ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THẾ ANH ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA HỮU THỈNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN THẾ ANH ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA HỮU THỈNH
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lưu Khánh Thơ
THÁI NGUYÊN, NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
LỜI CẢM ƠN!
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo đã tận tình
truyền đạt những tri thức quí báu, dìu dắt giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo: PGS.TS Lưu
Khánh Thơ đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu, đồng thời đã
hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quí báu cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học trường Đại học
sư phạm Thái nguyên, cùng bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, người thân đã
động viên, giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp này.
Thái Nguyên, ngày 22 tháng 4 năm 2012
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Thế Anh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi
trong quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên
cứu. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nguyễn Thế Anh
i
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục ................................................................................................................ i
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 8
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI TRƯỜNG
CA VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH ................................ 8
1.1. Những tiền đề lý luận ............................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm trường ca .......................................................................... 8
1.1.2. Một số ý kiến về trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại ........ 10
1.1.3 .Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại ....... 14
1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại ............................................................ 20
1. 2. Quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh ........................................... 24
1.2.1.Các giai đoạn sáng tác ...................................................................... 24
1.2.2. Quan niệm về thơ của Hữu Thỉnh ................................................... 26
Chương 2. THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG TRONG TRƯỜNG CA HỮU THỈNH .. 32
2.1. Hình tượng người lính ............................................................................ 32
2.1.1. Người lính khi đối diện với hiện thực khốc liệt của chiến tranh .... 33
2.1.2. Tâm trạng người lính trong chiến trận ............................................ 36
2.1.3. Lí tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng ..................... 42
2.1.4. Khát vọng hạnh phúc ...................................................................... 47
2.2. Hình tượng người phụ nữ ....................................................................... 50
2.2.1. Người Mẹ tảo tần, nhân hậu và giầu đức hy sinh ........................... 51
2.2.2. Người Mẹ - điểm tựa vững vàng nơi hậu phương .......................... 54
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2.2.3. Người phụ nữ - biểu tượng của sự chịu đựng ................................ 56
ii
2.2.4. Người phụ nữ với những góc khuất trong cuộc chiến tranh ........... 58
2.3. Hình tượng đất nước .............................................................................. 63
2.4. Hình tượng biển...................................................................................... 69
Chương 3. ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA HỮU THỈNH . 75
3.1. Ngôn ngữ ................................................................................................ 75
3.1.1. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ đời sống ...................................... 75
3.1.2. Ngôn ngữ thơ mang màu sắc dân gian ............................................ 78
3.1.3. Ngôn ngữ thơ sáng tạo mới mẻ ....................................................... 84
3.2. Thể thơ ................................................................................................... 86
3.2.1. Thơ tự do ......................................................................................... 86
3.2.2. Thơ văn xuôi ................................................................................... 90
3.3. Giọng điệu .............................................................................................. 92
3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi .................................... 92
3.3.2. Giọng điệu xót thương, cay đắng .................................................... 96
3.3.3. Giọng điệu trữ tình, triết lí .............................................................. 99
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 103
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 105
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất hiện và trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ. Nhìn vào chặng đường sáng tác của Hữu Thỉnh, điều dễ dàng
nhận ra ở ông là sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi. Gần nửa thế kỉ cầm bút,
Hữu Thỉnh đã tạo dựng cho mình một sự nghiệp thơ ca phong phú và đa dạng
về thể loại. Khá nhiều bài thơ và nhất là trường ca của ông qua sự thẩm định
của thời gian vẫn còn nguyên giá trị.
1.2. Chính “sức bền ” sáng tạo, niềm say mê văn chương đã giúp cho
Hữu Thỉnh sớm khẳng định mình qua các giải thưởng văn học. Đầu tiên phải
kể đến là giải Ba cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1973 với bài Mùa xuân đi đón,
tiếp đó là giải A cuộc thi thơ 1975 - 1976 cho tác phẩm Chuyến đò đêm giáp
ranh và trường ca Sức bền của đất. Năm 1991, tác giả lại tiếp tục nhận giải
Nhất trong cuộc thi thơ viết về Nhà trường do Bộ ĐH&THCN cùng
TWĐTNCSHCM tổ chức với bài Thưa thầy. Năm 1994, Hữu Thỉnh được Bộ
quốc phòng tặng thưởng giải xuất sắc với tác phẩm Trường ca biển. Đặc biệt
ông đã hai lần được trao giải thưởng chính thức của Hội Nhà văn Việt Nam
với trường ca Đường tới thành phố (1980) và tập thơ Thư mùa đông (giải A
năm 1995). Và cũng với tập thơ Thư mùa đông, Hữu Thỉnh lại đoạt giải thơ
ASEAN năm 1999. Trường ca Biển (2004), đoạt giải thưởng văn học của
Nxb Quân đội nhân dân.
1.3. Hữu Thỉnh là một trong số không nhiều nhà thơ viết trường ca và
đạt được những thành công nhất định. Nguồn cảm hứng từ truyền thống dân
tộc và thời đại anh hùng, cùng với vốn sống thực tế ở chiến trường đã tạo tiền
đề cho thể loại trường ca phát triển. Trong đội ngũ tác giả có thành tựu ở thể
loại trường ca như Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Trần Mạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hảo, Nguyễn Trọng Tạo…nhà thơ Hữu Thỉnh với các bản trường ca Đường
2
tới thành phố, Sức bền của đất, Trường ca biển đã được ghi nhận như là một
trong những gương mặt tiêu biểu. Trường ca của ông có sức ôm chứa nhiều
vấn đề, về cả độ rộng của không gian và độ dài của thời gian, có khả năng
khái quát hiện thực rộng lớn, không những nhiều về số lượng mà còn đạt giá
trị về chất lượng. Vì vậy mà trường ca của Hữu Thỉnh là một dấu ấn nổi bật
trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nó như “miền đất hứa” ẩn chứa bao điều
cần chúng ta khám phá.
1.4. Với mong muốn tìm hiểu và khẳng định những nét độc đáo cũng
như những đóng góp trên cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật
trong các sáng tác trường ca của Hữu Thỉnh, chúng tôi chọn Đặc điểm
trường ca Hữu Thỉnh làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
Nghiên cứu Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh giúp chúng ta có cái nhìn toàn
diện hơn về sự nghiệp sáng tác của ông.
Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn được trau dồi thêm kiến
thức về thơ hiện đại Việt Nam trước và sau 1975. Hy vọng đây sẽ là tài liệu
tham khảo hữu ích cho những bạn đọc yêu thơ Hữu Thỉnh, cho việc giảng dạy
văn thơ Hữu Thỉnh nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Năm 1975, tập thơ Âm vang chiến hào (in chung với Lâm Huy Nhuận)
ra đời. Ngay ở tập thơ đầu tay, Hữu Thỉnh đã thể hiện một phong cách, một
giọng điệu riêng. Trải qua thời gian, thơ ông ngày càng chiếm được cảm tình
của người đọc và thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu phê bình.
Số lượng các công trình, bài viết về sự nghiệp sáng tác của Hữu Thỉnh
khá phong phú. Có những bài viết đánh giá, phân tích từng tác phẩm cụ thể,
có những đánh giá chung về sự nghiệp, phong cách thơ Hữu Thỉnh; nhìn
chung đều đi vào giải mã tác phẩm và khẳng định phong cách nghệ thuật độc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đáo của nhà thơ.
3
2.1. Những bài viết đánh giá về các tập thơ
1. Đọc tập thơ “Thư mùa đông” Trần Mạnh Hảo nhận thấy, thơ Hữu
Thỉnh cô đọng, hàm súc, giàu chất trí tuệ, mang màu sắc thơ cổ điển phương
Đông “ý tại ngôn ngoại”, thiên về cảm nhận, do đó “khả năng dồn nén tư
tưởng, cảm xúc, dồn nén chữ nghĩa” [21, 103]. Bài viết của tác giả đã chỉ ra nét
tiêu biểu của ngôn ngữ thơ Hữu Thỉnh, tuy nhiên tác giả chưa phân tích, lí giải
cặn kẽ đặc điểm ấy được biểu hiện như thế nào, trên những phương diện gì?
2. Một trong những người đầu tiên nghiên cứu thơ Hữu Thỉnh phải kể
đến là Thiếu Mai. Với bài viết “Hữu Thỉnh trên đường tới thành phố”, Thiếu
Mai đã chỉ ra nét đặc sắc trong trường ca Hữu Thỉnh: Dường như “thấp
thoáng đằng sau câu thơ của Hữu Thỉnh dáng dấp của ca dao, nhưng rõ ràng
thơ anh không rập khuân theo ca dao, không bị ca dao lấn át”. Nhìn chung
tác giả đã nhận ra được chất dân gian trong trường ca “Đường tới thành phố”,
tuy nhiên tác giả chưa phân tích sâu sắc, cặn kẽ những đặc điểm ấy [42].
3. Cùng hướng tiếp cận trên, Mai Hương đã lí giải, phân tích, chứng
minh sự thành công của Hữu Thỉnh khi vận dụng vốn văn học dân gian: “Hữu
Thỉnh có khả năng vận dụng thông minh, sáng tạo vốn văn học dân gian. Cách
nghĩ và cách nói bằng hình ảnh của quần chúng được anh tiếp nhận tự nhiên và
thành công” [27, 112]. Đây là đóng góp và cũng là thành công của Hữu Thỉnh.
Bài viết đã có những kiến giải khoa học, xác thực, rõ ràng trong việc chỉ ra dấu
ấn của ca dao trong trường ca “Đường tới thành phố”.
4. Cùng hướng tiếp cận thơ Hữu Thỉnh như tác giả thiếu Mai và Mai
Hương, khi đọc “Trường ca biển” Hữu Đạt cho rằng “Thơ Hữu Thỉnh có
nhiều cái mới mà không xa cái truyền thống, thậm chí có khi tái tạo lại cái đó
có từ trong truyền thống mà vẫn có dấu hiệu riêng về phong cách của mình”
[12, 163]. Tác giả thấy được trường ca này là một sáng tạo về hình tượng và
ngôn ngữ thơ ca. Bài viết đã bước đầu chỉ ra những cách tân nghệ thuật trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cơ sở truyền thống trong thơ Hữu Thỉnh.
4
5. Ngoài ra còn có bài viết “Dài rộng với thời gian” của Đặng Hiển
với những nhận định khá xác đáng về đặc điểm, nội dung tập thơ “kết hợp
nhuần nhuyễn tính trữ tình và triết lí”. Đặc biệt tác giả đi sâu khai thác đặc
sắc nghệ thuật tập thơ, đó là sự kết hợp tính dân tộc với tính hiện đại từ ngôn
ngữ tới hình ảnh, trong đó “sử dụng rộng rãi một cách sáng tạo các biện
pháp tu từ, nhân hóa, ẩn dụ, chuyển đổi cảm giác” [26, 16]. Nó khẳng định
phong cách thơ Hữu Thỉnh một cách độc đáo trong nền thơ ca Việt Nam
đương đại.
2.2. Những bài viết nhận xét, đánh giá chung về nhà thơ Hữu Thỉnh
1. Lưu Khánh Thơ trong bài viết “Hữu Thỉnh – một phong cách thơ
sáng tạo”. Sau khi khảo sát từ tập thơ “Âm vang chiến hào”, trường ca “Sức
bền của đất”, “Những người đi tới biển” đã nhận định: Thơ ông có “giọng
điệu tươi mát, hồn nhiên, tinh tế”. Tác giả đã phát hiện ra ảnh hưởng của chất
liệu văn hóa dân gian đến thơ Hữu Thỉnh, cùng những tìm tòi, sáng tạo của
nhà thơ: “Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở
những cách nói, cách ví von, so sánh, mà còn ở cách tư duy, liên tưởng độc
đáo, ở một âm hưởng xa xôi khó nhận biết...đó là nguyên nhân khiến cho Hữu
Thỉnh có những câu thơ đa nghĩa, có tính hàm ẩn cao, mới lạ trong cách diễn
đạt, bất ngờ trong cảm xúc” [59, 410]. Cuối cùng tác giả rút ra kết luận khá
xác đáng về phong cách thơ Hữu Thỉnh: “Đằm thắm, hồn hậu, nghiêng về
phía rợp mát. Cái trầm lắng yêu thương lấn át cái ồn ào sôi sục” [59, 421].
2. Trong cuốn Thơ Việt Nam hiện đại PGS.TS Lưu Khánh Thơ đã cho
rằng: một trong những đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Hữu Thỉnh nói
chung và trường ca nói riêng là mang đậm màu sắc dân gian. “Trong làng
thơ, anh nổi tiếng là người mê và thuộc nhiều ca dao tục ngữ...Hữu Thỉnh có
thể nói chuyện say sưa suốt ngày về ca dao. Anh phân tích thấu đáo, cặn kẽ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hiểu biết từng cái hay, cái đẹp của những câu ca dao như một người chuyên
5
nghiên cứu văn học dân gian. Vốn kiến thức phong phú này đã làm Hữu
Thỉnh thêm giàu có, tạo thuận lợi cho những tìm tòi sáng tạo của thơ anh.
Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở cách nói, cách
ví von, so sánh mà còn ở cách tư duy, cách liên tưởng độc đáo, ở một âm
hưởng xa xôi khó nhận biết” [35, 411].
3. Nguyễn Đăng Điệp đã nhận thấy một số sự thay đổi trong cấu trúc
thơ, dòng thơ, tứ thơ của Hữu Thỉnh để tạo nên sự mới mẻ trong thơ: “Mô
hình câu thơ, sự vật hiện tượng đem ra để so sánh thường nhỏ bé, tương quan
sự xuất hiện của những con số, tứ nằm ngay trong đơn vị câu”, giọng điệu thì
trầm lắng suy tư và cuối cùng tác giả nhận xét “Xuất phát từ nền móng văn
học dân gian nhưng....đã xử lí chất liệu truyền thống bằng cái nhìn hiện đại
nhằm tạo nên những đột phá về thi pháp thể loại” [15, 226].
4. Từ góc độ thi pháp, Trúc Thông đã phân biệt cái tôi trữ tình trong
thơ Hữu Thỉnh với ba biểu hiện: “Người lính cách mạng mà tình yêu nước rất
cụ thể trong tình yêu thương rất mực quê hương, đồng đất; người bảo toàn và
đấu tranh phát triển nhân cách và nhà thơ của một thế hệ”. Song nhìn vào
toàn bộ sáng tác thơ Hữu Thỉnh ta thấy “ba nhân vật trữ tình ấy trộn hòa,
xoắn bện, hiển hiện chỉ trong duy nhất một con người – nhà thơ, người lính
Hữu Thỉnh”. Tác giả đã phát hiện và nhận định “chất liệu văn hóa dân gian
ngàn năm đã thấm dưỡng linh hồn những câu thơ, chữ thơ. Những mảng dữ
dội của đời sống thật, sự khỏe khoắn của thể trạng tâm hồn con người tham
gia trực tiếp vào đời sống ấy đã bồi đắp nên chất hiện đại cho những dòng
thơ mềm mại. Giữ vững và làm tươi mới hơn câu thơ Việt trong cuộc vật mình
đổi mới ngôn ngữ thơ đang dần dà mà quyết liệt diễn ra trong toàn bộ nền
thơ ta, đó là đóng góp đáng trân trọng của thế hệ nhà thơ chống Mỹ mà Hữu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thỉnh là một trong số đại biểu xứng đáng nhất” [68].
6
5. Xuất phát từ đặc trưng thể loại, sau khi khảo sát các tập thơ Tiếng
hát trong rừng, Thư mùa đông, trường ca Đường tới thành phố, Trường ca
biển, Lý Hoài Thu tìm hiểu sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Hữu
Thỉnh và chỉ ra tư duy thơ đích thực của ông: “Một trong những tiềm năng
thơ Hữu Thỉnh là sự nhạy cảm trực giác... dĩ nhiên là không thể bắt bằng sự
quan sát của thị giác, sự lắng nghe âm thanh của thính giác nhưng nhiều khi
chúng bị đẩy lại và thay thế bằng cảm giác” [69, 45]. Bằng cái nhìn khái
quát, tác giả nhận thấy “Thơ Hữu Thỉnh giàu sức mạnh nội lực gắn bó máu
thịt với đời sống tâm linh và truyền thống thơ ca dân tộc Việt Vam...Thơ anh
có sự kết hợp phẩm chất dân tộc và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lí và độ
cảm xúc tràn trào, giữa sự hiền hòa lắng đọng và mãnh liệt sục sôi, giữa khả
năng viết những tác phẩm trường ca dài và thơ trữ tình ngắn” [69].
Nhìn chung những bài viết chỉ khái quát những nét chính trong thơ Hữu
Thỉnh hoặc mới tập trung vào một số khía cạnh nổi bật trong các tác phẩm cụ
thể. Bởi vậy rất cần có những công trình nghiên cứu một cách toàn diện, hệ
thống về trường ca Hữu Thỉnh. Tuy vậy những ý kiến nhận xét, đánh giá của
những người nghiên cứu đi trước là những định hướng và gợi mở vô cùng quý
giá cho chúng tôi khi thực hiện đề tài của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Ở cả hai chặng đường sáng tác trước và sau 1975 Hữu Thỉnh đều có
những đóng góp đáng kể cho nền thơ hiện đại. Bên cạnh những tập thơ: Tiếng
hát trong rừng, Thư mùa đông, Thương lượng với thời gian; Hữu Thỉnh
còn có những bản trường ca: Sức bền của đất, Đường tới thành phố, Trường
ca Biển….
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào các bản trường ca
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhưng cũng khảo sát cả các tập thơ của tác giả :
7
Âm vang chiến hào, Nxb Quân đội nhân dân, H.,1975.
Thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội nhà văn, H., 1998.
Thơ với tuổi thơ, Nxb Kim Đồng, H., 2000.
Thương lượng với thời gian, Nxb Hội nhà văn, H., 2006.
Bên cạnh đó luận văn còn tìm hiểu sáng tác ở các thể loại khác của Hữu
Thỉnh để hiểu rõ hơn hành trình sáng tạo của tác giả.
Ngoài ra chúng tôi còn mở rộng phạm vi khảo sát và tham khảo các tập thơ,
trường ca của thế hệ các nhà thơ chống Mĩ để đối sánh, tìm ra những nét
tương đồng và khác biệt trong trường ca Hữu Thỉnh.
4. Đóng góp của luận văn
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu trường ca Hữu Thỉnh, luận văn chỉ ra
những đặc trưng cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong Trường ca của ông.
Qua đó nhằm khẳng định những đóng góp nổi bật về mặt thể loại trường ca
cho thơ ca Việt Nam hiện đại của tác giả. Luận văn còn là tài liệu tham khảo
hữu ích cho những độc giả quan tâm, yêu thích thơ Hữu Thỉnh nói riêng và
cho việc giảng dạy thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường nói chung.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích - tổng hợp
- Đối chiếu - so sánh
- Thống kê – phân loại
- Thi pháp học
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được cấu tạo thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về thể loại trường ca và quá trình
sáng tác của Hữu Thỉnh
Chương 2: Thế giới hình tượng trong trường ca Hữu Thỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chương 3: Đặc sắc nghệ thuật trong trường ca Hữu Thỉnh
8
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ THỂ LOẠI TRƯỜNG CA
VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC CỦA HỮU THỈNH
1.1. Những tiền đề lý luận
1.1.1. Khái niệm trường ca
Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm: “Trường ca là tác phẩm
thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca
cũng được dùng để gọi các tác phẩm sử thi thời cổ và trung đại, khuyết danh
hoặc có tác giả” [44]. Như vậy trường ca một thời dùng để chỉ các sử thi dân
gian như sử thi Đam San, nay thường dùng để chỉ các sáng tác thơ dài của các
tác giả như “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn, “Đường tới thành phố”
của Hữu Thỉnh.
Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng “Trường ca có
dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình. Chúng
được soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử thi và truyện kể hoặc bằng nới
rộng một vài truyền thuyết dân gian (Ahoyler) hoặc bằng cách cải biên các
cốt truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian. Trường ca
với tư cách một thể loại tổng hợp, trữ tình – tự sự, hoành tráng cho phép kết
hợp những chấn động lớn, những cảm xúc trầm sâu và những quan niệm về
lịch sử vẫn là một thể loại hiệu năng của thơ ca thế giới” [4].
Như vậy, khái niệm trường ca có nguồn gốc từ văn học phương Tây
“trường ca là thuật ngữ văn học dịch từ chữ pòeme của Liên Xô” [25], đã bắt
đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 50 của thế kỉ XX, dùng để gọi tên
những sáng tác dân gian có tính chất sử thi và có độ dài như Đam San, Xinh
Nhã...Theo cách gọi này thì trường ca đồng nhất với sử thi, anh hùng ca
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Iliats, Ôđixê, Ramyana, Mahabharata...) hoặc các khan của Tây Nguyên. Tuy
9
nhiên trường ca hiện đại không thể là sự vận động tự nhiên của các trường ca
trong lịch sử như sử thi, anh hùng ca. Mặc dù có những điểm giao thoa song
trường ca với tư cách là một thể lọai văn học độc lập luôn có những đặc trưng
khu biệt với sử thi, truyện thơ và thơ dài. Điều dễ nhận thấy là trường ca và sử
thi đều là những tác phẩm có “tầm vóc” lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung,
có sức ôm chứa những vấn đề trọng đại của dân tộc và thời đại. Thế nhưng
trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại có sự khác biệt nhất định so với
trường ca truyền thống (sử thi). Kế thừa các sử thi cổ, trường ca trong văn học
hiện đại không chỉ ca ngợi những anh hùng kiệt xuất, đứng đầu và là đại diện
cho khí phách, tâm hồn, sức mạnh của một bộ tộc, dân tộc cụ thể, mà còn thể
hiện chân dung, tầm vóc của dân tộc ấy trong chiều dài của lịch sử, chiều rộng
của không gian, dưới ánh sáng của một hệ quy chiếu mang tính thời sự, thời
đại và nhân loại.
Vì vậy, muốn chỉ ra đặc thù của trường ca cần phải gắn liền với bối
cảnh thời đại và bối cảnh văn học mà nó ra đời. Trường ca hiện đại Việt Nam
ra đời và phát triển trên nền hiện thực sôi động của các cuộc kháng chiến chống
Pháp, Mỹ và công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Có thể thấy rõ rằng,
sự nghiệp cách mạng Việt Nam phát triển theo xu hướng ngày càng dữ dội,
quyết liệt (trong chống giặc ngoại xâm) và ngày càng đổi mới (trong cuộc đấu
tranh chống cái lạc hậu, cũ kĩ để xây dựng đất nước theo xu hướng hiện đại,
tiếp cận các nước trong khu vực và trên thế giới). Đây là tiền đề xã hội thúc đẩy
sự phát triển của văn học nói chung và cả trường ca nói riêng: “Thời đại chúng
ta là thời đại của các bản trường ca. Thực tiễn cách mạng trên đất nước ta là
những điều kiện vô cùng thuận lợi cho ai muốn viết trường ca” [30].
Trong các kết quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi nhận thấy
quan niệm về trường ca của tác giả Đào Thị Bình (“Thể trường ca trong văn
học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỉ XX” – LATS, 2008) là khá xác đáng:
“Trường ca thường là các tác phẩm trữ tình có dung lượng lớn hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vừa, có khả năng tổng hợp và phát huy những ưu thế nổi trội của cả ba loại
10
hình: trữ tình, tự sự và kịch. Với kiểu kết cấu và phát triển theo hướng đan
xen nhiều kiểu kết cấu hoặc kết cấu phức hợp, trường ca có thể bao quát và
miêu tả những mảng hiện thực lớn ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Ngôn ngữ,
giọng điệu phong phú, đa dạng, giàu chất trí tuệ, vừa mang âm hưởng hào
hùng của sử thi vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống” [7].
1.1.2. Một số ý kiến về trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại
Trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại ra đời từ yêu cầu của hiện
thực cuộc sống dân tộc, từ khát vọng của một lớp thế hệ nhà văn muốn ghi lại
thời đại hào hùng trong lịch sử. Hàng trăm trường ca viết về cuộc kháng chiến
chống Mỹ ra mắt bạn đọc thu hút sự quan tâm của giới sáng tác và phê bình
văn học. Trong một thời gian dài từ 1980, 1981, 1982... nhiều cuộc hội thảo
về trường ca diễn ra sôi nổi. Tạp chí Văn nghệ quân đội và tạp chí Văn học là
hai diễn đàn để các nhà nghiên cứu trao đổi về vấn đề này. Đã có nhiều bài
viết công phu được đăng tải ở đây. Nhìn chung, những người quan tâm đều cố
gắng đi sâu vào thực tiễn thể loại để tìm ra những nét đặc thù của trường ca
hiện đại. Về cơ bản các bài viết thường đi theo hai hướng: Thứ nhất là đi tìm
định nghĩa, thứ hai là cố gắng tìm ra các đặc điểm thể loại hoặc nói về một
đặc điểm nào đó.
Về vấn đề định nghĩa trường ca có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có thể
lược qua những bài viết tiêu biểu như: Nhiều tác giả nêu ra vấn đề tên gọi
trường ca nhưng cuối cùng đều thừa nhận như một thực tế và xem “mỗi tác
phẩm là một cách định nghĩa của tác giả về chính thể loại đó” [64] (Hữu
Thỉnh); Tác giả Từ Sơn lại cho rằng “các tác phẩm dài hơi nên gọi là truyện
thơ”. Về khái niệm “Trường ca” Lại Nguyên Ân lại cho rằng “trường ca là
một hiện tượng giao thoa giữa tự sự và trữ tình” [2] (Bàn góp về trường ca).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tác giả Đỗ Văn Khang lại khẳng định “trường ca trong văn học Việt Nam
11
hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy đủ khi có tên gọi là trường ca sử thi hiện
đại” [29] (Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến trường ca hiện đại ở ta).
Như vậy các ý kiến trên đã phần nào làm sáng rõ hơn về định nghĩa
trường ca nói chung và trường ca hiện đại nói riêng. Trong các ý kiến về định
nghĩa trường ca, chúng tôi tâm đắc với ý kiến của Đỗ Văn Khang khi ông cho
rằng “trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy
đủ khi có tên gọi là trường ca sử thi hiện đại” [29]. Đây là ý kiến xác đáng về
trường ca hiện đại. Bởi trường ca hiện đại ra đời trong hoàn cảnh đất nước có
những biến cố dữ dội. Dân tộc ta đã có những trang sử đau thương mà vô
cùng anh dũng, không thể coi là nhỏ bé, vụn vặt bởi lẽ nó đã vượt ra khỏi
phạm vi một dân tộc, nó là những chiến công mà cha ông ta và nhân dân ta đã
gây dựng.
Về đặc trưng thể loại, có nhiều bài viết đã nghiên cứu một cách khá
công phu. Các tác giả thường dựa vào sự so sánh giữa trường ca với thơ dài,
trường ca với truyện thơ...để nói lên đặc trưng của thể loại như: Trần Ngọc
Vương, Mã Giang Lân, Vũ Đức Phúc, Mai Bá Ấn... Trong các bài viết này
đáng chú ý nhất là ý kiến của tác giả Mai Bá Ấn. Theo tác giả giữa trường ca
và thơ dài cũng cần có sự khu biệt để nhận thức đầy đủ đặc trưng của từng thể
loại. Xu hướng “trường ca hóa” các tác phẩm thơ dài sẽ hạ thấp vai trò của
trường ca, xóa nhòa những yếu tố đặc trưng phân biệt nó với các thể loại
khác. Bởi thơ dài thực chất là thơ trữ tình mở rộng phạm vi phản ánh hiện
thực bằng cách tăng cường yếu tố tự sự - “Thơ dài là thơ trữ tình nới rộng
trường độ mà thôi” [5]. Vì thế dù có cố gắng thế nào thì “độ dướn” của một
bài thơ, dù là thơ dài cũng chỉ là sự phát triển của những mạch lẻ cảm xúc.
