BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Quốc Thanh CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC

Mã số: 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2006

Mục Lục

Trang

MỞ ĐẦU

1 1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1

2. Giới hạn của đề tài ................................................................................. 2

3. Lịch sử vấn đề......................................................................................... 4

4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................15

5. Những đóng góp của luận văn ...............................................................16

6. Kết cấu của luận văn ..............................................................................16

Chương 1. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân ...........17

1.1. Về khái niệm cảm hứng .......................................................................17

1.2. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân.......................... 20

1.2.1. Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo nên

cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân .................................................. 20

1.2.2. Về cảm hứng phê phán trong truyện ngắn của Kim Lân.......... 21

1.2.3. Cảm hứng yêu thương và trân trọng con người ...................... 28

1.2.4. Cảm hứng về những sinh hoạt văn hoá ở vùng thôn quê ......... 45

Chương 2. Phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân

62

2.1. Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự ............ 62

2.2. Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân 64

2.2.1. Kiểu người trần thuật lạnh lùng .............................................. 65

2.2.2. Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật ................................... 72

2.2.3. Phương thức trần thuật khách quan và những truyện ngắn mang

dấu ấn tự truyện của Kim Lân ..................................................................... 74

2.3. Phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn của Kim Lân 79

2.3.1. Kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện 80

2.3.2. Kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là

một nhân vật................................................................................................. 85

Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân ..........92

3.1. Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự........................................... 92

3.2. Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân ......... 93

3.2.1. Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian...................... 94

3.2.2. Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần

thuật, ở nhiều thời điểm khác nhau ...............................................................99

3.2.3. Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí ........................................105

3.2.4. Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian ................111

Kết luận .........................................................................................................116

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1921,

quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, tỉnh Bắc Ninh. Bởi rất mê tuồng nên

nhân vật tuồng Kim Lân đã trở thành bút danh của ông từ những năm bốn

mươi của thế kỉ trước. Kim Lân sinh ra ở mảnh đất “đời tạo văn nhân”,

“nhân tài nảy nở” nhưng lại không giống như nhiều nhân tài ở mảnh đất

này. Ông có một đời sống riêng thua thiệt: con một người vợ thứ ba trong

một gia đình bình thường, bị mọi người rẻ rúng... Do điều kiện khó khăn

nên Kim Lân chỉ học hết bậc tiểu học. Sau đó làm thợ sơn guốc, sơn bình

phong, thợ sơn tranh sơn mài... Kim Lân đến với văn học ban đầu là từ say

mê và ham thích. Ông bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của

Kim Lân đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ông

quan niệm viết văn như cách “đòi cho mình một thân phận, một nhân

phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống bé nhỏ quẩn quanh của quê hương”

[54, tr.15].

Kim Lân bắt đầu sự nghiệp bằng truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ

đăng trên báo Trung Bắc chủ nhật (1942). Đây là tác phẩm mang tính tự

truyện. Trong những năm 1941 đến năm 1944, Kim Lân viết khá đều.

Những truyện ngắn của ông đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung

Bắc chủ nhật, ông tập trung phản ánh khung cảnh làng quê với cuộc sống

và số phận của người nông dân. Những cuộc đời lam lũ, đói nghèo trực tiếp

bước vào tác phẩm của ông và những cuộc đời ấy đã toát lên ý nghĩa hiện

thực sâu sắc. Một số tác phẩm của ông như: Đuổi tà, Con Mã Mái, Ông

1. Lý do chọn đề tài

Cản Ngũ… đi vào đề tài độc đáo: tái hiện những sinh hoạt phong phú ở

vùng thôn quê. Qua những tác phẩm này, tác giả tập trung biểu hiện vẻ đẹp

1

tâm hồn của người dân quê - những con người cực nhọc nghèo khổ, nhưng

vẫn yêu đời, trong sáng và tài hoa.

Sau cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục viết về làng quê Việt Nam.

Trong những tác phẩm: Làng, Vợ nhặt, Bố con ông gác máy bay trên núi

Côi Kê, Người chú dượng... ông tiếp tục viết về những cảnh đời Tội

nghiệp, khốn khó và sự đổi đời của người nông dân nhờ cách mạng. Trong

những tác phẩm viết ở giai đoạn này, Kim Lân đi sâu vào thể hiện những

thay đổi tình cảm của người nông dân trong cách mạng, kháng chiến, sự

đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất và những hoạt động cách mạng

thầm lặng bình thường nhưng thật đáng quý của họ.

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Trong cả hai giai đoạn

sáng tác trước và sau cách mạng tháng tám, Kim Lân viết không nhiều

nhưng ở giai đoạn nào ông cũng có tác phẩm hay. Ông là cây bút viết

truyện ngắn vững vàng. “Thành công của Kim Lân chủ yếu do năng khiếu

bẩm sinh và vốn sống của người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Một lòng đi

về với “đất”, với “ thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn” [89,

tr.758].

Truyện ngắn Kim Lân hấp dẫn và được các nhà nghiên cứu quan tâm,

đề cập đến ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề cảm hứng chủ đạo

và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân cần được xem xét

ở bình diện rộng và mức độ bao quát hơn để hiểu rõ tài năng và đóng góp

của nhà văn.

2. Giới hạn của đề tài

2.1. Đối tượng khảo sát

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Tác phẩm đã xuất bản:

- Làng, truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ, 1948, nhà xuất bản Văn nghệ,

Hà Nội, 1955.

2

- Nên vợ nên chồng, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội,

1955.

- Ông lão hàng xóm (cùng Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng), nhà

xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1957.

- Anh chàng hiệp sĩ gỗ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1958 .

- Cô gái công trường, truyện phim, nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội,

1960.

- Vợ nhặt, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn học, Hà nội, 1984.

- Ông Cản Ngũ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1984.

- Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996.

- Kim Lâm - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, 2004.

Để phục vụ cho đề tài khoa học, đáng lẽ người viết phải khảo sát toàn

bộ truyện ngắn của Kim Lân nhưng do khó khăn trong việc sưu tập tư liệu,

hạn chế về thời gian nên người viết chỉ tập trung khảo sát 28 truyện ngắn từ

bốn nguồn tư liệu sau:

- Truyện Cô Vịa, báo Trung Bắc chủ nhật, số135, ngày 8-11-1942.

- Truyện Vợ chồng anh đội trưởng, báo Văn nghệ, số13, 1965.

- Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996.

- Kim Lân - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội,

2004.

Bên cạnh việc khảo sát 28 truyện ngắn nêu trên, chúng tôi còn tiếp thu

một cách chọn lọc những nhận định đánh giá của các công trình nghiên cứu

đã có và những ý kiến của chính tác giả để đảm bảo tính khoa học, tính

khách quan cho luận văn.

2.2. Nội dung vấn đề

Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác giả là đề tài gồm nhiều vấn

đề. Nhưng do nhu cầu nghiên cứu, nguồn tư liệu, quỹ thời gian và những

3

hạn chế nhất định của bản thân, chúng tôi chỉ tập trung vào ba vấn đề: cảm

hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện

ngắn của Kim Lân .

3. Lịch sử vấn đề

3.1. Phần mở đầu

Như đã trình bày ở trên, các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của

Kim Lân chưa thật nhiều. Các công trình nghiên cứu này có thể chia làm

bốn nhóm. Một là, các bài viết của nhà nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật

truyện ngắn Kim Lân. Hai là, một số bài viết về hai tác phẩm (Làng, Vợ

nhặt) giảng dạy ở trường phổ thông. Ba là, các bài viết của Kim Lân nói về

những tác phẩm của mình. Bốn là, luận văn nghiên cứu về đặc điểm truyện

ngắn Kim Lân. Nhìn chung, các bài nghiên cứu đã đi vào đặc điểm truyện

ngắn của Kim Lân ở những phương diện và những mức độ khác nhau.

Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ hệ thống những ý kiến nổi

bật, những nhận định quan trọng liên quan đến đề tài.

3.2. Để hệ thống các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài

luận văn, chúng tôi phân chia ra các nhóm ý kiến sau

3.2.1. Hướng tiếp cận về nội dung

Kim Lân đến với văn học bằng sự say mê ham thích và ý chí vượt lên

số phận. Ông bước vào đời sống văn học còn bởi sự gặp gỡ tình cờ, gắn bó

với nhà văn Nguyên Hồng. Nguyên Hồng - người bạn văn của Kim Lân đã

nhận xét về những tác phẩm đầu tay của ông:

Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim

Lân. Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân

chương chướng thế nào ấy… Nhưng rồi, chỉ bập vào mấy truyện của anh

mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại nó có cái gì

chân chất của đời sống và con người nghèo hèn, khổ đau… [31, tr.10].

4

Ở lời nhận xét này, nhà văn Nguyên Hồng đã rất chính xác khi đánh

giá về phương diện nội dung và mối quan hệ giữa tác phẩm - hiện thực

trong văn chương của Kim Lân. Cũng gần với quan điểm của nhà văn

Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận xét:

Đọc văn xuôi Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới của những người

thường dân nghèo khổ vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ: Những người

nông dân miền xuôi mất nhà mất đất xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một

xóm chợ bến sông, một góc phố núi hay ven một đồn điền, một xóm trai,

tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hằng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi

những nhân vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “ những đầu thừa đuôi

thẹo ở khắp xó xỉnh cuộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh

đầy đau xót của chính các nhân vật ấy (…) Mạch kể chuyện của Kim Lân

dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt

vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp

bức, đoạ đầy… [2, tr.56].

Khẳng định lại điều này, năm 1994 trong bài viết Nghĩ về nghề văn ,

nhà văn Kim Lân bộc bạch:

Tôi đến với văn học ban đầu là từ sự say mê ham thích. Những truyện

ngắn đầu tay của tôi như Đứa con người vợ lẽ, Người kép già, Cô Vịa là

những truyện ngắn viết về đề tài xã hội. Đó là những câu chuyện về bản

thân tôi, tâm tư và số phận của tôi cũng như những người gần gũi trong

làng xóm của tôi (…) Tôi viết như một việc được thôi thúc từ bên trong.

Những cảm xúc suy tư của tôi đòi hỏi tôi phải viết. Thực chất, viết văn,

trước tiên tôi viết về mình [16, tr.262] (…) Nói đến tình yêu đất nước, nghe

cảm thấy xa xôi, nhưng tình cảm đối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối

với con người Việt Nam, làng xóm nuôi những con người lớn lên bằng cả

vật chất cũng như tinh thần.

5

Tình yêu của tôi đối với làng cũng như đối với cách mạng là nguồn

cảm hứng sâu sắc nhất khi tôi viết Làng [16, tr.268].

Ở những ý kiến trên, Kim Lân khẳng định viết văn đối ông như một

sự đòi hỏi cho mình một thân phận, một chỗ đứng trong xã hội. Văn ông là

những câu chuyện về bản thân và những người gần gũi trong làng xóm.

Nguồn cảm hứng của ông là con người làng quê, quê hương và cách mạng.

Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu

Lữ Huy Nguyên có trích dẫn ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu:

Vương Trí Nhàn, Lữ Quốc Văn và Nguyễn Đăng Mạnh:

Hình như những mẫu người đầu thừa đuôi thẹo ấy đã gửi một đại

diện của họ vào văn học và Kim Lân đã làm việc này một cách đàng hoàng

chững chạc [54, tr.16].

Đó là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo, được đưa từ

các xó xỉnh tối khuất lên mặt trang giấy trắng chất chứa nhân thế, nhân

tình hoặc những trang tuy nghiêng về nhiều phía phong tục, trình bày cặn

kẽ những thú chơi lành mạnh…, nhưng vẫn biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm

hồn của một người nông dân trước cách mạng - những người sống vất vả,

khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa [54, tr.18].

Kim Lân là một nhà tiểu thuyết phong tục hạng nhất của Việt Nam

[54, tr.18 - 19].

Ở ba ý kiến trên, các nhà nghiên cứu đã rất tinh tế khái quát đặc điểm

về nội dung trong truyện ngắn của Kim Lân. Từ các ý kiến này, nhà nghiên

cứu Lữ Huy Nguyên bổ sung và nhấn mạnh:

Tuy nhiên nếu có dịp đọc lại các tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu

Là truyện ngắn, ta sẽ thấy ông không phải chỉ là đại diện văn học của loại

nhân vật đầu thừa, đuôi thẹo; ông còn là đại diện văn học sáng giá của

6

những lớp người tài hoa, bặt thiệp, phong lưu riêng thú… chọi gà, thả

chim, đấu võ, đánh vật… [54, tr.16].

Cùng thống nhất với các quan điểm trên, nhà nghiên cứu Hoài Việt

đưa ra nhận xét về hai đề tài chính trong truyện ngắn của Kim Lân:

Chính cái vốn sống phong phú của ông đã dẫn ông tới với hai đề tài

chủ yếu trong nghiệp văn của ông:

- Số phận những người thấp cổ bé họng trong xã hội cũ.

- Phong tục tập quán, những thú vui, trò chơi nơi thôn dã [88, tr.88].

Ngoài ý kiến về hai đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Kim Lân,

nhà nghiên cứu Hoài Việt còn chỉ ra nguồn gốc thành công của Kim Lân là

ở cái tâm và cái tài. Cái tâm của ông là lòng thương xót con người hay con

vật, là sự chân thật, thẳng thắn, ghét sự khuất tất, ám muội. Cái “tài là con

mắt nhìn, cái óc nghĩ, cây bút viết ra” [88, tr.89].

Năm 2003 trong phần giới thiệu về tác giả Kim Lân, nhà nhiên cứu

Trần Hữu Tá đưa ra nhận xét:

Thế giới nghệ thuật của ông chỉ tập trung ở khung cảnh làng quê

cùng với cuộc sống, thân phận người nông dân (…) Những con người của

quê hương ông, thân thiết ruột thịt với ông, từ cuộc sống đói nghèo lam lũ

trực tiếp bước vào tác phẩm, tự nó toát lên ý nghĩa hiện thực, mặc dù nhà

văn chưa thật tự giác về điều đó .

Kim Lân viết rất hay về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong

lưu đồng ruộng”. Đó là những thú chơi lành mạnh mang màu sắc văn hoá

truyền thống của người dân quê như đánh vật, nuôi chó săn, gà chọi, thả

chim v.v…Những truyện ngắn Kim Lân viết về phong tục (Đuổi tà, Đôi

chim thành, Con Mã Mái (…) hấp dẫn không phải chỉ vì đã cung cấp được

những trang tri thức về phong tục mà chủ yếu là vì nhà văn đã làm hiển

hiện lên được cuộc sống và con người làng quê Việt Nam cổ truyền, tuy

7

nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn có nhiều thú vui thanh lịch. Những con người

thật thà chất phác, nhưng thông minh, hóm hỉnh và tài hoa, đã đặt tất cả

niềm say mê của mình vào những thú chơi giản dị mà tao nhã tinh tế ấy,

chẳng khác gì những tâm hồn nghệ sĩ say mê sáng tạo nghệ thuật [90,

tr.758].

Ở ý kiến này, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá cũng nhấn mạnh hai nội

dung nổi bật trong truyện ngắn Kim Lân là: con người, cuộc sống nông

thôn và những sinh hoạt văn hoá phong phú ở vùng thôn quê.

Sau cách mạng tháng tám, Kim Lân tìm thấy nguồn cảm hứng mới, ý

thức hơn về trách nhiệm của một nhà văn cách mạng:

Sau cách mạng tháng tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương

diện xã hội chính trị, của đời sống nông dân gắn liền với vận mệnh đất

nước. Về đề tài này, Làng và Vợ nhặt xứng đáng được xem là những truyện

ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại [62, tr.49].

Với quan điểm lịch sử và cái nhìn biện chứng sắc sảo, Nguyễn Đăng

Mạnh đã đưa ra nhận xét thuyết phục về đặc điểm nội dung và vị trí truyện

ngắn của Kim Lân. Cũng cùng quan điểm này, khi giới thiệu truyện ngắn

Làng, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên khẳng định: “Phải nói đây là một

chuyển biến mới, khá thành công của Kim Lân viết về người nông dân sau

cách mạng” [54, tr.20].

Năm 1991, Trần Ninh Hồ đưa ra ý kiến nhận xét, đánh giá về truyện

ngắn của Kim Lân:

Tuy tầm vóc, vị trí của mỗi nhà văn một khác, nhưng Kim Lân cũng

là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời

người rất khó diễn đạt thành lời ấy (…) Năm mươi năm, một nửa thế kỉ

cầm bút mà chỉ vẻn vẹn có chừng ngót chục truyện ngắn thì quả là ít ỏi.

Nhưng cũng kỳ lạ thay, mỗi khi lần mở những trang văn ít ỏi ấy, ta lại cảm

8

thấy không có một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt

Nam trong gần nửa thế kỉ qua mà Kim Lân không đá động tới dẫu chỉ bằng

sự chạm trổ hết sức khiêm tốn là: truyện ngắn [75, tr.106 - 107].

Đây có lẽ là nhận xét của người rất hiểu truyện ngắn Kim Lân. Nhưng

ở vấn đề này, chúng tôi thống nhất với quan điểm của nhà nghiên cứu Lại

Nguyên Ân hơn:

Do chỗ tập trung miêu tả người nông dân trong cách mạng dân tộc

dân chủ cho nên ở hầu hết truyện ngắn của ông, Kim Lân chưa chú trọng

khám phá óc tư hữu của họ. Nét tâm lý căn bản này, chỉ cần bước vào thời

kì đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là lập tức bộc lộ rõ rệt. Nhà văn đã

thấy ngay nét đó: ở ông cả Luốn gốc me trong truyện ngắn cùng tên, nhà

văn đã khá tinh tế nhận thấy có một tương quan nào đó giữa thói gia

trưởng và óc tư hữu trong tâm lý người nông dân này (…) Đáng tiếc là

những tâm lí ứng xử như vậy của người nông dân trong cách mạng xã hội

chủ nghĩa đã không được Kim Lân tiếp tục phân tích và thể hiện nữa trong

văn xuôi của ông: giữa những năm sáu mươi về sau, hầu như ông đã thôi

không sáng tác nữa [2, tr.58 - 59].

Năm 2005 trong luận văn Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, tác giả

Đặng Thị Huy Lam đã dành hẳn một chương viết về Người lao động nghèo

ở làng quê Việt Nam và tấm lòng của nhà văn Kim Lân. Trong chương này,

tác giả đi vào hai nội dung. Một là, hiện thực về làng quê Việt Nam và

người lao động nghèo. Ở nội dung này, tác giả khảo sát các vấn đề: phong

tục và sinh hoạt văn hoá làng quê, những mảnh đời đầu thừa đuôi thẹo,

cuộc sống mới của người lao động nghèo sau cách mạng tháng tám. Hai là,

tấm lòng của nhà văn Kim Lân. Nội dung này bao gồm vấn đề: cái tôi giàu

lòng nhân ái, sự trân trọng và ca ngợi cái đẹp trong tâm hồn của người lao

động nghèo. Với những nội dung trên, có thể nói tác giả Đặng Thị Huy

9

Lam đã tìm hiểu nội dung của truyện ngắn Kim Lân theo các định hướng

của những công trình nghiên cứu đã có. Đóng góp của tác giả là đã hệ

thống và cụ thể các quan điểm để phục vụ cho luận văn của mình.

3.2.2. Hướng tiếp cận về nghệ thuật

Như đã trình bày, các công trình nghiên cứu truyện ngắn của Kim Lân

chưa nhiều. Đặc điểm các công trình nghiên cứu về nghệ thuật truyện ngắn

của Kim Lân cũng chỉ ở mức độ riêng lẻ, chưa tập trung và hệ thống.

Năm 1986 trong bài Văn xuôi Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên

Ân đưa ra nhận định:

Có lẽ do số lượng tác phẩm không nhiều nên truyện ngắn Kim Lân

cũng không thật đa dạng về các kiểu cấu tứ. Bằng vào hai tập Vợ nhặt và

Nên vợ nên chồng, có thể kể được khoảng ba kiểu truyện chính. Kiểu phổ

biến hơn cả có thể gọi là những truyện ngắn tính cách. Nhiệm vụ nghệ

thuật mà nhà văn vẽ ra ở đó là vẽ ra một con người (…) Hơi khác chút ít

với kiểu truyện tính cách này, Vợ nhặt là truyện ngắn không chú tâm hẳn

vào nhân vật nào (…) Diễn biến của truyện không nhằm khám phá một nét

tính cách nào của một trong số các nhân vật. Cái được chủ yếu ở đây là

miêu tả một tình huống. Đây có thể gọi là ước lệ là truyện ngắn tình huống

(…) Có một kiểu truyện nữa mà Kim Lân viết rất ít. Tôi muốn nói truyện

ngắn Con chó xấu xí từng được đặt làm cái tên chung cho tập truyện Vợ

nhặt hồi in lần đầu thành sách. Đây là truyện có hơi hướng ngụ ý [2, tr.59

- 61].

Ở ý kiến này, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân chia truyện ngắn Kim

Lân thành ba loại: truyện ngắn tính cách, truyện ngắn tình huống và truyện

ngắn ngụ ý. Cũng trong bài viết này, nhà nghiên cứu còn đưa ra nhận xét về

ngôn ngữ và chất giọng trong văn xuôi Kim Lân:

10

Chất giọng thường xuyên trong truyện ngắn của Kim Lân là chất

giọng thực sự văn xuôi. Nó không thích hướng vào chất trữ tình, không

thích nống lên thống thiết. Nó thích phô bày cái nôm na thật thà, đáng yêu

nhưng cũng đáng tức cười của những sự thật xung quanh chứ không thích

phủ lên các sự thật ấy một sự cảm động đến rưng rưng.

Chính là do thích phô bày nôm na thực thà của những con người và sự

vật xung quanh nên văn xuôi này đã chú trọng khai thác các khả năng miêu

tả của các ngôn ngữ (…) Nhà văn rất chú ý miêu tả lời ăn tiếng nói của họ

và đã biến thứ ngôn ngữ sống của những cư dân sống thực đó thành một

đối tượng nghệ thuật rất đáng lắng nghe, nếu ta biết nghiệm ra cái vẻ đẹp

rất thực của lời ăn tiếng nói ấy [2, tr.62].

Ở cả hai ý kiến trên, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã rất có cơ sở

khi nhận xét về ba kiểu truyện trong truyện ngắn của Kim Lân. Đặc biệt

hơn, tác giả rất sắc sảo khi phát hiện một trong những đặc sắc của văn xuôi

Kim Lân là ngôn ngữ. “Ngôn ngữ nhân vật có vai trò quyết định trong việc

thể hiện những tâm lí cổ truyền của người nông dân” [2, tr.62].

Năm 1994 trong bài Nghĩ về nghề văn , Kim Lân bộc bạch:

Khi sáng tác truyện ngắn, đối với tôi chi tiết vô cùng quan trọng.

Trong truyện ngắn của tôi đầy ắp chi tiết. Tôi nói bằng chi tiết. Truyện của

tôi viết ra không ai kể lại được .

Truyện Làng, Vợ nhặt, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Ông

lão hàng xóm nếu kể cốt truyện ra thì tẻ nhạt không có gì đáng chú ý cả.

Chi tiết lấn át cốt truyện, chi tiết thể hiện một cách tinh tế nhất và rõ ràng

nhất tính cách nhân vật cũng như hoàn cảnh sống của nhân vật [16,

tr.264].

Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu

Lữ Huy Nguyên đã mượn lời của nhà nghiên cứu Nguyên An để đánh giá

11

về truyện ngắn của Kim Lân “ông là một nhà văn kỹ lưỡng, tinh tế trong

việc lựa chọn chi tiết, kỳ khu và tài hoa trong việc lựa chọn ngôn từ, hình

ảnh. Vì thế mà Nguyễn Khải coi ông là một bậc thầy để noi theo” [54,

tr.18].

Năm 1994 trong bài viết về truyện Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân nói:

Tôi quan niệm: truyện ngắn cũng như tiểu thuyết và điều quan trọng

nhất là nhân vật. Nhân vật phải có tính cách và phải hành động theo tính

cách nhân vật một cách tự nhiên, không giả tạo sáo rỗng (…) Ngôn ngữ

trong truyện ngắn phải tinh hơn, gạn lọc kỹ hơn và phải có ý tứ từ bên

trong (…) Tôi nghĩ văn chương bây giờ kêu quá, bóng bẩy quá cũng như

đánh bóng mạ kền, cái đó không cần có trong văn chương; điều quan trọng

văn chương phải thật giản dị. Văn của tôi đã nói được tiếng nói và suy nghĩ

của tôi [16, tr.41].

Trong cả ba ý kiến trên, Kim Lân và các nhà nghiên cứu đều khẳng

định thành công của truyện ngắn Kim Lân tập trung ở ba phương diện: lựa

chọn, thể hiện chi tiết; xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ.

Năm 1997 trong bài Sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc của

truyện Kim Lân tác giả Bảo Nguyên cũng cùng quan điểm với các nhà

nghiên cứu khác, khi chỉ ra thành công của truyện ngắn Kim Lân ở các

phương diện: sử dụng ngữ âm và từ vựng.

Kim Lân đã dùng hàng loạt từ láy: xác xơ, heo hút,ngăn ngắt, úp súp,

sù sì, dật dờ, thê thiết (…) Từ láy đã góp phần tích cực tạo ra âm điệu

trầm, nhịp ngôn ngữ chậm, có tác dụng nhấn mạnh những đặc tính cần

miêu tả (…)

Ông lựa chọn những từ ngữ còn mang hơi thở của cuộc sống hàng

ngày, để diễn đạt chúng đúng cái cuộc sống miền quê với những con người

quê giản dị và đáng yêu (…)

12

Trong việc sử dụng từ ngữ, Kim Lân đặc biệt chú ý những thành ngữ,

những từ đệm vốn là những từ ngữ cửa miệng của người dân: “giời đất cha

mẹ ơi”, “cụ bảo thì là dân ta”, “dầu bây giờ đắt gớm”(…) Những từ ngữ

này đặt đúng hoàn cảnh đã tạo ra tác dụng vừa khắc hoạ tính cách nhân

vật vừa gợi nên nét đời thường rất phù hợp với cuộc sống miền quê [68,

tr.230 - 231].

Nhận xét về giọng văn của Kim Lân, ngoài việc thống nhất với đánh

giá của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, tác giả Bảo Nguyên rất tinh tế khi

bổ sung thêm:

Giọng văn chủ đạo của ông thường trầm sáng như giọng ca dao, cổ

tích. Nhịp văn của ông chậm gọn… Đó là một thứ giọng đệm phù hợp với

quang cảnh nông thôn, với văn minh nông nghiệp (…)

Yêu thương ca ngợi là nét giọng chủ đạo trong các truyện ngắn Kim

Lân. Song ở mỗi truyện ở mỗi hoàn cảnh, ở mỗi nhân vật trong từng điều

kiện Kim Lân sử dụng các giọng khác nhau để miêu tả. Giọng phẫn uất lẫn

mỉa mai trong “Đứa con người vợ lẽ” giọng cảm thương và mỉa mai

trong“Con chó xấu xí” giọng cảm thông lẫn kính phục trong “Thượng

tướng Trần Quang Khải - Trạng vật”.

(…)

Trong các truyện tâm lí xã hội của Kim Lân ta thường bắt gặp một

giọng kể, giọng tả đồng tình, cảm thương [68, tr.232].

Từ những ý kiến đánh giá trên tác giả Bảo Nguyên đã đưa ra kết luận

khái quát:

Ngữ âm từ vựng, giọng điệu được bàn tay nhà nghệ sĩ tài ba Kim Lân

đã sắp đặt tạo ra một thứ ngôn từ mang đậm chất “văn xuôi ”. Đó là một

đoá hoa tạo nên sức hút ban đầu cho các độc giả. Đó là phong cách giản

dị mà độc đáo của Kim Lân [68, tr.233].

13

Năm 2005 trong luận văn Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, tác giả

Đặng Thị Huy Lam dành hai chương để khảo sát nghệ thuật truyện ngắn

của Kim Lân. Ở chương Nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân vật, tác

giả đã đi sâu tìm hiểu các vấn đề cốt truyện, tình huống, chi tiết, nghệ thuật

miêu tả ngoại hình, miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật. Ở chương Ngôn

ngữ và giọng điệu, ngoài những định hướng của công trình nghiên cứu có

trước, tác giả luận văn đã có những tìm tòi, phát hiện về đặc điểm câu văn

và biện pháp so sánh tu từ trong truyện ngắn của Kim Lân.

3.3. Nhận định chung

Các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Kim Lân được thực

hiện ở các phương diện và mức độ khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên

cứu và tác giả đều công nhận:

- Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông “là một trong

những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim

Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không

nhiều nhưng sáng tác của ông đã gây được ấn tượng với người đọc” [16,

tr.31].

- Thế giới nghệ thuật của Kim Lân tập trung ở khung cảnh làng quê

cùng với cuộc sống, thân phận người dân quê.

- Kim Lân viết rất hay về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong

lưu đồng ruộng”. Đó là những sinh hoạt văn hoá của người dân quê.

- Trong các truyện ngắn, Kim Lân thể hiện rất rõ cái tôi giàu lòng nhân

ái, trân trọng và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động nghèo.

- Kim Lân là nhà văn kỹ lưỡng tinh tế trong việc lựa chọn chi tiết, kỳ

khu và tài hoa trong việc lựa chọn ngôn ngữ và hình ảnh.

4. Phương pháp nghiên cứu

14

4.1. Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sẽ vận dụng quan điểm duy

vật, quan điểm lịch sử và phương pháp biện chứng làm nền tảng cho nhận

thức và nghiên cứu. Chúng tôi sẽ vận dụng những thành tựu của các khoa

học liên ngành như: phương pháp luận nghiên cứu văn học, phong cách

học, thi pháp học, lý luận văn học… để làm nổi bật vấn đề.

4.2. Ngoài những vấn đề có tính chất phương pháp luận nêu trên,

chúng tôi sẽ sử dụng phối hợp hai phương pháp chủ yếu là phương pháp

phân tích, tổng hợp và phương pháp hệ thống.

Phương pháp phân tích, tổng hợp là phương pháp được sử dụng rộng

rãi trong luận văn. Chúng tôi sẽ đi từ việc khảo sát phân tích từng truyện

ngắn, các yếu tố nổi bật thể hiện cảm hứng và nghệ thuật trần thuật, để từ

đó rút ra những nhận xét có tính tổng hợp, khái quát. Đồng thời, để triển

khai vấn đề một cách khoa học, biện chứng, chúng tôi sẽ đặt đối tượng

nghiên cứu trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hệ thống để làm rõ

cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim

Lân.

Vận dụng phương pháp hệ thống, chúng tôi nhằm mục đích phát hiện

tính lặp lại nhiều lần của các phương diện liên quan đến đề tài. Từ bước tập

hợp các phương diện lặp lại liên quan đến đề tài, chúng tôi sẽ đi đến việc

khẳng định những đặc điểm mang tính ổn định về cảm hứng và nghệ thuật

trần thuật. Từ đó tạo cơ sở vững chắc cho những nhận xét của luận văn.

Ngoài các phương pháp vừa nêu, chúng tôi còn sử dụng phương pháp

so sánh và thống kê ở những chừng mực nhất định. Khi trình bày cảm hứng

chủ đạo, chúng tôi có so sánh những tác phẩm của Kim Lân với những tác

phẩm của các nhà văn Nguyễn Tuân, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Thạch Lam…

Sử dụng phương pháp so sánh, chúng tôi nhằm để hình dung rõ vấn đề chứ

không nhằm mục đích khẳng định sự hơn kém ở các nhà văn. Phương pháp

15

thống kê sẽ được sử dụng để xem xét các phương thức trần thuật, các dạng

cấu trúc trần thuật có tính tập trung cao và có tấn số xuất hiện nhiều lần

trong truyện ngắn của Kim Lân, từ đó hướng đến việc tìm ra các đặc điểm

riêng, ổn định, có dụng ý của nhà văn, nhằm làm vững chắc hơn cho những

nhận xét của luận văn.

5. Những đóng góp của luận văn

Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông là một trong những

cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Mặc dù được

đánh giá là nhà văn có tài nhưng những công trình nghiên cứu về truyện

ngắn của ông còn khá ít. Luận văn của chúng tôi sẽ đi vào các vấn đề: cảm

hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật. Dù các vấn

đề đặt ra trong luận văn chưa là tổng quát nhưng chúng tôi hi vọng sẽ góp

thêm hiểu biết về phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Từ đó, góp phần

khẳng định vị trí của Kim Lân trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại và

đóng góp một phần nhỏ vào việc học tập, giảng dạy truyện ngắn Kim Lân ở

nhà trường phổ thông.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn

gồm có ba chương:

Chương 1. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân.

Chương 2. Các phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim

Lân.

Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân.

16

Chương 1

CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG TRUYỆN NGẮN

CỦA KIM LÂN

1.1. Về khái niệm cảm hứng

Phương diện chủ quan của nội dung tư tưởng tác phẩm là lý giải chủ

đề, cảm hứng tư tưởng, tình điệu thẩm mỹ. Tư tưởng của tác phẩm bao

gồm khuynh hướng triết học, chính trị, đạo đức, khuynh hướng nhận thức,

khuynh hướng tình cảm, thẩm mỹ thể hiện trong tác phẩm. Tư tưởng của

tác phẩm có quan hệ chặt chẽ với quan niệm về thế giới, với quan niệm về

nhân sinh, với tình cảm và thái độ của nhà văn. Tư tưởng của nhà văn sẽ

chi phối sự đánh giá các hiện tượng đời sống trong tác phẩm. Xuất phát từ

đặc điểm này, nghiên cứu văn học đã hình thành khái niệm cảm hứng chủ

đạo với tư cách là nhân tố tư tưởng trong sáng tạo nghệ thuật.

Cảm hứng thường được hiểu là trạng thái tâm lý đặc biệt khi sức chú ý

được tập trung cao độ, kết hợp với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện để óc

tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả. Cảm hứng là hứng thú sáng

tạo nói chung và sáng tạo văn học nói riêng. Hê Ghen và Bêlinxki đều dùng

từ “cảm hứng” “để chỉ trạng thái hưng phấn cao độ của nhà văn do việc

chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy

bao giờ cũng bắt nguồn từ lý tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát triển và

cải tạo thực tại” [dẫn theo 74, tr.141]. Theo Pôxpêlốp thì cảm hứng là “sự

lý giải, đánh giá sâu sắc và chân thực - lịch sử đối với tính cách được miêu

tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm

hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn và của tác phẩm của nhà văn” [74,

tr.141]. Cảm hứng là một phương diện chủ quan thuộc về nội dung tư

tưởng tác phẩm. Lênin từng viết trong bút ký triết học: “Tư tưởng - đó là

17

nhận thức và khát vọng (mong muốn) của con người” [dẫn theo 57, tr.265].

