121–45.
14. 巢宏〃方现现〃现现 (2013)〃我国科技体制改革论程及政
策演论研究。中国集体现现〃第 24 期.
15. 方新 (2012)〃中国科技体制改革-三十年的论与不论。科
学学研究〃第 10 期.
16. 方新(1999)〃中国科技体制改革的回论与前瞻。科研管
理〃第 3 期.
17. 方新 (2003)〃关于深化科技体制改革的思考。中国科学院
院刊, 第 2 期.
18. 方新〃柳卸林 (2004)〃我国科技体制改革的回论及展望。
求是〃第 5 期.
19. 封现 (2006)〃中国科技体制的论史回论与当前面论的两个
核心论论。科技现现月刊, 第 1 期.
85
20. 高洪方(2007)〃中国科技管理体制论新研究。现士现文.
21. 高抒(2014)〃我国近期科技体制改革的六点建论。中国科
技现现〃第 3 期.
22. 古现仁 (2003)〃论论型论期科技体制的论迁及其论论论论
展的促论。现士现文.
23. 黄涛 (2010)〃中国科技体制改革面论六大突出论论。科技
现现〃第 28 期.
24. 寇宗来 (2008)〃中国科技体制改革三十年。世界现现文现
, 第 1 期.
25. 李涛〃现现峰 (2006)〃从 DARPA 看中国科技体制改革的
思路。呼和浩特科技, 第 2 期.
26. 李振京〃现林山(2010), “十二五”论期科技体制改革与国家
论新体系建论。 宏现现现管理, 第 6 期.
27. 刘霞 (2011)〃中国科技体制论迁的政治文化论因研究。现
现与管理科学现〃第 1 期.
86
28. 现斌 (2010)〃新中国科技体制的建立和初步论展(1949-
1966)。博士现文.
29. 现毅 (2012), 论论中国科技体制改革。民主与科学〃第 5
期.
30. 宋春悦 (2013)〃科技体制改革走向论深。中国科技现励〃第
11 期.
31. 宋海现 (2008)〃中国科技体制改革三十年回论与展望。
中国现州市委党校学现〃第 4 期.
32. 现从现(2005)〃中国近论代科技体制化的论程研究。现士
现文.
33. 唐现 (2013), 科技论新推论论论论展方式论论的理论研究
述论。 湖北现现学院学现〃第 1 期.
34. 王天现(2014)〃中国科技体制改革、科技论源配置与论新
效率。现现现现〃第 2 期.
35. 王玉民〃周文磊〃现作权 (1997)〃科技体制改革要论。中
国科学院院〃第 1 期.
87
36. 王志新(2013)〃科技体制改革与论展模式论型。民主与科
学〃第 6 期.
37. 现德才〃余现良(2005)〃论析论小平论我国科技体制改革
的几大论略思考-论念中国科技体制改革二十年。社会科学家〃第 5 期.
38. 现景安 (1995)〃科技体制改革的成就、论论、前瞻。中国
科技现现月刊〃第 7 期.
39. 现敏容 (2007)〃中国科技体制改革的路径论论。北京理工
大学学现(社会科学版), 第 6 期.
40. 朱现现 (1995)〃科技兴国:中国迈向 21 世论的重大论略
决策。中共中央党校出版社〃北京.
41. 朱效民 (2012)〃科技体制改革的“体”与“用”-兼论科技体
制改革的一点思路。自然现现法研究〃第 7 期.
C. Các tài liệu khác
Các trang Website trong và ngoài nƣớc
88
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Một số văn bản pháp quy về khoa học công nghệ của
Trung Quốc trong những năm qua
STT Tên văn bản
Thời gian công bố
1
1996
关于国民现现和社会现展“九五”现划和2010年现景
目现现要的现告
2
2006
国家中现期科学和技现现展现划现要 (2006━2020 年)
3
2010
国家中现期人才现展现划现要(2010-2020 年)
4
国家中现期教育改革和现展现划现要(2010-2020 年) 2010
5
2010
国家中现期科技现展现划现要(2006-2020)
6
2011
国民现现和社会现展第十二个五年现划现要(全文)
7
2014
国家科技现划年度现告 2014
8
关于《中共中央关于制定国民现现和社会现展第十三个 2015
89
五年现划的建现》的现明
Phụ lục 2: Một số văn bản pháp luật về khoa học và công nghệ
được ban hành năm 2015
Ngày ban
Cơ quan
Số hiệu
Trích yếu nội dung
hành
ban hành
2590/QĐ-BKHCN
01/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc phê duyệt Danh
mục đặt hàng nhiệm vụ quỹ gen cấp
Quốc gia xét giao trực tiếp bắt đầu thực
hiện trong kế hoạch năm 2015
2584/QĐ-BKHCN
01/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc phê duyệt Danh
mục đặt hàng nhiệm vụ quỹ gen cấp
Quốc gia xét giao trực tiếp bắt đầu thực
hiện trong kế hoạch năm 2015
2655/QĐ-BKHCN
01/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc phê duyệt danh mục
đề tài KH&CN cấp quốc gia để đƣa ra
tuyển chọn thực hiện trong kế hoạch
năm 2015
2705/QĐ-BKHCN
05/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc phê duyệt danh mục
nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ để xét giao
trực tiếp thực hiện từ năm 2015
17/2015/TT-BKHCN
08/10/2015
Bộ KH&CN
Thông tƣ Quy định quản lý nhiệm vụ
khoa học và công nghệ cấp thiết địa
phƣơng sử dụng ngân sách nhà nƣớc
90
cấp quốc gia
2745/QĐ-BKHCN
09/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc phê duyệt danh mục
nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia đặt
hàng để tuyển chọn thực hiện trong kế
hoạch năm 2016
18/2015/TT-BKHCN
12/10/2015
Bộ KH&CN
Thông tƣ Quy định thi đua, khen thƣởng trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
2777/QĐ-BKHCN
12/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc phê duyệt danh mục