Còn trường ca không phải là thơ trữ tình mà coi thơ trữ tình là “một bộ phận
con” trong chỉnh thể tác phẩm trường ca. Cảm xúc trong trường ca phải được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ủ men và bốc lửa qua từng đoạn, từng chương nối tiếp nhau trong một thời
12
gian dài với nội dung phản ánh đa diện, với một trí tưởng tượng đa chiều và
một trí tuệ đủ tầm văn hóa, lịch sử xuyên suốt trong quá trình sáng tạo. Bên
cạnh đó một số tác giả đi từ sự vận động của các thể loại được gọi là trường ca
hoặc từ những lí thuyết về thể loại của nước ngoài để xem xét trường ca hiện
đại như các tác giả : Phạm Huy Thông, Đỗ Văn Khang, Hoàng Ngọc Hiến...
Ngoài các bài viết được đăng tải trên báo chí, trong một số công trình
nghiên cứu cũng xuất hiện một số bài viết về trường ca. Sớm nhất, có lẽ là bài
viết của Lại Nguyên Ân, đầu tiên được đăng trên báo, sau được tập hợp trong
cuốn Văn học và phê bình. Trong đó, bài viết “Mấy suy nghĩ về trường ca”
được viết trước 30 tháng 4 năm 1975 là bài viết công phu; ngoài việc ghi nhận
những thử nghiệm về trường ca, tác giả đã phân biệt rõ trường ca với các thể
tài khác, nêu lên những đặc trưng cốt yếu của trường ca, các hình thức trường
ca được viết trong thời gian đó. Bài viết “Thể trường ca trong thơ gần đây”
được Lại Nguyên Ân viết năm 1982. Trong đó, ông xem trường ca như một
thể tài và cẩn trọng cho rằng “trong phạm vi thơ hiện đại ở ta, có lẽ vẫn còn
đủ thận trọng để coi trường ca như là một thể tài đang hình thành và phát
triển, với xu hướng chung là đưa yếu tố suy nghĩ trữ tình thành yếu tố chủ đạo
của tác phẩm trường ca”. Có thể nói rằng, với cuốn “Văn học và phê bình”,
Lại Nguyên Ân đã dành mối quan tâm lớn nhất cho thể loại trường ca. Những
nhận xét đưa ra tuy vẫn dè dặt nhưng lại vô cùng quan trọng đối với phê bình
và sáng tác văn học thời điểm ấy.
Sau này, khi Vũ Văn Sỹ đề cập đến trường ca, ông đặc biệt chú ý đến
vai trò của thể loại trong hệ thống thơ Việt Nam hiện đại. Trong bài Trường
ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại tác giả đã luận giải một cách
hợp lí về sự phát triển của thể loại này. Đặc biệt, năm 1999 Hoàng Ngọc Hiến
đã xuất bản giáo trình Năm bài giảng về thể loại và một trong số những vấn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đề được ông đưa ra là “Mấy vấn đề đặc trưng thể loại và thi pháp của trường
13
ca”. Đây là lần đầu tiên thể loại trường ca mới ở Việt Nam được đưa vào giáo
trình. Có thể nói Hoàng Ngọc Hiến là người dành nhiều tâm sức cho việc
nghiên cứu trường ca. Từ các bản dịch, các bài giới thiệu về trường ca của
Maicôpxki, các lí thuyết về thể loại của Nga, ông đã khái quát nên những đặc
điểm cơ bản của trường ca hiện đại như: nội dung lớn, cảm hứng lớn, mối
tương quan giữa tự sự và trữ tình... Có thể nhận thấy đây là công trình công
phu, kết hợp chặt chẽ lí thuyết và thực tiễn với cách trình bày mang tính mô
phạm, tuy ngay trong cách đặt tên quyển sách đã ít nhiều mang tính nội bộ.
Về những nghiên cứu mang tính trường qui, chúng tôi thấy trường ca ít
nhiều đã được quan tâm, tuy số lượng các công trình vẫn còn ít và chủ yếu là
đề cập đến một vài khía cạnh, một vài tác giả viết trường ca. Từ luận văn thạc
sĩ trở lên, có thể kể đến một số công trình như: Chất sử thi trong trường ca
hiện đại 1954 – 1985 của Lê Thị Hồng Liên (Luận văn thạc sĩ Đại học sư
phạm Huế - 2001); Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến đầu
thế kỉ XXI của Đào Thị Bình (Luận án tiến sĩ, 2008); Đặc điểm trường ca Thu
Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo của Mai Bá Ấn (Luận án tiến sĩ, 2008).
Những công trình này tuy không nghiên cứu chuyên sâu từ góc độ thi pháp
thể loại nhưng đều là những tài liệu bổ ích cho người nghiên cứu và người
viết trường ca. Đặc biệt qua đây cũng thấy được, hiện nay trường ca đang là
vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, để ý.
Gần đây, nghiên cứu trường ca dường như lại trở nên sôi nổi với các
cuộc tọa đàm: về Trường ca Trầm tích (Hoàng Trần Cương) năm 2002, hai
cuộc tọa đàm về trường ca của Trần Anh Thái; với vô số các bài viết trên
mạng Internet; với sự hồi phục của một số tác phẩm được khai sinh bởi những
tên tuổi lớn một thời bị lãng quên như trường ca của Trần Dần, Văn Cao...và
sự ra đời của một số dạng trường ca mới. Điều đó cho thấy thể loại này ở Việt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nam vẫn tiềm tàng một lực hấp dẫn lâu bền.
14
1.1.3 .Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại
1.1.3.1. Trước 1945 – những tiền đề và sự hình thành thể loại.
Có thể nói, trước 1945, dạng trường ca hiện đại hầu như chưa có. Tuy
nhiên những tiền đề để hình thành nó thì đã tiềm tàng từ xa xưa, trong sâu
thẳm hoài vọng của dân tộc. Có thể do hạn chế về thời đại, đặc biệt về mặt tư
duy, mà tầm vóc vĩ đại của trường ca chưa được khẳng định, chưa được khởi
sắc. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có hai tiền đề
chính cho sự hình thành của trường ca hiện đại.
Trạng thái chống chiến tranh liên miên – tiền đề đầu tiên cho sự ra đời
của trường ca. Việt Nam là mảnh đất đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lúa
nước. Cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng hay nhiều thiết chế văn hóa sau
này dĩ nhiên đều không thể tách rời yếu tố gốc rễ ấy. Có lẽ, cũng từ cội nguồn
này mà trạng thái xã hội truyền thống Việt Nam đa phần là bình lặng. Nhịp độ
sống trong truyền thống của người Việt là chậm rãi, là đủng đỉnh, ngại ngùng
trước những đổi thay. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong văn thơ trung
đại. Đó là những bài thơ tĩnh lặng trong đêm mưa của Nguyễn Trãi, hay giống
như “ao thu lạnh lẽo nước trong veo” của Nguyễn Khuyến..Cũng bởi lẽ bản
chất con người là yên phận, ít tham vọng bá vương và qui phục. Cũng bởi lẽ,
những đổi thay trong xã hội đa phần làm người ta sợ hãi, vì những bất thường
trong xã hội ấy đều gắn liền với chiến tranh, mà có lẽ ba điều người ta sợ nhất
là ốm đau, đói nghèo và chiến tranh; trong đó chiến tranh vẫn khủng khiếp
hơn cả vì nó là bất thường nhất, và nó là tai họa của toàn xã hội, toàn dân tộc
chứ không riêng một gia đình nào. Đương nhiên, một trạng thái xã hội bình
lặng thì khó sinh ra trường ca.
Song không phải sống điềm đạm trung dung thì không có sức mạnh
cộng đồng. Bởi cái “đạm” trong phong cách người châu Á nói chung và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người Việt nói riêng khi được đánh thức cũng đầy uy lực. Người Việt lúc bình
15
thường ngại va chạm nhưng khi có tai biến thì biết gồng mình và dám hy sinh.
Cuộc sống thiên về tập thể tạo cho họ có tình yêu quê hương đất nước nồng
nàn. Điều này luôn là những tiền đề cho những bản trường ca. Có thể nói
chiến tranh chính là lúc ý thức cộng đồng của người Việt được thức tỉnh mạnh
mẽ nhất, và trạng thái chống chiến tranh liên miên cũng tạo cho người ta tâm
thế hướng đến bảo vệ đời sống cộng đồng, bảo vệ lãnh thổ dân tộc. Chỉ tính
sơ bộ, từ cuộc kháng chiến chống Tần (Thế kỉ III Tr.CN) đến cuộc chiến tranh
chống xâm lược từ hai đầu biên giới (1979). Dân tộc ta đã trải qua 20 cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến
tranh giải phóng. Có thể nói hơn 20 thế kỉ vừa qua, hầu như thế kỉ nào người
Việt cũng phải chống giặc ngoại xâm. Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm
đều là bất khả kháng, cần thiết phải xẩy ra (bởi Việt Nam là nước nhỏ, thường
bị nước khác kéo quân sang xâm lấn, cho nên đó là hình thức tự vệ cần thiết).
Và vì thế chiến tranh Việt Nam thường thể hiện lòng yêu nước của nhân dân
và là những cuộc chiến tranh chính nghĩa. Như Hêghen đã phân tích, “không
có nghĩa là mọi cuộc chiến tranh bình thường giữa hai dân tộc đối địch nhau
đều là sự kiện sử thi...Cuộc chiến tranh còn phải diễn ra nhân danh một đòi
hỏi có tính toàn nhân loại và có tính lịch sử ...” [24, 597]. Có thể nói, chính ý
nghĩa của cuộc chiến tranh mới làm nên giá trị của nó. Điều này, ngoài ý
nghĩa chính trị và xã hội, nó sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống văn hóa, tới
tâm thức cộng đồng, tới lòng tự hào dân tộc. Với dạng trường ca mang tính
chất sử thi nói riêng điều đó có ý nghĩa vô cùng quyết định, bởi không có tâm
thức cộng đồng, không có lòng tự hào dân tộc thì mọi tiềm năng của thể loại
đều bị xóa bỏ.
Trong các cuộc chiến ở Việt Nam, đặc biệt là những cuộc chiến chống
lại giặc ngoại xâm, dù dưới chế độ nào, đều có sự tham gia tích cực của nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dân. Trước Nguyễn Trãi, hình ảnh nhân dân và vai trò của nhân dân ít được
16
nhắc đến trong văn học, trong quan niệm phong kiến họ vẫn là dân đen, con
đỏ, nhưng với lòng yêu nước, trong các cuộc kháng chiến, họ đều tự nguyện
dốc hết sức mình. Không thể có chiến thắng nếu vắng bóng dáng họ. Nhân
dân là lực lượng đại diện cho sức mạnh cộng đồng, vì thế cũng mang đậm tâm
thức, ý thức cộng đồng. Các thể loại văn học mang tính chất sử thi luôn lấy đó
làm tiền đề, làm cơ sở.
Với một lịch sử như thế, đương nhiên, chủ nghĩa yêu nước là truyền
thống lớn nhất trong văn học Việt Nam. Và âm hưởng anh hùng ca trong sử
thi có dấu ấn trong toàn bộ nền văn học chống chiến tranh ở Việt Nam, từ văn
học trung đại đến hiện đại. Quả thật cha ông ta từ xưa đã không ngừng xây
lên những Đại tự sự. Từ các truyền thuyết như Thánh Gióng, Nỏ thần...đến
hào khí Đông A, văn thơ thế kỉ XIX, văn thơ cách mạng hiện đại...tất cả đều
xoay quanh sự sống còn của dân tộc. Trường ca hiện đại đã nối tiếp mạch tự
sự ấy và lấy đó như là linh hồn của mình. Như vậy, trạng thái chống chiến
tranh liên miên vừa là tiền đề xã hội, vừa là tiền đề nội dung của trường ca.
Thơ trường thiên – tiền đề của tư duy về hình thức của trường ca hiện đại.
Các thể loại thường có sự kế thừa lẫn nhau giữa, nhất thiết phải hồi đáp
những thể loại khác cũng như với những điều kiện xã hội khuôn đúc lên
chúng. Điều đó có nghĩa là, các thể loại như là sự liên thông và diễn giải lẫn
nhau, và như vậy, chắc chắn trường ca cũng là sự hồi đáp của một tư duy về
thể loại đã có trong lịch sử. Do dung lượng hạn chế của luận văn cho nên tìm
hiểu mối quan hệ và tương quan giữa trường ca hiện đại và các thể thơ trường
thiên trước đây sẽ được chúng tôi phân tích ngắn gọn trên cứ liệu ba thể loại
tiêu biểu thuộc dòng văn học viết: diễn ca lịch sử, truyện nôm và ngâm khúc.
Trước tiên xin được bàn về diễn ca lịch sử. Diễn ca lịch sử là những tác
phẩm thơ Nôm trường thiên, mà phần lớn nội dung đều dựa vào quốc sử cùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với truyền thuyết dân gian. Thể lục bát và song thất lục bát là hai thể thơ quen
17
thuộc mà diễn ca lịch sử sử dụng. Trong lịch sử văn học Việt Nam, có một số
tác phẩm diễn ca lịch sử tiêu biểu như: Việt sử diễn âm, Thiên Nam minh
giám, Thiên Nam ngữ lục, (hầu hết chưa biết tác giả là ai?)...Nhìn chung về
dung lượng, diễn ca lịch sử là dạng thơ trường thiên đầu tiên ở Việt Nam. Qui
mô của nó tạo nền tảng chuẩn bị cho tất cả các thể văn vần dài hơi sau này.
Diễn ca lịch sử chú ý đến sự kiện và nhân vật lịch sử, nhưng nó lại không
hoàn toàn là chính sử, nó vẫn mang trong mình các yếu tố truyền thuyết và
gia tăng thêm yếu tố hư cấu. Về chủ đề của diễn ca lịch sử đều liên quan đến
lịch sử đất nước, cộng thêm cách diễn đạt giàu cảm xúc làm cho tác phẩm
diễn ca mang đậm chất sử thi. Các yếu tố này dù ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp, nhưng bóng dáng của nó thấp thoáng trong kiểu trường ca mang khuynh
hướng sử thi của văn học Việt Nam hiện đại.
Thể loại thứ hai cần được nhắc đến là ngâm khúc. Theo chúng tôi, đây
là thể loại có dấu ấn đậm nét trên kết cấu bề mặt của trường ca. Một số tác
phẩm nổi tiếng như: Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ
ngâm (Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm), ....Đây là thể loại nghiêng về biểu
hiện thế giới nội tâm, thể hiện nỗi buồn đau triền miên, dai dẳng. Có thể nói
cơ cấu mạch trữ tình – tự sự của khúc ngâm tương ứng với mạch trữ tình – tự
sự của dạng trường ca được xếp vào loại hình trữ tình - loại phổ biến trong
trường ca hiện đại.
Thể loại thứ ba chính là truyện Nôm, mà chủ yếu là truyện Nôm bác
học. Phần lớn các truyện này vay mượn cốt truyện Trung Quốc hoặc tự sáng
tác. Có thể nói, đây là dạng tự sự hư cấu – thiên về sáng tác các câu chuyện
đời thường tương tự tiểu thuyết. Các tác phẩm tiêu biểu như: Hoa tiên
(Nguyễn Huy Tự), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Lục Vân Tiên..(Nguyễn Đình
Chiểu)...Trong tương quan với thể loại dài hơi sau này, có một số điểm theo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chúng tôi là đáng chú ý: Thứ nhất, vì đều được viết bằng văn vần nên các tác
18
phẩm này thường kết hợp cả trữ tình và tự sự. Thứ hai, ngôn ngữ trần thuật
bằng văn vần đến truyện Nôm đã đạt đến mức độ phong phú và khá nhuần
nhuyễn, điều này đã trở thành hành trang cho các thi sĩ hiện đại sáng tác, kể
lại những câu chuyện đáng tự hào của đất nước mình.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, một thể loại không thể khai sinh
trên mảnh đất trống. Sự liên thông và diễn giải lẫn nhau luôn là đặc điểm của
một nền văn học có truyền thống. Các thể loại văn học nêu trên có thể không
giống với trường ca hiện đại nhưng nó có liên quan và góp phần diễn giải –
đặc biệt về mặt hình thức của trường ca. Chính tính sử thi, tính anh hùng ca
tồn tại trong các thể loại văn học quá khứ đã ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung
lớn – hay tư duy thể loại của trường ca.
1.1.3.2. Sau 1945 – thời kì phát triển và khẳng định của trường ca.
Một nền văn học phát triển hoàn toàn trong chiến tranh bao giờ cũng
mang những nét đặc biệt của nó. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nền
văn học bắt đầu phát triển theo những yêu cầu, những định hướng tiêu chí
mới. Văn học được định hướng theo sự lãnh đạo duy nhất của Đảng và là một
bộ phận, một vũ khí trong sự nghiệp cách mạng. Đó là nền văn học cách
mạng hướng về đại chúng, phục vụ công nông binh. Năm 1951, Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh
chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Tinh thần chiến sĩ và danh hiệu nhà văn –
chiến sĩ được đề cao như phẩm chất chủ yếu của nghệ sĩ. Hai câu thơ tiêu biểu
cho định hướng văn học thời kì này là:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi – Hồ Chí Minh)
Định hướng này càng về sau, đặc biệt bước sang cuộc chiến tranh
chống Mỹ, lại càng được quán triệt một cách triệt để. Như vậy, văn học từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mục đích là hướng tới số phận con người đã chuyển sang hướng tới số phận
19
dân tộc, số phận lịch sử. Thể loại trường ca “không nằm ngoài qui luật chung
nhất của văn học Việt Nam, đó là định hướng tự giác của các thể loại vào thể
tài lịch sử cách mạng” [19, 705]. Nếu trạng thái của đời sống xã hội Việt
Nam suốt mấy chục năm là những cuộc chiến tranh và cách mạng nhằm thay
đổi vận mệnh lịch sử dân tộc, thì có thể nói, văn học Việt Nam đương thời đã
thể hiện được trạng thái đó. Nó đã đạt đến “trạng thái sử thi”, không chỉ bó
hẹp trong một số tác phẩm mà gần như là hơi thở xuyên suốt nền văn học này.
Với tư cách là những người nghệ sĩ - chiến sĩ, trong hoàn cảnh đất
nước lâm nguy, người cầm bút không nên nói nhiều về những đau thương mất
mát, những khát vọng riêng tư của cuộc sống đời thường. Bởi vì “vóc nhà thơ
đứng ngang tầm chiến lũy” (Chế Lan Viên), cuộc chiến tranh của chúng ta là
cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện nên mọi lực lượng đều vì vận mệnh dân
tộc, của Tổ quốc mà chiến đấu hi sinh. Chức năng chính của văn học giai
đoạn này là phục vụ chính trị, phục vụ kháng chiến, vì vậy mọi đề tài đều
hướng đến ca ngợi lý tưởng và những con người cao cả của cách mạng.
Trường ca không thể không nằm ngoài qui luật đó. Chính Hữu Thỉnh, một
nhà thơ với những bản trường ca nổi tiếng đã khẳng định: “Hiện thực chiến
tranh, cuộc sống của người lính dội vào tôi mạnh đến mức vượt ra khỏi một
thời đoạn, một đề tài. Nó thành một tâm thế. Nhưng tại sao lại trường ca, mà
không phải là cái gì khác? ...Và còn cái lẽ nữa là cuộc sống lớn lao, bi tráng
quá, đòi hỏi phải mở rộng các kích cỡ” [62, 7].
Do nhiều yếu tố, thời gian sáng tác cũng như những đặc điểm thi pháp
của thể loại, trường ca trong văn học sau 1945 có ý nghĩa tổng kết một chặng
đường vừa đau thương vừa hào hùng của dân tộc. Nguồn cảm hứng của một
dân tộc và thời đại anh hùng, cùng với vốn sống thực tế ở chiến trường đã tạo
tiền đề cho thể loại trường ca phát triển. Những trường ca đầu tiên được ra đời
trong cuộc kháng chiến chống Pháp: Từ đêm mười chín (Khương Hữu Dụng),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Những thanh gươm báu (Nguyễn Bính), Trường ca sông Gianh (Xuân
20
Hoàng)... Nhưng đến kháng chiến chống Mỹ, trường ca phát triển hơn hẳn về
số lượng và nâng cao về chất lượng, hàng loạt tác phẩm ra đời như : Nước
non ngàn dặm (Tố Hữu), Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm); Bài ca
chim Chơ Rao, Ba dan khát, ..(Thu Bồn); Những người đi tới biển, Trẻ con ở
Sơn Mỹ, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng nổ mùa xuân, Đêm trên cát, Khối
vuông Rubic (Thanh Thảo); Con đường của những vì sao, Tình ca người lính
(Nguyễn Trọng Tạo); Đường tới thành phố, Sức bền của đất, Trường ca biển
(Hữu Thỉnh); Ngày hội của rạng đông, Hành khúc mùa xuân (Võ Văn Trực).
Có lẽ hiện tượng này cũng là một tất yếu của nền văn học, để đáp ứng được
yêu cầu của lịch sử, với thời đại hào hùng của dân tộc. Các tác giả đã phát
hiện ra trong thơ - trường ca có sức ôm chứa lớn về nhiều vấn đề, nhiều chủ
đề tư tưởng, về cả độ rộng của không gian và độ dài của thời gian... có khả
năng khái quát hiện thực rộng lớn.
Trường ca giai đoạn này chủ yếu nói đến cả một cuộc hành trình, cuộc
hành trình của một cá nhân – một người lính, cũng như cuộc hành trình của
một dân tộc. Có thể nói, giai đoạn chống Mỹ và hậu chống Mỹ là giai đoạn
phát triển rực rỡ nhất của trường ca.
1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại
Một điều đặc biệt trong nội dung trường ca hiện đại là bản thân các chủ
thể sáng tác đều là những người trực tiếp tham gia chiến tranh. Họ đi ra từ
cuộc chiến đấu gian khổ, khốc liệt với tinh thần tự hào của một người lính đã
cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Những kỉ niệm của một thời lửa cháy,
những người đồng đội đã ngã xuống thôi thúc họ luôn tưởng niệm, nhớ về quá
khứ. Trường ca hiện đại khác trường ca cổ điển chính là ở sự xuất hiện của
cái Tôi này. Tác phẩm của họ vì vậy mang nhiều tính tự bạch, tự thuật, là bài
ca nói về đồng đội mình, những người cùng thời với mình. Điều đó đồng
nghĩa với việc nội dung của trường ca được nhìn với con mắt của người trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cuộc, thường là cái nhìn ở phía chính diện, cái nhìn về những người cùng chí
21
hướng. Chúng ta có thể nhận thấy trường ca hiện đại Việt Nam xoay quanh
hai nội dung, đề tài lớn:
Thứ nhất là chiến tranh và người lính.
Lịch sử chiến tranh liên miên đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong
tâm thức cộng đồng người Việt. Văn học với tư cách là một hình thái ý thức
xã hội, là nơi tái diễn một cách chân thực nhất tâm thức ấy. Nếu lịch sử ghi lại
các sự kiện, thì văn học ghi lại tâm hồn, tâm linh con người. Nếu lịch sử ghi
lại các con số có thể nhìn thấy, thì văn học còn ghi lại những dòng chảy ý
thức, những vùng mờ lí tính, những dự cảm và trải nghiệm của bản thân con
người. Trường ca nói chung và trường ca hiện đại Việt Nam nói riêng, chiến
tranh luôn là đề tài chính, là mấu chốt cho những trải nghiệm được tự sự.
Không ai khác chính người lính là người trực tiếp, là nhân chứng sống cho
những cuộc chiến ấy.
Thứ hai là đất nước và số phận con người.
Đất nước là hình tượng trung tâm của văn học cách mạng. Lịch sử dựng
nước và giữ nước nhiều thăng trầm đã hình thành nên ý thức dân tộc vô cùng
sâu sắc trong con người Việt Nam. Trong lịch sử văn học, cảm hứng về đất
nước vẫn luôn là một trong những cảm hứng lớn nhất của mỗi giai đoạn. Và
trường ca hiện đại cũng đã thể hiện rất rõ nội dung ấy. Đất nước trong đời
thường và đất nước trong văn học được kết tinh từ tất cả những mảnh ghép
cuộc sống.
Trước 1975, hình ảnh đất nước hiện lên thường hào hùng và mang tầm
vóc sử thi :
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Nguyễn Đình Thi)
22
Đến Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo đều muốn tái diễn lại
bức tranh hoành tráng đó. Các tác giả này thường gắn kết hình ảnh đất nước
với hành trình mở nước và truyền thống văn hóa lịch sử hào hùng, bởi vậy
Thu Bồn viết:
Chúng sợ An Dương Vương, Thánh Gióng
Sợ trăm dòng sông đều nổi sóng Bạch Đằng
Những súng thần công cổ sơ không bao giờ bắn nữa
Nhưng chúng sợ lửa bắn về tứ phía bốn nghìn năm
(Thu Bồn – Người gồng gánh phương Đông)
Nguyễn Khoa Điềm viết:
Đất nước muôn năm
Những ngựa đá lại xuống đường
Những bà mẹ đo chân vào thần tích
Để hoài thai triệu triệu những anh hùng
(Nguyễn Khoa Điềm - Mặt đường khát vọng).....
Truyền thống dân tộc đã tạo nên những anh hùng, tạo nên sức mạnh
tiềm tàng mà quật cường để dân tộc có thể chiến thắng giặc ngoại xâm. Với
Hữu Thỉnh đất nước còn gần gũi và quen thuộc hơn với từng dáng cây, ngọn
cỏ...tất cả đều cần dược bảo vệ:
Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc!
(Hữu Thỉnh – Đường tới thành phố)
Và Tổ quốc còn là đất mẹ thiêng liêng:
Nơi đây đã nguồn sông
Chốn tận cùng
Thì cắm bàn chân xuống đất này mà sống
Đó là Tổ quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Thanh Thảo – Những người đi tới biển)
23
Trong các trường ca được viết sau năm 1975 – khi chiến tranh đã kết
thúc, các nhà thơ đã thể hiện cảm hứng về đất nước một cách vô cùng chân
thực. Lịch sử dân tộc đã được ý thức và gắn liền với số phận khốn khó vất vả
của từng người dân bình dị, đặc biệt là hình ảnh người mẹ. Có lẽ, khi đọc
những dòng thơ sau đây của Thanh Thảo không ai là không ngậm ngùi, xúc
động về hình ảnh đất nước:
Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người
Là đứng theo dáng mẹ
“Đòn gánh tre chín rạn hai vai”
.........................
Mùa hạ gió Lào quăng quật
Mùa đông sắt se gió bấc
Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người
Mồ hôi vã một trời sao trên đất
Trời sao lặn hóa thành muôn mạch nước
Chảy âm thầm chảy dọc thời gian
(Những người đi tới biển)
Gắn với đất nước là số phận con người. Có thể nói trường ca hiện đại
thường xoáy sâu vào số phận con người, đặt con người vào mối tương quan
với hoàn cảnh, thời gian và không gian tồn tại. Trong khuôn khổ luận văn,
chúng tôi đi sâu vào khía cạnh số phận con người với hoàn cảnh.
Con người và hoàn cảnh sống, con người và thời đại luôn có mối tác
động qua lại và gắn bó chặt chẽ. Trong trường ca mối quan hệ giữa số phận
con người với hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ khốc liệt,
thời đại cách mạng mà dân tộc đã trải qua được thể hiện rất cụ thể. Trường ca
trước 1975 chủ yếu đề cập đến những con người mang tính tập thể, sống bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lí tưởng mà ít đời sống nội tâm. Song một điểm nhấn trong trường ca hiện đại
24
sau 1975 là đã đề cập đến những số phận riêng mà những số phận ấy phải
chịu ảnh hưởng sâu sắc của chiến tranh. Các số phận con người đời tư nhiều
đau khổ, trái ngang đã được các trường ca sau 1975 đề cập đến như một minh
chứng hùng hồn về tội ác của giặc Mỹ.
