BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Quốc Thanh CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO VÀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KIM LÂN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2006
Mục Lục
Trang
MỞ ĐẦU
1 1. Lý do chọn đề tài..................................................................................... 1
2. Giới hạn của đề tài ................................................................................. 2
3. Lịch sử vấn đề......................................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................15
5. Những đóng góp của luận văn ...............................................................16
6. Kết cấu của luận văn ..............................................................................16
Chương 1. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân ...........17
1.1. Về khái niệm cảm hứng .......................................................................17
1.2. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân.......................... 20
1.2.1. Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo nên
cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân .................................................. 20
1.2.2. Về cảm hứng phê phán trong truyện ngắn của Kim Lân.......... 21
1.2.3. Cảm hứng yêu thương và trân trọng con người ...................... 28
1.2.4. Cảm hứng về những sinh hoạt văn hoá ở vùng thôn quê ......... 45
Chương 2. Phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân
62
2.1. Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự ............ 62
2.2. Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân 64
2.2.1. Kiểu người trần thuật lạnh lùng .............................................. 65
2.2.2. Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật ................................... 72
2.2.3. Phương thức trần thuật khách quan và những truyện ngắn mang
dấu ấn tự truyện của Kim Lân ..................................................................... 74
2.3. Phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn của Kim Lân 79
2.3.1. Kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện 80
2.3.2. Kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là
một nhân vật................................................................................................. 85
Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân ..........92
3.1. Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự........................................... 92
3.2. Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân ......... 93
3.2.1. Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian...................... 94
3.2.2. Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần
thuật, ở nhiều thời điểm khác nhau ...............................................................99
3.2.3. Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí ........................................105
3.2.4. Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian ................111
Kết luận .........................................................................................................116
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1921,
quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, tỉnh Bắc Ninh. Bởi rất mê tuồng nên
nhân vật tuồng Kim Lân đã trở thành bút danh của ông từ những năm bốn
mươi của thế kỉ trước. Kim Lân sinh ra ở mảnh đất “đời tạo văn nhân”,
“nhân tài nảy nở” nhưng lại không giống như nhiều nhân tài ở mảnh đất
này. Ông có một đời sống riêng thua thiệt: con một người vợ thứ ba trong
một gia đình bình thường, bị mọi người rẻ rúng... Do điều kiện khó khăn
nên Kim Lân chỉ học hết bậc tiểu học. Sau đó làm thợ sơn guốc, sơn bình
phong, thợ sơn tranh sơn mài... Kim Lân đến với văn học ban đầu là từ say
mê và ham thích. Ông bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của
Kim Lân đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Ông
quan niệm viết văn như cách “đòi cho mình một thân phận, một nhân
phẩm, một chỗ đứng trong cuộc sống bé nhỏ quẩn quanh của quê hương”
[54, tr.15].
Kim Lân bắt đầu sự nghiệp bằng truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ
đăng trên báo Trung Bắc chủ nhật (1942). Đây là tác phẩm mang tính tự
truyện. Trong những năm 1941 đến năm 1944, Kim Lân viết khá đều.
Những truyện ngắn của ông đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung
Bắc chủ nhật, ông tập trung phản ánh khung cảnh làng quê với cuộc sống
và số phận của người nông dân. Những cuộc đời lam lũ, đói nghèo trực tiếp
bước vào tác phẩm của ông và những cuộc đời ấy đã toát lên ý nghĩa hiện
thực sâu sắc. Một số tác phẩm của ông như: Đuổi tà, Con Mã Mái, Ông
1. Lý do chọn đề tài
Cản Ngũ… đi vào đề tài độc đáo: tái hiện những sinh hoạt phong phú ở
vùng thôn quê. Qua những tác phẩm này, tác giả tập trung biểu hiện vẻ đẹp
1
tâm hồn của người dân quê - những con người cực nhọc nghèo khổ, nhưng
vẫn yêu đời, trong sáng và tài hoa.
Sau cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục viết về làng quê Việt Nam.
Trong những tác phẩm: Làng, Vợ nhặt, Bố con ông gác máy bay trên núi
Côi Kê, Người chú dượng... ông tiếp tục viết về những cảnh đời Tội
nghiệp, khốn khó và sự đổi đời của người nông dân nhờ cách mạng. Trong
những tác phẩm viết ở giai đoạn này, Kim Lân đi sâu vào thể hiện những
thay đổi tình cảm của người nông dân trong cách mạng, kháng chiến, sự
đổi đời của họ trong cải cách ruộng đất và những hoạt động cách mạng
thầm lặng bình thường nhưng thật đáng quý của họ.
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Trong cả hai giai đoạn
sáng tác trước và sau cách mạng tháng tám, Kim Lân viết không nhiều
nhưng ở giai đoạn nào ông cũng có tác phẩm hay. Ông là cây bút viết
truyện ngắn vững vàng. “Thành công của Kim Lân chủ yếu do năng khiếu
bẩm sinh và vốn sống của người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Một lòng đi
về với “đất”, với “ thuần hậu nguyên thuỷ” của cuộc sống nông thôn” [89,
tr.758].
Truyện ngắn Kim Lân hấp dẫn và được các nhà nghiên cứu quan tâm,
đề cập đến ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề cảm hứng chủ đạo
và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân cần được xem xét
ở bình diện rộng và mức độ bao quát hơn để hiểu rõ tài năng và đóng góp
của nhà văn.
2. Giới hạn của đề tài
2.1. Đối tượng khảo sát
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Tác phẩm đã xuất bản:
- Làng, truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ, 1948, nhà xuất bản Văn nghệ,
Hà Nội, 1955.
2
- Nên vợ nên chồng, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội,
1955.
- Ông lão hàng xóm (cùng Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng), nhà
xuất bản Văn nghệ, Hà Nội, 1957.
- Anh chàng hiệp sĩ gỗ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1958 .
- Cô gái công trường, truyện phim, nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội,
1960.
- Vợ nhặt, tập truyện ngắn, nhà xuất bản Văn học, Hà nội, 1984.
- Ông Cản Ngũ, nhà xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1984.
- Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996.
- Kim Lâm - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, 2004.
Để phục vụ cho đề tài khoa học, đáng lẽ người viết phải khảo sát toàn
bộ truyện ngắn của Kim Lân nhưng do khó khăn trong việc sưu tập tư liệu,
hạn chế về thời gian nên người viết chỉ tập trung khảo sát 28 truyện ngắn từ
bốn nguồn tư liệu sau:
- Truyện Cô Vịa, báo Trung Bắc chủ nhật, số135, ngày 8-11-1942.
- Truyện Vợ chồng anh đội trưởng, báo Văn nghệ, số13, 1965.
- Tuyển tập Kim Lân, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996.
- Kim Lân - Tác phẩm chọn lọc, nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội,
2004.
Bên cạnh việc khảo sát 28 truyện ngắn nêu trên, chúng tôi còn tiếp thu
một cách chọn lọc những nhận định đánh giá của các công trình nghiên cứu
đã có và những ý kiến của chính tác giả để đảm bảo tính khoa học, tính
khách quan cho luận văn.
2.2. Nội dung vấn đề
Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn của một tác giả là đề tài gồm nhiều vấn
đề. Nhưng do nhu cầu nghiên cứu, nguồn tư liệu, quỹ thời gian và những
3
hạn chế nhất định của bản thân, chúng tôi chỉ tập trung vào ba vấn đề: cảm
hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện
ngắn của Kim Lân .
3. Lịch sử vấn đề
3.1. Phần mở đầu
Như đã trình bày ở trên, các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của
Kim Lân chưa thật nhiều. Các công trình nghiên cứu này có thể chia làm
bốn nhóm. Một là, các bài viết của nhà nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật
truyện ngắn Kim Lân. Hai là, một số bài viết về hai tác phẩm (Làng, Vợ
nhặt) giảng dạy ở trường phổ thông. Ba là, các bài viết của Kim Lân nói về
những tác phẩm của mình. Bốn là, luận văn nghiên cứu về đặc điểm truyện
ngắn Kim Lân. Nhìn chung, các bài nghiên cứu đã đi vào đặc điểm truyện
ngắn của Kim Lân ở những phương diện và những mức độ khác nhau.
Trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sẽ hệ thống những ý kiến nổi
bật, những nhận định quan trọng liên quan đến đề tài.
3.2. Để hệ thống các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận văn, chúng tôi phân chia ra các nhóm ý kiến sau
3.2.1. Hướng tiếp cận về nội dung
Kim Lân đến với văn học bằng sự say mê ham thích và ý chí vượt lên
số phận. Ông bước vào đời sống văn học còn bởi sự gặp gỡ tình cờ, gắn bó
với nhà văn Nguyên Hồng. Nguyên Hồng - người bạn văn của Kim Lân đã
nhận xét về những tác phẩm đầu tay của ông:
Từ giữa những năm 1943 - 1944 ấy, tôi được đọc mấy truyện của Kim
Lân. Thoạt tiên tôi chẳng những không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân
chương chướng thế nào ấy… Nhưng rồi, chỉ bập vào mấy truyện của anh
mà tôi thấy không phải loại ướt át một cách bợm bãi, trái lại nó có cái gì
chân chất của đời sống và con người nghèo hèn, khổ đau… [31, tr.10].
4
Ở lời nhận xét này, nhà văn Nguyên Hồng đã rất chính xác khi đánh
giá về phương diện nội dung và mối quan hệ giữa tác phẩm - hiện thực
trong văn chương của Kim Lân. Cũng gần với quan điểm của nhà văn
Nguyên Hồng, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra nhận xét:
Đọc văn xuôi Kim Lân, ta bắt gặp cái thế giới của những người
thường dân nghèo khổ vốn là hạng “hạ lưu” ở xã hội cũ: Những người
nông dân miền xuôi mất nhà mất đất xiêu dạt lên miền ngược, táp vào một
xóm chợ bến sông, một góc phố núi hay ven một đồn điền, một xóm trai,
tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hằng ngày. Đã có lúc nhà văn gọi
những nhân vật thân thuộc ấy của ngòi bút mình là “ những đầu thừa đuôi
thẹo ở khắp xó xỉnh cuộc sống”. Cách gọi giống như là sự tự mệnh danh
đầy đau xót của chính các nhân vật ấy (…) Mạch kể chuyện của Kim Lân
dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt
vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh chết đường chết chợ, cảnh bị áp
bức, đoạ đầy… [2, tr.56].
Khẳng định lại điều này, năm 1994 trong bài viết Nghĩ về nghề văn ,
nhà văn Kim Lân bộc bạch:
Tôi đến với văn học ban đầu là từ sự say mê ham thích. Những truyện
ngắn đầu tay của tôi như Đứa con người vợ lẽ, Người kép già, Cô Vịa là
những truyện ngắn viết về đề tài xã hội. Đó là những câu chuyện về bản
thân tôi, tâm tư và số phận của tôi cũng như những người gần gũi trong
làng xóm của tôi (…) Tôi viết như một việc được thôi thúc từ bên trong.
Những cảm xúc suy tư của tôi đòi hỏi tôi phải viết. Thực chất, viết văn,
trước tiên tôi viết về mình [16, tr.262] (…) Nói đến tình yêu đất nước, nghe
cảm thấy xa xôi, nhưng tình cảm đối với làng thì thật gần gũi, gắn bó. Đối
với con người Việt Nam, làng xóm nuôi những con người lớn lên bằng cả
vật chất cũng như tinh thần.
5
Tình yêu của tôi đối với làng cũng như đối với cách mạng là nguồn
cảm hứng sâu sắc nhất khi tôi viết Làng [16, tr.268].
Ở những ý kiến trên, Kim Lân khẳng định viết văn đối ông như một
sự đòi hỏi cho mình một thân phận, một chỗ đứng trong xã hội. Văn ông là
những câu chuyện về bản thân và những người gần gũi trong làng xóm.
Nguồn cảm hứng của ông là con người làng quê, quê hương và cách mạng.
Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu
Lữ Huy Nguyên có trích dẫn ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu:
Vương Trí Nhàn, Lữ Quốc Văn và Nguyễn Đăng Mạnh:
Hình như những mẫu người đầu thừa đuôi thẹo ấy đã gửi một đại
diện của họ vào văn học và Kim Lân đã làm việc này một cách đàng hoàng
chững chạc [54, tr.16].
Đó là những trang số phận của các đầu thừa đuôi thẹo, được đưa từ
các xó xỉnh tối khuất lên mặt trang giấy trắng chất chứa nhân thế, nhân
tình hoặc những trang tuy nghiêng về nhiều phía phong tục, trình bày cặn
kẽ những thú chơi lành mạnh…, nhưng vẫn biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm
hồn của một người nông dân trước cách mạng - những người sống vất vả,
khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa [54, tr.18].
Kim Lân là một nhà tiểu thuyết phong tục hạng nhất của Việt Nam
[54, tr.18 - 19].
Ở ba ý kiến trên, các nhà nghiên cứu đã rất tinh tế khái quát đặc điểm
về nội dung trong truyện ngắn của Kim Lân. Từ các ý kiến này, nhà nghiên
cứu Lữ Huy Nguyên bổ sung và nhấn mạnh:
Tuy nhiên nếu có dịp đọc lại các tác phẩm của Kim Lân mà chủ yếu
Là truyện ngắn, ta sẽ thấy ông không phải chỉ là đại diện văn học của loại
nhân vật đầu thừa, đuôi thẹo; ông còn là đại diện văn học sáng giá của
6
những lớp người tài hoa, bặt thiệp, phong lưu riêng thú… chọi gà, thả
chim, đấu võ, đánh vật… [54, tr.16].
Cùng thống nhất với các quan điểm trên, nhà nghiên cứu Hoài Việt
đưa ra nhận xét về hai đề tài chính trong truyện ngắn của Kim Lân:
Chính cái vốn sống phong phú của ông đã dẫn ông tới với hai đề tài
chủ yếu trong nghiệp văn của ông:
- Số phận những người thấp cổ bé họng trong xã hội cũ.
- Phong tục tập quán, những thú vui, trò chơi nơi thôn dã [88, tr.88].
Ngoài ý kiến về hai đề tài chủ yếu trong truyện ngắn của Kim Lân,
nhà nghiên cứu Hoài Việt còn chỉ ra nguồn gốc thành công của Kim Lân là
ở cái tâm và cái tài. Cái tâm của ông là lòng thương xót con người hay con
vật, là sự chân thật, thẳng thắn, ghét sự khuất tất, ám muội. Cái “tài là con
mắt nhìn, cái óc nghĩ, cây bút viết ra” [88, tr.89].
Năm 2003 trong phần giới thiệu về tác giả Kim Lân, nhà nhiên cứu
Trần Hữu Tá đưa ra nhận xét:
Thế giới nghệ thuật của ông chỉ tập trung ở khung cảnh làng quê
cùng với cuộc sống, thân phận người nông dân (…) Những con người của
quê hương ông, thân thiết ruột thịt với ông, từ cuộc sống đói nghèo lam lũ
trực tiếp bước vào tác phẩm, tự nó toát lên ý nghĩa hiện thực, mặc dù nhà
văn chưa thật tự giác về điều đó .
Kim Lân viết rất hay về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong
lưu đồng ruộng”. Đó là những thú chơi lành mạnh mang màu sắc văn hoá
truyền thống của người dân quê như đánh vật, nuôi chó săn, gà chọi, thả
chim v.v…Những truyện ngắn Kim Lân viết về phong tục (Đuổi tà, Đôi
chim thành, Con Mã Mái (…) hấp dẫn không phải chỉ vì đã cung cấp được
những trang tri thức về phong tục mà chủ yếu là vì nhà văn đã làm hiển
hiện lên được cuộc sống và con người làng quê Việt Nam cổ truyền, tuy
7
nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn có nhiều thú vui thanh lịch. Những con người
thật thà chất phác, nhưng thông minh, hóm hỉnh và tài hoa, đã đặt tất cả
niềm say mê của mình vào những thú chơi giản dị mà tao nhã tinh tế ấy,
chẳng khác gì những tâm hồn nghệ sĩ say mê sáng tạo nghệ thuật [90,
tr.758].
Ở ý kiến này, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá cũng nhấn mạnh hai nội
dung nổi bật trong truyện ngắn Kim Lân là: con người, cuộc sống nông
thôn và những sinh hoạt văn hoá phong phú ở vùng thôn quê.
Sau cách mạng tháng tám, Kim Lân tìm thấy nguồn cảm hứng mới, ý
thức hơn về trách nhiệm của một nhà văn cách mạng:
Sau cách mạng tháng tám, ngòi bút Kim Lân tập trung vào phương
diện xã hội chính trị, của đời sống nông dân gắn liền với vận mệnh đất
nước. Về đề tài này, Làng và Vợ nhặt xứng đáng được xem là những truyện
ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại [62, tr.49].
Với quan điểm lịch sử và cái nhìn biện chứng sắc sảo, Nguyễn Đăng
Mạnh đã đưa ra nhận xét thuyết phục về đặc điểm nội dung và vị trí truyện
ngắn của Kim Lân. Cũng cùng quan điểm này, khi giới thiệu truyện ngắn
Làng, nhà nghiên cứu Lữ Huy Nguyên khẳng định: “Phải nói đây là một
chuyển biến mới, khá thành công của Kim Lân viết về người nông dân sau
cách mạng” [54, tr.20].
Năm 1991, Trần Ninh Hồ đưa ra ý kiến nhận xét, đánh giá về truyện
ngắn của Kim Lân:
Tuy tầm vóc, vị trí của mỗi nhà văn một khác, nhưng Kim Lân cũng
là một nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời
người rất khó diễn đạt thành lời ấy (…) Năm mươi năm, một nửa thế kỉ
cầm bút mà chỉ vẻn vẹn có chừng ngót chục truyện ngắn thì quả là ít ỏi.
Nhưng cũng kỳ lạ thay, mỗi khi lần mở những trang văn ít ỏi ấy, ta lại cảm
8
thấy không có một bước ngoặt, một chặng đường nào của con người Việt
Nam trong gần nửa thế kỉ qua mà Kim Lân không đá động tới dẫu chỉ bằng
sự chạm trổ hết sức khiêm tốn là: truyện ngắn [75, tr.106 - 107].
Đây có lẽ là nhận xét của người rất hiểu truyện ngắn Kim Lân. Nhưng
ở vấn đề này, chúng tôi thống nhất với quan điểm của nhà nghiên cứu Lại
Nguyên Ân hơn:
Do chỗ tập trung miêu tả người nông dân trong cách mạng dân tộc
dân chủ cho nên ở hầu hết truyện ngắn của ông, Kim Lân chưa chú trọng
khám phá óc tư hữu của họ. Nét tâm lý căn bản này, chỉ cần bước vào thời
kì đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là lập tức bộc lộ rõ rệt. Nhà văn đã
thấy ngay nét đó: ở ông cả Luốn gốc me trong truyện ngắn cùng tên, nhà
văn đã khá tinh tế nhận thấy có một tương quan nào đó giữa thói gia
trưởng và óc tư hữu trong tâm lý người nông dân này (…) Đáng tiếc là
những tâm lí ứng xử như vậy của người nông dân trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa đã không được Kim Lân tiếp tục phân tích và thể hiện nữa trong
văn xuôi của ông: giữa những năm sáu mươi về sau, hầu như ông đã thôi
không sáng tác nữa [2, tr.58 - 59].
Năm 2005 trong luận văn Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, tác giả
Đặng Thị Huy Lam đã dành hẳn một chương viết về Người lao động nghèo
ở làng quê Việt Nam và tấm lòng của nhà văn Kim Lân. Trong chương này,
tác giả đi vào hai nội dung. Một là, hiện thực về làng quê Việt Nam và
người lao động nghèo. Ở nội dung này, tác giả khảo sát các vấn đề: phong
tục và sinh hoạt văn hoá làng quê, những mảnh đời đầu thừa đuôi thẹo,
cuộc sống mới của người lao động nghèo sau cách mạng tháng tám. Hai là,
tấm lòng của nhà văn Kim Lân. Nội dung này bao gồm vấn đề: cái tôi giàu
lòng nhân ái, sự trân trọng và ca ngợi cái đẹp trong tâm hồn của người lao
động nghèo. Với những nội dung trên, có thể nói tác giả Đặng Thị Huy
9
Lam đã tìm hiểu nội dung của truyện ngắn Kim Lân theo các định hướng
của những công trình nghiên cứu đã có. Đóng góp của tác giả là đã hệ
thống và cụ thể các quan điểm để phục vụ cho luận văn của mình.
3.2.2. Hướng tiếp cận về nghệ thuật
Như đã trình bày, các công trình nghiên cứu truyện ngắn của Kim Lân
chưa nhiều. Đặc điểm các công trình nghiên cứu về nghệ thuật truyện ngắn
của Kim Lân cũng chỉ ở mức độ riêng lẻ, chưa tập trung và hệ thống.
Năm 1986 trong bài Văn xuôi Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên
Ân đưa ra nhận định:
Có lẽ do số lượng tác phẩm không nhiều nên truyện ngắn Kim Lân
cũng không thật đa dạng về các kiểu cấu tứ. Bằng vào hai tập Vợ nhặt và
Nên vợ nên chồng, có thể kể được khoảng ba kiểu truyện chính. Kiểu phổ
biến hơn cả có thể gọi là những truyện ngắn tính cách. Nhiệm vụ nghệ
thuật mà nhà văn vẽ ra ở đó là vẽ ra một con người (…) Hơi khác chút ít
với kiểu truyện tính cách này, Vợ nhặt là truyện ngắn không chú tâm hẳn
vào nhân vật nào (…) Diễn biến của truyện không nhằm khám phá một nét
tính cách nào của một trong số các nhân vật. Cái được chủ yếu ở đây là
miêu tả một tình huống. Đây có thể gọi là ước lệ là truyện ngắn tình huống
(…) Có một kiểu truyện nữa mà Kim Lân viết rất ít. Tôi muốn nói truyện
ngắn Con chó xấu xí từng được đặt làm cái tên chung cho tập truyện Vợ
nhặt hồi in lần đầu thành sách. Đây là truyện có hơi hướng ngụ ý [2, tr.59
- 61].
Ở ý kiến này, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân chia truyện ngắn Kim
Lân thành ba loại: truyện ngắn tính cách, truyện ngắn tình huống và truyện
ngắn ngụ ý. Cũng trong bài viết này, nhà nghiên cứu còn đưa ra nhận xét về
ngôn ngữ và chất giọng trong văn xuôi Kim Lân:
10
Chất giọng thường xuyên trong truyện ngắn của Kim Lân là chất
giọng thực sự văn xuôi. Nó không thích hướng vào chất trữ tình, không
thích nống lên thống thiết. Nó thích phô bày cái nôm na thật thà, đáng yêu
nhưng cũng đáng tức cười của những sự thật xung quanh chứ không thích
phủ lên các sự thật ấy một sự cảm động đến rưng rưng.
Chính là do thích phô bày nôm na thực thà của những con người và sự
vật xung quanh nên văn xuôi này đã chú trọng khai thác các khả năng miêu
tả của các ngôn ngữ (…) Nhà văn rất chú ý miêu tả lời ăn tiếng nói của họ
và đã biến thứ ngôn ngữ sống của những cư dân sống thực đó thành một
đối tượng nghệ thuật rất đáng lắng nghe, nếu ta biết nghiệm ra cái vẻ đẹp
rất thực của lời ăn tiếng nói ấy [2, tr.62].
Ở cả hai ý kiến trên, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã rất có cơ sở
khi nhận xét về ba kiểu truyện trong truyện ngắn của Kim Lân. Đặc biệt
hơn, tác giả rất sắc sảo khi phát hiện một trong những đặc sắc của văn xuôi
Kim Lân là ngôn ngữ. “Ngôn ngữ nhân vật có vai trò quyết định trong việc
thể hiện những tâm lí cổ truyền của người nông dân” [2, tr.62].
Năm 1994 trong bài Nghĩ về nghề văn , Kim Lân bộc bạch:
Khi sáng tác truyện ngắn, đối với tôi chi tiết vô cùng quan trọng.
Trong truyện ngắn của tôi đầy ắp chi tiết. Tôi nói bằng chi tiết. Truyện của
tôi viết ra không ai kể lại được .
Truyện Làng, Vợ nhặt, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Ông
lão hàng xóm nếu kể cốt truyện ra thì tẻ nhạt không có gì đáng chú ý cả.
Chi tiết lấn át cốt truyện, chi tiết thể hiện một cách tinh tế nhất và rõ ràng
nhất tính cách nhân vật cũng như hoàn cảnh sống của nhân vật [16,
tr.264].
Năm 1996 trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân, nhà nghiên cứu
Lữ Huy Nguyên đã mượn lời của nhà nghiên cứu Nguyên An để đánh giá
11
về truyện ngắn của Kim Lân “ông là một nhà văn kỹ lưỡng, tinh tế trong
việc lựa chọn chi tiết, kỳ khu và tài hoa trong việc lựa chọn ngôn từ, hình
ảnh. Vì thế mà Nguyễn Khải coi ông là một bậc thầy để noi theo” [54,
tr.18].
Năm 1994 trong bài viết về truyện Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân nói:
Tôi quan niệm: truyện ngắn cũng như tiểu thuyết và điều quan trọng
nhất là nhân vật. Nhân vật phải có tính cách và phải hành động theo tính
cách nhân vật một cách tự nhiên, không giả tạo sáo rỗng (…) Ngôn ngữ
trong truyện ngắn phải tinh hơn, gạn lọc kỹ hơn và phải có ý tứ từ bên
trong (…) Tôi nghĩ văn chương bây giờ kêu quá, bóng bẩy quá cũng như
đánh bóng mạ kền, cái đó không cần có trong văn chương; điều quan trọng
văn chương phải thật giản dị. Văn của tôi đã nói được tiếng nói và suy nghĩ
của tôi [16, tr.41].
Trong cả ba ý kiến trên, Kim Lân và các nhà nghiên cứu đều khẳng
định thành công của truyện ngắn Kim Lân tập trung ở ba phương diện: lựa
chọn, thể hiện chi tiết; xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ.
Năm 1997 trong bài Sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc của
truyện Kim Lân tác giả Bảo Nguyên cũng cùng quan điểm với các nhà
nghiên cứu khác, khi chỉ ra thành công của truyện ngắn Kim Lân ở các
phương diện: sử dụng ngữ âm và từ vựng.
Kim Lân đã dùng hàng loạt từ láy: xác xơ, heo hút,ngăn ngắt, úp súp,
sù sì, dật dờ, thê thiết (…) Từ láy đã góp phần tích cực tạo ra âm điệu
trầm, nhịp ngôn ngữ chậm, có tác dụng nhấn mạnh những đặc tính cần
miêu tả (…)
Ông lựa chọn những từ ngữ còn mang hơi thở của cuộc sống hàng
ngày, để diễn đạt chúng đúng cái cuộc sống miền quê với những con người
quê giản dị và đáng yêu (…)
12
Trong việc sử dụng từ ngữ, Kim Lân đặc biệt chú ý những thành ngữ,
những từ đệm vốn là những từ ngữ cửa miệng của người dân: “giời đất cha
mẹ ơi”, “cụ bảo thì là dân ta”, “dầu bây giờ đắt gớm”(…) Những từ ngữ
này đặt đúng hoàn cảnh đã tạo ra tác dụng vừa khắc hoạ tính cách nhân
vật vừa gợi nên nét đời thường rất phù hợp với cuộc sống miền quê [68,
tr.230 - 231].
Nhận xét về giọng văn của Kim Lân, ngoài việc thống nhất với đánh
giá của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, tác giả Bảo Nguyên rất tinh tế khi
bổ sung thêm:
Giọng văn chủ đạo của ông thường trầm sáng như giọng ca dao, cổ
tích. Nhịp văn của ông chậm gọn… Đó là một thứ giọng đệm phù hợp với
quang cảnh nông thôn, với văn minh nông nghiệp (…)
Yêu thương ca ngợi là nét giọng chủ đạo trong các truyện ngắn Kim
Lân. Song ở mỗi truyện ở mỗi hoàn cảnh, ở mỗi nhân vật trong từng điều
kiện Kim Lân sử dụng các giọng khác nhau để miêu tả. Giọng phẫn uất lẫn
mỉa mai trong “Đứa con người vợ lẽ” giọng cảm thương và mỉa mai
trong“Con chó xấu xí” giọng cảm thông lẫn kính phục trong “Thượng
tướng Trần Quang Khải - Trạng vật”.
(…)
Trong các truyện tâm lí xã hội của Kim Lân ta thường bắt gặp một
giọng kể, giọng tả đồng tình, cảm thương [68, tr.232].
Từ những ý kiến đánh giá trên tác giả Bảo Nguyên đã đưa ra kết luận
khái quát:
Ngữ âm từ vựng, giọng điệu được bàn tay nhà nghệ sĩ tài ba Kim Lân
đã sắp đặt tạo ra một thứ ngôn từ mang đậm chất “văn xuôi ”. Đó là một
đoá hoa tạo nên sức hút ban đầu cho các độc giả. Đó là phong cách giản
dị mà độc đáo của Kim Lân [68, tr.233].
13
Năm 2005 trong luận văn Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, tác giả
Đặng Thị Huy Lam dành hai chương để khảo sát nghệ thuật truyện ngắn
của Kim Lân. Ở chương Nghệ thuật dựng truyện và xây dựng nhân vật, tác
giả đã đi sâu tìm hiểu các vấn đề cốt truyện, tình huống, chi tiết, nghệ thuật
miêu tả ngoại hình, miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật. Ở chương Ngôn
ngữ và giọng điệu, ngoài những định hướng của công trình nghiên cứu có
trước, tác giả luận văn đã có những tìm tòi, phát hiện về đặc điểm câu văn
và biện pháp so sánh tu từ trong truyện ngắn của Kim Lân.
3.3. Nhận định chung
Các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Kim Lân được thực
hiện ở các phương diện và mức độ khác nhau. Nhìn chung các nhà nghiên
cứu và tác giả đều công nhận:
- Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông “là một trong
những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim
Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không
nhiều nhưng sáng tác của ông đã gây được ấn tượng với người đọc” [16,
tr.31].
- Thế giới nghệ thuật của Kim Lân tập trung ở khung cảnh làng quê
cùng với cuộc sống, thân phận người dân quê.
- Kim Lân viết rất hay về những cái gọi là “thú đồng quê” hay “phong
lưu đồng ruộng”. Đó là những sinh hoạt văn hoá của người dân quê.
- Trong các truyện ngắn, Kim Lân thể hiện rất rõ cái tôi giàu lòng nhân
ái, trân trọng và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động nghèo.
- Kim Lân là nhà văn kỹ lưỡng tinh tế trong việc lựa chọn chi tiết, kỳ
khu và tài hoa trong việc lựa chọn ngôn ngữ và hình ảnh.
4. Phương pháp nghiên cứu
14
4.1. Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sẽ vận dụng quan điểm duy
vật, quan điểm lịch sử và phương pháp biện chứng làm nền tảng cho nhận
thức và nghiên cứu. Chúng tôi sẽ vận dụng những thành tựu của các khoa
học liên ngành như: phương pháp luận nghiên cứu văn học, phong cách
học, thi pháp học, lý luận văn học… để làm nổi bật vấn đề.
4.2. Ngoài những vấn đề có tính chất phương pháp luận nêu trên,
chúng tôi sẽ sử dụng phối hợp hai phương pháp chủ yếu là phương pháp
phân tích, tổng hợp và phương pháp hệ thống.
Phương pháp phân tích, tổng hợp là phương pháp được sử dụng rộng
rãi trong luận văn. Chúng tôi sẽ đi từ việc khảo sát phân tích từng truyện
ngắn, các yếu tố nổi bật thể hiện cảm hứng và nghệ thuật trần thuật, để từ
đó rút ra những nhận xét có tính tổng hợp, khái quát. Đồng thời, để triển
khai vấn đề một cách khoa học, biện chứng, chúng tôi sẽ đặt đối tượng
nghiên cứu trong mối quan hệ với các yếu tố khác của hệ thống để làm rõ
cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim
Lân.
Vận dụng phương pháp hệ thống, chúng tôi nhằm mục đích phát hiện
tính lặp lại nhiều lần của các phương diện liên quan đến đề tài. Từ bước tập
hợp các phương diện lặp lại liên quan đến đề tài, chúng tôi sẽ đi đến việc
khẳng định những đặc điểm mang tính ổn định về cảm hứng và nghệ thuật
trần thuật. Từ đó tạo cơ sở vững chắc cho những nhận xét của luận văn.
Ngoài các phương pháp vừa nêu, chúng tôi còn sử dụng phương pháp
so sánh và thống kê ở những chừng mực nhất định. Khi trình bày cảm hứng
chủ đạo, chúng tôi có so sánh những tác phẩm của Kim Lân với những tác
phẩm của các nhà văn Nguyễn Tuân, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Thạch Lam…
Sử dụng phương pháp so sánh, chúng tôi nhằm để hình dung rõ vấn đề chứ
không nhằm mục đích khẳng định sự hơn kém ở các nhà văn. Phương pháp
15
thống kê sẽ được sử dụng để xem xét các phương thức trần thuật, các dạng
cấu trúc trần thuật có tính tập trung cao và có tấn số xuất hiện nhiều lần
trong truyện ngắn của Kim Lân, từ đó hướng đến việc tìm ra các đặc điểm
riêng, ổn định, có dụng ý của nhà văn, nhằm làm vững chắc hơn cho những
nhận xét của luận văn.
5. Những đóng góp của luận văn
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông là một trong những
cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Mặc dù được
đánh giá là nhà văn có tài nhưng những công trình nghiên cứu về truyện
ngắn của ông còn khá ít. Luận văn của chúng tôi sẽ đi vào các vấn đề: cảm
hứng chủ đạo, phương thức trần thuật và cấu trúc trần thuật. Dù các vấn
đề đặt ra trong luận văn chưa là tổng quát nhưng chúng tôi hi vọng sẽ góp
thêm hiểu biết về phong cách nghệ thuật của Kim Lân. Từ đó, góp phần
khẳng định vị trí của Kim Lân trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại và
đóng góp một phần nhỏ vào việc học tập, giảng dạy truyện ngắn Kim Lân ở
nhà trường phổ thông.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn
gồm có ba chương:
Chương 1. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân.
Chương 2. Các phương thức trần thuật trong truyện ngắn của Kim
Lân.
Chương 3. Cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân.
16
Chương 1
CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA KIM LÂN
1.1. Về khái niệm cảm hứng
Phương diện chủ quan của nội dung tư tưởng tác phẩm là lý giải chủ
đề, cảm hứng tư tưởng, tình điệu thẩm mỹ. Tư tưởng của tác phẩm bao
gồm khuynh hướng triết học, chính trị, đạo đức, khuynh hướng nhận thức,
khuynh hướng tình cảm, thẩm mỹ thể hiện trong tác phẩm. Tư tưởng của
tác phẩm có quan hệ chặt chẽ với quan niệm về thế giới, với quan niệm về
nhân sinh, với tình cảm và thái độ của nhà văn. Tư tưởng của nhà văn sẽ
chi phối sự đánh giá các hiện tượng đời sống trong tác phẩm. Xuất phát từ
đặc điểm này, nghiên cứu văn học đã hình thành khái niệm cảm hứng chủ
đạo với tư cách là nhân tố tư tưởng trong sáng tạo nghệ thuật.