nhiệm vụ KH&CN cấp Bộ để xét giao
trực tiếp thực hiện từ năm 2016
2844/QĐ-BKHCN
15/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc phê duyệt Danh
mục đặt hàng nhiệm vụ quỹ gen cấp
quốc gia xét giao trực tiếp bắt đầu thực
hiện trong kế hoạch năm 2015
2843/QĐ-BKHCN
15/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về phê duyệt danh mục
nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp
quốc gia đặt hàng để tuyển chọn bắt
đầu thực hiện trong kế hoạch năm 2015
2914/QĐ-BKHCN
20/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc công bố Tiêu chuẩn
quốc gia
2916/QĐ-BKHCN
20/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc công bố Tiêu chuẩn
quốc gia
2944/QĐ-BKHCN
23/10/2015
Bộ KH&CN
Quyết định về việc công bố Tiêu chuẩn
quốc gia
91
Phụ lục 3: 10 sự kiện Khoa học Công nghệ nổi bật năm 2014
STT Sự kiện
Hàng loạt nghị định, thông tƣ đƣợc ban hành để đƣa nhanh Luật KH và 1
CN vào đời sống
Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5) 2
Tổ chức thành công Hội thảo khoa học quốc tế: “Khảo cổ học dƣới 3
nƣớc ở Việt Nam và Đông-Nam Á- hợp tác để phát triển”- mở hƣớng
phát triển lĩnh vực khảo cổ học dƣới nƣớc “Khảo cổ học dƣới nƣớc ở
Việt Nam và Đông-Nam Á- hợp tác để phát triển”
Sản xuất thép và vật liệu không nung từ bùn đỏ 4
Nghiên cứu thành công Vắc-xin Rotavin- M1 5
Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam nhận Giải thƣởng “Thành tựu 6
xuất sắc”
Ứng dụng công nghệ tế bào gốc trong điều trị ung thƣ tại Bệnh viện 7
Trung Ƣơng Huế
Hiệp định hợp tác Việt Nam và Hoa Kỳ về sử dụng hòa bình năng 8
lƣợng hạt nhân
GS Châu Văn Minh đƣợc bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học Bê- 9
la-rút năm 2014
10 Ba nhà khoa học Việt Nam đƣợc Thomson Reuters tôn vinh là những
nhà khoa học có ảnh hƣởng nhất thế giới năm 2014
92
Phụ lục 4: Chi cho NC&PT của một số nước/nền kinh tế theo
nguồn cấp và khu vực thực hiện năm 2011
Khu vực thực hiện (%) Nƣớc (năm có số liệu) Tổng chi (triệu USD ppp)
Doanh Trƣờng Phi chính Chính phủ nghiệp đại học phủ
9.761,91 68,09 26,10 5,34 0,48 Áo
24.258,05 51,28 38,11 10,13 0,48 Canađa
Đan Mạch 7.052, 44 67,57 29,85 2,16 0,43
7.634,75 70,46 19,99 8,85 0,71 Phần Lan
137.451,21 75,76 13,41 9,21 1,61 Nhật Bản
(2009)
Hàn Quốc 53.156,57 0,59 85,78 0,10 13,5
(2010)
Thụy Điển 13.216,23 69,29 26,05 4,33 0,32
39.627,15 61,47 26,86 9,28 2,39 Anh
415.193,00 68,35 15,20 12,15 4,30 Hoa Kỳ
Trung Quốc 148.936,24 73,23 8,07 18,71
(2009)
33.721,36 60,96 9,03 29,84 0,17 Nga
Việt Nam 616,33 26,01 14,4 58,3 1,3
Nguồn: CSDL thống kê của UNESCO
93
Phụ lục 5: Cán bộ nghiên cứu chia theo trình độ và khu vực
hoạt động (người)
Tổng số Chia theo trình độ chuyên môn Khu vực hoạt động Chia theo trình độ chuyên môn
Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng
105.230 11.501 34.618 55.116 3.995
Toàn bộ Các viện,
trung tâm 15.942 1.908 4.544 9.008 482
NC&PT
Trƣờng đại 52.997 8.027 24.337 19.810 823 học
Đơn vị sự 10.165 457 2.248 6.658 802 nghiệp
Cơ quan 9.941 369 2.170 7.091 311 hành chính
Doanh 14.990 508 1.115 11.873 1. 494 nghiệp
Phi lợi 1.195 232 204 676 83 nhuận
Nguồn: CSDL thống kê của UNESCO
94
Phụ lục 6: Tên lửa đạn đạo
Phụ lục 7: Tên lửa Đông Phong-21D của Trung Quốc có khả
năng mang vũ khí hạt nhân
95
Phụ lục 8: Ngày 24/4/1970, Trung Quốc phóng vệ tinh đầu tiên có
tên gọi Dong Fan Hong 1, dùng một tên lửa đạn đạo xuyên lục địa CSS-3
cải tạo lại.
96