Biết bao người đã không tìm được hạnh phúc vì chiến tranh, để sự nuối
tiếc khổ đau cho cả cuộc đời:
Những mảnh vỡ mối tình đầu như thủy tinh nhọn sắc
Bao đợi chờ ứa máu đến xa sau
(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)
Và trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh đã nói đến cái mất
mát, hi sinh, một sự ám ảnh khôn cùng về hình ảnh những người mẹ, người
vợ (phần này chúng tôi sẽ đi sâu ở chương 2).
Và nỗi lòng se sắt một người mẹ trong trường ca Đất nước hình tia
chớp của Trần Mạnh Hảo:
Mẹ ơi suốt chiều dài lịch sử
Mẹ vẫn sinh nhiều những đứa con trai
Mỗi bận chiến trường tin báo tử
Mẹ lại hoài thai bằng nỗi đau dài
Như vậy, con người đã chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhưng
đồng thời trong chiến tranh con người cũng đã thể hiện sức mạnh kì diệu. Họ
không chỉ vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đau thương của đất nước mà còn
chiến thắng chính bản thân mình, chiến thắng số phận nhiều lúc không tránh
khỏi hẩm hiu. Song, dù phải chịu những mất mát lớn lao, con người vẫn chịu
đựng vì sự vĩnh hằng của Tổ quốc.
1. 2. Quá trình sáng tác của nhà thơ Hữu Thỉnh
1.2.1.Các giai đoạn sáng tác
Hữu Thỉnh tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh là Vũ Hữu, sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ngày 15 tháng 2 năm 1942 tại làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam
25
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Được sinh trưởng trong một gia đình nông dân có
truyền thống Nho học, và nhà thơ tự hào khi được sinh ra trên mảnh đất quê
hương giàu truyền thống văn hóa. Miền đất “thiếu nước, bạc màu” (Hữu
Thỉnh) nhưng lại lưu giữ nhiều phong tục cổ, các di tích đền chùa... Phải
chăng chính yếu tố này đã làm nên một Hữu Thỉnh đôn hậu, mộc mạc, chân
chất; ngay cả trong sáng tác thơ ca cái đôn hậu ấy cũng không hề mất đi, thấm
đẫm màu sắc dân gian.
Hữu Thỉnh có một tuổi thơ với đầy đủ vị ngọt, đắng của cuộc đời.
Mười tuổi ông đã phải đi làm phu, làm đủ mọi thứ lao dịch cho các đồn binh
Pháp. Đến năm 1954 ông mới được đi học, tốt nghiệp phổ thông năm 1963.
Ngay sau đó ông vào bộ đội tăng thiết giáp, Trung đoàn 202, đã từng học lái
xe, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hóa và làm cán bộ tuyên huấn, hòa
mình vào cuộc kháng chiến đầy gian khổ hào hùng của dân tộc. Có thể khẳng
định ông là một nhà thơ – chiến sĩ, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Những đoạn đường 9 - Nam Lào, Quảng Trị, Tây Nguyên, chiến dịch Hồ
Chí Minh đã đi vào kí ức không thể phai mờ của nhà thơ. Đây chính là giai
đoạn để ông “thai nghén” những bài thơ, bản trường ca nổi tiếng sau này
Sau năm 1975, Hữu Thỉnh học Đại học Văn hóa và là một trong số
những sinh viên khóa đầu tiên của trường Viết văn Nguyễn Du.
Từ năm 1982, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ biên tập,
Trưởng ban thơ, Phó tổng Biên tập của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Từ 1990 đến nay, Ông chuyển sang công tác tại Hội nhà văn Việt Nam,
trở thành Tổng biên tập Tuần báo văn nghệ, tham gia Ban chấp hành Hội Nhà
văn các khóa III, IV, V, ủy viên Ban thư ký khóa 3. Hiện ông là Chủ tịch Uỷ
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật, Chủ tịch Hội Nhà văn
Việt Nam.
Tác phẩm đã xuất bản: Âm vang chiến hào (Thơ in chung - 1975);
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trường ca Đường tới thành phố (1979); Thơ ngắn, trường ca Từ chiến hào tới
26
thành phố (1985); Khi bé Hoa ra đời (Thơ thiếu nhi, in chung - 1985); Tập thơ
Thư mùa đông (1994); Trường ca biển (1994); Thơ Hữu Thỉnh (1998); Trường
ca Sức bền của đất (2004); Tập thơ Thương lượng với thời gian (2005).
Với các giải thưởng cao quí: Giải ba cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ với
bài thơ Mùa xuân đi đón. Giải A cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1975 -
1976 (Tác phẩm Chuyến đò đêm giáp ranh và trường ca Sức bền của đất).
Với Trường ca biển tác giả lại lần nữa được nhận giải thưởng xuất sắc của Bộ
Quốc phòng vào năm 1994, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm
2007...và nhiều giải thưởng cao quí khác. Những giải thưởng lớn về thơ đã
ghi nhận sức sáng tạo bền bỉ không mệt mỏi và khẳng định tài năng, vị trí của
nhà thơ trong ngôi nhà văn học Việt Nam. Điều đó càng khẳng định hơn nữa
sức sống lâu bền của những bài thơ trong lòng công chúng. “Hữu Thỉnh có
cái may mắn là khá nhiều bài thơ và nhất là trường ca của anh qua sự thẩm
định của thời gian vẫn có giá trị tương đối ổn định” [59, 31].
1.2.2. Quan niệm về thơ của Hữu Thỉnh
Chưa từng có một giai đoạn lịch sử nào mà dân tộc ta lại sản sinh ra
nhiều nhà thơ có chung chí hướng và gần gũi quan niệm sáng tạo như thời
chống Mỹ. Cả một đội ngũ cầm bút hừng hực khí phách, tươi rói hồn thơ. Rất
nhiều gương mặt thơ sáng giá như: Phạm Tiến Duật, Thu Bồn, Lê Anh Xuân,
Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Khoa Điềm… Họ luôn
coi làm thơ là một hành động đầy ý thức. Hữu Thỉnh là một trong những nhà
thơ có quan niệm về thơ rất đúng đắn. Thiết nghĩ ngoài những nhân tố về thời
đại, quê hương, gia đình mà chúng ta được biết thì những suy nghĩ, quan niệm
của ông về “nghề thơ” cũng góp phần giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện
hơn về tâm hồn thơ, phong cách thơ ông.
Nói “quan niệm thơ Hữu Thỉnh” là đề cập đến những yếu tố xã hội
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
được chuyển hóa vào tư duy nghệ thuật để trở thành quan niệm văn chương.
27
Nếu Bằng Việt quan niệm sáng tác thơ ca là quá trình đi từ ngoại cảnh đến nội
tâm, từ cuộc sống khách quan đến cuộc sống chủ quan, là sự va chạm với hiện
thực sắc cạnh tác động đến tâm hồn và cuối cùng là sự tư duy trí tuệ. Thì Hữu
Thỉnh lại có những quan niệm cụ thể hơn:
“Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”: Trên những chặng đường
hành quân gian khổ, người chiến sĩ trẻ - nhà thơ Hữu Thỉnh đã không quên
ghi lại những giây phút, những thời khắc một đi không trở lại nơi chiến
trường ác liệt. Phải chăng đó cũng chính là quan niệm về thơ ca của một
người chiến sĩ, là những tuyên ngôn về thơ được nảy sinh từ chính hiện thực
khốc liệt. Chính vì vậy ông quan niệm làm thơ là ghi lại cuộc đời mình và của
dân tộc. Ông cho rằng “chiến tranh là một hiện tượng xã hội đột xuất. Ở đó
lịch sử chảy xiết hơn. Phản ánh cuộc chiến tranh đó vừa là trách nhiệm vừa
là niềm say mê của mỗi chúng tôi. Chiến tranh ra bài thi nhập môn cũng là
nơi thử sức lâu dài của mỗi người. Sự gắn bó tự thân với cuộc chiến đấu,
sống hết mình trong thử thách hy sinh là cử chỉ đầu tiên của một người cầm
bút trung thực. Thơ ca của thế hệ chống Mỹ là tiếng nói sống động và tự tin
của những người trong cuộc. Người ta bắt gặp rất nhiều trường hợp nhân
danh, nhưng mọi sự nhân danh đều tìm được sự cảm thông của người đọc vì
nó được đảm bảo bằng chỗ đứng của người viết. Thơ ở đây được đảm bảo
bằng máu” [18, 417]. Không có trang nhật kí nào có thể vừa ngắn gọn lại vừa
đầy đủ, chân thực hơn những dòng thơ của người chiến sĩ vừa trực tiếp tham
gia cầm súng chiến đấu vừa cầm bút ghi lại những khoảnh khắc diễn ra trong
cuộc đời mình ở thời điểm đặc biệt ấy:
Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng
Còn mang thuốc
Còn mang nhau
Mang bao nhiêu tai biến dọc đường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Đường tới thành phố)
28
Câu thơ thật chân thực minh chứng rất rõ quan niệm thơ ca của Hữu
Thỉnh. Đọc thơ Hữu Thỉnh người đọc cảm thấy tác giả không cố ý làm thơ mà
chỉ việc nhìn, nghe và ghi chép lại. Dường như đó chính là tiếng nói của sự
sống chứ không phải là tiếng nói của thơ ca. Hữu Thỉnh đã “chuyển sự sống
chung thành nỗi niềm riêng của chính mình”. Qua thơ Hữu Thỉnh, cuộc sống
chiến trận đã hiện lên với dáng vẻ sinh động và thật nhất. Nhà thơ không phải
là người đứng ngoài cuộc tưởng tượng về chiến tranh mà thực sự sống giữa
chiến trường. Hiện thực cuộc sống kháng chiến chính là chiếc nôi nuôi dưỡng
hồn thơ Hữu Thỉnh, cho nhà thơ những cảm nhận phong phú để làm nên
những hình ảnh thơ đa dạng, trong sáng, đậm màu sắc dân gian. Với ông
không có thứ thơ như những “dây bìm trang trí”:
Thơ không phải những dây bìm trang trí
Kéo nhòe đi những rễ cây tứa nhựa
Bão động rừng sao thơ chỉ rung rinh?
(Đường tới thành phố)
Với Hữu Thỉnh, và những người cầm bút như ông thơ phải là hơi thở,
là tiếng nói chân thành được lấy từ hiện thực cuộc sống, bởi vậy họ muốn:
Nhưng đừng viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn;
xin hãy viết như dòng sông chảy xiết.
(Đường tới thành phố)
Vâng! Hãy viết về người lính cách mạng như dòng sông chảy
xiết. Chừng như không có sự so sánh nào gợi mà đúng hơn thế! Câu thơ thật
thấm thía và dứt khoát. Đó là sự lựa chọn của những anh hùng, những người
con yêu thơ và luôn tỉnh táo sống vì mục đích cao cả.
Thơ phải là ngọn lửa sưởi ấm trái tim mình (Thơ là bữa tiệc của tâm
hồn [65, 160]): Hiện thực chiến trường quả là khốc liệt, người lính sẽ gục ngã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trước hiện thực nếu không có “tiếng hát át tiếng bom”, và dù nếu không có
29
tiếng hát thì thơ sẽ là nơi cho những chiến sĩ trẻ gửi gắm một tâm sự, một
niềm tin hay đôi khi đó chỉ là một cảm xúc rất đỗi bình thường:
Một bức thư nhà
Hôm nay ta đọc
Trong chiến hào chuẩn bị tiến công
Ta mới hiểu thêm từng chữ từng dòng chưa bao giờ hiểu hết
(Chính Hữu)
Thơ ca sẽ là đôi cánh giúp người lính quên đi những nghiệt ngã trước
mắt, hướng đến ngày mai tươi sáng. Là một nhà thơ cầm súng Hữu Thỉnh
thấm thía ý nghĩa của thơ ca đối với cuộc đời, nhất là thơ ca trong kháng
chiến. Với Hữu Thỉnh thơ như ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn người lính trên
những chặng đường hành quân đánh giặc. Mỗi khi nhớ nhà, nhớ quê hương
và nhớ người yêu dấu:
Chúng tôi sưởi trên những câu thơ ấy
Cứ thế qua đi nhiều mùa mưa
(Đường tới thành phố)
Trong chiến tranh, hoàn cảnh đôi khi bắt họ phải lựa chọn giữa đạn và
sách, họ đã chọn đạn. Nhưng như thế không có nghĩa là người lính sẽ phải
đoạn tuyệt với sách vở, với thơ ca. “Không có sách chúng tôi làm ra sách”.
Không thể mang theo sách, họ tự làm ra sách của mình, bằng cách:
Chúng tôi vừa đi vừa nhẩm dọc đường
Thơ cứ đến và mưa chiều mau ngớt
(Đường tới thành phố)
Thơ ca đã giúp họ quên đi những khó khăn, nhọc nhằn vất vả của cuộc
chiến. Người lính và nhà thơ đã hoà làm một. Họ viết về mình, về những
đồng đội của mình, về một thời điểm lịch sử oanh liệt của dân tộc để thấy tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hào về sự có mặt của mình trong dòng chảy lịch sử đó. Người lính trong thơ
30
ông ý thức rất rõ sức mạnh của thơ ca đối với cuộc chiến đấu của mình và
đồng đội. Khó khăn, vất vả, bom đạn, chết chóc không làm cho người lính
chùn bước, có thể nói đó là nhờ vào một phần không nhỏ của thơ ca. Vì vậy
mà họ luôn chờ đón thơ ca mỗi ngày: “Thơ hãy đến góp một vài que củi / Cho
em nhận ra anh, đồng đội nhận ra mình”. Sức mạnh của thơ ca giống như sức
nóng của lửa đem lại hơi ấm cho mỗi người lính qua mỗi chặng đường hành
quân đầy mưa gió: “chúng tôi sưởi trên những câu thơ ấy / Cứ thế qua đi
nhiều mùa mưa”. Ngọn lửa thơ ca người lính dùng để sưởi ấm tâm hồn mình
qua mỗi chặng đường đánh giặc chính là ngọn lửa được duy trì từ nhiều thế hệ
nên họ “sưởi bằng ngọn lửa của mình” nhưng “lại thấy ấm” từ thơ của thế
hệ đi trước. Chính sự chuẩn bị của những thế hệ nhà thơ đi trước đã tạo nên
một tài sản chung mà thơ trẻ may mắn được thừa hưởng. Sự thành công của
mỗi nhà thơ, trước hết phải từ sự cố gắng nỗ lực chủ quan của chính nhà thơ
đó. Nhưng mặt khác, là thế hệ đi sau các nhà thơ luôn có sự kế thừa từ những
thế hệ đi trước. Điều đó không tạo nên sự “lặp lại” mà tạo nên sự phong phú,
đa dạng cho thơ ca và bản lĩnh của mỗi nhà thơ.
Bên cạnh đó Hữu Thỉnh còn dồn tâm huyết để cho ra mắt bạn đọc cuốn
tiểu luận phê bình văn học – Lý do của hy vọng. Đây có thể coi là đứa con
tinh thần của nhà thơ, nó là những đánh giá, thẩm bình về văn chương. Hơn
thế nó còn chứa đựng những ý kiến quí báu về nghề thơ...Chúng tôi rất tâm
đắc với một số quan điểm của ông trong cuốn tiểu luận này, như các bài: Góp
thêm vài ý nghĩ về thơ, đây là những quan điểm của nhà thơ về thơ. Nhà thơ
đã lí giải, cắt nghĩa thơ là gì.. rồi đi đến kết luận: mỗi bài thơ là một định
nghĩa về thơ. Hay bài viết Thơ là nơi trú ngụ của tâm hồn thể hiện niềm vui
rất riêng tư của nhà thơ khi những đứa con tinh thần của mình được bạn đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tin yêu và quí mến...
31
Không chỉ vậy, Hữu Thỉnh còn cho rằng thơ có được là do “nhập
cuộc, dấn thân”, “chắt lọc kinh nghiệm”. Chính vì thế người đọc dễ dàng
nhận thấy thơ ông “ngồn ngộn cuộc sống”. Làm thơ là cách tốt nhất để Hữu
Thỉnh “ghi lại” những hình ảnh, những màu sắc, những thanh âm đa dạng của
cuộc đời. Song để làm nên những độc đáo trong phong cách thơ Hữu Thỉnh ta
không thể không nói đến ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ ông.
Chính ngôi đền thơ ca dân gian đã giúp cho thơ ông có nét gần gũi và độc đáo
so với các nhà thơ cùng trang lứa. Với Hữu Thỉnh cội nguồn dân gian truyền
thống luôn là nơi ông tìm về, là nguồn sống tạo nên bản sắc thơ ông. Tìm cái
lớn lao trong cái bình thường nhỏ bé, cái kì diệu trong cái mộc mạc đơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sơ...chính là nét riêng, chỉ ở Hữu Thỉnh mới có.
32
Chương 2
THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG TRONG TRƯỜNG CA
HỮU THỈNH
Hình tượng nghệ thuật là trung tâm của tác phẩm văn học, là nơi nhà
thơ gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình. Sự chiếm lĩnh đời sống của nhà thơ
chỉ được thể hiện thông qua hình tượng nghệ thuật. Hình tượng là nơi nhà
văn, nhà thơ gửi gắm, kí thác tâm tư, tình cảm, cũng như tư tưởng của mình.
Như vậy, hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa nhân tố chủ thể và
khách thể đời sống. Tuy vậy không phải hình tượng nào cũng là hình tượng
nghệ thuật. Chỉ có hình tượng nào nhằm thể hiện một quan niệm, một tư
tưởng của nhà thơ về con người, về cuộc đời mới trở thành hình tượng nghệ
thuật. Qua việc khảo sát, tìm hiểu trường ca của Hữu Thỉnh, chúng tôi nhận
thấy có một số hình tượng nổi bật sau:
2.1. Hình tượng người lính
Hình tượng người lính trong thơ Hữu Thỉnh hiện lên với vẻ đẹp đời
thường, không tô vẽ: Đó là những ngày tháng gian khổ, cái khốc liệt, máu lửa
có thể “tướp da, đỏ máu” mà nhà thơ đã trải qua. Nó thể hiện chân dung tinh
thần của nhà thơ trong những ngày trực tiếp tham gia chiến đấu trên chiến
trường. Đó còn là chân dung tiêu biểu của thế hệ chống Mỹ. Như Hữu Thỉnh
có lần nói: “Thơ ca của thế hệ chống Mĩ là tiếng nói sống động và tự tin của
những người trong cuộc. Người ta bắt gặp khá nhiều trường hợp nhân danh,
nhưng mọi sự nhân danh đều tìm được sự cảm thông của người đọc vì nó
được đảm bảo bằng chỗ đứng của người viết. Thơ ở đây được đảm bảo bằng
máu” [18, 417]. Hình ảnh người lính là một chủ đề xuyên suốt các tập thơ
của Hữu Thỉnh, nó trở đi trở lại như một nỗi ám ảnh, như một niềm thôi thúc
khôn nguôi. Hình tượng người lính được nhà thơ nhìn nhận qua nhiều góc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
độ khác nhau.
33
2.1.1. Người lính khi đối diện với hiện thực khốc liệt của chiến tranh
Đã có một thời văn chương và thơ ca cách mạng “kị” viết về sự thật, về
những mất mát hy sinh của dân tộc, cá nhân. Song sự thật vẫn mãi là sự thật,
mà không có sự thật nào lại dai dẳng, ám ảnh như sự thật về chiến tranh. Là
một người lính trực tiếp cầm súng đánh giặc, Hữu Thỉnh cũng như bao người
lính khác luôn bị ám ảnh bởi hiện thực hãi hùng ấy. Khi chiến tranh qua đi,
hòa bình lập lại, con người ngày nay sống trong êm ấm hạnh phúc, ta có đủ
tỉnh táo và can đảm nhìn lại chặng đường gian khổ đã qua. Bởi chính niềm
thôi thúc ấy nên không chỉ trong trường ca mà cả những sáng tác thơ của ông
đều viết về sự thật. Cùng với quan điểm ấy, trong Trường ca sư đoàn Nguyễn
Đức Mậu viết:
Xin đừng ai chối từ sự thật
Chúng ta nhìn trong suốt cuộc đời nhau
Trong chiến tranh tinh thân dân tộc bao giờ cũng phát triển ở mức cao
nhất. Bi kịch anh hùng là một đặc điểm lớn và nó không hoàn toàn trái ngược,
mâu thuẫn với tính chất anh hùng ca, tính chất ngợi ca, khẳng định. Đương
nhiên, hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh đã được các nhà thơ chuyển tải
theo nghĩa thực của nó. Đã từng là người lính trực tiếp tham gia chiến tranh,
cầm bút và cầm súng là hai nhiệm vụ không phải ai cũng dễ hoàn thành. Đặc
biệt khi phản ánh chiến tranh ở khía cạnh hiện thực càng không hề đơn giản
chút nào. Cảm nhận chung khi đọc ba trường ca của Hữu Thỉnh là ông đã có
cái nhìn về chiến tranh bằng con mắt của người từng trải, từng đi qua cuộc
chiến tranh, không ai khác chính ông có những cảm nhận thật nhất về những
gì mình đã chứng kiến, đã trải qua. Viết về hình ảnh người lính khi đối diện
với hiện thực khốc liệt của chiến tranh tác giả như có dịp trải lòng mình, có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dịp được tưởng niệm lại những kí ức một thời máu lửa.
34
Đó là cuộc sống người lính với bao khốn khó:
Phơi chiếc khăn sương sớm mai rửa mặt
Ngủ nhát gừng giữa hai đợt tấn công
Tay thêm chai mỗi bận moi hầm
Ném cho nhau những khẩu phần khô khốc
(Sức bền của đất)
Có những cuộc hành quân “mưa trơn quá chân tuồi ra khỏi dép”. Và cả
những vết thương theo suốt cuộc đời người lính “hai vết thương vì rừng, ba
vết thương vì pháo”. Những đợt sốt rét rừng đeo đẳng họ:
Mưa tối mặt áo quần dán chặt
Trận rét rừng xoắn tím cả làn môi
(Đường tới thành phố)
Nếu Chính Hữu miêu tả những khó khăn gian khổ của người lính trong
cuộc kháng chiến chống Pháp với bao thiếu thốn, gian khổ áo rách, quần
vá...những trận sốt rét ớn lạnh thì Hữu Thỉnh khắc họa hình ảnh người lính
trong trận sốt rét rừng xoắn tím cả làn môi. Hình ảnh người lính hiện lên trong
câu thơ của ông thật tội nghiệp. Những trận hành quân trèo đèo, lội suối, đội
cả những trận mưa rừng mà đi. Đã không ít người lính phải bỏ lại thân mình
sau những cuộc hành quân.
Đâu chỉ vậy, người lính còn phải đối mặt với những rình rập của kẻ thù:
Thằng sống sót rình bắn anh sau gáy
Thằng viện binh gào đại bác tầm xa
(Sức bền của đất)
Hay những đợt tấn công dữ dội của người lính trong trận giáp lá cà:
Báng súng gẫy
Lưỡi lê quăm
Trong trận giáp lá cà
Giặc chạy rồi
Anh dựa vào gốc cây ô môi mà thở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Sức bền của đất)
35
Và cả những mất mát, hy sinh:
Xạ thủ trung liên
Nốt ruồi đen chìm xuống
Lưỡng quyền cao khói sáng cao lên
Sau loạt bom vùi
Anh gặp toàn lính mới
(Đường tới thành phố)
Sau trận đánh chỉ còn sót lại xạ thủ trung liên, anh gặp toàn lính mới.
Câu thơ dội vào lòng người một cảm giác sửng sốt và gai lạnh. Ta hãy thử
tưởng tượng xem, sau một trận chiến tất cả những người lính đều hy sinh chỉ
còn lại một người. Đó là sự mất mát không gì bù đắp được. Cuộc chiến dù
gian khổ, hy sinh nhưng lớp lớp các thế hệ vẫn tình nguyện tòng quân ra trận
tiêu diệt kẻ thù. Tình đồng đội đồng chí càng thắm thiết bao nhiêu thì giây
phút này càng tang thương, đau đớn bấy nhiêu.
Song chính những khó khăn ấy dường như có sức mạnh phi thường hun
đúc lên bản lĩnh thép cho người lính:
Kẻ thù làm ta già trước tuổi đời
Em ta biết cười để moi tim giặc
(Sức bền của đất)
Câu thơ như một lời tâm sự, nó như lời ăn tiếng nói hàng ngày nhưng
lại có sức nặng vô hình làm cho mỗi chúng ta khi đọc câu thơ lên không khỏi
động niềm trắc ẩn. Kẻ thù chỉ làm ta già đi, đanh lại chứ không làm ta mềm
yếu, đến ngay cả nụ cười cũng ẩn chứa bao dũng khí, quyết tâm moi tim giặc.
Đâu chỉ những khó khăn, mất mát hy sinh xuất hiện nơi mưa bom bão
đạn, khi trở về thời bình người lính vẫn phải đối mặt với bao hiểm nguy, chết
chóc. Trường ca biển đã nói lên phần nào những khó khăn khi người lính ra
với biển lần đầu. Những bài học đầu tiên khi sống cùng biển, những trận bão
biển và cả những mất mát, hy sinh khi người lính bị bão biển cướp đi. Ám ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mãi trong tôi là tiếng gọi đồng đội :
36
- Hoàng ơi, ở đâu
- Vũ ơi, ở đâu
- Vân ơi, ở đâu
Đó là tiếng gọi của những người lính đảo giữa mịt mù bão cát để tìm
đồng đội xếp lại đội hình. Thì ra, đâu chỉ có những mất mát, hy sinh nơi chiến
trường ác liệt, khi hòa bình người lính vẫn thường xuyên phải đối diện với
những khó khăn, có khi còn khủng khiếp hơn.
Như vậy, có thể khẳng định Hữu Thỉnh cũng như bao nhà thơ cùng thời
khi viết trường ca không hề né tránh sự thực. Hữu Thỉnh đã săn đuổi hiện
thực đến cùng, dựng lên trước mắt người đọc một bức tranh với đầy đủ các
gam màu nơi chiến trường đầy khói lửa. Hiện thực khốc liệt nơi chiến trường
mà người lính đã trải qua được Hữu Thỉnh tái hiện một cách đa chiều và khá
sâu sắc. Những khó khăn về nhu yếu phẩm, những cuộc hành quân và cả
những đợt sốt rét rừng hoành hành người lính...cao độ hơn là những tổn thất,
hy sinh của người lính trên chiến trường. Đó là những thước phim quý hiếm
được viết lại bằng thơ mà Hữu Thỉnh đã cho thế hệ sau cảm nhận rõ hơn về
cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc.
2.1.2. Tâm trạng người lính trong chiến trận
Trường ca, đặc biệt là những trường ca được viết sau chiến tranh đã
không thể viết về chiến tranh theo bút pháp lãng mạn như trước nữa. Họ nhìn
chiến tranh thật hơn, không còn cái hình ảnh “đường ra trận mùa này đẹp
lắm”, người chiến sĩ luôn phơi phới lạc quan nữa mà có lúc anh lặng người
tiếc nuối thương cho tuổi hai mươi của thế hệ mình:
Chúng tôi không mệt đâu
Nhưng cỏ sắc mà ấm quá
Tuổi 20 thằng em tôi sững sờ một cánh chim mảnh như nét vẽ..
Nhiều đổi thay như một thoáng mây..