Cùng quan điểm với Lênin, Pôxpêlốp khẳng định:

Tư tưởng của tác phẩm văn học là sự thống nhất tất cả các mặt nội

dung của nó như hệ đề tài, hệ vấn đề và sự đánh giá tư tưởng - cảm xúc đối

với cuộc sống, đó là tư tưởng khái quát, tư tưởng bằng hình tượng, bằng

cảm xúc của nhà văn. Tư tưởng đó thể hiện cả ở sự lựa chọn, cả ở sự lý

giải và cả ở sự đánh giá các tính cách [74, tr.124].

Nội dung tư tưởng tác phẩm văn học luôn gắn liền với cảm xúc mãnh

liệt. Nhà phê bình Bêlinxki nói: “Tư tưởng thơ, đó không phải là phép tam

đoạn thức, không phải là giáo điều, không phải là qui tắc, mà là một ham

mê sống động, đó là cảm hứng” [dẫn theo 57, tr.268]. Bêlinxki giải thích rõ

hơn: “Trong cảm hứng nhà thơ là người yêu tư tưởng như yêu cái đẹp, yêu

một sinh thể sống, thấm nhuần tư tưởng một cách nhiệt tình” [dẫn theo 57,

tr.268]. Cụ thể các quan điểm của Bêlinxki, Trần Đình Sử đưa ra quan

điểm về cảm hứng:

Cảm hứng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một ham

muốn tích cực đưa đến hành động. Điều quan trọng là cần nhận ra cảm

hứng như một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học .

Cảm hứng trong tác phẩm trước hết là niềm say mê khẳng định chân

lý, lý tưởng, phủ định sự giả dối mà mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực là thái

độ ngợi ca, đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê phán tố cáo các

thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường [57, tr.268].

Với tính chất là một trong những yếu tố hợp thành tư tưởng tác phẩm,

Hêghen xem cảm hứng chủ đạo như là “ trung tâm điểm ”, “ vương quốc sự

thật” của nghệ thuật. Ông cho rằng:

Cảm hứng chủ đạo là biểu hiện của tâm hồn người nghệ sĩ say mê

thâm nhập vào bản chất của đối tượng, trở thành tương ứng với nó, gần

18

như là xuyên suốt vào nó. Theo ông, cảm hứng chủ đạo cần được xem như

là một sản phẩm của “một tinh thần phong phú và hoàn thiện, một cá tính

mà trong đó tất cả những lực lượng bản thể phổ quát đều được thực hiện”

[dẫn theo 20, tr.208].

Về khái niệm cảm hứng chủ đạo, Bêlinxki quan niệm cụ thể hơn:

Trong những tác phẩm thi ca (hiểu theo nghĩa rộng: tác phẩm nghệ

thuật - người soạn) đích thực, tư tưởng không phải là một khái niệm trừu

tượng, được diễn tả một cách giáo điều, mà nó tạo thành linh hồn toả vào

trong tác phẩm, giống như ánh sáng chiếu vào pha lê. Tư tưởng trong sáng

tạo thi ca - đó chính là cảm hứng… Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt tình

nồng cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó [dẫn theo 20, tr.208].

Cũng với quan điểm trên, Bêlinxki viết:

Nghệ thuật không cho phép thâm nhập vào nó những tư tưởng triết

học trừu tượng, những tư tưởng lý tính; tư tưởng thi ca - đó không phải là

một thứ tam đoạn luận, không phải là giáo điều, không phải là qui luật; đó

là nhiệt tình sinh động. Cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về một tư

tưởng nào đó trở thành niềm say mê đối với tư tưởng đó, trở thành năng

lượng và thành khát vọng nồng nhiệt [dẫn theo 20, tr.209].

Từ những quan điểm trên, Bêlinxki đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu

cảm hứng chủ đạo của nhà văn trong tác phẩm để tìm hiểu đặc điểm sáng

tác của nhà văn ấy: “Công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên của người phê

bình là giải đoán cảm hứng chủ đạo của tác phẩm” [dẫn theo 20, tr.209].

Về khái niệm cảm hứng chủ đạo, Huỳnh Như Phương đưa ra quan

điểm:

Cảm hứng chủ đạo thấm nhuần vào toàn bộ cấu trúc của tác phẩm,

vào thế giới hình tượng, bao gồm không gian, thời gian, tính cách nhân vật,

19

vào xung đột và cốt truyện, vào ngôn từ và giọng điệu của một bài thơ, một

truyện ngắn, một thiên tuỳ bút hay một cuốn tiểu thuyết [20, tr.210] .

Từ quan điểm này, tác giả khẳng định: “Việc tìm hiểu cảm hứng chủ

đạo không phải chỉ căn cứ trên một bộ phận, một thành tố nào, mà phải

căn cứ trên toàn bộ lô gích nghệ thuật của tác phẩm” [20, tr.210].

Như vậy, cảm hứng là một trong những yếu tố chính hợp thành tư

tưởng của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo được xem là “trung tâm điểm”, là

“vương quốc sự thật” của nghệ thuật. Cảm hứng chủ đạo không chỉ toát ra

từ tác phẩm mà còn xuyên suốt toàn bộ sáng tác của một tác giả.

1.2. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân

1.2.1. Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo

nên cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân

Nhà văn Kim Lân từng kể về đời mình:

Tôi không được học đến nơi đến chốn. Đang học lớp nhất ở trường

huyện thì bố tôi mất, tôi bỏ nhà xuống Hải Phòng tìm việc làm, không

được, lại quay về làng. Tôi đi học nghề sơn guốc của một ông hoạ sĩ làng

bên. Trong sự rẻ rúng của gia đình (ông là con trai người vợ ba cụ thân

sinh), nhiều bạn bè đồng học vẫn đi, đèn sách nhởn nhơ, tôi buồn bực vô

cùng. Đúng ra là tự ái. Tự nhiên tôi nhìn xung quanh thấy nhiều sự nhăng

nhít, vô lý và nhất là lòng ham viết, thích viết của tôi lại càng nung nấu

[54, tr.14 - 15].

Theo cách nói của Lữ Huy Nguyên “cái ý nghĩ cương quyết, ngây thơ:

ta chẳng kém gì các người” của anh thợ sơn guốc đã đưa Kim Lân đến với

nghề văn. Như vậy, Kim Lân viết văn trước hết có hai động lực khởi

nguồn: lòng “ham viết, thích viết” và “nhiều sự nhăng nhít, vô lý” của cuộc

sống xung quanh nhà văn lúc ấy. Mặc nhiên, việc cầm bút viết văn của

người thợ sơn guốc đó có ý nghĩa lớn lao, mang tính nhân đạo và nhân văn

20

là “đòi cho mình một thân phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc

sống nhỏ bé quẩn quanh của quê hương” [54, tr.15]. Và “người thợ sơn

guốc” ấy đã có truyện ngắn đầu tay đăng trên báo Trung Bắc chủ nhật số

120 ra ngày 26-7-1942. Đó là truyện Đứa con người vợ lẽ thấm đẫm tính

chất tự truyện. Cái “nhăng nhít, vô lý ” từ cảnh ngộ của bản thân mình đến

cái “nhăng nhít, vô lý” ở xung quanh dần dần được Kim Lân đưa vào các

truyện của mình (Nỗi này ai có biết - 1943, Cơm con - 1943,…). Những

trang viết theo cuộc đời, càng ngày nhà văn càng mở rộng không gian nghệ

thuật trong các truyện của mình, từ một số mặt của cuộc sống ở vùng quê

quen thuộc của những lớp người “đầu thừa đuôi thẹo” (chữ của Vương Trí

Nhàn) trước năm 1945, đến những con người đói nghèo lam lũ vì miếng

cơm tấm áo đổi đời, đi theo cách mạng và kháng chiến sau năm 1945. Theo

trình tự những trang viết của Kim Lân, người đọc có thể thấy nội dung và

chất lượng các truyện ngắn cứ mở dần mở dần, cứ cao dần cao dần…

1.2.2. Về cảm hứng phê phán trong truyện ngắn của Kim Lân

Kim Lân cho rằng “điều quan trọng là văn chương phải thật, phải

giản dị” [16, tr.39]. Nhà văn không bằng lòng với thứ văn chương “kêu

quá, bóng bẩy quá, cứ như là đánh bóng mạ kền …” [16, tr.39]. Tất nhiên,

cái mà Kim Lân gọi là thật là cái thật của văn chương, theo cách văn

chương. Và cái giản dị cũng vậy, nó là cái giản dị nghệ thuật. Bởi vậy,

nhìn vào các truyện của Kim Lân viết, người đọc bắt gặp hầu hết là những

cảnh những người mà nhà văn đã từng sống, từng quen biết, từng gần gũi

và hiểu biết một cách cặn kẽ, sâu sắc. Đó là những làng quê xung quanh

quê nhà văn, những con người sinh sống ở các làng quê ấy mà mỗi lần

bước chân ra ngõ xóm đường làng là Kim Lân đã gặp.

Một vấn đề khác trong sáng tác truyện mà Kim Lân coi trong đó là vấn

đề khắc hoạ nhân vật. Nhà văn nói: “Tôi quan niệm: truyện ngắn cũng là

21

tiểu thuyết và điều quan trọng là nhân vật. Nhân vật phải có tính cách và

phải hành động theo tính cách nhân vật một cách tự nhiên, không giả tạo

sáo rỗng” [16, tr.38 - 39]. Tính cách ở đây là một khái niệm thuộc phạm

trù mỹ học của chủ nghĩa hiện thực, nó vạch ra đường biên khu biệt những

nét riêng biệt của một (hay một nhóm) đối tượng này so với một (hay một

nhóm) đối tượng khác. Ở một mức nào đó, có thể phân ra làm hai loại nhân

vật: loại nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo” và loại nhân vật là hình tượng của

quần chúng bình thường. Nhiều nhân vật trong các truyện của Kim Lân,

đặc biệt là các truyện viết trước năm 1945, đã có dấu ấn chung về tính cách

của lớp người mà nhà văn quen thuộc ở cả một vùng quê ông lúc đó. Có

nhà nghiên cứu nhận thấy nhân vật trong nhiều truyện của Kim Lân là

những người “đầu thừa đuôi thẹo”, ông chẳng ra ông, thằng chẳng ra thằng

(Vương Trí Nhàn). Cũng có nhà nghiên cứu phát hiện ở một tầng sâu khác:

“Ông còn là đại diện văn học sáng giá của những lớp người tài hoa bặt

thiệp, phong lưu riêng thú… chọi gà, thả chim, đấu võ, đánh vật …” [54,

tr.16]. Đúng là có điều này, nhiều nhân vật trong nhiều truyện viết trước

năm 1945 của Kim Lân thuộc lớp người “đầu thừa đuôi thẹo” ấy là những

nhân vật có những nét tài hoa riêng, bặt thiệp riêng (Cả Chuẩn trong Con

Mã Mái, Trưởng Thuận trong Đôi chim thành …). Hình như ở vùng đất

quê Kim Lân, những người như vậy có nhiều và họ đã tạo nên cái nét đặc

sắc riêng, khơi gợi sự chú ý của nhà văn. Kim Lân đã viết về họ, về những

cái mà họ vốn có và đã có, về cuộc sống mà họ đã sống. Những điều ấy có

khi “nhăng nhít, vô lý” nhưng đều là hiện thực đáng kính, đáng yêu, như là

dấu vết riêng biệt của một thời đã qua không còn lặp lại.

Hầu hết những truyện ngắn viết sau năm 1945, “Kim Lân vẫn tiếp tục

viết về làng quê Việt Nam. Ông thường viết về những cảnh tội nghiệp, cuộc

sống khốn khó đến cùng cực của người nông dân dưới chế độ cũ và sự đổi

22

đời của họ nhờ cách mạng” [89, tr.758]. Trong các truyện ngắn sau cách

mạng tháng tám, các nhân vật hầu như không có những cái phô ra bên

ngoài một cách đặc biệt, nổi trội. Họ sống bình dị lẫn vào trong lớp người

mà họ đại diện nhưng tiếp xúc lâu dài với họ, sẽ thấy ở họ một sức chịu

đựng đói khổ, cực nhọc và cả đắng cay thật mạnh mẽ để vươn lên. Họ hoạt

động phục vụ cách mạng thầm lặng, bình thường nhưng đáng quí. Ở họ

luôn toả ra tình yêu sâu đậm từ trong trái tim đối với quê hương, đất nước

và cách mạng…

Cuộc sống con người muôn màu muôn vẻ, tính cách con người càng

lắm dạng lắm hình. Kim Lân quan niệm viết truyện phải chân thật, phải

giản dị. Nhà văn rất coi trọng việc khắc hoạ nhân vật trong truyện. Để ghi

lại một cách chân thật và giản dị theo tinh thần hiện thực chủ nghĩa những

con người và cuộc sống những con người đó, Kim Lân thường vận dụng

phương thức trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan. Ở

phương thức trần thuật khách quan, nhà văn để cho người trần thuật tách

khỏi diễn biến câu chuyện, tránh xa các nhân vật… để cho nhân vật và sự

kiện tự nó hiện ra như vốn có trong cuộc đời thực. Từ đó, tác giả tạo cho

người đọc cảm tưởng như tự mình trực tiếp tiếp xúc với nhân vật và sự

kiện, không qua khâu trung gian của người trần thuật. Ở phương thức trần

thuật chủ quan, nhà văn lại để cho nhân vật xưng tôi kể lại câu chuyện mà

chính nhân vật xưng tôi này đã trực tiếp có mặt, trực tiếp tham gia. Nhìn

chung hai phương thức trần thuật này đã giúp cho người trần thuật - nhà

văn tránh được sự có mặt trong câu chuyện, trong các sự kiện được trần

thuật. Từ đó, câu chuyện được kể gia tăng ảo ảnh về tính hiện thực đối với

người đọc ở mức cao hơn. Đọc truyện của Kim Lân, người đọc hình như

không bắt gặp, nói đúng hơn là rất ít bắt gặp và khó nhận ra một cách rõ

ràng thái độ của nhà văn trước các sự kiện và nhân vật được miêu tả. Nhà

23

văn từng nói. “Tôi quan niệm chi tiết là những hình tượng. Tôi muốn nói

thật ít, nói bằng hình tượng chi tiết để người đọc tự cảm nhận những điều

mình viết muốn nói cũng như để khắc hoạ nhân vật” [16, tr.265]. Có thể

nói, Kim Lân là nhà văn rất tôn trọng tính khách quan của hiện thực và rất

đề cao năng lực thẩm mỹ của người đọc.

Truyện của Kim Lân là truyện hiện thực. Nhà văn kể mọi chuyện từ

chọi gà, thả chim, đánh vật trong những dịp lễ hội; đến chuyện mấy cậu

choai choai thách đố nhau chim gái dẫn đến “nỗi này ai có biết”; chuyện

các đại ca “tập hợp” nhau tiến hành một buổi “chợ đồng” ở làng bên để

thực lời nguyền từ kiếp nào (Trả lại đòn); chuyện con cái đối với bố già

(Cơm con); chuyện anh chàng ngụ cư nhặt được vợ giữa nạn đói khủng

khiếp (Vợ nhặt); chuyện một gia đình tản cư trong kháng chiến mà lòng lúc

nào cũng không rời làng, rời xóm và tuyệt đối trung thành với cách mạng

(Làng); chuyện cải cách ruộng đất có sai lầm gây oan sai nhưng cơ bản đã

đáp ứng được quyền lợi cơ bản của người nông dân (Ông lão hàng xóm,

Người chú dượng); chuyện người nông dân đắn đo khi phải đưa ruộng đưa

trâu vào hợp tác xã (Ông Cả Luốn gốc me); chuyện sinh hoạt của gia đình

cán bộ trong kháng chiến (Con chó xấu xí); chuyện sơ tán trong cuộc chiến

tranh phá hoại của máy bay Mỹ (Bà mẹ Cẩn)… Người đời có tốt có xấu,

sự việc xảy ra hàng ngày có đúng có sai. Trong các trang viết của Kim Lân,

hình ảnh con người và cuộc sống cứ tự nhiên như vậy mà hiện ra. Có thể

nói, hầu như nhà văn không muốn bày tỏ thái độ khẳng định, khen chê về

những gì mà mình miêu tả, khắc hoạ trong tác phẩm. Tác giả để cho bản

thân hình tượng tự nói những gì cần nói và để cho người đọc tự rút ra

những nhận định, đánh giá. Ở những hình tượng này, người trần thuật - tác

giả không cần đem cái chủ quan của mình ra để định hướng cho người đọc

một cách lộ liễu, thiếu tế nhị. Kim Lân hướng đến sự định hướng cảm nhận

24

cho người đọc khi tiếp nhận tác phẩm văn chương bằng cách nâng cao tính

nghệ thuật khi khắc hoạ hình tượng. Đọc truyện ngắn của Kim Lân, người

đọc nhận thấy truyện của ông như không có cảm hứng phê phán, mặc dù ở

một số truyện, nhân vật được khắc hoạ có những biểu hiện sai trái trong

hành vi, trong ứng xử. Trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ (1942),

người đọc bắt gặp thái độ lạnh lùng ích kỉ đến vô cảm của ông anh cả đối

với Tư - người em cùng cha khác mẹ. Ông anh cả vừa vào đến nhà đã “

nghiêm nghị đảo mắt chung quanh, sẽ cau mặt lại gắt”. “Ông ngáp thốc

ngáp tháo một hồi, rồi ngủ lúc nào không biết” [54, tr.28]. Sau khi ăn xong

bát phở, “ông Cả vội vã cắp cặp ra đi”. Ông không hề ghé mắt đến thằng

em “gày còm” đã hai ngày không có một hạt cơm vào cái dạ dày lép kẹp.

Tuy vậy, Tư vẫn không oán trách người anh cả, chỉ lầm lũi thực hiện những

điều ông anh sai bảo như một người em ngoan ngoãn, biết điều. Ở truyện

ngắn này, người trần thuật, ngoài việc khắc hoạ một số nét về hình dạng, cử

chỉ, hành động, lời nói… cũng không bình luận gì thêm. Trong các truyện

ngắn của Kim Lân, một số nhân vật vẫn có mặt trái của nó. Ở truyện Nỗi

này ai có biết, các nhân vật Kiến, Dần, chỉ vì một cô gái (Lan) mà trêu

chọc nhau, khích nhau chim, chuột,… rồi lấy cớ bỏ ngang để cô cuồng giận

mắc phải lỗi lầm với người khác (Mộ) đến nỗi phải bỏ nhà ra tỉnh làm cô

đầu. Truyện dừng lại ở đó, người trần thuật không thêm một lời nào. Ở

truyện Con Mã Mái, người đọc cũng bắt gặp đặc điểm này. Cả Chuẩn vì

thích con Mái Ô sò của Tư Méo, muốn có nó để gây được những con gà

chọi tốt nên đã giao du với tên chuyên câu gà Cả Cúi để hắn câu trộm cho

mà chẳng nề hà tai tiếng. Đến như Chánh Bảy (Trả lại đòn) chiêu mộ các

“hảo hán” trong vùng Phủ Từ Sơn để đi chuyến “chợ đồng” (gặt cướp lúa

ngoài đồng) ở làng Trang Liệt để thực hiện một lời nguyền thù hận từ kiếp

25

nào và người kể chuyện cũng lùi về một khoảng cách rất xa, không bộc lộ

gì.

Nếu nói Kim Lân có một tác phẩm viết dưới ánh sáng của cảm hứng

phê phán thì đó có thể kể đến truyện Cơm con (1943). Ở truyện ngắn này,

nhà văn cũng dùng phương thức trần thuật khách quan. Cơm con viết về

chuyện người con trai trưởng - cả Anh và vợ đối xử tàn tệ với người bố già.

Sau khi vợ chết, cụ Nhiêu đã hy sinh cả thời trai trẻ để nuôi nấng hai anh

em cả Anh khôn lớn:

Một mình cụ tần tảo mua rau bán hành, buôn đấu bán thúng, thôi thì

xoay xoả đủ vành.

Anh em trong họ khuyên cụ lấy thêm vợ hai. Trước nữa là có người

đỡ đần công việc, sau là vui thú cảnh già. Nhưng cụ Nhiêu thương con.

“Biết rằng người ta về nhà mình người ta có thực thương con mình không

? Hay lại tan cửa nát nhà”. Nên cụ không dám tơ tưởng đến đường vợ lẽ

con thêm làm gì. Vốn là người lo xa, cụ Nhiêu đã tậu hơn mẫu ruộng đẳng

điền dưỡng lão [54, tr.550].

Để lấy lòng cụ, vợ chồng cả Anh đã chu đáo ngày hai bữa rượu. Cả

Anh dỗ dành:

Thôi thì bố già rồi chả kiếm được nữa, ông cứ về ở với chúng con cho

vui cửa vui nhà… Còn mấy mẫu ruộng đấy. Chả trước, thì sau cũng là của

chúng con; nhưng ý con muốn ông cứ sang tên ngay cho chúng con thì vẫn

hơn. Chứ để người ta cấy rẽ: phân do, cỏ dã có đâu họ chăm chỉ bằng

mình, họ bỏ dài rồi nó rạc cả chân ruộng của mình đi [54, tr.550].

Cụ Nhiêu bằng lòng vì cho lời con là phải. Nhưng trớ trêu thay “ sang

tên mấy mẫu ruộng ấy cho cả Anh được ít lâu thì vợ chồng hắn ra ý khủng

khỉnh với ông cụ ngay” [54, tr.551]. Từ đấy, “chiều nào cũng vậy rượu

vào, cả Anh lại cà khịa với cụ Nhiêu móm”. Cả Anh hết đòi bố trả lại mấy

26

cái mâm cụ cầm cho người ta lấy tiền cưới vợ cho đứa em, cả Anh lại coi

bố là “cái nợ”, “ám” không cho hắn “ngóc đầu lên được”. Kể ra những

thái độ, hành động, lời lẽ ngang ngạo của đứa con bất hiếu, bất mục đối với

cụ Nhiêu rồi kết thúc truyện bằng tiếng thằng Kề nhớn ra rả bài học luân lý:

Bổn phận đối a với a cha mẹ. Bổn ư a phận đối a với a cha mẹ…

Cách ngôn: cha mẹ nuôi a con bằng a giời bằng bể; con nuôi a cha

mẹ con kể từng ngày [54, tr.553].

Đây là một sự đối lập có ý thức của người trần thuật, của người viết

truyện. Như vậy, ở truyện ngắn này, cảm hứng phê phán kẻ không có đạo

lý làm con là khá rõ.

Cảm hứng phê phán trong văn học hiện thực được thể hiện bằng nhiều

phương cách và ở nhiều mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào phong cách sáng

tác của mỗi tác giả. Có thể là vạch trần sự xấu xa tàn bạo như Giông tố (Vũ

Trọng Phụng), Tắt đèn (Ngô Tất Tố); Bước đường cùng (Nguyễn Công

Hoan), có thể là trào phúng như Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), và ở nhiều

truyện ngắn của Nam Cao, Nguyên Hồng,… Ở các tác giả này, trong các

tác phẩm của họ, khi tiếp cận, người đọc dễ dàng nhận ra ý đồ chủ đạo và

sự phê phán, thái độ lên án, đả kích là rõ rệt. Đối với Kim Lân, việc phân

tích, biện luận về cảm hứng phê phán có phần khó hơn. Nếu nói trong tác

phẩm văn học, sự kiện được miêu tả và nhân vật được khắc hoạ thể hiện ý

đồ nghệ thuật, tư tưởng nghệ thuật của tác giả thì không nhiều thì ít, một số

truyện của Kim lân có cảm hứng phê phán, như đã tìm hiểu ở trên. Nhưng

nếu xem xét phương cách miêu tả sự kiện, khắc hoạ nhân vật ở mặt ngôn

ngữ và giọng điệu trong trần thuật thì người đọc có cảm nhận là nhà văn

không (trừ một số trường hợp như truyện Cơm con,...) hoặc hầu như không

phê phán. Ở điểm này, không phải là nhà văn không nhận ra cái đúng, cái

sai, cái tốt, cái xấu của người đời. Muốn đi sâu tìm hiểu vấn đề này, có lẽ

27

phải trở về điểm xuất phát là hoàn cảnh riêng của nhà văn lúc thiếu thời.

Hoàn cảnh của Kim Lân đã tạo cho nhà văn một tâm lý, tính cách mang

đậm một niềm khát khao hướng thiện, một lòng bao dung nhân ái tràn đầy.

1.2.3. Cảm hứng yêu thương và trân trọng con người

Khi nói về truyện Vợ nhặt, Kim Lân đưa ra ý kiến về chân lý của văn

chương : “Trong văn phải có cái tâm” [16, tr.35]. Đối với Kim Lân cái tâm là

lòng thương xót con người hay con vật (Vợ nhặt, Con chó xấu xí…), là sự thẳng

thắn ghét cay ghét đắng sự khuất tất ám muội (Con chó xấu xí…). Theo Kim

Lân, cái tâm là cái tâm đạo lý, nhân ái. Cái tâm ấy đã khiến cho cụ Cả Lẫm (Ông

Cản Ngũ) không dùng miếng võ hiểm độc để tiêu diệt đối thủ vì cụ Cả Lẫm phân

vân: “Có nên vì một keo vật mà làm hại một người bấy lâu vì dân, vì nước được

không” [54, tr.303]. Cụ đã nhận cái thua về mình bởi một duyên cớ rất đẹp:

“Trong cái buổi còn đang nước mất nhà tan này, có nên vì hơn thua một keo vật

mà đánh một người nghĩa khí, một người vì dân, vì nước như ông bác đây thành

một người tàn phế, bỏ đi được không?” [54, tr.303]. Điều cần nói thêm ở đây,

trong cái tâm đạo lý, nhân ái chung mà mọi người cần có, cái tâm của Kim Lân

có riêng một độ sâu thấm thía. Vì cái tâm này, Kim Lân đã không để cho anh

chàng hiệp sĩ gỗ (Anh chàng hiệp sĩ gỗ) giết một cô gái lương thiện theo ý mụ

phù thuỷ khi hứa biến anh ta thành người thật để thực hiện ước mơ cứu nạn cho

đời. Dù chỉ là một con rối nhưng anh chàng hiệp sĩ gỗ lại giàu lòng trắc ẩn. Khi

âm thanh của cuộc sống bất công, nghèo khổ của những người bất hạnh theo gió

đêm những ngày cuối năm lọt vào chiếc thùng gỗ, người anh chàng hiệp sĩ gỗ

bỗng sôi lên:

Anh muốn hoá thành người thực, và thanh gươm của anh thành một thanh

gươm thực. Anh sẽ mang thanh gươm báu ấy ra khỏi cái hòm bé nhỏ này bước

vào cuộc đời đầy khổ cực, bất công của xã hội bên ngoài kia. Anh sẽ vung thanh

gươm ấy lên như khi anh vung gươm diễn trò trên sân khấu, san bằng mọi bất

công, oan trái ở trên đời. Anh sẽ làm cho trên mặt đất này không còn tiếng khóc

thảm thiết như tiếng khóc của ông lão mù mất chó [54, tr.317].

28

Như vậy, điều cần thiết đối với anh chàng hiệp sĩ gỗ là trái tim con người -

cái tâm con người. Với hai cách nói bằng chính luận và bằng nghệ thuật, Kim

Lân đã nhấn mạnh điều kiện tiên quyết đối với con người là lòng yêu thương con

người, yêu thương cuộc sống con người. Nhà văn lại cần hơn thế. Bởi có cái tâm

yêu thương con người và cuộc sống con người mới thực sự rung động trước

những cảnh đời bất hạnh, khổ cực mới thật sự căm giận bất công tàn bạo. Đó là

cơ sở để sáng tạo ra những tác phẩm đạt tới tính nhân đạo chủ nghĩa và tinh thần

nhân văn cao đẹp.

Có thể nói, cái tâm của Kim Lân là sự phản ứng tích cực trước cảnh ngộ và

thân phận. Nhà văn đã từng trực tiếp chứng kiến những điều “nhăng nhít, vô lý”

của cuộc đời, trực tiếp chịu đựng sự lạnh lùng nghiệt ngã của ngay những người

cùng chung một dòng máu. Kim Lân đã đi từ cảm thương cho mình đến cảm

thương đối với người. Trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, Tư (nhân vật

mang dấu ấn rõ rệt của tác giả tự truyện) không oán hận ông anh cả mà buồn

nhiều về cái đói, cái khổ đày đoạ mình, Tư thương mình, Tư thương mẹ. Như

một ẩn dụ, anh chàng hiệp sĩ gỗ trong thùng đựng các con rối của ông lão múa

rối rong, vào một đêm gần tết “nghe tiếng khóc của ông lão mù loà ấy, bỗng sinh

ra nghĩ ngợi”. Tiếng khóc của ông lão “sói vào mặt anh, kể lể những đau khổ

cùng cực” [54, tr.315]. Và không chỉ có mỗi ông lão ăn mày mù:

Mấy hôm nay anh chàng hiệp sĩ còn nhận ra dưới gốc đa đen ngòm và lạnh

lẽo kia… còn có nhiều tiếng khóc tiếng rên rỉ, than thở khác nữa. Càng gần ngày

giáp tết tiếng rền rĩ từ trong bóng tối cây đa đưa ra càng nhiều. Đó là những

người ăn mày, những đứa trẻ vô thừa nhận, những người già ốm yếu không có

con cái, cửa nhà; ban ngày lang thang đầu đường xó chợ kiếm ăn, ban đêm lại

kéo nhau về nằm vạ nằm vật dưới bóng cây đa này [54, tr.317].

Anh chàng hiệp sĩ gỗ cũng nhìn thấy “những ánh đèn đỏ úa đang lừ đừ qua

lại dưới mấy cái xóm nghèo ngoài bến sông” - những “ánh đèn quỷ quái” của

những người đi đòi nợ đêm ba mươi tết và nghe “tiếng chửi bới cứ rú lên những

tiếng nanh ác, sắc nhọn như mũi dao đâm vào da thịt” của họ, “tiếng than thở

rền rĩ” “thê thảm ai oán hơn” của những con nợ. Hình ảnh hai mẹ con người

29

đàn bà trốn nợ ôm nhau nằm dưới gốc đa, trong “đêm tối thăm thẳm” và “lạnh

buốt”. Tiếng đứa bé “thanh thanh, run rẩy như tiếng chim non”. Đứa bé chỉ dám

khe khẽ nói với mẹ nó những điều đang xảy ra mà nó không hiểu và những ước

mơ của nó. Tất cả những điều ấy làm cho anh chàng hiệp sĩ gỗ “tối sầm cả tâm

trí”. “Ý muốn hoá thành người thật lai càng nung nấu, day dứt trong người anh

chàng hiệp sĩ gỗ” [54, tr.318].

Đọc truyện của Kim Lân, người đọc thường bắt gặp hình ảnh những con

người trong cảnh đói khổ, phải tha phương cầu thực. “Mạch kể chuyện của Kim

Lân dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt

vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh chết đường, chết chợ, cảnh bị áp bức,

đoạ đày…” [2, tr.56]. Ông Tư Mủng (Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê)

là một nhân vật như thế. Ông là người làm ruộng không có đất. Từ đời ông nội,

đến đời ông… cả gia đình bỏ làng quê, mồ mả ông cha, siêu bạt khắp nơi:

Trên đường đi đã có người chết, có người đi ở, có người bán làm lẽ thứ tư,

thứ năm cho nhà người. Ốm đau, đói rét rơi rụng dần suốt dọc đường. Người

ông nội chỉ cái da bọc xương, gục đầu trên cây gậy lết theo con cháu. Người ông

vẫn rền rĩ mấy câu như mấy câu tụng niệm, khấn khứa:“…Cố lên! Các con ơi!

Thái Nguyên, Bắc Giang đất rộng người thưa …”

Mấy người còn xót lại trong gia đình vẫn lùi lũi dắt díu nhau đi. Con đường

tìm đất nắng, mưa kiền kiệt. Cho đến một buổi chiều, người ông chết cóng trong

túp lều nát, chơ vơ giữa đồng.

Gia đình lúc ấy chỉ còn ba người. Chiều hai mươi tám tết, đồng không mông

quạnh, mưa gió mù mịt bốn bề. Ba bốn con người ngồi thầm bên xác người ông

suốt đêm hôm ấy [54, tr.378 - 379].

Trong truyện ngắn Người chú dượng, nhân vật ông Mộc cũng “vốn không

phải là người ở đây” (người sở tại) mà đã người “nông dân vùng xuôi không thể

sống nổi trên mảnh đất quê hương của mình” [54, tr.484 - 485]. Ông cũng giống

như những người khác “siêu dạt lên vùng bán sơn địa này phá rừng vỡ bãi, nửa

sống bằng nghề làm ruộng, nửa sống bằng nghề sơn tràng, luồn rừng đốt than,

lấy nâu, lấy vỏ…” [54, tr.485]. Những ngày đầu lên đến trai Han này, ông Mộc

30

còn trẻ. Các bạn thường gọi là “anh đỏ Mộc”. Vợ chồng anh “vào làm thuê cho

nhà ông bạ Dưỡng bên làng Vầu. Chồng cày mùa, vợ đi cấy, tát nước gánh phân,

làm cỏ và trông nom mấy chục đõ ông mật” [54, tr.485]. Vợ chồng anh đỏ Mộc

đang sống yên ổn thì thằng con trai ông bạ Dưỡng “tán tỉnh”, “thí dỗ” chị đỏ

Mộc. Từ đó, cuộc đời anh đỏ Mộc trở nên oan nghiệt và đắng cay: một mình “gà

trống nuôi con”, bị người đời coi là kẻ bất lương phải xa lánh, phải đề phòng…

Nạn đói năm 1945 đã tác động đến sáng tác của nhiều nhà văn như: Nam

Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… Trong các tác phẩm của các nhà văn

này, cái đói đã vít đầu con người xuống, làm cho họ mất cả nhân cách (Một bữa

no - Nam Cao). Kim Lân cũng nhận thấy những hậu quả xấu xa của cái đói. Kim

Lân đã xúc động sâu sắc bởi thảm hoạ huỷ diệt của cái đói mà những kẻ nghèo

khổ phải gánh chịu. Đọc Vợ nhặt, có lẽ tất cả những ai đã trải qua nạn đói năm

1945 ở miền Bắc đều thấy hiện lên không phải là những dòng chữ mà là những

cảnh rất thật:

Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt

díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ.

Người chết như ngã rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm

đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường.

Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác người

(…) Dưới những gốc đa, gốc gạo sù sì bóng những người đói dật dờ đi lại như

những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ gào lên từng hồi thê

thiết [54, tr.198 - 200] .

Cả mặt đất bầu trời ngập tràn hình ảnh cái chết, màu sắc cái chết, mùi vị cái

chết. Có lẽ trong văn học Việt Nam hiện đại chưa có một tác giả, tác phẩm nào

viết về nạn đói năm 1945 vừa giản dị, vừa chân thật, vừa đạt đến độ sâu sắc thấm

thía như Vợ nhặt của Kim Lân. Những trang viết về những con người nghèo khổ

trong cảnh đói khát của Kim Lân gợi lên ở người đọc một cảm nhận: hình như

những cảnh những người trong các truyện với những cảnh những người trong

cuộc đời thực mà nhà văn đã từng chung sống, đã từng gặp,… cứ trộn lẫn vào

nhau. Cuộc đời của bản thân Kim Lân, cuộc đời của những con người nơi làng

31

quê nhà văn và cuộc đời những con người nghèo khổ trong nạn đói năm 1945

hoà nhập vào nhau, thực - hư - hư - thực hiện lên trong tâm tưởng của tác giả khi

cầm bút. Người đọc có thể xâu chuỗi các nhân vật loại này vào chung một nguồn

mạch cảm thương trắc ẩn của tác giả. Từ Tư (Đứa con người vợ lẽ), ông Mộc gù

(Người chú dượng), ông Tư Mủng (Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê),

đến Tràng, đến người Vợ Nhặt (Vợ nhặt),… Kim Lân viết về họ mà như để nói

về mình và viết về những điều của mình cũng là để nói về những điều của họ.

Những con người mà Kim Lân quen thuộc và hiểu sâu sắc là những con người

của quê hương và những con người trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong

sáng tác của Kim Lân, những con người ở quê hương được khắc hoạ nhiều trong

các truyện trước năm 1945, những người kháng chiến được thể hiện nhiều trong

các truyện viết sau năm 1945. Kim Lân từng quan niệm: “Điều quan trọng là văn

chương phải thật, phải giản dị. Văn của tôi đã nói được tiếng nói và sự suy nghĩ

của tôi” [16, tr.39]. Nhà văn không thể có sự phân loại một cách đơn giản: người

này tốt, người kia xấu. Trong mỗi con người, Kim Lân thấy cả mặt tốt và mặt xấu

(đúng hơn là mặt chưa tốt). Tính không hoàn thiện là tất yếu trong phẩm chất tinh

thần của con người. Do đó, con người có khả năng cải tạo và tự cải tạo. Tuy

nhiên, ở con người, mặt tốt là bản chất, hay ít ra cũng được xem là bản chất và

mặt tốt của con người luôn được trân trọng, được làm đích để hướng tới, để vươn

lên. Mạnh Tử quan niệm: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Nhà phật cũng cho

rằng: mỗi chúng sinh đều có phật tính. Kim Lân là người sinh ra và lớn lên ở

vùng đất có bề dày hàng nghìn năm lịch sử như Kinh Bắc (Từ sơn, Bắc Ninh),

trong máu thịt của ông, cùng với tính chất của dòng sữa mẹ có cả tính truyền

thống văn hoá dân tộc “thương người như thể thương thân”, có cả lòng nhẫn nại,

ý chí vươn lên và niềm tin mãnh liệt vào cái thiện.

Trong cuộc sống, đói nghèo gây nên bao hậu quả nghiêm trọng. Nhân vật

trong truyện của Kim Lân cũng có kẻ vì miếng ăn (vật chất nói chung) mà mượn

đền chùa là chốn thiêng liêng thờ phật, lợi dụng lòng tín ngưỡng của nhân dân để

làm “thầy cúng” “đuổi tà” vào dịp mở đầu một năm (Đuổi tà). Tuy vậy, công

việc này dù sau cũng làm cho nhiều người vui, thêm chút hưng phấn bước vào

32

năm mới. Cũng có kẻ vì chút tài sản riêng mà phải ngày đêm dằn vặt, hao tâm

khổ trí, gây buồn phiền lục đục trong gia đình, để hàng xóm chê bai là người bảo

thủ chậm tiến, cản bước đi của phong trào hợp tác (Ông Cả Luốn gốc me)...

Nhưng ông tự Năm (Đuổi tà) phải làm tự chùa khi đã cùng đường sau ba, bốn lần

đổi nghề: dạy học, bốc thuốc, “tìm đất tìm cát”, xem bói toán độ thân. Ông Cả

Luốn cũng không hoàn toàn là người không biết điều. Suy nghĩ của ông là suy

nghĩ của người nông dân trên luống cày của họ. Suy nghĩ đó cũng là sản phẩm

của một nền sản xuất tiểu nông cá thể ngàn đời tạo nên. Cái đáng trách của nhân

vật là ở mức độ tính toán “quá kỹ”. Nhân vật này còn có thêm một số biểu hiện

của lòng tham (cày chiếm cả ruộng người khác vừa gỡ mìn và dây thép gai xong)

và tính gia trưởng của người có thứ bậc trong dòng họ… Nhân vật ông Cả Luốn

thật sự là điển hình sắc nét cho lớp nông dân hữu sản sau cách mạng tháng tám.

Có thể nói, đây là một khám phá của Kim Lân trong thời kỳ đầu cách mạng xã

hội chủ nghĩa:

Nét tâm lý căn bản này, chỉ cần bước vào thời kỳ đầu của cách mạng xã

hội chủ nghĩa là lập tức bộc lộ rõ rệt. Nhà văn đã thấy ngay những nét đó: ở ông

Cả Luốn gốc me trong truyện ngắn cùng tên, nhà văn đã khá tinh tế nhận thấy có

một tương quan nào đó giữa thói gia trưởng và óc tư hữu trong tâm lý người

nông dân này [2, tr.58].

Căn bệnh tư hữu gần như đã trở thành mãn tính nhưng ông Cả Luốn chưa

bao giờ có chút ý nghĩ chống lại phong trào phát triển của hợp tác xã. Sau những

ngày đêm dằn vặt, ông đã nộp đơn cho ban chủ nhiệm. Động lực thúc đẩy ông Cả

Luốn nộp đơn vào hợp tác xã mặc dù nhà văn không nói đến nhưng người đọc ai

cũng hiểu: con người lúc nào cũng biết sống hài hoà giữa cái riêng và cái chung,

cùng chung sống với làng với nước. Ngoài ra, có thể nói, sự chuyển biến này ở

ông Cả Luốn có một phần là do sự thôi thúc bởi lòng tự trọng của người có thứ

bậc trong dòng họ trước mặt con cháu. Như vậy, ngòi bút của Kim Lân đã khắc

hoạ những biểu hiện tích cực của con người mà cái tâm nhà văn nhìn thấy và chỉ

ra.

33

Đọc truyện của Kim Lân, người đọc luôn bắt gặp những con người vươn

lên, hướng tới. Đói, đi tìm đất để sống, có người chết, người sống vẫn tiếp tục đi.

Không có sự lùi bước và không có sự rũ gục chờ chết. Trong truyện Vợ nhặt,

người đàn bà với “cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” đã

bỏ qua mọi điều tiếng mạnh bạo “sưng sỉa” đòi cho được cái ăn để giữ lấy sự

sống và sau đó đã trở thành vợ của Tràng. Về truyện ngắn này, Kim Lân có lần

thổ lộ:

Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con

đường sống. Dù ở trong tình huống bi đát đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát

khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở

Chính điều này đã làm cho nhà văn Kim Lân khác với một số nhà văn

khác, khi tập trung khắc hoạ cái thấp hèn, cái nhỏ bé của con người. Nguồn

gốc tạo nên sự khác biệt và thành công của Kim Lân là tấm lòng của nhà

văn:

tương lai, vẫn mong muốn sống, sống cho ra người [54, tr.618].

Kim Lân đã hội tụ cả hai điều kiện: tài năng văn xuôi và vốn sống. Vốn

sống ấy, tài năng ấy, và sau này ta sẽ nói kỹ hơn - tấm lòng của nhà văn đã giúp

ông không bước lạc sang bên kia cái sợi tóc mỏng manh nó phân chia chân thực

và giả tạo, bóp méo; yêu thương và khinh bạc, mỉa mai. Kim Lân đã rất giỏi khi

tả người vợ của anh Tràng có cong cớn, rất cong cớn nữa nhưng không nanh

nọc, có trơ trẽn, rất trơ trẽn, nhưng không đĩ thoã. Và cái cong cớn, sưng sỉa,

đanh đá trơ trẽn kia, nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt đối

không sinh ra từ cái ác, cái xấu xa [87, tr.21].

Có thể nói, Vợ nhặt là một bức tượng đài bất tử ghi lại cái khủng khiếp của

nạn đói năm 1945 và tinh thần vươn lên quật cường, lòng tin mãnh liệt vào cuộc

sống của con người Việt Nam trước khi bắt tay vào làm cuộc tổng khởi nghĩa

cách mạng tháng tám.

Nói đến tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, là phải nói đến sự nhìn nhận đúng

đắn bản chất con người - tính nhân bản. Nhìn nhận đúng bản chất con người sẽ

34

tin vào những điểm sáng (hoặc nhiều hoặc ít), vẫn luôn luôn có và luôn luôn lấp

lánh trong mỗi con người. Dù rằng nhiều lúc những điểm sáng ấy bị mây mù

cuộc đời che phủ nhưng tác giả vẫn tin vào khả năng cải biến của con người.

Lòng yêu thương, trân trọng đối với con người xuất phát từ sự nhìn nhận đúng

đắn và niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người, khả năng cải biến của con

Văn học (và nghệ thuật nói chung) có chức năng phản ánh chân thực

hiện thực. Để thực hiện hiệu quả chức năng đó, người nghệ sĩ nói chung và

nhà văn nói riêng cần thâm nhập vào cuộc sống để tìm tòi, phát hiện ra bản

chất cuộc sống, đặc biệt là bản chất con người, để đưa vào tác phẩm với

hình thức là những hình tượng nghệ thuật. Nhiều nhà văn, nhà nghệ sĩ lớn

trên thế giới và trong nước đã đạt thành tựu lớn trong sự nghiệp bằng con

đường đúng đắn này. Kim Lân tuy chưa phải là nhà văn tầm cỡ nhưng ông

cũng đạt được những thành công ở một mức độ nhất định.

người. Đó là động lực thúc đẩy mọi hành động nâng cao giá trị của con người.

Trải nghiệm hiện thực bằng chính cuộc đời của mình, Kim Lân có những

phát hiện và những cảm nhận sâu sắc, tinh tế về con người, về phẩm chất con

người. Trong sự đan xen, hoà trộn đa dạng và phức tạp giữa cái tốt và cái xấu,

giữa cái đúng và cái sai ở mỗi con người; đằng sau những biểu hiện hầu như

nhiều hơn, dễ thấy hơn của cái xấu, cái sai so với cái tốt, cái đúng, nhà văn đã

nhận ra được những dấu hiệu tích cực, hướng thiện. Trong truyện ngắn Làng, bà

chủ nhà ông Hai ở nơi sơ tán hay tọc mạch, tham lam nhưng không một chút suy

tính sẵn sàng nhường nhà cho người sơ tán đến ở. Ở cuối truyện này, khi đưa vào

chi tiết bà chủ nhà nói “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”, Kim Lân muốn thể

hiện rõ hơn nét chung của người nông dân là họ rất tốt. Ông lão Hai tuy có thái

quá đến mức làm cho người nghe cảm thấy ông khoe khoang cái làng chợ Dầu

của ông nhiều quá nhưng lại là một con người yêu làng hết mực, đồng thời cũng

là một con người yêu nước, nhiệt tình với kháng chiến, trung thành đến cảm động

đối với cách mạng. Tấm lòng ấy đã khiến:

35

Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây

(…)

Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải

thù.

Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:

- Húc kìa! Thầy hỏi con nhé, con là ai?

- Là con thầy mấy lỵ con u.

- Thế nhà con ở đâu?

- Nhà ta ở làng chợ Dầu.

- Thế con thích về làng chợ Dầu không?

Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:

- Có.

Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:

- À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?

Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:

- Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:

- Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ [54, tr.193 - 194].

Khi nói về truyện ngắn Làng, Kim Lân bộc lộ:

Khi đưa vào nhân vật lão Hai, tôi muốn nói lão Hai yêu làng, tự hào về

làng mình. Nhưng càng yêu làng, tự hào về làng, thì khi làng theo Tây mới tô

đậm cái đau, cái nhục của lão Hai lên. Cái đau cái nhục ấy chính là lòng yêu

làng, yêu nước của lão [16, tr.269].

Ở truyện Bà Mẹ Cẩn, nhân vật bà mẹ Cẩn bị một số người “xì xầm” cho là

“trái tính, trái nết không mấy ai có thể ở chung được”, “dở hơi”. “Có người lại

bảo” bà “kỹ tính quá”, “hay làm quá”, “tham công tiếc việc cũng thật là quá

quá lắm nữa”. Những người có ý kiến như vậy bởi họ chỉ nhìn thấy những gì bà

mẹ Cẩn thể hiện ra hàng ngày, rõ ràng như một với một là hai. Người ta không

nhìn sâu vào cuộc đời bà - một quá khứ cứ dày lên theo ngày tháng những nỗi

đắng cay, đau khổ, dở dang về con đường chồng con. Quá khứ ấy đã tạo nên thái

36

độ sống, lối sống của bà: quen một mình, âm thầm, lặng lẽ. Người ta cũng không

hiểu được “cái tình yêu con một cách quá quẫn”, “thương con mà như cách trả

thù, âm thầm, gan góc, cô độc…” của bà. “Một bà mẹ như thế, nhưng ngay đợt

tuyển quân chống Mỹ đầu tiên trong xã, bà đã cho con đi bộ đội” [54, tr.512].

Chính bà đã tự mình “lên tận uỷ ban thắc mắc” cho đứa con trai duy nhất, người

thân duy nhất của bà đi bộ đội. Bà quyết cho con đi bộ đội vì không nghĩ “lẩn

mẩn”. Khi người con đi xa, thái độ sống đóng kín của bà đã thay đổi trước sự

kiên trì, chân thành của Ninh - một cô giáo sơ tán theo trường về xóm Châu

Viên. Trong không khí bộ đội và nhân dân khẩn trương chuẩn bị chống trả máy

bay địch đánh phá, tình cảm của mẹ Cẩn đối với Ninh ngày càng trở nên thân

thiết hơn. Tình cảm ấy như tình cảm của người mẹ dành cho con. Bà vui vẻ mở

rộng cánh cửa đón các anh chiến sĩ, lấy quần áo các anh về khâu vá… Nhân vật

bà mẹ Cẩn đúng là hình ảnh tiêu biểu của người mẹ Việt Nam trong kháng chiến.

Trong truyện Người chú dượng, ngòi bút Kim Lân thể hiện sự chuyển biến,

sự đổi thay trong cách nhìn nhận một con người cụ thể qua nhân vật Mộc gù.

Người kể chuyện - nhân vật xưng tôi, có vị thế là cháu gọi ông Mộc gù là chú

dượng đã miêu tả cái vẻ ngoài của ông, cái dáng điệu của ông khi mới bắt gặp

Ông ta là một người lùn thấp và to lớn bè bè như cái cối xay. Cả

người ông như bị một sức nặng gì đè cho lún xuống mà ông thì lúc nào

cũng đang lấy hết gân sức mình đội cái sức nặng vô hình ấy lên. Tất cả

những bắp thịt trên người, trên mặt, trên vai, trên cổ đều nổi u lên từng cục

và đang lặng lẽ di chuyển dưới lớp da đỏ cháy như đồng tụ. Ông ta chừng

độ ngoài năm mươi tuổi; mặt ngắn, trán ngắn, bàn chân, bàn tay đều to

ngắn, nứt nẻ, sần sùi như những cành củi gộc.

thật khó gây thiện cảm:

Khi tôi bước chân vào, ông vẫn ngồi bó gối trên giường, lưng và vai gù hẳn

xuống. Đầu và cổ thì rụt vào trong vai. Cả người đều sù ra như con gấu ngồi thu

hình, bằn bặt trong cái vắng lặng của mấy gian nhà, chỉ có hai con mắt chĩa ra

là thấy sáng lóng lánh [54, tr.467].

37

Kim Lân đã phác hoạ một bức chân dung thật chính xác về người lao động

nghèo ở vùng núi heo hút. Họ suốt đời phải căng cái thân mình bé nhỏ để chống

chọi với bao nhiêu là sức mạnh tàn khốc vô hình đang chực chờ đổ xuống đè nát

để bảo toàn sự sống. Cái dáng vẻ bề ngoài của ông Mộc gù dễ làm cho người đối

mặt muốn tránh xa, ngần ngại không muốn tiếp xúc. Rồi từ cái dáng vẻ ấy, sự

liên tưởng dẫn đến con đường hồi ức ở người cháu xưng tôi. Nhân vật tôi kể lại

những chuyện “người ta xì xầm với nhau” về hắn - “thằng Mộc gù khe đá đỏ”:

Người ta kể rằng trước kia hắn là một tay chơi đã can án giết người. Rồi

vượt tù trốn lên đây. Rằng trước ngày ta cướp chính quyền, hắn đã dắt dao đâm

chết bố con ông bạ Dưỡng ở cánh đồng Ba Trạc. Rằng hắn đã chém sả vào

người vợ của hắn trong một đêm hắn uống rượu say. Cái chân hắn đi khập

khiễng là hắn bị người ta cắt gân về tội gặt trộm lúa. Và bây Giờ thường ngày

vào rừng đốt than hắn vẫn đi lại với đám người Thổ, người Nùng, có nhẽ là thổ

phỉ, ở khe núi Sước… [54, tr.475 - 476].

Còn, còn nhiều nữa những lời đồn đại đáng ghét đáng sợ về “thằng Mộc gù

khe đá đỏ” lần lượt tái hiện trong trí nhớ của người trần thuật. Kim Lân hình như

cố ý khắc hoạ đậm nét hình ảnh nhân vật này theo“miệng lưỡi người đời”, có

nhiều phần quá đáng để gây ấn tượng với người đọc nhằm tạo nên một vế có sức

mạnh cần thiết cho cái phản đề thể hiện ý đồ viết truyện của tác giả: vẻ ngoài

của con người cứ ghi nhận nhưng đừng vội có thành kiến, dư luận ở đời có nhiều

nhưng đừng vội cả tin. Hãy kiểm chứng lại bằng thực tiễn. Người cháu đã gặp, đã

nghe người chú dượng - ông Mộc tâm sự về cuộc đời ông: những năm đói kém,

những khốn khó, những vất vả từ khi chưa đến cái trại Han heo hút này, những

nỗi đau “nát ruột, nát gan” mà người vợ phải lòng trai đã gây ra, đã làm cho ông

“gần hết một đời người” “chịu đeo tiếng là một thằng ngỗ nghịch, bị hàng xóm

hắt hủi ghê sợ”, “không thể sao gỡ được”. Ông Mộc gù âm thầm chịu đựng nỗi

oan ức, nỗi đau đớn cũng bởi ông là người thương vợ thương con:

Anh đỏ Mộc nát ruột nát gan, không hiểu sao lúc ấy anh lại càng thấy

thương yêu vợ mình. Anh nghĩ: chẳng qua là vợ anh nó dại, nó cả nghe người.

Với lại, vợ chồng ăn ở với nhau bằng ấy năm giời, đem nhau từ quê lên đây làm

38

ăn, không nhẽ mỗi lúc bỏ nhau? Mà anh, thì anh biết anh không bỏ được chị ta.

Anh say mê chị ta quá. Thôi thì, vợ mình trước sau vẫn là vợ mình, bới xấu nhau

ra làm gì cho thêm tan nát!…

Ngày ấy không có đứa con thì tôi cũng muốn chết quách cho rồi anh ạ.

Thương nó, mình phải sống mà nuôi nó [54, tr.487 - 488].

Có thấy và hiểu được sự thật đó thì mới hiểu được tất cả dáng vẻ bên ngoài

và thái độ của con người bất hạnh này. Có chứng kiến cái cảnh “mặt lão ta tái

nhợt đi”, “tất cả những thớ thịt trên mặt đều giật giật lên”, “lão cúi gằm mặt

xuống, thở ra một tiếng não nuột, nhấp nhỏm nhấc từng bước chân quay vào”

khi nghe “anh Hiền… ở Hà Nội lên” đón cái Sen về và hình ảnh “nét mặt ông

nhẹ nhỏm, rạng rũa hẳn lên” cùng với cái cười “thật hồ hởi, nhẹ nhõm” thì mới

thấy hết cái lòng thương con của một người cha suốt đời cực khổ, vất vả.

Tình cảm của ông Mộc (Người chú dượng) dành cho con cũng như của ông

Tư Mủng (Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê), ông Hai (Làng), bà mẹ

Cẩn (Bà mẹ Cẩn),… là chiếc nôi cho những đứa con từ đó mà trưởng thành, là

chất dinh dưỡng tăng thêm nguồn sống cho cả hai phía: những người làm con,

làm cái và những người làm cha, làm mẹ.

Trong các truyện ngắn của nhà văn Kim Lân, nhiều truyện của ông là truyện

viết về những con người bình thường trong cuộc sống đời thường - rõ nhất là

những truyện viết sau năm 1945. Cảm hứng của nhà văn hướng về những phẩm

chất của những con người bình thường trong cuộc sống đời thường. Trong cuộc

sống đời thường đó, phẩm chất con người dễ bị những mối quan hệ nhiều chiều,

nhiều hướng chi phối mà khuất lấp sau những cách ứng xử khác nhau, khó nhìn

thấy. Kim Lân, nhà văn của một vùng quê có nhiều đặc trưng và của một thời đại

có nhiều biến chuyển đã bằng kinh nghiệm sống của mình, nhận ra những cái còn

giữ lại và những cái đã biến đổi, những cái đang hình thành ở con người và cuộc

sống nơi quê ông. Những phân tích ở trên đã làm rõ điều này. Trong các truyện

ngắn viết trước năm 1945, hình ảnh con người hiện ra ở một dạng khác. Nếu có

người muốn tìm nguồn gốc xuất thân của những nhân vật thì họ sẽ nhận ra rằng:

các nhân vật ấy tuy được gọi là ông Cả, ông Trưởng, ông Chánh, ông Hương…

39

nhưng hoàn toàn không giống như những ông Cả, ông Trưởng, ông Chánh, ông

Hương… đích thực trong một cơ chế xã hội chặt chẽ và một trật tự xã hội ổn

định. Ở các nhân vật này, người đọc cảm nhận có một cái gì đó vượt ra khỏi

khuôn khổ xã hội. Trong số họ, có kẻ có nhà có đất, có làm ruộng làm vườn

nhưng không bị buộc chặt vào mảnh vườn thửa ruộng ấy. Có kẻ là người “thất cơ

lỡ vận” giữa buổi giao thời của cuộc thế. Họ đúng là những người “đầu thừa đuôi

thẹo”. Cách sống của các nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo” này thể hiện sự tự do,

phóng túng, tuỳ sở thích. Trong truyện ngắn Trả lại đòn, Chánh Bảy đã chiêu tập

“anh em”, tổ chức buổi “chợ đồng” thật rầm rộ để thực hiện cuộc trả thù theo lời

nguyền của tổ tiên. Sư Tuệ ở chùa Dận, “mười bảy, mười tám năm” “nấp bóng

cửa thiền làm ăn cho dễ”. Làm ăn ở đây là cướp bóc, làm những chuyện phi

pháp. Nhà “sư hổ mang” này có cả một tập hợp đàn em gồm “mười hai sơn môn

dưới quyền, nó chu cấp ăn tiêu quanh năm thừa thãi” [54, tr.141]. Sư Tuệ nhận

lời Chánh Bảy cùng đi chuyến “chợ đồng” không phải vì tiền, vì của mà để thoả

“chí yêng hùng”, vẫy vùng ngang dọc với các anh hùng “hảo hớn” trong xứ,

ngoài xứ. Đối với sư Tuệ “có đi chợ đồng với anh em là phải cộc trán với những

tay cừ khôi mới đã chứ” [54, tr.141]. Còn Chánh Bảy là “một người giàu có, tiền

rương thóc mục, ruộng sâu ao cá”. Đi chuyến “chợ đồng” là để thực hiện một

lời nguyền và còn bởi:

Những khi “đi chợ” cùng anh em, ấy là do cái lòng say mê không cùng của

nghề quyến rũ. Khi đã cùng anh em phừng phừng rượu, với chiếc mái chèo, xông

xáo giữa đám người đủ sào mác, càng nguy hiểm càng vui, càng tỏ được cái

tuyệt kỹ của nghề. Những lúc ấy sao mà ông say mê, tự hào đến thế. Lúc ấy ông

có một cái thú rùng rợn đùa với cái sống, cái chết của người và của mình [54,

tr.146 - 147].

Không ai biết những chuyện gì đã xảy ra giữa bọn họ với nhau. Người

ta chỉ thấy sau chuyến gặp gỡ ấy Ba Lai đi lại chơi bời thân thiết với cánh

anh em làng chơi của ông Chánh Bảy Đồng Kỵ .

Tuy vậy, ở cuối truyện, Chánh Bảy và sư Tuệ sang Hà Đông gặp Ba Lai:

40

Và cũng từ đấy cho đến mãi sau này người ta cũng không thấy người

Đồng Kỵ sang gặt cướp lúa của làng Trang Liệt nữa [54, tr.169 - 170].

Câu chuyện mối thù cầu Đôi giữa hai làng Trang Liệt và Đồng Kỵ mờ

nhạt dần và cứ như một truyện cổ tích. Dưới ngòi bút Kim Lân, sự phục

thiện của Chánh Bảy sau khi gặp Ba Lai ở Hà Đông chứng tỏ trong nhân

vật này vẫn luôn luôn tồn tại cái thiện. Vấn đề là ở chỗ, phải có một tình

thế nhất định, phải nhận ra và biết nhen nhóm để cái thiện đó bùng toả.

Như vậy, ở đây một lần nữa cái tâm của Kim Lân đã giúp ông nhận ra

những biểu hiện tích cực và sự hướng thiện của con người.

Trong các truyện ngắn Đôi chim thành, Con Mã Mái,… các nhân vật

có một số nét có thể gọi là tài hoa, phong độ khác thường như Cả Chuẩn -

một nhà nho “không hay chữ - nhất lại là nhà nho kiết nữa”. Cả Chuẩn

“bày biện” trong khoảng sân dù rất nhỏ bé của mình đầy đủ một “vườn

cảnh”: nào là giàn thiên lý, nào là bể cạn thả cá vàng, có hòn non bộ với

chùa với tháp:

Cả Chuẩn cố bày biện cho nó ra vẻ một cái vườn cảnh. Giàn thiên lý,

chính giữa, thấp lè tè, cành lá xum xuê che chiếc bể cạn thả cá vàng và bốn

chậu lan đặt trên đôn sứ cũ kỹ, sứt mẻ: hai chậu bạch ngọc và chậu nhất

điểm. Trong bể kê một hòn non bộ sần sùi, gân guốc; cỏ tóc tiên mọc um

tùm giữa một vẻ hoang vu bí mật đối với một bọn người sành bé nhỏ, đặt

theo điển tích. Nào chùa, tháp, cầu, quán chênh vênh hiểm trở; nào ngư,

tiều, canh, độc; nào cầm, kỳ, thi, tửu, nào Bá Nha ngộ Tử Kỳ; nào Sào Phủ

tẩy nhĩ… tất cả ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài

như thời Nghiêu Thuấn. Che tất cả hòn non bộ là một cái tán si. Gốc xù xì

thân uốn éo theo một kiểu nhất định [54, tr.58].

Tuy cái thú chơi thanh tao này không phải là cái thú chơi chính của Cả

Chuẩn, nó chỉ là việc làm của người “rỗi rãi quá” và là cách để “an ủi

41

mình và để lên mặt khinh đời”, để tỏ ra mình đang được hưởng “cái thú an

nhàn”… nhưng cũng đã thể hiện được vốn hiểu biết, trình độ thẩm mỹ và

sự khéo tay sắp xếp của ông ta. Sự tài hoa của Cả Chuẩn tập trung hơn ở

cái thú mà ông thích nhất là chọi gà. Cả Chuẩn nhìn vào con gà tức khắc

nhận ra mặt mạnh, mắt yếu của nó. Đánh giá các con gà chính xác, Cả

Chuẩn chọn giống để tạo tông gà, chăm sóc gà… cũng rất tài, rất giỏi. Nhờ

thế, ông có được một con Ô Mã Mái giành giải một cách oanh liệt sau trận

kịch chiến vô cùng ác liệt với con Hoa Mơ của Tư Méo. Trong truyện ngắn

Con Mã Mái, Hương Thân, Tư Chế, Tư Chuyên… cũng là những người

ham say thú chọi gà và có tài chọn gà như Cả Chuẩn.

Nếu Cả Chuẩn có năng khiếu chọn gà, nuôi gà chọi thì Trưởng Thuận

(Đôi chim thành) là nhân vật được Kim Lân khắc hoạ như một tiêu biểu

cho việc chọn chim, nuôi chim. Trưởng Thuận được biết đến với “cái tiếng

quần chim” “ăn khao liên tam trúng nức cả hàng phủ”, với “thành tích vẻ

vang chưa từng có”. Trưởng Thuận may mà mua được đôi chim tốt mà lại

rẻ. Nói may là một cách nói, thực ra Trưởng Thuận đã rất tinh khi mua đôi

chim này. Cái tinh của Trưởng Thuận đã khiến cho cụ Tú phải khen:

Cụ Tú thận trọng đỡ lấy con đực. Cầm gọn gàng trong tay, cụ nâng

đầu con chim lên, nhìn mắt, nhìn mỏ, tấm tắc khen:

- Tinh lắm, mắt ước thế này tinh lắm.

Rồi cụ sẽ sàng xoè cánh chim ra. Ngắm nghía hồi lâu mới đưa trả con

đực, xem đến con mái. Khi xem xong cả đôi chim, cụ nở một nụ cười khoan

khoái:

- Tinh! Trưởng Thuận tinh lắm! “cào bị”ấy kháp với nhau không tách

được [54, tr.36].

Tất nhiên, những nhận xét của cụ Tú, Trưởng Thuận đều đã biết, vì

ông là người từng ăn khao quần chim giật ba ngày ba giải liền. Cái tinh của

42

Trưởng Thuận không chỉ ở cách chọn chim, nuôi chim mà còn thể hiện ở

cách xem thời tiết, cách mở lồng chim:

Đặt lồng chim xuống vệ đường, ông Trưởng cởi dây, rút ống nước đâu

đấy, rồi mới quài tay ra sau lưng rút chiếc quạt giắt cặp quần, se sẽ đập

vào nan lồng. Đàn chim xô về một phía. Đập mạnh thêm mấy chiếc nữa,

ông mở bật nắp lên. Đàn chim bay ra một loạt, cánh vỗ phanh phách [54,

tr.38 - 39].

Tuy những dòng miêu tả của Kim Lân về những điều như thế có ít ỏi

nhưng cũng đủ cho người đọc cảm nhận được sự tài hoa của các nhân vật.

Quả là những thú chơi thanh tao, cao nhã, quả là những con người tài hoa

bặt thiệp. Như vậy, ở những trang viết về “thú đồng quê” hay “phong lưu

đồng ruộng”, Kim Lân đã làm nổi bật lên hình ảnh người nông dân “thông

minh, hóm hỉnh và tài hoa, đã đặt tất cả niềm say mê của mình vào những

thú chơi giản dị mà tao nhã tinh tế ấy, chẳng khác gì những tâm hồn nghệ

sĩ say mê sáng tạo nghệ thuật” [89, tr.758].

1.2.4. Cảm hứng về những sinh hoạt văn hoá ở vùng thôn quê

Hiện thực xã hội Việt Nam những năm 1930 - 1945 là nguồn đề tài phong

phú cho các sáng tác văn chương. Ở thời kỳ văn học này, các tác giả của các trào

lưu văn học khác nhau đều có hướng tiếp cận hiện thực của riêng mình. Văn học

lãng mạn có hai khuynh hướng chủ yếu và nổi bật. Khuynh hướng thứ nhất chủ

thuyết cải cách gia đình và xã hội theo con đường cách tân tư sản. Tiêu biểu cho

khuynh hướng này là các tác giả: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo… Khuynh

hướng thứ hai muốn thoát ly chính trị, tìm vào quá khứ, tình yêu và giải phóng cá

nhân. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các tác giả Thơ mới. Khác với trào lưu

lãng mạn, trào lưu văn học hiện thực phê phán tập trung khám phá sâu sắc về đời

sống xã hội và đặt ra những vấn đề có ý nghĩa lớn lao. Các tác giả đã bám sát đời

sống của những con người bình thường, phản ánh tình cảnh bị áp bức bóc lột của

người nông dân. Trong các sáng tác của các nhà văn Ngô Tất Tố, Nam Cao,

43

Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… các tác giả đã làm nổi bật mâu thuẫn

giữa tầng lớp nông dân với tầng lớp địa chủ phong kiến. Ngoài việc thể hiện mâu

thuẫn giai cấp, tình cảnh khốn khổ của người nông dân, một số tác giả đã chọn

hướng đi về nông thôn với việc miêu tả phong tục và các sinh hoạt văn hoá.

Kim Lân bước vào làng văn với những tác phẩm ít nhiều mang tính tự

truyện. Trong các tác phẩm: Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô

Vịa, Người kép già, Kim Lân tập trung thể hiện những con người thân thiết, cuộc

sống đói nghèo lam lũ của người dân quê. Bên cạnh những tác phẩm mang ý

nghĩa hiện thực, Kim Lân còn viết rất hay “về những cái gọi là “thú đồng quê”

hay “phong lưu đồng ruộng”. Đó là những thú chơi lành mạnh mang màu sắc

văn hoá truyền thống của người dân quê như đánh vật, nuôi chó săn, gà chọi, thả

chim” [89, tr.758].

Kim Lân là người làng Phù Lưu (chợ Dầu) huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Vùng Đông Ngàn Từ Sơn và rộng ra một số địa phương khác nữa ở đồng bằng

Bắc Bộ, từ tháng giêng đến tháng ba luôn có lễ hội, hết địa phương này đến địa

phương khác: hội Đồng Kỵ, hội Đình Bảng, hội Gióng, hội Văn Môn… Trong

các lễ hội này, thả chim, chọi gà, vật là những tiết mục thường có mặt. Đây là

những tiết mục hấp dẫn và lôi cuốn được nhiều người xem. Nếu xem thả chim là

thú chơi tao nhã thanh bình thì xem chọi gà, vật là những cái thú thưởng ngoạn

sự hùng dũng của sức mạnh và sự tinh khôn của tài trí. Những truyện ngắn viết

về đề tài này đã mang đến cho người đọc không khí tưng bừng, nhộn nhịp của

làng quê:

Tiếng trống vật nổi lên dồn dập. Người tứ xứ đổ về đông như nước chảy. Ai

cũng náo nức muốn xem mặt, xem tài ông Cản Ngũ. Người ta chen lấn nhau,

quây kín quanh xới vật; nhiều người phải trèo lên những cây trôi, cây nhội gần

đấy xem cho rõ.

Dưới mái tam quan đền, những vuông nhiễu điều bay đỏ rực. Các đô trong

tỉnh cởi trần, đóng khố ngồi hai bên xới. Trên thềm cao, ông Cản Ngũ ngồi xếp

bằng trên chiếc chiếu đậu trắng cạp điều. Ông ngồi một mình một chiếu; người

ông đỏ như đồng tụ, to lớn lẫm liệt, nhác trông không khác gì tượng hai ông

44

tướng Đá Rãi ở trong đền. Đầu ông buộc một vuông khăn màu xanh lục giữ tóc,

mình trần, đóng khố bao khăn vát [54, tr.287 - 288].

Đọc các truyện ngắn Cầu đánh vật, Thượng tướng Trần Quang Khải -

Trạng vật, Ông Cản Ngũ… người đọc không có cảm nhận về một nông thôn

buồn như trong tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng mà có cảm nhận về một

nông thôn náo nức, sôi động trong không khí của những sinh hoạt văn hoá:

Bắt đầu từ tháng tám trở đi, cứ chiều chiều bạn trai làng lại nô nức ra bãi

“tắm vật”. Tiếng cười nói vang lên một cánh đồng. Những tấm thân rám nắng nở

nang, lực lưỡng thi nhau hoạt động. Cỏ xanh trước cầu bạc trắng cả một vùng.

Họ vật ham lắm. Những hôm trăng sáng, mãi khuya họ mới chịu về [54, tr.46].

Vật là một môn cơ bản để từ đó mà luyện tập các môn võ thuật khác. Muốn

vật phải có sức, phải lanh lẹ khôn khéo mới mong thắng được đối thủ. Ham thích

môn vật là mong ước có được sức mạnh, có được tài trí, có được nghị lực ý chí

để tự khẳng định mình trong cuộc sống và để có đủ năng lực chiến đấu với mọi

lực lượng đối địch. Trong các sáng tác, Kim Lân hình như có nhiều cảm hứng

với môn vật. Chỉ riêng trong Tuyển tập Kim Lân, đã có 3/19 truyện viết về môn

này, chiếm tỷ lệ1/6: hai truyện viết trước năm 1945 (Cầu đánh vật, Thượng

tướng Trần Quang Khải - Trạng vật) và một truyện viết sau năm 1945 (Ông

Cản Ngũ). Trong các truyện này, các nhân vật say mê môn vật không chỉ là một

lớp người mà bao gồm nhiều thế hệ. Người đọc có thể bắt gặp những nhân vật

đang là những đô vật nổi danh như cụ Cả Lẫm, ông Cản Ngũ (Ông Cản Ngũ), cụ

Vệ Lẫm, Trạng Kế (Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng Vật) đô Cót (Cầu

đánh vật). Các nhân vật này được ngòi bút Kim Lân khắc hoạ, tôn vinh như là

những mẫu mực về sức lực, về sự nhanh nhẹn, về tài trí, về tinh thần thượng

võ… Bên cạnh đó còn có cả một lớp đô vật trẻ quyết phấn đấu rèn luyện vươn

lên như Quắm Đen, Tý Trâu (Ông Cản Ngũ), Vựa (Cầu đánh vật), Trạng Sặt

(Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật). Cũng có những nhân vật đã hết

một thời danh tiếng, cứ có mặt ở hội vật là không đô nào dám vào phá giải, liên

tục ăn giải cạn ba bốn năm liền như đô Cót (Cầu đánh vật). Các lớp đô vật trong

45

các truyện ngắn của Kim Lân đã tạo thành cái gạch nối giữa các thế hệ trước và

sau.

Viết về môn vật, ngòi bút của Kim Lân tỏ ra thông thạo và thích thú khi thể

hiện sức mạnh và tài nghệ của các đô vật:

Lên “đài” xong rồi vào “bá tay tư”. Bàn tay Sặt vừa đặt lên gáy Trạch

Khô, toàn thân hắn rung hẳn lên. Biết gặp phải tay địch thủ ghê gớm, Trạch Khô

không còn dám khinh thường, thận trọng từng miếng đánh, miếng gỡ. Một lát

sau, xem chừng không thể địch lại Sặt, Trạch Khô xuống “nằm bò”. Cái miếng

“bò cắm” này, khi nào cùng quá, y mới dùng. Đầu, bụng và chân tay như dán

xuống đất. Không một ai bắt nổi. Người ta thường đồn, khi mà Trạch Khô xuống

“bò cắm” thì dẫu lấy thuổng mà bẩy cũng không lên. Sặt loay hoay bắt bò. Đôi

bên xoay xoả bụi mù cả sới. Từ sáng cho đến đứng bóng, Sặt vẫn chưa làm gì nổi

Trạch Khô. Cậu nóng ruột quá. Sau cũng vớ được “tay khố đỉnh”. Cứ thế, Sặt

dùng toàn lực nhấc bổng Trạch Khô lên, trước muôn nghìn tiếng hoan hô của

mọi người [54, tr.112 - 113].

Miếng “bò cắm” của Trạch Khô cũng không cứu anh thoát khỏi thất bại

trước “thần lực” của Trạng Sặt. Cái “thần lực” ấy, ở ông Cản Ngũ lại được thể

hiện ở một dạng khác:

Ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người

xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi chân ông

Cản Ngũ lên. Cái chân tựa như bằng cây cột sắt chứ không phải là chân người

nữa.

Ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi mồ kê nhễ

nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc

bổng anh ta lên, coi nhẹ như ta giơ con ếch có buộc sợi rơm ngang bụng vậy [54,

tr.289 - 290].

Đó là sức mạnh thể chất của những đô vật mà người trần thuật khắc họa khi

kể lại. Ở truyện Cầu đánh vật, Kim Lân để cho một đô vật đã bước qua thời kể

lại các đô tiền bối của sân mình, làng bằng một giọng thật hể hả, tự hào. Khi nói

đến sức mạnh của các đô làng mình, đô Cót “tủm tỉm cười”, cặp mắt long lanh

46

nét mặt hân hoan rạng rỡ. Đô Cót hầu như không thể dừng lại được câu chuyện.

Thấy đêm đã khuya, ông bảo khách (nhân vật xưng tôi - người trần thuật) ngủ lại

nhà ông để ông kể tiếp chuyện Ngựa Lồng, Voi Cái. Ngựa Lồng là cái tên của

người bấy giờ đặt cho một anh chàng “khoẻ lắm”, đang tát nước mà bỏ gầu đuổi

bắt con ngựa của một Phú ông sổng tầu chạy nhông, dầy xéo lên những thửa mạ

xanh non. “Chỉ một loáng” anh ta đã bắt được ngựa trao trả cho nhà phú hộ nọ.

Còn Voi Cái là biệt danh của một cô gái chăn bò đánh ngã Ngựa Lồng sau khi

anh này giữ giải nhất hai keo. Hai nhân vật Ngựa Lồng và Voi Cái là hai hình

tượng về sức khoẻ mà khi kể lại, đô Cót trầm trồ ca ngợi như là thế hệ nối tiếp

các ông đô Tàn, đô Lọng, đô Cờ và sư phụ của Ngựa Lồng. Phải nói rằng, nhân

vật của Kim Lân trong các truyện viết về đề tài võ vật rất say mê và rất tự hào về

sân vật làng mình, xứ mình. Và không chỉ các nhân vật say mê tự hào về môn võ

vật, sân vật làng mình mà ngòi bút Kim Lân khi viết về các truyện này cũng tỏ ra

rất hào hứng, say sưa. Rõ ràng là nhà văn có niềm hứng khởi, sự thích thú đặc

biệt đối với môn võ vật và các tay đô vật tài nghệ. Có thể coi đây là một nét thể

hiện cảm hứng về truyền thống võ vật và “văn hoá vật” của nhà văn Kim Lân.

Vật không phải chỉ khoẻ mà con cần nhanh nhẹn mưu lược. Cần sức, cần

mưu nhưng cái nghệ thuật, cái tài hoa ở môn vật là người vật phải biết điều hoà

cho tiết tấu nhịp nhàng giữa sức với mưu. Không phải ai cũng có thể vật được.

Muốn trở thành đô vật giỏi phải luyện tập nhiều, phải được các đô vật lão luyện

truyền dạy các thế vật, các miếng bí hiểm. Bởi thế, môn vật là môn “võ biền”

nhưng cũng là môn năng khiếu, môn tài hoa. Với sự hiểu biết sâu sắc và lòng

say mê, Kim Lân đã mang đến cho người đọc những trang viết độc đáo hấp dẫn

về môn vật. Trong những trang viết này, người đọc nhận ra rất rõ ý thức đề cao

những giá trị văn hoá dân gian. Ông viết các truyện ngắn về môn vật còn bởi một

động lực sâu xa, đó là ý thức muốn lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá

Tiếc thay, thời thế biến thiên, tinh thần thượng võ của ta mỗi ngày suy

kém, môn vật vì đó - trừ một vài nơi ở thôn quê - không còn được rèn luyện

truyền thống của dân tộc:

47

như xưa, nên cũng vì đó mà không được người ta cổ xuý đến luôn luôn, gần

như là bị quên lãng vậy.

Đứng trước tình cảnh đó, ông Kim Lân cố ý muốn đem tất cả cái hay, cái lạ

đặc biệt của môn thể thao đó ra vẽ lại để cho ta cùng thấy một tinh hoa của đất

nước gần như mai một. Truyện này là truyện đầu trong tập truyện phóng sự về

môn vật. Sau đây, ông Kim Lân còn viết nhiều về đầu đề này, viết đủ hết các

ngón, các môn, cùng các chuyện chung quanh làng vật để làm quà cho các bạn

đọc Tiểu thuyết thứ bảy thân yêu mà cũng là để làm một tài liệu sau này cho

những ai muốn khảo về nước Việt Nam thượng võ [dẫn theo 54, tr.44 - 45].

Cũng từ ý thức gìn giữ phát huy những giá trị văn hoá cổ truyền, Kim Lân

đã có những truyện ngắn viết về các thú chơi đồng quê như: chơi gà chọi, chơi

chim… Chọi gà, thả chim là những thú chơi tao nhã có từ ngàn xưa. Kim Lân đã

viết về những thú chơi này bằng tất cả sự say mê và hiểu biết sâu sắc. Sự hiểu

biết của ông đã tạo nên nhưng trang viết đầy ắp những tri thức văn hoá:

Tuy rằng cùng đàn với nhau mà đôi gà ấy mỗi con một vẻ, mỗi con đánh

một đòn. Con Ô Mã Mái tảng dày, mi trờm làm cho đôi mắt ếch sâu hoắm vào.

Mỏ tam sơn, ba múi, quăm quắm như mỏ diều hâu. Mình củ đậu, đuôi lá vả, tỏ ra

có sức bền bỉ, gan góc. Nhất là đôi quản đen bóng, rắn cứng như thép nguội. Hai

hàng vẩy một song song chạy từ khoeo đến bàn. Quản bên phải, sóng ngang với

cựa có một chiếc vẩy rất nhỏ cài vào nữa. Theo những tay chơi, đó là chiếc vẩy

cáo, lợi hại lắm. Nó chuyên “hầu dọc” rất nhiều cần, cáo. Ai cũng phải chịu là

con gà hay.

Nhưng đến con Sám Miến Hồng thì mới thực là tài ba có một. Với đôi quản

đầy vẩy “khâu dao”, chỉ buông không cũng thành cần, cáo. Và nhất là ngón

“thái” vênh vênh kỳ quái. Nó đã lấy vừa đúng mười hai con mắt trong mười hai

trận đá. Sám Hồng khét tiếng lên là con gà kỳ tài. Đến nỗi vần khấu mỏ lấy giẻ

quấn chân lại, nó còn “buông” một đòn khiến con Mã Mái giãy lên đành đạch

[54, tr.71 - 72].

48

Có thể nói trước cách mạng tháng tám, Kim Lân đã tạo ra nét riêng bằng

những truyện nghiêng nhiều về phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi

lành mạnh ở thôn quê. Và qua những truyện ngắn này, nhà văn còn hướng đến

việc biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân trước cách mạng tháng tám. Họ là

những con người tài hoa, bặt thiệp. Có khi họ đặt tất cả niềm say mê hứng thú

vào một thú chơi:

Cả Chuẩn mê thích gà chọi lắm. Suốt ngày chỉ lăn lóc với gà. Ngay từ tờ

mờ sáng, chưa dậy được, nằm trên giường, ông đã để ý xem hôm nay con chuối

gáy mấy tiếng, con Bạch Nhạn gáy mấy tiếng. Có được mạnh mẽ không? Ông mê

đến nỗi chẳng thiết làm ăn gì cả. Chỉ khổ bà Cả và cô Tưởng. Hai mẹ con đầu tắt

mặt tối, ngược xuôi, tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình. Thằng cu Trạm lớn rồi vẫn

không được đi học. Phải ở nhà hầu hạ bố, nói là hầu hạ gà mới đúng. Lúc nào nó

cũng la cà ngoài bờ ruộng bắt nhái, hoặc cào cào, châu chấu đem về cho gà ăn.

Thằng bé đầy nắng đen sạm hẳn đi [54, tr.60].

Giữa lúc cuộc sống nhọc nhằn bức xúc ở nông thôn, những trang viết của

Kim Lân mang đến cho người đọc những cảm nhận mới: sau luỹ tre làng, người

dân quê sống lam lũ nhưng họ vẫn có những nỗi niềm hạnh phúc trong những thú

chơi tao nhã. Đó là niềm vui của Trưởng Thuận khi mua được đôi chim tốt, của

Cả Chuẩn khi đúc được một lứa gà chọi đầy hứa hẹn:

Rồi con Củi Tạ đẻ. Mỗi lần nghe nó “cục ta cục tác” hoà với hai con gà

trống kêu inh nhà lên, ông Cả lại vui sướng rộn rã. Có bận, chừng chếnh choáng

say, ông liếc bà, tủm tỉm nói lỡm:

- Đấy, bà mày nghe xem. Có phải con gà mái kêu: “Vừa đau vừa rát! Vừa

đau vừa rát!” thì con gà trống ở đâu te tái chạy lại dỗ dành: “Ai cũng thế! Ai

cũng thế! Ai cũng thế!” không?

(…)

Dứt lời ông cười ha hả.

Vả lại ông cũng không muốn ngủ, cứ thích ngồi rù trong chăn bông bên

ngọn đèn hút thuốc lào vặt và chú trọng nghe tiếng gà con chiêm chiếp, xao xác

đến vui tai [54, tr.69 - 70].

49

Trong các truyện ngắn viết về những sinh hoạt văn hoá của Kim Lân, hình

ảnh người dân quê là những con người thông minh và tài hoa. Họ quan niệm:

“Sống ở trên đời mà bo bo đồng tiền, chẳng biết ăn chơi là cái gì, chết thì cũng

hai tay buông xuôi, dễ mang được của đi chắc” [54, tr.59]. Họ không bị ám ảnh

bởi cái ăn, nỗi lo sưu thuế như trong truyện ngắn của Nam Cao, Ngô Tất Tố,

Mấy hôm nay, ở mé đình, suốt từ sáng đến tối, thỉnh thoảng lại

thùng thùng nổi lên ba hồi chín tiếng. Lối trống đánh gióng ba, đã

vì thói quen đời đời mà đưa vào bộ óc dân một ý nghĩa thúc giục.

Nguyễn Công Hoan…

Làng Việt Nam vốn quanh năm bình tĩnh hồi trống ấy lại luôn luôn làm

huyên náo ầm ỹ cho người ta sợ thêm, trong khi người ta đang sợ thuế. Người ta

sợ thuế, vì người ta lo không biết lấy đâu ra được tiền. Để dành gạo ăn đến hôm

sau cũng khó, huống chi một món tiền vài đồng bạc để nộp công sưu. Người ta sợ

thêm, vì nghĩ đến nỗi khủng bố mọi năm của tiếng quát tháo, chửi rủa, của sự

đánh đập, hình phạt, của những hơi thở dài ngầm vụng đàn bà con trẻ trong xó

tối, của những tiếng khóc rên rỉ người thiếu thuế ở góc đình [29, tr.147].

Trong các truyện ngắn viết về những sinh hoạt văn hoá, Kim Lân không làm

công việc khảo sát mà mô tả bằng con mắt của một nhà văn. Ở các truyện ngắn

Đôi chim thành, Con Mã Mái, người đọc có thể cảm nhận rất rõ không khí của

những ngày hội quần chim, chọi gà:

Dưới mái đình, những chiếc giải gà buộc lõng thõng. Ba chiếc giải: nhất,

nhì, ba; và năm sáu chiếc giải lèo. Những vuông lụa điều uốn éo nhẹ nhàng

trong cánh gió. Cu Trạm say sưa nhìn. Nó mơ ước một chiếc thắt lưng, trong khi

mọi người chàng màng tìm gà kháp đá [54, tr.85 - 86].

Có khi, người đọc bị cuốn hút thật sự vào một cuộc kịch chiến giữa con Hoa

Mơ của Tư Méo với con Mã Mái của Cả Chuẩn (Con Mã Mái). Để có được

chiến thắng, Cả Chuẩn đã mất ăn, mất ngủ, dành bao công sức, tâm huyết cho

con Mã Mái. Qua những trang viết về các thú chơi như: quần chim, chọi gà…

Kim Lân đã mô tả những thú chơi này một cách chính xác và tỉ mỉ. Nhưng ông

50

không dừng lại ở đó mà đi sâu vào thể hiện tâm trạng của người chơi chim, chơi

gà chọi. Có những trang viết Kim Lân đã hoà nhập vào nhân vật để diễn tả tâm

trạng các nhân vật một cách sâu sắc. Trong truyện ngắn Con Mã Mái, Cả Chuẩn

đã “mê man” đến quên ngủ ngắm con Mái Ô sò mãi đến khuya:

Cả Chuẩn trằn trọc không sao ngủ được. Ông cứ nghĩ lẩn quẩn về con gà

mái mới mua, và tưởng tượng bao nhiêu chiến công rực rỡ của đàn con nó sau

này. Mãi đến gần sáng, mới chợp đi được một lúc. Trong giấc mơ, ông chập

chờn thấy toàn những gà là gà [54, tr.64].

Cũng như Cả Chuẩn, Trưởng Thuận cũng “lử đử sốt” vì mất đôi chim quí.

“Xem chừng ông tiếc đàn chim lắm, nhất là đôi chim thành. Thỉnh thoảng ông lại

gọi cu Tạm hỏi chim đã về được con nào chưa” [54, tr.42]. Say mê những thú

chơi tao nhã, người dân quê hoà mình vào không khí lễ hội, họ quên đi những vất

vả của cuộc sống hàng ngày. Họ có thể “ngồi ngửa mặt lên trời” ngắm chim một

cách “mê man, quên cả sức nóng thiêu người của trưa mùa hạ”. Ở các nhân vật

Trưởng Thuận, cụ Tú, Cả Chuẩn, Hương Thân, Tư Chuyên… người đọc đều

nhận thấy ở họ có chung một nét tính cách. Đó là sự thông minh, hóm hỉnh và tài

hoa. Có thể nói, trong các truyện ngắn viết về đề tài những sinh hoạt văn hoá của

Kim Lân, người dân quê được thể hiện hoàn toàn khác so với hình ảnh người

nông dân trong các tác phẩm của Tự lực văn đoàn. Họ không phải là những

Mỗi lần nhìn người nhà quê nhem nhuốc ngồi bệt xuống đất, bên những đống rác hôi hám, hàng bán lèo

tèo mấy thứ quà vặt bẩn thỉu, đầy các bụi và mỗi lần ngửi thấy mùi quần áo, mùi mồ hôi của người lẫn với trăm

nghìn thứ mùi khác ở các hàng xông lên, Doãn có cái cảm tưởng khó chịu về sự bất dịch của xã hội quê, bao giờ

cũng khốn nạn, cũng xơ xác.

người bẩn thỉu, dốt nát như trong Hai vẻ đẹp của Nhất Linh:

Mô tả phong tục, Kim Lân có thể đi vào những khía cạnh khác nhau của

cuộc sống nông thôn. Trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, mẹ Tư với thầy

Tư lấy nhau không phải vì tình cảm. Họ lấy nhau vì nhu cầu cần có sức lao động

để làm nông nghiệp. Đây là một nhu cầu khá phổ biến trong các gia đình ở nông

thôn thời trước:

51

Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả

bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba

mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là

người quê mùa, nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ

Nhà văn Kim Lân từng nói:

chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc [54, tr.26].

Đất có lề quê có thói, văn hoá được tích tụ từ hàng nghìn năm, hàng trăm

năm. Nó tồn tại và phát triển trong mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi làng xã…

và từng làng được ghép thành cộng đồng, thành dân tộc, quốc gia… văn hoá

phải thuộc về một xã hội đang sống, chứ không phải cái gì cố định. Văn hoá,

hoặc như ta nói đất lề quê thói, không phải mỗi lúc mà có, cũng không phải mỗi

lúc mà mất được [1, tr.88].

Viết về phong tục, Kim Lân tiếp cận đề tài này ở nhiều phương diện khác

nhau. Trong truyện ngắn Đuổi tà, tác giả đã tái hiện một cách sống động tập tục

đuổi tà trừ ma mang đậm màu sắc dân gian. Đuổi tà là một tập tục đã gắn bó, ăn

sâu vào đời sống tâm linh của người dân quê. Mọi người ai cũng hiểu việc đuổi

tà có ảnh hưởng đến sự thịnh đạt suy vi của cả dân làng. Với vốn hiểu biết và sự

quan sát tinh tế, Kim Lân đã tái hiện một cách tỉ mỉ, sinh động nghi thức cúng lễ

và sinh hoạt tâm linh của người dân quê. Đây là cảnh chuẩn bị cho nghi lễ đuổi tà

đầu năm:

Các cậu lặng lẽ bày các thứ xuống chiếu dưới một mâm gạo trắng, một đĩa

muối, hai đĩa xôi, một con gà sống luộc chín vàng ửng uốn theo hình con

phượng, ở mỏ có cắm một chiếc hoa hồng, và một thúng toàn những thanh tre

vót sẵn.

- Đủ cả đấy chứ?

- Đủ cả đấy ạ.

- Một cậu mài cho tôi một đĩa mực. Một cậu mài cho tôi một đĩa son nhé.

- Vâng.

- Còn chỗ gạo, hai cậu đỗ lẫn muối vào trộn cho đều rồi xúc ra bốn cái đĩa

con [54, tr.125].

52

Còn đây là cảnh đuổi tà pha chút rùng rợn, huyền bí có nhiều

người tham gia:

Đến đền, ông tự Năm treo chiếc đèn cho cậu nhà oản, rồi sấn bước tiến lên trước. Một tay cầm kiếm gỗ,

một tay cầm cây gậy tầm xích, mắt nhìn thăm thẳm về phía trước như soi mói trong khoảng không những hình

ảnh vô hình…Ông tự xăm xăm tiến vào trong đền, cắm cây gậy tầm xích vào chiếc giá đặt trước hương án. Ông

tự Năm tay bắt quyết, miệng hô như quát tháo, ông chạy sầm sầm đủ bốn gốc đền. Trong khi ấy, bốn cậu nhà

oản chia ra bốn nơi ném gạo muối tứ tung. Và ông tự đã chờ sẵn từ trước, khua chiêng trống ầm ầm. Bỗng ông

tự Năm sầm sầm chạy ra ngoài sân đền. Bốn cậu nhà oản chạy theo ném gạo muối.

Ông tự miệng quát tháo, tay bắt quyết và giơ nắm hương thư

phù lên nền trời. Đốm lửa đỏ vạch những nét ngoằn ngoèo trong

bóng tối. Bốn cậu nhà oản chia nhau dựng bốn chiếc bùa bên bốn

cột cái nhà tiền tế [54, tr.128 - 129].

Qua nghi lễ đuổi tà, người đọc nhận ra quan niệm của người dân quê: những

sinh hoạt tâm linh luôn hỗ trợ cho hoạt động vật chất của con người. Và con

người muốn lợi dụng sức mạnh siêu nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình.

Sau những nghi lễ ấy, cuộc sống con người như thuận lợi, tốt đẹp hơn. Nỗi niềm

hạnh phúc thấm đẫm trong từng cảnh vật và mỗi con người:

Cảnh vật như thấm nhuần một nguồn sống mới mẻ. Mấy cây đa hai bên hồi

đền vừa đổi lá. Những búp non hồng hào mẫm mạp vươn lên hớp lấy ánh sáng,

lấy khí trời. Trẻ con hớn hở trong áo mới, sự sung sướng bồng bột, hồn nhiên

trên nét mặt ngây thơ. Tiếng chúng nó vang vang trong gió. Đôi lúc những xác

pháo hồng bay tung lên như muôn nghìn bông hoa đỏ quấn quít cả những tà áo

mới. Hạng lớn hớn hở hơn thì túm năm tụm ba mê mẩn với quân bài. Những cô

gái đến thì e lệ trong áo mới theo mẹ ra đền lễ thờ với một niềm vui kín đáo.

Những cậu trai mới lớn hãnh diện với điếu thuốc lá phậm phè trên môi. Các bô

lão, mặt đỏ gay, hể hả được ngày say tuý luý. Ai ai cũng vui. Tất cả những vẻ

đăm chiêu vì cuộc sống hàng ngày không còn vương trên mặt họ lúc này [54,

tr.130].

53

Họ sống chan hoà với nhau quên đi những tị hiềm trước đó. Hạnh phúc của

người dân quê thật đơn giản và mộc mạc. Cứ như thế, những trang viết của Kim

Lân đưa người đọc đến với không khí ngày xuân mang đậm sắc thái của làng quê

Bắc Bộ.

Như đã trình bày ở phần trước, trong các truyện ngắn lấy cảm hứng từ

những sinh hoạt văn hoá ở làng quê, Kim Lân đã phát hiện những nét tài hoa ở

những con người vào hạng dân thường, thậm chí nghèo khổ thất thế trong xã hội.

Đó là những nét tài hoa trong những thú chơi như: nuôi gà chọi, nuôi chim, tạo

dựng vườn cảnh, trong môn võ vật… Các nhân vật như Cả Chuẩn (Con Mã

Mái), Trưởng Thuận (Đôi chim thành), Ông lão làm nghề múa rối rong (Anh

chàng hiệp sĩ gỗ)… không có điều kiện tích luỹ kinh nghiệm và phát triển tài

hoa trong các thú chơi tao nhã như các nhân vật của Nguyễn Tuân trong Vang

bóng một thời. Ở các nhân vật của Kim Lân, cái tài hoa là cái tài hoa dân dã, tài

hoa của người dân quê. Dù có điểm khác nhau nhưng khi viết về các thú chơi

được coi là tao nhã, cả Kim Lân và Nguyễn Tuân đều xem những thú chơi này là

hiện thân của cái thiện, cái mỹ và nó có khả năng di dưỡng tâm hồn con người.

Xưa nay, con người dù là con người ở phương Đông hay ở phương Tây, vẫn

được coi trọng về cả hai mặt: phẩm chất đạo đức và tài năng. Đạo đức là phẩm

chất phổ biến ở con người, ai cũng có thể đạt được tuy ở những mức độ khác

nhau nhưng phẩm chất tài năng thì không phải ai cũng có thể có được, đạt được.

Phẩm chất đạo đức thể hiện trong sự tự ứng xử hàng ngày với bản thân và trong

quan hệ với đối tượng bên ngoài. Nó làm cho con người tốt hơn, đúng đắn hơn.

Phẩm chất tài năng giúp nâng cao giá trị con người, là yếu tố cần thiết để con

người tạo dựng sự nghiệp lớn. Thông thường, phẩm chất tài năng luôn đồng hành

với phẩm chất đạo đức, lấy phẩm chất đạo đức làm cơ sở, làm nền tảng. Tuy

nhiên, thực tế cuộc sống vô cùng đa dạng nên có nhiều trường hợp diễn ra không

theo sự thông thường đó. Có những hiện tượng giao lưu, kết hợp trái chiều kiểu

“có tài hay có tật”, “ ngựa chứng bất kham”, nhất là khi bị chi phối bởi quan

niệm “coi mặt mà bắt hình dong”. Ở những hiện tượng này, nếu chỉ dựa vào trực

cảm trước những biểu hiện bề ngoài của đối tượng hoặc những lời bình phẩm dễ

54

dãi về đối tượng sẽ không thấy được những yếu tố nhân tính tốt đẹp của con

người.

Nếu như Nam Cao đã phát hiện ra cái đốm sáng “muốn làm người lương

thiện” của Chí Phèo (Chí Phèo - Nam Cao) trong hoàn cảnh bị cái xã hội Bá

kiến, Lý Cường, Đội Tảo… làm cho mất hết nhân tính thì Kim Lân trong những

trường hợp thông thường, dễ gặp hơn đã nhận ra những nét đẹp về tâm hồn, về

tài năng của con người như: cụ Cả Lẫm (Ông Cản Ngũ), đô Tàn, đô Lọng, đô Cờ

(Cầu đánh vật), ông lão làm nghề múa rối rong (Anh chàng hiệp sĩ gỗ), Tần,

Trần Thái Tông (Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật),… Những nét

đẹp đó được bộc lộ một cách âm thầm lặng lẽ nhưng vẫn toả sáng lấp lánh. Nhận

ra được những phẩm chất cao đẹp của con người ẩn sâu sau bao lớp vỏ ngoài bề

bộn trôi nổi không chỉ là kết quả là của tài năng khám phá, không chỉ là sự bén

nhạy của cảm quan nghệ thuật, mà chủ yếu và đóng vai trò quyết định chính là

cái “thiên lương” của nhà văn.

Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt

Nam hiện đại. Cảm hứng sáng tác của Kim Lân tập trung vào hai mảng đề tài

lớn: cuộc sống, tâm tư tình cảm của những kiếp người nghèo khổ và những sinh

hoạt văn hoá cổ truyền ở nông thôn. Dù viết không nhiều, nhưng trước và sau

cách mạng tháng tám Kim Lân đều có tác phẩm hay. Truyện của Kim Lân viết về

những con người và những cảnh đời nhưng thấp thoáng trong mỗi truyện, người

đọc tinh ý sẽ nhận ra ở đây đó những dấu vết của con người và cuộc sống của

nhà văn. Cảm hứng sáng tác của Kim Lân xuất phát từ tấm lòng trắc ẩn, niềm

yêu thương, tinh thần trân trọng con người và cuộc sống của con người.

Đọc truyện Kim Lân, một số người cho rằng: ngoài cảm hứng sáng tác

thông thường, nhà văn còn có cảm hứng văn hoá và lịch sử. Cũng có nhà nghiên

cứu xếp Kim Lân vào hàng ngũ những nhà văn “ phong tục ”. Bên cạnh đó,

người đọc cũng nhận ra trong các truyện ngắn viết sau năm 1945 các sự kiện

được tác giả đề cập thường là những sự kiện có ý nghĩa xã hội - lịch sử như: nạn

đói năm 1945, cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám (Vợ nhặt); hoạt động

tản cư, sinh hoạt của cán bộ và nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp

55

(Con chó xấu xí, Làng); phong trào cải cách ruộng đất (Ông lão hàng xóm,

Người chú dượng); phong trào hợp tác hoá nông nghiệp (Ông Cả Luốn gốc me);

chuyện sơ tán, chống chiến tranh phá hoại trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ

(Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Bà mẹ Cẩn)… Ở các truyện ngắn

này, đời sống các nhân vật được Kim Lân phản ánh luôn gắn liền với vận mệnh

đất nước. Đây là cơ sở để nhà văn thể hiện trung thực, sâu sắc tâm lý, tính cách

con người.

Truyện của Kim Lân là truyện “nhân thế” (từ dùng của Hoài Anh). Cảm

hứng sáng tác của Kim Lân là cảm hứng về con người trong cuộc đời. Để làm nổi

bật tính cách của nhân vật, có khi nhà văn đã mở rộng dung lượng của truyện,

đưa vào một số sự kiện hoặc chi tiết, nhất là ở những truyện khắc hoạ cái tài hoa

của con người. Đặc điểm này thể hiện rất rõ ở các truyện: Cầu đánh vật,

Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật… Ở truyện Cầu đánh vật, bên

cạnh người trần thuật kể chuyện ở ngôi thứ nhất xưng tôi, Kim Lân để cho đô

Cót kể hết chuyện các ông đô vật lừng danh cả khi về già là đô Tàn, đô Lọng, đô

Cờ đến chuyện chàng trai Ngựa Lồng và cô gái Voi Cái nhằm làm nổi bật lòng tự

hào đến kiêu hãnh rất mực của ông đô hết thời này đối với truyền thống vật rực

rỡ của làng ông. Ở truyện Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật, bện

cạnh việc thể hiện cái tài ba dũng lược của Trạng Sặt, nhà văn còn đưa vào nội

dung tấm lòng thuỷ chung cao đẹp trong tình yêu đôi lứa của cô gái thôn quê

hiền thục (Tần) và của vị đứng đầu trăm họ (Trần Thái Tông). Ở những truyện

khác cũng có hiện tượng này nhưng mức độ thấp hơn. Có lẽ đây là lý do dẫn đến

đặc điểm truyện của Kim Lân vượt qua giới hạn mà lý luận văn học đã xác định

cho thể tài truyện ngắn. Và những đặc điểm này, ít nhiều đã tạo nên đặc điểm

nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân.

56

Chương 2

PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN

CỦA KIM LÂN

2.1. Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự

2.1.1. Khác với tác phẩm trữ tình, tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong

tính khách quan của nó. Tính khách quan được xem là “nguyên tắc tái hiện đời

sống và thuyết phục người đọc” [37, tr.375] . Tính khách quan là một thuộc tính

của thế giới nghệ thuật so với tính chủ quan của nhà văn. Khái niệm tính khách

quan trong tác phẩm tự sự là nội dung mang tính tương đối. “Đứng về bình diện

triết học, tác phẩm văn học là sự tái hiện đời sống khách quan thông qua sự nhận

thức, khái quát, đánh giá, thể hiện mang tính chủ quan của người nghệ sĩ, là sự

thống nhất biện chứng giữa chủ quan và khách quan” [57, tr.375]. Trong tác

phẩm tự sự, người trần thuật kể lại những gì xảy ra bên ngoài mình, tách biệt với

hệ chính nó, với nhà thơ và cả với người đọc… Ở đây không thấy nhà thơ; thế giới được xác định một cách lập thể, tự nó

phát triển, và nhà thơ dường như chỉ là người trần thuật giản đơn những gì đã tự nó xảy ra” [dẫn theo 57, tr.375].

