BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

PHẠM THỊ NHUNG

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2014

3

BỘ QUỐC PHÒNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

PHẠM THỊ NHUNG

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60 22 03 15

HÀ NỘI - 2014

4

Trang

MỤC LỤC

3

11

1.1.

11

1.2.

19

1.3.

24

35

2.1.

35

2.2.

42

MỞ ĐẦU Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1950) Yêu cầu khách quan xây dựng hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1950) Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1950) Chương 2 ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, TĂNG CƯỜNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN (1951 - 1954) Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954) Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954) Chương 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN (1945 - 1954) Nhận xét Kinh nghiệm

3.1. 3.2. KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 59 59 70 82 84 91

MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

5

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài, gian khổ và vô cùng

oanh liệt của dân tộc Việt Nam đã giành thắng lợi hoàn toàn bằng chiến dịch

lịch sử Điện Biên Phủ. Góp một phần không nhỏ vào thắng lợi ấy phải kể đến

vị trí, vai trò quyết định của hậu phương.

Nghiên cứu về tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh, các

nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra quy luật: hậu phương luôn là

nhân tố thường xuyên quyết định thành bại của chiến tranh. Lênin đã khẳng

định: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu phương

có tổ chức vững chắc, một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất

với sự nghiệp cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không

được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện một cách đầy đủ” [57, tr.479].

Vận dụng sáng tạo quy luật trên vào thực tiễn các cuộc chiến tranh giải

phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức coi trọng,

đặt lên hàng đầu vai trò của hậu phương, căn cứ địa cách mạng. Trong kháng

chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), đánh giá đúng vị thế chiến lược,

tiềm năng, thế mạnh của Thanh Hoá - vùng đất “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”

thuộc vùng tự do Liên khu IV, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã chọn Thanh Hoá làm hậu phương, căn cứ địa chi viện sức người, sức

của cho cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Nhận thức rõ vị trí, vai trò của tỉnh trước vận mệnh dân tộc, Đảng bộ

tỉnh Thanh Hoá đã phát huy thế mạnh của vùng đất và con người nơi đây như

thế nào? Cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng, Chỉ thị của Chủ tịch Hồ

Chí Minh qua các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh ra sao để xây dựng Thanh Hoá trở

hậu phương, căn cứ địa? Nghiên cứu quá trình trên có ý nghĩa hết sức quan

trọng, đánh giá một cách khách quan đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ

tỉnh xây dựng Thanh Hóa trở thành kiểu mẫu, góp phần vào thắng lợi của dân

tộc ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Một số nhận xét và kinh

nghiệm được đúc kết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc - cơ sở để tỉnh

6

Thanh Hoá phát huy truyền thống lịch sử văn hoá lên tầm cao mới, tiếp tục

xây dựng quê hương giàu mạnh.

Vì lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh

đạo xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyến trong kháng chiến chống

thực dân Pháp (1945 - 1954)” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử

Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đề tài đi sâu phân tích đường lối, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh

Hóa lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện cho

tiền tuyến; tri ân, tôn vinh những cống hiến, sự hy sinh của quân dân Thanh

Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Qua đó, rút ra một số nhận xét

và kinh nghiệm làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo, vận dụng vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong nhiều năm qua, đề tài hậu phương trong kháng chiến chống thực

dân Pháp đã được các lãnh tụ Đảng, Nhà nước, quân đội và nhiều nhà khoa

học quan tâm, đi sâu nghiên cứu. Tập hợp và nghiên cứu các công trình đó,

chúng tôi chia thành các nhóm sau đây:

Nhóm các công trình nghiên cứu lịch sử kháng chiến, hậu phương

chiến tranh nhân dân, tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

Chiến thắng Điện Biên Phủ - Sức mạnh dân tộc và tầm vóc thời đại

(1994), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Viện Lịch sử quân sự (1997), Hậu

phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội; Viện Lịch sử quân sự (1999), Mấy vấn đề chỉ đạo chiến lược

trong 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội; Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000),

Chiến tranh cách mạng Việt Nam (1945 - 1975) - Thắng lợi và bài học, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội; Chiến thắng Điện Biên Phủ - Cột mốc vàng lịch

7

sử (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Lịch sử quân sự (2005),

Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà

Nội; Ngô Đăng Tri (2009), Vai trò của hậu phương trong chiến dịch Điện

Biên Phủ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 55 chiến thắng Điện Biên Phủ, Học viện

Chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, đã khẳng định ý nghĩa

lịch sử, tầm vóc vĩ đại của chiến thắng Điện Biên Phủ, khẳng định sự lãnh đạo

đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ

đại và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong đó, vị trí, vai trò của hậu

phương được phát huy cao độ, góp phần không nhỏ làm nên thắng lợi vĩ đại

đó. Các công trình cũng đã đưa ra những vấn đề chung về xây dựng, bảo vệ

và phát huy sức mạnh hậu phương trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp và đế quốc Mỹ trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn

hoá - xã hội. Từ đó, rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm xây dựng hậu

phương trong chiến tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Qua những công trình nêu trên, hậu phương phần nào được đề cập ở

mức độ và phạm vi khác nhau về tổ chức, tiến hành xây dựng, bảo vệ, phát

huy, thể hiện nhân tố quyết định nhất của cuộc kháng chiến. Đây là nguồn tài

liệu tham khảo quan trọng, giúp tác giả nghiên cứu một số vấn đề lý luận và

thực tiễn xây dựng hậu phương trong kháng chiến.

Nhóm các công trình đề cập đến xây dựng hậu phương trong cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp ở Quân khu IV, Liên khu IV

Viện Lịch sử Đảng (2000), Một số vấn đề lịch sử kháng chiến chống

thực dân Pháp ở Liên khu IV (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

Ngô Đăng Tri (2001), Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến

chống Pháp (1946 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Lịch sử

Đảng (2003), Lịch sử kháng chiến chống Pháp của quân và dân Liên khu IV

8

(1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trình Mưu (2003), Lịch sử

kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Liên khu IV (1945 -

1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Bộ Quốc phòng - Quân khu IV

(2005), Tổng kết chiến thuật trong kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ

của Lực lượng vũ trang Quân khu IV (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân,

Hà Nội; Ngô Đăng Tri, Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến

chống thực dân Pháp, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 16 - 1987; Ngô Đăng Tri,

Mối quan hệ giữa Thanh - Nghệ - Tĩnh với Lào trong kháng chiến chống thực

dân Pháp (1945 - 1954), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 - 1994;

Nguyễn Văn Quang, Vai trò hậu phương Thanh - Nghệ - Tĩnh trong chiến

dịch Thượng Lào (tháng 4 - 5 năm 1953), Tạp chí Cộng sản, số 5 - 2013.

Các công trình nghiên cứu trên không chỉ đề cập đến sự lãnh đạo, chỉ

đạo chiến tranh nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ của

Đảng bộ và chính quyền Quân khu IV, Liên khu IV, Thanh - Nghệ - Tĩnh nói

chung mà còn chỉ rõ vai trò, vị trí của hậu phương Thanh Hoá nói riêng. Thanh

Hoá được đề cập đến là hậu phương trực tiếp của chiến trường Bắc - Trung bộ,

Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Hậu phương Thanh Hoá đã góp một phần xứng

đáng sức người sức của, chi viện kịp thời cho các chiến trường. Tài liệu này có

giá trị rất lớn đối với tác giả trong quá trình nghiên cứu, tái hiện vai trò, vị trí

quan trọng của hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống Pháp.

Nhóm các công trình đề cập đến hậu phương Thanh Hoá

Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa (1990), Lịch sử cuộc kháng chiến

chống Pháp xâm lược (1945 - 1954), Nxb Thanh Hoá; Bộ Chỉ huy quân sự

tỉnh Thanh Hoá (1990), Thanh Hoá - Lịch sử kháng chiến chống thực dân

Pháp xâm lược (1945 - 1954) (Sơ thảo), Thanh Hoá; Tỉnh uỷ Thanh Hoá

(2000), Lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá, tập I (1930 - 1954); Ban Tuyên giáo

Tỉnh uỷ Thanh Hoá (2000), Đảng bộ Thanh Hoá 70 năm chặng đường vẻ

9

vang (1930 - 2000); Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thanh Hoá - Thanh Hoá làm

theo lời dạy của Người (2007), Nxb Thanh Hoá; Đảng uỷ Quân sự tỉnh Thanh

Hoá (2010), Lịch sử Đảng bộ quân sự tỉnh Thanh Hoá (1945 - 2005), Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội, là những công trình đã khái quát quá trình Đảng

bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo nhân dân tỉnh đấu tranh cách mạng qua các chặng

đường lịch sử. Qua đó, đề cập đến việc xây dựng và động viên sức mạnh toàn

dân đoàn kết đứng lên kháng chiến kiến quốc, xây dựng và bảo vệ hậu

phương, phục vụ tiền tuyến. Tuy nhiên, các công trình trên chỉ đề cấp đến vai

trò của hậu phương trong tiến trình lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp,

chưa tập trung đi sâu nghiên cứu, phân tích làm nổi bật tầm quan trọng của

hậu phương đối với cuộc kháng chiến.

Lê Thị Thanh Huyền (2004), Giao thông vận tải Thanh Hoá trong

kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), Luận văn thạc sỹ,

Trường Đại học Vinh; Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2008), Kỷ yếu Hội

thảo Thanh Hoá trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954);

Nguyễn Tuyết Nhung (2010), Hậu phương Thanh Hoá trong cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Quỳnh Nga

(2010), Quá trình thực hiện chủ trương cách mạng ruộng đất của Đảng ở

tỉnh Thanh Hoá (1945 - 1957), Luận án Tiến sỹ, Trường Đại học Khoa học xã

hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội; Khánh Trình, Những đóng góp

to lớn của quân - dân Thanh Hóa trong chiến dịch Điện Biên Phủ, Báo Thanh

Hoá, số 6 - 2013; Ngô Đăng Tri, Thanh Hoá với Chiến dịch Điện Biên

Phủ, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 1 - 1994.

Các công trình nêu trên đã nghiên cứu, tiếp cận hậu phương Thanh Hoá

ở nhiều góc độ khác nhau, phản ánh tương đối cụ thể từng mặt hoạt động tổ

chức, luận giải một cách khoa học về cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình củng

10

cố, xây dựng, bảo vệ hậu phương, phục vụ tiền tuyến của Đảng bộ và nhân

dân Thanh Hoá, bước đầu rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm trong quá

trình xây dựng hậu phương, phục vụ tiền tuyến của tỉnh Thanh Hoá. Qua đó,

phần nào đã phác hoạ vị trí, vai trò quyết định nhất của hậu phương Thanh

Hoá đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là những tài liệu quý

liên quan trực tiếp đến quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận văn của tác giả.

Tuy vậy, qua các công trình trên, hậu phương Thanh Hoá phần nào

được nghiên cứu, tổng kết ở góc độ từng mặt, từng khía cạnh, chưa đề cập

một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống thành một công trình khoa học nhằm

tập hợp và luận giải đầy đủ về vị trí, vai trò trực tiếp của hậu phương Thanh

Hoá đối với tiền tuyến - nhân tố quyết định nhất đối với cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp. Vì vậy, nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá

lãnh đạo xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến (1945 - 1954) vẫn là

đề tài chưa có một công trình nào đề cập đầy đủ, toàn diện dưới góc độ khoa

học Lịch sử Đảng. Trên cơ sở kế thừa những công trình đã công bố, tác giả hệ

thống và mô tả, tái hiện lại quá trình xây dựng hậu phương, chi viện kịp thời

của hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Qua đó,

rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm - cơ sở lý luận và thực tiễn để tỉnh

Thanh Hóa tiếp tục xây dựng và củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng khu

vực phòng thủ vững mạnh hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ

* Mục đích

Nghiên cứu tái hiện lại một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống quá

trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo xây dựng hậu phương, chi viện cho

tiền tuyến (1945 - 1954), rút ra nhận xét và kinh nghiệm xây dựng hậu

phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống Pháp nhằm phục vụ công tác

11

nghiên cứu, giáo dục truyền thống và góp phần xây dựng khu vực phòng thủ

vững chắc trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hiện nay.

* Nhiệm vụ

- Nghiên cứu những yếu tố vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xã hội và

truyền thống lịch sử văn hoá liên quan trực tiếp đến quá trình xây dựng hậu

phương Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Phân tích, làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá

về xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến (1945 - 1954).

- Rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm về công cuộc xây dựng, bảo vệ

hậu phương cũng như vai trò của hậu phương Thanh Hóa trong cuộc kháng

chiến chống Pháp; vận dụng vào thực tiễn lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng

Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá về xây dựng hậu

phương, chi viện cho tiền tuyến trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

* Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh

Thanh Hoá về xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến.

Về thời gian: Đề tài tập trung phản ánh trong phạm vi thời gian cuộc

kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954).

Về không gian: tỉnh Thanh Hóa.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

* Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.

* Phương pháp nghiên cứu

12

Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic,

đồng thời kết hợp với các phương pháp khác như: thống kê, khảo sát, so sánh,

phân tích, tổng hợp, lịch đại, đồng đại, điền dã, phương pháp chuyên gia.

6. Ý nghĩa của luận văn

Luận văn hệ thống hoá, khôi phục lại bức tranh toàn cảnh về công cuộc

xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến của tỉnh Thanh Hóa trong

kháng chiến chống thực dân Pháp. Đây là nguồn tham khảo, phục vụ cho việc

nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương Thanh Hóa nói riêng, lịch sử dân

tộc nói chung thời chiến tranh cách mạng, góp phần giáo dục thêm truyền

thồng yêu nước, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, lòng tự hào của nhân dân

Thanh Hóa, ý chí tự cường cho thế hệ trẻ.

7. Kết cấu của luận văn gồm

Mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và

phụ lục.

11

Chương 1

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG

CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU

CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1950)

1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng hậu phương Thanh Hoá trong

kháng chiến chống thực dân Pháp

1.1.1. Vị trí chiến lược và điều kiện tự nhiên - xã hội của tỉnh Thanh

Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp

Nằm ở địa đầu miền Trung, Thanh Hoá là cầu nối giữa đồng bằng Bắc

Bộ rộng lớn với dải đồng bằng nhỏ hẹp miền Trung và được bao bọc bởi núi

rừng trùng điệp: phía Bắc giáp các tỉnh Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình; phía

Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (Lào) với đường biên giới dài 195 km; phía Nam giáp

tỉnh Nghệ An và phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ với đường biển dài 102 km.

Phần đất liền của tỉnh Thanh Hoá chạy dài theo chiều từ Tây Bắc xuống

Đông Nam: điểm cực Bắc nằm ở vĩ tuyến 20040’B thuộc xã Trung Sơn, huyện

Quan Hoá (giáp tỉnh Hoà Bình); điểm cực Nam nằm ở vĩ tuyến 19 018’B thuộc

xã Hải Hà huyện Tĩnh Gia (giáp tỉnh Nghệ An); điểm cực Tây nằm ở Kinh

tuyến 104022’Đ thuộc xã Quang Chiểu huyện Mường Lát (giáp nước Công hoà

dân chủ nhân dân Lào); điểm cực Đông nằm ở Kinh tuyến 106005’Đ thuộc xã

Nga Điền, huyện Nga Sơn (giáp tỉnh Ninh Bình). Với vị trí này, Thanh Hoá có

đầy đủ điều kiện trở thành hậu phương, cầu nối giữa hậu phương Liên khu IV

với các tỉnh phía Bắc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Thanh Hoá có diện tích tự nhiên 11.13800km2, với ba vùng: miền núi -

trung du, đồng bằng và miền biển tạo nên thế mạnh phát triển nền kinh tế tổng

hợp: nông - lâm - ngư nghiệp tự cấp, tự túc - yếu tố cơ bản trong xây dựng căn

cứ địa, hậu phương chống giặc ngoại xâm suốt chiều dài lịch sử.

Vùng núi Thanh Hoá chiếm ¾ đất tự nhiên: phía Đông là biển Đông, còn

ba mặt: Bắc - Tây - Nam núi rừng trùng điệp, hiểm trở. Núi non ở Thanh Hoá

12

mang nét đặc trưng của Tây Bắc bởi những dải núi đá vôi xen kẽ đá phiến. Phía

Nam sông Mã và phía Tây dọc biên giới Việt - Lào hiểm trở hơn với nhiều đỉnh

núi cao sừng sững như ngọn Phù Chó (Thường Xuân) cao 1.563m, ngọn Pù Rinh

(thuộc hai huyện Lang Chánh, Thường Xuân, cao 1.291m). Nơi đây thế kỷ XV là

căn cứ địa của nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày đầu chống giặc Minh.

Cũng từ nơi đây, Lê Lợi đã lãnh đạo nghĩa quân tiến xuống đồng bằng, tiến vào

Nghệ An, tấn công ra Bắc, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Trong cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp, vùng núi Thanh Hoá trở thành vị trí chiến lược, con

đường giao thông huyết mạch đưa nhân tài và vật lực ra tiền tuyến.

Đồng bằng Thanh Hoá so với các tỉnh miền Trung, màu mỡ, rộng lớn

hơn (chiếm gần một nửa đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh)1, thuận lợi cho phát

triển nông nghiệp, thâm canh cây lúa nước và các loại hoa màu, phát triển

công nghiệp, thủ công nghiệp. Vùng biển với nhiều cửa lạch lớn: Lạch Sung,

Lạch Trường, Lạch Ghép, Lạch Bạng cùng các đảo: đảo Nẹ, đảo Mê và các

bán đảo Hà Sơn, Trường Lệ, Nghi Sơn… tạo nên vị trí tiền tiêu, phòng tuyến

quân sự. Thế kỷ XVIII, quân đội Tây Sơn đã dựa vào núi rừng, biển cả xứ

Thanh lập nên phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, phòng thủ và tiến công ra

Bắc tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược.

Thanh Hoá có hệ thống sông lớn, bao gồm 5 hệ thống sông chính là:

sông Mã - sông Chu, sông Yên, sông Bạng, sông Hoạt, sông Chàng. Ngoài ra

còn có nhiều con sông nhỏ khác như: sông Cổ Tế, sông Lèn, sông Tống, sông

Kênh Than. Hệ thống sông ngòi này từ xa xưa đã có vai trò to lớn trong giao

thông vận tải, thuỷ lợi và ngăn bước quân thù. Giao thông đường thuỷ trở

thành nét đặc trưng trong quá trình vận chuyển lương thực, thực phẩm của

nhân dân Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp.

Dân cư đông đúc, bên cạnh người Kinh còn có các dân tộc anh em: Mường,

1 Đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) có diện tích 62.000 ha.

Thái, H’Mông, Dao, Khơ Mú, Thổ, Tày, Hoa... Trải qua quá trình đấu tranh với

13

thiên tai, địch hoạ, nhân dân Thanh Hoá sớm hình thành truyền thống yêu nước,

đoàn kết, cần cù, thông minh, sáng tạo trong lao động sản xuất, kiên cường dũng

cảm trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, giữ gìn nền độc lập, tự chủ.

Ở vào vị trí chiến lược, điều kiện tự nhiên - xã hội như trên, Thanh Hoá

có đầy đủ 3 vùng: biển, đồng bằng, trung du - miền núi. Hai tuyến đường giáp

Ninh Bình và Hoà Bình ở phía Bắc và Nghệ An ở phía Nam đều có các dãy

núi, đồi kéo dài từ phía Tây ra tận biển tạo thành thế “tay ngai” ôm lấy đồng

bằng, thuận lợi cho việc cơ động lực lượng “tiến có thế đánh, lui có thế giữ”.

Đặc biệt, sau Cách mạng Tháng Tám, Thanh Hoá vẫn là vùng tự do nên

vùng đất này có đầy đủ điều kiện thuận lợi trở thành hậu phương lớn. Vì

vậy, cùng với Nghệ An và Hà Tĩnh, Thanh Hoá được Đảng và Chủ tịch Hồ

Chí Minh chọn làm căn cứ địa, hậu phương lớn trong kháng chiến chống thực

dân Pháp, giành độc lập dân tộc (1945 - 1954).

1.1.2. Truyền thống lịch sử văn hoá tỉnh Thanh Hoá

Lịch sử đã chứng minh, Thanh Hoá - vùng đất địa linh nhân kiệt, không

chỉ đã sản sinh ra các bậc hiền tài, đế vương mà còn giữ vị trí, vai trò chiến

lược trong các cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại.

Vào thế kỷ III, người con gái 19 tuổi Triệu Thị Trinh với lòng căm thù

giặc sâu sắc đã cùng anh trai chiêu mộ binh sĩ, phất cờ chống giặc Ngô. Câu nói

nổi tiếng của bà Triệu: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém

cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ

chứ không chịu khom lưng làm người tì thiếp” không chỉ làm lay động vị trí

thống trị của quân xâm lược phương Bắc mà còn sống mãi với non sông Việt

Nam.

Năm 931, được sự ủng hộ của nhân dân và hào kiệt trong vùng, Dương

Đình Nghệ từ quê hương Thanh Hoá kéo quân ra Bắc, bao vây và công phá thành

14

Đại La - dinh luỹ của quân xâm lược Nam Hán. Năm 980 - 981, Lê Hoàn - người

con Thanh Hoá đã cầm quân đánh tan quân Tống xâm lược trên sông Bạch Đằng.

Thế kỷ XV, giặc Minh xâm lược nước ta, Lê Lợi - người con Lương

Giang đã dựng cờ quy tụ hiền tài, đãi ngộ tướng sĩ, phất cờ khởi nghĩa. Được

nhân dân cả nước đồng lòng hưởng ứng, từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở địa

phương đã phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng trong cả nước, làm

nên sự nghiệp Bình ngô năm 1428.

Ngoài những cuộc khởi nghĩa nổ ra tại địa phương do người Thanh Hoá

trực tiếp lãnh đạo, Thanh Hoá còn là hậu phương, căn cứ địa của nhiều cuộc

kháng chiến chống giặc ngoại xâm phương Bắc hết sức oanh liệt; đó là, trước sức

mạnh của Mông - Nguyên, triều Trần đã lui quân về Thanh Hoá, dựa vào địa thế

hiểm trở, vào kho người, kho của tại đây để cầm cự, chờ thời cơ phản công quét

sạch 50 vạn quân Nguyên. Năm 1789, Nguyễn Huệ chọn địa bàn Thanh Hoá

triển khai lực lượng, thần tốc tiến quân ra Bắc quét sạch 29 vạn quân Thanh.

Thực dân Pháp xâm lược nước ta, hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân

Thanh Hoá cùng cả nước đứng lên chống Pháp. Các cuộc khởi nghĩa do Đinh Công

Tráng, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước lãnh đạo đã thể hiện tinh thần

yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân Thanh Hoá.

Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa trên, một số thanh niên yêu nước thức thời

của Thanh Hoá: Lê Hữu Lập, Lê Doãn Chấp đã sớm giác ngộ chủ nghĩa Mác -

Lênin, đi theo con đường cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn. Vì vậy,

ngày 29 - 7 - 1930, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá ra đời đã

lãnh đạo nhân dân Thanh Hoá xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, xây dựng

chiến khu kháng chiến Ngọc Trạo, chiến khu Hoà - Ninh - Thanh (sau đó đổi

tên thành chiến khu Quang Trung), cùng cả nước chuẩn bị Tổng khởi nghĩa,

giành chính quyền. Ngày 23 - 8 - 1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền

cách mạng về tay nhân dân, nhân dân các dân tộc Thanh Hoá đã đoàn kết cùng

nhau bước vào thời kỳ mới, xây dựng và bảo vệ độc lập, tự do vừa giành được.

15

Kế thừa và phát huy truyền thống lịch sử lên tầm cao mới trong cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã nêu cao vai trò, vị trí của mình, lãnh đạo quân dân tỉnh

vừa bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng hậu phương vững chắc, vừa huy

động và cung cấp nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

1.1.3. Yêu cầu của cuộc kháng chiến và chủ trương xây dựng hậu

phương của Đảng Cộng sản Việt Nam

Sau Cách mạng Tháng Tám, bên cạnh những thuận lợi cơ bản để kiến

thiết đất nước, nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn, thách thức, tình thế cách

mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền cách mạng còn non trẻ; lực

lượng vũ trang ít về số lượng, hạn chế về trang bị kỹ thuật; nạn đói, nạn dốt, đặc

biệt, thù trong giặc ngoài bao vây nước ta bốn hướng, hòng cướp chính quyền

cách mạng còn non trẻ. Trong số kẻ thù Anh, Tưởng, Mỹ, Pháp, Việt quốc, Việt

cách… nguy hiểm nhất là thực dân Pháp. Chúng có đầy đủ cơ sở và điều kiện

để trở lại xâm lược nước ta lần 2. Vì vậy, Đảng ta nhận định “nhất định không

sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”.

Tình hình trên đặt ra: để thắng thực dân Pháp có tiềm lực kinh tế và

quốc phòng hùng mạnh, ngoài các nhiệm vụ cấp bách cần làm ngay: Bảo vệ

và giữ vững chính quyền cách mạng. Chống thực dân Pháp xâm lược. Bài trừ

nội phản. Cải thiện đời sống nhân dân, Đảng và Chính phủ còn đặt ra yêu cầu

xây dựng hậu phương, căn cứ địa cách mạng vững chắc cho cuộc kháng chiến.

Yêu cầu này ngày càng trở thành đòi hỏi bức thiết. Bởi vì, hậu phương không

chỉ bảo đảm đầy đủ, kịp thời về vật chất mà còn là điểm tựa tinh thần vững

chắc, nguồn động viên tinh thần to lớn cho tiền tuyến đánh giặc. Nghiên cứu

sức mạnh tổng hợp của chiến tranh cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn

đánh giá cao vai trò to lớn của hậu phương đối với tiến trình và kết cục thắng

lợi của chiến tranh cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “Trong chiến tranh, ai có

16

nhiều lực lượng hậu bị hơn, ai có nhiều nguồn lực, ai kiên trì đi sâu vào quần

chúng nhân dân hơn, thì người đó thu được thắng lợi” [58, tr. 271].

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin về xây dựng hậu phương chiến

tranh vào tình hình cụ thể đất nước, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ: vừa cứu đói, nâng cao đời sống

nhân dân, chống lại thù trong, giặc ngoài vừa tranh thủ thời gian “vàng”

chuẩn bị thực lực đánh Pháp. Vì vậy, cùng với Chỉ thị “Kháng chiến kiến

quốc” của Trung ương Đảng ngày 25 - 11 - 1945: “Kháng chiến phải đi đôi

với kiến quốc, kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công, kiến

quốc có thành công thì kháng chiến mới thắng lợi”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

giao nhiệm vụ cho đồng chí Trần Đăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng trở lại Việt

Bắc, vạch tuyến, lựa chọn địa điểm xây dựng An toàn khu (ATK) cho Trung

ương Đảng và Chính phủ - cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến.

Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Liên khu IV nói chung, Thanh

Hoá nói riêng trở thành vùng tự do. Vì vậy, với cách nhìn bao quát, toàn diện

sâu sắc và trên cơ sở phân tích vị trí xung yếu, tiềm năng và thế mạnh của

tỉnh, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn Thanh Hoá làm hậu

phương, căn cứ địa cách mạng. Ngày 20 - 2 - 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào

Thanh Hoá trực tiếp giao nhiệm vụ cho nhân dân tỉnh xây dựng Thanh Hoá

thành tỉnh kiểu mẫu - căn cứ, hậu phương chiến lược trong kháng chiến chống

thực dân Pháp. Người chỉ thị: “Thanh Hoá phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu, thì

phải làm sao cho mọi mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, phải là kiểu mẫu. Làm

một người kiểu mẫu, một nhà kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu, một huyện kiểu

mẫu, một tỉnh kiểu mẫu. Quyết tâm làm thì sẽ thành kiểu mẫu” [62, tr.62].

Về chính trị: toàn dân đoàn kết, yêu nước, chống Pháp. Chính quyền là

đầy tớ của nhân dân, phải thanh khiết từ to đến nhỏ.

17

Về quân sự: phá hoại triệt để, đào hầm trú ẩn để tránh nạn tàu bay.

Đường sá, đường cái, đường xe lửa phải phá hết, cản bước tiến quân thù, tổ

chức chiến tranh du kích đánh địch bằng súng chim, súng kíp, gậy, cày, cuốc…

Về kinh tế: phải sản xuất tự cấp, tự túc, dù thực dân Pháp phong toả 10

năm, 15 năm cũng không sợ. Phải làm cho người nghèo đủ ăn, người giàu thì

giàu thêm. Phải lấy sức dân, của dân, tài dân làm lợi cho dân, chống ỷ lại

Chính phủ, phát huy ý thức tự lực tự cường…

Về văn hoá: phải tiêu diệt giặc dốt, làm cho mọi người biết đọc, biết viết,

phải phát triển phong trào bình dân học vụ, xây dựng phát triển hệ thống giáo

dục phổ thông, nâng cao dân trí, chăm lo sức khoẻ cho nhân dân lao động…

Để xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu, Chủ tịch Hồ Chí Minh

chỉ ra những điều kiện cơ bản:

Một là, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ có đức, có tài: “Cán bộ là

cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động

cơ dù tốt dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách

của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính

sách hay cũng không thực hiện được” [62, tr.54].

Hai là, phải động viên được mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh tham gia.

Người viết: “Tôi mong rằng, trong công việc đó, tất cả những người có tài, có

đức, có sức, có của, có công đều hăng hái ra giúp, toàn thể đồng bào trong tỉnh

đều hăng hái tham gia. Như thế thì nhất định sẽ thành công” [62, tr.55].

Ngày 21 - 2 - 1947, Bác Hồ gửi thư cho đồng bào Thượng du, Người

khích lệ lòng ái quốc của đồng bào các dân tộc và các vị lang đạo, đồng thời kêu

gọi đồng bào Thượng du đoàn kết, ủng hộ kháng chiến và giết giặc cứu nước.

Xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu tức là xây dựng chế độ dân

chủ nhân dân phát triển toàn diện ở hậu phương, tạo ra tiềm lực hùng hậu đảm

bảo đời sống của nhân dân trong tỉnh và chi viện cho kháng chiến. Vì, theo

Người “Chiến sĩ hy sinh xương máu để giữ đất nước. Bụng có no, thân có ấm

18

thì mới đánh được giặc. Làm ra gạo thóc cho chiến sĩ ăn, làm ra vải vóc cho

chiến sĩ mặc. Đều nhờ nơi đồng bào ở hậu phương… Hậu phương thắng lợi,

chắc tiền phương thắng lợi” [61, tr.486]. Sự chỉ đạo này không chỉ có ý nghĩa

đối với riêng tỉnh Thanh Hoá mà còn là mô hình “kháng chiến, kiến quốc” cho

các tỉnh noi theo, đồng thời tạo ra sức mạnh tổng hợp của hậu phương không

chỉ cung cấp sức người, sức của cho các chiến trường mà còn đánh bại mọi âm

mưu càn quét, phá hoại hậu phương của kẻ thù.

Bên cạnh quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng tỉnh

Thanh Hoá kiểu mẫu, Nghị quyết Hội nghị Cán bộ Trung ương tháng 4 - 1947

chỉ rõ: một trong những nhiệm vụ cần kíp mà Đảng phải đặc biệt quan tâm là

xây dựng căn cứ địa kháng chiến và “Muốn cho căn cứ địa được vững chắc

phải gia tăng việc vận động quần chúng; đào tạo cán bộ địa phương, tổ chức

việc tiễu phỉ trừ gian, ở các căn cứ địa sát mặt trận, phải tổ chức ngay những

“công tác đội võ trang” các “đội danh dự trừ gian” và chuẩn bị các “tiểu tổ

bí mật” như trước hồi Tổng khởi nghĩa Tháng Tám” [41, tr.184]. Vì vậy, cùng

với căn cứ địa Việt Bắc, Đảng và nhân dân ta đã phát huy vai trò của vùng hậu

phương rộng lớn, bao gồm các khu du kích, các vùng tự do ở khu III, khu IV,

khu V, Nam Bộ... tạo thành thế liên hoàn, vừa bao vây kẻ thù, vừa cung cấp

sức người, sức của cho tuyền tuyến, động viên ý chí niềm tin cho những người

lính trên chiến trường. Đây chính là một trong những nhân tố thường xuyên

quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Quán triệt chủ trương của Đảng, khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã đề ra chủ trương, lãnh đạo nhân dân tỉnh

xây dựng hậu phương, căn cứ địa vững chắc, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp.

1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá xây dựng hậu phương,

chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân

Pháp (1945 - 1950)

19

Nhận thức sâu sắc trách nhiệm và vinh dự lớn của căn cứ địa, hậu

phương của cuộc kháng chiến, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã vượt qua mọi khó

khăn trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, cụ thể hoá đường lối của

Đảng và Chỉ thị Chủ tịch Hồ Chí Minh thành mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ

thể trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội, từng

bước xây dựng Thanh Hoá trở thành tỉnh kiểu mẫu - hậu phương vững mạnh,

kịp thời cung cấp đầy đủ sức người, sức của tới các chiến trường, đồng thời tổ

chức chiến đấu tốt, bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống.

Xây dựng hậu phương về mặt chính trị là một nhiệm vụ quan trọng, giữ vị

trí hàng đầu, then chốt của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương trong chiến

tranh cách mạng. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá là khẩn trương phát

triển số lượng đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, đáp ứng yêu cầu ngày càng

cao về cán bộ và sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến.

Đầu tháng 9 - 1945, Tỉnh uỷ Thanh Hoá triệu tập Hội nghị mở rộng tại

thị xã Thanh Hoá bàn biện pháp củng cố và xây dựng các tổ chức cơ sở đảng ở

các địa phương, phát triển đảng viên mới. Ngày 18 - 11 - 1945, Tỉnh uỷ mở

hội nghị bàn và quyết định những biện pháp củng cố và phát triển Mặt trận

Việt Minh. Sự lãnh đạo sáng suốt và biện pháp kịp thời của Đảng bộ tỉnh đã

tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, bổ sung những cán bộ

cốt cán cho các cấp chính quyền cơ sở, tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân

dân tham gia bảo vệ và xây dựng chính quyền cách mạng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng về xây dựng Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh

lần thứ nhất chỉ rõ: Công tác xây dựng, củng cố phát triển đảng viên phải được

tiến hành thường xuyên, liên tục. Vì vậy, đi đôi với nâng cao chất lượng đảng

viên, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá còn có những biện pháp tăng cường chất lượng

tổ chức cơ sở đảng. Tháng 4 - 1948, Hội nghị cán bộ Đảng bộ tỉnh họp tại xã

Thuần Lộc (Thọ Xuân), quyết định xây dựng chi bộ theo phương châm đạt 3

tiêu chuẩn, 3 danh hiệu do Liên khu uỷ đề ra: tự động, tiến bộ, gương mẫu

20

[28, tr.112]. Phương châm này đã có tác dụng củng cố chất lượng cơ sở đảng,

tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quần chúng, nâng cao chất lượng

đảng viên. Các đảng bộ trong tỉnh đều lấy mục tiêu đoàn kết nội bộ, đoàn kết

toàn dân, sinh hoạt đều, nâng cao năng lực lãnh đạo để phấn đấu. Đại hội đại

biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất tháng 2 - 1948 đã kiểm điểm việc thực hiện Chỉ

thị kháng chiến của Trung ương và lời dạy của Bác Hồ “xây dựng Thanh Hoá

thành một tỉnh kiểu mẫu”. Đại hội xác định nhiệm vụ đẩy mạnh mọi mặt công

tác ở vùng Thượng du với khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá thắng”

và đề ra nhiệm vụ “xây dựng Thanh Hoá thành hậu phương vững mạnh để kịp

thời cung cấp đầy đủ sức người, sức của cho chiến trường, đồng thời tổ chức

chiến đấu tốt để bảo vệ hậu phương trong mọi tình huống” [15, tr.55].

Giữa năm 1948, Hội nghị Đảng bộ Liên khu IV lần thứ nhất xác định:

Thanh - Nghệ - Tĩnh là vùng hậu phương của Liên khu, thống nhất quan điểm

lãnh đạo kháng chiến, tăng cường công tác cán bộ. Hội nghị còn nhấn mạnh

việc xây dựng và bảo vệ nơi đây thành hậu phương của cả nước, uốn nắn một

số lệch lạc trong phát triển Đảng, đoàn kết kháng chiến và thực thi các chính

sách của Đảng.

Trong công tác xây dựng Đảng, mục tiêu của Đảng bộ tỉnh đề ra trong

năm 1947 - 1950: tích cực phát triển đảng viên mới, nhanh chóng xây dựng cơ

sở đảng ở các ngành, các cấp, tổ chức chi bộ Đảng ở các xã, thành lập Đảng bộ

huyện để đảm bảo tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng.

Bên cạnh công tác xây dựng Đảng, thực hiện Sắc lệnh số 01/SL của

Chính phủ, tháng 3 - 1947, Uỷ ban kháng chiến tỉnh Thanh Hoá được thành lập,

đồng chí Đặng Việt Châu - phái viên của Chính phủ được bổ nhiệm làm Chủ

tịch. Song song với Uỷ ban kháng chiến, Uỷ ban Hành chính do đồng chí Đặng

Thai Mai làm Chủ tịch; Uỷ ban kháng chiến đặc biệt miền Thượng du Thanh

Hoá cũng được thành lập. Nhiệm vụ của Uỷ ban kháng chiến là giúp cấp uỷ

thực hiện và đôn đốc công tác kháng chiến, giúp đỡ đồng bào tản cư, động viên

21

nhân dân góp sức người, sức của cho công cuộc kháng chiến. Xét thấy Uỷ ban

kháng chiến và Uỷ ban hành chính đều có nhiệm vụ như nhau, tháng 4 - 1947,

hai uỷ ban này được hợp nhất thành Uỷ ban hành chính kháng chiến do đồng

chí Đặng Việt Châu được chỉ định làm Chủ tịch, đồng chí Đặng Thai Mai được

Trung ương điều ra Việt Bắc làm nhiệm vụ mới.

Cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang giai đoạn mới, yêu cầu

lương thực, thực phẩm cho chiến trường ngày càng tăng. Đầu năm 1949,

nhiệm vụ xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyến được Đại hội tỉnh lần

thứ III chỉ rõ: “Về chính trị: thống nhất Mặt trận Việt Minh và Liên Việt, đẩy

mạnh công tác giáo vận, tích cực tuyên truyền vận động cách mạng trong đồng

bào các dân tộc thiểu số, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố chính

quyền” [24, tr.58].

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, tinh thần tận tuỵ, gương mẫu của

tuyệt đại đa số cán bộ đảng viên, hệ thống tổ chức chính quyền và đoàn thể

không ngừng được củng cố và ngày càng vững mạnh, sự ủng hộ và tín nhiệm

tuyệt đối của nhân dân, Thanh Hoá từng bước xây dựng hậu phương vững chắc

về chính trị. Sự vững mạnh này có ý nghĩa quyết định đối với xây dựng hậu

phương về kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội.

Xây dựng hậu phương về kinh tế là một lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa

quyết định vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng chiến.

Quán triệt chủ trương của Đảng, khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí

Minh “Thanh Hoá phải ra sức tăng gia sản xuất để đi tới tự cấp tự túc gắn với

thực hành tiết kiệm. Trong thu, chi phải ngăn nắp, rõ ràng. Chương trình, kế

hoạch phải thiết thực, đúng với lực lượng, sát với hoàn cảnh” [71, tr.13], Đại

hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ hai chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất,

xây dựng tổ đổi công hợp tác xã (bậc thấp), triệt để thực hiện giảm tô 25%,

phát triển tiểu thủ công để có nhiều hàng tiêu dùng cung ứng cho yêu cầu của

địa phương, tăng cường tiếp tế cho vùng Thượng du, bao vây kinh tế của địch”

22

[25, tr.58]. Cùng với chủ trương đẩy mạnh sản xuất lương thực. Năm 1947,

Tỉnh uỷ chủ trương thành lập công xưởng sản xuất lựu đạn, súng, mìn và các

loại vũ khí thô sơ cung cấp cho lực lượng vũ trang địa phương.

Xây dựng hậu phương về kinh tế không chỉ đáp ứng nhu cầu đời sống

nhân dân mà còn tạo ra nguồn của cải vật chất, chi viện kịp thời cho tiền tuyến

“ăn no đánh thắng”.

Xây dựng hậu phương về quân sự. Sức mạnh của hậu phương không chỉ

về chính trị, kinh tế mà còn bao gồm cả lĩnh vực quân sự. Mục tiêu đánh phá chủ

yếu của địch vào hậu phương của ta là chống phá nơi nguồn cung cấp sức người,

sức của cho tiền tuyến. Vì vậy, xây dựng quân sự ở hậu phương và chiến đấu bảo

vệ hậu phương diễn ra thường xuyên và ngày càng gay go quyết liệt.

Ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Thanh Hoá nhanh chóng phát triển

lực lượng dân quân du kích tự vệ tập trung. Hầu hết các huyện đều thành lập

một trung đội tập trung với số lượng từ 25 - 30 người. Thị xã Thanh Hoá tổ

chức hai đội tự vệ. Chi đội Đinh Công Tráng phát triển thành trung đoàn Đinh

Công Tráng - trung đoàn chủ lực, lực lượng quân sự nòng cốt của tỉnh gồm 2

tiểu đoàn bộ binh cơ động, 3 đại đội trinh sát, công binh, lựu pháo, tích cực

chuẩn bị cơ sở từng trọng điểm, chuẩn bị chiến trường, sẵn sàng đánh địch.

Thấy rõ vị trí, vai trò quan trọng của hậu phương Thanh Hoá, thực dân

Pháp đem quân đánh vào vùng biển và vùng núi Thanh Hoá thăm dò sự đề

phòng, uy hiếp tinh thần của nhân dân nơi đây, đồng thời cũng là lựa chọn

hướng chiến lược cho ý đồ mở rộng chiến tranh trong thu đông 1947: tiến

công Việt Bắc - căn cứ địa kháng chiến hoặc vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh.

Miền Tây Thanh Hoá giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, là cửa

ngõ tiếp giáp với nước bạn Lào, cầu nối giữa Liên khu IV với Tây Bắc và Việt

Bắc, thực dân Pháp đã sử dụng chiến thuật “vết dầu loang”, đánh vào các

huyện miền Tây: Hồi Xuân, La Hán, Cổ Lũng, Yên Khương… từ đây đánh

chiếm toàn bộ miền Tây, uy hiếp vùng đồng bằng, trung châu Thanh Hoá, tây

23

nam Hoà Bình, làm cơ sở thuận tiện đánh ra Liên khu III và Việt Bắc, cắt đứt

đường liên lạc Vạn Mai - Suối Rút (Hoà Bình), đồng thời chia cắt mối quan hệ

đoàn kết chiến đấu giữa Thượng Lào và Thanh Hoá.

Tình hình mới đặt ra, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ hai tháng 4 - 1949

nêu ra nhiệm vụ xây dựng hậu phương về quân sự: “xây dựng bộ đội vững

mạnh, phát triển dân quân, du kích. Những nơi giặc Pháp chiếm đóng, quân

dân tổ chức chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch và làm tốt công tác địch vận và

kiện toàn bộ đội địa phương; tăng cường và phát triển dân quân; tích cực xây

dựng lực lượng chủ lực về quân số, lương thực, vũ khí; tăng cường xây dựng

bố phòng…” [87, tr.38]. Đại hội đặc biệt chỉ ra: chú trọng vùng xung yếu

miền Tây, Nga Sơn, Hà Trung, Hoằng Hoá, Quảng Xương, đường số 1A, các

bến sông lớn và đường rút lui của địch như Quan Hoá, Bá Thước, Cẩm Thuỷ,

Thạch Thành… và đề ra khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá thắng”,

xây dựng miền Tây - địa bàn chiến lược quan trọng của cách mạng Thanh Hoá

và nước bạn Lào anh em.

Cuộc kháng chiến ngày càng ác liệt, vùng chiếm đóng của Pháp theo

“vết dầu loang” lan rộng, không chỉ ở đồng bằng Bắc Bộ, Việt Bắc mà còn huy

động lực lượng trở lại đánh chiếm một số điểm ở miền Tây Thanh Hoá. Trước

tình hình đó, tháng 7 - 1950, Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng tại xã Hợp Thành -

Triệu Sơn đề ra nhiệm vụ giai đoạn mới: “1. Quyết chiến, quyết thắng để bảo vệ

Thanh Hoá - một hậu phương quan trọng của cả ba chiến trường: Bắc Bộ, Lào,

Bình Trị Thiên. 2. Dốc nhân, tài, vật lực cung cấp cho chiến trường Bắc Bộ và

chiến trường Thượng Lào” [21, tr.90]. Đại hội cũng chỉ rõ nhiệm vụ quân sự

của tỉnh: tích cực chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên, cung cấp kịp

thời sức người sức của cho chiến trường Bắc Bộ, xây dựng kinh tế, cải thiện đời

sống nhân dân, xây dựng chính quyền, củng cố khối đoàn kết toàn dân.

Xây dựng hậu phương về văn hoá - xã hội. Cùng với xây dựng hậu

phương Thanh Hoá về chính trị, kinh tế, quân sự, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá rất

chú trọng đến lĩnh vực văn hoá - xã hội. Từng bước đưa chủ trương của Đảng

24

vào thực tiễn Thanh Hoá và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“Thanh Hoá có tiếng là văn vật, nhưng nay xét số người biết chữ còn ít hơn

người chưa biết chữ… Tôi có ý kiến ra kỳ hạn trong một năm phải thanh toán

cho xong nạn mù chữ” [62, tr.59], Đảng bộ tỉnh đã đưa ra mục tiêu: Gấp rút

thanh toán nạn mù chữ, tiến lên học bổ túc văn hoá, kêu gọi nhân dân chống

nạn thất học “người biết chữ dạy người chưa biết chữ, người biết chữ nhiều

dạy cho người biết chứ ít, phụ nữ lại càng phải học”.

Cùng với đẩy mạnh phong trào bình dân học vụ, phong trào xây dựng “đời

sống văn hoá - nếp sống kháng chiến” và đẩy mạnh hoạt động y tế từng bước

vừa nâng cao dân trí, vừa bảo đảm sức khoẻ, đời sống tinh thần của nhân dân.

Nhận thức rõ vị trí, vai trò chiến lược của tỉnh sau Cách mạng Tháng

Tám, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã kịp thời khắc phục khó khăn, củng cố, bảo

vệ chính quyền cách mạng, sớm đưa ra chủ trương xây dựng hậu phương trên

tất cả các lĩnh vực. Điều này thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng ta, đứng

đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời phản ánh sự nhạy bén, kịp thời của

Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trước hoạ xâm lăng của thực dân Pháp.

1.3. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo xây dựng hậu

phương, chi viện cho tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến

chống thực dân Pháp (1945 - 1950)

1.3.1. Đảng bộ tỉnh Thanh hoá chỉ đạo xây dựng hậu phương

Xây dựng hậu phương về chính trị là một trong những nhiệm vụ quan

trọng của công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương, trong đó đặt lên hàng

đầu nhiệm vụ xây dựng Đảng. Vì vậy, trong các năm 1947 - 1950, thực hiện

lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá xem công tác xây

dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt để đẩy mạnh phong trào cách mạng. Năm

1947, toàn tỉnh có 2.800 đảng viên, đến năm 1950 đã có 37.442 đảng viên.

Các huyện Thượng du đã thành lập được Đảng bộ. Hầu hết các xã đều xây

dựng chi bộ Đảng. Số đảng viên là nữ có trên 4000 người, số đảng viên là

25

người dân tộc là hơn 500 người [15, tr.223]. Ở vùng đồng bào theo đạo Thiên

chúa đã xây dựng được một số chi bộ Đảng.

Tuy vậy, do công tác phát triển Đảng gấp rút nên chất lượng một số đảng

viên yếu. Một bộ phận cán bộ đảng viên trình độ văn hoá chưa cao và chưa kinh

qua hoạt động thực tiễn nên nhận thức về Đảng, kinh nghiệm cách mạng còn

hạn chế. Ngoài ra, còn bộ phận đảng viên xuất thân từ thành phần bóc lột nên

giác ngộ chính trị còn hạn chế, ít được quần chúng nhân dân tin yêu.

Để nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên, Tỉnh uỷ đã đề ra giải pháp:

“mở các lớp bình dân học vụ bồi dưỡng văn hoá cho bộ phận cán bộ đảng viên

có trình độ văn hoá thấp; tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận và kinh nghiệm

công tác cho cán bộ, đảng viên mới, tiến hành công tác kiểm tra, loại bỏ những

phần tử phẩm chất chính trị kém, chỉ đạo phấn đấu và xếp loại cơ sở đảng theo

các mục tiêu: “chi bộ gương mẫu”, “chi bộ tự động”, “chi bộ tiến bộ”; xây

dựng nề nếp sinh hoạt Đảng dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy

phê bình và tự phê bình trong Đảng bộ…” [15, tr.223 - 224].

Tỉnh uỷ còn mở các lớp bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chủ

trương của Đảng tới các huyện uỷ viên, chi uỷ viên thời gian từ 1 đến 3 tháng và

giao cho từng Huyện uỷ mở lớp bồi dưỡng lý luận cho đảng viên từ 10 đến 15

ngày. Các huyện như: Vĩnh Lộc, Hoằng Hoá, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định…

Huyện uỷ chỉ đạo mở các lớp bình dân học vụ cho cán bộ, đảng viên học hết

chương trình cấp I, từng bước nâng cao chất lượng và sức chiến đấu của đảng viên.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, trình độ cán bộ, đảng viên, chất lượng lãnh

đạo của các Đảng bộ dần dần được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu kháng

chiến, kiến quốc. Năm 1949, Đảng bộ huyện Tĩnh Gia, Quảng Xương, Hoằng

Hoá, Vĩnh Lộc, Nông Công, Nga Sơn đã xây dựng được nhiều “chi bộ tự

động”, “chi bộ tiến bộ” và “chi bộ gương mẫu”. Năm 1950, Đảng bộ tỉnh

Thanh Hoá đã có 53% tổng số chi bộ đạt danh hiệu “chi bộ tự động”. Chi bộ

26

Tượng Lĩnh (Tĩnh Gia) được công nhận là “chi bộ gương mẫu” đầu tiên của

tỉnh Thanh Hoá.

Bên cạnh đó, Tỉnh uỷ chỉ đạo củng cố Mặt trận Việt Minh, phát triển

Hội Liên Việt, củng cố, phát triển các tổ chức cứu quốc và các đoàn thể quần

chúng như: Công hội, Nông hội, Thanh niên, Phụ nữ… vững mạnh. Để nâng

cao tính tiên phong gương mẫu, các cấp uỷ đảng đã chỉ đạo đấu tranh chống

quan liêu, mệnh lệnh, đấu tranh và đưa ra khỏi các cấp lãnh đạo những người

thoái hoá, biến chất, tăng cường những cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng

lực lãnh đạo chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng. Vì vậy, năm

1948, tổ chức Liên Việt có 183.801 hội viên, đến năm 1949 đã tăng lên

249.700 hội viên [86, tr.25]. Tổ chức này đã đứng ra lãnh đạo các cuộc vận

động, huy động nhân dân mua công trái ủng hộ kháng chiến, quyên góp “ủng

hộ Bình - Trị - Thiên”, “Mùa đông binh sĩ”, “dân quân tự túc”…

Đối với đồng bào các dân tộc, tôn giáo, Tỉnh uỷ chỉ đạo chính quyền, mặt

trận các cấp vận động họ tham gia kháng chiến, kiến quốc, xây dựng bản, làng

theo đời sống mới, đấu tranh tư tưởng với bọn lang đạo phản động, củng cố

khối đoàn kết toàn dân, xây dựng hậu phương, phục vụ kháng chiến.

Như vậy, cùng với xây dựng Đảng, các tổ chức quần chúng khác cũng

được Tỉnh uỷ rất chú trọng phát triển và tổ chức chặt chẽ, tạo thành sức mạnh

của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Nhận thức rõ xây dựng hậu phương về kinh tế là một lĩnh vực quan

trọng, có ý nghĩa quyết định trong vai trò của hậu phương đối với cuộc kháng

chiến, Tỉnh ủy đã chỉ đạo huy động sự đóng góp về vật chất phục vụ kháng

chiến: Đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất lương thực để cung cấp cho

kháng chiến. Lập kho lương dự trữ phản công ở mỗi xã, mỗi thôn. Tỉnh uỷ chỉ

đạo phát động phong trào thi đua lập kho lương phản công trong toàn tỉnh. Cổ

động nhân dân bán gạo cho Nhà nước theo phương châm “Giàu phải đong

27

nhiều, nghèo đong ít”. “Nhà giàu xuất của, nhà nghèo xuất công”. Đẩy nhanh

tốc độ sản xuất các ngành công nghiệp quốc phòng, nâng cao trình độ kỹ thuật

để có dự trữ quân dụng, vũ khí, cung cấp kịp thời cho mặt trận. Mỗi địa

phương đều phải có một tiểu đoàn vận tải. Cấp tốc mở lớp đào tạo vận tải ở

các huyện, khẩn trương sửa chữa cầu, đường và lập các trạm, các bến cất

hàng, trữ hàng, đảm bảo cung cấp kịp thời cho chiến trường.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp vận

động nhân dân thực hiện khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, khuyến khích khai hoang

phục hoá. Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh đã chỉ đạo các cấp thực hiện việc

chia ruộng đất cho phụ nữ từ 18 tuổi trở lên, vận động các chủ ruộng nhường bớt

ruộng cho người nghèo cày cấy, nhiều hình thức tổ chức sản xuất tập thể trong nông

nghiệp như tổ đổi công, hợp tác xã phát triển nhanh, những nơi có nhiều đồi núi, lập

trại sản xuất dân quân. Trong canh tác, nhân dân đã áp dụng tốt các biện pháp khoa

học kỹ thuật, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất, sản lượng lương thực tăng.