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
37
Những người đi tới biển của Thanh Thảo đã có những khúc ca bi tráng
mà vô cùng cao cả về bao người lính trẻ. Họ đã đi “không tiếc đời mình” và
biết rằng “ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc. Cỏ sắc mà ấm quá
phải không em?”. Hình ảnh cỏ như sự cứu rỗi, lại như đất mẹ, mềm mại mà
ấm áp nhưng cũng là quá khứ mà anh đang mong nhớ, là hạnh phúc mà anh
chua xót mỗi lần nghĩ đến, mỗi lần chạm tay vào, như hạnh phúc mong manh,
như dĩ vãng đã lùi xa giữa cánh rừng khắc nghiệt. Tâm trạng ấy ta còn tìm
thấy ở các bản trường ca của Hữu Thỉnh.
Với Hữu Thỉnh, qua ba trường ca ông đã thể hiện nhiều cung bậc tâm
trạng người lính trong chiến trận. Cũng như Thanh Thảo và bao nhà thơ khác,
Hữu Thỉnh đã phản ánh chân thực tâm trạng người lính trong chiến trận.
Thành công chủ yếu nhất của Hữu Thỉnh cũng chính là ở chỗ thể hiện vừa
tinh, vừa sâu, vừa khái quát vừa tỉ mỉ, chi li những tình cảm, những suy ngẫm
của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu chống Mỹ cũng như trong thời bình.
Điều đặc biệt là tác giả thường nhìn thẳng vào sự việc và miêu tả chân
thực những gì mà người lính đã trải qua. Giây phút hiểm nghèo của người
lính đã trải qua ở giữa Trường Sơn trùng điệp đã được Hữu Thỉnh tái hiện
một cách thành thật:
Anh còn lại sau những lần thay quân
Sau những lần hổ vồ
Sau những lần voi đuổi
Sau bữa cơm nấm độc cào gan
(Đường tới thành phố)
Hay:
Chúng tôi còn biết xoay xở ra sao
Gạo chỉ mang đủ mười ngày còn dành mang súng
Còn mang thuốc
Còn mang nhau
Mang bao nhiêu tai biến dọc đường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Đường tới thành phố)
38
Có thể đó chỉ là những nuối tiếc về tuổi trẻ:
Sốt ruột làm sao
Học hành dở dang
Yêu đương vội vã
Phải phí bao thời gian vì bọn chó
(Sức bền của đất)
Có khi người lính tự cho mình bị nhỡ đò tuổi trẻ:
Sông nhỡ đò là con sông rộng nhất
Là con sông tuổi trẻ vẫn thèm qua
...Còn bao sách chúng ta chưa đọc đến
Nhỡ hẹn liên miên với các giảng đường
Nhỡ hẹn với mưa phùn Ải Bắc
Mai một cành thắt ruột kẻ tha hương
(Sức bền của đất)
Ai trong mỗi chúng ta chẳng có một miền quê trong kí ức. Nỗi nhớ quê
dâng trào khi ta phải xa quê. Người lính cũng vậy, nỗi nhớ quê luôn thường
trực xâm chiếm cõi lòng họ. Những kí ức như ùa về, cho họ sống lại những
giây phút nhỡ hẹn đò. Hình ảnh Mai một cành thắt ruột kẻ tha hương chất
chứa bao nhung nhớ vơi đầy. Có cái gì đó nghẹn đắng, câm lặng đến thắt ruột
khi người lính nhìn thấy hình ảnh cây mai vàng mà nhớ quê da diết. Vâng! Có
những mất mát không thể nào bù đắp được, đó là những khát vọng tuổi trẻ mà
người lính không thể thực hiện được. Đôi lúc là cả một khúc ca buồn về tâm
trạng người lính khi nói về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi:
Ta hoãn cưới một năm rồi hai năm
Đi đánh giặc chân trời in màu thiếp
(Sức bền của đất)
Đặc biệt trong trường ca Đường tới thành phố Hữu Thỉnh đã dành hẳn
một chương để xây dựng hình ảnh một người lính tư lệnh: chương II. Người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lính tư lệnh với bề dày kinh nghiệm, khác xa anh lính trẻ hai mươi năm xưa:
39
Hai mươi năm anh khó nhận ra mình
Người trong ảnh bây giờ là tư lệnh
Khoảng cách giữa anh và bức ảnh
Có bao quãng đường những bà mẹ tiễn con
(Đường tới thành phố)
Và người lính tư lệnh ấy có dịp được trải lòng mình với đồng đội về
chuyện đời tư của mình. Đây là câu chuyện tình duyên của đời anh chỉ gói
gọn trong mười ngày nghỉ phép:
Nhà mình do má tìm cho
Nết ăn nết ở cũng do má tìm
Một lô bánh quế má đem
Mình về một buổi nên duyên cậu à
Tối ăn một bữa ở nhà
Sáng bên ngoại thế là xa một lèo
(Đường tới thành phố)
Nếu đọc thơ Bằng Việt người đọc ấn tượng bởi hình ảnh người bà lam
lũ, sớm khuya và tình thương vô hạn của người cháu dành cho bà, thì đọc
trường ca Hữu Thỉnh người đọc lại day dứt bởi nỗi nhớ mẹ, nhớ người vợ nơi
hậu phương của người lính. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi trong chiến tranh
đạn lửa không ai khác chính những em bé, những người mẹ, người vợ là
những sinh mệnh yếu đuối cần được chở che, bảo vệ. Trường ca Hữu Thỉnh
đã nghiêng hẳn về mẹ, hướng về mẹ, mẹ là điểm tựa vững chắc nơi hậu
phương. Đã có những giây phút người lính tự nhủ và hối tiếc vì không nói
được nỗi lòng của mình với mẹ:
Ta chưa một lần thư thả đất ơi
Chưa một lần nói được lên lời
Lòng của ta với mẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Sức bền của đất)
40
Khi bước chân vào chiến trường, đối mặt với bao khó khăn, có đôi lúc
được thảnh thơi người lính lại nhớ về hình ảnh người mẹ. Nỗi nhớ mẹ ăm ắp
cõi lòng họ. Ta hiểu được tâm trạng của người lính khi họ chưa một lần thư
thả, chưa có lúc nào được trải lòng mình với mẹ, tất cả đều lẩn sâu trong tâm
khảm, trong tâm tư người lính. Phải là người từng trải và đi qua cuộc đời người
lính Hữu Thỉnh mới hiểu được tâm trạng sâu kín của người lính đến vậy.
Đôi lúc có những giấc mơ giản dị mà lại rất xa xôi bật dậy trong suy
nghĩ của người lính:
Em ơi em,
Sau bao nhiêu tao loạn kiếp người
Anh lại đi gieo mạ ba giăng
Em lại cấy trống quân cò lả
Lại làm bánh kịp vào phiên chợ
Lại hoa đào hé một nụ dân gian
(Sức bền của đất)
Một ánh đom đóm bay, một màu hoa gạo đỏ vào hè cũng làm ý nghĩ
anh trở về với người mẹ nơi quê nhà:
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà có cất áo bông
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo trước
Đường xuống bến có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu
(Sức bền của đất)
Có những giây phút hiểm nguy mặt giáp mặt với kẻ thù trên chốt,
những người lính bình tĩnh đón nhận cái chết bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đến. Anh chỉ nghĩ mà thương mẹ già:
41
Anh có thể chẳng bao giờ còn đánh được gốc tre
Phơi nỏ sẵn dành sưởi đêm cho mẹ
....Và cột nhà hãy đỡ mẹ thật êm
(Đường tới thành phố)
Quên sao được tâm trạng reo vui của người lính khi dân tộc ta chiến
thắng kẻ thù:
Các anh về
Làm một cơn giông lớn
Sáng lên gương mặt phố phường
Theo các anh rừng núi trở về
Các anh về như núi
Những người yêu của những người yêu
Niềm trông đời của những niềm trông đợi
(Đường tới thành phố)
Có đôi lúc nghe bài hát Sài gòn ơi, ta đã về đây mà xốn xang lòng, để
nghe người hát mà thương người quá thể (Đường tới thành phố). Viết về hình
ảnh dân tộc ta chiến thắng kẻ thù, khi những người lính được trở lại thành
phố, trở lại mảnh đất quen thuộc của mình Hữu Thỉnh đã dùng hình ảnh rất
đắt cơn giông lớn. Chính cơn giông ấy có sức mạnh lay tỉnh và làm sống lại
những gì già nua, mỏi mòn vì trông đợi, như làm sáng lên cả phố phường...nó
như cơn mưa làm sống lại những mầm cỏ, làm trỗi dậy những mầm cây.
Qua việc khắc họa tâm trạng người lính trong chiến trận ta thấy, Hữu
Thỉnh đã có cái nhìn chân thực về người lính, nó chính là hiện thân là bức
tranh tâm trạng thật nhất mà người lính đã trải qua. Không tô vẽ, không lãng
mạn hóa, Hữu Thỉnh đã nói hộ tâm trạng bao người lính khi tham gia chiến
trận. Có những nuối tiếc tuổi trẻ, những giây phút nhớ quê, niềm vui chiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thắng và hình ảnh của mẹ đau đáu trong cõi lòng họ. Song điều độc đáo chỉ có
42
ở Hữu Thỉnh là nhà thơ đã khắc họa sâu sắc tâm trạng của người lính, nỗi nhớ
của người lính với mẹ. Hình ảnh người mẹ tạo được ấn tượng đậm nét trong
trường ca của Hữu Thỉnh, nó không hề ủy mị mà có sức mạnh vô song, là
động lực giúp người lính chiến thắng kẻ thù.
2.1.3. Lí tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng
Chiến tranh khốc liệt như thế, tuy nhiên, hầu như những người lính của
chúng ta, có một niềm an ủi hoặc họ đã tạo cho mình một tâm thế để nương
tựa, để sống tiếp, đó chính là tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, là
một đời sống trường tồn, vô hạn trong vận mệnh của Tổ quốc vĩ đại. Họ đã
gắn bó, đã hy sinh cuộc đời hữu hạn cho sự bất tử của dân tộc. Chủ nghĩa anh
hùng cách mạng chính là sự tự nguyện hy sinh, dũng cảm, kiên cường, chống
chọi với kẻ thù, được thúc đẩy bởi tình yêu nồng nàn với đất nước quê hương.
Trong trường ca Đất nước hình tia chớp Trần Mạnh Hảo đã viết:
Ở giữa anh và em là cái gì cao hơn sự chết
Hơn cả sự sống hai ta là sự sống giống nòi
Những người lính trong trường ca của Hữu Thỉnh cũng vậy. Dường
như cái chết đối với họ chỉ nhẹ như một giấc ngủ dài. Cảm động biết bao, có
những người lính khi biết mình khó qua khỏi đã tự nguyện hy sinh mình cho
đồng đội được sống. Những tấm chân dung trong các trường ca làm chúng ta
vô cùng cảm động:
Tôi biết chắc mình không qua khỏi
Xin hãy rút hết máu nhóm O trong người tôi đang chảy
Mà tiêm cho bạn khỏi cưa chân
(Đường tới thành phố)
Đã có rất nhiều, rất nhiều những bài thơ, cuốn truyện viết về tình cảm
đồng đội. Ta hãy tưởng tượng xem, nghĩ rằng mình chết ở tuổi hai mươi, khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bao mơ ước, khát vọng, tất cả đều còn dang dở. Cảm giác ấy mới khủng khiếp
43
làm sao, đến nỗi cảm thấy không thể chịu nổi. Vậy mà đã có biết bao nhiêu
người anh hùng đã ra đi, đã hóa thành “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ”
(Lê Anh Xuân).
Trên “Đường tới thành phố” những người lính đã chiến đấu kiên
cường, bất khuất, dành lại từng tấc đất từ tay kẻ thù. Bởi có một tinh thần như
thế nên một dân tộc nhỏ yếu, thua kém nhiều về kinh tế, trình độ khoa học kĩ
thuật như chúng ta mới có thể đánh thắng được một kẻ thù như đế quốc Mĩ.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều trường ca viết về giai đoạn cuối cùng của
chiến tranh – giai đoạn “thần tốc”. Trong những giờ phút ấy thể hiện cao độ
tinh thần Việt Nam, sức mạnh Việt Nam. Âm hưởng hùng tráng, âm hưởng
chiến thắng mà chúng ta khao khát bấy lâu nay đã thành hiện thực. Trạng thái
cảm xúc vừa tự hào vừa phấn chấn, choáng ngợp là một cảm hứng chung. Lí
tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng có lẽ được khắc họa rõ nhất
qua hình ảnh con đường và hình ảnh ngọn lửa trong trường ca Hữu Thỉnh.
Hình ảnh con đường
Hình ảnh con đường đi vào văn chương nghệ thuật không chỉ mang ý
nghĩa là con đường tự nhiên – lối đi được tạo ra để nối liền các địa điểm. Với
thơ ca cách mạng, đó còn là cuộc hành trình vất vả của dân tộc, là gian lao đời
lính, là con đường về nhà, con đường đến với cách mạng. Nó trở thành một
biểu tượng trong các tác phẩm trường ca. Có thể nói hình ảnh con đường là
một trong những hình ảnh xuất hiện nhiều nhất. Dĩ nhiên, điều đó có cơ sở
hiện thực. Bởi trong chiến tranh, con đường gắn liền với cuộc hành quân, gắn
với đường ra mặt trận, nối tiền tuyến với hậu phương... Vì vậy, ý nghĩa đầu
tiên của con đường chính là nơi gặp gỡ, nơi ghi lại bao gian khổ, thấm bao
máu và nước mắt của đồng đội.
Nếu trong Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu hình ảnh con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đường gắn với dấu chân: “Dấu chân đi đủ khép một vòng trời”. Đó là hành
44
trình gian khổ của đời lính; hành trình theo nghĩa hiện thực nhất là từ chiến
trường này sang chiến trường khác bằng đôi chân, bằng đói khổ, bằng những
trận sốt rét rừng. Thì trong trường ca Hữu Thỉnh hình ảnh con đường hiện lên
với những nét chạm khắc chân thực nhất.
Trong chiến tranh con đường Trường sơn là huyết mạch quan trọng
trong cuộc chiến đấu của dân tộc. Đường Trường Sơn luôn phải oằn mình
gánh chịu bao mưa bom, bão đạn của kẻ thù. Con đường ấy đã đi vào trong
thơ của nhiều nhà thơ giai đoạn này. Với Hữu Thỉnh hình ảnh con đường hiện
lên với bao gập ghềnh, khúc khuỷu, ngổn ngang bốc mùi khét cháy bởi bom
đạn của kẻ thù. “Đường ngổn ngang đường đất còn khét cháy” (Tiếng hát
trong rừng).
Ta bắt gặp hình ảnh con đường 30 – 4 và con đường mang tên Bác –
đường Hồ Chí Minh trong trường ca Đường tới thành phố. Những con đường
đã đi vào trang sử của dân tộc, đó là mốc son, là bước ngoặt đánh dấu bước đi
vững vàng của dân tộc.
Song, thiêng liêng hơn, trong trường ca nói riêng và trong văn học cách
mạng nói chung, hình ảnh con đường còn là con đường cứu nước, con đường
đi tìm lí tưởng, con đường cao cả mà cả dân tộc ta đã lựa chọn.
Nếu trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm,
hình ảnh con đường trở thành một biểu tượng của lí tưởng, là con đường của
cái Tôi hòa cùng cái Ta, của cá nhân hòa cùng với cái rộng lớn, cái tự do của
cả cộng đồng:
Chỗ đứng chúng ta không phải là Hoa Lư
Mà trên con đường ta tìm về dân tộc
Hình ảnh những con đường trong trường ca Hữu Thỉnh còn trở thành
biểu tượng con đường đấu tranh của dân tộc để đi đến đích chiến thắng. Cả
đất nước bước đi trên con đường đó không phải bằng đôi chân mà bằng ý chí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vì vậy khó có thể khiến người ta quên lãng:
45
Đường ta đi gian khó chẳng mau quên
Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ
(Đường tới thành phố)
Hình ảnh con đường là đích chiến thắng mà cả dân tộc hướng đến. Con
đường đấu tranh dù vất vả, gian lao cuối cùng rồi cũng thành công. Vui sướng
biết bao khi những người lính được đi trên con đường chiến thắng, được về
gần bên Bác kính yêu:
Con đã về nơi Bác ra đi
Đường lắm dốc hôm nay con mới tới
(Đường tới thành phố)
Trên những cuộc hành quân không mỏi ấy, bao người lính đã ngã
xuống để bảo vệ con đường. Chúng ta nhớ đến 10 cô gái ngã ba Đồng
Lộc...Họ là những ngôi sao lặn xuống rồi sáng hơn ở bờ bên kia. Thế hệ này
nối tiếp thế hệ khác làm nên cuộc hành trình không ngừng nghỉ của dân tộc.
Hình ảnh con đường là một hình ảnh mang đậm tính hiện thực chiến tranh. Nó
đi vào thơ văn trước hết là một hình ảnh của hiện thực. Đó là nơi ghi đậm
những dấu ấn của cuộc chiến, là một phần kí ức gian khổ của người lính. Hơn
hết, con đường còn là cuộc hành trình, là sự quyết tâm cao độ của toàn dân
tộc khi dám đi trên con đường mà mình đã chọn.
Hình ảnh ngọn lửa
Bên cạnh hình ảnh con đường, đọc trường ca của Hữu Thỉnh người đọc
bắt gặp rất nhiều lần nhà thơ sử dụng hình ảnh ngọn lửa. Hình ảnh ngọn lửa ở
đây bên cạnh ý nghĩa thực còn mang ý nghĩa biểu tượng, nó tượng trưng cho
lí tưởng cách mạng, niềm tin vào tương lai, lòng yêu nước của nhân dân và
tình yêu đôi lứa. Đặc biệt hình ảnh lửa xuất hiện nhiều nhất trong trường ca
Đường tới thành phố.
Có một ngọn lửa không biết được nhóm lên từ khi nào, chỉ biết khi đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nước có giặc ngoại xâm ngọn lửa ấy lại sáng lên và góp thành ngọn lửa yêu nước:
46
Trước mặt là bao nhiêu miền quê
Sau lưng là bao nhiêu miền quê
Ngọn lửa ta đốt lên ở giữa
(Đường tới thành phố)
Ngọn lửa ấy sẽ không bao giờ tắt bởi nó được truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác : chúng tôi sưởi bằng ngọn lửa của mình, lại thấy ấm từ các anh
đi trước. Nó chính là ngọn lửa của niềm tin, hy vọng dù chiến tranh có ác liệt,
dù ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc :
Ngọn lửa này
Và hy vọng của anh
Của chúng tôi những người mới đến
(Đường tới thành phố)
Lửa rất cần đối với mỗi người lính, để họ tìm ra nhau, đồng đội nhận ra
mình và để tìm tri kỉ :
Chúng tôi người chủ những căn hầm
Đốt ngọn lửa để tìm vào tri kỉ
Hầm là nơi che máu che sương
Là cửa sổ mở về hướng mẹ
(Đường tới thành phố)
Ngọn lửa soi sáng cho con trong căn hầm tăm tối, nó còn là điểm tựa
cho con hướng về mẹ. Có những lúc khó khăn, ốm đau ngọn lửa lại soi sáng
thêm những hy sinh, mất mát, gian khổ mà người lính đã trải qua. Giây phút
ấy ngọn lửa trở thành biểu tượng cho tình yêu đôi lứa :
Em nhớ anh hãy nhớ về ngọn lửa
Lửa đang soi mặt đất mấy tầng đêm
Những cơn khát bậm môi vào bẹ chuối...
Cho em nhận ra anh, đồng đội nhận ra mình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Đường tới thành phố)
47
Như vậy lí tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng chính là
mục đích, là quyết tâm của người lính khi ra trận. Có thể khẳng định đây là
những điều rất khó nói bằng thơ. Nhưng bằng con mắt của một người từng
trải và tài năng của một nhà thơ đã giúp Hữu Thỉnh chuyển tải nó bằng những
hình ảnh quen thuộc và mang tính biểu tượng cao. Như Nguyễn Khoa Điềm,
Thanh Thảo...Hữu Thỉnh đã lấy hai hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống, đó
là hình ảnh con đường và hình ảnh ngọn lửa làm biểu tượng cho lí tưởng cách
mạng và hành trình đi tới chiến thắng của người lính. Nó quen thuộc mà
không nhàm chán, giản dị mà lại vô cùng lớn lao kì vĩ.
2.1.4. Khát vọng hạnh phúc
Nếu chỉ có lí tưởng cách mạng soi đường để đưa người lính đến chiến
thắng, thiết nghĩ thế vẫn là chưa đủ. Có một điều thôi thúc người lính chiến
đấu đến quên mình đó chính là khát vọng hòa bình, khát vọng hạnh phúc, là
ngọn lửa sưởi ấm và soi sáng con đường người lính đang đi. Đất nước rơi vào
cảnh tang thương, chia cắt, chưa bao giờ con người lại mơ ước hòa bình một
cách da diết, cháy bỏng đến thế. Chiến tranh là hoàn cảnh mà trong đó những
nhu cầu nhỏ nhoi nhất, bình dị nhất cũng không thực hiện được. Cuộc sống
nhân bản, cuộc sống đời thường bị che lấp. Để đổi lấy một cuộc sống bình
yên, cả dân tộc ta đã trả một giá quá đắt. Đó là cả một thế hệ:
Để có một đồng bằng trước mặt
Chúng ta lên đường mười tám đôi mươi
(Đường tới thành phố)
Và hơn một lần người lính trong trường ca của Thanh Thảo cũng nhận
ra điều ấy:
Ai từng trải những năm ấy đều hẳn biết
Ta phải trả giá thế nào cho một bài ca
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Những người đi tới biển)
48
Khát vọng về một hạnh phúc bình thường được các nhà thơ khắc họa
qua nỗi thèm khát dòng sông và ánh trăng.
Dường như hình ảnh dòng sông, dòng suối, dòng nước, con sóng, xuất
hiện rất nhiều trong trường ca trước hết là một sự bình yên, như cơn mưa làm
dịu bớt sự khốc liệt của cuộc chiến. Nếu Thanh Thảo ví dòng sông là nơi hòa
giải bầu trời và mặt đất:
Cảm ơn dòng sông em làm dịu vẻ khắc nghiệt những cánh rừng
Nơi hòa giải bầu trời mặt đất
(Những người đi tới biển)
Thì dòng sông trong trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh
hiện lên thật đẹp và lung linh, luôn là khởi nguồn của sự sống, của khát vọng:
Dòng sông như bữa tiệc sau rừng
Nhà triết học Hêraclit đã từng nói: không ai có thể tắm hai lần trên
cùng một dòng sông. Những dòng sông luôn lưu chuyển, đổi thay. Nó chính
là sự vận động không ngừng của vạn vật. Dòng sông ở đây cũng vì thế được
các tác giả nhìn như dòng sông cuộc đời, dòng sông cách mạng và dòng sông
lịch sử, nhà thơ Hữu Thỉnh viết:
Nhưng đừng viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn
Xin hãy viết như dòng sông chảy xiết
(Đường tới thành phố)
Cả thế hệ những người lính chống Mĩ đã tắm mình trong dòng sông
lịch sử. Các con sông đều đổ ra biển cả. Họ là những dòng nước đã góp phần
làm nên chiến thắng đại thắng mùa xuân năm 1975. Dù sống hay chết, dù
ngắn ngủi hay dài lâu, cuộc đời ấy vẫn là những dòng sông chảy xiết, dòng
sông mãnh liệt huy hoàng chứ không êm đềm, phẳng lặng.
Cùng với hình ảnh cánh rừng, dòng sông là hình ảnh ánh trăng. Đây là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hình ảnh mang nhiều nét lãng mạn và gắn với người lính trong chiến tranh.
49
Với Nguyễn Đức Mậu, hình ảnh ánh trăng hiện lên vừa da diết, bùi ngùi, vừa
xa xăm, đôi khi tưởng như không thực:
Tổ quốc xa như vầng trăng tôi ngóng đêm rừng
Sao tôi nghĩ trăng mọc từ đất bắc
Những người lính gối đầu võng bạt
Nhớ quê hương gặp trăng sáng lưng trời
(Trường ca sư đoàn)
Và tâm trạng ấy được lặp lại trong trường ca của Hữu Thỉnh:
Nhân dân trở về từ bên kia mặt trăng
Lại vằng vặc những bến bờ thương nhớ
(Đường tới thành phố)
Trên con đường hành quân gian khổ, trăng đã trở thành một người bạn,
một niềm an ủi để người lính có thể vơi đi bao mệt nhọc; và trăng đã trở thành
người bạn tri kỉ để người lính dốc bầu tâm sự.
Với người lính khát vọng hạnh phúc luôn thường trực trong họ:
Còn ao ước nào hơn
Tự do và Đoàn tụ
Vào rừng lấy mật và đẵn gỗ
Thương mẹ và yêu em
Còn hạnh phúc nào hơn
Tổ quốc!
(Sức bền của đất)
Nỗi khát khao ấy, đã đôi lúc người lính như muốn nói cùng với mẹ:
Mẹ bảo: cơm chưa ăn thì gạo vẫn để dành
Vâng thưa mẹ: chiến tranh đừng vô tận
(Sức bền của đất)
Không chỉ là khát vọng hạnh phúc của người lính. Trường ca viết về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
chiến tranh chống Mĩ đã rất chú ý đến cuộc sống đời thường, nhân bản của
50
con người. Nhiều tác phẩm trường ca đã đi sâu vào những niềm đau âm ỉ, dai
dẳng, những khao khát nhỏ bé nhưng rất người mà trong hoàn cảnh thời chiến
cả dân tộc đã phải hy sinh. Đó là tình yêu không thành:
Những mảnh vỡ mối tình đầu như thủy tinh nhọn sắc
Bao đợi chờ ứa máu đến mai sau
(Đường tới thành phố)
Là người vợ vò võ trong đêm dài với nỗi cô đơn của riêng mình:
Tay nọ ấp tay kia...
Một mình một mâm cơm ngồi bên nào cũng lệch
(Đường tới thành phố)
Có thể khẳng định đây là điểm độc đáo của trường ca giai đoạn này.
Cuộc chiến tranh khốc liệt của dân tộc diễn ra hòa lẫn cả niềm vui chiến thắng
và mất mát, tổn thất hy sinh. Và đằng sau cuộc chiến tranh, nhìn sâu vào
những góc khuất ấy là tiếng kêu gào của bản thể, của đời sống cá nhân đáng
và cần được hưởng hạnh phúc. Một đời sống cá thể phong phú đã được
trường ca nhắc đến trong diễn trình lịch sử.
2.2. Hình tượng người phụ nữ
Trong cuốn Nhà văn nói về tác phẩm Hà Minh Đức đã khẳng định:
“Chiến tranh được đo tính bằng sự ác liệt của bom đạn, của xương máu, của
thời gian. Hết tiếng súng, chiến tranh kết thúc, nhưng đâu phải không còn
tiếng súng là chấm dứt sự khốc liệt của chiến tranh. Bởi không ai tính được
biết bao nhiêu nhan sắc, sức lực và tinh hoa của những người phụ nữ đã bị
mài mòn trong chiến tranh” [18]. Chiến tranh qua đi để lại cả dư vị vinh
quang và cay đắng. Bên cạnh niềm vui chiến thắng, cái giá phải trả cho cuộc
chiến còn là số phận bất hạnh của những người phụ nữ.
Hóa thân vào chân dung người mẹ, Hữu Thỉnh đã dựng lên hình tượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người mẹ vừa lớn lao, gần gũi, chất chứa sự biết ơn sâu sắc. Từ người mẹ
51
riêng của tác giả đến người mẹ của các chiến sĩ đã hòa nhập làm một và trở
thành người mẹ chung: người mẹ nhân dân, người mẹ đất nước.