Cảm hứng thường được hiểu là trạng thái tâm lý đặc biệt khi sức chú ý
được tập trung cao độ, kết hợp với cảm xúc mãnh liệt, tạo điều kiện để óc
tưởng tượng, sáng tạo hoạt động có hiệu quả. Cảm hứng là hứng thú sáng
tạo nói chung và sáng tạo văn học nói riêng. Hê Ghen và Bêlinxki đều dùng
từ “cảm hứng” “để chỉ trạng thái hưng phấn cao độ của nhà văn do việc
chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy
bao giờ cũng bắt nguồn từ lý tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát triển và
cải tạo thực tại” [dẫn theo 74, tr.141]. Theo Pôxpêlốp thì cảm hứng là “sự
lý giải, đánh giá sâu sắc và chân thực - lịch sử đối với tính cách được miêu
tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm
hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn và của tác phẩm của nhà văn” [74,
tr.141]. Cảm hứng là một phương diện chủ quan thuộc về nội dung tư
tưởng tác phẩm. Lênin từng viết trong bút ký triết học: “Tư tưởng - đó là
17
nhận thức và khát vọng (mong muốn) của con người” [dẫn theo 57, tr.265].
Cùng quan điểm với Lênin, Pôxpêlốp khẳng định:
Tư tưởng của tác phẩm văn học là sự thống nhất tất cả các mặt nội
dung của nó như hệ đề tài, hệ vấn đề và sự đánh giá tư tưởng - cảm xúc đối
với cuộc sống, đó là tư tưởng khái quát, tư tưởng bằng hình tượng, bằng
cảm xúc của nhà văn. Tư tưởng đó thể hiện cả ở sự lựa chọn, cả ở sự lý
giải và cả ở sự đánh giá các tính cách [74, tr.124].
Nội dung tư tưởng tác phẩm văn học luôn gắn liền với cảm xúc mãnh
liệt. Nhà phê bình Bêlinxki nói: “Tư tưởng thơ, đó không phải là phép tam
đoạn thức, không phải là giáo điều, không phải là qui tắc, mà là một ham
mê sống động, đó là cảm hứng” [dẫn theo 57, tr.268]. Bêlinxki giải thích rõ
hơn: “Trong cảm hứng nhà thơ là người yêu tư tưởng như yêu cái đẹp, yêu
một sinh thể sống, thấm nhuần tư tưởng một cách nhiệt tình” [dẫn theo 57,
tr.268]. Cụ thể các quan điểm của Bêlinxki, Trần Đình Sử đưa ra quan
điểm về cảm hứng:
Cảm hứng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một ham
muốn tích cực đưa đến hành động. Điều quan trọng là cần nhận ra cảm
hứng như một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học .
Cảm hứng trong tác phẩm trước hết là niềm say mê khẳng định chân
lý, lý tưởng, phủ định sự giả dối mà mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực là thái
độ ngợi ca, đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê phán tố cáo các
thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường [57, tr.268].
Với tính chất là một trong những yếu tố hợp thành tư tưởng tác phẩm,
Hêghen xem cảm hứng chủ đạo như là “ trung tâm điểm ”, “ vương quốc sự
thật” của nghệ thuật. Ông cho rằng:
Cảm hứng chủ đạo là biểu hiện của tâm hồn người nghệ sĩ say mê
thâm nhập vào bản chất của đối tượng, trở thành tương ứng với nó, gần
18
như là xuyên suốt vào nó. Theo ông, cảm hứng chủ đạo cần được xem như
là một sản phẩm của “một tinh thần phong phú và hoàn thiện, một cá tính
mà trong đó tất cả những lực lượng bản thể phổ quát đều được thực hiện”
[dẫn theo 20, tr.208].
Về khái niệm cảm hứng chủ đạo, Bêlinxki quan niệm cụ thể hơn:
Trong những tác phẩm thi ca (hiểu theo nghĩa rộng: tác phẩm nghệ
thuật - người soạn) đích thực, tư tưởng không phải là một khái niệm trừu
tượng, được diễn tả một cách giáo điều, mà nó tạo thành linh hồn toả vào
trong tác phẩm, giống như ánh sáng chiếu vào pha lê. Tư tưởng trong sáng
tạo thi ca - đó chính là cảm hứng… Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt tình
nồng cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó [dẫn theo 20, tr.208].
Cũng với quan điểm trên, Bêlinxki viết:
Nghệ thuật không cho phép thâm nhập vào nó những tư tưởng triết
học trừu tượng, những tư tưởng lý tính; tư tưởng thi ca - đó không phải là
một thứ tam đoạn luận, không phải là giáo điều, không phải là qui luật; đó
là nhiệt tình sinh động. Cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về một tư
tưởng nào đó trở thành niềm say mê đối với tư tưởng đó, trở thành năng
lượng và thành khát vọng nồng nhiệt [dẫn theo 20, tr.209].
Từ những quan điểm trên, Bêlinxki đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu
cảm hứng chủ đạo của nhà văn trong tác phẩm để tìm hiểu đặc điểm sáng
tác của nhà văn ấy: “Công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên của người phê
bình là giải đoán cảm hứng chủ đạo của tác phẩm” [dẫn theo 20, tr.209].
Về khái niệm cảm hứng chủ đạo, Huỳnh Như Phương đưa ra quan
điểm:
Cảm hứng chủ đạo thấm nhuần vào toàn bộ cấu trúc của tác phẩm,
vào thế giới hình tượng, bao gồm không gian, thời gian, tính cách nhân vật,
19
vào xung đột và cốt truyện, vào ngôn từ và giọng điệu của một bài thơ, một
truyện ngắn, một thiên tuỳ bút hay một cuốn tiểu thuyết [20, tr.210] .
Từ quan điểm này, tác giả khẳng định: “Việc tìm hiểu cảm hứng chủ
đạo không phải chỉ căn cứ trên một bộ phận, một thành tố nào, mà phải
căn cứ trên toàn bộ lô gích nghệ thuật của tác phẩm” [20, tr.210].
Như vậy, cảm hứng là một trong những yếu tố chính hợp thành tư
tưởng của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo được xem là “trung tâm điểm”, là
“vương quốc sự thật” của nghệ thuật. Cảm hứng chủ đạo không chỉ toát ra
từ tác phẩm mà còn xuyên suốt toàn bộ sáng tác của một tác giả.
1.2. Cảm hứng chủ đạo trong truyện ngắn của Kim Lân
1.2.1. Động lực thúc đẩy sáng tác và ngọn nguồn, đối tượng tạo
nên cảm hứng trong truyện ngắn của Kim Lân
Nhà văn Kim Lân từng kể về đời mình:
Tôi không được học đến nơi đến chốn. Đang học lớp nhất ở trường
huyện thì bố tôi mất, tôi bỏ nhà xuống Hải Phòng tìm việc làm, không
được, lại quay về làng. Tôi đi học nghề sơn guốc của một ông hoạ sĩ làng
bên. Trong sự rẻ rúng của gia đình (ông là con trai người vợ ba cụ thân
sinh), nhiều bạn bè đồng học vẫn đi, đèn sách nhởn nhơ, tôi buồn bực vô
cùng. Đúng ra là tự ái. Tự nhiên tôi nhìn xung quanh thấy nhiều sự nhăng
nhít, vô lý và nhất là lòng ham viết, thích viết của tôi lại càng nung nấu
[54, tr.14 - 15].
Theo cách nói của Lữ Huy Nguyên “cái ý nghĩ cương quyết, ngây thơ:
ta chẳng kém gì các người” của anh thợ sơn guốc đã đưa Kim Lân đến với
nghề văn. Như vậy, Kim Lân viết văn trước hết có hai động lực khởi
nguồn: lòng “ham viết, thích viết” và “nhiều sự nhăng nhít, vô lý” của cuộc
sống xung quanh nhà văn lúc ấy. Mặc nhiên, việc cầm bút viết văn của
người thợ sơn guốc đó có ý nghĩa lớn lao, mang tính nhân đạo và nhân văn
20
là “đòi cho mình một thân phận, một nhân phẩm, một chỗ đứng trong cuộc
sống nhỏ bé quẩn quanh của quê hương” [54, tr.15]. Và “người thợ sơn
guốc” ấy đã có truyện ngắn đầu tay đăng trên báo Trung Bắc chủ nhật số
120 ra ngày 26-7-1942. Đó là truyện Đứa con người vợ lẽ thấm đẫm tính
chất tự truyện. Cái “nhăng nhít, vô lý ” từ cảnh ngộ của bản thân mình đến
cái “nhăng nhít, vô lý” ở xung quanh dần dần được Kim Lân đưa vào các
truyện của mình (Nỗi này ai có biết - 1943, Cơm con - 1943,…). Những
trang viết theo cuộc đời, càng ngày nhà văn càng mở rộng không gian nghệ
thuật trong các truyện của mình, từ một số mặt của cuộc sống ở vùng quê
quen thuộc của những lớp người “đầu thừa đuôi thẹo” (chữ của Vương Trí
Nhàn) trước năm 1945, đến những con người đói nghèo lam lũ vì miếng
cơm tấm áo đổi đời, đi theo cách mạng và kháng chiến sau năm 1945. Theo
trình tự những trang viết của Kim Lân, người đọc có thể thấy nội dung và
chất lượng các truyện ngắn cứ mở dần mở dần, cứ cao dần cao dần…
1.2.2. Về cảm hứng phê phán trong truyện ngắn của Kim Lân
Kim Lân cho rằng “điều quan trọng là văn chương phải thật, phải
giản dị” [16, tr.39]. Nhà văn không bằng lòng với thứ văn chương “kêu
quá, bóng bẩy quá, cứ như là đánh bóng mạ kền …” [16, tr.39]. Tất nhiên,
cái mà Kim Lân gọi là thật là cái thật của văn chương, theo cách văn
chương. Và cái giản dị cũng vậy, nó là cái giản dị nghệ thuật. Bởi vậy,
nhìn vào các truyện của Kim Lân viết, người đọc bắt gặp hầu hết là những
cảnh những người mà nhà văn đã từng sống, từng quen biết, từng gần gũi
và hiểu biết một cách cặn kẽ, sâu sắc. Đó là những làng quê xung quanh
quê nhà văn, những con người sinh sống ở các làng quê ấy mà mỗi lần
bước chân ra ngõ xóm đường làng là Kim Lân đã gặp.
Một vấn đề khác trong sáng tác truyện mà Kim Lân coi trong đó là vấn
đề khắc hoạ nhân vật. Nhà văn nói: “Tôi quan niệm: truyện ngắn cũng là
21
tiểu thuyết và điều quan trọng là nhân vật. Nhân vật phải có tính cách và
phải hành động theo tính cách nhân vật một cách tự nhiên, không giả tạo
sáo rỗng” [16, tr.38 - 39]. Tính cách ở đây là một khái niệm thuộc phạm
trù mỹ học của chủ nghĩa hiện thực, nó vạch ra đường biên khu biệt những
nét riêng biệt của một (hay một nhóm) đối tượng này so với một (hay một
nhóm) đối tượng khác. Ở một mức nào đó, có thể phân ra làm hai loại nhân
vật: loại nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo” và loại nhân vật là hình tượng của
quần chúng bình thường. Nhiều nhân vật trong các truyện của Kim Lân,
đặc biệt là các truyện viết trước năm 1945, đã có dấu ấn chung về tính cách
của lớp người mà nhà văn quen thuộc ở cả một vùng quê ông lúc đó. Có
nhà nghiên cứu nhận thấy nhân vật trong nhiều truyện của Kim Lân là
những người “đầu thừa đuôi thẹo”, ông chẳng ra ông, thằng chẳng ra thằng
(Vương Trí Nhàn). Cũng có nhà nghiên cứu phát hiện ở một tầng sâu khác:
“Ông còn là đại diện văn học sáng giá của những lớp người tài hoa bặt
thiệp, phong lưu riêng thú… chọi gà, thả chim, đấu võ, đánh vật …” [54,
tr.16]. Đúng là có điều này, nhiều nhân vật trong nhiều truyện viết trước
năm 1945 của Kim Lân thuộc lớp người “đầu thừa đuôi thẹo” ấy là những
nhân vật có những nét tài hoa riêng, bặt thiệp riêng (Cả Chuẩn trong Con
Mã Mái, Trưởng Thuận trong Đôi chim thành …). Hình như ở vùng đất
quê Kim Lân, những người như vậy có nhiều và họ đã tạo nên cái nét đặc
sắc riêng, khơi gợi sự chú ý của nhà văn. Kim Lân đã viết về họ, về những
cái mà họ vốn có và đã có, về cuộc sống mà họ đã sống. Những điều ấy có
khi “nhăng nhít, vô lý” nhưng đều là hiện thực đáng kính, đáng yêu, như là
dấu vết riêng biệt của một thời đã qua không còn lặp lại.
Hầu hết những truyện ngắn viết sau năm 1945, “Kim Lân vẫn tiếp tục
viết về làng quê Việt Nam. Ông thường viết về những cảnh tội nghiệp, cuộc
sống khốn khó đến cùng cực của người nông dân dưới chế độ cũ và sự đổi
22
đời của họ nhờ cách mạng” [89, tr.758]. Trong các truyện ngắn sau cách
mạng tháng tám, các nhân vật hầu như không có những cái phô ra bên
ngoài một cách đặc biệt, nổi trội. Họ sống bình dị lẫn vào trong lớp người
mà họ đại diện nhưng tiếp xúc lâu dài với họ, sẽ thấy ở họ một sức chịu
đựng đói khổ, cực nhọc và cả đắng cay thật mạnh mẽ để vươn lên. Họ hoạt
động phục vụ cách mạng thầm lặng, bình thường nhưng đáng quí. Ở họ
luôn toả ra tình yêu sâu đậm từ trong trái tim đối với quê hương, đất nước
và cách mạng…
Cuộc sống con người muôn màu muôn vẻ, tính cách con người càng
lắm dạng lắm hình. Kim Lân quan niệm viết truyện phải chân thật, phải
giản dị. Nhà văn rất coi trọng việc khắc hoạ nhân vật trong truyện. Để ghi
lại một cách chân thật và giản dị theo tinh thần hiện thực chủ nghĩa những
con người và cuộc sống những con người đó, Kim Lân thường vận dụng
phương thức trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan. Ở
phương thức trần thuật khách quan, nhà văn để cho người trần thuật tách
khỏi diễn biến câu chuyện, tránh xa các nhân vật… để cho nhân vật và sự
kiện tự nó hiện ra như vốn có trong cuộc đời thực. Từ đó, tác giả tạo cho
người đọc cảm tưởng như tự mình trực tiếp tiếp xúc với nhân vật và sự
kiện, không qua khâu trung gian của người trần thuật. Ở phương thức trần
thuật chủ quan, nhà văn lại để cho nhân vật xưng tôi kể lại câu chuyện mà
chính nhân vật xưng tôi này đã trực tiếp có mặt, trực tiếp tham gia. Nhìn
chung hai phương thức trần thuật này đã giúp cho người trần thuật - nhà
văn tránh được sự có mặt trong câu chuyện, trong các sự kiện được trần
thuật. Từ đó, câu chuyện được kể gia tăng ảo ảnh về tính hiện thực đối với
người đọc ở mức cao hơn. Đọc truyện của Kim Lân, người đọc hình như
không bắt gặp, nói đúng hơn là rất ít bắt gặp và khó nhận ra một cách rõ
ràng thái độ của nhà văn trước các sự kiện và nhân vật được miêu tả. Nhà
23
văn từng nói. “Tôi quan niệm chi tiết là những hình tượng. Tôi muốn nói
thật ít, nói bằng hình tượng chi tiết để người đọc tự cảm nhận những điều
mình viết muốn nói cũng như để khắc hoạ nhân vật” [16, tr.265]. Có thể
nói, Kim Lân là nhà văn rất tôn trọng tính khách quan của hiện thực và rất
đề cao năng lực thẩm mỹ của người đọc.
Truyện của Kim Lân là truyện hiện thực. Nhà văn kể mọi chuyện từ
chọi gà, thả chim, đánh vật trong những dịp lễ hội; đến chuyện mấy cậu
choai choai thách đố nhau chim gái dẫn đến “nỗi này ai có biết”; chuyện
các đại ca “tập hợp” nhau tiến hành một buổi “chợ đồng” ở làng bên để
thực lời nguyền từ kiếp nào (Trả lại đòn); chuyện con cái đối với bố già
(Cơm con); chuyện anh chàng ngụ cư nhặt được vợ giữa nạn đói khủng
khiếp (Vợ nhặt); chuyện một gia đình tản cư trong kháng chiến mà lòng lúc
nào cũng không rời làng, rời xóm và tuyệt đối trung thành với cách mạng
(Làng); chuyện cải cách ruộng đất có sai lầm gây oan sai nhưng cơ bản đã
đáp ứng được quyền lợi cơ bản của người nông dân (Ông lão hàng xóm,
Người chú dượng); chuyện người nông dân đắn đo khi phải đưa ruộng đưa
trâu vào hợp tác xã (Ông Cả Luốn gốc me); chuyện sinh hoạt của gia đình
cán bộ trong kháng chiến (Con chó xấu xí); chuyện sơ tán trong cuộc chiến
tranh phá hoại của máy bay Mỹ (Bà mẹ Cẩn)… Người đời có tốt có xấu,
sự việc xảy ra hàng ngày có đúng có sai. Trong các trang viết của Kim Lân,
hình ảnh con người và cuộc sống cứ tự nhiên như vậy mà hiện ra. Có thể
nói, hầu như nhà văn không muốn bày tỏ thái độ khẳng định, khen chê về
những gì mà mình miêu tả, khắc hoạ trong tác phẩm. Tác giả để cho bản
thân hình tượng tự nói những gì cần nói và để cho người đọc tự rút ra
những nhận định, đánh giá. Ở những hình tượng này, người trần thuật - tác
giả không cần đem cái chủ quan của mình ra để định hướng cho người đọc
một cách lộ liễu, thiếu tế nhị. Kim Lân hướng đến sự định hướng cảm nhận
24
cho người đọc khi tiếp nhận tác phẩm văn chương bằng cách nâng cao tính
nghệ thuật khi khắc hoạ hình tượng. Đọc truyện ngắn của Kim Lân, người
đọc nhận thấy truyện của ông như không có cảm hứng phê phán, mặc dù ở
một số truyện, nhân vật được khắc hoạ có những biểu hiện sai trái trong
hành vi, trong ứng xử. Trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ (1942),
người đọc bắt gặp thái độ lạnh lùng ích kỉ đến vô cảm của ông anh cả đối
với Tư - người em cùng cha khác mẹ. Ông anh cả vừa vào đến nhà đã “
nghiêm nghị đảo mắt chung quanh, sẽ cau mặt lại gắt”. “Ông ngáp thốc
ngáp tháo một hồi, rồi ngủ lúc nào không biết” [54, tr.28]. Sau khi ăn xong
bát phở, “ông Cả vội vã cắp cặp ra đi”. Ông không hề ghé mắt đến thằng
em “gày còm” đã hai ngày không có một hạt cơm vào cái dạ dày lép kẹp.
Tuy vậy, Tư vẫn không oán trách người anh cả, chỉ lầm lũi thực hiện những
điều ông anh sai bảo như một người em ngoan ngoãn, biết điều. Ở truyện
ngắn này, người trần thuật, ngoài việc khắc hoạ một số nét về hình dạng, cử
chỉ, hành động, lời nói… cũng không bình luận gì thêm. Trong các truyện
ngắn của Kim Lân, một số nhân vật vẫn có mặt trái của nó. Ở truyện Nỗi
này ai có biết, các nhân vật Kiến, Dần, chỉ vì một cô gái (Lan) mà trêu
chọc nhau, khích nhau chim, chuột,… rồi lấy cớ bỏ ngang để cô cuồng giận
mắc phải lỗi lầm với người khác (Mộ) đến nỗi phải bỏ nhà ra tỉnh làm cô
đầu. Truyện dừng lại ở đó, người trần thuật không thêm một lời nào. Ở
truyện Con Mã Mái, người đọc cũng bắt gặp đặc điểm này. Cả Chuẩn vì
thích con Mái Ô sò của Tư Méo, muốn có nó để gây được những con gà
chọi tốt nên đã giao du với tên chuyên câu gà Cả Cúi để hắn câu trộm cho
mà chẳng nề hà tai tiếng. Đến như Chánh Bảy (Trả lại đòn) chiêu mộ các
“hảo hán” trong vùng Phủ Từ Sơn để đi chuyến “chợ đồng” (gặt cướp lúa
ngoài đồng) ở làng Trang Liệt để thực hiện một lời nguyền thù hận từ kiếp
25
nào và người kể chuyện cũng lùi về một khoảng cách rất xa, không bộc lộ
gì.
Nếu nói Kim Lân có một tác phẩm viết dưới ánh sáng của cảm hứng
phê phán thì đó có thể kể đến truyện Cơm con (1943). Ở truyện ngắn này,
nhà văn cũng dùng phương thức trần thuật khách quan. Cơm con viết về
chuyện người con trai trưởng - cả Anh và vợ đối xử tàn tệ với người bố già.
Sau khi vợ chết, cụ Nhiêu đã hy sinh cả thời trai trẻ để nuôi nấng hai anh
em cả Anh khôn lớn:
Một mình cụ tần tảo mua rau bán hành, buôn đấu bán thúng, thôi thì
xoay xoả đủ vành.
Anh em trong họ khuyên cụ lấy thêm vợ hai. Trước nữa là có người
đỡ đần công việc, sau là vui thú cảnh già. Nhưng cụ Nhiêu thương con.
“Biết rằng người ta về nhà mình người ta có thực thương con mình không
? Hay lại tan cửa nát nhà”. Nên cụ không dám tơ tưởng đến đường vợ lẽ
con thêm làm gì. Vốn là người lo xa, cụ Nhiêu đã tậu hơn mẫu ruộng đẳng
điền dưỡng lão [54, tr.550].
Để lấy lòng cụ, vợ chồng cả Anh đã chu đáo ngày hai bữa rượu. Cả
Anh dỗ dành:
Thôi thì bố già rồi chả kiếm được nữa, ông cứ về ở với chúng con cho
vui cửa vui nhà… Còn mấy mẫu ruộng đấy. Chả trước, thì sau cũng là của
chúng con; nhưng ý con muốn ông cứ sang tên ngay cho chúng con thì vẫn
hơn. Chứ để người ta cấy rẽ: phân do, cỏ dã có đâu họ chăm chỉ bằng
mình, họ bỏ dài rồi nó rạc cả chân ruộng của mình đi [54, tr.550].
Cụ Nhiêu bằng lòng vì cho lời con là phải. Nhưng trớ trêu thay “ sang
tên mấy mẫu ruộng ấy cho cả Anh được ít lâu thì vợ chồng hắn ra ý khủng
khỉnh với ông cụ ngay” [54, tr.551]. Từ đấy, “chiều nào cũng vậy rượu
vào, cả Anh lại cà khịa với cụ Nhiêu móm”. Cả Anh hết đòi bố trả lại mấy
26
cái mâm cụ cầm cho người ta lấy tiền cưới vợ cho đứa em, cả Anh lại coi
bố là “cái nợ”, “ám” không cho hắn “ngóc đầu lên được”. Kể ra những
thái độ, hành động, lời lẽ ngang ngạo của đứa con bất hiếu, bất mục đối với
cụ Nhiêu rồi kết thúc truyện bằng tiếng thằng Kề nhớn ra rả bài học luân lý:
Bổn phận đối a với a cha mẹ. Bổn ư a phận đối a với a cha mẹ…
Cách ngôn: cha mẹ nuôi a con bằng a giời bằng bể; con nuôi a cha
mẹ con kể từng ngày [54, tr.553].
Đây là một sự đối lập có ý thức của người trần thuật, của người viết
truyện. Như vậy, ở truyện ngắn này, cảm hứng phê phán kẻ không có đạo
lý làm con là khá rõ.
Cảm hứng phê phán trong văn học hiện thực được thể hiện bằng nhiều
phương cách và ở nhiều mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào phong cách sáng
tác của mỗi tác giả. Có thể là vạch trần sự xấu xa tàn bạo như Giông tố (Vũ
Trọng Phụng), Tắt đèn (Ngô Tất Tố); Bước đường cùng (Nguyễn Công
Hoan), có thể là trào phúng như Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), và ở nhiều
truyện ngắn của Nam Cao, Nguyên Hồng,… Ở các tác giả này, trong các
tác phẩm của họ, khi tiếp cận, người đọc dễ dàng nhận ra ý đồ chủ đạo và
sự phê phán, thái độ lên án, đả kích là rõ rệt. Đối với Kim Lân, việc phân
tích, biện luận về cảm hứng phê phán có phần khó hơn. Nếu nói trong tác
phẩm văn học, sự kiện được miêu tả và nhân vật được khắc hoạ thể hiện ý
đồ nghệ thuật, tư tưởng nghệ thuật của tác giả thì không nhiều thì ít, một số
truyện của Kim lân có cảm hứng phê phán, như đã tìm hiểu ở trên. Nhưng
nếu xem xét phương cách miêu tả sự kiện, khắc hoạ nhân vật ở mặt ngôn
ngữ và giọng điệu trong trần thuật thì người đọc có cảm nhận là nhà văn
không (trừ một số trường hợp như truyện Cơm con,...) hoặc hầu như không
phê phán. Ở điểm này, không phải là nhà văn không nhận ra cái đúng, cái
sai, cái tốt, cái xấu của người đời. Muốn đi sâu tìm hiểu vấn đề này, có lẽ
27
phải trở về điểm xuất phát là hoàn cảnh riêng của nhà văn lúc thiếu thời.
Hoàn cảnh của Kim Lân đã tạo cho nhà văn một tâm lý, tính cách mang
đậm một niềm khát khao hướng thiện, một lòng bao dung nhân ái tràn đầy.
1.2.3. Cảm hứng yêu thương và trân trọng con người
Khi nói về truyện Vợ nhặt, Kim Lân đưa ra ý kiến về chân lý của văn
chương : “Trong văn phải có cái tâm” [16, tr.35]. Đối với Kim Lân cái tâm là
lòng thương xót con người hay con vật (Vợ nhặt, Con chó xấu xí…), là sự thẳng
thắn ghét cay ghét đắng sự khuất tất ám muội (Con chó xấu xí…). Theo Kim
Lân, cái tâm là cái tâm đạo lý, nhân ái. Cái tâm ấy đã khiến cho cụ Cả Lẫm (Ông
Cản Ngũ) không dùng miếng võ hiểm độc để tiêu diệt đối thủ vì cụ Cả Lẫm phân
vân: “Có nên vì một keo vật mà làm hại một người bấy lâu vì dân, vì nước được
không” [54, tr.303]. Cụ đã nhận cái thua về mình bởi một duyên cớ rất đẹp:
“Trong cái buổi còn đang nước mất nhà tan này, có nên vì hơn thua một keo vật
mà đánh một người nghĩa khí, một người vì dân, vì nước như ông bác đây thành
một người tàn phế, bỏ đi được không?” [54, tr.303]. Điều cần nói thêm ở đây,
trong cái tâm đạo lý, nhân ái chung mà mọi người cần có, cái tâm của Kim Lân
có riêng một độ sâu thấm thía. Vì cái tâm này, Kim Lân đã không để cho anh
chàng hiệp sĩ gỗ (Anh chàng hiệp sĩ gỗ) giết một cô gái lương thiện theo ý mụ
phù thuỷ khi hứa biến anh ta thành người thật để thực hiện ước mơ cứu nạn cho
đời. Dù chỉ là một con rối nhưng anh chàng hiệp sĩ gỗ lại giàu lòng trắc ẩn. Khi
âm thanh của cuộc sống bất công, nghèo khổ của những người bất hạnh theo gió
đêm những ngày cuối năm lọt vào chiếc thùng gỗ, người anh chàng hiệp sĩ gỗ
bỗng sôi lên:
Anh muốn hoá thành người thực, và thanh gươm của anh thành một thanh
gươm thực. Anh sẽ mang thanh gươm báu ấy ra khỏi cái hòm bé nhỏ này bước
vào cuộc đời đầy khổ cực, bất công của xã hội bên ngoài kia. Anh sẽ vung thanh
gươm ấy lên như khi anh vung gươm diễn trò trên sân khấu, san bằng mọi bất
công, oan trái ở trên đời. Anh sẽ làm cho trên mặt đất này không còn tiếng khóc
thảm thiết như tiếng khóc của ông lão mù mất chó [54, tr.317].
28
Như vậy, điều cần thiết đối với anh chàng hiệp sĩ gỗ là trái tim con người -
cái tâm con người. Với hai cách nói bằng chính luận và bằng nghệ thuật, Kim
Lân đã nhấn mạnh điều kiện tiên quyết đối với con người là lòng yêu thương con
người, yêu thương cuộc sống con người. Nhà văn lại cần hơn thế. Bởi có cái tâm
yêu thương con người và cuộc sống con người mới thực sự rung động trước
những cảnh đời bất hạnh, khổ cực mới thật sự căm giận bất công tàn bạo. Đó là
cơ sở để sáng tạo ra những tác phẩm đạt tới tính nhân đạo chủ nghĩa và tinh thần
nhân văn cao đẹp.
Có thể nói, cái tâm của Kim Lân là sự phản ứng tích cực trước cảnh ngộ và
thân phận. Nhà văn đã từng trực tiếp chứng kiến những điều “nhăng nhít, vô lý”
của cuộc đời, trực tiếp chịu đựng sự lạnh lùng nghiệt ngã của ngay những người
cùng chung một dòng máu. Kim Lân đã đi từ cảm thương cho mình đến cảm
thương đối với người. Trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, Tư (nhân vật
mang dấu ấn rõ rệt của tác giả tự truyện) không oán hận ông anh cả mà buồn
nhiều về cái đói, cái khổ đày đoạ mình, Tư thương mình, Tư thương mẹ. Như
một ẩn dụ, anh chàng hiệp sĩ gỗ trong thùng đựng các con rối của ông lão múa
rối rong, vào một đêm gần tết “nghe tiếng khóc của ông lão mù loà ấy, bỗng sinh
ra nghĩ ngợi”. Tiếng khóc của ông lão “sói vào mặt anh, kể lể những đau khổ
cùng cực” [54, tr.315]. Và không chỉ có mỗi ông lão ăn mày mù:
Mấy hôm nay anh chàng hiệp sĩ còn nhận ra dưới gốc đa đen ngòm và lạnh
lẽo kia… còn có nhiều tiếng khóc tiếng rên rỉ, than thở khác nữa. Càng gần ngày
giáp tết tiếng rền rĩ từ trong bóng tối cây đa đưa ra càng nhiều. Đó là những
người ăn mày, những đứa trẻ vô thừa nhận, những người già ốm yếu không có
con cái, cửa nhà; ban ngày lang thang đầu đường xó chợ kiếm ăn, ban đêm lại
kéo nhau về nằm vạ nằm vật dưới bóng cây đa này [54, tr.317].
Anh chàng hiệp sĩ gỗ cũng nhìn thấy “những ánh đèn đỏ úa đang lừ đừ qua
lại dưới mấy cái xóm nghèo ngoài bến sông” - những “ánh đèn quỷ quái” của
những người đi đòi nợ đêm ba mươi tết và nghe “tiếng chửi bới cứ rú lên những
tiếng nanh ác, sắc nhọn như mũi dao đâm vào da thịt” của họ, “tiếng than thở
rền rĩ” “thê thảm ai oán hơn” của những con nợ. Hình ảnh hai mẹ con người
29
đàn bà trốn nợ ôm nhau nằm dưới gốc đa, trong “đêm tối thăm thẳm” và “lạnh
buốt”. Tiếng đứa bé “thanh thanh, run rẩy như tiếng chim non”. Đứa bé chỉ dám
khe khẽ nói với mẹ nó những điều đang xảy ra mà nó không hiểu và những ước
mơ của nó. Tất cả những điều ấy làm cho anh chàng hiệp sĩ gỗ “tối sầm cả tâm
trí”. “Ý muốn hoá thành người thật lai càng nung nấu, day dứt trong người anh
chàng hiệp sĩ gỗ” [54, tr.318].
Đọc truyện của Kim Lân, người đọc thường bắt gặp hình ảnh những con
người trong cảnh đói khổ, phải tha phương cầu thực. “Mạch kể chuyện của Kim
Lân dường như bắt rất nhạy vào những cảnh thương tâm: cảnh bỏ nhà xiêu dạt
vì công nợ, thuế khoá, cảnh ăn xin, cảnh chết đường, chết chợ, cảnh bị áp bức,
đoạ đày…” [2, tr.56]. Ông Tư Mủng (Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê)
là một nhân vật như thế. Ông là người làm ruộng không có đất. Từ đời ông nội,
đến đời ông… cả gia đình bỏ làng quê, mồ mả ông cha, siêu bạt khắp nơi:
Trên đường đi đã có người chết, có người đi ở, có người bán làm lẽ thứ tư,
thứ năm cho nhà người. Ốm đau, đói rét rơi rụng dần suốt dọc đường. Người
ông nội chỉ cái da bọc xương, gục đầu trên cây gậy lết theo con cháu. Người ông
vẫn rền rĩ mấy câu như mấy câu tụng niệm, khấn khứa:“…Cố lên! Các con ơi!
Thái Nguyên, Bắc Giang đất rộng người thưa …”
Mấy người còn xót lại trong gia đình vẫn lùi lũi dắt díu nhau đi. Con đường
tìm đất nắng, mưa kiền kiệt. Cho đến một buổi chiều, người ông chết cóng trong
túp lều nát, chơ vơ giữa đồng.
Gia đình lúc ấy chỉ còn ba người. Chiều hai mươi tám tết, đồng không mông
quạnh, mưa gió mù mịt bốn bề. Ba bốn con người ngồi thầm bên xác người ông
suốt đêm hôm ấy [54, tr.378 - 379].
Trong truyện ngắn Người chú dượng, nhân vật ông Mộc cũng “vốn không
phải là người ở đây” (người sở tại) mà đã người “nông dân vùng xuôi không thể
sống nổi trên mảnh đất quê hương của mình” [54, tr.484 - 485]. Ông cũng giống
như những người khác “siêu dạt lên vùng bán sơn địa này phá rừng vỡ bãi, nửa
sống bằng nghề làm ruộng, nửa sống bằng nghề sơn tràng, luồn rừng đốt than,
lấy nâu, lấy vỏ…” [54, tr.485]. Những ngày đầu lên đến trai Han này, ông Mộc
30
còn trẻ. Các bạn thường gọi là “anh đỏ Mộc”. Vợ chồng anh “vào làm thuê cho
nhà ông bạ Dưỡng bên làng Vầu. Chồng cày mùa, vợ đi cấy, tát nước gánh phân,
làm cỏ và trông nom mấy chục đõ ông mật” [54, tr.485]. Vợ chồng anh đỏ Mộc
đang sống yên ổn thì thằng con trai ông bạ Dưỡng “tán tỉnh”, “thí dỗ” chị đỏ
Mộc. Từ đó, cuộc đời anh đỏ Mộc trở nên oan nghiệt và đắng cay: một mình “gà
trống nuôi con”, bị người đời coi là kẻ bất lương phải xa lánh, phải đề phòng…
Nạn đói năm 1945 đã tác động đến sáng tác của nhiều nhà văn như: Nam
Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… Trong các tác phẩm của các nhà văn
này, cái đói đã vít đầu con người xuống, làm cho họ mất cả nhân cách (Một bữa
no - Nam Cao). Kim Lân cũng nhận thấy những hậu quả xấu xa của cái đói. Kim
Lân đã xúc động sâu sắc bởi thảm hoạ huỷ diệt của cái đói mà những kẻ nghèo
khổ phải gánh chịu. Đọc Vợ nhặt, có lẽ tất cả những ai đã trải qua nạn đói năm
1945 ở miền Bắc đều thấy hiện lên không phải là những dòng chữ mà là những
cảnh rất thật:
Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt
díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ.