Như vậy, tính khách quan trong tác phẩm tự sự là “ảo giác nghệ thuật về tính khách quan của văn học, là cái khách

quan mang tính thứ hai, so với tính khách quan triết học có tính thứ nhất” [57, tr.375].

2.1.2. Tác phẩm tự sự bao giờ cũng gắn liền với viễn cảnh tường thuật (phương thức trình bày) mà tác giả lựa

chọn để thể hiện những tư tưởng muốn diễn đạt trong tác phẩm. Theo Đinh Trọng Lạc, các tác giả có thể chọn các

phương thức: “Một là đồng nhất mình với bức tranh thực tế khách quan do mình tạo ra và hoà tan mình trong đó, hai

là tách mình ra khỏi bức tranh đó ở khoảng cách xa nhất và tạo ra một khoảng cách giữa mình với cái được miêu tả”

[40, tr.162]

Từ quan điểm trên và những biến thể của viễn cảnh thuật trong văn xuôi nghệ thuật, tác giả Đinh Trọng Lạc

rút gọn lại thành hai dạng viễn cảnh tường thuật:

Viễn cảnh tường thuật bao quát và viễn cảnh tường thuật tập trung. Trong viễn cảnh tường thuật bao quát

(hay còn gọi là không bị hạn chế) tác giả tách mình ra khỏi cái được miêu tả, tác giả dường như đứng ở trên các biến

mình [14, tr.148]. Bêlinxki khẳng định: “Thơ tự sự chủ yếu là thơ khách quan, bề ngoài cả trong quan

57

cố và các nhân vật, thực tế là tác giả có thể chuyển một cách tự do từ một chi tiết truyện này sang một chi tiết truyện

khác cả về mặt liên tục tuyến tính của không gian - thời gian cả về mặt phụ thuộc qua lại chiều dọc của nguyên nhân

- hệ quả. Trong viễn cảnh tường thuật tập trung (hay còn gọi là bị hạn chế) tác giả tiến hành sự mô tả nghệ thuật,

dựa vào bình diện cá nhân, dựa vào bình diện của “chủ thể người tường thuật” hoặc vào bình diện của “chủ thể -

nhân vật”. Người tường thuật được nêu trong văn bản có một thái độ nhất định đối với hành động nghệ thuật. Còn

nhân vật cũng đồng thời xuất hiện cả trong vai người tường thuật và do đó cũng có một thái độ nhất định đối với

hành động nghệ thuật [40, tr.162].

Cũng theo tác giả Đinh Trọng Lạc, hai dạng viễn cảnh tường thuật bao quát và viễn cảnh tường thuật tập trung

“có thể phối hợp trong những hình thức rất đa dạng” [40, tr.162 - 163]. Và “viễn cảnh tường thuật trong sự kết hợp

với cấu trúc văn bản cụ thể, cung cấp một kiểu tường thuật nhất định” [40, tr.164]. Các kiểu tường thuật đó là:

“Tường thuật của tác giả được khách quan hoá, câu chuyện đã được chủ quan hoá” và “ sự phối hợp giữa tường

thuật khách quan hoá và câu chuyện chủ quan hoá” [40, tr.164 - 165].

Trong tác phẩm tự sự, trần thuật bao giờ cũng được tiến hành bởi một người nào đó và với một tư thế nào đó.

Chủ thể trần thuật đóng vai trò giới thiệu, miêu tả, thuyết minh đối với sự kiện, nhân vật theo cách nhìn của người

trần thuật để định hướng, cắt nghĩa, “mách nước” cho người đọc. Do đó, trong tác phẩm tự sự, hình tượng người kể

chuyện không chỉ tái hiện cái được kể mà còn tái hiện người kể. Lựa chọn phương thức trần thuật là lựa chọn cách kể

và tư thế dẫn truyện của nhà văn. Phương thức trần thuật khách quan, phương thức trần thuật chủ quan hay sự phối

hợp hai phương thức trần thuật khách quan với phương thức trần thuật chủ quan đều là những phương thức phản ánh

đời sống. Các phương thức này không chỉ thực hiện nhiệm vụ kể chuyện mà còn bộc lộ cá tính, tài năng và phong

cách nghệ thuật của nhà văn.

2.2. Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân

Khảo sát 28 truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy có hai phương thức trần thuật cơ bản: phương thức

trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan. Ngoài ra, ở một số truyện, phương thức trần thuật có sự

phối hợp giữa phương thức trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan.

Trong lịch sử của loại hình tự sự, phương thức trần thuật khách quan không phải là thủ pháp nghệ thuật mới

mẻ mà phương thức trần thuật này xuất hiện rất sớm và hiện diện với một tần số rất cao. Đây là phương thức trần

thuật “vô nhân xưng” được tiến hành từ “một người lạ” đầy quyền uy, hiểu biết, định đoạt và đoán trước được tất cả

58

những gì liên quan đến câu chuyện: tình tiết, xung đột, các mối quan hệ và cả thế giới nội tâm của nhân vật. Ở

phương thức trần thuật này, người kể chuyện không can dự vào câu chuyện và “thường ít để lại dấu vết riêng của

mình, cả về phương diện nội dung tinh thần và hình thức ngữ pháp trong văn bản” [92, tr.149]. Theo Đinh Trọng

Lạc: “Trong tuyến tường thuật khách quan hoá, người tường thuật không được biểu thị trong văn bản, dẫn dắt câu

chuyện từ ngôi thứ ba. Người tường thuật không thuộc vào các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật, không gian và

hành động nghệ thuật, mà chỉ đứng sau hành động đó để quan sát” [40, tr.165].

Cũng cùng quan điểm này, Huỳnh Như Phương khẳng định:

Trong phương thức khách quan, sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của một người quan sát đứng ở

một góc độ nhất định nào đó. Trong trường hợp này, người trần thuật là người chứng kiến tất cả những gì mà người

ấy kể lại. Chỉ những hành động và sự kiện nào được người trần thuật tiếp cận từ phía của mình mới được miêu tả

[20, tr.201].

Theo các quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy: trong 28 truyện ngắn của Kim Lân có đến 20 truyện tổ chức

trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan. Đi vào khảo sát 20 truyện này, chúng tôi nhận thấy ở phương thức

trần thuật khách quan, truyện ngắn Kim Lân gồm các kiểu trần thuật sau:

2.2.1. Kiểu người trần thuật lạnh lùng

2.2.1.1. Đặc điểm nổi bật của tác phẩm tự sự là kể về một câu chuyện, một sự kiện về phía người khác. Đặc

điểm này đã tạo cho tác phẩm tự sự có cái nhìn khách quan đối với câu chuyện, sự kiện được kể . Ở kiểu trần thuật

lạnh lùng, dù người trần thuật chỉ miêu tả “những gì nằm dưới tầm quan sát của anh ta, những gì mà chính anh ta

trực tiếp cảm thấy hay nghe thấy” [20, tr.201] nhưng bao giờ người kể cũng luôn tách mình ra khỏi diễn biến của câu

chuyện và tạo một khoảng cách nhất định đối với câu chuyện được kể. Bên cạnh đó, ở kiểu trần thuật này, người kể

chuyện luôn luôn “ hướng sự quan tâm của người đọc đến những sự kiện cùng các tính chất của chúng mà không bày

tỏ thái độ của mình” [40, tr.165].

2.2.1.2. Trong 28 truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy tác giả sử dụng khá nhiều kiểu người trần

thuật lạnh lùng. Số lượng truyện ngắn sử dụng kiểu trần thuật này lên đến 19/28 truyện. Chúng tôi xin đề cập đến một

số truyện ngắn tiêu biểu.

Truyện ngắn Cô Vịa viết về cuộc đời đau khổ bất hạnh của nhân vật chính (Vịa). Ngay từ nhỏ, cuộc đời Vịa

đã chịu nhiều thiệt thòi: mẹ chết, cha lấy kế mẫu, cô sớm phải sống kiếp mẹ ghẻ con chồng, bị hành hạ khổ sở. Lên

59

mười tuổi, cha chết, “cô phải theo ông Đồ - anh con bác - lên phố huyện Đức Thắng buôn bán”. Cô “dành dụm được

gánh hàng xén khá nặng”. Nhưng rồi, kể từ ngày anh phải lòng anh Ấp bán dừa, cô trở nên “ đỏm dáng xa hoa” rồi

cuốn gói theo “tiếng gọi của ái tình”. Sau khi bị lừa tình, cô trở nên thân tàn ma dại:

Da vàng sủng, bấm ra nước. Cái váy đụp cũn cỡn để hở mấy vết chó cắn. Nước vàng rỉ ra loang lổ đọng trên

cặp chân gầy guộc [42, tr.6 phụ lục].

Kể về những bất hạnh của nhân vật Vịa, chủ thể kể luôn giữ một khoảng cách nhất định với câu chuyện. Sự

tách mình ra khỏi diễn biến câu chuyện và thái độ “lạnh lùng” của chủ thể kể còn thể hiện rõ ở những đoạn đùa cợt

nhẫn tâm của nhân vật Ứng đối với Vịa:

Tuy Vịa trách, Ứng biết Vịa vẫn còn hoài nghi, chưa tin anh ba nuôi nói là thật. Chàng tự nghĩ: “Nếu chẳng

nghi nó còn trách mình làm gì? Chẳng qua nó muốn dò hỏi mình đây. Đã thế nhân cơ hội này, mình nói dối lần

nữa”. Ứng vờ giận dữ:

- Việc gì mà xấu hổ? Cô tưởng tôi nói dối chắc… đây này…

Chàng móc túi lấy tờ giấy gấp tư chép bài vọng cổ, vừa giở vừa nói:

- Anh phán đường mới gửi thư cho tôi. Cô chẳng tin tôi đọc cho mà nghe. Rồi Ứng tự ý bịa ra, đọc: Nay tôi có

mấy nhời lên hỏi thăm, anh được mạnh khoẻ tôi mừng. Còn về phần tôi vẫn được như thường. Và nhờ anh một việc

như sau: anh làm ơn bảo giùm cô Vịa hộ tôi rằng nếu cô ấy không khoe khoang nữa, thì đến ngoài giêng tôi sẽ ném

túi giầu. Đấy có tin không? [42, tr.9 phụ lục].

Cũng như nhân vật Ứng, chủ thể kể tỏ ra “vô cảm” trước tình cảnh đáng thương của nhân vật Vịa. Đây là thái

độ tỉnh táo, kìm nén cảm xúc của người kể chuyện trước những bất hạnh chồng chất và bi kịch của nhân vật. Thái độ

này đã tô đậm thêm tính khách quan của câu chuyện. Từ đó, câu chuyện gợi ở người đọc nỗi xúc động mạnh mẽ về

cái chết thảm thương của một con người trên đường đi tìm hạnh phúc.

Ở truyện ngắn Cơm con (1943), tác giả sử dụng hình thức ngôi kể thứ ba (chủ thể kể vô nhân xưng). Người kể

chuyện trần thuật từ điểm nhìn người quan sát có một khoảng cách nhất định với câu chuyện được kể. Ở vị trí này,

người kể “giả vờ” không dính líu đến các sự kiện diễn ra trong câu chuyện, “thờ ơ” trước thái độ, hành động và lời lẽ

ngang ngạo của đứa con bất hiếu (cả Anh) đối với cụ Nhiêu:

Tức thì cả Anh quát bố:

- Khổ lắm nó đòi thì tôi cho nó ăn hộ tôi một tý. Giữ làm gì… Rõ cái nợ!

60

Không nhịn được nữa, cụ Nhiêu sa sầm mặt lại, hỏi:

- Anh bảo ai là cái nợ hử?

- A! Ông vặn lý tôi phỏng? Ai là cái nợ? Ai là cái nợ ông biết đấy!

Chính tâm hắn cũng không bảo ông cụ thật; vả từ xưa đến nay cụ Nhiêu chỉ biết phục tòng. Lần này bị hỏi

vặn, hắn cho là bố định gai sự với mình. Hắn tức lồng lộn lên, mặt tím bầm lại, miệng sầu bọt mép, lu loa như đàn

bà:

- Sao mà tôi nặng quả kiếp thế này! Tôi đến chết mất thôi chứ không sao sống được!

- Chết đi! Mày thử chết ông xem nào!

-A! ông rủa tôi chết phỏng? Này chết này! Này chết này! [54, tr.551- 552].

Ở đoạn văn trên, người đọc hầu như không nhận thấy thái độ của người kể chuyện. Chủ thể kể đã tách mình ra

khỏi câu chuyện để cho nhân vật tự bôc lộ tính cách qua ngôn ngữ và hành động.

Ở những đoạn văn khác, người đọc cũng có thể nhận thấy điểm nhìn của người trần thuật đối với sự kiện cũng

không thay đổi. Trong đoạn miêu tả thái độ, hành động của cô con dâu cụ Nhiêu sau những lời lẽ và hành động của

chồng mình, tác giả viết:

Mụ vợ lạch bạch từ nhà dưới chạy lên, mặt tái mét vừa thở, vừa kêu:

- Ối làng nước! Ới giời đất ơi! Ơi bố ơi là bố ơi! Khổ quá:

Cả Anh vẫn như mê man, mồm gào tay đập. Mụ vợ tiếc của, ôm chồng ru ngã xuống giường.

Cụ Nhiêu cuống quá sinh quẫn, lập cập nhặt những mảnh vỡ chắp chắp, nối nối. Mụ nguýt bố chồng:

- Chắp với chả nối… [54, tr.552 - 553].

Ở đây, người kể đã tô đậm thêm tính khách quan của câu chuyện tạo cho người đọc những suy nghĩ đánh giá

của riêng mình. Cũng với những đặc điểm của kiểu trần thuật này, người kể đã tạo ra sự đối lập có ý thức, khi kết

thúc truyện bằng một đoạn thể hiện tâm trạng cụ Nhiêu và hình ảnh Kề nhớn ra rả bài học luân lý:

Chiều đã tàn. Bóng tối nhờ nhờ bao trùm cảnh vật. Cụ Nhiêu ngồi âm thầm ở xó thềm. Gió nhẹ thổi lùa qua

kẽ rại kêu vù vù như tiếng thở dài bất tận. Chiều tàn thê lương quá. Thê lương như chuỗi ngày tàn cục của ông già

tuổi tác. Những giọt lệ vẫn âm thầm lăn trên gò má răn reo.

Trong khi ấy, ở mãi tận góc nhà, bên ngọn đèn hoa kỳ vàng kệnh, thằng Kề nhớn ra rả học bài luân lý:

- Bổn phận đối a với a cha mẹ. Bổn ư a phận đối a với a cha mẹ…

61

Cách ngôn: cha mẹ nuôi a con bằng a giời bằng bể; con nuôi a cha mẹ con kể từng ngày [54, tr.553].

Ở truyện ngắn này, sự đối lập giữa hành động của vợ chồng cả Anh với bài học luân lý thể hiện rất rõ thái độ

phê phán của chủ thể kể đối với những kẻ sống không có tình người, đạo lý. Ở đây, thái độ phê phán được thể hiện

“là do kết cấu của truyện, chứ không phải do sức gợi hình, gợi cảm của các phương tiện tu từ, bởi vì các từ ngữ”

[40, tr.167]. Và đặc điểm này đã góp phần tô đậm thêm tính khách quan của hiện thực đồng thời tạo được cảm giác tự

do “đồng sáng tạo” ở người đọc.

Khảo sát 28 truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy: đa số các truyện có cảm hứng về những sinh hoạt

văn hoá đều được tổ chức trần thuật theo kiểu trần thuật lạnh lùng. Ở các truyện Đôi chim thành, Con Mã Mái, Chó

săn, Cầu đánh vật, Đuổi tà… đặc điểm của kiểu trần thuật lạnh lùng thể hiện rất rõ. Sử dụng kiểu trần thuật này,

Kim Lân đã tái hiện một cách chân thực, sinh động những sinh hoạt văn hoá phong phú ở vùng thôn quê và thể hiện

vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân. Có thể nói, trong các truyện ngắn viết về đề tài sinh hoạt văn hoá dù được trần

thuật theo phương thức trần thuật khách quan nhưng tấm lòng yêu mến, trân trọng của Kim Lân đối với những giá trị

văn hoá truyền thống vẫn được bộc lộ một cách chủ quan và rõ nét.

2.2.1.3. Trong các truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy: các truyện tổ chức trần thuật theo kiểu trần

thuật lạnh lùng không phải bao giờ cũng được kể một cách hoàn toàn khách quan. Ở một số truyện, để tránh đơn điệu,

đôi khi chủ thể kể xuất hiện ở những lời bình luận, triết lý mang tính chủ quan.

Ở truyện Ông lão hàng xóm, dù chủ thể kể “nói về các sự kiện với một sự yên tĩnh điềm đạm” [74, tr.289],

nhưng thỉnh thoảng chủ thể kể cũng góp chuyện một cách kín đáo ở những lời bình luận mang tính chủ quan. Đây là

một ví dụ trong đoạn miêu tả chị cán bộ làm công tác cải cách ruộng đất và đoạn miêu tả ông lão hàng xóm của Đoàn

(Ông lão hàng xóm):

Chị có vẻ tươi tắn, phấn khởi của người con gái quê mùa mới lớn, gặp được cơ hội tốt, dễ dàng tiến bộ,

nhưng đồng thời cũng bộc lộ ra một vẻ tự đắc học đòi một cách nông nổi [54, tr.226].

Từ ngày cải cách ruộng đất bắt bớ giam cầm những người hoạt động cũ ở đây, ông lão càng hay hát. Hình

như ông lão hát cho đời đỡ quạnh hiu. Hát để thấy rằng mình còn sống ở cuộc đời này và cuộc đời này cũng còn

nhiều ý vị đáng sống [54, tr.248].

Nhận xét về đặc điểm này của truyện ngắn Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra ý kiến đánh giá

rất có cơ sở:

62

Đọc văn xuôi Kim Lân, ta học được cái thích thú lắng nghe. Lắng nghe người đời nói chuyện và qua đó ta

hiểu dần ra những chuyện đời. Nhà văn lẽ đương nhiên phải kể chuyện, nhưng ông thích giúp ta nghe chuyện và

thỉnh thoảng mới góp chuyện một cách kín đáo, khá kiệm lời và cũng phải nói rằng phong cách ấy cũng chỉ được

đạt tới độ chín đầy đặn trong vài ba truyện ngắn tiêu biểu nhất cho ngòi bút ông. Số lượng thì ít thôi, nhưng đấy là

những mẫu mực đáng hoc [2, tr.65].

Trong các truyện tổ chức trần thuật theo kiểu trần thuật lạnh lùng, chúng tôi nhận thấy thỉnh thoảng chủ thể kể

còn xuất hiện trong những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật. Ở truyện Đứa con người vợ lẽ, dù truyện trần thuật

theo kiểu trần thuật lạnh lùng như vẫn có đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật mang dấu ấn tự truyện của tác giả:

Tư nghĩ liên miên: anh thấy một niềm oán trách ngấm ngầm trong thâm tâm. Anh oán cha anh, người đã sinh

ra anh mà săn sóc không chu đáo. Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ

cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là

thằng thừa trong gia đình [54, tr.27].

Cũng với đặc điểm này, ở truyện Ông Cản Ngũ, chủ thể kể đã rút ngắn khoảng cách với câu chuyện để ca

ngợi tinh thần thượng võ và tấm lòng vì dân vì nước của cụ Cả Lẫm:

Cụ Cả Lẫm ngồi im trước mâm rượu. Những lời ông Cản Ngũ nói đúng vào ruột gan ông lão. Đúng là keo vật

đến lúc cụ phải đánh đến miếng “móc quai xanh” thì ông cụ có phân vân, suy nghĩ. Người đô vật khi phải đánh đến

những miếng hiểm độc đã là hạ sách rồi. Đấy là nước cùng, của một anh tầm thường, xấu chơi. Huống chi, ông Cản

Ngũ tiếng là đô vật, nhưng ông lại là một ông tướng nghĩa quân của quan Tán, có nên vì một keo vật mà làm hại một

người bấy lâu vì dân vì nước được không? Chính lúc cụ Cả Lẫm còn đang phân vân như thế, thì chợt đã thấy mình bị

ông Cản Ngũ đánh ngã rồi [54, tr.303].

Người đọc có thể tìm thấy khá nhiều đoạn như các đoạn trên ở các truyện tổ chức trần thuật theo kiểu trần

thuật lạnh lùng. Như vậy, ở kiểu trần thuật này, không phải bao giờ chủ thể kể cũng hoàn toàn tách mình ra khỏi câu

chuyện mà đôi lúc khoảng cách giữa chủ thể kể và câu chuyện đã được rút ngắn đáng kể. Sự rút ngắn này đã tạo nên

sự linh hoạt trong cách kể, tránh được sự đơn điệu và tạo ra đặc điểm nhiều giọng điệu. Có thể nói, đặc điểm này ở

truyện ngắn Kim Lân có những mức độ tương đồng nhất định với truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng

tám.

2.2.2. Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật

63

2.2.2.1. Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật là một kiểu trần thuật trong tuyến trần thuật khách quan. Theo

Đinh Trọng Lạc, ở kiểu trần thuật này “người tường thuật một mặt thì cố gắng tách mình ra khỏi diễn biến của

chuyện, nhưng mặt khác, khi cần thiết thì lại hoà mình vào với những nhân vật để phô bày toàn bộ cái thế giới nội

tâm của con người” [40, tr.168]. Như vậy, ngoài điểm giống nhau với kiểu trần thuật lạnh lùng, đặc điểm nổi bật của

kiểu trần thuật này là chủ thể kể khi cần thiết sẽ thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật để biểu hiện những suy

nghĩ, tình cảm và diễn biến tâm lý. Sự hoà mình của tác giả - chủ thể kể vào nhân vật thường được biểu hiện ở hình

thức lời nói nửa trực tiếp. Lời nói nửa trực tiếp là “lời kể của tác giả - người tường thuật, mà cũng có thể hiểu đó là

lời độc thoại nội tâm của nhân vật” [40, tr.169].

2.2.2.2. Trong 28 truyện ngắn của Kim Lân, kiểu trần thuật này chiếm một số lượng khá nhiều. Chúng tôi xin

đề cập đến một số truyện thể hiện rõ nét nhất.

Ở truyện Anh chàng hiệp sĩ gỗ, chủ thể kể về câu chuyện anh chàng hiệp sĩ gỗ trong cái hòm gỗ của ông lão

làm nghề múa rối rong. Ngoài những đoạn với lời văn trung tính của kiểu trần thuật khách quan, Kim Lân đã hoà vào

nhân vật để bộc lộ thế giới nội tâm của nhân vật:

Nước mắt người con gái tràn ra chẩy dòng dòng trên má. Anh chàng hiệp sĩ bỗng rùng mình, có một cảm giác

rất lạ. Một cảm giác mà khi là gỗ anh không thấy. Một cảm giác làm anh bồi hồi, lo lắng đang chạy rồn rập trong

lồng ngực anh. Anh trông thấy nước mắt. Lần đầu tiên anh trông thấy nước mắt, mà lại nước mắt của một cô gái

ngây thơ, hiền hậu chẩy ra. Anh thấy hình như yếu đuối, hình như những ý chí chiến đấu trong người bấy lâu bị hụt

đi [54, tr.332 - 333].

Ở đoạn trên, chủ thể kể hoà vào nhân vật, nhìn các sự kiện bằng con mắt của nhân vật, thâm nhập vào suy

nghĩ và ấn tượng của anh chàng hiệp sĩ gỗ để biểu hiện sự phân vân và những cảm giác kỳ lạ khi anh lần đầu tiên

được làm người thật. Sự thâm nhập này làm cho cách kể trở nên sinh động và tạo cho người đọc ấn tượng như đang

sống cùng đời sống nội tâm của nhân vật.

Để khắc phục sự đơn điệu, nhạt nhẽo của lời văn trung tính của phương thức trần thuật khách quan, khi cần

thiết chủ thể kể sẽ hoà vào nhân vật và thế giới riêng của nó. Ở trường hợp này, “người trần thuật bắt đầu nhìn thế

giới theo con mắt của một nhân vật, thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của người ấy” [74, tr.290]. Trong đoạn thể

hiện suy nghĩ, ấn tượng của nhân vật Đoàn (Ông lão hàng xóm) về chị cán bộ làm công tác cải cách ruộng đất, nhà

văn viết:

64

Không hiểu sao, nghe chị cán bộ này quát tháo, đoàn không thấy sợ hãi, bực tức hay bối rối trong lòng. Có lẽ

Đoàn nghe mãi quen rồi, có lẽ đối với chị cán bộ này đoàn cũng có ý coi thường, Đoàn đánh giá chị ta chỉ là cốt cán

mới đi công tác độ vài đợt, có đôi điều với chị ta cũng chẳng giải quyết được gì. Xem ra chị ta có quan tâm đến việc

này đâu, quát tháo một hồi ở đây xong, ra ngoài kia nhảy lên cái xe đạp kính coong một hồi là quên hết [54, tr.227].

Kim Lân đã hoà vào thế giới riêng của nhân vật và tác giả như “trao ngòi bút cho nhân vật, để nhân vật tự

viết với giọng điệu riêng của nó” [21, tr.64]. Ở trường hợp này, khoảng cách giữa chủ thể kể và nhân vật dường như

không có và điểm nhìn của chủ thể kể và nhân vật được hoà nhập làm một .

So với kiểu trần thuật lạnh lùng, đặc điểm nổi bật của kiểu trần thuật này là sự hoà mình của tác giả - người kể

vào các nhân vật trong truyện. Sự hoà nhập này đã tạo ra khả năng khai thác triệt để tâm lý nhân vật, và “trong khi

người trần thuật ghé vào một nhân vật nào đó thì phải sử dụng nhiều lời nói nửa trực tiếp, làm cho giọng điệu của

người trần thuật và nhân vật chập làm một” [74, tr.29]. Người đọc có thể tìm thấy nhiều đoạn mà trong đó lời của

chủ thể kể và lời độc thoại nội tâm của nhân vật hoà vào nhau làm một:

Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán

vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con cái là lúc trong nhà ăn nên

làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt của bà rỉ xuống hai dòng nước

mắt… biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? [54, tr.209 - 210].

Có thể tìm thấy nhiều đoạn tương tự. Ở những trường hợp này, chủ thể trần thuật kể về điều xảy ra nhưng

đồng thời cũng là lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Trong thực tế, lời độc thoại nội tâm của nhân vật và lời thuyết

minh giải thích của tác giả có khi được phân biệt nhưng cũng có khi hoà vào nhau rất khó phân biệt. Trong trường

hợp có sự hoà nhập vào nhau giữa lời kể, lời thuyết minh của tác giả với lời độc thoại nội tâm nhân vật, hình thức lời

nói nửa trực tiếp được sử dụng. Điều này thường dẫn đến sự pha trộn quan điểm của chủ thể trần thuật và nhân vật

trong truyện.

2.2.3. Phương thức trần thuật khách quan và những truyện ngắn mang dấu ấn tự truyện của Kim Lân

2.2.3.1. Như đã trình bày ở phần trước, Kim Lân sinh ra trên mảnh đất “đời tạo văn nhân”, “nhân tài nẩy nở”

nhưng ông không giống nhiều nhân tài ở đất Phù Lưu. Ông có đời sống riêng tư thua thiệt: con người vợ lẽ bị mọi

người xung quanh rẻ rúng, bố mất sớm, nhà nghèo phải bỏ học đi làm… Chính hoàn cảnh thua thiệt và thân phận

hẩm hiu đã thôi thúc Kim Lân cầm bút. Từ ý nghĩ cương quyết đó, Kim Lân đã có những truyện ngắn đầu tay: Đứa

65

con người vợ lẽ (1942) Đứa con người cô đầu (1942), Người kép già (1942), Cô Vịa (1942)… Đây là những câu

chuyện viết về chính bản thân nhà văn. Qua những truyện ngắn này, Kim Lân đã bộc lộ rất rõ những tâm tư, tình cảm

của mình.

2.2.3.2. Trong các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan của Kim Lân, chúng

tôi nhận thấy đa số các truyện ngắn của ông đều được tổ chức trần thuật theo hai kiểu: kiểu trần thuật lạnh lùng và

kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật. Ở các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo hai kiểu trần thuật này, dù được trần

thuật theo phương thức trần thuật khách quan nhưng người đọc vẫn cảm nhận rất rõ những trải nghiệm, những ấn

tượng, những dấu ấn về hoàn cảnh riêng tư của chính nhà văn. Trong các truyện ngắn: Đứa con người vợ lẽ, Cô Vịa,

Vợ nhặt, Làng… người đọc có thể tìm thấy những tương ứng nhất định giữa hoàn cảnh và những trải nghiệm của nhà

văn với thế giới mà tác giả thể hiện trong các tác phẩm.

Trong truyện Đứa con người vợ lẽ (1942), người đọc có thể nhận ra những nét tương đồng giữa hoàn cảnh

của nhân vật chính (Tư) với hoàn cảnh nhà văn. Ở đây, người trần thuật không xuất hiện và nói về các sự kiện với

một “sự yên tĩnh điềm đạm” nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra rất rõ những dấu ấn tự truyện của nhà văn. Đó là sự

tương đồng giữa hoàn cảnh, tình cảm của nhà văn với những sự kiện liên quan đến nhân vật chính (Tư). Có thể nói,

Đứa con người vợ lẽ là truyện ngắn mang nhiều dấu ấn tự truyện nhất của Kim Lân. Nhà văn có lần tâm sự:

Truyện ngắn đầu tiên của tôi có cái tên là Đứa con người vợ lẽ, in ở tờ Trung Bắc chủ nhật, khoảng năm 40 -

41. Đúng là truyện của mình với tất cả nỗi hờn tủi của mẹ con tôi. Truyện in rồi, ông anh cả của tôi (con bà cả) cứ

lục vấn, hạch sách tôi mãi [54, tr.599].

Xét về nghệ thuật trần thuật, Đứa con người vợ lẽ là một hiện tượng thể hiện sự sáng tạo của nhà văn Kim

Lân. Nếu ở phương thức trần thuật khách quan, chủ thể trần thuật thường giấu mình rất kĩ nhưng ở một số đoạn trữ

tình ngoại đề, chủ thể kể đã xuất hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu. Trong một đoạn thể hiện tâm trạng nhân vật, tác

giả viết:

Tư nghĩ liên miên: anh thấy một niềm oán trách ngấm ngầm trong thâm tâm. Anh oán cha anh, người đã sinh

ra anh mà săn sóc anh không chu đáo. Anh oán một cái gì không tên đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ

cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là

thằng thừa trong gia đình. Tư thấy bứt rứt khó chịu. Những ý tưởng hỗn loạn ở trong óc. Anh thong thả nằm xuống.

66

Mắt nhắm lại muốn ngủ đi, để những tư tưởng hắc ám khỏi đến quấy nhiễu. Nhưng không sao ngủ được với cái dạ

dày [54, tr.27].

Dù tách mình ra khỏi câu chuyện, nhưng ở đoạn văn trên người trần thuật đã bộc lộ thể hiện mình một cách

khéo léo. Người trần thuật trực tiếp phơi bày, phân tích tâm lý nhân vật. Giọng của người trần thuật hoà vào giọng

nhân vật rất khó phân biệt. Hình thức lời nói nửa trực tiếp được sử dụng. Ở trường hợp này, lời của người trần thuật

mang ý thức của nhân vật. “Trong lời nói nửa trực tiếp vẽ lên những lời và đoạn câu của kẻ được nói đến trong ngôi

người thứ ba. Người trần thuật, tác giả ở đây dường như làm cho cách phát ngôn của mình thích nghi với cách nói

của nhân vật” [74, tr.274]. Như vậy, đây là sự khéo léo để tự hiện diện, tự bộc lộ của người trần thuật. Sự khéo léo

này đã mang đến cho chủ thể trần thuật một tư cách xuất hiện mới. Với tư cách này, chủ thể trần thuật đã tạo ra sự đa

dạng trong phương thức trần thuật và làm giảm bớt bản chất trung tính của phương thức trần thuật khách quan.

Nhà văn Kim Lân từng nói: “Tôi chỉ muốn thể hiện một cách rõ nét con người tôi qua trang viết” [54, tr.19].

Khảo sát các truyện tổ chức trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan của ông, chúng tôi nhận thấy có một

số truyện ngắn nhà văn đã sáng tạo trên cơ sở của những sự kiện đời sống mà tác giả trải qua. Đó là những biến cố,

những sự kiện, những kỉ niệm đã để lại những dấu ấn sâu sắc đối với nhà văn. Do vậy, dù được tổ chức trần thuật

theo phương thức trần thuật khách quan nhưng ở một số truyện ngắn, người đọc vẫn có thể nhận ra dấu ấn tự thuật

của tác giả. Và những ấn tượng về đời sống riêng tư đã trở thành ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật của nhà

văn.

Ở truyện ngắn Vợ nhặt, người đọc có thể nhận ra bóng dáng của tác giả qua hoàn cảnh, những trạng thái tâm

lí của nhân vật Tràng. Nhà văn từng nói:

Nhân vật Tràng lấy ở tôi nhiều hơn, nhưng tôi không phải kéo xe bò và cũng không có những cuộc gặp gỡ

như thế. Hoàn cảnh trong truyện cũng giống hoàn cảnh của tôi lúc đó. Tôi mới lấy vợ, chưa có con, khi lấy vợ đã gặp

cái đói và bà mẹ tôi là hình ảnh bà cụ Tứ trong truyện. Nhà tôi không phải là nhà tranh vách đất, nhưng nghèo nên

phải buôn bán cám và xe từ làng ra chợ phố Mới (Hà Nội) để bán, tôi phải đi theo để canh không sợ bị cướp cám,

hoàn cảnh không ăn nhập gì với truyện nhưng nó gần với cảnh đói tháng ba. Ngày ấy gia đình tôi phải ăn cháo cám

và phải ăn độn thêm rau chuối thái nhỏ. Mẹ tôi là vợ ba trong một gia đình. Và hình ảnh bà cụ Tứ là hình ảnh mẹ tôi,

vợ anh Tràng cũng là vợ tôi. Hồi đó đi xe bò cũng có một cô gái xinh đẹp tên là Ứng - con một ông coi lăng cùng đi

bán cám với vợ tôi. Vợ tôi đẩy xe và cô ấy cầm càng, tôi cầm đòn gánh theo để canh phòng [54, tr.21].

67

Đọc truyện ngắn Làng, người đọc cũng nhận ra sự tương ứng nhất định giữa tác giả và nhân vật chính (lão

Hai). Lão Hai là người nông dân được cách mạng mang lại quyền sống, quyền tự do và quyền làm người. Ở nhân vật

này, người đọc không thấy bóng dáng của sự nhẫn nhục, cam chịu. Lão là người hồ hởi, nhiệt tình gánh vác công việc

của cách mạng. Tình cảm yêu nước của lão Hai thật cảm động. Tình cảm của lão Hai đối với làng chợ Dầu cũng

chính là tình cảm của Kim Lân dành cho làng của mình. Nhà văn từng nói: “Tôi là người rất gắn bó với làng tôi. Chỉ

hai, ba ngày không về làng là tôi nhớ, đi đâu xa vài ngày là tôi nhớ làng không chịu được” [16, tr.267]. Kim Lân

cũng đã nói về truyện này:

Lúc ấy, Tây còn đóng ở cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là “làng chiến

đấu”. Trong không khí ấy, cùng với dư luận bán tín bán nghi về làng chợ Giầu việt gian đã khiến tôi viết truyện này.

Ông lão Hai chính là tôi. Dù nhiều khía cạnh, tất nhiên rất khác. Song cái cốt lõi tâm trạng vẫn là tôi, đó là tâm lí rất

thật của dân tản cư. Bà chủ nhà tôi ở ngày ấy là có thật, đến nay vẫn còn sống [54, tr.19].

Còn khá nhiều những biểu hiện của tính tự truyện trong các truyện viết về đề tài cuộc sống, tâm tư tình cảm

của những người nghèo khổ. Ngoài ra, trong các truyện viết về đề tài sinh hoạt văn hoá, thuần phong mỹ tục, người

đọc cũng bắt gặp một Kim Lân “hào hoa mã thượng trong không khí văn chương sang trọng” [54, tr.18]. Ở những

truyện viết về đề tài này, dù nhà văn trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan nhưng người đọc vẫn cảm

nhận được rất rõ tấm lòng yêu mến, trân trọng của ông đối với những giá trị văn hoá truyền thống.

2.1.3.3. Trong một số truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy những biểu hiện của tính tự truyện là

một đặc điểm khá độc đáo. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ Kim Lân đã có sự vận dụng sáng tạo phương thức trần thuật

khách quan. Nhà văn đã khéo léo đưa vào tác phẩm của mình những yếu tố tự truyện. Ở điểm này, Kim Lân có những

nét tương đồng nhất định với các nhà văn lãng mạn như: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh… Nhà nghiên cứu Lữ

Huy Nguyên đã xem đặc điểm này là “một sự hơi lạ” và lí giải nó như là nguồn gốc của hiện tượng viết ít của Kim

Lân. Bởi, “ông không thể viết cái gì mà không có mình ở trong đó, hoặc có viết cũng khó thành công như tập truyện

ngắn Nên vợ nên chồng và truyện phim Cô gái công trường, mặc dầu đó là những tác phẩm rất kịp thời và có ích”

[54, tr.22]. Có thể nói, ở các truyện ngắn thành công của Kim Lân, người đọc đều tìm thấy rất nhiều yếu tố tự truyện.

Những yếu tố tự truyện như là những mảng đời của nhà văn được “xắn ra”. Đó là khởi nguồn cho những cảm hứng

sáng tạo, là cơ sở để tạo nên giá trị của tác phẩm. Nhà văn từng nói: “ Những truyện tôi thích và cũng được nhiều

người thích, đều là những cái tôi viết về chính mình, về làng xóm mình, người thân mình” [75, tr.81]. Do vậy, ở

68

những tác phẩm thành công, người đọc đều tìm thấy con người nhà văn trong đó. Và đặc điểm độc đáo này đã tạo cho

truyện ngắn của Kim Lân tính hiện thực chân chất, sự ấm áp của những tình cảm đôn hậu, nhân nghĩa và thuỷ chung.

2.3. Phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn của Kim Lân

Phương thức trần thuật chủ quan là phương thức trần thuật được tiến hành từ ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Người

trần thuật là một trong các nhân vật và sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của nhân vật này. Từ điểm nhìn của

một nhân vật, người trần thuật “có khả năng nhìn thấy được tất cả mọi sự và có khả năng đi sâu vào thế giới nội tâm

của nhân vật” [20, tr.202].

Đặc điểm nổi bật của phương thức trần thuật chủ quan là người trần thuật “xuất hiện như một con người thực

hiện hữu trong thế giới mà các nhân vật đang hoạt động” [20, tr.202]. Với vai trò vừa là một nhân vật, vừa là người

kể chuyện, người trần thuật sẽ kể lại những gì mà người ấy đã chứng kiến, trải qua và trở thành “người bình luận từ

bên trong” [40, tr.165]. Theo quan điểm của Huỳnh Như Phương, đây là phương thức trần thuật “ có tính chất nội

quan”. “Hành động của nhân vật được miêu tả dựa trên trạng thái nội tâm của nhân vật đó, từ điểm nhìn của chính

anh ta hay điểm nhìn của một người quan sát có năng lực phân tích tâm lí” [20, tr.202]. Chính từ những đặc điểm

trên mà “sự trần thuật mang tính cá thể hóa rất cao, nó diễn đạt rất sâu sắc những tâm trạng, tình cảm và sự nếm

trải của con người” [20, tr.202].

Khảo sát 28 truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi thấy có 8 truyện tổ chức trần thuật theo phương thức trần

thuật chủ quan. Tuy chiếm số lượng ít hơn số lượng truyện trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan nhưng

đây là một hiện tượng khá đặc biệt ở truyện ngắn Kim Lân. Trong 8 truyện tổ chức trần thuật theo phương thức trần

thuật chủ quan, có 2 truyện tổ chức trần thuật theo kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện (Cầu

đánh vật, Vợ chồng anh đội trưởng) và 6 truyện tổ chức trần thuật theo kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người

dẫn truyện vừa là một nhân vật (Đứa con người cô đầu, Người kép già, Thư phát động, Ông Cả Luốn gốc me, Con

chó xấu xí, Người chú dượng).

2.3.1. Kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện

2.3.1.1. Theo Đinh Trọng Lạc, “đây là kiểu người kể không được nêu đặc trưng một cách cặn kẽ trong văn

bản, vì anh ta chỉ là một hình tượng giả định, được tác giả sử dụng làm một người trung gian tưởng tượng ra giữa

độc giả và cái được mô tả, vì anh ta không tham gia vào sự phát triển của các biến cố, sự kiện, tính cách nhân vật

trong tác phẩm” [40, tr.182]. Đặc điểm cơ bản của kiểu trần thuật này là người trần thuật không tham gia vào biến cố

69

của truyện, giữa người trần thuật và câu chuyện luôn có một khoảng cách cần thiết để tạo ấn tượng về tính khách

quan. Đây là kiểu trần thuật cá thể hoá không rõ nét. Người trần thuật luôn giấu bớt (hạn chế) cảm xúc của mình

trong miêu tả để tạo cho người đọc cách cảm nhận, đánh giá của riêng mình.

2.3.1.2. So với các kiểu trần thuật khác, số lượng truyện ngắn tổ chức trần thuật theo kiểu trần thuật này chiếm

số lượng rất ít (2/28 truyện). Trong hai truyện này, có một truyện viết trước năm 1945 (Cầu đánh vật) và một truyện

viết sau năm 1945 (Vợ chồng anh đội trưởng).

Ở truyện Vợ chồng anh đội trưởng, người trần thuật (tôi) kể lại những sự kiện mà mình chứng kiến, dưới cái

nhìn là quan điểm của mình. Nhân vật tôi lựa chọn, sắp xếp các sự kiện trần thuật theo quan điểm của riêng mình. Ở

đây, người trần thuật tôi chỉ là một hình tượng giả định đóng vai trò chứng kiến toàn bộ câu chuyện vợ chồng anh đội

trưởng trong một chuyến công tác đến Tam Tiêu: “Chiều chiều sau bữa cơm, tôi thường bắc cái chõng tre ra ngồi

hóng mát một mình trước sân nhà. Những lúc ấy cái cảnh sinh hoạt buổi tối của gia đình anh cứ diễn ra trước mắt

tôi một cách tự nhiên, bình thản như nó vẫn diễn ra hằng ngày” [49, tr.12].

Ở truyện ngắn này, chúng tôi nhận thấy đa số các câu được sử dụng đều ở hình thức miêu tả trực tiếp. Bên

cạnh đó, sau các sự kiện, người trần thuật hiện diện khá rõ qua những đoạn bộc lộ cảm xúc chủ quan. Đoạn văn sau

thể hiện rất rõ những nhận xét, cảm xúc trực tiếp của người trần thuật (nhân vật tôi) về hành động và phẩm chất của

anh đội trưởng trong một đợt chống bão:

Anh vẫn thế, nhưng đêm nay tôi thấy ở anh, trong cái lành lành chầm chậm ấy có cả cái vững chãi, trung

thực, bền bỉ, quyết tâm của một người cán bộ, một người đảng viên. Nhìn anh đêm nay tôi thấy rất rõ là mặc dù mưa

to, gió lớn như thế nào cũng không làm gợn một đường gân trên nét mặt anh, không thể làm thay đổi được những

điều anh đã dự định. Anh là người vượt ba chục cây số đường đêm hôm, mưa bão về đây. Và vừa về đến đây đã thốc

thúc các đồng chí cũng ra đồng theo dõi mực nước, theo dõi các nỗ cống tiêu nước ra sông [49, tr.14].

Ở đoạn trên, sự cá thể hoá của chủ thể kể hiện ra khá rõ. Những nhận xét trực tiếp mang tính chủ quan của

người trần thuật đã gây được ấn tượng sâu sắc về tinh thần tập thể và tấm gương lao động của anh đội trưởng đối với

người đọc. Đây là dấu vết riêng của chủ thể kể “về phương diện nội dung tinh thần” [149, tr.82]. Và có khi, những

dấu vết của chủ thể kể về “nội dung tinh thần” còn bộc lộ quan điểm của tác giả:

Công việc cũng bình thường thôi, nhưng sao trông chị lúc này rắn rỏi, dũng mãnh, đẹp đẽ khác thường. Chị

không giống một chút nào với những điều tôi vần thường lo thay cho chị. Lúc này tôi mới thấy ở người đàn bà đông

70

con, hay gắt gỏng, quát tháo ấy cái bóng dáng của cô gái du kích thành Đông gan dạ khi xưa. Cô gái đã từng theo bộ

đội đánh giặc, diệt đồn, phục kích, chống càn, đã từng đưa đón cán bộ qua sông, về địa phương gây cơ sở. Đã đánh

một trận nổi tiếng ở chợ vệ bằng đòn gánh mà diệt được tề ác, bắt được hơn ba chục hàng binh.

Cô gái ấy bây giờ là một bà mẹ, một người vợ đảm đang, quán xuyến mọi việc đồng áng, nhà cửa, con cái cho

chồng yên tâm công tác, học tập [49, tr.13].

Cũng như truyện Vợ chồng anh đội trưởng, ở truyện Cầu đánh vật, người trần thuật là nhân vật đóng vai trò

người dẫn truyện. Nhân vật tôi - người trần thuật xuất hiện trong truyện với tư cách là bạn đô Vựa. Và với tư cách

này, người trần thuật đã kể lại câu chuyện về đô Cót (bố của đô Vựa) - “một đô già hết thời” “đã từng mấy năm ăn

giải cạn tiếng tăm lừng lẫy khắp vùng Từ Sơn” và câu chuyện về truyền thống vật nổi tiếng của sân vật Cẩm Giang.

2.3.1.3. Tìm hiểu truyện Cầu đánh vật, chúng tôi nhận thấy sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của một

nhân vật, “nhưng lại không thuần nhất ở một nhân vật nào mà lại đan cài, xen lẫn giữa các nhân vật. Điểm nhìn của

các nhân vật chồng chéo lên nhau, hoà trộn vào nhau” [20, tr.203]. Theo quan điểm của Huỳnh Như Phương, đây là

phương thức trần thuật liên chủ quan.

Truyện Cầu đánh vật là truyện được kết cấu theo kiểu truyện trong truyện. Truyện gồm nhiều câu chuyện:

chuyện về hai cha con đô Cót và đô Vựa, chuyện về ngôi đất hình nhân bái tướng, chuyện về cầu đánh vật, chuyện

Ngựa Lồng và Voi Cái. Ở truyện này, để tránh sự đơn điệu và nhấn mạnh tính khách quan, người trần thuật (tôi)

ngoài đoạn mở đầu đã “tự rút lui để nhân vật của mình tự tìm đến độc giả” [40, tr.171]. Ba câu chuyện: chuyện ngôi

đất hình nhân bái tướng, chuyện cầu đánh vật và chuyện Ngựa Lồng, Voi Cái được uỷ thác cho nhân vật đô Cót kể

lại. Theo dòng hồi tưởng của ông đô lão luyện này, cả một truyền thống vật với những “chiến công oanh liệt” của sân

vật Cẩm Giang như sống lại. Truyền thống ấy đã khiến cho đô Cót như không thể dừng lại được khi kể chuyện cho

nhân vật tôi nghe:

Dứt lời, mặt ông tươi hẳn lên. Cả thời xa xưa bừng rạng trong lòng đô Cót. Ông mê man kể lại:

- Các cụ tôi truyền lại: lúc được về yên nghỉ tuổi già, mấy ông đô trong kinh vẫn còn khoẻ mạnh lắm. Tất cả

những đô danh tiếng đương thời cũng không ai địch nổi.

Một lần vào ngày hội Đồng Kỵ, nhân có mấy tay vừa trỗi, ra ý ngạo nghễ thách thức. Đô Tàn, đô Lọng, đô

Cờ, ba ông nghe vậy, rủ nhau đi dối già một chuyến.

Thấy các đô đã có tuổi, mấy bác sở tại trỏ vào ba gian cầu lim và hai phiến đá nằm dài làm bực, nói kháy:

71

- Hễ các ông mà vật được họ thì dân chúng tôi biếu thêm cái cầu và hai tấm đá ấy đấy.

Mấy ông đô chỉ cười xoà. Một ông quay lại bảo học trò:

- Anh ra đo cái cầu cẩn thận xem kích thước bao nhiêu rồi về đắp nền trên bãi vật trước đi. Ta lấy cái cầu này

làm chỗ nghỉ ngơi cũng tiện.

Đến lúc vào vật thì ba ông được ba giải một cách dễ dàng. Cậu tính sức lực ấy còn ai địch nổi. Mãi sâm sẩm

tối, rượu đã chuếnh choáng rồi, ông nọ bảo ông kia:

- Nào khiêng cầu về thôi chứ!

Thế là mỗi ông mỗi đầu ghé vai khiêng bổng cả ba gian cầu lim lên. Còn một ông thấy vậy cũng ngứa ngáy

chân tay, mỗi nách cắp một phiến đá ung dung ra về [54, tr.52 - 53] .

Ở đoạn văn trên, Kim lân đã sử dụng xen kẽ lời nói gián tiếp của người trần thuật với lời nói trực tiếp của

nhân vật. Điều này đã tạo cho người đọc cảm giác như được đối thoại trực tiếp cùng nhân vật, cảm nhận được “sự

hân hoan rạng rỡ trên nét mặt” đô Cót. Đó là niềm tự hào về truyền thống vật của sân vật Cẩm Giang. Ngoài ra ở

đoạn trên và cả truyện này, sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của nhân vật nhưng không thuần nhất một nhân

vật mà có sự hoà trộn, đan chéo điểm nhìn của nhân vật tôi và điểm nhìn của nhân vật đô Cót. Sự hoà trộn điểm nhìn

của các nhân vật đã làm cho sự trần thuật tránh được sự đơn điệu, một giọng. Có thể nói, sự chuyển đổi vai kể ở

truyện ngắn này diễn ra rất linh hoạt, tự nhiên. Đặc điểm này chúng ta cũng thường thấy ở các sáng tác của Nam Cao.

Đối với Kim Lân, sự chuyển đổi này tuy chưa đạt đến mức độ đa thanh như trong sáng tác của các nhà văn lớn nhưng

nó đã “tạo điều kiện cho cách nhìn nhiều chiều về nhân vật, sự kiện, giảm bớt sự phụ thuộc vào quan điểm của tác

giả, tăng cường khả năng nghiền ngẫm độc lập của người đọc, đồng thời tránh được lối kể đơn điệu theo một giọng

từ đầu đến cuối tác phẩm” [82, tr.151].

2.3.2. Kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật

2.3.2.1. Cũng như kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện, người trần thuật xuất hiện

trực tiếp và tiến hành trần thuật lại các sự kiện, biến cố theo cái nhìn và tình cảm chủ quan của mình. Bên cạnh đó, ở

kiểu trần thuật này, người trần thuật còn xuất hiện với tư cách là một nhân vật tham gia vào các biến cố của câu

chuyện. Nhận xét về kiểu trần thuật này, Đinh Trọng Lạc đưa ra ý kiến so sánh. “Kiểu người kể xưng “tôi” này

không được cá thể hoá sâu sắc bằng kiểu xưng “tôi” tự kể chuyện mình. Nhưng, so với kiểu xưng “tôi” đóng vai trò

người dẫn chuyện, thì kiểu này còn có mức độ cá thể hoá nhiều hơn, bởi vì người kể cũng đồng thời là một trong

72

những nhân vật của truyện” [40, tr.188]. Với đặc điểm người trần thuật là một nhân vật trong truyện, kiểu trần thuật

này đã tạo được cảm giác về sự chân thực của những điều được kể. Ngoài ra với mức độ cá thể hoá cao hơn, kiểu trần

thuật này đã góp phần thể hiện rõ hơn những dấu ấn chủ quan của người trần thuật về hiện thực khách quan.

2.3.2.2. Trong 28 truyện ngắn của Kim Lân, có 6 truyện thể hiện rõ đặc điểm kiểu trần thuật này: Đứa con

người cô Đầu (1942), Người kép già (1942), Thư phát động (1952), Ông Cả Luốn gốc me (1960), Con chó xấu xí

(1962), Người chú dượng. Cũng như kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò dẫn truyện, kiểu trần thuật này phản

ánh “quá trình cá thể hoá hành động sáng tạo văn học, chủ thể kể hiện ra rõ hơn” [82, tr.149]. Với việc chuyển giao

nhiệm vụ trần thuật cho nhân vật, khoảng cách giữa người trần thuật và câu chuyện được thu hẹp tối đa. Người trần

thuật không chỉ là chủ thể kể mà còn là một nhân vật trong truyện. Đây là một đặc điểm để tạo ra cảm giác chân thực

về câu chuyện được kể. Mặt khác, nó còn thể hiện rõ nét những dấu ấn chủ quan của người kể qua việc biểu hiện

những thái độ tình cảm về câu chuyện được kể.

Ở truyện Con chó xấu xí, người trần thuật xuất hiện trực tiếp với vai trò là là một nhân vật trong truyện đã

mang đến cho người đọc những dòng thật cảm động về tình cảm của một con chó đối với nhân vật tôi:

Từ sau bụi dứa rậm rạp, con chó khốn khổ ấy lảo đảo đi ra. Người nó run lên bần bật. Nó gầy quá, chỉ còn

một dúm xương da sộc sệch, rụng hết lông. Nó đói quá, đi không vững nữa. Nó đi ngã rụi bên này, rụi bên kia. Rồi nó

không còn đủ sức mà đi nữa. Nó nằm bệt trên đất, rúm người lại, lết lết lê dần về phía nhà tôi.

Lúc ấy cả người nó chỉ còn có cái đuôi là ngó ngoáy được để mừng chủ và, cái lưỡi liếm liếm tay chủ. Khốn

nạn con chó! Được gặp chủ nó mừng quá. Từ trong hai con mắt đờ đẫn của nó có mấy giọt nước chảy ra. Lát sau thì

nó không liếm được nữa, cái đuôi ngoáy yếu dần, yếu dần rồi im hẳn. Nó chết [54, tr.282 - 283].

Với việc kể lại sự kiện con chó xấu xí trở về theo tiêu điểm và cái nhìn của nhân vật tôi, người trần thuật đã

thể hiện sâu sắc và cảm động về sự trung thành của một con vật bị con người bỏ rơi trong hoàn cảnh con người đang

phấn đấu giành sự sống cho mình. Và những dòng tiếp theo là tâm trạng của người trần thuật (tôi): “Vừa thương xót,

vừa xấu hổ” vì cảm thấy mình không xứng đáng với tình nghĩa của một con vật trung thành đến tuyệt đối:

Tôi tối xầm mặt lại, vừa thương xót con chó, vừa cảm thấy xấu hổ. Quả thật tôi chỉ là một thằng tồi. Một

thằng ích kỉ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con mình. Đến như con chó mình nuôi, mình đối xử với nó có được như cái

tình nghĩa của nó đối xử với mình đâu? [54, tr.283].

73

Đọc kỹ truyện này và đặc biệt là những dòng cuối, người đọc mới thấy cái đặc sắc của sự miêu tả và cảm

nhận được hết cái ý vị của truyện. “Một con chó xấu xí không ra hồn chó mà còn trung thành, ấy thế mà cái kẻ cũng

gọi là cầm bút kia!… Cho nên sự ngụ ý ở đây càng cay nghiệt bao nhiêu thì sự vững tin của nhà văn vào chỗ đứng

mình chọn càng rõ rệt bấy nhiêu” [2, tr.61]. Có thể nói, sự đối chiếu so sánh giữa một con chó với nhân vật tôi và

anh chàng bất hảo Nhược Dự đã tạo nên hơi hướng ngụ ý của truyện ngắn này. Đây là một “cách trần thuật” của nhà

văn. Và trong kiểu cách trần thuật này, “đằng sau vẻ ngây thơ thật thà của người kể chuyện người ta còn thấy được

sự mỉa mai, và ranh mãnh, kinh nghiệm sống và sự thông thái” [74, tr.288] của người trần thuật.

Ở truyện Ông Cả Luốn gốc me, do tác giả nhập vào người trần thuật (tôi) nên ở nhiều đoạn có sự trùng hợp

nhau về quan điểm giữa nhân vật tôi và tác giả. Ở một số đoạn, trong nội dung trần thuật của người dẫn truyện người

đọc có thể nhận ra rất rõ quan điểm của tác giả:

Ông cười khề khề một dịp dài. Cái cười không lấy gì làm tự nhiên thoải mái cho lắm. Nhưng dù sao ông chú

họ tôi như thế cũng là vào hợp tác xã rồi. Ông vào sau những đêm dày vò, tính toán. Những đêm lột xác và tôi chắc

ông phải thấy có lợi như thế nào rồi ông mới chịu vào. Ở nông thôn hiện nay hợp tác xã là một tổ chức mới nhất, tiên

tiến nhất nhưng những người vào hợp tác xã chưa phải đã được như cái tổ chức của nó. Một người như ông chú họ

tôi vào hợp tác xã, tất nhiên ông phải mang cả cái dĩ vãng của ông vào, cả những nếp sống, nếp nghĩ và cả những

thói tật riêng của ông vào theo. Chưa phải là đã hết khó khăn, hết so đo, tính toán riêng cho mình đâu [54, tr.447].

Ở đoạn văn này, tác giả đã hoà vào người trần thuật với vai trò người dẫn truyện và xem nhân vật tôi như một

nhân vật ngang hàng với các nhân vật khác khi tham gia vào truyện nên đã tạo ra sự trùng hợp về quan điểm giữa

người trần thuật (tôi) và tác giả. Đó là sự khẳng định vai trò tiên tiến của tổ chức hợp tác xã và thực tế một lớp người

ở nông thôn có nếp sống, nếp nghĩ như ông Cả Luốn.

Ở kiểu trần thuật này, ngoài vai trò là một nhân vật trong truyện, người trần thuật còn có nhiệm vụ kể lại sự

kiện theo cái nhìn và quan điểm của mình. Điều này tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc miêu tả trực tiếp các biến cố,

sự kiện cũng như khả năng thâm nhập vào chiều sâu thế giới nội tâm của nhân vật. Chính đặc điểm này đã tạo cho

truyện của Kim Lân khả năng thể hiện sâu sắc thế giới nội tâm con người:

Tôi chợt nhận thấy mặt lão ta tái đi và tất cả những thớ thịt trên mặt đều giật giật lên. Lão rặng một tiếng nói

tiếp, giọng lão khản đặc lại, vẫn cái giọng rì rì khó nhọc, rời rạc từng tiếng:

- Có… anh Hiền… Ở Hà Nội lên… đón mày về ở với… bá đấy.

74

Lão cúi gầm mặt xuống, thở ra một tiếng não ruột, nhấp nhổm nhấc từng bước chân quay vào. Con bé em tôi

vừa nghe ông chú dượng nó rứt, nó reo lên một tiếng vui sướng, chạy vụt lai phía tôi [54, tr.479].

Ngoài việc miêu tả nhân vật lão Mộc, người trần thuật đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật để bộc

lộ nỗi khổ tâm của một con người gần hết một đời người phải chịu đeo cái tiếng là thằng ngỗ nghịch, bị hàng xóm

hắt hủi ghê sợ. Và đằng sau những dòng miêu tả ấy, người đọc còn nhận ra sự đồng cảm của người trần thuật với nỗi

bất hạnh của nhân vật.

Một đặc điểm khác của kiểu trần thuật này, người trần thuật với vai trò là một nhân vật trong truyện đã tạo

nên sự gần gũi của chủ thể kể và các nhân vật khác. Điều này không những làm cho khoảng cách giữa tác giả và câu

chuyện được rút ngắn mà còn giúp tác giả thâm nhập vào chiều sâu đời sống nội tâm của nhân vật, xem tâm trạng của

nhân vật như tâm trạng của chính mình:

Tiếng hắn nói ngụ một nỗi gì vừa thống khổ vừa hờn giận. Chợt tôi cũng thở dài một tiếng khe khẽ, như ném

xuống nỗi dày vò của hắn. “Lại bước đi bước nữa”. Trời! Thật là mỉa mai chua chát. Thì ra mẹ hắn đã đi bước nữa

nhiều lần [55, tr.25].

Do khoảng cách giữa người trần thuật được rút ngắn tối đa nên tác giả thâm nhập vào nỗi đau của nhân vật và

thể hiện nó một cách thống thiết. Sự thể hiện này đã tạo nên giọng văn cảm thông, đồng cảm và góp phần thể hiện

cảm hứng yêu thương trân trọng con người của tác giả.

Và có khi, ở những đoạn lời văn gián tiếp hai giọng, tâm sự của nhân vật được lồng vào tâm sự của người trần

thuật. Ở đây, lời độc thoại nội tâm của người trần thuật “không chỉ thể hiện được cái được kể, mà còn tái hiện người

kể. Nó mang dấu ấn về cách nói, cách cảm thụ thế giới và cuối cùng là mang tư chất trí tuệ và tình cảm của người

trần thuật” [74, tr.288]. Đó là sự đồng cảm sâu sắc của tác giả về nỗi đau của nhân vật. Trong truyện ngắn Người

chú dượng, khi nhân vật tôi nghe tin dì Bản chết tác giả viết:

Sự đời có thể đến như thế được ư? Dì ơi! Cái chết của dì đã heo hút, thảm đạm đến mức ấy, nhưng đến chồng

dì… Chao ôi! Chồng dì tôi còn thấy thảm đạm tủi nhục gấp trăm. Thảm đạm tủi nhục hơn cả là cái chết của dì trong

xó núi này [54, tr.474].

2.3.2.3.Trong văn xuôi hiện đại kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật

chiếm một số lượng khá lớn. Với Kim Lân, chúng tôi thấy có những nét tương đồng nhất định với truyện ngắn của

các nhà văn: Thạch Lam, Nam Cao… Cùng một kiểu trần thuật này trong các truyện ngắn Quái dị, Lão Hạc, Dì Hảo,

75

Truyện tình (Nam Cao), chúng tôi cũng tìm thấy những đặc điểm tương tự. Ở truyện Quái dị, Truyện tình cũng có

những đoạn người trần thuật lí giải, phân tích tâm lí nhân vật theo quan điểm của tác giả. Trong các truyện Lão Hạc,

Dì Hảo người đọc cũng tìm thấy những đoạn người trần thuật thâm nhập vào nhân vật để bộc lộ nội tâm:

Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao Lão không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó

để làm khuây. Vợ lão chết rồi. Con lão đi bằn bặt. Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà

chả phải buồn? Những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ buồn một chút. Lão gọi nó là cậu vàng như một bà

hiếm hoi gọi đứa con cầu tự [9, tr.93].

Cũng ở kiểu trần thuật này, Thạch Lam có nhiều truyện viết về những biến cố tâm lí nhưng truyện ngắn Thạch Lam

lại có một xu hướng hướng nội rõ nét hơn. Ở các truyện Một cơn giận, Sợi tóc… tác giả đã để cho người trần thuật nhìn các

sự kiện bằng con mắt của chính mình nên đời sống nội tâm của các nhân vật được thể hiện nhiều hơn.

76

Chương 3

CẤU TRÚC TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN

CỦA KIM LÂN

3.1. Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự

Trong tiếng Việt, thuật ngữ cấu trúc và kết cấu là những khái niệm gần

nghĩa nhau. Kết cấu là phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Theo Trần

Đình Sử, “kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng

nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu

tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác

phẩm” [57, tr.295].

Trong tác phẩm tự sự, kết cấu tồn tại ở hai cấp độ cơ bản:

Cấp độ hình tượng và cấp độ trần thuật. Cấp độ trên gắn liền với toàn bộ tổ

chức của thế giới nghệ thuật, bao gồm hệ thống các nhân vật, hệ thống các sự

kiện, tình tiết và trình tự xuất hiện của chúng, tương quan các chi tiết tạo hình,

biểu hiện tạo nên bức tranh sinh động về cuộc sống, các tương quan về không

gian và thời gian. Đây là cấp độ kết cấu bề sâu, gắn liền với ý đồ nghệ thuật và

các tính cách được phản ánh. Cấp độ trần thuật bao gồm sự liên tục của các biện

pháp trần thuật, cũng như sự tổ chức của các câu, sự vận dụng các phương thức

tu từ. Ở cấp độ này người ta thường nói đến bố cục như là một kết cấu bề mặt,

bao gồm sự sắp xếp, phân bố các phần của nội dung vào các mảng của trần

thuật như chương, đoạn [57, tr.298 - 299].

Ở phần nghiên cứu cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân,

chúng tôi sử dụng khái niệm cấu trúc trần thuật trong quan niệm tương đương với

khái niệm kết cấu trần thuật. Với việc khảo sát 28 truyện ngắn của Kim Lân,

chúng tôi sẽ cố gắng xác định một số dạng cấu trúc trần thuật có tính chất ổn

định trong phong cách sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.

3.2. Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân

77

Trong tác phẩm tự sự khi tiến hành trần thuật, nhà văn luôn có ý thức đưa

các chi tiết, sự kiện, các mối quan hệ, xung đột… đến với người đọc nhằm thể

hiện một vấn đề, một tư tưởng nào đó. Các sự kiện, chi tiết, xung đột bao giờ

cũng được sắp xếp, tổ chức theo một trình tự nhất định để đạt hiệu quả biểu hiện

tối đa. Khi trần thuật, nhà văn trình bày liên tục bằng lời văn nhằm làm sống lại

các chi tiết, sự kiện, xung đột, diễn biến của câu chuyện theo một cách nhìn, cách

cảm nhất định. Như vậy, “trần thuật là sự thể hiện của hình tượng văn học,

truyền đạt nó tới người thưởng thức. Bố cục của trần thuật là sự sắp xếp, tổ chức

tương ứng giữa các phương diện khác nhau của hình tượng với các thành phần

Thành phần của trần thuật thường tương ứng với thành phần của cốt truyện. Sự tương ứng này không

phải bao giờ cũng khớp với nhau một cách máy móc. Dù có liên quan đến thành phần trần thuật nhưng cốt

truyện không phải là yếu tố quyết định đến đặc điểm cấu trúc trần thuật. Không phải bao giờ thành phần của

trần thuật cũng ứng với thành phần cốt truyện, nhất là ở trường hợp truyện không có cốt truyện. Thành phần

của cốt truyện thường có tính chất năng động. Nó bao gồm các sự kiện, biến đổi và nhà văn cũng có các đoạn

tương ứng với các sự kiện đó. Ngoài ra, trong tác phẩm tự sự, trần thuật còn bao gồm các thành phần có tính

chất tĩnh tại như những đoạn miêu tả chân dung, ngoại hình nhân vật; những đoạn miêu tả phong cảnh; những

đoạn đối thoại, độc thoại; những đoạn thể hiện lời xen ngoại đề…

khác nhau của văn bản” [57, tr.307 - 308].

Các thành phần của trần thuật có thể được vận dụng, kết hợp ở những mức

độ, hình thức khác nhau. Tuỳ theo sở trường và mục đích biểu hiện của tác phẩm,

nhà văn có thể tiến hành trần thuật các sự kiện diễn ra theo trình tự thời gian. Có

khi để giải quyết cốt truyện, nhà văn lại linh hoạt xen kẽ các thời điểm trần thuật

hay đảo ngược trình tự thời gian trần thuật. Cũng có khi, trật tự trần thuật được

sắp xếp theo diễn biến tâm lý của nhân vật trong truyện… Tất cả những dạng cấu

trúc trần thuật này là một phương diện góp phần tạo nên nét độc đáo trong phong

cách nghệ thuật của nhà văn.

3.2.1. Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian

3.2.1.1. Nhân vật và sự kiện là hai yếu tố không thể thiếu trong tác phẩm tự

sự. Từ hệ thống nhân vật, sự kiện, nhà văn tổ chức, sắp xếp lại thành truyện.

78

Truyện là một chuỗi sự kiện diễn ra liên tục trong không gian, thời gian có ý

nghĩa đối với tác giả và người đọc. Hình thức tổ chức trần thuật cơ bản nhất trong

tác phẩm tự sự là liên kết các sự kiện lại thành truyện. Cách tổ chức, sắp xếp hệ

thống sự kiện, biến cố theo trình tự diễn biến từ trước đến sau, từ mở đầu đến kết

thúc là cách tổ chức trần thuật thường gặp trong các sáng tác truyện dân gian.