2.2.1. Người Mẹ tảo tần, nhân hậu và giầu đức hy sinh
Trong chiến tranh, hình ảnh người mẹ luôn là cảm hứng lớn cho thơ ca,
các nhà thơ chống Mỹ đã dành nhiều cảm xúc cho những người mẹ vừa cao
cả vừa bình dị. Hóa thân vào người mẹ, nhà thơ dường như thấu hiểu hết
những nỗi đắng cay, hy sinh vất vả trong cuộc đời người mẹ. Đọc trường ca
Hữu Thỉnh và những bài thơ của ông ta bắt gặp hình ảnh những người mẹ
chân chất, bình dị dành trọn cuộc đời cho chồng con, cho đất nước, một mình
gánh chịu bao khổ đau. Quên sao được hình ảnh của người mẹ ngày đêm tảo
tần một nắng hai sương nuôi chồng, nuôi con. Có đôi lúc hình ảnh người mẹ
lam lũ lại hiện lên trong tâm trí người lính để tiếp thêm sức mạnh cho họ
chiến thắng kẻ thù:
Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng
Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió
(Đường tới thành phố)
Hình ảnh người mẹ gánh rạ giữa đồng bị gió thổi mạnh, mẹ phải gắng
hết sức để khỏi ngã sẽ không quên được đối với những ai khi đọc câu thơ trên.
Tôi cứ thấy hình ảnh người mẹ vừa tội nghiệp lại vừa đáng khâm phục.
Tôi rất mê những câu thơ của Hữu Thỉnh trong trường ca Đường tới
thành phố khi anh đặc tả tâm trạng một người lính khi đối diện với cái chết:
Sông ơi sông nếu ta phải ra đi
Bậc thấp xuống cho em ra gánh nước
Xin bát canh đến tay mẹ lúc còn nóng
Xin mùa đông đừng dài
Và cột nhà hãy đỡ mẹ thật êm
Chẳng có chữ “yêu, thương” nào sao yêu thương nhiều đến thế. Tôi đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hình dung ra một bà mẹ gầy gò, luôn run rẩy khổ sở trước mùa đông miền
52
Bắc. Buổi sáng mẹ thường dậy sớm, và mẹ choáng váng, loạng quạng. Nhà
thơ đã hóa thân vào chiếc cột nhà để cho mẹ dựa, để đỡ lấy tấm lưng gầy
mảnh khảnh của mẹ.
Dù vất vả, nhưng mẹ luôn là những người sống hết mình vì cách mạng,
vì lẽ phải, giàu đức hy sinh. Mẹ âm thầm hy sinh để có ngày đoàn tụ. Bao
nhiêu cuộc tiễn đưa những đứa con thân yêu ra mặt trận, lòng mẹ nào chẳng
quặn thắt, đớn đau:
Ba đứa con có mặt ở trong này
Mấy cuộc chiến tranh mẹ gánh cùng một lúc
Mẹ thường ít ngủ, mẹ thường thức khuya
Đêm nào cũng dài
(Đường tới thành phố)
“Mấy cuộc chiến tranh” hóa ra khi tiễn những người con vào chiến
trường mẹ lại phải đối mặt giống như một cuộc chiến tranh – một cuộc chiến
tranh chỉ riêng những bà mẹ mới thấu hiểu. Trong cuộc chiến tranh trường kì
của dân tộc, chính những người mẹ phải gánh chịu nhiều hy sinh, đau đớn
nhất. Đất nước gửi những người con ra chiến trường, mẹ là người hết tiễn
chồng, lại tiễn con, tiễn cháu ra trận. Hình ảnh những người mẹ gánh cùng
một lúc mấy cuộc chiến tranh làm trào dâng trong lòng người đọc lòng thương
cảm. Vị đắng của cuộc đời như chỉ có mẹ mới là người gánh chịu hết. Hơn ai
hết, chính những người lính là người thấu hiểu hết nỗi lòng của mẹ:
Xe pháo ì ầm vô tận nối nhau đi
Áo tân binh xanh thẫm bến phà
Những bà mẹ gặp nhau trong lo toan tầm tã
Tiếng gọi nào nghe rõ
Suốt chiều sâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mẹ nén đau
53
Dấu tờ báo tử
Sáng mai lại tiễn con nhập ngũ
Bốn nghìn năm đất nước mấy khi yên
(Đường tới thành phố)
Khi nghe tin đứa con thân yêu của mẹ không về, mẹ lại gạt nước mắt,
nén nỗi đau, tiếp tục động viên những đứa con còn lại vào chiến trường. Ta
chợt liên tưởng đến buổi chia tay giữa hai mẹ con trong trường ca của Thanh
Thảo mà nỗi bịn rịn tỏa lan đến cả bờ tre mái rạ:
Khi con thưa với mẹ
Mưa bay mờ đồng ta
Ngày mai con đi
Khói bếp mẹ con mình chợt ngừng trên mái rạ
(Thanh Thảo)
Và những nỗi đau chồng chất đã làm mẹ mất ngủ:
Mẹ ít ngủ mẹ thường thức khuya
Đêm nào cũng dài
Căn nhà có mười mấy mét vuông
Làm lụng đến già còn bao nhiêu tất bật
(Đường tới thành phố)
Hình ảnh mẹ già cô đơn cảm nhận đêm dài khiến ta thấm thía hơn sự
trầm luân của dân tộc mình. Đó cũng chính là nỗi đau tột cùng của người mẹ
trong thơ Lê Anh Dũng:
Trên thế giới xưa nay
Bao cuộc chiến tranh
Có người nào như mẹ
Chín con đẻ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Một con rể
54
Một cháu ngoại
Lần lượt lên đường cầm súng
Lần lượt hóa thành mây trắng trời xanh
(Thưa mẹ)
Gánh trên vai cả năm tháng chiến tranh dài, các mẹ đã mất đi những người
thân yêu cho cuộc chiến giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Gia tài của những
người mẹ khi đất nước có chiến tranh thật quá phũ phàng: “Những đứa con ra đi
không về/Gia tài của mẹ dần thêm những bát hương” ( Lương Ngọc An).
Hình ảnh người mẹ nhân hậu, tảo tần và giàu đức hy sinh đã đi vào
trang thơ của Hữu Thỉnh bằng tình cảm chân thành, nồng ấm và tha thiết. Đó
là tiếng lòng tri ân của một người lính dành cho những người mẹ đã đi qua
bao cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
2.2.2. Người Mẹ - điểm tựa vững vàng nơi hậu phương
Trong tấm lòng người chiến sĩ, có một khoảng rộng nhất, sâu nhất dành
cho quê hương – hậu phương lớn. Hậu phương gắn bó máu thịt với chiến
trường, hậu phương là động lực, là sức mạnh vô tận. Và người mẹ là hình ảnh
lớn lao nhất, tập trung nhất của quê hương, của hậu phương. Ở đây người mẹ
là biểu trưng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là điểm tựu vững vàng nơi
hậu phương. Có thể khẳng định hình tượng người mẹ là một trong những hình
tượng nổi bật trong kho tàng văn học Việt Nam, cũng như trong thơ ca kháng
chiến. Với Hữu Thỉnh người mẹ luôn là người dõi theo bước chân người lính,
đó là miền nhớ và cũng là điểm tựa, là sức mạnh tinh thần giúp người lính
vượt qua mọi trở ngại, gian nan. Có thể thấy bất cứ lúc nào, cả lúc vui lẫn lúc
buồn, khi thảnh thơi cũng như khi lo nghĩ, người lính đều nhớ đến mẹ ở nhà.
Anh nói thật thà như trẻ thơ: Mẹ là người chúng con thương nhớ nhất (Sức
bền của đất).
Hình ảnh người mẹ tiễn con ra trận với miếng trầu luôn thắm đỏ trên
môi đã làm ấm lòng người lính, là vùng tin cậy phía sau mỗi khi họ nhớ về.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Vào chiến trận với bao gian khổ, buồn vui, nhưng có lẽ nỗi nhớ mẹ luôn dâng
55
ngập cõi lòng người lính. Nó trở thành vật báu, là bến nghỉ chân thanh bình
mỗi khi họ nhớ về. Khi khoác ba lô lên đường mỗi người lính quên sao được
những lời mẹ dặn:
Con không dám nhìn mẹ lâu
Mái chèo khua sóng đánh
Nước ngấn lưng đê sẫm lời mẹ dặn
Mùi trầu cay ấm hoài trên vai
(Sức bền của đất)
Hình ảnh Nước ngấn lưng đê sẫm lời mẹ dặn đã cho ta thấy được cái
bịn rịn và tình thương của mẹ dành cho những người lính khi ra trận. Kể làm
sao hết, đếm làm sao xuể những lời dặn dò, thương nhớ của mẹ dành cho các
anh. Chỉ biết nó đầy ắp như nước ngấn lưng đê, nó ăm ắp và bao la như biển
cả. Chính những vất vả, lo toan đã tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến
thắng được kẻ thù:
Những cánh đồng in dấu chân của mẹ
Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi
(Đường tới thành phố)
Tác giả đã khắc họa một hình tượng bà mẹ khổ đau gắn liền với đức hy
sinh vô bờ bến, một đức hy sinh thầm lặng, cao cả, thủy chung và thiêng
liêng. Hình ảnh bà mẹ gánh rạ giữa đồng ám ảnh tâm trí người đọc không chỉ
bởi sức nặng của gió, cao cả hơn, chính những điều bình dị ấy đã tạo nên chất
thép trong tâm hồn mỗi người lính.
Hữu Thỉnh không cố ý tìm những cách nói độc đáo, mới lạ khi nói về
mẹ, anh chỉ kể những hình ảnh bình dị, những hình ảnh, những sự việc bình
thường, song cũng chính vì vậy mà gần gũi thân thiết biết bao:
Mẹ đang xếp cho anh bộn bề giá sách
Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu
Những điểm 9, điểm 10 không còn an ủi mẹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Đường tới thành phố)
56
Ta còn tìm thấy hình ảnh người mẹ kiên trung trong trang thơ của Tố
Hữu với niềm tự hào sâu sắc. Họ - những người mẹ Việt Nam sống muôn đời
với đất nước, núi sông của nhân dân Việt Nam:
Một dòng máu đỏ lên trời.
Má ơi, con đã nghe lời má kêu
Nước non muôn quý ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang
(Bà má Hậu Giang – Tố Hữu)
Người lính trong thơ Hữu Thỉnh mềm yếu mà cũng vô cùng vĩ đại. Cái
mềm yếu rất người ấy đã cho ta thấy được cái dũng mãnh, cái vô biên trong
tâm trí họ. Thì ra khi ở chiến trận, người lính luôn nhớ về mẹ, luôn hướng về
mẹ và coi đó là bệ đỡ cao nhất, là điểm tựa vững vàng giúp họ vượt qua bao
gian khó, hiểm nguy. Với họ, mẹ là ngọn đuốc sáng soi đường cho mỗi bước
đi của người lính.
Như vậy, hóa thân vào chân dung người mẹ, Hữu Thỉnh đã cho ta thấy
cái lam lũ, tảo tần và giàu đức hy sinh của người lính. Hữu Thỉnh đã khắc họa
một hình tượng bà mẹ khổ đau gắn liền với đức hy sinh vô bờ bến, một đức
hy sinh thầm lặng, cao cả, thủy chung và thiêng liêng. Không ai khác chính
mẹ là điểm tựa vững vàng nơi hậu phương, là mặt trời ấm áp sưởi ấm trái tim
người lính mỗi khi gặp khốn khó, nguy cùng. Nụ cười thầm lặng, nước mắt
thầm lặng, cái chết thầm lặng của bà mẹ trong thơ Hữu Thỉnh là nét phẩm
chất chung của các bà mẹ Việt Nam, phụ nữ Việt Nam. Đối với Hữu Thỉnh,
mẹ là ngọn nguồn của tất cả, là vui sướng tột cùng, là tự hào cao độ, là thương
nhớ không nguôi, là tình yêu vô biên, là ánh sáng dõi theo suốt cuộc đời
người lính trẻ.
2.2.3. Người phụ nữ - biểu tượng của sự chịu đựng
Trong trường ca Đường tới thành phố hình tượng người phụ nữ đã trở
thành một biểu tượng của sự chịu đựng. Đây là tâm sự, là số phận của một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người vợ khi chị viết thư cho chồng:
57
Chúng em chẳng sợ địch lùng
Đêm nằm sợ tiếng ru con trên đài
Chị đi hoạt động bị địch bắt:
Tù về mắc bệnh động kinh
Mình nghe nói chớ bả làm thinh hoài hoài
Hình ảnh người chị, người vợ luôn hiện lên với đức hy sinh và lòng
dũng cảm. Hoạt động trong lòng địch, đối diện với bao hiểm nguy để đánh lừa
bọn địch, nhập vai vào nhân vật, tác giả nhận ra cảnh ngộ đầy trớ trêu của chị:
Chị góa bụa trong hồ sơ tự khai
Chị cười cợt với thằng chỉ điểm
Người nó thắt y chiếc còng số tám
Cứ hau háu rình chộp chị mang đi
Chị cố làm cho thật lẳng lơ
Thắt vạt áo trước bao lời dị nghị
Tác giả như thấu hiểu nỗi lòng của nhân vật khi nói về sự nhẫn nhịn
của chị trước bao lời dị nghị, bao cám dỗ, sự đè nén của biết bao khổ đau
chồng chất về đời sống tinh thần. Anh còn sống mà tưởng như đã chết, ngay
cả khi tưởng như khoảng cách xa nhau không còn nữa nhưng trong chiến
tranh giây phút vợ chồng bên nhau bỗng trở nên xa vời:
Chị nuôi anh dưới đất
Năm năm trời anh nhìn chị trong đêm
Chị gặp anh mà không hay ốm mập
Gặp anh mà không hay anh đen trắng ra sao
Chị nghe giọng anh mỗi ngày lặng xuống
Còn gì đau buồn hơn khi thời gian không phải được tính bằng ngày,
tháng mà phải tính bằng “năm năm” thật là dằng dặc, ở bên chồng mà cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
như không. Chị chỉ có thể gặp anh qua giọng nói, đến nỗi chị gặp anh thường
58
xuyên mà không hay ốm mập, không hay anh đen trắng ra sao. Anh phải chấp
nhận bí mật hy sinh: mỗi năm một lần cúng kị, khấn anh xong mang xôi trái
xuống hầm. Thiết nghĩ đó là những hy sinh không gì bù đắp nổi mà các chị
phải gánh chịu. Đó có thể chỉ là nỗi đau âm ỉ, là cuộc sống cô quạnh, là tình
cảnh trớ trêu....tất cả làm họ hóa đá trong cõi lòng, chỉ còn lại tình yêu cho
nhân dân, cho Tổ quốc.
Ở Trường ca biển ta còn gặp những người vợ rất đỗi thông minh, trở
thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn:
Những đứa con sinh ra trong chiến tranh
Sống tản mát dưới hầm bí ẩn
Chị để con mỗi đứa ở riêng hầm
Bom có trúng cũng không thành tay trắng
(Trường ca biển)
Có thể nói hình ảnh những người vợ, người chị trong chiến tranh đi vào
trang thơ của Hữu Thỉnh thật đẹp và vô cùng gần gũi. Ta khâm phục họ bởi
sự chịu đựng và sự bền bỉ sắt đá. Chỉ có những người chị, người vợ, yêu
chồng, thương con và sống hết mình vì độc lập tự do cho tổ quốc mới làm
được điều đó. Ấn tượng sâu sắc về hình tượng người vợ, người phụ nữ trong
thơ Hữu Thỉnh là biểu tượng của sự chịu đựng, kiên cường. Đó là người vợ
dũng cảm nuôi chồng dưới căn hầm bí mật, là người vợ chờ chồng trở thành
góa phụ như hóa đá vọng phu….
2.2.4. Người phụ nữ với những góc khuất trong cuộc chiến tranh
Người phụ nữ, những người chị, người vợ trong thơ nói chung và
trường ca của Hữu Thỉnh nói riêng không chỉ là những người giàu sức chịu
đựng, hy sinh gian khổ mà còn là những người phụ nữ có những khát khao rất
đỗi đời thường. Đó là khát khao được làm vợ, làm mẹ luôn cháy âm ỉ trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lòng họ. Hữu Thỉnh như đã đi sâu vào trong tâm can của họ, thấy được những
59
góc khuất của họ do chiến tranh gây ra. Tiếng kêu gào của bản thể, của những
người phụ nữ trong thơ Hữu Thỉnh làm lòng ta se thắt.
Nhập thân vào nhân vật để tập trung thể hiện sự khắc khoải nội tâm để
từ đó Hữu Thỉnh nhằm làm nổi bật lên lòng chung thủy của những người vợ,
người chị:
Chị chờ đợi quay mặt vào đêm
Hai mươi năm mong trời chóng tối
Hai mươi năm cơm phần để nguội
Thôi đừng ai mừng tuổi chị tôi...
(Đường tới thành phố)
Khoảng thời gian đằng đẵng hai mươi năm lặp đi lặp lại nhiều lần để
diễn tả sự khắc khoải chờ đợi chồng. Nỗi nhớ như khắc, như chạm vào tim
chị, như hối thúc tuổi trẻ. Thấu hiểu cảnh ngộ của chị, nhà thơ đã dựng lên
chân dung một người vợ trẻ suốt bao nhiêu năm phải quay mặt vào bóng tối,
quay lưng lại với nhiều cám dỗ, chấp nhận một cuộc sống cô đơn, âm thầm
chung thủy chờ chồng cho đến ngày toàn thắng. Hơn nữa, mong trời chóng tối
để một ngày trôi đi thật nhanh, để khỏi chứng kiến cảnh tết đến, xuân về. Cho
dù xóm làng rất ý tứ không khoe con trước mặt mà nó vẫn ám ảnh, vật vã
trong lòng chị. Khoảng thời gian ấy chị chịu nhiều thiệt thòi về tình cảm, phải
sống trong nỗi cô đơn:
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
(Đường tới thành phố)
Nguyễn Đăng Điệp đã có lời bình xác đáng về hình ảnh má lúm đồng
tiền: “sao mà trớ trêu đến thế, cái lúm đồng tiền làm nên duyên con gái, là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một hệ số để đo ướm giá trị con người bỗng dưng trở thành một huyệt. Mà
60
đâu chỉ có một người chị cụ thể nào, có bao người phụ nữ đã hóa đá, đã chết
mòn trong nỗi khắc khoải triền miên. Ngày chiến thắng trong nụ cười đoàn
tụ, ai nhớ đến để trao huy chương cho những nàng Tô Thị bao ngày im lặng
“đợi chờ quay mặt vào đêm” [15]. Bi kịch của tình yêu bị đẩy lên đến đỉnh
điểm khi:
Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc
(Đường tới thành phố)
Thiết nghĩ đây không phải là chuyến đò thực mà có ý nghĩa biểu tượng,
là chuyến đò thân phận chở tình duyên và sắc đẹp của con người trước thời
gian, trước bao sóng gió. Đó cũng là cảnh ngộ của người vợ trong thơ Trần
Chấn Uy:
Đêm đêm chị lang thang dọc bến đò
Nơi ấy ngày xưa chị tiễn chồng ra trận
Ba mươi năm một mình lận đận
Chị già theo những con nước đầy vơi
(Chị)
Đó là tiếng vang của nỗi nhớ, sự ngóng chờ mòn mỏi của người vợ.
Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng người khốn khổ nhất trong cuộc chiến tranh này
là người phụ nữ. Họ là người gánh chịu nhiều thiệt thòi, nhiều cay đắng trong
suốt cuộc chiến tranh.
Những khát khao làm vợ, làm mẹ vẫn luôn âm ỉ cháy trong lòng họ:
Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra
Trong giỗ Tết họ hàng nội ngoại
Bao nhiêu tiếng cười vẫn côi cút một mình
Những đêm trở trời trái gió
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Đường tới thành phố)
61
Hình ảnh người vợ côi cút một mình dội vào lòng người đọc một cảm
giác cô đơn, buồn tẻ. Nhập vào cảnh ngộ người vợ, và đi vào tận cùng ngõ
sâu tâm hồn họ, Hữu Thỉnh đã diễn tả tâm trạng ngập chìm trong nỗi buồn,
mất mát không gì bù đắp nổi trong tình cảnh của người vợ xa chồng.
Có người vợ, chồng hy sinh phải sống cuộc đời cô đơn, lẻ loi. Con
người ta có đủ sức mạnh để chịu đựng những hy sinh mất mát về vật chất,
nhưng làm sao chịu đựng được sự cô đơn, làm sao sống được cả cuộc đời
quạnh quẽ:
Những đêm trở trời trái gió
Tay nọ ấp tay kia
Súng thon thót ngoài đồn dân vệ
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
(Đường tới thành phố)
Và chị buồn như bông điệp xé đôi, bằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại
(Đường tới thành phố).
Có một điều đặc biệt là dù cho số phận nghiệt ngã, cuộc đời người phụ
nữ trong trường ca Hữu Thỉnh có gian nan đến đâu thì họ vẫn luôn lạc quan
và tin tưởng vào ngày mai. Dù sự tin tưởng ấy đôi lúc chỉ là ảo vọng:
Chị vẫn tin chữ hợp cuối trang Kiều
Hoa mai nở hai lần hoa có hậu
Chị vẫn tin có mùa thu xanh đền cho cuốc kêu tháng sáu
Vẫn tin có ngày hái quả cho anh
(Đường tới thành phố)
Nhưng liệu rằng ý chí sắt đá của người phụ nữ có chiến thắng được
những khát khao đời thường không? Hữu Thỉnh đã diễn tả rất tinh tế chiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sâu tâm lí người phụ nữ với những khao khát đời thường. Từ đó cho ta thấy
62
được những trạng thái trong chiều sâu tâm hồn mỗi con người, thủy chung và
tin tưởng, khát khao và dồn nén, cam chịu nhưng ẩn sau đó là một sức sống
mãnh liệt:
Mãn tang anh chị vẫn chưa già
...Trời còn bao nhiêu thu
Tóc chị thắm làm thắt lòng nội ngoại
(Trường ca biển)
Ngày anh không về đó là một nỗi đau không thể nào nguôi ngoai trong
chị, mặc dù chị đã từng tin chữ hợp cuối trang Kiều, nhưng chiến tranh là
vậy, người vợ đã từng vượt qua mưa bom bão đạn, vượt qua bao thử thách
trong cuộc sống để chờ anh về và giờ đây chị lại phải chịu thêm một lần thử
thách: mãn tang anh chị vẫn chưa già. Có lẽ đó là nỗi đau âm ỉ, sâu kín nhất
trong cõi lòng họ. Nó đóng đinh trong lòng họ suốt cuộc đời.
Khai thác vấn đề này, nhà thơ thể hiện một cái nhìn hết sức cảm thông,
chia sẻ và thấu hiểu những người phụ nữ. Chính điều đó đã góp phần làm xoa
dịu bớt những nỗi cay cực mà người phụ nữ phải gánh chịu:
Có người lính ở Trường Sa
Đi cùng anh dạo ấy
Hôm nay lúa lại nhen đòng
Chim bay ngược bão hoa trong thiếp mời
Hôm nay tái giá chị tôi
Liền anh cùng với bao người đứng trông
Chị tôi đi thửa hương vòng
Ngậm ngùi trên mộ cũ
Cháu ở lại cùng bà bống bống bang bang
(Trường ca biển)
Có thể nói những dòng thơ viết về phụ nữ thường mang lại nhiều xúc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
động, day dứt cho người đọc. Bản thân đề tài tuy không phải mới nhưng bao
63
giờ cũng chứa đựng những rung cảm lớn lao với mỗi người. Hóa thân vào
những người mẹ, người vợ, người chị tác giả đã khẳng định vai trò, sự đóng
góp, hy sinh to lớn của người phụ nữ vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng
chiến. Với sự chân thật trong cảm xúc, tác giả đã khắc họa khá thành công
chân dung người mẹ, người vợ trong thời kì đất nước có chiến tranh. Cuộc
kháng chiến 30 năm đã làm biết bao cặp vợ chồng phải chia ly, nào ai tính
được có biết bao người phụ nữ phải mòn mỏi chờ đợi hạnh phúc lứa đôi. Chất
bi tráng của lòng chung thủy là sự hy sinh cao cả, là không gì lay chuyển
được của lời thề trái tim mình trong tình yêu. Hóa thân vào những người mẹ,
người chị, người vợ Hữu Thỉnh nhằm ca ngợi những người góp phần làm nên
trang sử oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
2.3. Hình tượng đất nước
Không chỉ riêng Hữu Thỉnh, khi viết về hình tượng đất nước tất cả các
nhà thơ đều dành cho đất nước những tình cảm cao đẹp nhất. Trong văn học
1945 -1975, đất nước trở thành đề tài lớn và là hình tượng nổi bật trong thơ
ca. Các nhà thơ thế hệ chống Mỹ đã xây dựng được hình tượng đất nước, vừa
cụ thể, vừa khái quát. Sự hình dung về đất nước của họ thật giản dị mà thấm
thía. Chưa bao giờ đất nước hiện lên cụ thể, chân thực và gần gũi đến như
vậy. Với Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh đất nước được kết tinh từ những điều
bình dị nhất:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc...
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
(Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
Hay một đất nước lớn lao, kỳ vĩ trong thơ Tố Hữu:
Ôi Tổ quốc giang sơn hùng vĩ
Đất anh hùng của thế kỉ XX
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Miền Nam – Tố Hữu)
64
Và một đất nước thật thân thương gần gũi trong thơ Chế Lan Viên:
Ôi, Tổ quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi, Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông
Với Hữu Thỉnh, Tổ quốc trở thành hình tượng tiêu biểu trong sáng tác
của ông. Tuy xuất hiện không nhiều song mỗi lần xuất hiện là mỗi lần đất
nước được hiện lên với nhiều dáng vẻ khác, thể hiện sự tìm tòi mới mẻ và rất
riêng của tác giả. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh thì tình
cảm dành cho đất nước lại trở lên thiêng liêng hơn bao giờ hết. Đó là hình ảnh
một đất nước bị chia cắt :
Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt
Yêu Tổ quốc mình, Tổ quốc bị chia đôi
Nỗi đau ấy góp đời mình để xóa
(Đường tới thành phố)
Hòa mình vào nhân dân, hiểu tình cảnh nhân dân đang chia cắt, yêu Tổ
quốc, gắn bó vận mệnh của mình với tổ quốc là một trong những lí tưởng của
người lính. Nó đã trở thành tư tưởng chung của thời đại khi vận mệnh của dân
tộc được đặt lên hàng đầu. Và hơn một lần Thanh Thảo đã từng khẳng định :
Đất nước đẹp mênh mông
Đất nước thấm sâu đến tận cùng xương thịt
Chỉ riêng cho người chúng tôi dám chết
(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
Vâng! Nếu Tố Hữu nhìn đất nước trong mưa bom bão đạn vẫn xanh
màu hy vọng: Tổ quốc tôi xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển / Xanh
trời, xanh cả những ước mơ, thì hình ảnh đất nước trong thơ Hữu Thỉnh lại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gắn liền với những cảm nhận, suy tư riêng giàu tính triết luận, gắn liền với
65
những trải nghiệm đời lính của ông. Với Hữu Thỉnh đất nước đau thương mà
vững vàng, anh hùng, nó không phải là cái gì to lớn, cao xa, trừu tượng mà
hiện lên trong những gì gần gũi nhất, bình dị nhất. Tổ quốc có thể chỉ là một
gốc sim cằn trong giờ phút hiểm nguy :
Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được
Một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?
Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim
(Đường tới thành phố)
Hay với ông, Tổ quốc chỉ là một gốc cao su bé nhỏ :
Những ngày chúng ta gan góc hết mình
Một gốc cao su nửa giờ trước là ta, nửa giờ sau chúng chiếm
(Đường tới thành phố)
Có thể khẳng định, tình yêu Tổ quốc, cảm xúc về tổ quốc là một trong
những tình cảm thiêng liêng và cao đẹp nhất, nó gần gũi và không còn là tình
cảm xa lạ trong thơ Việt Nam. Khi đặt bước chân ra chiến trận là đồng thời
người lính đã thể hiện quyết tâm dành hơi thở cuối cùng cho đất nước, Tổ
quốc mình. Trong nhiều chiều lựa chọn, người lính vẫn chọn Tổ quốc lên
hàng đầu. Do đó, hình ảnh Tổ quốc trong thơ hiện lên vô cùng gần gũi, nó
không còn là những khái niệm trừu tượng mà trở nên máu thịt. Chẳng vậy
Phạm Quang Đẩu từng khẳng định :
Tiếng Tổ quốc không còn là danh từ trừu tượng
Đã trở thành thân quen
Ngôi nhà, gốc cây, đường cái, góc sân
Tổ quốc hợp thành từ những gì bình dị nhất
(Ấn tượng về người mẹ)
Hiện thực chiến tranh không bao giờ là mầu hồng bởi nơi ấy luôn có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảnh đầu rơi, máu chảy. Khi đi vào thơ, Hữu Thỉnh không hề né tránh sự thực
66
đau thương của Tổ quốc, mà nói lên thực trạng đó bằng những vần thơ đầy
ám ảnh. Nhà thơ nhìn rõ thực tế mà đất nước phải gánh chịu để ý thức rõ hơn
trách nhiệm của mỗi người đối với vận mệnh Tổ quốc. Nếu Nguyễn Khoa
Điềm khái quát hình ảnh đất nước vơi 4000 nghìn năm lịch sử với biết bao giá
trị văn hóa đẹp đẽ mà nhân dân đã bồi đắp theo năm tháng ; một đất nước
được cảm nhận như là sự thống nhất ở chiều dài lịch sử, ở chiều rộng không
gian địa lý và chiều sâu văn hóa ; thì Hữu Thỉnh lại khắc họa hình tượng đất
nước trong đau thương "Bốn nghìn năm đất nước mấy khi yên". Đó là một đất
nước luôn phải đương đầu với giặc ngoại xâm, nhưng luôn chiến thắng bởi
lòng dũng cảm, kiên cường và chính nghĩa. Trữ tình và triết luận là bút pháp
chủ yếu mà Hữu Thỉnh đã sử dụng khi viết về đất nước, Tổ quốc. Vì thế mà
hình tượng đất nước trong thơ ông vừa mang tầm triết luận sâu sắc, lại vừa
thấm đẫm cảm xúc trữ tình.
Không chỉ vậy, với Hữu Thỉnh đất nước còn được hội tụ ở những giá trị
truyền thống văn hóa dân tộc. Chính những giá trị ấy là cội nguồn sức mạnh
tinh thần to lớn để con người Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách :
Tiếng Việt gọi hồn Việt
Giữa đất Việt ngoài khơi
Tiếng Việt là ngọn cờ
Hội quân trong đêm tối
Tiếng Việt để nhận nhau
Giữa bao nhiêu rắc rối
(Trường ca biển)
Tiếng Việt không đơn thuần chỉ là tiếng nói mà còn là giá trị văn hóa,
là linh hồn của dân tộc còn lại với thời gian và đất nước, nó là tiếng kèn hiệu
triệu, là bản sắc để dân tộc nhận ra nhau. Có lẽ viết những dòng thơ này nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thơ Hữu Thỉnh một lần nữa muốn khẳng định nét độc đáo, nét riêng của tiếng
67
Việt. Tiếng Việt như ngọn cờ ngoài khơi, trên những con tàu đang bảo vệ chủ
quyền của đất nước, nó thiêng liêng và hùng vĩ biết bao.
Với Hữu Thỉnh đất nước còn được nhìn thấy từ trong những nét văn
hóa dân gian. Đến với thơ từ ngôi đền văn hóa dân gian, bằng vốn kiến thức
phong phú về văn hóa dân gian Hữu Thỉnh đã chuyển tải những hình ảnh đất
nước theo cách riêng của mình. Tác giả đã dựng lên hình ảnh về đất nước với
bao trầm tích :
Ta bới sóng đi tìm các dòng sông
Gặp Trương Chi cắm sào đứng hát
Mỵ Nương vẫn đang ngồi khóc
Nước mắt thành ngọc trai...
Ta bới sóng đi tìm các dòng sông
Gặp nàng Tiên Dung đội cát
(Trường ca biển)
Hay :
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía sau lưng
(Sức bền của đất)
Hóa ra tất cả những gì bình dị nhất, ngay cả chỉ một dòng sông cũng
chất chứa bao huyền thoại. Đó không chỉ là dòng sông tự nhiên nữa mà nó
còn là dòng sông của những cổ tích, truyền thuyết... hằn sâu theo năm tháng.
Và Hình ảnh miếng trầu gợi nhắc đến tình nghĩa anh em, chồng vợ, được nuôi
dưỡng qua các thế hệ. Nó đã thấm vào máu thịt, vào tâm hồn mỗi người dân
Việt. Với những người lính, miếng trầu không chỉ gợi nhắc sự thủy chung,
son sắt mà hơn nữa còn khẳng định một chân lí, chính mẹ, quê hương là điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tựa vững chắc cho người lính chiến thắng kẻ thù. Hình ảnh miếng trầu xuất
68
hiện rất nhiều trong thơ ca, nhưng với Hữu Thỉnh đó là miếng trầu của niềm
tin, của hơi ấm, là tình mẹ thiêng liêng.
Cùng mạch cảm nghĩ ấy, Nguyễn Đức Mậu đã dựng lên hình ảnh một
đất nước thật cụ thể mà xúc động :
Chúng tôi lớn lên đã có mưa ngâu
Đã có miếng trầu lá xanh, vôi trắng
Đã có đá mài gươm, đã vàng tre làng Gióng
Ông đồ rau đội nồi cháo loãng
Lửa nhen lời cổ tích thâu đêm
(Trường ca sư đoàn)
Tìm về những giá trị truyền thống của dân tộc là nhà thơ đang tìm về
những giá trị bền vững góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Đây cũng
chính là hình thức nhà thơ góp sức vào sự phát triển giá trị văn hóa dân tộc,
tiếp "lửa" truyền thống cho thế hệ sau. Phải chăng đây cũng chính là một
trong những yếu tố góp phần tạo nên sức sống lâu bền cho thơ Hữu Thỉnh.
Đất nước không chỉ là những gì bình dị nhất, chứa đựng hồn dân tộc.
Đất nước còn được Hữu Thỉnh nhìn qua những người con ưu tú của dân tộc.
Với một thái độ thành kính, ngưỡng mộ, Hữu Thỉnh đã có những vần thơ thật
xúc động về những con người ấy. Không chỉ Tố Hữu, Hoàng Trung
Thông..mà ngay cả Hữu Thỉnh cũng có những vần thơ thật xúc động về Bác –
vị cha già của dân tộc. Trở về nơi Bác đã ra đi tìm đường cứu nước, nhìn cảnh
sông nước bến Nhà Rồng lại nghĩ đến Bác, mong ước được nghe Bác nói,
được nghe Bác đọc thơ khi mỗi độ xuân về :
Đã trở về từng hạt muối ngoài khơi
Từng đọt măng trên rừng, từng đám mây lưu lạc
Tất cả dưới bàn tay của Bác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hóa thiêng liêng máu thịt tự hào
69
Chúng con thèm nghe Bác nói một câu
Giữa bến Nhà Rồng mênh mông sóng nước
Thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp
Để vui hết được những gì ta có hôm nay
(Đường tới thành phố)
Đó còn là tình cảm ngưỡng mộ với sự hy sinh dũng cảm của anh hùng
Nguyễn Văn Trỗi :
Nếu anh còn giờ này anh ở đâu ? Anh Trỗi
Đeo quanh anh không phải những vòng hoa
Không nguyệt quế, không cầu vồng huyền hoặc
Đeo quanh anh là những vòng người
(Đường tới thành phố)
Như vậy, có thể khẳng định hình tượng Tổ quốc là hình tượng nổi bật
trong thơ Hữu Thỉnh nói chung và trong trường ca của ông nói riêng. Viết về
đất nước bằng tình cảm chân thành và thành kính, Hữu Thỉnh đã dựng lên
trước mắt người đọc hình ảnh một đất nước dù đau thương nhưng vẫn vững
vàng, đẹp rạng ngời. Đó là vẻ đẹp của một dân tộc với bề dày văn hóa, chính
nghĩa và đang ngày một khởi sắc dù cho bao mưa bom bão đạn, mất mát do
chiến tranh gây ra. Đó là hình ảnh những người con ưu tú của dân tộc, là
những vật báu luôn toả sáng với các thế hệ bởi công lao bảo vệ gìn giữ và
dựng xây đất nước.
2.4. Hình tượng biển
Theo khảo sát của chúng tôi, hình tượng biển xuất hiện khá nhiều trong
thơ và trong trường ca Hữu Thỉnh. Trong đó có một số bài xuất hiện dày đặc
như: “Tôi đi bào ngư” (Tiếng hát trong rừng): 7 lần; “Phan Thiết có anh
tôi” (Thư mùa đông): 6 lần; đặc biệt ông dành hẳn một trường ca để nói về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
biển đó là “Trường ca biển”, trong đó có những bài như “Đối thoại biển”
70
xuất hiện 22 lần hình ảnh biển, “Bão biển”: 13 lần,“Hóa thạch những dòng
sông”: 14 lần...
Trước hết, biển trong thơ Hữu Thỉnh biểu trưng cho khung cảnh thiên
nhiên tươi đẹp. Với người lính đảo biển hiện lên thật nên thơ:
Đảo vắng cỏ non vẫn biết mùa xuân đến
Khi trông bờ ngắm một lá thư thăm
Biển xanh quá ước gì anh gói được
Nhờ con tàu bè bạn đến tay em
(Gửi từ đảo nhỏ - Tiếng hát trong rừng)
Qua cánh cửa hầm chật hẹp, lần đầu tiên thấy biển tươi đẹp dường như
người lính thấy quên hết nhọc nhằn sau chặng đường hành quân:
Chính ở đây anh thấy biển lần đầu
Qua cửa hầm
Sau những ngày vượt dốc
Biển thì rộng căn hầm quá chật
Khẽ trở mình cát trắng đổ hai vai
(Phan Thiết có anh tôi - Thư mùa đông)
Không chỉ với người lính, mà với mỗi người trong chúng ta khi thấy
biển lần đầu đều không khỏi kinh ngạc và thán phục bởi cái vô biên, rộng
lớn của nó. Biển luôn gắn mình với cát, khi ra với biển người lính lại được
hòa mình vào cát, làm bạn với cát, đôi lúc chỉ cần khẽ trở mình cát trắng đổ
hai vai.
Việt Nam là một trong những nước tự hào có bờ biển dài và cả những
hòn đảo đã đi vào lịch sử: Hoàng Sa, Trường Sa... Biển đảo với đất liền tuy xa
mà gần bởi đó là một phần lãnh thổ của Tổ quốc. Theo quan niệm của nhà
thơ, biển đảo còn là một bộ phận của giang sơn Tổ quốc và người lính không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
khỏi tự hào khi được làm chủ vùng biển đảo của Tổ quốc:
71
Những đảo xa
Những quả trứng dập dờn giữa sóng
Những nhớ thương không ở ngoài tầm
Đất nước...
(Trường ca biển)
Đặc biệt trong “Trường ca biển”, hình ảnh gió, cát, biển được nhà thơ
nói đến nhiều lần, nhưng nó không đơn thuần là hình ảnh thiên nhiên mà trở
thành biểu tượng, hình hài của Tổ quốc:
Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình
Đảo có lính cát non thành Tổ quốc
(Trường ca biển)
Đứng trước biển hùng vĩ,đôi lúc tác giả đã suy tư, trăn trở về lẽ sống
tình đời, lấy biển để biểu trưng cho lẽ sống cuộc đời. Lấy sự mênh mông của
biển cả để làm tiền đề suy tư và khát vọng tình yêu không còn xa lạ trong thơ,
nhưng đọc thơ Hữu Thỉnh ta vẫn thấy được nét mới mẻ, bất ngờ. Đã có lúc
nhân vật trữ tình trong thơ ông đứng trước biển để tự vấn về tình yêu không
trọn vẹn của mình:
Anh phải nói vòng vo anh yêu biển
Anh yêu trời để thú nhận yêu em
Anh cứ khen người tốt đôi tốt lứa
Để giấu đi bao nỗi xót xa thầm
(Tạm biệt Sầm Sơn – Thư mùa đông)
Và đôi lúc đứng trước biển mênh mông ông nhận ra sự chông chênh,
trống vắng của con người và đưa ra cách triết lí về tình yêu của riêng mình:
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Thơ viết ở biển – Thư mùa đông)
72
Không phải ngẫu nhiên mà Hữu Thỉnh dành hẳn một trường ca để nói
về biển. Khi chiến tranh lùi xa, tưởng như tất cả lại trở về với sự bình yên thì
người lính lại đứng trước một thử thách cũng không kém phần nguy hiểm,
khó khăn đó là đứng trước biển cả mênh mông. Những người lính đã đi qua
bao thác lũ, núi đèo và bây giờ họ đến với biển:
Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước
Những vết thương của tôi còn nhiều hơn cả tuổi đời
(Trường ca biển)
Lần đầu tiên đứng trước biển họ có biết bao tâm sự, băn khoăn trong
lòng. Họ luôn đặt cho mình câu hỏi: “Tôi phải làm gì?”. Mặc dù người lính
đã từng trải nghiệm qua biết bao gian nan, hiểm nguy trong chiến tranh cũng
như kinh nghiệm trong cuộc sống và cả kinh nghiệm người đi trước để lại:
Mẹ dặn tôi
Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
Tôi đã tin và chưa hề bị ngã
(Trường ca biển)
Nhưng giờ đây đứng trước biển, từng ấy kinh nghiệm với người lính vẫn
chưa đủ, bởi với biển thì khác: “không ngã chưa hẳn đã khỏi chìm”. Môi
trường biển chẳng dễ dàng gì với người lính đảo, chạm vào thực tế nghiệt ngã
của biển cả, người lính mới nhận ra những kinh nghiệm trước đây vẫn chưa đủ:
Bao vốn liếng cả một đời cóp nhặt
Bước xuống tàu trở thành kẻ tay không
(Trường ca biển)
Và người lính lại bắt đầu làm quen với cuộc sống mới và biển đảo sẽ
dạy cho họ những kinh nghiệm mới:
- Cấm đi câu đi tắm một mình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Xuống nước phải mang theo dao găm
73
- Cấm bơi xa miệng vực
Nhất thiết phải bơi đứng
Cá mập không quen săn mồi thẳng
(Trường ca biển)
Đọc cả bản trường ca, có lẽ ấn tượng nhất với độc giả vẫn là chương
“Đối thoại biển”. Bởi đây không chỉ là cuộc đối thoại giữa người lính và biển,
mà thông qua đoạn đối thoại này tác giả muốn gửi đến một triết lí sâu sắc và rất
thời sự về cuộc sống: Đất nước muốn phát triển không thể chỉ dựa vào kinh
nghiệm cũ, không chỉ sống mãi với ánh hào quang chiến thắng mà còn phải
dựa vào bản thân và thực tiễn cuộc sống mà vươn lên. Đoạn đối thoại:
Người lính nói:
- Có bí quyết gì sau lớp sóng kia chăng
Biển nói:
- Sống với nước hãy bắt đầu từ nước
Người lính nói:
- Tôi đã đi suốt hai đầu đất nước
Biển hiu hiu thán phục
- Những vết thương của tôi nhiều hơn cả tuổi đời
Biển hiu hiu thán phục
Và biển chỉ hỏi anh đơn giản điều này
- Anh có biết bơi không?
(Đối thoại biển – Trường ca biển)
Qua cuộc đối thoại này dường như Hữu Thỉnh muốn gửi gắm triết lí:
Phải thích ứng với thực tế, nhất là trong thời kì đổi mới, không chỉ ở người
lính mà ở tất cả mọi người, ở toàn dân tộc.
Có thể nói, hình tượng biển là một hình tượng thơ khá nổi bật trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sáng tác của Hữu Thỉnh. Qua hình tượng này cho ta thấy cách nhìn đầy lạc
74
quan, trong sáng của tác giả về vẻ đẹp của biển cả quê hương. Và quan trọng
hơn, dùng cách nói sáng tạo về biển nhà thơ thể hiện triết lí sâu sắc về dân
tộc, đất nước, những chiêm nghiệm về lẽ đời và cách ứng xử trước thực tế có
nhiều thay đổi..Nó tươi mát mà lại vững chãi, gần gũi mà sâu sắc, bình dị mà
cũng vô cùng lớn lao. Trường ca biển có thể coi “như một bản giao hưởng về
số phận và phẩm chất của con người Việt Nam, cảnh ngộ của dân tộc Việt
Nam trong trùng điệp những thử thách éo le và khắc nghiệt. Trong bản giao
hưởng đó, mỗi lời sóng là một khúc solo về số phận cá nhân xen giữa những
hòa tấu phức điệu cuồn cuộn về số phận cộng đồng” (Đỗ Minh Tuấn - Diễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đàn văn nghệ Việt Nam, số 199, 2011)
75
Chương 3
ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA
HỮU THỈNH
3.1. Ngôn ngữ
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn ngữ là chất liệu cơ bản, là yếu
tố đầu tiên của văn học. Dù bắt đầu từ đâu thì những người cầm bút đều phải
chú trọng đến nghệ thuật ngôn từ. Những nhà thơ xưa từng dụng công rất
nhiều với ngôn ngữ. Nguyễn Cư Trinh đã từng nói: “Một chữ mà nghĩ ba năm
mới được, giảng ngàn năm chưa xong”. Từ ngữ đưa vào thơ là từ ngữ đã
được nhào nặn qua cảm xúc của mỗi nhà thơ. Người ta ví quá trình đó giống
như “lọc quặng”, phải lọc hàng nghìn tấn quặng thơ để tìm được tinh chất, sự
mới mẻ của nhà thơ nằm chính trên con chữ. Trong quá trình sáng tạo mỗi
nhà thơ, nhà văn lại có cách “lao động chữ” khác nhau. Chính vì vậy mà tạo
nên phong cách độc đáo của mỗi người.
Mỗi nhà văn, nhà thơ đều có lối đi riêng của mình trong cách sử dụng
ngôn ngữ, nhà thơ Hữu Thỉnh cũng vậy. Ta có thể nhận thấy lớp từ ngữ mà
nhà thơ sử dụng là lớp từ từ ngữ thông dụng đời thường, lớp từ ngữ mượn từ
sáng tác dân gian, từ ngôi đền văn học dân gian. Vẫn trên cái nền chất liệu
ngôn ngữ cổ điển nhưng được thổi vào đó lối tư duy hiện đại, thông qua đó ta
thấy được sự kế thừa và sáng tạo trong thơ Hữu Thỉnh.
3.1.1. Ngôn ngữ thơ gần với ngôn ngữ đời sống
Ngôn ngữ đời sống là lớp từ ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày
của người bình dân. Đặc điểm nổi bật của lớp từ ngữ này là rất giàu hình ảnh,
gợi cảm, gợi tả. Việc đưa lớp từ ngữ thông dụng đời thường vào trong thơ
không hề làm giảm giá trị của bài thơ mà trái lại làm cho bài thơ có màu sắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
riêng, biểu hiện phong cách cá nhân một cách rõ nét.
76
Những tác phẩm thơ nói chung và các sáng tác trường ca nói riêng
được Hữu Thỉnh sử dụng rộng rãi vốn từ ngữ gần với ngôn ngữ đời sống:
Đất ông bà
Bước chân trâu lồng vào dấu chân voi
Đi mỗi bước đều kể bao sự tích
Cây vối đứng bờ ao, cặp thừng treo gác bếp
Bồ muối để dành vần cạnh bếp tro
Cái cối cái chày đếm nhịp nhỏ to
Bao truyền thuyết được kể ra từ đấy
(Sức bền của đất)
Nhờ có lớp từ sinh hoạt đời thường, bình dị, sinh động xuất hiện nhiều
trong trường ca đã góp phần xóa bỏ tính trang nhã, ước lệ, bộc lộ một cái nhìn
hiện thực hóa đối với cuộc chiến tranh gian khổ. Ta có thể tìm thấy khá nhiều
từ ngữ, cách nói mang tính khẩu ngữ của quần chúng trong thơ ông:
Rồi em lớn lên
Biết thử yếm đào
Anh cũng lớn lên
Biết đo quần lá tọa..
(Sức bền của đất)
Có thể nói, nhờ có ngôn ngữ sống động của đời sống thường nhật mà
mọi sắc thái của đời sống đã được tái hiện một cách chân thực bằng thơ. Có
khi nhờ sự góp mặt của yếu tố khẩu ngữ đã làm cho cách diễn đạt trở nên
chính xác hơn, và vì thế tạo sức biểu cảm cao hơn:
Ta đi từ đầu sông Lô đến cuối sông Thương
Từ thung lũng Sa Thầy ra sông Trường cát trắng
Đất vẫn đất của dân ca và mía mật
Gió thổi rừng lồ ô thương nhớ bao nhiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Sức bền của đất)
77
Lớp từ thuần Việt vốn không sang trọng, cầu kì mà giản dị, mộc mạc,
tự nhiên. Vốn từ thông dụng từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân được
Hữu Thỉnh cân nhắc, tìm tòi kĩ lưỡng và sử dụng một cách tự nhiên, thú vị:
“gió như chạy chân trần trên đất”, “Ông bà đi xa ruộng nương để lại / Làm
sẵn ca dao dạy cách ở ăn” (Sức bền của đất); “Lá thư chữ đứng chữ ngồi”,
“Sáng úp mặt ngoài đồng / Chiều còng lưng cuốc đất” (Đường tới thành
phố); “Mây đen một mảnh nhỡ nhàng về quê”, “Chiếc nón mê thui thủi giữa
đồng”, “Cha nhễ nhại trước cỏ lau cỏ lác” (Trường ca biển) ....
Trong thơ Hữu Thỉnh, đặc biệt là trường ca, ngôn ngữ tự sự chiếm một
số lượng tương đối lớn. Việc kết hợp yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình khiến cho
trường ca dung nạp số lượng khá lớn ngôn ngữ của đời sống giàu tính khẩu
ngữ, cho phép nhà thơ phản ánh sát đúng thần thái của hiện thực được miêu
tả. Dường như tác giả không hề tô điểm cho lời thơ, để cho bản thân sự việc,
sự vật hiện lên với đúng dáng vẻ, màu sắc của nó. Đây là tâm trạng một người
lính sau trận chiến với kẻ thù:
Chẳng nhớ anh chồm tới ra sao
Chỉ nhớ cái lặng im khi không còn chúng nó
Cái lặng im hoàn toàn
Anh nằm nghe anh thở
(Đường tới thành phố)
Chất văn xuôi mộc mạc toát lên từ những đoạn thơ giới thiệu về hình
ảnh những người lính làm cho lời kể càng thêm chân thực, giản dị phác họa
đúng chân dung nhân vật:
Xạ thủ Trung liên
Lưỡng quyền cao đen một nốt ruồi
Đang chở che, đang âu yếm mọi người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Tiếp thêm củi bằng bàn tay thô giáp
78
Những ngón bằng như cây bài tam cúc
Từng bàng hoàng trên mái tóc người yêu
(Đường tới thành phố)
Có thể khẳng định, yếu tố khẩu ngữ, yếu tố văn xuôi, được đưa vào lời kể
một cách ào ạt, cuộc sống chiến trường với biết bao sự kiện ngổn ngang, bề bộn
được hiện lên hết thảy trong ngôn ngữ giàu chất văn xuôi của người kể chuyện:
Chính mơ ước cho chúng tôi bóng mát
Qua bãi bom cây cối cộc cằn
Nhìn ngọn lửa lại nhìn nhau
Bỗng lạ
Lòng cứ đầy những Bình Định, Nha Trang...
(Đường tới thành phố)
Nếu mảnh đất thơ ca hiện đại đưa ngôn ngữ thơ về với đời thường, làm
cho nó trở nên quen thuộc và gần gũi với mọi người thì Hữu Thỉnh đã thành
công trên mảnh đất ấy. Đưa lớp từ ngữ đời thường vào thơ, Hữu Thỉnh đã làm
cho những bản trường ca của mình thấm đẫm hơi thở cuộc sống. Những bản
trường ca của ông không xa lạ với bạn đọc mà gần gũi, dễ đi vào lòng người.
Chất thơ không phải ở đâu xa, nó được ông chắt lọc từ chính lời ăn tiếng nói
hàng ngày.
3.1.2. Ngôn ngữ thơ mang màu sắc dân gian
Trong cuốn Thơ Việt Nam hiện đại (nhiều tác giả), PGS.TS Lưu Khánh
Thơ đã cho rằng: Một trong những đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của
Hữu Thỉnh nói chung và trường ca nói riêng là mang đậm màu sắc dân gian.
“Trong làng thơ, anh nổi tiếng là người mê và thuộc nhiều ca dao tục ngữ...
Hữu Thỉnh có thể nói chuyện say sưa suốt ngày về ca dao. Anh phân tích thấu
đáo, cặn kẽ, hiểu biết từng cái hay, cái đẹp của những câu ca dao như một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người chuyên nghiên cứu văn học dân gian. Vốn kiến thức phong phú này đã
79
làm Hữu Thỉnh thêm giàu có, tạo thuận lợi cho những tìm tòi sáng tạo của
thơ anh. Hữu Thỉnh tiếp thu truyền thống dân tộc không những chỉ là ở cách
nói, cách ví von, so sánh mà còn ở cách tư duy, cách liên tưởng độc đáo, ở
một âm hưởng xa xôi khó nhận biết” [35, 411]. Một trong những lí do làm
nên sự thành công ấy thiết nghĩ đó là sự ảnh hưởng của văn học dân gian đối
với những tác phẩm của ông. Chất liệu dân gian được Hữu Thỉnh vận dụng
khá nhuần nhuyễn và đạt giá trị nghệ thuật cao.
Quê hương và con người miền đất Trung du Bắc Bộ dường như đã ăn
sâu vào tâm khảm nhà thơ, nuôi dưỡng hồn thơ ông. Chính từ cái nôi văn hóa
đó mà những thi liệu dân gian Bắc Bộ trở nên gần gũi, quen thuộc khi đi vào
trang thơ Hữu Thỉnh. Nhà thơ từng tâm sự: “Tôi đến ngôi đền của thơ ca
bằng hơi thở của dân gian, tôi đưa bao câu ca dao, dân ca vào thơ, có câu
ảnh hưởng gần, có câu ảnh hưởng xa” [18, 429]. Đọc thơ ông ta nhận thấy,
không chỉ trường ca mà nhiều bài thơ của Hữu Thỉnh ngôn từ của nó bắt
nguồn từ văn học dân gian như ca dao, dân ca, tục ngữ, lời ăn tiếng nói của
nhân dân, từ trong chất liệu dân gian...Việc tiếp nhận ảnh hưởng này một mặt
thể hiện vốn văn hóa dân gian của tác giả, mặt khác cũng phản ánh “bầu khí
quyển” nuôi dưỡng hồn thơ của tác giả để từ đó chuyển hóa thành nguồn cảm
hứng trong quá trình sáng tác, đặc biệt là ý thức lao động và mài dũa tài năng
của nhà thơ. Không phải ngẫu nhiên mà Lý Hoài Thu lại cho rằng: “Dù viết về
chiến tranh hay tình yêu, tâm trạng con người hay non sông mây gió, thơ Hữu
Thỉnh thấm đẫm sắc vị dân gian” [69, 51].
Qua khảo sát ba bản trường ca: Sức bền của đất, Trường ca biển,
Đường tới thành phố chúng tôi nhận thấy nhiều bài thơ của ông bắt nguồn từ
cảm hứng dân ca:
Trông ra bờ ruộng năm nào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mưa bay trắng cỏ, cào cào cánh sen
80
Mẹ tôi nón lá bước lên
Mạ non đầu hạ trăng liềm cuối thu
(Trông ra bờ ruộng)
Hay:
Con chim xanh mê trái lựu trước vườn
Mùa hạ trôi qua từ ngày chim trốn tiếng
(Trở lại mùa xuân – Tiếng hát trong vườn)
Trong trường ca của ông có nhiều đoạn được lấy từ cảm hứng dân ca:
Bởi nơi ta về có mười tám thôn vườn trầu
Mỗi vườn trầu có bao nhiêu mùa hạ
(Đường tới thành phố )
Hay:
Hai chữ thủy chung đính ở góc khăn
...Chim bay về núi tối rồi
...Nàng về nuôi cái cùng con
(Sức bền của đất)
Nhiều bài thơ tác giả rất thành công khi vận dụng nhuần nhuyễn và
biến đổi hợp lí, linh hoạt những câu tục ngữ dân gian:
Vào lính xe tăng anh trước anh sau
Nết ở ăn người thì lạnh nóng
Khi đã hát hòa cùng một giọng
Một người đau tất cả quên ăn
(Trên một chiếc xe tăng)
Hay:
“Làng xóm nặng tình lạt mềm buộc chặt”;
“Ăn trông nồi, là nhường nhịn anh em,
ngồi trông hướng, là biết thù bóng tối”;
“Cha khuyên: có chí thì nên”..
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Sức bền của đất)
81
“Nụ cười bán tín bán nghi”...
(Đường tới thành phố).
Cũng có những câu thơ Hữu Thỉnh lấy lại nguyên bản của câu ca dao,
để tạo nên cung bậc cảm xúc:
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy
Cúc sẽ về, xóm Mũi sẽ về ta
(Đường tới thành phố)
Hay:
Bao giờ lúa trổ đòng đòng
Lúa đang trổ
Anh về đấy chị
(Đường tới thành phố )
Cũng có khi đó là sự tương phản:
Gió đâu gió mát sau lưng
Không, em không phải sau lưng. Em đang ngồi trước mặt
(Đường tới thành phố)
Đặc biệt Hữu Thỉnh còn độc đáo ở chỗ là mượn ca dao để nói lên phép
đối nhân xử thế, triết lí nhân sinh của con người Việt Nam:
Mẹ em tham khúc cá thu
Gả con về biển mịt mù tăm tăm
(Sức bền của đất)
Hay:
Ra sông lấy sóng mà yêu
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
(Trường ca Biển )
Câu thơ như một lời nhủ thầm mà vô cùng thấm thía: ra sông phải yêu
sóng, đi đường xa gặp núi thì lấy đèo mà tin. Thì ra để đi đến chiến thắng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trước hết mỗi người lính phải làm chủ được hoàn cảnh và làm chủ được chính
82
mình. Đó chính là “chìa khóa” giúp người lính tìm được con đường sống, tự
do và hạnh phúc.
Ta còn bắt gặp cả những bài đồng dao xuất hiện trong trường ca của ông:
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo tiền như suối
Bỏ mắm bỏ muối
Bỏ chuối hạt tiêu
Bỏ niêu cứt gà
Bỏ cho bà nào
Bỏ cho bà này
(Sức bền của đất)
Hẳn ai trong mỗi chúng ta lại không thuộc bài đồng dao thời thơ ấu.
Bài đồng dao gợi cho chúng ta nhớ về những kí ức xa xưa. Những kỉ niệm lại
ùa về trong kí ức nhà thơ. Nó làm cho trường ca gần với cuộc sống hơn, thật
hơn. Dẫu biết rằng đó chỉ là khoảng lặng trong tâm tưởng của những người
lính khi nhớ về quê hương làng xóm. Song chính điều đó lại giúp chúng ta
hiểu thêm, nhờ nó mà chúng ta có quê hương, gốc gác...
Không chỉ vậy, giọng điệu thơ Hữu Thỉnh cũng chịu nhiều ảnh hưởng
của thơ dân gian. Nhiều câu thơ của ông còn nguyên âm hưởng lời ru:
Bên bồi bên lở về đâu
Bên trong bên đục dài lâu tình đời
(Đường tới thành phố )
Hay:
À ơi tình cũ nghẹn lời
Tham vàng bỏ ngãi kiếp người mong manh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Trường ca Biển )
83
Và những câu thơ thấm đượm hồn sắc dân gian:
Người xanh người đỏ
Gánh gió leo dây
Bắc thang hỏi trời
Đèn khêu trước bão
(Thư mùa đông – Một ngày)
Ở một số bài thơ tình, Hữu thỉnh có một cách nói riêng, mang hơi
hướng của những câu ca dao trữ tình, đằm thắm:
Anh nhớ em như cơn mưa tích nước
Cứ chực òa chỉ một cớ không đâu
(Có một điều như thế)
Ngoài ra, thơ Hữu Thỉnh, các yếu tố mượn từ sáng tác dân gian xuất
hiện dày đặc như các từ: “Mái gianh”, “bến sông”, “hạt thóc”, “cây cau”,
“hoa gạo”....Đặc biệt trong trường ca Sức bền của đất, nhà thơ miêu tả cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc bằng những chất liệu dân dã, gần gũi với người
dân nơi xóm mạc. Vốn là người lính xuất thân từ nông dân, hơn ai hết ông
cảm nhận rõ cuộc sống của chính mình, của những người thân nơi quê hương.
Trước những vấn đề lớn của đất nước, Hữu Thỉnh đã lí giải bằng cách nói
riêng, giản dị mà sâu lắng:
Chiến dịch mở ra khi thời vụ bắt đầu
Mang cái rét riêng hai đi bám giặc
Mang chất thép định hình trên bàn cát
Qua những cánh đồng đang sủi tăm phù sa
Ta chao chân trên những mảng bờ
Lặng lẽ nhận sức bền của đất
(Sức bền của đất)
Song, điều đáng nói là, Hữu Thỉnh đã sử dụng những thi liệu dân gian
quen thuộc để chuyển tải tư duy thơ hiện đại mới mẻ của mình. Hình ảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“chuyến đò đầy” trong ca dao :
84
“Mình về anh dặn câu này
Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua”
Đã được Hữu Thỉnh vận dụng sáng tạo và tài tình để tạo dựng một
“chuyến đò” số phận của một người phụ nữ nhan sắc từng đằng đẵng suốt hai
mươi năm “chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”, khắc khoải chờ chồng:
Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc
(Đường tới thành phố)
Con “đò đầy” trong ca dao khi đi vào trong thơ ông đã trở thành một
biểu tượng đầy ám ảnh về sự mất mát hy sinh thầm lặng mà vô cùng lớn lao
của người phụ nữ trong chiến tranh. Đây cũng là cách tạo tứ thơ, ý thơ, biểu
tượng thơ – tiêu biểu cho sự vận dụng, chuyển hóa tài hoa và tinh tế văn học
dân gian, được vận dụng phổ biến trên nhiều cấp độ trong cả hành trình sáng
tạo và tạo nên vẻ hấp dẫn, độc đáo trong phong cách thơ Hữu Thỉnh.
Qua việc tìm hiểu chất liệu dân gian trong trường ca của Hữu Thỉnh ta
thấy được Hữu Thỉnh đã xây dựng một “lâu đài” văn học dân gian trong
những bản trường ca của mình. Chính ông đã làm cho kho tàng văn học dân
gian thêm phong phú; ông đã tô điểm cho “ngôi đền” văn học dân gian thêm
lung linh, khởi sắc. Đó là những ảnh hưởng không thể không nói đến. Bởi nó
đã thấm sâu, ăn nhập vào những bản trường ca và những tác phẩm thơ ca của
ông như một lẽ tự nhiên. Chẳng vậy GS. Phong Lê đã khẳng định: “Nét đặc
trưng này cũng là một điểm mạnh và là yếu tố cơ bản hình thành cá tính thơ
Hữu Thỉnh, làm nên nét đặc sắc trong thơ anh” [34, 410].
3.1.3. Ngôn ngữ thơ sáng tạo mới mẻ
Đối với mỗi nhà thơ chân chính, sáng tạo ngôn ngữ thơ ca là một công
việc đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng nghỉ. Đối với Hữu Thỉnh cũng vậy,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong suốt chặng đường thơ của mình, ông đã có những đóng góp ý nghĩa cho
85
việc sáng tạo và hoàn thiện ngôn ngữ thơ ca Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đi
sâu khai thác cái hay, cái đẹp của văn học dân gian, Hữu Thỉnh còn không
ngừng mài dũa ngôn từ để có thể phản ánh một cách sâu sắc về mọi vấn đề
đời sống xã hội và tâm hồn con người, nhất là việc tác giả dụng công sáng tạo
cái mới làm “lạ hóa” ngôn ngữ thơ. Những từ, những câu thơ in đậm dấu ấn
cá nhân nhà thơ.
Thế mạnh của Hữu Thỉnh là ở cảm giác, thông qua cảm giác, nhờ cảm
giác, nhà thơ có thể cụ thể hóa một cách tài tình những sắc thái xúc cảm mơ
hồ nhất. Sự kết hợp giữa cái vô hình và cái hữu hình, cái cụ thể và cái trừu
tượng không còn là thao tác xa lạ đối với thơ hiện đại. Điều quan trọng là phải
tạo ra cái mới, cái dấu ấn sáng tạo riêng trên cơ sở nguyên tắc chung ấy. Hữu
Thỉnh tỏ ra thuần thạo và có nhiều thành công trên phương diện này. Ông có
nhiều hình ảnh thơ lạ và bất ngờ: “Chị làm anh sững sờ khói bếp”, “Chúng
tôi bơi trong thương nhớ của riêng mình”, “Đất nước theo em ra ngõ một
mình”, ”Cô đơn đầy đường không ai thèm nhặt”...Một tần số cực lớn những
câu thơ có sự kết hợp giữa cái hữu thể và cái vô hình, đa phần đó lại là những
câu thơ hay: “Vịn vào tiếng hát”, “cười rung bè rau muống”, “Xiêu vẹo đỡ
một hoàng hôn rách rưới”, “Nụ cười ẩn giữa binh đao”, “Bắt gặp tình
thương đi đưa đám hận thù”, “Buồn như lá sen rách”, “Cầm thời gian lên
soi”, “Cả đất trời say sóng ở Trường sa”...đã khẳng định đây là một “đặc
điểm thi pháp” nổi trội, một ưu thế của thơ Hữu Thỉnh.
Việc sử dụng những định ngữ nghệ thuật làm cho sự vật mô tả trở nên
cụ thể hóa, vật chất hóa gần sát lại với người đọc, kích thích mạnh vào giác
quan, trí tưởng tượng đối với người đọc như: “Chỉ thấy vầng trăng cuối tháng
mới quăng lên” (Chuyến đò đêm giáp ranh – Tiếng hát trong rừng); “Mẹ dắt
tôi qua những miệng vực sâu của mọi sự rủi ro” (Trường ca biển); “Tháng
hai buồn tiếng thạch sùng kêu” (Trường ca biển); “Bàn chân lính đánh vần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trên đất đai tổ quốc” (Trường ca biển)...
86
Từ ngữ trong thơ Hữu Thỉnh luôn mang một dáng dấp hiện đại trong
cách kết hợp và lựa chọn, giàu giá trị tạo hình, gợi cảm. Trong một câu thơ,
đoạn thơ ta thường xuyên bắt gặp những “nhãn tự” như: “Nước ngấn lưng đê
sẫm lời mẹ dặn” (Sức bền của đất); “Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng
tiền”, “Trận rét rừng xoắn tím cả làn môi” (Đường tới thành phố)...
Qua cuộc khảo sát trên cho ta thấy tài năng của Hữu Thỉnh trong việc
sáng tạo và cách tân ngôn ngữ thơ. Đọc những bản trường ca cũng như những
tác phẩm thơ của Hữu Thỉnh chúng ta thấy ông đã nhuộm những câu thơ của
mình bằng tiếng nói của tâm hồn chân thành và một tài năng yêu thơ cháy
bỏng. Ông đã tạo cho mình một hình thức ngôn ngữ thật đặc biệt, vừa thông
dụng, gần gũi với đời sống mà vẫn không đánh mất chất thơ của chúng. Mượn
ngôn ngữ dân gian nhưng ngôn ngữ đó được vận dụng, được tái tạo qua một
tư duy thơ hiện đại. Đặc biệt cách nhà thơ sáng tạo ra những từ ngữ mới lạ,
độc đáo tạo được ấn tượng và sự hấp dẫn đối với người đọc. Có lẽ chính vì
điều này mà thơ ca của Hữu Thỉnh luôn được đông đảo bạn đọc đón nhận.
3.2. Thể thơ
3.2.1. Thơ tự do
Thơ tự do là một thể loại mà trong đó hình thức cơ bản của bài thơ
không hề bị ràng buộc bởi những qui tắc nhất định về câu chữ, niêm,
đối...Chính nhờ sự thoải mái này mà thơ tự do chiếm được ưu thế trong khi
diễn tả những cung bậc tình cảm, những nỗi lòng riêng chung vốn vô cùng
phức tạp, phong phú trong thế giới nội tâm của nhà thơ. Các nhà thơ tìm
thấy một chân trời rộng rãi cho sự sáng tạo hình thức mỗi bài thơ.“Nhưng
thơ tự do lại khác với thơ văn xuôi ở chỗ văn bản không có chỗ phân dòng
và xếp song song thành hàng, thành khổ như những đơn vị nhịp điệu, có thể
có vần. Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể thức nhất định. Nó
có thể hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm theo các thể khác nhau, hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoàn toàn khác nhau” [23, 217].
87
Cũng từ lẽ đó mà ngay từ phong trào thơ mới, thơ tự do đã xuất hiện và
ngay lập tức nó khẳng định được ưu thế của mình. Qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp rồi chống Mỹ, thơ tự do ngày càng khẳng định vị trí của mình
trong nền thơ ca hiện đại. Cũng bởi lẽ, để phù hợp với nhu cầu của thời đại,
đòi hỏi thơ đi sát cuộc đời hơn, phản ánh được những khía cạnh mới mẻ,
phong phú, đa dạng của cuộc sống muôn màu muôn vẻ này; qua đó chuyển tải
được thế giới tư tưởng, tình cảm phong phú của nhà thơ trong thời đại mới.
Đặc điểm của thơ tự do là sự co giãn linh hoạt của câu thơ, câu thơ có thể
mở rộng, kéo dài hàng chục chữ, nhiều dòng in, có thể xếp thành “bậc thang”, để
tô đậm nhịp điệu ở câu thơ, có thể xen kẽ câu dài ngắn. Một đặc điểm nữa là thơ
tự do thường phá khổ không theo bốn dòng hoặc 6 dòng đều đặn.
Ở trường ca, người đọc bắt gặp một thế giới hiện thực đời sống chiến
tranh muôn màu muôn vẻ, bề bộn, sôi động, ào ạt..dường như nó rất phù hợp
với thể thơ tự do; nó phù hợp với yêu cầu nội dung, dung nạp được nhiều liên
tưởng, suy nghĩ thích hợp với sự vận động của tư duy nghệ thuật, vần điệu cũ,
khuôn thước cũ không thể ôm chứa được một thế giới rộng lớn như vậy. “Đó
là cơ sở để thơ tự do phát triển và từ đó mở đến thơ không vần, thơ văn xuôi,
thơ dài và trường ca đáp ứng nhu cầu chuyển tải, ôm chứa được tối đa những
vấn đề của đời sống tâm trạng” [28, 53].
Hữu Thỉnh đã phát huy được ưu thế của thể thơ này và sự xuất hiện của
nó tương đối nhiều trong thơ ông nói chung và trường ca nói riêng. Thể thơ
này dường như cũng thích hợp hơn cả với giọng điệu của Hữu Thỉnh.
Có lẽ, khi chọn thể thơ này, Hữu Thỉnh muốn thể hiện một cảm xúc
phóng túng, tự do mà không bị lệ thuộc vào niêm luật, câu chữ. Câu thơ dồn
nén, co duỗi một cách nhịp nhàng, có khi từ ba âm tiết giãn ra thành mười âm
tiết rồi đột ngột còn hai âm tiết:
Anh xa em
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Trăng cũng lẻ
88
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn
Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím
Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến
Dù sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em
(Thơ viết ở biển – Thư mùa đông)
Với riêng trường ca, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy Hữu Thỉnh sử
dụng thể thơ tự do là thể chủ đạo. Ta bắt gặp rất nhiều câu thơ co duỗi như
đoạn thơ:
Cha mẹ đi tìm miếng ăn
Treo con trên cây kiến bâu đầy mặt
Tìm thấy miếng ăn
Quay về
Con đã chết
Miếng ăn rơi như máu rụng trong rừng
(Sức bền của đất)
Chính thơ tự do đã giúp cho câu thơ luôn biến hóa, tránh được cảm giác
nặng nề, đơn điệu. Ở thể thơ này Hữu Thỉnh tỏ ra phóng khoáng trong cách
diễn đạt. Dường như thơ tự do đòi hỏi nhà thơ phải nói bằng giọng thật, gần
với nội dung hiện thực. Có những câu thơ tác giả không câu nệ vào vần luật,
phép tắc song người đọc vẫn cảm nhận được chất thơ ở trong đó:
Cõng gạo lấy măng ngủ hầm lau súng
Lau súng ngủ hầm cõng gạo lấy măng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cao nguyên mênh mông
89
Đồng cỏ mênh mông
Và gió nữa
Trời ơi ta khát gió
(Sức bền của đất)
Câu thơ bật lên một nỗi thèm khát hạnh phúc mà không gì diễn tả nổi.
Những khó khăn của người lính và cả những khát vọng vẫn ngày ngày đi
cùng họ trong những cuộc chiến và cả những lúc nghỉ ngơi.
Hình thức bên ngoài của thơ tự do quả là không có giới hạn, nhưng dồn
nén trong nó những bất ngờ và ẩn chứa nhiều tầng nghĩa xúc động. Đó là hình
ảnh người lính bị “mịt mù bão cát”, bị “bão bứt anh khỏi đảo”, đọc những
đoạn thơ ấy trong ta dấy lên một sự sợ hãi, trống vắng đến rợn người:
Anh chẳng nghe thấy gì ngoài toàn thân lạnh toát
Bão bịt hết lối về
Cửa nhà xác mênh mông
Mẹ ơi!
Mẹ không biết con đang một mình giữa biển
Biển có tất cả để xóa con bất cứ lúc nào
Còn con thì tay trắng
(Trường ca biển)
Cùng với Nguyễn Khoa Điềm, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật...Hữu
Thỉnh đã mang đến cho thơ tự do một hơi thở mới. Không triết lí, hùng biện
như Chế Lan Viên, không tếu táo như Phạm Tiến Duật, giọng điệu thơ tự do
Hữu Thỉnh là sự chất chứa của xúc cảm bằng sự chiêm nghiệm sâu xa, sắc
sảo, tinh tế mà vẫn bình dị.
Chiếm phần lớn trong số những sáng tác của Hữu Thỉnh nói chung và
trường ca nói riêng, thơ tự do đã làm nên một diện mạo phong cách thơ ông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nó đã thể hiện được nội dung phong phú của cuộc sống, chứa đựng được hiện
90
thực ngồn ngộn của cuộc kháng chiến chống Mỹ lúc bấy giờ. Tuy tận dụng
triệt để thế mạnh của thơ tự do song thơ Hữu Thỉnh vẫn giữ được nhịp thơ
đều đặn, nhẹ nhàng, êm đềm, ngọt ngào mà ít thấy sự phá cách dữ dội thường
gặp ở một số nhà thơ khác như Chế Lan Viên hay Nguyễn Khoa Điềm.
Trước hiện thực cuộc sống rộng lớn, Hữu Thỉnh luôn có ý thức tạo ra sự
thay đổi các thể thơ sao cho biểu đạt được nhiều phương diện nội dung, sắc thái
thẩm mĩ và tránh được sự đơn điệu, tẻ nhạt. Chính vì lẽ đó mà ông luân phiên
sử dụng nhiều thể thơ: Thơ 4 chữ, thơ ngũ ngôn, thơ 7 chữ, thơ lục bát, thơ văn
xuôi, thơ tự do. Song nhìn chung nét nổi bật trong các thể thơ Hữu Thỉnh là
“có sự kết hợp phẩm chất dân tộc và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lí và độ
xúc cảm tràn trào, giữa sự hiền hòa lắng đọng và mãnh liệt sục sôi, giữa khả
năng viết những tác phẩm trường ca dài và thơ trữ tình ngắn” [69, 45].
3.2.2. Thơ văn xuôi
“Thơ văn xuôi là loại thơ trữ tình có cấu trúc câu giống văn xuôi, câu
nọ tiếp câu kia không xuống dòng, gần như không vần, nhịp điệu không mang
đầy đủ tính chất cố định, mạch câu chảy tràn không chịu ràng buộc theo niêm
luật nào, là sự dãn ra của các hình thức thơ tự do, rất dạt dào tình ý và cảm
xúc” [46, 147]. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy thơ văn xuôi là một thể
loại được Hữu Thỉnh chỉ sử dụng trong các trường ca. Trong một câu thơ văn
xuôi, các nhân vật, sự kiện của quá khứ, hiện tại, tương lai có khi cùng ào về
một lúc và người đọc chấp nhận câu thơ văn xuôi trong mạch chảy chung của
trường ca. Hữu Thỉnh thường tìm đến với thể thơ văn xuôi để thể hiện những
vấn đề lớn lao hay diễn tả cảm xúc dồn nén tràn đầy đến mức không thể dừng
lại. Những nội dung hiện thực phong phú hoặc tâm trạng nhân vật bộn bề,
chất chứa, xô đẩy khiến câu thơ phải bung ra hết cỡ và trở thành những câu
thơ văn xuôi. Đúng như Lê Lưu Oanh đã khẳng định: “Có nhà thơ đến với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thơ văn xuôi như sự tuôn trào dòng cảm xúc mạnh, một cảm xúc mà bất cứ sự
91
ngắt quãng đều đều, cân đối của niêm luật sẽ phá hủy sự ào ạt, mạnh mẽ của
nó” [46, 150].
Trong trường ca Đường tới thành phố, tác giả đã sử dụng thể thơ văn
xuôi trong trường đoạn mang tên Văn xuôi một người lính. Đây là trường
đoạn tác giả để cho nhân vật trữ tình trực tiếp xưng “chúng tôi” để tự nói về
mình. Những dòng tâm sự dường như đã chất chứa trong lòng người lính từ
lâu, đến lúc này mới có cơ hội để bộc lộ vì vậy nó cứ tự nhiên tuôn chảy theo
từng dòng thơ. Từ những bộn bề trong cuộc đời người lính: “Chúng tôi đầy
rừng, tắm giặt, hái rau, đào hầm, mơ mộng, sống đời thường suốt cuộc chiến
tranh, yêu đời lính yêu luôn gian khổ”, hay những trăn trở của người lính cầm
bút trong chiến tranh: “Dù hăm hở đến đâu bước chân anh cũng không sao
đến được các trung đoàn. Trung đoàn hành quân, trung đoàn tăng gia, trung
đoàn vây lấn, trung đoàn luồn sâu vu hồi đánh úp, xé kẻ thù trong thế cài
răng lược khắp Tây Nguyên...”, đến cả quan niệm cầm bút của họ “Nhưng
đừng viết về chúng tôi như cốc chén đứng trên bàn; xin hãy viết như dòng
sông chảy xiết...” dường như tự nội dung đó đã tìm đến với hình thức thể
hiện. Và cũng chỉ có thể thơ văn xuôi mới có thể ôm chứa hết những suy tư,
trăn trở của nhân vật trữ tình người lính trong trường đoạn này.
Để miêu tả cuộc gặp gỡ, trò chuyện giữa nhân vật Biển với người lính
trong Trường ca biển Hữu Thỉnh đã sử dụng thể thơ văn xuôi. Đó là cuộc gặp
gỡ “lạ lẫm” giữa những người lính và biển cả: “Cuộc gặp gỡ của triệu năm
với đứa con trận mạc. Không chỉ người lính lạ lẫm, chính biển lạ lẫm đầu
tiên. Biển thốt lên “Người thắng trận sao mà hốc hác quá”. Những người lính
cầm le te cành sú hoe vàng, cầm luôn cả một niềm che chở mới”. Hay những
tâm sự làm đắng lòng người đọc “Tạm biệt em, nỗi éo le của anh, dang dở
của anh, cay đắng của anh; tạm biệt cơn khát tình vằng vặc”...Cuộc đối thoại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
giữa Biển với người lính thực chất là một cuộc đối thoại nội tâm; nhờ những
92
dòng thơ văn xuôi mà tâm tư của một người lính hiện lên một cách chân thực
và sâu sắc.
Như vậy thơ văn xuôi chính là một phương tiện hữu hiệu để nhà thơ
khái quát hiện thực và diễn tả có khi là những cảm xúc ào ạt, mãnh liệt, có khi
lại là những tâm sự ẩn sâu trong tâm tư nhân vật trữ tình.
Thể thơ tự do và thể thơ văn xuôi là hai thể thơ được nhà thơ Hữu Thỉnh
sử dụng nhiều nhất. Đặc điểm riêng của hai thể thơ này dường như càng góp
phần mạnh mẽ vào việc thể hiện những cung bậc tình cảm phong phú của nhà
thơ. Nó tạo nên nét đặc sắc và sức hấp dẫn cho trường ca Hữu Thỉnh.
3.3. Giọng điệu
Trong tác phẩm văn học, giọng điệu không phải thể hiện ở riêng một
yếu tố nào, mà nó thể hiện ở toàn bộ chỉnh thể. Từ cảm hứng, tư tưởng, tình
cảm, chủ đề....đều được chuyển tải bằng một giọng điệu nào đó. Trần Đình Sử
có viết: “giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách
nhà văn, là phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, mà còn
là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào
một chỉnh thể” [55, 248]. Vì thế, với thi pháp học, giọng điệu chính là hình
thức mang tính nội dung, là yếu tố nội tại của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, nó
thẩm thấu trong tất cả các yếu tố của tác phẩm văn học. Qua nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy trường ca Hữu Thỉnh có ba giọng điệu chính sau:
3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, mang âm hưởng sử thi
Với các trường ca hiện đại, đề tài chủ yếu nói về hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ của nhân dân ta. Giọng điệu chính của nó là giọng
anh hùng ca, ngợi ca, mang âm hưởng sử thi. Dù càng về sau, tính anh hùng
ca ngày càng nhạt hóa, nhưng đó vẫn là giọng điệu xuyên suốt các tác phẩm.
Những tác phẩm trường ca của Hữu Thỉnh cũng không phải là ngoại lệ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Không khí hào hùng hay tính chất anh hùng ca thấm đẫm trong trường ca của
93
ông. Cuộc chiến tranh sẽ bi thương nếu ta chỉ nhìn thấy chết chóc, đau khổ;
hơn thế, nếu không có chất anh hùng ca thì tự nó sẽ rơi vào nhàm chán. Bởi lẽ
trường ca là những tác phẩm truyền tải những vấn đề lớn lao của dân tộc, bởi
“nội dung của trường ca là các sự kiện có ý nghĩa toàn dân, toàn dân tộc, đó
là chiến tranh, là cách mạng, là sự đổi thay, thử thách tồn vong của đất
nước” [40, 216]. Lẽ đương nhiên Hữu Thỉnh đến với trường ca cũng không
nằm ngoài khao khát tổng kết, nhận diện lại lịch sử, bộc lộ trách nhiệm và
tình cảm của mình với dân tộc. Tất cả những điều lớn lao ấy tự bản thân nó đã
mang tính sử thi và nội dung anh hùng ca.
Có thể khẳng định các trường ca của Hữu Thỉnh đều có cảm xúc chủ
đạo là ngợi ca và mang âm hưởng sử thi. Đó là những khúc ca, ca ngợi dân
tộc anh hùng, trong đó có những con người anh hùng, quê hương, hậu phương
anh hùng. Đến với trường ca Sức bền của đất, người đọc lại được sống lại với
những trang sử vẻ vang của dân tộc, nó như một động lực thôi thúc người lính
hành quân ra trận:
Ngô Quyền nhìn người dân binh cuối cùng trước giáo gươm giặc tới
Người lệnh cho thủy triều đầu quân
Sai rừng gỗ lim trùng trùng làm cọc.
Trần Quốc Tuấn đại bản doanh trên nước
Kế đầu tiên là kế nhân hòa
Lệnh đầu tiên: người hiền không bỏ sót
Đại yến của Quang Trung chỉ cơm nắm muối vừng
Ăn trên mình ngựa...
(Sức bền của đất)
Đó là những trang sử anh hùng, là truyền thống được viết bằng máu của
chính cha ông ta. Nó như một niềm thôi thúc thế hệ sau không quên truyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thống đó.
94
Đó còn là giây phút hành quân âm thầm mà ngùn ngụt sức mạnh ở
bên trong:
Ta chao chân trên những mảnh bờ
Lặng lẽ nhận sức bền của đất
Đạp cứ điểm lần theo từng dấu dép
Ta nhận ra màu bùn của những cánh đồng chiêm
(Sức bền của đất)
Nghĩa mẹ không chỉ là “chín tháng cưu mang”, mà còn là ở công lao
dưỡng dục, dạy con biết yêu, ghét, biết thù bọn ác. Mẹ vừa là Tổ quốc, quê
hương là nơi bình yên, là chỗ dựa tin cậy của mỗi đứa con trong lúc bình yên
cũng như khi đất nước mình có bóng giặc ngoại xâm:
Mẹ là người chúng con nhớ nhất
Đất nước ngày có giặc
Mẹ vẫn đỏ miếng trầu
Ấm một vùng tin cậy phía sau
(Sức bền của đất)
Đến với trường ca Đường tới thành phố ta sẽ được hòa mình vào chặng
đường hành quân hối hả trong không khí dầu sôi, lửa bỏng của chiến tranh:
Con đường tấy lên như một lời thề
Đất gọi ta
Làng gọi ta
Nóng bỏng
Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng
Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên
(Sức bền của đất)
Hay :
Đường ta đi gian khó chẳng mau quên
Cả cái vấp cũng găm thành nỗi nhớ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Đường tới thành phố)
95
Con đường hành quân vất vả nhưng “găm đầy nỗi nhớ”, con đường ấy
sẽ theo suốt cuộc đời mỗi người lính với bao buồn vui, tủi cực. Song tất cả sẽ
hóa thành thơ khi người lính luôn hướng về lí tưởng cách mạng, về ngày mai
tươi sáng.
Có khi đó là những gương mặt anh hùng, đó là hình ảnh người tư lệnh,
người chiến sĩ lái xe tăng, đôi vợ chồng hoạt động ở vùng địch hậu... đó là
anh bộc phá viên giỏi toán:
Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân đang chia cắt
Yêu Tổ quốc mình, Tổ quốc bị chia đôi
(Đường tới thành phố)
Hay đó là người mẹ tảo tần sớm hôm “ra khẩu lệnh” cho người lính:
Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng
Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió
...những cánh đồng in dấu chân của mẹ
Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi
(Đường tới thành phố)
Hay đó là đó là giây phút tự hào, với bao nỗi niềm sung sướng trong
ngày Sài Gòn toàn thắng:
Những mặt người như cờ đỏ mới may
Cả thành phố biến thành trẻ nhỏ
(Đường tới thành phố)
Hạnh phúc của chiến thắng hiện hình trên gương mặt mỗi con người.
Cả thành phố náo nức lạ thường, ai nấy đều vui như trẻ nhỏ được tặng quần
áo mới. Niềm vui chiến thắng khó nói hết được bằng lời. Không khí hào hùng
vào ngày 30 tháng 4 như một mốc son chói lọi của lịch sử dân tộc, trở thành
sự kiện không thể thiếu trong trường ca của Hữu Thỉnh cũng như của Thanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thảo, Thu Bồn...
96
Có thể khẳng định nhờ có giọng điệu ngợi ca, cùng không khí hào hùng
mang đậm chất sử thi đã tạo nên sức cuốn hút cho những bản trường ca của
Hữu Thỉnh. Đó chính là không khí thời đại với những nội dung lớn lao: tình
cảm thiêng liêng, trong sáng đối với đất nước trong những tháng ngày gian
lao, là suy tưởng của cả một thế hệ được sinh ra và thử thách trong chiến
tranh; đó là sự ngợi ca về những mất mát, sống còn của cuộc chiến tranh hào
hùng của dân tộc...Nhờ đó khi đọc trường ca của Hữu Thỉnh, người đọc như
được sống trong không khí thực nóng bỏng của những tháng ngày bom đạn
chiến trường, hay niềm vui sướng đến tột cùng vào ngày đất nước giải phóng.
3.3.2. Giọng điệu xót thương, cay đắng
Bên cạnh giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi, đọc ba bản trường
ca của Hữu Thỉnh người đọc còn bị ám ảnh bởi những mất mát, hy sinh của
dân tộc ta trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Dưới chân bức tượng đài chiến
thắng bao giờ cũng là máu và hoa. Hiện thực không thể bị lu mờ khi chiến
tranh đi qua, bởi đó là những gì thật nhất, nhân sinh nhất về cuộc chiến tranh.
Chính điều đó đã tạo cho trường ca của Hữu Thỉnh nói riêng và các nhà thơ
khác nói chung một giọng điệu chung đó là giọng điệu xót thương, cay đắng.
Đọc trường ca của Hữu Thỉnh, chúng tôi nhận thấy ở cả ba bản trường
ca đều có những khám phá về chiến tranh sâu sắc, thành thực và không né
tránh. Bởi né tránh lúc này sẽ trở thành dối trá. Hơn nữa, là người trực tiếp
tham gia cuộc chiến tranh, hơn ai hết Hữu Thỉnh có được những trải nghiệm
thật nhất về cuộc chiến tranh, hơn ai hết chính ông là người cảm nhận được
những mất mát, hy sinh do chiến tranh gây ra.
Nhà thơ nhìn lại cuộc chiến tranh trong niềm vui sướng hào hùng và cả
những mất mát khôn nguôi. Ông viết về những hy sinh rất cụ thể, từ đó tội ác
của quân thù hiện lên trần trụi, ghê sợ:
Nó ròng xuống xác một người lính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bị chặt đầu
97
Chân còn dép, chân không
Máu anh bỏng xuống núi ngàn
Đời anh treo một dấu than giữa trời
(Đường tới thành phố)
Không chỉ đề cập đến những mất mát hy sinh của dân tộc ta, các trường
ca của Hữu Thỉnh bắt đầu tập trung đến con người cá nhân. Chiến tranh đã
qua, cùng với vấn đề dân tộc, cộng đồng, con người cá nhân trở thành đối
tượng được các nhà thơ quan tâm nhiều hơn. Hạnh phúc cá nhân của con
người được đặt ra đầy sức ám ảnh; con người còn lại được gì sau chiến tranh?
Hình ảnh những người dân tội nghiệp, đói rách đi tìm miếng ăn thực sự làm
người đọc ám ảnh:
Người đi mò trai chết bởi thuồng luồng
Chết vì rắn mới nhận ra rắn độc
..Cha mẹ đi tìm miếng ăn
Treo con trên cây kiến bâu đầy mặt
Tìm thấy miếng ăn
Quay về
Con đã chết
Miếng ăn rơi như máu rụng trong rừng..
Tiếng hú bật ra vụt tắt ngang chừng
(Sức bền của đất)
Câu thơ dội vào lòng người đọc một sự đắng chát bởi cuộc đời khó
nhọc của người dân. Nhân dân đang chìm trong đêm đen nô lệ, đang oằn mình
bởi kế sinh nhai. Câu thơ không có một lời kể tội ác của quân xâm lược, song
tự nó đã phơi bày bộ mặt tham tiền, khát máu, vô nhân đạo của chúng.
Qua ba bản trường ca có thể thấy, Hữu Thỉnh đặc biệt quan tâm đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người phụ nữ. Những người mẹ, người vợ chờ đợi đến mòn mỏi không thấy
98
chồng, con quay trở về sau cuộc chiến tranh. Những trái tim bằng máu thịt ấy
đâu phải sắt đá mà không biết đau? Họ sẽ sống ra sao khi những trụ cột trong
gia đình lần lượt mất đi? Là phụ nữ nên họ cũng có những khát khao đầy nữ
tính: thiên chức làm mẹ, được che chở, yêu thương...Tất cả dường như quá xa
vời với họ trong cuộc chiến tranh. Thấm thía biết bao khi nghe lời tâm sự
trong lá thư của vợ người lính Tư lệnh viết cho chồng năm 1972:
Chúng em chẳng sợ địch lùng
Đêm về sợ tiếng ru con trên đài
(Đường tới thành phố)
Bom đạn, địch lùng các chị coi thường, nhưng khát khao được làm mẹ
luôn là nỗi giày vò lớn nhất. Các chị “sợ” tiếng ru con, “sợ” cái khát khao đời
thường làm mềm lòng mình trong chiến đấu. Ta thấy thảng thốt trước hiện
thực đầy sức ám ảnh đó. Đó là cái “sợ” mang đầy tính nhân văn, cái “sợ” rất
người. Thì ra, không ai khác, chính người phụ nữ, những người vợ, người mẹ
là người chịu thiệt thòi nhất sau chiến tranh:
Mẹ đang xếp lại cho anh những bộn bề giá sách
Nhưng nhớ thương thì biết xếp vào đâu
(Đường tới thành phố)
Như vậy, nhờ có vốn sống thực tế, cách tư duy sâu sắc và thành thật
trong cách nhìn mà Hữu Thỉnh đã tái hiện cuộc chiến tranh như bản chất của
nó. Điều đó đã lí giải vì sao, bên cạnh giọng ngợi ca, anh hùng ca thì trường
ca hiện đại nói chung và trường ca của Hữu Thỉnh nói riêng đều có giọng xót
thương, cay đắng. Đó chính là những mất mát, hy sinh, những góc khuất mà
không gì có thể bù đắp được. Nó như một vết thương lòng lẩn sâu vào tâm
khảm những con người đã đi qua cuộc chiến tranh. Đọc trường ca của Hữu
Thỉnh đã giúp cho thế hệ chúng tôi (sinh ra và lớn lên trong thời bình) thấm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thía hơn những gì cha ông ta đã trải qua. Nó thực sự là những thước phim tài
99
liệu quí giá giúp cho chúng tôi hiểu về cuộc chiến đấu của dân tộc ta một cách
đầy đủ, toàn diện hơn.
3.3.3. Giọng điệu trữ tình, triết lí
Giọng điệu trữ tình, triết lý trong trường ca hình thành xuất phát từ hai
lý do. Thứ nhất, xuất phát từ đặc trưng thể loại, trường ca là các tác phẩm trữ
tình giàu chất trí tuệ, có khả năng tổng hợp cao và phạm vi phản ánh hiện
thực cuộc sống rộng lớn ở cả bề rộng và chiều sâu. Thứ hai, xuất phát từ nhu
cầu nhận thức bản thân và thời đại của nhà thơ. Trong các trường ca, các tác
giả luôn nhằm thể hiện những suy tưởng sâu sắc về những vấn đề liên quan
đến số phận lịch sử cộng đồng và số phận cá nhân đặt trong tương quan rộng
lớn số phận của dân tộc ở những thời điểm phản ánh rõ nét nhất những biến
cố lịch sử mang đậm dấu ấn thời đại.
Trong văn học chống Mỹ, các trường ca đã bộc lộ rõ sự trăn trở, khao
khát đào sâu bản chất, ý nghĩa của những vấn đề lớn lao của dân tộc và nhân
loại. Mỗi trường ca, do đó, không chỉ thể hiện tầm vóc tư tưởng và tài năng
riêng của nhà thơ mà còn hàm chứa tư tưởng, nhận thức chung cả dân tộc...
Các nhà thơ không chỉ xác định vị trí của mình trong dòng lịch sử lớn đang
vận động, mà còn nói lên được những suy ngẫm, khát vọng của nhiều thế hệ.
Từ sau năm 1975, các trường ca "từ điểm nhìn hiện tại,... phóng chiếu cái
nhìn sâu xa về lịch sử đất nước - một lịch sử oai hùng nhưng cũng không ít
thương đau và bất hạnh. Ý thức nói nhiều về bi kịch khiến cho các tập thơ
không rơi vào tụng ca dễ dãi mà thể hiện chiều sâu ngẫm ngợi của các nhà thơ
về thế thái nhân tình trong sự chuyển động không ngừng của lịch sử.
Do ảnh hưởng nhiều ở chất liệu dân gian nên giọng điệu trong trường
ca của Hữu Thỉnh thường mềm mại chứ không gân guốc. Đó là giọng điệu trữ
tình, ngọt ngào, tự nhiên:
Con không dám nhìn mẹ lâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mái chèo khua sóng đánh
100
Nước ngấn lưng đê sẫm lời mẹ dặn
Mùi trầu cay ấm hoài trên vai
(Sức bền của đất)
Đôi lúc đó là những lời tâm sự của những người lính trẻ:
Sốt ruột làm sao
Học hành dở dang
Yêu đương vội vã
Phải phí bao thời gian vì bọn chó
(Sức bền của đất)
Câu thơ chứa đựng bao nuối tiếc tuổi học trò mơ mộng và xen lẫn sự
hờn căm ngùn ngụt quân xâm lược. Câu thơ tự nhiên như một lời kể, nó như
một lời giãi bày, tâm sự của bao người lính trong chiến trận.
Song điều đáng nói là ở ba bản trường ca, Hữu Thỉnh đã có những trải
nghiệm, triết lí, tư duy về lẽ sống, về cuộc đời. Câu thơ của Hữu Thỉnh không
chỉ là những lời trữ tình, mềm mại mà nó còn hàm chứa trong đó bao triết lí
về nhân sinh, lẽ đời.
Đó có thể là những triết lí hết sức bình dị:
Ra sông lấy sóng mà yêu’
Đường xa gặp núi lấy đèo mà tin
(Sức bền của đất)
Câu thơ như một lời nhủ thầm mà vô cùng thấm thía. Thì ra để đi đến
chiến thắng trước hết mỗi người lính phải làm chủ được hoàn cảnh và làm chủ
được chính mình. Đó chính là “chìa khóa” giúp người lính tìm được con
đường sống và tự do, hạnh phúc.
Có khi là những trải nghiệm đắng lòng trong cuộc sống, thành bài học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cho những kẻ đi sau:
101
Mây thật gần mà cũng quá xa xăm
Có bao điều đáng quên mà thật khó quên
Bão hắt ra từ những người đứng cạnh
Ta đã phải bao phen gọt mình và vót nhọn
Bao dốc dựng vượt qua chẳng thú vị gì
(Sức bền của đất)
Hay:
- Anh có biết bơi không:
Người lính nói:
- Không phải ai cũng biết bơi. Thế mà sao vẫn rất nhiều cái
huơ tay hãnh tiến
Biển nói:
- Họ đang bơi trên số phận của mình
(Trường ca biển)
Cuộc sống sau chiến tranh không bình lặng như ta tưởng, “gió, bão” và
cả những toan tính, bon chen vụ lợi vẫn đang ngự trị trong cuộc sống. Cuộc
sống không chỉ có riêng màu hồng, phải chăng Hữu Thỉnh đã giúp chúng ta
hiểu thấm thía hơn điều đó. Lý giải cuộc đời và số phận con người cũng như
bản chất thực của cuộc sống là điều cốt yếu đằm sâu trong dòng suy tư của
nhà thơ.
Đọc Trường ca biển ta thấy một cái tôi trữ tình với bao suy tư, trăn trở
về lẽ đời, về cuộc sống bao bộn bề, đa tạp này. Nó như một niềm hối thúc ta
hãy sống thật với lòng mình, xóa bỏ cái ác, cái xấu để cho cái đẹp, thiện nảy
lộc, đâm chồi. Phải chăng đó là điều nhà thơ day dứt nhất?
Như vậy, một trong những thành công của trường ca hiện đại nói chung
và trường ca Hữu Thỉnh nói riêng là giọng điệu trữ tình, triết lí. Thiết nghĩ đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng là điều dễ hiểu bởi họ - những người lính đã đi qua chiến tranh, trực tiếp
102
chứng kiến những được, mất của dân tộc sẽ có cái nhìn trọn vẹn hơn về cuộc
chiến tranh và cuộc sống. Những trải nghiệm ấy đã được đánh đổi bằng máu
và nước mắt. Ta hình dung ra một Hữu Thỉnh với bao suy tư, trăn trở, một tư
duy luôn đấu tranh, vật lộn giữa cái ác, cái xấu với cái chân, thiện, mĩ. Những
vấn đề suy tư, triết lý trong trường ca Hữu Thỉnh không gì khác là những vấn
đề nhân sinh muôn thuở của con người: sự sống, cái chết, niềm hạnh phúc và
sự đau khổ. Nhức nhối trong tâm thức anh là con đường tìm kiếm và khám phá
hạnh phúc thật của con người. Đó là sự khao khát và là mục đích sống của bao
thế hệ. Bản chất của cuộc sống là sự tồn tại biện chứng của những mặt đối lập,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sự sống và cái chết, niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau...
103
PHẦN KẾT LUẬN
1. Là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hữu
Thỉnh và các bạn bạn bè cùng trang lứa đã góp sức mình làm cho dàn đồng ca
của thơ chống Mỹ thêm khởi sắc và đa dạng. Với sự từng trải, tinh tế của một
người luôn khát khao sống hết mình, sống đẹp trước cuộc đời đa tạp này, Hữu
Thỉnh đã dần dần khẳng định được tài năng thơ của mình qua những giải
thưởng văn học cao quí. Cùng với các tập thơ, ba bản trường ca Sức bền của
đất, Đường tới thành phố, Trường ca biển đã khẳng định một cách chắc chắn
tài năng của Hữu Thỉnh. Cùng với Thu Bồn, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa
Điềm...Hữu Thỉnh đã kịp chạm khắc cho mình một gương mặt riêng, độc đáo
trong số những cây bút đạt được thành tựu ở thể loại trường ca. Với đề tài
Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh, chúng tôi hy vọng sẽ góp thêm một tiếng nói
về thể loại trường ca nói chung và phong cách thơ Hữu Thỉnh nói riêng.
2. Đến với trường ca Hữu Thỉnh, người đọc đặc biệt ấn tượng với thế
giới hình tượng độc đáo, mang đậm dấu ấn sáng tạo của nhà thơ. Đó là hình
tượng người lính khi đối diện với hiện thực khốc liệt của chiến tranh; đó là
tâm trạng đa chiều của người lính trong chiến trận, là khát vọng hoà bình và
hành trình đi tới chiến thắng. Đó là hình ảnh người mẹ tảo tần, giàu đức hy
sinh, là điểm tựa vững chắc nơi hậu phương cho người lính; hình ảnh những
người chị, người vợ đã làm thổn thức bao trái tim bạn đọc bởi sức chịu đựng
bền bỉ và cả những góc khuất của họ trong chiến tranh. Đó là hình tượng tổ
quốc, đất nước vừa dung dị, vừa hào hùng, trải qua bao đau thương, gian nan,
mất mát vẫn tươi thắm, nồng hậu. Đó là hình tượng biển gắn với bao suy tư,
chiêm nghiệm của nhà thơ về lẽ đời, lẽ người...Bằng thế giới hình tượng
phong phú, cùng với tài năng của một con người từng trải, tinh tế, Hữu Thỉnh
đã tạo cho mình một vị trí quan trọng trên thi đàn hiện đại. Là một trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những nhà thơ luôn có những suy tư, trăn trở về thơ, nghề thơ Hữu Thỉnh đã
104
có những tìm tòi, khám phá mới về hình thức nghệ thuật đạt giá trị nghệ thuật
cao. Tự nhận mình là người đi ra từ ngôi đền văn học dân gian, Hữu Thỉnh đã
sử dụng ngôn ngữ hết sức tự nhiên, dung dị mà rất đỗi tinh tế. Ngôn ngữ thơ
Hữu Thỉnh thấm đẫm hương vị dân gian, gần gũi với ngôn ngữ đời thường.
Lớp từ ngữ thông dụng của đời thường cùng với lớp từ ngữ được tiếp nhận
sáng tạo từ văn học dân gian truyền thống được Hữu Thỉnh sáng tạo qua tư
duy thơ hiện đại. Không chỉ vậy, để chuyển tải được những nguồn cảm hứng
đa dạng, phong phú và cái tôi đa diện của mình, Hữu Thỉnh đã sử dụng linh
hoạt nhiều thể thơ. Viết về đề tài chiến tranh với quan điểm nhìn thẳng, nói
thật nên bên cạnh giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi, trường ca của
Hữu Thỉnh còn thể hiện giọng điệu xót thương, cay đắng và giọng điệu triết
luận trữ tình sâu sắc.
3. Với thể loại trường ca Hữu Thỉnh đã góp tiếng nói riêng, độc đáo của
mình vào dàn hợp xướng của những bản trường ca trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ. Là người từng trải, cùng vốn sống phong phú và quan điểm viết
không chối từ sự thật, nhìn thẳng vào sự được, mất sau cuộc chiến tranh, Hữu
Thỉnh đã thành công với ba bản trường ca của mình. Những bản trường ca của
ông không còn là những câu chữ khô khan nữa mà đã có đời sống riêng của
nó, chiếm được cảm tình và sự tin yêu của người đọc. Điều này lí giải vì sao
ông được nhận nhiều giải thưởng văn học nghệ thuật cao quí.
Không chỉ là chứng tích một thời, thơ Hữu Thỉnh là lời tự bạch chân
thành và đúc kết những trải nghiệm sâu sắc trước cuộc đời, xuyên suốt cả
chặng đường sáng tạo. Thơ Hữu Thỉnh nói chung và trường ca của ông nói
riêng sẽ sống mãi trong lòng độc giả bởi vẻ mộc mạc, chân chất và hơn hết là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một tâm hồn luôn trăn trở và cống hiến hết mình cho ngôi đền thơ của mình.
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aristot (2007), Nghệ thuật thi ca, Nxb Lao động, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1984), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, Tạp chí văn học, (4).
3. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1988), 150 thuật ngữ, Nxb ĐHQG.
5. Mai Bá Ấn (2009), Đặc trưng trường ca Thu Bồn – Nguyễn Khoa Điềm –
Thanh Thảo, Nxb Hội nhà văn.
6. Đào Thị Bình (1999), Trường ca của các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ,
Luận văn thạc sĩ, ĐHSPHN.
7. Đào Thị Bình (2008), Thể trường ca trong Văn học Việt Nam từ 1945 –
cuối TK XX, LATS, ĐHSPHN.
8. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Dân (1995), Những vấn đề về văn học so sánh, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
10. Phạm Tiến Duật (1981), “Nhân bàn về trường ca, đôi điều nghĩ về hình
thức”, Văn nghệ Quân đội, (4).
11. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình (Nhìn từ góc độ loại hình),
LATS Ngữ văn, Hà Nội.
12. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Văn học,
(3).
14. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học,
Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Hữu Thỉnh và quá trình đổi mới thơ ca”, Tạp
chí Văn học, (4).
16. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn Cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb Giáo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dục, Hà Nội.
106
17. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Hà Minh Đức (2001), Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
20. Hà Minh Đức, Bùi Văn Nguyên, (Đồng chủ biên 2006), Thơ ca Việt Nam
– hình thức và thể loại, Nxb ĐHQGHN .
21. Trần Mạnh Hảo (1996), “Thư mùa đông của Hữu Thỉnh”, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, (4).
22. Trần Mạnh Hảo (1995), Thơ phản thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2000), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN.
24. Hêghen (1999), Mỹ học (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội
25. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn
Nguyễn Du.
26. Đặng Hiển (2007), “Dài rộng với thời gian”, Báo Văn nghệ, (8).
27. Mai Hương (1980), Đọc “Đường tới thành phố”, Tạp chí Văn học, (3).
28. Mai Hương (2001), “Thơ Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng”,
Tạp chí Văn học, (6).
29. Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến
trường ca hiện đại của ta”, Tạp chí Văn học.
30. Lê Văn Khoa (1982), “Những ý kiến về anh hùng ca Đam San”, Tạp chí
Văn học.
31. Mã Giang Lân (1988), “Thử phân định ranh giới giữa trường ca và thơ
dài”, Tạp chí Văn học, (5,6).
32. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
33. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn học, (6).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
34. Phong Lê (1991), “Nhận dạng văn học Việt Nam sau 1945”, Tạp chí Văn học, (4).
107
35. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam
hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
36. Nguyễn Ngọc Linh (2011), Tư duy thơ hữu Thỉnh, Luận văn thạc sĩ,
ĐHSPTN.
37. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
38. Phương Lựu (Chủ biên, 2004), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội.
40. Phương Lựu (chủ biên, 1987), Lí luận văn học, Tập 2, Nxb Giáo dục.
41. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo thơ và trường ca”, Tạp chí Văn học, (2).
42. Thiếu Mai (1980), Hữu Thỉnh trên “Đường tới thành phố”, Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, (3).
43. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo, thơ và trường ca”, Tạp chí văn nghệ
Quân đội, (3).
44. Nhiều tác giả (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN.
45. Nhiều tác giả (2006), Chân dung các nhà văn hiện đại Việt Nam, Tập 2
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Lê Lưu Oanh (1999), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 – 1990, Nxb ĐHQGHN.
47. Vũ Đức Phúc (1982), “Chung quanh vấn đề trường ca”, Tạp chí văn học, (6).
48. Vũ Quần Phương (1982), “Thơ hô”, Văn nghệ Quân đội.
49. Chu Văn Sơn (2006), Ba đỉnh cao thơ mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Chu Văn Sơn (2007), Thơ điệu hồn và cấu trúc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
54. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
108
55. Trần Đỉnh Sử (2007), Thi pháp truyện Kiều – Tái bản lần thứ hai, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
56. Nguyễn Trọng Tạo (1980), “Trường ca – cảm hứng, bản lĩnh, sức vóc của
người viết”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (11).
57. Nguyễn Nguyên Tản (2005), Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
58. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam,
Nxb Văn học.
59. Lưu Khánh Thơ (2005), Hữu Thỉnh – một phong cách thơ sáng tạo, in
trong cuốn Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb khoa
học xã hội.
60. Thơ với tuổi thơ (2000), Nxb Kim Đồng.
61. Thơ Hữu Thỉnh (1998), Nxb Hội nhà văn.
62. Hữu Thỉnh - Trường ca Biển (2004), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
63. Hữu Thỉnh - Thương lượng với thời gian (2006), Nxb Hội nhà văn, H.
64. Hữu Thỉnh (1981), “Vài suy nghĩ”, Văn nghệ quân đội, (4).
65. Hữu Thỉnh (2010), Lý do của hy vọng - Tiểu luận phê bình văn học, Nxb
Hội nhà văn.
66. Hữu Thỉnh (1981), “Sự chuẩn bị của người viết trẻ”, Báo Văn nghệ , (50).
67. Hữu Thỉnh (2000), “Nhập cuộc và hành động, vẻ đẹp của thơ ca kháng
chiến”, Tạp chí Văn học, (2).
68. Trúc Thông (2001), Hữu Thỉnh – tiểu sử tác giả, nguồn:
http://www.matnauhoctro.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
69. Lý Hoài Thu (2005), Đồng cảm và sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội.