ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THẾ ANH ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA HỮU THỈNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN, NĂM 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THẾ ANH ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA HỮU THỈNH

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lưu Khánh Thơ

THÁI NGUYÊN, NĂM 2012

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LỜI CẢM ƠN!

Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo đã tận tình

truyền đạt những tri thức quí báu, dìu dắt giúp đỡ tôi trong quá trình học tập

và nghiên cứu.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo: PGS.TS Lưu

Khánh Thơ đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, đồng thời đã

hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quí báu cho tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học trường Đại học

sư phạm Thái nguyên, cùng bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, người thân đã

động viên, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt

nghiệp này.

Thái Nguyên, ngày 22 tháng 4 năm 2012

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Thế Anh

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi

trong quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên

cứu. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Thế Anh

i

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cảm ơn

Lời cam đoan

Mục lục ................................................................................................................ i

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 8

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI TRƯỜNG

CA VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH ................................ 8

1.1. Những tiền đề lý luận ............................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm trường ca .......................................................................... 8

1.1.2. Một số ý kiến về trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại ........ 10

1.1.3 .Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại ....... 14

1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại ............................................................ 20

1. 2. Quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh ........................................... 24

1.2.1.Các giai đoạn sáng tác ...................................................................... 24

1.2.2. Quan niệm về thơ của Hữu Thỉnh ................................................... 26

Chương 2. THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG TRONG TRƯỜNG CA HỮU THỈNH .. 32

2.1. Hình tượng người lính ............................................................................ 32

2.1.1. Người lính khi đối diện với hiện thực khốc liệt của chiến tranh .... 33

2.1.2. Tâm trạng người lính trong chiến trận ............................................ 36

2.1.3. Lí tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng ..................... 42

2.1.4. Khát vọng hạnh phúc ...................................................................... 47

2.2. Hình tượng người phụ nữ ....................................................................... 50

2.2.1. Người Mẹ tảo tần, nhân hậu và giầu đức hy sinh ........................... 51

2.2.2. Người Mẹ - điểm tựa vững vàng nơi hậu phương .......................... 54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.2.3. Người phụ nữ - biểu tượng của sự chịu đựng ................................ 56

ii

2.2.4. Người phụ nữ với những góc khuất trong cuộc chiến tranh ........... 58

2.3. Hình tượng đất nước .............................................................................. 63

2.4. Hình tượng biển...................................................................................... 69

Chương 3. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA HỮU THỈNH . 75

3.1. Ngôn ngữ ................................................................................................ 75

3.1.1. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ đời sống ...................................... 75

3.1.2. Ngôn ngữ thơ mang màu sắc dân gian ............................................ 78

3.1.3. Ngôn ngữ thơ sáng tạo mới mẻ ....................................................... 84

3.2. Thể thơ ................................................................................................... 86

3.2.1. Thơ tự do ......................................................................................... 86

3.2.2. Thơ văn xuôi ................................................................................... 90

3.3. Giọng điệu .............................................................................................. 92

3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi .................................... 92

3.3.2. Giọng điệu xót thương, cay đắng .................................................... 96

3.3.3. Giọng điệu trữ tình, triết lí .............................................................. 99

PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 103

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 105

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất hiện và trưởng thành trong cuộc kháng

chiến chống Mĩ. Nhìn vào chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, điều dễ dàng

nhận ra ở ông là sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi. Gần nửa thế kỉ cầm bút,

Hữu Thỉnh đã tạo dựng cho mình một sự nghiệp thơ ca phong phú và đa dạng

về thể loại. Khá nhiều bài thơ và nhất là trường ca của ông qua sự thẩm định

của thời gian vẫn còn nguyên giá trị.

1.2. Chính “sức bền ” sáng tạo, niềm say mê văn chương đã giúp cho

Hữu Thỉnh sớm khẳng định mình qua các giải thưởng văn học. Đầu tiên phải

kể đến là giải Ba cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1973 với bài Mùa xuân đi đón,

tiếp đó là giải A cuộc thi thơ 1975 - 1976 cho tác phẩm Chuyến đò đêm giáp

ranh và trường ca Sức bền của đất. Năm 1991, tác giả lại tiếp tục nhận giải

Nhất trong cuộc thi thơ viết về Nhà trường do Bộ ĐH&THCN cùng

TWĐTNCSHCM tổ chức với bài Thưa thầy. Năm 1994, Hữu Thỉnh được Bộ

quốc phòng tặng thưởng giải xuất sắc với tác phẩm Trường ca biển. Đặc biệt

ông đã hai lần được trao giải thưởng chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam

với trường ca Đường tới thành phố (1980) và tập thơ Thư mùa đông (giải A

năm 1995). Và cũng với tập thơ Thư mùa đông, Hữu Thỉnh lại đoạt giải thơ

ASEAN năm 1999. Trường ca Biển (2004), đoạt giải thưởng văn học của

Nxb Quân đội nhân dân.

1.3. Hữu Thỉnh là một trong số không nhiều nhà thơ viết trường ca và

đạt được những thành công nhất định. Nguồn cảm hứng từ truyền thống dân

tộc và thời đại anh hùng, cùng với vốn sống thực tế ở chiến trường đã tạo tiền

đề cho thể loại trường ca phát triển. Trong đội ngũ tác giả có thành tựu ở thể

loại trường ca như Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Trần Mạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hảo, Nguyễn Trọng Tạo…nhà thơ Hữu Thỉnh với các bản trường ca Đường

2

tới thành phố, Sức bền của đất, Trường ca biển đã được ghi nhận như là một

trong những gương mặt tiêu biểu. Trường ca của ông có sức ôm chứa nhiều

vấn đề, về cả độ rộng của không gian và độ dài của thời gian, có khả năng

khái quát hiện thực rộng lớn, không những nhiều về số lượng mà còn đạt giá

trị về chất lượng. Vì vậy mà trường ca của Hữu Thỉnh là một dấu ấn nổi bật

trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nó như “miền đất hứa” ẩn chứa bao điều

cần chúng ta khám phá.

1.4. Với mong muốn tìm hiểu và khẳng định những nét độc đáo cũng

như những đóng góp trên cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật

trong các sáng tác trường ca của Hữu Thỉnh, chúng tôi chọn Đặc điểm

trường ca Hữu Thỉnh làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.

Nghiên cứu Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh giúp chúng ta có cái nhìn toàn

diện hơn về sự nghiệp sáng tác của ông.

Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn được trau dồi thêm kiến

thức về thơ hiện đại Việt Nam trước và sau 1975. Hy vọng đây sẽ là tài liệu

tham khảo hữu ích cho những bạn đọc yêu thơ Hữu Thỉnh, cho việc giảng dạy

văn thơ Hữu Thỉnh nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

2. Lịch sử vấn đề

Năm 1975, tập thơ Âm vang chiến hào (in chung với Lâm Huy Nhuận)

ra đời. Ngay ở tập thơ đầu tay, Hữu Thỉnh đã thể hiện một phong cách, một

giọng điệu riêng. Trải qua thời gian, thơ ông ngày càng chiếm được cảm tình

của người đọc và thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình.

Số lượng các công trình, bài viết về sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh

khá phong phú. Có những bài viết đánh giá, phân tích từng tác phẩm cụ thể,

có những đánh giá chung về sự nghiệp, phong cách thơ Hữu Thỉnh; nhìn

chung đều đi vào giải mã tác phẩm và khẳng định phong cách nghệ thuật độc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đáo của nhà thơ.

3

2.1. Những bài viết đánh giá về các tập thơ

1. Đọc tập thơ “Thư mùa đông” Trần Mạnh Hảo nhận thấy, thơ Hữu

Thỉnh cô đọng, hàm súc, giàu chất trí tuệ, mang màu sắc thơ cổ điển phương

Đông “ý tại ngôn ngoại”, thiên về cảm nhận, do đó “khả năng dồn nén tư

tưởng, cảm xúc, dồn nén chữ nghĩa” [21, 103]. Bài viết của tác giả đã chỉ ra nét

tiêu biểu của ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh, tuy nhiên tác giả chưa phân tích, lí giải

cặn kẽ đặc điểm ấy được biểu hiện như thế nào, trên những phương diện gì?

2. Một trong những người đầu tiên nghiên cứu thơ Hữu Thỉnh phải kể

đến là Thiếu Mai. Với bài viết “Hữu Thỉnh trên đường tới thành phố”, Thiếu

Mai đã chỉ ra nét đặc sắc trong trường ca Hữu Thỉnh: Dường như “thấp

thoáng đằng sau câu thơ của Hữu Thỉnh dáng dấp của ca dao, nhưng rõ ràng

thơ anh không rập khuân theo ca dao, không bị ca dao lấn át”. Nhìn chung

tác giả đã nhận ra được chất dân gian trong trường ca “Đường tới thành phố”,

tuy nhiên tác giả chưa phân tích sâu sắc, cặn kẽ những đặc điểm ấy [42].

3. Cùng hướng tiếp cận trên, Mai Hương đã lí giải, phân tích, chứng

minh sự thành công của Hữu Thỉnh khi vận dụng vốn văn học dân gian: “Hữu

Thỉnh có khả năng vận dụng thông minh, sáng tạo vốn văn học dân gian. Cách

nghĩ và cách nói bằng hình ảnh của quần chúng được anh tiếp nhận tự nhiên và

thành công” [27, 112]. Đây là đóng góp và cũng là thành công của Hữu Thỉnh.

Bài viết đã có những kiến giải khoa học, xác thực, rõ ràng trong việc chỉ ra dấu

ấn của ca dao trong trường ca “Đường tới thành phố”.

4. Cùng hướng tiếp cận thơ Hữu Thỉnh như tác giả thiếu Mai và Mai

Hương, khi đọc “Trường ca biển” Hữu Đạt cho rằng “Thơ Hữu Thỉnh có

nhiều cái mới mà không xa cái truyền thống, thậm chí có khi tái tạo lại cái đó

có từ trong truyền thống mà vẫn có dấu hiệu riêng về phong cách của mình”

[12, 163]. Tác giả thấy được trường ca này là một sáng tạo về hình tượng và

ngôn ngữ thơ ca. Bài viết đã bước đầu chỉ ra những cách tân nghệ thuật trên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cơ sở truyền thống trong thơ Hữu Thỉnh.

4

5. Ngoài ra còn có bài viết “Dài rộng với thời gian” của Đặng Hiển

với những nhận định khá xác đáng về đặc điểm, nội dung tập thơ “kết hợp

nhuần nhuyễn tính trữ tình và triết lí”. Đặc biệt tác giả đi sâu khai thác đặc

sắc nghệ thuật tập thơ, đó là sự kết hợp tính dân tộc với tính hiện đại từ ngôn

ngữ tới hình ảnh, trong đó “sử dụng rộng rãi một cách sáng tạo các biện

pháp tu từ, nhân hóa, ẩn dụ, chuyển đổi cảm giác” [26, 16]. Nó khẳng định

phong cách thơ Hữu Thỉnh một cách độc đáo trong nền thơ ca Việt Nam

đương đại.

2.2. Những bài viết nhận xét, đánh giá chung về nhà thơ Hữu Thỉnh

1. Lưu Khánh Thơ trong bài viết “Hữu Thỉnh – một phong cách thơ

sáng tạo”. Sau khi khảo sát từ tập thơ “Âm vang chiến hào”, trường ca “Sức

bền của đất”, “Những người đi tới biển” đã nhận định: Thơ ông có “giọng

điệu tươi mát, hồn nhiên, tinh tế”. Tác giả đã phát hiện ra ảnh hưởng của chất

liệu văn hóa dân gian đến thơ Hữu Thỉnh, cùng những tìm tòi, sáng tạo của

nhà thơ: “Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở

những cách nói, cách ví von, so sánh, mà còn ở cách tư duy, liên tưởng độc

đáo, ở một âm hưởng xa xôi khó nhận biết...đó là nguyên nhân khiến cho Hữu

Thỉnh có những câu thơ đa nghĩa, có tính hàm ẩn cao, mới lạ trong cách diễn

đạt, bất ngờ trong cảm xúc” [59, 410]. Cuối cùng tác giả rút ra kết luận khá

xác đáng về phong cách thơ Hữu Thỉnh: “Đằm thắm, hồn hậu, nghiêng về

phía rợp mát. Cái trầm lắng yêu thương lấn át cái ồn ào sôi sục” [59, 421].

2. Trong cuốn Thơ Việt Nam hiện đại PGS.TS Lưu Khánh Thơ đã cho

rằng: một trong những đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Hữu Thỉnh nói

chung và trường ca nói riêng là mang đậm màu sắc dân gian. “Trong làng

thơ, anh nổi tiếng là người mê và thuộc nhiều ca dao tục ngữ...Hữu Thỉnh có

thể nói chuyện say sưa suốt ngày về ca dao. Anh phân tích thấu đáo, cặn kẽ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hiểu biết từng cái hay, cái đẹp của những câu ca dao như một người chuyên

5

nghiên cứu văn học dân gian. Vốn kiến thức phong phú này đã làm Hữu

Thỉnh thêm giàu có, tạo thuận lợi cho những tìm tòi sáng tạo của thơ anh.

Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở cách nói, cách

ví von, so sánh mà còn ở cách tư duy, cách liên tưởng độc đáo, ở một âm

hưởng xa xôi khó nhận biết” [35, 411].

3. Nguyễn Đăng Điệp đã nhận thấy một số sự thay đổi trong cấu trúc

thơ, dòng thơ, tứ thơ của Hữu Thỉnh để tạo nên sự mới mẻ trong thơ: “Mô

hình câu thơ, sự vật hiện tượng đem ra để so sánh thường nhỏ bé, tương quan

sự xuất hiện của những con số, tứ nằm ngay trong đơn vị câu”, giọng điệu thì

trầm lắng suy tư và cuối cùng tác giả nhận xét “Xuất phát từ nền móng văn

học dân gian nhưng....đã xử lí chất liệu truyền thống bằng cái nhìn hiện đại

nhằm tạo nên những đột phá về thi pháp thể loại” [15, 226].

4. Từ góc độ thi pháp, Trúc Thông đã phân biệt cái tôi trữ tình trong

thơ Hữu Thỉnh với ba biểu hiện: “Người lính cách mạng mà tình yêu nước rất

cụ thể trong tình yêu thương rất mực quê hương, đồng đất; người bảo toàn và

đấu tranh phát triển nhân cách và nhà thơ của một thế hệ”. Song nhìn vào

toàn bộ sáng tác thơ Hữu Thỉnh ta thấy “ba nhân vật trữ tình ấy trộn hòa,

xoắn bện, hiển hiện chỉ trong duy nhất một con người – nhà thơ, người lính

Hữu Thỉnh”. Tác giả đã phát hiện và nhận định “chất liệu văn hóa dân gian

ngàn năm đã thấm dưỡng linh hồn những câu thơ, chữ thơ. Những mảng dữ

dội của đời sống thật, sự khỏe khoắn của thể trạng tâm hồn con người tham

gia trực tiếp vào đời sống ấy đã bồi đắp nên chất hiện đại cho những dòng

thơ mềm mại. Giữ vững và làm tươi mới hơn câu thơ Việt trong cuộc vật mình

đổi mới ngôn ngữ thơ đang dần dà mà quyết liệt diễn ra trong toàn bộ nền

thơ ta, đó là đóng góp đáng trân trọng của thế hệ nhà thơ chống Mỹ mà Hữu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thỉnh là một trong số đại biểu xứng đáng nhất” [68].

6

5. Xuất phát từ đặc trưng thể loại, sau khi khảo sát các tập thơ Tiếng

hát trong rừng, Thư mùa đông, trường ca Đường tới thành phố, Trường ca

biển, Lý Hoài Thu tìm hiểu sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Hữu

Thỉnh và chỉ ra tư duy thơ đích thực của ông: “Một trong những tiềm năng

thơ Hữu Thỉnh là sự nhạy cảm trực giác... dĩ nhiên là không thể bắt bằng sự

quan sát của thị giác, sự lắng nghe âm thanh của thính giác nhưng nhiều khi

chúng bị đẩy lại và thay thế bằng cảm giác” [69, 45]. Bằng cái nhìn khái

quát, tác giả nhận thấy “Thơ Hữu Thỉnh giàu sức mạnh nội lực gắn bó máu

thịt với đời sống tâm linh và truyền thống thơ ca dân tộc Việt Vam...Thơ anh

có sự kết hợp phẩm chất dân tộc và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lí và độ

cảm xúc tràn trào, giữa sự hiền hòa lắng đọng và mãnh liệt sục sôi, giữa khả

năng viết những tác phẩm trường ca dài và thơ trữ tình ngắn” [69].

Nhìn chung những bài viết chỉ khái quát những nét chính trong thơ Hữu

Thỉnh hoặc mới tập trung vào một số khía cạnh nổi bật trong các tác phẩm cụ

thể. Bởi vậy rất cần có những công trình nghiên cứu một cách toàn diện, hệ

thống về trường ca Hữu Thỉnh. Tuy vậy những ý kiến nhận xét, đánh giá của

những người nghiên cứu đi trước là những định hướng và gợi mở vô cùng quý

giá cho chúng tôi khi thực hiện đề tài của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Ở cả hai chặng đường sáng tác trước và sau 1975 Hữu Thỉnh đều có

những đóng góp đáng kể cho nền thơ hiện đại. Bên cạnh những tập thơ: Tiếng

hát trong rừng, Thư mùa đông, Thương lượng với thời gian; Hữu Thỉnh

còn có những bản trường ca: Sức bền của đất, Đường tới thành phố, Trường

ca Biển….

Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào các bản trường ca

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhưng cũng khảo sát cả các tập thơ của tác giả :

7

 Âm vang chiến hào, Nxb Quân đội nhân dân, H.,1975.

 Thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội nhà văn, H., 1998.

 Thơ với tuổi thơ, Nxb Kim Đồng, H., 2000.

 Thương lượng với thời gian, Nxb Hội nhà văn, H., 2006.

Bên cạnh đó luận văn còn tìm hiểu sáng tác ở các thể loại khác của Hữu

Thỉnh để hiểu rõ hơn hành trình sáng tạo của tác giả.

Ngoài ra chúng tôi còn mở rộng phạm vi khảo sát và tham khảo các tập thơ,

trường ca của thế hệ các nhà thơ chống Mĩ để đối sánh, tìm ra những nét

tương đồng và khác biệt trong trường ca Hữu Thỉnh.

4. Đóng góp của luận văn

Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu trường ca Hữu Thỉnh, luận văn chỉ ra

những đặc trưng cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong Trường ca của ông.

Qua đó nhằm khẳng định những đóng góp nổi bật về mặt thể loại trường ca

cho thơ ca Việt Nam hiện đại của tác giả. Luận văn còn là tài liệu tham khảo

hữu ích cho những độc giả quan tâm, yêu thích thơ Hữu Thỉnh nói riêng và

cho việc giảng dạy thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường nói chung.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phân tích - tổng hợp

- Đối chiếu - so sánh

- Thống kê – phân loại

- Thi pháp học

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn được cấu tạo thành ba chương:

Chương 1: Một số vấn đề lí luận về thể loại trường ca và quá trình

sáng tác của Hữu Thỉnh

Chương 2: Thế giới hình tượng trong trường ca Hữu Thỉnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật trong trường ca Hữu Thỉnh

8

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI TRƯỜNG CA

VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH

1.1. Những tiền đề lý luận

1.1.1. Khái niệm trường ca

Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm: “Trường ca là tác phẩm

thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca

cũng được dùng để gọi các tác phẩm sử thi thời cổ và trung đại, khuyết danh

hoặc có tác giả” [44]. Như vậy trường ca một thời dùng để chỉ các sử thi dân

gian như sử thi Đam San, nay thường dùng để chỉ các sáng tác thơ dài của các

tác giả như “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn, “Đường tới thành phố”

của Hữu Thỉnh.

Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng “Trường ca có

dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình. Chúng

được soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử thi và truyện kể hoặc bằng nới

rộng một vài truyền thuyết dân gian (Ahoyler) hoặc bằng cách cải biên các

cốt truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian. Trường ca

với tư cách một thể loại tổng hợp, trữ tình – tự sự, hoành tráng cho phép kết

hợp những chấn động lớn, những cảm xúc trầm sâu và những quan niệm về

lịch sử vẫn là một thể loại hiệu năng của thơ ca thế giới” [4].

Như vậy, khái niệm trường ca có nguồn gốc từ văn học phương Tây

“trường ca là thuật ngữ văn học dịch từ chữ pòeme của Liên Xô” [25], đã bắt

đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 50 của thế kỉ XX, dùng để gọi tên

những sáng tác dân gian có tính chất sử thi và có độ dài như Đam San, Xinh

Nhã...Theo cách gọi này thì trường ca đồng nhất với sử thi, anh hùng ca

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Iliats, Ôđixê, Ramyana, Mahabharata...) hoặc các khan của Tây Nguyên. Tuy

9

nhiên trường ca hiện đại không thể là sự vận động tự nhiên của các trường ca

trong lịch sử như sử thi, anh hùng ca. Mặc dù có những điểm giao thoa song

trường ca với tư cách là một thể lọai văn học độc lập luôn có những đặc trưng

khu biệt với sử thi, truyện thơ và thơ dài. Điều dễ nhận thấy là trường ca và sử

thi đều là những tác phẩm có “tầm vóc” lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung,

có sức ôm chứa những vấn đề trọng đại của dân tộc và thời đại. Thế nhưng

trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại có sự khác biệt nhất định so với

trường ca truyền thống (sử thi). Kế thừa các sử thi cổ, trường ca trong văn học

hiện đại không chỉ ca ngợi những anh hùng kiệt xuất, đứng đầu và là đại diện

cho khí phách, tâm hồn, sức mạnh của một bộ tộc, dân tộc cụ thể, mà còn thể

hiện chân dung, tầm vóc của dân tộc ấy trong chiều dài của lịch sử, chiều rộng

của không gian, dưới ánh sáng của một hệ quy chiếu mang tính thời sự, thời

đại và nhân loại.

Vì vậy, muốn chỉ ra đặc thù của trường ca cần phải gắn liền với bối

cảnh thời đại và bối cảnh văn học mà nó ra đời. Trường ca hiện đại Việt Nam

ra đời và phát triển trên nền hiện thực sôi động của các cuộc kháng chiến chống

Pháp, Mỹ và công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Có thể thấy rõ rằng,

sự nghiệp cách mạng Việt Nam phát triển theo xu hướng ngày càng dữ dội,

quyết liệt (trong chống giặc ngoại xâm) và ngày càng đổi mới (trong cuộc đấu

tranh chống cái lạc hậu, cũ kĩ để xây dựng đất nước theo xu hướng hiện đại,

tiếp cận các nước trong khu vực và trên thế giới). Đây là tiền đề xã hội thúc đẩy

sự phát triển của văn học nói chung và cả trường ca nói riêng: “Thời đại chúng

ta là thời đại của các bản trường ca. Thực tiễn cách mạng trên đất nước ta là

những điều kiện vô cùng thuận lợi cho ai muốn viết trường ca” [30].

Trong các kết quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi nhận thấy

quan niệm về trường ca của tác giả Đào Thị Bình (“Thể trường ca trong văn

học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỉ XX” – LATS, 2008) là khá xác đáng:

“Trường ca thường là các tác phẩm trữ tình có dung lượng lớn hoặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vừa, có khả năng tổng hợp và phát huy những ưu thế nổi trội của cả ba loại

10

hình: trữ tình, tự sự và kịch. Với kiểu kết cấu và phát triển theo hướng đan

xen nhiều kiểu kết cấu hoặc kết cấu phức hợp, trường ca có thể bao quát và

miêu tả những mảng hiện thực lớn ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Ngôn ngữ,

giọng điệu phong phú, đa dạng, giàu chất trí tuệ, vừa mang âm hưởng hào

hùng của sử thi vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống” [7].

1.1.2. Một số ý kiến về trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại

Trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại ra đời từ yêu cầu của hiện

thực cuộc sống dân tộc, từ khát vọng của một lớp thế hệ nhà văn muốn ghi lại

thời đại hào hùng trong lịch sử. Hàng trăm trường ca viết về cuộc kháng chiến

chống Mỹ ra mắt bạn đọc thu hút sự quan tâm của giới sáng tác và phê bình

văn học. Trong một thời gian dài từ 1980, 1981, 1982... nhiều cuộc hội thảo

về trường ca diễn ra sôi nổi. Tạp chí Văn nghệ quân đội và tạp chí Văn học là

hai diễn đàn để các nhà nghiên cứu trao đổi về vấn đề này. Đã có nhiều bài

viết công phu được đăng tải ở đây. Nhìn chung, những người quan tâm đều cố

gắng đi sâu vào thực tiễn thể loại để tìm ra những nét đặc thù của trường ca

hiện đại. Về cơ bản các bài viết thường đi theo hai hướng: Thứ nhất là đi tìm

định nghĩa, thứ hai là cố gắng tìm ra các đặc điểm thể loại hoặc nói về một

đặc điểm nào đó.

Về vấn đề định nghĩa trường ca có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có thể

lược qua những bài viết tiêu biểu như: Nhiều tác giả nêu ra vấn đề tên gọi

trường ca nhưng cuối cùng đều thừa nhận như một thực tế và xem “mỗi tác

phẩm là một cách định nghĩa của tác giả về chính thể loại đó” [64] (Hữu

Thỉnh); Tác giả Từ Sơn lại cho rằng “các tác phẩm dài hơi nên gọi là truyện

thơ”. Về khái niệm “Trường ca” Lại Nguyên Ân lại cho rằng “trường ca là

một hiện tượng giao thoa giữa tự sự và trữ tình” [2] (Bàn góp về trường ca).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tác giả Đỗ Văn Khang lại khẳng định “trường ca trong văn học Việt Nam

11

hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy đủ khi có tên gọi là trường ca sử thi hiện

đại” [29] (Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến trường ca hiện đại ở ta).

Như vậy các ý kiến trên đã phần nào làm sáng rõ hơn về định nghĩa

trường ca nói chung và trường ca hiện đại nói riêng. Trong các ý kiến về định

nghĩa trường ca, chúng tôi tâm đắc với ý kiến của Đỗ Văn Khang khi ông cho

rằng “trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy

đủ khi có tên gọi là trường ca sử thi hiện đại” [29]. Đây là ý kiến xác đáng về

trường ca hiện đại. Bởi trường ca hiện đại ra đời trong hoàn cảnh đất nước có

những biến cố dữ dội. Dân tộc ta đã có những trang sử đau thương mà vô

cùng anh dũng, không thể coi là nhỏ bé, vụn vặt bởi lẽ nó đã vượt ra khỏi

phạm vi một dân tộc, nó là những chiến công mà cha ông ta và nhân dân ta đã

gây dựng.

Về đặc trưng thể loại, có nhiều bài viết đã nghiên cứu một cách khá

công phu. Các tác giả thường dựa vào sự so sánh giữa trường ca với thơ dài,

trường ca với truyện thơ...để nói lên đặc trưng của thể loại như: Trần Ngọc

Vương, Mã Giang Lân, Vũ Đức Phúc, Mai Bá Ấn... Trong các bài viết này

đáng chú ý nhất là ý kiến của tác giả Mai Bá Ấn. Theo tác giả giữa trường ca

và thơ dài cũng cần có sự khu biệt để nhận thức đầy đủ đặc trưng của từng thể

loại. Xu hướng “trường ca hóa” các tác phẩm thơ dài sẽ hạ thấp vai trò của

trường ca, xóa nhòa những yếu tố đặc trưng phân biệt nó với các thể loại

khác. Bởi thơ dài thực chất là thơ trữ tình mở rộng phạm vi phản ánh hiện

thực bằng cách tăng cường yếu tố tự sự - “Thơ dài là thơ trữ tình nới rộng

trường độ mà thôi” [5]. Vì thế dù có cố gắng thế nào thì “độ dướn” của một

bài thơ, dù là thơ dài cũng chỉ là sự phát triển của những mạch lẻ cảm xúc.

Còn trường ca không phải là thơ trữ tình mà coi thơ trữ tình là “một bộ phận

con” trong chỉnh thể tác phẩm trường ca. Cảm xúc trong trường ca phải được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ủ men và bốc lửa qua từng đoạn, từng chương nối tiếp nhau trong một thời

12

gian dài với nội dung phản ánh đa diện, với một trí tưởng tượng đa chiều và

một trí tuệ đủ tầm văn hóa, lịch sử xuyên suốt trong quá trình sáng tạo. Bên

cạnh đó một số tác giả đi từ sự vận động của các thể loại được gọi là trường ca

hoặc từ những lí thuyết về thể loại của nước ngoài để xem xét trường ca hiện

đại như các tác giả : Phạm Huy Thông, Đỗ Văn Khang, Hoàng Ngọc Hiến...

Ngoài các bài viết được đăng tải trên báo chí, trong một số công trình

nghiên cứu cũng xuất hiện một số bài viết về trường ca. Sớm nhất, có lẽ là bài

viết của Lại Nguyên Ân, đầu tiên được đăng trên báo, sau được tập hợp trong

cuốn Văn học và phê bình. Trong đó, bài viết “Mấy suy nghĩ về trường ca”

được viết trước 30 tháng 4 năm 1975 là bài viết công phu; ngoài việc ghi nhận

những thử nghiệm về trường ca, tác giả đã phân biệt rõ trường ca với các thể

tài khác, nêu lên những đặc trưng cốt yếu của trường ca, các hình thức trường

ca được viết trong thời gian đó. Bài viết “Thể trường ca trong thơ gần đây”

được Lại Nguyên Ân viết năm 1982. Trong đó, ông xem trường ca như một

thể tài và cẩn trọng cho rằng “trong phạm vi thơ hiện đại ở ta, có lẽ vẫn còn

đủ thận trọng để coi trường ca như là một thể tài đang hình thành và phát

triển, với xu hướng chung là đưa yếu tố suy nghĩ trữ tình thành yếu tố chủ đạo

của tác phẩm trường ca”. Có thể nói rằng, với cuốn “Văn học và phê bình”,

Lại Nguyên Ân đã dành mối quan tâm lớn nhất cho thể loại trường ca. Những

nhận xét đưa ra tuy vẫn dè dặt nhưng lại vô cùng quan trọng đối với phê bình

và sáng tác văn học thời điểm ấy.

Sau này, khi Vũ Văn Sỹ đề cập đến trường ca, ông đặc biệt chú ý đến

vai trò của thể loại trong hệ thống thơ Việt Nam hiện đại. Trong bài Trường

ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại tác giả đã luận giải một cách

hợp lí về sự phát triển của thể loại này. Đặc biệt, năm 1999 Hoàng Ngọc Hiến

đã xuất bản giáo trình Năm bài giảng về thể loại và một trong số những vấn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đề được ông đưa ra là “Mấy vấn đề đặc trưng thể loại và thi pháp của trường

13

ca”. Đây là lần đầu tiên thể loại trường ca mới ở Việt Nam được đưa vào giáo

trình. Có thể nói Hoàng Ngọc Hiến là người dành nhiều tâm sức cho việc

nghiên cứu trường ca. Từ các bản dịch, các bài giới thiệu về trường ca của

Maicôpxki, các lí thuyết về thể loại của Nga, ông đã khái quát nên những đặc

điểm cơ bản của trường ca hiện đại như: nội dung lớn, cảm hứng lớn, mối

tương quan giữa tự sự và trữ tình... Có thể nhận thấy đây là công trình công

phu, kết hợp chặt chẽ lí thuyết và thực tiễn với cách trình bày mang tính mô

phạm, tuy ngay trong cách đặt tên quyển sách đã ít nhiều mang tính nội bộ.

Về những nghiên cứu mang tính trường qui, chúng tôi thấy trường ca ít

nhiều đã được quan tâm, tuy số lượng các công trình vẫn còn ít và chủ yếu là

đề cập đến một vài khía cạnh, một vài tác giả viết trường ca. Từ luận văn thạc

sĩ trở lên, có thể kể đến một số công trình như: Chất sử thi trong trường ca

hiện đại 1954 – 1985 của Lê Thị Hồng Liên (Luận văn thạc sĩ Đại học sư

phạm Huế - 2001); Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến đầu

thế kỉ XXI của Đào Thị Bình (Luận án tiến sĩ, 2008); Đặc điểm trường ca Thu

Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo của Mai Bá Ấn (Luận án tiến sĩ, 2008).

Những công trình này tuy không nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ thi pháp

thể loại nhưng đều là những tài liệu bổ ích cho người nghiên cứu và người

viết trường ca. Đặc biệt qua đây cũng thấy được, hiện nay trường ca đang là

vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, để ý.

Gần đây, nghiên cứu trường ca dường như lại trở nên sôi nổi với các

cuộc tọa đàm: về Trường ca Trầm tích (Hoàng Trần Cương) năm 2002, hai

cuộc tọa đàm về trường ca của Trần Anh Thái; với vô số các bài viết trên

mạng Internet; với sự hồi phục của một số tác phẩm được khai sinh bởi những

tên tuổi lớn một thời bị lãng quên như trường ca của Trần Dần, Văn Cao...và

sự ra đời của một số dạng trường ca mới. Điều đó cho thấy thể loại này ở Việt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nam vẫn tiềm tàng một lực hấp dẫn lâu bền.

14

1.1.3 .Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại

1.1.3.1. Trước 1945 – những tiền đề và sự hình thành thể loại.

Có thể nói, trước 1945, dạng trường ca hiện đại hầu như chưa có. Tuy

nhiên những tiền đề để hình thành nó thì đã tiềm tàng từ xa xưa, trong sâu

thẳm hoài vọng của dân tộc. Có thể do hạn chế về thời đại, đặc biệt về mặt tư

duy, mà tầm vóc vĩ đại của trường ca chưa được khẳng định, chưa được khởi

sắc. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có hai tiền đề

chính cho sự hình thành của trường ca hiện đại.

Trạng thái chống chiến tranh liên miên – tiền đề đầu tiên cho sự ra đời

của trường ca. Việt Nam là mảnh đất đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lúa

nước. Cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng hay nhiều thiết chế văn hóa sau

này dĩ nhiên đều không thể tách rời yếu tố gốc rễ ấy. Có lẽ, cũng từ cội nguồn

này mà trạng thái xã hội truyền thống Việt Nam đa phần là bình lặng. Nhịp độ

sống trong truyền thống của người Việt là chậm rãi, là đủng đỉnh, ngại ngùng

trước những đổi thay. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong văn thơ trung

đại. Đó là những bài thơ tĩnh lặng trong đêm mưa của Nguyễn Trãi, hay giống

như “ao thu lạnh lẽo nước trong veo” của Nguyễn Khuyến..Cũng bởi lẽ bản

chất con người là yên phận, ít tham vọng bá vương và qui phục. Cũng bởi lẽ,

những đổi thay trong xã hội đa phần làm người ta sợ hãi, vì những bất thường

trong xã hội ấy đều gắn liền với chiến tranh, mà có lẽ ba điều người ta sợ nhất

là ốm đau, đói nghèo và chiến tranh; trong đó chiến tranh vẫn khủng khiếp

hơn cả vì nó là bất thường nhất, và nó là tai họa của toàn xã hội, toàn dân tộc

chứ không riêng một gia đình nào. Đương nhiên, một trạng thái xã hội bình

lặng thì khó sinh ra trường ca.

Song không phải sống điềm đạm trung dung thì không có sức mạnh

cộng đồng. Bởi cái “đạm” trong phong cách người châu Á nói chung và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người Việt nói riêng khi được đánh thức cũng đầy uy lực. Người Việt lúc bình

15

thường ngại va chạm nhưng khi có tai biến thì biết gồng mình và dám hy sinh.

Cuộc sống thiên về tập thể tạo cho họ có tình yêu quê hương đất nước nồng

nàn. Điều này luôn là những tiền đề cho những bản trường ca. Có thể nói

chiến tranh chính là lúc ý thức cộng đồng của người Việt được thức tỉnh mạnh

mẽ nhất, và trạng thái chống chiến tranh liên miên cũng tạo cho người ta tâm

thế hướng đến bảo vệ đời sống cộng đồng, bảo vệ lãnh thổ dân tộc. Chỉ tính

sơ bộ, từ cuộc kháng chiến chống Tần (Thế kỉ III Tr.CN) đến cuộc chiến tranh

chống xâm lược từ hai đầu biên giới (1979). Dân tộc ta đã trải qua 20 cuộc

chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến

tranh giải phóng. Có thể nói hơn 20 thế kỉ vừa qua, hầu như thế kỉ nào người

Việt cũng phải chống giặc ngoại xâm. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm

đều là bất khả kháng, cần thiết phải xẩy ra (bởi Việt Nam là nước nhỏ, thường

bị nước khác kéo quân sang xâm lấn, cho nên đó là hình thức tự vệ cần thiết).

Và vì thế chiến tranh Việt Nam thường thể hiện lòng yêu nước của nhân dân

và là những cuộc chiến tranh chính nghĩa. Như Hêghen đã phân tích, “không

có nghĩa là mọi cuộc chiến tranh bình thường giữa hai dân tộc đối địch nhau

đều là sự kiện sử thi...Cuộc chiến tranh còn phải diễn ra nhân danh một đòi

hỏi có tính toàn nhân loại và có tính lịch sử ...” [24, 597]. Có thể nói, chính ý

nghĩa của cuộc chiến tranh mới làm nên giá trị của nó. Điều này, ngoài ý

nghĩa chính trị và xã hội, nó sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống văn hóa, tới

tâm thức cộng đồng, tới lòng tự hào dân tộc. Với dạng trường ca mang tính

chất sử thi nói riêng điều đó có ý nghĩa vô cùng quyết định, bởi không có tâm

thức cộng đồng, không có lòng tự hào dân tộc thì mọi tiềm năng của thể loại

đều bị xóa bỏ.

Trong các cuộc chiến ở Việt Nam, đặc biệt là những cuộc chiến chống

lại giặc ngoại xâm, dù dưới chế độ nào, đều có sự tham gia tích cực của nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân. Trước Nguyễn Trãi, hình ảnh nhân dân và vai trò của nhân dân ít được

16

nhắc đến trong văn học, trong quan niệm phong kiến họ vẫn là dân đen, con

đỏ, nhưng với lòng yêu nước, trong các cuộc kháng chiến, họ đều tự nguyện

dốc hết sức mình. Không thể có chiến thắng nếu vắng bóng dáng họ. Nhân

dân là lực lượng đại diện cho sức mạnh cộng đồng, vì thế cũng mang đậm tâm

thức, ý thức cộng đồng. Các thể loại văn học mang tính chất sử thi luôn lấy đó

làm tiền đề, làm cơ sở.

Với một lịch sử như thế, đương nhiên, chủ nghĩa yêu nước là truyền

thống lớn nhất trong văn học Việt Nam. Và âm hưởng anh hùng ca trong sử

thi có dấu ấn trong toàn bộ nền văn học chống chiến tranh ở Việt Nam, từ văn

học trung đại đến hiện đại. Quả thật cha ông ta từ xưa đã không ngừng xây

lên những Đại tự sự. Từ các truyền thuyết như Thánh Gióng, Nỏ thần...đến

hào khí Đông A, văn thơ thế kỉ XIX, văn thơ cách mạng hiện đại...tất cả đều

xoay quanh sự sống còn của dân tộc. Trường ca hiện đại đã nối tiếp mạch tự

sự ấy và lấy đó như là linh hồn của mình. Như vậy, trạng thái chống chiến

tranh liên miên vừa là tiền đề xã hội, vừa là tiền đề nội dung của trường ca.

Thơ trường thiên – tiền đề của tư duy về hình thức của trường ca hiện đại.

Các thể loại thường có sự kế thừa lẫn nhau giữa, nhất thiết phải hồi đáp

những thể loại khác cũng như với những điều kiện xã hội khuôn đúc lên

chúng. Điều đó có nghĩa là, các thể loại như là sự liên thông và diễn giải lẫn

nhau, và như vậy, chắc chắn trường ca cũng là sự hồi đáp của một tư duy về

thể loại đã có trong lịch sử. Do dung lượng hạn chế của luận văn cho nên tìm

hiểu mối quan hệ và tương quan giữa trường ca hiện đại và các thể thơ trường

thiên trước đây sẽ được chúng tôi phân tích ngắn gọn trên cứ liệu ba thể loại

tiêu biểu thuộc dòng văn học viết: diễn ca lịch sử, truyện nôm và ngâm khúc.

Trước tiên xin được bàn về diễn ca lịch sử. Diễn ca lịch sử là những tác

phẩm thơ Nôm trường thiên, mà phần lớn nội dung đều dựa vào quốc sử cùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

với truyền thuyết dân gian. Thể lục bát và song thất lục bát là hai thể thơ quen

17

thuộc mà diễn ca lịch sử sử dụng. Trong lịch sử văn học Việt Nam, có một số

tác phẩm diễn ca lịch sử tiêu biểu như: Việt sử diễn âm, Thiên Nam minh

giám, Thiên Nam ngữ lục, (hầu hết chưa biết tác giả là ai?)...Nhìn chung về

dung lượng, diễn ca lịch sử là dạng thơ trường thiên đầu tiên ở Việt Nam. Qui

mô của nó tạo nền tảng chuẩn bị cho tất cả các thể văn vần dài hơi sau này.

Diễn ca lịch sử chú ý đến sự kiện và nhân vật lịch sử, nhưng nó lại không

hoàn toàn là chính sử, nó vẫn mang trong mình các yếu tố truyền thuyết và

gia tăng thêm yếu tố hư cấu. Về chủ đề của diễn ca lịch sử đều liên quan đến

lịch sử đất nước, cộng thêm cách diễn đạt giàu cảm xúc làm cho tác phẩm

diễn ca mang đậm chất sử thi. Các yếu tố này dù ảnh hưởng trực tiếp hay gián

tiếp, nhưng bóng dáng của nó thấp thoáng trong kiểu trường ca mang khuynh

hướng sử thi của văn học Việt Nam hiện đại.

Thể loại thứ hai cần được nhắc đến là ngâm khúc. Theo chúng tôi, đây

là thể loại có dấu ấn đậm nét trên kết cấu bề mặt của trường ca. Một số tác

phẩm nổi tiếng như: Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ

ngâm (Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm), ....Đây là thể loại nghiêng về biểu

hiện thế giới nội tâm, thể hiện nỗi buồn đau triền miên, dai dẳng. Có thể nói

cơ cấu mạch trữ tình – tự sự của khúc ngâm tương ứng với mạch trữ tình – tự

sự của dạng trường ca được xếp vào loại hình trữ tình - loại phổ biến trong

trường ca hiện đại.

Thể loại thứ ba chính là truyện Nôm, mà chủ yếu là truyện Nôm bác

học. Phần lớn các truyện này vay mượn cốt truyện Trung Quốc hoặc tự sáng

tác. Có thể nói, đây là dạng tự sự hư cấu – thiên về sáng tác các câu chuyện

đời thường tương tự tiểu thuyết. Các tác phẩm tiêu biểu như: Hoa tiên

(Nguyễn Huy Tự), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục Vân Tiên..(Nguyễn Đình

Chiểu)...Trong tương quan với thể loại dài hơi sau này, có một số điểm theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chúng tôi là đáng chú ý: Thứ nhất, vì đều được viết bằng văn vần nên các tác

18

phẩm này thường kết hợp cả trữ tình và tự sự. Thứ hai, ngôn ngữ trần thuật

bằng văn vần đến truyện Nôm đã đạt đến mức độ phong phú và khá nhuần

nhuyễn, điều này đã trở thành hành trang cho các thi sĩ hiện đại sáng tác, kể

lại những câu chuyện đáng tự hào của đất nước mình.

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, một thể loại không thể khai sinh

trên mảnh đất trống. Sự liên thông và diễn giải lẫn nhau luôn là đặc điểm của

một nền văn học có truyền thống. Các thể loại văn học nêu trên có thể không

giống với trường ca hiện đại nhưng nó có liên quan và góp phần diễn giải –

đặc biệt về mặt hình thức của trường ca. Chính tính sử thi, tính anh hùng ca

tồn tại trong các thể loại văn học quá khứ đã ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung

lớn – hay tư duy thể loại của trường ca.

1.1.3.2. Sau 1945 – thời kì phát triển và khẳng định của trường ca.

Một nền văn học phát triển hoàn toàn trong chiến tranh bao giờ cũng

mang những nét đặc biệt của nó. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nền

văn học bắt đầu phát triển theo những yêu cầu, những định hướng tiêu chí

mới. Văn học được định hướng theo sự lãnh đạo duy nhất của Đảng và là một

bộ phận, một vũ khí trong sự nghiệp cách mạng. Đó là nền văn học cách

mạng hướng về đại chúng, phục vụ công nông binh. Năm 1951, Chủ tịch Hồ

Chí Minh cũng khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh

chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Tinh thần chiến sĩ và danh hiệu nhà văn –

chiến sĩ được đề cao như phẩm chất chủ yếu của nghệ sĩ. Hai câu thơ tiêu biểu

cho định hướng văn học thời kì này là:

Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong

(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi – Hồ Chí Minh)

Định hướng này càng về sau, đặc biệt bước sang cuộc chiến tranh

chống Mỹ, lại càng được quán triệt một cách triệt để. Như vậy, văn học từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mục đích là hướng tới số phận con người đã chuyển sang hướng tới số phận

19

dân tộc, số phận lịch sử. Thể loại trường ca “không nằm ngoài qui luật chung

nhất của văn học Việt Nam, đó là định hướng tự giác của các thể loại vào thể

tài lịch sử cách mạng” [19, 705]. Nếu trạng thái của đời sống xã hội Việt

Nam suốt mấy chục năm là những cuộc chiến tranh và cách mạng nhằm thay

đổi vận mệnh lịch sử dân tộc, thì có thể nói, văn học Việt Nam đương thời đã

thể hiện được trạng thái đó. Nó đã đạt đến “trạng thái sử thi”, không chỉ bó

hẹp trong một số tác phẩm mà gần như là hơi thở xuyên suốt nền văn học này.

Với tư cách là những người nghệ sĩ - chiến sĩ, trong hoàn cảnh đất

nước lâm nguy, người cầm bút không nên nói nhiều về những đau thương mất

mát, những khát vọng riêng tư của cuộc sống đời thường. Bởi vì “vóc nhà thơ

đứng ngang tầm chiến lũy” (Chế Lan Viên), cuộc chiến tranh của chúng ta là

cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện nên mọi lực lượng đều vì vận mệnh dân

tộc, của Tổ quốc mà chiến đấu hi sinh. Chức năng chính của văn học giai

đoạn này là phục vụ chính trị, phục vụ kháng chiến, vì vậy mọi đề tài đều

hướng đến ca ngợi lý tưởng và những con người cao cả của cách mạng.

Trường ca không thể không nằm ngoài qui luật đó. Chính Hữu Thỉnh, một

nhà thơ với những bản trường ca nổi tiếng đã khẳng định: “Hiện thực chiến

tranh, cuộc sống của người lính dội vào tôi mạnh đến mức vượt ra khỏi một

thời đoạn, một đề tài. Nó thành một tâm thế. Nhưng tại sao lại trường ca, mà

không phải là cái gì khác? ...Và còn cái lẽ nữa là cuộc sống lớn lao, bi tráng

quá, đòi hỏi phải mở rộng các kích cỡ” [62, 7].

Do nhiều yếu tố, thời gian sáng tác cũng như những đặc điểm thi pháp

của thể loại, trường ca trong văn học sau 1945 có ý nghĩa tổng kết một chặng

đường vừa đau thương vừa hào hùng của dân tộc. Nguồn cảm hứng của một

dân tộc và thời đại anh hùng, cùng với vốn sống thực tế ở chiến trường đã tạo

tiền đề cho thể loại trường ca phát triển. Những trường ca đầu tiên được ra đời

trong cuộc kháng chiến chống Pháp: Từ đêm mười chín (Khương Hữu Dụng),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Những thanh gươm báu (Nguyễn Bính), Trường ca sông Gianh (Xuân

20

Hoàng)... Nhưng đến kháng chiến chống Mỹ, trường ca phát triển hơn hẳn về

số lượng và nâng cao về chất lượng, hàng loạt tác phẩm ra đời như : Nước

non ngàn dặm (Tố Hữu), Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm); Bài ca

chim Chơ Rao, Ba dan khát, ..(Thu Bồn); Những người đi tới biển, Trẻ con ở

Sơn Mỹ, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng nổ mùa xuân, Đêm trên cát, Khối

vuông Rubic (Thanh Thảo); Con đường của những vì sao, Tình ca người lính

(Nguyễn Trọng Tạo); Đường tới thành phố, Sức bền của đất, Trường ca biển

(Hữu Thỉnh); Ngày hội của rạng đông, Hành khúc mùa xuân (Võ Văn Trực).

Có lẽ hiện tượng này cũng là một tất yếu của nền văn học, để đáp ứng được

yêu cầu của lịch sử, với thời đại hào hùng của dân tộc. Các tác giả đã phát

hiện ra trong thơ - trường ca có sức ôm chứa lớn về nhiều vấn đề, nhiều chủ

đề tư tưởng, về cả độ rộng của không gian và độ dài của thời gian... có khả

năng khái quát hiện thực rộng lớn.

Trường ca giai đoạn này chủ yếu nói đến cả một cuộc hành trình, cuộc

hành trình của một cá nhân – một người lính, cũng như cuộc hành trình của

một dân tộc. Có thể nói, giai đoạn chống Mỹ và hậu chống Mỹ là giai đoạn

phát triển rực rỡ nhất của trường ca.

1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại

Một điều đặc biệt trong nội dung trường ca hiện đại là bản thân các chủ

thể sáng tác đều là những người trực tiếp tham gia chiến tranh. Họ đi ra từ

cuộc chiến đấu gian khổ, khốc liệt với tinh thần tự hào của một người lính đã

cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Những kỉ niệm của một thời lửa cháy,

những người đồng đội đã ngã xuống thôi thúc họ luôn tưởng niệm, nhớ về quá

khứ. Trường ca hiện đại khác trường ca cổ điển chính là ở sự xuất hiện của

cái Tôi này. Tác phẩm của họ vì vậy mang nhiều tính tự bạch, tự thuật, là bài

ca nói về đồng đội mình, những người cùng thời với mình. Điều đó đồng

nghĩa với việc nội dung của trường ca được nhìn với con mắt của người trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cuộc, thường là cái nhìn ở phía chính diện, cái nhìn về những người cùng chí

21

hướng. Chúng ta có thể nhận thấy trường ca hiện đại Việt Nam xoay quanh

hai nội dung, đề tài lớn:

Thứ nhất là chiến tranh và người lính.

Lịch sử chiến tranh liên miên đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong

tâm thức cộng đồng người Việt. Văn học với tư cách là một hình thái ý thức

xã hội, là nơi tái diễn một cách chân thực nhất tâm thức ấy. Nếu lịch sử ghi lại

các sự kiện, thì văn học ghi lại tâm hồn, tâm linh con người. Nếu lịch sử ghi

lại các con số có thể nhìn thấy, thì văn học còn ghi lại những dòng chảy ý

thức, những vùng mờ lí tính, những dự cảm và trải nghiệm của bản thân con

người. Trường ca nói chung và trường ca hiện đại Việt Nam nói riêng, chiến

tranh luôn là đề tài chính, là mấu chốt cho những trải nghiệm được tự sự.

Không ai khác chính người lính là người trực tiếp, là nhân chứng sống cho

những cuộc chiến ấy.

Thứ hai là đất nước và số phận con người.

Đất nước là hình tượng trung tâm của văn học cách mạng. Lịch sử dựng

nước và giữ nước nhiều thăng trầm đã hình thành nên ý thức dân tộc vô cùng

sâu sắc trong con người Việt Nam. Trong lịch sử văn học, cảm hứng về đất

nước vẫn luôn là một trong những cảm hứng lớn nhất của mỗi giai đoạn. Và

trường ca hiện đại cũng đã thể hiện rất rõ nội dung ấy. Đất nước trong đời

thường và đất nước trong văn học được kết tinh từ tất cả những mảnh ghép

cuộc sống.

Trước 1975, hình ảnh đất nước hiện lên thường hào hùng và mang tầm

vóc sử thi :

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Nguyễn Đình Thi)

22

Đến Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo đều muốn tái diễn lại

bức tranh hoành tráng đó. Các tác giả này thường gắn kết hình ảnh đất nước

với hành trình mở nước và truyền thống văn hóa lịch sử hào hùng, bởi vậy

Thu Bồn viết:

Chúng sợ An Dương Vương, Thánh Gióng

Sợ trăm dòng sông đều nổi sóng Bạch Đằng

Những súng thần công cổ sơ không bao giờ bắn nữa

Nhưng chúng sợ lửa bắn về tứ phía bốn nghìn năm

(Thu Bồn – Người gồng gánh phương Đông)

Nguyễn Khoa Điềm viết:

Đất nước muôn năm

Những ngựa đá lại xuống đường

Những bà mẹ đo chân vào thần tích

Để hoài thai triệu triệu những anh hùng

(Nguyễn Khoa Điềm - Mặt đường khát vọng).....

Truyền thống dân tộc đã tạo nên những anh hùng, tạo nên sức mạnh

tiềm tàng mà quật cường để dân tộc có thể chiến thắng giặc ngoại xâm. Với

Hữu Thỉnh đất nước còn gần gũi và quen thuộc hơn với từng dáng cây, ngọn

cỏ...tất cả đều cần dược bảo vệ:

Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được

Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn

Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc!

(Hữu Thỉnh – Đường tới thành phố)

Và Tổ quốc còn là đất mẹ thiêng liêng:

Nơi đây đã nguồn sông

Chốn tận cùng

Thì cắm bàn chân xuống đất này mà sống

Đó là Tổ quốc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Thanh Thảo – Những người đi tới biển)

23

Trong các trường ca được viết sau năm 1975 – khi chiến tranh đã kết

thúc, các nhà thơ đã thể hiện cảm hứng về đất nước một cách vô cùng chân

thực. Lịch sử dân tộc đã được ý thức và gắn liền với số phận khốn khó vất vả

của từng người dân bình dị, đặc biệt là hình ảnh người mẹ. Có lẽ, khi đọc

những dòng thơ sau đây của Thanh Thảo không ai là không ngậm ngùi, xúc

động về hình ảnh đất nước:

Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người

Là đứng theo dáng mẹ

“Đòn gánh tre chín rạn hai vai”

.........................

Mùa hạ gió Lào quăng quật

Mùa đông sắt se gió bấc

Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người

Mồ hôi vã một trời sao trên đất

Trời sao lặn hóa thành muôn mạch nước

Chảy âm thầm chảy dọc thời gian

(Những người đi tới biển)

Gắn với đất nước là số phận con người. Có thể nói trường ca hiện đại

thường xoáy sâu vào số phận con người, đặt con người vào mối tương quan

với hoàn cảnh, thời gian và không gian tồn tại. Trong khuôn khổ luận văn,

chúng tôi đi sâu vào khía cạnh số phận con người với hoàn cảnh.