Khảo sát truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi nhận thấy số lượng tác phẩm tổ chức

Trần thuật theo trình tự diễn biến thời gian chiếm số lượng khá lớn (17/28

truyện). Tuy nhiên, các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo trình tự thời gian của

3.2.1.2. Trong tác phẩm tự sự việc tổ chức, sắp xếp hệ thống sự kiện là vô cùng quan trọng. Sự sắp xếp

này sẽ tạo ra hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện. Đó là cốt truyện. Cốt truyện là cái sườn của các sự

kiện, biến cố. Cốt truyện là cái dựa vào đó người đọc có thể tóm tắt được. Nó là phương tiện để nhà văn bộc lộ

tính cách nhân vật và tái hiện các xung đột của xã hội. Khi đề cập đến khái niệm cốt truyện, người ta thường đề

cập đến các thành phần chính của cốt truyện là: thắt nút, phát triển, cao trào và mở nút. Có thể chia cốt truyện

thành hai loại: cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lí.

Kim Lân vẫn có những đặc điểm riêng của nó.

Khảo sát truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi nhận thấy truyện của ông được

xây dựng dựa trên hai loại cốt truyện: cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lý. Ở

các truyện ngắn Chó săn, Con Mã Mái, Đôi chim thành, Anh chàng hiệp sĩ

gỗ,… tác giả kết cấu các sự kiện theo trình tự từ trước đến sau. Đây là đặc điểm

mang đến cho người đọc cảm giác về sự mới mẻ qua từng chi tiết và đoạn cuối

của truyện thường là yếu tố quan trọng của cốt truyện. Trong tất cả các truyện

ngắn ở dạng cấu trúc trần thuật này, điểm mở đầu và điểm kết thúc của mạch tự

sự thường trùng với điểm mở đầu và kết thúc của thời gian cốt truyện. Trình tự

diễn biến thời gian trong cốt truyện thường được giữ nguyên, mạch tự sự thường

diễn ra theo trật tự từ trước tới sau hoặc từ mở đầu đến kết thúc. Có thể xem dạng

cấu trúc trần thuật này ở truyện ngắn Kim Lân là một đặc điểm gần với cấu trúc

trần thuật trong truyện dân gian.

Ở truyện Con Mã Mái, Kim Lân mở đầu mạch tự sự bằng việc giới thiệu

nhân vật Cả Chuẩn - một nhà nho kiết mê thích gà chọi đến kỳ lạ. Cả Chuẩn vẫn

79

ao ước có được một tông gà hay, “nuôi cho bỏ công vầy vỗ”. Chính sự tài hoa

của Cả Chuẩn đã giúp ông nhận ra cái hay của con Mái Ô sò. Cả Chuẩn không

ngại tai tiếng khi giao du với Cả Cúi để có được con Mái Ô sò. Sau một thời gian

vầy vỗ, Cả Chuẩn đã có được một đàn gà như ý muốn mà trong đó nổi bật nhất là

con Ô Mã Mái và con Xám Miến Hồng. Đôi gà này mỗi con có một nét đặc biệt,

nét hay riêng. Sau cái chết của con Xám Miến Hồng Cả Chuẩn dốc hết công sức

vào việc chăm sóc con Ô Mã Mái. Trong một lần so cựa với con Hoa Mơ, cả Hoa

Mơ và Mã Mái đều chứng tỏ tài nghệ của mình qua những hồi đấu giằng co. Con

Mã Mái đã có lúc “biệng siệng” sau những cú ra đòn của con Hoa Mơ. Rồi trong

tư thế ấy, con Mã Mái cáu tiết phóng liền một đòn, hai đòn, rồi ba đòn. Con Hoa

Mơ của Tư Méo “há mỏ kêu “quác” một tiếng lớn, ngã chúi xuống, nằm thẳng

cẳng, chân cánh giãy lên đành đạch”. Truyện kết thúc bằng hình ảnh Cả Chuẩn

ôm con Mã Mái vào đình lấy giải. Ở truyện Đôi chim thành, mạch tự sự cũng

được mở đầu bằng cuộc gặp gỡ của “các tay ăn chơi sành sỏi” ở nhà Trưởng

Thuận nhân ngày không có hội. Sau một hồi bình phẩm về đôi chim thành, mọi

người được chứng kiến tận mắt cảnh đôi chim thành “lượn vòng”, “tít đuôi”,

“vần thượng”… Sau một cơn mưa bất chợt, đôi chim thành biến mất khiến

Trưởng Thuận lử đử sốt đến năm hôm. Truyện kết thúc bằng hình ảnh đôi chim

trở về trong sự vui sướng tột độ của Trưởng Thuận:

Ông dụi mắt nhìn lên nóc nhà. Quả đôi chim quý báu của ông thật. Chúng

nó đang há hốc mỏ ra thở; lông cánh phờ phạc, nom gầy tọp đi. Hai mắt sáng

lên vì sung sướng. Cặp môi héo của ông nở một nụ cười rất tươi.

- Tao biết tông chim này tinh lắm, mất thế nào được. Còn về nữa cho mà

xem [54, tr.43].

Cũng như truyện Đôi chim thành, truyện Chó săn mở đầu với những dòng

giới thiệu về nhân vật chính:

Cả Nội đi săn từ năm mười bốn mười lăm tuổi đầu. Hồi còn mồ ma cụ đám

Vui, buổi săn nào ông cũng vác dầm vác móc đi theo. Thế cho nên cả Nội nổi

tiếng là tay chơi lão luyện, và bao giờ cũng chơi “cầu kỳ” theo những kinh

nghiệm già dặn của ông [55, tr.51].

80

Chính kinh nghiệm già dặn của cả Nội đã giúp ông nhận ra nét đặc biệt của

con Vện trong một lần đến nhà Khán Ích. Sau những ngày chăm sóc huấn luyện

của cả Nội, con Vện đã trở thành “một con chó lọc hoàn toàn có nhiều tài

riêng”. Phần hai câu chuyện, mạch tự sự diễn ra theo trình tự một buổi đi săn.

Với tài nghệ của mình, con Vện đã lập được những “chiến công” ngay lần đi săn

đầu tiên. Truyện kết thúc bằng cái chết bất ngờ của con Vện và hình ảnh “cả Nội

gục mặt vào lòng con chó mà khóc hu hu như vợ chết”. Đọc truyện ngắn này,

người đọc có thể nhận ra kết cấu với hai phần rất rõ. Phần đầu là phần cả Nội

chọn chó và vực chó. Phần hai là cảnh một buổi đi săn của cả Nội. Hai phần của

truyện ngắn này được trần thuật theo một trình tự từ trước đến sau.

Như vậy, ở cả ba truyện ngắn vừa khảo sát điểm mở đầu và điểm kết thúc

của trần thuật trùng với điểm mở đầu và điểm kết thúc của thời gian cốt truyện.

Sự trùng hợp này ta thường thấy trong các truyện dân gian như: Sọ dừa, Thạch

Sanh, Cây khe, Cây tre trăm đốt,… Dạng cấu trúc trần thuật này là dạng cấu trúc

khép kín. Có thể nói, việc tổ chức trần thuật theo trình tự liên tiếp từ trước đến

sau của các sự kiện đã tạo cho người đọc luôn có cảm giác về sự mới mẻ qua

từng chi tiết. Và kết thúc truyện thường là thao tác mở nút rất hợp lí của tác giả

nhằm thể hiện chủ đề tác phẩm. Đây là đặc điểm tạo cho truyện ngắn Kim Lân có

nét tương đồng với truyện dân gian về mặt cấu trúc trần thuật. Đặc điểm này một

mặt tạo ra cảm giác câu chuyện đang diễn ra một cách tự nhiên, người đọc như

được trực tiếp chứng kiến những diễn biến của các sự kiện đang diễn ra. Mặt

khác, với cách tổ chức trần thuật này, truyện ngắn Kim Lân thường bộc lộ chủ đề

một cách rất tự nhiên. Người đọc có thể nhận ra ý nghĩa của truyện theo mạch tự

sự chứ không cần những lời thuyết minh của tác giả.

Ở các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo trình tự thời gian, chúng tôi nhận

thấy thành phần trần thuật còn bao gồm các thành phần tĩnh tại. Đó là những

đoạn giới thiệu lai lịch nhân vật, miêu tả ngoại cảnh, đồ vật; các đoạn hồi tưởng,

độc thoại; những đoạn trữ tình ngoại đề… Vấn đề đặt ra là nhà văn đã tổ chức

các thành phần tĩnh tại này như thế nào.

81

Trong truyện Đuổi tà, mạch tự sự khời đầu bằng cảnh ông tự Năm và mọi

người chuẩn bị lễ vật cho buổi lễ đuổi tà đầu năm. Sau những nghi lễ đuổi tà,

truyện kết thúc với cảnh mọi người vui mừng đón năm mới. Thời gian trần thuật

và thời gian cốt truyện trùng khớp với nhau. Đây là một khoảng thời gian tương

đối ngắn. Do khoảng thời gian khách quan từ điểm mở đầu đến điểm kết thúc

trần thuật rút ngắn nên tác giả xen vào một đoạn hồi tưởng của nhân vật. Trong

cái vui vẻ của việc lập đàn đuổi tà đầu năm, mạch tự sự trở về quá khứ theo dòng

hồi tưởng của ông tự Năm:

Vốn là một thầy khoá lỗi thời, đã bao nhiêu năm ông tự lang thang chốn

này chốn khác, có phen phiêu bạt lên cả rừng xanh nước độc, mong đem đạo

thánh hiền để đổi lấy miếng ăn. Nhưng ông không ngồi dậy học Được ở đâu lấy

ba tháng. Là vì, vào cái thời này họ theo Tây học cả. Rồi ông xoay nghề lang

thuốc, nhưng ông trời vẫn hay chớ trêu con người có chữ, mấy năm liền hàng họ

ế ẩm. Cái cảnh mạng nhện mắc dao cầu chẳng bao lâu mà hết lưng vốn. Thế rồi

ông lại lang thang; con người dài lưng tốn vải ấy không quen với việc gồng thuê

gánh mướn. Với chiếc khăn vải tây đỏ thắt chéo buộc chặt lấy chiếc tháp sơn

then, trong đựng một chiếc địa bàn với mươi lá số, ông tìm đất, tìm cát, xem bói

xem toán độ thân.

Cái nghề lý số này cũng không dung ông lâu. Cuộc sống gắt gao hàng ngày

đã sa thải nhà nho lỡ vận thành một anh thầy cúng làm bạn với tiu, cảnh mà lại

hoá ra thanh nhàn, ông tự Năm làm tự chùa Vân Điềm này kể đã hơn ba năm.

Nhờ trời cũng mát mặt chứ không đến nỗi lận đận như hồi mấy năm về trước…

[54, tr.124].

Trong Người kép già, Cơn con, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi

Kê… người đọc cũng có thể tìm thấy nhiều đoạn giới thiệu về lai lịch nhân vật

qua những đoạn tái hiện tâm trạng. Đoạn thể hiện tâm trạng ông Tư Mủng trong

truyện Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, là đoạn thuộc thành phần tĩnh

tại:

82

Mỗi lần nghĩ đến chuyện bỏ ngọn núi này đi, ông Tư Mủng lại nhớ đến

những ngày siêu bạt, đói khát ấy. Những ngày mà mười một con người trong gia

đình ông lang thang đi tìm đất.

Ông còn nhớ, ngày ấy trên dọc đường lên ngược những lúc cay cực nhất,

những lúc tưởng như cùng đường tận lối rồi, ông lại nghe tiếng người ông nội

run rẩy khuyến khích con cháu trong nhà một câu: “… Cố lên! Cố lên các con

ơi! Bắc Giang, Thái Nguyên đất rộng người thưa… Lên được đến trên ấy là có

cái sống rồi…”.

Mười một con người đói khát, vừa lớn vừa bé trong gia đình mỗi lần nghe

người ông nội nhắc đến Thái Nguyên, Bắc Giang lại tỉnh ra, vui lên, hy vọng, tin

tưởng, lại lếch thếch, bồng bế, dắt díu nhau đi [54, tr.377 - 378].

Như vậy, trong các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo trình tự thời gian,

những thành phần trần thuật có tính chất tĩnh tại như những đoạn giới thiệu lai

lịch nhân vật, tái hiện tâm trạng… đã làm cho dung lượng truyện Kim Lân mở

rộng. Sự mở rộng này đã mang đến cho truyện ngắn của ông khả năng tái hiện

cuộc sống đầy đặn hơn và góp phần thể hiện rõ hơn cảm hứng trong các tác

phẩm.

3.2.2. Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần

thuật, ở nhiều thời điểm khác nhau

3.2.2.1. Trong các tác phẩm tự sự hiện đại kiểu cấu trúc truyện lồng trong

truyện (một cấp độ) là dạng cấu trúc trần thuật phổ biến. Dạng cấu trúc trần thuật

này thường gặp ở các nhà văn như Nam Cao (Đôi mắt), Tô Hoài (Vợ chồng A

Phủ), Nguyễn Trung Thành (Rừng xà nu) Nguyễn Thi (Những đứa con trong

gia đình) Nguyễn Minh Châu (Mảnh trăng cuối rừng),… Kim Lân cũng có

nhiều truyện ngắn tổ chức trần thuật theo dạng cấu trúc trần thuật này.

Trong 28 truyện của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy có 13/28 truyện tổ chức

trần thuật theo dạng cấu trúc truyện lồng truyện. Đối với Kim Lân, kiểu tự sự rẽ

ngang truyện lồng truyện không theo một cách thức ổn định nào. Có khi mạch tự

sự rẽ ngang khi nhắc đến một nhân vật, khi nhân vật hồi tưởng về quá khứ, cũng

có khi một chi tiết trong truyện lại gợi ra một câu chuyện khác, chuyện này nối

83

chuyện kia theo kiểm gợi nhớ… Kiểu cấu trúc trần thuật truyện trong truyện có

khi tồn tại ở một cấp độ, có khi nhiều cấp độ. Có khi truyện lồng truyện chỉ vắn

tắt vài dòng, có khi vài trang và cũng có khi truyện lồng có tính chất độc lập

tương đối có thể tách riêng thành một truyện riêng.

3.2.2.2. Trong một số truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận ra có rất

nhiều sự kiện liên quan đến cuộc sống riêng của nhà văn. Đây là những biến cố,

sự kiện, những ấn tượng mà nhà văn đã trải qua. Ở các truyện ngắn này, dù được

tổ chức trần thuật theo phương thức trần thuật chủ quan hay phương thức trần

thuật khách quan, người đọc đều có thể tìm thấy nhiều đoạn hồi thuật của tác giả.

Mỗi đoạn hồi thuật thường là một câu chuyện xen góp phần bộc lộ rõ hơn chủ đề,

cảm hứng của tác phẩm:

Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả

bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba

mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là

người quê mùa nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ

chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc. Thầy anh mất năm trước, mẹ già anh

mất năm sau. Nhà không làm ruộng nữa. Các anh Tư đều đi chợ trên. Tư phải

thôi học ở nhà. Hai mẹ con lâm vào cảnh thất nghiệp. Ruộng không có mà làm;

đi buôn - buôn xùng buôn xằng thôi cũng không có vốn. Anh em họ mạc thì thờ ơ

lạnh nhạt, họ coi hình như không có mẹ con Tư trong gia đình nữa [54, tr.26].

Ở truyện ngắn này, do khoảng thời gian khách quan từ điểm mở đầu trần

thuật cho đến kết thúc trần thuật rất ngắn (một buổi chiều) nên tác giả đã kết cấu

câu chuyện xen về gia cảnh của nhân vật Tư qua một đoạn hồi thuật. Những sự

kiện trong đoạn hồi thuật là những sự kiện xảy ra trước thời điểm mở đầu trần

thuật. Những sự kiện trong đoạn hồi thuật của nhân vật Tư về quá khứ đã góp

phần rất lớn vào việc khái quát hiện thực và bộc lộ chủ đề tác phẩm.

Trong truyện Đứa con người cô đầu, câu chuyện xen về gia cảnh của nhân

vật Thạ được trần thuật theo kiểu trần thuật uỷ thác cho nhân vật:

Im lặng một lúc khá lâu, lại nghe hắn cất tiếng kể tiếp bằng một giọng đều

đều não nuột:

84

- Em nói thật đời em. Anh đừng khinh em nhé. Anh ạ, mẹ em là cô đầu chính

tông. Ông bà ngoại em sinh được bốn người con gái làm cô đầu cả bốn. Trước

khi lấy thầy em, mẹ em đã tằng tịu với một ông Lục sự; đẻ được một người con

trai. Được ít lâu ông Lục ấy phải đổi đi xa. Xem chừng ông ta cũng không giàu

có gì. Mẹ em bỏ thẳng cánh. Thầy em lấy mẹ em về; nhà có vợ cả. Vốn là người

đanh đá lại cậy thế thầy em chiều chuộng, mẹ em lấn quyền hành hạ các anh con

mẹ già em khổ lắm. Đấy là thời kỳ sung sướng nhất trong đời em. Em đi học đến

lớp ba thì thầy em mất. Sẵn có ít vốn riêng, mẹ em trở lại nghề cũ; mở nhà hát cô

đầu. Được vài năm cảnh nhà sa sút dần. Em phải thôi học về nhà làm thằng nhỏ.

Anh ạ… [55, tr.25].

Trong truyện này, do khoảng cách giữa thời điểm mở đầu và thời điểm kết

thúc trần thuật ngắn (một buổi tối) nên truyện có một đoạn hồi thuật về các sự

kiện xảy ra trước thời điểm mở đầu trần thuật. Đó là những sự kiện về hoàn cảnh

bất hạnh của nhân vật Thạ. Như vậy, ở truyện ngắn này, với dạng cấu trúc trần

thuật truyện lồng trong truyện và sự phối hợp giữa hai phương thức trần thuật

chủ quan và phương thức trần thuật khách quan, tác giả đã đưa vào truyện nhiều

yếu tố tự truyện. Đó là lối cảm, lối nghĩ và các trạng thái tâm lí nếm trải của

người trần thuật - nhân vật tôi.

Khảo sát các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo dạng cấu trúc trần thuật

truyện lồng trong truyện, chúng tôi thấy dung lượng của những truyện xen được

bố trí ở nhiều mức độ khác nhau: có khi là một câu chuyện ngắn vài dòng, có khi

là cả một đoạn tự sự khá dài.

Trong Người chú dượng, thời gian trần thuật bắt đầu khi nhân vật tôi trở lại

trại Han thăm dì Bản. Theo từng bước chân của người trần thuật (tôi), quá khứ về

cái bến Mảng hiện về một cách đầy đủ. Đó là ký ức về những con người mà một

thời nhân vật tôi gắn bó thân thiết: cô hàng xén Thuỷ Nguyên có cái cổ trắng

ngần, hai bàn tay muôn muốt; hàng thịt chó của ông Phác rỗ răng vàng; cái quán

“Thủ Đô” của hai chị em cô Thư và cô Hương bán xôi chè và bún chả; cửa hàng

của cụ phó may già và vợ chồng chú Khách bán thuốc bắc… Cứ như thế, mạch

tự sự rẽ ngang thành nhiều nhánh chuyện, chuyện này nối chuyện kia theo kiểu

85

gợi nhớ. Chẳng hạn khi nghe tin dì Bản mất, câu chuyện về quá khứ của người dì

bất hạnh lại xen vào mạch tự sự:

Dì Bản là em út mẹ tôi. Một người em xấu xí và hẩm hiu nhất. Cuộc đời dì,

tôi thấy hình như dì không có được một lần may mắn nào. Tôi cũng không thấy

lần nào dì tôi mặc được bộ quần áo mới nữa. Ông bà ngoại tôi chết đi thì dì bỏ

quê lên ở với mẹ tôi. Thật ra dì tôi cũng đi làm thuê, làm mướn lấy miếng mà ăn,

chứ dì cũng chẳng phải nhờ vả mẹ tôi. Nhưng dì vẫn cứ phải sống bên mẹ tôi.

Ông bà ngoại tôi chết đi, các con thất tán lưu lạc mỗi người một phương, còn lại

hai chị em, dì phải sống nương tựa vào sự chỉ dẫn và cái tình máu mủ, ruột thịt

của mẹ tôi [54, tr.464 - 465].

Cũng có khi, từ chi tiết “cái hòm chân gỗ dổi” đã “khiến” nhân vật tôi nhớ

ra tất cả những ấn tượng trong quá khứ về lão Mộc gù. Đó là câu chuyện về

“thằng Mộc gù khe đá đỏ” đã từng là mối đe doạ cho tất cả các gia đình nơi tản

cư. Theo lời đồn đại của mọi người, hắn có một hình thù gớm ghiếc là mối nguy

hiểm của mọi người. Hắn là tay ăn chơi đã từng giết người vượt ngục, từng đâm

chết bố con ông bạ Dưỡng, đã từng chém sả vào người vợ trong một lần say

rượu, đã từng bị cắt gân vì tội gặt trộm lúa, từng sống một cuộc sống như người

rừng cùng một đứa con gái… Với những đoạn rẽ ngang như thế, có lúc người

đọc tưởng như nhà văn đã quên bẵng đi câu chuyện ban đầu. Nhưng khi đọc hết

truyện, người đọc mới nhận ra dụng ý của nhà văn. Với những câu chuyện xen

như thế nhà văn như cố ý khắc hoạ nhân vật theo miệng lưỡi của người đời để tạo

một sức mạnh cần thiết cho cái phản đề: vẻ bề ngoài của con người cứ ghi nhận

nhưng đừng vội thành kiến, dư luận có nhiều nhưng đừng vội cả tin. Hãy kiểm

chứng lại bằng thực tiễn.

Cũng với lối tự sự rẽ ngang, trong truyện Con chó xấu xí, tác giả đưa người

đọc đi từ chuyện tản cư trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến chuyện về

một con chó xấu xí, rồi đến chuyện anh chàng Nhược Dự khó hiểu, khôn ngoan

với cô vợ hai trẻ măng chuyên việc bếp núc hầu hạ chồng. Tương tự như vậy,

trong truyện Bà mẹ Cẩn, mạch tự sự của tác giả cũng rẽ ngang với nhiều câu

chuyện. Có khi là những câu chuyện xen theo kiểu khi nhắc đến nhân vật chính

86

là có nhiều câu chuyện đi kèm: chuyện về cô giáo Ninh - một cô giáo trẻ người

Hà Nội mới sơ tán về cùng sống với bà mẹ Cẩn; chuyện về cậu con trai duy nhất

của bà mẹ Cẩn; chuyện về cái giếng nước, cây mít như hai kỷ vật gắn liền với

đứa con thương yêu của bà… Tương tự, trong Thượng tướng Trần Quang Khải

- Trạng vật, ngoài hai câu chuyện: chuyện tình của cô gái quê tên Tần với Đức

Thái Tông Trần Cảnh và chuyện về chàng đô vật Trạng Sặt, tác giả đã nhiều lần

rẽ ngang với nhiều câu chuyện (kiểu hai cấp độ). Đó là những câu chuyện về tài

nghệ của Trạch Khô - đối thủ của Trạng Sặt, chuyện về hai ông đô Voi, đô Nghê

thời Lý… Có thể nói, với lối tự sự này, Kim Lân đã tạo ra dạng cấu trúc trần

thuật nhiều tầng bậc ở nhiều thời điểm khác nhau. Dạng cấu trúc trần thuật này

thể hiện một vốn hiểu biết phong phú, tài năng và bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật

của nhà văn. Ngoài ra, nó còn giúp nhà văn mở rộng dung lượng phản ánh hiện

thực như ông đã từng quan niệm về truyện ngắn.

3.2.2.3. Chúng tôi nhận thấy: trong một số truyện, cách tổ chức trần thuật có

những nét riêng biệt mà người đọc ít gặp ở một số nhà văn khác.

Ở truyện Cầu đánh vật, với việc vận dụng phương thức trần thuật khách

quan và phương thức trần thuật chủ quan, câu chuyện được kể lại bởi nhân vật tôi

và nhân vật đô Cót. Nhân vật tôi với vai trò là người dẫn truyện đã kể lại câu

chuyện về hai bố con đô Cót và đô Vựa. Bên cạnh đó, với kiểu trần thuật uỷ thác

cho nhân vật, người trần thuật (tôi) uỷ thác câu chuyện cho nhân vật đô Cót kể.

Với lối tự sự rẽ ngang như thế, đô Cót đã kể lại ba câu chuyện: chuyện ngôi đất

hình nhân bái tướng, chuyện cầu đánh vật và chuyện Ngựa Lồng, Voi Cái. Cả ba

câu chuyện này đều có vai trò như nhau, bổ sung cho nhau cùng nhằm biểu hiện

truyền thống vật và niềm tự hào về sân vật Cẩm Giang.

Cũng tương tự như thế, trong Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng

vật, cấu trúc trần thuật có sự đan xen nhiều câu chuyện vào nhau. Phần đầu là câu

chuyện tình giữa cô gái quê hiền thục (Tần) với Đức Thái Tông Trần Cảnh. Phần

sau là câu chuyện về chàng đô vật Trạng Sặt (Trần Quang Khải). Hai câu chuyện

này có tính độc lập tương đối, khi đứng riêng chúng có thể trở thành hai truyện

độc lập. Dĩ nhiên, Kim Lân đã có sự liên kết khéo léo hai câu chuyện bằng chi

87

tiết chiếc khăn vàng trên đầu Trạng Sặt rơi xuống, hai cha con đức vua nhận ra

nhau. Có thể nói, với dạng cấu trúc trần thuật này, truyện ngắn Kim Lân đã tồn

tại một dạng cấu trúc trần thuật khá độc đáo. Đó là dạng cấu trúc trần thuật

truyện bên truyện.

3.2.3. Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí

3.2.3.1. Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn nhằm tái hiện lại các

chi tiết, sự kiện, biến đổi về xung đột và nhân vật theo một trình tự nào đó với

một cách nhìn, cách cảm nhất định. Nếu như, trong các sáng tác truyện dân gian,

trật tự trần thuật thường được tiến hành theo trình tự từ trước đến sau, từ mở đầu

đến kết thúc với sự tập trung vào hành động xung đột bên ngoài thì trong cách tự

sự hiện đại, các nhà văn đã đi sâu vào khám phá, thể hiện đời sống nội tâm của

con người. Một trong những cái mốc quan trọng của tự sự hiện đại là dùng tâm lí

nhân vật như một không gian để triển khai cốt truyện. Không có nhiều những tác

phẩm mẫu mực như Nam Cao nhưng Kim Lân vẫn có những cách đi của riêng

mình.

3.2.3.2. Trong các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo tâm lý, chúng tôi thấy

thế giới tinh thần của các nhân vật được nhà văn mổ xẻ thấu đáo, thể hiện rất

phong phú và đa dạng. Góp vào sự đa dạng sinh động của cấu trúc trần thuật,

dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí là một biểu hiện khá độc đáo trong cách tổ

chức trần thuật của Kim Lân.

Truyện Vợ nhặt kể về nhân vật chính (Tràng) xoàng xĩnh về ngoại hình, ăn

nói thô kệch. Tràng làm công việc đẩy xe thóc liên đoàn lên tỉnh. Một lần, Tràng

đang cố sức kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Mệt quá hắn hò một câu cho đỡ nhọc.

Tràng chỉ đùa tầm phơ tầm phào. Lần thứ hai ra chợ tỉnh, với bốn bát bánh đúc

và vài câu nói đùa, Tràng đã có vợ. Hắn đưa người vợ nhặt về nhà trong cảnh

người chết đói như ngã rạ. Trong cảnh đói kém và ngạc nhiên của mọi người,

Tràng cảm thấy hãnh diện vô cùng. Mặt hắn có vẽ gì phớn phở khác thường. Hắn

tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lấp lánh. Người vợ nhặt đi theo hắn về nhà. Thị tỏ

ra rón rén e thẹn. Về đến nhà, Tràng thưa chuyện cùng mẹ. Sau một thoáng ngạc

nhiên, thương xót cho cảnh ngộ người đàn bà, bà cụ Tứ chấp nhận trong tâm

88

trạng vừa mừng, vừa tủi, vừa lo… Sáng hôm sau, trong bữa ăn ngày mới, cả nhà

ai nấy đều vui vẻ trò chuyện và hy vọng vào ngày mai tốt đẹp hơn.

Với cốt truyện này, Kim Lân tổ chức trần thuật rất tự nhiên, hấp dẫn. Mạch

tự sự diễn ra theo quá trình tâm lý nhân vật Tràng. Mở đầu tác phẩm là cảnh

Tràng đưa người vợ nhặt về nhà trước sự ngạc nhiên của mọi người. Trong sự

ngạc nhiên của mọi người và bản thân, Tràng nhớ lại câu chuyện nhặt được vợ.

Tiếp đó mạch tự sự chảy xuôi cho đến thời điểm kết thúc. Với mạch tự sự theo

diễn biến tâm lý nhân vật, Kim Lân đã tạo cho tác phẩm một mạch trần thuật rất

tự nhiên, hấp dẫn. Có thể nói, dạng cấu trúc trần thuật này đã góp phần rất lớn

vào việc biểu hiện ý nghĩa tố cáo của tác phẩm: cuộc sống khủng khiếp đến mức

khiến con người nghĩ rằng mình không thể có được hạnh phúc ngay cả khi nó trở

thành hiện thực.

Tương tự, trong truyện Trả lại đòn, mạch tự sự dẫn dắt người đọc đi từ thắc

mắc này đến thắc mắc khác. Sư Tuệ, Chánh Bảy là người như thế nào? Câu

chuyện mối thù cầu Đôi ra sao mà khiến con cháu làng Đồng Kỵ phải thực hiện

lời nguyền: “Có gặt của làng Trang Liệt được năm bảy sào ruộng thì làm ăn mới

mát mẻ thịnh vượng”. Câu chuyện mối thù cầu Đôi được mở ra bí mật với kiểu

cấu trúc trần thuật truyện lồng truyện qua lời kể của Chánh Bảy. Đỉnh điểm của

câu chuyện trả lại đòn là cuộc so tài giữa Chánh Bảy, sư Tuệ và bọn đàn em với

cánh Ba Lai Hà Đông. Qua tâm trạng thất bại ê chề của Chánh Bảy, mạch tự sự

đưa người đọc đến cuộc chiến ngang tài ngang sức bằng hồi ức của nhân vật. Thế

rồi, cùng với cái chết của con Vện, Chánh Bảy phải tháo chạy về địa phận Đồng

Kỵ mà chưa gặt được sào lúa nào. Ở đây, sự ngắt quãng, trở ngược của thời gian

cốt truyện được giải thích như không phải bởi sự chú ý của tác giả mà bởi quy

luật tâm lý của nhân vật. Với việc tổ chức mạch tự sự theo cơ chế tâm lí của hồi

tưởng, tác giả đã làm nổi rõ hơn nỗi nhục nhã của một con người mà khi thất bại

mới biết “thiên hạ có lắm người tài”. Cách tổ chức trần thuật này đặt trong mối

tương quan về sự di chuyển điểm nhìn: từ điểm nhìn tác giả sang điểm nhìn nhân

vật. Sự di chuyển điểm nhìn này đã tạo nên cái nhìn nhiều chiều về nhân vật

Chánh Bảy, về mối thù cầu Đôi giữa làng Trang Liệt và làng Đồng Kỵ. Đây

89

chính là lô gích để tác phẩm kết thúc theo lối để ngỏ nhằm thể hiện một ý nghĩa

sâu sắc: trong con người luôn tồn tại cái thiện, vấn đề là ở chỗ phải có một tình

thế và phải biết nhen nhóm để cái thiện ấy bùng toả.

Ở truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, mạch tự sự cũng xuôi chảy rất tự nhiên

theo diễn biến tâm trạng nhân vật. Đoạn hồi ức và cảm xúc của nhân vật Tư khi

bị cái đói hành hạ thể hiện rất rõ dấu ấn tự truyện của nhà văn:

Tư đưa “bát phở” lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên anh nếm một

hụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá được một bát

cơm nguội trộn ăn thì phải biết! Nghĩ đến cơm nguội, anh lại nhớ đến một hôm,

cũng đói như hôm nay. Thân, bạn chí thiết của anh, đến chơi nèo mãi anh về

- Nhà đi vắng cả, chỗ anh em với nhau, tôi nói thật: anh ở đây ăn cơm

nguội - cơm nguội thôi - với tôi cho vui nhé.

nhà. Rồi mời anh:

Cái bữa cơm nguội với cà ấy sao mà ngon thế! Tư còn nhớ mãi, có lẽ suốt

đời: Tư so sánh ông Cả với Thân. Nỗi căm hờn nổi dậy trong lòng. Hai mắt anh

quắc lên một cách dữ dội. Anh nghiến răng ném mạnh “bát phở” ra sân. Tiếng

bát vỡ làm cho lòng anh dịu. Anh bật cười thấy mình vô lý và hơi tiêng tiếc. Tư

thấy, mỏi rã rời. Toàn thân run lên. Anh nằm lả xuống [54, tr.30 - 31].

Cũng với mạch tự sự như trên, trong truyện Cơm con, câu chuyện thời trẻ

của cụ Nhiêu hiện ra rất tự nhiên hợp lý sau những lần gây sự của đứa con bất

hiếu (cả Anh).

Càng nghĩ, cụ càng giận uất cái thằng con bạc bẽo. Nó dám mở mồm nói:

“Có được nhờ ông cái gì tôi không phải” mà nghe cho được.

Nó không nhớ cái hồi mẹ nó chết đi ư? Em nó còn đỏ hỏn; nó mới biết bò.

Ai nuôi nó nhớn đến ngày nay? Ai lo lắng vợ con cho nó? Ai gây cửa hàng cửa

họ cho nó? Chao ôi! Cứ nghĩ đến cái đận gà trống nuôi con ấy mà phát sợ. Một

mình cụ tần tảo buôn rau bán hành, buôn đấu bán thúng, thôi thì xoay xoả đủ

vành [54, tr.549 - 550].

90

Theo mạch hồi ức, cụ Nhiêu nhớ lại những ngày tháng lận đận, một thân

một mình nuôi con. Cụ bỏ qua ngoài tai lời khuyên của mọi người, cụ không dám

nghĩ đến cảnh vợ lẽ con thêm. Là người lo xa nên cụ đã tậu hơn mẫu ruộng

thượng đẳng điền để phòng thân. Những ngày còn ruộng, vợ chồng cả Anh tử tế

với cụ quá chừng. Thế rồi sau khi sang tên mẫu ruộng ấy, vợ chồng cả Anh tỏ ý

khủng khỉnh với cụ ngay. Chúng nó xem cụ như là cái nợ… Như vậy, ở truyện

ngắn này, mạch tự sự không chỉ diễn ra tự nhiên, hợp lý mà nó còn góp phần

khám phá ra ý nghĩa tâm lý của nhân vật trong mối tương quan với hiện tại của

câu chuyện. Ở đây, sự đối sách có ý thức của nhà văn về câu chuyện “cha mẹ

nuôi con bằng giời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày” là rất rõ.

Nhà văn Kim Lân từng đưa ra quan niệm: trong truyện ngắn chi tiết có vai

trò vô cùng quan trọng. Quan niệm này đã đưa đến đặc điểm: truyện ngắn của

ông thường rất nhiều chi tiết. Có khi chi tiết lấn át cả cốt truyện. Chi tiết góp

phần thể hiện tinh tế, rõ ràng tính cách nhân vật nhất là khi nó được thể hiện như

là kết quả của quá trình tâm lí. Đoạn miêu tả hành động của nhân vật Đoàn (Ông

lão hàng xóm) khi nghe tin chị vợ bị đuổi ra khỏi cuộc họp được tác giả thể hiện

- Sao? Mình?… Ô kìa, sao tôi hỏi mình lại khóc. Chị vợ nức nở:

rất hợp lí:

- Đang họp dở chừng… Người ta đuổi không cho họp nữa…

- Người ta đuổi không cho họp à? Người ta đuổi không cho mình họp nữa

à? Làm sao mà người ta đuổi?… Giời ơi! Thế này thì tôi sống làm sao được!…

Mình ơi! Mình ơi!…

Đoàn bấu chặt lấy hai vai vợ, vừa nói, vừa rít. Cái ý nghĩ định chết khi nãy

vừa dịu xuống lại đau xé trong người Đoàn, Đoàn bỗng ôm chầm lấy vợ vào

lòng. Vừa đau đớn, khổ sở, vừa căm tức, điên cuồng, Đoàn cắn vào cổ, vào vai,

vào ngực vợ… [54, tr.258].

Hành động của nhân vật Đoàn là hành động hợp với diễn biến tâm trạng.

Chính nỗi đau khổ tuyệt vọng, tình cảm thương vợ và thương bản thân đã khiến

anh ôm choàng lấy vợ. Ở đây, hành động của nhân vật không chỉ là kết quả của

91

một quá trình tâm lí mà nó còn trở thành chi tiết rất đắt góp phần thể hiện chủ đề

tác phẩm.

Khai thác hình tượng nhân vật và tổ chức mạch tự sự theo quá trình tâm lí,

ngòi bút Kim Lân còn thể hiện thế mạnh ở khả năng phân tích và biểu hiện tâm

trạng nhân vật. Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân đã thể hiện rất xúc động tâm

trạng nhân vật lão Hai. Lão vô cùng đau khổ khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây.

Nỗi đau lên đến tột độ, lão căm thù cả làng chợ Dầu. Nỗi mặc cảm, nhục nhã về

Ông Hai ngồi lặng trên một góc giường, bao nhiêu ý nghĩ đen

tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão. Biết đem nhau đi

đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?…

cái tin làng chợ Dầu theo giặc khiến lão tưởng như tuyệt đường sinh sống:

Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không một gì cái đất Thắng này. Ở Đài,

ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao Thượng… đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng

đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa,

thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.

“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” cái câu nói của người đàn bà tản

cư hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông.

Hay là quay về làng?…

Vừa chớm nghĩ như vậy. Lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng

ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ…

[54, tr.192]

Với sự sâu sắc, Kim Lân đã thể hiện rất xúc động cõi lòng thâm sâu của

người nông dân. Họ một lòng đi theo cách mạng. Dù hoàn cảnh nào họ cũng

hướng về kháng chiến, hướng về Cụ Hồ. Chính những tình cảm ấy đã khiến lão

Hai vô cùng sung sướng và tự hào khi nghe tin làng chợ Dầu không theo giặc.

Nhìn lại toàn bộ sáng tác của Kim Lân trong cả hai giai đoạn trước và sau

cách mạng tháng tám, người đọc có thể nhận ra sự am hiểu sâu sắc về tâm lí con

người của nhà văn. Sự am hiểu này đã giúp Kim Lân có những trang biểu hiện

một cách tinh tế, chân thực và cảm động những tình cảm của người lao động

92

nghèo. Có thể nói, chính vốn sống và sự sâu sắc đã đưa ngòi bút của ông gần như

đến tận cùng những tâm trạng, nỗi niềm của con người. Điều này cũng như sự

thành công của Nam Cao khi khắc hoạ những bi kịch của người nông dân và

người trí thức trước cách mạng tháng tám. Cũng bởi những thành công này mà

nhà thơ Trần Ninh Hồ đã đưa ra một nhận xét khá sát đáng về truyện ngắn của

Kim Lân. “Tất cả, tất cả, dường như đã được ghi lại bằng những thân phận,

những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch

sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa

ấy” [75, tr.87].

3.2.3.3. Cùng với việc tổ chức mạch tự sự theo quá trình diễn biến tâm lí

nhân vật, việc tổ chức điểm nhìn trần thuật cũng là một yếu tố trong sáng tạo

nghệ thuật của nhà văn Kim Lân. Khi miêu tả, trần thuật các sự kiện nhà văn bao

giờ cũng bộc lộ quan điểm đánh giá, cảm thụ về các sự kiện, các loại nhân vật

trong tác phẩm. Ở những truyện viết về đề tài những sinh hoạt văn hoá nhà văn

thường tiến hành trần thuật theo quan điểm ca ngợi, trân trọng những giá trị văn

hoá truyền thống. Ở các truyện viết về đề tài xã hội, vấn đề tổ chức điểm nhìn

trần thuật diễn ra rất linh hoạt. Có khi nhà văn tiến hành trần thuật theo quan

điểm của mình, có khi theo quan điểm nhân vật, có khi là sự kết hợp luân phiên

giữa các quan điểm. Trong các truyện ngắn cấu trúc trần thuật theo quá trình tâm

lí, Kim Lân thường sử dụng linh hoạt hai loại điểm nhìn bên trong và điểm nhìn

bên ngoài. Đặc biệt, với loại điểm nhìn bên trong, sự trần thuật thường được tiến

hành qua lăng kính của một tâm trạng cụ thể. Điều này giúp nhà văn tái hiện

thành công các quá trình tâm lí của nhân vật. Có thể nói, với dạng cấu trúc trần

thuật theo tâm lí, Kim Lân đã mang đến cho nhân vật một đời sống nội tâm

phong phú, đa chiều hơn các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan,

Ngô Tất Tố… Dạng cấu trúc trần thuật này chúng ta thường gặp trong các truyện

ngắn của Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu,…

3.2.4. Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian

3.2.4.1. Hình thức tổ chức sự kiện cơ bản nhất là liên kết các sự kiện thành

truyện. Lối tự sự truyền thống thường tổ chức mạch phát triển của câu chuyện

93

theo trật tự từ trước đến sau, từ mở đầu đến kết thúc. Cách tổ chức sự kiện này

thường hướng đến sự thể hiện ý nghĩa của chuỗi sự kiện trong mối quan hệ nhân

quả. Kim Lân cũng kế thừa cách tổ chức trần thuật này. Bên cạnh đó, có một số

lượng đáng kể truyện ngắn của ông mở đầu thời điểm trần thuật ở nhiều thời

điểm khác nhau của thời gian cốt truyện. Ở những trường hợp như vậy, mạch tự

sự của tác giả sẽ không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, có sự xen kẽ giữa hiện

tại và quá khứ. Sự xáo trộn thời gian này thường gắn với quy luật tâm lí, với việc

hướng người đọc đến việc đi tìm nguyên nhân, cội nguồn của hiện tại… Dạng

cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian trong truyện ngắn Kim Lân mang

đặc điểm khá đa dạng. Mạch tự sự có thể mở đầu từ hiện tại rồi trở về quá khứ, từ

quá khứ gần đến quá khứ xa rồi trở về hiện tại. Hoặc mạch tự sự không xuôi

chiều mà có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa quá khứ và hiện tại…

3.2.4.2. So với các dạng cấu trúc trần thuật khác, sự đa dạng và mức độ rõ

ràng của dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian được thể hiện ít hơn.

Nhưng với con số 10/28 truyện là một con số đáng kể để định hình nên một dạng

cấu trúc trần thuật khác của nhà văn Kim Lân.

Ở nhóm truyện thứ nhất (gồm các truyện: Nên vợ nên chồng, Chị

Nhâm…), mạch tự sự không xuôi chiều mà đi từ hiện tại trở về quá khứ, từ quá

khứ gần đến quá khứ xa. Trong truyện Nên vợ nên chồng, mạch trần thuật bắt

đầu từ sự kiện anh Thế chị Hoà xây dựng gia đình trong một hoàn cảnh hết sức

cảm động và được mọi người vun vén rất nhiệt tình. Từ sự kiện này, mạch tự sự

trở về quá khứ gần với câu chuyện về các tên “anh cu Ế” trong những ngày

tháng sống tủi nhục. Từ quá khứ gần, mạch trần thuật trở về quá khứ xa với nhiều

chuyện: chuyện “một năm đói mẹ Thế đem bốn đứa con nhỏ lên đất Triều Dương

kiếm việc”, chuyện đồng chí Vân giúp Thế kể khổ, chuyện hai lần lấy vợ không

thành của Thế. Ở phần hai của truyện, mạch tự sự cũng trở về quá khứ với các

câu chuyện: chuyện bố mẹ Hoà đem con tìm đất kiếm sống, chuyện bố Hoà và

em Hoà bị giết, chuyện mẹ Hoà thương chồng thương con khóc cho đến chết,

chuyện Hoà dũng cảm kể tội thằng Khang… Tương tự, ở truyện Chị Nhâm,

mạch tự sự mở đầu bằng việc giới thiệu câu chuyện chị Nhâm vì địa chủ phải

94

trốn lên rừng 27 tháng. Tiếp đó, mạch truyện trở về quá khứ hai mươi năm trước

với câu chuyện hai vợ chồng ông lão đánh dậm có hai cô con gái là Nhâm và

Cấn. Sau những sự kiện về quãng đời bất hạnh của Nhâm và gia đình, truyện kết

thúc bằng sự kiện Dung và Nhâm trở thành vợ chồng. Họ thoát khỏi cảnh đời

khốn khổ, trở thành chủ nhân của cuộc đời mình.

Ở hai truyện Nên vợ nên chồng, Chị Nhâm, với việc tổ chức mạch tự sự từ

hiện tại trở về quá khứ, tác giả đã làm nổi bật quá khứ đau thương của những số

phận bất hạnh. Sự đối lập giữa hiện tại cuộc đời mới với quá khứ bất hạnh đã làm

nổi bật chủ đề tác phẩm: chỉ có cách mạng mới thay đổi được số phận bất hạnh

của người nông dân, chỉ có cách mạng mới đem lại hạnh phúc cho họ.

Ở nhóm truyện thứ hai (gồm các truyện: Thượng tướng Trần Quang Khải

- Trạng vật, Người chú dượng, Bà mẹ Cẩn…), cấu trúc trần thuật lại mang một

đặc điểm khác: mạch tự sự không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, có sự xen kẽ

giữa hiện tại và quá khứ. Trong truyện Thượng tướng Trần Quang Khải -

Trạng Vật, mạch tự sự bắt đầu từ thời điểm một đêm cuối xuân Tần ru con ngủ

với bao tâm trạng ngổn ngang. Tiếp đó, mạch tự sự có sự trở đi trở lại, xen kẽ

giữa nhiều câu chuyện của quá khứ với hiện tại: chuyện tình giữa Tần và Đức

Thái Tông Trần Cảnh; chuyện về chàng đô vật Trạng Sặt; chuyện về hai ông đô

Voi, đô Nghê thời Lý; chuyện cha con Đức Thái Tông Trần Cảnh nhận ra nhau…

Như vậy, ở truyện ngắn này, sự trở đi trở lại xen kẽ của quá khứ nhằm hướng

người đọc đến việc giải thích nguyên nhân, cội nguồn của hiện tại . Đó là sự dở

dang của cuộc đời Tần; sự say mê, hiểu biết cặn kẽ của Đức Thái Tông Trần

Cảnh với môn võ vật… Nói cách khác, việc xáo trộn trật tự cốt truyện trong

truyện ngắn này đã mở hướng đưa thêm vào tác phẩm một số cốt truyện khác: cốt

truyện của câu chuyện tình giữa cô gái tên Tần với Đức Thái Tông Trần Cảnh,

cốt truyện của câu chuyện về hai ông tướng Đá Rãi…

Tương tự, trong truyện Bà mẹ Cẩn, sự xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ trong

mạch tự sự cũng mang ý nghĩa đi tìm nguyên nhân hoàn cảnh hình thành nên tính

cách “khó hiểu” của bà mẹ Cẩn. Đó là quá khứ đau khổ, dở dang về đường chồng

95

con. Ngoài ra, ở đây mạch tự sự còn nhằm hướng người đọc đến sự đồng cảm với

nhân vật.

Ở truyện Người chú dượng, với kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người

dẫn truyện vừa là một nhân vật, Kim Lân có chín lần hồi ức. Theo mạch hồi ức,

mạch tự sự không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa quá khứ và hiện

tại. Mỗi khi hồi ức hiện ra, mạch tự sự lại chuyển sang một câu chuyện thuộc về

quá khứ: chuyện cái bến Mảng - thủ đô Lửa với bao con người thân thiết mà

nhân vật tôi đã từng gắn bó; chuyện cái lối đi qua làng U, làng Ngò; chuyện thân

một cây trám và những cụm sau sau xơ xác; chuyện vợ chồng ông phán già;

chuyện về trại Han những ngày kháng chiến; chuyện dì Bản; chuyện ông Mạc và

con dao rừng vỏ gỗ… Những câu chuyện xuất hiện theo kí ức của nhân vật tôi có

khi vài trang, có khi là một đoạn. Đó là những thông tin ngắn gọn về quá khứ

nhân vật. Cũng có khi, chỉ mấy dòng ngắn ngủi mà Kim Lân đã có cả hình ảnh

gợi nhớ của hiện tại và một câu chuyện thuộc về quá khứ:

Tôi đã đến dẫy tường đổ, trơ vơ bên sườn một quả đồi sỏi đỏ. Cái nhà này

tôi biết. Đấy là nhà vợ chồng một ông phán già ở Hà Nội có con cùng làm một

cơ quan với vợ tôi. Anh con giai ấy ốm, rồi chết từ hồ còn kháng chiến. Vợ chồng

ông phán tôi có gặp mấy lần ở Hà Nội, tôi có lại nhà chơi. Bây giờ vợ chồng ông

ở với người con gái đã luống tuổi làm trong một hợp tác xã đan len gần chợ Cửa

Nam [54, tr.453].

3.2.4.3. Ở dạng cấu trúc trần thuật này, chúng tôi nhận thấy mạch tự sự

thường diễn ra theo hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, mạch từ sự bắt đầu từ

thời điểm hiện tại sau đó trở về quá khứ rồi kết thúc ở hiện tại. Ở trường hợp này,

mạch tự sự thường trở về một khoảng dài của quá khứ. Trường hợp thứ hai, mạch

tự sự có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ với những khoảnh khắc

nhớ ở nhiều thời điểm khác nhau. Trong cả hai trường hợp, mạch tự sự có thể

diễn ra theo mạch hồi ức nhân vật, theo hướng đi tìm nguyên nhân cội nguồn của

hiện tại hay theo hướng truyện lồng truyện… Ở cả hai trường hợp trên, tác giả

thường hướng đến sự so sánh, đối lập giữa quá khứ đau buồn bất hạnh với hiện

tại về sự đổi đời của nhân vật trong cuộc sống mới. Có thể nói, ở dạng cấu trúc

96

trần thuật này, Kim Lân có những nét tương đồng và khác biệt với Nam Cao.

Trong truyện ngắn Nam Cao, mạch tự sự cũng có sự trở về của những khoảng dài

quá khứ nhân vật. Nhưng trong truyện ngắn Nam Cao, quá khứ nhân vật thường

là quá khứ êm đềm, trong sáng, đáng nhớ hơn so với hiện tại (Đời thừa, Trăng

sáng, Chí Phèo…). Những quá khứ này thường đặt Trong sự so sánh đối lập với

tương lai bế tắc do hoàn cảnh xã hội tạo ra. Ở truyện ngắn của Nam Cao, sự trở

về của quá khứ trong mạch tự sự thường nhằm chuyển sự chú ý của người đọc từ

sự việc sang nội tình bên trong của nhân vật. Đó là những bi kịch của con người

trong xã hội cũ…

97

KẾT LUẬN

Kim Lân đến với văn học bằng sự say mê ham thích và ý chí vượt lên số

phận. Ông viết văn với một tâm niệm chân thành: đòi cho mình một chỗ đứng,

một nhân phẩm trong cuộc sống quẩn quanh ở nông thôn bấy giờ. Chính vì tâm

niệm chân thành, đẹp đẽ ấy mà hầu hết các sáng tác của Kim Lân đều tập trung

vào hai mảng đề tài lớn: cuộc sống, tâm tư tình cảm của người nghèo khổ và

những sinh hoạt văn hoá cổ truyền, những thuần phong mỹ tục ở nông thôn.

Trước cách mạng tháng tám, Kim Lân bước vào làng văn với những truyện

ngắn mang tính tự truyện đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ

nhật. Ở giai đoạn sáng tác này, ý thức trách nhiệm của nhà văn đối với ông còn

mơ hồ. Ông thường viết về bản thân và cái mình thích. Tuy nhiên, với tấm lòng

của người vốn là con đẻ của đồng ruộng, Kim Lân đã hướng ngòi bút vào cuộc

sống và con người của quê hương. Ông tập trung phản ánh cuộc sống nông thôn

cùng với những cảnh đời nghèo khổ, lam lũ của người nông dân. Bên cạnh đó,

Kim Lân còn có một số tác phẩm viết về những thú vui, trò chơi nơi thôn dã như:

chọi gà, thả chim, chó săn, đánh vật… Có thể nói, những truyện ngắn viết về

những sinh hoạt văn hoá cổ truyền của ông đã tạo được những ấn tượng sâu sắc

đối với người đọc. Đây là những trang viết thể hiện rất rõ vốn hiểu biết tường

tận, phong phú của nhà văn về những giá trị văn hoá truyền thống.

Sau cách mạng tháng tám, nhà văn ý thức hơn về trách nhiệm của mình đối

với cuộc sống và xã hội. Ông tiếp tục viết về những cảnh đời khốn khó, tội

nghiệp. Ông đi sâu vào thể hiện những thay đổi tình cảm, nhận thức, sự đổi đời

của người nông dân nhờ cách mạng, những hoạt động phục vụ cách mạng bình

thường nhưng đáng quí của họ. Với một tầm nhìn, tầm nghĩ mới, Kim Lân đã

sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị như: Vợ nhặt, Làng…

Cả đời văn, Kim Lân chủ yếu viết truyện ngắn. Hơn ba mươi truyện ngắn là

con số không nhiều so với các nhà văn cùng thời nhưng ông đã có những đóng

góp đáng kể cho đề tài nông thôn, thể tài truyện ngắn và nền văn xuôi Việt Nam

hiện đại. Thành công của Kim Lân xuất phát từ tài năng bẩm sinh, vốn sống đầy

98

đặn, phong phú, khả năng quan sát và thể hiện độc đáo. Mỗi tác phẩm của ông là

một sự phát hiện, khẳng định bản chất tốt đẹp của con người. Ông luôn hướng

ngòi bút của mình tới điều thiện, cố gắng tìm tòi để nhận ra những biểu hiện tốt

đẹp của cuộc sống và của con người với tấm lòng bao dung, nhân ái tràn đầy. Bởi

vậy, đọc truyện Kim Lân, người đọc luôn cảm nhận được ở tác phẩm của ông

thường toát lên cảm hứng ca ngợi những giá trị tốt đẹp của cuộc sống, cảm hứng

yêu thương trân trọng con người và cuộc sống của con người. Nguồn mạch cảm

hứng ấy xuất phát từ cái tâm của con người nhân ái, cái tâm của người cầm bút.

Cái tâm ấy bình dị, chất phác mà sâu sắc như con người ông. Trong văn Kim

Lân, người đọc không bắt gặp những câu chữ được đánh bóng mạ kền. Ông có

cái nhìn, lối nghĩ và cách diễn đạt của người vốn bình dị chất phác. Văn của ông

không ồn ào mà chân chất, trong sáng mà chững chạc.

Kim Lân từng quan niệm: trong truyện ngắn, chi tiết vô cùng quan trọng.

Truyện của ông đầy ắp những chi tiết. Trước khi viết, nhà văn chuẩn bị rất kỹ chi

tiết, cốt truyện và nhân vật. Để khắc hoạ chân thật, giản dị hình ảnh con người và

cuộc sống của con người, nhà văn thường vận dụng các kiểu trần thuật trong

phương thức trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan.

Ở phương thức trần thuật khách quan, kiểu trần thuật lạnh lùng là kiểu trần

thuật được sử dụng nhiều nhất. Với những đặc điểm của kiểu trần thuật này, tác

giả để cho nhân vật, sự kiện tự nó hiện ra và diễn biến như trong đời sống thật.

Nhà văn tách khỏi câu chuyện, tạo cho người đọc cảm giác Như được tiếp xúc

trực tiếp với các nhân vật và các sự kiện. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận,

đánh giá theo cách của riêng mình. Bên cạnh đó, trong một số truyện ngắn, khi

cần thiết, tác giả lại hoà mình vào nhân vật để bộc lộ thế giới nội tâm của nhân

vật. Ở những trường hợp này, lời nói nửa trực tiếp được sử dụng nhằm khai thác

triệt để tâm lý nhân vật. Ngoài ra, trong một số truyện ngắn như: Đứa con người

vợ lẽ, Cô Vịa, Vợ nhặt, Làng… người đọc bắt gặp rất nhiều yếu tố tự truyện. Đó

là nét tương đồng giữa những dấu vết về hoàn cảnh, những trải nghiệm, những ấn

tượng của nhà văn với thế giới nhân vật mà nhà văn thể hiện trong tác phẩm. Ở

đặc điểm này, nhà văn đã vận dụng sáng tạo phương thức trần thuật khách quan.

99

Sự vận dụng sáng tạo này đã mang đến cho truyện ngắn Kim Lân sự đa dạng về

phương thức trần thuật và mang đến cho chủ thể trần thuật một tư cách xuất hiện

mới.

Ở phương thức trần thuật chủ quan, truyện ngắn Kim Lân trần thuật chủ yếu

với hai kiểu trần thuật: kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò dẫn truyện và

kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật. Ở

kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện, người trần thuật là

một hình tượng giả định đóng vai trò người dẫn truyện và thường bộc lộ quan

điểm của tác giả. Ở kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là

một nhân vật, do khoảng cách giữa người trần thuật và câu chuyện được rút ngắn

nên tạo điều kiện thuật lợi cho việc miêu tả trực tiếp các biến cố, sự kiện xảy ra

cũng như khả năng thâm nhập vào chiều sâu thế giới nội tâm của nhân vật. Ngoài

ra, ở một số truyện, hai kiểu trần thuật trên còn được vận dụng trong sự kết hợp

với kiểu trần thuật uỷ thác cho nhân vật. Phương thức trần thuật liên chủ quan

này đã góp phần rất lớn vào việc thể hiện chủ đề tác phẩm và cảm hứng của nhà

Góp vào đặc điểm của nghệ thuật trần thuật, cấu trúc trần thuật trong

truyện ngắn Kim Lân cũng là một yếu tố quan trọng trong sáng tạo nghệ

thuật của nhà văn. Trong những sáng tác của mình, Kim Lân thường sử

dụng nhiều dạng cấu trúc trần thuật: dạng tự sự theo trình tự thời gian, dạng

tự sự hay rẽ ngang với những kiểu rất riêng, dạng tự sự theo quá trình tâm

lí và dạng tự sự đảo lộn trình tự thời gian. Các dạng cấu trúc trần thuật này

được sử dụng, kết hợp với nhau rất linh hoạt, hợp lí và đa dạng. Bên cạnh

đó, việc thâm nhập, khám phá thế giới hình tượng nhân vật từ nhiều điểm

nhìn trần thuật cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn, nét độc đáo trong cách tự

sự của nhà văn.

văn.

Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Kim Lân thuộc lớp nhà văn viết

không nhiều. Kim Lân viết không nhiều cũng bởi ông rất thận trọng với mình và

với người. Trong những sáng tác thành công của Kim Lân, người đọc đều tìm

100

thấy con người ông trong đó. Văn ông thường bộc lộ sự thận trọng, sâu sắc trong

suy nghĩ; sự nhân hậu, ôn hoà trong tình cảm. Dù số lượng trang viết không

nhiều nhưng với ba truyện ngắn được đưa vào chương trình giảng dạy của tiểu

học, trung học cơ sở, trung học phổ thông (Ông Cản Ngũ, Làng, Vợ nhặt) và hai

truyện ngắn được xem là mẫu mực về nghệ thuật viết truyện (Vợ nhặt, Làng), có

thể nói, văn xuôi Kim Lân rất tương đắc khi đứng cạnh văn xuôi của các nhà văn

cùng thời như: Tô Hoài, Nguyên Hồng,…

101

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoài Anh (2003), “Kim Lân nhà tiểu thuyết phong tục, sở trường về miêu

tả trạng thái nhân thế”, Tạp chí Văn (số 13), Hội văn nghệ TP.HCM.

2. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn xuôi Kim Lân”, Tạp chí Văn học (số 6), Viện

văn học - uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam.

3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà

Nội.

4. Bakhtin M. (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (bản dịch của Phạm Vĩnh

Cư), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

5. Bakhtin M. (1998) Những vấn đề thi pháp Dostoievski (bản dịch của Trần

Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

6. Y Ban (2004), “Nhà văn Kim Lân: thuở ấy chúng tôi sống bằng hữu lắm”,

Giáo dục và thời đại chủ nhật (số 17).

7. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí

Văn học (số 9).

8. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Đồng Tháp.

9. Nam Cao (1986), Truyện ngắn chọn lọc, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam

Ninh, Nxb Văn học, Hà Nội.

10. Lê Tư Chỉ (1996), Để phân tích một tác phẩm truyện ngắn, Nxb Trẻ,

TP.HCM.

11. Nguyễn Văn Dân (1998), Lí luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

12. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

13. Đặng Anh Đào (2001), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Văn nghệ

TP.HCM.

14. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận văn học phần tác phẩm văn học,

Nxb Đại học quốc gia TP.HCM.

102

15. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà

Nội.

16. Hà Minh Đức (chủ biên) (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học, Hà

Nội.

17. Hà Minh Đức (2000), Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội.

18. Lê Bá Hán (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

19. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học văn hoá - vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

20. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và

suy nghĩ, Nxb Giáo dục, TP.HCM.

21. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.

23. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, Nxb Đà

Nẵng.

24. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ thuật,

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

25. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

26. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội .

27. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

28. Nguyễn Công Hoan (1969), “Viết truyện ngắn”, Văn nghệ (số 30).

29. Nguyễn Công Hoan (1995), Bước đường cùng, Nxb Văn nghệ TP.HCM.

30. Trần Ninh Hồ (1991), “Một ngày Kim Lân”, Văn nghệ (số 34).

31. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội.

32. Nguyên Hồng (1978), Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb Tác phẩm

mới.

33. Nguyễn Khải (2003), Nghề văn cũng lắm công phu, Nxb Trẻ, TP.HCM.

103

34. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi

pháp, Nxb Giáo dục TP.HCM.

35. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

36. Lê Đình Kỵ (1984), Cơ sở lí luận văn học, Nxb Đại học và trung học chuyên

nghiệp, Hà Nội.

37. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển

của văn học, Nxb Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), Hà Nội.

38. M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận

nghiên cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

39. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng việt, Nxb Giáo dục,Hà Nội.

41. Thạch Lam (1988), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.

42. Đặng Thị Huy Lam (2005), Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Luận văn thạc

sĩ, Đại học sư phạm TP.HCM .

43. Kim Lân (1942), Cô Vịa, Trung Bắc chủ nhật (số 135) (in lại trong luận văn

thạc sĩ Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Đặng Thị Huy Lam (2005), Đại

học sư phạm TP.HCM).

44. Kim Lân (1955), Làng, Truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.

45. Kim Lân (1957), Ông lão hàng xóm, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.

46. Kim Lân (1958), Anh Chàng hiệp sĩ gỗ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

47. Kim Lân (1960), Cô gái công trường, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

48. Kim Lân (1962), Con chó xấu xí, Nxb Văn học, Hà Nội.

49. Kim Lân (1965), Vợ chồng anh đội trưởng, Văn nghệ (số 13), Tuần báo

của hội liên hiệp văn học - nghệ thuật Việt Nam.

50. Kim Lân (1982), “Nguyên Hồng - một nhà văn”, Tạp chí văn học, (số 3).

51. Kim Lân (1983), Vợ nhặt, Nxb Văn học, Hà Nội.

52. Kim Lân ( 1984), “Chặng đường đi tới”, Tạp chí Văn học (số 4).

53. Kim Lân(1984), Ông Cản Ngũ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

54. Kim Lân (1996) Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội.

104

55. Kim Lân (2004), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

56. Nguyễn Văn Long, Trần Đăng Xuyền (1999), Tư liệu văn 12 - phần văn học

Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

57. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La

Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình, (2001), Lý luận Văn học, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

58. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá (1992), Văn học 12

(tập1) Nxb Giáo dục TP.HCM .

59. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn

học, Hà Nội.

60. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1986), Các nhà văn nói về văn (tập 2), Nxb

Tác phẩm mới, Hà Nội.

61. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Các tác giả văn học Việt Nam (tập 2), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

62. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Tổng tập văn học Việt Nam tập 30A, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

64. Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Dung, Trần Hữu Tá (1995), Tổng tập văn học

Việt Nam tập 30B, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

65. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và

phong cách, Nxb Trẻ, TP.HCM.

66. Trần Đồng Minh (1994), Tiếng nói tri âm, Nxb Trẻ, TP.HCM.

67. Hồ Quí Nghĩa (2004), “Sức sống trong truyện ngắn Vợ nhặt”, Giáo dục và

thời đại, (số 49).

68. Bảo Nguyên (1997), “Sử dụng ngôn ngữ - nghệ thuật đặc sắc của truyện

ngắn Kim Lân”, Tạp chí Ngữ học trẻ, Nxb Hội ngôn ngữ học VN.

69. Lữ Huy Nguyên (1997), “Kim Lân với những thú chơi ngày xuân Kinh

Bắc”, Văn nghệ (số 5 + 6), Hội nhà văn VN.

70. Lữ Huy Nguyên (2000), Ấn tượng văn chương, Nxb Văn hoá thông tin.

105

71.Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ TP.HCM.

72. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và văn hoá - Từ một góc nhìn, Nxb Văn

học, Trung tâm nghiên cứu Quốc Học.

73. Ngô Văn Phu, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách (1999), Nhà văn Việt Nam thế

kỷ XX (tập 4), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

74. G.N.Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

75. Vũ Dương Quỹ (tuyển chọn và biên soạn) (1999), Nhà văn và tác phẩm

trong nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

76. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học sư phạm

TP.HCM.

77. Vương Thảo(2004), “Nhà văn Kim Lân và sự im lặng của nỗi buồn”, An

ninh thế giới cuối tháng (số 30).

78. Bùi Việt Thắng (2002), Văn học Việt Nam 1945 - 1954 (văn tuyển), Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội.

79. Nguyễn Quang Thiều (chủ biên), Nguyễn Quyến, Trần Thanh Hà (2000),

Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, TP.HCM.

80. Phạm Ngọc Thưởng (2004), “ Nghệ thuật xây dựng đối thoại trong truyện

ngắn Vợ nhặt của Kim Lân”, Tuyển tập 10 năm tạp chí Văn học và tuổi

trẻ, Nxb Giáo dục.

81.TIMÔFÊÉP(1962), Nguyên lý lý luận văn học, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

82. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ TP.HCM.

83. Nguyễn Tuân (1995), Vang bóng một thời , Nxb Văn nghệ TP.HCM.

84. Phùng Văn Tửu (1996), “Một phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí Văn

học (số 2).

85. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

86. Hoà Vang (2004), “Kim Lân những ấn tượng”, Văn học và tuổi trẻ (số7),

Nxb Giáo dục.

106

87. Hoài Việt (1999), Nhà văn trong nhà trường Kim Lân, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

88. YuLốtman, Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, (in trong sách: Trịnh Bá

Đĩnh, (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Hà Nội).

89. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.

90. Nhiều tác giả (2004), Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho

nhà trường, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

91. Nhiều tác giả (1992), Khảo cứu về các phong tục và những thú chơi đẹp ở

đồng quê miền Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

92. Nhiều tác giả (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

107

PHỤ LỤC Bảng khảo sát phương thức trần Thuật trong truyện ngắn của Kim Lân

PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT

TÊN TÁC PHẨM

SỐ THỨ TỰ

NĂM SÁNG TÁC

Đuổi tà Làng Thư phát động Nên vợ nên chồng Tìm em Chị Nhâm Vợ nhặt Ông lão hàng xóm Anh chàng hiệp sĩ gỗ

CHỦ QUAN X X X X X X X X

Đứa con người vợ lẽ Cô Vịa Đứa con người cô đầu Người kép già Đôi chim thành Cầu đánh vật Chó săn Nỗi này ai có biết Con Mã Mái Trả lại đòn Cơm con Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng Vật

1942 1942 1942 1942 1943 1943 1943 1943 1944 1944 1944 1945 1948 1952 1954 1954 1954 1957 1957 1958 1960 1962 1965 1969

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28

KHÁCH QUAN X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X

X

Ông Cản Ngũ Ông Cả Luốn gốc me Con chó xấu xí Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê Người chú dượng

108

Vợ chồng anh đội trưởng Bà mẹ Cẩn

8

22

Tổng Cộng

109

Bảng khảo sát sự phân bố các dạng cấu trúc trần

Thuật trong truyện ngắn của Kim Lân

DẠNG CẤU TRÚC TRẦN

THUẬT

TÊN TÁC PHẨM

(2)

(4)

(3) X

X X X X X X X X X X

(1) X X X X X X X X X X X X X X X X X

X X X X X X X X X X X

Đứa con người vợ lẽ Cô Vịa Đứa con người cô đầu Người kép già Đôi chim thành Cầu đánh vật Chó săn Nỗi này ai có biết Con Mã Mái Trả lại đòn Cơm con Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật Đuổi tà Làng Thư phát động Nên vợ nên chồng Tìm em Chị Nhâm Vợ nhặt Ông lão hàng xóm Anh chàng hiệp sĩ gỗ Ông Cản Ngũ Ông Cả Luốn gốc me Con chó xấu xí Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê Người chú dượng Vợ chồng anh đội trưởng Bà mẹ Cẩn

X X X X X X X X X X

SỐ THỨ TỰ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28

X

17

10

13

10

Tổng cộng

110

(1): Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian. (2): Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí. (3): Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần

(4): Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian.

thuật.

111