Người chết như ngã rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm
đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường.
Không khí vẫn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác người
(…) Dưới những gốc đa, gốc gạo sù sì bóng những người đói dật dờ đi lại như
những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ gào lên từng hồi thê
thiết [54, tr.198 - 200] .
Cả mặt đất bầu trời ngập tràn hình ảnh cái chết, màu sắc cái chết, mùi vị cái
chết. Có lẽ trong văn học Việt Nam hiện đại chưa có một tác giả, tác phẩm nào
viết về nạn đói năm 1945 vừa giản dị, vừa chân thật, vừa đạt đến độ sâu sắc thấm
thía như Vợ nhặt của Kim Lân. Những trang viết về những con người nghèo khổ
trong cảnh đói khát của Kim Lân gợi lên ở người đọc một cảm nhận: hình như
những cảnh những người trong các truyện với những cảnh những người trong
cuộc đời thực mà nhà văn đã từng chung sống, đã từng gặp,… cứ trộn lẫn vào
nhau. Cuộc đời của bản thân Kim Lân, cuộc đời của những con người nơi làng
31
quê nhà văn và cuộc đời những con người nghèo khổ trong nạn đói năm 1945
hoà nhập vào nhau, thực - hư - hư - thực hiện lên trong tâm tưởng của tác giả khi
cầm bút. Người đọc có thể xâu chuỗi các nhân vật loại này vào chung một nguồn
mạch cảm thương trắc ẩn của tác giả. Từ Tư (Đứa con người vợ lẽ), ông Mộc gù
(Người chú dượng), ông Tư Mủng (Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê),
đến Tràng, đến người Vợ Nhặt (Vợ nhặt),… Kim Lân viết về họ mà như để nói
về mình và viết về những điều của mình cũng là để nói về những điều của họ.
Những con người mà Kim Lân quen thuộc và hiểu sâu sắc là những con người
của quê hương và những con người trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong
sáng tác của Kim Lân, những con người ở quê hương được khắc hoạ nhiều trong
các truyện trước năm 1945, những người kháng chiến được thể hiện nhiều trong
các truyện viết sau năm 1945. Kim Lân từng quan niệm: “Điều quan trọng là văn
chương phải thật, phải giản dị. Văn của tôi đã nói được tiếng nói và sự suy nghĩ
của tôi” [16, tr.39]. Nhà văn không thể có sự phân loại một cách đơn giản: người
này tốt, người kia xấu. Trong mỗi con người, Kim Lân thấy cả mặt tốt và mặt xấu
(đúng hơn là mặt chưa tốt). Tính không hoàn thiện là tất yếu trong phẩm chất tinh
thần của con người. Do đó, con người có khả năng cải tạo và tự cải tạo. Tuy
nhiên, ở con người, mặt tốt là bản chất, hay ít ra cũng được xem là bản chất và
mặt tốt của con người luôn được trân trọng, được làm đích để hướng tới, để vươn
lên. Mạnh Tử quan niệm: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”. Nhà phật cũng cho
rằng: mỗi chúng sinh đều có phật tính. Kim Lân là người sinh ra và lớn lên ở
vùng đất có bề dày hàng nghìn năm lịch sử như Kinh Bắc (Từ sơn, Bắc Ninh),
trong máu thịt của ông, cùng với tính chất của dòng sữa mẹ có cả tính truyền
thống văn hoá dân tộc “thương người như thể thương thân”, có cả lòng nhẫn nại,
ý chí vươn lên và niềm tin mãnh liệt vào cái thiện.
Trong cuộc sống, đói nghèo gây nên bao hậu quả nghiêm trọng. Nhân vật
trong truyện của Kim Lân cũng có kẻ vì miếng ăn (vật chất nói chung) mà mượn
đền chùa là chốn thiêng liêng thờ phật, lợi dụng lòng tín ngưỡng của nhân dân để
làm “thầy cúng” “đuổi tà” vào dịp mở đầu một năm (Đuổi tà). Tuy vậy, công
việc này dù sau cũng làm cho nhiều người vui, thêm chút hưng phấn bước vào
32
năm mới. Cũng có kẻ vì chút tài sản riêng mà phải ngày đêm dằn vặt, hao tâm
khổ trí, gây buồn phiền lục đục trong gia đình, để hàng xóm chê bai là người bảo
thủ chậm tiến, cản bước đi của phong trào hợp tác (Ông Cả Luốn gốc me)...
Nhưng ông tự Năm (Đuổi tà) phải làm tự chùa khi đã cùng đường sau ba, bốn lần
đổi nghề: dạy học, bốc thuốc, “tìm đất tìm cát”, xem bói toán độ thân. Ông Cả
Luốn cũng không hoàn toàn là người không biết điều. Suy nghĩ của ông là suy
nghĩ của người nông dân trên luống cày của họ. Suy nghĩ đó cũng là sản phẩm
của một nền sản xuất tiểu nông cá thể ngàn đời tạo nên. Cái đáng trách của nhân
vật là ở mức độ tính toán “quá kỹ”. Nhân vật này còn có thêm một số biểu hiện
của lòng tham (cày chiếm cả ruộng người khác vừa gỡ mìn và dây thép gai xong)
và tính gia trưởng của người có thứ bậc trong dòng họ… Nhân vật ông Cả Luốn
thật sự là điển hình sắc nét cho lớp nông dân hữu sản sau cách mạng tháng tám.
Có thể nói, đây là một khám phá của Kim Lân trong thời kỳ đầu cách mạng xã
hội chủ nghĩa:
Nét tâm lý căn bản này, chỉ cần bước vào thời kỳ đầu của cách mạng xã
hội chủ nghĩa là lập tức bộc lộ rõ rệt. Nhà văn đã thấy ngay những nét đó: ở ông
Cả Luốn gốc me trong truyện ngắn cùng tên, nhà văn đã khá tinh tế nhận thấy có
một tương quan nào đó giữa thói gia trưởng và óc tư hữu trong tâm lý người
nông dân này [2, tr.58].
Căn bệnh tư hữu gần như đã trở thành mãn tính nhưng ông Cả Luốn chưa
bao giờ có chút ý nghĩ chống lại phong trào phát triển của hợp tác xã. Sau những
ngày đêm dằn vặt, ông đã nộp đơn cho ban chủ nhiệm. Động lực thúc đẩy ông Cả
Luốn nộp đơn vào hợp tác xã mặc dù nhà văn không nói đến nhưng người đọc ai
cũng hiểu: con người lúc nào cũng biết sống hài hoà giữa cái riêng và cái chung,
cùng chung sống với làng với nước. Ngoài ra, có thể nói, sự chuyển biến này ở
ông Cả Luốn có một phần là do sự thôi thúc bởi lòng tự trọng của người có thứ
bậc trong dòng họ trước mặt con cháu. Như vậy, ngòi bút của Kim Lân đã khắc
hoạ những biểu hiện tích cực của con người mà cái tâm nhà văn nhìn thấy và chỉ
ra.
33
Đọc truyện của Kim Lân, người đọc luôn bắt gặp những con người vươn
lên, hướng tới. Đói, đi tìm đất để sống, có người chết, người sống vẫn tiếp tục đi.
Không có sự lùi bước và không có sự rũ gục chờ chết. Trong truyện Vợ nhặt,
người đàn bà với “cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” đã
bỏ qua mọi điều tiếng mạnh bạo “sưng sỉa” đòi cho được cái ăn để giữ lấy sự
sống và sau đó đã trở thành vợ của Tràng. Về truyện ngắn này, Kim Lân có lần
thổ lộ:
Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con
đường sống. Dù ở trong tình huống bi đát đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát
khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở
Chính điều này đã làm cho nhà văn Kim Lân khác với một số nhà văn
khác, khi tập trung khắc hoạ cái thấp hèn, cái nhỏ bé của con người. Nguồn
gốc tạo nên sự khác biệt và thành công của Kim Lân là tấm lòng của nhà
văn:
tương lai, vẫn mong muốn sống, sống cho ra người [54, tr.618].
Kim Lân đã hội tụ cả hai điều kiện: tài năng văn xuôi và vốn sống. Vốn
sống ấy, tài năng ấy, và sau này ta sẽ nói kỹ hơn - tấm lòng của nhà văn đã giúp
ông không bước lạc sang bên kia cái sợi tóc mỏng manh nó phân chia chân thực
và giả tạo, bóp méo; yêu thương và khinh bạc, mỉa mai. Kim Lân đã rất giỏi khi
tả người vợ của anh Tràng có cong cớn, rất cong cớn nữa nhưng không nanh
nọc, có trơ trẽn, rất trơ trẽn, nhưng không đĩ thoã. Và cái cong cớn, sưng sỉa,
đanh đá trơ trẽn kia, nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt đối
không sinh ra từ cái ác, cái xấu xa [87, tr.21].
Có thể nói, Vợ nhặt là một bức tượng đài bất tử ghi lại cái khủng khiếp của
nạn đói năm 1945 và tinh thần vươn lên quật cường, lòng tin mãnh liệt vào cuộc
sống của con người Việt Nam trước khi bắt tay vào làm cuộc tổng khởi nghĩa
cách mạng tháng tám.
Nói đến tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, là phải nói đến sự nhìn nhận đúng
đắn bản chất con người - tính nhân bản. Nhìn nhận đúng bản chất con người sẽ
34
tin vào những điểm sáng (hoặc nhiều hoặc ít), vẫn luôn luôn có và luôn luôn lấp
lánh trong mỗi con người. Dù rằng nhiều lúc những điểm sáng ấy bị mây mù
cuộc đời che phủ nhưng tác giả vẫn tin vào khả năng cải biến của con người.
Lòng yêu thương, trân trọng đối với con người xuất phát từ sự nhìn nhận đúng
đắn và niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người, khả năng cải biến của con
Văn học (và nghệ thuật nói chung) có chức năng phản ánh chân thực
hiện thực. Để thực hiện hiệu quả chức năng đó, người nghệ sĩ nói chung và
nhà văn nói riêng cần thâm nhập vào cuộc sống để tìm tòi, phát hiện ra bản
chất cuộc sống, đặc biệt là bản chất con người, để đưa vào tác phẩm với
hình thức là những hình tượng nghệ thuật. Nhiều nhà văn, nhà nghệ sĩ lớn
trên thế giới và trong nước đã đạt thành tựu lớn trong sự nghiệp bằng con
đường đúng đắn này. Kim Lân tuy chưa phải là nhà văn tầm cỡ nhưng ông
cũng đạt được những thành công ở một mức độ nhất định.
người. Đó là động lực thúc đẩy mọi hành động nâng cao giá trị của con người.
Trải nghiệm hiện thực bằng chính cuộc đời của mình, Kim Lân có những
phát hiện và những cảm nhận sâu sắc, tinh tế về con người, về phẩm chất con
người. Trong sự đan xen, hoà trộn đa dạng và phức tạp giữa cái tốt và cái xấu,
giữa cái đúng và cái sai ở mỗi con người; đằng sau những biểu hiện hầu như
nhiều hơn, dễ thấy hơn của cái xấu, cái sai so với cái tốt, cái đúng, nhà văn đã
nhận ra được những dấu hiệu tích cực, hướng thiện. Trong truyện ngắn Làng, bà
chủ nhà ông Hai ở nơi sơ tán hay tọc mạch, tham lam nhưng không một chút suy
tính sẵn sàng nhường nhà cho người sơ tán đến ở. Ở cuối truyện này, khi đưa vào
chi tiết bà chủ nhà nói “ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu”, Kim Lân muốn thể
hiện rõ hơn nét chung của người nông dân là họ rất tốt. Ông lão Hai tuy có thái
quá đến mức làm cho người nghe cảm thấy ông khoe khoang cái làng chợ Dầu
của ông nhiều quá nhưng lại là một con người yêu làng hết mực, đồng thời cũng
là một con người yêu nước, nhiệt tình với kháng chiến, trung thành đến cảm động
đối với cách mạng. Tấm lòng ấy đã khiến:
35
Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây
(…)
Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải
thù.
Ông lão ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhè nhẹ vào lưng nó, khẽ hỏi:
- Húc kìa! Thầy hỏi con nhé, con là ai?
- Là con thầy mấy lỵ con u.
- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con thích về làng chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:
- À thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ [54, tr.193 - 194].
Khi nói về truyện ngắn Làng, Kim Lân bộc lộ:
Khi đưa vào nhân vật lão Hai, tôi muốn nói lão Hai yêu làng, tự hào về
làng mình. Nhưng càng yêu làng, tự hào về làng, thì khi làng theo Tây mới tô
đậm cái đau, cái nhục của lão Hai lên. Cái đau cái nhục ấy chính là lòng yêu
làng, yêu nước của lão [16, tr.269].
Ở truyện Bà Mẹ Cẩn, nhân vật bà mẹ Cẩn bị một số người “xì xầm” cho là
“trái tính, trái nết không mấy ai có thể ở chung được”, “dở hơi”. “Có người lại
bảo” bà “kỹ tính quá”, “hay làm quá”, “tham công tiếc việc cũng thật là quá
quá lắm nữa”. Những người có ý kiến như vậy bởi họ chỉ nhìn thấy những gì bà
mẹ Cẩn thể hiện ra hàng ngày, rõ ràng như một với một là hai. Người ta không
nhìn sâu vào cuộc đời bà - một quá khứ cứ dày lên theo ngày tháng những nỗi
đắng cay, đau khổ, dở dang về con đường chồng con. Quá khứ ấy đã tạo nên thái
36
độ sống, lối sống của bà: quen một mình, âm thầm, lặng lẽ. Người ta cũng không
hiểu được “cái tình yêu con một cách quá quẫn”, “thương con mà như cách trả
thù, âm thầm, gan góc, cô độc…” của bà. “Một bà mẹ như thế, nhưng ngay đợt
tuyển quân chống Mỹ đầu tiên trong xã, bà đã cho con đi bộ đội” [54, tr.512].
Chính bà đã tự mình “lên tận uỷ ban thắc mắc” cho đứa con trai duy nhất, người
thân duy nhất của bà đi bộ đội. Bà quyết cho con đi bộ đội vì không nghĩ “lẩn
mẩn”. Khi người con đi xa, thái độ sống đóng kín của bà đã thay đổi trước sự
kiên trì, chân thành của Ninh - một cô giáo sơ tán theo trường về xóm Châu
Viên. Trong không khí bộ đội và nhân dân khẩn trương chuẩn bị chống trả máy
bay địch đánh phá, tình cảm của mẹ Cẩn đối với Ninh ngày càng trở nên thân
thiết hơn. Tình cảm ấy như tình cảm của người mẹ dành cho con. Bà vui vẻ mở
rộng cánh cửa đón các anh chiến sĩ, lấy quần áo các anh về khâu vá… Nhân vật
bà mẹ Cẩn đúng là hình ảnh tiêu biểu của người mẹ Việt Nam trong kháng chiến.
Trong truyện Người chú dượng, ngòi bút Kim Lân thể hiện sự chuyển biến,
sự đổi thay trong cách nhìn nhận một con người cụ thể qua nhân vật Mộc gù.
Người kể chuyện - nhân vật xưng tôi, có vị thế là cháu gọi ông Mộc gù là chú
dượng đã miêu tả cái vẻ ngoài của ông, cái dáng điệu của ông khi mới bắt gặp
Ông ta là một người lùn thấp và to lớn bè bè như cái cối xay. Cả
người ông như bị một sức nặng gì đè cho lún xuống mà ông thì lúc nào
cũng đang lấy hết gân sức mình đội cái sức nặng vô hình ấy lên. Tất cả
những bắp thịt trên người, trên mặt, trên vai, trên cổ đều nổi u lên từng cục
và đang lặng lẽ di chuyển dưới lớp da đỏ cháy như đồng tụ. Ông ta chừng
độ ngoài năm mươi tuổi; mặt ngắn, trán ngắn, bàn chân, bàn tay đều to
ngắn, nứt nẻ, sần sùi như những cành củi gộc.
thật khó gây thiện cảm:
Khi tôi bước chân vào, ông vẫn ngồi bó gối trên giường, lưng và vai gù hẳn
xuống. Đầu và cổ thì rụt vào trong vai. Cả người đều sù ra như con gấu ngồi thu
hình, bằn bặt trong cái vắng lặng của mấy gian nhà, chỉ có hai con mắt chĩa ra
là thấy sáng lóng lánh [54, tr.467].
37
Kim Lân đã phác hoạ một bức chân dung thật chính xác về người lao động
nghèo ở vùng núi heo hút. Họ suốt đời phải căng cái thân mình bé nhỏ để chống
chọi với bao nhiêu là sức mạnh tàn khốc vô hình đang chực chờ đổ xuống đè nát
để bảo toàn sự sống. Cái dáng vẻ bề ngoài của ông Mộc gù dễ làm cho người đối
mặt muốn tránh xa, ngần ngại không muốn tiếp xúc. Rồi từ cái dáng vẻ ấy, sự
liên tưởng dẫn đến con đường hồi ức ở người cháu xưng tôi. Nhân vật tôi kể lại
những chuyện “người ta xì xầm với nhau” về hắn - “thằng Mộc gù khe đá đỏ”:
Người ta kể rằng trước kia hắn là một tay chơi đã can án giết người. Rồi
vượt tù trốn lên đây. Rằng trước ngày ta cướp chính quyền, hắn đã dắt dao đâm
chết bố con ông bạ Dưỡng ở cánh đồng Ba Trạc. Rằng hắn đã chém sả vào
người vợ của hắn trong một đêm hắn uống rượu say. Cái chân hắn đi khập
khiễng là hắn bị người ta cắt gân về tội gặt trộm lúa. Và bây Giờ thường ngày
vào rừng đốt than hắn vẫn đi lại với đám người Thổ, người Nùng, có nhẽ là thổ
phỉ, ở khe núi Sước… [54, tr.475 - 476].
Còn, còn nhiều nữa những lời đồn đại đáng ghét đáng sợ về “thằng Mộc gù
khe đá đỏ” lần lượt tái hiện trong trí nhớ của người trần thuật. Kim Lân hình như
cố ý khắc hoạ đậm nét hình ảnh nhân vật này theo“miệng lưỡi người đời”, có
nhiều phần quá đáng để gây ấn tượng với người đọc nhằm tạo nên một vế có sức
mạnh cần thiết cho cái phản đề thể hiện ý đồ viết truyện của tác giả: vẻ ngoài
của con người cứ ghi nhận nhưng đừng vội có thành kiến, dư luận ở đời có nhiều
nhưng đừng vội cả tin. Hãy kiểm chứng lại bằng thực tiễn. Người cháu đã gặp, đã
nghe người chú dượng - ông Mộc tâm sự về cuộc đời ông: những năm đói kém,
những khốn khó, những vất vả từ khi chưa đến cái trại Han heo hút này, những
nỗi đau “nát ruột, nát gan” mà người vợ phải lòng trai đã gây ra, đã làm cho ông
“gần hết một đời người” “chịu đeo tiếng là một thằng ngỗ nghịch, bị hàng xóm
hắt hủi ghê sợ”, “không thể sao gỡ được”. Ông Mộc gù âm thầm chịu đựng nỗi
oan ức, nỗi đau đớn cũng bởi ông là người thương vợ thương con:
Anh đỏ Mộc nát ruột nát gan, không hiểu sao lúc ấy anh lại càng thấy
thương yêu vợ mình. Anh nghĩ: chẳng qua là vợ anh nó dại, nó cả nghe người.
Với lại, vợ chồng ăn ở với nhau bằng ấy năm giời, đem nhau từ quê lên đây làm
38
ăn, không nhẽ mỗi lúc bỏ nhau? Mà anh, thì anh biết anh không bỏ được chị ta.
Anh say mê chị ta quá. Thôi thì, vợ mình trước sau vẫn là vợ mình, bới xấu nhau
ra làm gì cho thêm tan nát!…
Ngày ấy không có đứa con thì tôi cũng muốn chết quách cho rồi anh ạ.
Thương nó, mình phải sống mà nuôi nó [54, tr.487 - 488].
Có thấy và hiểu được sự thật đó thì mới hiểu được tất cả dáng vẻ bên ngoài
và thái độ của con người bất hạnh này. Có chứng kiến cái cảnh “mặt lão ta tái
nhợt đi”, “tất cả những thớ thịt trên mặt đều giật giật lên”, “lão cúi gằm mặt
xuống, thở ra một tiếng não nuột, nhấp nhỏm nhấc từng bước chân quay vào”
khi nghe “anh Hiền… ở Hà Nội lên” đón cái Sen về và hình ảnh “nét mặt ông
nhẹ nhỏm, rạng rũa hẳn lên” cùng với cái cười “thật hồ hởi, nhẹ nhõm” thì mới
thấy hết cái lòng thương con của một người cha suốt đời cực khổ, vất vả.
Tình cảm của ông Mộc (Người chú dượng) dành cho con cũng như của ông
Tư Mủng (Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê), ông Hai (Làng), bà mẹ
Cẩn (Bà mẹ Cẩn),… là chiếc nôi cho những đứa con từ đó mà trưởng thành, là
chất dinh dưỡng tăng thêm nguồn sống cho cả hai phía: những người làm con,
làm cái và những người làm cha, làm mẹ.
Trong các truyện ngắn của nhà văn Kim Lân, nhiều truyện của ông là truyện
viết về những con người bình thường trong cuộc sống đời thường - rõ nhất là
những truyện viết sau năm 1945. Cảm hứng của nhà văn hướng về những phẩm
chất của những con người bình thường trong cuộc sống đời thường. Trong cuộc
sống đời thường đó, phẩm chất con người dễ bị những mối quan hệ nhiều chiều,
nhiều hướng chi phối mà khuất lấp sau những cách ứng xử khác nhau, khó nhìn
thấy. Kim Lân, nhà văn của một vùng quê có nhiều đặc trưng và của một thời đại
có nhiều biến chuyển đã bằng kinh nghiệm sống của mình, nhận ra những cái còn
giữ lại và những cái đã biến đổi, những cái đang hình thành ở con người và cuộc
sống nơi quê ông. Những phân tích ở trên đã làm rõ điều này. Trong các truyện
ngắn viết trước năm 1945, hình ảnh con người hiện ra ở một dạng khác. Nếu có
người muốn tìm nguồn gốc xuất thân của những nhân vật thì họ sẽ nhận ra rằng:
các nhân vật ấy tuy được gọi là ông Cả, ông Trưởng, ông Chánh, ông Hương…
39
nhưng hoàn toàn không giống như những ông Cả, ông Trưởng, ông Chánh, ông
Hương… đích thực trong một cơ chế xã hội chặt chẽ và một trật tự xã hội ổn
định. Ở các nhân vật này, người đọc cảm nhận có một cái gì đó vượt ra khỏi
khuôn khổ xã hội. Trong số họ, có kẻ có nhà có đất, có làm ruộng làm vườn
nhưng không bị buộc chặt vào mảnh vườn thửa ruộng ấy. Có kẻ là người “thất cơ
lỡ vận” giữa buổi giao thời của cuộc thế. Họ đúng là những người “đầu thừa đuôi
thẹo”. Cách sống của các nhân vật “đầu thừa đuôi thẹo” này thể hiện sự tự do,
phóng túng, tuỳ sở thích. Trong truyện ngắn Trả lại đòn, Chánh Bảy đã chiêu tập
“anh em”, tổ chức buổi “chợ đồng” thật rầm rộ để thực hiện cuộc trả thù theo lời
nguyền của tổ tiên. Sư Tuệ ở chùa Dận, “mười bảy, mười tám năm” “nấp bóng
cửa thiền làm ăn cho dễ”. Làm ăn ở đây là cướp bóc, làm những chuyện phi
pháp. Nhà “sư hổ mang” này có cả một tập hợp đàn em gồm “mười hai sơn môn
dưới quyền, nó chu cấp ăn tiêu quanh năm thừa thãi” [54, tr.141]. Sư Tuệ nhận
lời Chánh Bảy cùng đi chuyến “chợ đồng” không phải vì tiền, vì của mà để thoả
“chí yêng hùng”, vẫy vùng ngang dọc với các anh hùng “hảo hớn” trong xứ,
ngoài xứ. Đối với sư Tuệ “có đi chợ đồng với anh em là phải cộc trán với những
tay cừ khôi mới đã chứ” [54, tr.141]. Còn Chánh Bảy là “một người giàu có, tiền
rương thóc mục, ruộng sâu ao cá”. Đi chuyến “chợ đồng” là để thực hiện một
lời nguyền và còn bởi:
Những khi “đi chợ” cùng anh em, ấy là do cái lòng say mê không cùng của
nghề quyến rũ. Khi đã cùng anh em phừng phừng rượu, với chiếc mái chèo, xông
xáo giữa đám người đủ sào mác, càng nguy hiểm càng vui, càng tỏ được cái
tuyệt kỹ của nghề. Những lúc ấy sao mà ông say mê, tự hào đến thế. Lúc ấy ông
có một cái thú rùng rợn đùa với cái sống, cái chết của người và của mình [54,
tr.146 - 147].
Không ai biết những chuyện gì đã xảy ra giữa bọn họ với nhau. Người
ta chỉ thấy sau chuyến gặp gỡ ấy Ba Lai đi lại chơi bời thân thiết với cánh
anh em làng chơi của ông Chánh Bảy Đồng Kỵ .
Tuy vậy, ở cuối truyện, Chánh Bảy và sư Tuệ sang Hà Đông gặp Ba Lai:
40
Và cũng từ đấy cho đến mãi sau này người ta cũng không thấy người
Đồng Kỵ sang gặt cướp lúa của làng Trang Liệt nữa [54, tr.169 - 170].
Câu chuyện mối thù cầu Đôi giữa hai làng Trang Liệt và Đồng Kỵ mờ
nhạt dần và cứ như một truyện cổ tích. Dưới ngòi bút Kim Lân, sự phục
thiện của Chánh Bảy sau khi gặp Ba Lai ở Hà Đông chứng tỏ trong nhân
vật này vẫn luôn luôn tồn tại cái thiện. Vấn đề là ở chỗ, phải có một tình
thế nhất định, phải nhận ra và biết nhen nhóm để cái thiện đó bùng toả.
Như vậy, ở đây một lần nữa cái tâm của Kim Lân đã giúp ông nhận ra
những biểu hiện tích cực và sự hướng thiện của con người.
Trong các truyện ngắn Đôi chim thành, Con Mã Mái,… các nhân vật
có một số nét có thể gọi là tài hoa, phong độ khác thường như Cả Chuẩn -
một nhà nho “không hay chữ - nhất lại là nhà nho kiết nữa”. Cả Chuẩn
“bày biện” trong khoảng sân dù rất nhỏ bé của mình đầy đủ một “vườn
cảnh”: nào là giàn thiên lý, nào là bể cạn thả cá vàng, có hòn non bộ với
chùa với tháp:
Cả Chuẩn cố bày biện cho nó ra vẻ một cái vườn cảnh. Giàn thiên lý,
chính giữa, thấp lè tè, cành lá xum xuê che chiếc bể cạn thả cá vàng và bốn
chậu lan đặt trên đôn sứ cũ kỹ, sứt mẻ: hai chậu bạch ngọc và chậu nhất
điểm. Trong bể kê một hòn non bộ sần sùi, gân guốc; cỏ tóc tiên mọc um
tùm giữa một vẻ hoang vu bí mật đối với một bọn người sành bé nhỏ, đặt
theo điển tích. Nào chùa, tháp, cầu, quán chênh vênh hiểm trở; nào ngư,
tiều, canh, độc; nào cầm, kỳ, thi, tửu, nào Bá Nha ngộ Tử Kỳ; nào Sào Phủ
tẩy nhĩ… tất cả ngụ một vẻ an nhàn thư thái, gác đường danh lợi ra ngoài
như thời Nghiêu Thuấn. Che tất cả hòn non bộ là một cái tán si. Gốc xù xì
thân uốn éo theo một kiểu nhất định [54, tr.58].
Tuy cái thú chơi thanh tao này không phải là cái thú chơi chính của Cả
Chuẩn, nó chỉ là việc làm của người “rỗi rãi quá” và là cách để “an ủi
41
mình và để lên mặt khinh đời”, để tỏ ra mình đang được hưởng “cái thú an
nhàn”… nhưng cũng đã thể hiện được vốn hiểu biết, trình độ thẩm mỹ và
sự khéo tay sắp xếp của ông ta. Sự tài hoa của Cả Chuẩn tập trung hơn ở
cái thú mà ông thích nhất là chọi gà. Cả Chuẩn nhìn vào con gà tức khắc
nhận ra mặt mạnh, mắt yếu của nó. Đánh giá các con gà chính xác, Cả
Chuẩn chọn giống để tạo tông gà, chăm sóc gà… cũng rất tài, rất giỏi. Nhờ
thế, ông có được một con Ô Mã Mái giành giải một cách oanh liệt sau trận
kịch chiến vô cùng ác liệt với con Hoa Mơ của Tư Méo. Trong truyện ngắn
Con Mã Mái, Hương Thân, Tư Chế, Tư Chuyên… cũng là những người
ham say thú chọi gà và có tài chọn gà như Cả Chuẩn.
Nếu Cả Chuẩn có năng khiếu chọn gà, nuôi gà chọi thì Trưởng Thuận
(Đôi chim thành) là nhân vật được Kim Lân khắc hoạ như một tiêu biểu
cho việc chọn chim, nuôi chim. Trưởng Thuận được biết đến với “cái tiếng
quần chim” “ăn khao liên tam trúng nức cả hàng phủ”, với “thành tích vẻ
vang chưa từng có”. Trưởng Thuận may mà mua được đôi chim tốt mà lại
rẻ. Nói may là một cách nói, thực ra Trưởng Thuận đã rất tinh khi mua đôi
chim này. Cái tinh của Trưởng Thuận đã khiến cho cụ Tú phải khen:
Cụ Tú thận trọng đỡ lấy con đực. Cầm gọn gàng trong tay, cụ nâng
đầu con chim lên, nhìn mắt, nhìn mỏ, tấm tắc khen:
- Tinh lắm, mắt ước thế này tinh lắm.
Rồi cụ sẽ sàng xoè cánh chim ra. Ngắm nghía hồi lâu mới đưa trả con
đực, xem đến con mái. Khi xem xong cả đôi chim, cụ nở một nụ cười khoan
khoái:
- Tinh! Trưởng Thuận tinh lắm! “cào bị”ấy kháp với nhau không tách
được [54, tr.36].
Tất nhiên, những nhận xét của cụ Tú, Trưởng Thuận đều đã biết, vì
ông là người từng ăn khao quần chim giật ba ngày ba giải liền. Cái tinh của
42
Trưởng Thuận không chỉ ở cách chọn chim, nuôi chim mà còn thể hiện ở
cách xem thời tiết, cách mở lồng chim:
Đặt lồng chim xuống vệ đường, ông Trưởng cởi dây, rút ống nước đâu
đấy, rồi mới quài tay ra sau lưng rút chiếc quạt giắt cặp quần, se sẽ đập
vào nan lồng. Đàn chim xô về một phía. Đập mạnh thêm mấy chiếc nữa,
ông mở bật nắp lên. Đàn chim bay ra một loạt, cánh vỗ phanh phách [54,
tr.38 - 39].
Tuy những dòng miêu tả của Kim Lân về những điều như thế có ít ỏi
nhưng cũng đủ cho người đọc cảm nhận được sự tài hoa của các nhân vật.
Quả là những thú chơi thanh tao, cao nhã, quả là những con người tài hoa
bặt thiệp. Như vậy, ở những trang viết về “thú đồng quê” hay “phong lưu
đồng ruộng”, Kim Lân đã làm nổi bật lên hình ảnh người nông dân “thông
minh, hóm hỉnh và tài hoa, đã đặt tất cả niềm say mê của mình vào những
thú chơi giản dị mà tao nhã tinh tế ấy, chẳng khác gì những tâm hồn nghệ
sĩ say mê sáng tạo nghệ thuật” [89, tr.758].
1.2.4. Cảm hứng về những sinh hoạt văn hoá ở vùng thôn quê
Hiện thực xã hội Việt Nam những năm 1930 - 1945 là nguồn đề tài phong
phú cho các sáng tác văn chương. Ở thời kỳ văn học này, các tác giả của các trào
lưu văn học khác nhau đều có hướng tiếp cận hiện thực của riêng mình. Văn học
lãng mạn có hai khuynh hướng chủ yếu và nổi bật. Khuynh hướng thứ nhất chủ
thuyết cải cách gia đình và xã hội theo con đường cách tân tư sản. Tiêu biểu cho
khuynh hướng này là các tác giả: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo… Khuynh
hướng thứ hai muốn thoát ly chính trị, tìm vào quá khứ, tình yêu và giải phóng cá
nhân. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là các tác giả Thơ mới. Khác với trào lưu
lãng mạn, trào lưu văn học hiện thực phê phán tập trung khám phá sâu sắc về đời
sống xã hội và đặt ra những vấn đề có ý nghĩa lớn lao. Các tác giả đã bám sát đời
sống của những con người bình thường, phản ánh tình cảnh bị áp bức bóc lột của
người nông dân. Trong các sáng tác của các nhà văn Ngô Tất Tố, Nam Cao,
43
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… các tác giả đã làm nổi bật mâu thuẫn
giữa tầng lớp nông dân với tầng lớp địa chủ phong kiến. Ngoài việc thể hiện mâu
thuẫn giai cấp, tình cảnh khốn khổ của người nông dân, một số tác giả đã chọn
hướng đi về nông thôn với việc miêu tả phong tục và các sinh hoạt văn hoá.
Kim Lân bước vào làng văn với những tác phẩm ít nhiều mang tính tự
truyện. Trong các tác phẩm: Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô
Vịa, Người kép già, Kim Lân tập trung thể hiện những con người thân thiết, cuộc
sống đói nghèo lam lũ của người dân quê. Bên cạnh những tác phẩm mang ý
nghĩa hiện thực, Kim Lân còn viết rất hay “về những cái gọi là “thú đồng quê”
hay “phong lưu đồng ruộng”. Đó là những thú chơi lành mạnh mang màu sắc
văn hoá truyền thống của người dân quê như đánh vật, nuôi chó săn, gà chọi, thả
chim” [89, tr.758].
Kim Lân là người làng Phù Lưu (chợ Dầu) huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Vùng Đông Ngàn Từ Sơn và rộng ra một số địa phương khác nữa ở đồng bằng
Bắc Bộ, từ tháng giêng đến tháng ba luôn có lễ hội, hết địa phương này đến địa
phương khác: hội Đồng Kỵ, hội Đình Bảng, hội Gióng, hội Văn Môn… Trong
các lễ hội này, thả chim, chọi gà, vật là những tiết mục thường có mặt. Đây là
những tiết mục hấp dẫn và lôi cuốn được nhiều người xem. Nếu xem thả chim là
thú chơi tao nhã thanh bình thì xem chọi gà, vật là những cái thú thưởng ngoạn
sự hùng dũng của sức mạnh và sự tinh khôn của tài trí. Những truyện ngắn viết
về đề tài này đã mang đến cho người đọc không khí tưng bừng, nhộn nhịp của
làng quê:
Tiếng trống vật nổi lên dồn dập. Người tứ xứ đổ về đông như nước chảy. Ai
cũng náo nức muốn xem mặt, xem tài ông Cản Ngũ. Người ta chen lấn nhau,
quây kín quanh xới vật; nhiều người phải trèo lên những cây trôi, cây nhội gần
đấy xem cho rõ.
Dưới mái tam quan đền, những vuông nhiễu điều bay đỏ rực. Các đô trong
tỉnh cởi trần, đóng khố ngồi hai bên xới. Trên thềm cao, ông Cản Ngũ ngồi xếp
bằng trên chiếc chiếu đậu trắng cạp điều. Ông ngồi một mình một chiếu; người
ông đỏ như đồng tụ, to lớn lẫm liệt, nhác trông không khác gì tượng hai ông
44
tướng Đá Rãi ở trong đền. Đầu ông buộc một vuông khăn màu xanh lục giữ tóc,
mình trần, đóng khố bao khăn vát [54, tr.287 - 288].
Đọc các truyện ngắn Cầu đánh vật, Thượng tướng Trần Quang Khải -
Trạng vật, Ông Cản Ngũ… người đọc không có cảm nhận về một nông thôn
buồn như trong tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng mà có cảm nhận về một
nông thôn náo nức, sôi động trong không khí của những sinh hoạt văn hoá:
Bắt đầu từ tháng tám trở đi, cứ chiều chiều bạn trai làng lại nô nức ra bãi
“tắm vật”. Tiếng cười nói vang lên một cánh đồng. Những tấm thân rám nắng nở
nang, lực lưỡng thi nhau hoạt động. Cỏ xanh trước cầu bạc trắng cả một vùng.
Họ vật ham lắm. Những hôm trăng sáng, mãi khuya họ mới chịu về [54, tr.46].
Vật là một môn cơ bản để từ đó mà luyện tập các môn võ thuật khác. Muốn
vật phải có sức, phải lanh lẹ khôn khéo mới mong thắng được đối thủ. Ham thích
môn vật là mong ước có được sức mạnh, có được tài trí, có được nghị lực ý chí
để tự khẳng định mình trong cuộc sống và để có đủ năng lực chiến đấu với mọi
lực lượng đối địch. Trong các sáng tác, Kim Lân hình như có nhiều cảm hứng
với môn vật. Chỉ riêng trong Tuyển tập Kim Lân, đã có 3/19 truyện viết về môn
này, chiếm tỷ lệ1/6: hai truyện viết trước năm 1945 (Cầu đánh vật, Thượng
tướng Trần Quang Khải - Trạng vật) và một truyện viết sau năm 1945 (Ông
Cản Ngũ). Trong các truyện này, các nhân vật say mê môn vật không chỉ là một
lớp người mà bao gồm nhiều thế hệ. Người đọc có thể bắt gặp những nhân vật
đang là những đô vật nổi danh như cụ Cả Lẫm, ông Cản Ngũ (Ông Cản Ngũ), cụ
Vệ Lẫm, Trạng Kế (Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng Vật) đô Cót (Cầu
đánh vật). Các nhân vật này được ngòi bút Kim Lân khắc hoạ, tôn vinh như là
những mẫu mực về sức lực, về sự nhanh nhẹn, về tài trí, về tinh thần thượng
võ… Bên cạnh đó còn có cả một lớp đô vật trẻ quyết phấn đấu rèn luyện vươn
lên như Quắm Đen, Tý Trâu (Ông Cản Ngũ), Vựa (Cầu đánh vật), Trạng Sặt
(Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật). Cũng có những nhân vật đã hết
một thời danh tiếng, cứ có mặt ở hội vật là không đô nào dám vào phá giải, liên
tục ăn giải cạn ba bốn năm liền như đô Cót (Cầu đánh vật). Các lớp đô vật trong
45
các truyện ngắn của Kim Lân đã tạo thành cái gạch nối giữa các thế hệ trước và
sau.
Viết về môn vật, ngòi bút của Kim Lân tỏ ra thông thạo và thích thú khi thể
hiện sức mạnh và tài nghệ của các đô vật:
Lên “đài” xong rồi vào “bá tay tư”. Bàn tay Sặt vừa đặt lên gáy Trạch
Khô, toàn thân hắn rung hẳn lên. Biết gặp phải tay địch thủ ghê gớm, Trạch Khô
không còn dám khinh thường, thận trọng từng miếng đánh, miếng gỡ. Một lát
sau, xem chừng không thể địch lại Sặt, Trạch Khô xuống “nằm bò”. Cái miếng
“bò cắm” này, khi nào cùng quá, y mới dùng. Đầu, bụng và chân tay như dán
xuống đất. Không một ai bắt nổi. Người ta thường đồn, khi mà Trạch Khô xuống
“bò cắm” thì dẫu lấy thuổng mà bẩy cũng không lên. Sặt loay hoay bắt bò. Đôi
bên xoay xoả bụi mù cả sới. Từ sáng cho đến đứng bóng, Sặt vẫn chưa làm gì nổi
Trạch Khô. Cậu nóng ruột quá. Sau cũng vớ được “tay khố đỉnh”. Cứ thế, Sặt
dùng toàn lực nhấc bổng Trạch Khô lên, trước muôn nghìn tiếng hoan hô của
mọi người [54, tr.112 - 113].
Miếng “bò cắm” của Trạch Khô cũng không cứu anh thoát khỏi thất bại
trước “thần lực” của Trạng Sặt. Cái “thần lực” ấy, ở ông Cản Ngũ lại được thể
hiện ở một dạng khác:
Ông đứng như cây trồng giữa xới trước những cặp mắt kinh dị của người
xem. Còn Quắm Đen thì đang loay hoay gò lưng lại, không sao bê nổi chân ông
Cản Ngũ lên. Cái chân tựa như bằng cây cột sắt chứ không phải là chân người
nữa.
Ông Cản Ngũ vẫn đứng nghiêng mình nhìn Quắm Đen mồ hôi mồ kê nhễ
nhại dưới chân. Lúc lâu, ông mới thò tay xuống nắm lấy khố Quắm Đen nhấc
bổng anh ta lên, coi nhẹ như ta giơ con ếch có buộc sợi rơm ngang bụng vậy [54,
tr.289 - 290].
Đó là sức mạnh thể chất của những đô vật mà người trần thuật khắc họa khi
kể lại. Ở truyện Cầu đánh vật, Kim Lân để cho một đô vật đã bước qua thời kể
lại các đô tiền bối của sân mình, làng bằng một giọng thật hể hả, tự hào. Khi nói
đến sức mạnh của các đô làng mình, đô Cót “tủm tỉm cười”, cặp mắt long lanh
46
nét mặt hân hoan rạng rỡ. Đô Cót hầu như không thể dừng lại được câu chuyện.
Thấy đêm đã khuya, ông bảo khách (nhân vật xưng tôi - người trần thuật) ngủ lại
nhà ông để ông kể tiếp chuyện Ngựa Lồng, Voi Cái. Ngựa Lồng là cái tên của
người bấy giờ đặt cho một anh chàng “khoẻ lắm”, đang tát nước mà bỏ gầu đuổi
bắt con ngựa của một Phú ông sổng tầu chạy nhông, dầy xéo lên những thửa mạ
xanh non. “Chỉ một loáng” anh ta đã bắt được ngựa trao trả cho nhà phú hộ nọ.
Còn Voi Cái là biệt danh của một cô gái chăn bò đánh ngã Ngựa Lồng sau khi
anh này giữ giải nhất hai keo. Hai nhân vật Ngựa Lồng và Voi Cái là hai hình
tượng về sức khoẻ mà khi kể lại, đô Cót trầm trồ ca ngợi như là thế hệ nối tiếp
các ông đô Tàn, đô Lọng, đô Cờ và sư phụ của Ngựa Lồng. Phải nói rằng, nhân
vật của Kim Lân trong các truyện viết về đề tài võ vật rất say mê và rất tự hào về
sân vật làng mình, xứ mình. Và không chỉ các nhân vật say mê tự hào về môn võ
vật, sân vật làng mình mà ngòi bút Kim Lân khi viết về các truyện này cũng tỏ ra
rất hào hứng, say sưa. Rõ ràng là nhà văn có niềm hứng khởi, sự thích thú đặc
biệt đối với môn võ vật và các tay đô vật tài nghệ. Có thể coi đây là một nét thể
hiện cảm hứng về truyền thống võ vật và “văn hoá vật” của nhà văn Kim Lân.
Vật không phải chỉ khoẻ mà con cần nhanh nhẹn mưu lược. Cần sức, cần
mưu nhưng cái nghệ thuật, cái tài hoa ở môn vật là người vật phải biết điều hoà
cho tiết tấu nhịp nhàng giữa sức với mưu. Không phải ai cũng có thể vật được.
Muốn trở thành đô vật giỏi phải luyện tập nhiều, phải được các đô vật lão luyện
truyền dạy các thế vật, các miếng bí hiểm. Bởi thế, môn vật là môn “võ biền”
nhưng cũng là môn năng khiếu, môn tài hoa. Với sự hiểu biết sâu sắc và lòng
say mê, Kim Lân đã mang đến cho người đọc những trang viết độc đáo hấp dẫn
về môn vật. Trong những trang viết này, người đọc nhận ra rất rõ ý thức đề cao
những giá trị văn hoá dân gian. Ông viết các truyện ngắn về môn vật còn bởi một
động lực sâu xa, đó là ý thức muốn lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hoá
Tiếc thay, thời thế biến thiên, tinh thần thượng võ của ta mỗi ngày suy
kém, môn vật vì đó - trừ một vài nơi ở thôn quê - không còn được rèn luyện
truyền thống của dân tộc:
47
như xưa, nên cũng vì đó mà không được người ta cổ xuý đến luôn luôn, gần
như là bị quên lãng vậy.
Đứng trước tình cảnh đó, ông Kim Lân cố ý muốn đem tất cả cái hay, cái lạ
đặc biệt của môn thể thao đó ra vẽ lại để cho ta cùng thấy một tinh hoa của đất
nước gần như mai một. Truyện này là truyện đầu trong tập truyện phóng sự về
môn vật. Sau đây, ông Kim Lân còn viết nhiều về đầu đề này, viết đủ hết các
ngón, các môn, cùng các chuyện chung quanh làng vật để làm quà cho các bạn
đọc Tiểu thuyết thứ bảy thân yêu mà cũng là để làm một tài liệu sau này cho
những ai muốn khảo về nước Việt Nam thượng võ [dẫn theo 54, tr.44 - 45].
Cũng từ ý thức gìn giữ phát huy những giá trị văn hoá cổ truyền, Kim Lân
đã có những truyện ngắn viết về các thú chơi đồng quê như: chơi gà chọi, chơi
chim… Chọi gà, thả chim là những thú chơi tao nhã có từ ngàn xưa. Kim Lân đã
viết về những thú chơi này bằng tất cả sự say mê và hiểu biết sâu sắc. Sự hiểu
biết của ông đã tạo nên nhưng trang viết đầy ắp những tri thức văn hoá:
Tuy rằng cùng đàn với nhau mà đôi gà ấy mỗi con một vẻ, mỗi con đánh
một đòn. Con Ô Mã Mái tảng dày, mi trờm làm cho đôi mắt ếch sâu hoắm vào.
Mỏ tam sơn, ba múi, quăm quắm như mỏ diều hâu. Mình củ đậu, đuôi lá vả, tỏ ra
có sức bền bỉ, gan góc. Nhất là đôi quản đen bóng, rắn cứng như thép nguội. Hai
hàng vẩy một song song chạy từ khoeo đến bàn. Quản bên phải, sóng ngang với
cựa có một chiếc vẩy rất nhỏ cài vào nữa. Theo những tay chơi, đó là chiếc vẩy
cáo, lợi hại lắm. Nó chuyên “hầu dọc” rất nhiều cần, cáo. Ai cũng phải chịu là
con gà hay.
Nhưng đến con Sám Miến Hồng thì mới thực là tài ba có một. Với đôi quản
đầy vẩy “khâu dao”, chỉ buông không cũng thành cần, cáo. Và nhất là ngón
“thái” vênh vênh kỳ quái. Nó đã lấy vừa đúng mười hai con mắt trong mười hai
trận đá. Sám Hồng khét tiếng lên là con gà kỳ tài. Đến nỗi vần khấu mỏ lấy giẻ
quấn chân lại, nó còn “buông” một đòn khiến con Mã Mái giãy lên đành đạch
[54, tr.71 - 72].
48
Có thể nói trước cách mạng tháng tám, Kim Lân đã tạo ra nét riêng bằng
những truyện nghiêng nhiều về phía phong tục, trình bày cặn kẽ những thú chơi
lành mạnh ở thôn quê. Và qua những truyện ngắn này, nhà văn còn hướng đến
việc biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân trước cách mạng tháng tám. Họ là
những con người tài hoa, bặt thiệp. Có khi họ đặt tất cả niềm say mê hứng thú
vào một thú chơi:
Cả Chuẩn mê thích gà chọi lắm. Suốt ngày chỉ lăn lóc với gà. Ngay từ tờ
mờ sáng, chưa dậy được, nằm trên giường, ông đã để ý xem hôm nay con chuối
gáy mấy tiếng, con Bạch Nhạn gáy mấy tiếng. Có được mạnh mẽ không? Ông mê
đến nỗi chẳng thiết làm ăn gì cả. Chỉ khổ bà Cả và cô Tưởng. Hai mẹ con đầu tắt
mặt tối, ngược xuôi, tần tảo lấy tiền về nuôi gia đình. Thằng cu Trạm lớn rồi vẫn
không được đi học. Phải ở nhà hầu hạ bố, nói là hầu hạ gà mới đúng. Lúc nào nó
cũng la cà ngoài bờ ruộng bắt nhái, hoặc cào cào, châu chấu đem về cho gà ăn.
Thằng bé đầy nắng đen sạm hẳn đi [54, tr.60].
Giữa lúc cuộc sống nhọc nhằn bức xúc ở nông thôn, những trang viết của
Kim Lân mang đến cho người đọc những cảm nhận mới: sau luỹ tre làng, người
dân quê sống lam lũ nhưng họ vẫn có những nỗi niềm hạnh phúc trong những thú
chơi tao nhã. Đó là niềm vui của Trưởng Thuận khi mua được đôi chim tốt, của
Cả Chuẩn khi đúc được một lứa gà chọi đầy hứa hẹn:
Rồi con Củi Tạ đẻ. Mỗi lần nghe nó “cục ta cục tác” hoà với hai con gà
trống kêu inh nhà lên, ông Cả lại vui sướng rộn rã. Có bận, chừng chếnh choáng
say, ông liếc bà, tủm tỉm nói lỡm:
- Đấy, bà mày nghe xem. Có phải con gà mái kêu: “Vừa đau vừa rát! Vừa
đau vừa rát!” thì con gà trống ở đâu te tái chạy lại dỗ dành: “Ai cũng thế! Ai
cũng thế! Ai cũng thế!” không?
(…)
Dứt lời ông cười ha hả.
Vả lại ông cũng không muốn ngủ, cứ thích ngồi rù trong chăn bông bên
ngọn đèn hút thuốc lào vặt và chú trọng nghe tiếng gà con chiêm chiếp, xao xác
đến vui tai [54, tr.69 - 70].
49
Trong các truyện ngắn viết về những sinh hoạt văn hoá của Kim Lân, hình
ảnh người dân quê là những con người thông minh và tài hoa. Họ quan niệm:
“Sống ở trên đời mà bo bo đồng tiền, chẳng biết ăn chơi là cái gì, chết thì cũng
hai tay buông xuôi, dễ mang được của đi chắc” [54, tr.59]. Họ không bị ám ảnh
bởi cái ăn, nỗi lo sưu thuế như trong truyện ngắn của Nam Cao, Ngô Tất Tố,
Mấy hôm nay, ở mé đình, suốt từ sáng đến tối, thỉnh thoảng lại
thùng thùng nổi lên ba hồi chín tiếng. Lối trống đánh gióng ba, đã
vì thói quen đời đời mà đưa vào bộ óc dân một ý nghĩa thúc giục.
Nguyễn Công Hoan…
Làng Việt Nam vốn quanh năm bình tĩnh hồi trống ấy lại luôn luôn làm
huyên náo ầm ỹ cho người ta sợ thêm, trong khi người ta đang sợ thuế. Người ta
sợ thuế, vì người ta lo không biết lấy đâu ra được tiền. Để dành gạo ăn đến hôm
sau cũng khó, huống chi một món tiền vài đồng bạc để nộp công sưu. Người ta sợ
thêm, vì nghĩ đến nỗi khủng bố mọi năm của tiếng quát tháo, chửi rủa, của sự
đánh đập, hình phạt, của những hơi thở dài ngầm vụng đàn bà con trẻ trong xó
tối, của những tiếng khóc rên rỉ người thiếu thuế ở góc đình [29, tr.147].
Trong các truyện ngắn viết về những sinh hoạt văn hoá, Kim Lân không làm
công việc khảo sát mà mô tả bằng con mắt của một nhà văn. Ở các truyện ngắn
Đôi chim thành, Con Mã Mái, người đọc có thể cảm nhận rất rõ không khí của
những ngày hội quần chim, chọi gà:
Dưới mái đình, những chiếc giải gà buộc lõng thõng. Ba chiếc giải: nhất,
nhì, ba; và năm sáu chiếc giải lèo. Những vuông lụa điều uốn éo nhẹ nhàng
trong cánh gió. Cu Trạm say sưa nhìn. Nó mơ ước một chiếc thắt lưng, trong khi
mọi người chàng màng tìm gà kháp đá [54, tr.85 - 86].
Có khi, người đọc bị cuốn hút thật sự vào một cuộc kịch chiến giữa con Hoa
Mơ của Tư Méo với con Mã Mái của Cả Chuẩn (Con Mã Mái). Để có được
chiến thắng, Cả Chuẩn đã mất ăn, mất ngủ, dành bao công sức, tâm huyết cho
con Mã Mái. Qua những trang viết về các thú chơi như: quần chim, chọi gà…
Kim Lân đã mô tả những thú chơi này một cách chính xác và tỉ mỉ. Nhưng ông
50
không dừng lại ở đó mà đi sâu vào thể hiện tâm trạng của người chơi chim, chơi
gà chọi. Có những trang viết Kim Lân đã hoà nhập vào nhân vật để diễn tả tâm
trạng các nhân vật một cách sâu sắc. Trong truyện ngắn Con Mã Mái, Cả Chuẩn
đã “mê man” đến quên ngủ ngắm con Mái Ô sò mãi đến khuya:
Cả Chuẩn trằn trọc không sao ngủ được. Ông cứ nghĩ lẩn quẩn về con gà
mái mới mua, và tưởng tượng bao nhiêu chiến công rực rỡ của đàn con nó sau
này. Mãi đến gần sáng, mới chợp đi được một lúc. Trong giấc mơ, ông chập
chờn thấy toàn những gà là gà [54, tr.64].
Cũng như Cả Chuẩn, Trưởng Thuận cũng “lử đử sốt” vì mất đôi chim quí.
“Xem chừng ông tiếc đàn chim lắm, nhất là đôi chim thành. Thỉnh thoảng ông lại
gọi cu Tạm hỏi chim đã về được con nào chưa” [54, tr.42]. Say mê những thú
chơi tao nhã, người dân quê hoà mình vào không khí lễ hội, họ quên đi những vất
vả của cuộc sống hàng ngày. Họ có thể “ngồi ngửa mặt lên trời” ngắm chim một
cách “mê man, quên cả sức nóng thiêu người của trưa mùa hạ”. Ở các nhân vật
Trưởng Thuận, cụ Tú, Cả Chuẩn, Hương Thân, Tư Chuyên… người đọc đều
nhận thấy ở họ có chung một nét tính cách. Đó là sự thông minh, hóm hỉnh và tài
hoa. Có thể nói, trong các truyện ngắn viết về đề tài những sinh hoạt văn hoá của
Kim Lân, người dân quê được thể hiện hoàn toàn khác so với hình ảnh người
nông dân trong các tác phẩm của Tự lực văn đoàn. Họ không phải là những
Mỗi lần nhìn người nhà quê nhem nhuốc ngồi bệt xuống đất, bên những đống rác hôi hám, hàng bán lèo
tèo mấy thứ quà vặt bẩn thỉu, đầy các bụi và mỗi lần ngửi thấy mùi quần áo, mùi mồ hôi của người lẫn với trăm
nghìn thứ mùi khác ở các hàng xông lên, Doãn có cái cảm tưởng khó chịu về sự bất dịch của xã hội quê, bao giờ
cũng khốn nạn, cũng xơ xác.
người bẩn thỉu, dốt nát như trong Hai vẻ đẹp của Nhất Linh:
Mô tả phong tục, Kim Lân có thể đi vào những khía cạnh khác nhau của
cuộc sống nông thôn. Trong truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, mẹ Tư với thầy
Tư lấy nhau không phải vì tình cảm. Họ lấy nhau vì nhu cầu cần có sức lao động
để làm nông nghiệp. Đây là một nhu cầu khá phổ biến trong các gia đình ở nông
thôn thời trước:
51
Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả
bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba
mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là
người quê mùa, nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ
Nhà văn Kim Lân từng nói:
chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc [54, tr.26].
Đất có lề quê có thói, văn hoá được tích tụ từ hàng nghìn năm, hàng trăm
năm. Nó tồn tại và phát triển trong mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi làng xã…
và từng làng được ghép thành cộng đồng, thành dân tộc, quốc gia… văn hoá
phải thuộc về một xã hội đang sống, chứ không phải cái gì cố định. Văn hoá,
hoặc như ta nói đất lề quê thói, không phải mỗi lúc mà có, cũng không phải mỗi
lúc mà mất được [1, tr.88].
Viết về phong tục, Kim Lân tiếp cận đề tài này ở nhiều phương diện khác
nhau. Trong truyện ngắn Đuổi tà, tác giả đã tái hiện một cách sống động tập tục
đuổi tà trừ ma mang đậm màu sắc dân gian. Đuổi tà là một tập tục đã gắn bó, ăn
sâu vào đời sống tâm linh của người dân quê. Mọi người ai cũng hiểu việc đuổi
tà có ảnh hưởng đến sự thịnh đạt suy vi của cả dân làng. Với vốn hiểu biết và sự
quan sát tinh tế, Kim Lân đã tái hiện một cách tỉ mỉ, sinh động nghi thức cúng lễ
và sinh hoạt tâm linh của người dân quê. Đây là cảnh chuẩn bị cho nghi lễ đuổi tà
đầu năm:
Các cậu lặng lẽ bày các thứ xuống chiếu dưới một mâm gạo trắng, một đĩa
muối, hai đĩa xôi, một con gà sống luộc chín vàng ửng uốn theo hình con
phượng, ở mỏ có cắm một chiếc hoa hồng, và một thúng toàn những thanh tre
vót sẵn.
- Đủ cả đấy chứ?
- Đủ cả đấy ạ.
- Một cậu mài cho tôi một đĩa mực. Một cậu mài cho tôi một đĩa son nhé.
- Vâng.
- Còn chỗ gạo, hai cậu đỗ lẫn muối vào trộn cho đều rồi xúc ra bốn cái đĩa
con [54, tr.125].
52
Còn đây là cảnh đuổi tà pha chút rùng rợn, huyền bí có nhiều
người tham gia:
Đến đền, ông tự Năm treo chiếc đèn cho cậu nhà oản, rồi sấn bước tiến lên trước. Một tay cầm kiếm gỗ,
một tay cầm cây gậy tầm xích, mắt nhìn thăm thẳm về phía trước như soi mói trong khoảng không những hình
ảnh vô hình…Ông tự xăm xăm tiến vào trong đền, cắm cây gậy tầm xích vào chiếc giá đặt trước hương án. Ông
tự Năm tay bắt quyết, miệng hô như quát tháo, ông chạy sầm sầm đủ bốn gốc đền. Trong khi ấy, bốn cậu nhà
oản chia ra bốn nơi ném gạo muối tứ tung. Và ông tự đã chờ sẵn từ trước, khua chiêng trống ầm ầm. Bỗng ông
tự Năm sầm sầm chạy ra ngoài sân đền. Bốn cậu nhà oản chạy theo ném gạo muối.
Ông tự miệng quát tháo, tay bắt quyết và giơ nắm hương thư
phù lên nền trời. Đốm lửa đỏ vạch những nét ngoằn ngoèo trong
bóng tối. Bốn cậu nhà oản chia nhau dựng bốn chiếc bùa bên bốn
cột cái nhà tiền tế [54, tr.128 - 129].
Qua nghi lễ đuổi tà, người đọc nhận ra quan niệm của người dân quê: những
sinh hoạt tâm linh luôn hỗ trợ cho hoạt động vật chất của con người. Và con
người muốn lợi dụng sức mạnh siêu nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình.
Sau những nghi lễ ấy, cuộc sống con người như thuận lợi, tốt đẹp hơn. Nỗi niềm
hạnh phúc thấm đẫm trong từng cảnh vật và mỗi con người:
Cảnh vật như thấm nhuần một nguồn sống mới mẻ. Mấy cây đa hai bên hồi
đền vừa đổi lá. Những búp non hồng hào mẫm mạp vươn lên hớp lấy ánh sáng,
lấy khí trời. Trẻ con hớn hở trong áo mới, sự sung sướng bồng bột, hồn nhiên
trên nét mặt ngây thơ. Tiếng chúng nó vang vang trong gió. Đôi lúc những xác
pháo hồng bay tung lên như muôn nghìn bông hoa đỏ quấn quít cả những tà áo
mới. Hạng lớn hớn hở hơn thì túm năm tụm ba mê mẩn với quân bài. Những cô
gái đến thì e lệ trong áo mới theo mẹ ra đền lễ thờ với một niềm vui kín đáo.
Những cậu trai mới lớn hãnh diện với điếu thuốc lá phậm phè trên môi. Các bô
lão, mặt đỏ gay, hể hả được ngày say tuý luý. Ai ai cũng vui. Tất cả những vẻ
đăm chiêu vì cuộc sống hàng ngày không còn vương trên mặt họ lúc này [54,
tr.130].
53
Họ sống chan hoà với nhau quên đi những tị hiềm trước đó. Hạnh phúc của
người dân quê thật đơn giản và mộc mạc. Cứ như thế, những trang viết của Kim
Lân đưa người đọc đến với không khí ngày xuân mang đậm sắc thái của làng quê
Bắc Bộ.
Như đã trình bày ở phần trước, trong các truyện ngắn lấy cảm hứng từ
những sinh hoạt văn hoá ở làng quê, Kim Lân đã phát hiện những nét tài hoa ở
những con người vào hạng dân thường, thậm chí nghèo khổ thất thế trong xã hội.
Đó là những nét tài hoa trong những thú chơi như: nuôi gà chọi, nuôi chim, tạo
dựng vườn cảnh, trong môn võ vật… Các nhân vật như Cả Chuẩn (Con Mã
Mái), Trưởng Thuận (Đôi chim thành), Ông lão làm nghề múa rối rong (Anh
chàng hiệp sĩ gỗ)… không có điều kiện tích luỹ kinh nghiệm và phát triển tài
hoa trong các thú chơi tao nhã như các nhân vật của Nguyễn Tuân trong Vang
bóng một thời. Ở các nhân vật của Kim Lân, cái tài hoa là cái tài hoa dân dã, tài
hoa của người dân quê. Dù có điểm khác nhau nhưng khi viết về các thú chơi
được coi là tao nhã, cả Kim Lân và Nguyễn Tuân đều xem những thú chơi này là
hiện thân của cái thiện, cái mỹ và nó có khả năng di dưỡng tâm hồn con người.
Xưa nay, con người dù là con người ở phương Đông hay ở phương Tây, vẫn
được coi trọng về cả hai mặt: phẩm chất đạo đức và tài năng. Đạo đức là phẩm
chất phổ biến ở con người, ai cũng có thể đạt được tuy ở những mức độ khác
nhau nhưng phẩm chất tài năng thì không phải ai cũng có thể có được, đạt được.
Phẩm chất đạo đức thể hiện trong sự tự ứng xử hàng ngày với bản thân và trong
quan hệ với đối tượng bên ngoài. Nó làm cho con người tốt hơn, đúng đắn hơn.
Phẩm chất tài năng giúp nâng cao giá trị con người, là yếu tố cần thiết để con
người tạo dựng sự nghiệp lớn. Thông thường, phẩm chất tài năng luôn đồng hành
với phẩm chất đạo đức, lấy phẩm chất đạo đức làm cơ sở, làm nền tảng. Tuy
nhiên, thực tế cuộc sống vô cùng đa dạng nên có nhiều trường hợp diễn ra không
theo sự thông thường đó. Có những hiện tượng giao lưu, kết hợp trái chiều kiểu
“có tài hay có tật”, “ ngựa chứng bất kham”, nhất là khi bị chi phối bởi quan
niệm “coi mặt mà bắt hình dong”. Ở những hiện tượng này, nếu chỉ dựa vào trực
cảm trước những biểu hiện bề ngoài của đối tượng hoặc những lời bình phẩm dễ
54
dãi về đối tượng sẽ không thấy được những yếu tố nhân tính tốt đẹp của con
người.
Nếu như Nam Cao đã phát hiện ra cái đốm sáng “muốn làm người lương
thiện” của Chí Phèo (Chí Phèo - Nam Cao) trong hoàn cảnh bị cái xã hội Bá
kiến, Lý Cường, Đội Tảo… làm cho mất hết nhân tính thì Kim Lân trong những
trường hợp thông thường, dễ gặp hơn đã nhận ra những nét đẹp về tâm hồn, về
tài năng của con người như: cụ Cả Lẫm (Ông Cản Ngũ), đô Tàn, đô Lọng, đô Cờ
(Cầu đánh vật), ông lão làm nghề múa rối rong (Anh chàng hiệp sĩ gỗ), Tần,
Trần Thái Tông (Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật),… Những nét
đẹp đó được bộc lộ một cách âm thầm lặng lẽ nhưng vẫn toả sáng lấp lánh. Nhận
ra được những phẩm chất cao đẹp của con người ẩn sâu sau bao lớp vỏ ngoài bề
bộn trôi nổi không chỉ là kết quả là của tài năng khám phá, không chỉ là sự bén
nhạy của cảm quan nghệ thuật, mà chủ yếu và đóng vai trò quyết định chính là
cái “thiên lương” của nhà văn.
Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt
Nam hiện đại. Cảm hứng sáng tác của Kim Lân tập trung vào hai mảng đề tài
lớn: cuộc sống, tâm tư tình cảm của những kiếp người nghèo khổ và những sinh
hoạt văn hoá cổ truyền ở nông thôn. Dù viết không nhiều, nhưng trước và sau
cách mạng tháng tám Kim Lân đều có tác phẩm hay. Truyện của Kim Lân viết về
những con người và những cảnh đời nhưng thấp thoáng trong mỗi truyện, người
đọc tinh ý sẽ nhận ra ở đây đó những dấu vết của con người và cuộc sống của
nhà văn. Cảm hứng sáng tác của Kim Lân xuất phát từ tấm lòng trắc ẩn, niềm
yêu thương, tinh thần trân trọng con người và cuộc sống của con người.
Đọc truyện Kim Lân, một số người cho rằng: ngoài cảm hứng sáng tác
thông thường, nhà văn còn có cảm hứng văn hoá và lịch sử. Cũng có nhà nghiên
cứu xếp Kim Lân vào hàng ngũ những nhà văn “ phong tục ”. Bên cạnh đó,
người đọc cũng nhận ra trong các truyện ngắn viết sau năm 1945 các sự kiện
được tác giả đề cập thường là những sự kiện có ý nghĩa xã hội - lịch sử như: nạn
đói năm 1945, cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám (Vợ nhặt); hoạt động
tản cư, sinh hoạt của cán bộ và nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
55
(Con chó xấu xí, Làng); phong trào cải cách ruộng đất (Ông lão hàng xóm,
Người chú dượng); phong trào hợp tác hoá nông nghiệp (Ông Cả Luốn gốc me);
chuyện sơ tán, chống chiến tranh phá hoại trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
(Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, Bà mẹ Cẩn)… Ở các truyện ngắn
này, đời sống các nhân vật được Kim Lân phản ánh luôn gắn liền với vận mệnh
đất nước. Đây là cơ sở để nhà văn thể hiện trung thực, sâu sắc tâm lý, tính cách
con người.
Truyện của Kim Lân là truyện “nhân thế” (từ dùng của Hoài Anh). Cảm
hứng sáng tác của Kim Lân là cảm hứng về con người trong cuộc đời. Để làm nổi
bật tính cách của nhân vật, có khi nhà văn đã mở rộng dung lượng của truyện,
đưa vào một số sự kiện hoặc chi tiết, nhất là ở những truyện khắc hoạ cái tài hoa
của con người. Đặc điểm này thể hiện rất rõ ở các truyện: Cầu đánh vật,
Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật… Ở truyện Cầu đánh vật, bên
cạnh người trần thuật kể chuyện ở ngôi thứ nhất xưng tôi, Kim Lân để cho đô
Cót kể hết chuyện các ông đô vật lừng danh cả khi về già là đô Tàn, đô Lọng, đô
Cờ đến chuyện chàng trai Ngựa Lồng và cô gái Voi Cái nhằm làm nổi bật lòng tự
hào đến kiêu hãnh rất mực của ông đô hết thời này đối với truyền thống vật rực
rỡ của làng ông. Ở truyện Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật, bện
cạnh việc thể hiện cái tài ba dũng lược của Trạng Sặt, nhà văn còn đưa vào nội
dung tấm lòng thuỷ chung cao đẹp trong tình yêu đôi lứa của cô gái thôn quê
hiền thục (Tần) và của vị đứng đầu trăm họ (Trần Thái Tông). Ở những truyện
khác cũng có hiện tượng này nhưng mức độ thấp hơn. Có lẽ đây là lý do dẫn đến
đặc điểm truyện của Kim Lân vượt qua giới hạn mà lý luận văn học đã xác định
cho thể tài truyện ngắn. Và những đặc điểm này, ít nhiều đã tạo nên đặc điểm
nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân.
56
Chương 2
PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA KIM LÂN
2.1. Các vấn đề về phương thức trần thuật trong loại hình tự sự
2.1.1. Khác với tác phẩm trữ tình, tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong
tính khách quan của nó. Tính khách quan được xem là “nguyên tắc tái hiện đời
sống và thuyết phục người đọc” [37, tr.375] . Tính khách quan là một thuộc tính
của thế giới nghệ thuật so với tính chủ quan của nhà văn. Khái niệm tính khách
quan trong tác phẩm tự sự là nội dung mang tính tương đối. “Đứng về bình diện
triết học, tác phẩm văn học là sự tái hiện đời sống khách quan thông qua sự nhận
thức, khái quát, đánh giá, thể hiện mang tính chủ quan của người nghệ sĩ, là sự
thống nhất biện chứng giữa chủ quan và khách quan” [57, tr.375]. Trong tác
phẩm tự sự, người trần thuật kể lại những gì xảy ra bên ngoài mình, tách biệt với
hệ chính nó, với nhà thơ và cả với người đọc… Ở đây không thấy nhà thơ; thế giới được xác định một cách lập thể, tự nó
phát triển, và nhà thơ dường như chỉ là người trần thuật giản đơn những gì đã tự nó xảy ra” [dẫn theo 57, tr.375].
Như vậy, tính khách quan trong tác phẩm tự sự là “ảo giác nghệ thuật về tính khách quan của văn học, là cái khách
quan mang tính thứ hai, so với tính khách quan triết học có tính thứ nhất” [57, tr.375].
2.1.2. Tác phẩm tự sự bao giờ cũng gắn liền với viễn cảnh tường thuật (phương thức trình bày) mà tác giả lựa
chọn để thể hiện những tư tưởng muốn diễn đạt trong tác phẩm. Theo Đinh Trọng Lạc, các tác giả có thể chọn các
phương thức: “Một là đồng nhất mình với bức tranh thực tế khách quan do mình tạo ra và hoà tan mình trong đó, hai
là tách mình ra khỏi bức tranh đó ở khoảng cách xa nhất và tạo ra một khoảng cách giữa mình với cái được miêu tả”
[40, tr.162]
Từ quan điểm trên và những biến thể của viễn cảnh thuật trong văn xuôi nghệ thuật, tác giả Đinh Trọng Lạc
rút gọn lại thành hai dạng viễn cảnh tường thuật:
Viễn cảnh tường thuật bao quát và viễn cảnh tường thuật tập trung. Trong viễn cảnh tường thuật bao quát
(hay còn gọi là không bị hạn chế) tác giả tách mình ra khỏi cái được miêu tả, tác giả dường như đứng ở trên các biến
mình [14, tr.148]. Bêlinxki khẳng định: “Thơ tự sự chủ yếu là thơ khách quan, bề ngoài cả trong quan
57
cố và các nhân vật, thực tế là tác giả có thể chuyển một cách tự do từ một chi tiết truyện này sang một chi tiết truyện
khác cả về mặt liên tục tuyến tính của không gian - thời gian cả về mặt phụ thuộc qua lại chiều dọc của nguyên nhân
- hệ quả. Trong viễn cảnh tường thuật tập trung (hay còn gọi là bị hạn chế) tác giả tiến hành sự mô tả nghệ thuật,
dựa vào bình diện cá nhân, dựa vào bình diện của “chủ thể người tường thuật” hoặc vào bình diện của “chủ thể -
nhân vật”. Người tường thuật được nêu trong văn bản có một thái độ nhất định đối với hành động nghệ thuật. Còn
nhân vật cũng đồng thời xuất hiện cả trong vai người tường thuật và do đó cũng có một thái độ nhất định đối với
hành động nghệ thuật [40, tr.162].
Cũng theo tác giả Đinh Trọng Lạc, hai dạng viễn cảnh tường thuật bao quát và viễn cảnh tường thuật tập trung
“có thể phối hợp trong những hình thức rất đa dạng” [40, tr.162 - 163]. Và “viễn cảnh tường thuật trong sự kết hợp
với cấu trúc văn bản cụ thể, cung cấp một kiểu tường thuật nhất định” [40, tr.164]. Các kiểu tường thuật đó là:
“Tường thuật của tác giả được khách quan hoá, câu chuyện đã được chủ quan hoá” và “ sự phối hợp giữa tường
thuật khách quan hoá và câu chuyện chủ quan hoá” [40, tr.164 - 165].
Trong tác phẩm tự sự, trần thuật bao giờ cũng được tiến hành bởi một người nào đó và với một tư thế nào đó.
Chủ thể trần thuật đóng vai trò giới thiệu, miêu tả, thuyết minh đối với sự kiện, nhân vật theo cách nhìn của người
trần thuật để định hướng, cắt nghĩa, “mách nước” cho người đọc. Do đó, trong tác phẩm tự sự, hình tượng người kể
chuyện không chỉ tái hiện cái được kể mà còn tái hiện người kể. Lựa chọn phương thức trần thuật là lựa chọn cách kể
và tư thế dẫn truyện của nhà văn. Phương thức trần thuật khách quan, phương thức trần thuật chủ quan hay sự phối
hợp hai phương thức trần thuật khách quan với phương thức trần thuật chủ quan đều là những phương thức phản ánh
đời sống. Các phương thức này không chỉ thực hiện nhiệm vụ kể chuyện mà còn bộc lộ cá tính, tài năng và phong
cách nghệ thuật của nhà văn.
2.2. Phương thức trần thuật khách quan trong truyện ngắn của Kim Lân
Khảo sát 28 truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy có hai phương thức trần thuật cơ bản: phương thức
trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan. Ngoài ra, ở một số truyện, phương thức trần thuật có sự
phối hợp giữa phương thức trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan.
Trong lịch sử của loại hình tự sự, phương thức trần thuật khách quan không phải là thủ pháp nghệ thuật mới
mẻ mà phương thức trần thuật này xuất hiện rất sớm và hiện diện với một tần số rất cao. Đây là phương thức trần
thuật “vô nhân xưng” được tiến hành từ “một người lạ” đầy quyền uy, hiểu biết, định đoạt và đoán trước được tất cả
58
những gì liên quan đến câu chuyện: tình tiết, xung đột, các mối quan hệ và cả thế giới nội tâm của nhân vật. Ở
phương thức trần thuật này, người kể chuyện không can dự vào câu chuyện và “thường ít để lại dấu vết riêng của
mình, cả về phương diện nội dung tinh thần và hình thức ngữ pháp trong văn bản” [92, tr.149]. Theo Đinh Trọng
Lạc: “Trong tuyến tường thuật khách quan hoá, người tường thuật không được biểu thị trong văn bản, dẫn dắt câu
chuyện từ ngôi thứ ba. Người tường thuật không thuộc vào các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật, không gian và
hành động nghệ thuật, mà chỉ đứng sau hành động đó để quan sát” [40, tr.165].
Cũng cùng quan điểm này, Huỳnh Như Phương khẳng định:
Trong phương thức khách quan, sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của một người quan sát đứng ở
một góc độ nhất định nào đó. Trong trường hợp này, người trần thuật là người chứng kiến tất cả những gì mà người
ấy kể lại. Chỉ những hành động và sự kiện nào được người trần thuật tiếp cận từ phía của mình mới được miêu tả
[20, tr.201].
Theo các quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy: trong 28 truyện ngắn của Kim Lân có đến 20 truyện tổ chức
trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan. Đi vào khảo sát 20 truyện này, chúng tôi nhận thấy ở phương thức
trần thuật khách quan, truyện ngắn Kim Lân gồm các kiểu trần thuật sau:
2.2.1. Kiểu người trần thuật lạnh lùng
2.2.1.1. Đặc điểm nổi bật của tác phẩm tự sự là kể về một câu chuyện, một sự kiện về phía người khác. Đặc
điểm này đã tạo cho tác phẩm tự sự có cái nhìn khách quan đối với câu chuyện, sự kiện được kể . Ở kiểu trần thuật
lạnh lùng, dù người trần thuật chỉ miêu tả “những gì nằm dưới tầm quan sát của anh ta, những gì mà chính anh ta
trực tiếp cảm thấy hay nghe thấy” [20, tr.201] nhưng bao giờ người kể cũng luôn tách mình ra khỏi diễn biến của câu
chuyện và tạo một khoảng cách nhất định đối với câu chuyện được kể. Bên cạnh đó, ở kiểu trần thuật này, người kể
chuyện luôn luôn “ hướng sự quan tâm của người đọc đến những sự kiện cùng các tính chất của chúng mà không bày
tỏ thái độ của mình” [40, tr.165].
2.2.1.2. Trong 28 truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy tác giả sử dụng khá nhiều kiểu người trần
thuật lạnh lùng. Số lượng truyện ngắn sử dụng kiểu trần thuật này lên đến 19/28 truyện. Chúng tôi xin đề cập đến một
số truyện ngắn tiêu biểu.
Truyện ngắn Cô Vịa viết về cuộc đời đau khổ bất hạnh của nhân vật chính (Vịa). Ngay từ nhỏ, cuộc đời Vịa
đã chịu nhiều thiệt thòi: mẹ chết, cha lấy kế mẫu, cô sớm phải sống kiếp mẹ ghẻ con chồng, bị hành hạ khổ sở. Lên
59
mười tuổi, cha chết, “cô phải theo ông Đồ - anh con bác - lên phố huyện Đức Thắng buôn bán”. Cô “dành dụm được
gánh hàng xén khá nặng”. Nhưng rồi, kể từ ngày anh phải lòng anh Ấp bán dừa, cô trở nên “ đỏm dáng xa hoa” rồi
cuốn gói theo “tiếng gọi của ái tình”. Sau khi bị lừa tình, cô trở nên thân tàn ma dại:
Da vàng sủng, bấm ra nước. Cái váy đụp cũn cỡn để hở mấy vết chó cắn. Nước vàng rỉ ra loang lổ đọng trên
cặp chân gầy guộc [42, tr.6 phụ lục].
Kể về những bất hạnh của nhân vật Vịa, chủ thể kể luôn giữ một khoảng cách nhất định với câu chuyện. Sự
tách mình ra khỏi diễn biến câu chuyện và thái độ “lạnh lùng” của chủ thể kể còn thể hiện rõ ở những đoạn đùa cợt
nhẫn tâm của nhân vật Ứng đối với Vịa:
Tuy Vịa trách, Ứng biết Vịa vẫn còn hoài nghi, chưa tin anh ba nuôi nói là thật. Chàng tự nghĩ: “Nếu chẳng
nghi nó còn trách mình làm gì? Chẳng qua nó muốn dò hỏi mình đây. Đã thế nhân cơ hội này, mình nói dối lần
nữa”. Ứng vờ giận dữ:
- Việc gì mà xấu hổ? Cô tưởng tôi nói dối chắc… đây này…
Chàng móc túi lấy tờ giấy gấp tư chép bài vọng cổ, vừa giở vừa nói:
- Anh phán đường mới gửi thư cho tôi. Cô chẳng tin tôi đọc cho mà nghe. Rồi Ứng tự ý bịa ra, đọc: Nay tôi có
mấy nhời lên hỏi thăm, anh được mạnh khoẻ tôi mừng. Còn về phần tôi vẫn được như thường. Và nhờ anh một việc
như sau: anh làm ơn bảo giùm cô Vịa hộ tôi rằng nếu cô ấy không khoe khoang nữa, thì đến ngoài giêng tôi sẽ ném
túi giầu. Đấy có tin không? [42, tr.9 phụ lục].
Cũng như nhân vật Ứng, chủ thể kể tỏ ra “vô cảm” trước tình cảnh đáng thương của nhân vật Vịa. Đây là thái
độ tỉnh táo, kìm nén cảm xúc của người kể chuyện trước những bất hạnh chồng chất và bi kịch của nhân vật. Thái độ
này đã tô đậm thêm tính khách quan của câu chuyện. Từ đó, câu chuyện gợi ở người đọc nỗi xúc động mạnh mẽ về
cái chết thảm thương của một con người trên đường đi tìm hạnh phúc.
Ở truyện ngắn Cơm con (1943), tác giả sử dụng hình thức ngôi kể thứ ba (chủ thể kể vô nhân xưng). Người kể
chuyện trần thuật từ điểm nhìn người quan sát có một khoảng cách nhất định với câu chuyện được kể. Ở vị trí này,
người kể “giả vờ” không dính líu đến các sự kiện diễn ra trong câu chuyện, “thờ ơ” trước thái độ, hành động và lời lẽ
ngang ngạo của đứa con bất hiếu (cả Anh) đối với cụ Nhiêu:
Tức thì cả Anh quát bố:
- Khổ lắm nó đòi thì tôi cho nó ăn hộ tôi một tý. Giữ làm gì… Rõ cái nợ!
60
Không nhịn được nữa, cụ Nhiêu sa sầm mặt lại, hỏi:
- Anh bảo ai là cái nợ hử?
- A! Ông vặn lý tôi phỏng? Ai là cái nợ? Ai là cái nợ ông biết đấy!
Chính tâm hắn cũng không bảo ông cụ thật; vả từ xưa đến nay cụ Nhiêu chỉ biết phục tòng. Lần này bị hỏi
vặn, hắn cho là bố định gai sự với mình. Hắn tức lồng lộn lên, mặt tím bầm lại, miệng sầu bọt mép, lu loa như đàn
bà:
- Sao mà tôi nặng quả kiếp thế này! Tôi đến chết mất thôi chứ không sao sống được!
- Chết đi! Mày thử chết ông xem nào!
-A! ông rủa tôi chết phỏng? Này chết này! Này chết này! [54, tr.551- 552].
Ở đoạn văn trên, người đọc hầu như không nhận thấy thái độ của người kể chuyện. Chủ thể kể đã tách mình ra
khỏi câu chuyện để cho nhân vật tự bôc lộ tính cách qua ngôn ngữ và hành động.
Ở những đoạn văn khác, người đọc cũng có thể nhận thấy điểm nhìn của người trần thuật đối với sự kiện cũng
không thay đổi. Trong đoạn miêu tả thái độ, hành động của cô con dâu cụ Nhiêu sau những lời lẽ và hành động của
chồng mình, tác giả viết:
Mụ vợ lạch bạch từ nhà dưới chạy lên, mặt tái mét vừa thở, vừa kêu:
- Ối làng nước! Ới giời đất ơi! Ơi bố ơi là bố ơi! Khổ quá:
Cả Anh vẫn như mê man, mồm gào tay đập. Mụ vợ tiếc của, ôm chồng ru ngã xuống giường.
Cụ Nhiêu cuống quá sinh quẫn, lập cập nhặt những mảnh vỡ chắp chắp, nối nối. Mụ nguýt bố chồng:
- Chắp với chả nối… [54, tr.552 - 553].
Ở đây, người kể đã tô đậm thêm tính khách quan của câu chuyện tạo cho người đọc những suy nghĩ đánh giá
của riêng mình. Cũng với những đặc điểm của kiểu trần thuật này, người kể đã tạo ra sự đối lập có ý thức, khi kết
thúc truyện bằng một đoạn thể hiện tâm trạng cụ Nhiêu và hình ảnh Kề nhớn ra rả bài học luân lý:
Chiều đã tàn. Bóng tối nhờ nhờ bao trùm cảnh vật. Cụ Nhiêu ngồi âm thầm ở xó thềm. Gió nhẹ thổi lùa qua
kẽ rại kêu vù vù như tiếng thở dài bất tận. Chiều tàn thê lương quá. Thê lương như chuỗi ngày tàn cục của ông già
tuổi tác. Những giọt lệ vẫn âm thầm lăn trên gò má răn reo.
Trong khi ấy, ở mãi tận góc nhà, bên ngọn đèn hoa kỳ vàng kệnh, thằng Kề nhớn ra rả học bài luân lý:
- Bổn phận đối a với a cha mẹ. Bổn ư a phận đối a với a cha mẹ…
61
Cách ngôn: cha mẹ nuôi a con bằng a giời bằng bể; con nuôi a cha mẹ con kể từng ngày [54, tr.553].
Ở truyện ngắn này, sự đối lập giữa hành động của vợ chồng cả Anh với bài học luân lý thể hiện rất rõ thái độ
phê phán của chủ thể kể đối với những kẻ sống không có tình người, đạo lý. Ở đây, thái độ phê phán được thể hiện
“là do kết cấu của truyện, chứ không phải do sức gợi hình, gợi cảm của các phương tiện tu từ, bởi vì các từ ngữ”
[40, tr.167]. Và đặc điểm này đã góp phần tô đậm thêm tính khách quan của hiện thực đồng thời tạo được cảm giác tự
do “đồng sáng tạo” ở người đọc.
Khảo sát 28 truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy: đa số các truyện có cảm hứng về những sinh hoạt
văn hoá đều được tổ chức trần thuật theo kiểu trần thuật lạnh lùng. Ở các truyện Đôi chim thành, Con Mã Mái, Chó
săn, Cầu đánh vật, Đuổi tà… đặc điểm của kiểu trần thuật lạnh lùng thể hiện rất rõ. Sử dụng kiểu trần thuật này,
Kim Lân đã tái hiện một cách chân thực, sinh động những sinh hoạt văn hoá phong phú ở vùng thôn quê và thể hiện
vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân. Có thể nói, trong các truyện ngắn viết về đề tài sinh hoạt văn hoá dù được trần
thuật theo phương thức trần thuật khách quan nhưng tấm lòng yêu mến, trân trọng của Kim Lân đối với những giá trị
văn hoá truyền thống vẫn được bộc lộ một cách chủ quan và rõ nét.
2.2.1.3. Trong các truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy: các truyện tổ chức trần thuật theo kiểu trần
thuật lạnh lùng không phải bao giờ cũng được kể một cách hoàn toàn khách quan. Ở một số truyện, để tránh đơn điệu,
đôi khi chủ thể kể xuất hiện ở những lời bình luận, triết lý mang tính chủ quan.
Ở truyện Ông lão hàng xóm, dù chủ thể kể “nói về các sự kiện với một sự yên tĩnh điềm đạm” [74, tr.289],
nhưng thỉnh thoảng chủ thể kể cũng góp chuyện một cách kín đáo ở những lời bình luận mang tính chủ quan. Đây là
một ví dụ trong đoạn miêu tả chị cán bộ làm công tác cải cách ruộng đất và đoạn miêu tả ông lão hàng xóm của Đoàn
(Ông lão hàng xóm):
Chị có vẻ tươi tắn, phấn khởi của người con gái quê mùa mới lớn, gặp được cơ hội tốt, dễ dàng tiến bộ,
nhưng đồng thời cũng bộc lộ ra một vẻ tự đắc học đòi một cách nông nổi [54, tr.226].
Từ ngày cải cách ruộng đất bắt bớ giam cầm những người hoạt động cũ ở đây, ông lão càng hay hát. Hình
như ông lão hát cho đời đỡ quạnh hiu. Hát để thấy rằng mình còn sống ở cuộc đời này và cuộc đời này cũng còn
nhiều ý vị đáng sống [54, tr.248].
Nhận xét về đặc điểm này của truyện ngắn Kim Lân, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đưa ra ý kiến đánh giá
rất có cơ sở:
62
Đọc văn xuôi Kim Lân, ta học được cái thích thú lắng nghe. Lắng nghe người đời nói chuyện và qua đó ta
hiểu dần ra những chuyện đời. Nhà văn lẽ đương nhiên phải kể chuyện, nhưng ông thích giúp ta nghe chuyện và
thỉnh thoảng mới góp chuyện một cách kín đáo, khá kiệm lời và cũng phải nói rằng phong cách ấy cũng chỉ được
đạt tới độ chín đầy đặn trong vài ba truyện ngắn tiêu biểu nhất cho ngòi bút ông. Số lượng thì ít thôi, nhưng đấy là
những mẫu mực đáng hoc [2, tr.65].
Trong các truyện tổ chức trần thuật theo kiểu trần thuật lạnh lùng, chúng tôi nhận thấy thỉnh thoảng chủ thể kể
còn xuất hiện trong những đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật. Ở truyện Đứa con người vợ lẽ, dù truyện trần thuật
theo kiểu trần thuật lạnh lùng như vẫn có đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật mang dấu ấn tự truyện của tác giả:
Tư nghĩ liên miên: anh thấy một niềm oán trách ngấm ngầm trong thâm tâm. Anh oán cha anh, người đã sinh
ra anh mà săn sóc không chu đáo. Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ
cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là
thằng thừa trong gia đình [54, tr.27].
Cũng với đặc điểm này, ở truyện Ông Cản Ngũ, chủ thể kể đã rút ngắn khoảng cách với câu chuyện để ca
ngợi tinh thần thượng võ và tấm lòng vì dân vì nước của cụ Cả Lẫm:
Cụ Cả Lẫm ngồi im trước mâm rượu. Những lời ông Cản Ngũ nói đúng vào ruột gan ông lão. Đúng là keo vật
đến lúc cụ phải đánh đến miếng “móc quai xanh” thì ông cụ có phân vân, suy nghĩ. Người đô vật khi phải đánh đến
những miếng hiểm độc đã là hạ sách rồi. Đấy là nước cùng, của một anh tầm thường, xấu chơi. Huống chi, ông Cản
Ngũ tiếng là đô vật, nhưng ông lại là một ông tướng nghĩa quân của quan Tán, có nên vì một keo vật mà làm hại một
người bấy lâu vì dân vì nước được không? Chính lúc cụ Cả Lẫm còn đang phân vân như thế, thì chợt đã thấy mình bị
ông Cản Ngũ đánh ngã rồi [54, tr.303].
Người đọc có thể tìm thấy khá nhiều đoạn như các đoạn trên ở các truyện tổ chức trần thuật theo kiểu trần
thuật lạnh lùng. Như vậy, ở kiểu trần thuật này, không phải bao giờ chủ thể kể cũng hoàn toàn tách mình ra khỏi câu
chuyện mà đôi lúc khoảng cách giữa chủ thể kể và câu chuyện đã được rút ngắn đáng kể. Sự rút ngắn này đã tạo nên
sự linh hoạt trong cách kể, tránh được sự đơn điệu và tạo ra đặc điểm nhiều giọng điệu. Có thể nói, đặc điểm này ở
truyện ngắn Kim Lân có những mức độ tương đồng nhất định với truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng
tám.
2.2.2. Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật
63
2.2.2.1. Kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật là một kiểu trần thuật trong tuyến trần thuật khách quan. Theo
Đinh Trọng Lạc, ở kiểu trần thuật này “người tường thuật một mặt thì cố gắng tách mình ra khỏi diễn biến của
chuyện, nhưng mặt khác, khi cần thiết thì lại hoà mình vào với những nhân vật để phô bày toàn bộ cái thế giới nội
tâm của con người” [40, tr.168]. Như vậy, ngoài điểm giống nhau với kiểu trần thuật lạnh lùng, đặc điểm nổi bật của
kiểu trần thuật này là chủ thể kể khi cần thiết sẽ thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật để biểu hiện những suy
nghĩ, tình cảm và diễn biến tâm lý. Sự hoà mình của tác giả - chủ thể kể vào nhân vật thường được biểu hiện ở hình
thức lời nói nửa trực tiếp. Lời nói nửa trực tiếp là “lời kể của tác giả - người tường thuật, mà cũng có thể hiểu đó là
lời độc thoại nội tâm của nhân vật” [40, tr.169].
2.2.2.2. Trong 28 truyện ngắn của Kim Lân, kiểu trần thuật này chiếm một số lượng khá nhiều. Chúng tôi xin
đề cập đến một số truyện thể hiện rõ nét nhất.
Ở truyện Anh chàng hiệp sĩ gỗ, chủ thể kể về câu chuyện anh chàng hiệp sĩ gỗ trong cái hòm gỗ của ông lão
làm nghề múa rối rong. Ngoài những đoạn với lời văn trung tính của kiểu trần thuật khách quan, Kim Lân đã hoà vào
nhân vật để bộc lộ thế giới nội tâm của nhân vật:
Nước mắt người con gái tràn ra chẩy dòng dòng trên má. Anh chàng hiệp sĩ bỗng rùng mình, có một cảm giác
rất lạ. Một cảm giác mà khi là gỗ anh không thấy. Một cảm giác làm anh bồi hồi, lo lắng đang chạy rồn rập trong
lồng ngực anh. Anh trông thấy nước mắt. Lần đầu tiên anh trông thấy nước mắt, mà lại nước mắt của một cô gái
ngây thơ, hiền hậu chẩy ra. Anh thấy hình như yếu đuối, hình như những ý chí chiến đấu trong người bấy lâu bị hụt
đi [54, tr.332 - 333].
Ở đoạn trên, chủ thể kể hoà vào nhân vật, nhìn các sự kiện bằng con mắt của nhân vật, thâm nhập vào suy
nghĩ và ấn tượng của anh chàng hiệp sĩ gỗ để biểu hiện sự phân vân và những cảm giác kỳ lạ khi anh lần đầu tiên
được làm người thật. Sự thâm nhập này làm cho cách kể trở nên sinh động và tạo cho người đọc ấn tượng như đang
sống cùng đời sống nội tâm của nhân vật.
Để khắc phục sự đơn điệu, nhạt nhẽo của lời văn trung tính của phương thức trần thuật khách quan, khi cần
thiết chủ thể kể sẽ hoà vào nhân vật và thế giới riêng của nó. Ở trường hợp này, “người trần thuật bắt đầu nhìn thế
giới theo con mắt của một nhân vật, thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của người ấy” [74, tr.290]. Trong đoạn thể
hiện suy nghĩ, ấn tượng của nhân vật Đoàn (Ông lão hàng xóm) về chị cán bộ làm công tác cải cách ruộng đất, nhà
văn viết:
64
Không hiểu sao, nghe chị cán bộ này quát tháo, đoàn không thấy sợ hãi, bực tức hay bối rối trong lòng. Có lẽ
Đoàn nghe mãi quen rồi, có lẽ đối với chị cán bộ này đoàn cũng có ý coi thường, Đoàn đánh giá chị ta chỉ là cốt cán
mới đi công tác độ vài đợt, có đôi điều với chị ta cũng chẳng giải quyết được gì. Xem ra chị ta có quan tâm đến việc
này đâu, quát tháo một hồi ở đây xong, ra ngoài kia nhảy lên cái xe đạp kính coong một hồi là quên hết [54, tr.227].
Kim Lân đã hoà vào thế giới riêng của nhân vật và tác giả như “trao ngòi bút cho nhân vật, để nhân vật tự
viết với giọng điệu riêng của nó” [21, tr.64]. Ở trường hợp này, khoảng cách giữa chủ thể kể và nhân vật dường như
không có và điểm nhìn của chủ thể kể và nhân vật được hoà nhập làm một .
So với kiểu trần thuật lạnh lùng, đặc điểm nổi bật của kiểu trần thuật này là sự hoà mình của tác giả - người kể
vào các nhân vật trong truyện. Sự hoà nhập này đã tạo ra khả năng khai thác triệt để tâm lý nhân vật, và “trong khi
người trần thuật ghé vào một nhân vật nào đó thì phải sử dụng nhiều lời nói nửa trực tiếp, làm cho giọng điệu của
người trần thuật và nhân vật chập làm một” [74, tr.29]. Người đọc có thể tìm thấy nhiều đoạn mà trong đó lời của
chủ thể kể và lời độc thoại nội tâm của nhân vật hoà vào nhau làm một:
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi, lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán
vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con cái là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Con mình thì… Trong kẽ mắt của bà rỉ xuống hai dòng nước
mắt… biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? [54, tr.209 - 210].
Có thể tìm thấy nhiều đoạn tương tự. Ở những trường hợp này, chủ thể trần thuật kể về điều xảy ra nhưng
đồng thời cũng là lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Trong thực tế, lời độc thoại nội tâm của nhân vật và lời thuyết
minh giải thích của tác giả có khi được phân biệt nhưng cũng có khi hoà vào nhau rất khó phân biệt. Trong trường
hợp có sự hoà nhập vào nhau giữa lời kể, lời thuyết minh của tác giả với lời độc thoại nội tâm nhân vật, hình thức lời
nói nửa trực tiếp được sử dụng. Điều này thường dẫn đến sự pha trộn quan điểm của chủ thể trần thuật và nhân vật
trong truyện.
2.2.3. Phương thức trần thuật khách quan và những truyện ngắn mang dấu ấn tự truyện của Kim Lân
2.2.3.1. Như đã trình bày ở phần trước, Kim Lân sinh ra trên mảnh đất “đời tạo văn nhân”, “nhân tài nẩy nở”
nhưng ông không giống nhiều nhân tài ở đất Phù Lưu. Ông có đời sống riêng tư thua thiệt: con người vợ lẽ bị mọi
người xung quanh rẻ rúng, bố mất sớm, nhà nghèo phải bỏ học đi làm… Chính hoàn cảnh thua thiệt và thân phận
hẩm hiu đã thôi thúc Kim Lân cầm bút. Từ ý nghĩ cương quyết đó, Kim Lân đã có những truyện ngắn đầu tay: Đứa
65
con người vợ lẽ (1942) Đứa con người cô đầu (1942), Người kép già (1942), Cô Vịa (1942)… Đây là những câu
chuyện viết về chính bản thân nhà văn. Qua những truyện ngắn này, Kim Lân đã bộc lộ rất rõ những tâm tư, tình cảm
của mình.
2.2.3.2. Trong các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan của Kim Lân, chúng
tôi nhận thấy đa số các truyện ngắn của ông đều được tổ chức trần thuật theo hai kiểu: kiểu trần thuật lạnh lùng và
kiểu trần thuật hoà mình với nhân vật. Ở các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo hai kiểu trần thuật này, dù được trần
thuật theo phương thức trần thuật khách quan nhưng người đọc vẫn cảm nhận rất rõ những trải nghiệm, những ấn
tượng, những dấu ấn về hoàn cảnh riêng tư của chính nhà văn. Trong các truyện ngắn: Đứa con người vợ lẽ, Cô Vịa,
Vợ nhặt, Làng… người đọc có thể tìm thấy những tương ứng nhất định giữa hoàn cảnh và những trải nghiệm của nhà
văn với thế giới mà tác giả thể hiện trong các tác phẩm.
Trong truyện Đứa con người vợ lẽ (1942), người đọc có thể nhận ra những nét tương đồng giữa hoàn cảnh
của nhân vật chính (Tư) với hoàn cảnh nhà văn. Ở đây, người trần thuật không xuất hiện và nói về các sự kiện với
một “sự yên tĩnh điềm đạm” nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra rất rõ những dấu ấn tự truyện của nhà văn. Đó là sự
tương đồng giữa hoàn cảnh, tình cảm của nhà văn với những sự kiện liên quan đến nhân vật chính (Tư). Có thể nói,
Đứa con người vợ lẽ là truyện ngắn mang nhiều dấu ấn tự truyện nhất của Kim Lân. Nhà văn có lần tâm sự:
Truyện ngắn đầu tiên của tôi có cái tên là Đứa con người vợ lẽ, in ở tờ Trung Bắc chủ nhật, khoảng năm 40 -
41. Đúng là truyện của mình với tất cả nỗi hờn tủi của mẹ con tôi. Truyện in rồi, ông anh cả của tôi (con bà cả) cứ
lục vấn, hạch sách tôi mãi [54, tr.599].
Xét về nghệ thuật trần thuật, Đứa con người vợ lẽ là một hiện tượng thể hiện sự sáng tạo của nhà văn Kim
Lân. Nếu ở phương thức trần thuật khách quan, chủ thể trần thuật thường giấu mình rất kĩ nhưng ở một số đoạn trữ
tình ngoại đề, chủ thể kể đã xuất hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu. Trong một đoạn thể hiện tâm trạng nhân vật, tác
giả viết:
Tư nghĩ liên miên: anh thấy một niềm oán trách ngấm ngầm trong thâm tâm. Anh oán cha anh, người đã sinh
ra anh mà săn sóc anh không chu đáo. Anh oán một cái gì không tên đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ
cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là
thằng thừa trong gia đình. Tư thấy bứt rứt khó chịu. Những ý tưởng hỗn loạn ở trong óc. Anh thong thả nằm xuống.
66
Mắt nhắm lại muốn ngủ đi, để những tư tưởng hắc ám khỏi đến quấy nhiễu. Nhưng không sao ngủ được với cái dạ
dày [54, tr.27].
Dù tách mình ra khỏi câu chuyện, nhưng ở đoạn văn trên người trần thuật đã bộc lộ thể hiện mình một cách
khéo léo. Người trần thuật trực tiếp phơi bày, phân tích tâm lý nhân vật. Giọng của người trần thuật hoà vào giọng
nhân vật rất khó phân biệt. Hình thức lời nói nửa trực tiếp được sử dụng. Ở trường hợp này, lời của người trần thuật
mang ý thức của nhân vật. “Trong lời nói nửa trực tiếp vẽ lên những lời và đoạn câu của kẻ được nói đến trong ngôi
người thứ ba. Người trần thuật, tác giả ở đây dường như làm cho cách phát ngôn của mình thích nghi với cách nói
của nhân vật” [74, tr.274]. Như vậy, đây là sự khéo léo để tự hiện diện, tự bộc lộ của người trần thuật. Sự khéo léo
này đã mang đến cho chủ thể trần thuật một tư cách xuất hiện mới. Với tư cách này, chủ thể trần thuật đã tạo ra sự đa
dạng trong phương thức trần thuật và làm giảm bớt bản chất trung tính của phương thức trần thuật khách quan.
Nhà văn Kim Lân từng nói: “Tôi chỉ muốn thể hiện một cách rõ nét con người tôi qua trang viết” [54, tr.19].
Khảo sát các truyện tổ chức trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan của ông, chúng tôi nhận thấy có một
số truyện ngắn nhà văn đã sáng tạo trên cơ sở của những sự kiện đời sống mà tác giả trải qua. Đó là những biến cố,
những sự kiện, những kỉ niệm đã để lại những dấu ấn sâu sắc đối với nhà văn. Do vậy, dù được tổ chức trần thuật
theo phương thức trần thuật khách quan nhưng ở một số truyện ngắn, người đọc vẫn có thể nhận ra dấu ấn tự thuật
của tác giả. Và những ấn tượng về đời sống riêng tư đã trở thành ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật của nhà
văn.
Ở truyện ngắn Vợ nhặt, người đọc có thể nhận ra bóng dáng của tác giả qua hoàn cảnh, những trạng thái tâm
lí của nhân vật Tràng. Nhà văn từng nói:
Nhân vật Tràng lấy ở tôi nhiều hơn, nhưng tôi không phải kéo xe bò và cũng không có những cuộc gặp gỡ
như thế. Hoàn cảnh trong truyện cũng giống hoàn cảnh của tôi lúc đó. Tôi mới lấy vợ, chưa có con, khi lấy vợ đã gặp
cái đói và bà mẹ tôi là hình ảnh bà cụ Tứ trong truyện. Nhà tôi không phải là nhà tranh vách đất, nhưng nghèo nên
phải buôn bán cám và xe từ làng ra chợ phố Mới (Hà Nội) để bán, tôi phải đi theo để canh không sợ bị cướp cám,
hoàn cảnh không ăn nhập gì với truyện nhưng nó gần với cảnh đói tháng ba. Ngày ấy gia đình tôi phải ăn cháo cám
và phải ăn độn thêm rau chuối thái nhỏ. Mẹ tôi là vợ ba trong một gia đình. Và hình ảnh bà cụ Tứ là hình ảnh mẹ tôi,
vợ anh Tràng cũng là vợ tôi. Hồi đó đi xe bò cũng có một cô gái xinh đẹp tên là Ứng - con một ông coi lăng cùng đi
bán cám với vợ tôi. Vợ tôi đẩy xe và cô ấy cầm càng, tôi cầm đòn gánh theo để canh phòng [54, tr.21].
67
Đọc truyện ngắn Làng, người đọc cũng nhận ra sự tương ứng nhất định giữa tác giả và nhân vật chính (lão
Hai). Lão Hai là người nông dân được cách mạng mang lại quyền sống, quyền tự do và quyền làm người. Ở nhân vật
này, người đọc không thấy bóng dáng của sự nhẫn nhục, cam chịu. Lão là người hồ hởi, nhiệt tình gánh vác công việc
của cách mạng. Tình cảm yêu nước của lão Hai thật cảm động. Tình cảm của lão Hai đối với làng chợ Dầu cũng
chính là tình cảm của Kim Lân dành cho làng của mình. Nhà văn từng nói: “Tôi là người rất gắn bó với làng tôi. Chỉ
hai, ba ngày không về làng là tôi nhớ, đi đâu xa vài ngày là tôi nhớ làng không chịu được” [16, tr.267]. Kim Lân
cũng đã nói về truyện này:
Lúc ấy, Tây còn đóng ở cầu Đuống, tôi về làng chơi mấy lần, chứng kiến tận mắt thế nào là “làng chiến
đấu”. Trong không khí ấy, cùng với dư luận bán tín bán nghi về làng chợ Giầu việt gian đã khiến tôi viết truyện này.
Ông lão Hai chính là tôi. Dù nhiều khía cạnh, tất nhiên rất khác. Song cái cốt lõi tâm trạng vẫn là tôi, đó là tâm lí rất
thật của dân tản cư. Bà chủ nhà tôi ở ngày ấy là có thật, đến nay vẫn còn sống [54, tr.19].
Còn khá nhiều những biểu hiện của tính tự truyện trong các truyện viết về đề tài cuộc sống, tâm tư tình cảm
của những người nghèo khổ. Ngoài ra, trong các truyện viết về đề tài sinh hoạt văn hoá, thuần phong mỹ tục, người
đọc cũng bắt gặp một Kim Lân “hào hoa mã thượng trong không khí văn chương sang trọng” [54, tr.18]. Ở những
truyện viết về đề tài này, dù nhà văn trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan nhưng người đọc vẫn cảm
nhận được rất rõ tấm lòng yêu mến, trân trọng của ông đối với những giá trị văn hoá truyền thống.
2.1.3.3. Trong một số truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy những biểu hiện của tính tự truyện là
một đặc điểm khá độc đáo. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ Kim Lân đã có sự vận dụng sáng tạo phương thức trần thuật
khách quan. Nhà văn đã khéo léo đưa vào tác phẩm của mình những yếu tố tự truyện. Ở điểm này, Kim Lân có những
nét tương đồng nhất định với các nhà văn lãng mạn như: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh… Nhà nghiên cứu Lữ
Huy Nguyên đã xem đặc điểm này là “một sự hơi lạ” và lí giải nó như là nguồn gốc của hiện tượng viết ít của Kim
Lân. Bởi, “ông không thể viết cái gì mà không có mình ở trong đó, hoặc có viết cũng khó thành công như tập truyện
ngắn Nên vợ nên chồng và truyện phim Cô gái công trường, mặc dầu đó là những tác phẩm rất kịp thời và có ích”
[54, tr.22]. Có thể nói, ở các truyện ngắn thành công của Kim Lân, người đọc đều tìm thấy rất nhiều yếu tố tự truyện.
Những yếu tố tự truyện như là những mảng đời của nhà văn được “xắn ra”. Đó là khởi nguồn cho những cảm hứng
sáng tạo, là cơ sở để tạo nên giá trị của tác phẩm. Nhà văn từng nói: “ Những truyện tôi thích và cũng được nhiều
người thích, đều là những cái tôi viết về chính mình, về làng xóm mình, người thân mình” [75, tr.81]. Do vậy, ở
68
những tác phẩm thành công, người đọc đều tìm thấy con người nhà văn trong đó. Và đặc điểm độc đáo này đã tạo cho
truyện ngắn của Kim Lân tính hiện thực chân chất, sự ấm áp của những tình cảm đôn hậu, nhân nghĩa và thuỷ chung.
2.3. Phương thức trần thuật chủ quan trong truyện ngắn của Kim Lân
Phương thức trần thuật chủ quan là phương thức trần thuật được tiến hành từ ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Người
trần thuật là một trong các nhân vật và sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của nhân vật này. Từ điểm nhìn của
một nhân vật, người trần thuật “có khả năng nhìn thấy được tất cả mọi sự và có khả năng đi sâu vào thế giới nội tâm
của nhân vật” [20, tr.202].
Đặc điểm nổi bật của phương thức trần thuật chủ quan là người trần thuật “xuất hiện như một con người thực
hiện hữu trong thế giới mà các nhân vật đang hoạt động” [20, tr.202]. Với vai trò vừa là một nhân vật, vừa là người
kể chuyện, người trần thuật sẽ kể lại những gì mà người ấy đã chứng kiến, trải qua và trở thành “người bình luận từ
bên trong” [40, tr.165]. Theo quan điểm của Huỳnh Như Phương, đây là phương thức trần thuật “ có tính chất nội
quan”. “Hành động của nhân vật được miêu tả dựa trên trạng thái nội tâm của nhân vật đó, từ điểm nhìn của chính
anh ta hay điểm nhìn của một người quan sát có năng lực phân tích tâm lí” [20, tr.202]. Chính từ những đặc điểm
trên mà “sự trần thuật mang tính cá thể hóa rất cao, nó diễn đạt rất sâu sắc những tâm trạng, tình cảm và sự nếm
trải của con người” [20, tr.202].
Khảo sát 28 truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi thấy có 8 truyện tổ chức trần thuật theo phương thức trần
thuật chủ quan. Tuy chiếm số lượng ít hơn số lượng truyện trần thuật theo phương thức trần thuật khách quan nhưng
đây là một hiện tượng khá đặc biệt ở truyện ngắn Kim Lân. Trong 8 truyện tổ chức trần thuật theo phương thức trần
thuật chủ quan, có 2 truyện tổ chức trần thuật theo kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện (Cầu
đánh vật, Vợ chồng anh đội trưởng) và 6 truyện tổ chức trần thuật theo kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người
dẫn truyện vừa là một nhân vật (Đứa con người cô đầu, Người kép già, Thư phát động, Ông Cả Luốn gốc me, Con
chó xấu xí, Người chú dượng).
2.3.1. Kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện
2.3.1.1. Theo Đinh Trọng Lạc, “đây là kiểu người kể không được nêu đặc trưng một cách cặn kẽ trong văn
bản, vì anh ta chỉ là một hình tượng giả định, được tác giả sử dụng làm một người trung gian tưởng tượng ra giữa
độc giả và cái được mô tả, vì anh ta không tham gia vào sự phát triển của các biến cố, sự kiện, tính cách nhân vật
trong tác phẩm” [40, tr.182]. Đặc điểm cơ bản của kiểu trần thuật này là người trần thuật không tham gia vào biến cố
69
của truyện, giữa người trần thuật và câu chuyện luôn có một khoảng cách cần thiết để tạo ấn tượng về tính khách
quan. Đây là kiểu trần thuật cá thể hoá không rõ nét. Người trần thuật luôn giấu bớt (hạn chế) cảm xúc của mình
trong miêu tả để tạo cho người đọc cách cảm nhận, đánh giá của riêng mình.
2.3.1.2. So với các kiểu trần thuật khác, số lượng truyện ngắn tổ chức trần thuật theo kiểu trần thuật này chiếm
số lượng rất ít (2/28 truyện). Trong hai truyện này, có một truyện viết trước năm 1945 (Cầu đánh vật) và một truyện
viết sau năm 1945 (Vợ chồng anh đội trưởng).
Ở truyện Vợ chồng anh đội trưởng, người trần thuật (tôi) kể lại những sự kiện mà mình chứng kiến, dưới cái
nhìn là quan điểm của mình. Nhân vật tôi lựa chọn, sắp xếp các sự kiện trần thuật theo quan điểm của riêng mình. Ở
đây, người trần thuật tôi chỉ là một hình tượng giả định đóng vai trò chứng kiến toàn bộ câu chuyện vợ chồng anh đội
trưởng trong một chuyến công tác đến Tam Tiêu: “Chiều chiều sau bữa cơm, tôi thường bắc cái chõng tre ra ngồi
hóng mát một mình trước sân nhà. Những lúc ấy cái cảnh sinh hoạt buổi tối của gia đình anh cứ diễn ra trước mắt
tôi một cách tự nhiên, bình thản như nó vẫn diễn ra hằng ngày” [49, tr.12].
Ở truyện ngắn này, chúng tôi nhận thấy đa số các câu được sử dụng đều ở hình thức miêu tả trực tiếp. Bên
cạnh đó, sau các sự kiện, người trần thuật hiện diện khá rõ qua những đoạn bộc lộ cảm xúc chủ quan. Đoạn văn sau
thể hiện rất rõ những nhận xét, cảm xúc trực tiếp của người trần thuật (nhân vật tôi) về hành động và phẩm chất của
anh đội trưởng trong một đợt chống bão:
Anh vẫn thế, nhưng đêm nay tôi thấy ở anh, trong cái lành lành chầm chậm ấy có cả cái vững chãi, trung
thực, bền bỉ, quyết tâm của một người cán bộ, một người đảng viên. Nhìn anh đêm nay tôi thấy rất rõ là mặc dù mưa
to, gió lớn như thế nào cũng không làm gợn một đường gân trên nét mặt anh, không thể làm thay đổi được những
điều anh đã dự định. Anh là người vượt ba chục cây số đường đêm hôm, mưa bão về đây. Và vừa về đến đây đã thốc
thúc các đồng chí cũng ra đồng theo dõi mực nước, theo dõi các nỗ cống tiêu nước ra sông [49, tr.14].
Ở đoạn trên, sự cá thể hoá của chủ thể kể hiện ra khá rõ. Những nhận xét trực tiếp mang tính chủ quan của
người trần thuật đã gây được ấn tượng sâu sắc về tinh thần tập thể và tấm gương lao động của anh đội trưởng đối với
người đọc. Đây là dấu vết riêng của chủ thể kể “về phương diện nội dung tinh thần” [149, tr.82]. Và có khi, những
dấu vết của chủ thể kể về “nội dung tinh thần” còn bộc lộ quan điểm của tác giả:
Công việc cũng bình thường thôi, nhưng sao trông chị lúc này rắn rỏi, dũng mãnh, đẹp đẽ khác thường. Chị
không giống một chút nào với những điều tôi vần thường lo thay cho chị. Lúc này tôi mới thấy ở người đàn bà đông
70
con, hay gắt gỏng, quát tháo ấy cái bóng dáng của cô gái du kích thành Đông gan dạ khi xưa. Cô gái đã từng theo bộ
đội đánh giặc, diệt đồn, phục kích, chống càn, đã từng đưa đón cán bộ qua sông, về địa phương gây cơ sở. Đã đánh
một trận nổi tiếng ở chợ vệ bằng đòn gánh mà diệt được tề ác, bắt được hơn ba chục hàng binh.
Cô gái ấy bây giờ là một bà mẹ, một người vợ đảm đang, quán xuyến mọi việc đồng áng, nhà cửa, con cái cho
chồng yên tâm công tác, học tập [49, tr.13].
Cũng như truyện Vợ chồng anh đội trưởng, ở truyện Cầu đánh vật, người trần thuật là nhân vật đóng vai trò
người dẫn truyện. Nhân vật tôi - người trần thuật xuất hiện trong truyện với tư cách là bạn đô Vựa. Và với tư cách
này, người trần thuật đã kể lại câu chuyện về đô Cót (bố của đô Vựa) - “một đô già hết thời” “đã từng mấy năm ăn
giải cạn tiếng tăm lừng lẫy khắp vùng Từ Sơn” và câu chuyện về truyền thống vật nổi tiếng của sân vật Cẩm Giang.
2.3.1.3. Tìm hiểu truyện Cầu đánh vật, chúng tôi nhận thấy sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của một
nhân vật, “nhưng lại không thuần nhất ở một nhân vật nào mà lại đan cài, xen lẫn giữa các nhân vật. Điểm nhìn của
các nhân vật chồng chéo lên nhau, hoà trộn vào nhau” [20, tr.203]. Theo quan điểm của Huỳnh Như Phương, đây là
phương thức trần thuật liên chủ quan.
Truyện Cầu đánh vật là truyện được kết cấu theo kiểu truyện trong truyện. Truyện gồm nhiều câu chuyện:
chuyện về hai cha con đô Cót và đô Vựa, chuyện về ngôi đất hình nhân bái tướng, chuyện về cầu đánh vật, chuyện
Ngựa Lồng và Voi Cái. Ở truyện này, để tránh sự đơn điệu và nhấn mạnh tính khách quan, người trần thuật (tôi)
ngoài đoạn mở đầu đã “tự rút lui để nhân vật của mình tự tìm đến độc giả” [40, tr.171]. Ba câu chuyện: chuyện ngôi
đất hình nhân bái tướng, chuyện cầu đánh vật và chuyện Ngựa Lồng, Voi Cái được uỷ thác cho nhân vật đô Cót kể
lại. Theo dòng hồi tưởng của ông đô lão luyện này, cả một truyền thống vật với những “chiến công oanh liệt” của sân
vật Cẩm Giang như sống lại. Truyền thống ấy đã khiến cho đô Cót như không thể dừng lại được khi kể chuyện cho
nhân vật tôi nghe:
Dứt lời, mặt ông tươi hẳn lên. Cả thời xa xưa bừng rạng trong lòng đô Cót. Ông mê man kể lại:
- Các cụ tôi truyền lại: lúc được về yên nghỉ tuổi già, mấy ông đô trong kinh vẫn còn khoẻ mạnh lắm. Tất cả
những đô danh tiếng đương thời cũng không ai địch nổi.
Một lần vào ngày hội Đồng Kỵ, nhân có mấy tay vừa trỗi, ra ý ngạo nghễ thách thức. Đô Tàn, đô Lọng, đô
Cờ, ba ông nghe vậy, rủ nhau đi dối già một chuyến.
Thấy các đô đã có tuổi, mấy bác sở tại trỏ vào ba gian cầu lim và hai phiến đá nằm dài làm bực, nói kháy:
71
- Hễ các ông mà vật được họ thì dân chúng tôi biếu thêm cái cầu và hai tấm đá ấy đấy.
Mấy ông đô chỉ cười xoà. Một ông quay lại bảo học trò:
- Anh ra đo cái cầu cẩn thận xem kích thước bao nhiêu rồi về đắp nền trên bãi vật trước đi. Ta lấy cái cầu này
làm chỗ nghỉ ngơi cũng tiện.
Đến lúc vào vật thì ba ông được ba giải một cách dễ dàng. Cậu tính sức lực ấy còn ai địch nổi. Mãi sâm sẩm
tối, rượu đã chuếnh choáng rồi, ông nọ bảo ông kia:
- Nào khiêng cầu về thôi chứ!
Thế là mỗi ông mỗi đầu ghé vai khiêng bổng cả ba gian cầu lim lên. Còn một ông thấy vậy cũng ngứa ngáy
chân tay, mỗi nách cắp một phiến đá ung dung ra về [54, tr.52 - 53] .
Ở đoạn văn trên, Kim lân đã sử dụng xen kẽ lời nói gián tiếp của người trần thuật với lời nói trực tiếp của
nhân vật. Điều này đã tạo cho người đọc cảm giác như được đối thoại trực tiếp cùng nhân vật, cảm nhận được “sự
hân hoan rạng rỡ trên nét mặt” đô Cót. Đó là niềm tự hào về truyền thống vật của sân vật Cẩm Giang. Ngoài ra ở
đoạn trên và cả truyện này, sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của nhân vật nhưng không thuần nhất một nhân
vật mà có sự hoà trộn, đan chéo điểm nhìn của nhân vật tôi và điểm nhìn của nhân vật đô Cót. Sự hoà trộn điểm nhìn
của các nhân vật đã làm cho sự trần thuật tránh được sự đơn điệu, một giọng. Có thể nói, sự chuyển đổi vai kể ở
truyện ngắn này diễn ra rất linh hoạt, tự nhiên. Đặc điểm này chúng ta cũng thường thấy ở các sáng tác của Nam Cao.
Đối với Kim Lân, sự chuyển đổi này tuy chưa đạt đến mức độ đa thanh như trong sáng tác của các nhà văn lớn nhưng
nó đã “tạo điều kiện cho cách nhìn nhiều chiều về nhân vật, sự kiện, giảm bớt sự phụ thuộc vào quan điểm của tác
giả, tăng cường khả năng nghiền ngẫm độc lập của người đọc, đồng thời tránh được lối kể đơn điệu theo một giọng
từ đầu đến cuối tác phẩm” [82, tr.151].
2.3.2. Kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật
2.3.2.1. Cũng như kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện, người trần thuật xuất hiện
trực tiếp và tiến hành trần thuật lại các sự kiện, biến cố theo cái nhìn và tình cảm chủ quan của mình. Bên cạnh đó, ở
kiểu trần thuật này, người trần thuật còn xuất hiện với tư cách là một nhân vật tham gia vào các biến cố của câu
chuyện. Nhận xét về kiểu trần thuật này, Đinh Trọng Lạc đưa ra ý kiến so sánh. “Kiểu người kể xưng “tôi” này
không được cá thể hoá sâu sắc bằng kiểu xưng “tôi” tự kể chuyện mình. Nhưng, so với kiểu xưng “tôi” đóng vai trò
người dẫn chuyện, thì kiểu này còn có mức độ cá thể hoá nhiều hơn, bởi vì người kể cũng đồng thời là một trong
72
những nhân vật của truyện” [40, tr.188]. Với đặc điểm người trần thuật là một nhân vật trong truyện, kiểu trần thuật
này đã tạo được cảm giác về sự chân thực của những điều được kể. Ngoài ra với mức độ cá thể hoá cao hơn, kiểu trần
thuật này đã góp phần thể hiện rõ hơn những dấu ấn chủ quan của người trần thuật về hiện thực khách quan.
2.3.2.2. Trong 28 truyện ngắn của Kim Lân, có 6 truyện thể hiện rõ đặc điểm kiểu trần thuật này: Đứa con
người cô Đầu (1942), Người kép già (1942), Thư phát động (1952), Ông Cả Luốn gốc me (1960), Con chó xấu xí
(1962), Người chú dượng. Cũng như kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò dẫn truyện, kiểu trần thuật này phản
ánh “quá trình cá thể hoá hành động sáng tạo văn học, chủ thể kể hiện ra rõ hơn” [82, tr.149]. Với việc chuyển giao
nhiệm vụ trần thuật cho nhân vật, khoảng cách giữa người trần thuật và câu chuyện được thu hẹp tối đa. Người trần
thuật không chỉ là chủ thể kể mà còn là một nhân vật trong truyện. Đây là một đặc điểm để tạo ra cảm giác chân thực
về câu chuyện được kể. Mặt khác, nó còn thể hiện rõ nét những dấu ấn chủ quan của người kể qua việc biểu hiện
những thái độ tình cảm về câu chuyện được kể.
Ở truyện Con chó xấu xí, người trần thuật xuất hiện trực tiếp với vai trò là là một nhân vật trong truyện đã
mang đến cho người đọc những dòng thật cảm động về tình cảm của một con chó đối với nhân vật tôi:
Từ sau bụi dứa rậm rạp, con chó khốn khổ ấy lảo đảo đi ra. Người nó run lên bần bật. Nó gầy quá, chỉ còn
một dúm xương da sộc sệch, rụng hết lông. Nó đói quá, đi không vững nữa. Nó đi ngã rụi bên này, rụi bên kia. Rồi nó
không còn đủ sức mà đi nữa. Nó nằm bệt trên đất, rúm người lại, lết lết lê dần về phía nhà tôi.
Lúc ấy cả người nó chỉ còn có cái đuôi là ngó ngoáy được để mừng chủ và, cái lưỡi liếm liếm tay chủ. Khốn
nạn con chó! Được gặp chủ nó mừng quá. Từ trong hai con mắt đờ đẫn của nó có mấy giọt nước chảy ra. Lát sau thì
nó không liếm được nữa, cái đuôi ngoáy yếu dần, yếu dần rồi im hẳn. Nó chết [54, tr.282 - 283].
Với việc kể lại sự kiện con chó xấu xí trở về theo tiêu điểm và cái nhìn của nhân vật tôi, người trần thuật đã
thể hiện sâu sắc và cảm động về sự trung thành của một con vật bị con người bỏ rơi trong hoàn cảnh con người đang
phấn đấu giành sự sống cho mình. Và những dòng tiếp theo là tâm trạng của người trần thuật (tôi): “Vừa thương xót,
vừa xấu hổ” vì cảm thấy mình không xứng đáng với tình nghĩa của một con vật trung thành đến tuyệt đối:
Tôi tối xầm mặt lại, vừa thương xót con chó, vừa cảm thấy xấu hổ. Quả thật tôi chỉ là một thằng tồi. Một
thằng ích kỉ. Tôi chỉ nghĩ đến mình và vợ con mình. Đến như con chó mình nuôi, mình đối xử với nó có được như cái
tình nghĩa của nó đối xử với mình đâu? [54, tr.283].
73
Đọc kỹ truyện này và đặc biệt là những dòng cuối, người đọc mới thấy cái đặc sắc của sự miêu tả và cảm
nhận được hết cái ý vị của truyện. “Một con chó xấu xí không ra hồn chó mà còn trung thành, ấy thế mà cái kẻ cũng
gọi là cầm bút kia!… Cho nên sự ngụ ý ở đây càng cay nghiệt bao nhiêu thì sự vững tin của nhà văn vào chỗ đứng
mình chọn càng rõ rệt bấy nhiêu” [2, tr.61]. Có thể nói, sự đối chiếu so sánh giữa một con chó với nhân vật tôi và
anh chàng bất hảo Nhược Dự đã tạo nên hơi hướng ngụ ý của truyện ngắn này. Đây là một “cách trần thuật” của nhà
văn. Và trong kiểu cách trần thuật này, “đằng sau vẻ ngây thơ thật thà của người kể chuyện người ta còn thấy được
sự mỉa mai, và ranh mãnh, kinh nghiệm sống và sự thông thái” [74, tr.288] của người trần thuật.
Ở truyện Ông Cả Luốn gốc me, do tác giả nhập vào người trần thuật (tôi) nên ở nhiều đoạn có sự trùng hợp
nhau về quan điểm giữa nhân vật tôi và tác giả. Ở một số đoạn, trong nội dung trần thuật của người dẫn truyện người
đọc có thể nhận ra rất rõ quan điểm của tác giả:
Ông cười khề khề một dịp dài. Cái cười không lấy gì làm tự nhiên thoải mái cho lắm. Nhưng dù sao ông chú
họ tôi như thế cũng là vào hợp tác xã rồi. Ông vào sau những đêm dày vò, tính toán. Những đêm lột xác và tôi chắc
ông phải thấy có lợi như thế nào rồi ông mới chịu vào. Ở nông thôn hiện nay hợp tác xã là một tổ chức mới nhất, tiên
tiến nhất nhưng những người vào hợp tác xã chưa phải đã được như cái tổ chức của nó. Một người như ông chú họ
tôi vào hợp tác xã, tất nhiên ông phải mang cả cái dĩ vãng của ông vào, cả những nếp sống, nếp nghĩ và cả những
thói tật riêng của ông vào theo. Chưa phải là đã hết khó khăn, hết so đo, tính toán riêng cho mình đâu [54, tr.447].
Ở đoạn văn này, tác giả đã hoà vào người trần thuật với vai trò người dẫn truyện và xem nhân vật tôi như một
nhân vật ngang hàng với các nhân vật khác khi tham gia vào truyện nên đã tạo ra sự trùng hợp về quan điểm giữa
người trần thuật (tôi) và tác giả. Đó là sự khẳng định vai trò tiên tiến của tổ chức hợp tác xã và thực tế một lớp người
ở nông thôn có nếp sống, nếp nghĩ như ông Cả Luốn.
Ở kiểu trần thuật này, ngoài vai trò là một nhân vật trong truyện, người trần thuật còn có nhiệm vụ kể lại sự
kiện theo cái nhìn và quan điểm của mình. Điều này tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc miêu tả trực tiếp các biến cố,
sự kiện cũng như khả năng thâm nhập vào chiều sâu thế giới nội tâm của nhân vật. Chính đặc điểm này đã tạo cho
truyện của Kim Lân khả năng thể hiện sâu sắc thế giới nội tâm con người:
Tôi chợt nhận thấy mặt lão ta tái đi và tất cả những thớ thịt trên mặt đều giật giật lên. Lão rặng một tiếng nói
tiếp, giọng lão khản đặc lại, vẫn cái giọng rì rì khó nhọc, rời rạc từng tiếng:
- Có… anh Hiền… Ở Hà Nội lên… đón mày về ở với… bá đấy.
74
Lão cúi gầm mặt xuống, thở ra một tiếng não ruột, nhấp nhổm nhấc từng bước chân quay vào. Con bé em tôi
vừa nghe ông chú dượng nó rứt, nó reo lên một tiếng vui sướng, chạy vụt lai phía tôi [54, tr.479].
Ngoài việc miêu tả nhân vật lão Mộc, người trần thuật đã thâm nhập vào thế giới nội tâm của nhân vật để bộc
lộ nỗi khổ tâm của một con người gần hết một đời người phải chịu đeo cái tiếng là thằng ngỗ nghịch, bị hàng xóm
hắt hủi ghê sợ. Và đằng sau những dòng miêu tả ấy, người đọc còn nhận ra sự đồng cảm của người trần thuật với nỗi
bất hạnh của nhân vật.
Một đặc điểm khác của kiểu trần thuật này, người trần thuật với vai trò là một nhân vật trong truyện đã tạo
nên sự gần gũi của chủ thể kể và các nhân vật khác. Điều này không những làm cho khoảng cách giữa tác giả và câu
chuyện được rút ngắn mà còn giúp tác giả thâm nhập vào chiều sâu đời sống nội tâm của nhân vật, xem tâm trạng của
nhân vật như tâm trạng của chính mình:
Tiếng hắn nói ngụ một nỗi gì vừa thống khổ vừa hờn giận. Chợt tôi cũng thở dài một tiếng khe khẽ, như ném
xuống nỗi dày vò của hắn. “Lại bước đi bước nữa”. Trời! Thật là mỉa mai chua chát. Thì ra mẹ hắn đã đi bước nữa
nhiều lần [55, tr.25].
Do khoảng cách giữa người trần thuật được rút ngắn tối đa nên tác giả thâm nhập vào nỗi đau của nhân vật và
thể hiện nó một cách thống thiết. Sự thể hiện này đã tạo nên giọng văn cảm thông, đồng cảm và góp phần thể hiện
cảm hứng yêu thương trân trọng con người của tác giả.
Và có khi, ở những đoạn lời văn gián tiếp hai giọng, tâm sự của nhân vật được lồng vào tâm sự của người trần
thuật. Ở đây, lời độc thoại nội tâm của người trần thuật “không chỉ thể hiện được cái được kể, mà còn tái hiện người
kể. Nó mang dấu ấn về cách nói, cách cảm thụ thế giới và cuối cùng là mang tư chất trí tuệ và tình cảm của người
trần thuật” [74, tr.288]. Đó là sự đồng cảm sâu sắc của tác giả về nỗi đau của nhân vật. Trong truyện ngắn Người
chú dượng, khi nhân vật tôi nghe tin dì Bản chết tác giả viết:
Sự đời có thể đến như thế được ư? Dì ơi! Cái chết của dì đã heo hút, thảm đạm đến mức ấy, nhưng đến chồng
dì… Chao ôi! Chồng dì tôi còn thấy thảm đạm tủi nhục gấp trăm. Thảm đạm tủi nhục hơn cả là cái chết của dì trong
xó núi này [54, tr.474].
2.3.2.3.Trong văn xuôi hiện đại kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật
chiếm một số lượng khá lớn. Với Kim Lân, chúng tôi thấy có những nét tương đồng nhất định với truyện ngắn của
các nhà văn: Thạch Lam, Nam Cao… Cùng một kiểu trần thuật này trong các truyện ngắn Quái dị, Lão Hạc, Dì Hảo,
75
Truyện tình (Nam Cao), chúng tôi cũng tìm thấy những đặc điểm tương tự. Ở truyện Quái dị, Truyện tình cũng có
những đoạn người trần thuật lí giải, phân tích tâm lí nhân vật theo quan điểm của tác giả. Trong các truyện Lão Hạc,
Dì Hảo người đọc cũng tìm thấy những đoạn người trần thuật thâm nhập vào nhân vật để bộc lộ nội tâm:
Lão Hạc ơi! Bây giờ thì tôi hiểu tại sao Lão không muốn bán con chó vàng của lão. Lão chỉ còn một mình nó
để làm khuây. Vợ lão chết rồi. Con lão đi bằn bặt. Già rồi mà ngày cũng như đêm, chỉ thui thủi một mình thì ai mà
chả phải buồn? Những lúc buồn, có con chó làm bạn thì cũng đỡ buồn một chút. Lão gọi nó là cậu vàng như một bà
hiếm hoi gọi đứa con cầu tự [9, tr.93].
Cũng ở kiểu trần thuật này, Thạch Lam có nhiều truyện viết về những biến cố tâm lí nhưng truyện ngắn Thạch Lam
lại có một xu hướng hướng nội rõ nét hơn. Ở các truyện Một cơn giận, Sợi tóc… tác giả đã để cho người trần thuật nhìn các
sự kiện bằng con mắt của chính mình nên đời sống nội tâm của các nhân vật được thể hiện nhiều hơn.
76
Chương 3
CẤU TRÚC TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA KIM LÂN
3.1. Cấu trúc trần thuật trong tác phẩm tự sự
Trong tiếng Việt, thuật ngữ cấu trúc và kết cấu là những khái niệm gần
nghĩa nhau. Kết cấu là phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Theo Trần
Đình Sử, “kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng
nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu
tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác
phẩm” [57, tr.295].
Trong tác phẩm tự sự, kết cấu tồn tại ở hai cấp độ cơ bản:
Cấp độ hình tượng và cấp độ trần thuật. Cấp độ trên gắn liền với toàn bộ tổ
chức của thế giới nghệ thuật, bao gồm hệ thống các nhân vật, hệ thống các sự
kiện, tình tiết và trình tự xuất hiện của chúng, tương quan các chi tiết tạo hình,
biểu hiện tạo nên bức tranh sinh động về cuộc sống, các tương quan về không
gian và thời gian. Đây là cấp độ kết cấu bề sâu, gắn liền với ý đồ nghệ thuật và
các tính cách được phản ánh. Cấp độ trần thuật bao gồm sự liên tục của các biện
pháp trần thuật, cũng như sự tổ chức của các câu, sự vận dụng các phương thức
tu từ. Ở cấp độ này người ta thường nói đến bố cục như là một kết cấu bề mặt,
bao gồm sự sắp xếp, phân bố các phần của nội dung vào các mảng của trần
thuật như chương, đoạn [57, tr.298 - 299].
Ở phần nghiên cứu cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân,
chúng tôi sử dụng khái niệm cấu trúc trần thuật trong quan niệm tương đương với
khái niệm kết cấu trần thuật. Với việc khảo sát 28 truyện ngắn của Kim Lân,
chúng tôi sẽ cố gắng xác định một số dạng cấu trúc trần thuật có tính chất ổn
định trong phong cách sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
3.2. Các dạng cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn của Kim Lân
77
Trong tác phẩm tự sự khi tiến hành trần thuật, nhà văn luôn có ý thức đưa
các chi tiết, sự kiện, các mối quan hệ, xung đột… đến với người đọc nhằm thể
hiện một vấn đề, một tư tưởng nào đó. Các sự kiện, chi tiết, xung đột bao giờ
cũng được sắp xếp, tổ chức theo một trình tự nhất định để đạt hiệu quả biểu hiện
tối đa. Khi trần thuật, nhà văn trình bày liên tục bằng lời văn nhằm làm sống lại
các chi tiết, sự kiện, xung đột, diễn biến của câu chuyện theo một cách nhìn, cách
cảm nhất định. Như vậy, “trần thuật là sự thể hiện của hình tượng văn học,
truyền đạt nó tới người thưởng thức. Bố cục của trần thuật là sự sắp xếp, tổ chức
tương ứng giữa các phương diện khác nhau của hình tượng với các thành phần
Thành phần của trần thuật thường tương ứng với thành phần của cốt truyện. Sự tương ứng này không
phải bao giờ cũng khớp với nhau một cách máy móc. Dù có liên quan đến thành phần trần thuật nhưng cốt
truyện không phải là yếu tố quyết định đến đặc điểm cấu trúc trần thuật. Không phải bao giờ thành phần của
trần thuật cũng ứng với thành phần cốt truyện, nhất là ở trường hợp truyện không có cốt truyện. Thành phần
của cốt truyện thường có tính chất năng động. Nó bao gồm các sự kiện, biến đổi và nhà văn cũng có các đoạn
tương ứng với các sự kiện đó. Ngoài ra, trong tác phẩm tự sự, trần thuật còn bao gồm các thành phần có tính
chất tĩnh tại như những đoạn miêu tả chân dung, ngoại hình nhân vật; những đoạn miêu tả phong cảnh; những
đoạn đối thoại, độc thoại; những đoạn thể hiện lời xen ngoại đề…
khác nhau của văn bản” [57, tr.307 - 308].
Các thành phần của trần thuật có thể được vận dụng, kết hợp ở những mức
độ, hình thức khác nhau. Tuỳ theo sở trường và mục đích biểu hiện của tác phẩm,
nhà văn có thể tiến hành trần thuật các sự kiện diễn ra theo trình tự thời gian. Có
khi để giải quyết cốt truyện, nhà văn lại linh hoạt xen kẽ các thời điểm trần thuật
hay đảo ngược trình tự thời gian trần thuật. Cũng có khi, trật tự trần thuật được
sắp xếp theo diễn biến tâm lý của nhân vật trong truyện… Tất cả những dạng cấu
trúc trần thuật này là một phương diện góp phần tạo nên nét độc đáo trong phong
cách nghệ thuật của nhà văn.
3.2.1. Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian
3.2.1.1. Nhân vật và sự kiện là hai yếu tố không thể thiếu trong tác phẩm tự
sự. Từ hệ thống nhân vật, sự kiện, nhà văn tổ chức, sắp xếp lại thành truyện.
78
Truyện là một chuỗi sự kiện diễn ra liên tục trong không gian, thời gian có ý
nghĩa đối với tác giả và người đọc. Hình thức tổ chức trần thuật cơ bản nhất trong
tác phẩm tự sự là liên kết các sự kiện lại thành truyện. Cách tổ chức, sắp xếp hệ
thống sự kiện, biến cố theo trình tự diễn biến từ trước đến sau, từ mở đầu đến kết
thúc là cách tổ chức trần thuật thường gặp trong các sáng tác truyện dân gian.
Khảo sát truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi nhận thấy số lượng tác phẩm tổ chức
Trần thuật theo trình tự diễn biến thời gian chiếm số lượng khá lớn (17/28
truyện). Tuy nhiên, các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo trình tự thời gian của
3.2.1.2. Trong tác phẩm tự sự việc tổ chức, sắp xếp hệ thống sự kiện là vô cùng quan trọng. Sự sắp xếp
này sẽ tạo ra hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện. Đó là cốt truyện. Cốt truyện là cái sườn của các sự
kiện, biến cố. Cốt truyện là cái dựa vào đó người đọc có thể tóm tắt được. Nó là phương tiện để nhà văn bộc lộ
tính cách nhân vật và tái hiện các xung đột của xã hội. Khi đề cập đến khái niệm cốt truyện, người ta thường đề
cập đến các thành phần chính của cốt truyện là: thắt nút, phát triển, cao trào và mở nút. Có thể chia cốt truyện
thành hai loại: cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lí.
Kim Lân vẫn có những đặc điểm riêng của nó.
Khảo sát truyện ngắn Kim Lân, chúng tôi nhận thấy truyện của ông được
xây dựng dựa trên hai loại cốt truyện: cốt truyện sự kiện và cốt truyện tâm lý. Ở
các truyện ngắn Chó săn, Con Mã Mái, Đôi chim thành, Anh chàng hiệp sĩ
gỗ,… tác giả kết cấu các sự kiện theo trình tự từ trước đến sau. Đây là đặc điểm
mang đến cho người đọc cảm giác về sự mới mẻ qua từng chi tiết và đoạn cuối
của truyện thường là yếu tố quan trọng của cốt truyện. Trong tất cả các truyện
ngắn ở dạng cấu trúc trần thuật này, điểm mở đầu và điểm kết thúc của mạch tự
sự thường trùng với điểm mở đầu và kết thúc của thời gian cốt truyện. Trình tự
diễn biến thời gian trong cốt truyện thường được giữ nguyên, mạch tự sự thường
diễn ra theo trật tự từ trước tới sau hoặc từ mở đầu đến kết thúc. Có thể xem dạng
cấu trúc trần thuật này ở truyện ngắn Kim Lân là một đặc điểm gần với cấu trúc
trần thuật trong truyện dân gian.
Ở truyện Con Mã Mái, Kim Lân mở đầu mạch tự sự bằng việc giới thiệu
nhân vật Cả Chuẩn - một nhà nho kiết mê thích gà chọi đến kỳ lạ. Cả Chuẩn vẫn
79
ao ước có được một tông gà hay, “nuôi cho bỏ công vầy vỗ”. Chính sự tài hoa
của Cả Chuẩn đã giúp ông nhận ra cái hay của con Mái Ô sò. Cả Chuẩn không
ngại tai tiếng khi giao du với Cả Cúi để có được con Mái Ô sò. Sau một thời gian
vầy vỗ, Cả Chuẩn đã có được một đàn gà như ý muốn mà trong đó nổi bật nhất là
con Ô Mã Mái và con Xám Miến Hồng. Đôi gà này mỗi con có một nét đặc biệt,
nét hay riêng. Sau cái chết của con Xám Miến Hồng Cả Chuẩn dốc hết công sức
vào việc chăm sóc con Ô Mã Mái. Trong một lần so cựa với con Hoa Mơ, cả Hoa
Mơ và Mã Mái đều chứng tỏ tài nghệ của mình qua những hồi đấu giằng co. Con
Mã Mái đã có lúc “biệng siệng” sau những cú ra đòn của con Hoa Mơ. Rồi trong
tư thế ấy, con Mã Mái cáu tiết phóng liền một đòn, hai đòn, rồi ba đòn. Con Hoa
Mơ của Tư Méo “há mỏ kêu “quác” một tiếng lớn, ngã chúi xuống, nằm thẳng
cẳng, chân cánh giãy lên đành đạch”. Truyện kết thúc bằng hình ảnh Cả Chuẩn
ôm con Mã Mái vào đình lấy giải. Ở truyện Đôi chim thành, mạch tự sự cũng
được mở đầu bằng cuộc gặp gỡ của “các tay ăn chơi sành sỏi” ở nhà Trưởng
Thuận nhân ngày không có hội. Sau một hồi bình phẩm về đôi chim thành, mọi
người được chứng kiến tận mắt cảnh đôi chim thành “lượn vòng”, “tít đuôi”,
“vần thượng”… Sau một cơn mưa bất chợt, đôi chim thành biến mất khiến
Trưởng Thuận lử đử sốt đến năm hôm. Truyện kết thúc bằng hình ảnh đôi chim
trở về trong sự vui sướng tột độ của Trưởng Thuận:
Ông dụi mắt nhìn lên nóc nhà. Quả đôi chim quý báu của ông thật. Chúng
nó đang há hốc mỏ ra thở; lông cánh phờ phạc, nom gầy tọp đi. Hai mắt sáng
lên vì sung sướng. Cặp môi héo của ông nở một nụ cười rất tươi.
- Tao biết tông chim này tinh lắm, mất thế nào được. Còn về nữa cho mà
xem [54, tr.43].
Cũng như truyện Đôi chim thành, truyện Chó săn mở đầu với những dòng
giới thiệu về nhân vật chính:
Cả Nội đi săn từ năm mười bốn mười lăm tuổi đầu. Hồi còn mồ ma cụ đám
Vui, buổi săn nào ông cũng vác dầm vác móc đi theo. Thế cho nên cả Nội nổi
tiếng là tay chơi lão luyện, và bao giờ cũng chơi “cầu kỳ” theo những kinh
nghiệm già dặn của ông [55, tr.51].
80
Chính kinh nghiệm già dặn của cả Nội đã giúp ông nhận ra nét đặc biệt của
con Vện trong một lần đến nhà Khán Ích. Sau những ngày chăm sóc huấn luyện
của cả Nội, con Vện đã trở thành “một con chó lọc hoàn toàn có nhiều tài
riêng”. Phần hai câu chuyện, mạch tự sự diễn ra theo trình tự một buổi đi săn.
Với tài nghệ của mình, con Vện đã lập được những “chiến công” ngay lần đi săn
đầu tiên. Truyện kết thúc bằng cái chết bất ngờ của con Vện và hình ảnh “cả Nội
gục mặt vào lòng con chó mà khóc hu hu như vợ chết”. Đọc truyện ngắn này,
người đọc có thể nhận ra kết cấu với hai phần rất rõ. Phần đầu là phần cả Nội
chọn chó và vực chó. Phần hai là cảnh một buổi đi săn của cả Nội. Hai phần của
truyện ngắn này được trần thuật theo một trình tự từ trước đến sau.
Như vậy, ở cả ba truyện ngắn vừa khảo sát điểm mở đầu và điểm kết thúc
của trần thuật trùng với điểm mở đầu và điểm kết thúc của thời gian cốt truyện.
Sự trùng hợp này ta thường thấy trong các truyện dân gian như: Sọ dừa, Thạch
Sanh, Cây khe, Cây tre trăm đốt,… Dạng cấu trúc trần thuật này là dạng cấu trúc
khép kín. Có thể nói, việc tổ chức trần thuật theo trình tự liên tiếp từ trước đến
sau của các sự kiện đã tạo cho người đọc luôn có cảm giác về sự mới mẻ qua
từng chi tiết. Và kết thúc truyện thường là thao tác mở nút rất hợp lí của tác giả
nhằm thể hiện chủ đề tác phẩm. Đây là đặc điểm tạo cho truyện ngắn Kim Lân có
nét tương đồng với truyện dân gian về mặt cấu trúc trần thuật. Đặc điểm này một
mặt tạo ra cảm giác câu chuyện đang diễn ra một cách tự nhiên, người đọc như
được trực tiếp chứng kiến những diễn biến của các sự kiện đang diễn ra. Mặt
khác, với cách tổ chức trần thuật này, truyện ngắn Kim Lân thường bộc lộ chủ đề
một cách rất tự nhiên. Người đọc có thể nhận ra ý nghĩa của truyện theo mạch tự
sự chứ không cần những lời thuyết minh của tác giả.
Ở các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo trình tự thời gian, chúng tôi nhận
thấy thành phần trần thuật còn bao gồm các thành phần tĩnh tại. Đó là những
đoạn giới thiệu lai lịch nhân vật, miêu tả ngoại cảnh, đồ vật; các đoạn hồi tưởng,
độc thoại; những đoạn trữ tình ngoại đề… Vấn đề đặt ra là nhà văn đã tổ chức
các thành phần tĩnh tại này như thế nào.
81
Trong truyện Đuổi tà, mạch tự sự khời đầu bằng cảnh ông tự Năm và mọi
người chuẩn bị lễ vật cho buổi lễ đuổi tà đầu năm. Sau những nghi lễ đuổi tà,
truyện kết thúc với cảnh mọi người vui mừng đón năm mới. Thời gian trần thuật
và thời gian cốt truyện trùng khớp với nhau. Đây là một khoảng thời gian tương
đối ngắn. Do khoảng thời gian khách quan từ điểm mở đầu đến điểm kết thúc
trần thuật rút ngắn nên tác giả xen vào một đoạn hồi tưởng của nhân vật. Trong
cái vui vẻ của việc lập đàn đuổi tà đầu năm, mạch tự sự trở về quá khứ theo dòng
hồi tưởng của ông tự Năm:
Vốn là một thầy khoá lỗi thời, đã bao nhiêu năm ông tự lang thang chốn
này chốn khác, có phen phiêu bạt lên cả rừng xanh nước độc, mong đem đạo
thánh hiền để đổi lấy miếng ăn. Nhưng ông không ngồi dậy học Được ở đâu lấy
ba tháng. Là vì, vào cái thời này họ theo Tây học cả. Rồi ông xoay nghề lang
thuốc, nhưng ông trời vẫn hay chớ trêu con người có chữ, mấy năm liền hàng họ
ế ẩm. Cái cảnh mạng nhện mắc dao cầu chẳng bao lâu mà hết lưng vốn. Thế rồi
ông lại lang thang; con người dài lưng tốn vải ấy không quen với việc gồng thuê
gánh mướn. Với chiếc khăn vải tây đỏ thắt chéo buộc chặt lấy chiếc tháp sơn
then, trong đựng một chiếc địa bàn với mươi lá số, ông tìm đất, tìm cát, xem bói
xem toán độ thân.
Cái nghề lý số này cũng không dung ông lâu. Cuộc sống gắt gao hàng ngày
đã sa thải nhà nho lỡ vận thành một anh thầy cúng làm bạn với tiu, cảnh mà lại
hoá ra thanh nhàn, ông tự Năm làm tự chùa Vân Điềm này kể đã hơn ba năm.
Nhờ trời cũng mát mặt chứ không đến nỗi lận đận như hồi mấy năm về trước…
[54, tr.124].
Trong Người kép già, Cơn con, Bố con ông gác máy bay trên núi Côi
Kê… người đọc cũng có thể tìm thấy nhiều đoạn giới thiệu về lai lịch nhân vật
qua những đoạn tái hiện tâm trạng. Đoạn thể hiện tâm trạng ông Tư Mủng trong
truyện Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê, là đoạn thuộc thành phần tĩnh
tại:
82
Mỗi lần nghĩ đến chuyện bỏ ngọn núi này đi, ông Tư Mủng lại nhớ đến
những ngày siêu bạt, đói khát ấy. Những ngày mà mười một con người trong gia
đình ông lang thang đi tìm đất.
Ông còn nhớ, ngày ấy trên dọc đường lên ngược những lúc cay cực nhất,
những lúc tưởng như cùng đường tận lối rồi, ông lại nghe tiếng người ông nội
run rẩy khuyến khích con cháu trong nhà một câu: “… Cố lên! Cố lên các con
ơi! Bắc Giang, Thái Nguyên đất rộng người thưa… Lên được đến trên ấy là có
cái sống rồi…”.
Mười một con người đói khát, vừa lớn vừa bé trong gia đình mỗi lần nghe
người ông nội nhắc đến Thái Nguyên, Bắc Giang lại tỉnh ra, vui lên, hy vọng, tin
tưởng, lại lếch thếch, bồng bế, dắt díu nhau đi [54, tr.377 - 378].
Như vậy, trong các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo trình tự thời gian,
những thành phần trần thuật có tính chất tĩnh tại như những đoạn giới thiệu lai
lịch nhân vật, tái hiện tâm trạng… đã làm cho dung lượng truyện Kim Lân mở
rộng. Sự mở rộng này đã mang đến cho truyện ngắn của ông khả năng tái hiện
cuộc sống đầy đặn hơn và góp phần thể hiện rõ hơn cảm hứng trong các tác
phẩm.
3.2.2. Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần
thuật, ở nhiều thời điểm khác nhau
3.2.2.1. Trong các tác phẩm tự sự hiện đại kiểu cấu trúc truyện lồng trong
truyện (một cấp độ) là dạng cấu trúc trần thuật phổ biến. Dạng cấu trúc trần thuật
này thường gặp ở các nhà văn như Nam Cao (Đôi mắt), Tô Hoài (Vợ chồng A
Phủ), Nguyễn Trung Thành (Rừng xà nu) Nguyễn Thi (Những đứa con trong
gia đình) Nguyễn Minh Châu (Mảnh trăng cuối rừng),… Kim Lân cũng có
nhiều truyện ngắn tổ chức trần thuật theo dạng cấu trúc trần thuật này.
Trong 28 truyện của Kim Lân, chúng tôi nhận thấy có 13/28 truyện tổ chức
trần thuật theo dạng cấu trúc truyện lồng truyện. Đối với Kim Lân, kiểu tự sự rẽ
ngang truyện lồng truyện không theo một cách thức ổn định nào. Có khi mạch tự
sự rẽ ngang khi nhắc đến một nhân vật, khi nhân vật hồi tưởng về quá khứ, cũng
có khi một chi tiết trong truyện lại gợi ra một câu chuyện khác, chuyện này nối
83
chuyện kia theo kiểm gợi nhớ… Kiểu cấu trúc trần thuật truyện trong truyện có
khi tồn tại ở một cấp độ, có khi nhiều cấp độ. Có khi truyện lồng truyện chỉ vắn
tắt vài dòng, có khi vài trang và cũng có khi truyện lồng có tính chất độc lập
tương đối có thể tách riêng thành một truyện riêng.
3.2.2.2. Trong một số truyện ngắn của Kim Lân, chúng tôi nhận ra có rất
nhiều sự kiện liên quan đến cuộc sống riêng của nhà văn. Đây là những biến cố,
sự kiện, những ấn tượng mà nhà văn đã trải qua. Ở các truyện ngắn này, dù được
tổ chức trần thuật theo phương thức trần thuật chủ quan hay phương thức trần
thuật khách quan, người đọc đều có thể tìm thấy nhiều đoạn hồi thuật của tác giả.
Mỗi đoạn hồi thuật thường là một câu chuyện xen góp phần bộc lộ rõ hơn chủ đề,
cảm hứng của tác phẩm:
Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả
bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba
mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là
người quê mùa nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ
chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc. Thầy anh mất năm trước, mẹ già anh
mất năm sau. Nhà không làm ruộng nữa. Các anh Tư đều đi chợ trên. Tư phải
thôi học ở nhà. Hai mẹ con lâm vào cảnh thất nghiệp. Ruộng không có mà làm;
đi buôn - buôn xùng buôn xằng thôi cũng không có vốn. Anh em họ mạc thì thờ ơ
lạnh nhạt, họ coi hình như không có mẹ con Tư trong gia đình nữa [54, tr.26].
Ở truyện ngắn này, do khoảng thời gian khách quan từ điểm mở đầu trần
thuật cho đến kết thúc trần thuật rất ngắn (một buổi chiều) nên tác giả đã kết cấu
câu chuyện xen về gia cảnh của nhân vật Tư qua một đoạn hồi thuật. Những sự
kiện trong đoạn hồi thuật là những sự kiện xảy ra trước thời điểm mở đầu trần
thuật. Những sự kiện trong đoạn hồi thuật của nhân vật Tư về quá khứ đã góp
phần rất lớn vào việc khái quát hiện thực và bộc lộ chủ đề tác phẩm.
Trong truyện Đứa con người cô đầu, câu chuyện xen về gia cảnh của nhân
vật Thạ được trần thuật theo kiểu trần thuật uỷ thác cho nhân vật:
Im lặng một lúc khá lâu, lại nghe hắn cất tiếng kể tiếp bằng một giọng đều
đều não nuột:
84
- Em nói thật đời em. Anh đừng khinh em nhé. Anh ạ, mẹ em là cô đầu chính
tông. Ông bà ngoại em sinh được bốn người con gái làm cô đầu cả bốn. Trước
khi lấy thầy em, mẹ em đã tằng tịu với một ông Lục sự; đẻ được một người con
trai. Được ít lâu ông Lục ấy phải đổi đi xa. Xem chừng ông ta cũng không giàu
có gì. Mẹ em bỏ thẳng cánh. Thầy em lấy mẹ em về; nhà có vợ cả. Vốn là người
đanh đá lại cậy thế thầy em chiều chuộng, mẹ em lấn quyền hành hạ các anh con
mẹ già em khổ lắm. Đấy là thời kỳ sung sướng nhất trong đời em. Em đi học đến
lớp ba thì thầy em mất. Sẵn có ít vốn riêng, mẹ em trở lại nghề cũ; mở nhà hát cô
đầu. Được vài năm cảnh nhà sa sút dần. Em phải thôi học về nhà làm thằng nhỏ.
Anh ạ… [55, tr.25].
Trong truyện này, do khoảng cách giữa thời điểm mở đầu và thời điểm kết
thúc trần thuật ngắn (một buổi tối) nên truyện có một đoạn hồi thuật về các sự
kiện xảy ra trước thời điểm mở đầu trần thuật. Đó là những sự kiện về hoàn cảnh
bất hạnh của nhân vật Thạ. Như vậy, ở truyện ngắn này, với dạng cấu trúc trần
thuật truyện lồng trong truyện và sự phối hợp giữa hai phương thức trần thuật
chủ quan và phương thức trần thuật khách quan, tác giả đã đưa vào truyện nhiều
yếu tố tự truyện. Đó là lối cảm, lối nghĩ và các trạng thái tâm lí nếm trải của
người trần thuật - nhân vật tôi.
Khảo sát các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo dạng cấu trúc trần thuật
truyện lồng trong truyện, chúng tôi thấy dung lượng của những truyện xen được
bố trí ở nhiều mức độ khác nhau: có khi là một câu chuyện ngắn vài dòng, có khi
là cả một đoạn tự sự khá dài.
Trong Người chú dượng, thời gian trần thuật bắt đầu khi nhân vật tôi trở lại
trại Han thăm dì Bản. Theo từng bước chân của người trần thuật (tôi), quá khứ về
cái bến Mảng hiện về một cách đầy đủ. Đó là ký ức về những con người mà một
thời nhân vật tôi gắn bó thân thiết: cô hàng xén Thuỷ Nguyên có cái cổ trắng
ngần, hai bàn tay muôn muốt; hàng thịt chó của ông Phác rỗ răng vàng; cái quán
“Thủ Đô” của hai chị em cô Thư và cô Hương bán xôi chè và bún chả; cửa hàng
của cụ phó may già và vợ chồng chú Khách bán thuốc bắc… Cứ như thế, mạch
tự sự rẽ ngang thành nhiều nhánh chuyện, chuyện này nối chuyện kia theo kiểu
85
gợi nhớ. Chẳng hạn khi nghe tin dì Bản mất, câu chuyện về quá khứ của người dì
bất hạnh lại xen vào mạch tự sự:
Dì Bản là em út mẹ tôi. Một người em xấu xí và hẩm hiu nhất. Cuộc đời dì,
tôi thấy hình như dì không có được một lần may mắn nào. Tôi cũng không thấy
lần nào dì tôi mặc được bộ quần áo mới nữa. Ông bà ngoại tôi chết đi thì dì bỏ
quê lên ở với mẹ tôi. Thật ra dì tôi cũng đi làm thuê, làm mướn lấy miếng mà ăn,
chứ dì cũng chẳng phải nhờ vả mẹ tôi. Nhưng dì vẫn cứ phải sống bên mẹ tôi.
Ông bà ngoại tôi chết đi, các con thất tán lưu lạc mỗi người một phương, còn lại
hai chị em, dì phải sống nương tựa vào sự chỉ dẫn và cái tình máu mủ, ruột thịt
của mẹ tôi [54, tr.464 - 465].
Cũng có khi, từ chi tiết “cái hòm chân gỗ dổi” đã “khiến” nhân vật tôi nhớ
ra tất cả những ấn tượng trong quá khứ về lão Mộc gù. Đó là câu chuyện về
“thằng Mộc gù khe đá đỏ” đã từng là mối đe doạ cho tất cả các gia đình nơi tản
cư. Theo lời đồn đại của mọi người, hắn có một hình thù gớm ghiếc là mối nguy
hiểm của mọi người. Hắn là tay ăn chơi đã từng giết người vượt ngục, từng đâm
chết bố con ông bạ Dưỡng, đã từng chém sả vào người vợ trong một lần say
rượu, đã từng bị cắt gân vì tội gặt trộm lúa, từng sống một cuộc sống như người
rừng cùng một đứa con gái… Với những đoạn rẽ ngang như thế, có lúc người
đọc tưởng như nhà văn đã quên bẵng đi câu chuyện ban đầu. Nhưng khi đọc hết
truyện, người đọc mới nhận ra dụng ý của nhà văn. Với những câu chuyện xen
như thế nhà văn như cố ý khắc hoạ nhân vật theo miệng lưỡi của người đời để tạo
một sức mạnh cần thiết cho cái phản đề: vẻ bề ngoài của con người cứ ghi nhận
nhưng đừng vội thành kiến, dư luận có nhiều nhưng đừng vội cả tin. Hãy kiểm
chứng lại bằng thực tiễn.
Cũng với lối tự sự rẽ ngang, trong truyện Con chó xấu xí, tác giả đưa người
đọc đi từ chuyện tản cư trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đến chuyện về
một con chó xấu xí, rồi đến chuyện anh chàng Nhược Dự khó hiểu, khôn ngoan
với cô vợ hai trẻ măng chuyên việc bếp núc hầu hạ chồng. Tương tự như vậy,
trong truyện Bà mẹ Cẩn, mạch tự sự của tác giả cũng rẽ ngang với nhiều câu
chuyện. Có khi là những câu chuyện xen theo kiểu khi nhắc đến nhân vật chính
86
là có nhiều câu chuyện đi kèm: chuyện về cô giáo Ninh - một cô giáo trẻ người
Hà Nội mới sơ tán về cùng sống với bà mẹ Cẩn; chuyện về cậu con trai duy nhất
của bà mẹ Cẩn; chuyện về cái giếng nước, cây mít như hai kỷ vật gắn liền với
đứa con thương yêu của bà… Tương tự, trong Thượng tướng Trần Quang Khải
- Trạng vật, ngoài hai câu chuyện: chuyện tình của cô gái quê tên Tần với Đức
Thái Tông Trần Cảnh và chuyện về chàng đô vật Trạng Sặt, tác giả đã nhiều lần
rẽ ngang với nhiều câu chuyện (kiểu hai cấp độ). Đó là những câu chuyện về tài
nghệ của Trạch Khô - đối thủ của Trạng Sặt, chuyện về hai ông đô Voi, đô Nghê
thời Lý… Có thể nói, với lối tự sự này, Kim Lân đã tạo ra dạng cấu trúc trần
thuật nhiều tầng bậc ở nhiều thời điểm khác nhau. Dạng cấu trúc trần thuật này
thể hiện một vốn hiểu biết phong phú, tài năng và bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật
của nhà văn. Ngoài ra, nó còn giúp nhà văn mở rộng dung lượng phản ánh hiện
thực như ông đã từng quan niệm về truyện ngắn.
3.2.2.3. Chúng tôi nhận thấy: trong một số truyện, cách tổ chức trần thuật có
những nét riêng biệt mà người đọc ít gặp ở một số nhà văn khác.
Ở truyện Cầu đánh vật, với việc vận dụng phương thức trần thuật khách
quan và phương thức trần thuật chủ quan, câu chuyện được kể lại bởi nhân vật tôi
và nhân vật đô Cót. Nhân vật tôi với vai trò là người dẫn truyện đã kể lại câu
chuyện về hai bố con đô Cót và đô Vựa. Bên cạnh đó, với kiểu trần thuật uỷ thác
cho nhân vật, người trần thuật (tôi) uỷ thác câu chuyện cho nhân vật đô Cót kể.
Với lối tự sự rẽ ngang như thế, đô Cót đã kể lại ba câu chuyện: chuyện ngôi đất
hình nhân bái tướng, chuyện cầu đánh vật và chuyện Ngựa Lồng, Voi Cái. Cả ba
câu chuyện này đều có vai trò như nhau, bổ sung cho nhau cùng nhằm biểu hiện
truyền thống vật và niềm tự hào về sân vật Cẩm Giang.
Cũng tương tự như thế, trong Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng
vật, cấu trúc trần thuật có sự đan xen nhiều câu chuyện vào nhau. Phần đầu là câu
chuyện tình giữa cô gái quê hiền thục (Tần) với Đức Thái Tông Trần Cảnh. Phần
sau là câu chuyện về chàng đô vật Trạng Sặt (Trần Quang Khải). Hai câu chuyện
này có tính độc lập tương đối, khi đứng riêng chúng có thể trở thành hai truyện
độc lập. Dĩ nhiên, Kim Lân đã có sự liên kết khéo léo hai câu chuyện bằng chi
87
tiết chiếc khăn vàng trên đầu Trạng Sặt rơi xuống, hai cha con đức vua nhận ra
nhau. Có thể nói, với dạng cấu trúc trần thuật này, truyện ngắn Kim Lân đã tồn
tại một dạng cấu trúc trần thuật khá độc đáo. Đó là dạng cấu trúc trần thuật
truyện bên truyện.
3.2.3. Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí
3.2.3.1. Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn nhằm tái hiện lại các
chi tiết, sự kiện, biến đổi về xung đột và nhân vật theo một trình tự nào đó với
một cách nhìn, cách cảm nhất định. Nếu như, trong các sáng tác truyện dân gian,
trật tự trần thuật thường được tiến hành theo trình tự từ trước đến sau, từ mở đầu
đến kết thúc với sự tập trung vào hành động xung đột bên ngoài thì trong cách tự
sự hiện đại, các nhà văn đã đi sâu vào khám phá, thể hiện đời sống nội tâm của
con người. Một trong những cái mốc quan trọng của tự sự hiện đại là dùng tâm lí
nhân vật như một không gian để triển khai cốt truyện. Không có nhiều những tác
phẩm mẫu mực như Nam Cao nhưng Kim Lân vẫn có những cách đi của riêng
mình.
3.2.3.2. Trong các truyện ngắn tổ chức trần thuật theo tâm lý, chúng tôi thấy
thế giới tinh thần của các nhân vật được nhà văn mổ xẻ thấu đáo, thể hiện rất
phong phú và đa dạng. Góp vào sự đa dạng sinh động của cấu trúc trần thuật,
dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí là một biểu hiện khá độc đáo trong cách tổ
chức trần thuật của Kim Lân.
Truyện Vợ nhặt kể về nhân vật chính (Tràng) xoàng xĩnh về ngoại hình, ăn
nói thô kệch. Tràng làm công việc đẩy xe thóc liên đoàn lên tỉnh. Một lần, Tràng
đang cố sức kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Mệt quá hắn hò một câu cho đỡ nhọc.
Tràng chỉ đùa tầm phơ tầm phào. Lần thứ hai ra chợ tỉnh, với bốn bát bánh đúc
và vài câu nói đùa, Tràng đã có vợ. Hắn đưa người vợ nhặt về nhà trong cảnh
người chết đói như ngã rạ. Trong cảnh đói kém và ngạc nhiên của mọi người,
Tràng cảm thấy hãnh diện vô cùng. Mặt hắn có vẽ gì phớn phở khác thường. Hắn
tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lấp lánh. Người vợ nhặt đi theo hắn về nhà. Thị tỏ
ra rón rén e thẹn. Về đến nhà, Tràng thưa chuyện cùng mẹ. Sau một thoáng ngạc
nhiên, thương xót cho cảnh ngộ người đàn bà, bà cụ Tứ chấp nhận trong tâm
88
trạng vừa mừng, vừa tủi, vừa lo… Sáng hôm sau, trong bữa ăn ngày mới, cả nhà
ai nấy đều vui vẻ trò chuyện và hy vọng vào ngày mai tốt đẹp hơn.
Với cốt truyện này, Kim Lân tổ chức trần thuật rất tự nhiên, hấp dẫn. Mạch
tự sự diễn ra theo quá trình tâm lý nhân vật Tràng. Mở đầu tác phẩm là cảnh
Tràng đưa người vợ nhặt về nhà trước sự ngạc nhiên của mọi người. Trong sự
ngạc nhiên của mọi người và bản thân, Tràng nhớ lại câu chuyện nhặt được vợ.
Tiếp đó mạch tự sự chảy xuôi cho đến thời điểm kết thúc. Với mạch tự sự theo
diễn biến tâm lý nhân vật, Kim Lân đã tạo cho tác phẩm một mạch trần thuật rất
tự nhiên, hấp dẫn. Có thể nói, dạng cấu trúc trần thuật này đã góp phần rất lớn
vào việc biểu hiện ý nghĩa tố cáo của tác phẩm: cuộc sống khủng khiếp đến mức
khiến con người nghĩ rằng mình không thể có được hạnh phúc ngay cả khi nó trở
thành hiện thực.
Tương tự, trong truyện Trả lại đòn, mạch tự sự dẫn dắt người đọc đi từ thắc
mắc này đến thắc mắc khác. Sư Tuệ, Chánh Bảy là người như thế nào? Câu
chuyện mối thù cầu Đôi ra sao mà khiến con cháu làng Đồng Kỵ phải thực hiện
lời nguyền: “Có gặt của làng Trang Liệt được năm bảy sào ruộng thì làm ăn mới
mát mẻ thịnh vượng”. Câu chuyện mối thù cầu Đôi được mở ra bí mật với kiểu
cấu trúc trần thuật truyện lồng truyện qua lời kể của Chánh Bảy. Đỉnh điểm của
câu chuyện trả lại đòn là cuộc so tài giữa Chánh Bảy, sư Tuệ và bọn đàn em với
cánh Ba Lai Hà Đông. Qua tâm trạng thất bại ê chề của Chánh Bảy, mạch tự sự
đưa người đọc đến cuộc chiến ngang tài ngang sức bằng hồi ức của nhân vật. Thế
rồi, cùng với cái chết của con Vện, Chánh Bảy phải tháo chạy về địa phận Đồng
Kỵ mà chưa gặt được sào lúa nào. Ở đây, sự ngắt quãng, trở ngược của thời gian
cốt truyện được giải thích như không phải bởi sự chú ý của tác giả mà bởi quy
luật tâm lý của nhân vật. Với việc tổ chức mạch tự sự theo cơ chế tâm lí của hồi
tưởng, tác giả đã làm nổi rõ hơn nỗi nhục nhã của một con người mà khi thất bại
mới biết “thiên hạ có lắm người tài”. Cách tổ chức trần thuật này đặt trong mối
tương quan về sự di chuyển điểm nhìn: từ điểm nhìn tác giả sang điểm nhìn nhân
vật. Sự di chuyển điểm nhìn này đã tạo nên cái nhìn nhiều chiều về nhân vật
Chánh Bảy, về mối thù cầu Đôi giữa làng Trang Liệt và làng Đồng Kỵ. Đây
89
chính là lô gích để tác phẩm kết thúc theo lối để ngỏ nhằm thể hiện một ý nghĩa
sâu sắc: trong con người luôn tồn tại cái thiện, vấn đề là ở chỗ phải có một tình
thế và phải biết nhen nhóm để cái thiện ấy bùng toả.
Ở truyện ngắn Đứa con người vợ lẽ, mạch tự sự cũng xuôi chảy rất tự nhiên
theo diễn biến tâm trạng nhân vật. Đoạn hồi ức và cảm xúc của nhân vật Tư khi
bị cái đói hành hạ thể hiện rất rõ dấu ấn tự truyện của nhà văn:
Tư đưa “bát phở” lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên anh nếm một
hụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá được một bát
cơm nguội trộn ăn thì phải biết! Nghĩ đến cơm nguội, anh lại nhớ đến một hôm,
cũng đói như hôm nay. Thân, bạn chí thiết của anh, đến chơi nèo mãi anh về
- Nhà đi vắng cả, chỗ anh em với nhau, tôi nói thật: anh ở đây ăn cơm
nguội - cơm nguội thôi - với tôi cho vui nhé.
nhà. Rồi mời anh:
Cái bữa cơm nguội với cà ấy sao mà ngon thế! Tư còn nhớ mãi, có lẽ suốt
đời: Tư so sánh ông Cả với Thân. Nỗi căm hờn nổi dậy trong lòng. Hai mắt anh
quắc lên một cách dữ dội. Anh nghiến răng ném mạnh “bát phở” ra sân. Tiếng
bát vỡ làm cho lòng anh dịu. Anh bật cười thấy mình vô lý và hơi tiêng tiếc. Tư
thấy, mỏi rã rời. Toàn thân run lên. Anh nằm lả xuống [54, tr.30 - 31].
Cũng với mạch tự sự như trên, trong truyện Cơm con, câu chuyện thời trẻ
của cụ Nhiêu hiện ra rất tự nhiên hợp lý sau những lần gây sự của đứa con bất
hiếu (cả Anh).
Càng nghĩ, cụ càng giận uất cái thằng con bạc bẽo. Nó dám mở mồm nói:
“Có được nhờ ông cái gì tôi không phải” mà nghe cho được.
Nó không nhớ cái hồi mẹ nó chết đi ư? Em nó còn đỏ hỏn; nó mới biết bò.
Ai nuôi nó nhớn đến ngày nay? Ai lo lắng vợ con cho nó? Ai gây cửa hàng cửa
họ cho nó? Chao ôi! Cứ nghĩ đến cái đận gà trống nuôi con ấy mà phát sợ. Một
mình cụ tần tảo buôn rau bán hành, buôn đấu bán thúng, thôi thì xoay xoả đủ
vành [54, tr.549 - 550].
90
Theo mạch hồi ức, cụ Nhiêu nhớ lại những ngày tháng lận đận, một thân
một mình nuôi con. Cụ bỏ qua ngoài tai lời khuyên của mọi người, cụ không dám
nghĩ đến cảnh vợ lẽ con thêm. Là người lo xa nên cụ đã tậu hơn mẫu ruộng
thượng đẳng điền để phòng thân. Những ngày còn ruộng, vợ chồng cả Anh tử tế
với cụ quá chừng. Thế rồi sau khi sang tên mẫu ruộng ấy, vợ chồng cả Anh tỏ ý
khủng khỉnh với cụ ngay. Chúng nó xem cụ như là cái nợ… Như vậy, ở truyện
ngắn này, mạch tự sự không chỉ diễn ra tự nhiên, hợp lý mà nó còn góp phần
khám phá ra ý nghĩa tâm lý của nhân vật trong mối tương quan với hiện tại của
câu chuyện. Ở đây, sự đối sách có ý thức của nhà văn về câu chuyện “cha mẹ
nuôi con bằng giời bằng bể, con nuôi cha mẹ con kể từng ngày” là rất rõ.
Nhà văn Kim Lân từng đưa ra quan niệm: trong truyện ngắn chi tiết có vai
trò vô cùng quan trọng. Quan niệm này đã đưa đến đặc điểm: truyện ngắn của
ông thường rất nhiều chi tiết. Có khi chi tiết lấn át cả cốt truyện. Chi tiết góp
phần thể hiện tinh tế, rõ ràng tính cách nhân vật nhất là khi nó được thể hiện như
là kết quả của quá trình tâm lí. Đoạn miêu tả hành động của nhân vật Đoàn (Ông
lão hàng xóm) khi nghe tin chị vợ bị đuổi ra khỏi cuộc họp được tác giả thể hiện
- Sao? Mình?… Ô kìa, sao tôi hỏi mình lại khóc. Chị vợ nức nở:
rất hợp lí:
- Đang họp dở chừng… Người ta đuổi không cho họp nữa…
- Người ta đuổi không cho họp à? Người ta đuổi không cho mình họp nữa
à? Làm sao mà người ta đuổi?… Giời ơi! Thế này thì tôi sống làm sao được!…
Mình ơi! Mình ơi!…
Đoàn bấu chặt lấy hai vai vợ, vừa nói, vừa rít. Cái ý nghĩ định chết khi nãy
vừa dịu xuống lại đau xé trong người Đoàn, Đoàn bỗng ôm chầm lấy vợ vào
lòng. Vừa đau đớn, khổ sở, vừa căm tức, điên cuồng, Đoàn cắn vào cổ, vào vai,
vào ngực vợ… [54, tr.258].
Hành động của nhân vật Đoàn là hành động hợp với diễn biến tâm trạng.
Chính nỗi đau khổ tuyệt vọng, tình cảm thương vợ và thương bản thân đã khiến
anh ôm choàng lấy vợ. Ở đây, hành động của nhân vật không chỉ là kết quả của
91
một quá trình tâm lí mà nó còn trở thành chi tiết rất đắt góp phần thể hiện chủ đề
tác phẩm.
Khai thác hình tượng nhân vật và tổ chức mạch tự sự theo quá trình tâm lí,
ngòi bút Kim Lân còn thể hiện thế mạnh ở khả năng phân tích và biểu hiện tâm
trạng nhân vật. Trong truyện ngắn Làng, Kim Lân đã thể hiện rất xúc động tâm
trạng nhân vật lão Hai. Lão vô cùng đau khổ khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây.
Nỗi đau lên đến tột độ, lão căm thù cả làng chợ Dầu. Nỗi mặc cảm, nhục nhã về
Ông Hai ngồi lặng trên một góc giường, bao nhiêu ý nghĩ đen
tối, ghê rợn, nối tiếp bời bời trong đầu óc ông lão. Biết đem nhau đi
đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?…
cái tin làng chợ Dầu theo giặc khiến lão tưởng như tuyệt đường sinh sống:
Thật là tuyệt đường sinh sống! Mà không một gì cái đất Thắng này. Ở Đài,
ở Nhã Nam, ở Bố Hạ, Cao Thượng… đâu đâu có người chợ Dầu người ta cũng
đuổi như đuổi hủi. Mà cho dẫu vì chính sách Cụ Hồ người ta chẳng đuổi đi nữa,
thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” cái câu nói của người đàn bà tản
cư hôm trước lại dội lên trong tâm trí ông.
Hay là quay về làng?…
Vừa chớm nghĩ như vậy. Lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng
ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ…
[54, tr.192]
Với sự sâu sắc, Kim Lân đã thể hiện rất xúc động cõi lòng thâm sâu của
người nông dân. Họ một lòng đi theo cách mạng. Dù hoàn cảnh nào họ cũng
hướng về kháng chiến, hướng về Cụ Hồ. Chính những tình cảm ấy đã khiến lão
Hai vô cùng sung sướng và tự hào khi nghe tin làng chợ Dầu không theo giặc.
Nhìn lại toàn bộ sáng tác của Kim Lân trong cả hai giai đoạn trước và sau
cách mạng tháng tám, người đọc có thể nhận ra sự am hiểu sâu sắc về tâm lí con
người của nhà văn. Sự am hiểu này đã giúp Kim Lân có những trang biểu hiện
một cách tinh tế, chân thực và cảm động những tình cảm của người lao động
92
nghèo. Có thể nói, chính vốn sống và sự sâu sắc đã đưa ngòi bút của ông gần như
đến tận cùng những tâm trạng, nỗi niềm của con người. Điều này cũng như sự
thành công của Nam Cao khi khắc hoạ những bi kịch của người nông dân và
người trí thức trước cách mạng tháng tám. Cũng bởi những thành công này mà
nhà thơ Trần Ninh Hồ đã đưa ra một nhận xét khá sát đáng về truyện ngắn của
Kim Lân. “Tất cả, tất cả, dường như đã được ghi lại bằng những thân phận,
những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch
sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa
ấy” [75, tr.87].
3.2.3.3. Cùng với việc tổ chức mạch tự sự theo quá trình diễn biến tâm lí
nhân vật, việc tổ chức điểm nhìn trần thuật cũng là một yếu tố trong sáng tạo
nghệ thuật của nhà văn Kim Lân. Khi miêu tả, trần thuật các sự kiện nhà văn bao
giờ cũng bộc lộ quan điểm đánh giá, cảm thụ về các sự kiện, các loại nhân vật
trong tác phẩm. Ở những truyện viết về đề tài những sinh hoạt văn hoá nhà văn
thường tiến hành trần thuật theo quan điểm ca ngợi, trân trọng những giá trị văn
hoá truyền thống. Ở các truyện viết về đề tài xã hội, vấn đề tổ chức điểm nhìn
trần thuật diễn ra rất linh hoạt. Có khi nhà văn tiến hành trần thuật theo quan
điểm của mình, có khi theo quan điểm nhân vật, có khi là sự kết hợp luân phiên
giữa các quan điểm. Trong các truyện ngắn cấu trúc trần thuật theo quá trình tâm
lí, Kim Lân thường sử dụng linh hoạt hai loại điểm nhìn bên trong và điểm nhìn
bên ngoài. Đặc biệt, với loại điểm nhìn bên trong, sự trần thuật thường được tiến
hành qua lăng kính của một tâm trạng cụ thể. Điều này giúp nhà văn tái hiện
thành công các quá trình tâm lí của nhân vật. Có thể nói, với dạng cấu trúc trần
thuật theo tâm lí, Kim Lân đã mang đến cho nhân vật một đời sống nội tâm
phong phú, đa chiều hơn các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan,
Ngô Tất Tố… Dạng cấu trúc trần thuật này chúng ta thường gặp trong các truyện
ngắn của Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu,…
3.2.4. Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian
3.2.4.1. Hình thức tổ chức sự kiện cơ bản nhất là liên kết các sự kiện thành
truyện. Lối tự sự truyền thống thường tổ chức mạch phát triển của câu chuyện
93
theo trật tự từ trước đến sau, từ mở đầu đến kết thúc. Cách tổ chức sự kiện này
thường hướng đến sự thể hiện ý nghĩa của chuỗi sự kiện trong mối quan hệ nhân
quả. Kim Lân cũng kế thừa cách tổ chức trần thuật này. Bên cạnh đó, có một số
lượng đáng kể truyện ngắn của ông mở đầu thời điểm trần thuật ở nhiều thời
điểm khác nhau của thời gian cốt truyện. Ở những trường hợp như vậy, mạch tự
sự của tác giả sẽ không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, có sự xen kẽ giữa hiện
tại và quá khứ. Sự xáo trộn thời gian này thường gắn với quy luật tâm lí, với việc
hướng người đọc đến việc đi tìm nguyên nhân, cội nguồn của hiện tại… Dạng
cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian trong truyện ngắn Kim Lân mang
đặc điểm khá đa dạng. Mạch tự sự có thể mở đầu từ hiện tại rồi trở về quá khứ, từ
quá khứ gần đến quá khứ xa rồi trở về hiện tại. Hoặc mạch tự sự không xuôi
chiều mà có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa quá khứ và hiện tại…
3.2.4.2. So với các dạng cấu trúc trần thuật khác, sự đa dạng và mức độ rõ
ràng của dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian được thể hiện ít hơn.
Nhưng với con số 10/28 truyện là một con số đáng kể để định hình nên một dạng
cấu trúc trần thuật khác của nhà văn Kim Lân.
Ở nhóm truyện thứ nhất (gồm các truyện: Nên vợ nên chồng, Chị
Nhâm…), mạch tự sự không xuôi chiều mà đi từ hiện tại trở về quá khứ, từ quá
khứ gần đến quá khứ xa. Trong truyện Nên vợ nên chồng, mạch trần thuật bắt
đầu từ sự kiện anh Thế chị Hoà xây dựng gia đình trong một hoàn cảnh hết sức
cảm động và được mọi người vun vén rất nhiệt tình. Từ sự kiện này, mạch tự sự
trở về quá khứ gần với câu chuyện về các tên “anh cu Ế” trong những ngày
tháng sống tủi nhục. Từ quá khứ gần, mạch trần thuật trở về quá khứ xa với nhiều
chuyện: chuyện “một năm đói mẹ Thế đem bốn đứa con nhỏ lên đất Triều Dương
kiếm việc”, chuyện đồng chí Vân giúp Thế kể khổ, chuyện hai lần lấy vợ không
thành của Thế. Ở phần hai của truyện, mạch tự sự cũng trở về quá khứ với các
câu chuyện: chuyện bố mẹ Hoà đem con tìm đất kiếm sống, chuyện bố Hoà và
em Hoà bị giết, chuyện mẹ Hoà thương chồng thương con khóc cho đến chết,
chuyện Hoà dũng cảm kể tội thằng Khang… Tương tự, ở truyện Chị Nhâm,
mạch tự sự mở đầu bằng việc giới thiệu câu chuyện chị Nhâm vì địa chủ phải
94
trốn lên rừng 27 tháng. Tiếp đó, mạch truyện trở về quá khứ hai mươi năm trước
với câu chuyện hai vợ chồng ông lão đánh dậm có hai cô con gái là Nhâm và
Cấn. Sau những sự kiện về quãng đời bất hạnh của Nhâm và gia đình, truyện kết
thúc bằng sự kiện Dung và Nhâm trở thành vợ chồng. Họ thoát khỏi cảnh đời
khốn khổ, trở thành chủ nhân của cuộc đời mình.
Ở hai truyện Nên vợ nên chồng, Chị Nhâm, với việc tổ chức mạch tự sự từ
hiện tại trở về quá khứ, tác giả đã làm nổi bật quá khứ đau thương của những số
phận bất hạnh. Sự đối lập giữa hiện tại cuộc đời mới với quá khứ bất hạnh đã làm
nổi bật chủ đề tác phẩm: chỉ có cách mạng mới thay đổi được số phận bất hạnh
của người nông dân, chỉ có cách mạng mới đem lại hạnh phúc cho họ.
Ở nhóm truyện thứ hai (gồm các truyện: Thượng tướng Trần Quang Khải
- Trạng vật, Người chú dượng, Bà mẹ Cẩn…), cấu trúc trần thuật lại mang một
đặc điểm khác: mạch tự sự không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, có sự xen kẽ
giữa hiện tại và quá khứ. Trong truyện Thượng tướng Trần Quang Khải -
Trạng Vật, mạch tự sự bắt đầu từ thời điểm một đêm cuối xuân Tần ru con ngủ
với bao tâm trạng ngổn ngang. Tiếp đó, mạch tự sự có sự trở đi trở lại, xen kẽ
giữa nhiều câu chuyện của quá khứ với hiện tại: chuyện tình giữa Tần và Đức
Thái Tông Trần Cảnh; chuyện về chàng đô vật Trạng Sặt; chuyện về hai ông đô
Voi, đô Nghê thời Lý; chuyện cha con Đức Thái Tông Trần Cảnh nhận ra nhau…
Như vậy, ở truyện ngắn này, sự trở đi trở lại xen kẽ của quá khứ nhằm hướng
người đọc đến việc giải thích nguyên nhân, cội nguồn của hiện tại . Đó là sự dở
dang của cuộc đời Tần; sự say mê, hiểu biết cặn kẽ của Đức Thái Tông Trần
Cảnh với môn võ vật… Nói cách khác, việc xáo trộn trật tự cốt truyện trong
truyện ngắn này đã mở hướng đưa thêm vào tác phẩm một số cốt truyện khác: cốt
truyện của câu chuyện tình giữa cô gái tên Tần với Đức Thái Tông Trần Cảnh,
cốt truyện của câu chuyện về hai ông tướng Đá Rãi…
Tương tự, trong truyện Bà mẹ Cẩn, sự xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ trong
mạch tự sự cũng mang ý nghĩa đi tìm nguyên nhân hoàn cảnh hình thành nên tính
cách “khó hiểu” của bà mẹ Cẩn. Đó là quá khứ đau khổ, dở dang về đường chồng
95
con. Ngoài ra, ở đây mạch tự sự còn nhằm hướng người đọc đến sự đồng cảm với
nhân vật.
Ở truyện Người chú dượng, với kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người
dẫn truyện vừa là một nhân vật, Kim Lân có chín lần hồi ức. Theo mạch hồi ức,
mạch tự sự không xuôi chiều mà có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa quá khứ và hiện
tại. Mỗi khi hồi ức hiện ra, mạch tự sự lại chuyển sang một câu chuyện thuộc về
quá khứ: chuyện cái bến Mảng - thủ đô Lửa với bao con người thân thiết mà
nhân vật tôi đã từng gắn bó; chuyện cái lối đi qua làng U, làng Ngò; chuyện thân
một cây trám và những cụm sau sau xơ xác; chuyện vợ chồng ông phán già;
chuyện về trại Han những ngày kháng chiến; chuyện dì Bản; chuyện ông Mạc và
con dao rừng vỏ gỗ… Những câu chuyện xuất hiện theo kí ức của nhân vật tôi có
khi vài trang, có khi là một đoạn. Đó là những thông tin ngắn gọn về quá khứ
nhân vật. Cũng có khi, chỉ mấy dòng ngắn ngủi mà Kim Lân đã có cả hình ảnh
gợi nhớ của hiện tại và một câu chuyện thuộc về quá khứ:
Tôi đã đến dẫy tường đổ, trơ vơ bên sườn một quả đồi sỏi đỏ. Cái nhà này
tôi biết. Đấy là nhà vợ chồng một ông phán già ở Hà Nội có con cùng làm một
cơ quan với vợ tôi. Anh con giai ấy ốm, rồi chết từ hồ còn kháng chiến. Vợ chồng
ông phán tôi có gặp mấy lần ở Hà Nội, tôi có lại nhà chơi. Bây giờ vợ chồng ông
ở với người con gái đã luống tuổi làm trong một hợp tác xã đan len gần chợ Cửa
Nam [54, tr.453].
3.2.4.3. Ở dạng cấu trúc trần thuật này, chúng tôi nhận thấy mạch tự sự
thường diễn ra theo hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, mạch từ sự bắt đầu từ
thời điểm hiện tại sau đó trở về quá khứ rồi kết thúc ở hiện tại. Ở trường hợp này,
mạch tự sự thường trở về một khoảng dài của quá khứ. Trường hợp thứ hai, mạch
tự sự có sự trở đi trở lại, xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ với những khoảnh khắc
nhớ ở nhiều thời điểm khác nhau. Trong cả hai trường hợp, mạch tự sự có thể
diễn ra theo mạch hồi ức nhân vật, theo hướng đi tìm nguyên nhân cội nguồn của
hiện tại hay theo hướng truyện lồng truyện… Ở cả hai trường hợp trên, tác giả
thường hướng đến sự so sánh, đối lập giữa quá khứ đau buồn bất hạnh với hiện
tại về sự đổi đời của nhân vật trong cuộc sống mới. Có thể nói, ở dạng cấu trúc
96
trần thuật này, Kim Lân có những nét tương đồng và khác biệt với Nam Cao.
Trong truyện ngắn Nam Cao, mạch tự sự cũng có sự trở về của những khoảng dài
quá khứ nhân vật. Nhưng trong truyện ngắn Nam Cao, quá khứ nhân vật thường
là quá khứ êm đềm, trong sáng, đáng nhớ hơn so với hiện tại (Đời thừa, Trăng
sáng, Chí Phèo…). Những quá khứ này thường đặt Trong sự so sánh đối lập với
tương lai bế tắc do hoàn cảnh xã hội tạo ra. Ở truyện ngắn của Nam Cao, sự trở
về của quá khứ trong mạch tự sự thường nhằm chuyển sự chú ý của người đọc từ
sự việc sang nội tình bên trong của nhân vật. Đó là những bi kịch của con người
trong xã hội cũ…
97
KẾT LUẬN
Kim Lân đến với văn học bằng sự say mê ham thích và ý chí vượt lên số
phận. Ông viết văn với một tâm niệm chân thành: đòi cho mình một chỗ đứng,
một nhân phẩm trong cuộc sống quẩn quanh ở nông thôn bấy giờ. Chính vì tâm
niệm chân thành, đẹp đẽ ấy mà hầu hết các sáng tác của Kim Lân đều tập trung
vào hai mảng đề tài lớn: cuộc sống, tâm tư tình cảm của người nghèo khổ và
những sinh hoạt văn hoá cổ truyền, những thuần phong mỹ tục ở nông thôn.
Trước cách mạng tháng tám, Kim Lân bước vào làng văn với những truyện
ngắn mang tính tự truyện đăng trên báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ
nhật. Ở giai đoạn sáng tác này, ý thức trách nhiệm của nhà văn đối với ông còn
mơ hồ. Ông thường viết về bản thân và cái mình thích. Tuy nhiên, với tấm lòng
của người vốn là con đẻ của đồng ruộng, Kim Lân đã hướng ngòi bút vào cuộc
sống và con người của quê hương. Ông tập trung phản ánh cuộc sống nông thôn
cùng với những cảnh đời nghèo khổ, lam lũ của người nông dân. Bên cạnh đó,
Kim Lân còn có một số tác phẩm viết về những thú vui, trò chơi nơi thôn dã như:
chọi gà, thả chim, chó săn, đánh vật… Có thể nói, những truyện ngắn viết về
những sinh hoạt văn hoá cổ truyền của ông đã tạo được những ấn tượng sâu sắc
đối với người đọc. Đây là những trang viết thể hiện rất rõ vốn hiểu biết tường
tận, phong phú của nhà văn về những giá trị văn hoá truyền thống.
Sau cách mạng tháng tám, nhà văn ý thức hơn về trách nhiệm của mình đối
với cuộc sống và xã hội. Ông tiếp tục viết về những cảnh đời khốn khó, tội
nghiệp. Ông đi sâu vào thể hiện những thay đổi tình cảm, nhận thức, sự đổi đời
của người nông dân nhờ cách mạng, những hoạt động phục vụ cách mạng bình
thường nhưng đáng quí của họ. Với một tầm nhìn, tầm nghĩ mới, Kim Lân đã
sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị như: Vợ nhặt, Làng…
Cả đời văn, Kim Lân chủ yếu viết truyện ngắn. Hơn ba mươi truyện ngắn là
con số không nhiều so với các nhà văn cùng thời nhưng ông đã có những đóng
góp đáng kể cho đề tài nông thôn, thể tài truyện ngắn và nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Thành công của Kim Lân xuất phát từ tài năng bẩm sinh, vốn sống đầy
98
đặn, phong phú, khả năng quan sát và thể hiện độc đáo. Mỗi tác phẩm của ông là
một sự phát hiện, khẳng định bản chất tốt đẹp của con người. Ông luôn hướng
ngòi bút của mình tới điều thiện, cố gắng tìm tòi để nhận ra những biểu hiện tốt
đẹp của cuộc sống và của con người với tấm lòng bao dung, nhân ái tràn đầy. Bởi
vậy, đọc truyện Kim Lân, người đọc luôn cảm nhận được ở tác phẩm của ông
thường toát lên cảm hứng ca ngợi những giá trị tốt đẹp của cuộc sống, cảm hứng
yêu thương trân trọng con người và cuộc sống của con người. Nguồn mạch cảm
hứng ấy xuất phát từ cái tâm của con người nhân ái, cái tâm của người cầm bút.
Cái tâm ấy bình dị, chất phác mà sâu sắc như con người ông. Trong văn Kim
Lân, người đọc không bắt gặp những câu chữ được đánh bóng mạ kền. Ông có
cái nhìn, lối nghĩ và cách diễn đạt của người vốn bình dị chất phác. Văn của ông
không ồn ào mà chân chất, trong sáng mà chững chạc.
Kim Lân từng quan niệm: trong truyện ngắn, chi tiết vô cùng quan trọng.
Truyện của ông đầy ắp những chi tiết. Trước khi viết, nhà văn chuẩn bị rất kỹ chi
tiết, cốt truyện và nhân vật. Để khắc hoạ chân thật, giản dị hình ảnh con người và
cuộc sống của con người, nhà văn thường vận dụng các kiểu trần thuật trong
phương thức trần thuật khách quan và phương thức trần thuật chủ quan.
Ở phương thức trần thuật khách quan, kiểu trần thuật lạnh lùng là kiểu trần
thuật được sử dụng nhiều nhất. Với những đặc điểm của kiểu trần thuật này, tác
giả để cho nhân vật, sự kiện tự nó hiện ra và diễn biến như trong đời sống thật.
Nhà văn tách khỏi câu chuyện, tạo cho người đọc cảm giác Như được tiếp xúc
trực tiếp với các nhân vật và các sự kiện. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận,
đánh giá theo cách của riêng mình. Bên cạnh đó, trong một số truyện ngắn, khi
cần thiết, tác giả lại hoà mình vào nhân vật để bộc lộ thế giới nội tâm của nhân
vật. Ở những trường hợp này, lời nói nửa trực tiếp được sử dụng nhằm khai thác
triệt để tâm lý nhân vật. Ngoài ra, trong một số truyện ngắn như: Đứa con người
vợ lẽ, Cô Vịa, Vợ nhặt, Làng… người đọc bắt gặp rất nhiều yếu tố tự truyện. Đó
là nét tương đồng giữa những dấu vết về hoàn cảnh, những trải nghiệm, những ấn
tượng của nhà văn với thế giới nhân vật mà nhà văn thể hiện trong tác phẩm. Ở
đặc điểm này, nhà văn đã vận dụng sáng tạo phương thức trần thuật khách quan.
99
Sự vận dụng sáng tạo này đã mang đến cho truyện ngắn Kim Lân sự đa dạng về
phương thức trần thuật và mang đến cho chủ thể trần thuật một tư cách xuất hiện
mới.
Ở phương thức trần thuật chủ quan, truyện ngắn Kim Lân trần thuật chủ yếu
với hai kiểu trần thuật: kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò dẫn truyện và
kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là một nhân vật. Ở
kiểu người trần thuật xưng tôi đóng vai trò người dẫn truyện, người trần thuật là
một hình tượng giả định đóng vai trò người dẫn truyện và thường bộc lộ quan
điểm của tác giả. Ở kiểu người trần thuật xưng tôi vừa là người dẫn truyện vừa là
một nhân vật, do khoảng cách giữa người trần thuật và câu chuyện được rút ngắn
nên tạo điều kiện thuật lợi cho việc miêu tả trực tiếp các biến cố, sự kiện xảy ra
cũng như khả năng thâm nhập vào chiều sâu thế giới nội tâm của nhân vật. Ngoài
ra, ở một số truyện, hai kiểu trần thuật trên còn được vận dụng trong sự kết hợp
với kiểu trần thuật uỷ thác cho nhân vật. Phương thức trần thuật liên chủ quan
này đã góp phần rất lớn vào việc thể hiện chủ đề tác phẩm và cảm hứng của nhà
Góp vào đặc điểm của nghệ thuật trần thuật, cấu trúc trần thuật trong
truyện ngắn Kim Lân cũng là một yếu tố quan trọng trong sáng tạo nghệ
thuật của nhà văn. Trong những sáng tác của mình, Kim Lân thường sử
dụng nhiều dạng cấu trúc trần thuật: dạng tự sự theo trình tự thời gian, dạng
tự sự hay rẽ ngang với những kiểu rất riêng, dạng tự sự theo quá trình tâm
lí và dạng tự sự đảo lộn trình tự thời gian. Các dạng cấu trúc trần thuật này
được sử dụng, kết hợp với nhau rất linh hoạt, hợp lí và đa dạng. Bên cạnh
đó, việc thâm nhập, khám phá thế giới hình tượng nhân vật từ nhiều điểm
nhìn trần thuật cũng góp phần tạo nên sự hấp dẫn, nét độc đáo trong cách tự
sự của nhà văn.
văn.
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Kim Lân thuộc lớp nhà văn viết
không nhiều. Kim Lân viết không nhiều cũng bởi ông rất thận trọng với mình và
với người. Trong những sáng tác thành công của Kim Lân, người đọc đều tìm
100
thấy con người ông trong đó. Văn ông thường bộc lộ sự thận trọng, sâu sắc trong
suy nghĩ; sự nhân hậu, ôn hoà trong tình cảm. Dù số lượng trang viết không
nhiều nhưng với ba truyện ngắn được đưa vào chương trình giảng dạy của tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông (Ông Cản Ngũ, Làng, Vợ nhặt) và hai
truyện ngắn được xem là mẫu mực về nghệ thuật viết truyện (Vợ nhặt, Làng), có
thể nói, văn xuôi Kim Lân rất tương đắc khi đứng cạnh văn xuôi của các nhà văn
cùng thời như: Tô Hoài, Nguyên Hồng,…
101
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2003), “Kim Lân nhà tiểu thuyết phong tục, sở trường về miêu
tả trạng thái nhân thế”, Tạp chí Văn (số 13), Hội văn nghệ TP.HCM.
2. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn xuôi Kim Lân”, Tạp chí Văn học (số 6), Viện
văn học - uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam.
3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà
Nội.
4. Bakhtin M. (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (bản dịch của Phạm Vĩnh
Cư), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
5. Bakhtin M. (1998) Những vấn đề thi pháp Dostoievski (bản dịch của Trần
Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Y Ban (2004), “Nhà văn Kim Lân: thuở ấy chúng tôi sống bằng hữu lắm”,
Giáo dục và thời đại chủ nhật (số 17).
7. Lê Huy Bắc (1998), “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại”, Tạp chí
Văn học (số 9).
8. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb Đồng Tháp.
9. Nam Cao (1986), Truyện ngắn chọn lọc, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam
Ninh, Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Lê Tư Chỉ (1996), Để phân tích một tác phẩm truyện ngắn, Nxb Trẻ,
TP.HCM.
11. Nguyễn Văn Dân (1998), Lí luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
12. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
13. Đặng Anh Đào (2001), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Văn nghệ
TP.HCM.
14. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận văn học phần tác phẩm văn học,
Nxb Đại học quốc gia TP.HCM.
102
15. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà
Nội.
16. Hà Minh Đức (chủ biên) (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học, Hà
Nội.
17. Hà Minh Đức (2000), Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội.
18. Lê Bá Hán (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
19. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học văn hoá - vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
20. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - Vấn đề và
suy nghĩ, Nxb Giáo dục, TP.HCM.
21. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Văn học và học văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
23. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể loại, Nxb Đà
Nẵng.
24. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ thuật,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
25. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
26. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội .
27. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
28. Nguyễn Công Hoan (1969), “Viết truyện ngắn”, Văn nghệ (số 30).
29. Nguyễn Công Hoan (1995), Bước đường cùng, Nxb Văn nghệ TP.HCM.
30. Trần Ninh Hồ (1991), “Một ngày Kim Lân”, Văn nghệ (số 34).
31. Nguyên Hồng (1970), Bước đường viết văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
32. Nguyên Hồng (1978), Những nhân vật ấy đã sống với tôi, Nxb Tác phẩm
mới.
33. Nguyễn Khải (2003), Nghề văn cũng lắm công phu, Nxb Trẻ, TP.HCM.
103
34. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi
pháp, Nxb Giáo dục TP.HCM.
35. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
36. Lê Đình Kỵ (1984), Cơ sở lí luận văn học, Nxb Đại học và trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
37. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học, Nxb Tác phẩm mới (Hội nhà văn Việt Nam), Hà Nội.
38. M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận
nghiên cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
39. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng việt, Nxb Giáo dục,Hà Nội.
41. Thạch Lam (1988), Tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
42. Đặng Thị Huy Lam (2005), Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Luận văn thạc
sĩ, Đại học sư phạm TP.HCM .
43. Kim Lân (1942), Cô Vịa, Trung Bắc chủ nhật (số 135) (in lại trong luận văn
thạc sĩ Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Đặng Thị Huy Lam (2005), Đại
học sư phạm TP.HCM).
44. Kim Lân (1955), Làng, Truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
45. Kim Lân (1957), Ông lão hàng xóm, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
46. Kim Lân (1958), Anh Chàng hiệp sĩ gỗ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
47. Kim Lân (1960), Cô gái công trường, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
48. Kim Lân (1962), Con chó xấu xí, Nxb Văn học, Hà Nội.
49. Kim Lân (1965), Vợ chồng anh đội trưởng, Văn nghệ (số 13), Tuần báo
của hội liên hiệp văn học - nghệ thuật Việt Nam.
50. Kim Lân (1982), “Nguyên Hồng - một nhà văn”, Tạp chí văn học, (số 3).
51. Kim Lân (1983), Vợ nhặt, Nxb Văn học, Hà Nội.
52. Kim Lân ( 1984), “Chặng đường đi tới”, Tạp chí Văn học (số 4).
53. Kim Lân(1984), Ông Cản Ngũ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
54. Kim Lân (1996) Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học, Hà Nội.
104
55. Kim Lân (2004), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
56. Nguyễn Văn Long, Trần Đăng Xuyền (1999), Tư liệu văn 12 - phần văn học
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La
Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình, (2001), Lý luận Văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
58. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá (1992), Văn học 12
(tập1) Nxb Giáo dục TP.HCM .
59. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
60. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1986), Các nhà văn nói về văn (tập 2), Nxb
Tác phẩm mới, Hà Nội.
61. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Các tác giả văn học Việt Nam (tập 2), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
62. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
63. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Tổng tập văn học Việt Nam tập 30A, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
64. Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Dung, Trần Hữu Tá (1995), Tổng tập văn học
Việt Nam tập 30B, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
65. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và
phong cách, Nxb Trẻ, TP.HCM.
66. Trần Đồng Minh (1994), Tiếng nói tri âm, Nxb Trẻ, TP.HCM.
67. Hồ Quí Nghĩa (2004), “Sức sống trong truyện ngắn Vợ nhặt”, Giáo dục và
thời đại, (số 49).
68. Bảo Nguyên (1997), “Sử dụng ngôn ngữ - nghệ thuật đặc sắc của truyện
ngắn Kim Lân”, Tạp chí Ngữ học trẻ, Nxb Hội ngôn ngữ học VN.
69. Lữ Huy Nguyên (1997), “Kim Lân với những thú chơi ngày xuân Kinh
Bắc”, Văn nghệ (số 5 + 6), Hội nhà văn VN.
70. Lữ Huy Nguyên (2000), Ấn tượng văn chương, Nxb Văn hoá thông tin.
105
71.Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ TP.HCM.
72. Phùng Quý Nhâm (2003), Văn học và văn hoá - Từ một góc nhìn, Nxb Văn
học, Trung tâm nghiên cứu Quốc Học.
73. Ngô Văn Phu, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách (1999), Nhà văn Việt Nam thế
kỷ XX (tập 4), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
74. G.N.Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
75. Vũ Dương Quỹ (tuyển chọn và biên soạn) (1999), Nhà văn và tác phẩm
trong nhà trường phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học sư phạm
TP.HCM.
77. Vương Thảo(2004), “Nhà văn Kim Lân và sự im lặng của nỗi buồn”, An
ninh thế giới cuối tháng (số 30).
78. Bùi Việt Thắng (2002), Văn học Việt Nam 1945 - 1954 (văn tuyển), Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
79. Nguyễn Quang Thiều (chủ biên), Nguyễn Quyến, Trần Thanh Hà (2000),
Tác giả nói về tác phẩm, Nxb Trẻ, TP.HCM.
80. Phạm Ngọc Thưởng (2004), “ Nghệ thuật xây dựng đối thoại trong truyện
ngắn Vợ nhặt của Kim Lân”, Tuyển tập 10 năm tạp chí Văn học và tuổi
trẻ, Nxb Giáo dục.
81.TIMÔFÊÉP(1962), Nguyên lý lý luận văn học, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
82. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ TP.HCM.
83. Nguyễn Tuân (1995), Vang bóng một thời , Nxb Văn nghệ TP.HCM.
84. Phùng Văn Tửu (1996), “Một phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí Văn
học (số 2).
85. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
86. Hoà Vang (2004), “Kim Lân những ấn tượng”, Văn học và tuổi trẻ (số7),
Nxb Giáo dục.
106
87. Hoài Việt (1999), Nhà văn trong nhà trường Kim Lân, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
88. YuLốtman, Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, (in trong sách: Trịnh Bá
Đĩnh, (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, Hà Nội).
89. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
90. Nhiều tác giả (2004), Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho
nhà trường, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
91. Nhiều tác giả (1992), Khảo cứu về các phong tục và những thú chơi đẹp ở
đồng quê miền Bắc Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
92. Nhiều tác giả (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
107
PHỤ LỤC Bảng khảo sát phương thức trần Thuật trong truyện ngắn của Kim Lân
PHƯƠNG THỨC TRẦN THUẬT
TÊN TÁC PHẨM
SỐ THỨ TỰ
NĂM SÁNG TÁC
Đuổi tà Làng Thư phát động Nên vợ nên chồng Tìm em Chị Nhâm Vợ nhặt Ông lão hàng xóm Anh chàng hiệp sĩ gỗ
CHỦ QUAN X X X X X X X X
Đứa con người vợ lẽ Cô Vịa Đứa con người cô đầu Người kép già Đôi chim thành Cầu đánh vật Chó săn Nỗi này ai có biết Con Mã Mái Trả lại đòn Cơm con Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng Vật
1942 1942 1942 1942 1943 1943 1943 1943 1944 1944 1944 1945 1948 1952 1954 1954 1954 1957 1957 1958 1960 1962 1965 1969
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28
KHÁCH QUAN X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X X
X
Ông Cản Ngũ Ông Cả Luốn gốc me Con chó xấu xí Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê Người chú dượng
108
Vợ chồng anh đội trưởng Bà mẹ Cẩn
8
22
Tổng Cộng
109
Bảng khảo sát sự phân bố các dạng cấu trúc trần
Thuật trong truyện ngắn của Kim Lân
DẠNG CẤU TRÚC TRẦN
THUẬT
TÊN TÁC PHẨM
(2)
(4)
(3) X
X X X X X X X X X X
(1) X X X X X X X X X X X X X X X X X
X X X X X X X X X X X
Đứa con người vợ lẽ Cô Vịa Đứa con người cô đầu Người kép già Đôi chim thành Cầu đánh vật Chó săn Nỗi này ai có biết Con Mã Mái Trả lại đòn Cơm con Thượng tướng Trần Quang Khải - Trạng vật Đuổi tà Làng Thư phát động Nên vợ nên chồng Tìm em Chị Nhâm Vợ nhặt Ông lão hàng xóm Anh chàng hiệp sĩ gỗ Ông Cản Ngũ Ông Cả Luốn gốc me Con chó xấu xí Bố con ông gác máy bay trên núi Côi Kê Người chú dượng Vợ chồng anh đội trưởng Bà mẹ Cẩn
X X X X X X X X X X
SỐ THỨ TỰ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28
X
17
10
13
10
Tổng cộng
110
(1): Dạng cấu trúc trần thuật theo trình tự thời gian. (2): Dạng cấu trúc trần thuật theo tâm lí. (3): Dạng cấu trúc trần thuật rẽ ngang lồng ghép nhiều tầng bậc trần
(4): Dạng cấu trúc trần thuật đảo lộn trình tự thời gian.
thuật.
111