Để đảm bảo người nông dân có ruộng cày cấy, Tỉnh uỷ đã kịp thời chỉ

đạo việc chia lại công điền, công thổ và ruộng đất của bọn Việt gian phản

quốc cho nông dân, vận động các gia đình có nhiều ruộng đất hiến điền. “Năm

1948 có 2.497 điền chủ thực hiện giảm tô trên diện tích 13.770 mẫu ruộng,

năm 1949 tăng lên 23.777 mẫu ruộng được giảm tô. Năm 1950 hầu hết các

chủ đất phải thực hiện triệt để giảm tô 25%” [14, tr.53]. Thông qua phong trào

hiến điền, chính quyền cách mạng đã nhận được 1.799 mẫu. Năm 1949, nông

dân tỉnh đã bán 7.963 tấn lúa khao quân và đóng góp hàng ngàn tấn cung cấp

cho bộ đội địa phương. Biểu dương tinh thần đóng góp nuôi quân của nhân

dân Thanh Hoá, ngày 15 - 6 - 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen

ngợi các xã xuất sắc nhất: “Tân Tiến đã ủng hộ 1.300.000 đồng, xã Hoằng Lộc

ủng hộ 2.200.000 đồng, xã Đông Anh đã ủng hộ 3.800.000 đồng” [63, tr.63].

Cùng với việc chia ruộng đất cho dân cày, Tỉnh uỷ chỉ đạo thành lập

công xưởng Đức Huấn, Cao Thắng, Phạm Hồng Thái sản xuất lựu đạn, súng,

28

mìn và các loại vũ khí thô sơ cung cấp cho lực lượng vũ trang nhân dân địa

phương. Năm 1949, Thanh Hoá có 3 điểm sản xuất vũ khí cung cấp cho chiến

trường “Tại núi Đa Nê, huyện Yên Định có hai xưởng đúc vỏ đạn moóc-chi-

ne, mìn, lựu đạn; xưởng Phan Huy Thuần sản xuất súng kíp; Thọ Xuân sản

xuất đao, kiếm, lựu đạn” [38, tr.141]; “xưởng quân giới Chu Lễ là nơi đầu

tiên chế tạo được axít sunphuaríc bằng phương pháp thủ công” [23, tr.289].

Các ngành nghề thủ công truyền thống địa phương như: dệt vải, dệt lụa,

đan lưới, đúc đồng, sản xuất giấy, làm muối phát triển. Năm 1949, tỉnh có 30 cơ

sở sản xuất giấy đạt sản lượng 172 tấn/năm. Ở các huyện Tĩnh Gia, Quảng

Xương, Hoằng Hoá, Hậu Lộc, nghề đi biển và diện tích làm muối được mở rộng,

tăng sản lượng phục vụ cho nhân dân, cung cấp cho các tỉnh và nước bạn Lào.

Hưởng ứng chủ trương phát hành công trái của Chính phủ, các tầng lớp

nhân dân Thanh Hoá đã tích cực tham gia mua “công trái kháng chiến”. Hầu

hết các huyện thị đều nhiệt tình hưởng ứng, điển hình là Hà Trung mua 2,1

triệu đồng, huyện Nông Cống mua 2,2 triệu đồng.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, kinh tế Thanh Hoá phát triển: diện tích đất

nông nghiệp tăng, người nông dân có ruộng cày cấy, sức kéo và hệ thống tưới

tiêu đảm bảo; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển, tài chính được

kiểm soát… giải quyết được nhu cầu vật chất tại chỗ, nâng cao đời sống nhân

dân, động viên các dân tộc hăng hái thi đua lao động sản xuất, quyết tâm xây

dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu.

Khắc sâu lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “phá hoại triệt để, đào

hầm trú ẩn để tránh nạn tàu bay. Đường sá, đường cái, đường xe lửa phải

phá hoại hết…” và thực hiện Chỉ thị “Tiêu thổ kháng chiến” của Uỷ ban

kháng chiến tỉnh, công cuộc xây dựng hậu phương về quân sự được Tỉnh uỷ

chỉ đạo “vừa thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, vừa chỉ đạo các ngành, các

cấp và nhân dân trong tỉnh tích cực xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân,

29

sẵn sàng chiến đấu đập tan các cuộc tiến công của địch, bảo vệ hậu phương

trong mọi tình huống” [15, tr.218]. Ở vùng ven biển và các khu vực trọng yếu

bị địch đánh phá (Nga Sơn, Hà Trung, Quảng Xương, Tĩnh Gia, miền Tây…)

nhân dân đã kết hợp với lực lượng vũ trang rào làng chiến đấu, xây dựng hệ

thống phòng thủ chiến đấu và tiến công địch, xây dựng hầm hào bí mật cất dấu

lương thực, thực phẩm, của cải và ẩn nấp. Tỉnh uỷ chỉ đạo: “khi địch tấn công,

triệt để làm nhà không, vườn trống, tổ chức sơ tán, phân tán bảo vệ an toàn

tính mạng, tài sản của nhân dân. Các cơ quan quân sự, công an xây dựng

phương án sẵn sàng chiến đấu” [15, tr.217].

Để đối phó với âm mưu phá hoại hậu phương Thanh Hoá của thực dân

Pháp, Ban Chấp hành Tỉnh uỷ đã họp và đề ra kế hoạch bảo vệ tính mạng, tài

sản của nhân dân, bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh Hoá. Theo kế hoạch

đề ra, Thanh Hoá được chia thành 5 khu vực tác chiến và thành lập ở mỗi khu

vực một ban tác chiến, kịp thời tổ chức lực lượng và chỉ huy đánh địch trong

mọi tình huống:

“Khu vực 1 gồm Nga Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc do đồng chí Sác - tiểu

đoàn trưởng tiểu đoàn 375 làm chỉ huy.

Khu vực 2 gồm Hoằng Hoá, Đông Sơn, Quảng Xương và Tĩnh Gia do

đồng chí Dản chỉ huy.

Khu vực 3 gồm Thạch Thành, Cẩm Thuỷ và Vĩnh Lộc do tiểu đoàn 391

của trung đoàn 9, đại đoàn 304 phụ trách.

Khu vực 4 là Thọ Xuân và khu vực 5 gồm Thiệu Hoá, Yên Định. Cả 2 khu

vực này đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tỉnh đội Thanh Hoá” [30, tr.126]. Năm

khu vực tác chiến này đặt dưới sự lãnh đạo chỉ huy của Ban chỉ huy Mặt trận Thanh

Hoá, luôn sẵn sàng chiến đấu và tổ chức phối hợp chiến đấu với các đơn vị Liên khu

III, đánh địch xâm nhập từ phía Bắc và từ biển vào, từ phía Tây sang, góp phần phá

vỡ phòng tuyến sông Mã của địch, tiêu diệt, bức rút, bức hàng nhiều đồn bốt, giải

30

phóng hoàn toàn miền Tây Thanh Hoá, khai thông các con đường chiến lược nối hậu

phương Thanh Hoá với căn cứ địa Việt Bắc và tuyến biên giới Việt - Lào.

Cùng với việc củng cố tổ chức, chỉ huy, Tỉnh uỷ rất coi trọng công tác

huấn luyện nâng cao sức chiến đấu toàn diện của lực lượng vũ trang. Năm

1948, thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ

Chí Minh về xây dựng bộ đội địa phương và phát triển dân quân, du kích,

Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp bộ Đảng, chính quyền, các cơ quan quân sự tăng

cường quân số, vũ khí cho các đơn vị vũ trang nhân dân và phát động phong

trào “Luyện quân lập công”, “Rèn cán, chỉnh quân”, nâng cao chất lượng

chiến đấu. Bên cạnh đó, Đảng bộ và chính quyền tỉnh còn phát động toàn dân

thực hiện ba cuộc vận động: “1.Tất cả nhân dân tham gia dân quân. 2. Tăng

gia sản xuất tự túc. 3. Tiến tới thành lập các làng chiến đấu” [29, tr.88].

Thực hiện nhiệm vụ trên, năm 1950, 14 huyện trung châu, mỗi huyện đều

có 1 đại đội bộ đội địa phương. Cũng thời gian này, Thanh Hoá thành lập thêm đại

đội 57 - bộ đội địa phương tỉnh. Đến đây, “lực lượng vũ trang Thanh Hoá có tiểu

đoàn bộ đội địa phương 275, đại đội 109 và 57 bộ đội địa phương tỉnh và 3 đại đội

ở miền núi, 14 đại đội của các huyện trung châu. Lực lượng vũ trang và bán vũ

trang toàn tỉnh có 227.248 cán bộ chiến sĩ” [29, tr.92]. Các đại đội Hà Văn Mao,

Cầm Bá Thước, Tống Duy Tân hành quân về Cẩm Thuỷ để rèn cán, chỉnh quân,

sau đó tiếp tục trở lại mặt trận miền Tây tham gia chiến đấu bảo vệ hậu phương.

Đây là thành quả của phong trào thi đua củng cố và phát triển lực lượng

của Đảng bộ và quân dân Thanh Hoá, đánh dấu sự trưởng thành của lực lượng

vũ trang Thanh Hoá với đầy đủ sức chiến trong công cuộc xây dựng, bảo vệ

vững chắc hậu phương và sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến.

Xây dựng hậu phương về văn hoá - xã hội được thể hiện qua phong trào

bình dân học vụ, thi đua xoá nạn mù chữ và học bổ túc văn hoá phát triển sâu

rộng toàn tỉnh. Tỉnh uỷ chỉ đạo mở nhiều lớp học ở các làng xã, dưới nhiều

hình thức, tổ chức: “học ban ngày, học ban đêm, học tập trung, học phân tán.

31

Thiếu giấy, bút, đồng bào dùng lá chuối, que nhọn để viết, không có đèn dầu,

nhân dân thắp đuốc để học tập… tất cả già trẻ, gái trai đều tham gia dạy và

học” [15, tr.227]. Vì vậy, cuối năm 1949, số người biết đọc, biết viết chữ quốc

ngữ ở Thanh Hoá tăng, chỉ còn 29% dân số mù chữ, trong đó lực lượng vũ

trang 95% đều biết đọc, viết thông thạo. Thanh Hoá là nơi một số trường Liên

khu III tản cư như: trường Nguyễn Thượng Hiền, Lê Quý Đôn và một phân

hiệu dự bị đại học ở Thiệu Hoá, trường Y sĩ Việt Nam ở Nông Cống.

Phong trào xây dựng đời sống văn hoá - nếp sống kháng chiến được

nhân dân tích cực hưởng ứng, nạn mê tín dị đoan, tục lệ lạc hậu dân được xoá

bỏ, khuyến khích nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, thực hiện tiết kiệm

trong hiếu, hỉ, tương trợ giúp đỡ đồng bào tản cư.

Để đáp ứng số lượng y, bác sĩ của tỉnh đặt ra, Tỉnh uỷ chỉ đạo ngành y tế

Thanh Hoá chú trọng mở các lớp đào tạo y, bác sĩ ngắn và dài hạn. Kết quả đến

năm 1950 đã đạt “33 nữ hộ sinh sơ cấp, 337 cán bộ cứu thương xã, 238 cán bộ

cứu thương học đường, 17 cán bộ tải thương. Xây dựng được 25 trạm cấp cứu,

26 trạm cứu thương, 2 trạm giải phẫu miền Tây và Vĩnh Lộc [83, tr.4].

Sự chỉ đạo kịp thời của Đảng bộ tỉnh, hậu phương Thanh Hoá đã đạt được

những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã

hội, tạo cơ sở và nguồn lực chi viện cho tiền tuyến những năm đầu kháng chiến,

góp phần quan trọng đánh bại âm mưu xâm lược của thực dân Pháp.

1.3.2. Đảng bộ tỉnh Thanh hoá chỉ đạo chi viện cho

tiền tuyến trong những năm đầu kháng chiến chống

thực dân Pháp

Sau Cách mạng Tháng Tám, cùng với nhân dân cả nước chống thực dân

Pháp, từ ngày 23 - 9 - 1945 đến ngày 6 - 1 - 1946, Thanh Hoá đã tiễn 3 đại đội lên

đường Nam tiến. Con em tỉnh Thanh Hoá đã chiến đấu ngoan cường góp phần

không nhỏ chặn đứng âm mưu “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp ở Nam Bộ.

32

Ở vào vị trí địa đầu của vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Thanh Hoá có

vị trí quan trọng đối với diễn biến chiến sự của đồng bằng Bắc Bộ và Bình -

Trị - Thiên. Những năm 1947 - 1948, chiến sự Bình - Trị - Thiên diễn ra khốc

liệt, gây ra nhiều tổn thương cho nhân dân ba tỉnh. Nhân dân Thanh Hoá

không chỉ tiếp nhận nuôi dưỡng, chăm sóc sức khoẻ cho thương binh, bộ đội,

nhiều nữ thanh niên xung phong làm hộ lý, phục vụ các trạm thương binh ở

Tây Hồ, Xuân Minh (huyện Thọ Xuân) mà còn hưởng ứng tuần lễ “Ủng hộ

Bình - Trị - Thiên” và “Tuần lễ binh sĩ” của Liên khu IV phát động. Các đoàn

thể và nhân dân Thanh Hoá đã cùng với Nghệ Tĩnh đóng góp được 1.875.000

đồng, công nhân “làm giờ cứu nước”, Thanh Hoá góp được 1.037.185 đồng.

Liên đoàn lao động tỉnh đã động viên gần 100 cán bộ, đoàn viên bổ sung cho

các ngành dân chính Đảng và xây dựng cơ sở kháng chiến Bình - Trị - Thiên,

vận động quyên góp ủng hộ 73.500 đồng, chuyển vào ba tỉnh trên 100 tấn gạo,

320 tấn muối, 21.000 mét vải, 10.000 viên thuốc sốt rét, 300 súng trường,

35.000 quả lựu đạn, 200 đạn Bazoka…

Thực hiện khẩu hiệu “tất cả để đánh thắng” của Trung ương Đảng và

Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh, Thanh Hoá đã phát động toàn dân

hướng ra tiền tuyến, tất cả để chiến thắng. Các phong trào sửa cầu, sửa đường

đảm bảo giao thông được nhân dân hưởng ứng và tham gia sôi nổi. Tháng 4 -

1949, các đội chi viện tiếp tế vận tải được thành lập đã vận chuyển và cung

cấp tới Liên khu III, Liên khu X gần 500 tấn gạo, 200 tấn muối và Bình - Trị -

Thiên 55 tấn lúa. Cung cấp cho bộ đội và nhân dân Thượng du 99 tấn gạo, 160

tấn muối và 1 tấn cá khô.

Thấy rõ vị trí chiến lược của hậu phương Thanh Hoá, thực dân Pháp sử

dụng lực lượng với trang bị vũ khí hiện đại tấn công vào hậu phương Thanh

Hoá ở 2 địa bàn trọng yếu: miền biển và miền núi, hòng cắt đứt cửa ngõ tiếp

giáp, chi viện giữa hậu phương Thanh Hoá với Tây Bắc, Việt Bắc và Thượng

33

Lào. Để đối phó với âm mưu xâm lược của Pháp, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ

đạo quân dân tỉnh vừa đánh địch tại chỗ, bảo vệ hậu phương (trọng điểm là

miền Tây Thanh Hoá) vừa đẩy mạnh sản xuất, chi viện cho các chiến trường

trong nước và nước bạn Lào. Với khẩu hiệu “Thượng du thắng là Thanh Hoá

thắng”, quân và dân miền Tây Thanh Hoá liên tục tiến công tiêu diệt địch, gây

cho địch nhiều khó khăn, tạo điều kiện cho quân và dân ta giành thắng lợi

trong chiến dịch Lê Lợi tháng 11 - 1949. Trong chiến dịch này, Bộ Chỉ huy

chiến dịch đã phân công đồng chí Hoàng Sâm - Tư lệnh chiến dịch chỉ huy tác

chiến từ Hồi Xuân (Thanh Hoá) tiến quân đến Mai Hạ (Hoà Bình), đồng chí

Lê Trọng Tấn xuất phát từ Chợ Bờ tiến quân lên Suối Rút (Hoà Bình). Nhận

thức rõ vị trí của mình, các đại đội bộ đội địa phương Hà Văn Mao, Cầm Bá

Thước, dân quân du kích huyện Quan Hoá, Bá Thước đã phối hợp với các đại

đội 72, 78, 138 kiềm chế địch trong các đồn, hạn chế sự đánh phá của chúng

và ngăn chặn mọi hành động phản động của bọn lang đạo địa phương, đồng

thời hỗ trợ đắc lực cho các trung đoàn 209 thuộc Bộ, trung đoàn 66 của Liên

khu III và trung đoàn 9 của Liên khu IV tiến công địch ở đường 6 - Hòa Bình,

nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá âm mưu chia cắt chiến trường của chúng,

khai thông liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Liên khu III, đẩy mạnh chiến

tranh du kích. Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 800 tên

địch, con đường nối miền Tây Thanh Hoá với Chợ Bờ - Suối Rút (Hoà Bình)

được khai thông. Con đường này là tuyến giao thông huyết mạch nối hậu

phương Thanh Hoá với các chiến trường chi viện cho tiền tuyến, đỉnh cao là

chiến dịch Điện Biên Phủ sau này.

Năm 1950, quân và dân Thanh Hoá tiêu diệt vị trí Mường Xía (Quan

Sơn), giải phóng hoàn toàn miền Tây - vùng đất có vị trí, ý nghĩa chiến lược đặc

biệt quan trọng, không chỉ khai thông con đường giao thông huyết mạch nối

hậu phương Thanh Hoá với chiến trường trong nước mà còn đối với nước bạn

34

Lào. Vì vậy, cũng thời gian này, Chính phủ kháng chiến Lào từ Tuyên Quang

chuyển về Thanh Hoá, các đoàn chuyên gia và các đơn vị bộ đội tình nguyện

giúp bạn Lào cũng về Thanh Hoá. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá không chỉ

cung cấp, vận chuyển lương thực, thực phẩm cho căn cứ của bạn ở tỉnh Hủa

Phăn mà còn giúp đỡ Chính phủ kháng chiến Lào và các đơn vị tình nguyện xây

dựng nơi ăn chốn ở. Thanh Hoá trở thành căn cứ trực tiếp của cách mạng Lào.

*

* *

Cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến, Đảng bộ Thanh Hoá đã quán

triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và khắc sâu lời dạy của Bác Hồ, phát huy

những nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà” của vùng địa linh nhân kiệt, kịp

thời đưa ra chủ trương sát hợp với thực tế, lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân tỉnh

xây dựng, bảo vệ Thanh Hoá trở thành tỉnh kiểu mẫu - căn cứ hậu phương

kháng chiến trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã

hội, tạo ra tiềm lực vật chất và tinh thần không chỉ đảm bảo yêu cầu đời sống

nhân dân tại chỗ, bước đầu chi viện cho tiền tuyến mà còn tạo ra tiền đề, cơ sở

vững chắc, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến chuyển sang

giai đoạn mới.

35

Chương 2

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG

HẬU PHƯƠNG, TĂNG CƯỜNG CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN

(1951 - 1954)

2.1. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh

Thanh Hoá đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền

tuyến (1951 - 1954)

2.1.1. Yêu cầu nhiệm vụ cách mạng và chủ trương của Đảng Cộng

sản Việt Nam giai đoạn mới

Gần 5 năm kháng chiến, kiến quốc, nhân dân ta đã giành được những

thắng lợi to lớn trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội.

Đặc biệt, sau thắng lợi của chiến dịch Biên giới năm 1950, quân ta đã tiêu diệt

một bộ phận sinh lực địch, giải phóng biên giới phía Bắc, gắn cuộc kháng chiến

của ta với “hậu phương” rộng lớn các nước dân chủ nhân dân và các nước xã hội

chủ nghĩa, mở rộng khu Việt Bắc, giành thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ,

tạo ra tình thế mới, đưa cuộc kháng chiến sang giai đoạn phản công chiến lược.

Trên đà thắng lợi, Trung ương Đảng khẳng định: “Tổng phản công của ta

sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên xô và Trung Quốc về

vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn nhưng giành được thắng lợi phải do

sự nỗ lực của bản thân ta” [44, tr.414]. Điều này chỉ rõ, cuộc kháng chiến của

nhân dân ta vẫn là cuộc kháng chiến “trường kỳ, gian khổ và dựa vào sức mình

là chính” tiếp tục thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm nhiệm vụ: đánh bại

36

thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giành độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Để

thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến giai đoạn mới,

Đảng ta chỉ đạo, tăng cường tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực và tinh thần

của toàn dân theo khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

Trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới đặt ra, Đại hội lần

thứ II của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19 - 2 - 1951, tại Chiêm Hoá,

Tuyên Quang đã đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam “a. đánh

đuổi bọn đế quốc xâm lược, làm cho Việt Nam hoàn toàn thống nhất và độc

lập (phản đế); b. Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho

người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân (phản phong kiến); c.

Gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội” [44, tr.75]. Về mối quan hệ giữa các nhiệm

vụ chiến lược, Đại hội chỉ rõ: “Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ khăng khiết với

nhau. Song lúc này, phải tập trung mọi lực lượng để kháng chiến, đặng hoàn

thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Đó là trọng tâm của cách mạng trong giai

đoạn hiện tại. Nhiệm vụ dân chủ cũng phải làm, nhưng chỉ có thể làm trong

phạm vi không có hại mà có lợi cho việc tập trung lực lượng, hoàn thành

nhiệm vụ giải phóng dân tộc” [44, tr.76]. Đại hội lần thứ II của Đảng chính là

mốc son đánh dấu sự trưởng thành trong quá trình lãnh đạo cách mạng, thể

hiện sự sáng suốt của Đảng trong việc nắm bắt quy luật phát triển của cuộc

kháng chiến, phù hợp với xu thế của thời đại.

Giữa lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta liên tiếp giành nhiều thắng lợi

quan trọng trên chiến trường, ngày 25 - 1 - 1953, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp

hành Trung ương (khoá II) đã nhấn mạnh hai vấn đề chính: “1. Lãnh đạo kháng

chiến và chính sách quân sự. 2. Phát động quần chúng năm nay triệt để giảm tô,

thực hiện giảm tức để tiến đến cải cách ruộng đất" [47, tr.20 - 23]. Ba nhiệm vụ

lớn: Tiêu diệt sinh lực địch; phá âm mưu của địch dùng người Việt đánh người

Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; bồi dưỡng lực lượng nhân dân, lực lượng

kháng chiến và bốn công tác chính là: Thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm; đẩy

mạnh công tác trong vùng sau lưng địch; chỉnh quân; chỉnh Đảng [47, tr.27].

37

Ba nhiệm vụ và bốn công tác có mối quan hệ mật thiết với hai vấn đề to

nói trên. Vì, chỉ có thực hiện chính sách ruộng đất một cách đúng đắn và triệt để

thì mới có thể phát động được đông đảo quần chúng, mới có thể dựa vào lực

lượng nông dân để duy trì kháng chiến trường kỳ, phát triển và củng cố bộ đội,

tranh lấy thắng lợi hoàn toàn.

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư (khóa II) đã đề ra chủ trương

tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”

ngay trong những năm kháng chiến, đáp ứng nguyện vọng ngàn đời của

người nông dân, mang lại quyền lợi chính đáng cho gia đình, hậu phương

bộ đội, dân công... cổ vũ tinh thần, niềm tin của nhân dân đối với kháng

chiến, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hậu phương và tiền tuyến. Vì vậy,

Chỉ thị: “Toàn dân, toàn Đảng tập trung chi viện cho tiền tuyến” với khẩu

hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” được nhân dân hưởng

ứng nhiệt tình ở cả vùng tự do cũng như ở vùng còn bị địch tạm chiếm.

Nhân dân vừa tích cực đóng thuế nông nghiệp, bán thực phẩm, vừa cho vay,

ủng hộ kháng chiến cả bằng hiện vật, cả bằng tiền để cung cấp, tiếp tế cho

bộ đội ở mặt trận Điện Biên Phủ. Khẩu hiệu “người cày có ruộng” đã ảnh

hưởng mạnh mẽ đến “Tinh thần và lực lượng kháng chiến của hàng triệu

nông dân được động viên mạnh mẽ, khối liên minh công nông được tăng

cường, chính quyền nhân dân và Mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố,

sức chiến đấu của quân đội nhân dân được tăng lên chưa từng thấy, mọi mặt

hoạt động kháng chiến được đẩy mạnh. Cuộc vận động này đã góp phần

quyết định vào chiến thắng Điện Biên Phủ” [40, tr.18].

Trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến đặt ra, đòi hỏi Đảng bộ, quân

dân Thanh Hoá vừa xây dựng, củng cố, bảo vệ hậu phương vững mạnh toàn

diện, vừa chi viện kịp thời, to lớn cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.

38

2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đẩy mạnh xây dựng

hậu phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954)

Hoà chung với phong trào cách mạng của cả nước chuẩn bị cho tổng

phản công, làm tròn sứ mệnh lịch sử của căn cứ, hậu phương kháng chiến,

Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ III từ ngày 20 - 6

đến ngày 5 - 7 - 1950 tại Sơn Trung, xã Hợp Thành, huyện Nông Cống. Đại hội

đánh giá: trong thời gian qua, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã tích cực thi đua lập

nhiều thành tích to lớn trên các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã

hội… Tuy vậy, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến,

kiến quốc. Trước yêu cầu đòi hỏi sức người sức của ngày càng cao của cuộc

kháng chiến, Đại hội khẳng định: Thanh Hoá không thể không xây dựng thành

căn cứ địa vững chắc, lâu dài của chiến trường chính, của Liên khu. Thanh Hoá

phải: “Phát triển khả năng mọi mặt, xây dựng vững chắc, phục vụ lâu dài. Cụ thể

là không ỷ lại, chờ đợi, phải tự mình ra sức, bền bỉ và kiên quyết vượt qua mọi

khó khăn gian khổ và đồng thời phải tin vào dân, dựa vào dân để phát huy mọi

sức lực, sáng kiến của nhân dân để phát triển và xây dựng những khả năng sẵn có

thành lực lượng hùng hậu, vững chắc phục vụ lâu dài” [15, tr.234].

Với quyết tâm xây dựng Thanh Hoá thành căn cứ địa, hậu phương vững

chắc, tăng cường chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, Đại hội đề ra nhiệm vụ:

“Tăng cường sức mạnh của chế độ dân chủ nhân dân, khuyến khích mọi

lực lượng nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ hậu phương ngày càng vững

mạnh, củng cố chính quyền và mặt trận.

Đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, thực hiện chính sách ruộng đất,

đảm bảo quyền lợi của nông dân để bồi dưỡng sức dân, đáp ứng nhu cầu ngày

càng cao của chiến trường.

Xây dựng lực lượng quân sự mạnh, tăng cường công tác bố phòng, đẩy

mạnh chiến tranh nhân dân trong vùng địch tạm chiếm; đề cao chiến tranh

cảnh giác trước những âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của địch, đập tan các

tổ chức phản động, gián điệp, giữ vững hậu phương.

39

Xây dựng Đảng theo đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiện

toàn tổ chức, đẩy mạnh công tác tư tưởng, coi “đấu tranh tư tưởng là con

đường phát triển của Đảng”, nâng cao ý thức giai cấp và tinh thần quốc tế vô

sản” [15, tr.234 - 235].

Đại hội đồng thời phát động phong trào thi đua yêu nước trong toàn tỉnh

với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” nhằm động viên

sức người, sức của của căn cứ địa Thanh Hoá cho tiền tuyến.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Đảng bộ tỉnh, tinh thần đấu tranh

kiên cường của quân và dân Thanh Hoá đã góp phần không nhỏ cùng cả nước

liên tiếp đánh bại chiến lược “Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến

tranh nuôi chiến tranh”.

Giành thế chủ động trên chiến trường, Trung ương Đảng, đứng đầu là

Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở nhiều chiến dịch lớn, tiêu diệt bộ phận

sinh lực địch, thu hẹp vùng chiếm đóng của chúng, giải phóng đất đai, mở rộng

vùng giải phòng. Cuộc kháng chiến ngày càng đòi hỏi cao về vật chất và tinh

thần từ hậu phương. Đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến,

Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá từng bước nghiên cứu tình hình thực tiễn của tỉnh, đề

ra chủ trương tăng cường tiềm lực hậu phương, chi viện cao nhất, nhiều nhất

sức người sức của cho cuộc kháng chiến giành thắng lợi.

Từ thực tiễn cuộc kháng chiến, từ ngày 1 đến ngày 5 - 5 - 1952, Đảng

bộ tỉnh Thanh Hoá tiến hành Đại hội lần thứ IV, đánh giá một nhiệm kỳ tổ

chức lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, đề ra phương hướng nhiệm vụ mới, bầu

Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội chỉ rõ: “từ Đại hội lần thứ III đến nay,

trải qua những biến chuyển lớn của tình hình toàn quốc và những chủ trương

công tác mới do tình hình đề ra, phong trào chung toàn tỉnh đã có sự thay đổi,

lúc lên, lúc xuống, khi nặng nề, khi quật khởi” [87, tr.296].

Về mặt phục vụ tiền tuyến, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã đạt được thành

tích lớn trong 3 chiến dịch, cung cấp trên 40 vạn dân công (đây là số lượng

dân công dài hạn, chưa kể số lượng dân công ngắn hạn), tải trên 6.000 tấn

40

gạo, không chỉ góp phần vào thắng lợi trên chiến mà nhân dân tỉnh Thanh Hoá

còn tham gia nuôi dưỡng bộ đội, chăm sóc thương binh.

Từ đánh giá trên, Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, phân tích cụ thể điểm

mạnh, yếu của hậu phương Thanh Hoá, từ đó đề ra 4 nhiệm vụ sau đây:

“1. Phát triển sản xuất cải thiện dân sinh, thực hiện dân chủ, “trước mắt là

thực hiện cho có kết quả công tác trung tâm đại vận động sản xuất và tiết kiệm để

đẩy mạnh kháng chiến. 2. Tích cực phục vụ tiền tuyến và bảo vệ hậu phương

“lấy việc xây dựng cơ sở nhân dân làm căn bản”. 3. Củng cố và phát triển khối

đại đoàn kết toàn dân, đập tan âm mưu chia rẽ của quân thù “dùng người Việt

đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. 4. Xây dựng căn cứ địa miền

núi là nhiệm vụ chung của toàn Đảng bộ từ trung châu đến miền núi… nhiệm vụ

của tất cả các ngành với tinh thần “Thượng du xây dựng vững chắc là Thanh Hoá

xây dựng vững chắc” [87, tr.250].

Từ 4 nhiệm vụ cơ bản trên, Đại hội đề ra những mục tiêu cụ thể:

Về quân sự: cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ trong quân đội,

theo dõi tình hình địch sát sao; học tập chỉ đạo du kích chiến, xây dựng dân

quân du kích; củng cố và phát huy kết quả chỉnh huấn đợt 2; đẩy mạnh công

tác bảo mật phòng gian; tích cực chống giặc càn quét, đột nhập vào vùng ven

biển, đề cao cảnh giác, chống gián điệp, biệt kích; đẩy mạnh chiến tranh nhân

dân và du kích chiến ở vùng tạm chiến Nga Sơn và miền núi.

Về chính trị: ra sức củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong mặt trận Liên

Việt, đặc biệt chú trọng việc đoàn kết nông dân, lấy công nông liên minh làm nền

tảng. Đối với đồng bào công giáo phải nắm vững chính sách tự do tín ngưỡng,

vạch rõ âm mưu lợi dụng giáo dân của kẻ thù để giáo dục vận động giáo dân

đoàn kết tham gia kháng chiến. Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi,

Đảng và chính quyền luôn tôn trọng phong tục tập quán của địa phương, theo

đúng chính sách dân tộc: đoàn kết để kháng chiến. Đối với trí thức, phải nhận rõ

vai trò và khả năng cách mạng của lao động trí óc, cần giúp đỡ, giáo dục lập

41

trường kiên định kháng chiến. Phải xây dựng các tổ chức quần chúng đặc biệt là

công đoàn và nông hội làm nền tảng cho mặt trận, trên cơ sở khối liên minh công

nông. Phải xây dựng chính quyền nhân dân, gắn chặt nhân dân với chính quyền.

Phải làm cho cán bộ, chính quyền được nhân dân yêu mến, tin phục.

Về kinh tế: lấy phát triển sản xuất làm đầu. Không phát triển được sản

xuất thì không thể có kinh tế, tài chính. Phải thi hành chính sách ruộng đất để

“đoàn quân chủ lực” nông dân có điều kiện tăng gia sản xuất và phát triển

nghề thủ công. Cần nhanh chóng thống nhất quản lý tài chính, thực hiện tiết

kiệm bài trừ tham ô lãng phí, giáo dục ý thức bảo vệ của công. Xúc tiến việc

thu thuế nông nghiệp và công thương nghiệp. Ra sức bảo vệ đồng tiền hạt thóc

của công vì đó là mồ hôi và xương máu của đồng bào, chiến sĩ ở hậu phương

và cả tiền phương. Cần xúc tiến việc đấu tranh kinh tế với địch, nhất là các xã

gần vùng địch, bài trừ xa xỉ phẩm, không dùng hàng hoá của địch. Đảm bảo tự

cung tự cấp, nhân dân có thêm tiềm lực kinh tế đóng góp cho kháng chiến

ngày càng đòi hỏi nhiều hơn trên các chiến trường.

Về văn hoá - xã hội: Đảng bộ chủ trương phát triển nền giáo dục nhân dân,

phát triển phong trào bình dân học vụ và các trường cấp I, xây dựng các trường cấp II

và tư thục. Tăng cường giáo dục tư tưởng cho giáo sư2 và học sinh. Đưa chi bộ vào

nhà trường để lãnh đạo giáo dục nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của nhà

trường. Phụ huynh và nhân dân cũng được giáo dục để góp phần xây dựng nhà

trường.

Đối với văn hoá, văn nghệ, phải hướng dẫn và phát triển văn nghệ nhân

dân rộng rãi nhằm phục vụ sản xuất, phục vụ kháng chiến. Văn nghệ sĩ chuyên

nghiệp được giáo dục để đảm bảo hướng dẫn phong trào văn nghệ nhân dân ngày

2 Lúc này, thầy, cô giáo dạy từ cấp 2 trở lên được gọi là giáo sư

càng phát triển rộng rãi và mạnh mẽ.

42

Về xây dựng Đảng: đề cao công tác tư tưởng, “coi đấu tranh tư tưởng là

con đường phát triển của Đảng”, “vì sự tiến bộ về tư tưởng đã đưa Đảng bộ và

toàn bộ phong trào ngày càng phát triển”. Tăng cường ý thức giai cấp công nhân

và tinh thần quốc tế chân chính. Tất cả đảng viên phải tích cực học tập nắm vững

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chú trọng xây dựng

Đảng trong quân đội, ở vùng Thượng du và vùng công giáo… tăng cường sức

mạnh lãnh đạo của Đảng trên mọi phương diện và mọi lĩnh vực: tư tưởng, chính

trị, kinh tế, giáo dục, văn hoá - xã hội trong kháng chiến cũng như kiến quốc.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ IV đã xác định rõ phương

hướng và mục tiêu xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến cao hơn

trong giai đoạn cách mạng mới. Đây chính là nguồn ánh sáng soi đường, dẫn

lối để quân và dân Thanh Hoá tiếp tục sự nghiệp cách mạng mà Đảng, Bác Hồ

giao phó, xây dựng hậu phương, căc cứ địa vững chắc cho cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp.

2.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng hậu

phương, tăng cường chi viện cho tiền tuyến (1951 - 1954)

2.2.1. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo đẩy mạnh xây

dựng hậu phương

Xây dựng và phát triển tiềm lực của hậu phương trên các mặt: chính trị,

kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội… là điều kiện để Thanh Hoá vừa tự bảo vệ,

vừa chi viện cao nhất sức người, sức của cho tiền tuyến.

Thứ nhất, xây dựng hậu phương về chính trị. Đưa Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ tỉnh vào thực tiễn, ngày 27 - 9 -1952, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ họp và

đề ra những nhiệm vụ cụ thể như sau: Phát động nhân dân đấu tranh chính

trị, trừng trị bọn phản động tay sai của giặc; vạch rõ âm mưu của địch lợi

dụng tôn giáo phá hoại kháng chiến; xây dựng cơ sở vững chắc; đề cao tinh

thần cảnh giác chính trị trong cán bộ và nhân dân, vạch rõ nhiệm vụ kháng

43

chiến và sản xuất cho mọi người hiểu. Tăng cường khối đại đoàn kết nông

thôn.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, Tỉnh uỷ chỉ đạo các cấp củng cố chính

quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng như: Nông hội, Công hội, Thanh

niên, Phụ nữ… tiếp tục phát huy tính tiên phong gương mẫu của đảng viên,

các cấp uỷ Đảng trong đấu tranh chống quan liêu, mệnh lệnh, loại bỏ những

phần tử thoái hoá biến chất ra khỏi các cấp lãnh đạo. Đặc biệt chính quyền,

mặt trận tuyên truyền, xoá bỏ mặc cảm đối với giáo dân, tranh thủ vận động

quần chúng đấu tranh với địch và bọn phản động lợi dụng tôn giáo gây chia rẽ

lương - giáo. Đối với đồng bào các dân tộc phải tích cực động viên họ tham

gia kháng chiến, kiến quốc, xây dựng bản làng theo đời sống mới, đấu tranh

hạ uy tín của một lang đạo có hành động chống phá cách mạng.

Tỉnh uỷ chỉ rõ mục tiêu đấu tranh: “Cuộc đấu tranh của nhân dân ta phải

diễn ra trên nhiều mặt: đấu tranh về chính trị tư tưởng và tổ chức nhưng đấu tranh

chính trị là điều kiện cần thiết để sửa chữa tư tưởng và tổ chức, đập tan âm mưu

chính trị của địch. Vì chúng ta có đấu tranh chính trị mới phát động được quần

chúng để chống bọn phá rối, hướng dẫn quần chúng đi đúng đường lối của chúng

ta” [24, tr.255]. Thực hiện mục tiêu trên, Tỉnh uỷ chỉ đạo làm thí điểm ở hai thôn

Hàm Ninh và An Hảo thuộc xã Hoằng Trạch, huyện Hoằng Hoá với 6.000 quần

chúng tham gia phiên toà xét xử 2 tên phản động lợi dụng tôn giáo chống phá

cách mạng. Từ đó, cuộc đấu tranh chính trị lan rộng ra các xã Hoằng Đức, Hoằng

Trình, Hoằng Lộc… Nhân dân ở đây đã vạch mặt bọn phản động kích động dân

công đào ngũ, bỏ trốn, không thực hiện nhiệm vụ và kích động quần chúng biểu

tình chống chính sách thuế nông nghiệp.

Tuy vậy, trong quá trình đấu tranh, một số nơi chưa kết hợp chặt chẽ

đấu tranh chính trị với củng cố tổ chức và thực hiện triệt để các chính sách của

Đảng và Chính phủ. Bọn phản động vẫn ngoan cố cấu kết với địa chủ cường

hào chống phá cách mang. Trước tình hình đó, ngày 11 - 12 - 1951, Thường

44

vụ Tỉnh uỷ chỉ thị: “Hoạt động phản ứng chính sách của một số kỳ hào phú

hữu ngoan cố và bọn phản động phá rối nội bộ nhiều hơn trước… có những

cán bộ bị kỷ luật đã cấu kết với số này phá công tác chỉnh lý… Sở dĩ có tình

trạng trên vì tư tưởng của các cấp bộ chưa thực sự thống nhất, dứt khoát nên

không cương quyết thi hành Nghị quyết của Đại hội cán bộ toàn tỉnh” [24,

tr.256]. Mặt khác, trong đấu tranh chính trị còn bộc lộ một số sai lầm nghiêm

trọng. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền không chỉ đạo chặt chẽ, thiếu thận

trọng nên nhiều lúc, nhiều nơi không xác định đúng đối tượng, mục tiêu và

phương hướng đấu tranh. Nhiều nơi đã sử dụng nhục hình, thiếu tính giáo dục,

thuyết phục đối với một số đối tượng. Đau xót nhất là nhiều đảng viên, cán bộ,

quần chúng tốt bị quy oan là việt gian, phản động làm tay sai cho giặc nên bị

theo dõi và đem ra “đấu tố, quy kết oan…”. Những sai lầm, thiếu sót đã ảnh

hưởng không tốt đến chính sách đại đoàn kết toàn dân của Đảng. Kịp thời phát

hiện sai lầm, khuyết điểm trong đấu tranh chính trị do Liên khu IV phát động

và tổ chức, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị ngừng đấu

tranh chính trị và kiểm điểm rút kinh nghiệm. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền

đã nghiêm túc tự phê bình, nhận sai lầm và quyết tâm khắc phục.

Bên cạnh đó, xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới,

công tác xây dựng Đảng được Đảng bộ tỉnh đặc biệt coi trọng, Tỉnh uỷ mở cuộc

vận động “cải cách tư tưởng”, “xây dựng Đảng theo tinh thần chủ nghĩa Mác -

Lênin”, “học tập lý luận, đào tạo cán bộ”, “nâng cao tự phê bình và phê bình”

(1951 - 1952), “chỉnh Đảng” (1953 - 1954) đã góp phần củng cố và xây dựng

Đảng bộ vững mạnh về mọi mặt, không ngừng nâng cao sức chiến đấu của toàn

Đảng bộ, giải quyết những nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn cách mạng mới,

cùng toàn dân, toàn quân trong tỉnh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của hậu

phương, ra sức chi viện đầy đủ, kịp thời sức người, sức của cho tiền tuyến. Xây

dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị, kiện toàn tổ chức, đẩy mạnh công

45

tác tư tưởng, coi “đấu tranh tư tưởng là con đường phát triển của Đảng”, nâng

cao ý thức giai cấp và tinh thần quốc tế vô sản nhằm loại bỏ những phần tử

thoái hoá, biến chất ra khỏi hàng ngũ của Đảng.

Xây dựng hậu phương Thanh Hoá vững mạnh về chính trị có tác dụng ổn

định tình hình chính trị, tư tưởng, động viên quân dân Thanh Hoá thực hiện

thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng hậu phương, tăng cường chi viện cho

tiền tuyến.

Thứ hai, xây dựng hậu phương về kinh tế. Tỉnh uỷ đã tổ chức chỉ đạo

toàn Đảng bộ, toàn dân học tập và thực hiện Sắc lệnh cải cách ruộng đất và

giảm tô triệt để của Đảng và Chính phủ. Tháng 3 - 1953, Tỉnh uỷ chỉ đạo thí

điểm cải cách ruộng đất đợt 1 ở 6 xã thuộc huyện Nông Cống. Chính quyền đã

trưng thu 1.744 mẫu ruộng, 22 tấn thóc, 207 trâu bò và nhiều công cụ sản xuất

của địa chủ cường hào, ác bá chia cho 1.285 gia đình bần, cố, trung nông.

Tổng kết đợt 1, Tỉnh uỷ chỉ đạo cải cách ruộng đất đợt 2 ở 66 xã của 3

huyện Đông Sơn, Hoằng Hoá, Quảng Xương. Trong đợt này, chính quyền đã

trưng thu, trưng mua 110.600 mẫu ruộng và hàng ngàn con trâu, bò, công cụ

sản xuất… chia cho nông dân nghèo phát triển sản xuất.

Qua hai đợt cải cách ruộng đất, ước mơ ngàn đời của người nông dân đã

được thực hiện ở 72 xã thuần nông và một số huyện trên phạm vi toàn tỉnh.

Điều này đã đem lại quyền lợi chính đáng, nâng cao đời sống nhân dân, người

dân Thanh Hoá tin tưởng, phấn khởi nỗ lực sản xuất, tích cực tham gia kháng

chiến, kiến quốc.

Song song với chỉ đạo cải cách ruộng đất, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo phong trào

đấu tranh thực hiện triệt để giảm tô và giảm tức. Trong 4 đợt phát động quần

chúng ở 108 xã thuộc 13 huyện trung châu, chính quyền các địa phương đã

thu được 6.337 tấn thóc chia cho dân nghèo. Riêng các huyện miền núi, chính

quyền cách mạng đã tịch thu ruộng đất vắng chủ và ruộng đất của bọn phản

46

động chia cho nông dân sản xuất.

Chính sách cải cách ruộng đất, giảm tô, giảm tức từng bước nâng cao vị

thế chính trị và kinh tế cho nông dân và nhân dân lao động, làm cho bà con nông

dân càng gắn bó khăng khít với cách mạng. Các chính sách thuế nông nghiệp,

tổng động viên được thực hiện mau chóng và đạt yêu cầu kế hoạch đề ra. Nếu

năm 1951, thuế nông nghiệp chỉ thu được 47% kế hoạch thì năm 1953 đã thu

được 96% kế hoạch. Toàn tỉnh đã thu được 3.240 tấn lúa và 453 triệu đồng.

Chính sách cải cách ruộng đất và giảm tô, giảm tức được thực hiện trên toàn

tỉnh đã tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa - xã hội.

Tháng 3 - 1953, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị cán bộ cấp xã và chiến sỹ thi đua

bàn biện pháp cứu đói và phát triển kinh tế. Đồng bào trong tỉnh đã góp 455 tấn

thóc, gần 13 tấn gạo, 2.000 thúng khoai khô và 17 triệu đồng giúp bà con vùng

thiếu lương thực lúc giáp hạt đúng với tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói

khi no”. Nông dân ở vùng mất nước nông giang (Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Đông

Sơn...) tích cực làm thủy lợi và chuyển hướng canh tác phát triển sản xuất. Chỉ

trong tháng 8-1953, nông dân trong tỉnh đã đắp được 738 ngàn m3 đất đá. Riêng

huyện Hoằng Hóa đã đào đắp được 450 ngàn m3 với 562 ngàn ngày công lao

động. Do vậy, ruộng đất đã có nước cày cấy được 79.240 mẫu lúa.

Không chỉ nông nghiệp phát triển mà các ngành nghề thủ công cũng phát

triển. Hai nghề dệt vải và làm giấy phục vụ “cái mặc” và “cái học” phát triển

mạnh hơn cả. Nghề dệt được mở rộng ở thị xã Thanh Hóa, huyện Hoằng Hóa,

huyện Thọ Xuân. Riêng huyện Hoằng Hóa đã có 3.000 khung dệt vải khổ rộng.

Ngành làm giấy cũng phát triển mạnh ở các huyện Nông Cống, Thiệu Hóa, Thọ

Xuân. Đánh cá và làm muối cũng đạt năng suất cao. Năm 1953, dân làm muối

các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Tĩnh Gia đã nhập kho được 1.498 tấn muối.

Các mặt hàng thủ công của Thanh Hóa không những đáp ứng đủ nhu

cầu tiêu dùng trong tỉnh mà còn có phần đem trao đổi với các tỉnh bạn. Năm

1953, tỉnh Thanh Hoá đã xuất ra khu III, khu Việt Bắc và trao đổi với nước

47

bạn Lào trong khu giải phóng Sầm Nưa một khối lượng hàng hóa trị giá bằng

25 triệu đồng Đông Dương. Kinh tế phát triển đã làm cho tỷ giá hối đoái giữa

tiền Đông Dương và tiền Việt Nam có sự thay đổi lớn. Đầu năm 1953, một

đồng Đông Dương bằng 75 đồng tiền ngân hàng; cuối năm 1953, một đồng

tiền Đông Dương chỉ còn bằng 30 đồng ngân hàng Việt Nam.

Giao thông giữ vai trò quan trọng trong việc đi lại của nhân dân, giao lưu

kinh tế giữa các vùng và vận chuyên hàng hóa phục vụ kháng chiến. Từ nhận thức

đó, Tỉnh ủy chỉ đạo các huyện, thị tích cực làm đường và phát triển các phương

tiện vận tải đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp kháng chiến và kiến

quốc. Cả tỉnh đã có 7 ngàn xe đạp thồ, 181 xe ba gác, 226 xe bò, 10 ô tô, 1.549

thuyền ván, 16 ca nô và nhiều phương tiện vận tải khác. Năm 1953, tỉnh Thanh

Hoá đã sửa 2 đường giao thông chiến lược: đường Vạn Mai - Chuối và đường Trại

Ngọc - Vĩnh Bắc dài 200 km. Tỉnh uỷ đã chỉ đạo tu sửa 4 đường giao thông quan

trọng trong nội tỉnh làm cho việc đi lại, vận chuyển giữa các miền (vùng) thuận lợi

hơn. Ty Giao thông đã điều động nhân lực vào việc đào vét kênh Than (thuộc

huyện Tĩnh Gia nối với Nghệ An) và đắp hàng trăm kilômét đường liên thôn, liên

xã, liên huyện góp phần thúc đẩy nền kinh tế, văn hóa phát triển.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh uỷ, kinh tế Thanh Hoá ngày càng vững mạnh,

không chỉ đáp ứng đời sống nhân dân tại chỗ mà còn tăng cường chi viện tới các

chiến trường trong nước và làm nghĩa vụ quốc tế.

Thứ ba, xây dựng hậu phương về quân sự. Trong những năm 1952 - 1954,

hậu phương Thanh Hóa giữ vai trò quan trọng đối với chiến trường Bắc Việt và

Bắc Lào. Thấy được vị trí chiến lược đó, thực dân Pháp tập trung lực lượng đánh

vào hậu phương Thanh Hoá từ nhiều hướng. Chúng cho quân từ biển đổ bộ vào

càn quét các huyện ven biển và liên tục cho quân càn quét các huyện phía Bắc, tổ

chức biệt kích và thổ phỉ đánh phá miền Tây, ngăn chặn các con đường tiếp viện

của hậu phương cho các chiến trường Bắc Việt và Bắc Lào. Chúng xây dựng các

48

tổ chức phản động, tung gián điệp, biệt kích liên tục quấy phá hậu phương.

Quyết tâm bảo vệ vững chắc hậu phương Thanh Hóa, từ ngày 18 đến ngày

20 - 12 - 1952, Hội nghị Tỉnh ủy trên cơ sở đánh giá tình hình đã đề ra kế hoạch

bảo vệ hậu phương: Theo kinh nghiệm chiến đấu, quân thù càng thất bại càng điên

cuồng đánh phá vùng tự do, đặc biệt là hậu phương Thanh Hóa ác liệt hơn, nhằm

phá hoại sản xuất, ngăn chặn chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Vì vậy,

Đông Xuân 1952 - 1953, quân Thanh Hóa phải:

“1. Phòng không: đặt trách nhiệm cho các cấp uỷ Đảng, cách mạng phải

bảo vệ tài sản của nhân dân. Phải sử dụng cho được lực lượng thanh niên và

dân quân trong công việc phòng không ở nông thôn, thị trấn cũng như chợ cần

tăng cường việc đào hầm trú ẩn.

2. Bảo mật phòng gian: các cơ quan, quân xưởng phải phối hợp với

nhân dân địa phương trong việc bảo mật phòng gian...

3. Đấu tranh trấn áp gián điệp: công an, chính quyền thống nhất với bộ

đội, dân quân kế hoạch phòng chống gián điệp để có kế hoạch trấn áp kịp thời…

Trong các cấp ủy Đảng, đồng chí Bí thư phải nắm được danh sách gián

điệp, phản động, tình nghi để có kế hoạch theo dõi” [66, tr.5 - 6].

Thực hiện Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng, quy định của

Bộ Quốc phòng (2 - 1950) về việc thành lập Đại đoàn 304 và triển khai chủ

trương của Tỉnh ủy, các lực lượng vũ trang nhân dân: Bộ đội địa phương, dân

quân du kích, công an tích cực xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các phương án

tác chiến, các phương án chống gián điệp, biệt kích, tiễu phỉ trừ gian, bảo vệ

vững chắc hậu phương Thanh Hóa trong mọi tình huống. Ngày 10 - 3 - 1950

tại làng Tam Lạc, Thọ Xuân, Đại đoàn 304 chính thức được thành lập gồm:

“Trung đoàn 665, chủ lực của Liên khu III và Trung đoàn 57, Trung đoàn 9

của Liên khu IV do đồng chí Hoàng Minh Thảo làm Tư lệnh trưởng, đồng chí

Trần Văn Quang làm Chính uỷ [65, tr.242]. Sự ra đời của Đại đoàn 304 đứng

chân trên địa bàn Thanh Hoá góp phần bảo vệ hậu phương Thanh Hoá.

49

Tháng 8 - 1950, tại miền Tây Thanh Hoá, Tỉnh uỷ quyết định tập trung

3 đại đội Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước, Tống Duy Tân thành tiểu đoàn bộ

binh 325 thực hiện nhiệm vụ bảo vệ miền Tây. Tỉnh uỷ quyết định giao nhiệm

vụ cho đại đội Hà Văn Mao trấn giữ Bá Thước, đại đội Tống Duy Tân bảo vệ

Quan Hoá, đại đội Cầm Bá Thước bảo vệ Thường Xuân và Lang Chánh. Mặt

khác, Tỉnh uỷ còn chỉ đạo tăng cường một tiểu đoàn chủ lực cho huyện Nga

Sơn và bố trí lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích suốt vùng biển từ

Nga Sơn vào Tĩnh Gia - sẵn sàng đối phó và bẽ gãy các cuộc càn quét của

địch. Tại miền Tây, quân dân tỉnh đã đập tan cuộc bạo loạn của bọn phản động

ở các xã Ban Công, Quốc Thành, Cổ Lũng thuộc huyện Bá Thước.

Miền Tây Thanh Hóa - vị trí chiến lược, cầu nối giữa hậu phương Thanh

Hoá với các chiến trường phía Bắc, thực dân Pháp đã dựa vào bọn thổ ty lang

đạo phản động tổ chức các toán phỉ và biệt kích nhảy dù xuống miền Tây, kết

hợp với bọn phỉ địa phương chống phá sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc ở các

huyện miền núi. Quyết tâm bảo vệ miền Tây, Tỉnh ủy chỉ đạo tăng cường lực

lượng cho các huyện miền núi nhiều cán bộ chính trị có năng lực, vận động đồng

bào các dân tộc và điều động các Đại đội 128, 136, 185 bộ đội địa phương tỉnh

phối hợp với công an, dân quân các huyện miền Tây tiến hành tiểu phỉ trừ gian.

Vào cuối năm 1952, quân dân các huyện Lang Chánh, Quan Hóa tập

trung lực lượng tấn công các toán thổ phỉ hoạt động ở các khu vực sông

Luồng, sông Lò, sông Mã và xã Quốc Thành (Bá Thước), mỗi khu vực có

khoảng 200 tên phỉ. Đợt này, Thanh Hoá chưa phát huy được sức mạnh đại

đoàn kết các dân tộc nên kết quả tiểu phỉ chưa cao. Kịp thời rút kinh nghiệm,

Tỉnh ủy đã tổ chức lực lượng, chọn phương pháp tác chiến thích hợp, dựa vào

nhân dân. Vì vậy, đợt tiêu phỉ đợt 2 (tháng 8 - 1953), bộ đội, công an đã kết

hợp với các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dàn các huyện: Quan Hóa, Bá

Thước, Lang Chánh tuyên truyền giáo dục vận động những gia đình có người

theo phỉ, phát hiện địa điểm đóng quân của phỉ, kêu gọi những người đi theo

50

địch trở về với cách mạng, đồng thời sử dụng lực lượng bao vây tấn công, cô

lập từng toán phỉ, bao vây, tiêu diệt những tên cầm đầu ngoan cố.

Liên tiếp thất bại, Pháp tăng thêm 200 tên biệt kích nhảy dù xuống Mường

Pao và 57 tên nháy dù xuống Hồi Xuân, Phú Lệ vào tháng 10 - 1953 để tiếp viện

và trấn an bọn tiểu phỉ. Nắm vững tình hình hoạt động của chúng, Tỉnh ủy đã xây

dựng kế hoạch chỉ đạo tổ chức tiểu phỉ đợt 3 nhằm quét sạch các toán phỉ còn lại

và tấn công vào hang ổ của chúng ở huyện Mường Xôi thuộc tỉnh Hủa Phăn

(Lào). Sau 8 tháng chiến đấu kiên cường, được sự giúp đỡ nhiệt tình của đồng

bào các dân tộc, quân và dân Thanh Hoá đã tiêu diệt 70 tên, bắt sống 96 tên, gọi

hàng 600 tên, thu 855 súng các loại. Thừa thắng, quân dân ta đồng loạt tiến công

vào Mường Pao, kết hợp với địch vận gọi hàng 308 tên, bắt sống 200 tên tại Sầm

Tớ và toàn bộ bọn phỉ còn lại ở Sơn Thủy và Hiền Kiệt.

Cùng với việc sử dụng phỉ đánh phá vào miền Tây, thực dân Pháp tiến hành

phong tỏa và tiến công vùng duyên hải, ào ạt đánh vào phía Bắc tỉnh Thanh Hoá.

Ngày 15 - 10 - 1953, địch mở chiến dịch “Hải Âu” (Monette) tiến đánh vào Tây

Nam Ninh Bình, uy hiếp các huyện phía Bắc Thanh Hóa: Nga Sơn, Hà Trung và

vùng duyên hải tỉnh Thanh Hoá. Trong chiến dịch “Hải Âu”, Pháp - Mỹ đã huy

động 6 binh đoàn cơ động, 9 tiêu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn thiết giáp.

Trước sức mạnh của địch, ngày 23 - 10 - 1953, Tỉnh uỷ Thanh Hoá ra

quyết định: tích cực đẩy mạnh công tác bố phòng chuẩn bị tác chiến, sẵn sàng

đối phó với âm mưu táo bạo, liều lĩnh của giặc tấn công vào Thanh Hoá, đảm

bảo tính mạng, tài sản cho nhân dân, bảo vệ hậu phương Thanh Hoá. Thực thi

quyết định của Tỉnh uỷ và thi đua với quân dân miền Tây giết giặc lập công,

quân và dân các huyện phía Bắc, đặc biệt là Nga Sơn, Hà Trung cùng quân

dân các huyện vùng duyên hải tăng cường chống càn, tiêu diệt nhiều sinh lực

địch, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.

Hòa chung với thắng lợi của quân và dân ta trong chiến đấu ở phía Bắc,

công an tỉnh đã kết hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang và nhân dân đập tan

các tổ chức phản động gián điệp, trừng trị nhiều tên đầu sỏ. Đó là các tổ chức

51

“Liên tôn diệt cộng”, “Quốc dân địa chủ” ở miền Tây, “Thanh niên phật tử”

ở thị xã Thanh Hoá, Hoằng Hoá, Nông Cống… Nhiều tên trộm cướp, lưu

manh chuyên nghiệp cũng bị truy bắt. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội được củng cố vững chắc.

Kết quả đạt được trên lĩnh vực quân sự không chỉ bảo vệ vững chắc hậu

phương Thanh Hoá mà còn góp phần vào việc xây dựng và trưởng thành của

quân đội nhân dân Việt Nam.

Thứ tư, xây dựng hậu phương về văn hoá - xã hội. Thực hiện Đề án Cải

cách giáo dục của Hội đồng Chính phủ, căn cứ vào tình hình thực tế của tỉnh,

Tỉnh uỷ đề ra chủ trương phát triển giáo dục dân chủ nhân dân nhằm nâng cao

dân trí, đào tạo nhân lực, góp phần xây dựng hậu phương ngày càng vững

mạnh. Trong kháng chiến chống Pháp, trường sư phạm Sơ cấp Liên khi IV đặt

tại huyện Thọ Xuân, trường sư phạm cấp tốc miền núi đặt tại Ngọc Lạc.

Ngành bình dân học vụ và bổ túc được coi là nhiệm vụ chủ yếu của sự

nghiệp giáo dục của tỉnh. Toàn tỉnh đã tổ chức được 7.950 lớp học với 165

ngàn học viên, trong đó hai trường phổ thông được xây dựng để bổi dưỡng

cho những chiến sỹ thi đua, những cán bộ gương mẫu về khoa học và văn hóa.

Sau 4 khóa học, hai trường đã đào tạo được 428 cán bộ.

Hầu hết các xã đều có trường cấp I. Toàn tỉnh đã xây dựng được 450

trường cấp I với 57 ngàn học sinh, 85 trường cấp II với 10 ngàn học sinh và 3

trường cấp III với 715 học sinh. Trường cấp III Đào Duy Từ đóng tại Xuân

Lộc - Xuân Thịnh được mở rộng đón học sinh trong tỉnh và học sinh của các

tỉnh bị chiếm đóng ở khu III, Thủ đô Hà Nội, Bình - Trị - Thiên về học.

Đảm bảo cho mọi người dân đều được chăm sóc sức khỏe, tỉnh quyết

định mở mạng lưới và đào tạo cán bộ y tế. Năm 1954, ngành y tế đã xây dựng

hệ thống trạm xá cấp xã, phòng ban cấp huyện, xây dựng thêm 4 bệnh viện

khu vực, đào tạo 2.000 y tá, 429 nữ hộ sinh, tổ chức được 2.781 đội phòng

bệnh để thực hiện tốt phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh”.

52

Trong những năm từ 1952 - 1954, cuộc kháng chiến của nhân dân ta

chuyển sang giai đoạn tổng phản công, hậu phương Thanh Hóa có những biến

đổi lớn: Đấu tranh chính trị, đấu tranh đòi triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức,

cải cách ruộng đất, thi đua phục vụ tiền tuyến... Anh chị em nghệ sỹ đã tự

nguyện hòa nhập vào cuộc sống xây dựng và chiến đấu để sáng tác và hướng

dẫn phong trào quần chúng. Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển rộng

đã góp phần cổ vũ toàn quân, toàn dân tin tưởng phấn khởi sản xuất và chiến

đấu phục vụ kháng chiến.

Kết quả xây dựng hậu phương về văn hoá - xã hội là minh chứng, hậu

phương Thanh Hoá không chỉ chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến mà

nơi đây đã đón các nhà lãnh đạo, nhà văn, tướng lĩnh, văn nghệ sỹ về đây hoạt

động: Tướng Nguyễn Sơn - Khu uỷ trưởng quân khu IV. Ông đã quy tụ các

văn nghệ sĩ tản cư về Thanh Hoá: Mạnh Phú Tư, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân,

Lưu Trọng Lư, Vũ Ngọc Phan, Bùi Xuân Phái... đưa họ vào quân đội, bồi

dưỡng, hướng dẫn họ sáng tác văn hoá văn nghệ phục vụ kháng chiến.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, điều hành của chính quyền và sự

vận động nhân dân của Mặt trận các cấp, tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng hậu

phương tỉnh vững chắc trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa,

giáo dục... Đó là tiềm lực vật chất và tinh thần to lớn của hậu phương, đáp ứng

yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến, góp phần xứng đáng cùng cả

dân tộc làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954.

2.2.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chỉ đạo tăng cường chi viện cho tiền tuyến

Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ, quân và dân Thanh Hoá

cùng cả nước nêu cao tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

Đầu năm 1951, Thanh Hoá vận chuyển 5.000 tấn gạo phục vụ chiến dịch

Trung du với tinh thần tất cả cho tiền tuyến. Cũng thời gian ấy, Trung ương

giao tỉnh Thanh Hoá vận chuyển 5.000 tấn thóc ra Liên khu III chuẩn bị chiến

53

dịch Hà Nam Ninh. Gần 1 tháng vận chuyển lương thực trong giá rét, đường

trơn, hơn 6 vạn dân công đã đưa 4.635 tấn 838 kg thóc lên Thạch Thành tập

kết phục vụ chiến dịch, đạt 98% kế hoạch.

Trong chiến dịch Hoà Bình, Tỉnh uỷ đã huy động 78.488 dân công ngắn

hạn và 21.786 dân công dài hạn, vận chuyển 1.143 tấn lương thực. Chiến dịch

Tây Bắc năm 1952, toàn tỉnh huy động 99.897 dân công dài hạn và 41.703 dân

công ngắn hạn vận chuyển vũ khí, lương thực phục vụ chiến dịch.

Trên đà thắng lợi, tháng 9 - 1953, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương

Đảng họp bàn nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân (1953 - 1954). Tây Bắc được chọn làm

hướng tiến công chính của ta. Đáp ứng yêu cầu của tiền tuyến, hậu phương Thanh Hoá

đã phát động phong trào chia cầu, chia đường, tổ chức các đội dân quân, lão quân, thiếu

niên quân, bảo vệ, dân công hoả tuyến ra sức sửa chữa những đoạn đường bị địch đánh

phá và làm mới đường bộ từ Hồi Xuân, Cẩm Thuỷ, Như Xuân (Thanh Hoá) qua Suối

Rút qua Vạn Mai (Hoà Bình) đến Mộc Châu (Sơn La). Hàng trăm cầu, phà lớn nhỏ

được xây dựng để ô tô 8 tấn có thể qua lại. Các tuyến đường thuỷ Hàm Rồng - Cẩm

Thuỷ, Hàm Rồng - Kim Tân, Hàm Rồng - Nghệ An… cũng được khôi phục. 56 tập

đoàn vận tải thuỷ, bộ của tỉnh cũng được huy động phục vụ chiến dịch. Thanh Hoá

được Trung ương giao mở đường, khai thông đường 41 lên Điên Biên Phủ và bắt đầu

vận chuyển chuyến hàng đầu tiên cho chiến dịch. Mở đầu đợt vận chuyển, Trung ương

giao Thanh Hoá chi viện 1.352 tấn gạo giao tại Hồi Xuân, 100 tấn thực phẩm giao tại

Sơn La. Nhân dân Thanh Hoá dùng thuyền nan, xe đạp thồ, đôi bờ vai vượt trên 200km

đường rừng núi hiểm trở, bom đạn của địch, kịp thời đưa hàng lên Tây Bắc. Sau thắng

lợi này, hậu phương Thanh Hoá được nối liền với căn cứ địa Việt Bắc. Đây là điều kiện

thuận lợi để hậu phương Thanh Hoá tiếp tục chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

Cùng với chi viện cho Tây Bắc, quân và dân Thanh Hoá còn làm nghĩa vụ

quốc tế cao cả, phục vụ chiến dịch Thượng Lào. Trong chiến dịch này, Thanh Hoá

đã huy động hơn 10 ngàn dân công làm đường chiến lược, tu sửa hàng trăm chiếc

54

cầu lớn nhỏ trên trục đường từ Thanh Hoá đi Sầm Nưa. Đồng thời sức người cũng

được huy động vận chuyển lương thực cho tiền tuyến. Những đoàn thuyền trở

lương thực ngược dòng sông Chu, sông Mã, từ Thọ Xuân - Cẩm Thuỷ đến Yên

Lược - Mường Lát, Na Mèo - Sầm Nưa; những đoàn xe thồ, người gánh bộ tải

lương đã băng qua núi non trùng điệp, dốc đứng cheo leo, hiểm trở… vẫn nêu cao

tinh thần “tất cả cho chiến dịch”, “tất cả cho bộ đội ăn no, đánh thắng”.

Góp phần làm nên thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào, “Thanh Hoá

đã huy động hơn 35.000 dân công, gần 5.000 xe đạp thồ, vận chuyển 1.500

ngàn tấn gạo và hàng trăm tấn thực phẩm, vũ khí lên Sầm Nưa đảm bảo 76%

nhu cầu chiến dịch. Thanh Hóa được Bác Hồ tặng cờ “Phục vụ tiền tuyến khá

nhất”, riêng Đại đội 3 huyện Hậu Lộc và Đoàn xe thồ thị xã Thanh Hoá đã

vinh dự được Bác Hồ tặng cờ danh dự. Đoàn xe thồ thị xã Thanh Hoá còn

được quân đội giải phóng Lào tặng cờ” [31, tr.187].

Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào có ý nghĩa chiến lược đối với

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của 3 nước Đông Dương. Vùng giải

phóng được mở rộng liên hoàn, nối liền một dải từ Việt Bắc, Tây Bắc đến

Thượng Lào, Trung Lào, Liên khu IV; phá vỡ thế bao vây chia cắt chiến lược

của địch ở phía Tây và tạo ra cục diện mới có lợi cho ta giành thắng lợi quyết

định trong chiến cuộc Đông - Xuân (1953 - 1954) mà đỉnh cao là chiến dịch

Điện Biên Phủ. Đối với Thanh Hoá, thắng lợi này còn phá vỡ vành đai phong

tỏa của địch ở phía tây, tạo điều kiện thuận lợi cho Thanh Hoá xây dựng và

bảo vệ hậu phương vững chắc, tăng cường chi viện cho chiến trường.

Thắng lợi của chiến cuộc Đông - Xuân (1953 - 1954) đã làm phá sản bước

đầu kế hoạch Navare của Pháp - Mỹ, đẩy chúng vào thế bị động, bị giam chân tại

miền rừng núi và buộc quân chủ lực của chúng phải phân tán. Thắng lợi đó là cơ

sở tiền đề để ngày 6 - 12 - 1953, Bộ Chính trị thông qua phương án mở chiến

55

dịch Điện Biên Phủ và bắt đầu huy động sức mạnh của toàn dân cho chiến dịch

lịch sử cuối cùng với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”.

Quy mô và yêu cầu của chiến dịch này cao hơn nhiều so với các chiến dịch

trước đó. Vì vậy, Tỉnh uỷ đã tổ chức hội nghị cán bộ mở rộng, ra Nghị quyết số 84/

NQ - TH nhấn mạnh: “tập trung sức thực hiện chủ trương kế hoạch chiến lược

Đông - Xuân 1953 - 1954 của Trung ương đề ra”. Thực hiện nhiệm vụ của Đảng và

Chính phủ giao, bước vào chiến dịch Điên Biên Phủ, Tỉnh uỷ Thanh Hoá đã chỉ đạo

thành lập “Hội đồng cung cấp” của tỉnh và đề ra kế hoạch nhằm nhanh chóng huy

động lương thực, thực phẩm và hàng hoá thiết yếu vận chuyển về kho Lược (Thọ

Xuân) và kho Cẩm Thuỷ; khẩn trương xây dựng hệ thống kho trạm trên khắp tuyến

vận tải ra tiền tuyến; huy động lực lượng thanh niên xung phong mở thông tuyến

đường 41 lên Điện Biên Phủ, sửa đường, làm cầu cho bộ đội, dân công ra tiền tuyến.

Đầu tháng 3 - 1954, Trung ương giao tiếp 1.000 tấn gạo và 165 tấn thực

phẩm giao tại kilômet số 22 đường 41. Vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ

vừa xây dựng, vừa đấu tranh với âm mưu phá hoại hậu phương của địch, Đảng

bộ và quân dân Thanh Hoá đã dốc hết sức mình, chi viện sức người, sức của

tới tiền tuyến và hoàn thành vượt mức trước 13 ngày.

Yêu cầu lương thực, thực phẩm từ chiến trường ngày càng cao, tháng 4

- 1954, Trung ương giao cho Thanh Hóa đảm bảo, vận chuyển 2.000 tấn gạo

và 282 tấn thực phẩm, ấn định phải hoàn thành vào ngày 31 - 4 - 1954 [31,

tr.190]. Kế hoạch đưa ra đúng vào thời điểm nhân dân Thanh Hoá đang trong

giai đoạn “dốc bồ”, lúa ngoài đồng chưa đến độ thu hoạch. Trước tình hình

đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng cử đồng chí Văn Tiến Dũng,

Tổng Tham mưu trưởng và đồng chí Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng cục

Cung cấp vào Sở chỉ huy tiền phương Liên khu IV ở Cẩm Thuỷ, trực tiếp giao

nhiệm vụ cho Thanh Hoá trong vòng 20 ngày phải huy động thêm 2.000 tấn

gạo, 147 tấn thực phẩm và muối, phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

56

Đáp ứng yêu cầu bức thiết của cuộc kháng chiến và nêu cao khẩu hiệu

“tất cả để chiến thắng”, nhân dân Thanh Hoá không chỉ “dốc bồ, thổ thúng”

cung cấp cho tiền tuyến những hạt thóc cuối cùng mà còn cùng nhau ra đồng

cắt tỉa từng dé lúa, bông lúa đã chín và “nhân dân Thanh Hoá đã phải ăn ngô

non, khoai non, giành gạo cho chiến sĩ ngoài mặt trận” [65, tr.521]. Vì vậy,

vụ hè năm 1954, Thanh Hóa đã huy động tới 34.927 tấn 44kg/28.000 tấn thóc

trên giao; đồng thời, huy động hàng vạn dân công và mọi phương tiện (như xe

đạp, ô tô, thuyền nan, thuyền ván, ngựa thồ) để vận chuyển lương thực cung

cấp cho chiến trường. Những đoàn thuyền vượt hàng trăm thác ghềnh hiểm

trở, vượt qua bom đạn ngược dòng sông Mã để chuyển hàng lên Việt Bắc.

Anh em lái xe ô tô đã tăng chuyến vận chuyển lên gấp 2, gấp 3 và gấp 4 lần

trong một tháng; nâng mức trọng tải từ 2,5 tấn lên 3 tấn mỗi xe. Các đoàn xe

đạp thồ, dân công gánh bộ từ miền Tây Thanh Hóa theo Suối Rút, Mộc Châu

sang Cò Nòi đến Sơn La, vượt hơn 500km đường rừng, trèo đèo, lội suối bí

mật đưa hàng tới đích.

Chiến sĩ xe đạp thồ Cao Văn Tỵ đã nâng mức thồ từ 160kg lên 195kg,

rồi hơn 300kg và thường xuyên đạt 320kg một chuyến. Anh Đới Sỹ Trầu

(Quảng Xương) liên tục gánh 60kg hàng, dẫn đầu về gánh bộ... Đúng như nhà

báo Pháp Giuyn Roa đã khẳng định: “Không phải viện trợ của Trung Quốc đã

đánh bại tướng Nava mà chính là những chiếc xe đạp Peugeot thồ 200, 300kg

hàng và được đẩy bằng sức người - những con người ăn chưa no và ngủ thì

nằm ngay dưới đất trải tấm ni lông. Cái đã đánh bại tướng Nava không phải

bởi các phương tiện mà là sự thông minh và ý chí của đối phương” [26, tr.29].

Ngày 13 - 3 - 1954, bộ đội ta bắt đầu nổ súng tiêu diệt cứ điểm Him Lam và

Độc Lập, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa đã

bổ sung nhiều đơn vị ra chiến trường như: Tiểu đoàn 275 bộ đội địa phương tỉnh

cho Trung đoàn 53; các Đại đội 150, 160 cho Tiểu đoàn 541 phòng không; 2 trung

đội trinh sát cho Đại đoàn 304. Cùng với đó, Thanh Hóa còn điều động hàng ngàn

cán bộ, chiến sĩ thuộc: Đại đội 128 bộ đội huyện Bá Thước, Đại đội 112 bộ đội

57

huyện Tĩnh Gia, các đơn vị của Hoằng Hóa, Hà Trung, Quảng Xương, Thạch

Thành cho các đơn vị tham gia chiến đấu tại Điện Biên Phủ.

Phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ, quân và dân Thanh Hóa đẩy

mạnh tiến công quân sự tại Nga Sơn để kìm chân và tiêu hao sinh lực địch. Các tổ

dân vận, địch vận đã tăng cường tuyên truyền góp phần làm lung lay ý chí, tinh thần

và làm tan rã hàng ngũ địch. Tại Nga Sơn, từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 5 - 1954,

các đơn vị bộ đội địa phương huyện đã phối hợp cùng dân quân du kích các xã Điền

Hộ, Liên Sơn (thuộc các xã Nga Điền, Nga Liên, Nga Thái ngày nay)... khống chế

tiêu diệt nhiều sinh lực địch, không cho chúng di chuyển quân bổ sung cho chiến

trường Điện Biên Phủ. Ngày 5 - 5 - 1954, Đại đội 109 bộ đội địa phương huyện Nga

Sơn cùng dân quân du kích thôn Chính Đại, xã Điền Hộ đánh chặn 4 đại đội địch

khi chúng đang hành quân, diệt 29 tên, làm bị thương 17 tên...

17 giờ 30 phút ngày 7 - 5 - 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

Ngay sau khi nhận được tin, tỉnh Thanh Hóa đã kịp thời khuyếch trương chiến

thắng. Các tổ dân vận, địch vận đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối,

chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, kêu gọi binh lính địch đóng tại

các đồn Điền Hộ, Mai An Tiêm hạ vũ khí đầu hàng. Các đơn vị bộ đội địa

phương tổ chức các đợt tấn công truy quét, tiêu diệt địch. Ngày 29 - 6, thực

dân Pháp buộc phải rút chạy khỏi Điền Hộ và Mai An Tiêm về Kim Sơn, Ninh

Bình. Ngay đêm hôm đó, Đại đội 109 và Đại đội 57 cùng dân quân du kích

nhanh chóng phối hợp với lực lượng vũ trang huyện Kim Sơn, Ninh Bình truy

quét địch đến tận bến Kim Đài, tiêu diệt và bắt sống 160 tên, thu 500 súng các

loại và nhiều phương tiện chiến tranh khác.

Tiếp đó, tại các huyện Nga Sơn, Quảng Xương, Tĩnh Gia, các đơn vị bộ đội

địa phương đã phối hợp với dân quân du kích các xã Quảng Nham (Quảng Xương),

Hải Thanh (Tĩnh Gia) đánh và làm thất bại cuộc hành quân “Con Bồ nông” của

địch vào vùng biển Thanh Hóa. Ngày 7 - 8 - 1954, địch buộc phải rút khỏi đảo Hòn

Mê - điểm cuối cùng, chấm dứt sự có mặt của quân Pháp ở Thanh Hóa.

58

Sự nỗ lực của quân và dân Thanh Hoá đã góp phần xứng đáng, hoàn

thành sứ mệnh lịch sử hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp mà đỉnh cao là chiến cuộc Đông - Xuân (1953 - 1954) và chiến dịch

Điện Biên Phủ. Trong khoảng thời gian này, “Thanh Hóa đã cung cấp hơn

4.360 tấn gạo (chiếm 30% số gạo cả nước phục vụ cho chiến dịch và vượt

mức Trung ương giao 9 tấn); 1.300 con bò, 2.000 con lợn, 250.000 quả trứng,

150 tấn đậu các loại, 450 tấn cá khô, 20.000 lọ mắm kem cùng với hàng trăm

tấn rau các loại. Đồng thời, Thanh Hóa đã huy động 102.254 dân công dài hạn

và 76.670 dân công ngắn hạn. Tổng số dân công phục vụ chiến dịch là 1.061.593

lượt người với 27 triệu 227 ngày công, cùng với 11.000 xe đạp thồ, 1.300 thuyền

ván và thuyền nan, 42 ngựa thồ, 31 ô tô và nhiều phương tiện vận chuyển khác”

[31, tr.191]. Sau chiến dịch, Thanh Hóa có 5 đồng chí được Đảng và Nhà nước

tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu biểu là Anh

hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện, Trần Đức, Lê Công Khai, Trương Công Man, Lò Văn

Bường - “Đó là những con người rất ưu tú chẳng những làm vẻ vang cho tỉnh

nhà mà còn làm vẻ vang cho cả nước” [64, tr.295]. Thành tích quân và dân

Thanh Hóa giành được xứng đáng với lời biểu dương, khen ngợi của Chủ tịch Hồ

Chí Minh khi Người về thăm Thanh Hóa năm 1957: “Bây giờ tiếng Việt Nam

đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào

Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó” [64, tr.295].

*

* *

Thời gian (1951 - 1954) mặc dù hậu phương Thanh Hoá bị địch đánh

phá từ nhiều hướng, tấn công bằng nhiều cách, song dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo

linh hoạt, kịp thời của Đảng bộ tỉnh, Thanh Hoá vẫn giữ được thế đứng vững

chắc, làm thất bại mọi âm mưu đánh phá hậu phương của địch, tiếp tục xây

dựng hậu phương tỉnh vững mạnh về chính trị, kinh tế phát triển, nền văn hoá

giáo dục dân chủ nhân dân được củng cố, sức mạnh khối đại đoàn kết nhân

59

dân được tăng cường. Thanh Hoá đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử hậu phương

chính chi viện sức, người sức của cho tiền tuyến trong nước và làm nghĩa vụ

quốc tế cao cả đối với cách mạng Lào, góp một phần không nhỏ vào thắng lợi

của chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc

Pháp phải ký vào Hiệp định Giơnevơ, tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất

và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

59

Chương 3

NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH

THANH HOÁ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG,

CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN (1945 - 1954)

3.1. Nhận xét

3.1.1. Trên cơ sở đường lối của Đảng và Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã kịp thời lãnh đạo xây dựng hậu

phương tỉnh vững mạnh toàn diện

Nhận thức rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của tỉnh trước vận mệnh dân tộc,

thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm, Đảng

bộ tỉnh Thanh Hoá đã kịp thời đưa đường lối lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Thanh

Hoá trở thành tỉnh kiểu - hậu phương trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế,

quân sự, văn hoá - xã hội. Hậu phương Thanh Hoá ngày càng vững mạnh, cung

cấp đầy đủ và ngày càng cao về nhân tài, vật lực tới các chiến trường trong nước

và làm nghĩa vụ quốc tế, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Kết quả này minh

chứng đường lối mà Đảng bộ tỉnh đưa ra trong các kỳ Đại hội là hoàn toàn đúng

đắn, phù hợp với điều kiện địa phương và xu thế phát triển của thời đại. Sự đúng

đắn đó đã góp phần không nhỏ cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ

“Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, các kỳ Đại hội đã từng

bước chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, biện pháp xây dựng căn cứ hậu

phương Thanh Hoá vững mạnh, toàn diện, trong đó, ra sức xây dựng tỉnh vững

mạnh về chính trị làm cơ sở, nền tảng để xây dựng hậu phương toàn diện; xây

dựng, tích luỹ tiềm lực kinh tế để xây dựng và bảo vệ hậu phương, phục vụ tiền

tuyến; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh

giặc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm trong sạch địa bàn;

xây dựng văn hoá - xã hội - nền tảng tinh thần của cuộc kháng chiến. Từ sức

60

mạnh đó, Thanh Hoá trở thành địa bàn đứng chân vững chắc, hậu phương quan

trọng chi viện đắc lực sức người, sức của cho các chiến trường, làm nghĩa vụ

quốc tế trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954).

Xây dựng hậu phương về chính trị, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá chú trọng

phát triển nhanh về số lượng đảng viên và tổ chức cơ sở đảng các cấp nhằm

đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về cán bộ và sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá

trình này, Tỉnh uỷ đã đặt lên hàng đầu xây dựng các chi bộ, đảng bộ vững

mạnh về chính trị, tư tưởng đi đôi với tăng cường giáo dục đường lối chủ

trương của Đảng, lập trường giai cấp công nhân, lý tưởng cách mạng, tinh thần

đoàn kết đến từng cán bộ, đảng viên để họ phát huy năng lực, nghĩa vụ và trách

nhiệm “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, thật sự là người lãnh đạo,

người lính xung kích trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và lao động sản xuất,

tấm gương cho nhân dân học tập và noi theo.

Tuy vậy, công tác xây dựng Đảng ở một số nơi còn phạm một số

khuyết điểm, có lúc có Đảng bộ còn chạy theo số lượng, bỏ qua nguyên tắc tổ

chức, tiêu chuẩn đảng viên, phát triển ồ ạt đảng viên; có lúc lại quá nhấn

mạnh củng cố, không chú trọng phát triển quần chúng ưu tú trong sản xuất,

chiến đấu và phục vụ chiến đấu, còn nặng về thành phần xuất thân của đảng

viên. Bên cạnh đó, việc phát triển đảng viên, xây dựng cơ sở đảng ở Thượng

du còn gặp không ít khó khăn do bọn lang đạo, thổ ty tay sai của Pháp chống

phá chính quyền cách mạng.

Trước tình hình đó, các cấp bộ Đảng từ tỉnh đến xã vừa lãnh đạo vừa

học tập vừa chống các hành động chống phá của địch để giải quyết những vấn

đề do thực tế đặt ra, khắc phục một số sai lầm lệch lạc về nhận thức và

phương pháp tổ chức thực hiện. Mỗi cấp bộ Đảng coi “đấu tranh tư tưởng là

con đường phát triển của Đảng”, “vì sự tiến bộ về tư tưởng đã đưa Đảng bộ và

toàn bộ phong trào ngày càng phát triển”, “xây dựng Đảng theo tinh thần chủ

61

nghĩa Mác - Lênin”, “nâng cao tự phê bình và phê bình”, “chỉnh Đảng”. Từ

đó, nhân dân tin tưởng, coi Đảng là cuộc sống, niềm tin, người đảng viên là

những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường tận tuỵ, được quần chúng hết lòng thương

yêu đùm bọc và kính trọng. Đó là yếu tố quyết định để toàn Đảng, toàn quân và

toàn dân tỉnh Thanh Hoá xây dựng hậu phương tỉnh vững mạnh về chính trị.

Cùng với công tác xây dựng Đảng, chính quyền các cấp và các đoàn

thể quần chúng cũng thường xuyên được củng cố, kiện toàn. Bên cạnh Mặt

trận Liên Việt, các đoàn thể quần chúng như: Công hội, Nông hội, Thanh

niên, Phụ nữ... ngày càng được khẳng định. Từ đây, hiệu lực quản lý, điều

hành của chính quyền được nâng cao, vai trò của các đoàn thể được phát huy,

nhân dân ngày càng tin tưởng vào chính quyền, tin tưởng vào thắng lợi của

cuộc kháng chiến và ra sức thi đua thực hiện mọi nhiệm vụ kháng chiến.

Hậu phương Thanh Hoá không chỉ vững mạnh về chính trị mà còn được

xây dựng, tích luỹ về tiềm lực kinh tế. Đảng bộ tỉnh chủ trương từng bước đẩy

mạnh cuộc vận động giảm tô, thuế nông nghiệp, chia lại ruộng đất công điền công

thổ, chia lại ruộng vắng chủ cho nông dân những năm đầu và suốt cuộc kháng

chiến. Đường lối này đã đáp ứng được nguyện vọng ngàn đời của người nông

dân, không chỉ kích thích nhân dân hăng hái, phấn khởi tham gia kháng chiến, tích

cực sản xuất lương thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu đáp ứng đời sống của

nhân dân trong tỉnh, cho hàng vạn đồng bào tản cư và các cơ quan, đơn vị bộ đội

Trung ương đóng quân trong tỉnh mà còn cổ vũ người thân của họ ở tiền tuyến.

Thấy rõ vị trí quan trọng của lực lượng vũ trang không chỉ làm nhiệm vụ

xây dựng mà còn nhận trọng trách bảo vệ hậu phương, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá

đã chủ trương “xây dựng bộ đội vững mạnh, phát triển dân quân, du kích. Những

nơi giặc Pháp chiếm đóng, quân dân tổ chức chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch và

làm tốt công tác địch vận...”. Đường lối này nhanh chóng đi vào thực tiễn các địa

phương trong tỉnh, được chính quyền và cơ quan quân sự địa phương từng bước

62

phát triển lực lượng ba thứ quân, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ kháng chiến, góp

phần điều tra, phát hiện, phá các tổ chức phản động phản đối cách mạng, bắt việt

gian, gián điệp, bảo vệ hậu phương, phục vụ sự nghiệp kháng chiến.

Tuy vậy, lực lượng vũ trang được Đảng bộ tỉnh chú trọng xây dựng ở miền

xuôi, trong khi lực lượng vũ trang ở Thượng du chưa được coi trọng, lợi dụng sơ

hở này, địch đã chống phá ác liệt miền Tây, cắt tuyến giao thông huyết mạch chi

viện cho Việt Bắc, Tây Bắc và Thượng Lào. Đồng thời, trong các đơn vị lực

lượng vũ trang ở một số địa phương mới phát triển về số lượng, chất lượng chưa

cao. Khắc phục hạn chế trên, Tỉnh uỷ kịp thời chỉ đạo phong trào: “Luyện tập

lập công”, “Rèn cán chỉnh quân”, nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng cho

cán bộ, chiến sĩ, khắc phục tư tưởng chủ quan, ngại hy sinh, sẵn sàng chiến

đấu bảo vệ hậu phương và bổ sung chủ lực tới các chiến trường. Cơ quan

quân sự các cấp được chấn chỉnh phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.

Cùng với xây dựng hậu phương về chính trị, kinh tế, quân sự, Đảng bộ

tỉnh Thanh Hoá rất chú trọng đến lĩnh vực văn hoá - xã hội. Trong 9 năm kháng

chiến trường kỳ, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá luôn coi trọng “phát triển giáo dục

theo đường lối giáo dục nhân dân”, nâng cao dân trí, xây dựng đời sống mới,

phát huy dân chủ, loại bỏ các thủ tục lạc hậu. Vì vậy, phong trào đi học đã phát

triển mạnh mẽ. Ở các thôn xã luôn vang lên tiếng đánh vần “I tờ là đạn, là bom,

là súng đại bác bắn vào thực dân”. Thanh Hoá cũng là nơi đứng chân của nhiều

trường sư phạm, y dược và hội tụ nhiều văn nghệ sĩ. Nhiều tác phẩm văn học

nghệ thuật ra đời đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần kháng chiến, cổ vũ nhân dân lao

động sản xuất, chi viện sức người, sức của tới các chiến trường.

3.1.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã chỉ đạo phát huy được sức mạnh

của hệ thống chính trị trong xây dựng và bảo vệ hậu phương

Nhận thức rõ nhiệm vụ xây dựng hậu phương về chính trị là một trong

những nhiệm vụ quan trọng nhất, Tỉnh uỷ Thanh Hoá đã thường xuyên củng

63

cố, kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng, chính quyền, mặt trận các cấp từ tỉnh

xuống huyện, xã, phường nhằm tăng cường hiệu lực, sức chiến đấu và vai trò

lãnh đạo, cầm quyền của Đảng và chính quyền các cấp. Trong đó, Tỉnh uỷ đặc

biệt nhấn manh, chỉ có xây dựng Đảng bộ các cấp vững mạnh mới đủ sức đưa

các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào quần chúng

nhân dân, lực lượng vũ trang địa phương, biến chủ trương, đường lối đó thành

hành động cách mạng của quần chúng. Vì vậy, ngay sau Cách mạng Tháng

Tám, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã nhanh chóng củng cố và phát triển cơ sở

đảng, hệ thống chính quyền các cấp và các tổ chức quần chúng, coi đây là

nhiệm vụ trước mắt hết sức khẩn trương.

Thực tiễn xây dựng hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống

thực dân Pháp, vai trò và hiệu lực lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá thể

hiện tương đối toàn diện ở cấp tỉnh đến huyện (thị xã), xã, phường (thị trấn)...

Cấp huyện (thị xã) là đơn vị hành chính nối liền giữa tỉnh và cơ sở, là

cấp trên trực tiếp của cấp xã, có tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội...

hoàn chỉnh. Cấp huyện (thị xã) là cấp lãnh đạo tổ chức phối hợp hiệp đồng

giữa lực lượng bộ đội địa phương và dân quân tự vệ của huyện thị với các lực

lượng chủ lực của tỉnh. Vì vậy, các cấp Đảng bộ, chi uỷ ở cấp này thường

xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức cho

quần chúng nhân dân, không ngừng củng cố quyết tâm chiến đấu cho từng

đảng viên, cán bộ chiến sĩ và quần chúng nhân dân... Đảng bộ cơ sở và các

đảng viên cốt cán cùng lao động, sản xuất và chiến đấu với nhân dân trên từng

thửa ruộng, từng trận địa, từng trọng điểm giao thông, cùng trao đổi, bàn bạc

dân chủ với nhân dân, với từng cán bộ, chiến sĩ để thống nhất cách đánh, cách

tổ chức phân công và thực hiện nhiệm vụ, cán bộ chủ trì luôn là người đi đầu

và có mặt kịp thời ở những nơi khó khăn, ác liệt nhất.

Trong quá trình xây dựng hậu phương Thanh Hoá, một số huyện thuộc

miền Tây, vùng biển của tỉnh luôn bị thực dân Pháp và tay sai bên trong chống

64

phá ác liệt và dai dẳng. Chúng liên tục càn quét giết người, phá các công trình

thuỷ lợi, các đầu mối giao thông, các cơ sở sản xuất, phun xăng đốt cháy các

cánh đồng lúa, tuyên truyền chia rẽ nội bộ của ta... gây khó khăn cho hậu

phương. Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh về xây dựng và bảo vệ hậu

phương, về công tác quân sự địa phương luôn hướng về cơ sở, về thôn, xã, làng,

bản, khu phố... trong đó, coi các cấp Đảng bộ, chi uỷ, chi bộ là hạt nhân lãnh đạo

trực tiếp về mọi mặt, là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, cho

đường lối, quan điểm đấu tranh của Đảng, là niềm tin, là chỗ dựa của quần

chúng nhân dân. Vai trò tiền phong của cán bộ đảng viên được thể hiện trung

thực, đầy đủ nhất tại cơ sở, biểu hiện bằng hành động kiên cường trước sự sống

và cái chết, xả thân vì sự nghiệp cách mạng, cuộc sống của nhân dân.

Thực tiễn xây dựng và bảo vệ hậu phương của Thanh Hoá có rất nhiều

tổ chức cơ sở đảng đã nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng bộ cơ sở, chi bộ,

đảng viên trong lãnh đạo cơ sở, lãnh đạo quần chúng nhân dân trong xã, thôn,

phường, khu phố vừa sản xuất giỏi, vừa tổ chức chiến đấu và phục vụ chiến

đấu xuất sắc, bảo vệ vững chắc địa bàn như: Đảng bộ huyện Thọ Xuân, Tĩnh

Gia, Hà Trung, Yên Định, Thiệu Hoá, Lang Chánh... Ở đây, vai trò nòng cốt

lãnh đạo của các tổ đảng, chi bộ, tính tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng

viên, năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong chiến đấu, sản xuất, xây

dựng và bảo vệ địa bàn được nâng lên rõ rệt.

Song song với công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá

thường xuyên coi trọng phát huy tinh thần trách nhiệm của chính quyền, các

ban ngành, các đoàn thể và vai trò tham mưu của cơ quan quân sự địa phương

trên địa bàn nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, sức mạnh toàn dân đánh giặc, xây

dựng và bảo vệ hậu phương. Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đối với nhiệm vụ

xây dựng và bảo vệ hậu phương luôn được thể hiện bằng hoạt động tích cực

của chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và cơ quan quân sự địa phương

mới có thể biến sự lãnh đạo của Đảng thành hiện thực, thành hành động cách

65

mạng của quân chúng. Vì vậy, Đảng bộ tỉnh thường xuyên tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với việc củng cố, xây dựng và phát huy vai trò, tác dụng

cao nhất của các cơ quan hành pháp như: Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân

dân các cấp (tỉnh, huyện, xã, phường) trong tổ chức điều hành, triển khai thực

hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách của Nhà nước và Chính phủ,

nghị quyết của Quân khu, Liên khu, Tỉnh uỷ. Nhờ đó, các chủ trương, đường

lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng các cấp - thông qua bộ máy chính quyền các

cấp từng bước đi vào cuộc sống xã hội, trở thành sức mạnh vật chất trong

quần chúng nhân dân. Vai trò trách nhiệm của chính quyền các cấp được phát

huy cao độ và thể hiện hiệu quả trong việc bảo đảm thực hiện quyền làm chủ

của nhân dân, nhất là trong việc tổ chức điều hành mọi hoạt động xã hội: sản

xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, đảo bảo giao thông vận tải, huy động sức

người, sức của cho chiến trường, xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, phát

triển văn hoá - xã hội, xây dựng đời sống mới.

Mặt trận Tổ quốc (các cấp tỉnh, huyện, xã, phường) là một tổ chức chính

trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái,

các tổ chức và cá nhân yêu nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống

nhất của Tổ quốc vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng

bộ tỉnh, Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức đoàn thể quần chúng như: Hội

phụ nữ, Công đoàn, Đoàn thanh niên... đều được phát huy cao độ vai trò trách

nhiệm của mình trên cơ sở chức năng, điều lệ và cương lĩnh hoạt động. Mặt trận

Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng vừa là nơi tập hợp lực lượng vừa là nơi

quần chúng thực hiện quyền làm chủ của mình trong xây dựng và bảo vệ hậu

phương. Nhờ phát huy cao độ vai trò trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể nhân dân mà nhiều phong trào thi đua yêu nước trong lao động, sản

xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chi viện cho tiền tuyến... đã được phát động

sôi nổi, tuyên truyền và nhân rộng trong mọi lực lượng trên khắp địa bàn tỉnh

Thanh Hoá, tạo nên sức mạnh và hiệu quả thực tế hết sức to lớn.

66

Tuy vậy, trong quá trình phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, Đảng bộ

tỉnh còn mắc một số khuyết điểm: hoạt động của một số cơ sở đảng ở các địa

phương còn hình thức, chưa chú trọng đến chất lượng đảng viên; chưa căn cứ vào

điều kiện cụ thể của từng địa phương để huy động sức người, sức của cho tiền

tuyến, có lúc có địa phương đã động viên cao độ nhân tài vật lực, coi nhẹ bồi dưỡng

sức dân, trái với quan điểm kháng chiến lâu dài của Đảng ta. Việc huy động “Quỹ

chuyển mạnh sang tổng phản công” đã gây ra một số khó khăn cho Khu IV nói

chung, Thanh Hoá nói riêng (Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Quảng Xương, Hoằng

Hoá)... Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sai

lầm khuyết điểm này và đã nghiêm khắc phê bình, yêu cầu các địa phương tổ chức

cho cán bộ, đảng viên công khai tự phê bình, nhận thiếu sót trước dân.

Cuộc vận động học tập lý luận, kiểm điểm sai lầm trong việc thi hành

tổng động viên đã có tác dụng nâng cao trình độ, năng lực công tác của cán

bộ, đảng viên và lấy lại được niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp xây

dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến của Đảng bộ tỉnh.

Để phát huy được sức mạnh của hệ thống chính trị của hậu phương,

Thanh Hoá đã trải qua một quá trình đấu tranh gian khổ, vừa làm vừa học tập

vừa giải quyết những vấn đề bức thiết do thực tế đặt ra, vừa chống các hành

động phá hoại của địch, khắc phục những sai lầm lệch lạc về nhận thức và

phương pháp tổ chức thực hiện, xây dựng hậu phương Thanh Hoá ngày càng

vững mạnh, góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến toàn

dân, toàn diện, trường kỳ của dân tộc Việt Nam.

3.1.3. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã lãnh đạo nhân dân tỉnh hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ vừa xây dựng, bảo vệ hậu phương, vừa dốc nhân tài, vật

lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

Thấy rõ vị trí, vai trò của hậu phương Thanh Hoá đối với cuộc kháng

chiến, từ tháng 3 - 1947, thực dân Pháp đưa quân đánh vào các huyện Hậu Lộc,

67

Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Thiệu Hóa, thị xã Thanh Hóa, hai bên bờ sông Mã, đập

Bái Thượng, Hồi Xuân, Bá Thước, Lang Chánh... đồng thời uy hiếp vùng đồng

bằng, lấy đó làm cơ sở để đánh ra các tỉnh phía Bắc Thanh Hóa thuộc Liên khu

III, nhằm cắt đứt đường liên lạc, vận chuyển từ Liên khu IV ra Thanh Hoá đến

các tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc và các tỉnh Thượng Lào, đồng thời mở rộng phạm vi

chiếm đóng, làm cho hậu phương Thanh Hoá rối loạn, mất ổn định.

Từ thực tế trên, Thanh Hoá đã kết hợp nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ

hậu phương - điều kiện để hậu phương có thể đứng vững và hoàn thành nhiệm

vụ chi viện cho tiền tuyến. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hóa đã dựa

vào hệ thống các làng xã chiến đấu hợp thành các mặt trận, các phòng tuyến,

phát động và tổ chức toàn dân chiến đấu bảo vệ hậu phương với nòng cốt là

lực lượng vũ trang ba thứ quân. Nhiều nơi (miền Tây, miền biển...) đã tổ chức

các đội vũ trang tuyên truyền phối hợp cùng các đơn vị tập trung của tỉnh vừa

chiến đấu ngăn chặn địch, vừa gây dựng, phát triển cơ sở kháng chiến, bảo vệ

địa bàn. Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh đã chủ động cử bộ đội chủ lực

của tỉnh phối hợp cùng với các đơn vị thuộc Liên khu IV, Liên khu III, Liên

khu X đánh địch ở Sầm Nưa, Lào.

Nhận thức rõ vị trí, vai trò của miền Tây Thanh Hóa, lãnh đạo tỉnh cũng

như lãnh đạo Liên khu IV tập trung cán bộ, lực lượng và chỉ đạo sát sao các hoạt

động kháng chiến tại đây. Bộ Tư lệnh Liên khu IV quyết định thành lập Ban chỉ

huy mặt trận miền Tây Thanh Hóa, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư

lệnh Liên khu IV và Ủy ban hành chính tỉnh Thanh Hóa. Tiếp đó, năm 1950, Bộ

Tư lệnh Liên khu IV quyết định thành lập và trực tiếp chỉ đạo Ban chỉ huy Mặt

trận Thanh Hóa. Địa bàn Thanh Hóa được chia thành 5 khu vực tác chiến. Các lực

lượng vũ trang tỉnh luôn sẵn sàng chiến đấu và đã tổ chức phối hợp chiến đấu với

các đơn vị của Liên khu III đánh địch xâm nhập từ phía Bắc và từ phía biển vào,

từ phía Tây sang, góp phần phá vỡ phòng tuyến Sông Mã của địch, tiêu diệt và

phá nhiều đồn bốt, giải phóng hoàn toàn miền Tây Thanh Hóa.

68

Tuy nhiên, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ hậu phương còn vi

phạm một số khuyết điểm. Một số địa phương còn bị động, lúng túng trước

các trận tập kích đổ bộ, ném bom phá hoại hậu phương địch. Điều này đã gây

không ít tổn thất cả người và của ở một số địa phương. Bên cạnh đó, hậu

phương Thanh Hoá chưa đủ điều kiện vật chất để chống lại vũ khí hiện đại

của địch như hoả lực, không quân của địch...

Để khắc phục hạn chế trên, hậu phương Thanh Hoá không những tăng

cường xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, trang bị kỹ thuật hiện đại mà

còn luôn đề cao cảnh giác, kiên quyết trấn áp các cuộc bạo loạn, các thủ đoạn

phá hoại của địch, đồng thời sẵn sàng đập tan các cuộc tấn công của địch

đánh phá hậu phương Thanh Hoá.

Kết quả xây dựng và bảo vệ hậu phương là cơ sở để toàn Đảng, toàn

quân và toàn dân Thanh Hóa hoàn thành xuất sắc vai trò trực tiếp chi viện sức

người, sức của ngày càng cao tới các chiến trường Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên,

Lào mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, nhưng với tinh thần

“tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, quân và dân Thanh Hóa đã phát

huy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm, cưu mang, đùm bọc hàng trăm nghìn

người dân tản cư từ các tỉnh phía Bắc vào, đóng góp hết sức mình về vật chất

và tinh thần cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, góp phần to lớn vào thắng

lợi chung của cả dân tộc.

Bên cạnh lực lượng trực tiếp tham gia chiến đấu trên tất cả các mặt

trận, từ chiến dịch Thượng Lào, chiến dịch thu đông, đến trận quyết chiến

chiến lược cuối cùng tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, còn có hàng

vạn thanh niên xung phong, dân công hoá tuyến phục vụ kháng chiến. Trên

các tuyến đường, bộ đội, dân công rung rinh lá nguỵ trang, hướng về Điện

Biên Phủ với tinh thần “tất cả để chiến thắng”. Đó là hình ảnh của khối đại

đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt già trẻ, gái trai, dân tộc, tôn giáo, tín

69

ngưỡng, ở tất cả các vùng đồng bằng, trung du, miền núi, miền biển, kể cả bà

con thị xã Thanh Hoá tạm sinh sống ở nơi sơ tán Cầu Bố, Núi Nhồi, Rừng

Thông đến những xóm chài quanh năm sống trên sông nước Hậu Lộc, Nga

Sơn, Tĩnh Gia... và trên các vùng núi cao heo hút Quan Hoá, Bá Thước, Như

Xuân... ở đâu có dân, ở đó có người đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Phương tiện vận chuyển lương thực, thực phẩm của đồng bào Thanh

Hoá rất đa dạng: đôi sọt, chiếc gùi, thuyền, ngựa, voi, ôtô, xe đạp thồ -“con

chiến mã sắt” đã cùng người dân xuyên rừng, lội suối, trèo đèo bí mật đưa

hàng tới đích an toàn. Một phương tiện đặc biệt mà chỉ ở Việt Nam mới có,

đó là chiếc xe cút kít. Chiếc xe này được chế tạo bằng chính tấm ván lấy từ

bàn thờ gia tiên của gia đình ông Trịnh Đình Bầm, quê ở xã Định Liên, huyện

Yên Định để vận chuyển lương thực ra tiền tuyến. Vì vậy, khi tận mắt chứng

kiến chiếc xe cút kít ở Bảo tàng chiến thắng Điện Biên Phủ - tỉnh Điện Biên,

một vị khách nước ngoài đã vô cùng thán phục, nói rằng: “Một dân tộc dám

hy sinh tôn giáo tín ngưỡng của mình, dân tộc đó nhất định thắng lợi”.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ tỉnh, trong 9 năm kháng chiến,

nhân dân Thanh Hoá không chỉ sản xuất đủ cung ứng lương thực, thực phẩm

cho tiền tuyến mà còn coi việc đi bộ đội, dân công là một nghĩa vụ cao cả,

một vinh dự lớn, niềm tự hào của mỗi người dân. Tinh thần tự nguyện, tự giác

xung phong ra tiền tuyến của thanh niên và người có sức khoẻ lên cao đến

mức nhân dân phải bình xét người ra tiền tuyến, người ở lại bảo vệ hậu

phương. Lớp lớp người con ưu tú của xứ Thanh đã anh dũng hy sinh khi tuổi

đời còn rất trẻ. Tiêu biểu nhất là anh hùng liệt sỹ Tô Vĩnh Diện đã lấy thân

mình cứu pháo. Hành động quả cảm và sự hy sinh anh dũng của liệt sỹ Tô

Vĩnh Diện không chỉ trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng

cách mạng, tiếp thêm sức mạnh cho đồng đội tiến ra chiến trường, tiêu diệt

quân thù mà còn đã trở thành niềm tự hào của nhân dân Thanh Hoá nói riêng,

cả dân tộc Việt Nam nói chung. Điều đó chứng tỏ, hậu phương Thanh Hoá

70

đóng vai trò quan trọng đối với thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp.

Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ không

chỉ phản ánh sự hy sinh gian khổ, niềm tin tưởng và tự hào của dân tộc Việt

Nam sau chín năm trường kỳ kháng chiến mà còn minh chứng, dưới sự lãnh

đạo của Đảng bộ tỉnh, quân dân Thanh Hoá đã góp phần xứng đáng công sức,

mồ hôi và cả xương máu của mình vào thắng lợi chung, cùng dân tộc viết nên

trang sử vàng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

3.2. Kinh nghiệm

3.2.1. Phát huy lợi thế địa phương, xây dựng hậu phương vững mạnh

để phục vụ tiền tuyến

Thanh Hoá là tỉnh nằm trong vùng tự do Liên khu IV, có vị trí chiến

lược trọng yếu. Đảng bộ Thanh Hoá ra đời sớm nên có kinh nghiệm trong

việc tổ chức đoàn kết toàn dân, lãnh đạo cách mạng. Cuộc kháng chiến toàn

quốc bùng nổ, Thanh Hoá vẫn là vùng tự do, địa bàn tương đối an toàn, chính

quyền cách mạng cơ bản thuộc về nhân dân - điều kiện để xây dựng hậu

phương, phát triển lực lượng kháng chiến, chỗ dựa đẩy mạnh chiến tranh du

kích ở vùng địch hậu.

Thấy rõ vị thế chiến lược của tỉnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp

vào giao nhiệm vụ cho Đảng bộ và quân dân tỉnh Thanh Hoá xây dựng tỉnh

trở thành tỉnh kiểu mẫu - hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến chống

Pháp. Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin: “cách mạng là sự

nghiệp của quần chúng”, quán triệt sâu sắc đường lối kháng chiến “toàn dân,

toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính” của Đảng, khắc ghi lời dạy

của Bác “nguồn cung cấp sẽ dựa vào dân… Phải dựa vào dân, dựa chắc vào

dân thì kẻ địch không thể nào tiêu diệt được”, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã

lãnh đạo quân dân bám sát cơ sở, dựa vào nhân dân, phát huy sức mạnh tổng

hợp của toàn dân, đi từ xây dựng cơ sở chính trị làm nền tảng đến xây dựng

cơ sở về kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội từ yếu đến mạnh, chưa hoàn chỉnh

71

đến hoàn chỉnh, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, phát huy sức mạnh

của toàn dân, xây dựng tỉnh trở thành căn cứ địa, hậu phương chính của cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp.

Đối với nhiệm vụ xây dựng về chính trị, Đảng bộ tỉnh chú trọng xây

dựng Đảng các cấp, chăm lo xây dựng chính quyền các cấp, mặt trận và đoàn

thể quần chúng, củng cố chế độ dân chủ cộng hoà, củng cố vững chắc khối

đại đoàn kết dân tộc, tăng cường công tác vận động quần chúng, củng cố mối

quan hệ giữa các tầng lớn nhân dân, đoàn kết quân dân. Đặc biệt, Đảng bộ

tỉnh rất coi trọng nơi ở của người lãnh đạo “gần dân, không gần đường” để

vừa đảm bảo bí mật vừa dựa chắc vào dân.

Trong xây dựng về quân sự, Đảng bộ tỉnh đã tập trung thực hiện vũ trang

toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, trong đó chú trọng xây dựng

các binh đoàn chủ lực làm nòng cốt thực hiện tác chiến tập trung tiêu diệt lớn

quân địch, đồng thời xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích để thực

hiện tác chiến du kích, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.

Xây dựng hậu phương về kinh tế, Đảng bộ tỉnh tập trung tăng gia sản

xuất lương thực, thực phẩm, phát triển thủ công nghiệp, công nghiệp; đồng thời

thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí… vừa bảo đảm chiến đấu, sản

xuất, vừa đáp ứng nhu cầu vật chất cho kháng chiến trước mắt và lâu dài.

Trong xây dựng văn hóa - xã hội, Đảng bộ tỉnh lãnh đạo xây dựng một nền văn

hóa cách mạng mang bản sắc “dân tộc, khoa học và đại chúng”, thực hiện

“nếp sống mới” trong sinh hoạt xã hội, xóa bỏ những tập tục cũ, lạc hậu, xóa

mù chữ, mở rộng hệ thống giáo dục các cấp, tăng cường đào tạo, đẩy mạnh các

hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, y tế kết hợp phát động phong

trào thi đua yêu nước sâu rộng, bồi dưỡng lớp người mới có trình độ đảm

đương nhiệm vụ cách mạng giai đoạn mới.

72

Dựa vào nhân dân, hậu phương Thanh Hoá ngày càng vững mạnh về mọi

mặt. Nhân dân Thanh Hoá là người trực tiếp sản xuất ra lương thực thực phẩm, vũ

khí trang bị; thực hiện “vườn không nhà trống”, “mùa đông binh sĩ”, “đảm phụ

quốc phòng”, “tuần lễ binh sĩ”; nhân dân không chỉ là người trực tiếp đánh giặc

trên chiến trường mà còn là người nuôi quân, vận chuyển lương thực, thực phẩm,

đạn dược, thuốc men ra chiến trường quy mô ngày càng lớn. Vì vậy, suốt 9 năm

trường kỳ kháng chiến, sức mạnh từ nhân dân không chỉ bảo đảm hậu cần tại chỗ

mà còn phát huy tiềm lực của toàn dân, chi viện cho tiền tuyến.

Phát huy bài học dựa vào dân trong giai đoạn cách mạng mới, Đảng bộ

tỉnh Thanh Hoá không chỉ tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống

nhân dân và tăng cường tiềm lực của tỉnh là nhiệm vụ trọng tâm mà còn coi

trọng nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân“thế trận lòng dân”, khu vực

phòng thủ tỉnh vững mạnh về mọi mặt - điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội.

Hai nhiệm vụ này đã và đang được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tỉnh thực

hiện một cách toàn diện, bảo đảm vững chắc về chính trị, mạnh về quốc phòng,

an ninh trên cơ sở phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, đặc biệt chú

trọng tăng cường trận địa “lòng dân”, chăm lo đời sống nhân dân - nhất là đồng

bào các dân tộc, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, từng bước xây dựng Thanh Hoá

thành tỉnh kiểu mẫu trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, góp phần cùng cả nước

thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và

sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

3.2.2. Coi trọng chăm lo đời sống nhân dân, bồi dưỡng sức dân, bảo

đảm hậu cần tại chỗ và chi viện cho các chiến trường

“Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc mới là thượng sách giữ

nước” là bài học được ông cha ta đúc kết từ ngàn năm dựng nước và giữ nước

- nguồn sức mạnh vô địch mà nhân dân Đại Việt không chỉ chiến thắng nhiều

kẻ thù hùng mạnh mà còn được vận dụng vào xây dựng đất nước “to đẹp

hơn, đàng hoàng hơn”.

73

Kế thừa và phát huy truyền thống coi trọng sức dân của dân tộc ta lên

tầm cao mới, nắm vững quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai

trò của quần chúng “nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử” và lời dạy của

Chủ tịch Hồ Chí Minh “dựa vào sự hy sinh đóng gióp của đồng bào nơi hậu

phương”, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đưa ra mục tiêu xây dựng hậu phương: đủ

ăn, đủ mặc, đủ vũ khí để đánh giặc, ai cũng được học hành. Từ mục tiêu đó,

Tỉnh uỷ không chỉ phát động phong trào “tuần lễ vàng”, “hũ gạo kháng

chiến”, nhường cơm, xẻ áo trên tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi

no”... bước đầu giải quyết nạn đói cho nhân dân mà còn đẩy mạnh tăng gia sản

xuất, từng bước giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất cho dân cày, vừa huy động,

vừa bồi dưỡng sức dân, xây dựng kinh tế kháng chiến, gây mầm mống kinh tế -

xã hội chủ nghĩa. Đây là việc làm quan trọng để cứu đói và động viên nhân dân

sản xuất ra lương thực, thực phẩm hàng hoá, vũ khí vừa đảm bảo hậu cần tại

chỗ vừa chi viện kịp thời cho các chiến trường.

Tỉnh uỷ cũng gấp rút thanh toán nạn mù chữ, tổ chức các lớp học bổ túc

văn hoá, kêu gọi nhân dân chống nạn thất học, xây dựng đời sống văn hoá -

nếp sống kháng chiến với phương châm “kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá

hoá kháng chiến”, đẩy mạnh các hoạt động y tế... từng bước nâng cao dân trí,

vừa đảm sức khoẻ, đời sống tinh thần cho nhân dân, cổ vũ tinh thần yêu nước,

hăng hái tham gia kháng chiến của mọi tầng lớp nhân dân.

Để bồi dưỡng sức dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân,

Đảng bộ tỉnh không chỉ tuyên truyền sâu rộng đường lối kháng chiến đến

nhân dân, động viên nhân dân tự lực, tự cường vượt qua mọi khó khăn tham

gia xây dựng hậu phương mà còn đề ra chủ trương và biện pháp đúng đắn để

bồi dưỡng sức dân. Cán bộ, đảng viên từ tỉnh đến xã luôn là những tấm gương

mẫu mực về tinh thần chiến đấu hy sinh, về đạo đức cần, kiệm, liêm, chính,

chí công vô tư, thường xuyên gần gũi và hiểu rõ tâm tư nguyện vọng chính

đáng của quần chúng nhân dân. Từ đường lối chủ trương chính sách đúng,

74

cán bộ gương mẫu, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã tập hợp sức mạnh của toàn

dân, huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong tỉnh đóng góp

công, sức vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

Thành công trong công cuộc xây dựng hậu phương Thanh Hoá chính là

Đảng bộ tỉnh đã vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng vào thực tiễn tỉnh, trong

đó, đặc biệt coi trọng sức dân, bồi dưỡng sức dân, cổ vũ và phát huy sức mạnh của

nhân dân tham gia kháng chiến và phục vụ kháng chiến, đúng như lời căn dặn của

Bác Hồ: dân trước, súng sau, có dân là có tất cả hay “sự nghiệp kháng chiến, kiến

quốc là công việc của dân”. “Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.

Bài học về huy động sức dân của hậu phương Thanh Hoá cách đây 60 năm

đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đây là nền tảng, bệ phóng vững chắc để tỉnh

Thanh Hoá tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI), coi “Động lực

thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết

thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ

công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi

với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại

cho dân thì hết sức tránh”, xây dựng tỉnh Thanh Hoá ngày càng giàu mạnh, cùng

cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội lần thứ XI của Đảng đề ra.

3.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây dựng với bảo vệ hậu phương,

giữa xây dựng hậu phương với chi viện tiền tuyến

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn khởi nghĩa

phải có căn cứ địa, muốn kháng chiến phải có hậu phương”. Điều này thể

hiện, giữa hậu phương và tiền tuyến có mối quan hệ biện chứng, khăng khít,

tác động qua lại lẫn nhau. Hậu phương không chỉ là chỗ dựa, nơi cung cấp

sức người, sức của cho tiền tuyến mà còn là nơi cổ vũ niềm tin cho bộ đội.

Hậu phương có vững mạnh, bộ đội ở chiến trường mới có thêm sức mạnh để

đánh thắng giặc. Tiền tuyến càng thắng lớn, tiêu diệt được nhiều địch, giải

phóng dân và đất đai thì hậu phương càng được củng cố, mở rộng, nhân dân

càng phấn khởi thi đua sản xuất, động viên con em tòng quân, phục vụ kháng

75

chiến. Trong mối quan hệ hậu phương và tiền tuyến, tiền tuyến giữ vai trò là

mặt trận trực tiếp chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, hậu phương là nơi hậu thuẫn gián

tiếp, giữ vai trò có tính quyết định nhất, tạo nên thắng lợi ở các mặt trận.

Từ nhận thức trên và trước âm mưu thủ đoạn chống phá hậu phương

Thanh - Nghệ - Tĩnh nói chung, Thanh Hoá nói riêng của địch, hòng phá hoại

sản xuất, cắt đứt sự chi viện của Thanh Hoá tới các chiến trường, trong mọi

chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền tỉnh đều

hết sức chú trọng xây dựng phải đi liền và kết hợp với bảo vệ hậu phương; đề

cao cảnh giác và kiên quyết tập tan mọi âm mưu hành động chống phá, nổi

loạn từ bên trong của các thổ ty, lang đạo cũng như sự tấn công, tập kích của

thực dân Pháp từ bên ngoài. Đồng thời, các Đảng bộ, chính quyền các địa

phương luôn đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh với các thủ đoạn chống

phá của địch ở miền Tây, miền biển Thanh Hoá.

Thấy rõ vị trí quan trọng của miền Tây Thanh Hoá, thực dân Pháp đã

tìm mọi cách đánh phá quyết liệt, thực hiện mọi thủ đoạn chia cắt, tập kích,

xâm chiếm, phá hoại từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài, lập “xứ Thái, xứ

Mường tự trị” để cắt đứt con đường giao thông huyết mạch nối hậu phương

Thanh Hoá với các vùng tự do và Tây Bắc, Việt Bắc.

Nhận thức rõ nếu địch thực hiện được âm mưu, thủ đoạn trên thì hậu

phương sẽ suy yếu, quân và dân Thanh Hoá không thể tiếp tục xây dựng hậu

phương, chi viện cho tiền tuyến, Tỉnh uỷ Thanh Hoá đã kịp thời đề ra chủ

trương giải phóng miền Tây bằng khẩu hiệu “Thượng du thắng, Thanh Hoá

thắng”, cả tỉnh đã dồn sức xây dựng miền Tây. Hàng trăm cán bộ đảng viên đã

được tăng cường từ dưới xuôi lên miền Tây xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, tăng

cường cho Uỷ ban hành chính đặc biệt Thượng du Thanh Hoá. Ban lãnh đạo

dân quân Thượng du thực hiện ba cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với đồng

bào các dân tộc, kiên trì tuyên truyền giáo dục quần chúng, tổ chức quần chúng

sản xuất và tham gia kháng chiến chống Pháp. Các lực lượng vũ trang có mặt

76

tại miền Tây: đội vũ trang tuyên truyền Liên khu III, đại đội Hà Văn Mao, Cầm

Bá Thước, Tổng Duy Tân và các đội dân quân du kích tại chỗ dựa vào dân,

đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá hậu phương của thực dân Pháp.

Việc bảo vệ tốt hậu phương Thanh Hoá có đời sống kinh tế, chính trị,

xã hội ổn định, nhân dân phấn khởi tin tưởng là điều kiện quan trọng để đảm

bảo đời sống cho nhân dân và tăng cường chi viện cho các chiến trường.

Ngược lại, nếu không giữ được ổn định chính trị, xã hội, không bảo vệ được

hậu phương vững chắc, cuộc sống của nhân dân bị đe doạ thì không thể tập

trung toàn bộ sức lực và trí tuệ để xây dựng hậu phương theo yêu cầu, chủ

trương đã đề ra, không thể tạo nên sức mạnh chi viện to lớn cho chiến trường.

Hơn nữa, một khi hậu phương mất ổn định thì người lính trên chiến trường

không thể an tâm chiến đấu và chiến thắng. Vì vậy, suốt 9 năm kháng chiến

chống Pháp, mọi chủ trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh đề ra đều bám sát

thực tiễn tỉnh và luôn kết hợp giữa nhiệm vụ xây dựng với bảo vệ hậu

phương, giữa hậu phương với tiền tuyến. Vì vậy, nhiệm vụ của Đảng và Bác

Hồ giao phó đã được Đảng bộ và chính quyền tỉnh giải quyết thành công mối

quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ, giữa hậu phương với tiền tuyến, trên cơ sở

đó phát huy sức mạnh, khắc phục mặt yếu của từng địa phương, làm thất bại

mọi âm mưu thủ đoạn chia cắt hậu phương với tiền tuyến của địch.

Điểm nổi bật trong giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ hậu

phương với chi viện tiền tuyến, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Thanh Hoá luôn

coi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ hậu phương vững mạnh toàn diện là điều

kiện cơ bản quyết định đối với công tác chi viện cho tiền tuyến. Nhiệm vụ chi

viện cho tiền tuyến chỉ có thể tiến hành thắng lợi trên cơ sở hậu phương được

bảo vệ và xây dựng vững mạnh toàn diện. Sức mạnh đoàn kết, chung sức

đồng lòng giữa Đảng bộ và quân dân Thanh Hoá không chỉ được phát huy cao

độ vào nhiệm vụ củng cố chính quyền, phát triển sản xuất, xây dựng quân đội,

77

văn hoá - xã hội mà còn tạo ra tiềm lực kinh tế - quốc phòng to lớn, đáp ứng

yêu cầu ngày càng cao của tiền tuyến.

Vì vậy, khi khẩu hiệu của Đảng ta đưa ra “tất cả để bộ đội ăn no đánh

thắng” cũng là lúc hậu phương Thanh Hoá có đầy đủ mọi cơ sở vật chất và tinh

thần, chi viện kịp thời, ngày càng cao cho tiền tuyến. Quân và dân Thanh Hoá đã

dồn tất cả tinh thần, sức lực, tài năng, trí tuệ, sáng tạo, bằng cả tất cả mọi phương

tiện hiện có, vượt qua mọi thách thức, hy sinh, thực hiện bằng được quyết tâm chiến

lược “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Đóng góp của hậu phương

Thanh Hoá đã minh chứng, Đảng bộ và quân dân Thanh Hoá không chỉ hoàn thành

sứ mệnh lịch sử mà Đảng và Bác Hồ giao phó, xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh

kiểu mẫu - hậu phương lớn mà còn góp phần quyết định nhất, cùng cả nước đưa

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn vào năm 1954.

Kinh nghiệm này đã đang được Thanh Hoá kế thừa và phát huy trên nền

tảng tiềm năng và thế mạnh tỉnh. Bên cạnh chú trọng đầu tư vào các khu kinh

tế trọng điểm cảng Nghi Sơn, khu công nghiệp Lễ Môn, Đình Hương, Bỉm

Sơn... tỉnh còn đầu tư thích đáng vào miền Tây Thanh Hoá trên tinh thần

“miền Tây trên đường hội nhập và phát triển”. Chủ trương của tỉnh, xây dựng

Thượng du thành một vùng mạnh về quốc phòng, vững về kinh tế, bảo vệ vững

chắc vùng biên giới rộng lớn của tỉnh. Ưu tiên phát triển giáo dục, coi trọng

quốc phòng, an ninh... nhằm tạo ra một địa bàn phòng thủ vững mạnh toàn

diện, tiếp tục đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn

mới, xứng đáng với truyền thống vẻ vang của Thanh Hoá trong tiến trình lịch

sử.

3.2.4. Không ngừng chăm lo củng cố, tăng cường đoàn kết, phát huy

sức mạnh toàn dân trong xây dựng hậu phương, chi viện tiền tuyến

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: đoàn kết là sức mạnh của dân tộc ta, từ

xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi... Năm 1951,

78

khi cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn phản công, Người căn dặn “Đoàn kết,

đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Câu nói bất hủ

đó đã khái quát một chân lý, đoàn kết là cái gốc làm nên thành công và đại đoàn

kết tạo thành sức mạnh dẫn đến đại thành công. Đoàn kết phải được xây dựng trên

cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và

quyền thiêng liêng của con người, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi

của dân, với quan điểm “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu

cũng xong”, “lấy dân làm gốc”. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết

quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong

sáng của giai cấp công nhân…

Phát huy tinh thần đoàn kết của dân tộc, sức mạnh đoàn kết của nhân

dân Thanh Hoá đã được thể nghiệm trong cuộc đấu tranh giành chính quyền,

tiếp tục được củng cố, xây dựng và phát huy trong cuộc kháng chiến chống

Pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, tinh thần đoàn kết của quân dân

Thanh Hoá được xây dựng trên cơ sở công nông liên minh, giữa miền ngược

với miền xuôi, giữa các dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn tỉnh. Vì vậy,

trong kháng chiến, ai sản xuất, ai đi dân công, ai tham gia đánh địch trên chiến

trường đều có cùng một đáp số chung - đó là nhân dân. Với tinh thần “tương

thân tương ái”, nhân dân Thanh Hoá đã “thắt lưng buộc bụng” lao động sản

xuất không chỉ chi viện kịp thời cho tiền tuyến, giúp đỡ hàng vạn đồng bào tản

cư mà còn thực hiện nghĩa vụ quốc tế, chi viện cho nước bạn Lào anh em.

Nhận thức miền Tây là địa bàn sinh sống của hầu hết các dân tộc thiểu

số, cơ sở cách mạng của Đảng còn yếu, thực dân Pháp dựa vào bọn phản

động, tay sai thành lập “xứ Thái, xứ Mường tự trị” để lừa bịp đồng bào,

chống phá cách mạng, phục vụ mưu đồ xâm lược Thanh Hoá, Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào Thượng du, động viên đồng bào đoàn kết,

giết giặc cứu nước. Chính phủ ra quyết định thành lập Uỷ ban hành chính đặc

biệt miền Thượng du. Tỉnh uỷ có nghị quyết về công tác thiểu số vận, thành

79

lập Uỷ ban lãnh đạo dân quân Thượng du, đưa cán bộ từ miền xuôi lên “cùng

ăn, cùng ở, cùng làm” với đồng bào; đưa các đại đội 71, 72 của chi đội Đinh

Công Tráng lên Thượng du, đẩy mạnh xây dựng cơ sở kháng chiến; tổ chức

trường cán bộ dân quân Thượng du để huấn luyện đào tạo cán bộ chủ yếu là

người dân tộc, đáp ứng yêu cầu kháng chiến tại chỗ. Nhiều đoàn cán bộ của

Đảng, chính quyền và các tổ chức vũ trang tuyên truyền, đơn vị bộ đội được

tiếp tục phái lên miền Tây, đi sâu đi sát quần chúng để tuyên truyền, giải thích

đường lối kháng chiến, đào tạo cán bộ người dân tộc, kêu gọi vận động quần

chúng đoàn kết đánh Tây, thực hiện nếp sống mới, cải tiến cách thức làm ăn.

Nhờ đó, đồng bào các dân tộc từng bước được giác ngộ, lang đạo hạng trung

từng bước được cảm hoá, đi theo tiếng gọi của Đảng làm cách mạng. Tổ chức

hội kháng chiến ra đời. Từ tổ chức này, lựa chọn các thành viên trung kiên tổ

chức ra lực lượng vũ trang và là cơ sở để xây dựng phát triển tổ chức Đảng ở

các cơ sở, đồng thời kiên quyết xử lý, nghiêm trị các phần tử chống đối để tạo

thế cho phong trào phát triển. Qua việc xét xử một số tên phản cách mạng đã

làm cho đồng bào tin tưởng, phấn khởi đi theo cách mạng.

Đảng bộ tỉnh luôn coi việc củng cố và tăng cường khối đoàn kết dân

tộc, đoàn kết lương giáo, đoàn kết tất cả các dân tộc sinh sống trên địa bàn

tỉnh là cuộc đấu tranh quyết liệt. Trong cuộc đấu tranh này, mọi đường lối

của Đảng bộ tỉnh, chính quyền đều tôn trọng phong tục tập quán, tự do tín

ngưỡng, hết lòng chăm lo quyền lợi thiết thực cho nhân dân, đồng thời vạch

rõ âm mưu thâm độc của kẻ thù, xây dựng tinh thần cảnh giác trong nhân

dân, nghiêm trị kịp thời những phần tử ngoan cố phản động hại dân, phản

nước... đã đáp ứng nguyện vọng tha thiết của người dân, làm cho dân tin

tưởng, đi theo kháng chiến, phục vụ kháng chiến. Ở một số vùng đồng bằng,

ven biển Nông Cống, Hoằng Hoá, Nga Sơn, Tĩnh Gia... tuyệt đại bộ phận

giáo dân đều kính chúa yêu nước, tích cực tham gia kháng chiến, ủng hộ

Chính phủ. Một số cha cố phản động đội lốt thầy tu lợi dụng tự do tín

80

ngưỡng cấu kết với thực dân Pháp mê hoặc, lừa gạt, mua chuộc quần chúng

chống lại kháng chiến, ngăn chặn quần chúng tham gia kháng chiến đã bị

chính quyền phát hiện kịp thời, nghiêm trị thích đáng. Vì vậy, sức mạnh

đoàn kết lương giáo, đoàn kết dân tộc đã được phát huy mạnh mẽ, góp phần

đánh bại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi

chiến tranh” của thực dân Pháp, bảo vệ vững chắc hậu phương.

Đường lối, chủ trương đoàn kết dân tộc, tôn giáo của Đảng bộ tỉnh còn

có ý nghĩa quyết định đến xây dựng thực lực cách mạng và chi viện cho tiền

tuyến. Trước yêu cầu sức người, sức của ngày càng cao trong chiến dịch Điện

Biên Phủ, không chỉ dân tộc Kinh ở miền xuôi mà các dân tộc Mường, Thái,

H’Mông, Dao, Khơ Mú, Thổ, Tày, Hoa ở miền Tây, miền biển, hải đảo xa xôi

cũng được huy động, hăng hái tham gia đánh giặc, giữ làng, đưa con em vào

dân quân du kích, gia nhập bộ đội chủ lực, đóng góp lương thực, thực phẩm,

đi dân công phục vụ chiến dịch Biên giới, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên

Phủ. Trong số họ, có những người vẫn chưa bỏ được thói quen, tập tục cũ

nhưng tràn đầy lòng tin đối với Đảng, Bác Hồ kính yêu, tạo thành sức mạnh

to lớn, huy động được toàn dân vừa xây dựng, bảo vệ hậu phương vừa hết

lòng chi viện cho tiền tuyến. Nhờ sự ủng hộ tham gia đóng góp của nhân dân

mà Thanh Hoá đã được xây dựng thành hậu phương vững mạnh, đủ sức đáp

ứng mọi yêu cầu của cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khen

“trong kháng chiến, đồng bào tỉnh ta, các tầng lớp nhân dân đều tỏ ra đoàn

kết tham gia kháng chiến. Tôi chỉ nói vài ví dụ: Dân công đã ra sức nhiều

trong một chiến dịch Điện Biên Phủ, Thanh Hoá góp 12 vạn dân công vận tải

lương thực cho bộ đội...” [64, tr.400]. Đây không chỉ là sự khen ngợi của Bác

Hồ mà còn là động lực tinh thần to lớn cổ vũ Đảng bộ và quân dân Thanh

Hoá vươn lên, vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục làm nghĩa vụ hậu phương

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hơn hai thập niên tiếp theo, góp

một phần vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

81

Cùng với cả nước đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc

trong giai đoạn mới, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tiếp tục phát huy sức mạnh đoàn

kết nhất trí, chung sức đồng lòng của các dân tộc anh em chung sống trong tỉnh,

phát động phong trào người người thi đua, nhà nhà thi đua; tất cả các thôn, xóm,

bản, làng, xã, phường, thị trấn, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các huyện, thị

xã, thành phố cùng thi đua, nỗ lực phấn đấu cao nhất đưa Thanh Hoá trở thành

tỉnh tiên tiến kiểu mẫu vào năm 2020, xứng đáng với tình cảm, niềm tin và sự

quan tâm đặc biệt của Bác Hồ đối với Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá.

*

* *

Quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng hậu

phương chi viện cho tiền tuyến trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -

1954) là một quá trình vận dụng sáng tạo đường lối chủ trương của Đảng, tư

tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn địa phương, đưa ra đường lối

lãnh đạo đúng đắn, chỉ đạo kịp thời, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị,

kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội đã từng bước đưa Thanh Hoá thành hậu

phương lớn mạnh. Sự vững mạnh của hậu phương Thanh Hoá không chỉ góp

phần xứng đáng vào thắng lợi của dân tộc ta trong kháng chiến chống thực dân

Pháp mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ mà còn để lại nhiều kinh nghiệm

quý báu. Những kinh nghiệm đó đến nay vẫn là di sản để Đảng bộ và quân dân

tỉnh kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo

vệ tỉnh trong tình hình mới, tiếp tục gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với

xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện,

phấn đấu đến năm 2020, Thanh Hoá trở thành tỉnh tiên tiến kiểu mẫu - khu kinh

tế trọng điểm của Trung Bộ, góp phần cùng cả nước đẩy mạnh sự nghiệp CNH,

HĐH đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn

lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.

82

KẾT LUẬN

Sau Cách mạng Tháng Tám, trước nguy cơ xâm lược của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng suốt, kịp thời đề ra chủ trương “kháng chiến, kiến quốc”, coi trọng xây dựng hệ thống hậu phương ở các vùng tự do vững mạnh, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trong đó đặc biệt coi trọng địa bàn tỉnh Thanh Hoá.

Thanh Hoá là tỉnh thuộc vùng tự do Liên khu IV- nơi hội tụ đầy đủ các yếu tố để trở thành hậu phương lớn, căn cứ địa vững chắc. Vì vậy, khi cuộc kháng toàn quốc bùng nổ, Thanh Hoá được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ xây dựng tỉnh trở thành tỉnh kiểu mẫu - hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).

Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo chủ trương, nghị quyết của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Liên khi IV, Quân khu IV vào thực tiễn tỉnh và từng địa phương, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ từng giai đoạn cách mạng; xác định đầy đủ, đúng đắn đặc điểm, vai trò, vị trí, nhiệm vụ chính trị, quân sự, văn hoá - xã hội trong xây dựng, bảo vệ hậu phương, chi viện cho tiền tuyến, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã chủ động đề ra các chủ trương, biện pháp và tư tưởng chỉ đạo trên các mặt công tác một cách sát hợp và sáng tạo, lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân trên địa bàn tỉnh ra sức xây dựng tỉnh thành hậu phương vững mạnh toàn diện trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, quân sự, văn hoá - xã hội mà nội dung chủ yếu là xây dựng chế độ mới - chế độ của dân do dân làm chủ, điều hành và kiểm soát. Đây chính là động lực to lớn để phát huy thế mạnh, khả năng và tiềm lực của hậu phương chiến tranh. Nhờ đó đã giúp Đảng bộ tỉnh khắc phục được những mặt hạn chế, yếu kém, phát huy thế mạnh, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đề ra, ngày càng trở thành hậu phương chính của các chiến trường lớn trong nước và làm nghĩa vụ quốc tế với nước bạn Lào anh em.

Trong quá trình xây dựng hậu phương, Đảng bộ tỉnh đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa hậu phương với tiền tuyến, giữa xây dựng và bảo vệ hậu phương với chi viện cho tiền tuyến, coi trọng và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo. Vì vậy, đã khắc phục được hạn chế của từng địa phương, bảo vệ vững chắc hậu phương, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại

83

hậu phương của địch, chi viện đắc lực, liên tục và ngày càng to lớn, hiệu quả cho tiền tuyến, cùng tiền tuyến đánh bại thực dân Pháp xâm lược. Với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến”, quân và dân Thanh Hoá đã dồn tất cả sức lực, khả năng và trí tuệ, bằng cả mọi thử thách, hy sinh thực hiện bằng được quyết tâm chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đảm bảo cho bộ đội “ăn no, đánh thắng”, cùng cả dân tộc giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Thắng lợi và những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng hậu phương Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Những kinh nghiệm này tiếp tục được Đảng bộ, quân và dân Thanh Hoá kế thừa và phát huy lên tầm cao mới trong công cuộc xây dựng Thanh Hoá trở thành tỉnh tiến tiến kiểu mẫu vào năm 2020.

Ngày nay, trước sự biển đổi phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, Đảng bộ tỉnh thường xuyên củng cố, xây dựng và kiện toàn hệ thống các tổ chức Đảng, hệ thống tổ chức chính trị, phát huy cao độ vai trò, trách nhiệm của tổ chức, giải quyết tốt các mối quan hệ trong cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, các cơ quan, ban, ngành làm tham mưu cùng với việc phát huy vai trò và quyền làm chủ của nhân dân.

Không ngừng củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, kiên quyết đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù, giữ vững sự ổn định của địa bàn, góp phần ổn định chính trị - xã hội, cùng cả nước xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, các địa phương nói riêng đặt ra ngày càng cao và nặng nề. Việc kế thừa và vận dụng một số kinh nghiệm qua thực tiễn lãnh đạo xây dựng hậu phương của Đảng ta qua các cuộc kháng chiến nói chung, hậu phương Thanh Hoá nói riêng vừa là đòi hỏi cấp thiết và có tính khách quan nhằm tiếp tục xây dựng hậu phương Thanh Hoá vững mạnh toàn diện, tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và các khu vực phòng thủ vững chắc, sẵn sàng đối phó với mọi âm mưu xâm lược của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc sự nghiệp xây dựng, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Cẩm thuỷ (1988) Lịch sử đấu tranh cách

mạng của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam huyện Cẩm Thuỷ, Sơ thảo,

tập 1 (1926 - 1954), Ban Sưu tầm lịch sử Đảng bộ huyện Cẩm Thủy.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đông Sơn (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện

Đông Sơn 1930 - 2000, Nxb Thanh Hóa.

3. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hà Trung (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện

Hà Trung, tập 1 (1930 - 1954), Nxb Thanh Hóa.

4. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hoằng Hóa (1995), Lịch sử Đảng bộ và

phong trào cách mạng của nhân dân huyện Hoằng Hóa (1930 - 1975),

Nxb Thanh Hóa.

5. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Lang Chánh (1991), Đảng bộ và phong

trào cách mạng huyện Lang Chánh 1945 - 1990, Nxb Thanh Hóa.

6. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Nga Sơn (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện

Nga Sơn, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.

7. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Ngọc Lặc (1996), Lịch sử Đảng bộ huyện

Ngọc Lặc (1949 - 1985), tập 1, Nxb Thanh Hóa.

8. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thọ xuân (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện

Thọ Xuân (1930 - 1975), Nxb Thanh Hóa.

9. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thường Xuân (1991), Lịch sử Đảng bộ

huyện Thường Xuân, tập 1 (1930 - 1960), Nxb Thanh Hóa.

10. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Tĩnh Gia (1991), Đảng bộ và phong trào

cách mạng huyện Tĩnh gia, tập 1 (1930 - 1954), Nxb Thanh Hoá.

11. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Quan Hóa (2005), Lịch sử Đảng bộ huyện

Quan Hóa (1945 - 1996), Nxb Thanh Hóa.

13. Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã Thanh Hóa (1996), Những sự kiện lịch sử

Đảng bộ thị xã Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa.

85

14. Ban Chấp hành Hội Nông dân Thanh Hoá (1993), Đóng góp của nông

dân Thanh Hoá trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Thanh

Hóa.

15. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá

(1930 - 1954), Nxb Thanh Hóa.

16. Ban Khoa học hậu cần (1981), Công tác hậu cần trong kháng chiến chống

Pháp xâm lược, Tổng cục Hậu cần xuất bản.

17. Ban Nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị (1966),

Thời kì hình thành các lực lượng vũ trang cách mạng (1930 - 1945),

Nxb Quân đội nhân dân.

18. Ban Nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị (1974), Lịch

sử quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân.

19. Ban Nghiên cứu lịch sử quân đội thuộc Tổng cục Chính trị (1974),

Thời kì trưởng thành của các lực lượng vũ trang cách mạng trong

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 -

1954), Nxb Quân đội nhân dân.

20. Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (1975), Thanh Hóa khắc

sâu lời Bác, Nxb Thanh Hóa.

21. Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (1980), 50 năm hoạt

động của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hóa 1930 -

1980, Nxb Thanh Hóa.

22. Ban Nghiên cứu và Biên soạn lịch sử Thanh Hóa (1998), Niên biểu sử

Thanh Hóa (từ thời nguyên thuỷ đến 1975), Nxb Thanh Hóa.

23. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thanh Hóa (1990), Bác Hồ với Thanh Hóa, Nxb

Thanh Hóa.

24. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thanh Hóa (1991), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh

Hóa, tập 1 (1930 - 1954), Nxb Thanh Hóa.

86

25. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Thanh Hóa (2000), Đảng bộ Thanh Hóa 70 năm

chặng đường lịch sử vẻ vang (1930 - 2000), Nxb Thanh Hóa.

26. Báo An ninh thế giới, số 144 (378) số ra thứ 5, ngày 22 - 4 - 2004.

27. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa (1989), Lịch sử đấu tranh chống giặc

ngoại xâm giải phóng dân tộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam

của nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Nxb Thanh Hoá.

28. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thanh Hóa (1990), Lịch sử kháng chiến chống

thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) (Sơ thảo), Nxb Thanh Hoá.

29. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thanh Hóa (1994), Lịch sử kháng chiến chống

Pháp xâm lược (1945 - 1954), Nxb Thanh Hóa.

30. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thanh Hóa (1995), Biên niên sự kiện lịch sử

(1947 - 1997), Nxb Thanh Hóa.

31. Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Thanh Hóa (2002), 55 năm Lực lượng vũ trang

Thanh Hóa (1947 - 2002), Nxb Thanh Hóa.

32. Bộ Quốc phòng - Quân khu IV (2005), Tổng kết chiến thuật trong kháng

chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ của Lực lượng vũ trang Quân khu IV

(1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

33. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự (1997), Hậu phương chiến tranh

nhân dân Việt Nam (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân.

34. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự (2009), Lịch sử cuộc kháng chiến

chống Pháp xâm lược (1945 - 1954), tập 3, Nxb Quân đội nhân dân.

35. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự (2005), Lịch sử kháng chiến

chống thực dân Pháp, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

36. Bộ Tổng Tham mưu - Cục Dân quân tự vệ (2007), Tổng kết làng xã chiến

đấu trong kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ (1946 - 1975), Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

37. Đào Trọng Cảng (1993), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc

xây dựng các vùng tự do lớn trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân

87

Pháp (1946 - 1953), Luận án tiến sĩ Lịch sử Đảng - Viện Nghiên cứu

chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.

38. Trường Chinh (1976), Bàn về chiến tranh nhân dân và lực lượng vũ trang

nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

39. Lê Duẩn (1965), Ta nhất định thắng, định nhất định thua, Nxb Sự thật, Hà Nội.

40. Lê Duẩn (1972), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 8, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 9, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 10, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 11, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 12, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 13, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 14, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 15, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1985), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh

Hoá (Phần cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân), Nxb Thanh Hoá.

50. Đảng uỷ quân sự tỉnh Thanh Hóa (2010), Lịch sử Đảng bộ quân sự Thanh

Hóa (1945 - 2005), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

51. Võ Nguyên Giáp (1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

52. Võ Nguyên Giáp (1995), Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân.

88

53. Võ Nguyên Giáp (2000), Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

54. Võ Nguyên Giáp (2004), Điện Biên Phủ 50 năm nhìn lại, Nxb Quân đội

nhân dân, Hà Nội.

55. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Biên niên lịch sử kháng

chiến chống Pháp của quân dân Liên khu IV (1945 - 1954), Đề tài cấp

Nhà nước, Hà Nội.

56. VI. Lênin (1970), Tầm quan trọng của hậu phương trong chiến tranh

cách mạng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

57. VI. Lênin (1976) Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.

58. VI. Lênin (1976) Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.

59. C. Mác - Ănghen (1977), Về mối quan hệ giữa kinh tế hậu phương, chiến

tranh và quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

60. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - I.V.Xtalin (1977), Bàn về mối liên hệ

giữa kinh tế, hậu phương, chiến tranh, quân đội và quốc phòng, Nxb

Quân đội nhân dân, Hà Nội.

61. Hồ Chí Minh (2002) Toàn tập, Hỏi và trả lời, (ngày 23 - 12 - 1946), tập 4,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Hồ Chí Minh (2002) Toàn tập, Bài nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí

thức, phú hào tỉnh Thanh Hoá; Bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh

Hoá, (ngày 20 - 2 - 1947), tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Hồ Chí Minh (2002) Toàn tập, Gửi đồng bào Thanh Hoá, (tháng 6 - 1950),

tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Hồ Chí Minh (2002) Toàn tập, “Bài nói chuyện với các đại biểu nhân dân

Thanh Hoá”, (ngày 13 - 6 - 1957), tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Trình Mưu (2003), Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân

và dân Liên khu IV (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89

66. Nghị quyết những nhiệm vụ trước mắt của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh

Thanh Hoá, lưu trữ tại Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá.

67. Nội san công tác quần chúng của đoàn Thanh Hoá trong đợt 5 phát động quần

chúng giảm tô. Đơn vị bảo quản 53. Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.

68. Nội san cải cách ruộng đất đợt 3 của đoàn Thanh Hoá. Đơn vị bảo quản

84. Lưu trữ tại Văn phòng Trung ương Đảng.

69. Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa (1996), Lịch sử Thanh Hóa (dùng

trong các trường PTTH, CĐSP, TCSP), Nxb Thanh Hóa.

70. Sở Văn hoá Thông tin Thanh Hóa (1996), Thanh Hóa - quê hương, đất

nước, con người, Nxb Sở Văn hoá Thông tin Thanh Hoá.

71. Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lưu trữ tại văn phòng Trung ương Đảng,

đơn vị bảo quản 1.

72. Tình hình thực hiện chính sách ruộng đất và các báo cáo về sản xuất

nông nghiệp 1952. Hồ sơ số 41. Lưu trữ Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh

Hoá.

73. Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Báo cáo kiểm điểm công tác xây dựng Đảng năm

1950, lưu trữ tại Uỷ Ban nhân dân tỉnh.

74. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2000),

Địa chí Thanh Hóa, tập 1, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

75. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2005),

Địa chí Thanh Hóa, tập 2, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

76. Ngô Đăng Tri (2001), Vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh trong kháng chiến

chống Pháp (1956 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

77. Mai Thị Trinh (2004), Quá trình thực hiện chính sách ruộng đất ở Thanh

Hoá từ sau Cách mạng tháng Tám đến năm 1957. Luận văn thạc sỹ lịch

sử, Đại học Vinh - Nghệ An.

78. Từ điển Bách Khoa Việt Nam (1998), tập 1, Nxb Từ điển, Hà Nội.

90

79. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tình hình Thanh Hóa 2 năm toàn

quốc kháng chiến (1947 - 1948), tập 1, Hồ sơ số 2.

80. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tình hình công tác các ngành trong

tỉnh Thanh Hóa năm 1949, tập 1, Hồ sơ số 13, năm 1949.

81. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo các tổng kết công tác phục vụ

kháng chiến của Khu uỷ IV, tập 2, Hồ sơ số 16.

82. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo của Uỷ Ban kháng chiến hành

chính tỉnh Thanh Hóa về tình hình các tháng và cả năm 1951, tập 1, Hồ

sơ số 3.

83. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo tổng kết của khu IV và tỉnh

Thanh Hóa năm 1952”, tập 1, Hồ sơ số 13.

84. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo công tác phục vụ kháng chiến 1953

của Uỷ Ban kháng chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa, tập 2, Hồ sơ số 22.

85. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Báo cáo hàng tháng của Uỷ Ban kháng

chiến hành chính tỉnh Thanh Hóa 1954, tập 1, Hồ sơ số 2.

86. Uỷ Ban kháng chiến tỉnh Thanh Hoá, Báo cáo tình hình trong hai năm

toàn quốc kháng chiến ở Thanh Hoá, cặp hồ sơ 1, 2.

87. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá (1996), Ban nghiên cứu lịch sử

Đảng bộ tỉnh, Nxb Thanh Hoá.

88. Viện Lịch sử Đảng (2000), Một số vấn đề lịch sử kháng chiến chống thực

dân Pháp ở Liên khu IV (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. Viện Lịch sử Đảng (2003), Lịch sử kháng chiến chống Pháp của quân và

dân Liên khu IV (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91

91

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH THANH HOÁ

92

Phụ lục 1 THÔNG KÊ SỐ LIỆU CÁC MẶT TRONG 9 NĂM XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ HẬU PHƯƠNG NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

Xây dựng LLVT Sản xuất vũ khí LLVT tăng gia SX Chiến đấu bảo vệ địa phương Loại hình Số lượng Tên xưởng Dân quân Loại hình Số lượng Số lượng xưởng Bộ đội địa phương

Phan Huy Thuần Trận đánh lớn 1.456 tên Dân quân Du kích 227.248 32.126

Thọ Xuân Cấy lúa: 312 mẫu Lão dân quân Thiếu niên quân 15.000 9.788 Sản xuất súng kíp 1 Sản xuất dao, kiến, lựu đạn 1 Bộ đội địa phương 3.391 tên Tiêu diệt và làm bị thương Cấy lúa: 12.795 mẫu, Thu hoạch: 3.783 tạ và 15.657 đồng

Yên Định 3 tiểu đoàn, 40 đại đội, 6 trung đội 4.000 Đúc vở Moóc- chi-ê, mìn, lựu đạn 2

Xã nhiều bàn chông nhất Nữ dân quân Trang bị cho 1 dân quân Lao động giúp nhân dân sản xuất: 14.227 1 mác, lao hoặc kiếm, 2 lựu đạn Chăn nuôi: 3.142 con gà và lợn. Nuôi 60 ao cá Thu hồi 242.636 10km Chu Lễ Sản xuất axít sunphuaríc 1 1.416 khẩu súng và hàng chục tấn quân trang quân dụng khác Tự sắm vũ khí: 3.097.953 30 bốt 267 điểm Xã giao thông hào dài nhất Xã nhiều bốt gác Nguỵ trang bải vệ cầu

93

Nguồn [31, 211] Phụ lục 2

THÔNG KÊ SỐ LIỆU SỐ LIỆU PHỤC VỤ TIỀN TUYẾN CỦA THANH HOÁ TRONG 9 NĂM KHÁNG CHIẾN

Tuyển mộ, bổ sung xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương Cung cấp lương thực, thực phẩm và tiền của phục vụ kháng chiến

Dân công tiếp vận, dân công cầu đường và phương tiện huy động phục vụ chiến dịch thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến

Thanh niên xung phong tòng quân 34.177.233 Gạo đồng tâm

Thanh niên xung phong Lúa hạ giá 1.076 tấn ( 1946-1950) 4.061 tấn (1948) 300.000 Bộ đội địa phương bổ sung Lúa khao quân 7.936 tấn (1949) 56.792 người 6.321 người 2 tiểu đoàn, 43 đại đội, 6 trung đội

500 người 3.690.000 đồng Du kích bổ sung thẳng cho quân chủ lực Ủng hộ dân quân mua sắm vũ khí Dân công làm cầu đường Dân công huy động cho Chiến dịch Thượng Lào cao nhất so với kháng chiến Phương tiện huy động cho chiến dịch Điện Biên Phủ Xe đạp thồ: 11.000 Thuyền: 1.3000

Cấp dưỡng bộ đội địa phương

34.177.233 18.890 người Tổng số công phục vụ Tổng số quân bổ sung cho kháng chiến, riêng năm 1953 và 6 tháng đầu năm 1954 (bằng quân số 7 năm 1946-1952)

Thuế nông nghiệp Công trái quốc gia Trâu bò thịt Thịt lợn Trứng muối Nước mắn Cá khô 400 mẫu ruộng; 15.096 tấn thóc và 1.000.000 đồng 171.892 tấn (1953) 1.33.914.200 đồng 1.300 con 2.000 tấn 250.000 quả 20.000 450 tấn

94

Nguồn [31, tr.212] Phụ lục 3

THÀNH TÍCH PHỤC VỤ KHÁNG CHIẾN CỦA TỈNH THANH HOÁ SAU 9 NĂM KHÁNG CHIẾN

TT Anh hùng quân đội được tuyên dương

Hình thức khen thưởng Cờ Thi đua phục vụ kháng chiến của Chủ Số lượng 2 cờ 1 Tô Vĩnh Diện

Trương Công Man Trần Đức Lê Công Khai

Lò Văn Bương 2 3 4 5 6 tịch Hồ Chí Minh Huân chương các loại Chiến sĩ thi đua cấp Liên khu Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh Bằng khen cấp Trung ương Bằng khen cấp Liên khu 167 cái 39 người 226 người 300 bằng 1.275 bằng

Nguồn [31, tr.213]

95

Phụ lục 4

THIỆT HẠI CỦA THANH HOÁ TRONG 9 NĂM KHÁNG CHIẾN

Số lượng Địch oanh tạc phá hoại Số lượng

100km Quân dân Thanh Hoá thực hiện phá huỷ để tiêu thổ kháng chiến Phá đường xe lửa

Ném bom Bắn phá 2.286 vụ với 15.366 quả 3.069 vụ

500km Phá đường ôtô

Phá cầu cống lớn nhỏ 214 km

Nhân dân bị chết và bị thương Bộ đội hy sinh Thương binh Trâu bò bị bắn chết, bị cướp Kho tàng bị phá, cháy Đập nước bị phá

Phá thị xã, thị trấn, huyện lỵ 24

5.190 người và 2.167 6.600 người 3.450 người 4.000 con 194 kho, 1.064 tấn gạo 3 đập, (Bái Thượng, Phong Lạc, Bàn Thạch) ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất của 50.000 mẫu ruộng

Nguồn [ 31, tr.213]

96

Phụ lục 5

SỐ LƯỢNG VŨ KHÍ CỦA DÂN QUÂN XÃ

TT Tên huyện Mìn Lựu đạn Thu ỷ lôi

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14

Thạch Thành Vĩnh Lộc Yên Định Thiệu Hoá Tĩnh Gia Hậu Lộc Hà Trung Nga Sơn Hoằng Hoá Đông Sơn Nông Cống Quảng Xương Cẩm Thuỷ Thọ Xuân Tổng Số lượng dân quân 2.422 4.291 7.060 12.387 11.825 8.625 6.220 8.653 17.788 8.768 12. 773 15.237 2.749 14.868 133.666 10 52 16 28 0 7 25 3 169 20 10 46 15 59 460 466 3.516 3.367 4.566 1.412 1.982 1.956 1.571 13.997 3.949 2.105 6.078 862 4.913 50.570 Súng trường 47 16 8 67 31 18 0 19 51 69 68 18 50 119 576 Mác, lao 325 3.160 3.898 5.053 3.803 2.413 958 6.104 10.988 3.718 6.978 1.063 931 6.984 56.376 Đao kiếm 0 5.089 0 3.060 1.719 2.453 2.202 815 5.173 0 418 1.517 431 5.260 28.137 Dao găm 0 2.537 0 0 0 292 0 180 182 0 3000 0 0 0 6.191 Cung nỏ 576 0 0 378 0 0 0 0 0 0 0 352 318 182 1.806 0 1 0 0 0 1 1 2 0 0 0 0 0 0 5

Nguồn: [83, tr.19]

97

Phụ lục 6

SỐ LƯỢNG VŨ KHÍ CÁC ĐƠN VỊ TẬP TRUNG CỦA TỈNH

TT

1 2 3 4 5 6

Tên đơn vị Đại đội 21 Đại đội 43 Đại đội 65 Đại đội 109 Đại đội 120 Trung đội 17 Tổng Số người 115 115 115 115 115 35 610 Số súng 36 30 27 25 30 6 154 Đạn các cỡ 900 600 418 780 573 294 3.565 Lựu đạn 180 215 12 146 339 70 962 Mìn 9 13 12 17 18 0 71

Nguồn [70, tr.17]

Phụ lục 7

SỐ LƯỢNG VŨ KHÍ CÁC ĐƠN VỊ TẬP TRUNG CỦA HUYỆN

98

TT

Tên huyện Thạch Thành

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14

Đạn các cỡ 300 189 360 0 842 62 375 600 377 75 425 300 60 300 4.265 Lựu đạn 80 124 44 50 55 55 127 100 50 43 24 35 65 150 1.052 Mìn 9 11 3 5 4 2 10 3 6 3 0 2 2 4 64 Đại đao 0 9 0 15 0 0 25 1 10 22 12 0 0 18 112 Vĩnh Lộc Yên Định Thiệu Hoá Nông Cống Hậu Lộc Hà Trung Hoằng Hoá Nga Sơn Quảng Xương Tĩnh Gia Thọ Xuân Cẩm Thuỷ Đông Sơn Tổng Số người 30 32 35 28 30 35 30 28 30 30 27 35 30 31 191 Số súng 4 28 7 14 10 8 4 12 4 3 10 7 5 7 123

Nguồn [ 70,

tr.18]

Phụ lục 8

99

Chiếc xe đạp thồ của ông Trịnh Ngọc, dân công thị xã Thanh Hóa đã chở được 345,5kg, đạt kỷ lục chở nặng nhất bằng xe đạp thồ trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thanh Hoá

Phụ lục 9

100

Đoàn dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực bằng xe đạp thồ tiếp tế cho chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954

Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thanh Hoá

Phụ lục 10

101

Mũ, quần áo, dép cao su, túi xách… những vận dụng quen thuộc của dân công Thanh Hóa dùng để phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.

Nguồn: Bảo tàng

tỉnh Thanh Hoá

Ngoài vận chuyển bằng đường bộ, dân công còn vận chuyển bằng đường thủy từ Thanh Hóa lên Điện Biên Phủ.

Phụ lục 11

Dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực, thực phẩm bằng rừng núi Dân công Thanh Hóa vận chuyển lương thực, thực phẩm bằng đường thuỷ

102

Nguồn:

Bảo tàng tỉnh Thanh Hoá

Phụ lục 12

103

Cờ hiệu tặng thưởng cho đơn vị có những đóng góp cho chiến dịch.

Nguồn: Bảo tàng tỉnh

Thanh Hoá

Phụ lục 13

104

Xe cút kít của ông Trịnh Đình Bầm - được làm từ ván bàn thờ gia tiên

Nguồn: Bảo

Hoá tàng tỉnh Thanh

Phụ lục 14

105

Anh Cao Văn Tỵ - đã nâng mức thồ từ 160 kg lên 195 kg, rồi 300 kg và thường xuyên đạt 320 kg

Nguồn: Bảo tàng tỉnh Thanh Hoá

59

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1. Phạm Thị Nhung (2014) “Vai trò của hậu phương Thanh Hoá trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954 và chiến

dịch Điện Biên Phủ”, Tạp chí Dân quân tự vệ - Giáo dục quốc phòng, Số (79) tháng 4 - 2014, tr.55 - 58.

2. Phạm Thị Nhung (2014) “Vai trò của công tác chính trị tư tưởng trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ”, Tạp chí

Hải quân, Số 2 (291) năm 2014, tr. 38 - 41.

3. Phạm Thị Nhung (2014) “Thực hiện chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo kết hợp với phát triển kinh tế biển ở Khánh

Hoà ”, Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 7 (284) năm 2014, tr.104-109

4. Phạm Thị Nhung (2012) “Điện Biên Phủ trên không - Chiến thắng của trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam”, Tạp chí Dân

quân tự vệ - Giáo dục quốc phòng, Số (63) tháng 12-2012 , tr.17 - 21.

5. Phạm Thị Nhung (2013) “Chiến thắng Ấp Bắc - Đòn “Điểm huyệt” báo hiệu sự thất bại của đế quốc Mỹ trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Tạp chí Dân quân tự vệ - Giáo dục quốc phòng, Số (69), tháng 6-2013, tr.52 - 54 6. Phạm Thị Nhung (2012) “Phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc”, Tạp chí Dân

vận, Số (6) năm 2012, tr.8 - 10.

7. Phạm Thị Nhung (2012) “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam”, Thông tin

Khoa học xã hội và nhân văn, Số (142) tháng 7+8 - 2012, tr.7 - 11.

8. Phạm Thị Nhung (2014) “Phát huy vai trò của dân quân tự vệ biển góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc”, Tạp chí Dân quân tự vệ - Giáo dục quốc phòng, Số (77) tháng 2-2014, tr.39 - 41.

9. Phạm Thị Nhung (2013) “Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ trong tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975”, Tạp

chí Hải quân, Số 2 (285) năm 2013, tr.16 - 17 - 27.

60

10. Phạm Thị Nhung (2013) “Phát huy bài học xây dựng Đảng trong cách mạng Tháng Tám năm 1945”, Tạp chí Hải

quân, Số 4 (287) năm 2013, tr.23 - 25.

11. Phạm Thị Nhung (2014) “Đẩy mạnh thực hiện chủ trương dân sự hoá biển, đảo của Đảng Cộng sản Việt Nam”,

Chuyên đề khoa học cấp Học viện.