Con người và hoàn cảnh sống, con người và thời đại luôn có mối tác

động qua lại và gắn bó chặt chẽ. Trong trường ca mối quan hệ giữa số phận

con người với hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ khốc liệt,

thời đại cách mạng mà dân tộc đã trải qua được thể hiện rất cụ thể. Trường ca

trước 1975 chủ yếu đề cập đến những con người mang tính tập thể, sống bằng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lí tưởng mà ít đời sống nội tâm. Song một điểm nhấn trong trường ca hiện đại

24

sau 1975 là đã đề cập đến những số phận riêng mà những số phận ấy phải

chịu ảnh hưởng sâu sắc của chiến tranh. Các số phận con người đời tư nhiều

đau khổ, trái ngang đã được các trường ca sau 1975 đề cập đến như một minh

chứng hùng hồn về tội ác của giặc Mỹ.

Biết bao người đã không tìm được hạnh phúc vì chiến tranh, để sự nuối

tiếc khổ đau cho cả cuộc đời:

Những mảnh vỡ mối tình đầu như thủy tinh nhọn sắc

Bao đợi chờ ứa máu đến xa sau

(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)

Và trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đã nói đến cái mất

mát, hi sinh, một sự ám ảnh khôn cùng về hình ảnh những người mẹ, người

vợ (phần này chúng tôi sẽ đi sâu ở chương 2).

Và nỗi lòng se sắt một người mẹ trong trường ca Đất nước hình tia

chớp của Trần Mạnh Hảo:

Mẹ ơi suốt chiều dài lịch sử

Mẹ vẫn sinh nhiều những đứa con trai

Mỗi bận chiến trường tin báo tử

Mẹ lại hoài thai bằng nỗi đau dài

Như vậy, con người đã chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhưng

đồng thời trong chiến tranh con người cũng đã thể hiện sức mạnh kì diệu. Họ

không chỉ vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đau thương của đất nước mà còn

chiến thắng chính bản thân mình, chiến thắng số phận nhiều lúc không tránh

khỏi hẩm hiu. Song, dù phải chịu những mất mát lớn lao, con người vẫn chịu

đựng vì sự vĩnh hằng của Tổ quốc.

1. 2. Quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh

1.2.1.Các giai đoạn sáng tác

Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh là Vũ Hữu, sinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngày 15 tháng 2 năm 1942 tại làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam

25

Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Được sinh trưởng trong một gia đình nông dân có

truyền thống Nho học, và nhà thơ tự hào khi được sinh ra trên mảnh đất quê

hương giàu truyền thống văn hóa. Miền đất “thiếu nước, bạc màu” (Hữu

Thỉnh) nhưng lại lưu giữ nhiều phong tục cổ, các di tích đền chùa... Phải

chăng chính yếu tố này đã làm nên một Hữu Thỉnh đôn hậu, mộc mạc, chân

chất; ngay cả trong sáng tác thơ ca cái đôn hậu ấy cũng không hề mất đi, thấm

đẫm màu sắc dân gian.

Hữu Thỉnh có một tuổi thơ với đầy đủ vị ngọt, đắng của cuộc đời.

Mười tuổi ông đã phải đi làm phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh

Pháp. Đến năm 1954 ông mới được đi học, tốt nghiệp phổ thông năm 1963.

Ngay sau đó ông vào bộ đội tăng thiết giáp, Trung đoàn 202, đã từng học lái

xe, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hóa và làm cán bộ tuyên huấn, hòa

mình vào cuộc kháng chiến đầy gian khổ hào hùng của dân tộc. Có thể khẳng

định ông là một nhà thơ – chiến sĩ, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống

Mỹ. Những đoạn đường 9 - Nam Lào, Quảng Trị, Tây Nguyên, chiến dịch Hồ

Chí Minh đã đi vào kí ức không thể phai mờ của nhà thơ. Đây chính là giai

đoạn để ông “thai nghén” những bài thơ, bản trường ca nổi tiếng sau này

Sau năm 1975, Hữu Thỉnh học Đại học Văn hóa và là một trong số

những sinh viên khóa đầu tiên của trường Viết văn Nguyễn Du.

Từ năm 1982, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ biên tập,

Trưởng ban thơ, Phó tổng Biên tập của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

Từ 1990 đến nay, Ông chuyển sang công tác tại Hội nhà văn Việt Nam,

trở thành Tổng biên tập Tuần báo văn nghệ, tham gia Ban chấp hành Hội Nhà

văn các khóa III, IV, V, ủy viên Ban thư ký khóa 3. Hiện ông là Chủ tịch Uỷ

ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật, Chủ tịch Hội Nhà văn

Việt Nam.

Tác phẩm đã xuất bản: Âm vang chiến hào (Thơ in chung - 1975);

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trường ca Đường tới thành phố (1979); Thơ ngắn, trường ca Từ chiến hào tới

26

thành phố (1985); Khi bé Hoa ra đời (Thơ thiếu nhi, in chung - 1985); Tập thơ

Thư mùa đông (1994); Trường ca biển (1994); Thơ Hữu Thỉnh (1998); Trường

ca Sức bền của đất (2004); Tập thơ Thương lượng với thời gian (2005).

Với các giải thưởng cao quí: Giải ba cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ với

bài thơ Mùa xuân đi đón. Giải A cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1975 -

1976 (Tác phẩm Chuyến đò đêm giáp ranh và trường ca Sức bền của đất).

Với Trường ca biển tác giả lại lần nữa được nhận giải thưởng xuất sắc của Bộ

Quốc phòng vào năm 1994, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm

2007...và nhiều giải thưởng cao quí khác. Những giải thưởng lớn về thơ đã

ghi nhận sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi và khẳng định tài năng, vị trí của

nhà thơ trong ngôi nhà văn học Việt Nam. Điều đó càng khẳng định hơn nữa

sức sống lâu bền của những bài thơ trong lòng công chúng. “Hữu Thỉnh có

cái may mắn là khá nhiều bài thơ và nhất là trường ca của anh qua sự thẩm

định của thời gian vẫn có giá trị tương đối ổn định” [59, 31].

1.2.2. Quan niệm về thơ của Hữu Thỉnh

Chưa từng có một giai đoạn lịch sử nào mà dân tộc ta lại sản sinh ra

nhiều nhà thơ có chung chí hướng và gần gũi quan niệm sáng tạo như thời

chống Mỹ. Cả một đội ngũ cầm bút hừng hực khí phách, tươi rói hồn thơ. Rất

nhiều gương mặt thơ sáng giá như: Phạm Tiến Duật, Thu Bồn, Lê Anh Xuân,

Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Khoa Điềm… Họ luôn

coi làm thơ là một hành động đầy ý thức. Hữu Thỉnh là một trong những nhà

thơ có quan niệm về thơ rất đúng đắn. Thiết nghĩ ngoài những nhân tố về thời

đại, quê hương, gia đình mà chúng ta được biết thì những suy nghĩ, quan niệm

của ông về “nghề thơ” cũng góp phần giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện

hơn về tâm hồn thơ, phong cách thơ ông.

Nói “quan niệm thơ Hữu Thỉnh” là đề cập đến những yếu tố xã hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

được chuyển hóa vào tư duy nghệ thuật để trở thành quan niệm văn chương.

27

Nếu Bằng Việt quan niệm sáng tác thơ ca là quá trình đi từ ngoại cảnh đến nội

tâm, từ cuộc sống khách quan đến cuộc sống chủ quan, là sự va chạm với hiện

thực sắc cạnh tác động đến tâm hồn và cuối cùng là sự tư duy trí tuệ. Thì Hữu

Thỉnh lại có những quan niệm cụ thể hơn:

“Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”: Trên những chặng đường

hành quân gian khổ, người chiến sĩ trẻ - nhà thơ Hữu Thỉnh đã không quên

ghi lại những giây phút, những thời khắc một đi không trở lại nơi chiến

trường ác liệt. Phải chăng đó cũng chính là quan niệm về thơ ca của một

người chiến sĩ, là những tuyên ngôn về thơ được nảy sinh từ chính hiện thực

khốc liệt. Chính vì vậy ông quan niệm làm thơ là ghi lại cuộc đời mình và của

dân tộc. Ông cho rằng “chiến tranh là một hiện tượng xã hội đột xuất. Ở đó

lịch sử chảy xiết hơn. Phản ánh cuộc chiến tranh đó vừa là trách nhiệm vừa

là niềm say mê của mỗi chúng tôi. Chiến tranh ra bài thi nhập môn cũng là

nơi thử sức lâu dài của mỗi người. Sự gắn bó tự thân với cuộc chiến đấu,

sống hết mình trong thử thách hy sinh là cử chỉ đầu tiên của một người cầm

bút trung thực. Thơ ca của thế hệ chống Mỹ là tiếng nói sống động và tự tin

của những người trong cuộc. Người ta bắt gặp rất nhiều trường hợp nhân

danh, nhưng mọi sự nhân danh đều tìm được sự cảm thông của người đọc vì

nó được đảm bảo bằng chỗ đứng của người viết. Thơ ở đây được đảm bảo

bằng máu” [18, 417]. Không có trang nhật kí nào có thể vừa ngắn gọn lại vừa

đầy đủ, chân thực hơn những dòng thơ của người chiến sĩ vừa trực tiếp tham

gia cầm súng chiến đấu vừa cầm bút ghi lại những khoảnh khắc diễn ra trong

cuộc đời mình ở thời điểm đặc biệt ấy:

Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng

Còn mang thuốc

Còn mang nhau

Mang bao nhiêu tai biến dọc đường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Đường tới thành phố)

28

Câu thơ thật chân thực minh chứng rất rõ quan niệm thơ ca của Hữu

Thỉnh. Đọc thơ Hữu Thỉnh người đọc cảm thấy tác giả không cố ý làm thơ mà

chỉ việc nhìn, nghe và ghi chép lại. Dường như đó chính là tiếng nói của sự

sống chứ không phải là tiếng nói của thơ ca. Hữu Thỉnh đã “chuyển sự sống

chung thành nỗi niềm riêng của chính mình”. Qua thơ Hữu Thỉnh, cuộc sống

chiến trận đã hiện lên với dáng vẻ sinh động và thật nhất. Nhà thơ không phải

là người đứng ngoài cuộc tưởng tượng về chiến tranh mà thực sự sống giữa

chiến trường. Hiện thực cuộc sống kháng chiến chính là chiếc nôi nuôi dưỡng

hồn thơ Hữu Thỉnh, cho nhà thơ những cảm nhận phong phú để làm nên

những hình ảnh thơ đa dạng, trong sáng, đậm màu sắc dân gian. Với ông

không có thứ thơ như những “dây bìm trang trí”:

Thơ không phải những dây bìm trang trí

Kéo nhòe đi những rễ cây tứa nhựa

Bão động rừng sao thơ chỉ rung rinh?

(Đường tới thành phố)

Với Hữu Thỉnh, và những người cầm bút như ông thơ phải là hơi thở,

là tiếng nói chân thành được lấy từ hiện thực cuộc sống, bởi vậy họ muốn:

Nhưng đừng viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn;

xin hãy viết như dòng sông chảy xiết.

(Đường tới thành phố)

Vâng! Hãy viết về người lính cách mạng như dòng sông chảy

xiết. Chừng như không có sự so sánh nào gợi mà đúng hơn thế! Câu thơ thật

thấm thía và dứt khoát. Đó là sự lựa chọn của những anh hùng, những người

con yêu thơ và luôn tỉnh táo sống vì mục đích cao cả.

Thơ phải là ngọn lửa sưởi ấm trái tim mình (Thơ là bữa tiệc của tâm

hồn [65, 160]): Hiện thực chiến trường quả là khốc liệt, người lính sẽ gục ngã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trước hiện thực nếu không có “tiếng hát át tiếng bom”, và dù nếu không có

29

tiếng hát thì thơ sẽ là nơi cho những chiến sĩ trẻ gửi gắm một tâm sự, một

niềm tin hay đôi khi đó chỉ là một cảm xúc rất đỗi bình thường:

Một bức thư nhà

Hôm nay ta đọc

Trong chiến hào chuẩn bị tiến công

Ta mới hiểu thêm từng chữ từng dòng chưa bao giờ hiểu hết

(Chính Hữu)

Thơ ca sẽ là đôi cánh giúp người lính quên đi những nghiệt ngã trước

mắt, hướng đến ngày mai tươi sáng. Là một nhà thơ cầm súng Hữu Thỉnh

thấm thía ý nghĩa của thơ ca đối với cuộc đời, nhất là thơ ca trong kháng

chiến. Với Hữu Thỉnh thơ như ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn người lính trên

những chặng đường hành quân đánh giặc. Mỗi khi nhớ nhà, nhớ quê hương

và nhớ người yêu dấu:

Chúng tôi sưởi trên những câu thơ ấy

Cứ thế qua đi nhiều mùa mưa

(Đường tới thành phố)

Trong chiến tranh, hoàn cảnh đôi khi bắt họ phải lựa chọn giữa đạn và

sách, họ đã chọn đạn. Nhưng như thế không có nghĩa là người lính sẽ phải

đoạn tuyệt với sách vở, với thơ ca. “Không có sách chúng tôi làm ra sách”.

Không thể mang theo sách, họ tự làm ra sách của mình, bằng cách:

Chúng tôi vừa đi vừa nhẩm dọc đường

Thơ cứ đến và mưa chiều mau ngớt

(Đường tới thành phố)

Thơ ca đã giúp họ quên đi những khó khăn, nhọc nhằn vất vả của cuộc

chiến. Người lính và nhà thơ đã hoà làm một. Họ viết về mình, về những

đồng đội của mình, về một thời điểm lịch sử oanh liệt của dân tộc để thấy tự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hào về sự có mặt của mình trong dòng chảy lịch sử đó. Người lính trong thơ

30

ông ý thức rất rõ sức mạnh của thơ ca đối với cuộc chiến đấu của mình và

đồng đội. Khó khăn, vất vả, bom đạn, chết chóc không làm cho người lính

chùn bước, có thể nói đó là nhờ vào một phần không nhỏ của thơ ca. Vì vậy

mà họ luôn chờ đón thơ ca mỗi ngày: “Thơ hãy đến góp một vài que củi / Cho

em nhận ra anh, đồng đội nhận ra mình”. Sức mạnh của thơ ca giống như sức

nóng của lửa đem lại hơi ấm cho mỗi người lính qua mỗi chặng đường hành

quân đầy mưa gió: “chúng tôi sưởi trên những câu thơ ấy / Cứ thế qua đi

nhiều mùa mưa”. Ngọn lửa thơ ca người lính dùng để sưởi ấm tâm hồn mình

qua mỗi chặng đường đánh giặc chính là ngọn lửa được duy trì từ nhiều thế hệ

nên họ “sưởi bằng ngọn lửa của mình” nhưng “lại thấy ấm” từ thơ của thế

hệ đi trước. Chính sự chuẩn bị của những thế hệ nhà thơ đi trước đã tạo nên

một tài sản chung mà thơ trẻ may mắn được thừa hưởng. Sự thành công của

mỗi nhà thơ, trước hết phải từ sự cố gắng nỗ lực chủ quan của chính nhà thơ

đó. Nhưng mặt khác, là thế hệ đi sau các nhà thơ luôn có sự kế thừa từ những

thế hệ đi trước. Điều đó không tạo nên sự “lặp lại” mà tạo nên sự phong phú,

đa dạng cho thơ ca và bản lĩnh của mỗi nhà thơ.

Bên cạnh đó Hữu Thỉnh còn dồn tâm huyết để cho ra mắt bạn đọc cuốn

tiểu luận phê bình văn học – Lý do của hy vọng. Đây có thể coi là đứa con

tinh thần của nhà thơ, nó là những đánh giá, thẩm bình về văn chương. Hơn

thế nó còn chứa đựng những ý kiến quí báu về nghề thơ...Chúng tôi rất tâm

đắc với một số quan điểm của ông trong cuốn tiểu luận này, như các bài: Góp

thêm vài ý nghĩ về thơ, đây là những quan điểm của nhà thơ về thơ. Nhà thơ

đã lí giải, cắt nghĩa thơ là gì.. rồi đi đến kết luận: mỗi bài thơ là một định

nghĩa về thơ. Hay bài viết Thơ là nơi trú ngụ của tâm hồn thể hiện niềm vui

rất riêng tư của nhà thơ khi những đứa con tinh thần của mình được bạn đọc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tin yêu và quí mến...

31

Không chỉ vậy, Hữu Thỉnh còn cho rằng thơ có được là do “nhập

cuộc, dấn thân”, “chắt lọc kinh nghiệm”. Chính vì thế người đọc dễ dàng

nhận thấy thơ ông “ngồn ngộn cuộc sống”. Làm thơ là cách tốt nhất để Hữu

Thỉnh “ghi lại” những hình ảnh, những màu sắc, những thanh âm đa dạng của

cuộc đời. Song để làm nên những độc đáo trong phong cách thơ Hữu Thỉnh ta

không thể không nói đến ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ ông.

Chính ngôi đền thơ ca dân gian đã giúp cho thơ ông có nét gần gũi và độc đáo

so với các nhà thơ cùng trang lứa. Với Hữu Thỉnh cội nguồn dân gian truyền

thống luôn là nơi ông tìm về, là nguồn sống tạo nên bản sắc thơ ông. Tìm cái

lớn lao trong cái bình thường nhỏ bé, cái kì diệu trong cái mộc mạc đơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sơ...chính là nét riêng, chỉ ở Hữu Thỉnh mới có.

32

Chương 2

THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG TRONG TRƯỜNG CA

HỮU THỈNH

Hình tượng nghệ thuật là trung tâm của tác phẩm văn học, là nơi nhà

thơ gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình. Sự chiếm lĩnh đời sống của nhà thơ

chỉ được thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật. Hình tượng là nơi nhà

văn, nhà thơ gửi gắm, kí thác tâm tư, tình cảm, cũng như tư tưởng của mình.

Như vậy, hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa nhân tố chủ thể và

khách thể đời sống. Tuy vậy không phải hình tượng nào cũng là hình tượng

nghệ thuật. Chỉ có hình tượng nào nhằm thể hiện một quan niệm, một tư

tưởng của nhà thơ về con người, về cuộc đời mới trở thành hình tượng nghệ

thuật. Qua việc khảo sát, tìm hiểu trường ca của Hữu Thỉnh, chúng tôi nhận

thấy có một số hình tượng nổi bật sau:

2.1. Hình tượng người lính

Hình tượng người lính trong thơ Hữu Thỉnh hiện lên với vẻ đẹp đời

thường, không tô vẽ: Đó là những ngày tháng gian khổ, cái khốc liệt, máu lửa

có thể “tướp da, đỏ máu” mà nhà thơ đã trải qua. Nó thể hiện chân dung tinh

thần của nhà thơ trong những ngày trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến

trường. Đó còn là chân dung tiêu biểu của thế hệ chống Mỹ. Như Hữu Thỉnh

có lần nói: “Thơ ca của thế hệ chống Mĩ là tiếng nói sống động và tự tin của

những người trong cuộc. Người ta bắt gặp khá nhiều trường hợp nhân danh,

nhưng mọi sự nhân danh đều tìm được sự cảm thông của người đọc vì nó

được đảm bảo bằng chỗ đứng của người viết. Thơ ở đây được đảm bảo bằng

máu” [18, 417]. Hình ảnh người lính là một chủ đề xuyên suốt các tập thơ

của Hữu Thỉnh, nó trở đi trở lại như một nỗi ám ảnh, như một niềm thôi thúc

khôn nguôi. Hình tượng người lính được nhà thơ nhìn nhận qua nhiều góc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

độ khác nhau.

33

2.1.1. Người lính khi đối diện với hiện thực khốc liệt của chiến tranh

Đã có một thời văn chương và thơ ca cách mạng “kị” viết về sự thật, về

những mất mát hy sinh của dân tộc, cá nhân. Song sự thật vẫn mãi là sự thật,

mà không có sự thật nào lại dai dẳng, ám ảnh như sự thật về chiến tranh. Là

một người lính trực tiếp cầm súng đánh giặc, Hữu Thỉnh cũng như bao người

lính khác luôn bị ám ảnh bởi hiện thực hãi hùng ấy. Khi chiến tranh qua đi,

hòa bình lập lại, con người ngày nay sống trong êm ấm hạnh phúc, ta có đủ

tỉnh táo và can đảm nhìn lại chặng đường gian khổ đã qua. Bởi chính niềm

thôi thúc ấy nên không chỉ trong trường ca mà cả những sáng tác thơ của ông

đều viết về sự thật. Cùng với quan điểm ấy, trong Trường ca sư đoàn Nguyễn

Đức Mậu viết:

Xin đừng ai chối từ sự thật

Chúng ta nhìn trong suốt cuộc đời nhau

Trong chiến tranh tinh thân dân tộc bao giờ cũng phát triển ở mức cao

nhất. Bi kịch anh hùng là một đặc điểm lớn và nó không hoàn toàn trái ngược,

mâu thuẫn với tính chất anh hùng ca, tính chất ngợi ca, khẳng định. Đương

nhiên, hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh đã được các nhà thơ chuyển tải

theo nghĩa thực của nó. Đã từng là người lính trực tiếp tham gia chiến tranh,

cầm bút và cầm súng là hai nhiệm vụ không phải ai cũng dễ hoàn thành. Đặc

biệt khi phản ánh chiến tranh ở khía cạnh hiện thực càng không hề đơn giản

chút nào. Cảm nhận chung khi đọc ba trường ca của Hữu Thỉnh là ông đã có

cái nhìn về chiến tranh bằng con mắt của người từng trải, từng đi qua cuộc

chiến tranh, không ai khác chính ông có những cảm nhận thật nhất về những

gì mình đã chứng kiến, đã trải qua. Viết về hình ảnh người lính khi đối diện

với hiện thực khốc liệt của chiến tranh tác giả như có dịp trải lòng mình, có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dịp được tưởng niệm lại những kí ức một thời máu lửa.

34

Đó là cuộc sống người lính với bao khốn khó:

Phơi chiếc khăn sương sớm mai rửa mặt

Ngủ nhát gừng giữa hai đợt tấn công

Tay thêm chai mỗi bận moi hầm

Ném cho nhau những khẩu phần khô khốc

(Sức bền của đất)

Có những cuộc hành quân “mưa trơn quá chân tuồi ra khỏi dép”. Và cả

những vết thương theo suốt cuộc đời người lính “hai vết thương vì rừng, ba

vết thương vì pháo”. Những đợt sốt rét rừng đeo đẳng họ:

Mưa tối mặt áo quần dán chặt

Trận rét rừng xoắn tím cả làn môi

(Đường tới thành phố)

Nếu Chính Hữu miêu tả những khó khăn gian khổ của người lính trong

cuộc kháng chiến chống Pháp với bao thiếu thốn, gian khổ áo rách, quần

vá...những trận sốt rét ớn lạnh thì Hữu Thỉnh khắc họa hình ảnh người lính

trong trận sốt rét rừng xoắn tím cả làn môi. Hình ảnh người lính hiện lên trong

câu thơ của ông thật tội nghiệp. Những trận hành quân trèo đèo, lội suối, đội

cả những trận mưa rừng mà đi. Đã không ít người lính phải bỏ lại thân mình

sau những cuộc hành quân.

Đâu chỉ vậy, người lính còn phải đối mặt với những rình rập của kẻ thù:

Thằng sống sót rình bắn anh sau gáy

Thằng viện binh gào đại bác tầm xa

(Sức bền của đất)

Hay những đợt tấn công dữ dội của người lính trong trận giáp lá cà:

Báng súng gẫy

Lưỡi lê quăm

Trong trận giáp lá cà

Giặc chạy rồi

Anh dựa vào gốc cây ô môi mà thở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Sức bền của đất)

35

Và cả những mất mát, hy sinh:

Xạ thủ trung liên

Nốt ruồi đen chìm xuống

Lưỡng quyền cao khói sáng cao lên

Sau loạt bom vùi

Anh gặp toàn lính mới

(Đường tới thành phố)

Sau trận đánh chỉ còn sót lại xạ thủ trung liên, anh gặp toàn lính mới.

Câu thơ dội vào lòng người một cảm giác sửng sốt và gai lạnh. Ta hãy thử

tưởng tượng xem, sau một trận chiến tất cả những người lính đều hy sinh chỉ

còn lại một người. Đó là sự mất mát không gì bù đắp được. Cuộc chiến dù

gian khổ, hy sinh nhưng lớp lớp các thế hệ vẫn tình nguyện tòng quân ra trận

tiêu diệt kẻ thù. Tình đồng đội đồng chí càng thắm thiết bao nhiêu thì giây

phút này càng tang thương, đau đớn bấy nhiêu.

Song chính những khó khăn ấy dường như có sức mạnh phi thường hun

đúc lên bản lĩnh thép cho người lính:

Kẻ thù làm ta già trước tuổi đời

Em ta biết cười để moi tim giặc

(Sức bền của đất)

Câu thơ như một lời tâm sự, nó như lời ăn tiếng nói hàng ngày nhưng

lại có sức nặng vô hình làm cho mỗi chúng ta khi đọc câu thơ lên không khỏi

động niềm trắc ẩn. Kẻ thù chỉ làm ta già đi, đanh lại chứ không làm ta mềm

yếu, đến ngay cả nụ cười cũng ẩn chứa bao dũng khí, quyết tâm moi tim giặc.

Đâu chỉ những khó khăn, mất mát hy sinh xuất hiện nơi mưa bom bão

đạn, khi trở về thời bình người lính vẫn phải đối mặt với bao hiểm nguy, chết

chóc. Trường ca biển đã nói lên phần nào những khó khăn khi người lính ra

với biển lần đầu. Những bài học đầu tiên khi sống cùng biển, những trận bão

biển và cả những mất mát, hy sinh khi người lính bị bão biển cướp đi. Ám ảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mãi trong tôi là tiếng gọi đồng đội :

36

- Hoàng ơi, ở đâu

- Vũ ơi, ở đâu

- Vân ơi, ở đâu

Đó là tiếng gọi của những người lính đảo giữa mịt mù bão cát để tìm

đồng đội xếp lại đội hình. Thì ra, đâu chỉ có những mất mát, hy sinh nơi chiến

trường ác liệt, khi hòa bình người lính vẫn thường xuyên phải đối diện với

những khó khăn, có khi còn khủng khiếp hơn.

Như vậy, có thể khẳng định Hữu Thỉnh cũng như bao nhà thơ cùng thời

khi viết trường ca không hề né tránh sự thực. Hữu Thỉnh đã săn đuổi hiện

thực đến cùng, dựng lên trước mắt người đọc một bức tranh với đầy đủ các

gam màu nơi chiến trường đầy khói lửa. Hiện thực khốc liệt nơi chiến trường

mà người lính đã trải qua được Hữu Thỉnh tái hiện một cách đa chiều và khá

sâu sắc. Những khó khăn về nhu yếu phẩm, những cuộc hành quân và cả

những đợt sốt rét rừng hoành hành người lính...cao độ hơn là những tổn thất,

hy sinh của người lính trên chiến trường. Đó là những thước phim quý hiếm

được viết lại bằng thơ mà Hữu Thỉnh đã cho thế hệ sau cảm nhận rõ hơn về

cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc.

2.1.2. Tâm trạng người lính trong chiến trận

Trường ca, đặc biệt là những trường ca được viết sau chiến tranh đã

không thể viết về chiến tranh theo bút pháp lãng mạn như trước nữa. Họ nhìn

chiến tranh thật hơn, không còn cái hình ảnh “đường ra trận mùa này đẹp

lắm”, người chiến sĩ luôn phơi phới lạc quan nữa mà có lúc anh lặng người

tiếc nuối thương cho tuổi hai mươi của thế hệ mình:

Chúng tôi không mệt đâu

Nhưng cỏ sắc mà ấm quá

Tuổi 20 thằng em tôi sững sờ một cánh chim mảnh như nét vẽ..

Nhiều đổi thay như một thoáng mây..

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

37

Những người đi tới biển của Thanh Thảo đã có những khúc ca bi tráng

mà vô cùng cao cả về bao người lính trẻ. Họ đã đi “không tiếc đời mình” và

biết rằng “ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc. Cỏ sắc mà ấm quá

phải không em?”. Hình ảnh cỏ như sự cứu rỗi, lại như đất mẹ, mềm mại mà

ấm áp nhưng cũng là quá khứ mà anh đang mong nhớ, là hạnh phúc mà anh

chua xót mỗi lần nghĩ đến, mỗi lần chạm tay vào, như hạnh phúc mong manh,

như dĩ vãng đã lùi xa giữa cánh rừng khắc nghiệt. Tâm trạng ấy ta còn tìm

thấy ở các bản trường ca của Hữu Thỉnh.

Với Hữu Thỉnh, qua ba trường ca ông đã thể hiện nhiều cung bậc tâm

trạng người lính trong chiến trận. Cũng như Thanh Thảo và bao nhà thơ khác,

Hữu Thỉnh đã phản ánh chân thực tâm trạng người lính trong chiến trận.

Thành công chủ yếu nhất của Hữu Thỉnh cũng chính là ở chỗ thể hiện vừa

tinh, vừa sâu, vừa khái quát vừa tỉ mỉ, chi li những tình cảm, những suy ngẫm

của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cũng như trong thời bình.

Điều đặc biệt là tác giả thường nhìn thẳng vào sự việc và miêu tả chân

thực những gì mà người lính đã trải qua. Giây phút hiểm nghèo của người

lính đã trải qua ở giữa Trường Sơn trùng điệp đã được Hữu Thỉnh tái hiện

một cách thành thật:

Anh còn lại sau những lần thay quân

Sau những lần hổ vồ

Sau những lần voi đuổi

Sau bữa cơm nấm độc cào gan

(Đường tới thành phố)

Hay:

Chúng tôi còn biết xoay xở ra sao

Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng

Còn mang thuốc

Còn mang nhau

Mang bao nhiêu tai biến dọc đường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Đường tới thành phố)

38

Có thể đó chỉ là những nuối tiếc về tuổi trẻ:

Sốt ruột làm sao

Học hành dở dang

Yêu đương vội vã

Phải phí bao thời gian vì bọn chó

(Sức bền của đất)

Có khi người lính tự cho mình bị nhỡ đò tuổi trẻ:

Sông nhỡ đò là con sông rộng nhất

Là con sông tuổi trẻ vẫn thèm qua

...Còn bao sách chúng ta chưa đọc đến

Nhỡ hẹn liên miên với các giảng đường

Nhỡ hẹn với mưa phùn Ải Bắc

Mai một cành thắt ruột kẻ tha hương

(Sức bền của đất)

Ai trong mỗi chúng ta chẳng có một miền quê trong kí ức. Nỗi nhớ quê

dâng trào khi ta phải xa quê. Người lính cũng vậy, nỗi nhớ quê luôn thường

trực xâm chiếm cõi lòng họ. Những kí ức như ùa về, cho họ sống lại những

giây phút nhỡ hẹn đò. Hình ảnh Mai một cành thắt ruột kẻ tha hương chất

chứa bao nhung nhớ vơi đầy. Có cái gì đó nghẹn đắng, câm lặng đến thắt ruột

khi người lính nhìn thấy hình ảnh cây mai vàng mà nhớ quê da diết. Vâng! Có

những mất mát không thể nào bù đắp được, đó là những khát vọng tuổi trẻ mà

người lính không thể thực hiện được. Đôi lúc là cả một khúc ca buồn về tâm

trạng người lính khi nói về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi:

Ta hoãn cưới một năm rồi hai năm

Đi đánh giặc chân trời in màu thiếp

(Sức bền của đất)

Đặc biệt trong trường ca Đường tới thành phố Hữu Thỉnh đã dành hẳn

một chương để xây dựng hình ảnh một người lính tư lệnh: chương II. Người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lính tư lệnh với bề dày kinh nghiệm, khác xa anh lính trẻ hai mươi năm xưa:

39

Hai mươi năm anh khó nhận ra mình

Người trong ảnh bây giờ là tư lệnh

Khoảng cách giữa anh và bức ảnh

Có bao quãng đường những bà mẹ tiễn con

(Đường tới thành phố)

Và người lính tư lệnh ấy có dịp được trải lòng mình với đồng đội về

chuyện đời tư của mình. Đây là câu chuyện tình duyên của đời anh chỉ gói

gọn trong mười ngày nghỉ phép:

Nhà mình do má tìm cho

Nết ăn nết ở cũng do má tìm

Một lô bánh quế má đem

Mình về một buổi nên duyên cậu à

Tối ăn một bữa ở nhà

Sáng bên ngoại thế là xa một lèo

(Đường tới thành phố)

Nếu đọc thơ Bằng Việt người đọc ấn tượng bởi hình ảnh người bà lam

lũ, sớm khuya và tình thương vô hạn của người cháu dành cho bà, thì đọc

trường ca Hữu Thỉnh người đọc lại day dứt bởi nỗi nhớ mẹ, nhớ người vợ nơi

hậu phương của người lính. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi trong chiến tranh

đạn lửa không ai khác chính những em bé, những người mẹ, người vợ là

những sinh mệnh yếu đuối cần được chở che, bảo vệ. Trường ca Hữu Thỉnh

đã nghiêng hẳn về mẹ, hướng về mẹ, mẹ là điểm tựa vững chắc nơi hậu

phương. Đã có những giây phút người lính tự nhủ và hối tiếc vì không nói

được nỗi lòng của mình với mẹ:

Ta chưa một lần thư thả đất ơi

Chưa một lần nói được lên lời

Lòng của ta với mẹ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Sức bền của đất)

40

Khi bước chân vào chiến trường, đối mặt với bao khó khăn, có đôi lúc

được thảnh thơi người lính lại nhớ về hình ảnh người mẹ. Nỗi nhớ mẹ ăm ắp

cõi lòng họ. Ta hiểu được tâm trạng của người lính khi họ chưa một lần thư

thả, chưa có lúc nào được trải lòng mình với mẹ, tất cả đều lẩn sâu trong tâm

khảm, trong tâm tư người lính. Phải là người từng trải và đi qua cuộc đời người

lính Hữu Thỉnh mới hiểu được tâm trạng sâu kín của người lính đến vậy.

Đôi lúc có những giấc mơ giản dị mà lại rất xa xôi bật dậy trong suy

nghĩ của người lính:

Em ơi em,

Sau bao nhiêu tao loạn kiếp người

Anh lại đi gieo mạ ba giăng

Em lại cấy trống quân cò lả

Lại làm bánh kịp vào phiên chợ

Lại hoa đào hé một nụ dân gian

(Sức bền của đất)

Một ánh đom đóm bay, một màu hoa gạo đỏ vào hè cũng làm ý nghĩ

anh trở về với người mẹ nơi quê nhà:

Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ

Mẹ ở nhà có cất áo bông

Mẹ có ra bờ sông

Qua bến đò tiễn con dạo trước

Đường xuống bến có mười sáu bậc

Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu

(Sức bền của đất)

Có những giây phút hiểm nguy mặt giáp mặt với kẻ thù trên chốt,

những người lính bình tĩnh đón nhận cái chết bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đến. Anh chỉ nghĩ mà thương mẹ già:

41

Anh có thể chẳng bao giờ còn đánh được gốc tre

Phơi nỏ sẵn dành sưởi đêm cho mẹ

....Và cột nhà hãy đỡ mẹ thật êm

(Đường tới thành phố)

Quên sao được tâm trạng reo vui của người lính khi dân tộc ta chiến

thắng kẻ thù:

Các anh về

Làm một cơn giông lớn

Sáng lên gương mặt phố phường

Theo các anh rừng núi trở về

Các anh về như núi

Những người yêu của những người yêu

Niềm trông đời của những niềm trông đợi

(Đường tới thành phố)

Có đôi lúc nghe bài hát Sài gòn ơi, ta đã về đây mà xốn xang lòng, để

nghe người hát mà thương người quá thể (Đường tới thành phố). Viết về hình

ảnh dân tộc ta chiến thắng kẻ thù, khi những người lính được trở lại thành

phố, trở lại mảnh đất quen thuộc của mình Hữu Thỉnh đã dùng hình ảnh rất

đắt cơn giông lớn. Chính cơn giông ấy có sức mạnh lay tỉnh và làm sống lại

những gì già nua, mỏi mòn vì trông đợi, như làm sáng lên cả phố phường...nó

như cơn mưa làm sống lại những mầm cỏ, làm trỗi dậy những mầm cây.

Qua việc khắc họa tâm trạng người lính trong chiến trận ta thấy, Hữu

Thỉnh đã có cái nhìn chân thực về người lính, nó chính là hiện thân là bức

tranh tâm trạng thật nhất mà người lính đã trải qua. Không tô vẽ, không lãng

mạn hóa, Hữu Thỉnh đã nói hộ tâm trạng bao người lính khi tham gia chiến

trận. Có những nuối tiếc tuổi trẻ, những giây phút nhớ quê, niềm vui chiến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thắng và hình ảnh của mẹ đau đáu trong cõi lòng họ. Song điều độc đáo chỉ có

42

ở Hữu Thỉnh là nhà thơ đã khắc họa sâu sắc tâm trạng của người lính, nỗi nhớ

của người lính với mẹ. Hình ảnh người mẹ tạo được ấn tượng đậm nét trong

trường ca của Hữu Thỉnh, nó không hề ủy mị mà có sức mạnh vô song, là

động lực giúp người lính chiến thắng kẻ thù.

2.1.3. Lí tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng

Chiến tranh khốc liệt như thế, tuy nhiên, hầu như những người lính của

chúng ta, có một niềm an ủi hoặc họ đã tạo cho mình một tâm thế để nương

tựa, để sống tiếp, đó chính là tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, là

một đời sống trường tồn, vô hạn trong vận mệnh của Tổ quốc vĩ đại. Họ đã

gắn bó, đã hy sinh cuộc đời hữu hạn cho sự bất tử của dân tộc. Chủ nghĩa anh

hùng cách mạng chính là sự tự nguyện hy sinh, dũng cảm, kiên cường, chống

chọi với kẻ thù, được thúc đẩy bởi tình yêu nồng nàn với đất nước quê hương.

Trong trường ca Đất nước hình tia chớp Trần Mạnh Hảo đã viết:

Ở giữa anh và em là cái gì cao hơn sự chết

Hơn cả sự sống hai ta là sự sống giống nòi

Những người lính trong trường ca của Hữu Thỉnh cũng vậy. Dường

như cái chết đối với họ chỉ nhẹ như một giấc ngủ dài. Cảm động biết bao, có

những người lính khi biết mình khó qua khỏi đã tự nguyện hy sinh mình cho

đồng đội được sống. Những tấm chân dung trong các trường ca làm chúng ta

vô cùng cảm động:

Tôi biết chắc mình không qua khỏi

Xin hãy rút hết máu nhóm O trong người tôi đang chảy

Mà tiêm cho bạn khỏi cưa chân

(Đường tới thành phố)

Đã có rất nhiều, rất nhiều những bài thơ, cuốn truyện viết về tình cảm

đồng đội. Ta hãy tưởng tượng xem, nghĩ rằng mình chết ở tuổi hai mươi, khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bao mơ ước, khát vọng, tất cả đều còn dang dở. Cảm giác ấy mới khủng khiếp

43

làm sao, đến nỗi cảm thấy không thể chịu nổi. Vậy mà đã có biết bao nhiêu

người anh hùng đã ra đi, đã hóa thành “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ”

(Lê Anh Xuân).

Trên “Đường tới thành phố” những người lính đã chiến đấu kiên

cường, bất khuất, dành lại từng tấc đất từ tay kẻ thù. Bởi có một tinh thần như

thế nên một dân tộc nhỏ yếu, thua kém nhiều về kinh tế, trình độ khoa học kĩ

thuật như chúng ta mới có thể đánh thắng được một kẻ thù như đế quốc Mĩ.

Không phải ngẫu nhiên mà nhiều trường ca viết về giai đoạn cuối cùng của

chiến tranh – giai đoạn “thần tốc”. Trong những giờ phút ấy thể hiện cao độ

tinh thần Việt Nam, sức mạnh Việt Nam. Âm hưởng hùng tráng, âm hưởng

chiến thắng mà chúng ta khao khát bấy lâu nay đã thành hiện thực. Trạng thái

cảm xúc vừa tự hào vừa phấn chấn, choáng ngợp là một cảm hứng chung. Lí

tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng có lẽ được khắc họa rõ nhất

qua hình ảnh con đường và hình ảnh ngọn lửa trong trường ca Hữu Thỉnh.

Hình ảnh con đường

Hình ảnh con đường đi vào văn chương nghệ thuật không chỉ mang ý

nghĩa là con đường tự nhiên – lối đi được tạo ra để nối liền các địa điểm. Với

thơ ca cách mạng, đó còn là cuộc hành trình vất vả của dân tộc, là gian lao đời

lính, là con đường về nhà, con đường đến với cách mạng. Nó trở thành một

biểu tượng trong các tác phẩm trường ca. Có thể nói hình ảnh con đường là

một trong những hình ảnh xuất hiện nhiều nhất. Dĩ nhiên, điều đó có cơ sở

hiện thực. Bởi trong chiến tranh, con đường gắn liền với cuộc hành quân, gắn

với đường ra mặt trận, nối tiền tuyến với hậu phương... Vì vậy, ý nghĩa đầu

tiên của con đường chính là nơi gặp gỡ, nơi ghi lại bao gian khổ, thấm bao

máu và nước mắt của đồng đội.

Nếu trong Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu hình ảnh con

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đường gắn với dấu chân: “Dấu chân đi đủ khép một vòng trời”. Đó là hành

44

trình gian khổ của đời lính; hành trình theo nghĩa hiện thực nhất là từ chiến

trường này sang chiến trường khác bằng đôi chân, bằng đói khổ, bằng những

trận sốt rét rừng. Thì trong trường ca Hữu Thỉnh hình ảnh con đường hiện lên

với những nét chạm khắc chân thực nhất.

Trong chiến tranh con đường Trường sơn là huyết mạch quan trọng

trong cuộc chiến đấu của dân tộc. Đường Trường Sơn luôn phải oằn mình

gánh chịu bao mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Con đường ấy đã đi vào trong

thơ của nhiều nhà thơ giai đoạn này. Với Hữu Thỉnh hình ảnh con đường hiện

lên với bao gập ghềnh, khúc khuỷu, ngổn ngang bốc mùi khét cháy bởi bom

đạn của kẻ thù. “Đường ngổn ngang đường đất còn khét cháy” (Tiếng hát

trong rừng).

Ta bắt gặp hình ảnh con đường 30 – 4 và con đường mang tên Bác –

đường Hồ Chí Minh trong trường ca Đường tới thành phố. Những con đường

đã đi vào trang sử của dân tộc, đó là mốc son, là bước ngoặt đánh dấu bước đi

vững vàng của dân tộc.

Song, thiêng liêng hơn, trong trường ca nói riêng và trong văn học cách

mạng nói chung, hình ảnh con đường còn là con đường cứu nước, con đường

đi tìm lí tưởng, con đường cao cả mà cả dân tộc ta đã lựa chọn.

Nếu trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm,

hình ảnh con đường trở thành một biểu tượng của lí tưởng, là con đường của

cái Tôi hòa cùng cái Ta, của cá nhân hòa cùng với cái rộng lớn, cái tự do của

cả cộng đồng:

Chỗ đứng chúng ta không phải là Hoa Lư

Mà trên con đường ta tìm về dân tộc

Hình ảnh những con đường trong trường ca Hữu Thỉnh còn trở thành

biểu tượng con đường đấu tranh của dân tộc để đi đến đích chiến thắng. Cả

đất nước bước đi trên con đường đó không phải bằng đôi chân mà bằng ý chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vì vậy khó có thể khiến người ta quên lãng:

45

Đường ta đi gian khó chẳng mau quên

Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ

(Đường tới thành phố)

Hình ảnh con đường là đích chiến thắng mà cả dân tộc hướng đến. Con

đường đấu tranh dù vất vả, gian lao cuối cùng rồi cũng thành công. Vui sướng

biết bao khi những người lính được đi trên con đường chiến thắng, được về

gần bên Bác kính yêu:

Con đã về nơi Bác ra đi

Đường lắm dốc hôm nay con mới tới

(Đường tới thành phố)

Trên những cuộc hành quân không mỏi ấy, bao người lính đã ngã

xuống để bảo vệ con đường. Chúng ta nhớ đến 10 cô gái ngã ba Đồng

Lộc...Họ là những ngôi sao lặn xuống rồi sáng hơn ở bờ bên kia. Thế hệ này

nối tiếp thế hệ khác làm nên cuộc hành trình không ngừng nghỉ của dân tộc.

Hình ảnh con đường là một hình ảnh mang đậm tính hiện thực chiến tranh. Nó

đi vào thơ văn trước hết là một hình ảnh của hiện thực. Đó là nơi ghi đậm

những dấu ấn của cuộc chiến, là một phần kí ức gian khổ của người lính. Hơn

hết, con đường còn là cuộc hành trình, là sự quyết tâm cao độ của toàn dân

tộc khi dám đi trên con đường mà mình đã chọn.

Hình ảnh ngọn lửa

Bên cạnh hình ảnh con đường, đọc trường ca của Hữu Thỉnh người đọc

bắt gặp rất nhiều lần nhà thơ sử dụng hình ảnh ngọn lửa. Hình ảnh ngọn lửa ở

đây bên cạnh ý nghĩa thực còn mang ý nghĩa biểu tượng, nó tượng trưng cho

lí tưởng cách mạng, niềm tin vào tương lai, lòng yêu nước của nhân dân và

tình yêu đôi lứa. Đặc biệt hình ảnh lửa xuất hiện nhiều nhất trong trường ca

Đường tới thành phố.

Có một ngọn lửa không biết được nhóm lên từ khi nào, chỉ biết khi đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nước có giặc ngoại xâm ngọn lửa ấy lại sáng lên và góp thành ngọn lửa yêu nước:

46

Trước mặt là bao nhiêu miền quê

Sau lưng là bao nhiêu miền quê

Ngọn lửa ta đốt lên ở giữa

(Đường tới thành phố)

Ngọn lửa ấy sẽ không bao giờ tắt bởi nó được truyền từ thế hệ này sang

thế hệ khác : chúng tôi sưởi bằng ngọn lửa của mình, lại thấy ấm từ các anh

đi trước. Nó chính là ngọn lửa của niềm tin, hy vọng dù chiến tranh có ác liệt,

dù ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc :

Ngọn lửa này

Và hy vọng của anh

Của chúng tôi những người mới đến

(Đường tới thành phố)

Lửa rất cần đối với mỗi người lính, để họ tìm ra nhau, đồng đội nhận ra

mình và để tìm tri kỉ :

Chúng tôi người chủ những căn hầm

Đốt ngọn lửa để tìm vào tri kỉ

Hầm là nơi che máu che sương

Là cửa sổ mở về hướng mẹ

(Đường tới thành phố)

Ngọn lửa soi sáng cho con trong căn hầm tăm tối, nó còn là điểm tựa

cho con hướng về mẹ. Có những lúc khó khăn, ốm đau ngọn lửa lại soi sáng

thêm những hy sinh, mất mát, gian khổ mà người lính đã trải qua. Giây phút

ấy ngọn lửa trở thành biểu tượng cho tình yêu đôi lứa :

Em nhớ anh hãy nhớ về ngọn lửa

Lửa đang soi mặt đất mấy tầng đêm

Những cơn khát bậm môi vào bẹ chuối...

Cho em nhận ra anh, đồng đội nhận ra mình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Đường tới thành phố)

47

Như vậy lí tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng chính là

mục đích, là quyết tâm của người lính khi ra trận. Có thể khẳng định đây là

những điều rất khó nói bằng thơ. Nhưng bằng con mắt của một người từng

trải và tài năng của một nhà thơ đã giúp Hữu Thỉnh chuyển tải nó bằng những

hình ảnh quen thuộc và mang tính biểu tượng cao. Như Nguyễn Khoa Điềm,

Thanh Thảo...Hữu Thỉnh đã lấy hai hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống, đó

là hình ảnh con đường và hình ảnh ngọn lửa làm biểu tượng cho lí tưởng cách

mạng và hành trình đi tới chiến thắng của người lính. Nó quen thuộc mà

không nhàm chán, giản dị mà lại vô cùng lớn lao kì vĩ.

2.1.4. Khát vọng hạnh phúc

Nếu chỉ có lí tưởng cách mạng soi đường để đưa người lính đến chiến

thắng, thiết nghĩ thế vẫn là chưa đủ. Có một điều thôi thúc người lính chiến

đấu đến quên mình đó chính là khát vọng hòa bình, khát vọng hạnh phúc, là

ngọn lửa sưởi ấm và soi sáng con đường người lính đang đi. Đất nước rơi vào

cảnh tang thương, chia cắt, chưa bao giờ con người lại mơ ước hòa bình một

cách da diết, cháy bỏng đến thế. Chiến tranh là hoàn cảnh mà trong đó những

nhu cầu nhỏ nhoi nhất, bình dị nhất cũng không thực hiện được. Cuộc sống

nhân bản, cuộc sống đời thường bị che lấp. Để đổi lấy một cuộc sống bình

yên, cả dân tộc ta đã trả một giá quá đắt. Đó là cả một thế hệ:

Để có một đồng bằng trước mặt

Chúng ta lên đường mười tám đôi mươi

(Đường tới thành phố)

Và hơn một lần người lính trong trường ca của Thanh Thảo cũng nhận

ra điều ấy:

Ai từng trải những năm ấy đều hẳn biết

Ta phải trả giá thế nào cho một bài ca

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Những người đi tới biển)

48

Khát vọng về một hạnh phúc bình thường được các nhà thơ khắc họa

qua nỗi thèm khát dòng sông và ánh trăng.

Dường như hình ảnh dòng sông, dòng suối, dòng nước, con sóng, xuất

hiện rất nhiều trong trường ca trước hết là một sự bình yên, như cơn mưa làm

dịu bớt sự khốc liệt của cuộc chiến. Nếu Thanh Thảo ví dòng sông là nơi hòa

giải bầu trời và mặt đất:

Cảm ơn dòng sông em làm dịu vẻ khắc nghiệt những cánh rừng

Nơi hòa giải bầu trời mặt đất

(Những người đi tới biển)

Thì dòng sông trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh

hiện lên thật đẹp và lung linh, luôn là khởi nguồn của sự sống, của khát vọng:

Dòng sông như bữa tiệc sau rừng

Nhà triết học Hêraclit đã từng nói: không ai có thể tắm hai lần trên

cùng một dòng sông. Những dòng sông luôn lưu chuyển, đổi thay. Nó chính

là sự vận động không ngừng của vạn vật. Dòng sông ở đây cũng vì thế được

các tác giả nhìn như dòng sông cuộc đời, dòng sông cách mạng và dòng sông

lịch sử, nhà thơ Hữu Thỉnh viết:

Nhưng đừng viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn

Xin hãy viết như dòng sông chảy xiết

(Đường tới thành phố)

Cả thế hệ những người lính chống Mĩ đã tắm mình trong dòng sông

lịch sử. Các con sông đều đổ ra biển cả. Họ là những dòng nước đã góp phần

làm nên chiến thắng đại thắng mùa xuân năm 1975. Dù sống hay chết, dù

ngắn ngủi hay dài lâu, cuộc đời ấy vẫn là những dòng sông chảy xiết, dòng

sông mãnh liệt huy hoàng chứ không êm đềm, phẳng lặng.

Cùng với hình ảnh cánh rừng, dòng sông là hình ảnh ánh trăng. Đây là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hình ảnh mang nhiều nét lãng mạn và gắn với người lính trong chiến tranh.

49

Với Nguyễn Đức Mậu, hình ảnh ánh trăng hiện lên vừa da diết, bùi ngùi, vừa

xa xăm, đôi khi tưởng như không thực:

Tổ quốc xa như vầng trăng tôi ngóng đêm rừng

Sao tôi nghĩ trăng mọc từ đất bắc

Những người lính gối đầu võng bạt

Nhớ quê hương gặp trăng sáng lưng trời

(Trường ca sư đoàn)

Và tâm trạng ấy được lặp lại trong trường ca của Hữu Thỉnh:

Nhân dân trở về từ bên kia mặt trăng

Lại vằng vặc những bến bờ thương nhớ

(Đường tới thành phố)

Trên con đường hành quân gian khổ, trăng đã trở thành một người bạn,

một niềm an ủi để người lính có thể vơi đi bao mệt nhọc; và trăng đã trở thành

người bạn tri kỉ để người lính dốc bầu tâm sự.

Với người lính khát vọng hạnh phúc luôn thường trực trong họ:

Còn ao ước nào hơn

Tự do và Đoàn tụ

Vào rừng lấy mật và đẵn gỗ

Thương mẹ và yêu em

Còn hạnh phúc nào hơn

Tổ quốc!

(Sức bền của đất)

Nỗi khát khao ấy, đã đôi lúc người lính như muốn nói cùng với mẹ:

Mẹ bảo: cơm chưa ăn thì gạo vẫn để dành

Vâng thưa mẹ: chiến tranh đừng vô tận

(Sức bền của đất)

Không chỉ là khát vọng hạnh phúc của người lính. Trường ca viết về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiến tranh chống Mĩ đã rất chú ý đến cuộc sống đời thường, nhân bản của

50

con người. Nhiều tác phẩm trường ca đã đi sâu vào những niềm đau âm ỉ, dai

dẳng, những khao khát nhỏ bé nhưng rất người mà trong hoàn cảnh thời chiến

cả dân tộc đã phải hy sinh. Đó là tình yêu không thành:

Những mảnh vỡ mối tình đầu như thủy tinh nhọn sắc

Bao đợi chờ ứa máu đến mai sau

(Đường tới thành phố)

Là người vợ vò võ trong đêm dài với nỗi cô đơn của riêng mình:

Tay nọ ấp tay kia...

Một mình một mâm cơm ngồi bên nào cũng lệch

(Đường tới thành phố)

Có thể khẳng định đây là điểm độc đáo của trường ca giai đoạn này.

Cuộc chiến tranh khốc liệt của dân tộc diễn ra hòa lẫn cả niềm vui chiến thắng

và mất mát, tổn thất hy sinh. Và đằng sau cuộc chiến tranh, nhìn sâu vào

những góc khuất ấy là tiếng kêu gào của bản thể, của đời sống cá nhân đáng

và cần được hưởng hạnh phúc. Một đời sống cá thể phong phú đã được

trường ca nhắc đến trong diễn trình lịch sử.

2.2. Hình tượng người phụ nữ

Trong cuốn Nhà văn nói về tác phẩm Hà Minh Đức đã khẳng định:

“Chiến tranh được đo tính bằng sự ác liệt của bom đạn, của xương máu, của

thời gian. Hết tiếng súng, chiến tranh kết thúc, nhưng đâu phải không còn

tiếng súng là chấm dứt sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi không ai tính được

biết bao nhiêu nhan sắc, sức lực và tinh hoa của những người phụ nữ đã bị

mài mòn trong chiến tranh” [18]. Chiến tranh qua đi để lại cả dư vị vinh

quang và cay đắng. Bên cạnh niềm vui chiến thắng, cái giá phải trả cho cuộc

chiến còn là số phận bất hạnh của những người phụ nữ.

Hóa thân vào chân dung người mẹ, Hữu Thỉnh đã dựng lên hình tượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người mẹ vừa lớn lao, gần gũi, chất chứa sự biết ơn sâu sắc. Từ người mẹ

51

riêng của tác giả đến người mẹ của các chiến sĩ đã hòa nhập làm một và trở

thành người mẹ chung: người mẹ nhân dân, người mẹ đất nước.

2.2.1. Người Mẹ tảo tần, nhân hậu và giầu đức hy sinh

Trong chiến tranh, hình ảnh người mẹ luôn là cảm hứng lớn cho thơ ca,

các nhà thơ chống Mỹ đã dành nhiều cảm xúc cho những người mẹ vừa cao

cả vừa bình dị. Hóa thân vào người mẹ, nhà thơ dường như thấu hiểu hết

những nỗi đắng cay, hy sinh vất vả trong cuộc đời người mẹ. Đọc trường ca

Hữu Thỉnh và những bài thơ của ông ta bắt gặp hình ảnh những người mẹ

chân chất, bình dị dành trọn cuộc đời cho chồng con, cho đất nước, một mình

gánh chịu bao khổ đau. Quên sao được hình ảnh của người mẹ ngày đêm tảo

tần một nắng hai sương nuôi chồng, nuôi con. Có đôi lúc hình ảnh người mẹ

lam lũ lại hiện lên trong tâm trí người lính để tiếp thêm sức mạnh cho họ

chiến thắng kẻ thù:

Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng

Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió

(Đường tới thành phố)

Hình ảnh người mẹ gánh rạ giữa đồng bị gió thổi mạnh, mẹ phải gắng

hết sức để khỏi ngã sẽ không quên được đối với những ai khi đọc câu thơ trên.

Tôi cứ thấy hình ảnh người mẹ vừa tội nghiệp lại vừa đáng khâm phục.

Tôi rất mê những câu thơ của Hữu Thỉnh trong trường ca Đường tới

thành phố khi anh đặc tả tâm trạng một người lính khi đối diện với cái chết:

Sông ơi sông nếu ta phải ra đi

Bậc thấp xuống cho em ra gánh nước

Xin bát canh đến tay mẹ lúc còn nóng

Xin mùa đông đừng dài

Và cột nhà hãy đỡ mẹ thật êm

Chẳng có chữ “yêu, thương” nào sao yêu thương nhiều đến thế. Tôi đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hình dung ra một bà mẹ gầy gò, luôn run rẩy khổ sở trước mùa đông miền

52

Bắc. Buổi sáng mẹ thường dậy sớm, và mẹ choáng váng, loạng quạng. Nhà

thơ đã hóa thân vào chiếc cột nhà để cho mẹ dựa, để đỡ lấy tấm lưng gầy

mảnh khảnh của mẹ.

Dù vất vả, nhưng mẹ luôn là những người sống hết mình vì cách mạng,

vì lẽ phải, giàu đức hy sinh. Mẹ âm thầm hy sinh để có ngày đoàn tụ. Bao

nhiêu cuộc tiễn đưa những đứa con thân yêu ra mặt trận, lòng mẹ nào chẳng

quặn thắt, đớn đau:

Ba đứa con có mặt ở trong này

Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc

Mẹ thường ít ngủ, mẹ thường thức khuya

Đêm nào cũng dài

(Đường tới thành phố)

“Mấy cuộc chiến tranh” hóa ra khi tiễn những người con vào chiến

trường mẹ lại phải đối mặt giống như một cuộc chiến tranh – một cuộc chiến

tranh chỉ riêng những bà mẹ mới thấu hiểu. Trong cuộc chiến tranh trường kì

của dân tộc, chính những người mẹ phải gánh chịu nhiều hy sinh, đau đớn

nhất. Đất nước gửi những người con ra chiến trường, mẹ là người hết tiễn

chồng, lại tiễn con, tiễn cháu ra trận. Hình ảnh những người mẹ gánh cùng

một lúc mấy cuộc chiến tranh làm trào dâng trong lòng người đọc lòng thương

cảm. Vị đắng của cuộc đời như chỉ có mẹ mới là người gánh chịu hết. Hơn ai

hết, chính những người lính là người thấu hiểu hết nỗi lòng của mẹ:

Xe pháo ì ầm vô tận nối nhau đi

Áo tân binh xanh thẫm bến phà

Những bà mẹ gặp nhau trong lo toan tầm tã

Tiếng gọi nào nghe rõ

Suốt chiều sâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mẹ nén đau

53

Dấu tờ báo tử

Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ

Bốn nghìn năm đất nước mấy khi yên

(Đường tới thành phố)

Khi nghe tin đứa con thân yêu của mẹ không về, mẹ lại gạt nước mắt,

nén nỗi đau, tiếp tục động viên những đứa con còn lại vào chiến trường. Ta

chợt liên tưởng đến buổi chia tay giữa hai mẹ con trong trường ca của Thanh

Thảo mà nỗi bịn rịn tỏa lan đến cả bờ tre mái rạ:

Khi con thưa với mẹ

Mưa bay mờ đồng ta

Ngày mai con đi

Khói bếp mẹ con mình chợt ngừng trên mái rạ

(Thanh Thảo)

Và những nỗi đau chồng chất đã làm mẹ mất ngủ:

Mẹ ít ngủ mẹ thường thức khuya

Đêm nào cũng dài

Căn nhà có mười mấy mét vuông

Làm lụng đến già còn bao nhiêu tất bật

(Đường tới thành phố)

Hình ảnh mẹ già cô đơn cảm nhận đêm dài khiến ta thấm thía hơn sự

trầm luân của dân tộc mình. Đó cũng chính là nỗi đau tột cùng của người mẹ

trong thơ Lê Anh Dũng:

Trên thế giới xưa nay

Bao cuộc chiến tranh

Có người nào như mẹ

Chín con đẻ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Một con rể

54

Một cháu ngoại

Lần lượt lên đường cầm súng

Lần lượt hóa thành mây trắng trời xanh

(Thưa mẹ)

Gánh trên vai cả năm tháng chiến tranh dài, các mẹ đã mất đi những người

thân yêu cho cuộc chiến giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Gia tài của những

người mẹ khi đất nước có chiến tranh thật quá phũ phàng: “Những đứa con ra đi

không về/Gia tài của mẹ dần thêm những bát hương” ( Lương Ngọc An).

Hình ảnh người mẹ nhân hậu, tảo tần và giàu đức hy sinh đã đi vào

trang thơ của Hữu Thỉnh bằng tình cảm chân thành, nồng ấm và tha thiết. Đó

là tiếng lòng tri ân của một người lính dành cho những người mẹ đã đi qua

bao cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.

2.2.2. Người Mẹ - điểm tựa vững vàng nơi hậu phương

Trong tấm lòng người chiến sĩ, có một khoảng rộng nhất, sâu nhất dành

cho quê hương – hậu phương lớn. Hậu phương gắn bó máu thịt với chiến

trường, hậu phương là động lực, là sức mạnh vô tận. Và người mẹ là hình ảnh

lớn lao nhất, tập trung nhất của quê hương, của hậu phương. Ở đây người mẹ

là biểu trưng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là điểm tựu vững vàng nơi

hậu phương. Có thể khẳng định hình tượng người mẹ là một trong những hình

tượng nổi bật trong kho tàng văn học Việt Nam, cũng như trong thơ ca kháng

chiến. Với Hữu Thỉnh người mẹ luôn là người dõi theo bước chân người lính,

đó là miền nhớ và cũng là điểm tựa, là sức mạnh tinh thần giúp người lính

vượt qua mọi trở ngại, gian nan. Có thể thấy bất cứ lúc nào, cả lúc vui lẫn lúc

buồn, khi thảnh thơi cũng như khi lo nghĩ, người lính đều nhớ đến mẹ ở nhà.

Anh nói thật thà như trẻ thơ: Mẹ là người chúng con thương nhớ nhất (Sức

bền của đất).

Hình ảnh người mẹ tiễn con ra trận với miếng trầu luôn thắm đỏ trên

môi đã làm ấm lòng người lính, là vùng tin cậy phía sau mỗi khi họ nhớ về.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Vào chiến trận với bao gian khổ, buồn vui, nhưng có lẽ nỗi nhớ mẹ luôn dâng

55

ngập cõi lòng người lính. Nó trở thành vật báu, là bến nghỉ chân thanh bình

mỗi khi họ nhớ về. Khi khoác ba lô lên đường mỗi người lính quên sao được

những lời mẹ dặn:

Con không dám nhìn mẹ lâu

Mái chèo khua sóng đánh

Nước ngấn lưng đê sẫm lời mẹ dặn

Mùi trầu cay ấm hoài trên vai

(Sức bền của đất)

Hình ảnh Nước ngấn lưng đê sẫm lời mẹ dặn đã cho ta thấy được cái

bịn rịn và tình thương của mẹ dành cho những người lính khi ra trận. Kể làm

sao hết, đếm làm sao xuể những lời dặn dò, thương nhớ của mẹ dành cho các

anh. Chỉ biết nó đầy ắp như nước ngấn lưng đê, nó ăm ắp và bao la như biển

cả. Chính những vất vả, lo toan đã tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến

thắng được kẻ thù:

Những cánh đồng in dấu chân của mẹ

Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi

(Đường tới thành phố)

Tác giả đã khắc họa một hình tượng bà mẹ khổ đau gắn liền với đức hy

sinh vô bờ bến, một đức hy sinh thầm lặng, cao cả, thủy chung và thiêng

liêng. Hình ảnh bà mẹ gánh rạ giữa đồng ám ảnh tâm trí người đọc không chỉ

bởi sức nặng của gió, cao cả hơn, chính những điều bình dị ấy đã tạo nên chất

thép trong tâm hồn mỗi người lính.

Hữu Thỉnh không cố ý tìm những cách nói độc đáo, mới lạ khi nói về

mẹ, anh chỉ kể những hình ảnh bình dị, những hình ảnh, những sự việc bình

thường, song cũng chính vì vậy mà gần gũi thân thiết biết bao:

Mẹ đang xếp cho anh bộn bề giá sách

Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu

Những điểm 9, điểm 10 không còn an ủi mẹ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Đường tới thành phố)

56

Ta còn tìm thấy hình ảnh người mẹ kiên trung trong trang thơ của Tố

Hữu với niềm tự hào sâu sắc. Họ - những người mẹ Việt Nam sống muôn đời

với đất nước, núi sông của nhân dân Việt Nam:

Một dòng máu đỏ lên trời.

Má ơi, con đã nghe lời má kêu

Nước non muôn quý ngàn yêu

Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang

(Bà má Hậu Giang – Tố Hữu)

Người lính trong thơ Hữu Thỉnh mềm yếu mà cũng vô cùng vĩ đại. Cái

mềm yếu rất người ấy đã cho ta thấy được cái dũng mãnh, cái vô biên trong

tâm trí họ. Thì ra khi ở chiến trận, người lính luôn nhớ về mẹ, luôn hướng về

mẹ và coi đó là bệ đỡ cao nhất, là điểm tựa vững vàng giúp họ vượt qua bao

gian khó, hiểm nguy. Với họ, mẹ là ngọn đuốc sáng soi đường cho mỗi bước

đi của người lính.

Như vậy, hóa thân vào chân dung người mẹ, Hữu Thỉnh đã cho ta thấy

cái lam lũ, tảo tần và giàu đức hy sinh của người lính. Hữu Thỉnh đã khắc họa

một hình tượng bà mẹ khổ đau gắn liền với đức hy sinh vô bờ bến, một đức

hy sinh thầm lặng, cao cả, thủy chung và thiêng liêng. Không ai khác chính

mẹ là điểm tựa vững vàng nơi hậu phương, là mặt trời ấm áp sưởi ấm trái tim

người lính mỗi khi gặp khốn khó, nguy cùng. Nụ cười thầm lặng, nước mắt

thầm lặng, cái chết thầm lặng của bà mẹ trong thơ Hữu Thỉnh là nét phẩm

chất chung của các bà mẹ Việt Nam, phụ nữ Việt Nam. Đối với Hữu Thỉnh,

mẹ là ngọn nguồn của tất cả, là vui sướng tột cùng, là tự hào cao độ, là thương

nhớ không nguôi, là tình yêu vô biên, là ánh sáng dõi theo suốt cuộc đời

người lính trẻ.

2.2.3. Người phụ nữ - biểu tượng của sự chịu đựng

Trong trường ca Đường tới thành phố hình tượng người phụ nữ đã trở

thành một biểu tượng của sự chịu đựng. Đây là tâm sự, là số phận của một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người vợ khi chị viết thư cho chồng:

57

Chúng em chẳng sợ địch lùng

Đêm nằm sợ tiếng ru con trên đài

Chị đi hoạt động bị địch bắt:

Tù về mắc bệnh động kinh

Mình nghe nói chớ bả làm thinh hoài hoài

Hình ảnh người chị, người vợ luôn hiện lên với đức hy sinh và lòng

dũng cảm. Hoạt động trong lòng địch, đối diện với bao hiểm nguy để đánh lừa

bọn địch, nhập vai vào nhân vật, tác giả nhận ra cảnh ngộ đầy trớ trêu của chị:

Chị góa bụa trong hồ sơ tự khai

Chị cười cợt với thằng chỉ điểm

Người nó thắt y chiếc còng số tám

Cứ hau háu rình chộp chị mang đi

Chị cố làm cho thật lẳng lơ

Thắt vạt áo trước bao lời dị nghị

Tác giả như thấu hiểu nỗi lòng của nhân vật khi nói về sự nhẫn nhịn

của chị trước bao lời dị nghị, bao cám dỗ, sự đè nén của biết bao khổ đau

chồng chất về đời sống tinh thần. Anh còn sống mà tưởng như đã chết, ngay

cả khi tưởng như khoảng cách xa nhau không còn nữa nhưng trong chiến

tranh giây phút vợ chồng bên nhau bỗng trở nên xa vời:

Chị nuôi anh dưới đất

Năm năm trời anh nhìn chị trong đêm

Chị gặp anh mà không hay ốm mập

Gặp anh mà không hay anh đen trắng ra sao

Chị nghe giọng anh mỗi ngày lặng xuống

Còn gì đau buồn hơn khi thời gian không phải được tính bằng ngày,

tháng mà phải tính bằng “năm năm” thật là dằng dặc, ở bên chồng mà cũng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

như không. Chị chỉ có thể gặp anh qua giọng nói, đến nỗi chị gặp anh thường

58

xuyên mà không hay ốm mập, không hay anh đen trắng ra sao. Anh phải chấp

nhận bí mật hy sinh: mỗi năm một lần cúng kị, khấn anh xong mang xôi trái

xuống hầm. Thiết nghĩ đó là những hy sinh không gì bù đắp nổi mà các chị

phải gánh chịu. Đó có thể chỉ là nỗi đau âm ỉ, là cuộc sống cô quạnh, là tình

cảnh trớ trêu....tất cả làm họ hóa đá trong cõi lòng, chỉ còn lại tình yêu cho

nhân dân, cho Tổ quốc.

Ở Trường ca biển ta còn gặp những người vợ rất đỗi thông minh, trở

thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn:

Những đứa con sinh ra trong chiến tranh

Sống tản mát dưới hầm bí ẩn

Chị để con mỗi đứa ở riêng hầm

Bom có trúng cũng không thành tay trắng

(Trường ca biển)

Có thể nói hình ảnh những người vợ, người chị trong chiến tranh đi vào

trang thơ của Hữu Thỉnh thật đẹp và vô cùng gần gũi. Ta khâm phục họ bởi

sự chịu đựng và sự bền bỉ sắt đá. Chỉ có những người chị, người vợ, yêu

chồng, thương con và sống hết mình vì độc lập tự do cho tổ quốc mới làm

được điều đó. Ấn tượng sâu sắc về hình tượng người vợ, người phụ nữ trong

thơ Hữu Thỉnh là biểu tượng của sự chịu đựng, kiên cường. Đó là người vợ

dũng cảm nuôi chồng dưới căn hầm bí mật, là người vợ chờ chồng trở thành

góa phụ như hóa đá vọng phu….

2.2.4. Người phụ nữ với những góc khuất trong cuộc chiến tranh

Người phụ nữ, những người chị, người vợ trong thơ nói chung và

trường ca của Hữu Thỉnh nói riêng không chỉ là những người giàu sức chịu

đựng, hy sinh gian khổ mà còn là những người phụ nữ có những khát khao rất

đỗi đời thường. Đó là khát khao được làm vợ, làm mẹ luôn cháy âm ỉ trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lòng họ. Hữu Thỉnh như đã đi sâu vào trong tâm can của họ, thấy được những

59

góc khuất của họ do chiến tranh gây ra. Tiếng kêu gào của bản thể, của những

người phụ nữ trong thơ Hữu Thỉnh làm lòng ta se thắt.

Nhập thân vào nhân vật để tập trung thể hiện sự khắc khoải nội tâm để

từ đó Hữu Thỉnh nhằm làm nổi bật lên lòng chung thủy của những người vợ,

người chị:

Chị chờ đợi quay mặt vào đêm

Hai mươi năm mong trời chóng tối

Hai mươi năm cơm phần để nguội

Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi...

(Đường tới thành phố)

Khoảng thời gian đằng đẵng hai mươi năm lặp đi lặp lại nhiều lần để

diễn tả sự khắc khoải chờ đợi chồng. Nỗi nhớ như khắc, như chạm vào tim

chị, như hối thúc tuổi trẻ. Thấu hiểu cảnh ngộ của chị, nhà thơ đã dựng lên

chân dung một người vợ trẻ suốt bao nhiêu năm phải quay mặt vào bóng tối,

quay lưng lại với nhiều cám dỗ, chấp nhận một cuộc sống cô đơn, âm thầm

chung thủy chờ chồng cho đến ngày toàn thắng. Hơn nữa, mong trời chóng tối

để một ngày trôi đi thật nhanh, để khỏi chứng kiến cảnh tết đến, xuân về. Cho

dù xóm làng rất ý tứ không khoe con trước mặt mà nó vẫn ám ảnh, vật vã

trong lòng chị. Khoảng thời gian ấy chị chịu nhiều thiệt thòi về tình cảm, phải

sống trong nỗi cô đơn:

Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền

(Đường tới thành phố)

Nguyễn Đăng Điệp đã có lời bình xác đáng về hình ảnh má lúm đồng

tiền: “sao mà trớ trêu đến thế, cái lúm đồng tiền làm nên duyên con gái, là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một hệ số để đo ướm giá trị con người bỗng dưng trở thành một huyệt. Mà

60

đâu chỉ có một người chị cụ thể nào, có bao người phụ nữ đã hóa đá, đã chết

mòn trong nỗi khắc khoải triền miên. Ngày chiến thắng trong nụ cười đoàn

tụ, ai nhớ đến để trao huy chương cho những nàng Tô Thị bao ngày im lặng

“đợi chờ quay mặt vào đêm” [15]. Bi kịch của tình yêu bị đẩy lên đến đỉnh

điểm khi:

Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy

Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc

(Đường tới thành phố)

Thiết nghĩ đây không phải là chuyến đò thực mà có ý nghĩa biểu tượng,

là chuyến đò thân phận chở tình duyên và sắc đẹp của con người trước thời

gian, trước bao sóng gió. Đó cũng là cảnh ngộ của người vợ trong thơ Trần

Chấn Uy:

Đêm đêm chị lang thang dọc bến đò

Nơi ấy ngày xưa chị tiễn chồng ra trận

Ba mươi năm một mình lận đận

Chị già theo những con nước đầy vơi

(Chị)

Đó là tiếng vang của nỗi nhớ, sự ngóng chờ mòn mỏi của người vợ.

Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng người khốn khổ nhất trong cuộc chiến tranh này

là người phụ nữ. Họ là người gánh chịu nhiều thiệt thòi, nhiều cay đắng trong

suốt cuộc chiến tranh.

Những khát khao làm vợ, làm mẹ vẫn luôn âm ỉ cháy trong lòng họ:

Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra

Trong giỗ Tết họ hàng nội ngoại

Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cút một mình

Những đêm trở trời trái gió

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Đường tới thành phố)

61

Hình ảnh người vợ côi cút một mình dội vào lòng người đọc một cảm

giác cô đơn, buồn tẻ. Nhập vào cảnh ngộ người vợ, và đi vào tận cùng ngõ

sâu tâm hồn họ, Hữu Thỉnh đã diễn tả tâm trạng ngập chìm trong nỗi buồn,

mất mát không gì bù đắp nổi trong tình cảnh của người vợ xa chồng.

Có người vợ, chồng hy sinh phải sống cuộc đời cô đơn, lẻ loi. Con

người ta có đủ sức mạnh để chịu đựng những hy sinh mất mát về vật chất,

nhưng làm sao chịu đựng được sự cô đơn, làm sao sống được cả cuộc đời

quạnh quẽ:

Những đêm trở trời trái gió

Tay nọ ấp tay kia

Súng thon thót ngoài đồn dân vệ

Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

(Đường tới thành phố)

Và chị buồn như bông điệp xé đôi, bằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại

(Đường tới thành phố).

Có một điều đặc biệt là dù cho số phận nghiệt ngã, cuộc đời người phụ

nữ trong trường ca Hữu Thỉnh có gian nan đến đâu thì họ vẫn luôn lạc quan

và tin tưởng vào ngày mai. Dù sự tin tưởng ấy đôi lúc chỉ là ảo vọng:

Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều

Hoa mai nở hai lần hoa có hậu

Chị vẫn tin có mùa thu xanh đền cho cuốc kêu tháng sáu

Vẫn tin có ngày hái quả cho anh

(Đường tới thành phố)

Nhưng liệu rằng ý chí sắt đá của người phụ nữ có chiến thắng được

những khát khao đời thường không? Hữu Thỉnh đã diễn tả rất tinh tế chiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sâu tâm lí người phụ nữ với những khao khát đời thường. Từ đó cho ta thấy

62

được những trạng thái trong chiều sâu tâm hồn mỗi con người, thủy chung và

tin tưởng, khát khao và dồn nén, cam chịu nhưng ẩn sau đó là một sức sống

mãnh liệt:

Mãn tang anh chị vẫn chưa già

...Trời còn bao nhiêu thu

Tóc chị thắm làm thắt lòng nội ngoại

(Trường ca biển)

Ngày anh không về đó là một nỗi đau không thể nào nguôi ngoai trong

chị, mặc dù chị đã từng tin chữ hợp cuối trang Kiều, nhưng chiến tranh là

vậy, người vợ đã từng vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua bao thử thách

trong cuộc sống để chờ anh về và giờ đây chị lại phải chịu thêm một lần thử

thách: mãn tang anh chị vẫn chưa già. Có lẽ đó là nỗi đau âm ỉ, sâu kín nhất

trong cõi lòng họ. Nó đóng đinh trong lòng họ suốt cuộc đời.

Khai thác vấn đề này, nhà thơ thể hiện một cái nhìn hết sức cảm thông,

chia sẻ và thấu hiểu những người phụ nữ. Chính điều đó đã góp phần làm xoa

dịu bớt những nỗi cay cực mà người phụ nữ phải gánh chịu:

Có người lính ở Trường Sa

Đi cùng anh dạo ấy

Hôm nay lúa lại nhen đòng

Chim bay ngược bão hoa trong thiếp mời

Hôm nay tái giá chị tôi

Liền anh cùng với bao người đứng trông

Chị tôi đi thửa hương vòng

Ngậm ngùi trên mộ cũ

Cháu ở lại cùng bà bống bống bang bang

(Trường ca biển)

Có thể nói những dòng thơ viết về phụ nữ thường mang lại nhiều xúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

động, day dứt cho người đọc. Bản thân đề tài tuy không phải mới nhưng bao

63

giờ cũng chứa đựng những rung cảm lớn lao với mỗi người. Hóa thân vào

những người mẹ, người vợ, người chị tác giả đã khẳng định vai trò, sự đóng

góp, hy sinh to lớn của người phụ nữ vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng

chiến. Với sự chân thật trong cảm xúc, tác giả đã khắc họa khá thành công

chân dung người mẹ, người vợ trong thời kì đất nước có chiến tranh. Cuộc

kháng chiến 30 năm đã làm biết bao cặp vợ chồng phải chia ly, nào ai tính

được có biết bao người phụ nữ phải mòn mỏi chờ đợi hạnh phúc lứa đôi. Chất

bi tráng của lòng chung thủy là sự hy sinh cao cả, là không gì lay chuyển

được của lời thề trái tim mình trong tình yêu. Hóa thân vào những người mẹ,

người chị, người vợ Hữu Thỉnh nhằm ca ngợi những người góp phần làm nên

trang sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam.

2.3. Hình tượng đất nước

Không chỉ riêng Hữu Thỉnh, khi viết về hình tượng đất nước tất cả các

nhà thơ đều dành cho đất nước những tình cảm cao đẹp nhất. Trong văn học

1945 -1975, đất nước trở thành đề tài lớn và là hình tượng nổi bật trong thơ

ca. Các nhà thơ thế hệ chống Mỹ đã xây dựng được hình tượng đất nước, vừa

cụ thể, vừa khái quát. Sự hình dung về đất nước của họ thật giản dị mà thấm

thía. Chưa bao giờ đất nước hiện lên cụ thể, chân thực và gần gũi đến như

vậy. Với Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh đất nước được kết tinh từ những điều

bình dị nhất:

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc...

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

(Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)

Hay một đất nước lớn lao, kỳ vĩ trong thơ Tố Hữu:

Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ

Đất anh hùng của thế kỉ XX

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Miền Nam – Tố Hữu)

64

Và một đất nước thật thân thương gần gũi trong thơ Chế Lan Viên:

Ôi, Tổ quốc, ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta như vợ như chồng

Ôi, Tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông

Với Hữu Thỉnh, Tổ quốc trở thành hình tượng tiêu biểu trong sáng tác

của ông. Tuy xuất hiện không nhiều song mỗi lần xuất hiện là mỗi lần đất

nước được hiện lên với nhiều dáng vẻ khác, thể hiện sự tìm tòi mới mẻ và rất

riêng của tác giả. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh thì tình

cảm dành cho đất nước lại trở lên thiêng liêng hơn bao giờ hết. Đó là hình ảnh

một đất nước bị chia cắt :

Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt

Yêu Tổ quốc mình, Tổ quốc bị chia đôi

Nỗi đau ấy góp đời mình để xóa

(Đường tới thành phố)

Hòa mình vào nhân dân, hiểu tình cảnh nhân dân đang chia cắt, yêu Tổ

quốc, gắn bó vận mệnh của mình với tổ quốc là một trong những lí tưởng của

người lính. Nó đã trở thành tư tưởng chung của thời đại khi vận mệnh của dân

tộc được đặt lên hàng đầu. Và hơn một lần Thanh Thảo đã từng khẳng định :

Đất nước đẹp mênh mông

Đất nước thấm sâu đến tận cùng xương thịt

Chỉ riêng cho người chúng tôi dám chết

(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

Vâng! Nếu Tố Hữu nhìn đất nước trong mưa bom bão đạn vẫn xanh

màu hy vọng: Tổ quốc tôi xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển / Xanh

trời, xanh cả những ước mơ, thì hình ảnh đất nước trong thơ Hữu Thỉnh lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gắn liền với những cảm nhận, suy tư riêng giàu tính triết luận, gắn liền với

65

những trải nghiệm đời lính của ông. Với Hữu Thỉnh đất nước đau thương mà

vững vàng, anh hùng, nó không phải là cái gì to lớn, cao xa, trừu tượng mà

hiện lên trong những gì gần gũi nhất, bình dị nhất. Tổ quốc có thể chỉ là một

gốc sim cằn trong giờ phút hiểm nguy :

Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được

Một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn

Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?

Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim

(Đường tới thành phố)

Hay với ông, Tổ quốc chỉ là một gốc cao su bé nhỏ :

Những ngày chúng ta gan góc hết mình

Một gốc cao su nửa giờ trước là ta, nửa giờ sau chúng chiếm

(Đường tới thành phố)

Có thể khẳng định, tình yêu Tổ quốc, cảm xúc về tổ quốc là một trong

những tình cảm thiêng liêng và cao đẹp nhất, nó gần gũi và không còn là tình

cảm xa lạ trong thơ Việt Nam. Khi đặt bước chân ra chiến trận là đồng thời

người lính đã thể hiện quyết tâm dành hơi thở cuối cùng cho đất nước, Tổ

quốc mình. Trong nhiều chiều lựa chọn, người lính vẫn chọn Tổ quốc lên

hàng đầu. Do đó, hình ảnh Tổ quốc trong thơ hiện lên vô cùng gần gũi, nó

không còn là những khái niệm trừu tượng mà trở nên máu thịt. Chẳng vậy

Phạm Quang Đẩu từng khẳng định :

Tiếng Tổ quốc không còn là danh từ trừu tượng

Đã trở thành thân quen

Ngôi nhà, gốc cây, đường cái, góc sân

Tổ quốc hợp thành từ những gì bình dị nhất

(Ấn tượng về người mẹ)

Hiện thực chiến tranh không bao giờ là mầu hồng bởi nơi ấy luôn có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cảnh đầu rơi, máu chảy. Khi đi vào thơ, Hữu Thỉnh không hề né tránh sự thực

66

đau thương của Tổ quốc, mà nói lên thực trạng đó bằng những vần thơ đầy

ám ảnh. Nhà thơ nhìn rõ thực tế mà đất nước phải gánh chịu để ý thức rõ hơn

trách nhiệm của mỗi người đối với vận mệnh Tổ quốc. Nếu Nguyễn Khoa

Điềm khái quát hình ảnh đất nước vơi 4000 nghìn năm lịch sử với biết bao giá

trị văn hóa đẹp đẽ mà nhân dân đã bồi đắp theo năm tháng ; một đất nước

được cảm nhận như là sự thống nhất ở chiều dài lịch sử, ở chiều rộng không

gian địa lý và chiều sâu văn hóa ; thì Hữu Thỉnh lại khắc họa hình tượng đất

nước trong đau thương "Bốn nghìn năm đất nước mấy khi yên". Đó là một đất

nước luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm, nhưng luôn chiến thắng bởi

lòng dũng cảm, kiên cường và chính nghĩa. Trữ tình và triết luận là bút pháp

chủ yếu mà Hữu Thỉnh đã sử dụng khi viết về đất nước, Tổ quốc. Vì thế mà

hình tượng đất nước trong thơ ông vừa mang tầm triết luận sâu sắc, lại vừa

thấm đẫm cảm xúc trữ tình.

Không chỉ vậy, với Hữu Thỉnh đất nước còn được hội tụ ở những giá trị

truyền thống văn hóa dân tộc. Chính những giá trị ấy là cội nguồn sức mạnh

tinh thần to lớn để con người Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách :

Tiếng Việt gọi hồn Việt

Giữa đất Việt ngoài khơi

Tiếng Việt là ngọn cờ

Hội quân trong đêm tối

Tiếng Việt để nhận nhau

Giữa bao nhiêu rắc rối

(Trường ca biển)

Tiếng Việt không đơn thuần chỉ là tiếng nói mà còn là giá trị văn hóa,

là linh hồn của dân tộc còn lại với thời gian và đất nước, nó là tiếng kèn hiệu

triệu, là bản sắc để dân tộc nhận ra nhau. Có lẽ viết những dòng thơ này nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thơ Hữu Thỉnh một lần nữa muốn khẳng định nét độc đáo, nét riêng của tiếng

67

Việt. Tiếng Việt như ngọn cờ ngoài khơi, trên những con tàu đang bảo vệ chủ

quyền của đất nước, nó thiêng liêng và hùng vĩ biết bao.

Với Hữu Thỉnh đất nước còn được nhìn thấy từ trong những nét văn

hóa dân gian. Đến với thơ từ ngôi đền văn hóa dân gian, bằng vốn kiến thức

phong phú về văn hóa dân gian Hữu Thỉnh đã chuyển tải những hình ảnh đất

nước theo cách riêng của mình. Tác giả đã dựng lên hình ảnh về đất nước với

bao trầm tích :

Ta bới sóng đi tìm các dòng sông

Gặp Trương Chi cắm sào đứng hát

Mỵ Nương vẫn đang ngồi khóc

Nước mắt thành ngọc trai...

Ta bới sóng đi tìm các dòng sông

Gặp nàng Tiên Dung đội cát

(Trường ca biển)

Hay :

Đất nước ngày có giặc

Mẹ vẫn đỏ miếng trầu

Ấm một vùng tin cậy phía sau lưng

(Sức bền của đất)

Hóa ra tất cả những gì bình dị nhất, ngay cả chỉ một dòng sông cũng

chất chứa bao huyền thoại. Đó không chỉ là dòng sông tự nhiên nữa mà nó

còn là dòng sông của những cổ tích, truyền thuyết... hằn sâu theo năm tháng.

Và Hình ảnh miếng trầu gợi nhắc đến tình nghĩa anh em, chồng vợ, được nuôi

dưỡng qua các thế hệ. Nó đã thấm vào máu thịt, vào tâm hồn mỗi người dân

Việt. Với những người lính, miếng trầu không chỉ gợi nhắc sự thủy chung,

son sắt mà hơn nữa còn khẳng định một chân lí, chính mẹ, quê hương là điểm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tựa vững chắc cho người lính chiến thắng kẻ thù. Hình ảnh miếng trầu xuất

68

hiện rất nhiều trong thơ ca, nhưng với Hữu Thỉnh đó là miếng trầu của niềm

tin, của hơi ấm, là tình mẹ thiêng liêng.

Cùng mạch cảm nghĩ ấy, Nguyễn Đức Mậu đã dựng lên hình ảnh một

đất nước thật cụ thể mà xúc động :

Chúng tôi lớn lên đã có mưa ngâu

Đã có miếng trầu lá xanh, vôi trắng

Đã có đá mài gươm, đã vàng tre làng Gióng

Ông đồ rau đội nồi cháo loãng

Lửa nhen lời cổ tích thâu đêm

(Trường ca sư đoàn)

Tìm về những giá trị truyền thống của dân tộc là nhà thơ đang tìm về

những giá trị bền vững góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Đây cũng

chính là hình thức nhà thơ góp sức vào sự phát triển giá trị văn hóa dân tộc,

tiếp "lửa" truyền thống cho thế hệ sau. Phải chăng đây cũng chính là một

trong những yếu tố góp phần tạo nên sức sống lâu bền cho thơ Hữu Thỉnh.

Đất nước không chỉ là những gì bình dị nhất, chứa đựng hồn dân tộc.

Đất nước còn được Hữu Thỉnh nhìn qua những người con ưu tú của dân tộc.

Với một thái độ thành kính, ngưỡng mộ, Hữu Thỉnh đã có những vần thơ thật

xúc động về những con người ấy. Không chỉ Tố Hữu, Hoàng Trung

Thông..mà ngay cả Hữu Thỉnh cũng có những vần thơ thật xúc động về Bác –

vị cha già của dân tộc. Trở về nơi Bác đã ra đi tìm đường cứu nước, nhìn cảnh

sông nước bến Nhà Rồng lại nghĩ đến Bác, mong ước được nghe Bác nói,

được nghe Bác đọc thơ khi mỗi độ xuân về :

Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi

Từng đọt măng trên rừng, từng đám mây lưu lạc

Tất cả dưới bàn tay của Bác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hóa thiêng liêng máu thịt tự hào

69

Chúng con thèm nghe Bác nói một câu

Giữa bến Nhà Rồng mênh mông sóng nước

Thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp

Để vui hết được những gì ta có hôm nay

(Đường tới thành phố)

Đó còn là tình cảm ngưỡng mộ với sự hy sinh dũng cảm của anh hùng

Nguyễn Văn Trỗi :

Nếu anh còn giờ này anh ở đâu ? Anh Trỗi

Đeo quanh anh không phải những vòng hoa

Không nguyệt quế, không cầu vồng huyền hoặc

Đeo quanh anh là những vòng người

(Đường tới thành phố)

Như vậy, có thể khẳng định hình tượng Tổ quốc là hình tượng nổi bật

trong thơ Hữu Thỉnh nói chung và trong trường ca của ông nói riêng. Viết về

đất nước bằng tình cảm chân thành và thành kính, Hữu Thỉnh đã dựng lên

trước mắt người đọc hình ảnh một đất nước dù đau thương nhưng vẫn vững

vàng, đẹp rạng ngời. Đó là vẻ đẹp của một dân tộc với bề dày văn hóa, chính

nghĩa và đang ngày một khởi sắc dù cho bao mưa bom bão đạn, mất mát do

chiến tranh gây ra. Đó là hình ảnh những người con ưu tú của dân tộc, là

những vật báu luôn toả sáng với các thế hệ bởi công lao bảo vệ gìn giữ và

dựng xây đất nước.

2.4. Hình tượng biển

Theo khảo sát của chúng tôi, hình tượng biển xuất hiện khá nhiều trong

thơ và trong trường ca Hữu Thỉnh. Trong đó có một số bài xuất hiện dày đặc

như: “Tôi đi bào ngư” (Tiếng hát trong rừng): 7 lần; “Phan Thiết có anh

tôi” (Thư mùa đông): 6 lần; đặc biệt ông dành hẳn một trường ca để nói về

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biển đó là “Trường ca biển”, trong đó có những bài như “Đối thoại biển”

70

xuất hiện 22 lần hình ảnh biển, “Bão biển”: 13 lần,“Hóa thạch những dòng

sông”: 14 lần...

Trước hết, biển trong thơ Hữu Thỉnh biểu trưng cho khung cảnh thiên

nhiên tươi đẹp. Với người lính đảo biển hiện lên thật nên thơ:

Đảo vắng cỏ non vẫn biết mùa xuân đến

Khi trông bờ ngắm một lá thư thăm

Biển xanh quá ước gì anh gói được

Nhờ con tàu bè bạn đến tay em

(Gửi từ đảo nhỏ - Tiếng hát trong rừng)

Qua cánh cửa hầm chật hẹp, lần đầu tiên thấy biển tươi đẹp dường như

người lính thấy quên hết nhọc nhằn sau chặng đường hành quân:

Chính ở đây anh thấy biển lần đầu

Qua cửa hầm

Sau những ngày vượt dốc

Biển thì rộng căn hầm quá chật

Khẽ trở mình cát trắng đổ hai vai

(Phan Thiết có anh tôi - Thư mùa đông)

Không chỉ với người lính, mà với mỗi người trong chúng ta khi thấy

biển lần đầu đều không khỏi kinh ngạc và thán phục bởi cái vô biên, rộng

lớn của nó. Biển luôn gắn mình với cát, khi ra với biển người lính lại được

hòa mình vào cát, làm bạn với cát, đôi lúc chỉ cần khẽ trở mình cát trắng đổ

hai vai.

Việt Nam là một trong những nước tự hào có bờ biển dài và cả những

hòn đảo đã đi vào lịch sử: Hoàng Sa, Trường Sa... Biển đảo với đất liền tuy xa

mà gần bởi đó là một phần lãnh thổ của Tổ quốc. Theo quan niệm của nhà

thơ, biển đảo còn là một bộ phận của giang sơn Tổ quốc và người lính không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

khỏi tự hào khi được làm chủ vùng biển đảo của Tổ quốc:

71

Những đảo xa

Những quả trứng dập dờn giữa sóng

Những nhớ thương không ở ngoài tầm

Đất nước...

(Trường ca biển)

Đặc biệt trong “Trường ca biển”, hình ảnh gió, cát, biển được nhà thơ

nói đến nhiều lần, nhưng nó không đơn thuần là hình ảnh thiên nhiên mà trở

thành biểu tượng, hình hài của Tổ quốc:

Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình

Đảo có lính cát non thành Tổ quốc

(Trường ca biển)

Đứng trước biển hùng vĩ,đôi lúc tác giả đã suy tư, trăn trở về lẽ sống

tình đời, lấy biển để biểu trưng cho lẽ sống cuộc đời. Lấy sự mênh mông của

biển cả để làm tiền đề suy tư và khát vọng tình yêu không còn xa lạ trong thơ,

nhưng đọc thơ Hữu Thỉnh ta vẫn thấy được nét mới mẻ, bất ngờ. Đã có lúc

nhân vật trữ tình trong thơ ông đứng trước biển để tự vấn về tình yêu không

trọn vẹn của mình:

Anh phải nói vòng vo anh yêu biển

Anh yêu trời để thú nhận yêu em

Anh cứ khen người tốt đôi tốt lứa

Để giấu đi bao nỗi xót xa thầm

(Tạm biệt Sầm Sơn – Thư mùa đông)

Và đôi lúc đứng trước biển mênh mông ông nhận ra sự chông chênh,

trống vắng của con người và đưa ra cách triết lí về tình yêu của riêng mình:

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Thơ viết ở biển – Thư mùa đông)

72

Không phải ngẫu nhiên mà Hữu Thỉnh dành hẳn một trường ca để nói

về biển. Khi chiến tranh lùi xa, tưởng như tất cả lại trở về với sự bình yên thì

người lính lại đứng trước một thử thách cũng không kém phần nguy hiểm,

khó khăn đó là đứng trước biển cả mênh mông. Những người lính đã đi qua

bao thác lũ, núi đèo và bây giờ họ đến với biển:

Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước

Những vết thương của tôi còn nhiều hơn cả tuổi đời

(Trường ca biển)

Lần đầu tiên đứng trước biển họ có biết bao tâm sự, băn khoăn trong

lòng. Họ luôn đặt cho mình câu hỏi: “Tôi phải làm gì?”. Mặc dù người lính

đã từng trải nghiệm qua biết bao gian nan, hiểm nguy trong chiến tranh cũng

như kinh nghiệm trong cuộc sống và cả kinh nghiệm người đi trước để lại:

Mẹ dặn tôi

Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin

Tôi đã tin và chưa hề bị ngã

(Trường ca biển)

Nhưng giờ đây đứng trước biển, từng ấy kinh nghiệm với người lính vẫn

chưa đủ, bởi với biển thì khác: “không ngã chưa hẳn đã khỏi chìm”. Môi

trường biển chẳng dễ dàng gì với người lính đảo, chạm vào thực tế nghiệt ngã

của biển cả, người lính mới nhận ra những kinh nghiệm trước đây vẫn chưa đủ:

Bao vốn liếng cả một đời cóp nhặt

Bước xuống tàu trở thành kẻ tay không

(Trường ca biển)

Và người lính lại bắt đầu làm quen với cuộc sống mới và biển đảo sẽ

dạy cho họ những kinh nghiệm mới:

- Cấm đi câu đi tắm một mình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Xuống nước phải mang theo dao găm

73

- Cấm bơi xa miệng vực

Nhất thiết phải bơi đứng

Cá mập không quen săn mồi thẳng

(Trường ca biển)

Đọc cả bản trường ca, có lẽ ấn tượng nhất với độc giả vẫn là chương

“Đối thoại biển”. Bởi đây không chỉ là cuộc đối thoại giữa người lính và biển,

mà thông qua đoạn đối thoại này tác giả muốn gửi đến một triết lí sâu sắc và rất

thời sự về cuộc sống: Đất nước muốn phát triển không thể chỉ dựa vào kinh

nghiệm cũ, không chỉ sống mãi với ánh hào quang chiến thắng mà còn phải

dựa vào bản thân và thực tiễn cuộc sống mà vươn lên. Đoạn đối thoại:

Người lính nói:

- Có bí quyết gì sau lớp sóng kia chăng

Biển nói:

- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước

Người lính nói:

- Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước

Biển hiu hiu thán phục

- Những vết thương của tôi nhiều hơn cả tuổi đời

Biển hiu hiu thán phục

Và biển chỉ hỏi anh đơn giản điều này

- Anh có biết bơi không?

(Đối thoại biển – Trường ca biển)

Qua cuộc đối thoại này dường như Hữu Thỉnh muốn gửi gắm triết lí:

Phải thích ứng với thực tế, nhất là trong thời kì đổi mới, không chỉ ở người

lính mà ở tất cả mọi người, ở toàn dân tộc.

Có thể nói, hình tượng biển là một hình tượng thơ khá nổi bật trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sáng tác của Hữu Thỉnh. Qua hình tượng này cho ta thấy cách nhìn đầy lạc

74

quan, trong sáng của tác giả về vẻ đẹp của biển cả quê hương. Và quan trọng

hơn, dùng cách nói sáng tạo về biển nhà thơ thể hiện triết lí sâu sắc về dân

tộc, đất nước, những chiêm nghiệm về lẽ đời và cách ứng xử trước thực tế có

nhiều thay đổi..Nó tươi mát mà lại vững chãi, gần gũi mà sâu sắc, bình dị mà

cũng vô cùng lớn lao. Trường ca biển có thể coi “như một bản giao hưởng về

số phận và phẩm chất của con người Việt Nam, cảnh ngộ của dân tộc Việt

Nam trong trùng điệp những thử thách éo le và khắc nghiệt. Trong bản giao

hưởng đó, mỗi lời sóng là một khúc solo về số phận cá nhân xen giữa những

hòa tấu phức điệu cuồn cuộn về số phận cộng đồng” (Đỗ Minh Tuấn - Diễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đàn văn nghệ Việt Nam, số 199, 2011)

75

Chương 3

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA

HỮU THỈNH

3.1. Ngôn ngữ

Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn ngữ là chất liệu cơ bản, là yếu

tố đầu tiên của văn học. Dù bắt đầu từ đâu thì những người cầm bút đều phải

chú trọng đến nghệ thuật ngôn từ. Những nhà thơ xưa từng dụng công rất

nhiều với ngôn ngữ. Nguyễn Cư Trinh đã từng nói: “Một chữ mà nghĩ ba năm

mới được, giảng ngàn năm chưa xong”. Từ ngữ đưa vào thơ là từ ngữ đã

được nhào nặn qua cảm xúc của mỗi nhà thơ. Người ta ví quá trình đó giống

như “lọc quặng”, phải lọc hàng nghìn tấn quặng thơ để tìm được tinh chất, sự

mới mẻ của nhà thơ nằm chính trên con chữ. Trong quá trình sáng tạo mỗi

nhà thơ, nhà văn lại có cách “lao động chữ” khác nhau. Chính vì vậy mà tạo

nên phong cách độc đáo của mỗi người.

Mỗi nhà văn, nhà thơ đều có lối đi riêng của mình trong cách sử dụng

ngôn ngữ, nhà thơ Hữu Thỉnh cũng vậy. Ta có thể nhận thấy lớp từ ngữ mà

nhà thơ sử dụng là lớp từ từ ngữ thông dụng đời thường, lớp từ ngữ mượn từ

sáng tác dân gian, từ ngôi đền văn học dân gian. Vẫn trên cái nền chất liệu

ngôn ngữ cổ điển nhưng được thổi vào đó lối tư duy hiện đại, thông qua đó ta

thấy được sự kế thừa và sáng tạo trong thơ Hữu Thỉnh.

3.1.1. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ đời sống

Ngôn ngữ đời sống là lớp từ ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày

của người bình dân. Đặc điểm nổi bật của lớp từ ngữ này là rất giàu hình ảnh,

gợi cảm, gợi tả. Việc đưa lớp từ ngữ thông dụng đời thường vào trong thơ

không hề làm giảm giá trị của bài thơ mà trái lại làm cho bài thơ có màu sắc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

riêng, biểu hiện phong cách cá nhân một cách rõ nét.

76

Những tác phẩm thơ nói chung và các sáng tác trường ca nói riêng

được Hữu Thỉnh sử dụng rộng rãi vốn từ ngữ gần với ngôn ngữ đời sống:

Đất ông bà

Bước chân trâu lồng vào dấu chân voi

Đi mỗi bước đều kể bao sự tích

Cây vối đứng bờ ao, cặp thừng treo gác bếp

Bồ muối để dành vần cạnh bếp tro

Cái cối cái chày đếm nhịp nhỏ to

Bao truyền thuyết được kể ra từ đấy

(Sức bền của đất)

Nhờ có lớp từ sinh hoạt đời thường, bình dị, sinh động xuất hiện nhiều

trong trường ca đã góp phần xóa bỏ tính trang nhã, ước lệ, bộc lộ một cái nhìn

hiện thực hóa đối với cuộc chiến tranh gian khổ. Ta có thể tìm thấy khá nhiều

từ ngữ, cách nói mang tính khẩu ngữ của quần chúng trong thơ ông:

Rồi em lớn lên

Biết thử yếm đào

Anh cũng lớn lên

Biết đo quần lá tọa..

(Sức bền của đất)

Có thể nói, nhờ có ngôn ngữ sống động của đời sống thường nhật mà

mọi sắc thái của đời sống đã được tái hiện một cách chân thực bằng thơ. Có

khi nhờ sự góp mặt của yếu tố khẩu ngữ đã làm cho cách diễn đạt trở nên

chính xác hơn, và vì thế tạo sức biểu cảm cao hơn:

Ta đi từ đầu sông Lô đến cuối sông Thương

Từ thung lũng Sa Thầy ra sông Trường cát trắng

Đất vẫn đất của dân ca và mía mật

Gió thổi rừng lồ ô thương nhớ bao nhiêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Sức bền của đất)

77

Lớp từ thuần Việt vốn không sang trọng, cầu kì mà giản dị, mộc mạc,

tự nhiên. Vốn từ thông dụng từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân được

Hữu Thỉnh cân nhắc, tìm tòi kĩ lưỡng và sử dụng một cách tự nhiên, thú vị:

“gió như chạy chân trần trên đất”, “Ông bà đi xa ruộng nương để lại / Làm

sẵn ca dao dạy cách ở ăn” (Sức bền của đất); “Lá thư chữ đứng chữ ngồi”,

“Sáng úp mặt ngoài đồng / Chiều còng lưng cuốc đất” (Đường tới thành

phố); “Mây đen một mảnh nhỡ nhàng về quê”, “Chiếc nón mê thui thủi giữa

đồng”, “Cha nhễ nhại trước cỏ lau cỏ lác” (Trường ca biển) ....

Trong thơ Hữu Thỉnh, đặc biệt là trường ca, ngôn ngữ tự sự chiếm một

số lượng tương đối lớn. Việc kết hợp yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình khiến cho

trường ca dung nạp số lượng khá lớn ngôn ngữ của đời sống giàu tính khẩu

ngữ, cho phép nhà thơ phản ánh sát đúng thần thái của hiện thực được miêu

tả. Dường như tác giả không hề tô điểm cho lời thơ, để cho bản thân sự việc,

sự vật hiện lên với đúng dáng vẻ, màu sắc của nó. Đây là tâm trạng một người

lính sau trận chiến với kẻ thù:

Chẳng nhớ anh chồm tới ra sao

Chỉ nhớ cái lặng im khi không còn chúng nó

Cái lặng im hoàn toàn

Anh nằm nghe anh thở

(Đường tới thành phố)

Chất văn xuôi mộc mạc toát lên từ những đoạn thơ giới thiệu về hình

ảnh những người lính làm cho lời kể càng thêm chân thực, giản dị phác họa

đúng chân dung nhân vật:

Xạ thủ Trung liên

Lưỡng quyền cao đen một nốt ruồi

Đang chở che, đang âu yếm mọi người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tiếp thêm củi bằng bàn tay thô giáp

78

Những ngón bằng như cây bài tam cúc

Từng bàng hoàng trên mái tóc người yêu

(Đường tới thành phố)

Có thể khẳng định, yếu tố khẩu ngữ, yếu tố văn xuôi, được đưa vào lời kể

một cách ào ạt, cuộc sống chiến trường với biết bao sự kiện ngổn ngang, bề bộn

được hiện lên hết thảy trong ngôn ngữ giàu chất văn xuôi của người kể chuyện:

Chính mơ ước cho chúng tôi bóng mát

Qua bãi bom cây cối cộc cằn

Nhìn ngọn lửa lại nhìn nhau

Bỗng lạ

Lòng cứ đầy những Bình Định, Nha Trang...

(Đường tới thành phố)

Nếu mảnh đất thơ ca hiện đại đưa ngôn ngữ thơ về với đời thường, làm

cho nó trở nên quen thuộc và gần gũi với mọi người thì Hữu Thỉnh đã thành

công trên mảnh đất ấy. Đưa lớp từ ngữ đời thường vào thơ, Hữu Thỉnh đã làm

cho những bản trường ca của mình thấm đẫm hơi thở cuộc sống. Những bản

trường ca của ông không xa lạ với bạn đọc mà gần gũi, dễ đi vào lòng người.

Chất thơ không phải ở đâu xa, nó được ông chắt lọc từ chính lời ăn tiếng nói

hàng ngày.

3.1.2. Ngôn ngữ thơ mang màu sắc dân gian

Trong cuốn Thơ Việt Nam hiện đại (nhiều tác giả), PGS.TS Lưu Khánh

Thơ đã cho rằng: Một trong những đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của

Hữu Thỉnh nói chung và trường ca nói riêng là mang đậm màu sắc dân gian.

“Trong làng thơ, anh nổi tiếng là người mê và thuộc nhiều ca dao tục ngữ...

Hữu Thỉnh có thể nói chuyện say sưa suốt ngày về ca dao. Anh phân tích thấu

đáo, cặn kẽ, hiểu biết từng cái hay, cái đẹp của những câu ca dao như một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người chuyên nghiên cứu văn học dân gian. Vốn kiến thức phong phú này đã

79

làm Hữu Thỉnh thêm giàu có, tạo thuận lợi cho những tìm tòi sáng tạo của

thơ anh. Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở cách

nói, cách ví von, so sánh mà còn ở cách tư duy, cách liên tưởng độc đáo, ở

một âm hưởng xa xôi khó nhận biết” [35, 411]. Một trong những lí do làm

nên sự thành công ấy thiết nghĩ đó là sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối

với những tác phẩm của ông. Chất liệu dân gian được Hữu Thỉnh vận dụng

khá nhuần nhuyễn và đạt giá trị nghệ thuật cao.

Quê hương và con người miền đất Trung du Bắc Bộ dường như đã ăn

sâu vào tâm khảm nhà thơ, nuôi dưỡng hồn thơ ông. Chính từ cái nôi văn hóa

đó mà những thi liệu dân gian Bắc Bộ trở nên gần gũi, quen thuộc khi đi vào

trang thơ Hữu Thỉnh. Nhà thơ từng tâm sự: “Tôi đến ngôi đền của thơ ca

bằng hơi thở của dân gian, tôi đưa bao câu ca dao, dân ca vào thơ, có câu

ảnh hưởng gần, có câu ảnh hưởng xa” [18, 429]. Đọc thơ ông ta nhận thấy,

không chỉ trường ca mà nhiều bài thơ của Hữu Thỉnh ngôn từ của nó bắt

nguồn từ văn học dân gian như ca dao, dân ca, tục ngữ, lời ăn tiếng nói của

nhân dân, từ trong chất liệu dân gian...Việc tiếp nhận ảnh hưởng này một mặt

thể hiện vốn văn hóa dân gian của tác giả, mặt khác cũng phản ánh “bầu khí

quyển” nuôi dưỡng hồn thơ của tác giả để từ đó chuyển hóa thành nguồn cảm

hứng trong quá trình sáng tác, đặc biệt là ý thức lao động và mài dũa tài năng

của nhà thơ. Không phải ngẫu nhiên mà Lý Hoài Thu lại cho rằng: “Dù viết về

chiến tranh hay tình yêu, tâm trạng con người hay non sông mây gió, thơ Hữu

Thỉnh thấm đẫm sắc vị dân gian” [69, 51].

Qua khảo sát ba bản trường ca: Sức bền của đất, Trường ca biển,

Đường tới thành phố chúng tôi nhận thấy nhiều bài thơ của ông bắt nguồn từ

cảm hứng dân ca:

Trông ra bờ ruộng năm nào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mưa bay trắng cỏ, cào cào cánh sen

80

Mẹ tôi nón lá bước lên

Mạ non đầu hạ trăng liềm cuối thu

(Trông ra bờ ruộng)

Hay:

Con chim xanh mê trái lựu trước vườn

Mùa hạ trôi qua từ ngày chim trốn tiếng

(Trở lại mùa xuân – Tiếng hát trong vườn)

Trong trường ca của ông có nhiều đoạn được lấy từ cảm hứng dân ca:

Bởi nơi ta về có mười tám thôn vườn trầu

Mỗi vườn trầu có bao nhiêu mùa hạ

(Đường tới thành phố )

Hay:

Hai chữ thủy chung đính ở góc khăn

...Chim bay về núi tối rồi

...Nàng về nuôi cái cùng con

(Sức bền của đất)

Nhiều bài thơ tác giả rất thành công khi vận dụng nhuần nhuyễn và

biến đổi hợp lí, linh hoạt những câu tục ngữ dân gian:

Vào lính xe tăng anh trước anh sau

Nết ở ăn người thì lạnh nóng

Khi đã hát hòa cùng một giọng

Một người đau tất cả quên ăn

(Trên một chiếc xe tăng)

Hay:

“Làng xóm nặng tình lạt mềm buộc chặt”;

“Ăn trông nồi, là nhường nhịn anh em,

ngồi trông hướng, là biết thù bóng tối”;

“Cha khuyên: có chí thì nên”..

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Sức bền của đất)

81

“Nụ cười bán tín bán nghi”...

(Đường tới thành phố).

Cũng có những câu thơ Hữu Thỉnh lấy lại nguyên bản của câu ca dao,

để tạo nên cung bậc cảm xúc:

Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy

Cúc sẽ về, xóm Mũi sẽ về ta

(Đường tới thành phố)

Hay:

Bao giờ lúa trổ đòng đòng

Lúa đang trổ

Anh về đấy chị

(Đường tới thành phố )

Cũng có khi đó là sự tương phản:

Gió đâu gió mát sau lưng

Không, em không phải sau lưng. Em đang ngồi trước mặt

(Đường tới thành phố)

Đặc biệt Hữu Thỉnh còn độc đáo ở chỗ là mượn ca dao để nói lên phép

đối nhân xử thế, triết lí nhân sinh của con người Việt Nam:

Mẹ em tham khúc cá thu

Gả con về biển mịt mù tăm tăm

(Sức bền của đất)

Hay:

Ra sông lấy sóng mà yêu

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin

(Trường ca Biển )

Câu thơ như một lời nhủ thầm mà vô cùng thấm thía: ra sông phải yêu

sóng, đi đường xa gặp núi thì lấy đèo mà tin. Thì ra để đi đến chiến thắng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trước hết mỗi người lính phải làm chủ được hoàn cảnh và làm chủ được chính

82

mình. Đó chính là “chìa khóa” giúp người lính tìm được con đường sống, tự

do và hạnh phúc.

Ta còn bắt gặp cả những bài đồng dao xuất hiện trong trường ca của ông:

Thả đỉa ba ba

Chớ bắt đàn bà

Phải tội đàn ông

Cơm trắng như bông

Gạo tiền như suối

Bỏ mắm bỏ muối

Bỏ chuối hạt tiêu

Bỏ niêu cứt gà

Bỏ cho bà nào

Bỏ cho bà này

(Sức bền của đất)

Hẳn ai trong mỗi chúng ta lại không thuộc bài đồng dao thời thơ ấu.

Bài đồng dao gợi cho chúng ta nhớ về những kí ức xa xưa. Những kỉ niệm lại

ùa về trong kí ức nhà thơ. Nó làm cho trường ca gần với cuộc sống hơn, thật

hơn. Dẫu biết rằng đó chỉ là khoảng lặng trong tâm tưởng của những người

lính khi nhớ về quê hương làng xóm. Song chính điều đó lại giúp chúng ta

hiểu thêm, nhờ nó mà chúng ta có quê hương, gốc gác...

Không chỉ vậy, giọng điệu thơ Hữu Thỉnh cũng chịu nhiều ảnh hưởng

của thơ dân gian. Nhiều câu thơ của ông còn nguyên âm hưởng lời ru:

Bên bồi bên lở về đâu

Bên trong bên đục dài lâu tình đời

(Đường tới thành phố )

Hay:

À ơi tình cũ nghẹn lời

Tham vàng bỏ ngãi kiếp người mong manh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Trường ca Biển )

83

Và những câu thơ thấm đượm hồn sắc dân gian:

Người xanh người đỏ

Gánh gió leo dây

Bắc thang hỏi trời

Đèn khêu trước bão

(Thư mùa đông – Một ngày)

Ở một số bài thơ tình, Hữu thỉnh có một cách nói riêng, mang hơi

hướng của những câu ca dao trữ tình, đằm thắm:

Anh nhớ em như cơn mưa tích nước

Cứ chực òa chỉ một cớ không đâu

(Có một điều như thế)

Ngoài ra, thơ Hữu Thỉnh, các yếu tố mượn từ sáng tác dân gian xuất

hiện dày đặc như các từ: “Mái gianh”, “bến sông”, “hạt thóc”, “cây cau”,

“hoa gạo”....Đặc biệt trong trường ca Sức bền của đất, nhà thơ miêu tả cuộc

kháng chiến vĩ đại của dân tộc bằng những chất liệu dân dã, gần gũi với người

dân nơi xóm mạc. Vốn là người lính xuất thân từ nông dân, hơn ai hết ông

cảm nhận rõ cuộc sống của chính mình, của những người thân nơi quê hương.

Trước những vấn đề lớn của đất nước, Hữu Thỉnh đã lí giải bằng cách nói

riêng, giản dị mà sâu lắng:

Chiến dịch mở ra khi thời vụ bắt đầu

Mang cái rét riêng hai đi bám giặc

Mang chất thép định hình trên bàn cát

Qua những cánh đồng đang sủi tăm phù sa

Ta chao chân trên những mảng bờ

Lặng lẽ nhận sức bền của đất

(Sức bền của đất)

Song, điều đáng nói là, Hữu Thỉnh đã sử dụng những thi liệu dân gian

quen thuộc để chuyển tải tư duy thơ hiện đại mới mẻ của mình. Hình ảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

“chuyến đò đầy” trong ca dao :

84

“Mình về anh dặn câu này

Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua”

Đã được Hữu Thỉnh vận dụng sáng tạo và tài tình để tạo dựng một

“chuyến đò” số phận của một người phụ nữ nhan sắc từng đằng đẵng suốt hai

mươi năm “chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”, khắc khoải chờ chồng:

Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy

Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc

(Đường tới thành phố)

Con “đò đầy” trong ca dao khi đi vào trong thơ ông đã trở thành một

biểu tượng đầy ám ảnh về sự mất mát hy sinh thầm lặng mà vô cùng lớn lao

của người phụ nữ trong chiến tranh. Đây cũng là cách tạo tứ thơ, ý thơ, biểu

tượng thơ – tiêu biểu cho sự vận dụng, chuyển hóa tài hoa và tinh tế văn học

dân gian, được vận dụng phổ biến trên nhiều cấp độ trong cả hành trình sáng

tạo và tạo nên vẻ hấp dẫn, độc đáo trong phong cách thơ Hữu Thỉnh.

Qua việc tìm hiểu chất liệu dân gian trong trường ca của Hữu Thỉnh ta

thấy được Hữu Thỉnh đã xây dựng một “lâu đài” văn học dân gian trong

những bản trường ca của mình. Chính ông đã làm cho kho tàng văn học dân

gian thêm phong phú; ông đã tô điểm cho “ngôi đền” văn học dân gian thêm

lung linh, khởi sắc. Đó là những ảnh hưởng không thể không nói đến. Bởi nó

đã thấm sâu, ăn nhập vào những bản trường ca và những tác phẩm thơ ca của

ông như một lẽ tự nhiên. Chẳng vậy GS. Phong Lê đã khẳng định: “Nét đặc

trưng này cũng là một điểm mạnh và là yếu tố cơ bản hình thành cá tính thơ

Hữu Thỉnh, làm nên nét đặc sắc trong thơ anh” [34, 410].

3.1.3. Ngôn ngữ thơ sáng tạo mới mẻ

Đối với mỗi nhà thơ chân chính, sáng tạo ngôn ngữ thơ ca là một công

việc đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng nghỉ. Đối với Hữu Thỉnh cũng vậy,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong suốt chặng đường thơ của mình, ông đã có những đóng góp ý nghĩa cho

85

việc sáng tạo và hoàn thiện ngôn ngữ thơ ca Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đi

sâu khai thác cái hay, cái đẹp của văn học dân gian, Hữu Thỉnh còn không

ngừng mài dũa ngôn từ để có thể phản ánh một cách sâu sắc về mọi vấn đề

đời sống xã hội và tâm hồn con người, nhất là việc tác giả dụng công sáng tạo

cái mới làm “lạ hóa” ngôn ngữ thơ. Những từ, những câu thơ in đậm dấu ấn

cá nhân nhà thơ.

Thế mạnh của Hữu Thỉnh là ở cảm giác, thông qua cảm giác, nhờ cảm

giác, nhà thơ có thể cụ thể hóa một cách tài tình những sắc thái xúc cảm mơ

hồ nhất. Sự kết hợp giữa cái vô hình và cái hữu hình, cái cụ thể và cái trừu

tượng không còn là thao tác xa lạ đối với thơ hiện đại. Điều quan trọng là phải

tạo ra cái mới, cái dấu ấn sáng tạo riêng trên cơ sở nguyên tắc chung ấy. Hữu

Thỉnh tỏ ra thuần thạo và có nhiều thành công trên phương diện này. Ông có

nhiều hình ảnh thơ lạ và bất ngờ: “Chị làm anh sững sờ khói bếp”, “Chúng

tôi bơi trong thương nhớ của riêng mình”, “Đất nước theo em ra ngõ một

mình”, ”Cô đơn đầy đường không ai thèm nhặt”...Một tần số cực lớn những

câu thơ có sự kết hợp giữa cái hữu thể và cái vô hình, đa phần đó lại là những

câu thơ hay: “Vịn vào tiếng hát”, “cười rung bè rau muống”, “Xiêu vẹo đỡ

một hoàng hôn rách rưới”, “Nụ cười ẩn giữa binh đao”, “Bắt gặp tình

thương đi đưa đám hận thù”, “Buồn như lá sen rách”, “Cầm thời gian lên

soi”, “Cả đất trời say sóng ở Trường sa”...đã khẳng định đây là một “đặc

điểm thi pháp” nổi trội, một ưu thế của thơ Hữu Thỉnh.

Việc sử dụng những định ngữ nghệ thuật làm cho sự vật mô tả trở nên

cụ thể hóa, vật chất hóa gần sát lại với người đọc, kích thích mạnh vào giác

quan, trí tưởng tượng đối với người đọc như: “Chỉ thấy vầng trăng cuối tháng

mới quăng lên” (Chuyến đò đêm giáp ranh – Tiếng hát trong rừng); “Mẹ dắt

tôi qua những miệng vực sâu của mọi sự rủi ro” (Trường ca biển); “Tháng

hai buồn tiếng thạch sùng kêu” (Trường ca biển); “Bàn chân lính đánh vần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trên đất đai tổ quốc” (Trường ca biển)...

86

Từ ngữ trong thơ Hữu Thỉnh luôn mang một dáng dấp hiện đại trong

cách kết hợp và lựa chọn, giàu giá trị tạo hình, gợi cảm. Trong một câu thơ,

đoạn thơ ta thường xuyên bắt gặp những “nhãn tự” như: “Nước ngấn lưng đê

sẫm lời mẹ dặn” (Sức bền của đất); “Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng

tiền”, “Trận rét rừng xoắn tím cả làn môi” (Đường tới thành phố)...

Qua cuộc khảo sát trên cho ta thấy tài năng của Hữu Thỉnh trong việc

sáng tạo và cách tân ngôn ngữ thơ. Đọc những bản trường ca cũng như những

tác phẩm thơ của Hữu Thỉnh chúng ta thấy ông đã nhuộm những câu thơ của

mình bằng tiếng nói của tâm hồn chân thành và một tài năng yêu thơ cháy

bỏng. Ông đã tạo cho mình một hình thức ngôn ngữ thật đặc biệt, vừa thông

dụng, gần gũi với đời sống mà vẫn không đánh mất chất thơ của chúng. Mượn

ngôn ngữ dân gian nhưng ngôn ngữ đó được vận dụng, được tái tạo qua một

tư duy thơ hiện đại. Đặc biệt cách nhà thơ sáng tạo ra những từ ngữ mới lạ,

độc đáo tạo được ấn tượng và sự hấp dẫn đối với người đọc. Có lẽ chính vì

điều này mà thơ ca của Hữu Thỉnh luôn được đông đảo bạn đọc đón nhận.

3.2. Thể thơ

3.2.1. Thơ tự do

Thơ tự do là một thể loại mà trong đó hình thức cơ bản của bài thơ

không hề bị ràng buộc bởi những qui tắc nhất định về câu chữ, niêm,

đối...Chính nhờ sự thoải mái này mà thơ tự do chiếm được ưu thế trong khi

diễn tả những cung bậc tình cảm, những nỗi lòng riêng chung vốn vô cùng

phức tạp, phong phú trong thế giới nội tâm của nhà thơ. Các nhà thơ tìm

thấy một chân trời rộng rãi cho sự sáng tạo hình thức mỗi bài thơ.“Nhưng

thơ tự do lại khác với thơ văn xuôi ở chỗ văn bản không có chỗ phân dòng

và xếp song song thành hàng, thành khổ như những đơn vị nhịp điệu, có thể

có vần. Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó

có thể hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm theo các thể khác nhau, hoặc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoàn toàn khác nhau” [23, 217].

87

Cũng từ lẽ đó mà ngay từ phong trào thơ mới, thơ tự do đã xuất hiện và

ngay lập tức nó khẳng định được ưu thế của mình. Qua hai cuộc kháng chiến

chống Pháp rồi chống Mỹ, thơ tự do ngày càng khẳng định vị trí của mình

trong nền thơ ca hiện đại. Cũng bởi lẽ, để phù hợp với nhu cầu của thời đại,

đòi hỏi thơ đi sát cuộc đời hơn, phản ánh được những khía cạnh mới mẻ,

phong phú, đa dạng của cuộc sống muôn màu muôn vẻ này; qua đó chuyển tải

được thế giới tư tưởng, tình cảm phong phú của nhà thơ trong thời đại mới.

Đặc điểm của thơ tự do là sự co giãn linh hoạt của câu thơ, câu thơ có thể

mở rộng, kéo dài hàng chục chữ, nhiều dòng in, có thể xếp thành “bậc thang”, để

tô đậm nhịp điệu ở câu thơ, có thể xen kẽ câu dài ngắn. Một đặc điểm nữa là thơ

tự do thường phá khổ không theo bốn dòng hoặc 6 dòng đều đặn.

Ở trường ca, người đọc bắt gặp một thế giới hiện thực đời sống chiến

tranh muôn màu muôn vẻ, bề bộn, sôi động, ào ạt..dường như nó rất phù hợp

với thể thơ tự do; nó phù hợp với yêu cầu nội dung, dung nạp được nhiều liên

tưởng, suy nghĩ thích hợp với sự vận động của tư duy nghệ thuật, vần điệu cũ,

khuôn thước cũ không thể ôm chứa được một thế giới rộng lớn như vậy. “Đó

là cơ sở để thơ tự do phát triển và từ đó mở đến thơ không vần, thơ văn xuôi,

thơ dài và trường ca đáp ứng nhu cầu chuyển tải, ôm chứa được tối đa những

vấn đề của đời sống tâm trạng” [28, 53].

Hữu Thỉnh đã phát huy được ưu thế của thể thơ này và sự xuất hiện của

nó tương đối nhiều trong thơ ông nói chung và trường ca nói riêng. Thể thơ

này dường như cũng thích hợp hơn cả với giọng điệu của Hữu Thỉnh.

Có lẽ, khi chọn thể thơ này, Hữu Thỉnh muốn thể hiện một cảm xúc

phóng túng, tự do mà không bị lệ thuộc vào niêm luật, câu chữ. Câu thơ dồn

nén, co duỗi một cách nhịp nhàng, có khi từ ba âm tiết giãn ra thành mười âm

tiết rồi đột ngột còn hai âm tiết:

Anh xa em

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trăng cũng lẻ

88

Mặt trời cũng lẻ

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn

Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn

Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím

Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến

Dù sóng đã làm anh

Nghiêng ngả

Vì em

(Thơ viết ở biển – Thư mùa đông)

Với riêng trường ca, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy Hữu Thỉnh sử

dụng thể thơ tự do là thể chủ đạo. Ta bắt gặp rất nhiều câu thơ co duỗi như

đoạn thơ:

Cha mẹ đi tìm miếng ăn

Treo con trên cây kiến bâu đầy mặt

Tìm thấy miếng ăn

Quay về

Con đã chết

Miếng ăn rơi như máu rụng trong rừng

(Sức bền của đất)

Chính thơ tự do đã giúp cho câu thơ luôn biến hóa, tránh được cảm giác

nặng nề, đơn điệu. Ở thể thơ này Hữu Thỉnh tỏ ra phóng khoáng trong cách

diễn đạt. Dường như thơ tự do đòi hỏi nhà thơ phải nói bằng giọng thật, gần

với nội dung hiện thực. Có những câu thơ tác giả không câu nệ vào vần luật,

phép tắc song người đọc vẫn cảm nhận được chất thơ ở trong đó:

Cõng gạo lấy măng ngủ hầm lau súng

Lau súng ngủ hầm cõng gạo lấy măng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Cao nguyên mênh mông

89

Đồng cỏ mênh mông

Và gió nữa

Trời ơi ta khát gió

(Sức bền của đất)

Câu thơ bật lên một nỗi thèm khát hạnh phúc mà không gì diễn tả nổi.

Những khó khăn của người lính và cả những khát vọng vẫn ngày ngày đi

cùng họ trong những cuộc chiến và cả những lúc nghỉ ngơi.

Hình thức bên ngoài của thơ tự do quả là không có giới hạn, nhưng dồn

nén trong nó những bất ngờ và ẩn chứa nhiều tầng nghĩa xúc động. Đó là hình

ảnh người lính bị “mịt mù bão cát”, bị “bão bứt anh khỏi đảo”, đọc những

đoạn thơ ấy trong ta dấy lên một sự sợ hãi, trống vắng đến rợn người:

Anh chẳng nghe thấy gì ngoài toàn thân lạnh toát

Bão bịt hết lối về

Cửa nhà xác mênh mông

Mẹ ơi!

Mẹ không biết con đang một mình giữa biển

Biển có tất cả để xóa con bất cứ lúc nào

Còn con thì tay trắng

(Trường ca biển)

Cùng với Nguyễn Khoa Điềm, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật...Hữu

Thỉnh đã mang đến cho thơ tự do một hơi thở mới. Không triết lí, hùng biện

như Chế Lan Viên, không tếu táo như Phạm Tiến Duật, giọng điệu thơ tự do

Hữu Thỉnh là sự chất chứa của xúc cảm bằng sự chiêm nghiệm sâu xa, sắc

sảo, tinh tế mà vẫn bình dị.

Chiếm phần lớn trong số những sáng tác của Hữu Thỉnh nói chung và

trường ca nói riêng, thơ tự do đã làm nên một diện mạo phong cách thơ ông.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nó đã thể hiện được nội dung phong phú của cuộc sống, chứa đựng được hiện

90

thực ngồn ngộn của cuộc kháng chiến chống Mỹ lúc bấy giờ. Tuy tận dụng

triệt để thế mạnh của thơ tự do song thơ Hữu Thỉnh vẫn giữ được nhịp thơ

đều đặn, nhẹ nhàng, êm đềm, ngọt ngào mà ít thấy sự phá cách dữ dội thường

gặp ở một số nhà thơ khác như Chế Lan Viên hay Nguyễn Khoa Điềm.

Trước hiện thực cuộc sống rộng lớn, Hữu Thỉnh luôn có ý thức tạo ra sự

thay đổi các thể thơ sao cho biểu đạt được nhiều phương diện nội dung, sắc thái

thẩm mĩ và tránh được sự đơn điệu, tẻ nhạt. Chính vì lẽ đó mà ông luân phiên

sử dụng nhiều thể thơ: Thơ 4 chữ, thơ ngũ ngôn, thơ 7 chữ, thơ lục bát, thơ văn

xuôi, thơ tự do. Song nhìn chung nét nổi bật trong các thể thơ Hữu Thỉnh là

“có sự kết hợp phẩm chất dân tộc và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lí và độ

xúc cảm tràn trào, giữa sự hiền hòa lắng đọng và mãnh liệt sục sôi, giữa khả

năng viết những tác phẩm trường ca dài và thơ trữ tình ngắn” [69, 45].

3.2.2. Thơ văn xuôi

“Thơ văn xuôi là loại thơ trữ tình có cấu trúc câu giống văn xuôi, câu

nọ tiếp câu kia không xuống dòng, gần như không vần, nhịp điệu không mang

đầy đủ tính chất cố định, mạch câu chảy tràn không chịu ràng buộc theo niêm

luật nào, là sự dãn ra của các hình thức thơ tự do, rất dạt dào tình ý và cảm

xúc” [46, 147]. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy thơ văn xuôi là một thể

loại được Hữu Thỉnh chỉ sử dụng trong các trường ca. Trong một câu thơ văn

xuôi, các nhân vật, sự kiện của quá khứ, hiện tại, tương lai có khi cùng ào về

một lúc và người đọc chấp nhận câu thơ văn xuôi trong mạch chảy chung của

trường ca. Hữu Thỉnh thường tìm đến với thể thơ văn xuôi để thể hiện những

vấn đề lớn lao hay diễn tả cảm xúc dồn nén tràn đầy đến mức không thể dừng

lại. Những nội dung hiện thực phong phú hoặc tâm trạng nhân vật bộn bề,

chất chứa, xô đẩy khiến câu thơ phải bung ra hết cỡ và trở thành những câu

thơ văn xuôi. Đúng như Lê Lưu Oanh đã khẳng định: “Có nhà thơ đến với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thơ văn xuôi như sự tuôn trào dòng cảm xúc mạnh, một cảm xúc mà bất cứ sự

91

ngắt quãng đều đều, cân đối của niêm luật sẽ phá hủy sự ào ạt, mạnh mẽ của

nó” [46, 150].

Trong trường ca Đường tới thành phố, tác giả đã sử dụng thể thơ văn

xuôi trong trường đoạn mang tên Văn xuôi một người lính. Đây là trường

đoạn tác giả để cho nhân vật trữ tình trực tiếp xưng “chúng tôi” để tự nói về

mình. Những dòng tâm sự dường như đã chất chứa trong lòng người lính từ

lâu, đến lúc này mới có cơ hội để bộc lộ vì vậy nó cứ tự nhiên tuôn chảy theo

từng dòng thơ. Từ những bộn bề trong cuộc đời người lính: “Chúng tôi đầy

rừng, tắm giặt, hái rau, đào hầm, mơ mộng, sống đời thường suốt cuộc chiến

tranh, yêu đời lính yêu luôn gian khổ”, hay những trăn trở của người lính cầm

bút trong chiến tranh: “Dù hăm hở đến đâu bước chân anh cũng không sao

đến được các trung đoàn. Trung đoàn hành quân, trung đoàn tăng gia, trung

đoàn vây lấn, trung đoàn luồn sâu vu hồi đánh úp, xé kẻ thù trong thế cài

răng lược khắp Tây Nguyên...”, đến cả quan niệm cầm bút của họ “Nhưng

đừng viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn; xin hãy viết như dòng

sông chảy xiết...” dường như tự nội dung đó đã tìm đến với hình thức thể

hiện. Và cũng chỉ có thể thơ văn xuôi mới có thể ôm chứa hết những suy tư,

trăn trở của nhân vật trữ tình người lính trong trường đoạn này.

Để miêu tả cuộc gặp gỡ, trò chuyện giữa nhân vật Biển với người lính

trong Trường ca biển Hữu Thỉnh đã sử dụng thể thơ văn xuôi. Đó là cuộc gặp

gỡ “lạ lẫm” giữa những người lính và biển cả: “Cuộc gặp gỡ của triệu năm

với đứa con trận mạc. Không chỉ người lính lạ lẫm, chính biển lạ lẫm đầu

tiên. Biển thốt lên “Người thắng trận sao mà hốc hác quá”. Những người lính

cầm le te cành sú hoe vàng, cầm luôn cả một niềm che chở mới”. Hay những

tâm sự làm đắng lòng người đọc “Tạm biệt em, nỗi éo le của anh, dang dở

của anh, cay đắng của anh; tạm biệt cơn khát tình vằng vặc”...Cuộc đối thoại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giữa Biển với người lính thực chất là một cuộc đối thoại nội tâm; nhờ những

92

dòng thơ văn xuôi mà tâm tư của một người lính hiện lên một cách chân thực

và sâu sắc.

Như vậy thơ văn xuôi chính là một phương tiện hữu hiệu để nhà thơ

khái quát hiện thực và diễn tả có khi là những cảm xúc ào ạt, mãnh liệt, có khi

lại là những tâm sự ẩn sâu trong tâm tư nhân vật trữ tình.

Thể thơ tự do và thể thơ văn xuôi là hai thể thơ được nhà thơ Hữu Thỉnh

sử dụng nhiều nhất. Đặc điểm riêng của hai thể thơ này dường như càng góp

phần mạnh mẽ vào việc thể hiện những cung bậc tình cảm phong phú của nhà

thơ. Nó tạo nên nét đặc sắc và sức hấp dẫn cho trường ca Hữu Thỉnh.

3.3. Giọng điệu

Trong tác phẩm văn học, giọng điệu không phải thể hiện ở riêng một

yếu tố nào, mà nó thể hiện ở toàn bộ chỉnh thể. Từ cảm hứng, tư tưởng, tình

cảm, chủ đề....đều được chuyển tải bằng một giọng điệu nào đó. Trần Đình Sử

có viết: “giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách

nhà văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, mà còn

là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào

một chỉnh thể” [55, 248]. Vì thế, với thi pháp học, giọng điệu chính là hình

thức mang tính nội dung, là yếu tố nội tại của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, nó

thẩm thấu trong tất cả các yếu tố của tác phẩm văn học. Qua nghiên cứu

chúng tôi nhận thấy trường ca Hữu Thỉnh có ba giọng điệu chính sau:

3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi

Với các trường ca hiện đại, đề tài chủ yếu nói về hai cuộc kháng chiến

chống Pháp và chống Mĩ của nhân dân ta. Giọng điệu chính của nó là giọng

anh hùng ca, ngợi ca, mang âm hưởng sử thi. Dù càng về sau, tính anh hùng

ca ngày càng nhạt hóa, nhưng đó vẫn là giọng điệu xuyên suốt các tác phẩm.

Những tác phẩm trường ca của Hữu Thỉnh cũng không phải là ngoại lệ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Không khí hào hùng hay tính chất anh hùng ca thấm đẫm trong trường ca của

93

ông. Cuộc chiến tranh sẽ bi thương nếu ta chỉ nhìn thấy chết chóc, đau khổ;

hơn thế, nếu không có chất anh hùng ca thì tự nó sẽ rơi vào nhàm chán. Bởi lẽ

trường ca là những tác phẩm truyền tải những vấn đề lớn lao của dân tộc, bởi

“nội dung của trường ca là các sự kiện có ý nghĩa toàn dân, toàn dân tộc, đó

là chiến tranh, là cách mạng, là sự đổi thay, thử thách tồn vong của đất

nước” [40, 216]. Lẽ đương nhiên Hữu Thỉnh đến với trường ca cũng không

nằm ngoài khao khát tổng kết, nhận diện lại lịch sử, bộc lộ trách nhiệm và

tình cảm của mình với dân tộc. Tất cả những điều lớn lao ấy tự bản thân nó đã

mang tính sử thi và nội dung anh hùng ca.

Có thể khẳng định các trường ca của Hữu Thỉnh đều có cảm xúc chủ

đạo là ngợi ca và mang âm hưởng sử thi. Đó là những khúc ca, ca ngợi dân

tộc anh hùng, trong đó có những con người anh hùng, quê hương, hậu phương

anh hùng. Đến với trường ca Sức bền của đất, người đọc lại được sống lại với

những trang sử vẻ vang của dân tộc, nó như một động lực thôi thúc người lính

hành quân ra trận:

Ngô Quyền nhìn người dân binh cuối cùng trước giáo gươm giặc tới

Người lệnh cho thủy triều đầu quân

Sai rừng gỗ lim trùng trùng làm cọc.

Trần Quốc Tuấn đại bản doanh trên nước

Kế đầu tiên là kế nhân hòa

Lệnh đầu tiên: người hiền không bỏ sót

Đại yến của Quang Trung chỉ cơm nắm muối vừng

Ăn trên mình ngựa...

(Sức bền của đất)

Đó là những trang sử anh hùng, là truyền thống được viết bằng máu của

chính cha ông ta. Nó như một niềm thôi thúc thế hệ sau không quên truyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thống đó.

94

Đó còn là giây phút hành quân âm thầm mà ngùn ngụt sức mạnh ở

bên trong:

Ta chao chân trên những mảnh bờ

Lặng lẽ nhận sức bền của đất

Đạp cứ điểm lần theo từng dấu dép

Ta nhận ra màu bùn của những cánh đồng chiêm

(Sức bền của đất)

Nghĩa mẹ không chỉ là “chín tháng cưu mang”, mà còn là ở công lao

dưỡng dục, dạy con biết yêu, ghét, biết thù bọn ác. Mẹ vừa là Tổ quốc, quê

hương là nơi bình yên, là chỗ dựa tin cậy của mỗi đứa con trong lúc bình yên

cũng như khi đất nước mình có bóng giặc ngoại xâm:

Mẹ là người chúng con nhớ nhất

Đất nước ngày có giặc

Mẹ vẫn đỏ miếng trầu

Ấm một vùng tin cậy phía sau

(Sức bền của đất)

Đến với trường ca Đường tới thành phố ta sẽ được hòa mình vào chặng

đường hành quân hối hả trong không khí dầu sôi, lửa bỏng của chiến tranh:

Con đường tấy lên như một lời thề

Đất gọi ta

Làng gọi ta

Nóng bỏng

Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng

Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên

(Sức bền của đất)

Hay :

Đường ta đi gian khó chẳng mau quên

Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Đường tới thành phố)

95

Con đường hành quân vất vả nhưng “găm đầy nỗi nhớ”, con đường ấy

sẽ theo suốt cuộc đời mỗi người lính với bao buồn vui, tủi cực. Song tất cả sẽ

hóa thành thơ khi người lính luôn hướng về lí tưởng cách mạng, về ngày mai

tươi sáng.

Có khi đó là những gương mặt anh hùng, đó là hình ảnh người tư lệnh,

người chiến sĩ lái xe tăng, đôi vợ chồng hoạt động ở vùng địch hậu... đó là

anh bộc phá viên giỏi toán:

Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt

Yêu Tổ quốc mình, Tổ quốc bị chia đôi

(Đường tới thành phố)

Hay đó là người mẹ tảo tần sớm hôm “ra khẩu lệnh” cho người lính:

Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng

Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió

...những cánh đồng in dấu chân của mẹ

Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi

(Đường tới thành phố)

Hay đó là đó là giây phút tự hào, với bao nỗi niềm sung sướng trong

ngày Sài Gòn toàn thắng:

Những mặt người như cờ đỏ mới may

Cả thành phố biến thành trẻ nhỏ

(Đường tới thành phố)

Hạnh phúc của chiến thắng hiện hình trên gương mặt mỗi con người.

Cả thành phố náo nức lạ thường, ai nấy đều vui như trẻ nhỏ được tặng quần

áo mới. Niềm vui chiến thắng khó nói hết được bằng lời. Không khí hào hùng

vào ngày 30 tháng 4 như một mốc son chói lọi của lịch sử dân tộc, trở thành

sự kiện không thể thiếu trong trường ca của Hữu Thỉnh cũng như của Thanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thảo, Thu Bồn...

96

Có thể khẳng định nhờ có giọng điệu ngợi ca, cùng không khí hào hùng

mang đậm chất sử thi đã tạo nên sức cuốn hút cho những bản trường ca của

Hữu Thỉnh. Đó chính là không khí thời đại với những nội dung lớn lao: tình

cảm thiêng liêng, trong sáng đối với đất nước trong những tháng ngày gian

lao, là suy tưởng của cả một thế hệ được sinh ra và thử thách trong chiến

tranh; đó là sự ngợi ca về những mất mát, sống còn của cuộc chiến tranh hào

hùng của dân tộc...Nhờ đó khi đọc trường ca của Hữu Thỉnh, người đọc như

được sống trong không khí thực nóng bỏng của những tháng ngày bom đạn

chiến trường, hay niềm vui sướng đến tột cùng vào ngày đất nước giải phóng.

3.3.2. Giọng điệu xót thương, cay đắng

Bên cạnh giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi, đọc ba bản trường

ca của Hữu Thỉnh người đọc còn bị ám ảnh bởi những mất mát, hy sinh của

dân tộc ta trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Dưới chân bức tượng đài chiến

thắng bao giờ cũng là máu và hoa. Hiện thực không thể bị lu mờ khi chiến

tranh đi qua, bởi đó là những gì thật nhất, nhân sinh nhất về cuộc chiến tranh.

Chính điều đó đã tạo cho trường ca của Hữu Thỉnh nói riêng và các nhà thơ

khác nói chung một giọng điệu chung đó là giọng điệu xót thương, cay đắng.

Đọc trường ca của Hữu Thỉnh, chúng tôi nhận thấy ở cả ba bản trường

ca đều có những khám phá về chiến tranh sâu sắc, thành thực và không né

tránh. Bởi né tránh lúc này sẽ trở thành dối trá. Hơn nữa, là người trực tiếp

tham gia cuộc chiến tranh, hơn ai hết Hữu Thỉnh có được những trải nghiệm

thật nhất về cuộc chiến tranh, hơn ai hết chính ông là người cảm nhận được

những mất mát, hy sinh do chiến tranh gây ra.

Nhà thơ nhìn lại cuộc chiến tranh trong niềm vui sướng hào hùng và cả

những mất mát khôn nguôi. Ông viết về những hy sinh rất cụ thể, từ đó tội ác

của quân thù hiện lên trần trụi, ghê sợ:

Nó ròng xuống xác một người lính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bị chặt đầu

97

Chân còn dép, chân không

Máu anh bỏng xuống núi ngàn

Đời anh treo một dấu than giữa trời

(Đường tới thành phố)

Không chỉ đề cập đến những mất mát hy sinh của dân tộc ta, các trường

ca của Hữu Thỉnh bắt đầu tập trung đến con người cá nhân. Chiến tranh đã

qua, cùng với vấn đề dân tộc, cộng đồng, con người cá nhân trở thành đối

tượng được các nhà thơ quan tâm nhiều hơn. Hạnh phúc cá nhân của con

người được đặt ra đầy sức ám ảnh; con người còn lại được gì sau chiến tranh?

Hình ảnh những người dân tội nghiệp, đói rách đi tìm miếng ăn thực sự làm

người đọc ám ảnh:

Người đi mò trai chết bởi thuồng luồng

Chết vì rắn mới nhận ra rắn độc

..Cha mẹ đi tìm miếng ăn

Treo con trên cây kiến bâu đầy mặt

Tìm thấy miếng ăn

Quay về

Con đã chết

Miếng ăn rơi như máu rụng trong rừng..

Tiếng hú bật ra vụt tắt ngang chừng

(Sức bền của đất)

Câu thơ dội vào lòng người đọc một sự đắng chát bởi cuộc đời khó

nhọc của người dân. Nhân dân đang chìm trong đêm đen nô lệ, đang oằn mình

bởi kế sinh nhai. Câu thơ không có một lời kể tội ác của quân xâm lược, song

tự nó đã phơi bày bộ mặt tham tiền, khát máu, vô nhân đạo của chúng.

Qua ba bản trường ca có thể thấy, Hữu Thỉnh đặc biệt quan tâm đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người phụ nữ. Những người mẹ, người vợ chờ đợi đến mòn mỏi không thấy

98

chồng, con quay trở về sau cuộc chiến tranh. Những trái tim bằng máu thịt ấy

đâu phải sắt đá mà không biết đau? Họ sẽ sống ra sao khi những trụ cột trong

gia đình lần lượt mất đi? Là phụ nữ nên họ cũng có những khát khao đầy nữ

tính: thiên chức làm mẹ, được che chở, yêu thương...Tất cả dường như quá xa

vời với họ trong cuộc chiến tranh. Thấm thía biết bao khi nghe lời tâm sự

trong lá thư của vợ người lính Tư lệnh viết cho chồng năm 1972:

Chúng em chẳng sợ địch lùng

Đêm về sợ tiếng ru con trên đài

(Đường tới thành phố)

Bom đạn, địch lùng các chị coi thường, nhưng khát khao được làm mẹ

luôn là nỗi giày vò lớn nhất. Các chị “sợ” tiếng ru con, “sợ” cái khát khao đời

thường làm mềm lòng mình trong chiến đấu. Ta thấy thảng thốt trước hiện

thực đầy sức ám ảnh đó. Đó là cái “sợ” mang đầy tính nhân văn, cái “sợ” rất

người. Thì ra, không ai khác, chính người phụ nữ, những người vợ, người mẹ

là người chịu thiệt thòi nhất sau chiến tranh:

Mẹ đang xếp lại cho anh những bộn bề giá sách

Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu

(Đường tới thành phố)

Như vậy, nhờ có vốn sống thực tế, cách tư duy sâu sắc và thành thật

trong cách nhìn mà Hữu Thỉnh đã tái hiện cuộc chiến tranh như bản chất của

nó. Điều đó đã lí giải vì sao, bên cạnh giọng ngợi ca, anh hùng ca thì trường

ca hiện đại nói chung và trường ca của Hữu Thỉnh nói riêng đều có giọng xót

thương, cay đắng. Đó chính là những mất mát, hy sinh, những góc khuất mà

không gì có thể bù đắp được. Nó như một vết thương lòng lẩn sâu vào tâm

khảm những con người đã đi qua cuộc chiến tranh. Đọc trường ca của Hữu

Thỉnh đã giúp cho thế hệ chúng tôi (sinh ra và lớn lên trong thời bình) thấm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thía hơn những gì cha ông ta đã trải qua. Nó thực sự là những thước phim tài

99

liệu quí giá giúp cho chúng tôi hiểu về cuộc chiến đấu của dân tộc ta một cách

đầy đủ, toàn diện hơn.

3.3.3. Giọng điệu trữ tình, triết lí

Giọng điệu trữ tình, triết lý trong trường ca hình thành xuất phát từ hai

lý do. Thứ nhất, xuất phát từ đặc trưng thể loại, trường ca là các tác phẩm trữ

tình giàu chất trí tuệ, có khả năng tổng hợp cao và phạm vi phản ánh hiện

thực cuộc sống rộng lớn ở cả bề rộng và chiều sâu. Thứ hai, xuất phát từ nhu

cầu nhận thức bản thân và thời đại của nhà thơ. Trong các trường ca, các tác

giả luôn nhằm thể hiện những suy tưởng sâu sắc về những vấn đề liên quan

đến số phận lịch sử cộng đồng và số phận cá nhân đặt trong tương quan rộng

lớn số phận của dân tộc ở những thời điểm phản ánh rõ nét nhất những biến

cố lịch sử mang đậm dấu ấn thời đại.

Trong văn học chống Mỹ, các trường ca đã bộc lộ rõ sự trăn trở, khao

khát đào sâu bản chất, ý nghĩa của những vấn đề lớn lao của dân tộc và nhân

loại. Mỗi trường ca, do đó, không chỉ thể hiện tầm vóc tư tưởng và tài năng

riêng của nhà thơ mà còn hàm chứa tư tưởng, nhận thức chung cả dân tộc...

Các nhà thơ không chỉ xác định vị trí của mình trong dòng lịch sử lớn đang

vận động, mà còn nói lên được những suy ngẫm, khát vọng của nhiều thế hệ.

Từ sau năm 1975, các trường ca "từ điểm nhìn hiện tại,... phóng chiếu cái

nhìn sâu xa về lịch sử đất nước - một lịch sử oai hùng nhưng cũng không ít

thương đau và bất hạnh. Ý thức nói nhiều về bi kịch khiến cho các tập thơ

không rơi vào tụng ca dễ dãi mà thể hiện chiều sâu ngẫm ngợi của các nhà thơ

về thế thái nhân tình trong sự chuyển động không ngừng của lịch sử.

Do ảnh hưởng nhiều ở chất liệu dân gian nên giọng điệu trong trường

ca của Hữu Thỉnh thường mềm mại chứ không gân guốc. Đó là giọng điệu trữ

tình, ngọt ngào, tự nhiên:

Con không dám nhìn mẹ lâu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mái chèo khua sóng đánh

100

Nước ngấn lưng đê sẫm lời mẹ dặn

Mùi trầu cay ấm hoài trên vai

(Sức bền của đất)

Đôi lúc đó là những lời tâm sự của những người lính trẻ:

Sốt ruột làm sao

Học hành dở dang

Yêu đương vội vã

Phải phí bao thời gian vì bọn chó

(Sức bền của đất)

Câu thơ chứa đựng bao nuối tiếc tuổi học trò mơ mộng và xen lẫn sự

hờn căm ngùn ngụt quân xâm lược. Câu thơ tự nhiên như một lời kể, nó như

một lời giãi bày, tâm sự của bao người lính trong chiến trận.

Song điều đáng nói là ở ba bản trường ca, Hữu Thỉnh đã có những trải

nghiệm, triết lí, tư duy về lẽ sống, về cuộc đời. Câu thơ của Hữu Thỉnh không

chỉ là những lời trữ tình, mềm mại mà nó còn hàm chứa trong đó bao triết lí

về nhân sinh, lẽ đời.

Đó có thể là những triết lí hết sức bình dị:

Ra sông lấy sóng mà yêu’

Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin

(Sức bền của đất)

Câu thơ như một lời nhủ thầm mà vô cùng thấm thía. Thì ra để đi đến

chiến thắng trước hết mỗi người lính phải làm chủ được hoàn cảnh và làm chủ

được chính mình. Đó chính là “chìa khóa” giúp người lính tìm được con

đường sống và tự do, hạnh phúc.

Có khi là những trải nghiệm đắng lòng trong cuộc sống, thành bài học

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cho những kẻ đi sau:

101

Mây thật gần mà cũng quá xa xăm

Có bao điều đáng quên mà thật khó quên

Bão hắt ra từ những người đứng cạnh

Ta đã phải bao phen gọt mình và vót nhọn

Bao dốc dựng vượt qua chẳng thú vị gì

(Sức bền của đất)

Hay:

- Anh có biết bơi không:

Người lính nói:

- Không phải ai cũng biết bơi. Thế mà sao vẫn rất nhiều cái

huơ tay hãnh tiến

Biển nói:

- Họ đang bơi trên số phận của mình

(Trường ca biển)

Cuộc sống sau chiến tranh không bình lặng như ta tưởng, “gió, bão” và

cả những toan tính, bon chen vụ lợi vẫn đang ngự trị trong cuộc sống. Cuộc

sống không chỉ có riêng màu hồng, phải chăng Hữu Thỉnh đã giúp chúng ta

hiểu thấm thía hơn điều đó. Lý giải cuộc đời và số phận con người cũng như

bản chất thực của cuộc sống là điều cốt yếu đằm sâu trong dòng suy tư của

nhà thơ.

Đọc Trường ca biển ta thấy một cái tôi trữ tình với bao suy tư, trăn trở

về lẽ đời, về cuộc sống bao bộn bề, đa tạp này. Nó như một niềm hối thúc ta

hãy sống thật với lòng mình, xóa bỏ cái ác, cái xấu để cho cái đẹp, thiện nảy

lộc, đâm chồi. Phải chăng đó là điều nhà thơ day dứt nhất?

Như vậy, một trong những thành công của trường ca hiện đại nói chung

và trường ca Hữu Thỉnh nói riêng là giọng điệu trữ tình, triết lí. Thiết nghĩ đó

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cũng là điều dễ hiểu bởi họ - những người lính đã đi qua chiến tranh, trực tiếp

102

chứng kiến những được, mất của dân tộc sẽ có cái nhìn trọn vẹn hơn về cuộc

chiến tranh và cuộc sống. Những trải nghiệm ấy đã được đánh đổi bằng máu

và nước mắt. Ta hình dung ra một Hữu Thỉnh với bao suy tư, trăn trở, một tư

duy luôn đấu tranh, vật lộn giữa cái ác, cái xấu với cái chân, thiện, mĩ. Những

vấn đề suy tư, triết lý trong trường ca Hữu Thỉnh không gì khác là những vấn

đề nhân sinh muôn thuở của con người: sự sống, cái chết, niềm hạnh phúc và

sự đau khổ. Nhức nhối trong tâm thức anh là con đường tìm kiếm và khám phá

hạnh phúc thật của con người. Đó là sự khao khát và là mục đích sống của bao

thế hệ. Bản chất của cuộc sống là sự tồn tại biện chứng của những mặt đối lập,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sự sống và cái chết, niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau...

103

PHẦN KẾT LUẬN

1. Là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hữu

Thỉnh và các bạn bạn bè cùng trang lứa đã góp sức mình làm cho dàn đồng ca

của thơ chống Mỹ thêm khởi sắc và đa dạng. Với sự từng trải, tinh tế của một

người luôn khát khao sống hết mình, sống đẹp trước cuộc đời đa tạp này, Hữu

Thỉnh đã dần dần khẳng định được tài năng thơ của mình qua những giải

thưởng văn học cao quí. Cùng với các tập thơ, ba bản trường ca Sức bền của

đất, Đường tới thành phố, Trường ca biển đã khẳng định một cách chắc chắn

tài năng của Hữu Thỉnh. Cùng với Thu Bồn, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa

Điềm...Hữu Thỉnh đã kịp chạm khắc cho mình một gương mặt riêng, độc đáo

trong số những cây bút đạt được thành tựu ở thể loại trường ca. Với đề tài

Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh, chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm một tiếng nói

về thể loại trường ca nói chung và phong cách thơ Hữu Thỉnh nói riêng.

2. Đến với trường ca Hữu Thỉnh, người đọc đặc biệt ấn tượng với thế

giới hình tượng độc đáo, mang đậm dấu ấn sáng tạo của nhà thơ. Đó là hình

tượng người lính khi đối diện với hiện thực khốc liệt của chiến tranh; đó là

tâm trạng đa chiều của người lính trong chiến trận, là khát vọng hoà bình và

hành trình đi tới chiến thắng. Đó là hình ảnh người mẹ tảo tần, giàu đức hy

sinh, là điểm tựa vững chắc nơi hậu phương cho người lính; hình ảnh những

người chị, người vợ đã làm thổn thức bao trái tim bạn đọc bởi sức chịu đựng

bền bỉ và cả những góc khuất của họ trong chiến tranh. Đó là hình tượng tổ

quốc, đất nước vừa dung dị, vừa hào hùng, trải qua bao đau thương, gian nan,

mất mát vẫn tươi thắm, nồng hậu. Đó là hình tượng biển gắn với bao suy tư,

chiêm nghiệm của nhà thơ về lẽ đời, lẽ người...Bằng thế giới hình tượng

phong phú, cùng với tài năng của một con người từng trải, tinh tế, Hữu Thỉnh

đã tạo cho mình một vị trí quan trọng trên thi đàn hiện đại. Là một trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những nhà thơ luôn có những suy tư, trăn trở về thơ, nghề thơ Hữu Thỉnh đã

104

có những tìm tòi, khám phá mới về hình thức nghệ thuật đạt giá trị nghệ thuật

cao. Tự nhận mình là người đi ra từ ngôi đền văn học dân gian, Hữu Thỉnh đã

sử dụng ngôn ngữ hết sức tự nhiên, dung dị mà rất đỗi tinh tế. Ngôn ngữ thơ

Hữu Thỉnh thấm đẫm hương vị dân gian, gần gũi với ngôn ngữ đời thường.

Lớp từ ngữ thông dụng của đời thường cùng với lớp từ ngữ được tiếp nhận

sáng tạo từ văn học dân gian truyền thống được Hữu Thỉnh sáng tạo qua tư

duy thơ hiện đại. Không chỉ vậy, để chuyển tải được những nguồn cảm hứng

đa dạng, phong phú và cái tôi đa diện của mình, Hữu Thỉnh đã sử dụng linh

hoạt nhiều thể thơ. Viết về đề tài chiến tranh với quan điểm nhìn thẳng, nói

thật nên bên cạnh giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi, trường ca của

Hữu Thỉnh còn thể hiện giọng điệu xót thương, cay đắng và giọng điệu triết

luận trữ tình sâu sắc.

3. Với thể loại trường ca Hữu Thỉnh đã góp tiếng nói riêng, độc đáo của

mình vào dàn hợp xướng của những bản trường ca trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ. Là người từng trải, cùng vốn sống phong phú và quan điểm viết

không chối từ sự thật, nhìn thẳng vào sự được, mất sau cuộc chiến tranh, Hữu

Thỉnh đã thành công với ba bản trường ca của mình. Những bản trường ca của

ông không còn là những câu chữ khô khan nữa mà đã có đời sống riêng của

nó, chiếm được cảm tình và sự tin yêu của người đọc. Điều này lí giải vì sao

ông được nhận nhiều giải thưởng văn học nghệ thuật cao quí.

Không chỉ là chứng tích một thời, thơ Hữu Thỉnh là lời tự bạch chân

thành và đúc kết những trải nghiệm sâu sắc trước cuộc đời, xuyên suốt cả

chặng đường sáng tạo. Thơ Hữu Thỉnh nói chung và trường ca của ông nói

riêng sẽ sống mãi trong lòng độc giả bởi vẻ mộc mạc, chân chất và hơn hết là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một tâm hồn luôn trăn trở và cống hiến hết mình cho ngôi đền thơ của mình.

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Aristot (2007), Nghệ thuật thi ca, Nxb Lao động, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (1984), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, Tạp chí văn học, (4).

3. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (1988), 150 thuật ngữ, Nxb ĐHQG.

5. Mai Bá Ấn (2009), Đặc trưng trường ca Thu Bồn – Nguyễn Khoa Điềm –

Thanh Thảo, Nxb Hội nhà văn.

6. Đào Thị Bình (1999), Trường ca của các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ,

Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN.

7. Đào Thị Bình (2008), Thể trường ca trong Văn học Việt Nam từ 1945 –

cuối TK XX, LATS, ĐHSPHN.

8. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

9. Nguyễn Văn Dân (1995), Những vấn đề về văn học so sánh, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

10. Phạm Tiến Duật (1981), “Nhân bàn về trường ca, đôi điều nghĩ về hình

thức”, Văn nghệ Quân đội, (4).

11. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình (Nhìn từ góc độ loại hình),

LATS Ngữ văn, Hà Nội.

12. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Văn học,

(3).

14. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học,

Hà Nội.

15. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Hữu Thỉnh và quá trình đổi mới thơ ca”, Tạp

chí Văn học, (4).

16. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn Cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb Giáo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dục, Hà Nội.

106

17. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Hà Minh Đức (2001), Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

20. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên, (Đồng chủ biên 2006), Thơ ca Việt Nam

– hình thức và thể loại, Nxb ĐHQGHN .

21. Trần Mạnh Hảo (1996), “Thư mùa đông của Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn

nghệ Quân đội, (4).

22. Trần Mạnh Hảo (1995), Thơ phản thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2000), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN.

24. Hêghen (1999), Mỹ học (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội

25. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn

Nguyễn Du.

26. Đặng Hiển (2007), “Dài rộng với thời gian”, Báo Văn nghệ, (8).

27. Mai Hương (1980), Đọc “Đường tới thành phố”, Tạp chí Văn học, (3).

28. Mai Hương (2001), “Thơ Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng”,

Tạp chí Văn học, (6).

29. Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến

trường ca hiện đại của ta”, Tạp chí Văn học.

30. Lê Văn Khoa (1982), “Những ý kiến về anh hùng ca Đam San”, Tạp chí

Văn học.

31. Mã Giang Lân (1988), “Thử phân định ranh giới giữa trường ca và thơ

dài”, Tạp chí Văn học, (5,6).

32. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

33. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn học, (6).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

34. Phong Lê (1991), “Nhận dạng văn học Việt Nam sau 1945”, Tạp chí Văn học, (4).

107

35. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam

hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.

36. Nguyễn Ngọc Linh (2011), Tư duy thơ hữu Thỉnh, Luận văn thạc sĩ,

ĐHSPTN.

37. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

38. Phương Lựu (Chủ biên, 2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học

Sư phạm, Hà Nội.

40. Phương Lựu (chủ biên, 1987), Lí luận văn học, Tập 2, Nxb Giáo dục.

41. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo thơ và trường ca”, Tạp chí Văn học, (2).

42. Thiếu Mai (1980), Hữu Thỉnh trên “Đường tới thành phố”, Tạp chí Văn

nghệ Quân đội, (3).

43. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo, thơ và trường ca”, Tạp chí văn nghệ

Quân đội, (3).

44. Nhiều tác giả (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN.

45. Nhiều tác giả (2006), Chân dung các nhà văn hiện đại Việt Nam, Tập 2

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

46. Lê Lưu Oanh (1999), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990, Nxb ĐHQGHN.

47. Vũ Đức Phúc (1982), “Chung quanh vấn đề trường ca”, Tạp chí văn học, (6).

48. Vũ Quần Phương (1982), “Thơ hô”, Văn nghệ Quân đội.

49. Chu Văn Sơn (2006), Ba đỉnh cao thơ mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

50. Chu Văn Sơn (2007), Thơ điệu hồn và cấu trúc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

51. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

52. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

53. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

54. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

108

55. Trần Đỉnh Sử (2007), Thi pháp truyện Kiều – Tái bản lần thứ hai, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

56. Nguyễn Trọng Tạo (1980), “Trường ca – cảm hứng, bản lĩnh, sức vóc của

người viết”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (11).

57. Nguyễn Nguyên Tản (2005), Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

58. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam,

Nxb Văn học.

59. Lưu Khánh Thơ (2005), Hữu Thỉnh – một phong cách thơ sáng tạo, in

trong cuốn Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb khoa

học xã hội.

60. Thơ với tuổi thơ (2000), Nxb Kim Đồng.

61. Thơ Hữu Thỉnh (1998), Nxb Hội nhà văn.

62. Hữu Thỉnh - Trường ca Biển (2004), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

63. Hữu Thỉnh - Thương lượng với thời gian (2006), Nxb Hội nhà văn, H.

64. Hữu Thỉnh (1981), “Vài suy nghĩ”, Văn nghệ quân đội, (4).

65. Hữu Thỉnh (2010), Lý do của hy vọng - Tiểu luận phê bình văn học, Nxb

Hội nhà văn.

66. Hữu Thỉnh (1981), “Sự chuẩn bị của người viết trẻ”, Báo Văn nghệ , (50).

67. Hữu Thỉnh (2000), “Nhập cuộc và hành động, vẻ đẹp của thơ ca kháng

chiến”, Tạp chí Văn học, (2).

68. Trúc Thông (2001), Hữu Thỉnh – tiểu sử tác giả, nguồn:

http://www.matnauhoctro.com

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

69. Lý Hoài Thu (2005), Đồng cảm và sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội.