VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THANH PHONG

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỪ THỰC TIỄN

VÙNG TÂY NGUYÊN HIỆN NAY

Ngành: Chính sách công

Mã số: 934 04 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Bùi Nhật Quang

Hà Nội, 2025

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,

LỜI CAM ĐOAN

trích dẫn trong luận án này là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận án chưa

từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .............................. 13

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ..................................................................... 13

1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài ..................................................................... 21

1.3. Nhận xét tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................ 35

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .......................................................................................... 38

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH

NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ......................................................... 39

2.1. Các khái niệm ................................................................................................... 39

2.2. Chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ ........................... 49

2.3. Triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương ... 60

2.4. Các yếu tố tác động đến triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ ở vùng và địa phương ............................................... 64

2.5. Một số kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học

và công nghệ ........................................................................................................... 66

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .......................................................................................... 76

CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỪ THỰC TIỄN VÙNG

TÂY NGUYÊN ...................................................................................................... 77

3.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế và doanh nghiệp vùng Tây Nguyên ................ 77

3.2. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp KH&CN và triển khai chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên .......................................... 79

3.3. Đánh giá sự tác động của hệ thống chính sách đến phát triển doanh nghiệp

khoa học và công nghệ từ thực tiễn vùng Tây Nguyên........................................ 108

3.4. Đánh giá chung .............................................................................................. 116

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 127

CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

DOANH NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỪ THỰC TIỄN VÙNG

TÂY NGUYÊN .................................................................................................... 129

4.1. Chiến lược kế hoạch phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ của

Đảng, Nhà nước và Chính quyền địa phương ....................................................... 129

4.2. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và

công nghệ từ thực tiễn vùng Tây Nguyên ............................................................. 137

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ........................................................................................ 148

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ..................................................................... 150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI ......................................................................................................... 156

TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 158

PHỤ LỤC 1 ........................................................................................................... 171

PHỤ LỤC 2 ........................................................................................................... 177

_Toc203413608

PHỤ LỤC 3 ........................................................................................................... 182

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Nguyên câu Viết tắt

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ DN KH&CN 1

2 Đổi mới sáng tạo ĐMST

3 Khoa học và Công nghệ KH&CN

4 Doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNVV

5 Nghiên cứu và Phát triển R&D

6 Chuyển giao công nghệ CGCN

7 Cách mạng công nghiệp lần thứ tư Cách mạng 4.0

8 Doanh nghiệp khởi nguồn Spin- off

9 Doanh nghiệp khởi nghiệp Start- up

10 Doanh nghiệp DN

11 Uỷ ban Nhân dân UBND

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 2.1: Chu trình chính sách công ....................................................................... 47

Sơ đồ 2.2: Vai trò của các chủ thể trong quá trình triển khai thực hiện chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN ............................................................................. 61

Sơ đồ 2.3: Các giai đoạn của qui trình triển khai thực hiện chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương ............................................................ 63

Sơ đồ 3.1: Sơ đồ hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở

Việt Nam ................................................................................................................. 113

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp khoa học và công

nghệ vùng Tây Nguyên ……………………………………………………..……..80

Bảng 3.2. Đánh giá sự tác động của chính sách tín dụng đến phát triển doanh nghiệp

KH&CN ở vùng Tây Nguyên……………………………………………………. 108

Bảng 3.3: Đánh giá về tác động của chính sách đất đai đối với phát triển doanh

nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên………………………………………….. 110

Bảng 3.4: Đánh giá về tác động của chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và trang

thiết bị đến phát triển doanh nghiệp KH&CN………………………............111

Bảng 3.5: Đánh giá sự tác động của chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho các

doanh nghiệp trở thành doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên…………..112

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, doanh nghiệp và

KH&CN luôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt bởi vị trí, vai trò vô

cùng quan trọng của nó. Phát triển doanh nghiệp KH&CN là xu hướng chung của

thế giới, là hướng đi đúng đắn đem lại lợi ích to lớn cho nhân dân, quốc gia. Nghị

quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tái khẳng định cam kết kiên

định với chủ trương coi KH&CN là quốc sách hàng đầu và là động lực then chốt để

kiến tạo một nền sản xuất tiên tiến. Sự nhấn mạnh này đại diện cho một định hướng

chiến lược mới và mang tính đột phá của Đảng, phản ánh rõ nét tầm nhìn sâu rộng

về vai trò trung tâm của KH&CN trong tiến trình phát triển quốc gia.

Nghị quyết số 68-NQ/TW, được Bộ Chính trị ban hành ngày 04/05/2025, đã

nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển kinh tế tư nhân. Văn bản này xác định rõ

mục tiêu chiến lược, coi kinh tế tư nhân không chỉ là động lực chủ chốt của nền

kinh tế quốc gia mà còn là lực lượng tiên phong trong thúc đẩy khoa học công nghệ,

đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Vai trò này có ý nghĩa then chốt trong việc hiện

thực hóa thắng lợi các mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày

22/12/2024 của Bộ Chính trị cùng các chủ trương, đường lối khác của Đảng. Theo

đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW còn xác lập định hướng rõ ràng về việc thúc đẩy mạnh mẽ

triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW. Trọng tâm của nỗ lực này là nhằm tạo ra những đột

phá đáng kể trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở

cấp quốc gia, đặc biệt chú trọng đến lĩnh vực kinh tế tư nhân.

Theo định hướng lãnh đạo của Đảng, ngày 11/04/2012, Thủ tướng Chính phủ đã

ký ban hành Quyết định số 418/QĐ-TTg, triển khai Chiến lược phát triển khoa học và

công nghệ giai đoạn 2011-2020. Chiến lược này đặt ra các mục tiêu cụ thể đầy tham

vọng: phấn đấu đạt 3.000 doanh nghiệp KH&CN vào năm 2015, và tiếp tục mở rộng

quy mô lên 5.000 doanh nghiệp KH&CN tính đến năm 2020. [65] Từ đây, đặt ra vấn

đề phải sửa đổi luật KH&CN để tạo hành lang pháp lý cho sự ra đời của các chính sách

của Chính phủ ở thời gian tiếp theo, vì vậy Luật KH&CN năm 2013 chính thức đề cập

1

đến thuật ngữ “Doanh nghiệp khoa học và công nghệ” tại khoản 6, điều 6 đã qui định

rất rõ về “Chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ” trong đó

“Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa

học và công nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ”; tại điều Điều 58 về Phát

triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã xác định rõ thế nào là doanh nghiệp

KH&CN; các điều kiện để trở thành doanh nghiệp KH&CN; và các chính sách ưu đãi

cụ thể để khuyến khích sự hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN.

Trên tinh thần Luật KH&CN năm 2013, Chính phủ đã ban hành một loạt

các chính sách cụ thể để triển khai và thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN. Điển hình là Quyết định số 569/QĐ-TTg, được Thủ tướng

Chính phủ ban hành vào ngày 11/5/2022. Quyết định này thiết lập Chiến lược

phát triển doanh nghiệp khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030,

với trọng tâm là mục tiêu đầy tham vọng: nâng gấp đôi số lượng doanh nghiệp

đạt tiêu chí doanh nghiệp KH&CN vào năm 2030 so với con số ghi nhận năm

2020. [76] Các quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà

nước đã được triển khai đến các địa phương trong đó có các tỉnh vùng Tây

Nguyên, là kim chỉ nam cho các địa phương phát triển doanh nghiệp KH&CN

đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội của từng địa phương.

Việc lựa chọn nghiên cứu chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công

nghệ từ thực tiễn vùng Tây Nguyên là vì nơi đây có vị trí đặc biệt quan trọng về

chính trị, an ninh, quốc phòng và đặc biệt là nơi có tiềm năng to lớn về phát triển kinh

tế, trong đó vai trò của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ là đặc biệt quan

trọng trong việc khai thác các tiềm năng này. Vào ngày 15/11/2022, Chính phủ đã

ban hành Nghị quyết số 152/NQ-CP, đóng vai trò là Chương trình hành động triển

khai Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06 tháng 10 năm 2022 của Bộ Chính trị. Văn

bản quan trọng này tập trung vào việc định hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo

đảm quốc phòng, an ninh khu vực Tây Nguyên cho giai đoạn đến năm 2030, với tầm

nhìn chiến lược đến năm 2045. [77] Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế khu vực

Tây Nguyên, việc khuyến khích và tăng cường sự hiện diện của doanh nghiệp

KH&CN đóng vai trò tối quan trọng. Các tổ chức này hoạt động như một kênh dẫn

2

thiết yếu, đẩy nhanh quá trình chuyển giao và ứng dụng các thành tựu nghiên cứu

KH&CN vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các ngành kinh tế trọng

điểm của vùng. Với tư cách là một lực lượng sản xuất then chốt, doanh nghiệp

KH&CN không chỉ tạo ra các sản phẩm mang lại giá trị gia tăng cao, mà còn đóng

góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế – xã hội và Tổng sản phẩm trên địa bàn

(GRDP) của Tây Nguyên. Hơn nữa, sự phát triển của khối doanh nghiệp này còn thúc

đẩy mạnh mẽ đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế vùng, đồng

thời góp phần vào việc đa dạng hóa danh mục sản phẩm, gia tăng sản lượng và năng

suất lao động, cùng với việc tối ưu hóa sử dụng tài nguyên.

Mặc dù đã có những thành tựu nhất định, Tây Nguyên hiện vẫn phải đối mặt

với thực trạng là một khu vực có quy mô kinh tế còn hạn chế và là một vùng nghèo.

Để tận dụng lợi thế của vùng Tây Nguyên, đặc biệt để phát huy vai trò của các

doanh nghiệp KH&CN trong phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, thì việc

triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN tính đến nay còn nhiều mặt

hạn chế. Các chính sách hỗ trợ và ưu đãi cho phát triển doanh nghiệp KH&CN được

Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, tuy nhiên tính đến nay tại vùng Tây Nguyên

số doanh nghiệp KH&CN được hưởng các chính sách ưu đãi còn khá ít ỏi.

Tại Tây Nguyên chủ thể vùng nói chung để thực hiện chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN hiện nay chưa có, mà chỉ mới có chủ thể triển khai thực hiện

chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở từng Tỉnh trong vùng Tây Nguyên.

Do vậy Đảng bộ và Chính quyền các tỉnh trong vùng Tây Nguyên đã ban hành một

loạt các chương trình của Tỉnh ủy; Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân; Quyết định

và Kế hoạch triển khai cụ thể của Uỷ ban Nhân dân Tỉnh, của sở Khoa học và Công

nghệ Tỉnh và các cơ quan chức năng khác. Việc ứng dụng các chương trình, kế

hoạch này còn nhiều khó khăn trong triển khai đưa chính sách vào thực tiễn đặc biệt

trong việc các cơ quan quản lý nhà nước phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp để

triển khai thực hiện chính sách, còn hạn chế về năng lực thực hiện, công tác tuyên

truyền, phổ biến chính sách còn lỏng lẻo.

Xuất phát từ thực trạng triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN

từ thực tiễn vùng Tây Nguyên đặt ra yêu cầu cấp bách phải hoàn thiện chính sách

3

phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói

chung, chính vì vậy, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Chính sách phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ, từ thực tiễn vùng Tây Nguyên hiện nay” để tiến

hành nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài này mang ý nghĩa kép, cả về lý luận và

thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách phát

triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ và triển khai thực hiện chính sách tại

vùng Tây Nguyên, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách

phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ thực tiễn vùng Tây Nguyên.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa các tài liệu, công trình nghiên cứu có liên quan, tổng hợp các

quan điểm, phân tích, đánh giá các kết quả nghiên cứu liên quan đến chính sách

phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ để từ đó tác giả tìm ra khoảng trống

mà các công trình nghiên cứu trước đó chưa đề cập, phát hiện ra các vấn đề chưa

được nghiên cứu để tác giả luận án tiếp tục kế thừa, xây dựng mới và nghiên cứu

hoàn thiện.

- Luận án nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận của chính sách phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ.

- Luận án chỉ ra thực trạng, làm rõ nguyên nhân của những thành tựu và hạn

chế trong chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN, thực tiễn triển khai ở vùng

Tây Nguyên.

- Luận án đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN, từ thực tiễn vùng Tây Nguyên.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công

nghệ từ thực tiễn vùng Tây Nguyên.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

4

- Phạm vi không gian:

Luận án tập trung nghiên cứu khảo sát tại 5 tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai,

Kon Tum, Đắk Nông của vùng Tây Nguyên.

- Phạm vi thời gian:

Luận án lấy mốc từ năm 2013 đến nay (từ khi Luật Khoa học và Công nghệ có

hiệu lực thi hành). Trong đó phần số liệu phần số liệu để phân tích thực trạng lấy từ

năm 2019 đến năm 2023 để thực hiện thống kê khảo sát tại vùng Tây Nguyên.

- Phạm vi nội dung nghiên cứu:

Luận án tập trung vào việc phân tích các chính sách hiện hành để làm rõ mục

tiêu và các nội dung của chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

được triển khai ở vùng Tây Nguyên, bao gồm các nội dung:

1) Chính sách về cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ

(Điều kiện thụ hưởng, quy trình nộp hồ sơ và thủ tục hành chính, công tác thẩm

định và cấp mới chứng nhận, các quy định về việc thay đổi nội dung hoặc cấp lại

giấy chứng nhận, cùng với các trường hợp thu hồi hoặc hủy bỏ hiệu lực; kinh phí

dành cho các hoạt động thẩm định hồ sơ, cũng như việc cấp mới, điều chỉnh, cấp

lại, thu hồi hay hủy bỏ hiệu lực của Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN).

2) Chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã

được cấp giấy chứng nhận (Giảm trừ hoặc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, cùng

với ưu đãi về giá thuê đất và mặt nước; Các cơ chế tín dụng ưu đãi được áp dụng

nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ và mở rộng sản xuất

kinh doanh của các đơn vị này; Quy định về chuyển giao quyền sở hữu tài sản

KH&CN được tạo ra từ các đề tài, dự án sử dụng ngân sách nhà nước; Sự hỗ trợ cho

công tác nghiên cứu chuyên sâu, quá trình thương mại hóa các thành tựu KH&CN,

và đặc biệt là việc khuyến khích, hỗ trợ việc ứng dụng và đổi mới công nghệ).

3) Chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ từ các doanh

nghiệp tiềm năng (Các doanh nghiệp tiềm năng là các doanh nghiệp khởi nguồn được

chuyển đổi hoặc được tách ra từ các viện nghiên cứu, trường đại học; doanh nghiệp

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; Các doanh nghiệp thông thường đang hoạt động)

Trong giới hạn nội dung trên luận án tập trung nghiên cứu mục tiêu, nội

5

dung của chính sách hiện hành triển khai thực hiện vào thực tiễn phát triển

doanh nghiệp KH&CN vùng Tây Nguyên để xem xét khẳng định các chính sách

đã phù hợp và phát hiện lỗ hổng, khoảng trống của các chính sách đang tồn tại,

từ đó kiến nghị các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp

khoa học và công nghệ nói chung và cho vùng Tây Nguyên nói riêng.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

5.1. Phương pháp luận

Dựa trên quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng, thành tựu của khoa học

chính sách công làm chủ đạo, các khoa học liên ngành với khoa học chính sách

công như khoa học quản lý, khoa học chính trị, giáo dục học, kinh tế học, nhân văn

học, xã hội học.v.v... để tiến hành nghiên cứu các tài liệu sẵn có, từ đó tổng hợp,

phân tích, so sánh, đánh giá phục vụ cho việc hoàn thiện chính sách phát triển

doanh nghiệp khoa học và công nghệ, từ thực tiễn vùng Tây Nguyên.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

5.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận

Luận án đã tiến hành một quá trình nghiên cứu toàn diện, bao gồm việc tổng

hợp, thống kê, phân tích, so sánh và đánh giá có hệ thống các nguồn tài liệu trong

nước lẫn quốc tế có liên quan. Nền tảng của nghiên cứu được xây dựng trên cơ sở

kế thừa các lý thuyết nền tảng và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn về chính sách phát

triển doanh nghiệp KH&CN. Các nguồn tài liệu thứ cấp được sử dụng để nghiên

cứu bao gồm: 1) Đường lối chủ trương của Đảng; 2) Các Luật liên quan đến chính

sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ; 3) Các Nghị quyết, Quyết

định của Chính phủ; 4) Các Quyết định, Thông tư của các Bộ, Ngành liên quan; 5)

Các Chương trình, Nghị quyết, Kế hoạch, Quyết định của Đảng bộ và Chính quyền

các tỉnh vùng Tây Nguyên; 6) Các báo cáo, thông tin, tài liệu, số liệu thống kê của

Cục phát triển Thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học

và Công nghệ, Các báo cáo, thống kê của sở Khoa học và Công nghệ, Ủy ban Nhân

dân, Đảng bộ các tỉnh vùng Tây Nguyên; 6) Các kết quả nghiên cứu của các công

trình đã được đề cập ở chương tổng quan nghiên cứu.

5.2.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng

6

a) Mục đích điều tra, khảo sát

Tiến hành khảo sát và phân tích kết quả khảo sát nhằm mục đích chung chỉ rõ

các vấn đề đang đặt ra, chỉ rõ các nội dung chính sách không phù hợp. Mục đích cụ

thể là: Đánh giá thực trạng triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN

vùng Tây Nguyên, thành công, hạn chế và nguyên nhân từ đó tìm ra lỗ hổng,

khoảng trống và các vấn đề tồn tại của chính sách, làm cơ sở cho đề xuất các giải

pháp hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN nói chung và cho

vùng Tây Nguyên nói riêng.

b) Về tiêu chí để chọn mẫu khảo sát

- Theo tiêu chí dân số vùng: Đó là vùng Tây Nguyên, có các đặc thù điển

hình trong triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN.

- Theo tiêu chí về trình độ: Đối tượng được điều tra là các công chức thực hiện

chính sách phát triển KH&CN ở vùng Tây Nguyên; các chuyên gia, các nhà nghiên

cứu và các doanh nghiệp tiềm năng và doanh nghiệp khoa học và công nghệ vùng

Tây Nguyên.

- Theo tiêu chí về xã hội: cả 5 tỉnh là 5 địa bàn có thể đối mặt với các khó

khăn trong triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN.

c) Về đối tượng điều tra, khảo sát

Nghiên cứu trọng tâm vào mối quan hệ tương tác giữa những chủ thể chính.

Cụ thể, các đối tượng trọng tâm: 1) Nhóm 1: các cán bộ, công chức triển khai thực

hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN; 2) Nhóm 2: các doanh nghiệp

tiềm năng và doanh nghiệp KH&CN.

d) Công cụ và nội dung điều tra, khảo sát

Điều tra bằng bộ câu hỏi, đan xen giữa câu hỏi đóng và câu hỏi gợi mở, để làm

rõ những vấn đề cơ bản sau: 1) Thông tin về thực trạng tình hình hoạt động của các

doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên từ sự tác động của chính sách: thành

công, hạn chế, nguyên nhân; 2) Thông tin về thực trạng triển khai chính sách phát

triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên: thành công, hạn chế, nguyên

nhân, giải pháp, kiến nghị.

7

e) Số lượng mẫu và công cụ xử lý số liệu

Luận án xây dựng 02 loại phiếu khảo sát dành cho 2 loại đối tượng: công chức

và doanh nghiệp. Chọn 250 mẫu khảo sát định lượng. Tại 5 tỉnh, mỗi tỉnh khảo sát

50 mẫu, trong đó 50% số mẫu khảo sát cán bộ, công chức; 50% số mẫu khảo sát

doanh nghiệp tiềm năng và doanh nghiệp KH&CN.

5.2.3. Phương pháp nghiên cứu định tính

Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính thông qua quan sát của tác

giả và thực hiện phỏng vấn sâu đối với các đối tượng là lãnh đạo sở khoa học và

công nghệ một số tỉnh, phỏng vấn một số chuyên gia, nhà nghiên cứu, một số lãnh

đạo các doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp tiềm năng trên địa bàn một số tỉnh

vùng Tây Nguyên. Tổng cộng có 15 cuộc phỏng vấn sâu. Địa bàn được chọn để

phỏng vấn sâu là: Sở Khoa học và Công nghệ Đắk Lắk; Sở Khoa học và Công nghệ

Gia Lai; Sở Khoa học và Công nghệ Kon Tum; Một số chuyên gia, nhà nghiên cứu

và một số lãnh đạo các doanh nghiệp tại tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lắk.

5.2.4. Cách tiếp cận nghiên cứu

Trong giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu, luận án tập trung vào mục tiêu

chính sách và nội dung chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

hiện hành khi triển khai vào thực tiễn vùng Tây Nguyên có thúc đẩy phát triển được

doanh nghiệp khoa học và công nghệ ở đây hay không tác giả chọn hướng tiếp cận từ

góc độ phân tích chính sách công, cụ thể là từ phân tích chính sách hiện hành về phát

triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, triển khai vào thực tiễn vùng Tây Nguyên

để làm rõ lỗ hổng và các vấn đề của chính sách khi triển khai thực thi ở vùng Tây

Nguyên để có giải pháp phù hợp hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp khoa

học và công nghệ ở vùng này. Để thực hiện cách tiếp cận chung này, luận án sử dụng

các cách tiếp cận cụ thể như: 1) tiếp cận nghiên cứu lý thuyết về chính sách phát

triển; 2) tiếp cận lý thuyết hệ thống khi nghiên cứu chính sách luôn đặt trong tổng

thể chu trình chính sách, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau; 3) tiếp cận lý

thuyết liên ngành, liên địa phương.

5.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả khảo sát, phỏng vấn sâu

Các yếu tố có ảnh hưởng tới kết quả khảo sát, phỏng vấn sâu: 1) Sự phòng vệ

8

của người trả lời khi liên kết vấn đề của các chính sách ảnh hưởng tới hiệu quả triển

khai thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN của cán bộ, công chức

với thành tích của ngành cũng như trách nhiệm bản thân các nhà thực hiện chính

sách; 2) Sự thiếu hụt về con số thống kê, báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền

dành riêng để thống kê về số lượng các doanh nghiệp KH&CN đã được cấp giấy

chứng nhân, bị hủy bỏ, hay dừng hoạt động; 3) Sự thiếu hụt số liệu về tình hình hoạt

động của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ do việc không hợp tác, không

báo cáo kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và kết quả về

các chính sách được thụ hưởng của các doanh nghiệp KH&CN vùng Tây Nguyên

cho các sở Khoa học và Công nghệ của các Tỉnh.

6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

6.1. Các câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi 1. Chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN bao gồm mục tiêu và

các nội dung nào, cơ sở lý luận nào để giải quyết vấn đề này?

Câu hỏi 2. Việc triển khai mục tiêu và nội dung chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN vào thực tiễn vùng Tây Nguyên có thành công và hạn chế gì?

Nguyên nhân của những thành công và hạn chế đó là gì?

Câu hỏi 3. Cần có các giải pháp gì để hoàn thiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN nói chung và vùng Tây Nguyên nói riêng?

6.2. Giả thuyết nghiên cứu

Giả thuyết 1. Mục tiêu của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN là gia

tăng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này. Để cụ thể hóa điều

đó, các nội dung trọng tâm của chính sách cần được làm rõ, bao gồm: các quy định về

cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN; các ưu đãi và hỗ trợ dành cho những

doanh nghiệp đã được cấp chứng nhận; và những chính sách đặc thù nhằm kích thích

và phát triển các doanh nghiệp KH&CN tiềm năng. Nghiên cứu khung lý thuyết

chính sách cho phát triển số lượng từ các doanh nghiệp tiềm năng, nâng cao chất

lượng hoạt động của các doanh nghiệp KH&CN đang tồn tại.

Giả thuyết 2. Mục tiêu và nội dung chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN đã được xác định rõ ràng và được qui định trong pháp luật nhưng khi triển

9

khai vào thực tiễn vùng Tây Nguyên thì gặp nhiều khó khăn vì chưa có chính sách

đặc thù cho vùng Tây Nguyên, còn nhiều khoảng trống, lỗ hổng và sự chưa phù hợp

của một số chính sách hiện hành gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện phát

triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ ở vùng Tây Nguyên.

Giả thuyết 3. Các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN được triển khai kịp thời, đồng bộ, phù hợp với đặc điểm của vùng Tây

Nguyên theo cách tiếp cận chính sách phát triển có tính đặc thù cho vùng Tây

Nguyên, tiếp cận hệ thống và liên ngành, liên vùng, huy động được các nguồn lực

thực hiện các bước triển khai vào thực tiễn Tây Nguyên thì sẽ khắc phục được các

khó khăn, rào cản và doanh nghiệp khoa học và công nghệ vùng Tây Nguyên sẽ có

thể phát triển cả về số lượng và chất lượng.

7. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Luận án đã làm rõ bản chất nội hàm của chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN, xây dựng được các khái niệm mới về chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN là tập hợp tổng thể các biện pháp, chương trình và quy định được áp dụng

nhằm thúc đẩy và nâng cao sự phát triển doanh nghiệp KH&CN về cả số lượng và

chất lượng các doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa được tạo ra từ việc ứng dụng

kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào trong quá trình thực hiện

sản xuất, kinh doanh nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường.

- Luận án xây dựng được khung lý thuyết mới về doanh nghiệp tiềm năng để

trở thành doanh nghiệp KH&CN: 1) các doanh nghiệp KH&CN được khởi nguồn

hình thành từ các viện nghiên cứu, trường đại học; 2) các doanh nghiệp KH&CN

phát triển từ các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; 3) các doanh nghiệp

thông thường đang hoạt động. Xác định nội hàm của kết quả nghiên cứu khoa học

và ứng dụng công nghệ được tạo ra bởi các doanh nghiệp có tiềm năng chuyển đổi

thành doanh nghiệp KH&CN.

- Luận án đã xây dựng được các tiêu chí đánh giá hiệu quả của chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN khi triển khai vào thực tiễn vùng, địa phương bao

gồm: tiêu chí về tính khả thi; tiêu chí về tính hiệu quả; tiêu chí về tính công bằng.

10

Luận án đã xây dựng được qui trình triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN bao gồm 5 bước: lập kế hoạch, tổ chức chỉ đạo, điều hành, kiểm tra

giám sát, đánh giá quá trình thực hiện để đạt được mục tiêu chính sách.

- Luận án đã đánh giá được thực trạng qui trình triển khai thực hiện chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN từ thực tiễn vùng Tây Nguyên; Nhận diện được

những hạn chế cả về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp KH&CN của cả

nước cũng như của vùng Tây Nguyên, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế là do

các chính sách đang tồn tại còn nhiều lỗ hổng, còn nhiều khoảng trống, còn nhiều

qui định không phù hợp với vùng Tây Nguyên.

- Luận án đã đề xuất một số giải pháp mới về chính sách đặc thù cho từng

vùng, địa phương, đặc biệt là cho vùng Tây Nguyên, về chính sách riêng hỗ trợ, ưu

đãi các tổ chức KH&CN công và tư (doanh nghiệp tiềm năng) chuyển đổi thành

doanh nghiệp KH&CN, về chính sách ưu đãi các trường đại học thành lập các trung

tâm ươm tạo, nghiên cứu và chuyển đổi thành doanh nghiệp KH&CN, về chính

sách hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trở thành doanh nghiệp

KH&CN, cải cách thủ tục hành chính về việc cấp giấy công nhận doanh nghiệp

KH&CN, nâng cao năng lực cán bộ và doanh nghiệp KH&CN.

8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

8.1. Ý nghĩa lý luận

- Luận án đã góp phần khẳng định, củng cố thêm đường lối chủ trương của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và kịp thời định hướng, tạo hành lang

pháp lý thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN ở Việt

Nam nói chung và vùng Tây Nguyên nói riêng.

- Thông qua tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu trong và ngoài

nước, nghiên cứu cơ sở lý luận, góp phần hoàn thiện lý thuyết về hệ thống chính

sách, bổ sung, hoàn thiện thêm khung lý thuyết về chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN phục vụ cho thực hiện chiến lược phát triển KH&CN cả nước nói

chung và của vùng Tây Nguyên đến năm 2030.

- Nghiên cứu bài học kinh nghiệm quốc tế bổ sung thêm cơ sở lý luận về xác

11

định mục tiêu, nội dung, qui trình, phương pháp, kết quả đạt được của hệ thống

chính sách trong phát triển doanh nghiệp KH&CN của cả nước nói chung và vùng

Tây Nguyên nói riêng.

8.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Luận án góp phần giải quyết các vấn đề đang đặt ra đối với doanh nghiệp

KH&CN của cả nước nói chung và ở vùng Tây Nguyên nói riêng trong việc phát

huy lợi thế, tiềm lực to lớn của doanh nghiệp KH&CN trong phát triển kinh tế- xã

hội vùng.

- Triển khai các nội dung chính sách về cấp giấy chứng nhận, hỗ trợ, ưu đãi

phát triển doanh nghiệp KH&CN nói chung và ở vùng Tây Nguyên nói riêng để chỉ

ra các lỗ hổng, khoảng trống, sự bất cập của một số qui định của chính sách đối với

đặc thù vùng Tây Nguyên.

- Luận án đã đề xuất một số giải pháp khả thi để hoàn thiện chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN nói chung và cho vùng Tây Nguyên nói riêng.

9. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận

án gồm có bốn chương sau:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu;

Chương 2. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và

công nghệ;

Chương 3. Thực trạng chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công

nghệ, từ thực tiễn vùng Tây Nguyên hiện nay;

Chương 4. Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học

12

và công nghệ, từ thực tiễn vùng Tây Nguyên hiện nay.

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

1.1.1. Các nghiên cứu về doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Nghiên cứu của các tác giả Việt Nam Phạm Đại Dương, Đào Thanh Trường,

Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thúy Hiền (2017),[25], cho thấy rằng cuộc cách

mạng KH&CN đang thúc đẩy mạnh mẽ sự liên kết và hợp tác đa phương giữa các

quốc gia trên nhiều cấp độ. Tuy nhiên, quá trình này cũng kéo theo sự cạnh tranh

gay gắt về nguồn lực phát triển giữa các nước. Trước bối cảnh đó, Việt Nam đã xác

định phát triển tiềm lực KH&CN là một chiến lược then chốt. Điều này thể hiện qua

việc đẩy mạnh đầu tư cho hoạt động ươm tạo, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và sự ra

đời của các quỹ đầu tư chuyên biệt dành cho vườn ươm doanh nghiệp. Các quỹ này

không chỉ cung cấp nguồn lực tài chính mà còn định hướng phát triển cho các

doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động ươm tạo doanh nghiệp công nghệ

hiện vẫn đang gặp phải nhiều rào cản nội tại, chủ yếu đến từ những bất cập trong hệ

thống khung pháp lý. Những hạn chế này ảnh hưởng đến toàn bộ chuỗi giá trị – từ

hỗ trợ nghiên cứu KH&CN, phát triển, hoàn thiện, ứng dụng và thương mại hóa

công nghệ, đến việc xây dựng mô hình kinh doanh, kêu gọi đầu tư và các hoạt động

hỗ trợ khác nhằm hình thành và phát triển doanh nghiệp công nghệ. Để góp phần

làm rõ những trở ngại đó, nhóm tác giả đã tập trung phân tích hệ thống khung khổ

pháp lý của Việt Nam đối với hoạt động ươm tạo doanh nghiệp công nghệ, đồng

thời nhận diện các vướng mắc cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện

hành liên quan đến việc thành lập và hỗ trợ các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ.

Theo Đào Thanh Trường (2017), nghiên cứu về việc thúc đẩy quá trình hình

thành doanh nghiệp công nghệ thông qua mô hình vườn ươm công nghệ vẫn còn tồn

tại một số vấn đề lý luận cần được làm rõ. [81]. Dù khái niệm "vườn ươm doanh

nghiệp" đã được giới thiệu tại Việt Nam gần một thập kỷ, song với nhiều doanh

nghiệp và người dân, đây vẫn là một khái niệm còn xa lạ. Do đó, số lượng công

trình nghiên cứu về ươm tạo doanh nghiệp công nghệ còn hạn chế, chủ yếu tập

13

trung vào việc nhận diện những khó khăn tại một vài trung tâm cụ thể và đề xuất

xây dựng một số mô hình vườn ươm, mà chưa có cái nhìn tổng quát và đánh giá đầy

đủ về hệ thống ươm tạo doanh nghiệp công nghệ ở Việt Nam. Vườn ươm doanh

nghiệp công nghệ (technology business incubator) là một dạng vườn ươm chuyên

biệt dành cho các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ (technology-based enterprise).

Mô hình này đóng vai trò như một cầu nối giúp chuyển giao kết quả nghiên cứu từ

giới học thuật ra thị trường, thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, hỗ trợ hình thành

và phát triển các doanh nghiệp công nghệ, đồng thời là một công cụ chính sách

quan trọng dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp. Ngoài ra, tác giả cũng

đi sâu phân tích vai trò của vườn ươm công nghệ, cùng với ba giai đoạn chính trong

quy trình ươm tạo: tiền ươm tạo, ươm tạo và hậu ươm tạo – mỗi giai đoạn đều có

đặc điểm và lộ trình riêng biệt.

Các tác giả Mai Hà, Hoàng Văn Tuyên, Đào Thanh Trường (2015) [30] cho

rằng các sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp KH&CN dựa chủ yếu vào việc

ứng dụng kiến thức và kỹ năng chuyên môn trong lĩnh vực KH&CN. Doanh nghiệp

có thể tiên phong triển khai các công nghệ hiện đại lần đầu tiên hoặc sử dụng những

công nghệ chưa phải là tiên tiến theo cách thức đổi mới, nhằm tạo ra sản phẩm hay

dịch vụ hoàn toàn mới. Toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp tập trung vào việc khai

thác yếu tố công nghệ như một nguồn lực cốt lõi, tạo nên lợi thế cạnh tranh trên thị

trường. Bên cạnh đó doanh nghiệp KH&CN có các đặc trưng sau: 1) Qui mô doanh

nghiệp; 2) Công nghệ; 3) Sản phẩm và dịch vụ; 4) Nguồn nhân lực; 5) Tài chính; 6)

Đầu tư có tính mạo hiểm và có độ trễ. Tại Việt Nam, theo quy định pháp luật hiện

hành, doanh nghiệp KH&CN được xác định là một loại hình doanh nghiệp được

thành lập và đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, qua đó phân biệt với các

tổ chức hoạt động trong lĩnh vực KH&CN khác. Doanh nghiệp này phải sử dụng kết

quả nghiên cứu KH&CN – có thể là do tự nghiên cứu hoặc tiếp nhận thông qua

chuyển giao công nghệ – và đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận là

doanh nghiệp KH&CN. Bên cạnh đó, doanh nghiệp KH&CN cũng được hưởng các

chính sách ưu đãi, đặc biệt là về thuế.

Tác giả Vũ Cao Đàm (2006) cho rằng doanh nghiệp KH&CN đảm nhận vai

14

trò triển khai công nghệ, bắt đầu từ việc chế tạo mẫu thử, tiến hành sản xuất thử

nghiệm, ươm tạo công nghệ và tiến tới sản xuất, hoàn thiện các sản phẩm công

nghệ. Sau đó, các công nghệ này được chuyển giao cho các doanh nghiệp khác để

áp dụng vào thực tiễn.[27]. Tác giả Mai Hà, Hoàng Văn Tuyên, Đào Thanh Trường

(2015)[30] đã kết luận rằng: chức năng của các doanh nghiệp KH&CN là “nghiên

cứu ứng dụng, triển khai thực nghiệm, chuyển giao tri thức, chuyển giao, ứng dụng

và phát triển công nghệ”; “ Sự khác nhau trong mô hình hoạt động của mỗi doanh

nghiệp KH&CN phụ thuộc vào những động lực công nghệ mà doanh nghiệp

KH&CN có được” “ Doanh nghiệp KH&CN gia đình có một số lợi thế nhất định

như tính độc lập cao, bộ máy quản lý tinh gọn, quá trình ra quyết định và thực hiện

nhanh chóng và tập trung. Tuy nhiên doanh nghiệp KH&CN gia đình có nhiều khó

khăn để tích lũy tri thức và hạn chế khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tham

gia vào thị trường quốc tế.”[30].

Tác giả Nguyễn Vân Anh, Nguyễn Hồng Hà, Lê Vũ Toàn (2014)[3], cho rằng

trên thế giới, doanh nghiệp KH&CN thường được hiểu là các doanh nghiệp được

thành lập mới, dưới dạng khởi nghiệp (start-up) hoặc khởi nguồn từ viện, trường

(spin-off). Trong khi đó, tại Việt Nam, yếu tố “thành lập mới” không được quy định

như một điều kiện bắt buộc đối với doanh nghiệp KH&CN. Cách tiếp cận này được

cho là phù hợp với thực tiễn trong nước, bởi việc tạo lập các doanh nghiệp hoàn

toàn mới dựa trên kết quả nghiên cứu KH&CN tiềm ẩn nhiều rủi ro. Quá trình này

đòi hỏi đội ngũ quản lý không chỉ có kỹ năng điều hành doanh nghiệp, kinh nghiệm

thực tiễn, mà còn cần am hiểu sâu về sở hữu trí tuệ, chuyên môn kỹ thuật và khả

năng vận hành, khai thác công nghệ một cách hiệu quả để tạo ra giá trị kinh tế. Ở

các quốc gia phát triển, hệ sinh thái hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN

đã được thiết lập đồng bộ, bao gồm các hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, quản lý và thương

mại hóa công nghệ, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các start-up và spin-off

trong lĩnh vực này. [3]. Trần Văn Tùng (2008) [57] đã làm rõ bản chất doanh

nghiệp KH&CN ở nước ta là doanh nghiệp được hình thành từ ứng dụng kết quả

nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ.

Có một số nghiên cứu đề cập đến con đường hình thành doanh nghiệp

15

KH&CN, các kinh nghiệm, những cơ hội và thách thức như: Nghiên cứu của

Nguyễn Quân (2006) đã khẳng định “Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ là một

lực lượng sản xuất mới “ [52]. Phạm Văn Diễn (2012) đã có “Trao đổi về doanh

nghiệp KH&CN”[23], chỉ ra những nguồn doanh nghiệp có thể trở thành doanh

nghiệp KH&CN. Phạm Hồng Quất (2014) đã nghiên cứu về: Doanh nghiệp

KH&CN: Cơ hội và thách thức’[53]; Trần Văn Đích (2014) [26], đã chỉ rõ khái

niệm, con đường hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Trần Văn Tùng (2011)[58], thành lập doanh nghiệp KH&CN trên cơ sở chuyển

hình thức hoạt động của tổ chức KH&CN theo quan điểm phát triển.

1.1.2. Các nghiên cứu về chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN

Nghiên cứu về chính sách công của TS. Kiều Quỳnh Anh và PGS. TS Hồ Việt

Hạnh (2022) [1], các tác giả đã phân tích một cách hệ thống những vấn đề lý luận

cơ bản liên quan đến chính sách công, đồng thời xác định các yếu tố ảnh hưởng đến

toàn bộ chu trình chính sách. Các tác giả đã lý giải những thách thức trong quá trình

hoạch định chính sách công dưới những bối cảnh chính trị khác nhau. Ngoài ra,

nghiên cứu cũng làm rõ các điểm tương đồng và khác biệt trong quá trình hoạch

định chính sách giữa các quốc gia có thể chế chính trị đa nguyên, nhị nguyên với

những nước theo mô hình chính trị nhất nguyên. Về điểm chung, các quốc gia này

đều có sự tham gia của các chủ thể thực thi chính sách công, các nhóm đối tượng

chịu tác động và có những bước tổ chức triển khai tương đối giống nhau. Tuy nhiên,

vẫn tồn tại sự khác biệt về mục tiêu chính sách, phạm vi và thời gian áp dụng cũng

như cách thức huy động nguồn lực xã hội cho quá trình thực hiện. Trên cơ sở phân

tích đó, nhóm tác giả đã rút ra một số bài học nhằm nâng cao hiệu quả thực thi

chính sách công, trong đó nhấn mạnh vai trò của cơ quan hành pháp và yêu cầu tăng

cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp tham gia vào quá trình thực

hiện chính sách.

Theo Kiều Quỳnh Anh và Hồ Việt Hạnh (2022) [1], thực thi chính sách công

về bản chất là quá trình hiện thực hóa các mục tiêu của chính sách thông qua việc

triển khai trong đời sống xã hội. Việc thực thi được tiến hành thông qua bộ máy tổ

chức của nhà nước, đồng thời có sự tham gia phối hợp của các đối tác liên quan.

16

Tùy theo từng chính sách cụ thể, các chủ thể thực thi sẽ xác định nhiệm vụ phù hợp

để tổ chức triển khai hiệu quả. Nhóm tác giả cũng đã phân tích rõ các thành phần

tham gia vào quá trình thực thi chính sách công, các yếu tố tác động đến hiệu quả

thực thi, cũng như ba giai đoạn chính trong quy trình thực hiện, bao gồm: (1) Xây

dựng và ban hành các văn bản, chương trình, dự án cụ thể để thực thi chính sách;

(2) Tổ chức triển khai thực hiện các văn bản và nội dung chính sách; (3) Tiến hành

sơ kết, tổng kết nhằm đánh giá kết quả thực thi chính sách công.

Theo Vũ Anh Tuấn (2014) [56], chính sách công được hiểu là định hướng

hành động do nhà nước lựa chọn, phù hợp với đường lối chính trị, nhằm giải quyết

các vấn đề chung của xã hội trong một giai đoạn nhất định. Dưới góc nhìn này,

chính sách công có vai trò quan trọng trong quản lý xã hội của nhà nước. Cùng quan

điểm, Đặng Ngọc Lợi (2012) cho rằng chính sách công là chính sách do nhà nước

hoặc chính phủ ban hành, thuộc phạm vi của chính sách kinh tế và chính sách tổng

thể của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, so với một số quan niệm khác, điểm khác biệt

đáng chú ý trong cách tiếp cận này là ở khái niệm “tính công” của chính sách.

Trong khi các học giả phương Tây thường nhấn mạnh tính công cộng – tức là

hướng đến lợi ích của công chúng, đối tượng chịu tác động và điều chỉnh bởi chính

sách – thì trong cách hiểu của các tác giả Việt Nam, “tính công” lại được gắn trực

tiếp với vai trò chủ thể của nhà nước và chính phủ trong quá trình xây dựng và ban

hành chính sách.

Trong nghiên cứu của TS. Hoàng Xuân Hòa và PGS.TS. Phạm Thị Hồng Yến

(2016) [32] về cải cách cơ chế và chính sách nhằm hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN

khởi nghiệp, các tác giả cho rằng việc thúc đẩy phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp

trong lĩnh vực KH&CN đã mang lại những ảnh hưởng tích cực không chỉ đối với

hoạt động sản xuất – kinh doanh mà còn đối với đời sống kinh tế – xã hội nói

chung. Tuy nhiên, hoạt động này còn gặp nhiều khó khăn và thách thức nên nhóm

nghiên cứu đã đề ra một số giải pháp đổi mới cơ chế thúc đẩy hình thành các doanh

nghiệp KH&CN.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuyết Mai (2020), đã nhấn mạnh tính cần thiết

của việc phát triển chính sách hỗ trợ spin-off trong trường đại học như một con

17

đường hình thành doanh nghiệp KH&CN đầy tiềm năng ở Việt Nam, với các quan

điểm sau: 1) Việc hình thành doanh nghiệp spin-off trong trường đại học là con

đường hiệu quả để thương mại hóa kết quả nghiên cứu và thúc đẩy đổi mới sáng tạo

trong môi trường học thuật; 2) Tại Việt Nam, mô hình spin-off còn rất mới, khung

chính sách pháp lý còn thiếu và yếu, đặc biệt thiếu cơ chế khuyến khích các nhà

khoa học trở thành doanh nhân; 3) Để hình thành con đường phát triển doanh

nghiệp KH&CN từ spin-off hiệu quả, cần xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ đầy đủ, bao

gồm: Chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ từ kết quả nghiên cứu; Cơ chế chuyển giao

công nghệ từ viện, trường sang doanh nghiệp; Hỗ trợ tài chính, ươm tạo và tăng

cường vai trò của văn phòng chuyển giao công nghệ trong trường đại học. [36a]

Theo nhóm nghiên cứu của Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia

(2015) [21], tình trạng suy thoái và quá trình phục hồi chậm của nền kinh tế toàn cầu

đã ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động đổi mới sáng tạo và sự phát triển của các doanh

nghiệp KH&CN. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự gia tăng phụ thuộc lẫn nhau giữa

các quốc gia trong lĩnh vực KH&CN và đổi mới, các chính sách nghiên cứu và phát

triển ngày càng chú trọng đến việc nâng cao lợi thế cạnh tranh quốc gia trong chuỗi

giá trị toàn cầu, nhằm thu hút các hoạt động đổi mới gắn với doanh nghiệp KH&CN.

Bên cạnh đó, ưu đãi về thuế đang trở thành một công cụ cạnh tranh giữa các quốc gia

để thu hút các trung tâm KH&CN quốc tế. Nhận thức được vai trò của khu vực doanh

nghiệp trong hoạt động nghiên cứu, nhiều chính phủ đã gia tăng tài trợ công cho các

doanh nghiệp KH&CN thông qua hình thức trợ cấp hoặc các hợp đồng cạnh tranh.

Đồng thời, hệ thống chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN cũng được triển khai

ngày càng đa dạng, bao gồm ưu đãi về tiếp cận vốn khởi nghiệp, chính sách thuế, ưu

tiên mua sắm sản phẩm từ hoạt động nghiên cứu – phát triển và đổi mới sáng tạo.

Nhóm nghiên cứu của Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia (2017)

[22] chỉ ra tiềm năng của doanh nghiệp KH&CN, chính phủ các nước đã nâng cao

năng lực KH&CN chọn doanh nghiệp của quốc gia và nhấn mạnh đến nội dung đổi

mới trong chương trình hỗ trợ về chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN trong

bối cảnh toàn cầu hóa. Một phần đáng kể nguồn đầu tư công đã được dành để nâng

cấp cơ sở hạ tầng phục vụ cho các doanh nghiệp KH&CN đổi mới sáng tạo. Đồng

18

thời, trong thập kỷ qua, nhiều chính phủ đã chủ động điều chỉnh các chính sách hỗ

trợ tài chính nhằm thúc đẩy đổi mới trong doanh nghiệp và nuôi dưỡng tinh thần

khởi nghiệp, đặc biệt là để khắc phục tình trạng suy giảm nguồn vốn tài trợ thường

xuyên đối với các doanh nghiệp KH&CN nhỏ và vừa, qua đó nâng cao năng lực đổi

mới của khu vực này. Ngoài ra, nền tảng của “tam giác tri thức” – trong đó nghiên

cứu công đóng vai trò then chốt – cũng được chú trọng củng cố. Các nghiên cứu

công có vai trò thiết yếu trong việc hỗ trợ sự phát triển của hệ thống đổi mới, bởi

chúng cung cấp tri thức và bí quyết công nghệ cần thiết để tạo ra các giải pháp kỹ

thuật mới nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội, đồng thời khuyến khích khu

vực doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào hoạt động KH&CN. Thực tế cho thấy, nếu

không có sự phát triển KH&CN dựa trên nền tảng nghiên cứu công, sẽ khó có thể

xuất hiện nhiều công nghệ tiên tiến ngày nay như ADN tái tổ hợp, hệ thống định vị

toàn cầu GPS, công nghệ lưu trữ MP3 hay công nghệ nhận diện giọng nói.

Trong nghiên cứu “Chính sách thúc đẩy sự hình thành và phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ: kinh nghiệm của Trung Quốc”, nhóm tác giả thuộc

Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia (2010) [19] đã đưa ra cái nhìn tổng

quan về các yếu tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp

KH&CN dưới góc độ chính sách công. Nghiên cứu nhấn mạnh vai trò của chính

phủ trong việc vận dụng các công cụ chính sách nhằm khơi dậy tinh thần khởi

nghiệp, từ đó thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp KH&CN tư nhân. Thông qua

đó, Trung Quốc đã từng bước xây dựng được một hệ thống KH&CN có khả năng

phục vụ hiệu quả hơn cho các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia.

Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2012) [20] nghiên cứu về

“Chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp”, các tác

giả chỉ ra công cụ khuyến khích nghiên cứu và phát triển bằng thuế được coi là có

nhiều ưu điểm hơn so với hỗ trợ trực tiếp cho nghiên cứu và phát triển, kể cả mua

sắm công hay tài trợ. Đây là một công cụ chính sách vận hành theo cơ chế thị

trường, nhằm mục tiêu giảm chi phí biên cho các doanh nghiệp KH&CN khi thực

hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Đồng thời, công

cụ này cho phép các doanh nghiệp tự chủ trong việc lựa chọn lĩnh vực ưu tiên để

19

đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển. Khuyến khích bằng thuế đối với

nghiên cứu và phát triển được hy vọng là sẽ dẫn đến một sự gia tăng ở đầu tư tư

nhân cho nghiên cứu và phát triển

Ngoài ra còn một số nghiên cứu về các khía cạnh pháp lý, các chính sách hỗ

trợ, kinh nghiệm của một số nước về phát triển KH&CN như một số công trình

nghiên cứu như: Nguyễn Thị Minh Nga (2013)[35] nghiên cứu về sự hình thành và

phát triển của doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên cơ sở pháp lý, các qui định

để các doanh nghiệp tiềm năng có thể trở thành doanh nghiệp KH&CN. Nghiên cứu

của các tác giả Nguyễn Thị Minh Nga, Hoàng Văn Tuyên (2006) [34] nghiên cứu

về “Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ – kinh

nghiệm các nước châu Âu” các tác giả đã rút ra bài học đặc biệt lớn là phát triển

doanh nghiệp KH&CN cần có các chính sách đầu tư KH&CN thỏa đáng cho doanh

nghiệp; Phạm Đức Nghiệm (2014)[36] nghiên cứu về ba nhóm giải pháp đẩy mạnh

phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ đặc biệt là nhóm giải pháp về cơ

chế, chính sách đặc thù cho vùng miền; Nguyễn Vân Anh (2013)[2], khẳng định vai

trò của cơ chế, chính sách đối với phát triển doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ,

PGS.TS. Nguyễn Trọng Xuân (2013) [104] là chủ nhiệm công trình nghiên

cứu “Phát triển doanh nghiệp ở Tây Nguyên 2013–2014”, thuộc Chương trình Khoa

học và Công nghệ trọng điểm cấp nhà nước “Khoa học và Công nghệ phục vụ phát

triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên” (Chương trình Tây Nguyên 3), mã số

KHCN-TN3/11-15. Nghiên cứu của nhóm tác giả đã tập trung làm rõ một số nội

dung quan trọng, bao gồm: tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp, đặc

điểm kinh tế vùng Tây Nguyên, cũng như vai trò của doanh nghiệp trong phát triển

kinh tế – xã hội khu vực này. Bên cạnh việc phân tích thực trạng phát triển, năng

lực cạnh tranh và mức độ đóng góp của doanh nghiệp trong giai đoạn 2000–2013,

nghiên cứu còn đưa ra các đề xuất về định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự

phát triển doanh nghiệp ở Tây Nguyên đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Ngoài ra, công trình cũng làm rõ cơ sở lý luận về doanh nghiệp, quá trình phát triển

doanh nghiệp và ảnh hưởng của doanh nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế; đồng thời

khảo sát kinh nghiệm thực tiễn tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới; đánh

20

giá sâu sắc thực trạng và tác động của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế – xã hội

vùng Tây Nguyên, từ đó đề xuất các quan điểm và định hướng phát triển phù hợp

cho giai đoạn tiếp theo.

1.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài

1.2.1. Các nghiên cứu về doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Trên phạm vi quốc tế, đã có nhiều nghiên cứu tiếp cận khác nhau liên quan

đến doanh nghiệp KH&CN. Một số học giả tập trung vào phân tích các vấn đề xoay

quanh doanh nghiệp dựa trên công nghệ (technology-based firm hoặc technology-

based venture), trong khi một số khác lại hướng đến nghiên cứu các doanh nghiệp

ứng dụng công nghệ mới và công nghệ cao (new and high technology-based firms).

Điểm chung trong cách tiếp cận này là xác định doanh nghiệp dựa trên công nghệ là

những tổ chức sản xuất – kinh doanh chủ yếu phát triển dựa vào hoạt động nghiên

cứu và triển khai (R&D), đóng vai trò trung tâm trong việc đổi mới sáng tạo và ứng

dụng tiến bộ khoa học vào thực tiễn.

Theo quan điểm của Butchart (1987) [112], doanh nghiệp công nghệ cao quy mô

nhỏ và vừa được xác định dựa trên một số tiêu chí đặc trưng. Cụ thể, ông cho rằng

doanh nghiệp công nghệ là những đơn vị hoạt động trong các lĩnh vực có tỷ lệ chi trung

bình cho hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) trên tổng doanh thu cao hơn so với

các ngành khác, hoặc là những doanh nghiệp có tỷ lệ sử dụng đội ngũ nhà khoa học và

kỹ sư trình độ cao vượt trội so với mặt bằng chung. Shearman (2014) khẳng định rằng

doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới tồn tại với tư cách độc lập hoạt động khai thác

sáng chế và phát triển công nghệ mới [140]. Đồng quan điểm có tác giả Storey (1994)

cho rằng doanh nghiệp công nghệ là doanh nghiệp dựa trên đổi mới công nghệ, vì vậy

nó có độ rủi ro cao về khía cạnh công nghệ. Autio (1994) [107] xác định rằng doanh

nghiệp dựa trên công nghệ mới là những doanh nghiệp được thành lập trong vòng

không quá 5 năm, hình thành trên cơ sở khai thác một sáng chế có tiềm năng hoặc một

năng lực công nghệ đặc biệt. Những doanh nghiệp này thường do một cá nhân hoặc

một nhóm cá nhân sáng lập, và tiến hành các hoạt động tương tự như tại các tổ chức

ươm tạo công nghệ hoặc các đơn vị chuyên trách chuyển giao công nghệ được hình

21

thành từ tổ chức ươm tạo.

Qiwen Lu (2001) tiếp cận về doanh nghiệp công nghệ: “doanh nghiệp công

nghệ là doanh nghiệp có ứng dụng công nghệ mới” [137] tác giả đã đề cập đến một

số doanh nghiệp công nghệ Trung Quốc trong bối cảnh cạnh tranh, tác giả cho rằng

để trở thành doanh nghiệp công nghệ thì phải học hỏi và đổi mới từ mô hình của các

doanh nghiệp như Stone Group, Legend Group và Founder Group. Sự năng động của

các doanh nghiệp này được tiếp cận các nguồn lực công nghệ của nhà nước, các hình

thức quản trị mới, chiến lược tích hợp giữa nghiên cứu và phát triển (R&D), tiếp thị

và sản xuất và học hỏi từ các đối tác nước ngoài, tác giả cho rằng sự đổi mới, R&D

để trở thành doanh nghiệp công nghệ có thể tập trung trong các tổ chức nhà nước.

Chamanski (2001) [114] đã xây dựng một số chỉ tiêu để phân biệt doanh

nghiệp công nghệ mới với các doanh nghiệp khác, bao gồm: 1) Bản chất của sản

phẩm, dịch vụ, các tiếp cận mà ông đưa ra có hạn chế là không được mô tả một cách

thỏa đáng bản chất cơ bản công nghệ của doanh nghiệp; 2) Năng lực sáng tạo của

doanh nghiệp mà ông đưa ra cũng làm ảnh hưởng đến năng lực KH&CN của doanh

nghiệp; 3) Mức độ được đào tạo của người lao động mà ông đưa ra có chỉ số khả thi

hơn về mặt công nghệ so với tiêu chí sáng chế. Các tiêu chí ông đưa ra đều có ưu

điểm và nhược điểm nhất định.

Theo Fontes (1995) [121], doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới là loại hình

doanh nghiệp được sáng lập bởi một cá nhân hoặc một nhóm người có tinh thần

kinh doanh đổi mới. Quan điểm này cho thấy các doanh nghiệp công nghệ mới

được thành lập với mục tiêu khai thác tri thức công nghệ tiên tiến, từ đó đầu tư vào

hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D). Đồng thời, các doanh nghiệp này cũng

chủ động đổi mới công nghệ nội tại của mình nhằm tạo lợi thế cạnh tranh khi tham

gia vào thị trường. Quan niệm của ông nhấn mạnh đến doanh nghiệp công nghệ là

doanh nghiệp của những người có tinh thần doanh thương độc lập quản lý và sở

hữu. Cùng quan điểm có Anna Trunina, Xielin Liu, Jian Chen, (2019) cho rằng:

“doanh nghiệp công nghệ là doanh nghiệp có sản phẩm công nghệ mới”[109], ông

phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa các doanh nghiệp công nghệ vừa và nhỏ

của Zhongguancun ở Trung Quốc và Thung lũng Silicon ở Hoa Kỳ trong các khía

22

cạnh sau của hoạt động: quy mô, sự đa dạng và sức mạnh của mạng lưới doanh

nhân; chất lượng mạng lưới cộng tác; danh tiếng theo nghĩa của các bên liên quan

Nhận thức của người dân tại thị trường địa phương; và mạng lưới nước ngoài.

Hsi-Yin Yeh (2014) cho rằng “phát triển doanh nghiệp công nghệ cao cần

được thể hiện có bằng sáng chế được xem như là một chỉ báo cho tác động kỹ thuật

và phát minh kỹ thuật”.[122]. Các bằng sáng chế được cấp và có khả năng chứa

đựng những tiến bộ công nghệ quan trọng. Các doanh nghiệp sản xuất các bằng

sáng chế công nghệ cao này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển công nghệ công

nghiệp. Bởi vì các ngành công nghệ chuyên sâu đòi hỏi sự đổi mới công nghệ để

liên tục thích ứng với môi trường thay đổi, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có thể phá

vỡ thị trường và sản xuất các công nghệ có tác động cao. Nghiên cứu này nhằm

mục đích khám phá các công nghệ được trích dẫn nhiều trong ngành công nghệ

thông tin và sử dụng các đặc điểm phân tích và kiến thức mạng xã hội để điều tra sự

chuyển đổi của các doanh nghiệp công nghệ có tác động cao. Phân tích theo chiều

dọc của các nhà lãnh đạo công nghệ kiểm tra xu hướng cạnh tranh trong các lĩnh

vực cụ thể để neo giữ các vị trí của các doanh nghiệp. Nghiên cứu này đề xuất một

quan điểm khác nhau để phân tích các doanh nghiệp công nghệ cao dựa trên quan

điểm mạng xã hội và các đặc điểm dựa trên tri thức.

Một số nghiên cứu cho rằng doanh nghiệp KH&CN là sự kết hợp giữa hai loại

hình doanh nghiệp: doanh nghiệp khoa học và doanh nghiệp công nghệ. Theo Autio

(1997b) [108], doanh nghiệp khoa học là những đơn vị sử dụng kết quả của nghiên

cứu cơ bản, chuyển hóa các kết quả này thành công nghệ nguồn và công nghệ ứng

dụng cụ thể. Những doanh nghiệp này thường phát triển các sản phẩm hoặc dịch vụ

có tính phức tạp cao và phạm vi ứng dụng rộng. Trong khi đó, doanh nghiệp dựa

trên công nghệ lại tập trung vào việc áp dụng các công nghệ nguồn để tạo ra sản

phẩm, dịch vụ mới nhằm đáp ứng những nhu cầu cụ thể của thị trường. Autio cho

rằng doanh nghiệp khoa học chủ yếu phát triển ứng dụng trong các lĩnh vực khoa

học tự nhiên hoặc dựa trên các mô hình lý thuyết, và định hướng của họ là xây dựng

nền tảng công nghệ cần thiết cho doanh nghiệp công nghệ. Ngược lại, doanh nghiệp

23

công nghệ lại hướng đến thị trường, với mục tiêu thương mại hóa sản phẩm. Việc

phân biệt hai loại hình này theo quan điểm của Autio là nhằm làm rõ bản chất và cơ

cấu bên trong của doanh nghiệp KH&CN.

Theo Masayuki Kondo (2004) [132], doanh nghiệp KH&CN được định nghĩa

là các doanh nghiệp mới thành lập không quá 3 năm, mang tính đổi mới cao, tham

gia vào các hoạt động nghiên cứu – triển khai (R&D) nhằm tiếp cận và khai thác

các bí quyết kỹ thuật. Hoạt động R&D này có thể được thực hiện bởi chính doanh

nghiệp hoặc thông qua hợp tác với các đối tác có hợp đồng nghiên cứu. Một đặc

điểm nổi bật là các doanh nghiệp KH&CN thường cần đầu tư vốn lớn hơn so với

các doanh nghiệp khởi nghiệp thông thường.

Stankiewicz (1994) [141] đưa ra hai cách tiếp cận để hiểu về doanh nghiệp

KH&CN. Thứ nhất, ông cho rằng đây là những doanh nghiệp "vệ tinh hàn lâm" –

được hình thành từ các viện nghiên cứu hoặc trường đại học, là nơi ươm mầm tinh

thần doanh nhân. Những doanh nghiệp này có thể do các cá nhân, nhóm nghiên

cứu, hoặc đơn vị trong tổ chức mẹ thành lập và phát triển. Năng lực KH&CN của

các tổ chức này là nền tảng quan trọng để hình thành doanh nghiệp KH&CN. Thứ

hai, ông đề cập đến các doanh nghiệp KH&CN trong lĩnh vực công nghệ cao,

thường nhận được sự hỗ trợ tài chính từ các quỹ đầu tư mạo hiểm. Theo quan điểm

của ông, để được chính thức công nhận là doanh nghiệp KH&CN trong Khu phát

triển các ngành công nghệ mới, doanh nghiệp cần đáp ứng nhiều tiêu chí như: nền

tảng hoạt động dựa trên công nghệ mới và công nghệ cao, có năng lực tài chính và

hạ tầng phù hợp, có khả năng quản lý và tổ chức, có kiến thức chuyên sâu về

KH&CN, và tiềm năng thị trường rõ rệt. Ngoài ra, doanh nghiệp cần có ít nhất 30%

nhân sự là cán bộ KH&CN, dành tối thiểu 5% doanh thu hàng năm cho R&D, và có

các dự án đầu tư vào công nghệ cao hoặc công nghệ mới.

Cooper A.C (1971) [115] định nghĩa doanh nghiệp KH&CN là loại hình

doanh nghiệp mà sản phẩm hoặc dịch vụ chủ yếu dựa trên việc ứng dụng tri thức

khoa học hoặc công nghệ. Ngoài ra, ông cũng cho rằng đây là những doanh nghiệp

mà các hoạt động kinh doanh được định hướng bởi yếu tố công nghệ, coi đó là một

nguồn tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng trong thị trường. Trên thực tế các doanh

24

nghiệp này chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp sinh học, hàng không,

công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ sinh học, khoa học y dược, công nghệ

sinh học. Tác giả Cooper còn có một loạt các các tiếp cận khác nhau của các tác giả

về doanh nghiệp KH&CN như: doanh nghiệp nhấn mạnh vào nghiên cứu triển khai

hoặc khai thác tri thức kỹ thuật mới[115]; Ý tưởng kinh doanh của doanh nghiệp chủ

yếu là dựa vào khai thác tri thức công nghệ tiên tiến hoặc tiếp thu một nguồn của

công nghệ ( Autio, 1994) [107]; Doanh nghiệp sở hữu độc lập, thành lập không quá

25 năm dựa vào khai thác sáng chế đổi mới công nghệ trong đó hàm ý về mức độ rủi

ro của công nghệ (Little, 1977); Doanh nghiệp mới và độc lập liên kết với một nhóm

nhỏ các thành viên sáng lập có nhiều động lực để khám phá một ý tưởng đổi mới về

mặt kỹ thuật (Bolliger, 1983); Các doanh nghiệp mới và trẻ, độc lập tham gia vào

phát triển và áp dụng công nghệ mới (Fontes 1995)[121]; Các doanh nghiệp độc lập

mới đang phát triển các ngành công nghiệp mới (Shearman 2014) [140]; Các doanh

nghiệp công nghệ cao mới và độc lập được hình thành trong 10 năm qua (Coeurderoy

R, 2008)[116]; Các doanh nghiệp độc lập mới phát triển sản phẩm và dịch vụ mới

dựa vào tri thức kỹ thuật của người sáng lập doanh nghiệp ( Candi. M, 2008) [113];

Các doanh nghiệp mới được hình thành nhằm phát triển và cung cấp những sản phẩm

hoặc dịch vụ có hàm lượng tri thức và công nghệ cao (Chamanski A, 2001) [114];

Các đơn vị kinh doanh mới thường phát triển sản phẩm mới dựa trên nền tảng tri thức

và kỹ năng chuyên môn, chủ yếu thuộc các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và khoa học tự

nhiên (Candi M, 2008) [113]; Các doanh nghiệp nhỏ, trẻ, mới, tập trung nhiều vào

nghiên cứu và phát triển (Masayuki Kondo, 2004)[132].

Phần lớn các nghiên cứu hiện nay tiếp cận doanh nghiệp KH&CN dưới các

hình thái như: doanh nghiệp dựa trên công nghệ (bao gồm các doanh nghiệp độc

lập, mới thành lập, công nghệ cao, quy mô nhỏ và vừa), doanh nghiệp vệ tinh

hàn lâm, doanh nghiệp dựa trên tri thức hoặc dựa trên nền tảng khoa học. Các

nghiên cứu tập trung làm rõ rằng, doanh nghiệp KH&CN thường được hình

thành từ sáng kiến của các nhà khoa học hoặc nhóm nghiên cứu có tinh thần khởi

nghiệp, sở hữu tri thức và công nghệ cốt lõi để phát triển các sản phẩm, dịch vụ

mới có tiềm năng thương mại hóa cao và khả năng tăng trưởng mạnh trên thị

25

trường. Một số tác giả thì cho rằng doanh nghiệp KH&CN hình thành từ việc áp

dụng kết quả nghiên cứu của các tổ chức khác. Một số tác giả chỉ rõ chỉ số thời

gian từ khi thành lập, điều này không phải lúc nào cũng đúng cho các loại hình

doanh nghiệp.

Các nghiên cứu về doanh nghiệp khoa học và công nghệ dựa trên đặc trưng

và vai trò của doanh nghiệp, bao gồm: Randall S.Jones (2018) [138]cho rằng đặc

trưng nổi bật nhất của doanh nghiệp KH&CN là qui mô nhỏ và vừa, ông cho

rằng cả hai loại doanh nghiệp qui mô nhỏ và vừa và qui mô lớn đều có nhiều thời

cơ trong đổi mới. Các doanh nghiệp có qui mô lớn có nhiều yếu tố thuận lợi như

sản phẩm, công nghệ và nguồn tài chính nên thường có điều kiện tốt hơn cho đổi

mới. Tương tự, Lee J (1995) [131] cho rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều

lợi thế để trở thành doanh nghiệp KH&CN hơn doanh nghiệp lớn, như lợi thế về

động lực kinh doanh, sự linh hoạt về tổ chức và nhân sự, dễ thay đổi trong các

hoàn cảnh khác nhau, thường hướng tới mục tiêu phát triển sản phẩm mới.

Fontes (1995) [121] cho rằng doanh nghiệp KH&CN đóng vai trò như những

“doanh nghiệp vệ tinh”, được hình thành từ quá trình chuyển giao trực tiếp tri

thức hoặc công nghệ từ khu vực nghiên cứu. Các doanh nghiệp này duy trì mối

quan hệ cộng sinh chặt chẽ với tổ chức mẹ – thường là các viện nghiên cứu hoặc

trường đại học – trong suốt quá trình hoạt động và phát triển của mình. Tương

tự, Tingli Pan (2020) [147] mô tả quá trình tiếp thu và chuyển giao tri thức của

doanh nghiệp KH&CN, ông cho rằng khi doanh nghiệp mua được công nghệ mới

kết hợp giữa tri thức mới và năng lực nội sinh của doanh nghiệp để phát triển

công nghệ trong một lĩnh vực nhất định.

Các nghiên cứu liên quan đến “quá trình tiếp nhận và truyền bá công nghệ”

của doanh nghiệp KH&CN đều có những quan điểm tương đồng. Fontes (1995)

[121] đã phân tích các tác động của doanh nghiệp KH&CN trong quá trình tiếp

nhận và lan tỏa công nghệ ở các cấp độ khác nhau, bao gồm việc giới thiệu công

nghệ mới, cải tiến công nghệ hiện có và phổ biến công nghệ ra thị trường. Ông nhấn

mạnh rằng cả công nghệ và thị trường đều là những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến

quá trình này. Bên cạnh đó, một vai trò quan trọng khác của doanh nghiệp KH&CN

26

cũng được các tác giả đề cập là khả năng “tạo ra việc làm mới”, đóng góp tích cực

vào sự phát triển kinh tế – xã hội. Chamanski (2001)[114], đã khảo sát từ 57 doanh

nghiệp KH&CN của Na Uy và ông kết luận rằng sự tăng trưởng về việc làm mới từ

doanh nghiệp KH&CN tăng trung bình về việc làm từ 3 đến 10% trong 8 năm hoạt

động của doanh nghiệp KH&CN. Tương tự, Edwards & George C. (1980) [120]

trích dẫn một báo cáo từ Ngân hàng Boston công bố năm 1997, trong đó nhấn mạnh

rằng sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp KH&CN có nguồn gốc từ

Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) đã trở thành lực đẩy quan trọng làm thay đổi

diện mạo kinh tế của bang Massachusetts. Từ phân tích của báo cáo này, các tác giả

cho rằng nếu tách riêng giá trị kinh tế do nhóm doanh nghiệp này tạo ra, thì quy mô

của nó tương đương với GDP của một quốc gia đứng thứ 24 toàn cầu. Với hơn

4.000 doanh nghiệp hoạt động, khu vực này tạo ra khoảng 1,1 triệu việc làm và đạt

mức doanh thu hàng năm lên tới 232 tỷ USD – cho thấy tác động kinh tế vượt xa

phạm vi khu vực, mang tính toàn cầu.

Các nghiên cứu về doanh nghiệp KH&CN thường tiếp cận thông qua việc

phân tích chức năng, hoạt động và cơ cấu quản trị của loại hình doanh nghiệp này.

Theo Coeuderoy R. (2008) [116], doanh nghiệp KH&CN đảm nhiệm ba chức năng

cốt lõi: (1) đóng vai trò cầu nối giữa nghiên cứu khoa học và sản xuất thực tiễn; (2)

thực hiện nhiệm vụ chuyển giao công nghệ; và (3) là lực lượng nòng cốt trong hoạt

động đổi mới. Trong khi đó, Kraft và cộng sự (2015) [130] lại tiếp cận theo hướng

rút gọn hơn, xác định hai chức năng chính của doanh nghiệp KH&CN gồm: (1) đổi

mới quy trình hoặc sản phẩm; và (2) phát triển, chuyển giao cũng như tạo ra các

công nghệ mới. Tác giả Balazs (1996) [111] cho rằng có hai cách hoạt động cơ bản

của doanh nghiệp KH&CN là: hoạt động theo hình thức thực hiện các hợp đồng

nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao và phát triển công nghệ.v.v..hoặc là hoạt động tìm

kiếm khách hàng mới, thị trường mới. Stankiewwica R (1994) [141]chỉ ra mô hình

tư vấn và thực hiện hợp đồng nghiên cứu và triển khai, từ đây thực hiện cách thức

sử dụng những chuyên gia có năng lực và trình độ cao. Với mô hình định hướng sản

phẩm thì theo nghiên cứu của Jing Liu (2019) [129] thì số doanh nghiệp theo mô

27

hình này thành công rất hạn chế trong tạo ra sản phẩm mới.

Trong số nhiều nghiên cứu xoay quanh mối quan hệ liên kết và hợp tác của

doanh nghiệp KH&CN, đáng chú ý là công trình của Balazs (1996) [111], trong đó

tác giả đã hệ thống hóa và xác định rõ các hình thức hợp tác chủ yếu giữa doanh

nghiệp KH&CN và tổ chức mẹ. Ông cho rằng một nhóm cá nhân mang theo tri thức

ngầm rời tổ chức mẹ để thành lập doanh nghiệp KH&CN độc lập về mặt luật pháp

nhưng về mặt hoạt động vẫn phụ thuộc nhiều vào tổ chức mẹ. Nghiên cứu của

Autio E (1997) [108], chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp KH&CN được hình thành từ

các tổ chức KH&CN vẫn khai thác tiềm năng và tiếp nhận công nghệ từ tổ chức mẹ.

Nghiên cứu của Balazs K (1996)[111] chỉ ra rằng khi khảo sát các doanh

nghiệp KH&CN cho kết quả là “Sự hỗ trợ của tổ chức mẹ đã đóng góp cho sự thành

công của doanh nghiệp KH&CN”. Bên cạnh đó các tác giả còn cho rằng: trong các

giai đoạn của hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN nền tảng tri thức và

kinh nghiệm của tổ chức mẹ là điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp KH&CN thành

công . Nghiên cứu của Perez và cs (2003) chỉ ra doanh nghiệp KH&CN cần quan

tâm nhiều hơn đến chuyển giao công nghệ và hợp tác liên kết với tổ chức mẹ.

Nghiên cứu của Cooper A.C (1971)[115], cho rằng hầu hết các doanh nghiệp

KH&CN mới có cùng thị trường, sử dụng cùng công nghệ giống tổ chức mẹ, vì thế

danh tiếng của tổ chức mẹ ảnh hưởng tích cực đến thương hiệu và sự phát triển của

doanh nghiệp KH&CN.

Các nghiên cứu đã chỉ ra một loạt các mối liên kết giữa doanh nghiệp

KH&CN với tổ chức mẹ, bao gồm: doanh nghiệp KH&CN nhận được sự hỗ trợ về

nguồn lực vật chất từ tổ chức mẹ (Dalstrand, 1997); đặc biệt nguồn lực vật chất vô

cùng quan trọng trong lĩnh vưc chế tạo ( Barnardt và cs, 2002). Nghiên cứu của

Robert (1991) chỉ ra rằng quan hệ có tính cán nhân giữa công ty mẹ và doanh

nghiệp KH&CN, 50% các nhà sáng lập ra doanh nghiệp KH&CN vẫn làm ở tổ chức

mẹ. Nghiên cứu của Dalstrand, (1997) cho rằng doanh nghiệp KH&CN được tổ

chức mẹ cung cấp kỹ năng quản lý, hỗ trợ và chia sẻ rủi ro ở giai đoạn đầu để đem

lại thành công cho doanh nghiệp KH&CN. Có nhiều nghiên cứu về tổ chức quản lý

doanh nghiệp khoa học và công nghệ về hình thức sở hữu doanh nghiệp KH&CN

28

gia đình (doanh nghiệp một thành viên) và hình thức sở hữu doanh nghiệp KH&CN

phi gia đình ( doanh nghiệp nhiều thành viên). Nghiên cứu của Storey D.J

(1994)[142] cho rằng: hoạt động đầu tư của doanh nghiệp KH&CN gia đình không

đa dạng, thường tránh nguồn đầu tư từ bên ngoài do lo ngại bị kiểm soát, và chi

phối sở hữu. Nghiên cứu của Donckels R (1991) cho rằng: “Qúa trình tích lũy tài

sản vô hình, kể cả việc đầu tư rủi ro, mạo hiểm là không thực sự thích hợp với bản

chất bảo thủ của doanh nghiệp KH&CN gia đình”[119] .

Nghiên cứu của Coeuderoy R (2008) [116] chỉ ra rằng nguồn nhân lực doanh

nghiệp KH&CN gia đình thường chất lượng không cao, ông chỉ ra lý do là: các

doanh nghiệp KH&CN gia đình thường sử dụng vị trí quản lý gia đình, ít quan tâm

đến chất lượng và kinh nghiệm hợp tác quốc tế. Nghiên cứu của James Anderson

(1984)[128] cho rằng hoặc họ gặp khó khăn trong tuyển các vị trí chuyên nghiệp,

nên cần phải có hệ thống chính sách đặc biệt để thúc đẩy và khuyến khích đối với

các thành viên trong doanh nghiệp KH&CN gia đình. Balazs K (1996) [111], cho

rằng: việc ra quyết định của doanh nghiệp KH&CN gia đình dễ dàng bởi tính tập

trung và nhanh chóng, nhưng thẩm quyền không rõ ràng và thiếu sự kiểm soát. Có

nhiều nghiên cứu về hình thức sở hữu doanh nghiệp KH&CN phi gia đình. Nghiên

cứu của Fontes (1995) [121] cho rằng mối quan hệ giữa các cổ đông và doanh

nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhờ có

nguồn vốn dồi dào. His-Yin Yed (2014) [122] cho rằng việc sử dụng các kỹ năng

mềm quản lý các hoạt động có vai trò quan trọng trong tổ chức quản lý doanh

nghiệp KH&CN.

1.2.2. Các nghiên cứu về chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN

Nghiên cứu chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN phải được tiếp cận từ

góc nhìn của khoa học chính sách công, vì chính sách công là nền tảng, cơ sở để

giải quyết đúng đắn mục đích và đối tượng của đề tài luận án. Trong tiến trình phát

triển của các quốc gia, chính sách công hình thành song hành với sự xuất hiện và

vận hành của các mô hình nhà nước khác nhau trên thế giới. Lịch sử đã chứng minh

rằng chính sách công bị ảnh hưởng rất lớn vào hệ thống chính trị của mỗi quốc gia.

Vì vậy, thể chế nhà nước nào thì chính sách công ấy. Khi quốc gia nào có thể chế

29

chính trị, thể chế nhà nước tốt đẹp thì chính sách công đem lại sự phát triển và hung

thịnh cho quốc gia đó. Khi thể chế không đúng đắn dẫn đến những chính sách sai

lầm làm đe dọa sự tồn tại và kìm hãm sự phát triển đất nước.

Vì vậy khoa học chính sách công ra đời là để lý giải các vấn đề có tính qui luật

của thực tiễn, giải quyết các mâu thuần giữa các hệ giá trị tiến bộ hay lạc hậu; giữa

phát triển hay tụt hậu.v.v…Do vậy, các công trình nghiên cứu về chính sách công ở

thế kỷ 20 đã tập trung chủ yếu vào nghiên cứu bản chất của chính sách công, chỉ ra

mối liên hệ của chính sách công với mọi lĩnh vực của cuộc sống con người, từ chính

trị, kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục, khoa học- công nghệ, doanh nghiệp.v.v.,

Thomas Dye (năm 1972) đã đưa ra một định nghĩa khá súc tích về chính sách công

như sau: “Chính sách công là bất kỳ những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không

làm”[144]. Tuy nhiên, cách tiếp cận này mang tính bao quát và trừu tượng, chưa

làm rõ giới hạn giữa các hoạt động có thể được xem là chính sách công trong vô số

hành vi của nhà nước. Do đó, định nghĩa của Dye chưa cung cấp cơ sở cụ thể để

nhận diện hoặc phân tích bản chất hoạt động chính sách trong thực tiễn. Để khắc

phục điểm này, William Jenkins (1978) đã đưa ra một cách hiểu rõ ràng hơn, theo

đó chính sách công là “một tập hợp các quyết định liên kết với nhau, được ban

hành bởi một cá nhân hoặc nhóm tác nhân chính trị, nhằm lựa chọn mục tiêu và xác

định phương thức đạt được mục tiêu đó trong một bối cảnh nhất định thuộc phạm vi

thẩm quyền” [149]. Quan điểm của Jenkins nhấn mạnh tính quá trình và tính hệ

thống của chính sách công, thay vì xem đó là những lựa chọn rời rạc. Ông cho rằng

trong thực tế, việc giải quyết các vấn đề công hiếm khi dựa trên một quyết định đơn

lẻ, mà thường là kết quả của chuỗi các quyết định có mối quan hệ logic và đồng bộ.

Do vậy, theo Jenkins, chính sách công là một tiến trình định hướng mục tiêu của

nhà nước, trong đó việc xác lập mục tiêu, lựa chọn công cụ và thiết kế lộ trình hành

động là những bước then chốt trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Từ

cách nhìn này giúp cho việc đánh giá chính sách công sẽ đầy đủ và khách quan hơn.

David Abbott (2019) [117] cho rằng chính sách công là một cách để thể hiện

về việc làm mà chính quyền trong nền hành chính công và được coi là một thành

phần trung tâm của trật tự dân chủ hiện đại . Áp dụng cách tiếp cận ngôn ngữ hành

30

động công sáng tạo, Beyond Public Policy cho thấy chính sách chỉ là một trong

nhiều ngôn ngữ xã hội mạnh mẽ (ngân sách, kế hoạch, quyền, chỉ thị và phản đối,

trong số những ngôn ngữ khác) được sử dụng để khiến mọi thứ xảy ra trong lĩnh

vực luôn thay đổi của hoạt động công vụ, nơi họ có thể hợp tác, cạnh tranh, hoặc chỉ

đi theo cách riêng của họ. Chi Maher (2019) đã xem xét cách chính sách công đang

định hình và củng cố sự bền vững của doanh nghiệp xã hội nhỏ ở các khu vực của

Vương quốc Anh. Khi lợi ích của chính phủ trong các hoạt động của doanh nghiệp

xã hội và đóng góp cho việc cung cấp dịch vụ công tăng lên, nhu cầu cung cấp dữ

liệu định tính khu vực thông báo cho các nhà hoạch định chính sách về những thách

thức và nhu cầu bền vững của các tổ chức này là điều tối quan trọng.

Xuất phát từ vai trò vô cùng quan trọng của doanh nghiệp KH&CN trong phát

triển kinh tế, đổi mới công nghệ, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa,

giải quyết lao động việc làm, bất cứ quốc gia nào muốn phát triển đều phải có các

chính sách phù hợp thúc đẩy phát triển doanh nghiệp KH&CN. Qúa trình phát triển

doanh nghiệp KH&CN tác động rất lớn đến phát triển các ngành công nghiệp, các

sản phẩm và công nghệ mới cần được chuyển giao và ứng dụng vào sản xuất, kinh

doanh. Doanh nghiệp KH&CN với cường độ đổi mới cao không chỉ tác động lớn

đến doanh thu đạt được của doanh nghiệp mà còn tác động đến việc gia tăng nhu

cầu lao động, giảm chi phí và gia tăng thị phần của doanh nghiệp. Chính vì đặc thù

hoạt động với "cửa sổ cơ hội" ngắn, Storey D.J. (1994) [142] cho rằng doanh

nghiệp KH&CN cần được hưởng các chính sách hỗ trợ đặc biệt. Nếu không kịp thời

đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) tại thời điểm thích hợp, các

doanh nghiệp này có thể đánh mất hoàn toàn cơ hội phát triển. Tác giả Xiaolin Mo,

Ningkang Zheng (2019),[152] cho rằng cần có chính sách hỗ trợ cho các cán bộ

KH&CN có tri thức về giải pháp công nghệ tiên tiến nhưng thiếu những giải pháp

đưa công nghệ đến thị trường. Storey (1994) [142] nhấn mạnh rằng việc thiết kế các

chính sách hỗ trợ chuyên biệt dành cho doanh nghiệp KH&CN sẽ góp phần gia tăng

khả năng thành công của các doanh nghiệp này trên thị trường. Nghiên cứu về các

biện pháp chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN trong đó có chính sách công

viên khoa học, vườn ươm, hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp KH&CN, dịch vụ

31

tư vấn, hỗ trợ, phát triển văn hóa doanh thương và người có tinh thần doanh thương.

Westhead (1997) cho rằng: Công viên khoa học công viên công nghệ, công viên

phần mềm, trung tâm đổi mới…là nơi cung cấp hàng loạt các nguồn lực hỗ trợ quan

trọng cho doanh nghiệp KH&CN.

Chính phủ các quốc gia đều chú trọng xây dựng các chính sách khuyến

khích nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp KH&CN, đặc biệt tập trung

vào việc hỗ trợ các doanh nghiệp mới thành lập và các doanh nghiệp dựa trên

công nghệ mới, qua đó góp phần gia tăng số lượng doanh nghiệp KH&CN trong

nền kinh tế. Đối tượng của chính sách tinh thần doanh thương chính là ở các viện

nghiên cứu và trường đại học, là nơi có tinh thần doanh thương tiềm năng, là nơi

có nhiều sinh viên, giảng viên các nhà khoa học trình độ cao. Một số quốc gia

còn có chính sách thu hút những người có tinh thần doanh thương cao có khả

năng về tri thức và công nghệ mới ở quốc gia khác đến làm việc, nên chính phủ

các nước đã ban hành các biện pháp mới về nhập cư. Nghiên cứu của Donckels R

(1991)[119] cho rằng “mặc dù cho thấy nhóm các doanh nghiệp có tốc độ tăng

trưởng nhanh có xu hướng thuộc lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực thâm dụng công

nghệ, thâm dụng tri thức và các doanh nghiệp này có xu hướng tỷ lệ tăng trưởng

mạnh hơn so với các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp tri thức thấp hơn”.

S.I.Oladeji (1998) [139] đã mô tả thực trạng từ năm 1986, các chính sách công

nghệ thông qua phát triển các doanh nghiệp KH&CN của Nigeria đã tiếp tục bị ảnh

hưởng bởi chương trình điều chỉnh cơ cấu với các chính sách kinh tế định hướng thị

trường. Chính phủ thực hiện chính sách tư nhân hóa và thương mại hóa trong khi

chiến lược công nghiệp của đất nước đã cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp

KH&CN. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng để phát triển năng lực công nghệ địa phương

cho phát triển doanh nghiệp KH&CN thì sự phụ thuộc độc quyền vào các lực lượng

thị trường không hiệu quả bằng sự can thiệp của chính phủ được xác định và phối

hợp. Chống lại luận điểm này, nghiên cứu đánh giá và phân tích các chính sách phát

triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo phạm vi và triển vọng mà họ đủ khả

năng để hồi sinh các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiềm năng của doanh nghiệp KH&CN

ở Nigeria. Về mặt ban hành, các chính sách công nghiệp hóa đã được tìm thấy tập

32

trung tốt và có phạm vi rộng lớn cho sự phát triển của các doanh nghiệp KH&CN vừa

và nhỏ. Mặt khác, các chính sách công nghệ, thiếu tính chọn lọc và ít tập trung vào

việc thúc đẩy các doanh nghiệp KH&CN vừa và nhỏ trong nước. Kết luận được đưa

ra là việc thiết kế và thực thi chính sách công nghệ phải được xem xét và phù hợp với

các chính sách công nghiệp hóa của đất nước. Cụ thể, trong việc xây dựng và thực

hiện chính sách, cần có những nỗ lực phối hợp để tạo ra, đồng thời tạo ra nhu cầu xã

hội hiệu quả cho sự phát triển của doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

YonghongShaanxi (2019) [154], đã chứng minh rằng là một sản phẩm của

thời đại đổi mới và toàn cầu hóa, các doanh nghiệp KH&CN, đổi mới sáng tạo đang

làm thay đổi các ngành công nghiệp truyền thống với các mô hình kinh doanh hoàn

toàn mới. Lấy Trung tâm Phát triển Công viên Tiên phong của Khu công nghệ cao

Tây An làm ví dụ, tầm quan trọng của chính sách hỗ trợ quốc gia đối với sự phát

triển của các doanh nghiệp KH&CN đã được phân tích. Tingli Pan (2020) [147] chỉ

ra rằng trong bối cảnh chính sách giảm thuế và phí, tác giả phân tích tình trạng phát

triển của các doanh nghiệp công nghệ cao Trùng Khánh, và kết luận rằng các chính

sách giảm thuế và phí có thể thúc đẩy hiệu quả sự phát triển lành mạnh và bền vững

của các doanh nghiệp công nghệ cao Trùng Khánh. Năm 2019, các chính sách giảm

thuế và phí tiếp tục tăng cường cường độ của họ, bao trùm tất cả các doanh nghiệp

công nghệ cao và chia cổ tức chính sách một cách chính xác, do đó giúp nâng cao

hiệu quả của doanh nghiệp công nghệ cao. Hiệu quả khuyến khích tích cực của

chính sách giảm thuế và phí đối với các doanh nghiệp công nghệ cao đang dần xuất

hiện, đóng vai trò nổi bật trong việc giảm gánh nặng chi phí, nâng cao hiệu quả kinh

doanh, kích thích đổi mới, thúc đẩy niềm tin phát triển và thúc đẩy doanh nghiệp

công nghệ cao phát triển.

Jing Liu (2019) [129] dựa trên lý thuyết về cơ sở tài nguyên, lý thuyết về nền

tảng tri thức và tư tưởng quản lý tri thức, mô hình mối quan hệ giữa quản trị môi

trường và các doanh nghiệp khoa học và công nghệ được xây dựng, khảo sát các

nhân viên của 436 doanh nghiệp khoa học và công nghệ, phân tích ảnh hưởng mạnh

mẽ quản trị môi trường trên các doanh nghiệp khoa học và công nghệ nhỏ. Kết quả

nghiên cứu của ông cho thấy, quản trị môi trường có tác dụng thúc đẩy trực tiếp và

33

gián tiếp đến các doanh nghiệp khoa học và công nghệ đồng thời, các biện pháp đối

phó tương ứng cần được đưa ra từ cả chính phủ và doanh nghiệp; Trước hết, chính

quyền khu vực cần cải thiện môi trường để xây dựng cơ sở hạ tầng, chìa khóa để

thành lập một tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Nền tảng dịch

vụ khoa học và công nghệ và nghiên cứu công nghệ cao là chìa khóa của phòng thí

nghiệm nghiên cứu cơ sở hạ tầng. Nghiên cứu chỉ ra cần xây dựng chính sách

khuyến khích vật chất và khuyến khích phi vật chất, khuyến khích giao tiếp giữa

các nhân viên, xây dựng các doanh nghiệp khoa học và công nghệ nhỏ và vừa. Yan

Xiaochang; Huang Guitian (2019) [153] đã chỉ ra rằng trong môi trường thể chế

hiện nay, mức độ bảo vệ sở hữu trí tuệ vẫn còn thấp và đầu tư nghiên cứu và phát

triển của các doanh nghiệp KH&CN là không đủ. Nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ trong khu vực doanh nghiệp KH&CN, các

chính phủ thường lựa chọn chính sách trợ cấp KH&CN như một công cụ chính sách

trọng yếu để hỗ trợ và tạo động lực đổi mới. Tuy nhiên, mức độ bảo vệ sở hữu trí

tuệ không có ảnh hưởng đáng kể đến con đường trợ cấp của chính phủ ảnh hưởng

đến đầu tư R&D của các doanh nghiệp KH&CN.

Weiqi Liang, Yinying Kong, Jiankui Huang and Jiajun Zeng, (2019) [150] đã

đưa ra khái niệm quan trọng về đánh giá tiềm năng phát triển hệ thống của doanh

nghiệp công nghệ cao được liệt kê tại khu vực Vịnh Quảng Đông-Hồng Kông-

Macao. Kết hợp với quy trình phân cấp phân tích và phương pháp entropy, nhóm

tác giả xác định từng chỉ số có trọng số, tóm tắt thông tin của các chỉ số và kiểm tra

tình trạng tiềm năng phát triển của các doanh nghiệp công nghệ cao mỗi năm

Pratyush Bharati (2012) [135] về đồng hóa công nghệ, tổng hợp các công nghệ và

các giai đoạn đồng hóa cho các doanh nghiệp nhỏ. Các tác giả sử dụng lăng kính

sinh đôi của đổi mới tổ chức và các yếu tố của lý thuyết thể chế. Nghiên cứu xác

nhận một số tác nhân thể chế và hầu hết các đặc điểm vững chắc là yếu tố quyết định

quan trọng. Các điểm yếu tương đối của các tác nhân thể chế cung cấp bằng chứng về

sự cô lập cấu trúc trong môi trường doanh nghiệp KH&CN đang ngăn cản luồng

thông tin từ các trung gian như các cơ quan hỗ trợ và nhà cung cấp của chính phủ.

Các tác giả đề xuất một vai trò chủ động về phía trung gian công nghệ và doanh

34

nghiệp để thiết kế các giải pháp phù hợp với doanh nghiệp KH&CN vừa và nhỏ.

Zofia Gródek-Szostak (2019) [156], Một trong những mục tiêu quan trọng

nhất của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN của cả các nước phát triển và

đang phát triển là phát triển các hệ thống đổi mới quốc gia và khu vực. Đây là

những thể chế và kỹ năng nhằm giới thiệu những doanh nghiệp đổi mới làm tăng

khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp KH&CN.

1.3. Nhận xét tổng quan tình hình nghiên cứu

1.3.1. Những vấn đề đã đạt được sự thống nhất trong nghiên cứu liên quan đến

đề tài luận án

Đa phần những quan điểm về chính sách công và về chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN đều cách nhìn chung về một chủ thể chính sách là nhà nước,

đối tượng tác động của chính sách là doanh nghiệp. Một số đã đề cập đến các vấn

đề của chính sách cũng có nhiều điểm tương đồng, đa phần là thấy được vai trò mấu

chốt của chính sách có thể tác động tốt hay xấu đến thị trường doanh nghiệp, có thể

thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các cá nhân, tổ chức, cộng đồng nói chung

cũng như doanh nghiệp nói riêng.

Các khái niệm liên quan đến doanh nghiệp khoa học và công nghệ, đến chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN cũng được các văn bản của nhà nước qui

định rất rõ nên có sự thống nhất cao trong việc thừa nhận bản chất của vấn đề

nghiên cứu. Các nghiên cứu phần nào có cách nhìn chung về đổi mới sáng tạo chính là

khoa học và công nghệ, cho nên doanh nghiệp có đổi mới sáng tạo thì mới có khả năng

trở thành doanh nghiệp KH&CN, ngược lại doanh nghiệp có ứng dụng thành tựu của

KH&CN thì mới có đổi mới sáng tạo, và chính sách đổi mới sáng tạo cũng chính là

chính sách làm thế nào để thúc đẩy ứng dụng KH&CN vào trong sản xuất kinh doanh

để trở thành doanh nghiệp đổi mới sáng tạo hay gọi là doanh nghiệp KH&CN ( xét ở

khía cạnh nhất định thì không đánh đồng được các thuật ngữ này, nó không thể đồng

nhất, nhưng nó là điều kiện cần và đủ tác động qua lại bổ sung cho nhau).

1.3.2. Những vấn đề còn tranh luận, chưa rõ trong nghiên cứu hoặc chưa được

tiếp cận nghiên cứu vấn đề liên quan đến đề tài luận án

Một số các nghiên cứu khi bàn đến chính sách công nói chung cũng như chính

35

sách phát triển doanh nghiệp nói riêng rất ít bàn đến bản chất của các mối quan hệ

trong hệ thống đổi mới quốc gia (national innovation system), đó là mối quan hệ giữa

nhà nước, viện nghiên cứu và trường đại học. Ba trụ cột của hệ thống đổi mới quốc

gia sẽ là điều kiện cần và đủ để các doanh nghiệp KH&CN phát triển cả về số lượng

và chất lượng. Đa phần các nghiên cứu khi đề cập đến chính sách thì nói nhiều đến

chính sách đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, ít nhắc đến doanh nghiệp KH&CN.

Một số công trình nghiên cứu trong nước thì hay tiếp cận theo phong trào, có

rất nhiều bài viết về doanh nghiệp KH&CN, cũng như chính sách về doanh nghiệp

KH&CN, nhưng lại thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn. Đặc biệt, nghiên cứu theo

trào lưu mà ít để ý đến bản chất gốc rễ của vấn đề, ví dụ, gần đây khi cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0 trỗi dậy chưa từng có trên thực tiễn và ùa vào Việt Nam như

một cơn lốc, phong trào khởi nghiệp, tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tao lan tỏa

thì các tài liệu, bài báo viết nhiều về doanh nghiệp công nghệ số, khởi nghiệp, đổi

mới sáng tạo và thực tế thì doanh nghiệp KH&CN lại bị lu mờ, với số lượng khá ít

ỏi, chủ yếu tập trung ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, còn ở khu vực Tây

Nguyên thì con số vô cùng ít (26 doanh nghiệp KH&CN được công nhận tính đến

năm 2023), mà hầu như các nghiên cứu bỏ quên rằng công nghệ số chỉ là một khía

cạnh của công nghệ nói chung và không thể bỏ qua kỹ năng và nghệ thuật quản lý

của con người.

Các nghiên cứu về chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN gần đây dường

như lại được thay thế bằng chính sách phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh

nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp công nghệ số, việc thiếu thừa nhân chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN chính là nền tảng để đổi mới sáng tạo, để công nghệ

số. Các công trình nghiên cứu về chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN, đặc

biệt đối với vùng Tây Nguyên ở Việt Nam hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứ

một cách toàn diện., đặc biệt tiếp cận dưới góc độ hệ thống đổi mới quốc gia.

1.3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu của đề tài luận án

Trên nền tảng kế thừa có chọn lọc hệ thống tri thức lý luận và thực tiễn từ các

công trình nghiên cứu trước đó, luận án tập trung phân tích và làm rõ các vấn đề

36

trọng tâm sau:

1) Bản chất nội hàm của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN; khung

lý thuyết mới về doanh nghiệp tiềm năng để trở thành doanh nghiệp KH&CN bao

gồm các doanh nghiệp KH&CN được khởi nguồn hình thành từ các viện nghiên

cứu, trường đại học, phát triển từ các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo,

hình thành từ các doanh nghiệp thông thường đang hoạt động. Từ đó xác định vai

trò quan trọng của chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiềm năng để có thể trở thành

doanh nghiệp KH&CN.

2) Cần làm rõ mục tiêu của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN đang

tồn tại với mục đích là phát triển doanh nghiệp KH&CN về số lượng và cả chất

lượng. Luận nghiên cứu làm rõ hơn các nội dung của chính sách phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ và các bước triển khai vào thực tiễn vùng, địa

phương; Xác định rõ các chủ thể của chính sách và chủ thể triển khai thực hiện

chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương.

3) Sử dụng phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận hiện đại để nghiên cứu

nhận diện được những hạn chế và chỉ rõ nguyên nhân của hạn chế cả về số lượng và

chất lượng các doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên, làm rõ các chính sách

đang tồn tại còn nhiều bất cập, lỗ hổng, khoảng trống, còn nhiều qui định chưa phù

hợp với từng vùng, đặc biệt là vùng Tây Nguyên.

4) Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp mới như cần có chính sách đặc thù

cho từng vùng, địa phương, đặc biệt là cho vùng Tây Nguyên, cần có chính sách

riêng hỗ trợ ưu đãi các doanh nghiệp tiềm năng để phát triển thành doanh nghiệp

KH&CN; Các doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN

37

hoạt động hiệu quả, bền vững và phát triển hơn.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: “Chính sách phát

triển doanh nghiệp KH&CN từ thực tiễn Tây Nguyên hiện nay” cho thấy:

1) Số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN khá phong phú, tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau như

chưa có nhiều nghiên cứu trực tiếp đến hoàn thiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN mà chỉ tiếp cận dưới từng khía cạnh hẹp của vấn đề nghiên cứu.

2) Một số vấn đề đặt ra cần nghiên cứu tiếp: bản chất nội hàm của chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN; làm rõ mục tiêu của chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN đang tồn tại với mục đích là phát triển doanh nghiệp KH&CN về

số lượng và cả chất lượng; xây dựng khung lý thuyết mới về doanh nghiệp tiềm

năng để trở thành doanh nghiệp KH&CN; sử dụng phương pháp nghiên cứu và cách

tiếp cận hiện đại để nghiên cứu nhận diện được những hạn chế và chỉ rõ nguyên

nhân của hạn chế cả về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp KH&CN; chính

sách đặc thù cho từng vùng, địa phương, đặc biệt là cho vùng Tây Nguyên, cần có

chính sách riêng hỗ trợ ưu đãi các doanh nghiệp tiềm năng để phát triển thành

doanh nghiệp KH&CN; Các doanh nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận doanh

nghiệp KH&CN hoạt động hiệu quả, bền vững và phát triển hơn.

3) Có một số nghiên cứu đối với vùng Tây Nguyên, nhưng chỉ dừng ở vấn đề

doanh nghiệp nói chung, còn vấn đề về chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN

từ thực tiễn Tây Nguyên thì còn khiêm tốn. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN, từ thực tiễn Tây Nguyên hiện nay” là một vấn đề

38

mới, thực sự cần thiết cho vùng Tây Nguyên Việt Nam đầy tiềm năng như hiện nay.

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

2.1. Các khái niệm

2.1.1. Khái niệm khoa học

Thuật ngữ “Khoa học” (tiếng Anh: science) có nhiều quan niệm khác nhau,

trong Từ điển di sản Mỹ (American Heritage Dictionary, 2020) chỉ ra bản chất của

khoa học là “quan sát, nhận dạng, mô tả, điều tra thực nghiệm và giải thích lý

thuyết về hiện tượng”. Từ điển tiếng Anh Cambridge (Cambridge English

Dictionary, 2020) chỉ ra nội hàm cơ bản của khoa học là “một nghiên cứu cẩn thận

về cấu trúc và hành vi của thế giới vật chất, đặc biệt bằng cách quan sát, đo lường

và làm thí nghiệm cũng như phát triển lý thuyết”. Có hai cách phân loại khoa học:

1) Phân theo lĩnh vực có khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, nhân văn và hành

vi; 2) Phân theo hoạt động có khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng.

Theo Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 của Việt Nam, khoa học được

định nghĩa là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của các sự

vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy [37]. Như vậy, có thể hiểu khoa học

là tập hợp các quy luật khách quan chi phối thế giới vật chất và đời sống tinh thần.

Những quy luật này được các nhà khoa học phát hiện, phân tích và hệ thống hóa

thành tri thức có tính nền tảng, nhằm lý giải cách thức vận hành của các hiện tượng

và sự vật. Trên cơ sở đó, con người có thể vận dụng những tri thức khoa học này

vào thực tiễn sản xuất và đời sống, từ việc giải thích các hiện tượng đến việc đề

xuất các giải pháp can thiệp để làm biến đổi trạng thái của chúng theo hướng mong

muốn.

Từ đó có thể khái quát rằng: Khoa học là hệ thống tri thức được hình thành

thông qua quá trình quan sát, đo lường, thực nghiệm và phát triển lý thuyết,

nhằm giải thích bản chất, cấu trúc, quy luật tồn tại và vận động của các sự vật và

hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, qua từng giai đoạn phát triển lịch sử

39

nhất định của loài người.

2.1.2. Khái niệm công nghệ

Công nghệ (technology) được hiểu là quá trình sáng tạo, cải tiến và vận dụng

có chủ đích các tri thức, kỹ năng, thiết bị, máy móc, phương pháp và kỹ thuật

chuyên môn nhằm giải quyết vấn đề, cải thiện các giải pháp hiện có, thực hiện mục

tiêu cụ thể hoặc đảm nhiệm những chức năng đòi hỏi hàm lượng chất xám cao.

Công nghệ không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sự tiến bộ của loài người mà

còn ảnh hưởng sâu rộng đến khả năng thích ứng của con người và các sinh vật sống

trong môi trường tự nhiên. Nói cách khác, công nghệ là sự ứng dụng thành tựu kỹ

thuật để tạo ra các sản phẩm hoặc giải pháp có giá trị thực tiễn trong đời sống và

sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại. Mỗi công nghệ bao

gồm bốn thành phần cơ bản: 1) Kỹ thuật – hệ thống thiết bị, công cụ, máy móc làm

nền tảng vận hành công nghệ; 2) Con người – bao gồm kiến thức, kỹ năng, kinh

nghiệm, phẩm chất sáng tạo và năng lực tổ chức; 3) Thông tin – dữ liệu kỹ thuật,

nhân sự và tổ chức có liên quan đến quá trình công nghệ; 4) Tổ chức thực hiện – cơ

cấu, thể chế và phương thức tổ chức hoạt động nghiên cứu, phát triển và triển khai

công nghệ.

Theo Luật khoa học và công nghệ năm 2013, công nghệ được định nghĩa là

tập hợp các giải pháp, quy trình và bí quyết kỹ thuật – có thể đi kèm hoặc không đi

kèm công cụ, phương tiện – nhằm chuyển hóa nguồn lực thành sản phẩm [37]. Cách

hiểu này cho thấy công nghệ bao gồm cả yếu tố vật chất (phần cứng) và phi vật chất

(phần mềm). Phần cứng là hệ thống kỹ thuật – như nhà xưởng, máy móc, thiết bị

trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, hoặc các thủ tục, quy trình trong khoa học xã hội.

Phần mềm công nghệ lại bao gồm kiến thức chuyên môn, kỹ năng vận hành và các

bí quyết mang tính nghệ thuật. Như vậy, công nghệ là biểu hiện của năng lực sáng

tạo và kỹ năng ứng dụng kỹ thuật của con người, thông qua việc vận dụng tri thức

khoa học để tạo ra sản phẩm phục vụ thực tiễn.

Như vậy có thể hiểu Công nghệ chính là sự kết hợp giữa kỹ năng và nghệ

thuật của con người trong việc làm chủ hệ thống kỹ thuật, nhằm chuyển hóa tri

thức khoa học và các nguồn lực sẵn có thành sản phẩm cụ thể phục vụ thực tiễn.

40

2.1.3. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ

Trong suốt tiến trình lịch sử, mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ đã

có sự chuyển biến rõ nét theo từng thời kỳ. Vào các thế kỷ 17–18, công nghệ

phát triển sớm hơn và đóng vai trò nền tảng cho sự hình thành và phát triển của

khoa học hiện đại. Sang thế kỷ 19, sự tương tác giữa khoa học và công nghệ trở

nên sâu sắc hơn: công nghệ không chỉ hỗ trợ quá trình nghiên cứu khoa học mà

chính những thành tựu khoa học cũng mở ra các hướng đi mới cho cải tiến công

nghệ. Bước sang đầu thế kỷ 20, vai trò dẫn dắt bắt đầu thuộc về khoa học – các

khám phá khoa học trở thành nền tảng định hướng cho sự phát triển công nghệ.

Trong khi đó, những đổi mới công nghệ lại tiếp tục làm giàu và mở rộng tri thức

khoa học. Đến đầu thế kỷ 21, khoa học và công nghệ phát triển song hành, trở

thành lực lượng trung tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và là động lực then chốt

cho sự phát triển bền vững của các quốc gia.

Mặc dù khoa học và công nghệ là hai lĩnh vực có nội dung khác biệt, song

giữa chúng tồn tại một mối quan hệ chặt chẽ và bổ trợ lẫn nhau. Khoa học đóng

vai trò nền tảng, tạo động lực thúc đẩy sự tiến bộ của công nghệ thông qua việc

cung cấp tri thức và phát hiện mới. Ngược lại, công nghệ không chỉ hiện thực

hóa các thành tựu khoa học mà còn mở rộng khả năng nghiên cứu và ứng dụng

tri thức. Sự kết hợp giữa khoa học và công nghệ đã tạo ra những tác động sâu

rộng và trực tiếp đến hoạt động sản xuất của con người, góp phần nâng cao hiệu

quả trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Có thể khẳng định, KH&CN là kết quả

của quá trình vận dụng sáng tạo tri thức nhân loại vào thực tiễn, thông qua việc

tạo ra máy móc, thiết bị và các giải pháp kỹ thuật phục vụ đời sống và sản xuất.

Có thể hiểu, bản chất của KH&CN là tổng thể các hoạt động nghiên cứu và

phát triển có tổ chức, có định hướng rõ ràng, gắn bó mật thiết với quá trình hình

thành, truyền bá và ứng dụng tri thức vào thực tiễn. Hoạt động KH&CN bao trùm

nhiều lĩnh vực, từ khoa học tự nhiên, kỹ thuật – công nghệ cho đến khoa học xã hội,

nhân văn và khoa học quản lý. Trong đó, nghiên cứu khoa học là quá trình khám

phá có hệ thống nhằm làm sáng tỏ bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng

trong tự nhiên và xã hội, qua đó đề xuất các giải pháp có khả năng ứng dụng vào

41

đời sống. Phát triển công nghệ là bước tiếp theo của quá trình nghiên cứu, nhằm tạo

ra hoặc hoàn thiện sản phẩm công nghệ mới thông qua việc thử nghiệm, triển khai

sản xuất và đánh giá hiệu quả thực tiễn. Giai đoạn thử nghiệm ứng dụng chính là

cầu nối để chuyển giao các kết quả nghiên cứu thành sản phẩm cụ thể, góp phần

giải quyết các vấn đề của thực tiễn sản xuất và đời sống.

Như vậy có thể thấy mối quan hệ giữa KH&CN là sự gắn kết chặt chẽ giữa

quá trình nghiên cứu khoa học với hoạt động đổi mới và ứng dụng công nghệ.

Mối liên hệ này thể hiện qua chuỗi hoạt động bao gồm nghiên cứu khoa học, bảo

hộ sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu

chuẩn – quy chuẩn kỹ thuật, cùng với công tác quản lý chất lượng sản phẩm

hàng hóa. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục tiêu đưa tri thức KH&CN vào

thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội, từ đó chuyển hóa tiềm lực trí tuệ và công

nghệ thành các sản phẩm cụ thể, có giá trị kinh tế và đóng góp thiết thực cho sự

phát triển kinh tế – xã hội.

2.1.4. Khái niệm doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Các tác giả Mai Hà, Hoàng Văn Tuyên, Đào Văn Trường đã phân biệt các loại

doanh nghiệp KH&CN : “Doanh nghiệp dựa trên tri thức (Knowledge – based

firm); Doanh nghiệp dựa trên công nghệ (Technology-based firm, technology-based

venture); Doanh nghiệp dựa trên công nghê mới/và cao (New/and hight technology-

based firm); Doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm (Academic spin – off/spin-

out).v.v…”[30]. Có thể nói, doanh nghiệp KH&CN xuất hiện trên thế giới từ khoảng

giữa thế kỷ XX, nó bắt đầu từ mô hình spin-off (doanh nghiệp khởi nguồn) và start-

up (doanh nghiệp khởi nghiệp) đã được hình thành ở các nước công nghiệp phát

triển. Mô hình “Spin – off” được xuất hiện từ Trường đại học (tách ra từ các

Trường đại học để hoạt động độc lập). Mô hình doanh nghiệp này được một số cá

nhân sáng tạo ra các sản phẩm KH&CN, sau đó họ bắt đầu tham gia vào quá trình

quản trị doanh nghiệp. Mô hình “Start – up” bắt đầu bằng tinh thần khởi nghiệp của

một số doanh nghiệp mới hình thành từ kết quả nghiên cứu KH&CN.

Hiện nay, có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc xác định khái niệm doanh

nghiệp KH&CN. Một số quan điểm cho rằng doanh nghiệp KH&CN là sản phẩm của

42

nền kinh tế tri thức, nơi tri thức trở thành yếu tố sản xuất chủ đạo. Nhiều học giả lại

nhấn mạnh rằng loại hình doanh nghiệp này được hình thành trên cơ sở khai thác các

kết quả nghiên cứu khoa học hoặc thành quả từ hoạt động đổi mới và phát triển công

nghệ. Một số quan điểm khác cho rằng doanh nghiệp KH&CN là các doanh nghiệp

ứng dụng công nghệ mới hoặc công nghệ cao trong sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, có

cách hiểu xem doanh nghiệp KH&CN như là các doanh nghiệp vệ tinh xuất phát từ các

cơ sở nghiên cứu – đào tạo (trường đại học, viện nghiên cứu), hình thành thông qua

quá trình chuyển giao tri thức và công nghệ. Những quan điểm đa dạng này phản ánh

tính phức tạp và đa chiều trong cách tiếp cận và phát triển loại hình doanh nghiệp đặc

thù này.

Theo S.I. Oladeji (1998) [139], doanh nghiệp khoa học và công nghệ

(KH&CN) là những tổ chức mà sản phẩm hoặc dịch vụ của họ chủ yếu được phát

triển dựa trên việc ứng dụng tri thức khoa học hoặc công nghệ. Ở một góc nhìn

khác, Jing Liu (2019) [129] xác định doanh nghiệp KH&CN là các doanh nghiệp

được thành lập trên nền tảng công nghệ mới, đồng thời đáp ứng một số tiêu chí cụ

thể như: thời gian thành lập không quá 5 năm; có nguồn gốc từ việc khai thác một

sáng chế tiềm năng hoặc sở hữu một năng lực công nghệ đặc biệt; được sáng lập bởi

cá nhân hoặc nhóm cá nhân; và hoạt động trong mối liên kết với các tổ chức ươm

tạo công nghệ hoặc các đơn vị chuyên về chuyển giao công nghệ.

Doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm là loại hình doanh nghiệp được khởi lập bởi

một nhóm nhà sáng lập mang tinh thần khởi nghiệp, xuất thân từ môi trường đại học

hoặc viện nghiên cứu, sau đó tách ra để triển khai các hoạt động sản xuất và kinh

doanh độc lập. Trường đại học và viện nghiên cứu đã hỗ trợ các doanh nghiệp thông

qua chuyển giao tri thức, hỗ trợ năng lực hoặc hỗ trợ các phương tiện trực tiếp.

Weiqi Liang, Yinying Kong, Jiankui Huang and Jiajun Zeng (2020) cho rằng:

“Doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm được tạo ra để thương mại, hiện thực hóa qui trình,

bí quyết công nghệ, kết quả khoa học do các trường đại học và viện nghiên cứu sở

hữu”[150].

Doanh nghiệp khoa học và công nghệ được xây dựng trên nền tảng của công

nghệ mới hoặc công nghệ cao, với trọng tâm đặt vào các hoạt động nghiên cứu và

43

phát triển, nhằm khai thác hiệu quả tri thức kỹ thuật tiên tiến. Yan Xiaochang;

Huang Guitian, (2019) cho rằng: “Doanh nghiệp được gọi là doanh nghiệp KH&CN

phải được dựa trên công nghệ độc lập, thời gian thành lập dưới 5 năm, dựa chủ yếu

vào khai thác sáng chế hoặc đổi mới công nghệ và chấp nhận được rủi ro, mạo

hiểm”[153].

Một số quan niệm khác lại cho rằng: Có hai cách hình thành doanh nghiệp

KH&CN : 1) là các doanh nghiệp vệ tinh hàn lâm tách ra từ các viện nghiên cứu và

trường đại học. Các cá nhân hoặc nhóm từ các phòng ban trong trường đại học, viện

nghiên cứu, hoặc cả trường, viện nghiên cứu được thay đổi thành doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp này chứa đựng ngay trong bản thân đội ngũ con người vốn là các

nhà nghiên cứu KH&CN và giảng dạy; 2) Các doanh nghiệp KH&CN hình thành từ

các ngành công nghiệp được một số doanh nghiệp có mức độ kinh doanh mạo hiểm

tài trợ như các ngành công nghiệp có hàm chứa công nghệ cao như: công nghệ

thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ điện tử, công nghệ vật liệu mới, công

nghệ điện tử, công nghệ năng lượng mới, công nghệ tiết kiệm năng lượng, công

nghệ thân thiện môi trường.v.v…

Tại Việt Nam, khái niệm doanh nghiệp KH&CN lần đầu tiên được đề cập vào

năm 1980, thông qua kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ VI, khóa IX. Trong

văn kiện này, Trung ương định hướng chuyển dần các tổ chức nghiên cứu khoa học

và phát triển công nghệ sang mô hình tự chủ tài chính, hoạt động theo cơ chế doanh

nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp KH&CN được hiểu là các tổ chức kinh doanh dựa

trên việc ứng dụng các công nghệ, bí quyết kỹ thuật hình thành từ kết quả nghiên

cứu tại viện nghiên cứu, trường đại học, hoặc do cá nhân, tổ chức nghiên cứu phát

triển. Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 (Điều 58) đã làm rõ định nghĩa này,

coi doanh nghiệp KH&CN là đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh và

cung cấp dịch vụ KH&CN với mục tiêu tạo ra sản phẩm, hàng hóa có nguồn gốc từ

kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ [37].

Các điều kiện để một tổ chức được công nhận là doanh nghiệp KH&CN và

được cấp giấy chứng nhận tương ứng được quy định tại Luật KH&CN năm 2013,

Nghị định số 08/2014/NĐ-CP và Nghị định số 13/2019/NĐ-CP. Theo đó, một

44

doanh nghiệp chỉ được xem xét cấp chứng nhận doanh nghiệp KH&CN khi đáp ứng

đầy đủ các tiêu chí sau: “1) Được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp;

2) Có khả năng tạo ra hoặc ứng dụng kết quả KH&CN được cơ quan có thẩm

quyền đánh giá, thẩm định, công nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị

định 13/2019/NĐ-CP; 3) Đáp ứng điều kiện về tỷ lệ doanh thu” [74].

Đối với các doanh nghiệp đã hoạt động từ đủ 5 năm trở lên, điều kiện để được

công nhận là doanh nghiệp KH&CN bao gồm việc đảm bảo tỷ lệ doanh thu tối thiểu

30% từ hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm được tạo ra trên cơ sở ứng

dụng kết quả nghiên cứu KH&CN, so với tổng doanh thu của doanh nghiệp. Việc

xác định tỷ lệ doanh thu này do doanh nghiệp tự kê khai trong hồ sơ đề nghị cấp

giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, có thể căn cứ theo kết quả kinh doanh của

quý hoặc năm. Doanh nghiệp chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính chính xác và hợp

pháp của các thông tin đã kê khai. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ dựa trên các báo

cáo định kỳ về tình hình sản xuất – kinh doanh các sản phẩm KH&CN để thực hiện

công tác giám sát, đánh giá và đảm bảo doanh nghiệp tiếp tục đáp ứng các điều kiện

duy trì chứng nhận doanh nghiệp KH&CN. Đối với các doanh nghiệp mới thành lập

(chưa đủ 5 năm hoạt động), quy định về tỷ lệ doanh thu KH&CN không bắt buộc áp

dụng trong quá trình xét cấp chứng nhận doanh nghiệp KH&CN [74].

Từ các quy định trên có thể hiểu: Doanh nghiệp khoa học và công nghệ là tổ

chức kinh doanh được thành lập hợp pháp, có chức năng trực tiếp thực hiện

nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ hoặc tổ chức sản xuất – kinh doanh

các sản phẩm, dịch vụ hình thành trên cơ sở ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa

học và công nghệ.

2.1.5. Khái niệm chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Khái niệm “chính sách” theo nghĩa rộng là việc làm của các tổ chức công

cũng như tư nhân đưa ra một kế hoạch, chương trình hành động để vận hành hiệu

quả tổ chức, nó có thể là hệ thống các chính sách về tuyển dụng, đãi ngộ, đào tạo,

bổ nhiệm, sử dụng nhân sự; hệ thống các chính sách tài chính, lương bổng, đãi

ngộ, thi đua, khen thưởng. Quan niệm về chính sách công cũng được tác giả Hồ

Việt Hạnh và Kiều Quỳnh Anh cho rằng: “Chính sách công được hiểu là hoạt

45

động thực tiễn của nhà nước và của các chủ thể khác của hệ thống chính trị để giải

quyết các nhiệm vụ có ý nghĩa xã hội cũng như các định hướng cơ bản của hoạt

động đó”[1]. Kraft, Michael E, Furlong, Scott R (2015) định nghĩa: “Chính sách

công là chính sách phản ánh toàn bộ các hoạt động của Chính phủ ảnh hưởng trực

tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của người dân.”[130]. Chính sách công thường

bao gồm các thành phần cơ bản sau: Ý định chính sách – phản ánh định hướng,

mong muốn tổng quát của nhà nước trong giải quyết một vấn đề cụ thể; Mục tiêu

chính sách – là sự cụ thể hóa các ý định thành những kết quả kỳ vọng rõ ràng và đo

lường được; Phương án thực hiện – là tập hợp các giải pháp, công cụ hoặc lựa

chọn nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra; Quyết định chính sách – thể hiện các hành

động được lựa chọn ưu tiên, chính thức hóa qua các văn bản hoặc hành vi pháp lý;

Hiệu quả thực thi – là kết quả thực tế thu được sau khi chính sách được áp dụng,

phản ánh mức độ đạt được mục tiêu đã xác lập.

Chu trình chính sách công là một tiến trình mang tính tuần hoàn, phản ánh sự

nối tiếp logic giữa các giai đoạn nhằm đưa chính sách từ ý tưởng đến thực tiễn và

đánh giá hiệu quả. Mỗi giai đoạn trong chu trình không tồn tại độc lập mà đóng vai

trò nền tảng cho giai đoạn kế tiếp, đồng thời kết quả của giai đoạn trước chính là

cơ sở thông tin quyết định cho bước đi sau. Về cơ bản, chu trình này gồm 5 giai

đoạn chính: 1) Hoạch định chính sách công – bắt đầu bằng việc nhận diện các vấn

đề xã hội cần can thiệp, xác lập mục tiêu cụ thể và đề xuất các giải pháp phù hợp

trình lên cơ quan có thẩm quyền; 2) Phân tích và lựa chọn chính sách công – so

sánh, đánh giá giữa các phương án đề xuất nhằm lựa chọn phương án tối ưu nhất

về hiệu quả và khả thi, từ đó ra quyết định ban hành; 3) Ban hành chính sách công

– chính sách công được chính thức công bố và có hiệu lực pháp lý; 4) Triển khai

thực thi chính sách công – triển khai các hoạt động cụ thể nhằm hiện thực hóa mục

tiêu chính sách, bao gồm điều phối, giám sát, kiểm tra và điều chỉnh trong quá

trình thực hiện; 5) Đánh giá chính sách công – xem xét mức độ đạt được mục tiêu,

phân tích tác động thực tiễn và đưa ra quyết định duy trì, điều chỉnh hay thay thế

chính sách. Kết quả đánh giá này thường khơi mở những vấn đề mới cần giải

quyết, từ đó chu trình chính sách tiếp tục được vận hành, ngày càng hoàn thiện hơn

46

về nội dung và phương thức thực thi. Qui trình này được thể hiện ở sơ đồ sau:

Sơ đồ 2.1: Chu trình chính sách công

[Nguồn: tổng hợp của tác giả luận án]

“Chính sách công” được đề ra bởi chủ thể có thẩm quyền là Nhà nước,

trong khi đó Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị, nên lệ thuộc vào hệ

thống chính trị và chấp hành tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng. Như vậy, có thể

hiểu: Chính sách công là một hệ thống tập hợp các quyết định có liên quan

chặt chẽ với nhau do Nhà nước ban hành, thể hiện chế độ chính trị, kinh tế,

văn hóa, xã hội…trong đó có mục tiêu, nội dung và các giải pháp để giải

quyết các vấn đề thực tiễn nhằm phục vụ và thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao

của đời sống nhân dân.

Từ các định nghĩa đã trình bày, có thể rút ra một số đặc điểm tiêu biểu của

chính sách công như sau: 1) Chủ thể hoạch định và ban hành chính sách công là

Nhà nước, bao gồm Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và chính

quyền địa phương các cấp – những thiết chế có thẩm quyền pháp lý và trách nhiệm

quản trị quốc gia; 2) Chính sách công là tập hợp các quyết định có tính liên kết,

phản ánh sự nhất quán về định hướng và mục tiêu trong quá trình xử lý một vấn đề

xã hội nhất định; 3) Các quyết định trong chính sách công mang tính hành động, tức

là định hướng rõ ràng về những gì cần được thực thi thay vì chỉ dừng lại ở định

47

hướng hoặc tuyên bố; 4) Chính sách công tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh

trong đời sống xã hội, đặc biệt là những vấn đề vượt khỏi khả năng tự điều chỉnh

của thị trường hoặc cộng đồng; 5) Chính sách công bao gồm cả hành vi làm và

không làm của Nhà nước, nghĩa là bao hàm cả việc lựa chọn can thiệp hay không

can thiệp vào một lĩnh vực cụ thể; 6) Chính sách công có tác động trực tiếp đến các

nhóm đối tượng trong xã hội, thường là các cá nhân, tổ chức chịu ảnh hưởng từ

quyết định chính sách; 7) Mục tiêu cốt lõi của chính sách công là phục vụ lợi ích

công cộng, hướng tới sự phát triển ổn định, công bằng và bền vững của quốc gia.

“Phát triển” có thể hiểu theo hai nghĩa, có thể tốt lên cũng có thể xấu đi. Nhìn

dưới góc độ tiêu cực: “khối u đã phát triển”, “bệnh dịch đã phát triển và lan rộng”;

“tệ nạn ma túy đã gia tăng và phát triển”. Nhìn dưới góc độ tích cực: “kinh tế ngày

càng phát triển”; “phát triển đời đống kinh tế-xã hội”.; “phát triển nhân tài”… Vì

vậy khi đặt thuật ngữ “phát triển” vào ngữ cảnh nào thì nó nói lên tính chất tích cực

hay tiêu cực của khái niệm này. Bản thân cụm từ “doanh nghiệp KH&CN” như đã

phân tích ở trên là doanh nghiệp trực tiếp thực hiện nghiên cứu khoa học và phát

triển công nghệ, hoặc thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh các loại sản phẩm từ

kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ nên đã mặc nhiên gắn nó với

thuật ngữ “phát triển”, bản chất là phát triển về cả về số lượng và chất lượng nhằm

thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong thụ hưởng sản phẩm từ các

doanh nghiệp KH&CN.

Doanh nghiệp ở bất cứ quốc gia nào không phải tất cả các doanh nghiệp đều

thành công, có doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, bị phá sản chưa nói đến khó

có thể trở thành doanh nghiệp KH&CN. Trong bối cảnh biến động của quốc tế hiện

nay các doanh nghiệp phải cố gắng vươn lên trở thành doanh nghiệp KH&CN, cho

dù phải đi con đường rất quanh co, phức tạp theo đường xoáy ốc. Nguồn gốc của sự

phát triển doanh nghiệp KH&CN là quá trình giải quyết các vấn đề đang tồn tại để

doanh nghiệp “đi lên” phát triển cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt hơn nữa cần

đến “hệ thống chính sách” của Nhà nước, và có tính quyết định sự tụt hậu hay phát

triển. Phát triển là quá trình thay đổi, tăng trưởng về số lượng và chất lượng doanh

nghiệp khoa học và công nghệ. Vì vậy, có thể hiểu: Phát triển doanh nghiệp

48

KH&CN là việc làm của các chủ thể có thẩm quyền trong việc thúc đẩy đi lên cả

về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa được tạo ra

từ việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào trong

quá trình thực hiện sản xuất, kinh doanh nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị

trường.

Khái niệm “Chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN” ra đời để giải quyết

các vấn đề đang tồn tại của doanh nghiệp KH&CN. Chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN chính là việc làm của chủ thể chính sách có thẩm quyền trong việc

sử dụng các biện pháp, chương trình và qui định được áp dụng nhằm thúc đẩy và

nâng cao sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của doanh nghiệp KH&CN. Từ

các khái niệm về doanh nghiệp KH&CN, khái niệm về chính sách nói chung, chính

sách công nói riêng, khái niệm về chính sách phát triển cũng như phát triển doanh

nghiệp KH&CN, từ đó có thể hiểu khái niệm về chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN như sau: Chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN là tập hợp tổng

thể các biện pháp, chương trình và quy định do Nhà nước ban hành để triển khai

vào thực tiễn nhằm phát triển doanh nghiệp KH&CN về số lượng và chất lượng

các doanh nghiệp có sản phẩm, hàng hóa được tạo ra từ việc ứng dụng kết quả

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào trong quá trình thực hiện sản

xuất, kinh doanh nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường.

2.2. Chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

2.2.1. Đặc điểm của doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp KH&CN là loại hình doanh nghiệp hoạt

động theo qui định của Luật Doanh nghiệp và Luật KH&CN. Do đó, một doanh

nghiệp KH&CN có đầy đủ những đặc điểm chung của doanh nghiệp tuân thủ theo

các qui định của Luật Doanh nghiệp và các qui định khác liên quan, đồng thời

doanh nghiệp KH&CN có đặc điểm riêng có khác biệt đó là:

Một là, về Quy mô doanh nghiệp: Đặc điểm cơ bản nổi bật của doanh nghiệp

KH&CN là xuất phát điểm là quy mô nhỏ và vừa, vì doanh nghiệp KH&CN có

những thế mạnh mà doanh nghiệp lớn khó có thể có, đó là: động lực, tính linh hoạt

trong quản lý doanh nghiệp, thuận lợi trong đổi mới và các thay đổi được quyết

49

định nhanh chóng ở các tình huống cấp bách và các hoàn cảnh khác nhau. Hơn nữa,

qui mô nhỏ và vừa thường dễ đạt được mục tiêu phát triển sản phẩm mới một cách

nhanh chóng. Những thuận lợi đó giúp cho các doanh nghiệp này có thể nhanh

chóng thay đổi, nắm bắt được đổi mới sáng tạo, quan hệ với các nhà nghiên cứu

nhanh chóng và hợp tác công nghệ cũng nhanh gọn hơn. Những yếu tố này đóng vai

trò nền tảng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành và thúc đẩy

sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Hai là, về công nghệ, sản phẩm và dịch vụ: Doanh nghiệp KH&CN đầu tư

trọng điểm vào sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao, chú trọng cho

nghiên cứu và phát triển, tập trung vào khai thác nguồn lực tri thức công nghệ mới

và cao. Hoạt động cốt lõi trong sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp KH&CN

xoay quanh việc đổi mới và phát triển công nghệ, coi đây là trụ cột chiến lược để

tạo dựng và duy trì lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Sản phẩm hàng hóa và các

dịch vụ của doanh nghiệp KH&CN được đổi mới dựa trên thành quả nghiên cứu

khoa học và tri thức công nghệ mới và cao, cũng có thể sử dụng công nghệ cũ

nhưng theo cách làm đổi mới.

Ba là, về nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực doanh nghiệp KH&CN có đặc

điểm khác biệt với các doanh nghiệp khác được thể hiện ở những người có tinh thần

doanh thương cao và ý tưởng đổi mới sáng tạo khi thành lập doanh nghiệp. Tài sản

tri thức ban đầu của các doanh nhân trong các doanh nghiệp KH&CN là ý tưởng

khát vọng, là năng lực, trí tuệ luôn hướng tới các thời cơ và cơ hội của thị trường,

họ sẵn sàng sử dụng nguồn tri thức tiềm tàng và ngầm để cho ra sản phẩm phẩm

mới hoặc công nghệ mới. Năng lực tri thức chứa đựng KH&CN sở hữu ở giai đoạn

đầu hình thành doanh nghiệp KH&CN có tính quyết định sự thành công của doanh

nghiệp KH&CN sau này.

Bốn là, về nguồn tài chính: Doanh nghiệp KH&CN có nhu cầu tài chính đặc

thù, khác biệt rõ rệt so với các loại hình doanh nghiệp thông thường. Các doanh

nghiệp này cần đến các khoản vốn đầu tư mạo hiểm lớn, đồng thời phải có khả năng

chấp nhận rủi ro cao do quá trình thương mại hóa công nghệ mới và sự biến động liên

50

tục, khó lường của thị trường công nghệ.

Năm là, về năng lực nghiên cứu và phát triển: Hầu hết các doanh nghiệp

KH&CN trên thế giới tồn tại và phát triển được họ phải có năng lực thực hiện các

nhiệm vụ KH&CN, kể cả chỉ là tiếp nhận và ứng dụng kết quả KH&CN từ các tổ

chức, cá nhân khác chuyển giao. Năng lực triển khai các nhiệm vụ khoa học và

công nghệ được thể hiện qua các chỉ số như: quy mô đội ngũ nhân sự có trình độ

chuyên môn về nghiên cứu; năng lực nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn của các vị trí

chủ chốt trong doanh nghiệp; mức độ hoàn thiện của cơ sở vật chất phục vụ cho

hoạt động nghiên cứu, ươm tạo công nghệ; và khả năng đưa sản phẩm nghiên cứu ra

thị trường thông qua hoạt động thương mại hóa.

2.2.2. Sự cần thiết của chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

a) Vai trò của doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Một là, doanh nghiệp KH&CN đóng vai trò là cầu nối quan trọng giữa hoạt

động nghiên cứu và thực tiễn sản xuất, góp phần rút ngắn quá trình chuyển giao tri

thức khoa học và công nghệ vào nền kinh tế. Việc ứng dụng các thành tựu khoa học

và đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh giúp nâng cao chất

lượng sản phẩm, tạo ra các dòng sản phẩm mới, đa dạng hóa chủng loại, tăng năng

suất lao động và tối ưu hóa việc sử dụng nguyên vật liệu. Từ đó, doanh nghiệp

KH&CN nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng

nhanh và cải thiện hiệu quả kinh doanh. Đồng thời, đây cũng là nơi tiếp nhận kết

quả nghiên cứu từ các viện, trường để thương mại hóa, tạo việc làm và là môi

trường để các nhà khoa học hiện thực hóa ý tưởng sáng tạo của mình thành các sản

phẩm hữu ích phục vụ cộng đồng.

Hai là, doanh nghiệp KH&CN giữ vai trò nòng cốt trong lực lượng sản xuất

hiện đại, tạo ra các sản phẩm có hàm lượng tri thức và giá trị gia tăng cao, qua đó

đóng góp tích cực vào tăng trưởng GDP và sự phát triển bền vững của nền kinh tế -

xã hội. Với vai trò tiên phong của khoa học và công nghệ trong quá trình phát triển

quốc gia, các doanh nghiệp KH&CN được xem là trung tâm dẫn dắt đổi mới, là

“đòn bẩy” cho sản xuất trong nước, góp phần tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng

nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, dựa trên nền tảng tri thức, công nghệ và

51

đổi mới sáng tạo.

Ba là, doanh nghiệp KH&CN góp phần xây dựng tiềm lực khoa học và công

nghệ quốc gia và phát triển thị trường KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN có vai trò

chủ đạo và quyết định thị trường KH&CN. Doanh nghiệp KH&CN với sứ mệnh là

đẩy mạnh ứng dụng các thành quả nghiên cứu khoa học gắng liền với công nghệ mà

còn xác định muốn làm chủ được thị trường thì phải làm chủ được công nghệ.

Bốn là, doanh nghiệp KH&CN đóng vai trò trọng yếu trong việc thúc đẩy đổi

mới sáng tạo và gia tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia. Trong bối cảnh

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình hội nhập sâu rộng, việc phát huy vai

trò của khu vực tư nhân và thu hút nguồn lực quốc tế là hết sức cấp thiết nhằm thúc

đẩy nhanh quá trình phát triển các sản phẩm, dịch vụ tích hợp công nghệ cao. Các

doanh nghiệp KH&CN nhờ đó có cơ hội thuận lợi để tham gia vào chuỗi giá trị toàn

cầu, mở rộng thị phần trong nước, đồng thời tăng cường khả năng tiếp cận và chinh

phục các thị trường quốc tế.

b) Vai trò của chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Một là, chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN là công cụ then chốt giúp

Nhà nước thực hiện vai trò định hướng và thúc đẩy sự hình thành, tồn tại và tăng

trưởng của khu vực doanh nghiệp KH&CN, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh

tế - xã hội bền vững. Với tư cách là chủ thể hoạch định chính sách, Nhà nước sử

dụng các chính sách như một đòn bẩy quan trọng để can thiệp có chủ đích vào quá

trình vận hành của các doanh nghiệp KH&CN, từ đó hiện thực hóa các mục tiêu

phát triển đã đặt ra. Phát triển doanh nghiệp KH&CN vừa là nhiệm vụ, vừa là giải

phải pháp giúp chuyển hóa “tri thức công nghệ” thành “giá trị kinh tế” tạo ra các

động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế.

Hai là, chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN đóng vai trò định hướng

chiến lược, dẫn dắt các chủ thể liên quan trong quá trình phát triển hệ sinh thái

doanh nghiệp KH&CN. Thông qua các chính sách được thiết kế phù hợp, Nhà nước

thể hiện vai trò chủ động trong việc tạo lập môi trường thuận lợi, khuyến khích và

thúc đẩy doanh nghiệp KH&CN phát huy tiềm năng, từ đó đóng góp tích cực vào

52

tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội của đất nước. Nếu các doanh nghiệp KH&CN

hoạt động được chính sách định hướng thì sẽ đạt được mục tiêu phát triển và có

được nhiều ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước.

Ba là, chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN đóng vai trò như một lực

đẩy quan trọng, khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp chủ động đầu tư vào

nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ, qua đó chuyển mình trở thành doanh

nghiệp KH&CN. Muốn đạt được các mục tiêu phát triển nâng cao chất lượng sản

xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội Nhà

nước cần có các chính sách phù hợp, khuyến khích đối với các doanh nghiệp trở

thành doanh nghiệp KH&CN, hoặc các ưu đãi đối với các doanh nghiệp KH&CN.

Bốn là, chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN được thiết kế để vừa khai

thác tối đa các tiềm năng, thế mạnh của doanh nghiệp KH&CN, vừa chủ động khắc

phục những điểm yếu nội tại, từ đó thiết lập thế cân bằng và bền vững trong quá

trình phát triển loại hình doanh nghiệp này. Trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt của

nền kinh tế thị trường, các chính sách đóng vai trò dẫn dắt, khuyến khích doanh

nghiệp đẩy mạnh đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và đổi mới công nghệ, coi đây là

giải pháp cốt lõi nhằm nâng cao năng suất, cải thiện chất lượng sản phẩm và gia

tăng lợi thế cạnh tranh. Muốn các doanh nghiệp ngày càng có nhiều sản phẩm hàng

hóa từ thành tựu của KH&CN, Nhà nước cần có chính sách để tạo lập các cân đối

trong phát triển doanh nghiệp KH&CN.

Năm là, chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN giữ vai trò điều tiết,

phân bổ và quản lý hiệu quả các nguồn lực nhằm phục vụ mục tiêu phát triển doanh

nghiệp KH&CN. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp KH&CN cả về số lượng và chất

lượng thì các chính sách để hỗ trợ có hiệu quả các doanh nghiệp ứng dụng KH&CN

vào sản xuất và kinh doanh theo hướng bền vững, Nhà nước thông qua các chính

sách hỗ trợ, ưu đãi như chính sách thuế, tín dụng, đất đai…cho các doanh nghiệp

KH&CN và chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh nghiệp

KH&CN.

Sáu là, chính sách đóng vai trò kiến tạo hệ sinh thái thuận lợi cho doanh

nghiệp KH&CN phát triển và hoạt động hiệu quả, đồng thời thúc đẩy sự phối hợp

53

đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong quá trình thực thi. Thông qua các chính

sách phát triển thị trường khoa học và công nghệ, Nhà nước góp phần định hình môi

trường pháp lý, tài chính, kỹ thuật và xã hội phù hợp, từ đó không chỉ khuyến khích

sự chuyển hóa của các doanh nghiệp tiềm năng thành doanh nghiệp KH&CN mà

còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp KH&CN hiện hữu khai thác hiệu quả các

kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất, kinh doanh. Thông qua quá trình chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các chủ

thể hệ sinh thái quản lý doanh nghiệp KH&CN, tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp trong

hoạt động triển khai chính sách KH&CN ở từng vùng và địa phương.

2.2.3. Doanh nghiệp tiềm năng để trở thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Tiềm năng là năng lực tiềm ẩn, tiềm tàng trong nội tại bản thân sự vật, hiện

tượng, nguồn năng lượng tích cực tiềm ẩn là thành tố cơ bản nhất để trở thành năng

lực. Vì vậy, doanh nghiệp tiềm năng để trở thành doanh nghiệp KH&CN là doanh

nghiệp có nhiều năng lực tiềm tàng về nghiên cứu và ứng dụng KH&CN vào sản

xuất, kinh doanh trong bản thân nội tại của các tổ chức, doanh nghiệp. Việc hình

thành doanh nghiệp KH&CN tại mỗi quốc gia phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội

của nước đó. Các nước đi sau các nước phát triển trong vấn đề xây dựng đội ngũ

doanh nghiệp nên có điều kiện để tiếp thu học hỏi và chuyển hóa phù hợp với hoàn

cảnh. Thực tiễn có nhiều con đường để hình thành nên một doanh nghiệp KH&CN,

tuy nhiên trong điều kiện kinh tế xã hội cụ thể thì có 03 doanh nghiệp tiềm năng để

hình thành một doanh nghiệp KH&CN, đó là: 1) doanh nghiệp khởi nghiệp (start-

up); 2) doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) và 3) doanh nghiệp chuyển đổi từ doanh

nghiệp thông thường đang hoạt động

Một là, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo hoạt động trong môi trường vườn

ươm công nghệ, khu công nghệ cao và được hình thành trên nền tảng công nghệ –

với đặc trưng là gắn bó mật thiết với đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ –

chính là lực lượng có tiềm năng lớn để phát triển thành doanh nghiệp KH&CN.

Những doanh nghiệp này giữ vai trò then chốt trong việc đưa kết quả nghiên cứu

vào ứng dụng thực tiễn, thúc đẩy quá trình thương mại hóa công nghệ và cung cấp

các sản phẩm công nghệ hiện đại cho doanh nghiệp sản xuất trong nước, góp phần

54

nâng cao năng lực đổi mới của nền kinh tế.

Hai là, doanh nghiệp khởi nguồn là các tổ chức được hình thành thông qua

việc tách ra từ các viện nghiên cứu hoặc trường đại học – được xem là lực lượng

giàu tiềm năng để phát triển thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Những

doanh nghiệp này được xây dựng trên cơ sở khai thác và ứng dụng các kết quả

nghiên cứu khoa học, sáng chế, phát minh do các cá nhân, tổ chức hoặc cơ sở

nghiên cứu – đào tạo tạo ra, với mục tiêu thương mại hóa các thành tựu khoa học và

đưa chúng vào sản xuất, kinh doanh thực tiễn.

Ba là, các doanh nghiệp khoa học và công nghệ được hình thành thông qua

việc chuyển đổi từ các doanh nghiệp truyền thống đang hoạt động ổn định trên thị

trường. Đây thường là các doanh nghiệp sản xuất – chế tạo đã có kinh nghiệm, năng

lực tài chính vững và vị thế nhất định, sở hữu nền tảng công nghệ có bản quyền làm

cơ sở cho hoạt động kinh doanh. Khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định

của pháp luật, các doanh nghiệp này có thể thực hiện thủ tục chuyển đổi để trở

thành doanh nghiệp KH&CN, nhằm tận dụng các chính sách ưu đãi và phát huy

tiềm lực đổi mới sáng tạo.

Các doanh nghiệp được xem là tiềm năng để công nhận là doanh nghiệp khoa

học và công nghệ cần đáp ứng một số điều kiện cơ bản, cụ thể: (1) Được hình thành

trên nền tảng ứng dụng và khai thác các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển

công nghệ do các tổ chức KH&CN, cá nhân hoặc nhóm nhà khoa học, nhà sáng chế

tạo ra; (2) Hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh

nghiệp hiện hành.

2.2.4. Mục tiêu, nội dung của chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học

và công nghệ

a) Mục tiêu chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Một vấn đề chính sách đang tồn tại do nhiều nguyên nhân gây ra, có thể tác

động tiêu cực hoặc tích cực đến phát triển doanh nghiệp KH&CN. Do vậy, mục tiêu

của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN để đạt được ý chí của chủ thể

chính sách trên cơ sở giải quyết nguyên nhân gây ra ảnh hưởng đến doanh nghiệp

KH&CN phát triển về số lượng hay chất lượng. Mô tả mục tiêu chính sách phát

55

triển doanh nghiệp KH&CN là mô tả các vấn đề của chính sách và đề xuất hoàn

thiện chính sách với mong muốn đạt được hiệu quả cả về số lượng và chất lượng

dựa trên nguồn lực thực tế của Nhà nước, Chính quyền địa phương hoặc bản thân

các doanh nghiệp.

Việc xây dựng và thực thi chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và

công nghệ (KH&CN) đòi hỏi các cá nhân và tổ chức liên quan phải sở hữu những

năng lực, bao gồm: năng lực xác định mục tiêu một cách rõ ràng, phù hợp với bối

cảnh thực tiễn và có tính khả thi cao; khả năng cụ thể hóa mục tiêu tổng thể thành

các mục tiêu ngắn hạn có thể đo lường và thực hiện; cũng như năng lực đánh giá và

huy động đầy đủ các điều kiện cần thiết để hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra. Tại

Việt Nam, định hướng chiến lược trong phát triển doanh nghiệp KH&CN được cụ

thể hóa thông qua Quyết định số 2282/QĐ-BKHCN ngày 13/9/2021 của Bộ Khoa

học và Công nghệ, trong đó phê duyệt “Kế hoạch phát triển doanh nghiệp KH&CN

đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Theo kế hoạch này, đến năm 2025, sẽ hình

thành tối thiểu 50 doanh nghiệp khởi nguồn từ các cơ sở nghiên cứu và giáo dục đủ

điều kiện công nhận là doanh nghiệp KH&CN; đến năm 2030, con số này được kỳ

vọng tăng lên ít nhất 100 doanh nghiệp [11].

b) Nội dung của chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Khi xây dựng nội dung chính sách, việc xác định các vấn đề cốt lõi là bước

nền tảng có tính quyết định đến hiệu quả thực thi. Cụ thể, quá trình này cần tập

trung vào các khía cạnh chủ yếu sau: 1) Nhận diện rõ ràng các vấn đề trọng tâm cần

xử lý và phân tích sâu các nguyên nhân căn bản dẫn đến từng vấn đề đó; 2) Đặt ra

hệ thống mục tiêu toàn diện, bao gồm mục tiêu tổng thể và mục tiêu cụ thể nhằm

hướng đến việc giải quyết triệt để các vấn đề đã được xác định; 3) Đề xuất các định

hướng chiến lược và giải pháp cụ thể, phù hợp với từng nhóm vấn đề, bảo đảm tính

khả thi và hiệu lực trong thực tiễn; 4) Khoanh vùng các nhóm đối tượng bị tác động

trực tiếp bởi chính sách, đồng thời xác định rõ các chủ thể có trách nhiệm tổ chức,

thực hiện và phối hợp trong quá trình triển khai chính sách; 5) Xác định đúng cơ

quan có thẩm quyền ban hành chính sách, bảo đảm tính hợp pháp và phù hợp với cơ

56

chế phân cấp quản lý của hệ thống chính trị - hành chính hiện hành.

Nội dung chính sách được ban hành phải đạt được mục tiêu của chính sách để

giải quyết các vấn đề đang tồn tại đối với các đối tượng chính sách. Đối với từng

quốc gia khác nhau, xuất phát từ đặc điểm của từng đối tượng chính sách để mỗi

quốc gia có thể ban hành các chính sách cho phù hợp với đối tượng, vùng, miền,

ngành, lĩnh vực... Đối với chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN thì việc xây

dựng các nội dung chính sách sẽ xoay quanh các vấn đề của doanh nghiệp đang tồn

tại. Ở Việt Nam, Luật KH&CN năm 2013 [43]; Chiến lược phát triển KH&CN và

đổi mới sáng tạo đến năm 2025 và tầm nhìn năm 2030 [76]; và Kế hoạch phát triển

doanh nghiệp KH&CN đến năm 2025, tầm nhìn 2030 [11] qui định các nội dung về

”Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, tập trung vào các nội dung:

Một là, khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng các kết quả

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhằm đổi mới công nghệ, nâng cao

năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa. Để thúc đẩy

hoạt động này, Nhà nước hỗ trợ thông qua các quỹ KH&CN bằng nhiều hình thức

như: tài trợ không hoàn lại, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất hoặc bảo lãnh

vay vốn. Đặc biệt, các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng mức ưu

đãi tối đa theo quy định pháp luật hiện hành về công nghệ cao. Đối với các doanh

nghiệp triển khai công nghệ được hình thành từ nhiệm vụ KH&CN trong nước, Nhà

nước còn hỗ trợ lãi suất vay khi tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng.

Hai là, các doanh nghiệp KH&CN được hưởng nhiều cơ chế ưu đãi đặc biệt

nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hình thành và phát triển. Cụ thể: (1) Có

thể được Nhà nước xem xét chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các kết

quả nghiên cứu và phát triển công nghệ do Nhà nước đầu tư; (2) Được hưởng các

ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp và được miễn lệ phí trước bạ khi làm thủ tục

đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở theo quy định pháp luật; (3) Được

ưu tiên trong việc tiếp cận đất đai, cơ sở hạ tầng tại các khu công nghiệp, khu chế

xuất, khu kinh tế và khu công nghệ cao; (4) Có thể tiếp cận các nguồn tài chính ưu

đãi từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia cũng như

các quỹ hỗ trợ khác cho hoạt động đầu tư sản xuất – kinh doanh; (5) Được quyền sử

57

dụng ưu tiên các trang thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

tại các phòng thí nghiệm trọng điểm, cơ sở ươm tạo công nghệ, trung tâm nghiên

cứu khoa học – công nghệ thuộc sở hữu nhà nước.

Các nội dung của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN được qui định

cụ thể tại Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ban hành ngày 01/02/2019 của Thủ tướng

Chính phủ. Theo đó, các doanh nghiệp KH&CN được thụ hưởng loạt cơ chế hỗ trợ

và ưu đãi nhằm thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và thương mại hóa

công nghệ. Cụ thể, các chính sách bao gồm: 1) Ưu đãi về thuế, miễn hoặc giảm thuế

thu nhập doanh nghiệp đối với các hoạt động liên quan đến KH&CN; 2) Hỗ trợ chi

phí sử dụng đất, được miễn, giảm tiền thuê đất và mặt nước phục vụ cho mục đích

sản xuất – kinh doanh; 3) Tiếp cận tín dụng ưu đãi, được vay vốn với điều kiện

thuận lợi để triển khai nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và tổ chức sản

xuất; 4) Chuyển giao tài sản KH&CN, doanh nghiệp có thể được giao quyền sở hữu

hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu và tài sản khoa học – công nghệ có nguồn

gốc từ ngân sách nhà nước; 5) Hỗ trợ thương mại hóa, Nhà nước tạo điều kiện hỗ

trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình biến kết quả nghiên cứu khoa học thành

sản phẩm thương mại trên thị trường. 6) Thúc đẩy đổi mới công nghệ, khuyến khích

và hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới trang thiết bị, quy trình, giải pháp kỹ thuật để nâng

cao năng lực cạnh tranh [74].

2.2.5. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả của chính sách phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ

Một là, tính khả thi của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN. Tính

khả thi của chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ thể hiện qua

mức độ có thể triển khai thực tế tại cấp quốc gia, vùng hoặc địa phương, xét trên

các khía cạnh: chính trị, kinh tế, hành chính và xã hội. Về chính trị, cần đánh giá

triển vọng được các nhà hoạch định chính sách và cơ quan quyền lực ủng hộ, từ đó

đảm bảo tính bền vững trong quá trình thực thi. Về kinh tế, phân tích cần làm rõ khả

năng huy động ngân sách, nhân lực và các nguồn lực khác, đồng thời đảm bảo rằng

lợi ích thu được từ chính sách vượt trội so với chi phí bỏ ra. Về xã hội, phải xem xét

58

mức độ chấp thuận và đồng thuận từ phía cộng đồng, cũng như các yếu tố ảnh

hưởng như môi trường tự nhiên, trình độ dân trí, văn hóa, tôn giáo, tính dân chủ,

minh bạch, khả năng tiếp cận và tính dễ hiểu của các quy định chính sách. Về hành

chính, đánh giá cần xác định mức độ phù hợp của chính sách với hệ thống hành

chính hiện hành, năng lực tổ chức thực hiện và tính khả thi trong quy trình triển

khai. Ngoài ra, chính sách cần được kiểm tra về tính tương thích, bảo đảm không

mâu thuẫn với các quy định, chủ trương đã được ban hành trước đó và phù hợp với

các cam kết quốc tế mà quốc gia đã tham gia.

Hai là, tính hiệu quả của chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công

nghệ. Phần lớn các chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN hiện nay được triển

khai bằng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Do đó, đánh giá tính hiệu quả của

chính sách đồng nghĩa với việc phân tích xem Nhà nước thu được gì khi đầu tư

nguồn lực vào các chương trình hỗ trợ – tức là lợi ích đạt được có tương xứng với

chi phí đã bỏ ra hay không. Tính hiệu quả được xác định dựa trên quy mô kết quả

thực tế so với lượng nguồn lực cố định đã sử dụng. Trong trường hợp các chính

sách ưu đãi hoặc hỗ trợ dành cho doanh nghiệp KH&CN đã hoặc đang được áp

dụng, việc đánh giá hiệu quả chính sách sẽ tập trung vào việc xác định xem chính

sách có đạt được mục tiêu đề ra hay không – thông qua các số liệu, kết quả thực tiễn

thu thập được trong quá trình thực hiện.

Để đánh giá mức độ hiệu quả của một chính sách, cần tiến hành đo lường dựa

trên nhiều yếu tố cụ thể, trong đó bao gồm: 1) Khối lượng nguồn lực được huy động

(bao gồm cả nhân lực, tài chính, vật tư); 2) Thời gian cần thiết để hoàn thành toàn

bộ quá trình thực hiện chính sách; 3) Số lượng đầu việc, nhiệm vụ phải thực hiện

trong toàn bộ chu trình chính sách; 4) Mức độ cần thiết và hợp lý của các hoạt động,

nhằm giảm thiểu tối đa các thao tác không tạo ra giá trị; 5) Tổng chi phí phát sinh

trong quá trình thực hiện các hoạt động được yêu cầu; 6) Hiệu quả thực hiện: đo

lường khối lượng công việc đã hoàn thành so với lượng thời gian và chi phí thực tế

đã sử dụng; 7) Mức độ năng suất lao động: thể hiện qua hiệu quả làm việc, mức độ

tập trung và chất lượng sản phẩm đầu ra; 8) Xác định rõ mục tiêu chính sách và tiến

hành so sánh giữa mục tiêu đề ra với kết quả đạt được để đánh giá mức độ phù hợp

59

và thành công của chính sách.

Ba là, tính công bằng của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN. Trách

nhiệm của chính sách không chỉ dừng lại ở hiệu quả hay hiệu lực thực thi mà còn

phải thể hiện sự quan tâm chung đến cộng đồng doanh nghiệp trên toàn lãnh thổ,

đặc biệt là ở từng địa phương. Chính sách chỉ có thể phát huy tối đa giá trị nếu đảm

bảo mang lại quyền tiếp cận và thụ hưởng bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc

nhiều quy mô, lĩnh vực, và vùng miền khác nhau. Sự công bằng trong tiếp cận cơ

chế hỗ trợ và ưu đãi sẽ tạo ra môi trường phát triển đồng đều, tăng cường sự đồng

thuận trong xã hội, từ đó thúc đẩy động lực đổi mới, sáng tạo ở khu vực doanh

nghiệp khoa học và công nghệ, đặc biệt tại các địa phương có tiềm năng nhưng còn

hạn chế nguồn lực. Có thể khẳng định rằng, công bằng là một nguyên tắc cơ bản, là

thước đo không thể thiếu để đánh giá mức độ hợp lý và giá trị thực tiễn của chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN.

2.3. Triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương

2.3.1. Vai trò của triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp khoa

học và công nghệ ở vùng, địa phương

Một là, hiện thực hóa chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN vào hành

động thực tiễn của vùng, địa phương. Triển khai thực hiện chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN vào vùng và địa phương giữ vai trò then chốt trong toàn bộ

chu trình chính sách. Đây là giai đoạn chuyển hóa các định hướng, mục tiêu của

chính sách từ văn bản thành hiện thực cụ thể. Mức độ thành công của chính sách

không chỉ phụ thuộc vào quá trình hoạch định hay ban hành mà chủ yếu được quyết

định bởi hiệu quả triển khai trong thực tiễn.

Hai là, khẳng định sự đúng đắn của chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN qua triển khai ở vùng và địa phương. Trong quá trình thực hiện chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN đến địa bàn vùng hoặc địa phương cụ thể đã

khẳng định tính đúng đắn của việc bàn hành chính sách này. Việc hoạch định chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN là bước khởi đầu quan trọng, giúp hình thành

nên những định hướng và giải pháp mới. Tuy nhiên, giá trị thực sự và mức độ hợp

lý của chính sách chỉ có thể được kiểm chứng thông qua quá trình triển khai thực tế.

Ba là, góp phần hoàn thiện, sửa đổi được hệ thống chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN đối với vùng và địa phương. Việc đưa chính sách phát triển

60

doanh nghiệp KH&CN vào thực tiễn tại các địa phương không chỉ là bước hiện

thực hóa chủ trương, mà còn là quá trình góp phần hoàn thiện chính sách đó. Nhờ

đó, chính sách trở nên sát với thực tiễn hơn, phản ánh được nhu cầu thực sự từ cơ sở

và tăng khả năng đạt hiệu quả như kỳ vọng. Trong quá trình thực hiện thấy vướng

mắc sẽ đề xuất điều chỉnh chính cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của các doanh

nghiệp và có được bài học kinh nghiệm cho hoàn thiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN trong tương lai.

2.3.2. Khái niệm triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN

Quy trình triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN diễn tả

logic theo các bước: 1) tổ chức; 2) chỉ đạo; 3) điều hành; 4) kiểm tra; 5) giám sát;

6) đánh giá quá trình triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN gắn

với vai trò, trách nhiệm và mối quan hệ của các chủ thể tham gia quá trình này.

Triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương là

một giai đoạn của chu trình chính sách. Triển khai chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN là quá trình chính sách được đưa vào áp dụng đối với các doanh

nghiệp ở vùng và địa phương, biến ý chí của chủ thể chính sách thành kết quả

thực tiễn về số lượng và chất lượng của các doanh nghiệp KH&CN đáp ứng

mục tiêu đã đặt ra.

2.3.3. Các chủ thể và vai trò của họ trong quá trình triển khai chính sách phát

triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương

Tùy thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…của từng quốc gia

mà chủ thể triển khai chính sách nói chung, chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN nói riêng được qui định bởi Hiến pháp, hệ thống các Luật, các văn bản

pháp lý khác. Ở Việt Nam, các chủ thể triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN được xác định theo hệ thống chính trị, theo nguyên tắc thực thi quyền lực

nhà nước, mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, bản chất Nhà nước. Có thể phân thành

ba nhóm chủ thể với các vai trò khác nhau (sơ đồ 2.2).

Sơ đồ 2.2: Vai trò của các chủ thể trong quá trình triển khai thực hiện chính

61

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN

CÁC CHỦ THỂ

CÁC TỔ CHỨC, CÁ NHÂN KHÁC Tham gia hỗ trợ các nguồn lực

 Tư vấn  Tài trợ  Phối hợp

Phân cấp Phân quyền (CP- CQ) nghiên cứu KH&CN DOANH NGHIỆP KH&CN (Trung tâm thụ hưởng chính sách)  Chấp hành pháp luật  Nghiên cứu KH&CN  Hợp tác

CHÍNH PHỦ, CHÍNH QUYỀN (Quản lý, huy động các nguồn lực triển khai chính sách)  Lên kế hoạch  Tổ chức  Chỉ đạo  Điều hành  Kiểm tra  Giám sát  Đánh giá

[ Nguồn: nghiên cứu của tác giả luận án]

1) Chủ thể quản lý, huy động các nguồn lực triển khai chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN là các cơ quan thực thi quyền hành pháp trong hệ thống

quyền lực nhà nước, bao gồm chính phủ; các bộ ngành; Chính quyền địa phương có

chức năng quản lý nhà nước về doanh nghiệp KH&CN, thực hiện quản lý, huy động

các nguồn lực triển khai đưa các chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp

KH&CN vào thực tiễn, thực hiện các chức năng lên kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều

hành, kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN để đạt được mục tiêu chung.

2) Chủ thể phối hợp, tham gia, hỗ trợ các nguồn lực triển khai thực hiện chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN là các tổ chức phi chính phủ, các doanh

nghiệp khác, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, có vai trò tư vấn, tham gia

hỗ trợ, tài trợ, liên kết nghiên cứu KH&CN cùng với doanh nghiệp KH&CN.

3) Chủ thể thụ hưởng chính sách là các doanh nghiệp KH&CN, có vai trò là

trung tâm của quá trình thực hiện chính sách, vì vậy phải chấp hành, tuân thủ các

qui định của Nhà nước, của Chính quyền địa phương; Phối hợp, hợp tác với các

đối tác để phát triển.

62

Có thể nói, việc xác định các cá nhân, tổ chức có trách nhiệm triển khai chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương là các cá nhân, tổ

chức hoặc nhóm xã hội có các hoạt động cụ thể để đưa chính sách vào thực tiễn

hiệu quả, có lợi ích tạo ra nhiều biến đổi đem lại giá trị thực tiễn và lợi ích cho các

bên tham gia vào quan hệ chính sách.

2.3.4. Các giai đoạn của qui trình triển khai thực hiện chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương

Quy trình triển khai thực hiện chính sách nói chung và chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN nói riêng là bước 4 trong chu trình chính sách. Qui trình

thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN là một chuỗi các bước từ

việc lập kế hoạch thực thi đến các bước tổ chức, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám

sát, đánh giá quá trình thực thi, qui trình này thể hiện ở sơ đồ 2.3 như sau:

Sơ đồ 2.3: Các bước của qui trình triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN ở vùng và địa phương

[ Nguồn: nghiên cứu của tác giả luận án]

Giai đoạn 1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương: 1) Xác định mục tiêu ; 2) Xác định các

nguồn lực thực hiện; 3) Lựa chọn nội dung và cách thức thực hiện.

Giai đoạn 2. Tổ chức và chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN: 1) Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN; 2) Ủy quyền, phân quyền, phân công trong thực hiện chính sách phát triển

63

doanh nghiệp KH&CN.

Giai đoạn 3. Điều hành quá trình triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN: 1) Đôn đốc thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN; 2)

Điều hành sự phối hợp thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN.

Giai đoạn 4. Kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện chính sách phát

triển doanh nghiệp KH&CN: 1) Có kế hoạch cụ thể ; 2) Kiểm tra, giám sát trước,

trong và kết quả triển khai thực hiện; 3) Đa dạng hóa các hình thức và phương pháp

kiểm tra, giám sát.

Giai đoạn 5. Đánh giá quá trình triển khai thực hiện chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN ở vùng, địa phương: 1) Việc đánh giá phải đặt trong bối

cảnh tổng thể chiến lược phát triển doanh nghiệp KH&CN của cả nước, đồng thời

bám sát định hướng phát triển cụ thể của từng vùng, địa phương; 2) Hệ thống tiêu

chí đánh giá cần được xây dựng hài hòa giữa các chỉ số định lượng và định tính,

đồng thời phản ánh đầy đủ cả các yếu tố đầu vào, kết quả đầu ra và quá trình thực

thi chính sách; (3) Phương pháp đánh giá cần linh hoạt, đa dạng tùy theo mục tiêu,

nội dung và phạm vi đánh giá cụ thể.

2.4. Các yếu tố tác động đến triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ ở vùng và địa phương

2.4.1. Sự tác động của các yếu tố bên trong thuộc về chủ thể triển khai thực

hiện chính sách

a) Yếu tố thuộc về nguồn lực triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN ở vùng và địa phương

Các nguồn lực cơ bản về nhân lực, tin lực, tài lực, vật lực trong quá trình thực

hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN. Việc đảm bảo phân bổ nguồn

lực tài chính, nguồn lực thông tin, nguồn lực vật chất, đặc biệt là nguồn lực con

người hợp lý, kịp thời trong quá trình triển khai sẽ tác động rất lớn đến hiệu quả

thực thi chính sách. Việc đảm bảo đội ngũ công chức có đủ năng lực thực hiện qui

trình quản lý như lên kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra giám sát và

đánh giá là yếu tố chủ quan có tính mấu chốt cho sự thành công của quá trình triển

khai thực hiện chính sách. Việc xây dựng đội ngũ doanh nhân đủ năng lực để đảm

64

nhận vai trò chủ thể thụ hưởng chính sách như tinh thần đổi mới sáng tạo, có ý

thức về sản phẩm giá trị cao thông qua nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ,

về mức độ tham gia và ủng hộ của các doanh nghiệp tại vùng và địa phương. Việc

thu hút nguồn lực từ các tổ chức khác và từ bản thân các doanh nghiệp là yếu tố làm

nên hiệu quả của triển khai chính sách.

b) Yếu tố thuộc về tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của tổ chức triển khai

thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN tại vùng và địa phương

Tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của các cơ quan triển khai thực hiện chính

sách thể hiện ở các khía cạnh: 1)Tổ chức bộ máy được quy chuẩn hóa trong triển khai

thực hiện chính sách; 2)Mức độ thống nhất quyền lực, phân quyền hay ủy quyền

trong hệ thống tổ chức thực hiện chính sách để xác định rõ trách nhiệm của từng cá

nhân, tổ chức; 3)Sự phân công và phối hợp trong triển khai thực hiện chính sách nếu

chồng chéo, không nhịp nhàng, ăn khớp, chặt chẽ, thống nhất thì sẽ gây ách tắc cho

việc triển khai thực hiện chính sách; 4)Điều phối chính sách cũng là một yếu tố ảnh

hưởng đến hiệu quả triển khai thực hiện chính sách. Điều phối là nhằm giải quyết

các xung đột, mâu thuẫn, đồng thời làm cho quá trình triển khai chính sách trơn tru,

hiệu quả. Điều phối trong nội bộ các cơ quan của chính quyền địa phương và điều

phối đối với các tổ chức khác và các doanh nghiệp KH&CN.

2.4.2. Sự tác động của các yếu tố bên ngoài chủ thể triển khai thực hiện chính sách

a) Yếu tố về chất lượng của chính sách được ban hành

Chất lượng chính sách thể hiện ở hai khía cạnh sau: 1) Tính đúng đắn, phù hợp

của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN là yếu tố quyết định cho việc triển

khai thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN tại vùng và địa phương

hiệu quả. Tính đúng đắn thể hiện ở tính phù hợp với qui luật vận động khách quan,

đảm bảo có căn cứ thực tiễn và khoa học, đảm bảo lợi ích chung cho các doanh

nghiệp trên cơ sở bình đẳng và công bằng. Tính phù hợp thể hiện ở các chính sách

cần xuất phát từ thực tiễn đặc thù kinh tế-xã hội của vùng và địa phương; 2) Tính rõ

ràng, cụ thể về mục tiêu, nội dung của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN

là yếu tố then chốt để triển khai thực hiện hiệu quả chính sách phát triển DN

KH&CN, đồng thời là căn cứ quan trọng, là cơ sở cho điều hành, kiểm tra, giám sát,

65

đánh giá quá trình triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN

ở vùng và địa phương.

b) Yếu tố thuộc về môi trường trong triển khai chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN tại vùng và địa phương

Môi trường triển khai thực hiện chính sách bao gồm: 1) Môi trường chính trị,

việc ổn định chính trị có tác động tích cực đến triển khai chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN. Khi thay đổi bộ máy nhân sự trong chính phủ cũng như ở

chính quyền địa phương có thể làm thay đổi về chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp

trở thành doanh nghiệp KH&CN; 2)Môi trường kinh tế là vấn đề tiềm năng và lợi

thế về kinh tế ở vùng và địa phương khiến cho các doanh nghiệp luôn tìm kiếm cơ

hội để nghiên cứu KH&CN. Các yếu tố kinh tế có lúc sẽ trở thành cơ hội cho

doanh nghiệp này nhưng cũng có thể là những thách thức đối với các doanh nghiệp

khác; 3) Môi trường công nghệ kỹ thuật quốc gia, địa phương nào có khả năng tiếp

cận và ứng dụng nhanh các tiến bộ công nghệ vào quá trình thực hiện chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN sẽ có lợi thế vượt trội trong việc gia tăng cả về số

lượng lẫn chất lượng các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này; 4) Môi trường các điều

kiện tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, đất đai, khí hậu thời tiết…. quá trình triển

khai thực hiện chính sách bị ảnh hưởng nếu các yếu tố tự nhiên thay đổi nên

thường chính quyền địa phương và doanh nghiệp tìm cách đối phó với các biến đổi

này theo cách riêng của mình; 5) Môi trường văn hoá xã hội, tính đặc thù văn hóa

của vùng và địa phương khách qua tác động tới ý thức, niềm tin, thói quen, sở

thích và cách ứng xử của chính quyền địa phương và doanh nghiệp. Sự phức tạp về

môi trường văn hóa xã hội nó khiến cho việc triển khai chính sách thường mập mờ,

không rõ ràng. Môi trường văn hóa xã hội ảnh hưởng đến các quan hệ quyền lực,

đến nhiều lợi ích khác nhau của nhiều chủ thể chính sách và của doanh nghiệp để

có ý thức phát triển doanh nghiệp KH&CN. Vấn đề đặt ra là phải thay đổi một

hành vi thói quen lớn thì mức độ khó khăn của việc triển khai thực hiện chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN càng lớn.

2.5. Một số kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển doanh nghiệp khoa

học và công nghệ

66

2.5.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Một là, kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho phát

triển các doanh nghiệp KH&CN. Sau khi ban hành Luật Xúc tiến chuyển giao công

nghệ vào năm 2000, Hàn Quốc đã có những bước đi mạnh mẽ nhằm thúc đẩy hoạt

động chuyển giao và thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Chính phủ Hàn Quốc

triển khai chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN thông qua việc khuyến khích

các trường đại học và viện nghiên cứu công lập thành lập các văn phòng chuyển

giao công nghệ và các tổ chức hỗ trợ tương ứng để phục vụ doanh nghiệp có hoạt

động R&D. Đồng thời, quốc gia này đầu tư mạnh vào việc tạo lập tri thức công

nghệ thông qua các hoạt động R&D, cùng với việc xây dựng mạng lưới tổ chức

dịch vụ chuyển giao công nghệ như: (1) các công viên công nghệ, trung tâm đổi

mới sáng tạo vùng, doanh nghiệp công nghệ nhằm thương mại hóa kết quả nghiên

cứu; (2) các trung tâm chuyển giao công nghệ đặt tại các trường đại học. Một trong

những mô hình nổi bật là Trung tâm Chuyển giao Công nghệ Hàn Quốc– nơi đóng

vai trò cầu nối thúc đẩy thương mại hóa công nghệ thông qua cơ chế hỗ trợ tài

chính, hoạt động ươm tạo doanh nghiệp KH&CN, hỗ trợ nghiên cứu – phát triển sản

phẩm và định hướng cho các doanh nghiệp công nghệ trong giai đoạn khởi nghiệp.

[118]

Hai là, kinh nghiệm về chính sách tín dụng và ưu đãi thuế cho phát triển

doanh nghiệp KH&CN. Năm 1997, Quỹ Bảo lãnh Tín dụng Công nghệ Hàn Quốc

(KOTEC) đã triển khai các biện pháp hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp khoa học và

công nghệ bằng cách áp dụng hệ thống đánh giá, thẩm định công nghệ trong quá

trình xem xét cấp tín dụng. Cơ chế này nhằm bảo đảm các khoản vay được cấp dựa

trên giá trị công nghệ, thay vì chỉ dựa vào tài sản hữu hình truyền thống. Một trong

những công cụ quan trọng là hệ thống xếp hạng công nghệ KTRS – đóng vai trò

đánh giá mức độ đổi mới, tiềm năng ứng dụng và giá trị thương mại của công nghệ

do doanh nghiệp phát triển. Thông qua đó, KOTEC không chỉ bảo lãnh tín dụng mà

còn tạo điều kiện tiếp cận các nguồn vốn phát triển công nghệ cho doanh nghiệp

KH&CN, thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo trong khu vực tư nhân một cách hiệu

67

quả và có hệ thống [133].

Chính phủ Hàn Quốc, kể từ năm 2014, đã triển khai sáng kiến thúc đẩy hình

thức vay vốn không cần tài sản thế chấp, lấy cơ sở là mức độ đổi mới công nghệ,

nhằm mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tài chính công đối với các doanh nghiệp

KH&CN khởi nghiệp. Chính sách này hướng tới mục tiêu hỗ trợ các doanh nghiệp

có định hướng mở rộng quy mô dựa trên nền tảng công nghệ, đặc biệt là các doanh

nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu phát triển. Để tạo cơ chế ưu đãi thuế rõ ràng

và hấp dẫn hơn, Đạo luật Hạn chế Thuế Đặc biệt – ban hành từ năm 1988 và được

sửa đổi vào năm 2014 – đã bổ sung các điều khoản hỗ trợ thuế thu nhập đối với

doanh nghiệp KH&CN nhỏ và vừa trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Cụ thể, mức

khấu trừ thuế dao động từ 5% đến 30%, với mức khấu trừ tối đa lên tới 100 triệu

won, tùy thuộc vào ngành nghề và loại hình hoạt động. Những chính sách này

không chỉ khuyến khích đổi mới công nghệ mà còn giảm gánh nặng tài chính cho

các doanh nghiệp KH&CN trong quá trình phát triển. [143]

Ba là, kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ hoạt động thương mại và giao dịch

hàng hóa của các doanh nghiệp KH&CN. Tại Hàn Quốc, Chính phủ đã ban hành

một đạo luật chuyên biệt có tên gọi “Luật hỗ trợ mua bán, sản xuất hàng hóa và

phát triển thị trường cho doanh nghiệp nhỏ và vừa”, với mục tiêu trọng tâm là tăng

cường năng lực cạnh tranh và nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp

KH&CN [143]. Trong khuôn khổ chính sách này, các doanh nghiệp nhỏ và vừa

hoạt động trong các lĩnh vực như sản xuất hàng hóa, xây dựng và dịch vụ KH&CN

được ưu tiên tiếp cận các cơ hội đấu thầu và ký kết hợp đồng cung ứng, xây dựng

với các cơ quan nhà nước, với điều kiện đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng theo quy

định. Đây được xem là một giải pháp chiến lược, vừa thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm

KH&CN, vừa mở rộng thị trường công cho khu vực doanh nghiệp đổi mới sáng tạo.

Bốn là, kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới

sáng tạo. Nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp KH&CN có định hướng

khởi nghiệp sáng tạo, Chính phủ Hàn Quốc đã xây dựng hệ thống trung tâm ươm tạo

doanh nghiệp KH&CN, đến năm 2016 có 67 trung tâm hỗ trợ hơn 6.600 doanh

nghiệp với ngân sách khoảng 25 tỷ won. Khoảng 80% trung tâm đặt tại viện nghiên

68

cứu, trường đại học, tạo liên kết chặt chẽ giữa R&D và doanh nghiệp. [131] Năm

2014, Hàn Quốc triển khai Chương trình Ươm tạo công nghệ cho khởi nghiệp (TIPS),

kết hợp giữa nhà đầu tư tư nhân và hỗ trợ tài chính từ chính phủ nhằm thúc đẩy R&D

và thương mại hóa công nghệ cho doanh nghiệp khởi nghiệp.

Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai một loạt chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy

sự phát triển của doanh nghiệp KH&CN thông qua việc ban hành Luật Thúc đẩy đổi

mới công nghệ trong khu vực doanh nghiệp. Trong đó, đáng chú ý là các biện pháp

cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục đăng ký doanh nghiệp KH&CN, thiết lập

các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đồng thời ban hành chính sách ưu tiên

trong việc tiếp cận và sử dụng tài sản công và đất đai. Bên cạnh đó, chính phủ cam

kết hỗ trợ 50% chi phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, bao gồm cả đầu tư

trang thiết bị nghiên cứu và triển khai các chương trình đổi mới công nghệ. [143]

Chính sách đổi mới công nghệ được định hướng nhằm khuyến khích doanh nghiệp

tiếp nhận và phát triển các kết quả nghiên cứu KH&CN, từ đó tăng cường năng lực

nghiên cứu, cải tiến sản phẩm và quy trình sản xuất, góp phần nâng cao sức cạnh

tranh của doanh nghiệp trên thị trường.

Bộ Doanh nghiệp vừa, nhỏ và Khởi nghiệp Hàn Quốc (MSS) đã triển khai

các chính sách thúc đẩy sự phát triển của nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa định

hướng đổi mới sáng tạo, đặc biệt chú trọng đầu tư vào hoạt động nâng cấp công

nghệ. MSS hỗ trợ các doanh nghiệp này trong việc ứng dụng công nghệ tiên tiến

và phát triển các lĩnh vực tăng trưởng bền vững như kinh tế xanh. Trước thực trạng

thiếu hụt thiết bị nghiên cứu thử nghiệm, MSS đã tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp tiếp cận hệ thống máy móc phục vụ R&D thông qua các trung tâm hỗ trợ

đổi mới kỹ thuật số và cơ sở sản xuất thử nghiệm. Điều này nhằm mục tiêu giúp

doanh nghiệp nhỏ và vừa đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ, hướng tới trở

thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Ngoài ra, MSS cũng thành lập Trung

tâm bảo vệ công nghệ dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhằm bảo đảm quyền sở

hữu và an toàn cho các sáng chế mới. Chính phủ đồng thời triển khai các biện pháp

hỗ trợ an ninh công nghệ và bảo vệ hạ tầng vật lý để nâng cao năng lực bảo mật

cho từng doanh nghiệp. [14]

69

2.5.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Một là, kinh nghiệm về chính sách chuyển giao công nghệ cho phát triển doanh

nghiệp KH&CN. Việc ban hành “Luật Thúc đẩy chuyển giao các thành tựu khoa học

và công nghệ” vào năm 1996 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong chính

sách KH&CN của Trung Quốc, khi lần đầu tiên thừa nhận quyền sở hữu kết quả

nghiên cứu KH&CN có thể thuộc về các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước – đặc biệt

là các doanh nghiệp. [137] Đồng thời chính phủ Trung Quốc cũng ban hành các cơ

chế và thực hiện chính sách hỗ trợ thúc đẩy hoạt động CGCN hỗ trợ phát triển doanh

nghiệp KH&CN, nhiều mô hình tổ chức xúc tiến CGCN đã được hình thành để hỗ trợ

cho doanh nghiệp KH&CN trong đó có thiết kế vườn ươm doanh nghiệp KH&CN,

giúp các doanh nghiệp có cơ hội tổ chức tích hợp các nguồn lực KH&CN, cung cấp

và tham gia vào việc phát triển và phổ biến các thành tựu KH&CN ứng dụng trong

sản xuất, kinh doanh ở trong nước và phạm vi toàn thế giới.

Hai là, kinh nghiệm về chính sách phát triển vườn ươm và sàn giao dịch công

nghệ. Trung Quốc thực hiện chính sách thúc đẩy vườn ươm tạo để hình thành các

vườn ươm doanh nghiệp KH&CN có tiềm năng thị trường là việc làm thiết thực góp

phần tăng nhanh số lượng doanh nghiệp KH&CN, thực hiện chính sách thúc đẩy

các doanh nghiệp KH&CN tận dụng lợi thế của các trường đại học, liên kết với các

trường đại học để cùng hợp tác R&D. Hơn nữa thực hiện chính sách thúc đẩy các

doanh nghiệp cùng tham gia vào CGCN quốc tế và sử dụng thành tựu công nghệ

mới, phát triển doanh nghiệp KH&CN và đổi mới sáng tạo; Thực hiện chính sách

cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin về nguồn nhân lực KH&CN và nguồn

chuyển giao công nghệ mới.[150]

Ba là, kinh nghiệm về chính sách ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp

KH&CN. Chính sách ưu đãi thuế được áp dụng cho các doanh nghiệp công nghệ cao

ở các lĩnh vực đa dạng, cho việc phát triển và chuyển giao công nghệ, các phụ tùng và

trang thiết bị công nghệ khác, dành cho các công viên công nghệ, viện nghiên cứu phi

lợi nhuận, các trường đại học. Chính sách khen thưởng cho các doanh nghiệp, viện

nghiên cứu, trường đại học trong R&D có thành tích trong phát triển công nghệ và

chuyển giao công nghệ. Chính sách thực hiện cho các doanh nghiệp KH&CN phần

70

mềm được giảm trừ thuế GTGT từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, tỷ lệ thuế GTGT giảm

từ 17% xuống còn 13 cho các sản phẩm truyền thanh, truyền hình, trong khi các

doanh nghiệp khác chỉ được giảm 17%. Các sản phẩm nghe nhìn khoa học và công

nghệ và các ấn phẩm như sách và tạp chí khoa học và công nghệ khi đem đi xuất bản

sẽ bị đánh thuế, sau đó được hoàn thuế khi có sự phê duyệt của cơ quan thuế. Chính

phủ Trung Quốc còn thực hiện chính sách miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp

KH&CN tiết kiệm nước, năng lượng và thân thiện với môi trường.[152] Chính sách

thuế được áp dụng đối với phát triển công nghệ, quy trình mới và sản phẩm mới, cụ

thể: a) chi phí thiết kế sản phẩm mới; b) chi phí lên kế hoạch quy trình; c) chi phí thay

đổi hoặc điều chỉnh thiết bị; d) chi phí sách kỹ thuật và vật liệu; e) chi phí thử nghiệm

trung gian hoặc các bước thử nghiệm; g) lương của nhà nghiên cứu; h) chi phí thử

nghiệm sản phẩm mới, khấu hao thiết bị nghiên cứu.

Bốn là, kinh nghiệm về chính sách mua sắm công hỗ trợ các doanh nghiệp

công nghệ cao. Thực hiện chính sách mua sắm công để phát triển doanh nghiệp

công nghệ cao được đề cập và khuyến khích sử dụng từ năm 1990, mở rộng phạm

vi áp dụng từ các mặt hàng truyền thống sang cả những sản phẩm ứng dụng công

nghệ cao. Quốc hội và Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã thông qua quy định

chính thức quy định về mua sắm công từ năm 1999, mục đích:“để phát triển đổi

mới sáng tạo công nghệ, phát triển công nghệ cao và công nghiệp hóa thành

công”[154].

Năm là, kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ tài chính khác cho các doanh

nghiệp KH&CN. Thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính thông qua Quỹ đổi mới sáng

tạo cho doanh nghiệp KH&CN nhỏ và vừa (STF), đây là quỹ đặc biệt được ra đời

để hỗ trợ đổi mới công nghệ thông qua các hình thức trợ cấp, tài trợ lãi suất đầu tư

tài sản cố định và cho vay. Quỹ STF chủ yếu khuyến khích, hỗ trợ các hoạt động

đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp KH&CN, hỗ trợ chuyển giao kết quả

nghiên cứu KH&CN, ươm mầm các doanh nghiệp KH&CN nhỏ và vừa, đồng thời

nhàm thúc đẩy doanh nghiệp KH&CN ở lĩnh vực công nghiệp mới có trình độ công

nghệ cao [154].

2.5.3. Kinh nghiệm của Ấn Độ về thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho doanh

71

nghiệp khoa học và công nghệ phát triển

Chính phủ Ấn Độ thực hiện chính sách ưu đãi doanh nghiệp KH&CN qua Ủy

ban Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ quốc gia (NSTEDB) cơ quan

này được thành lập năm 1982, trực thuộc quản lý của Bộ Khoa học và công nghệ

Ấn Độ, có chức năng hỗ trợ, giúp sức cho các doanh nghiệp nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ (R&D) [113] Các hoạt động hỗ trợ, giúp sức cho các doanh

nghiệp R&D của NSTEDB bao gồm: 1) Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng với

mục tiêu giúp doanh nghiệp nhận thức khởi sự kinh doanh, phát triển tư duy đổi

mới sáng tạo (ĐMST) khởi sự kinh doanh, phát triển tài năng nghiên cứu khoa học

và phát triển công nghệ, đặc biệt có các chương trình riêng cho phát triển doanh

nghiệp KH&CN; 2) Thực hiện chính sách quản lý tốt, có hiệu quả các tổ chức, các

chương trình, các vườn ươm, các công viên khởi sự doanh nghiệp KH&CN; 3)Thực

hiện tốt chính sách tuyên truyền, phổ biến thông tin thông qua xuất bản Tạp chí

doanh nghiệp KH&CN thường xuyên, mục tiêu và nội dung của Tạp chí dành viết

chủ yếu về phát triển doanh nghiệp KH&CN thông qua chuyển giao công nghệ, thu

hút nguồn công nghệ, tài chính, nâng cao năng lực quản lý. Chính phủ đã duy trì

cổng thông tin TIME IS để cung cấp thông tin và hướng dẫn hình thành và quản lý

doanh nghiệp KH&CN.

Bên cạnh việc thực hiện các chính sách tài trợ, hỗ trợ trực tiếp cho các doanh

nghiệp KH&CN thông qua tổ chức NSTEDB, Chính phủ Ấn Độ đã thực hiện các

chính sách ưu đãi thuế đối với các tổ chức nghiên cứu hỗ trợ các doanh nghiệp

KH&CN và doanh nghiệp định hướng KH&CN có điều kiện phát triển [119], các

ưu đãi cụ thể bao gồm: 1) Miễn các nghĩa vụ về thuế khi mua hàng hóa nội địa,

được miễn thuế nhập khẩu thiết bị, phụ tùng và một số hàng hóa tiêu dùng khác cho

các Viện nghiên cứu và Phát triển công trực thuộc Cục nghiên cứu khoa học và

công nghiệp (cơ quan trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Ấn Độ) có chức năng

hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động về xúc tiến thương mại, phát triển công nghệ,

ứng dụng và chuyển giao công nghệ nội địa; 2) Miễn thuế nhập khẩu một số hàng

hóa đặc biệt cho các nhóm nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực dược phẩm và

công nghệ sinh học của các tổ chức trực thuộc Cục Nghiên cứu Khoa học và Công

72

nghiệp hỗ trợ cho KH&CN cho các doanh nghiệp; 3) Dành 200% kinh phí R&D

được tính để khấu trừ thuế cho các doanh nghiệp KH&CN thuộc các lĩnh vực công

nghệ sinh học, công nghệ sản xuất thuốc, công nghệ dược phẩm, công nghệ thiết bị

điện tử, công nghệ máy tính, công nghệ thiết bị viễn thông, công nghệ hóa chất,

công nghệ sản xuất máy bay; 4) Cho phép dự phòng khấu hao gia tốc đối với các

doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hàng hóa từ công nghệ cao; 5) Ưu đãi chi phí điện

đã sử dụng cho các chương trình Made in India (sản xuất tại Ấn Độ), các DN được

cho sản xuất các sản phẩm nội địa.

2.5.4. Kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN của Mỹ

Mục tiêu của các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN của Mỹ là nhằm

phát triển các doanh nghiệp tiềm năng có thể trở thành doanh nghiệp KH&CN từ

các doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST, được hình thành từ các kết quả nghiên cứu

của bản thân doanh nghiệp và có liên kết với các Viện nghiên cứu, các trường đại

học. Chính sách ưu đãi danh cho việc tăng cường sự liên kết giữa các DNKHCN

được hình thành từ các Viện và Trường trong ngành công nghiệp, cụ thể :

1) Chính sách ưu đãi thuế góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp

khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo bằng cách cho phép các doanh nghiệp KH&CN tạm

hoãn nghĩa vụ nộp thuế để tái đầu tư vào hoạt động sản xuất. Đồng thời, doanh nghiệp

sản xuất cũng được tiếp cận nguồn vốn vay trực tiếp mà không cần thế chấp tài sản, và

được miễn trả lãi vay, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển và thương mại

hóa công nghệ. Theo công thức tính thì hỗ trợ thuế của Nhà nước cho các doanh nghiệp

KH&CN ở Mỹ tỷ lệ dao động từ 14% đến 20%. [135]

2) Thực hiện mua sắm hàng nội địa của Chính phủ nhằm thúc đẩy khởi sự

kinh doanh và đổi mới sáng tạo cho các doanh nghiệp: Đạo luật mua hàng (Buy

American Act) năm 1933 yêu cầu Chính phủ ưu tiên mua các sản phẩm sản xuất

trong nước được cung cấp từ các doanh nghiệp trong nước. Các công ty đa quốc

gia được thành lập ở Mỹ nếu có đủ tiêu chuẩn được tham gia đấu thầu mua sắm

công chỉ khi nào họ có ít nhất 50% sản phẩm nguyên liệu, vật tư đầu vào của họ

là sản xuất trong nước. Đạo luật mua hàng tiếp tục được bổ sung, sửa đổi ở các

năm sau này: 1954, 1962 và 1998. Các nội dung của Đạo luật sửa đổi, có nội

73

dung đã cho phép Chính phủ trả 6% cao hơn cho hàng hóa nội địa với hàng hóa

cùng loại nhập khẩu; trả cao hơn 12% nếu mua từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa

trong nước hoặc sau giai đoạn suy thoái.[140]

3) Thực hiện chính sách đối với các vườn ươm, chương trình hỗ trợ doanh

nghiệp khởi nghiệp ĐMST: các doanh nghiệp KH&CN nổi tiếng trong lĩnh vực

công nghệ thông tin bao gồm: Microsoft, Facebook, Apple, Oracle đều bắt đầu

khởi nghiệp từ Thung lũng Silicon. Thung lũng Silicon là tập trung dồi dào nhất

nguồn tài sản trí tuệ và các ý tưởng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, ý

tưởng kinh doanh được hội tụ từ các Viện nghiên cứu, Trường đại học nổi tiếng như

Standford, University of California,... Thung lũng này là nơi các doanh nghiệp

KH&CN khởi nghiệp có thể học hỏi kinh nghiệm của nhau mà còn là nơi huy

động các nguồn lực từ các nhà đầu tư, quỹ đầu tư mạo hiểm, các tổ chức hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp. Số lượng các vườn ươm doanh nghiệp KH&CN trên

toàn nước Mỹ đã phát triển nhanh chóng, hiện tại có khoảng 1000 vườn ươm. Mỗi

năm có gần 2 triệu doanh nghiệp KH&CN mới được thành lập, trong đó từ 600 đến

800 doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn đầu tư mạo hiểm. Theo số liệu từ Hiệp

hội Đầu tư Mạo hiểm Quốc gia, khoảng 11% việc làm trong khu vực tư nhân được

tạo ra bởi các doanh nghiệp có nhận vốn đầu tư mạo hiểm. Đáng chú ý, các doanh

nghiệp này đóng góp khoảng 21% GDP của Hoa Kỳ. [142]

4) Thực hiện chính sách hỗ trợ cho sự hợp tác giữa viện, trường với các

ngành công nghiệp, hình thành doanh nghiệp KH&CN từ khối Trường đại học và

Viện nghiên cứu: Vai trò chính của Chính phủ liên bang Mỹ là thiết lập môi trường

pháp lý tạo cơ hội cho các mối quan hệ Doanh nghiệp-Viện-Trường phát triển thông

qua việc thực hiện các chính sách như: Đạo luật Bayh-Dole (Bayh-Dole Act); Đạo

luật cải cách sáng chế (Patent Reform Act); Hệ thống chính sách thuế và các chính

sách liên quan khác. Quỹ khoa học quốc gia (National Science Foundation’s

Innovation Corps – I-Corps) công bố năm 2011 xây dựng chương trình đổi mới

sáng tạo, gây dựng mạng lưới các nhà khoa học, các kỹ sư, các nhà phát minh

sáng tạo, các lãnh đạo doanh nghiệp khởi nghiệp. Qũi này tập trung vào việc hỗ

trợ chuyển giao kết quả nghiên cứu đến các doanh nghiệp. Chương trình đổi mới

74

sáng tạo này bao gồm các chuỗi hoạt động và chuỗi các chương trình hỗ trợ cho

các nhà khoa học phát triển mục tiêu nghiên cứu ra ngoài phòng thí nghiệm và

đem lại hiệu quả thực tế từ các dự án của quỹ khoa học quốc gia, và các chương

trình nghiên cứu cơ bản. Mục đích của NSF’s I-Corps nhằm thúc đẩy tinh thần

khởi nghiệp, thương mại hóa công nghệ đã được hỗ trợ trước đó bởi một số quỹ

nghiên cứu trực thuộc Quỹ Khoa học Quốc gia.[139]

2.5.5. Bài học rút ra cho Việt Nam trong hoàn thiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN

Qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc thúc đẩy giao dịch công nghệ, bài

học rút ra là phải thành lập các tổ chức trung gian, các tổ chức trung gian vô cùng

quan trọng để thực hiện các hoạt động chuyển giao công nghệ, hỗ trợ, môi giới, xúc

tiến, giao dịch công nghệ, liên kết nghiên cứu KH&CN trong doanh nghiệp. Việc tổ

chức các loại hình hỗ trợ trung gian này cũng vô cùng phong phú và đa dạng: hợp

tác công tư, đồng tài trợ, hỗ trợ công, tư nhân hoặc liên kết. Thực tế, ở Việt Nam

việc thành lập các tổ chức hỗ trợ cho các doanh nghiệp KH&CN còn non yếu, chưa

có tổ chức chuyên nghiệp về lĩnh vực này, hoạt động thúc đẩy xúc tiến giao dịch

công nghệ còn mờ nhạt vì vậy cần thành lập các tổ chức trung gian.

Một số kinh nghiệm quốc tế cho Việt Nam về thực hiện các chính sách quan

trọng trong phát triển doanh nghiệp KH&CN mà Việt Nam cần thực hiện là: 1)

chính sách tín dụng thuế (Tax Credit); 2) chính sách mua sắm của chính phủ

(Government Procurement); 3) Chính sách đối với các vườn ươm doanh nghiệp

KH&CN; 4) các chương trình đào tạo; 5) các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp

khởi nghiệp KH&CN; 5) các chính sách mở về tài sản trí tuệ để tạo cơ hội

về lợi ích kinh tế cho các nhà nghiên cứu, các cá nhân hoạt động KH&CN,.v.v…

Từ những kinh nghiệm quốc tế, Việt Nam có thể rút ra bài học trong việc thúc

đẩy đổi mới công nghệ bằng cách xây dựng hệ thống chính sách ưu đãi thiết thực

cho các doanh nghiệp công nghệ. Cụ thể, cần ban hành các văn bản pháp lý tương

tự như Luật Khuyến khích đổi mới công nghệ, đồng thời thành lập các quỹ hỗ trợ

khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Nhà nước cũng nên áp dụng các cơ chế ưu đãi liên

75

quan đến quyền sử dụng đất và tài sản phục vụ hoạt động nghiên cứu – phát triển.

Bên cạnh đó, việc triển khai các chương trình đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp

sẽ góp phần thúc đẩy quá trình tiếp nhận và phát triển kết quả nghiên cứu khoa học,

qua đó tăng cường năng lực nghiên cứu – phát triển và nâng cao khả năng cạnh

tranh của doanh nghiệp. Chính phủ cũng cần xem xét hỗ trợ tài chính cho việc đầu

tư trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, đổi mới quy trình sản xuất và phát triển sản

phẩm mới, nhằm thích ứng kịp thời với yêu cầu phát triển của nền kinh tế.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Làm rõ bản chất của khoa học và công nghệ, doanh nghiệp KH&CN, phát

triển doanh nghiệp KH&CN, chính sách công nói chung, chính sách phát triển

doanh nghiệp KH&CN nói riêng là khung lý thuyết cơ bản để xác định vai trò, đặc

điểm, mục tiêu, nội dung của chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN. Từ đó

luận giải sự phát triển về số lượng doanh nghiệp KH&CN từ các doanh nghiệp tiềm

năng và sự phát triển về chất lượng từ các doanh nghiệp đã được công nhận là

doanh nghiệp KH&CN để xác định được mục tiêu và nội dung của chính sách phát

triển doanh nghiệp KH&CN.

Để đạt được mục tiêu và nội dung của chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN, việc xây dựng khung lý thuyết về chính sách và triển khai thực hiện chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN đã được đặt ra. Liên quan đến triển khai thực

hiện chính sách, nó là thước đo để đánh giá hệ thống chính sách đang tồn tại cần

hoàn thiện. Nghiên cứu lý thuyết về các yếu tố tác động bên trong và bên ngoài ảnh

hưởng trực tiếp đến việc triển khai thực thi chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN làm cơ sở để đánh giá nguyên nhân mà mục tiêu và nội dung của chính

sách chưa đạt được.

Kinh nghiệm quốc tế đem lại cho Việt Nam những bài học sâu sắc về việc Nhà

nước phải làm gì để thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp KH&CN về số lượng và

chất lượng thông qua hệ thống chính sách đang hiện hành, cần phải xây dựng và

76

hoàn thiện chính sách ra sao để đạt được mục tiêu đã vạch ra.

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH

NGHIỆP KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỪ THỰC TIỄN

VÙNG TÂY NGUYÊN

3.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế và doanh nghiệp vùng Tây Nguyên

3.1.1. Khái quát về đặc điểm kinh tế vùng Tây Nguyên

Tây Nguyên gồm 5 tỉnh, theo trật tự từ Bắc vào Nam là Kon Tum, Gia Lai,

Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Vùng này giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan

trọng, đóng vai trò là tuyến phòng thủ phía Tây của đất nước, đồng thời là khu vực

trung tâm của Tam giác phát triển ba nước Lào – Việt Nam – Campuchia. Với

diện tích tự nhiên 54.548 km², đứng thứ ba cả nước và dân số xấp xỉ 6 triệu người,

Tây Nguyên sở hữu nhiều lợi thế nổi bật về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và môi

trường sinh thái. Khu vực này có khoảng 1 triệu ha đất đỏ bazan màu mỡ – một

trong những loại đất tốt nhất cho nông nghiệp, cùng với hơn 3 triệu ha rừng chiếm

khoảng 35,7% diện tích rừng toàn quốc. Ngoài ra, Tây Nguyên còn có trữ lượng

bôxít khoảng 10 tỷ tấn, chiếm 90% tổng trữ lượng cả nước. Ba lợi thế nổi bật của

vùng gồm: (1) Khả năng phát triển nông nghiệp quy mô lớn, tập trung; (2) Sức hút

mạnh mẽ đối với nhà đầu tư, từ đó giúp tối ưu hiệu quả đầu tư; (3) Cấu trúc kinh tế

tập trung, tạo thuận lợi cho khai thác theo hướng công nghiệp hóa và gia tăng giá

trị hàng hóa. Những yếu tố này là nền tảng vững chắc để Tây Nguyên phát triển

các ngành kinh tế mũi nhọn, qua đó thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao vị thế vùng.

Với tiềm năng, nguồn lực sẵn có ở Tây Nguyên là tiền đề để các địa phương

trong vùng, đặc biệt là các doanh nghiệp, được coi là chủ thể của phát triển kinh tế

vùng có thể ứng dụng thành tựu của KH&CN vào sản xuất, kinh doanh hiệu quả,

đem lại sự tăng trưởng kinh tế vượt bậc cho vùng. Việc phát triển đầu tư thương

mại của các doanh nghiệp KH&CN không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế hàm chứa

giá trị cao mà còn góp phần đẩy mạnh sự phồng thịnh về mọi mặt của vùng Tây

Nguyên. Vì vậy, chính quyền địa phương thuộc vùng Tây Nguyên cần nâng tạo ra

môi trường đầu tư hấp dẫn, thực hiện nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp

phát triển trở thành các doanh nghiệp KH&CN đông về số lượng, nâng cao về chất

77

lượng, đầu tàu dẫn dắt kinh tế Tây Nguyên tăng trưởng bền vững.

Xuất phát từ vị trí chiến lược và vai trò đặc biệt của khu vực Tây Nguyên, Bộ

Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 18/01/2002 nhằm định

hướng phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh cho toàn

vùng đến năm 2010. Tiếp theo đó, Kết luận số 12-KL/TW ngày 24/10/2011 tiếp

tục khẳng định tầm quan trọng của việc thực hiện Nghị quyết này, đồng thời chỉ

đạo kéo dài triển khai các mục tiêu và giải pháp cho giai đoạn tiếp theo đến năm

2020. Sau thời gian dài thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị khóa

IX, XI,XIII các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên đã tập trung phát huy được các lợi

thế và tiềm năng của Vùng. Cơ cấu kinh tế Vùng chuyển dịch theo mô hình tăng

trưởng kinh tế, ưu tiên phát triển nông nghiệp có ứng dụng công nghệ cao, phát

triển hệ thống thủy điện, khai thác khoáng sản hiệu quả, phát triển vật liệu xây

dựng, khai thác, chế biến nông sản để xuất khẩu. Ngành công nghiệp phát triển, là

động lực tăng trưởng thiết yếu của Vùng. Tuy vậy, những thành tựu đạt được vẫn

còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế sẵn có của vùng Tây

Nguyên trong phát triển kinh tế. Nền kinh tế của khu vực phát triển thiếu ổn định,

tăng trưởng chưa thực sự bền vững và chất lượng còn ở mức thấp; thu nhập bình

quân đầu người vẫn ở mức thấp hơn so với mặt bằng chung cả nước. Khoảng cách

giàu – nghèo vẫn còn khá xa; đời sống người dân bản địa còn vô cùng khó khăn.

Để phát huy thành tựu đã đạt được, khắc phục những mặt còn hạn chế, nắm bắt

thời cơ để vượt qua những khó khăn, thách thức mới để phát triển kinh tế vùng

Tây Nguyên, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 152/NQ-CP Ngày 15 tháng 11

năm 2022, là Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 23-

NQ/TW ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị về việc “Phát triển kinh tế - xã hội và

bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm

2045”. Theo đó, trọng tâm được đặt vào việc củng cố năng lực khoa học công

nghệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Chính phủ đề ra định hướng đẩy mạnh nghiên

cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ hiện đại, đổi mới kỹ thuật nhằm giải

quyết các thách thức thực tiễn trong sản xuất, kinh doanh phục vụ phát triển kinh

tế - xã hội. [77]

3.1.2. Khái quát về doanh nghiệp vùng Tây Nguyên

Tây Nguyên hiện là vùng có tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới và tổng vốn

78

đăng ký thấp nhất trong cả nước. Năm 2020, toàn vùng chỉ ghi nhận 4.849 doanh

nghiệp đăng ký mới, chiếm vỏn vẹn 3,6% trong tổng số 134.941 doanh nghiệp

thành lập trên toàn quốc. Đến năm 2023, con số này tiếp tục giảm xuống còn 3.986

doanh nghiệp, tương đương mức sụt giảm 10,8% so với năm 2022, và tiếp tục xếp

cuối cùng trong 6 vùng kinh tế cả nước về số lượng doanh nghiệp thành lập mới.

[Nguồn: Cục Đăng ký kinh doanh - Bộ Kế hoạch và Đầu tư]. Năm 2023, tổng số

vốn đăng ký thành lập mới của các doanh nghiệp trong Vùng là 56.739 tỷ đồng,

chiếm 2,5% cả nước và tăng 16,5% so với năm trước. Số lao động đăng ký của

Vùng năm 2023 đạt 29.856 người, chiếm 2,9% cả nước. [Nguồn: Cục phát triển

doanh nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư].

Việc sắp xếp, cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước tại khu vực Tây

Nguyên vẫn còn chậm và chưa đạt được hiệu quả như kỳ vọng. Hiện nay, tiến

trình cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp có vốn Nhà nước chi phối 100% đang được

triển khai theo hướng tinh gọn và hiệu quả hơn. Thực tiễn cho thấy, các doanh

nghiệp Nhà nước sau khi thực hiện cổ phần hóa đã hoạt động theo cơ chế thị

trường năng động hơn, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,

thúc đẩy phát triển các thị trường vốn.

3.2. Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp KH&CN và triển khai chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

3.2.1. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ vùng

Tây Nguyên

Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp khoa học và công nghệ vùng Tây

Nguyên nhìn chung còn nhiều khó khăn, các doanh nghiệp cũng không báo cáo

đầy đủ tới cơ quan quản lý. Cụ thể tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh

79

nghiệp KH&CN vùng Tây Nguyên được thống kê theo bảng dưới đây:

Bảng 3.1 Tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp KH&CN

vùng Tây Nguyên. (ĐVT: triệu đồng)

Tính đến năm 2023 Gia Lai

Tổng số DNKH&CN

Đắk Lắk 9 (2 DN báo cáo) 5 (3 DN báo cáo)

Lâm Đồng 9 ( 3 DN báo cáo) 6.943 0 Kon Tum 3 DN không báo cáo) Đắk Nông 1 DN không báo cáo)

219.421 2.683 9.491 7.699 185.925 23.275

Tổng kinh phí đầu tư cho KH& CN Tổng doanh thu Doanh thu của sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN Tổng lợi nhuận trước thuế 40.019 11.704

509

1DN=10 1DN= -871 206.110 1DN=5.560 1DN= -842

0 0 0

0 0 45.520

0 0 0 0 0 0

0 0 0

0 318 7 0 33 5.7 0 66 7.3 5 6

Lợi nhuận trước thuế của sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN Thuế thu nhập doanh nghiệp được miễn, giảm Tiền thuê đất được miễn, giảm Vay vốn tín dụng ưu đãi Trích lập quỹ phát triển KH&CN Thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước Các ưu đãi, hỗ trợ khác Tổng số lao động (người) Thu nhập bình quân tháng của người lao động

[ Nguồn: Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ]

Nhìn bảng 3.1. cho thấy tổng số doanh nghiệp được công nhận là doanh

nghiệp KH&CN của 5 tỉnh vùng Tây Nguyên rất khiêm tốn (27 DN). Kết quả

khảo sát trên 250 người ở doanh nghiệp tại 5 tỉnh vùng Tây Nguyên, khi được hỏi:

80

“Có nhu cầu trở thành doanh nghiệp KH&CN không?” Thì có 35,7% trong số 250

người được hỏi trả lời là “có”, khi trả lời cho lý do “có nhu cầu” thì số doanh nhân

này cho rằng: “ được hưởng các chính sách ưu đãi; Sản phẩm sẽ đạt chất lượng

cao hơn; đáp ứng như cầu thị trường; đem lại niềm tin cho khách hàng” còn lại

64,3% trả lời là “Không có nhu cầu”, trả lời cho lý do này là những khó khăn khi

đăng ký trở thành doanh nghiệp KH&CN, là những khó khăn về qui trình, thủ tục

đăng ký, điều kiện để trở thành DNKH&CN có nhiều qui định chưa hợp lý, nhân

lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không có. [Nguồn: kết quả khảo

sát của tác giả].

Hoạt động hiện nay của các doanh nghiệp KH&CN ở các tỉnh vùng Tây

Nguyên phần lớn gặp khó khăn về vốn; thiếu đội ngũ cán bộ nghiên cứu có năng

lực và tâm huyết. Các sản phẩm Hộp 1. Hoạt động hiện nay của các doanh KH&CN của doanh nghiệp nghiệp KH&CN phần lớn gặp khó khăn về KH&CN vùng Tây Nguyên vốn; thiếu đội ngũ cán bộ nghiên cứu có không quá nổi trội về công nghệ, năng lực và tâm huyết. Các sản phẩm không có thị trường tiêu thụ nên KH&CN của doanh nghiệp không quá nổi chưa mang lại lợi nhuận cao cho trội về công nghệ, không có thị trường tiêu doanh nghiệp KH&CN ở vùng thụ nên chưa mang lại lợi nhuận cao cho Tây Nguyên. Số doanh nghiệp DNKHCN. [PVS-LĐ sở KH&CN] KH&CN đã vô cùng ít ỏi nhưng

bản thân các doanh nghiệp KH&CN này cũng thờ ơ với việc duy trì, nuôi dưỡng

thương hiệu đã là doanh nghiệp KH&CN nên đạt được một thời gian thì có một số

doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận. Vì vậy Nhà nước cần tiếp tục nghiên

cứu cải tiến chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

thiết thực hơn, và cần có các chính sách đặc thù hơn ưu tiên cho vùng Tây

Nguyên.

Việc ứng dụng KH&CN vào sản xuất, kinh doanh được Tỉnh Lâm Đồng đặc

biệt chú trọng. Đã có 09 doanh nghiệp được công nhận là doanh nghiệp KH&CN

với tổng diện tích sản xuất 278 ha, trong đó 247 ha được triển khai thông qua liên

kết với các hộ nông dân. Khu vực này ứng dụng đa dạng công nghệ hiện đại trong

81

canh tác như: 4.100 ha nhà kính, 1.037 ha nhà lưới, 8.268 ha sử dụng màng phủ,

25.688 ha áp dụng công nghệ tưới kết hợp bón phân tự động. Có 50 nhà kính đạt

tiêu chuẩn kỹ thuật cao (mức đầu tư khoảng 20 tỷ đồng/ha) được trang bị vật liệu

nhựa 5 lớp chống tia UV, hạn chế bụi bẩn, ngăn côn trùng, chủ yếu phục vụ cho

2.070 ha rau và 1.030 ha hoa. Toàn vùng có 51.799 ha sản xuất nông nghiệp ứng

dụng công nghệ cao, bao gồm 18.968 ha rau, 13.624 ha hoa, 6.335 ha chè và

19.885 ha cà phê. Ngoài ra, có 5 phòng thí nghiệm đạt điều kiện nuôi cấy vi sinh

bằng thiết bị lên men (bioreactor) và 10 doanh nghiệp sản xuất phân bón hữu cơ từ

vi sinh vật như Bacillus thuringiensis, nấm Trichoderma và tổ hợp enzyme xử lý

phụ phẩm nông nghiệp. [Nguồn: Hiệp hội DN tỉnh]

Số doanh nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN cũng khá phát triển,

cụ thể: Có tổng cộng 291 doanh nghiệp đã đầu tư khoảng 30.000 tỷ đồng vào lĩnh

vực này. Đồng thời, 68 chuỗi liên kết sản xuất – tiêu thụ nông sản đã được thiết

lập, trong đó nhiều chuỗi được tổ chức trong và ngoài nước chứng nhận chất lượng

sản phẩm. Mô hình liên kết với nông hộ cũng phát triển, thu hút 1.560 hộ trồng rau

và 1.180 hộ trồng hoa. Về quản lý và nhận diện sản phẩm, đã có 270 đơn vị được

cấp quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Hoa Đà Lạt” và 65 đơn vị được cấp

nhãn hiệu “Rau Đà Lạt”. Bên cạnh đó, diện tích canh tác được chứng nhận đạt tiêu

chuẩn VietGAP đạt 250 ha. Vùng cũng đã hình thành 8 khu sản xuất nông nghiệp

ứng dụng công nghệ cao với tổng diện tích 1.912 ha và 19 vùng đáp ứng tiêu chí

nông nghiệp công nghệ cao với diện tích khoảng 3.340 ha. Trong lĩnh vực chăn

nuôi và giống cây trồng, khu vực hiện có 32.000 con bò sữa, 304 cơ sở sản xuất

giống rau, hoa, quả, cùng 51 phòng nuôi cấy mô thực vật, cung cấp trung bình 45

triệu cây giống mỗi năm. Ngoài ra, 21 doanh nghiệp đã ứng dụng Internet vạn vật,

triển khai phần mềm Diagri tích hợp với hệ thống tem QR truy xuất nguồn gốc.

Dự án VnSAT cũng hỗ trợ tái canh 37.000 ha và cải tạo 20.000 ha cà phê bằng

phương pháp ghép. Về giống cây trồng và vật nuôi đặc sản, vùng đã phát triển

thành công nhiều giống có giá trị kinh tế và dược liệu cao. [Nguồn: Hiệp hội DN

tỉnh]

Khoảng 99% doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tại vùng đang giữ vai

82

trò then chốt trong đầu tư vào công nghệ chế biến, xử lý sau thu hoạch và hỗ trợ

tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp cho người dân. Cụ thể, các doanh nghiệp này đang

đảm nhận khâu đầu ra cho khoảng 80% sản lượng chè, 40% cà phê, 18% rau –

hoa, và gần như toàn bộ sản phẩm từ bò sữa, cá nước lạnh, tơ tằm (chiếm tới

99%). Tuy nhiên, đánh giá tổng thể về trình độ công nghệ ứng dụng trong sản xuất

cho thấy vẫn còn nhiều hạn chế: chỉ 4,7% doanh nghiệp đạt mức hiện đại, 21% ở

mức khá, 15,7% trung bình, trong khi phần lớn (58,6%) vẫn sử dụng công nghệ lạc

hậu. Bên cạnh đó, việc tận dụng sự hỗ trợ từ các chuyên gia và tổ chức quốc tế

(như PUM – Hà Lan, JICA – Nhật Bản, WB – Ngân hàng Thế giới...) còn gặp

nhiều rào cản. Khó khăn chủ yếu nằm ở khả năng liên kết trong các mô hình hợp

tác về vốn, chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường, xây dựng thị phần và phát

triển thương hiệu. [Nguồn: Hiệp hội doanh nghiệp Tỉnh]

78,2% trong số 9 doanh nghiệp KH&CN được hỏi cho rằng: Đầu tư từ ngân

sách dàn trải, hiệu quả thấp; 80,1% cho rằng rào cản thủ tục chưa sửa đổi; 73% cho

rằng Luật hỗ trợ doanh nghiệp chưa có tác dụng, chưa thực chất; 85% cho rằng

DN phải tự đầu tư, vượt rào cản; 92,2% cho rằng không có niềm tin có thực sự hỗ

trợ. [Nguồn: kết quả phiếu khảo sát của tác giả]. Các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp

cũng được thành lập, cụ thể: Trung tâm Hỗ trợ khởi nghiệp thuộc Trường Đại

học Đà Lạt và Trung tâm Hỗ trợ Khởi nghiệp tỉnh Lâm Đồng. Các trung tâm

này đã tổ chức sơ tuyển khoảng 350 ý tưởng khởi nghiệp, chủ yếu đến từ sinh

viên, trung bình khoảng 50 ý tưởng mỗi năm, trong đó đạt được khoảng 5 giải

thưởng/năm. Hiện có 10 đề án đang được triển khai hiệu quả, trong đó 4 doanh

nghiệp đã xây dựng được thương hiệu riêng, cùng với 2 mô hình đã thực hiện

được việc nhượng quyền thương mại. Đáng chú ý, tỉnh Lâm Đồng đã phê duyệt

Quỹ Hỗ trợ khởi nghiệp theo Quyết định số 740/QĐ-UBND ngày 18/4/2017,

với mức đầu tư 5 tỷ đồng nhằm tạo nguồn lực tài chính cho các dự án khởi

nghiệp của doanh nghiệp địa phương.

Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được các DN

KH&CN đẩy mạnh. Công ty TNHH Viết Hiền nghiên cứu công nghệ than sinh

học, Công ty được chọn phối hợp chuyển giao công nghệ từ Trung tâm nghiên cứu

83

năng lượng tái tạo Okozentrum – Thụy Sĩ, sau hơn 1 năm tiếp tục nghiên cứu và

phát triển ứng dụng, Công ty đã chế tạo các thiết bị dùng để đốt các loại vỏ như

trấu, cà phê, dăm gỗ, hạt điều…Sản phẩm của doanh nghiệp KH&CN đã cung cấp

cho thị trường trong nước và xuất khẩu lò đốt than sinh học sang Indonexia. Công

ty TNHH Viết Hiền đang đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao như sản

xuất rau, củ, quả hữu cơ; Sản xuất, lắp dựng nhà màng, nhà lưới; Cung cấp hệ

thống tưới công nghệ cao. Công ty TNHH SX-TM-DV-XNK Đăng Phong là DN

KH&CN đi đầu của tỉnh. DN quan tâm đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản

phẩm. Tính đến nay, DN đã có 01 Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp Bơm

nước thả chìm, 02 Bằng độc quyền Giải pháp hữu ích cho giải pháp công nghệ cán

gân tăng cứng cho phần thân vỏ bơm diện thả chìm và thuyền thúng bằng Inox sử

dụng vật liệu Inox cao cấp SUS 316 siêu bền chống chịu được sức va đập lớn khi

di chuyển trên biển nhưng vẫn giữ được tính ổn định của thuyền. Hiện tại, DN

nghiên cứu thêm nhiều sản phẩm như: Lò đốt rác thải sinh hoạt, máy nước nóng sử

dụng năng lượng mặt trời, cano đi biển. [Nguồn : Sở KH&CN Tỉnh]

Bên cạnh các doanh nghiệp KH&CN ở Tỉnh vẫn duy trì sản xuất, kinh

doanh, Tuy nhiên hoạt động còn cầm trừng, duy

trì do sản phẩm tiêu thụ chậm thiếu sức cạnh

tranh so với sản phẩm cùng loại, thị trường tiêu

thụ chủ yếu trong nước. Mặt khác theo quy luật

kinh tế thị trường. Theo sở KH&CN Tỉnh, từ

năm 2016-2023 chỉ có 02 doanh nghiệp thực

hiện báo cáo định kỳ hàng năm. Trong khi đó,

hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đều ở

quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính hạn chế

nên không đủ sức đầu tư vào hoạt động nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ, đành phải Hộp 2. “Đơn vị phải mất thời gian 5 năm để triển khai thực hiện các quy trình nhằm đáp ứng những yêu cầu đề ra. Ngoài việc đầu tư đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, triển khai nghiên cứu các đề tài khoa học và đưa vào sản xuất thực tế, Công ty còn đầu tư kinh phí để xây dựng phòng chuyên môn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên sâu về nghiên cứu để tạo ra những sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm” [PVS-GĐCT] sử dụng công nghệ, máy móc lạc hậu; thiếu

thông tin, cơ hội tiếp xúc, nắm bắt công nghệ mới, cơ hội hợp tác với các tổ chức

KH&CN nước ngoài; khả năng cạnh tranh của sản phẩm hạn chế. Mặt khác, cơ

84

chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong việc

nghiên cứu cũng như áp dụng KH&CN vẫn khó đáp ứng được yêu cầu thực tế.

Theo ông TNQ, Giám đốc Công ty TNHH NTS thì doanh nghiệp KH&CN của

ông sẽ gặp khó khăn về thời gian, đầu tư nguồn lực cho R&D (Hộp 2). Ông VHN,

Phó Giám đốc Sở KH&CN cho biết: “Bên cạnh những chính sách ưu đãi chung về

thuế, tiền thuê đất, nhà xưởng, vay vốn, đầu tư các chương trình phát triển

KH&CN… tỉnh cũng đã ưu tiên dành mỗi năm từ 500 triệu – 1 tỷ đồng để hỗ trợ

các doanh nghiệp KH&CN. Theo đó, mỗi đơn vị đã được chứng nhận thì tỉnh sẽ

hỗ trợ từ 100 triệu – 500 triệu đồng để hoàn thành các chương trình phát triển

KH&CN; đồng thời, đôn đốc, hỗ trợ, tư vấn hoàn chỉnh hồ sơ đăng ký thành lập

doanh nghiệp KH&CN”. [PVS-PGDDSKHCN]

3.2.2. Thực trạng về triển khai chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp tiềm năng

trở thành doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

a) Thực trạng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trở

thành doanh nghiệp KH&CN

Doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (Start-up) ở Việt Nam nói chung

và vùng Tây Nguyên nói riêng hiện nay là nguồn tiềm năng vô cùng lớn cho hình

thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Thủ tướng Chính phủ đã

ban hành Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016, phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ

sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” nhằm hiện thực

hóa Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ. Kể từ đó, hoạt động khởi nghiệp

sáng tạo tại Việt Nam đã ghi nhận những bước tiến đáng kể. Theo Báo cáo chỉ số

đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) công bố tháng 10/2023, Việt Nam đã cải thiện vị

trí đầu vào đổi mới sáng tạo, tăng lên hạng 46 trong số 132 quốc gia. Hiện cả nước

có khoảng 3.900 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, cùng với hơn 150 cơ sở giáo

dục đại học, viện nghiên cứu và tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp thông qua hệ thống các

vườn ươm, trung tâm đổi mới sáng tạo và câu lạc bộ khởi nghiệp. Một số lĩnh vực

như công nghệ giáo dục, fintech, du lịch và bất động sản đang chứng kiến sự phát

triển năng động của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Tại các tỉnh vùng Tây Nguyên việc hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp

85

ĐMST cũng được chính quyền 5 tỉnh quan tâm nhằm tạo lập môi trường thuận lợi

để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp tiềm

năng có khả năng trở thành doanh nghiệp KH&CN dựa trên khai thác tài sản trí

tuệ, chuyển giao công nghệ, mô hình kinh doanh mới dựa trên kết quả của nghiên

cứu KH&CN, nhằm góp phần tạo việc làm, tăng năng suất lao động, đóng góp vào

quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của tỉnh.

Trong những năm gần đây, các tỉnh vùng Tây Nguyên đã có nhiều nỗ lực

nhằm thúc đẩy phong trào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh trong

vùng. Kết quả đạt được còn hạn chế nhưng đã có những tín hiệu đáng khích lệ,

kết quả cụ thể ở từng tỉnh trong vùng Tây Nguyên về chính sách đối với loại hình

doanh nghiệp tiềm năng này thể hiện như sau:

Chính sách của tỉnh Kon Tum, trên cơ sở nội dung định hướng chủ yếu của

Chiến lược và Kế hoạch số 4485/KH-UBND ngày 03 tháng 12 năm 2020 của Ủy

ban nhân dân tỉnh về phát triển KH&CN tỉnh Kon Tum giai đoạn 2021-2025, kế

hoạch phát triển DNKH&CN tập trung vào các nội dung cơ bản về phát triển

KH&CN và ĐMST, làm tiền đề ươm mầm cho sự phát triển của DNKH&CN

trong đó có nội dung: “Thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng

tạo trong doanh nghiệp”. [95] Thực hiện kế hoạch của UBND tỉnh Kon Tum về

phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST (Start-up) làm tiền đề cho phát triển

các doanh nghiệp KH&CN.

Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp start-up của tỉnh Gia Lai: bên cạnh thực

hiện các chính sách hỗ trợ phát triển

các DNKH&CN, chính quyền Tỉnh còn

có kế hoạch phát triển các doanh

nghiệp start-up, để các doanh nghiệp

này có cơ hội trở thành DNKH&CN.

UBND tỉnh ban hành Quyết định số

663/QĐ-UBND ngày 5/10/2021 Kế

hoạch thực hiện Đề án “Hỗ trợ hệ sinh

thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Quốc Hộp 3. Đa số doanh nghiệp ở Gia Lai hiện nay là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quy mô nhỏ, vốn ít, lực lượng lao động được đào tạo còn hạn chế là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến giảm năng lực tự chủ trong nghiên cứu và đổi mới công nghệ, trong khi đó sự gắn kết giữa viện nghiên cứu - trường đại học – DN chưa thật sự hiệu quả. [Nguồn: PVS LĐ sở KH&CN]

86

gia đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Gia Lai” theo đúng thời gian quy định. Nội

dung điều chỉnh liên quan đến mục tiêu định hướng đến năm 2035 đồng thời bổ

sung một số nội dung, mục tiêu, hoạt động liên quan đến hệ sinh thái khởi nghiệp

đổi mới sáng tạo quốc gia và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong việc tổ

chức thực hiện Đề án. [92]

Từ năm 2017 đến 2021 tỉnh Gia Lai được Bộ Khoa học và Công nghệ đã xem

xét phê duyệt cho triển khai 11 dự án thuộc chương trình nông thôn miền núi, trong

đó có bốn dự án có doanh nghiệp tham gia. Đồng thời, nghiên cứu, xây dựng Đề tài

khoa học về các giải pháp và chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp. Để khuyến khích,

hỗ trợ phát triển các dự án, ý tưởng khởi nghiệp đồng thời tạo cầu nối gặp gỡ giữa các

doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp, sản phẩm nông lâm thủy sản

với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu, ý tưởng, dự án khởi nghiệp từ nông nghiệp và

các dịch vụ phát triển nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Gia Lai, Sở Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn thường xuyên tổ chức, giới thiệu các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh

tham gia các sự kiện liên quan đến khởi nghiệp ĐMST.

Chính sách hỗ trợ start-up của tỉnh Đắc Nông: Nghị quyết số

54/2019/NQHĐND ngày 11/12/2019

của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk

Nông qui định về chính sách hỗ trợ

Hệ sinh thái Khởi nghiệp đổi mới

Hộp 4. “ Cần có chính sách hiệu quả, thúc đẩy gắn kết giữa viện nghiên cứu - trường đại học - DN, giúp các DN ứng dụng các kết quả KH&CN mới để hình thành các doanh nghiệp KH&CN”. [Nguồn: PVS- LĐSKHCN]. sáng tạo và thông qua chủ trương

thực hiện hỗ trợ start-up đến năm

2025. Cụ thể hóa nghị quyết này,

UBND tỉnh đã ban hành Quyết định

số 3018/QĐ-UBND ngày 31/12/2019

nhằm hướng dẫn triển khai chính

sách hỗ trợ start-up trên địa bàn tỉnh.

Chính sách đặt mục tiêu kiến tạo môi

trường thuận lợi cho sự ra đời và

87

phát triển của các doanh nghiệp khởi Hộp 5. “ Một trong các nguyên nhân dẫn đến số lượng doanh nghiệp KH&CN ở Đắk Nông chỉ có 01 doanh nghiệp KH&CN, nhưng hoạt động không hiệu quả, có thể phải kể đến một số chính sách thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tiềm năng chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Một số DN khó khăn về trình độ, vốn, nhưng tiếp cận để vay vốn còn gặp khó khăn, do điều kiện vay không đáp ứng được.” [PVS. LDDNNVV]

nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao, dựa trên việc khai thác hiệu quả tài sản trí

tuệ, ứng dụng công nghệ và mô hình kinh doanh sáng tạo.

Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST của tỉnh Lâm Đồng:

Thúc đẩy không gian hỗ trợ khởi nghiệp nhằm thu hút nguồn nhân lực cho phát

triển các doanh nghiệp KH&CN trong thời gian tới. Kế hoạch Số: 9025/KH-

UBND ngày 10 tháng 12 năm 2021 thực hiện Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi

nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đến năm 2025” mục đích tổ

chức triển khai có hiệu quả hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp. Lấy start-up tạo động

lực thúc đẩy sự phát triển của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, đóng góp thiết

thực vào tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh.

Thực hiện chính sách về sở hữu trí tuệ, Sở KH&CN Tỉnh đã hướng dẫn 33

doanh nghiệp tra cứu nhãn hiệu và thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu

hàng hóa tại Cục Sở hữu trí tuệ; hỗ trợ 03 doanh nghiệp đăng ký bảo hộ sáng chế,

bảo hộ nhãn hiệu và bảo hộ ngoài nước đối với nhãn hiệu. Đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, đào tạo nhằm nâng cao năng lực huấn luyện viên khởi nghiệp cho

đội ngũ giảng viên, giáo viên và đội ngủ cán bộ làm công tác hỗ trợ hoạt động

khởi nghiệp; hỗ trợ 14 dự án, doanh nghiệp khởi nghiệp tham gia hoạt động trưng

bày sản phẩm khởi nghiệp Lâm Đồng tại Techfest vùng Nam Trung bộ và Tây

Nguyên, Tuần lễ vàng du lịch Lâm Đồng và hội chợ Festival hoa Đà Lạt năm

2022; hỗ trợ Trường Đại học Yersin Đà Lạt cải tạo, nâng cấp khu làm việc chung

phục vụ cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo; 01 doanh nghiệp xây dựng, áp dụng

tiêu chuẩn ISO 22000:2018; 04 doanh nghiệp thực hiện thủ tục xác lập, khai tác và

bảo về quyền sở hữu trí tuệ trong nước và xây dựng bản mô hả sáng chế, bản thiết

kế kiểu dáng công nghiệp, nhận diện thương hiệu. Tham mưu UBND tỉnh ban

hành Quyết định công nhận 15 ý tưởng, phương khởi nghiệp năm 2022; hỗ trợ 05

doanh nghiệp thực hiện 05 dự án nâng cao năng suất chất lượng. [Nguồn: Sở

KH&CN Tỉnh Lâm Đồng]

Tăng cường liên kết chuyển giao công nghệ giữa các viện, trường và doanh

nghiệp; nâng cao năng lực tiếp thu và làm chủ công nghệ của doanh nghiệp; triển

88

khai có hiệu quả Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; đặc biệt,

tổ chức thành công cuộc thi khởi nghiệp đổi mới sáng tạo năm 2023; tổ chức thực

hiện có hiệu quả nhiệm vụ chỉ dẫn địa lý cà phê; tiếp tục duy trì có hiệu quả nhãn

hiệu "Đà Lạt Kết tinh kỳ diệu từ đất lành"; hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện đăng ký

bảo hộ sáng chế, bảo hộ nhãn hiệu và bảo hộ ngoài nước đối với nhãn hiệu; triển

khai có hiệu quả kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân; đặc biệt, tổ chức

thành công nội dung diễn tập ứng phó sự cố hạt nhân năm 2023.

Đối với chương trình đổi mới sáng tạo, đây là chương trình quốc gia

nhưng theo một số ý kiến của cán bộ sở KH&CN Tỉnh: giai đoạn đầu triển khai

chưa nhận được nhiều sự quan tâm của doanh nghiệp; tập trung quản lý tiêu

chuẩn, chất lượng, đặc biệt tăng cường quản lý đối với các lĩnh vực mà các

ngành khác chưa quản lý được; phát triển hơn nữa về sở hữu trí tuệ và cần tiếp

tục tạo cơ chế thuận lợi để các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp cận được

nguồn vốn của Quỹ Phát triển KH&CN.

Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST của tỉnh Đắk Lắk

được triển khai nhằm ươm tạo và thúc đẩy các doanh nghiệp tiềm năng phát triển

thành doanh nghiệp KH&CN. UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 6648/KH-

UBND ngày 21/7/2021 để cụ thể hóa việc thực hiện Kế hoạch số 9239/KH-

UBND, đồng thời triển khai Đề án quốc gia “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi

mới sáng tạo đến năm 2025” (Quyết định 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016). [102]

Trước đó, tỉnh đã có Kế hoạch số 2722/KH-UBND ngày 09/4/2018 về “hỗ trợ

khởi nghiệp và khởi sự kinh doanh đến năm 2020, định hướng đến 2025”. [84]

Trên cơ sở đó, hàng năm tỉnh đều ban hành các kế hoạch hành động sát với tình

hình thực tế, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ngành và đơn vị liên quan.

Một số kết quả đáng ghi nhận gồm việc tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn khởi

nghiệp cho cộng đồng, vận hành Cổng thông tin khởi nghiệp ĐMST của tỉnh tại

địa chỉ http://khoinghiep.daklak.gov.vn. Ngoài ra, UBND tỉnh còn triển khai các

chính sách hỗ trợ nâng cao năng suất và chất lượng doanh nghiệp như: “Kế hoạch

số 148/KH-SKHCN ngày 24/8/2021 thực hiện Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh

nghiệp nâng cao năng suất – chất lượng giai đoạn 2021–2025, định hướng đến

89

2030” [87]; Quyết định số 1839/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 phê duyệt “Đề án hỗ

trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2020–2025, định hướng 2030”;

Kế hoạch số 3756/KH-UBND ngày 05/5/2021 về “nâng cao năng suất dựa trên

nền tảng KH&CN và đổi mới sáng tạo, giai đoạn 2021–2023”. Tất cả các chính

sách trên nhằm hỗ trợ doanh nghiệp địa phương đổi mới công nghệ, tăng năng suất

lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp, hướng đến phát triển bền vững dựa

trên nền tảng KH&CN và ĐMST.

b) Thực trạng chính sách đối với các tổ chức khoa học và công nghệ, các

trường đại học (doanh nghiệp khởi nguồn) trở thành doanh nghiệp KH&CN

Các tổ chức KH&CN công lập chuyển đổi thành doanh nghiệp KH&CN.

Học tập mô hình chuyển đổi từ các tổ chức KH&CN công lập sang doanh nghiệp

KH&CN là khá phổ biến ở các nước tiên tiến. Tại Việt Nam, theo Nghị định số

115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 sau đó được thay thế bằng Nghị định số

54/2016/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ đã quy định về cơ chế tự chủ, tự chịu

trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập bắt buộc phải chuyển đổi sang mô hình

tự chủ kinh phí hoặc mô hình doanh nghiệp KH&CN. [59]

Tại các tỉnh vùng Tây Nguyên, các tổ chức khoa học và công nghệ đã

có sẵn các nguồn lực tiềm năng cao, đặc biệt là tại tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lăk

phục vụ cho nghiên cứu và phát triển, có các nhà khoa học trình độ

cao; nguồn thông tin, tri thức dồi dào; nguồn tài chính và điều kiện vật chất sẵn

có phục vụ cho nghiên cứu và phát triển. Ví dụ như, phát triển “vườn ươm công

nghệ”, đầu tư cho thương mại hóa các kết quả KH&CN của 5 tỉnh vùng Tây

Nguyên là có thể hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN, các viện nghiên

cứu có tiềm năng trở thành doanh nghiệp KH&CN (Lâm Đồng có nhiều triển

vọng), bài học tại một số địa phương khác tại Việt Nam bước đầu đã có thành

công nhất định trong nghiên cứu phát triển, cải tiến công nghệ và thương mại hóa

các kết quả KH&CN. Ví dụ điển hình như: Viện Thuốc lá thành Công ty TNHH

MTV Viện Thuốc lá; Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp thành Công ty TNHH

Viện máy và Dụng cụ công nghiệp (IMI).

Bên cạnh đó, sự hình thành các doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) được

90

tách ra từ các trường đại học, viện nghiên cứu tư nhân, các nhóm nghiên cứu cũng

có nhiều cơ hội phát triển thành doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên. Các

doanh nghiệp khởi nguồn thường được bắt đầu từ năng lực R&D của hệ thống các

tổ chức KH&CN ở Việt Nam. Khi các lực lượng này có năng lực và được tạo môi

trường, sẽ tách ra và đi theo hướng của doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Một

số doanh nghiệp KH&CN được cấp giấy chứng nhận hoạt động đã khởi nguồn từ

các ý tưởng sáng tạo của các nhóm nhà khoa học, nhóm nghiên cứu tại các viện

chuyên môn, cũng như từ giảng viên và sinh viên thuộc các trường đại học trong

và ngoài nước. Một ví dụ điển hình là Công ty Robot Tosy – doanh nghiệp được

thành lập bởi một sinh viên từng đoạt chức vô địch cuộc thi Robocon năm 2003,

chuyên về các sản phẩm robot công nghiệp dịch vụ. Ngoài ra, còn có các công ty

tiêu biểu khác, như: Lạc Việt, Vietsoftpro, CMC, SYSTECH, MK MECH, LUMI,

TECHPAL,… đều xuất phát từ ý tưởng của nhóm các nhà khoa học và nhóm

nghiên cứu.

Việc triển khai các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động nghiên

cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ được thực hiện thông qua nhiều cơ chế

cụ thể. Đối với các chương trình và nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia, doanh nghiệp

có thể đề xuất thực hiện các dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng dụng và chuyển

giao tiến bộ KH&CN nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội khu vực nông

thôn, miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, theo Quyết định số 1747/QĐ-

TTg ngày 13/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn

có thể đăng ký thực hiện nhiệm vụ KH&CN độc lập cấp quốc gia hoặc các nhiệm

vụ mang tính cấp bách của địa phương do Bộ KH&CN quản lý. Trình tự, thủ tục

xác định các nhiệm vụ này được quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-BKHCN

ngày 26/5/2014.

c) Thực trạng chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp thông thường đang hoạt

động trở thành doanh nghiệp KH&CN

Triển khai thực hiện Luật Hỗ trợ DNNVV và các chính sách ưu đãi phát triển

doanh nghiệp tiềm năng, Vùng Tây Nguyên đã triển khai thực hiện các chính sách

hỗ trợ DN bằng việc ban hành một số kế hoạch hành động cụ thể để các doanh

91

nghiệp tạo lập được chỗ đứng nhất định trên thương trường, có tiềm lực tốt, có

tiềm năng để phát triển thành doanh nghiệp KH&CN. Các doanh nghiệp dựa trên

nền tảng công nghệ sở hữu trí tuệ, khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định, có thể

thực hiện thủ tục chuyển đổi thành doanh nghiệp KH&CN. Trong thời gian qua,

chính quyền các địa phương trong vùng đã tích cực cụ thể hóa các chính sách vĩ

mô của Nhà nước và Chính phủ thông qua việc ban hành các quy định hỗ trợ nhằm

thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ doanh nghiệp truyền thống sang doanh nghiệp

KH&CN, cụ thể:

Một là, chính sách của chính quyền tỉnh Kon Tum: Trước thực trạng số

lượng doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn còn rất hạn chế – đến năm 2022 mới chỉ

có 2 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN – Ủy ban

nhân dân tỉnh Kon Tum đã ban hành Quyết định số 456/QĐ-UBND ngày

26/5/2021 phê duyệt “Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2021–

2025”. [93] Để tiếp tục cụ thể hóa chính sách hỗ trợ này, ngày 31/3/2023, Sở

Khoa học và Công nghệ tỉnh Kon Tum đã ban hành Kế hoạch số 25/KH-SKHCN

nhằm triển khai các nội dung “hỗ trợ DNNVV trong năm 2023”. [55].

Hai là, chính sách của chính quyền tỉnh Lâm Đồng: Xác định vai trò quan

trọng của doanh nghiệp KH&CN đối với nền kinh tế, Lâm Đồng đã có nhiều chính

sách hỗ trợ các doanh nghiệp thông thường đang hoạt động có thể trở thành doanh

nghiệp KH&CN. Cùng với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, chương trình,

chính sách tín dụng gắn với khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào KH&CN

phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, sản xuất công nghiệp xây

dựng trên địa bàn đã chủ động đổi mới dây chuyền công nghệ, máy móc, phương

tiện sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường kết nối DN, nhất là áp dụng các mô

hình quản lý, quản trị theo quy chuẩn tiêu chuẩn quốc tế. Tính đến năm 2023,

toàn tỉnh có 13.000 DN hoạt động tại địa phương. Việc triển khai ưu tiên nguồn

vốn cho vay cho DNNVV không chỉ giúp các DN có điều kiện tiếp cận thành tựu

KH&CN mới, mở rộng sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, mà

còn góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp KH&CN tại địa phương.

Ba là, chính sách của chính quyền tỉnh Đắk Lắk: Quyết định số 1839/QĐ-

92

UBND ngày 13/8/2020 của UBND tỉnh Đắk Lắk phê duyệt “Đề án hỗ trợ và phát

triển DNNVV trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2020-2025, định hướng đến

năm 2030”. Có khoảng từ 07 đến 10 DNNVV đang triển khai nghiên cứu, ứng

dụng KH&CN nhằm cải tiến năng suất, nâng cao hiệu quả lao động. Hiện tại, Đắk

Lắk có gần 6.000 doanh nghiệp với nhiều loại hình khác nhau thuộc các thành phần

kinh tế, do năng lực cạnh tranh thấp, doanh thu, lợi nhuận trước thuế chưa cao nên

kinh phí đầu tư cho hoạt động KH&CN còn hạn chế nên mới có 20 doanh nghiệp có

hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ. [Nguồn: Sở KH&CN tỉnh Đắk Lắk]

d) Các nội dung hỗ trợ các doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh nghiệp

KH&CN

Giai đoạn 2020–2023, nhiều nội dung hỗ trợ đã được triển khai nhằm giúp

các doanh nghiệp tiềm năng từng bước phát triển thành doanh nghiệp KH&CN,

bao gồm:

Hỗ trợ về công nghệ: Thực hiện theo quy định tại Điều 11, Nghị định số

80/2021/NĐ-CP ngày 26/8/2021 của Chính phủ, tập trung vào chuyển giao, đổi

mới và hoàn thiện công nghệ.

Hỗ trợ chuyển đổi số: Doanh nghiệp được hỗ trợ tối đa 50% chi phí thuê

hoặc mua các giải pháp số hóa nhằm tự động hóa và nâng cao hiệu quả các quy

trình sản xuất, quản trị, kinh doanh, công nghệ và chuyển đổi mô hình kinh doanh.

Hỗ trợ sở hữu trí tuệ: Tối đa 50% giá trị hợp đồng tư vấn liên quan đến xác

lập, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ gắn với sản phẩm, dịch vụ của doanh

nghiệp.

Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo: Triển khai theo Điều 22, Nghị

định 80/2021/NĐ-CP, bao gồm hỗ trợ nghiên cứu, thương mại hóa sản phẩm và

tiếp cận thị trường.

Hỗ trợ hoàn thiện sản phẩm, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật: Doanh nghiệp

được hỗ trợ trong thử nghiệm, hoàn thiện mô hình kinh doanh và thực hiện thủ tục

về đo lường, chất lượng.

Hỗ trợ xây dựng tiêu chuẩn cơ sở: Cung cấp 100% kinh phí tư vấn xây dựng

và áp dụng tiêu chuẩn cơ sở, nhưng không vượt quá 10 triệu đồng/hợp

93

đồng/năm/doanh nghiệp.

Hỗ trợ hệ thống quản lý chất lượng: Hỗ trợ toàn bộ chi phí tư vấn xây dựng

và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, với mức trần 50 triệu đồng/hợp

đồng/năm/doanh nghiệp.

Hỗ trợ đo lường và kiểm định: Tối đa 50% chi phí thử nghiệm, kiểm định,

hiệu chuẩn phương tiện đo, cấp dấu định lượng với mức hỗ trợ không vượt quá 10

triệu đồng/năm/doanh nghiệp.

Chi phí quản lý: Ngân sách nhà nước hỗ trợ tối đa 5% tổng kinh phí để chi

cho công tác quản lý trực tiếp các hoạt động hỗ trợ nêu trên.

3.2.3. Thực trạng triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp khoa

học và công nghệ ở các tỉnh vùng Tây Nguyên

a) Thực trạng về triển khai cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và

công nghệ ở vùng Tây Nguyên

Điều kiện để được cấp giấy chứng nhận: Áp dụng theo Nghị định số

13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN qui

định các điều kiện được cấp giấy chứng nhận:1) Được thành lập và đang hoạt

động phù hợp với các quy định của Luật Doanh nghiệp; 2) Có năng lực triển khai

hoặc ứng dụng thực tiễn các kết quả nghiên cứu KH&CN, được công nhận bởi cơ

quan có thẩm quyền; 3) Doanh thu từ hoạt động thương mại hóa các sản phẩm

được tạo ra từ kết quả KH&CN phải chiếm ít nhất 30% tổng doanh thu. Đối với

những doanh nghiệp có thời gian hoạt động chưa vượt quá năm năm kể từ thời

điểm thành lập, yêu cầu về tỷ lệ doanh thu nêu trên có thể chưa được áp dụng. Tuy

nhiên, các điều kiện còn lại vẫn là bắt buộc để được xem xét cấp chứng nhận. [77]

Trình tự thực hiện theo 3 bước: Bước 1: Doanh nghiệp gửi hồ sơ đề nghị

chứng nhận về Sở Khoa học và Công nghệ nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính;

Bước 2: Sở Khoa học và Công nghệ tổ chức thẩm định hồ sơ: Bước 3: Trong thời

hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và

công nghệ, Sở Khoa học và Công nghệ công bố trên cổng thông tin điện tử của cơ

quan về tên, địa chỉ và danh mục sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công

94

nghệ của doanh nghiệp đó.

Thành phần hồ sơ gồm: Gồm hai nhóm tài liệu chính: (1) Hồ sơ xác minh

năng lực KH&CN: Doanh nghiệp cần nộp văn bản đề nghị được công nhận cùng

với tài liệu chứng minh đã tạo ra hoặc ứng dụng thành công một kết quả nghiên

cứu khoa học hoặc công nghệ có giá trị. Tài liệu này có thể ở nhiều dạng khác

nhau, chẳng hạn như giấy chứng nhận quyền sở hữu trí tuệ, quyết định công nhận

giống mới trong nông nghiệp – thủy sản, các giải thưởng uy tín về khoa học được

trao bởi cơ quan nhà nước, giấy xác nhận kết quả nghiên cứu có sử dụng hoặc

không sử dụng ngân sách công, hay chứng chỉ liên quan đến chuyển giao công

nghệ. Những tài liệu này có thể được nộp dưới dạng bản sao có chứng thực hoặc

bản sao kèm bản gốc để đối chiếu. (2) Kế hoạch kinh doanh sản phẩm công nghệ:

Doanh nghiệp phải trình bày phương án khai thác thương mại đối với sản phẩm

được hình thành từ kết quả nghiên cứu nêu trên. Phương án cần cho thấy định

hướng ứng dụng công nghệ vào sản xuất – kinh doanh, khả năng triển khai trên thị

trường và tính bền vững về mặt tài chính.

Số lượng các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp

KH&CN ở vùng Tây nguyên, cụ thể: Các tỉnh trong vùng Tây Nguyên đã thực

hiện triển khai các qui định trên vào địa phương mình, tuy nhiên kết quả đạt được

còn rất hạn chế, cụ thể: Năm 2020, tỉnh Kon Tum cấp Giấy chứng nhận 4 doanh

nghiệp KH&CN. Trong đó: Đã thu hồi Giấy chứng nhận đối với 01 doanh nghiệp

(Quyết định số 97/QĐ-SKHCN ngày 04/9/2020 về việc thu hồi Giấy chứng nhận

doanh nghiệp khoa học và công nghệ số 01/2013/GCNDNKHCN ngày 28/3/2013

của Công Ty TNHH Vật Liệu Xanh Bảo Sơn Kon Tum). Tại tỉnh Kon Tum tính

đến năm 2023 có 03 doanh nghiệp KH&CN được cấp giấy chứng nhận hoạt động.

So với kế hoạch đặt ra trong Chiến lược đến năm 2030 của Uỷ ban Nhân dân tỉnh

là phấn đấu đạt được 05 doanh nghiệp KH&CN, tỉnh đã hoàn thành 60% số

DNKHCN (năm 2023). Tại tỉnh Gia Lai, tính đến ngày 31/12/2023, Sở Khoa học

và Công nghệ gia Lai đã cấp 05 Giấy chứng nhận DNKH&CN cho các doanh

nghiệp trên địa bàn tỉnh Gia lai. Tỉnh Đắk Nông có 01 doanh nghiệp được cấp giấy

chứng nhận tính đến năm 2023 (Công ty TNHH Thực phẩm công nghệ cáo Nasa,

95

địa chỉ: LCN12-1, Khu Công nghiệp Tâm Thắng, xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh

Đắk Nông). Tỉnh Lâm Đồng, tính đến năm 2023 tại Lâm Đồng có 09 DNKH&CN;

DNKH&CN được tiếp cận ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước: 01 doanh nghiệp. Trong số

09 DNKH&CN tại tỉnh Lâm Đồng, Ladophar nổi bật với định hướng chiến lược tập

trung khai thác tiềm năng dược liệu bản địa nhằm tạo ra các sản phẩm có giá trị gia

tăng cao phục vụ nhu cầu trong nước và từng bước tiếp cận thị trường quốc tế. Với

tầm nhìn phát triển dược liệu trở thành nền tảng cho các giải pháp chăm sóc sức

khỏe cộng đồng, Ladophar đang chủ động đầu tư vào nghiên cứu khoa học và phát

triển công nghệ. Hiện tại, công ty đang triển khai đề tài khoa học cấp tỉnh có tên:

“Nghiên cứu quy trình công nghệ sản xuất cao khô từ lá dâu tằm (Morus alba L.)

dùng làm dược liệu”. Mục tiêu của nhiệm vụ này không chỉ là xây dựng quy trình

sản xuất đạt chuẩn, mà còn hướng đến việc hình thành và phát triển vùng nguyên

liệu lá dâu tằm ổn định, bền vững ngay tại địa phương.

Tỉnh Đắk Lắk, đến năm 2023 có 9 DN được cấp giấy chứng nhận là

DNKH&CN. DNKH&CN đầu tiên của tỉnh Đắk Lắk là từ năm 2015. Số liệu

báo cáo 2016 và 2023, cho thấy các DN KH&CN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, nhiều doanh nghiệp có doanh

thu năm sau cao hơn hẳn năm trước, xếp tốp đầu các doanh nghiệp của tỉnh.

Sản phẩm KH&CN của các DN đã giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh

lĩnh vực nông sản chủ lực của tỉnh như: máy chế biến ướt cà phê, bơm tưới, các

sản phẩm chế biến sâu trái cây ca cao, bơ máy sấy nông sản, v.v…Phần lớn các

DNKHCN tại tỉnh luôn dẫn đầu về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

Năm 2017, 02 DNKHCN trên địa bàn tỉnh tham gia các nhiệm vụ KH&CN cấp

quốc gia, đó là các dự án “Hoàn thiện công nghệ và thiết bị sản xuất bột ca cao và

các sản phẩm chocolate quy mô công nghiệp tại Đắk Lắk” và dự án “Hoàn thiện

công nghệ, thiết bị chế biến và sấy cà phê ướt quy mô nông hộ”, kinh phí thực hiện

mỗi dự án gần 5 tỷ đồng ; 03 DN được hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp

tỉnh thuộc Dự án “Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của

doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2014-2020”.

Tính đến năm 2023 cả vùng Tây Nguyên có 27 doanh nghiệp là doanh

96

nghiệp KH&CN. Một trong những rào cản đáng kể là yêu cầu khắt khe về điều

kiện được công nhận. Cụ thể, các tổ chức, cá nhân mong muốn thành lập doanh

nghiệp theo mô hình này buộc phải hoàn tất quá trình ươm tạo công nghệ, đồng

thời chứng minh năng lực làm chủ các kết quả nghiên cứu KH&CN mà họ sở hữu

hoặc có quyền sử dụng hợp pháp. Các kết quả này phải thuộc các lĩnh vực được

khuyến khích như công nghệ thông tin – truyền thông (đặc biệt là phần mềm máy

tính), hay công nghệ sinh học – trong đó ưu tiên các ứng dụng phục vụ cho nông

nghiệp, thủy sản và bảo vệ môi trường. Chính yêu cầu cao về năng lực công nghệ

và minh chứng sở hữu kết quả nghiên cứu đã khiến cho tỷ lệ doanh nghiệp được

công nhận trong thực tế còn rất khiêm tốn so với tiềm năng.

b) Thực trạng về các chương trình kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ của chính quyền địa phương

các tỉnh vùng Tây Nguyên

Tỉnh Kon Tum đã thể hiện quyết tâm thúc đẩy phát triển DNKH&CN thông

qua việc xây dựng và triển khai nhiều kế hoạch cụ thể nhằm hỗ trợ hình thành và

phát triển DNKH&CN trên địa bàn. Trên cơ sở tham mưu của Sở KH&CN,

UBND tỉnh Kon Tum đã ban hành Kế hoạch số 1587/KH-UBND ngày 08/5/2020

với mục tiêu hỗ trợ phát triển DNKH&CN đến năm 2025. Tiếp đó, ngày

10/9/2021, Kế hoạch số 3232/KH-UBND cũng được ban hành nhằm triển khai

thực hiện Quyết định số 1158/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình

phát triển thị trường KH&CN quốc gia đến năm 2030. Hai kế hoạch này hướng tới

việc xây dựng thị trường KH&CN phù hợp với năng lực hiện có của tỉnh Kon

Tum về trình độ phát triển, nguồn lực con người và hạ tầng kỹ thuật, từ đó góp

phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Ngoài ra, để triển khai Chiến

lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030 theo Quyết định số 569/QĐ-TTg

ngày 11/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Kon Tum cũng đã ban hành Kế

hoạch số 2629/KH-UBND ngày 15/8/2023. Kế hoạch này xác định ba mục tiêu

trọng tâm: 1) Tăng cường vai trò đóng góp của KH&CN và đổi mới sáng tạo vào

tăng trưởng kinh tế, thông qua các hoạt động nghiên cứu, phát triển công nghệ, đổi

mới quy trình sản xuất và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp; 2) Phát triển

97

năng lực nghiên cứu và làm chủ các công nghệ tiên tiến, với mục tiêu đẩy mạnh

chuyển giao và ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn. Một số lĩnh vực ưu tiên được xác

định bao gồm: nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ số,

công nghệ chế biến nông – lâm sản, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp thông minh

và dược liệu; 3) Đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2030, bao gồm việc có khoảng 05

DNKH&CN được hình thành; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo

đạt từ 03–05%; và từ 03–05 sáng chế được bảo hộ, thương mại hóa thành công.

Bên cạnh đó, Sở KH&CN tỉnh Kon Tum đã ban hành Kế hoạch số 14/KH-

SKHCN ngày 02/2/2021 về việc “Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN năm

2021”. Mục đích nâng cao nhận thức của cộng đồng thông qua truyền thông về vai

trò, vị trí của DNKH&CN đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; Hỗ trợ hình

thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh theo

mục tiêu xác định tại Kế hoạch số 1587/KH-UBN ngày 08 tháng 5 năm 2020 của

Ủy ban nhân dân tỉnh về “hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn

tỉnh Kon Tum đến năm 2025”.

Trong giai đoạn 2021-2022, đối mặt với thách thức của đại dịch Covid-19,

việc ứng dụng thành tựu KH&CN, đặc biệt là công nghệ số vào sản xuất kinh

doanh là đặc biệt quan trọng. Vì vậy, ngày 02/3/2022, Sở KH&CN tỉnh ban

hành Kế hoạch số 22/KH-SKHCN về “hỗ trợ phát triển DNKH&CN tỉnh Kon

Tum năm 2022”. Theo đó, nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức của cộng đồng

thông qua truyền thông về vai trò, vị trí của DNKH&CN đối với phát triển kinh

tế - xã hội của tỉnh; Tiếp tục hỗ trợ hình thành và phát triển doanh nghiệp

KH&CN trên địa bàn tỉnh theo mục tiêu xác định tại Kế hoạch số 1587/KH-

UBND ngày 08 tháng 5 năm 2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh về hỗ trợ phát

triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Kon Tum đến năm

2025.Việc triển khai thực hiện các chính sách trên đã được chính quyền tỉnh

Kon Tum thực hiện từ việc lên kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra,

giám sát, đánh giá quá trình thực hiện và đã đạt một số kết quả nhất định.

Tỉnh Gia Lai đã tích cực triển khai thực hiện Nghị định số 13/2019/NĐ-CP

ngày 01/02/2019 của Chính phủ về DNKH&CN thông qua việc ban hành các

98

chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển lực lượng doanh nghiệp hoạt động trên

nền tảng KH&CN. Theo đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Kế hoạch số

04/KH-UBND ngày 04/01/2022 về phát triển DNKH&CN trên địa bàn tỉnh đến

năm 2025. Mục tiêu của kế hoạch là tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả các quy

định tại Nghị định 13/2019/NĐ-CP, từ khâu chứng nhận đến hỗ trợ phát triển

DNKH&CN. Kế hoạch cũng nhấn mạnh đến việc khuyến khích các doanh nghiệp

tư nhân, đặc biệt là các start-up, mạnh dạn tham gia hoạt động nghiên cứu và phát

triển công nghệ trong mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, qua đó định hướng phát triển

theo mô hình DNKH&CN. Việc này nhằm từng bước hình thành đội ngũ doanh

nghiệp tiên phong, có khả năng ứng dụng hiệu quả KH&CN để nâng cao năng lực

cạnh tranh, thích ứng với xu hướng phát triển bền vững. Đồng thời, kế hoạch cũng

cụ thể hóa các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh được giao tại Nghị

định số 13/2019/NĐ-CP thành các hoạt động thiết thực, có tính khả thi cao, hướng

đến mục tiêu xây dựng lực lượng DNKH&CN có vai trò dẫn dắt trong hệ sinh thái

ĐMST của địa phương.

Mục tiêu của Tỉnh phấn đấu đến năm 2025, có 15 doanh nghiệp KH&CN được

hình thành và phát triển (trong khi tính đến năm 2023 Tỉnh mới có 05 DNKH&CN,

đạt 33,3% so với kế hoạch đặt ra) và hướng dẫn 100% doanh nghiệp được cấp Giấy

chứng nhận DNKH&CN thụ hưởng các ưu đãi theo quy định của pháp luật.

Tại tỉnh Đắk Nông, để hỗ trợ các DNKH&CN phát triển, chính quyền tỉnh

Đắk Nông ban hành “Kế hoạch phát triển DNKH&CN, giai đoạn 2021-2025”.

Trong đó, tổng kinh phí dự cho việc thực hiện kế hoạch phát triển DNKHCN

khoảng 8,45 tỷ đồng: (trong đó, kinh phí sự nghiệp KH&CN là: 5,45 tỷ đồng).

Mục tiêu của kế hoạch là đến năm 2025, tỉnh Đắk Nông phấn đấu sẽ hỗ trợ hình

thành và phát triển 10 doanh nghiệp KH&CN (đến 2023, mới có 01 DNKHCN,

chiếm 10% so với mục tiêu đặt ra, tuy nhiên 01 DNKH&CN này hoạt động không

hiệu quả). Kết quả phỏng vấn cán bộ quản lý DNKH&CN ở Tỉnh (hộp 7), cho

rằng: tỉnh đã thực hiện những chính sách rất thiết thực để thúc đẩy doanh nghiệp

KH&CN hình thành ở địa bàn tỉnh. Đặc biệt, “các doanh nghiệp KH&CN sẽ được

hỗ trợ kinh phí nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ thông qua các nhiệm vụ

99

KH&CN cấp tỉnh, để đa dạng hóa sản phẩm hoặc đổi mới, phát triển công

nghệ…” [PVS-LĐSKHCN]. Ngoài các chính sách hỗ trợ, các đơn vị chức năng

trên địa bàn tỉnh cũng tích cực vào cuộc nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

DNKH&CN tiếp cận và tham gia các chương trình, đề án KH&CN ở cả cấp quốc

gia và địa phương. Thông qua đó, các doanh nghiệp không chỉ có cơ hội nâng cao

năng lực nghiên cứu, phát triển và làm chủ công nghệ, mà còn có thể thực hiện

giải mã công nghệ, ứng dụng vào quá trình sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là đối

với các sản phẩm có nguồn gốc từ kết quả KH&CN. Chia sẻ từ thực tiễn, bà

N.T.T.D – Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp & Dịch vụ Long Việt cho biết:

“Chúng tôi rất kỳ vọng rằng khi các đề tài nghiên cứu được triển khai hiệu quả, sẽ

tạo điều kiện để DN có cơ hội tiếp cận và ứng dụng các công nghệ tiên tiến vào

sản xuất, không chỉ góp phần cải thiện quy trình sản xuất mà còn đóng vai trò

quan trọng trong việc nâng cao chất lượng hàng hóa và tăng cường năng lực cạnh

tranh của sản phẩm trên thị trường” [PVS – HTX]. Kế hoạch cũng chỉ rõ sự ưu

tiên, lựa chọn doanh nghiệp KH&CN thực hiện đổi mới công nghệ thông qua

Chương trình khuyến công của Trung ương và địa phương.

Tỉnh Lâm Đồng công nhận hai chuỗi liên kết giá trị và hỗ trợ vốn đầu tư, cụ thể:

1) Trong khuôn khổ Dự án “Nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa của

các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2016–2020”, được ban hành

theo Quyết định số 225/QĐ-UBND ngày 04/02/2016, đã có 11 doanh nghiệp tham

gia và được hỗ trợ kinh phí 60 triệu đồng/doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp

có sản phẩm đáp ứng yêu cầu và đủ điều kiện tham gia thị trường còn được nhận

thêm 20 triệu đồng/sản phẩm sau khi vượt qua quy trình thẩm định do cơ quan chức

năng thực hiện. Một ví dụ nổi bật là Ladophar, không chỉ tham gia chương trình mà

còn đạt Giải thưởng Chất lượng quốc tế khu vực châu Á – TBD vào năm 2016

[Nguồn: Sở KH&CN tỉnh Lâm Đồng] ; 2) UBND tỉnh cũng đã ban hành Quyết định

số 2323/QĐ-UBND ngày 26/10/2016 về “Chương trình hỗ trợ KH&CN cho doanh

nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016–2020”. Chương trình này tập trung vào việc

hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu, cải tiến quy

100

trình sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh thông qua các công cụ KH&CN.

Tỉnh Đắk Lắk đã ban hành Kế hoạch số 74/KH-UBND ngày 10/5/2023 về

“phát triển DN công nghệ số giai đoạn 2023–2025, định hướng đến năm 2030”.

Kế hoạch được xây dựng với mục tiêu tổng thể là hỗ trợ hình thành và phát triển

hệ sinh thái số tại địa phương. Trong đó, một nội dung quan trọng được lồng ghép

là định hướng phát triển DNKH&CN như một bộ phận nòng cốt trong hệ sinh thái

đổi mới sáng tạo. Việc phát triển DNKH&CN được xem là giải pháp thiết thực để

đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, nâng cao năng lực làm chủ công nghệ

và từ đó gia tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp địa phương. Tuy nhiên,

con số 09 doanh nghiệp KH&CN (năm 2023) của tỉnh đã được công nhận là khá

khiêm tốn. Vì vậy, trong thời gian tới, các ngành, cơ quan chức năng cần tiếp tục

thực hiện những chính sách thiết thực để thúc đẩy các doanh nghiệp có tiềm năng

trở thành doanh nghiệp KH&CN. Bên cạnh đó quan tâm đến công tác tuyên

truyền, hướng dẫn, tư vấn các DN, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp,

ngành về tầm quan trọng của phát triển doanh nghiệp KH&CN. Mặt khác, cần có

cơ chế đặc thù hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN đã hình thành, phát triển bền vững,

hạn chế những rào cản để các doanh nghiệp tiềm năng tiến tới thành lập doanh

nghiệp KH&CN.

c) Thực trạng về tổ chức, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát, đánh giá quá

trình triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng

Tây Nguyên

Trên cơ sở các kế hoạch chương trình đã được ban hành, Chính quyền các

tỉnh vùng Tây Nguyên đã triển khai tổ chức thực

hiện trên thực tiễn đã có một số kết quả nhất định,

tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Kết quả

đạt được so với kế hoạch đặt ra là vô cùng ít ỏi và

khiêm tốn. Tại tỉnh Kon Tum, Qúa trình triển khai

tổ chức chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển

Hộp 6. “Cần nghiên cứu điều chỉnh chính sách hỗ trợ DNKH&CN thiết thực hơn; hỗ trợ liên kết hợp tác đầu tư nghiên cứu, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm mới …” [Kết quả PVSLĐS-Sở KH&CN]. doanh nghiệp KH&CN được tổ chức triển khai

theo các bước sau: 1) Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến Nghị định số 13/2019/NĐ-

101

CP về doanh nghiệp KH&CN; Kế hoạch số 1587/KH-UBND ngày 08/5/2020 của

UBND tỉnh Kon Tum về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn tỉnh

Kon Tum đến năm 2025; các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, ươm tạo và phát triển

doanh nghiệp KH&CN và kết quả triển khai nhiệm vụ thuộc Kế hoạch trên các

Trang thông tin điện tử các sở, ngành, địa phương, Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh và

xây dựng chuyên mục về doanh nghiệp KH&CN trên Trang thông tin điện tử Sở

Khoa học và Công nghệ; 2) Kiểm tra, hướng dẫn hoạt động của các doanh nghiệp

KH&CN đã được cấp Giấy chứng nhận nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và hỗ

trợ doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động theo các cơ chế, chính sách hiện

hành; 3) Rà soát, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân có sử dụng kết quả KH&CN theo

quy định tại điểm 2.3, khoản 2 phần II Kế hoạch số 1587/KH-UBND ngày 08

tháng 5 năm 2020 của UBND tỉnh về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học

và công nghệ trên địa bàn tỉnh Kon Tum đến năm 2025 để thành lập doanh

nghiệp KH&CN (phấn đấu thành lập được ít nhất 01 doanh nghiệp khoa học và

công nghệ); 4) Tổ chức lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cơ bản cho các doanh

nghiệp KH&CN, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp KH&CN cho các tổ chức, cá nhân

có hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KH&CN có tiềm năng phát triển thành doanh

nghiệp KH&CN; 5) Thông báo và tổ chức cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp

tham gia các sự kiện kết nối cung - cầu công nghệ (Techmart, Techfest,

Techdemo), hội nghị chuyển giao kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ, triển

lãm sáng chế, triển lãm sản phẩm KH&CN có khả năng thương mại hóa. Báo cáo

tình hình thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN của Tỉnh chỉ rõ những khó

khăn, rào cản trong việc phát triển DNKH&CN.

Tỉnh Gia Lai đã triển khai tổ chức thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN

theo các bước sau: 1) Thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ; 2) Điều tra, khảo sát, tư vấn các doanh nghiệp có

tiềm năng trở thành DNKH&CN; 3) Hình thành các tổ chức tư vấn phát triển

doanh nghiệp KH&CN; 4) Hướng dẫn các DNKH&CN thụ hưởng các chính sách

ưu đãi nói chung và trong lĩnh vực KH&CN nói riêng; 5) Tôn vinh khen thưởng các

DNKH&CN xuất sắc; 6) Công bố công khai quy trình, thủ tục, mẫu biểu đăng ký

102

chứng nhận DNKH&CN trên trang Thông tin điện tử của cơ quan; Chủ trì thẩm

định hồ sơ cấp; cấp thay đổi nội dung, cấp lại; thu hồi, hủy bỏ hiệu lực Giấy chứng

nhận DNKH&CN; Hàng năm báo cáo tình hình đăng ký chứng nhận DNKH&CN

và kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNKH&CN tại địa phương về Cục

Phát triển thị trường và DNKH&CN; 7) Tiếp nhận hồ sơ, tham mưu cho Hội đồng

Thi đua - Khen thưởng tỉnh đề cử DNKH&CN tiêu biểu để Bộ Khoa học và Công

nghệ vinh danh; Phối hợp Ban Thi đua - Khen thưởng hoàn thiện hồ sơ đề nghị

UBND tỉnh tặng Bằng khen cho các tổ chức, doanh nghiệp, doanh nhân đủ điều

kiện. 8) Tổ chức thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong việc

cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ và hoạt động của các

doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong phạm vi quản lý của mình theo quy

định của pháp luật; 9) Phối hợp với các cơ quan tiếp nhận hồ sơ của người sử

dụng đất khi xác định diện tích đất được miễn, giảm cho mục đích KH&CN; 10)

Thường xuyên rà soát, cập nhật thông tin tuyên truyền và triển khai các cơ chế,

chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho ươm tạo và phát triển DNKHCN trên địa

bàn tỉnh.

Mặc dù chính quyền tỉnh Gia Lai đã có nhiều cố gắng trong thực hiện các

chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN cũng như các doanh nghiệp khởi

nghiệp ĐMST (tiềm năng của DNKH&CN), nhưng số lượng các doanh nghiệp

KH&CN được hình thành và công nhận vẫn vô cùng ít ỏi ( tính đến năm 2023 có

05 DNKH&CN được cấp Giấy chứng nhận). Khi được hỏi về những khó khăn,

vướng mắc về thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở tỉnh Gia

Lai, lãnh đạo sở KH&CN tỉnh Gia Lai đã cho rằng năng lực của DNKHCN là một

trong những rào cản đến sự phát triển doanh nghiệp KHCN ở tỉnh (hộp 2). Kết quả

khảo sát đối với 05 doanh nghiệp KH&CN ở tỉnh, 80% trong 05 DNKHCN trả lời:

“Các quy định liên quan đến doanh nghiệp KH&CN ở các ngành, lĩnh vực chưa

thống nhất dẫn tới việc doanh nghiệp đã được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp

KH&CN chưa được hưởng ưu đãi theo quy định” và “doanh nghiệp KH&CN gặp

nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn ưu đãi tín dụng”. [Nguồn: kết quả phiếu khảo

sát của tác giả]. 100% số DN được hỏi cho rằng bên cạnh thuận lợi cũng có những

103

thách thức đó là: “Doanh nghiệp suôn sẻ hơn nếu sở hữu các văn bằng bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ hoặc khi kết quả KH&CN được hình thành từ các chương

trình KH&CN do Nhà nước đầu tư, vốn có quy trình thực hiện rõ ràng và hệ thống

hồ sơ, tài liệu lưu trữ đầy đủ. Nhưng nó là thách thức, khó khăn nếu kết quả

KH&CN do chính doanh nghiệp tự đầu tư khi trình tự thực hiện và hồ sơ nghiên

cứu không thực hiện đầy đủ và Cơ sở dữ liệu quốc gia cung cấp thông tin về nhu

cầu công nghệ chưa thuận lợi trong hoạt động tìm kiếm và chuyển giao công

nghệ”. [Nguồn: phiếu khảo sát của tác giả đối với DNKHCN]. Qua kết quả khảo

sát đối với các doanh nghiệp KH&CN của tỉnh, 100% các ý kiến đều cho rằng:

“cần phải hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia nơi cung cấp thông tin về nhu cầu

cung - cầu công nghệ trong và ngoài nước” và “Cần có giải pháp cụ thể trong việc

tiếp cận nguồn ưu đãi tín dụng và chính sách miễn giảm thuế của các doanh

nghiệp KH&CN”. [Nguồn: Kết quả phiếu khảo sát của tác giả]

Tại tỉnh Đắk Nông có duy nhất 01 doanh nghiệp KH&CN, mặc dù hàng năm

Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Nông đều gửi công văn yêu cầu doanh

nghiệp báo cáo theo quy định. Tuy nhiên, từ năm 2019 - 2023 doanh nghiệp này

đã không thực hiện chế độ báo cáo. Căn cứ theo mục tiêu kế hoạch, việc thực hiện

chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN sẽ thực hiện qua các bước: 1) tuyên

truyền, phổ biến các chính sách liên quan đến hỗ trợ phát triển doanh nghiệp

KH&CN cho các DN trên địa bàn

tỉnh; 2) Tổ chức các buổi hội thảo,

hội nghị cung cấp thông tin, chuyển

giao kết quả nghiên cứu KH&CN; tổ

chức triển lãm các sáng chế, giải

pháp hữu ích, trưng bày các sản

phẩm KH&CN có thể thương mại

hóa giúp các doanh nghiệp nhỏ và

vừa hiểu thêm về DNKH&CN; 3)

Rà soát các doanh nghiệp tiềm năng

104

Hộp 7. Việc hỗ trợ hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN cũng sẽ được chú trọng. Trong đó, các nguồn kinh phí sẽ ưu tiên cho các nội dung cụ thể như: Tổ chức đào tạo, tập huấn các kiến thức về điều hành quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh; xây dựng và phát triển thương hiệu; hình thành và quản lý Quỹ phát triển KH&CN; chuyển giao công nghệ, đánh giá trình độ và năng lực công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. [Nguồn: PVS-LĐSKHCN] để khuyến khích các DN này phấn

đấu đủ điều kiện để đăng ký là DNKH&CN, theo đó, các cơ quan chức năng tuyên

truyền, phổ biến các lợi ích và các chính sách ưu đãi đối với DNKH&CN.

Kết quả phỏng vấn cán bộ quản lý DNKH&CN ở Tỉnh (hộp 7), cho rằng:

tỉnh đã thực hiện những chính sách rất thiết thực để thúc đẩy doanh nghiệp

KH&CN hình thành ở địa bàn tỉnh. Đặc biệt, “các doanh nghiệp KH&CN sẽ được

hỗ trợ kinh phí nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ thông qua các nhiệm vụ

KH&CN cấp tỉnh, để ứng dụng công nghệ hoặc đổi mới sản phẩm…” [PVS-

LĐSKHCN]. Ngoài các chính sách hỗ trợ, các đơn vị chức năng trên địa bàn tỉnh

đóng vai trò cầu nối, tạo điều kiện để DNKH&CN tham gia vào các chương trình,

đề án KH&CN ở cả cấp quốc gia và địa phương. Trong quá trình thực hiện các

chính sách ưu đãi, chính quyền tỉnh Đắk Nông đã chủ động xây dựng và triển khai

kế hoạch nhằm khuyến khích các start-up có định hướng nghiên cứu khoa học,

ứng dụng công nghệ trong nhiều lĩnh vực khác nhau phát triển theo mô hình

DNKH&CN.

Quá trình thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở tỉnh đã

thực hiện công tác tuyên truyền, hướng dẫn cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh

doanh theo mô hình doanh nghiệp KH&CN. Tuy nhiên, tính đến năm 2023, số

lượng doanh nghiệp KH&CN tại tỉnh Đắk Nông được 01 doanh nghiệp KH&CN

(Công ty TNHH Thực phẩm công nghệ cao Nasa) nhưng hoạt động không hiệu

quả nên tỉnh cũng chưa hỗ trợ được nhiều. Với đặc thù của tỉnh, Đắk Nông mới

chỉ có một trường cao đẳng, không có trường đại học, không có viện nghiên cứu.

Khả năng các doanh nghiệp phát triển thành doanh nghiệp KH&CN gặp nhiều khó

khăn do hầu hết đều là các DN nhỏ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và thu

mua nông sản. Trong khi đó, yêu cầu phải đạt tối thiểu 30% tổng doanh thu thì các

doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tại Đắk Nông khó đạt được.

Tỉnh Lâm Đồng đã chủ động triển khai các giải pháp hỗ trợ khởi nghiệp sáng

tạo như một bước đi nền tảng nhằm hình thành và phát triển lực lượng

DNKH&CN trong tương lai. Một trong những hoạt động tiêu biểu là việc hiện

thực hóa Chương trình hỗ trợ KH&CN cho doanh nghiệp giai đoạn 2016–2020,

105

theo Quyết định số 2323/QĐ-UBND ngày 26/10/2016, thông qua văn bản ký kết

giữa Sở KH&CN và Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh vào ngày 28/02/2019. Trong

khuôn khổ chương trình, hoạt động ươm tạo công nghệ đã được triển khai tại 5

doanh nghiệp chế biến, góp phần thúc đẩy đổi mới quy trình sản xuất. Đồng thời,

địa phương cũng ghi nhận sự hợp tác quốc tế đáng chú ý như việc ký kết hợp đồng

khảo nghiệm chế phẩm sinh học mới giữa nhóm doanh nghiệp Hàn Quốc, Trường

Đại học Đà Lạt và Công ty TNHH TM-DV-SX Tượng Sơn. Những đợt trao đổi

kinh nghiệm song phương giữa doanh nghiệp Hàn Quốc và doanh nghiệp Lâm

Đồng trong giai đoạn 2017–2019 đã tạo ra nền tảng vững chắc cho hoạt động

chuyển giao và ứng dụng công nghệ. Bên cạnh đó, Trung tâm Hỗ trợ Khởi nghiệp

trực thuộc Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh đã phối hợp với Trung tâm Ứng dụng

KH&CN (thuộc Sở KH&CN) triển khai các hoạt động vườn ươm doanh nghiệp và

sáng tạo kỹ thuật theo Quyết định số 740/QĐ-UBND ngày 18/4/2017 của UBND

tỉnh. Mô hình vườn ươm không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ mới

mà còn thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo gắn với ứng dụng

KH&CN tại địa phương. [Nguồn: Sở KH&CN tỉnh Lâm Đồng].

Một cán bộ quản lý doanh nghiệp KH&CN kiến nghị: “Bổ sung thêm một số

thủ tục hành chính và biểu mẫu liên quan đến đăng ký hỗ trợ theo Nghị định số

13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 về DNKH&CN và Quyết định số 2323/QĐ-

UBND ngày 26/10/2016 của UBND tỉnh Lâm Đồng. Đồng thời, việc áp dụng đồng

bộ và nhất quán giữa các luật liên

quan như Luật Thuế, Luật Doanh

nghiệp, Luật Đầu tư và Luật Ngân

sách nhà nước là điều kiện cần thiết

để xây dựng một môi trường phát

triển KH&CN ổn định và bền vững

tại địa phương” [Nguồn: PVS-

CBSKHCN]. Khi được hỏi về thực

hiện chính sách ươm mầm khởi

triển DNKH&CN, 01 cán bộ của Hiệp hội Doanh nghiệp Tỉnh được hỏi cho rằng:

106

Hộp 5. Hộp 8. “Một trong những nguyên nhân dẫn đến các doanh nghiệp KH&CN hoạt động chưa hiệu quả đó là: chưa xây dựng tốt mối quan hệ, liên kết giữa cơ quan quản lý nhà nước, DNKH&CN, nhà đầu tư; nợ xấu tăng; thủ tục hành chính con rườm rà; chưa có cơ chế, lãi suất rõ ràng; còn nhiều hạn chế trong nghiên cứu, sáng chế, bản quyền, tập quán truyền thống canh tác vô cơ, tự phát ứng dụng công nghệ, vốn…”[PVS- cản rào LDDNKH&CN Lâm Đồng] nghiệp ĐMST, tiềm năng cho phát

“Xem xét lại cơ chế trích lập Quỹ KH&CN tại doanh nghiệp, cụ thể là tỷ lệ trích

lập trên 10% LNTT, để phù hợp hơn với năng lực tài chính của các DN vừa và

nhỏ. Đồng thời, cũng cần cập nhật và bổ sung các nội dung cụ thể trong Công văn

số 1048/BKHCN-PTTTDN ngày 16/4/2019 của Bộ KH&CN về hướng dẫn cấp

giấy chứng nhận DNKH&CN theo Nghị định 13/2019/NĐ-CP, cũng như trong văn

bản hợp tác ký ngày 28/02/2019 giữa Sở KH&CN và Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh

Lâm Đồng” [Nguồn: PVS-CBHHDN].

Tỉnh Lâm Đồng đã chú trọng triển khai các chương trình đào tạo kỹ thuật

nhằm nâng cao năng lực nội tại cho doanh nghiệp. Các nội dung đào tạo được thiết

kế đa dạng, tập trung vào các kỹ năng then chốt như: quản lý năng suất – chất

lượng, vận hành hệ thống quản lý, ứng dụng công cụ cải tiến năng suất, truy xuất

nguồn gốc sản phẩm, xây dựng và bảo hộ thương hiệu, đăng ký mã số – mã vạch,

mã QR, chỉ dẫn địa lý,... Thông qua các chương trình này, nhiều doanh nghiệp địa

phương đã đủ điều kiện được cấp quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận cho các

sản phẩm chủ lực như rau, hoa, cà phê, chè – những ngành hàng có thế mạnh của

tỉnh Bên cạnh đó, địa phương cũng đã triển khai hiệu quả mô hình đào tạo kỹ thuật

theo nhu cầu thực tế từ phía doanh nghiệp, theo hình thức đặt hàng, nhằm bảo đảm

nội dung đào tạo sát với nhu cầu sản xuất – kinh doanh. Đặc biệt, tỉnh Lâm Đồng

đã thiết lập quan hệ hợp tác với Tổ chức Phát triển và Hợp tác Kinh tế (PUM – Hà

Lan) và Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh, trong đó mỗi năm trung bình có khoảng 10–

15 DN được bảo lãnh và hỗ trợ tham gia các chương trình xét duyệt chuyên sâu.

Thông qua sự phối hợp này, địa phương không chỉ hình thành được những hạt

nhân KH&CN trong khối DN sáng tạo mà còn từng bước tháo gỡ những vướng

mắc kỹ thuật, công nghệ nhờ sự tư vấn trực tiếp từ các chuyên gia giàu kinh

nghiệm đến từ PUM. Để tăng cường công tác quản lý và góp phần giúp tổ chức,

cá nhân thực hiện đúng quy định về phát triển doanh nghiệp KH&CN, trong

năm 2022-2023, Sở KH&CN đã chủ trì, phối hợp với các sở, ngành, địa

phương tiến hành 45 cuộc thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình thực

hiện chính sách phát triển doanh nghiệp nói chung và DNKH&CN nói riêng và

107

tham gia Đoàn kiểm tra liên ngành của Ban Chỉ đạo 389 tỉnh Lâm Đồng. Hoạt

động ứng dụng, chuyển giao KH&CN được tăng cường. Trong năm 2022-2023,

hoạt động thông tin KH&CN được duy trì thường xuyên thông qua việc xuất bản

và phát hành trực tuyến đến khoảng 06 số Bản tin KHCN và Doanh nghiệp Lâm

Đồng trên Trang thông tin điện tử của Sở.

3.3. Đánh giá sự tác động của hệ thống chính sách đến phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ từ thực tiễn vùng Tây Nguyên

3.3.1. Chính sách tín dụng

Trong việc thúc đẩy phát triển doanh nghiệp KH&CN, chính sách tín dụng

đóng vai trò then chốt. Luật KH&CN năm 2013 đã quy định rõ các cơ chế khuyến

khích tài chính đối với tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động nghiên cứu và

phát triển công nghệ. Theo đó, các hình thức hỗ trợ có thể bao gồm ưu đãi không

hoàn lại hoặc cấp vốn vay dài hạn cho các nghiên cứu KH&CN; đồng thời, cho

phép triển khai các gói tín dụng ưu đãi dành cho các dự án đầu tư nhằm phát triển

tiềm lực KH&CN, cũng như các khoản vay có thời hạn để phục vụ quá trình

thương mại hóa kết quả nghiên cứu. [37] Kết quả khảo sát trên 120 doanh nhân có

một số doanh nhân trả lời đồng ý ở vùng Tây Nguyên về ý kiến đánh giá sự tác

động của chính sách tín dụng đến phát triển doanh nghiệp KH&CN theo bảng 3.2.

Bảng 3.2: Đánh giá sự tác động của chính sách tín dụng đến phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

Tiêu chí Số người trả lời (Đơn vị: %) Tỷ lệ đồng ý%

55/120 45,8%

65/120 54,2%

50/120 41,6% Ưu đãi, ưu tiên cho doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh nghiệp KH&CN Ưu đãi, ưu tiên cho DN đã được công nhận là doanh nghiệp KH&CN Có chính sách tín dụng bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp

[Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án]

Bảng trên cho thấy có 45,8 % người được hỏi cho rằng chính sách tín dụng

có sự ưu đãi, ưu tiên cho các doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh nghiệp

KH&CN; 54,2 % người trả lời % người trả lời cho rằng có sự ưu đãi, ưu tiên cho

108

các doanh nghiệp đã được công nhận là doanh nghiệp KH&CN; 41,6% cho rằng

có chính sách tín dụng bình đẳng như nhau giữa các loại hình doanh nghiệp. Kết

quả này cho thấy, có sự chênh lệch về chính sách tín dụng trong ưu đãi đối với các

loại hình doanh nghiệp, thể hiện sự chưa quan tâm đến các doanh nghiệp Star-up

và Spin-off là các doanh nghiệp tiềm năng có khả năng cao phát triển thành doanh

nghiệp KH&CN.

3.3.2. Chính sách thuế

Chính sách thuế được xem là một trong những công cụ pháp lý cơ bản

nhằm thúc đẩy hoạt động KH&CN, đã được quy định rõ trong Luật KH&CN

năm 2013. Nhằm khuyến khích phát triển và phát huy vai trò là động lực then

chốt của KH&CN trong tăng trưởng kinh tế, Nhà nước đã thiết lập một hệ thống

các ưu đãi thuế dành cho các DN tham gia vào lĩnh vực này. [37] Kết quả khảo

sát cho thấy có 45 % người được hỏi cho rằng chính sách thuế có sự ưu đãi, ưu

tiên cho các doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh nghiệp KH&CN; 38,2 %

người trả lời cho rằng có sự ưu đãi, ưu tiên cho các doanh nghiệp đã được công

nhận là doanh nghiệp KH&CN; 40,0% cho rằng có chính sách thuế bình đẳng như

nhau giữa các loại hình doanh nghiệp. Kết quả này cho thấy, các ưu đãi thuế hiện

hành nhìn chung được áp dụng tương đối đồng đều giữa các loại hình DN.

Có thể thấy sự tác động của chính sách thuế đến sự phát triển của doanh nghiệp

KH&CN là một trong vấn đề rất đáng quan tâm trong hệ thống chính sách đối với

hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong các doanh nghiệp. Điều

64 của Luật KH&CN năm 2013 đã thiết lập khung pháp lý rõ ràng liên quan đến hệ

thống chính sách thuế áp dụng trong lĩnh vực KH&CN. Cụ thể, luật quy định các ưu

đãi thuế đối với tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực này, bao gồm thuế

TNCN, thuế TNDN cùng với các chính sách miễn, giảm thuế khác gắn với hoạt động

nghiên cứu, phát triển, ứng dụng và thương mại hóa kết quả KH&CN.

3.3.3. Chính sách ưu đãi về sử dụng đất

Việc tạo điều kiện tiếp cận, sử dụng đất ổn định, lâu dài và có hiệu quả cho

các tổ chức, cá nhân tham gia nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng KH&CN là yếu tố

then chốt góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của DNKH&CN nói riêng và

109

hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nói chung. Kết quả khảo sát thực tiễn dưới đây phản

ánh rõ nhận thức và đánh giá của các cá nhân, tổ chức về chính sách đất đai trong

lĩnh vực KH&CN:

Bảng 3.3: Đánh giá về tác động của chính sách đất đai đối với phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

Tiêu chí Số người trả lời Tỷ lệ đồng ý%

35/120 29,2% Ưu đãi, ưu tiên cho doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh nghiệp KH&CN

Ưu đãi, ưu tiên cho DN đã được công nhận 42/120 35,0% là doanh nghiệp KH&CN

37/120 30,8% Có chính sách thuế bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp

[Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án]

Kết quả bảng 3.3 cho thấy có 29,2 % người được hỏi cho rằng chính sách đất

đai có sự ưu đãi, ưu tiên cho các doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh nghiệp

KH&CN; 35,0 % người trả lời % người trả lời cho rằng có sự ưu đãi, ưu tiên cho

các doanh nghiệp đã được công nhận là doanh nghiệp KH&CN; 30,8 % cho rằng

có chính sách đất đai bình đẳng như nhau giữa các loại hình doanh nghiệp. Hiện

nay Nhà nước đã ban hành khá nhiều chính sách đất đai nhằm ưu đãi đối với các

doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST và các doanh nghiệp KH&CN. Nhằm tạo điều

kiện thuận lợi cho DNKH&CN, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực nông nghiệp công nghệ cao, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

123/2017/NĐ-CP ngày 14/11/2017, sửa đổi và bổ sung một số điều liên quan đến

các quy định về thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và thuê mặt nước. Nghị định

này quy định chi tiết các điều kiện để DNKH&CN được xem xét miễn, giảm chi

phí thuê đất – một chính sách mang tính hỗ trợ thiết thực đối với các doanh nghiệp

cần diện tích đất lớn để triển khai các mô hình nghiên cứu, sản xuất ứng dụng

công nghệ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy mức độ tiếp cận và thụ hưởng các ưu đãi

đất đai từ nghị định này ở các địa phương thuộc khu vực Tây Nguyên vẫn còn khá

110

hạn chế. Nhiều DNKH&CN tại đây gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin,

hoàn thiện hồ sơ theo quy định, hoặc thiếu sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng

trong quá trình triển khai chính sách.

3.3.4. Chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị

Hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị nghiên cứu được xem là những yếu tố đầu

vào mang tính nền tảng, đóng vai trò thiết yếu trong quá trình hình thành và phát

triển DNKH&CN. Các hạng mục như không gian làm việc, phòng thí nghiệm,

máy móc chuyên dụng, công cụ phục vụ hoạt động R&D không chỉ hỗ trợ doanh

nghiệp hiện thực hóa ý tưởng công nghệ mà còn là điều kiện cần để chuyển đổi

sang mô hình DNKH&CN theo qui định hiện hành. Vì vậy, chính sách đầu tư hạ

tầng và trang thiết bị đã và đang được chú trọng phổ biến, nhằm khuyến khích

doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực KH&CN. Dưới đây là kết quả khảo sát về mức

độ tiếp cận và hiệu quả thực thi của chính sách đầu tư hạ tầng và trang thiết bị

trong cộng đồng DNKH&CN:

Bảng 3.4: Đánh giá về tác động của chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị đến phát triển doanh nghiệp KH&CN

Số người Tỷ lệ Tiêu chí trả lời đồng ý%

Ưu đãi, ưu tiên cho doanh nghiệp tiềm năng trở 30/120 25,0% thành doanh nghiệp KH&CN

Ưu đãi, ưu tiên cho DN đã được công nhận là 32/120 26,7% doanh nghiệp KH&CN

Có chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị 31/120 25,8% bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp

[Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án]

Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và trang

thiết bị là chính sách hạn chế nhất cho các doanh nghiệp được tiếp cận để có

thể nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Đa số các đối tượng khảo sát

đều bày tỏ quan điểm rằng các ưu đãi liên quan đến đầu tư hạ tầng và trang

thiết bị hiện vẫn còn rất hạn chế, chưa thực sự tạo động lực rõ nét cho doanh

nghiệp trong việc triển khai các hoạt động KH&CN.

111

3.3.5. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ

Nhân lực KH&CN là yếu tố quyết định sự thành công của một doanh

nghiệp muốn trở thành doanh nghiệp KH&CN, nhân lực KH&CN ngày càng

đóng vai trò to lớn đối với sự phát triển doanh nghiệp KH&CN. Trong bối cảnh

Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự phát triển mạnh mẽ của trí tuệ nhân tạo (AI),

việc ứng dụng hiệu quả các thành tựu KH&CN vào sản xuất – kinh doanh đòi

hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, được trang bị đầy đủ kiến thức

chuyên môn, kỹ năng công nghệ và tư duy đổi mới. Do đó, việc xây dựng và

ban hành các chính sách hỗ trợ đào tạo, phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN

cho doanh nghiệp là một yêu cầu cấp thiết, không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu

ngắn hạn, mà còn mang ý nghĩa chiến lược cho sự phát triển dài hạn của khu

vực doanh nghiệp KH&CN. Kết quả khảo sát về mức độ tác động của chính

sách đào tạo nhân lực KH&CN đối với quá trình hình thành và phát triển

DNKH&CN được thể hiện tại Bảng 3.5 dưới đây.

Bảng 3.5: Đánh giá sự tác động của chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp trở thành doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

Tiêu chí Số người trả lời Tỷ lệ đồng ý%

65/120 54,1,0%

42/120 35,0%

51/120 42,5% Ưu đãi, ưu tiên cho doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh nghiệp KH&CN Ưu đãi, ưu tiên cho DN đã được công nhận là doanh nghiệp KH&CN Có chính sách đào tạo nhân lực KH&CN bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp

[Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án]

Kết quả ở bảng 3.5 cho thấy chính sách đào tạo nhân lực KH&CN là chính

sách cũng được Nhà nước quan tâm đến các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh

nghiệp khởi nghiệp ĐMST. Thực tế các doanh nghiệp được tiếp cận các chương

trình đào tạo của Nhà nước về khởi nghiệp ĐMST còn mang tính hình thức, bản

thân các doanh nghiệp cũng chưa thực sự quan tâm đến việc đào tạo nâng cao

năng lực KH&CN của doanh nghiệp mình.

3.3.6. Đánh giá sự tác động của tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về khoa học

và công nghệ đến phát triển doanh nghiệp KH&CN nói chung và vùng Tây

112

Nguyên nói riêng

a) Sự tác động từ cấp Chính phủ

Theo quy định tại Điều 73 của Luật KH&CN năm 2013, Chính phủ giữ vai

trò quản lý thống nhất các hoạt động KH&CN trên phạm vi cả nước. [37]

Sơ đồ 3.1. Sơ đồ hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về KH&CN ở Việt Nam

CHÍNH PHỦ

BỘ KHCN

Hội đồng chính sách KH&CN Quốc gia

BỘ, CQ NGANG BỘ, CQ THUỘC CHÍNH PHỦ (Quản lý ngành, lĩnh vực)

Các Vụ và đơn vị có chức năng QLNN KHCN

Sở KH&CN (Sở TTTT)

UBND TỈNH/TP TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

Các Sở (quản lý theo ngành, lĩnh vực)

UBND QUẬN, HUYỆN (hoặc UBND Phường, Xã theo mô hình mới)

Vụ đơn vị QLNN trực thuộc

Chú thích: Tư vấn

Đơn vị trực thuộc

Quản lý, chỉ đạo trực tiếp

Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ

Phòng có chức năng QLNN về KH&CN

Nguồn: Bộ KH&CN

Kết quả khảo sát thực tiễn cho thấy vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cụ thể,

65% số người được hỏi cho rằng công tác chỉ đạo và triển khai các chính sách hỗ

trợ phát triển DNKH&CN chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó, 55,3% phản ánh

rằng chưa có sự phân chia công việc rõ ràng giữa các cấp quản lý, dẫn đến việc

chồng chéo trách nhiệm và thiếu sự phối hợp hiệu quả trong quản lý nhà nước về

lĩnh vực này. Về mặt quốc tế hóa và thu hút nguồn lực, hơn một nửa (51,2%) cho

rằng công tác điều phối, thúc đẩy hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN và kêu

gọi nhân lực chất lượng cao tham gia vào doanh nghiệp vẫn còn mờ nhạt, thiếu

chiến lược cụ thể. Trong khi đó, 56% phản ánh công tác truyền thông chính sách

ưu đãi cho cộng đồng doanh nghiệp tiềm năng diễn ra chậm trễ, thiếu sự tiếp cận

thực chất. Đáng lưu ý, 72,1% ý kiến cho rằng hoạt động thanh tra, kiểm tra chính

sách KH&CN vẫn còn mang tính hình thức, phân tán và thiếu sự điều phối thống

113

nhất, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi. Đồng thời, một nửa

số người được hỏi (50,2%) cho rằng Chính phủ chưa có các phản ứng chính sách

đủ nhanh và phù hợp để giải quyết các rào cản phát triển DNKH&CN. Đặc biệt, có

tới 82% đánh giá rằng nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước dành cho việc

phát triển DNKH&CN còn quá khiêm tốn, chưa đủ sức tạo ra cú hích cho đổi mới

sáng tạo trong doanh nghiệp. Hệ quả là kết quả hoạt động thực tiễn của các

DNKH&CN vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và định hướng

chiến lược của quốc gia trong thời kỳ chuyển đổi số và phát triển bền vững.

[Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án].

b) Sự tác động từ cấp bộ, ngành

Theo kết quả khảo sát chuyên gia, có nhiều ý kiến phản ánh những bất cập trong

vai trò điều phối và quản lý nhà nước đối với phát triển DNKH&CN hiện nay. Cụ thể,

52,8% số chuyên gia cho rằng Bộ KH&CN, với vai trò được quy định tại Điều 74

Luật KH&CN năm 2013, [37] vẫn chưa thể hiện đầy đủ vai trò dẫn dắt trong việc tổ

chức triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN, cả về quy mô lẫn chất

lượng. Tốc độ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng DNKH&CN vẫn còn chậm, thiếu

sự đột phá cần thiết. Đáng chú ý, 65,1% ý kiến đánh giá rằng việc thực thi các chính

sách ưu đãi cho DNKH&CN còn nhiều trì trệ; trong khi cơ chế khuyến khích các tổ

chức KH&CN công lập chuyển đổi sang mô hình DNKH&CN vẫn chưa được triển

khai hiệu quả. Đồng thời, cũng chưa có các chính sách cụ thể nhằm tạo động lực hấp

dẫn cho các start-up và các tổ chức nghiên cứu KH&CN tích cực tham gia vào lĩnh

vực này. Về phân bổ ngân sách, có tới 85,3% chuyên gia cho rằng nguồn lực tài chính

từ ngân sách nhà nước dành cho DNKH&CN còn rất hạn chế. Việc xây dựng và thực

hiện các đề án xác lập tỷ trọng chi ngân sách cho khu vực DNKH&CN – vốn là cơ sở

cho công tác phân bổ dự toán hàng năm – chưa được quan tâm một cách thỏa đáng,

gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả triển khai chính sách. Bên cạnh đó, 78% ý kiến

phản ánh quy trình thẩm định thủ tục thành lập DNKH&CN vẫn còn nhiều rào cản

hành chính, thiếu sự cải tiến phù hợp với tinh thần đổi mới và nhu cầu thực tiễn. Sự

phối hợp liên bộ, đặc biệt giữa Bộ KH&CN và Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc xây

dựng dự toán chi đầu tư, cũng như thẩm định chủ trương đầu tư phát triển hạ tầng kỹ

114

thuật cho DNKH&CN, vẫn còn chậm trễ. Điều này dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong

thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, đặc biệt trong giám sát, đôn đốc việc sử dụng

kinh phí đúng mục tiêu tại các ngành và địa phương. Ngoài ra, 49,6% số người được

hỏi nhận định rằng công tác phối hợp giữa các bộ, ngành và các đơn vị phụ trách

DNKH&CN chưa đạt yêu cầu. Việc tổng hợp, báo cáo thông tin và thống kê số liệu

từ các bộ quản lý ngành về Bộ KH&CN còn thiếu kịp thời, ảnh hưởng đến công tác

điều phối, hoạch định chính sách tổng thể. Đáng lưu ý, 59,4% cho rằng nguồn kinh

phí dành cho hoạt động KH&CN, đặc biệt với nhóm start-up, chưa được sử dụng hiệu

quả; nhiều nội dung chi tiêu chưa phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn, đặc biệt là ở khu

vực Tây Nguyên – nơi đặc thù điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ KH&CN còn

nhiều hạn chế. [Nguồn: Số liệu khảo sát, tổng hợp của luận án].

c) Sự tác động từ chính quyền địa phương các tỉnh vùng Tây Nguyên

Qua khảo sát cho thấy: 51,2% nhận định rằng việc tiếp nhận, triển khai thực

hiện và tổ chức đánh giá hiệu quả các chính sách liên quan đến DNKH&CN vẫn diễn

ra chậm chạp, thiếu đồng bộ; đồng thời, công tác tổng hợp, phản hồi và báo cáo kết

quả thực hiện về Bộ KH&CN còn chưa được thực hiện kịp thời. Đáng chú ý, có tới

88% ý kiến cho rằng việc phân bổ và sử dụng vốn đầu tư dành cho phát triển

DNKH&CN vẫn còn nhiều bất cập, chưa đảm bảo hiệu quả thực tế và chưa tính đến

những yếu tố đặc thù cũng như tiến độ triển khai các kế hoạch phát triển DNKH&CN

tại khu vực Tây Nguyên – nơi có điều kiện kinh tế, xã hội và hạ tầng KH&CN còn

nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, 73% số người được hỏi đánh giá rằng hoạt động truyền

thông chính sách và công tác hướng dẫn triển khai các chương trình hỗ trợ

DNKH&CN – đặc biệt với nhóm doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu, đổi mới

công nghệ – vẫn chưa được quan tâm đúng mức tại cấp địa phương. 79% cho rằng

việc thanh tra, kiểm tra hoặc tham gia thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách

ưu đãi đối với các doanh nghiệp KH&CN còn chưa kịp thời, còn bị buông lỏng.

[Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án].

Mặc dù Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đã quy định

đầy đủ về vai trò, thẩm quyền của các cơ quan chính quyền địa phương trong lĩnh

vực KH&CN, tuy nhiên, thực tiễn tại khu vực Tây Nguyên cho thấy công tác phát

115

triển doanh nghiệp KH&CN vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Theo

quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014, Sở KH&CN là cơ

quan chuyên môn trực thuộc UBND cấp tỉnh, có chức năng tham mưu và giúp

UBND thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực KH&CN, bao gồm cả hỗ trợ

hoạt động của các DNKH&CN. Tuy vậy, việc huy động nguồn lực từ xã hội để

thúc đẩy hình thành và phát triển DNKH&CN ở các địa phương vùng Tây Nguyên

vẫn còn rất hạn chế và chưa được chú trọng một cách chiến lược.

Kết quả khảo sát đối với đội ngũ cán bộ KH&CN tại các tỉnh trong vùng cho

thấy nhiều tồn tại đáng lưu ý. Cụ thể, có tới 75,2% số cán bộ được hỏi cho rằng hệ

thống tổ chức và quản lý DNKH&CN từ trung ương đến địa phương vẫn còn

rườm rà, thiếu tính tinh gọn; trong khi các thủ tục hành chính liên quan vẫn còn

phức tạp, gây khó khăn trong quá trình triển khai thực tiễn. Bên cạnh đó, 56,8% ý

kiến đánh giá rằng chưa có sự phân chia công việc một cách rõ ràng, minh bạch

giữa các cấp quản lý trong hệ thống cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực

quản lý và hỗ trợ DNKH&CN. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý phát triển

doanh nghiệp KH&CN còn chậm đổi mới, thể hiện qua kết quả khảo sát: 78% các

chuyên gia được hỏi cho rằng “Việc thiết kế tổ chức các cơ quan thực thi chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở các tỉnh vùng Tây Nguyên còn rối rắm,

phức tạp”. [Nguồn: Phiếu khảo sát luận án].

3.4. Đánh giá chung

3.4.1. Đánh giá chung về tình hình của các doanh nghiệp tiềm năng trở thành

doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

Một là, đánh giá về tình hình phát triển doanh nghiệp tiềm năng có thể trở

thành doanh nghiệp KH&CN ở Tây Nguyên. Số lượng và chất lượng của một số

lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đã đóng góp phần nào cho phát

triển kinh tế, xã hội vùng Tây Nguyên và đã có nhiều chuyển biến theo hướng tích

cực. Tuy nhiên có thể nói các doanh nghiệp chưa thực sự có mong muốn trở thành

doanh nghiệp KH&CN, tinh thần khởi nghiệp ĐMST còn bị hạn chế chưa tương

xứng với tiềm năng, nguồn lực sẵn có của vùng Tây Nguyên. Việc đóng góp vào

GDP và giá trị sản xuất của vùng Tây Nguyên thiếu vắng cơ bản hàm lượng các

116

sản phẩm có giá trị KH&CN. Các doanh nghiệp siêu nhỏ, DNNVV chiếm 98%

tổng số DN ở vùng Tây Nguyên có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế -

xã hội của Tây Nguyên, nhưng năng lực còn hạn chế, hoạt động manh mún, tự

phát, thiếu chiến lược dài, tập trung vào các lĩnh vực dịch vụ, thương mại nên việc

sử dụng kết quả nghiên cứu KH&CN ứng dụng vào sản xuất kinh doanh là bất khả

thi. Trình độ quản lý của các doanh nghiệp trên địa bàn Tây Nguyên còn hạn chế.

Sự thiếu hụt nguồn lao động có trình độ tay nghề cao, có ý thức đổi mới sáng tạo ở

Tây Nguyên cũng là nguyên nhân chính hạn chế sự hình thành và phát triển các

doanh nghiệp KH&CN.

Hai là, đánh giá về tình hình triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp tiềm năng của doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên: Chính quyền các

địa phương trong vùng Tây Nguyên đã thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của

Nhà nước, tuy nhiên các doanh nghiệp tiềm năng khó tiếp cận đối với các gói chính

sách, vì vậy vấn đề các vấn đề về tính khả thi, tính hiệu quả và tính bình đẳng đặt ra

nhiều thách thức và đôi lúc làm mất cơ hội cho các doanh nghiệp tiềm năng phát

triển. Bên cạnh đó việc tư vấn về thủ tục thành lập, đăng ký doanh nghiệp, hỗ trợ

các thủ tục hành chính về thuế, hướng dẫn cụ thể về chế độ kế toán, hỗ trợ về thủ

tục miễn lệ phí, ưu đãi thuế nghiên cứu KH&CN, lệ phí môn bài, phí tham gia các

khóa đào tạo và tư vấn, hỗ trợ khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh còn bị buông lỏng.

3.4.2. Một số thành công trong triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

Tính đến cuối năm 2023, các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên đã chủ động

xây dựng và triển khai nhiều kế hoạch, chương trình cũng như đề án nhằm thúc

đẩy phát triển DNKH&CN tại địa phương. Những văn bản này không chỉ đóng vai

trò là nền tảng pháp lý cho hoạt động cấp giấy chứng nhận DNKH&CN mà còn

tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các hoạt động hỗ trợ từ nguồn lực ngân

sách địa phương. Kết quả triển khai trên thực tiễn đã cho thấy một số chuyển biến

tích cực đáng ghi nhận:

Cơ chế công nhận kết quả KH&CN linh hoạt và đa dạng: Việc mở rộng

phạm vi công nhận các kết quả nghiên cứu KH&CN, bao gồm cả kết quả không sử

117

dụng ngân sách nhà nước, đã khuyến khích các doanh nghiệp thuộc nhiều thành

phần kinh tế chủ động đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới công nghệ, từ đó đăng ký

công nhận là DNKH&CN mà không hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách công.

Tăng cường phổ biến chính sách và minh bạch thủ tục hành chính: Các quy

định liên quan đến điều kiện, trình tự và hồ sơ chứng nhận DNKH&CN ngày càng

được tuyên truyền sâu rộng. Đồng thời, quy trình thẩm định hồ sơ cũng được

chuẩn hóa rõ ràng hơn, giúp các Sở KH&CN tại địa phương thực hiện nhiệm vụ

thuận lợi, góp phần giảm bớt gánh nặng thủ tục cho doanh nghiệp.

Nâng cao hiệu quả thực thi chính sách ưu đãi: Việc tổ chức thực hiện cũng

như công tác thanh tra, kiểm tra trong thực tế đã góp phần đảm bảo chính sách hỗ

trợ DNKH&CN được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Nhờ đó, nhiều

DNKH&CN trên địa bàn đã phát triển mạnh và trở thành lực lượng kinh tế tiêu

biểu, đóng góp tích cực cho địa phương.

Cải tiến quy trình cấp giấy chứng nhận DNKH&CN: Việc đơn giản hóa thủ

tục và rõ ràng trong quy trình chứng nhận giúp doanh nghiệp thuận tiện hơn trong

quá trình thương mại hóa sản phẩm, tăng độ tin cậy đối với khách hàng, cũng như

thuận lợi hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.

Hỗ trợ truyền thông và xúc tiến thương mại: Nhiều doanh nghiệp KH&CN

đã được tạo điều kiện tham gia các hội thảo chuyên đề, triển lãm sản phẩm,

chương trình kết nối cung – cầu công nghệ và chợ thiết bị nhằm quảng bá và mở

rộng thị trường tiêu thụ.

Thực hiện chính sách ưu đãi tài chính: Các hình thức miễn giảm thuế thu

nhập doanh nghiệp, ưu đãi về tiền thuê đất, tín dụng đầu tư, hỗ trợ thực hiện nhiệm

vụ KH&CN bằng nguồn vốn nhà nước... đã giúp các DNKH&CN huy động và tập

trung nguồn lực để đầu tư vào cơ sở vật chất, nhân lực, đổi mới công nghệ và tạo

ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, phù hợp với định hướng phát triển sản phẩm

chủ lực tại địa phương và quốc gia – tiêu biểu tại Lâm Đồng và Đắk Lắk.

Chính quyền địa phương chủ động trong chỉ đạo và hỗ trợ: Các tỉnh trong

vùng đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi để

doanh nghiệp KH&CN phát triển. Những hoạt động hỗ trợ này được xem là tác

118

nhân quan trọng thúc đẩy hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại địa phương.

Tổng thể, các kết quả nói trên cho thấy sự chuyển biến rõ nét trong việc định

hình môi trường pháp lý và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN tại vùng Tây

Nguyên. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả bền vững hơn, vẫn cần tiếp tục hoàn

thiện cơ chế thực thi, nâng cao năng lực quản lý và khai thác hiệu quả các nguồn

lực xã hội cho phát triển KH&CN tại khu vực này.

3.4.3. Một số hạn chế trong triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

a) Hạn chế trong hoạt động hỗ trợ hình thành các doanh nghiệp KH&CN

Một là, số lượng các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận là doanh

nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên vô cùng ít ỏi (26 doanh nghiệp KH&CN tính

đến năm 2023) so với mặt bằng chung của cả nước, đặc biệt là so với vùng đồng

bằng sông Hồng là quá khiêm tốn. Các doanh nghiệp KH&CN đã được cấp giấy

chứng nhận thì vẫn có doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, thậm chí không hoạt

động, không thực hiện báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Tiềm lực KH&CN

hạn chế của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp ở các tỉnh vùng Tây Nguyên:

số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất còn ít; hầu hết các doanh nghiệp chưa có

sự đầu tư chiều sâu, thiếu chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh, chỉ tổ chức

sản xuất kinh doanh theo nhu cầu thực tại nên hạn chế đầu tư, đổi mới công nghệ.

Hai là, một số thủ tục hành chính trong quá trình chứng nhận doanh nghiệp

KH&CN, cơ sở ươm tạo và hưởng các chính sách ưu đãi hỗ trợ còn rườm rà phức

tạp, cụ thể: 1) Việc giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả KH&CN có sử

dụng vốn Nhà nước còn nhiều bất cập; 2) Việc cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở

ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi

nghiệp sáng tạo chưa được ban hành; 3) Sự trùng lặp chính sách ưu đãi giữa các

lĩnh vực ngành nghề còn khá phổ biến

b) Hạn chế trong việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều hành, kiểm triển khai

chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN

Một là, kế hoạch triển khai các chính sách của Nhà nước về ưu đãi, hỗ trợ

còn nhiều bất cập, cụ thể: về miễn tiền thuê đất thuê mặt nước, vay vốn tín dụng

119

ưu đãi, các hỗ trợ dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển… của doanh

nghiệp KH&CN chưa có tác động lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng doanh nghiệp

do sự chưa thống nhất của hệ thống pháp luật giữa các lĩnh vực, nguồn lực hỗ trợ

từ ngân sách còn khó khăn.

Hai là, một số chính sách ưu đãi của Nhà nước dù đã được ban hành với kỳ

vọng thúc đẩy phát triển DNKH&CN nhưng vẫn chưa thực sự đi vào DN. Các nội

dung hỗ trợ như quyền được sử dụng ưu tiên hệ thống thiết bị trong các phòng thí

nghiệm trọng điểm cấp quốc gia hay chính sách giảm chi phí thuê đất tại các khu

công nghiệp, khu kinh tế đặc thù... chưa tạo được ảnh hưởng đáng kể tới các

doanh nghiệp thụ hưởng. Một trong những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến thực trạng

này là việc thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành mang tính hệ thống khiến cho

quá trình tổ chức thực hiện tại các địa phương trở nên lúng túng và bị chia cắt.

Đồng thời, phần lớn doanh nghiệp trong khu vực có quy mô nhỏ, nhân lực mỏng

và chưa có bộ phận chuyên trách am hiểu về chính sách, dẫn đến việc khó tiếp cận,

khai thác hoặc thực hiện các thủ tục cần thiết để hưởng ưu đãi. Mặt khác, sự phối

hợp giữa các sở, ngành tại địa phương còn thiếu đồng bộ do rào cản về phạm vi

pháp lý. Các cơ quan chuyên môn thường chỉ căn cứ vào văn bản quản lý thuộc

lĩnh vực mình phụ trách, chưa có cơ chế chia sẻ trách nhiệm hoặc phối hợp đa

ngành trong việc hỗ trợ DNKH&CN. Điều này khiến việc vận dụng các chính sách

ưu đãi dù đã có chủ trương vẫn gặp không ít rào cản thực tế, làm suy giảm đáng kể

hiệu quả hỗ trợ và sự lan tỏa chính sách tới cộng đồng doanh nghiệp tại vùng còn

nhiều điều kiện khó khăn như Tây Nguyên.

Ba là, khó khăn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp KH&CN tổ chức triển

khai thương mại hóa sản phẩm KH&CN là khó khăn chung mà các doanh nghiệp

KH&CN đều gặp phải (khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục cấp phép lưu

hành, tiếp cận thị trường và người tiêu dùng đối với những ngành hàng có tính

cạnh tranh cao, khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ để sản xuất sản

phẩm quy mô lớn). Số lượng các doanh nghiệp KH&CN trong vùng Tây Nguyên

được thương mại hóa sản phẩm KH&CN thành công đa phần là những doanh

nghiệp đã có thâm niên lâu năm trên thị trường hoặc những doanh nghiệp trẻ

120

nhưng được sự hỗ trợ từ các tập đoàn lớn.

3.4.4. Một số nguyên nhân của thành công và hạn chế

a) Nguyên nhân của thành công

Một là, có nhiều chính sách cho phát triển doanh nghiệp KH&CN. Khung

pháp lý liên quan đến cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN

đã được quy định thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà

nước và Chính phủ ban hành, bao gồm: Luật, Quyết định, Nghị định, Thông tư và

các hướng dẫn thi hành kèm theo. Các Nghị quyết, Quyết định và kế hoạch của

Hội đồng Nhân dân Tỉnh, Uỷ ban Nhân dân Tỉnh, các văn bản pháp luật khác của

các cơ quan ban, ngành liên quan cũng đều được các Tỉnh vùng Tây Nguyên ban

hành cụ thể, chi tiết. Các cơ quan thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN

cũng như bản thân các doanh nghiệp KH&CN ở 05 tỉnh vùng Tây Nguyên đã có

các qui định nội bộ làm căn cứ pháp lý cho việc triển khai thực hiện chính sách.

Hai là, nhận thức được tầm quan trọng của phát triển doanh nghiệp

KH&CN. Các cơ quan và doanh nghiệp đã tuân thủ chấp hành các qui định về qui

trình triển khai chính sách, đã nhận thức rõ vai trò của DN KH&CN, nhất là ở

vùng Tây Nguyên không chỉ là cầu nối đưa nhanh các tiến bộ KH&CN vào kinh

doanh sản xuất mà còn là lực lượng sản xuất chủ lực, mũi nhọn tạo ra những sản

phẩm có giá trị chất lượng, thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của con người.

Ba là, có một số chính sách tạo nhiều điều kiện cho DN KH&CN ở vùng Tây

Nguyên tham gia nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ. Bên cạnh việc

tham gia thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp Tỉnh, cấp Nhà nước, các DN đầu tư

kinh phí tự nghiên cứu phát triển các sản phẩm KH&CN. Nhiều DN ở 05 tỉnh

vùng Tây Nguyên được cấp quyền sở hữu công nghiệp như: thiết kế kiểu dáng

hoặc bảo hộ độc quyền đối với giải pháp hữu ích. Đây là một trong những thuận

lợi để xác định tiêu chí chứng nhận DNKH&CN.

Bốn là, quy định đa dạng về các hình thức công nhận kết quả KH&CN phần

nào đã khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở vùng Tây

Nguyên đăng ký chứng nhận DN KHCN. Đặc biệt với quy định về thẩm định và

121

công nhận kết quả nghiên cứu KH&CN được triển khai bằng nguồn lực ngoài

ngân sách Nhà nước đã khuyến khích các doanh nghiệp tự đầu tư nghiên cứu

KH&CN, đăng ký chứng nhận DN KHCN.

Năm là, các điều kiện, thủ tục, hồ sơ chứng nhận DNKHCN đã từng bước

được quy định cụ thể, rõ ràng hơn. Các thủ tục hành chính, các qui định về quy

trình thẩm định hồ sơ chứng nhận DNKH&CN đã từng bước được quy định rõ hơn

giúp các Sở KH&CN, và các doanh nghiệp của vùng Tây Nguyên thực hiện hoạt

động này dễ dàng hơn.

b) Nguyên nhân của những hạn chế

Một là, khó khăn, vướng mắc trong hoạt động cấp giấy chứng nhận doanh

nghiệp KH&CN cho các doanh nghiệp ở vùng Tây Nguyên. Chính phủ ban hành

Nghị định 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 về DNKH&CN đã tháo gỡ một phần

khó khăn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên việc hỗ trợ doanh nghiệp khoa học công

nghệ còn gặp nhiều khó khăn do các sản phẩm khoa học công nghệ hoặc hình

thành từ kết quả nghiên cứu Khoa học và Công nghệ sau một thời gian sẽ được cải

tiến, thay thế cho sản phẩm ưu việt hơn. Nhưng để lập thủ tục công nhận sản phẩm

KH&CN đòi hỏi thời gian dài (nếu bảo hộ quyền SHTT thì thường không dưới 01

năm). Mặc khác, nếu thông qua hội đồng cấp tỉnh thì thường doanh nghiệp viết

báo cáo có phần khó khăn (không có chuyên môn) vì vậy cũng gây nhiều trở ngại

cho doanh nghiệp. Tại điểm b, khoản 2, Điều 7 của Nghị định số 13/2019/NĐ-CP,

có quy định một trong những căn cứ để xác nhận kết quả KH&CN là “văn bản

chứng nhận giải thưởng KH&CN do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp tổ

chức hoặc cho phép tổ chức xét tặng theo quy định pháp luật”. Tuy nhiên, nội

dung này chưa làm rõ mức độ và phạm vi của các giải thưởng, đặc biệt chưa quy

định cụ thể về cấp giải, gây lúng túng trong việc hướng dẫn và hỗ trợ doanh

nghiệp hoàn thiện hồ sơ đề nghị chứng nhận DNKH&CN. Trong thực tế, quá trình

để một tổ chức được công nhận là DNKH&CN yêu cầu đáp ứng nhiều tiêu chí

khắt khe, trong đó trọng yếu là việc hoàn tất quá trình ươm tạo và làm chủ công

nghệ từ các kết quả KH&CN được sở hữu hoặc sử dụng một cách hợp pháp. Các

lĩnh vực công nghệ được ưu tiên tập trung bao gồm: công nghệ thông tin và truyền

122

thông, đặc biệt là công nghệ phần mềm; công nghệ sinh học phục vụ trong nông

nghiệp, nuôi trồng thủy sản và bảo vệ môi trường; công nghệ năng lượng tái tạo;

công nghệ vũ trụ và một số lĩnh vực công nghệ cao khác theo quy định của Bộ

KH&CN. Doanh nghiệp không chỉ cần làm chủ công nghệ, mà còn phải triển khai

chuyển giao hoặc trực tiếp áp dụng công nghệ đó vào hoạt động sản xuất. Bên

cạnh các điều kiện nêu trên, cơ chế ưu đãi và chính sách hỗ trợ từ phía Nhà nước

dành cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KH&CN vẫn còn những khoảng

trống nhất định, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Nhiều đơn vị phản

ánh rằng hệ thống chính sách còn thiếu tính linh hoạt, chậm được điều chỉnh để

phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp KH&CN, gây khó khăn cho việc khuyến

khích đổi mới sáng tạo trong khối doanh nghiệp.

Hai là, hoạt động sản xuất kinh doanh của DNKH&CN vùng Tây Nguyên

khó có thể dựa trên kết quả nghiên cứu KH&CN. Các DNKH&CN vùng Tây

Nguyên gặp vướng mắc trong việc nhận ưu đãi thuế, thuê đất, nhất là việc tiếp cận

các nguồn vốn vay ưu đãi từ quỹ KH&CN cũng như các nguồn khác hiện nay còn

gặp rất nhiều khó khăn. Chính sách ưu đãi về thuế thu nhập DN dựa trên tỷ lệ

doanh thu các sản phẩm KH&CN trên tổng doanh thu của DN cũng chưa khuyến

khích doanh nghiệp đăng ký chứng nhận, hiện tại trên địa bàn vùng Tây Nguyên

có rất ít DNKH&CN được hưởng ưu đãi này. Các doanh nghiệp ở tỉnh Đắk Lắk,

Lâm Đồng…đặc biệt là các doanh nghiệp chế tạo các thiết bị, máy móc phục vụ

trong nông nghiệp như tưới tiêu, làm đất, chế biến sau thu hoạch… liên tục được

cải tiến để tăng năng suất và hiệu quả làm việc vì vậy mẫu mã cũng như công năng

thay đổi liên tục nên khi công nhận sản phẩm này chưa được hưởng chính sách thì

đã thay sản phẩm khác rồi nên khó cho doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp thì có

một số sản phẩm được chứng nhận, còn lại các sản phẩm khác không được chứng

nhận làm cho số lượng doanh thu không đạt theo quy định cũng không được

hưởng ưu đãi. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 giai đoạn 2020-2022 dịch

bệnh diễn biến phức tạp nên ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng

thời tình hình giá nguyên liệu tăng, máy móc cần phải cải tiến để phục vụ cho sản

xuất đang là một trong những hạn chế để doanh nghiệp KH&CN tồn tại và phát

123

triển.

Ba là, rào cản trong tổ chức triển khai các hoạt động hỗ trợ hình thành

doanh nghiệp khoa học và công nghệ : 1) Tiềm lực KH&CN ở các tỉnh vùng Tây

Nguyên còn hạn chế; số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất còn ít; hầu hết các

doanh nghiệp chưa có sự đầu tư chiều sâu, thiếu chiến lược phát triển sản xuất

kinh doanh, chỉ tổ chức sản xuất kinh doanh theo nhu cầu thực tại nên hạn chế đầu

tư, đổi mới công nghệ; 2) Một số thủ tục hành chính trong quá trình chứng nhận

DN KH&CN, cơ sở ươm tạo và hưởng ưu đãi hỗ trợ cho các doanh nghiệp

KH&CN còn phức tạp, cụ thể : về việc giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả

KH&CN có sử dụng vốn Nhà nước; Việc cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở ươm

tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi

nghiệp sáng tạo chưa được ban hành; Sự trùng lặp, chồng chéo chính sách ưu đãi

giữa các lĩnh vực ngành nghề.

Bốn là, quá trình tổ chức, chỉ đạo triển khai hoạt động hỗ trợ phát triển

doanh nghiệp khoa học và công nghệ còn nhiều vướng mắc : 1) Các chính sách ưu

đãi, hỗ trợ về miễn tiền thuê đất thuê mặt nước, vay vốn tín dụng ưu đãi, các hỗ trợ

dành cho hoạt động nghiên cứu và phát triển… của DNKH&CN chưa có tác động

lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng doanh nghiệp do sự chưa thống nhất của hệ thống

pháp luật giữa các lĩnh vực, nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách còn khó khăn, có nhiều

doanh nghiệp KH&CN chưa tiếp cận được với sự hỗ trợ và ưu đãi ; 2) Một số

DNKHCN chưa có ý thực tuân thủ nghiêm việc thực hiện các quy định của Nghị

định số 13/2019/NĐ-CP, không chủ động báo cáo tình hình hoạt động sản xuất,

kinh doanh của DNKHCN định kỳ hàng năm. Chính vì vậy, các Sở KH&CN vùng

Tây Nguyên cũng không nắm bắt được thông tin về tình hình hoạt động của doanh

nghiệp để kịp thời hỗ trợ ; 3) Cán bộ phụ trách công tác phát triển DNKH&CN tại

các Sở KH&CN vùng Tây Nguyên hiện nay không đáp ứng yêu cầu (nhiều Sở chỉ

có 01 - 02 cán bộ phụ trách cả lĩnh vực sở hữu trí tuệ, thị trường công nghệ,

DNKHCN, khởi nghiệp ĐMST.

Năm là, việc xác định lĩnh vực công nghệ sản xuất và định giá kết quả nghiên

cứu KH&CN để chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng còn bị chậm chạp và thủ tục

124

rườm rà. Hiện tại trên địa bàn 05 tỉnh vùng Tây Nguyên chưa có loại hình

DNKH&CN từ các tổ chức KH&CN (khởi nguồn) chuyển đổi sang. Việc xác định

lĩnh vực công nghệ sản xuất của doanh nghiệp để làm căn cứ xét duyệt công nhận

là DNKH&CN theo quy định tại mục I, điểm 5.1, khoản 5 của Thông tư liên tịch

số 06/2008/TTLT/BKHCN-BTC-BNV ngày 18/6/2008 – văn bản hướng dẫn triển

khai Nghị định số 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ – vẫn đang là một rào cản lớn

trong thực tiễn triển khai. Việc giao quyền sở hữu kết quả KH&CN có nguồn gốc

từ ngân sách nhà nước, mặc dù đã có thông tư 15/2014/TT-BKHCN hướng dẫn.

Khó khăn trong việc định giá kết quả KH&CN để giao quyền sở hữu, quyền sử

dụng, tại địa phương chưa có đơn vị có đủ năng lực định giá.

Sáu là, một số nguyên nhân khác: 1) Hệ thống pháp lý còn phức tạp và cứng

nhắc: Các thủ tục đăng ký chứng nhận DNKH&CN vẫn còn rườm rà, đòi hỏi số

lượng lớn hồ sơ, giấy tờ, cam kết và báo cáo giải trình, dẫn đến tốn kém thời gian

và nguồn lực cho doanh nghiệp – đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa; 2)

Chưa có đủ cơ chế khuyến khích tạo động lực đổi mới: Một số quy định hiện hành

chưa thực sự thúc đẩy tinh thần nghiên cứu, sáng tạo, chưa tạo được sức hút đủ lớn

để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN một cách bài bản và

chiến lược; 3) Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp còn

hạn chế: Thiếu vắng cơ chế đối thoại hiệu quả khiến việc phản hồi chính sách trở

nên đơn phương. Điều này dẫn đến tình trạng chính sách thiếu tính thích nghi với

thực tiễn, gây khó khăn trong quá trình ứng dụng và phát triển công nghệ tại doanh

nghiệp; 4) Chưa có các chương trình hỗ trợ đặc thù, phù hợp theo từng nhóm đối

tượng: Việc thiếu các chương trình tài trợ, cố vấn hay định hướng cụ thể, phù hợp

với đặc điểm ngành nghề hoặc quy mô doanh nghiệp – đặc biệt trong các lĩnh vực

chiến lược như kinh tế tuần hoàn hay công nghệ môi trường – khiến nhiều đơn vị

chưa mạnh dạn đầu tư vào KH&CN; 5) Nguồn lực tài chính còn hạn chế và chưa

được phân bổ kịp thời: Doanh nghiệp khó tiếp cận các khoản hỗ trợ để triển khai

các dự án nghiên cứu, thử nghiệm hoặc thương mại hóa công nghệ mới. Tình trạng

thiếu vốn, thiếu hỗ trợ tín dụng vẫn là rào cản lớn trong chuyển giao và ứng dụng

công nghệ cao; 6) Thiếu chương trình nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý

125

DNKH&CN: Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức phụ trách lĩnh vực

này còn chưa được chú trọng, khiến việc hướng dẫn, thẩm định và triển khai chính

sách thiếu chiều sâu và chưa bắt kịp xu thế đổi mới; 7) Công tác truyền thông

chính sách và giám sát thực thi chưa được đầu tư đúng mức: Việc phổ biến các

chính sách ưu đãi còn mờ nhạt; công tác kiểm tra, thanh tra, đánh giá hiệu quả

triển khai chính sách ở các địa phương vẫn còn hình thức, chưa tạo được động lực

thay đổi thực chất; 8) Triển khai chính sách còn manh mún, thiếu liên kết và định

hướng chuyên môn rõ ràng: Hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh

nghiệp đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp khởi nguồn, chưa có sự kết nối hệ thống

giữa các ngành, các cấp, dẫn đến hiệu quả thực thi thấp và chưa tạo được mạng

lưới hỗ trợ toàn diện. Đa phần, 5 tỉnh thuộc Tây Nguyên đều chưa quan tâm xây

dựng khung chính sách chung để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiềm năng để có thể

trở thành doanh nghiệp KH&CN; 9) Sự phối hợp giữa các đơn vị thực hiện chính

sách còn lỏng lẻo, thiếu sự liên kết giữa các đơn vị và giữa các địa phương trong

vùng để ban hành chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp tiềm năng trở thành

doanh nghiệp KH&CN còn chưa chặt chẽ; 10) Còn thiếu vắng các chương trình

đào tạo, tư vấn cho doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMTS, nghiên cứu KH&C. Giai

đoạn 2020-2023, do bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, các doanh

nghiệp tiềm năng chưa được tham gia các chương trình đào tạo, tập huấn cũng

như một số chương trình tư vấn cho doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh

nghiệp KH&CN; 11) Kinh phí triển khai hỗ trợ cho doanh nghiệp tiềm năng trở

thành DN KH&CN còn hạn chế, cụ thể: chưa bố trí được vốn điều lệ thành lập

Quỹ bảo lãnh tín dụng theo đúng quy định là yêu cầu phải tối thiểu có 100 tỷ đồng

do ngân sách cấp tỉnh cấp, thiếu vốn để đầu tư cho khu làm việc chung cho doanh

nghiệp nhỏ và vừa, đầu tư cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật.v.v; Năng lực tổ chức

triển khai thực hiện chính sách của một bộ phận các cấp chính quyền cón yếu kém,

thiếu kỹ năng, nghiệp vụ; 12) Các văn bản hướng dẫn về cơ chế, chính sách đầu

tư, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST ít được các cấp chính quyền địa

phương quan tâm, hay bị thay đổi, tác động tiêu cực đến việc thu hút thu hút đầu

tư và việc chưa công khai thông tin kịp thời đến các doanh nghiệp, nhà đầu tư (ví

126

dụ như tỉnh Đăk Nông); 13)Yếu kém trong việc tuyên truyền chính sách nên các

doanh nghiệp chưa có cơ hội được tiếp cận các chính sách, có nhiều doanh nghiệp

không đủ điều kiện để thụ hưởng chính sách, do trước đấy không được tuyên

truyền phổ biến để phấn đấu các chỉ tiêu cần phải có để trở thành doanh nghiệp

KH&CN và được thụ hưởng chính sách;14) Hành lang pháp lý cho phát triển các

doanh nghiệp tiềm năng chưa đầy đủ, còn thiếu một số quy định đặc thù cho hoạt

động khởi nghiệp và khởi nguồn; 15) Việc đầu tư cho phát triển, sẵn sàng chấp

nhận mạo hiểm, rủi ro còn nhiều hạn chế, vì vậy có thể mất nhiều cơ hội để

chuyển hóa tiềm năng thành hiện thực; 16) Thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng

nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ, môi trường đầu tư, kinh doanh vẫn còn

nhiều điểm nghẽn; 17) Công tác truyền thông, hỗ trợ chính sách, thành lập và

quản lý các quỹ hỗ trợ đầu tư và quỹ đầu tư mạo hiểm còn nhiều hạn chế.

Đặc biệt, các DN tiềm năng còn chưa đủ ý chí và năng lực để trở

thành DNKH&CN. Trong khi đó, hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đều ở

quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính hạn chế nên không đủ sức đầu tư vào hoạt

động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đành phải sử dụng công nghệ,

máy móc lạc hậu; thiếu thông tin, cơ hội tiếp xúc, nắm bắt công nghệ mới, cơ hội

hợp tác với các tổ chức KH&CN nước ngoài; khả năng cạnh tranh của sản phẩm

hạn chế.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN của cả nước cũng như tại vùng

Tây Nguyên trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả ban đầu đáng ghi

nhận, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, khó khăn trong phát triển cả về số lượng và

chất lượng. Chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN tại địa phương được triển

khai khởi động từ năm 2013, từ khi Luật KH&CN ra đời, với sự hỗ trợ, hướng dẫn

của các cơ quan Nhà nước Trung ương, việc tổ chức triển khai tuyên truyền phổ

biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát

triển doanh nghiệp KH&CN đã được phát huy, tuy nhiên còn chưa đồng bộ. Chưa

có biện pháp tận dụng cơ hội của các hội nghị tập huấn về “Phát triển doanh

127

nghiệp khoa học và công nghệ” cho các cơ quan, doanh nghiệp địa phương về các

chủ trương, chính sách pháp luật về hỗ trợ, ưu đãi phát triển doanh nghiệp

KH&CN, qua kênh này thì việc phổ biến, tuyên truyền đến chính quyền địa

phương, đặc biệt là các doanh nghiệp KH&CN tiềm năng, các doanh nghiệp quan

tâm đến khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ sẽ đem lại hiệu ứng

tích cực.

Hoạt động khảo sát các doanh nghiệp KH&CN tiềm năng, khởi nghiệp

ĐMST được các cấp chính quyền triển khai ngay ở các địa phương, có nhiều

doanh nghiệp đã hoạt động theo mô hình doanh nghiệp KH&CN, đã thực hiện

nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển công nghệ từ nguồn kinh phí tài trợ cũng như

nguồn tài chính tự có, tuy nhiên số doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận doanh

nghiệp KH&CN còn khá ít ỏi. Nguyên nhân mà nhiều doanh nghiệp KH&CN

chưa mấy mặn mà với việc phấn đấu trở thành doanh nghiệp KH&CN cũng có liên

quan đến chính sách, thủ tục, qui trình, điều kiện, năng lực ở nói chung và ở mỗi

địa phương nói riêng.

Một số DNKH&CN đã được tiếp cận và thụ hưởng các chính sách hỗ trợ ưu

đãi từ Nhà nước, bao gồm: miễn hoặc giảm thuế, hỗ trợ đăng ký quyền sở hữu trí

tuệ, và tiếp cận các khoản tín dụng ưu đãi. Bên cạnh các chính sách mang tính toàn

quốc, chính quyền các tỉnh trong vùng Tây Nguyên cũng chủ động lồng ghép các

nội dung hỗ trợ DNKH&CN thông qua việc giao thực hiện các nhiệm vụ KH&CN

sử dụng ngân sách địa phương, từ đó tạo động lực thúc đẩy hoạt động đổi mới

sáng tạo tại doanh nghiệp. Tuy vậy, thực tế cho thấy vẫn còn không ít chính sách

ưu đãi chưa phát huy được tác động như kỳ vọng. Điển hình là các cơ chế ưu tiên

sử dụng thiết bị nghiên cứu tại các phòng thí nghiệm trọng điểm cấp quốc gia, hay

chính sách giảm giá thuê đất. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc thiếu hướng dẫn

cụ thể về trình tự, thủ tục và cơ chế liên thông giữa các ngành, khiến quá trình

triển khai gặp nhiều vướng mắc và chưa đến được với các doanh nghiệp một cách

128

hiệu quả.

CHƯƠNG 4

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỪ THỰC TIỄN

VÙNG TÂY NGUYÊN

4.1. Chiến lược kế hoạch phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ của

Đảng, Nhà nước và Chính quyền địa phương

4.1.1. Chiến lược kế hoạch của Đảng và Nhà nước

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 23-NQ/TW (ngày 06/10/2022) về

“Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng

Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; đồng thời, Nghị quyết số

26-NQ/TW (ngày 03/11/2022) đã đặt ra phương hướng tương tự đối với khu vực

Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ. Hai nghị quyết này đóng vai trò quan trọng

trong việc hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về phát triển KH&CN và ĐMST đến

năm 2030, bảo đảm phù hợp với tiềm năng, điều kiện đặc thù của từng vùng. Triển

khai thực hiện các nghị quyết đó đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định

số 569/QĐ-TTg ngày 11/5/2022, đặt mục tiêu đến năm 2030 số lượng

DNKH&CN sẽ tăng gấp đôi so với năm 2020.

Thực hiện đường lối và chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Bộ

KH&CN ban hành Quyết định số 2282/QĐ-BKHCN ngày 13/9/2021 về “Kế

hoạch phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ đến năm 2025, tầm nhìn

2030. Mục đích triển khai hiệu quả các qui định về doanh nghiệp KH&CN”;

Khuyến khích DN tư nhân, DN khởi nghiệp sáng tạo R&D theo mô hình doanh

nghiệp KH&CN, phát triển các doanh nghiệp tiên phong ứng dụng KH&CN tăng

cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; Hình thành các doanh nghiệp

KH&CN ở các Viện và Trường; Phấn đấu đến năm 2025, thành lập được ít nhất

50 doanh nghiệp tiềm năng được khởi nguồn thành doanh nghiệp KH&CN từ các

Viện và Trường. Định hướng đến năm 2030, có ít nhất 100 doanh nghiệp khởi

nguồn ra đời từ các Viện, trường. Kế hoạch gồm có 07 nhiệm vụ chủ yếu như sau:

1) Nghiên cứu hoàn thiện các chính sách về DN KH&CN: Nghiên cứu hoàn thiện

chính sách ứu đãi, hỗ trợ thuế; đất đai; tín dụng và các ưu đãi theo quy định tại

129

Nghị định số 13/2019/NĐ-CP; Nghiên cứu đề xuất giải pháp phát triển DN

KH&CN tại các cơ sở nghiên cứu, cơ sở giáo dục; Nghiên cứu đề xuất Chương

trình ươm tạo và phát triển DN KH&CN đến năm 2030; Nghiên cứu đề xuất giải

pháp khuyến khích doanh nghiệp trích lập và sử dụng hiệu quả Quỹ phát triển

KH&CN để tăng cường nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới; Nghiên cứu giải

pháp phát triển DN KH&CN trong lĩnh vực công nghệ thông tin – truyền thông; 2)

Truyền thông, đào tạo và nâng cao năng lực: Tổ chức các chương trình đào tạo,

bồi dưỡng, xây dựng giáo trình và tài liệu phục vụ đội ngũ cán bộ quản lý, công

chức, doanh nghiệp và tổ chức KH&CN; triển khai các hội thảo, hội nghị phổ biến

chính sách; thực hiện các hoạt động truyền thông qua báo chí, chuyên đề, chuyên

mục và mạng xã hội; xây dựng, vận hành hiệu quả cổng thông tin về DN KH&CN;

3) Điều tra, khảo sát và cập nhật dữ liệu DNKH&CN: Tiến hành khảo sát thực

trạng hoạt động của các doanh nghiệp tiềm năng, thu thập thông tin, phân loại và

đánh giá theo tiêu chí cụ thể; xây dựng cơ sở dữ liệu về kết quả nghiên cứu

KH&CN nhằm hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ; theo dõi thường xuyên

tình hình kinh doanh và phát triển sản phẩm mới của DNKH&CN; 4) Ươm tạo và

cấp chứng nhận DNKH&CN: Hỗ trợ doanh nghiệp tiềm năng hoàn thiện hồ sơ

chứng nhận; đề xuất cơ chế đẩy nhanh quá trình chuyển giao kết quả nghiên cứu

có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp; hỗ trợ xây dựng chiến

lược và triển khai hoạt động sở hữu trí tuệ; thực hiện thẩm định hồ sơ và cấp

chứng nhận DNKH&CN theo đúng quy định; tổ chức các hoạt động hỗ trợ về

chính sách ưu đãi, hướng dẫn DN tiếp cận các chương trình KH&CN cấp trung

ương và địa phương, thúc đẩy ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu; hỗ

trợ kết nối thị trường, quảng bá sản phẩm; 5) Phân tích chỉ số phát triển và đánh

giá năng lực công nghệ: Tổ chức nghiên cứu xây dựng bộ chỉ tiêu đánh giá

DNKH&CN; khảo sát, phân tích năng lực công nghệ hiện tại của các doanh

nghiệp nhằm đề xuất định hướng đổi mới, cải tiến phù hợp; hướng dẫn các địa

phương lập kế hoạch phát triển DNKH&CN theo từng giai đoạn; tiếp nhận và tổng

hợp ý kiến, kiến nghị của các địa phương, doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu để

điều chỉnh chính sách sát thực tiễn; 6) Hướng dẫn triển khai chính sách ở địa

phương: Hỗ trợ các địa phương xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, đề án

phát triển DNKH&CN; tổng hợp các phản hồi, đề xuất chính sách từ doanh

130

nghiệp, hiệp hội ngành hàng và cơ sở giáo dục; tháo gỡ các điểm nghẽn trong thực

tiễn thực hiện; 7) Tổ chức vinh danh DNKH&CN tiêu biểu: Hai năm một lần, thực

hiện xét chọn và trao danh hiệu tôn vinh DNKH&CN theo Quyết định số

3263/QĐ-BKHCN ngày 06/11/2019. Các doanh nghiệp được lựa chọn sẽ được

nhận giấy chứng nhận và cúp lưu niệm từ Bộ KH&CN như một hình thức khuyến

khích và ghi nhận đóng góp nổi bật.

Đặc biệt, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị đã đưa

ra định hướng rõ ràng nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trở thành một trong

những động lực then chốt của nền kinh tế đất nước. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh

vai trò chủ lực của khu vực này trong việc phát triển KH&CN, thúc đẩy ĐMST và

chuyển đổi số – góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được xác lập tại

Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về tạo đột phá trong phát triển

KH&CN và chuyển đổi số quốc gia. Cụ thể, Nghị quyết 68 xác lập một loạt giải

pháp đột phá nhằm kiến tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát

triển bền vững, đổi mới, sáng tạo và xanh hóa:

“- Xây dựng hành lang pháp lý thử nghiệm cho công nghệ mới (sandbox):

Cho phép triển khai thí điểm có kiểm soát đối với các sản phẩm, dịch vụ, mô hình

kinh doanh và công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), blockchain, dữ liệu lớn,

fintech, thương mại điện tử và y tế thông minh, nhằm khuyến khích doanh nghiệp

tư nhân mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực tiên phong.

- Ưu đãi thuế cho hoạt động R&D: Doanh nghiệp được phép hạch toán 200%

chi phí thực tế của hoạt động nghiên cứu và phát triển vào chi phí tính thuế. Ngoài

ra, chi phí đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị, chi phí thực hiện chuyển

đổi số, chuyển đổi xanh và sản xuất bền vững có thể được khấu trừ thuế hoặc tài

trợ thông qua các quỹ chuyên biệt.

- Thành lập và sử dụng Quỹ phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo: Doanh

nghiệp được phép trích tối đa 20% thu nhập tính thuế để hình thành Quỹ KH&CN

phục vụ nghiên cứu, chuyển đổi số và phát triển công nghệ, với quyền tự quyết

trong triển khai nội bộ hoặc đặt hàng bên ngoài theo hình thức khoán sản phẩm.

- Tiếp cận cơ sở vật chất công của nhà nước: Doanh nghiệp được quyền sử

dụng các phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu dùng chung, trung tâm kiểm định,

giám định thuộc sở hữu nhà nước với mức phí hợp lý để phục vụ mục tiêu nghiên

131

cứu, phát triển sản phẩm và công nghệ.

- Miễn, giảm thuế đối với hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo: Các

doanh nghiệp khởi nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức trung gian hỗ trợ khởi

nghiệp được hưởng chính sách miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng

thời, thu nhập từ chuyển nhượng vốn tại doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cũng

được miễn thuế thu nhập cá nhân và doanh nghiệp. Các chuyên gia, nhà khoa học

đang làm việc tại doanh nghiệp khởi nghiệp, trung tâm nghiên cứu – đổi mới sáng

tạo cũng được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân.

- Ưu tiên nguồn lực đầu tư hạ tầng đổi mới sáng tạo: Nhà nước sẽ tăng

cường đầu tư phát triển hệ thống trung tâm đổi mới sáng tạo, khu ươm tạo công

nghệ – nơi kết nối giữa nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm và thương mại hóa

công nghệ, hỗ trợ trực tiếp cho cộng đồng doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và khởi

nghiệp trên toàn quốc.” [Nguồn: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ

Chính trị]

4.1.2. Chiến lược, kế hoạch của Đảng bộ và Chính quyền địa phương các tỉnh

vùng Tây Nguyên

a) Chiến lược, kế hoạch của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Đắk Lắk

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6,

khóa XI về phát triển KH&CN nhằm phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

hóa trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế,

một trong những mục tiêu trọng tâm được đặt ra đến năm 2020 là: “...hình thành

các doanh nghiệp KH&CN…”. Hưởng ứng tinh thần chỉ đạo đó, Tỉnh ủy Đắk Lắk

đã ban hành Chương trình số 26-CTr/TU ngày 12/4/2013, xác lập định hướng

chiến lược cho địa phương trong việc phát triển KH&CN, trong đó nhấn mạnh yêu

cầu “phát triển và hình thành các DNKH&CN” tại địa bàn tỉnh.

Ngày 03 tháng 12 năm 2015, Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Khóa VIII,

Kỳ họp thứ 11 ban hành Nghị quyết số 175- NQ/ HĐND, Nghị quyết Về phát

triển khoa học và công nghệ tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2016 – 2020: “Đến năm 2020,

thành lập 02 khu nông nghiệp, công nghiệp ứng dụng công nghệ cao; một số trạm,

trại thực nghiệm khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh; hình thành một số

132

doanh nghiệp khoa học và công nghệ;...”

Ngày 09/4/2018, UBND tỉnh ban hành kế hoạch số 2722/KH-UBND, “Kế

hoạch Hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST và khởi sự kinh doanh tỉnh Đắk Lắk đến năm

2020, định hướng 2025”. [84] Quyết định số 1839/QĐ-UBND ngày 13/8/2020 của

UBND tỉnh Đắk Lắk phê duyệt “Đề án hỗ trợ và phát triển DNNVV trên địa bàn

tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030”. Đây là các định

hướng rất cụ thể phát triển doanh nghiệp tiềm năng, Vùng Tây Nguyên đã triển

khai thực hiện các chính sách hỗ trợ DN bằng việc ban hành một số kế hoạch

hành động cụ thể.

b) Chiến lược, kế hoạch của Đảng bộ Tỉnh và Chính quyền tỉnh Kon Tum

Nghị quyết số 06-NQ/ĐH của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần

thứ XVI, nhiệm kỳ 2020 - 2025, ngày 30/9/2020 đã chỉ rõ: “Cải thiện mạnh mẽ

môi trường đầu tư, kinh doanh; Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Tiếp

tục rà soát, sắp xếp lại các công ty lâm nghiệp, DN Nhà nước; đẩy mạnh phát

triển DN ngoài nhà nước; nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh

của các DN; phấn đấu đến năm 2025 thành lập 006Dới 1.500 DN” .

Đảng ủy tỉnh Đắk Lắk đã cụ thể hóa các định hướng phát triển của Trung

ương thông qua việc ban hành Chương trình số 41-CTr/TU ngày 12/10/2017

(khóa XV) nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017

của BCH TW Đảng khóa XII về “định hướng phát triển kinh tế tư nhân trở thành

một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Bên

cạnh đó, để nâng cao năng lực thu hút đầu tư và thúc đẩy phát triển bền vững,

Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 16/5/2022 của BCH Đảng bộ tỉnh khóa XVI đã đề

ra các chủ trương về “cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh

cấp tỉnh và tăng cường thu hút nguồn lực đầu tư, với mục tiêu thực hiện đến năm

2025 và định hướng đến năm 2030”. Trong đó, phát huy vai trò, trách nhiệm của

người đứng đầu các sở, ban, ngành của tỉnh, cấp ủy, chính quyền các địa phương

trong việc lãnh đạo, chỉ đạo cải thiện chất lượng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp

tỉnh (PCI) và năng lực cạnh tranh cấp sở, ngành và địa phương (DDCI); tích cực

đồng hành, tạo điều kiện thuận lợi theo thẩm quyền và nâng cao sự hài lòng của

133

doanh nhân và doanh nghiệp đối với môi trường đầu tư, kinh doanh của tỉnh.

Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh, HĐND tỉnh Kon Tum đã thông qua Nghị

quyết số 48/NQ-HĐND về việc phê duyệt “Đề án hỗ trợ DNNVV trên địa bàn tỉnh

Kon Tum giai đoạn 2021–2025”. Triển khai thực hiện nghị quyết này, UBND tỉnh

đã ban hành Quyết định số 456/QĐ-UBND ngày 26/5/2021 về việc chính thức ban

hành Đề án. [93] Trước đó, UBND tỉnh cũng đã xây dựng và ban hành Kế hoạch

số 1587/KH-UBND ngày 08/5/2020 nhằm “hỗ trợ thúc đẩy sự hình thành và phát

triển của DNKH&CN trên địa bàn tỉnh đến năm 2025”. Ngoài ra, nhằm cụ thể hóa

các mục tiêu được đặt ra tại Quyết định số 1158/QĐ-TTg ngày 13/7/2021 của Thủ

tướng Chính phủ về “Chương trình phát triển thị trường KH&CN quốc gia đến

năm 2030”, UBND tỉnh tiếp tục ban hành Kế hoạch số 3232/KH-UBND ngày

10/9/2021 để tổ chức triển khai hiệu quả tại địa phương. Các chính sách ưu đãi, hỗ

trợ, ươm tạo và phát triển DNKH&CN và kết quả triển khai nhiệm vụ thuộc Kế

hoạch trên các Trang thông tin điện tử các sở, ngành, địa phương. Mục tiêu của

các chính sách này là hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trên

địa bàn tỉnh Kon Tum đến năm 2025 để thành lập doanh nghiệp KH&CN phấn

đấu thành lập được ít nhất 01 doanh nghiệp khoa học và công nghệ.

Thực hiện kế hoạch của UBND tỉnh Kon Tum về phát triển doanh nghiệp

khởi nghiệp ĐMST (Start-up) làm tiền đề cho phát triển các doanh nghiệp

KH&CN. Sở KH&CN tỉnh Kon Tum đã ban hành Kế hoạch số 14/KH-SKHCN

Ngày 02/2/2021 về việc “Hỗ trợ phát triển DNKH&CN năm 2021”; Kế hoạch số

22/KH-SKHCN ngày 02/3/2022 về “Hỗ trợ phát triển DNKH&CN tỉnh Kon Tum

năm 2022”; Ngày 31/3/2023, Sở tiếp tục ban hành Kế hoạch số 25/KH-SKHCN

về “Hỗ trợ DNNVV năm 2023”. Các kế hoạch vạch ra mục đích nâng cao nhận

thức của cộng đồng thông qua truyền thông về vai trò, vị trí của DNKH&CN đối

với phát triển KT-XH của tỉnh; Hỗ trợ hình thành và phát triển DNKH&CN trên

địa bàn tỉnh theo mục tiêu xác định. [55]

c) Chiến lược, kế hoạch của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Gia Lai

Thực hiện chỉ đạo tại Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của BCH

TW Đảng khóa XII về việc “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trở thành một

trong những động lực chủ yếu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”,

134

Tỉnh ủy Gia Lai đã ban hành Chương trình số 49-CTr/TU ngày 03/10/2017 nhằm

cụ thể hóa các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm tại địa phương. Trên cơ sở đó, Ủy

ban nhân dân tỉnh Gia Lai đã triển khai các chính sách hỗ trợ thiết thực. Cụ thể,

ngày 30/7/2019, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 765/QĐ-UBND về việc

phê duyệt “Đề án hỗ trợ DNNVV trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2019–

2023”.

Tiếp đó, để thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong khối doanh nghiệp,

ngày 05/10/2021, UBND tỉnh tiếp tục ban hành Quyết định số 663/QĐ-UBND,

chính thức phê duyệt Kế hoạch triển khai Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp

ĐMST quốc gia đến năm 2025” trên địa bàn tỉnh. Mục tiêu định hướng đến năm

2035, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc gia và trách nhiệm của các

cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức thực hiện Đề án [92]; Chương trình Phát triển

tài sản trí tuệ - Hỗ trợ phát triển một số thương hiệu, nhãn hiệu chủ lực của tỉnh

Gia Lai giai đoạn 2020 – 2025; UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 135/KH-

UBND ngày 19/01/2022; Kế hoạch số 2492/KH-UBND ngày 28/10/2022 phát

triển thị trường khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Gia Lai; Ủy ban nhân dân

tỉnh ban hành Kế hoạch số 4/ KH-UBND ngày 04/01/2022 về phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh Gia Lai đến năm 2025.

Mục tiêu chủ yếu của các kế hoạch này là nhằm triển khai một cách đồng bộ

và hiệu quả các quy định liên quan đến việc chứng nhận và phát triển DNKH&CN

theo Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ. Đồng thời,

đây cũng là định hướng nhằm thúc đẩy khu vực DN tư nhân và các start-up có

hoạt động R&D trong mọi lĩnh vực KT-XH chuyển đổi và phát triển theo mô hình

DNKH&CN, từ đó hình thành lực lượng doanh nghiệp tiên phong đi đầu trong

việc ứng dụng KH&CN để nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh. Ngoài ra,

các kế hoạch này cũng nhằm cụ thể hóa trách nhiệm của UBND cấp tỉnh, được

quy định tại Nghị định 13/2019/NĐ-CP, thông qua việc xây dựng và triển khai các

hoạt động cụ thể, thực tế, có tác động rõ rệt đến tiến trình hình thành và phát triển

hệ sinh thái DNKH&CN tại địa phương.

Mục tiêu của Tỉnh phấn đấu đến năm 2025, có 15 DNKH&CN được hình thành

và phát triển (trong khi tính đến năm 2023 Tỉnh mới có 05 DNKH&CN, đạt 33,3% so

135

với kế hoạch đặt ra) và hướng dẫn 100% doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận

DNKH&CN thụ hưởng các ưu đãi theo quy định của pháp luật.

d) Chiến lược, kế hoạch của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Đắk Nông

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Nông lần thứ XII, nhiệm kỳ

2020–2025 đã xác lập định hướng phát triển kinh tế rõ ràng, nhấn mạnh mục tiêu

“huy động tối đa và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, tạo đòn bẩy thúc đẩy phát

triển toàn diện các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân giữ vai trò trung

tâm”, làm nền tảng hình thành một số DN chủ lực, đóng vai trò dẫn dắt và lan tỏa

phát triển kinh tế địa phương. Trên cơ sở đó, tỉnh tập trung xây dựng ba trụ cột kinh

tế chiến lược: 1) Đẩy mạnh công nghiệp chế biến sâu với trọng tâm là công nghiệp

khai khoáng và năng lượng tái tạo, hướng tới mục tiêu đưa Đắk Nông trở thành

trung tâm công nghiệp nhôm của cả nước; 2) Phát triển nền nông nghiệp công nghệ

cao theo hướng bền vững, gắn với chuỗi giá trị sản xuất – chế biến – tiêu thụ; đồng

thời khai thác thế mạnh từ kinh tế lâm nghiệp, dược liệu, tăng cường năng lực cạnh

tranh và giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông nghiệp chủ lực; 3) Phát huy tiềm

năng du lịch sinh thái và văn hóa bản địa, tận dụng thế mạnh tự nhiên và di sản địa

chất, với mục tiêu đưa Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông trở thành

động lực thúc đẩy ngành du lịch bền vững và đặc sắc của tỉnh.

Chấp hành chủ trương của Đảng bộ Tỉnh, Ủy ban Nhân dân Tỉnh đã ban

hành Quyết định 191/QĐ-UBND ngày 1/2/2018 của UBND tỉnh Đắk Nông về phê

duyệt “Đề án Hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai

đoạn 2018-2020” định hướng đến năm 2030”; Kế hoạch phát triển doanh nghiệp

KH&CN, giai đoạn 2021-2025 mục tiêu đến năm 2025 phải phát triển các doanh

nghiệp khởi nghiệp sáng tạo làm nguồn cho sự hình thành và phát triển doanh

nghiệp KH&CN ở Tỉnh, đến năm 2025, tỉnh Đắk Nông phấn đấu sẽ hỗ trợ hình

thành và phát triển 10 doanh nghiệp KH&CN.

e) Chiến lược, kế hoạch của Đảng bộ và Chính quyền tỉnh Lâm Đồng

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ XI, nhiệm kỳ

2020 – 2025 đã chỉ rõ: “Thực hiện đồng bộ các giải pháp, cải thiện môi trường

đầu tư, thu hút khởi nghiệp sáng tạo, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp”; BCH Đảng

bộ Tỉnh cũng xây dựng Chương trình hành động nhằm thực hiện Nghị quyết số

136

29-NQ/TW, ngày 17/11/2022 của BCH TW Đảng về “tiếp tục đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” trên

địa bàn tỉnh, mục đích của Chương trình có nội dung phát triển khởi nghiệp sáng

tạo, các DNKH&CN trên địa bàn tỉnh.

Chấp hành sự chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh, Ủy ban Nhân dân Tỉnh đã ban hành

Quyết định số 225/QĐ-UBND ngày 04/02/2016 về Nâng cao năng suất, chất

lượng sản phẩm, hàng hóa của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai

đoạn 2016-2020; Quyết định số 2323/QĐ-UBND ngày 26/10/2016 của UBND

tỉnh Lâm Đồng về Chương trình hỗ trợ KH&CN cho DN trên địa bàn tỉnh Lâm

Đồng giai đoạn 2016-2020; Quyết định số 740/QĐ-UBND ngày 18/4/2017 của

UBND tỉnh Lâm Đồng; Kế hoạch Số: 7173/KH-UBND ngày 22 tháng 9 năm 2022

của Ủy ban Nhân dân Tỉnh nhằm thực hiện chiến lược phát triển khoa học, công

nghệ và đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2022-2025 Mục

tiêu của các kế hoạch này là tập trung huy động nguồn lực tiềm năng cho phát

triển doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn tỉnh: “đến năm 2025 thành lập 10 doanh

nghiệp KH&CN; hỗ trợ khoảng 12 ý tưởng, dự án hoàn thiện sản phẩm, công

nghệ, mô hình kinh doanh để thành lập doanh nghiệp; hỗ trợ cải tạo, nâng cấp ít

nhất 02 cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung cung cấp cơ sở vật chất - kỹ thuật phục

vụ cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo; có ít nhất 10 ý tưởng, dự án khởi nghiệp,

05 doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được hỗ trợ, cho vay, hỗ trợ lãi

suất sau đầu tư từ hỗ trợ khởi nghiệp” .

4.2. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học

và công nghệ từ thực tiễn vùng Tây Nguyên

4.2.1. Nhóm giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp

luật và đơn giản hóa thủ tục cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và

công nghệ

Trước tiên việc xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển DN KH&CN

của cả nước nói chung và cho vùng Tây Nguyên nói riêng cần phải được đặt trong

tổng thể mô hình phát triển doanh nghiệp theo đặc thù của đất nước và của từng

vùng địa phương đặc biệt là vùng Tây Nguyên. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế,

chính sách, văn bản pháp luật liên quan đến phát triển doanh nghiệp KH&CN có

137

tính đến xây dựng cơ chế đặc thù cho một số địa phương, vùng miền trong đó có

các tỉnh vùng Tây Nguyên, đặc biệt cơ chế đặc thù này cần được qui định rõ trong

các Luật liên quan đến phát triển doanh nghiệp KH&CN ở địa phương, vùng miền,

đặc biệt như vùng Tây Nguyên, bao gồm: Luật Khoa học và công nghệ; Luật

Chuyển giao công nghệ; Luật Sở hữu trí tuệ; Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;

Luật quản lý sử dụng tài sản công.v.v…Bên cạnh đó, các Nghị quyết của Chính phủ

cũng cần phải tuân thủ Luật và phải được đồng bộ hóa, đảm bảo tính áp dụng khả

thi. Hơn nữa, khi các Nghị quyết ra đời và có hiệu lực cần phải cụ thể hóa bằng các

văn bản thông tư hướng dẫn thi hành một cách cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện nhằm

đảm bảo các chính sách của Trung ương xuống đến Địa phương dễ hiểu, dễ áp dụng

và đi vào thực tiễn một cách hiệu quả để việc phát triển doanh nghiệp KH&CN

không chỉ mang tính hình thức, mà chính sách phải đi vào thực tiễn.

Trên thực tế các chính sách do Chính phủ và Chính quyền các tỉnh vùng

Tây Nguyên ban hành về nguyên tắc phải tuân thủ hệ thống Luật và dưới Luật,

không trái Luật. Chính phủ và Chính quyền vùng Tây Nguyên khi ban hành các

chính sách liên quan hỗ trợ cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp

của đất nước cũng như của từng vùng, địa phương thì các chính sách đó chỉ có

tính chất triển khai thực hiện đó là các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định của

Chính phủ và các Quyết định, các Kế hoạch của Uỷ ban Nhân dân Tỉnh ban hành

để triển khai chấp hành các Luật do Quốc hội ban hành. Ngoài ra, ngay từ cấp

Trung ương cần xây dựng các bộ cẩm nang hướng dẫn cụ thể, đầy đủ cho các cán

bộ quản lý và doanh nghiệp ở địa phương hiểu và nắm bắt đầy đủ các qui định về

quyền lợi và nghĩa vụ mà các doanh nghiệp KH&CN ở địa phương được thụ

hưởng và chấp hành. Hơn nữa, cần có bổ sung cụ thể cơ chế chuyển giao quyền sở

hữu trí tuệ đối với kết quả R&D; quyền khai thác và thương mại hóa các kết quả

nghiên cứu có sử dụng ngân sách nhà nước. Đồng thời, cần có hướng dẫn minh

bạch về cơ chế phân chia lợi ích kinh tế thu được từ hoạt động thương mại hóa kết

quả nghiên cứu, nhằm bảo đảm hài hòa quyền lợi giữa các bên liên quan.

Xây dựng các chính sách ưu đãi theo hướng ưu tiên áp dụng cho các sản

phẩm mới ra đời không nên áp dụng theo chủ thể đầu tư như qui định hiện hành.

Điều này sẽ bảo đảm tính phù hợp của các qui định giữa các Luật với nhau, ví dụ

138

như với Luật Đầu tư , từ đó tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn

cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm chế tạo ra sản phẩm mới có giá

trị cho nhu cầu thị trường. Bổ sung quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp

đối với DN KH&CN vào Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp và các văn bản hướng

dẫn, cần xem xét để loại bỏ quy định về điều kiện tỷ lệ doanh thu thì mới được

hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, và mới được xem xét cấp Giấy chứng

nhận DNKHCN, vì để qui định này thì các doanh nghiệp sẽ vô cùng khó khăn để

đạt được là doanh nghiệp KH&CN. Theo tư duy khoa học thì có ứng dụng

KH&CN vào sản xuất kinh doanh thì mới có sản phẩm tốt để tăng doanh thu.

Việc bỏ qui định về tỷ lệ doanh thu là nhằm mở rộng đối tượng đáp ứng điều kiện

được cấp giấy chứng nhận DN KH&CN.

Cần có cơ chế phối hợp với các Bộ, Ngành, Địa phương liên quan để ban

hành các hướng dẫn cụ thể về miễn giảm tiền thuê đất, vay vốn tín dụng đầu tư, ưu

đãi về thuế, bổ sung ưu đãi khi tham gia đấu thầu các công trình, dự án sử dụng

ngân sách đối với sản phẩm KH&CN để hạn chế sự chồng chéo, khó hiểu, khó áp

dụng và hạn chế số các doanh nghiệp KH&CN không tiếp cận được các chính

sách ưu đãi này. Cần có thiết chế để đưa chính sách vào thực tiễn tạo điều kiện cho

các DNKH&CN tiếp cận được nguồn tín dụng ưu đãi dành cho DNKH&CN để

triển khai các dự án nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới. Bộ KH&CN trình

Chính phủ sớm chỉ đạo ngân hàng nhà nước cần có chính sách hỗ trợ doanh

nghiệp của các địa phương vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp và nâng hạn mức tín

dụng để giúp doanh nghiệp có vốn ban đầu cho nghiên cứu và phát triển. Đặc biệt,

Bộ KH&CN cần chủ động tạo hành lang thuận lợi để các DNKH&CN tại khu vực

Tây Nguyên có cơ hội tiếp cận và khai thác hiệu quả các nguồn lực tài chính ưu

đãi từ Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia cũng như Quỹ Đổi mới

Công nghệ Quốc gia.

Ban hành các văn bản hướng dẫn một cách rõ ràng, cụ thể hơn việc thực hiện

cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của các Cơ sở ươm tạo DNKH&CN và

các cơ sở ươm tạo công nghệ. Cần phải sửa đổi ngay các quy định về thủ tục, tránh

rườm rà, phức tạp. Hoàn thiện quy trình đánh giá kết quả KH&CN do tổ chức, cá

nhân tự đầu tư nghiên cứu theo hướng đơn giản hơn, xác định danh mục các giải

139

thưởng KH&CN cụ thể, rõ ràng, kèm theo cơ chế tài chính hỗ trợ để các địa

phương, các vùng miền như vùng Tây Nguyên có cơ sở rõ ràng hơn trong việc

cấp Giấy chứng nhận DNKH&CN ở địa phương. Cần thiết phải tinh giản hóa các

thủ tục hành chính liên quan đến việc xác minh quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp

pháp kết quả nghiên cứu KH&CN, giảm bớt yêu cầu DN phải giải trình chi tiết

quá trình ươm tạo và làm chủ công nghệ. Cần xây dựng thêm chính sách ưu tiên sử

dụng các sản phẩm KH&CN của DN KH&CN đối với các khách hàng trong và

ngoài nước, tạo thành xu thế “Người Việt Nam dùng hàng của doanh nghiệp Việt

Nam”, đặc biệt đối với các gói thầu dự án từ tiền ngân sách nhà nước địa phương

cần có mức ưu tiên đặc biệt khi sử dụng sản phẩm KH&CN của các doanh nghiệp

KH&CN của địa phương. Điều này, sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp R&D

trong lĩnh vực KH&CN mạnh mẽ hơn.

4.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy và đào tạo năng lực cho các chủ thể

triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN từ thực tiễn

vùng Tây Nguyên

Chính phủ và Chính quyền địa phương vùng Tây Nguyên cần rà soát tổ chức,

sắp xếp lại hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về doanh nghiệp KH&CN cả

nước nói chung và tại địa phương nói riêng. Có giải pháp phân cấp, phân quyền rõ

ràng, phù hợp về chức năng nhiệm vụ. Đảm bảo mô tả công việc của qui trình triển

khai thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN, từ đó xây dựng bản

tiêu chuẩn công việc cho từng vị trí công chức, làm căn cứ phân công nhiệm vụ,

gắn với trách nhiệm cá nhân, đặc biệt là trách nhiệm người đứng đầu quá trình

triển khai thực thi chính sách.

Chính phủ và Chính quyền địa phương cần thiết lập tổ chức đầu mối từ trung

ương xuống địa phương với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, rõ ràng

đảm bảo năng lực và đủ điều kiện xử ký các tình huống phát sinh, giải quyết khó

khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp KH&CN nói chung và ở vùng Tây

Nguyên nới riêng. Các tổ chức đầu mối bày đóng vai trò then chốt trong việc thúc

đẩy quá trình chuyển đổi các đơn vị tiềm năng - như tổ chức khoa học và công

nghệ công lập, trung tâm ươm tạo thuộc các viện nghiên cứu và trường đại học -

thành DNKH&CN theo đúng quy định của pháp luật. Hơn nữa, các tổ chức đầu

140

mối này cần tích cực trong việc tạo ra mạng lưới liên kết giữa Trường, Viện và

Doanh nghiệp để quá trình nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ của các doanh

nghiệp được thúc đẩy nhanh chóng hơn. Cần có các tổ chức chuyên trách về thực

hiện công tác khảo sát, phân tích, đánh giá những khó khăn, thách thức, rào cản của

việc phát triển doanh nghiệp KH&CN, đánh giá chính xác, đầy đủ về số lượng

doanh nghiệp KH&CN hiện có và các doanh nghiệp tiềm năng hay các doanh

nghiệp đang hoạt động theo mô hình DNKHCN để có các biện pháp thiết thực thúc

đẩy phát triển doanh nghiệp KH&CN cả về số lượng và chất lượng.

Cần thiết lập cơ chế tổ chức và phân bổ nguồn nhân lực triển khai chính sách

phát triển DNKH&CN một cách khoa học, hiệu quả. Việc phân công nhiệm vụ cần

rõ ràng, cụ thể nhằm bảo đảm tính thống nhất và xuyên suốt trong quá trình thực

thi chính sách tại vùng Tây Nguyên. Phân công công việc phải dựa trên năng lực

chuyên môn, kỹ năng và lợi thế của từng cá nhân, tổ chức, hạn chế tối đa tình

trạng chồng chéo, đùn đẩy. Để tạo đà cho việc phát triển doanh nghiệp KH&CN

ngoài sự tư vấn, tuyên truyền và hỗ trợ các nguồn lực từ các tổ chức khác nhau

trong hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST, thì việc thực hiện chính sách phát triển

DNKH&CN có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào năng lực triển khai

thực thi của các chủ thể thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN.

Năng lực quản lý của chính quyền, năng lực hỗ trợ, tư vấn của chuyên gia và năng

lực đổi mới sáng tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của doanh

nghiệp là những yếu tố then chốt thúc đẩy các doanh nghiệp trở thành doanh

nghiệp KH&CN. Đội ngũ này cần được đào tạo, huấn luyện bài bản các kiến thức

về quản lý, tư vấn, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, KH&CN. Đặc biệt đội ngũ công

chức thực thi cần giỏi về nghiệp vụ, kỹ năng về qui trình quản lý; Đội ngũ chuyên

gia cần có chuyên môn sâu, có kỹ năng tham mưu, tư vấn; Đội ngũ doanh nhân

cần có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, đổi mới sáng tạo, có kỹ năng phối hợp, hợp

tác với các trường đại học, viện nghiên cứu, có năng lực nghiên cứu và phát triển

ứng dụng trong sản xuất, kinh doanh.

Thông tư số 05/2019/TT-BKHĐT ngày 29/3/2019 của Bộ KH&ĐT có qui

định về “hướng dẫn hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho DNNVV” có nhắc đến

nội dung đào tạo chuyên sâu, bồi dưỡng công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ

141

hỗ trợ. Tuy nhiên, phạm vi áp dụng của thông tư chỉ giới hạn đối tượng là

DNNVV, chưa mở rộng hoặc có quy định riêng biệt dành cho DNKH&CN. Cho

đến nay, Nhà nước chưa có qui định cụ thể về đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán

bộ, công chức hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, ĐMST và doanh nghiệp KH&CN,

do vậy cần thiết phải ban hành các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng

lực cho cán bộ, công chức quản lý và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN ở

vùng Tây Nguyên là việc cần phải làm ngay. Luật hỗ trợ DNNVV và các văn bản

hướng dẫn thi hành đã qui đinh nhiều về đào tạo cho DNNVV, nhưng cũng chưa

có qui định đào tạo về nghiên cứu và phát triển cho các doanh nhân trong doanh

nghiệp KH&CN.

4.2.3. Nhóm giải pháp về xây dựng mô hình liên kết doanh nghiệp với trường

đại học và viện nghiên cứu từ thực tiễn vùng Tây Nguyên

Chính phủ và Chính quyền địa phương vùng Tây Nguyên cần lên kế hoạch,

tổ chức, triển khai việc xây dựng mô hình liên kết giữa các doanh nghiệp với các

viện nghiên cứu, trường đại học trên cả nước và tại địa bàn vùng Tây Nguyên và

cả nước nhằm đạt được hai lợi ích: 1) Tạo nguồn doanh nghiệp KH&CN từ các

Viện nghiên cứu và Trường đại học tại Vùng, và thu hút các nhà khoa học, các

chuyên gia, các Viện và Trường của cả nước tham gia vào hỗ trợ cho các doanh

nghiệp ở vùng Tây Nguyên nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; 2) Giúp

cho các doanh nghiệp tiếp nhận kết quả KH&CN mới để hình thành các

DNKHCN, hoặc đặt hàng với các Viện và Trường của cả nước để phối hợp cùng

nghiên cứu và phát triển KH&CN.

Bên cạnh xây dựng cơ chế liên kết, cần có các kế hoạch và biện pháp cụ thể

để thúc đẩy mô hình ươm tạo, doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) được tách ra và

phát triển từ các viện nghiên cứu, các trường đại học. Nhờ cơ chế cho phép thương

mại hóa các kết quả nghiên cứu từ các viện nghiên cứu, trường đại học, việc hiện

thực hóa các thành tựu KH&CN vào đời sống kinh tế trở nên khả thi và hiệu quả

hơn. Doanh nghiệp spin-off khi được tách ra và hoạt động theo mô hình

DNKH&CN tại vùng Tây Nguyên và được sử dụng kết quả KH&CN vào thực tiễn

sản xuất, kinh doanh hoặc thông qua các tổ chức trung gian chuyển giao kết quả

KH&CN thì việc hình thành DNKH&CN là dễ dàng và có hiệu quả. Cần xây dựng

142

các kế hoạch, tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động của các cơ sở ươm tạo tại Viện,

Trường cùng với thu hút vốn đầu tư của các tập đoàn kinh tế, của các doanh nghiệp

lớn, thu hút các DN KH&CN hoạt động có hiệu quả tham gia dẫn dắt các hoạt động

ở mọi lĩnh vực, ngành nghề, từ đó làm cơ sở hình thành và mở rộng phát triển các

doanh nghiệp KH&CN từ mô hình doanh nghiệp khởi nguồn (Spin-off).

Xây dựng cơ chế phối hợp và chuyển giao kết quả nghiên cứu giữa các DN –

Viện – Trường nhằm hình thành và phát triển các chuyên gia của từng ngành, lĩnh

vực phù hợp về ươm tạo công nghệ, thúc đẩy thương mại hóa, tư vấn – môi giới

công nghệ, cũng như đánh giá và định giá tài sản công nghệ của các DNKH&CN,

nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp nhận các kết quả KH&CN mới để hình thành các

DNKH&CN và cũng giúp cho các nhà khoa học có kinh phí để tiếp tục đầu tư,

phát triển hoạt động R&D.

Các ý tưởng nghiên cứu KH&CN, ý tưởng sản xuất, kinh doanh thường khởi

nguồn từ trường đại học, viện nghiên cứu nhưng để biến ý tưởng đó vào thực tiễn

còn là một quá trình. Vì thế, các cơ quan chức năng cần xây dựng mô hình về quỹ

hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp ĐMST ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tạo

động lực thúc đẩy tinh thần nghiên cứu khoa học về sản xuất, kinh doanh trong

sinh viên và đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về doanh nghiệp KH&CN cho các cán

bộ nghiên cứu từ các viện nghiên cứu.

4.2.4. Nhóm giải pháp về phối hợp, tuyên truyền, phổ biến chính sách về phát

triển doanh nghiệp KH&CN và xây dựng mạng lưới truyền thông cho sản phẩm

KH&CN của doanh nghiệp

Giải pháp về phối hợp chặt chẽ, tăng cường chia sẻ thông tin giữa các cơ

quan Bộ, Ngành với vùng Tây Nguyên trong thực thi chính sách phát triển

DNKH&CN vùng Tây Nguyên nhằm xây dựng cơ chế giữa các bộ, ngành ở Trung

ương với vùng Tây Nguyên để xây dựng các chính sách đặc thù cho phát triển

DNKH&CN ở vùng Tây Nguyên. Xây dựng mạng lưới chia sẻ thông tin giữa

Trung ương và các địa phương trong đó có vùng Tây Nguyên để địa phương được

tiếp cận, nắm bắt các chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia như: 1)

Chương trình hỗ trợ phát triển DNKH&CN; 2) Chương trình phát triển thị trường

KH&CN; 3) Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia; 4) Các chương trình, đề án

143

hợp tác quốc tế. Các qui định về phát triển hỗ trợ start-up ở vùng Tây nguyên còn

nhiều hạn chế và khó khả thi. Các bộ ngành, các cơ quan chức năng liên quan cần

tham mưu, ban hành những chính sách thiết thực hơn hỗ trợ doanh nghiệp khởi

nghiệp, ĐMST phát triển thành doanh nghiệp KH&CN, xác định rõ ràng mục tiêu

phát triển, cụ thể như phân loại các loại hình doanh nghiệp ĐMST, các doanh

nghiệp hoạt động theo mô hình DNKH&CN, để có nguyên tắc giúp tổ chức hỗ trợ

doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST hình thành và hoạt động hiệu quả trong việc đẩy

nhanh số lượng và chất lượng các doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn Tây

Nguyên.

Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn triển khai chính sách về

phát triển DNKHCN và các chính sách có liên quan trong lĩnh vực KH&CN cho cả

nước và cho các địa phương của vùng Tây Nguyên, thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng và các hội nghị, hội thảo và các khóa tập huấn. Theo đó, các cơ

quan và doanh nghiệp của cả nước cũng như vùng Tây Nguyên nắm bắt và hiểu rõ

hơn lợi ích của phát triển doanh nghiệp KH&CN tại địa phương của Vùng, nhằm

khai thác và tận dụng tối đa tiềm năng sẵn có của địa phương. Hoạt động truyền

thông được đẩy mạnh góp phần chuyển hóa tư duy thụ động sang tư duy kiến tạo

trong cộng đồng doanh nghiệp vùng Tây Nguyên, giúp họ nắm được vai trò là lực

lượng đột phá, dẫn dắt tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế khu vực. Qua đó,

khơi dậy tinh thần tự lực, chủ động tìm kiếm, làm chủ và ứng dụng công nghệ tiên

tiến. Phát triển mạng lưới truyền thông trên cả nước và ở vùng Tây Nguyên để

quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp KH&CN của Vùng Tây Nguyên nhằm xây

dựng hình ảnh, tạo thương hiệu, đem lại giá trị và tạo uy tín của sản phẩm đến tay

khách hàng, giúp cho khách hàng có niềm tin về sản phẩm được tạo ra từ các

doanh nghiệp KH&CN, từ đó đẩy mạnh thương hiệu “doanh nghiệp khoa học và

công nghệ” có tiếng vang trên thị trường cả nước và quốc tế, theo đó phát triển lợi

thế cạnh tranh của DN KH&CN của vùng Tây Nguyên với các vùng miền khác và

quốc tế. Đa dạng hóa các hình thức và đẩy mạnh tần số truyền thông, quảng bá

thương hiệu sản phẩm được sản xuất từ các DN KH&CN, chọn ra các doanh

nghiệp điển hình có sản phẩm chất lượng cao.

Chính phủ và chính quyền các Tỉnh Tây Nguyên cần đổi mới các kế hoạch,

144

chương trình, nội dung hỗ trợ phát triển DN KH&CN theo các biện pháp hiệu quả

trong phát triển thị trường để mở rộng phạm vi thương mại hóa, hiện thực hóa các

sản phẩm có chất lượng của doanh nghiệp có từ kết quả nghiên cứu và phát triển

KH&CN, nhằm chiếm lĩnh thị trường nội địa và xuất khẩu ra thị trường nước

ngoài. Gia tăng vai trò kết nối của các Hiệp hội doanh nghiệp cấp tỉnh, đặc biệt là

Hiệp hội DNKH&CN. Thúc đẩy việc hỗ trợ DNKH&CN thông qua kênh này

không chỉ nhằm tối ưu hóa nguồn lực hỗ trợ mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy

hình thành mạng lưới liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp tiềm năng với doanh

nghiệp KH&CN.

Truyền thông tới các DN tiềm năng của cả nước và vùng Tây Nguyên phát

triển thành DNKH&CN từ lực lượng start-up. Thông qua các mô hình phối hợp,

liên kết giữa các Cơ sở ươm tạo, DN, Viện, Trường và các tổ chức khác phát triển

kênh truyền thông chính sách và hỗ trợ start-up có đủ điều kiện để được cấp Giấy

chứng nhận DNKH&CN. Chính quyền các tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên cần chủ

động nghiên cứu, tổ chức triển khai các hỗ trợ chuyên sâu đối với hệ thống tổ chức

dịch vụ hỗ trợ DNKH&CN, bao gồm: tổ chức ươm tạo doanh nghiệp; đơn vị thúc

đẩy thương mại hóa; tổ chức tư vấn pháp lý chuyên biệt; đơn vị cung cấp giải pháp

tài chính – đầu tư mạo hiểm; tổ chức chuyên về thẩm định giá trị công nghệ, tài

sản trí tuệ.

4.2.5. Nhóm giải pháp về kiểm tra, thanh tra, giám sát, đánh giá hiệu quả triển

khai chính sách và hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm, xây dựng mô hình ươm

tạo doanh nghiệp KH&CN

Chính phủ và Chính quyền các tỉnh ở vùng Tây Nguyên cần tăng cường

công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá về tiến độ, hiệu quả thực hiện chính sách

phát triển doanh nghiệp KH&CN của cả nước cũng như của vùng Tây Nguyên.

Mục đích của kiểm tra, đánh giá là nhằm phát hiện ra những nhân tố tích cực,

phát hiện ra các doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh nghiệp KH&CN để từ

đó kịp thời tuyên truyền, khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp tiềm năng

phấn đấu trở thành DNKH&CN. Đồng thời, phát hiện ra các tổ chức, cá nhân

tiên tiến điển hình, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thực hiện tốt chính sách phát

triển doanh nghiệp KH&CN để kịp thời tuyên dương, khen thưởng tạo động lực

145

cho cán bộ Nhà nước cũng như các doanh nghiệp trong hoạt động của mình.

Bên cạnh việc nhận diện và phát huy các yếu tố tích cực đang góp phần nâng cao

hiệu quả thực thi chính sách phát triển DNKH&CN tại vùng Tây Nguyên, công tác

kiểm tra, giám sát đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo tính minh

bạch, khách quan và công bằng trong toàn bộ quá trình thực hiện chính sách. Đây

không chỉ là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân, tổ chức

có liên quan, mà còn là kênh để phát hiện kịp thời các tồn tại, bất cập như: chính

sách ưu đãi không đến được đúng đối tượng thụ hưởng; quy trình, thủ tục cấp giấy

chứng nhận DNKH&CN vẫn còn rườm rà, chồng chéo; báo cáo của một số đơn vị

thiếu trung thực, không phản ánh đúng thực trạng. Thông qua kiểm tra, giám sát,

các cơ quan chức năng có thể chủ động phát hiện sơ hở, khoảng trống trong cơ chế

quản lý, trong chính sách và pháp luật, từ đó kiến nghị kịp thời với cấp có thẩm

quyền để điều chỉnh, hoàn thiện thể chế, phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm,

nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và tăng tính hiệu quả, công bằng trong hỗ trợ

DNKH&CN phát triển.

Qua công tác kiểm tra, giám sát để trong quá trình tổ chức thực hiện phát

hiện ra một tình huống có vấn đề cần khắc phục như: Một doanh nghiệp KH&CN

cần được thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai nhưng quỹ đất trong khu công

nghiệp, khu sản xuất còn rất hạn chế, vì vậy kiểm tra phát hiện ra: quy định miễn

tiền thuê đất khó thực hiện và đánh giá nguyên nhân, kiến nghị giải pháp khắc

phục. Hoặc tình huống khác, khi thực hiện chính sách ưu đãi thuế cho DN

KH&CN, nhưng qui định doanh nghiệp phải bảo đảm tỷ lệ và mức tăng trưởng và

doanh thu từ khoa học và công nghệ, nên rất khó thực hiện. Một minh chứng khác,

khi thực thi chính sách ưu đãi tín dụng cho DNKH&CN có tài sản trí tuệ nhưng

trên thực tế các tổ chức tín dụng lại không chấp nhận thế chấp tài sản trí tuệ, nên

qui định này khó khả thi và DN khó tiếp cận được ưu đãi. Đặc biệt, qua kiểm tra,

giám sát phát hiện một vấn đề lớn của các doanh nghiệp khi đầu tư nghiên cứu

KH&CN là nhiều nhà khoa học, nhà sáng lập doanh nghiệp phải tự chi trả toàn bộ

chi phí nghiên cứu, thử nghiệm và thương mại hóa sản phẩm, đối mặt với rủi ro

cao nhưng vẫn phải đóng thuế TNCN ngang bằng với những cá nhân làm nghiên

cứu từ nguồn ngân sách Nhà nước và được trả lương từ ngân sách, từ việc kiểm

146

tra, giám sát này mới đánh giá rằng: chính sách thuế hiện nay còn thiếu công bằng

và chưa tạo ra động lực đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp muốn trở thành

DNKH&CN.

Luật Công nghệ cao đã đặt nền móng cho việc thu hút các quỹ đầu tư mạo

hiểm quốc tế tham gia hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN tại Việt Nam, đặc biệt trong

các giai đoạn then chốt của quá trình đổi mới sáng tạo. Vì vậy cần đẩy mạnh triển

khai ứng dụng thí điểm loại hình cổ phiếu công nghệ này trên phạm vi cả nước và

ở vùng Tây Nguyên, nhằm mục đích đưa loại hình cổ phiếu công nghệ trở thành

hàng hóa giao dịch trên thị trường công nghệ cao, giúp hình thành nguồn vốn mới,

tạo động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp KH&CN của cả nước nói chung

và vùng Tây Nguyên nói riêng. Triển khai mô hình ươm tạo doanh nghiệp

KH&CN trên thực tiễn phù hợp với điều kiện của đất nước cũng như của vùng

miên, đặc biệt là vùng Tây Nguyên. Trước tiên là thành lập các vườn ươm

DNKH&CN tại Tây Nguyên, từ đó tạo nền tảng để hỗ trợ các doanh nghiệp trong

khu vực tiếp cận công nghệ mới, đổi mới sản phẩm, cải tiến quy trình sản xuất.

Đồng thời, cần rà soát, cập nhật và điều chỉnh các quy định hiện hành về vận hành

vườn ươm để bảo đảm linh hoạt, sát với nhu cầu thực tế và điều kiện đặc thù của

147

khu vực Tây Nguyên.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Phát triển DNKHCN vùng Tây Nguyên không chỉ phụ thuộc vào hiệu quả

các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước và quá trình triển khai chính sách

trên cả nước và ở các tỉnh ở vùng Tây Nguyên mà cơ bản phải làm thay đổi

nhận thức của các chủ thể ban hành và thực hiện chính sách trong việc hoàn

thiện chính sách, cải cách thủ tục hành chính trong cấp giấy chứng nhận doanh

nghiệp KH&CN, đổi mới, nâng cao năng lực tổ chức, chỉ đạo triển khai thực

hiện chính sách. Để thích ứng với bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh

toàn cầu ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp cần nhận thức rõ vai trò then

chốt của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo như một trụ cột chiến lược

cho sự phát triển bền vững. Việc chủ động đầu tư vào KH&CN không chỉ là

yêu cầu cấp thiết mà còn là điều kiện sống còn để nâng cao năng lực cạnh

tranh, gia tăng giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường.

Về hoàn thiện thể chế, chính sách, cần sớm ban hành các văn bản hướng

dẫn thi hành đầy đủ và đồng bộ đối với Nghị định số 13/2019/NĐ-CP nhằm tạo

hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch cho quá trình phát triển DNKH&CN.

Đồng thời, cần thực hiện cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, đặc biệt trong

khâu cấp Giấy chứng nhận DNKH&CN; bổ sung các chính sách hỗ trợ thực

chất đối với các cơ sở ươm tạo, tổ chức trung gian khởi nghiệp sáng tạo, nhằm

phát huy tối đa vai trò của các tổ chức này trong hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng

phương án kinh doanh, kết nối thị trường, gọi vốn và thương mại hóa kết quả

nghiên cứu.

Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác truyền thông chính sách một cách

hiệu quả, đa dạng hóa các hình thức như hội nghị, hội thảo, tập huấn chuyên

sâu, phát hành tài liệu hướng dẫn và sử dụng đồng thời nhiều kênh thông tin đại

chúng (báo chí, truyền hình, nền tảng số) để nâng cao nhận thức của các cấp

chính quyền, nhà quản lý và cộng đồng doanh nghiệp – đặc biệt là tại khu vực

Tây Nguyên – về vai trò, quyền lợi và nghĩa vụ khi trở thành DNKH&CN. Việc

triển khai các chương trình tập huấn chuyên đề về quy trình giao quyền sở hữu,

quyền khai thác kết quả KH&CN có sử dụng và không sử dụng ngân sách nhà

148

nước là rất cần thiết, giúp doanh nghiệp nắm bắt rõ hơn về quyền lợi và thủ tục

pháp lý cần thiết. Đồng thời, tổ chức các sự kiện hướng dẫn tiếp cận các

chương trình KH&CN quốc gia, các quỹ hỗ trợ như Quỹ Phát triển KH&CN

Quốc gia, Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia và các nguồn lực khác, tạo điều

kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động được nguồn lực tài chính và kỹ thuật

cần thiết cho hoạt động nghiên cứu và đổi mới.

Ngoài ra, cần xây dựng và triển khai chương trình phát triển DNKH&CN

theo từng giai đoạn cụ thể, có cơ chế phân cấp rõ ràng, giao trách nhiệm cho

từng địa phương để thiết kế chính sách hỗ trợ phù hợp với điều kiện thực tiễn,

đảm bảo doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận và hưởng lợi trực tiếp từ các

149

chương trình này.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Kể từ khi Luật KH&CN năm 2013 được ban hành, Chính phủ đã chủ động

ban hành hàng loạt chính sách nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển

DNKH&CN. Đáng chú ý, Nghị định số 13/2019/NĐ-CP – có hiệu lực từ ngày

20/3/2019 – được xem là bước tiến quan trọng, khi quy định rõ ràng các cơ chế ưu

đãi và hỗ trợ dành cho DNKH&CN, tạo hành lang pháp lý thuận lợi, góp phần

khơi thông nguồn lực ĐMST. Cùng với đó, các cơ quan có thẩm quyền ở trung

ương và địa phương cũng dồn lực hoàn thiện chính sách và triển khai thực hiện

chính sách phát triển DNKH&CN. Mặc dù với sự nỗ lực của Chính phủ và Chính

quyền địa phương việc thực hiện chính sách đã gặt hái một số thành công nhất

định. Tuy vậy, tính đến cuối năm 2023, trên phạm vi toàn quốc mới có 815 DN

được cấp Giấy chứng nhận DNKH&CN. Riêng tại khu vực Tây Nguyên – gồm 5

tỉnh – con số này còn khá khiêm tốn, chỉ dừng lại ở 26 DN đang hoạt động theo

mô hình này.

Nguyên nhân dẫn đến số lượng DNKH&CN còn vô cùng ít ỏi so với mục

tiêu chiến lược đặt ra trên địa bàn cả nước nói chung, vùng Tây Nguyên nói riêng

vì có sự thay đổi về tiêu chí được công nhận là DNKH&CN khác so với tiêu chí

trước đây nên cũng ít các DN có thể đáp ứng được các điều kiện này. Vẫn tồn tại

nhiều rào cản khác khiến quá trình đăng ký trở thành DNKH&CN gặp không ít

khó khăn. Đáng lưu ý, một số quy định hiện hành còn mang tính khắt khe và chưa

thực sự phù hợp với thực tiễn, chẳng hạn như yêu cầu DN phải chứng minh quyền

hợp pháp đối với kết quả nghiên cứu KH&CN, đồng thời phải thuyết minh chi tiết

quá trình ươm tạo, làm chủ công nghệ trước khi được công nhận. Hơn nữa, trên

thực tế, nhiều DNKH&CN sau khi được cấp chứng nhận vẫn chưa được tiếp cận

đầy đủ các cơ chế ưu đãi, khiến cho hiệu quả triển khai chính sách bị hạn chế và

chưa tạo được động lực đủ lớn để thu hút.

Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ cũng như Chính quyền các địa

phương trong đó có vùng Tây Nguyên đã có kế hoạch triển khai, chú trọng đến phát

150

triển các doanh nghiệp tiềm năng có thể trở thành doanh nghiệp KH&CN, thông qua

chú trọng đẩy mạnh hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh mối liên

kết nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, khuyến khích các trường đại

học, viện nghiên cứu chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp KH&CN, khuyến

khích chuyển giao công nghệ, đổi mới thiết bị, dây chuyền công nghệ trong sản

xuất, kinh doanh.

Bên cạnh đó, Chính quyền các tỉnh vùng Tây Nguyên cần phối hợp với các

chủ thể trong việc triển khai thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN trên địa bàn để thực hiện các giải pháp thiết thực nhất thúc đẩy các doanh

nghiệp tiềm năng, các tổ chức KH&CN công lập, các trung tâm ươm tạo, các

doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển thành doanh nghiệp

KH&CN. Cần đột phá trong cải cách cơ chế đầu tư, quản trị và vận hành các khu

ươm tạo DNKH&CN theo mô hình đối tác công – tư, coi đây là giải pháp mang

tính chiến lược để huy động và giải phóng nguồn lực xã hội, thúc đẩy đổi mới sáng

tạo. Phải mạnh dạn mở rộng cánh cửa thu hút các quỹ đầu tư, đặc biệt là quỹ đầu

tư mạo hiểm trong và ngoài nước, nhằm hình thành một dòng chảy tài chính năng

động, bền vững cho các ngành công nghệ mũi nhọn, tiềm năng.

Xem việc xây dựng các liên minh chiến lược giữa DN – viện nghiên cứu –

trường đại học là mũi nhọn để tổ chức triển khai mạnh mẽ các nhiệm vụ KH&CN

thuộc Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia. Thông qua đó, phải tạo cú hích

giúp DN tiếp cận nhanh, làm chủ và ứng dụng công nghệ mới, công nghệ lõi, công

nghệ cao vào toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất. Mục tiêu là nâng tầm tự động hóa,

chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh để không chỉ đứng vững trong nước mà

còn vươn ra thị trường toàn cầu. Tây Nguyên không thể đi sau trong tiến trình

chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế. Việc phát DNKH&CN

phải được xác lập là một trụ cột chiến lược, lồng ghép chặt chẽ vào quy hoạch phát

triển KT-XH từng địa phương. Phải nhìn nhận rõ: DNKH&CN chính là hạt nhân

đổi mới sáng tạo, là lực đẩy chính để thúc đẩy nền kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế

tuần hoàn. Không chỉ dừng ở việc tăng số lượng, phải tạo ra những DNKH&CN

thực sự tinh hoa, có khả năng dẫn dắt thị trường, tạo ảnh hưởng lan tỏa trong toàn

151

vùng và trên phạm vi cả nước. Tây Nguyên cần vươn lên trở thành vùng trụ cột về

KH&CN trong chiến lược phát triển quốc gia, với lực lượng DNKH&CN là đội

quân tiên phong tạo ra sản phẩm công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, có sức cạnh

tranh khu vực và quốc tế. Chính phủ và Chính quyền các tỉnh vùng Tây Nguyên

cần chú trọng đánh giá và cập nhật nhanh chóng chính sách phù hợp triển khai vào

thực tiễn hiệu quả.

2. Một số khuyến nghị

2.1. Khuyến nghị đối với Chính phủ và Bộ KH&CN

Chính phủ, Bộ KH&CN cần sớm ban hành Nghị định thay thế Nghị định số

80/2007/NĐ-CP và Nghị định số 96/2010/NĐ-CP về DNKH&CN, các thông tư

hướng dẫn nhằm hỗ trợ tối đa việc thúc đẩy phát triển hệ thống DNKH&CN, góp

phần đưa các chính sách ưu đãi đối với DNKH&CN được thực hiện có hiệu quả.

Bổ sung, chuẩn hóa hệ thống thủ tục hành chính, các biểu mẫu theo Nghị định số

13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 về DNKH&CN; Áp dụng đồng bộ các luật liên

quan (thuế, DN, đầu tư, ngân sách nhà nước...).

Khuyến nghị Bộ KH&CN phối hợp với Bộ Tài chính sửa đổi quy định của

Nghị định 70/2018/NĐ-CP theo hướng: đối với các nhiệm vụ được ngân sách hỗ

trợ, doanh nghiệp tự động giao quyền để ứng dụng, khai thác, thương mại hóa kết

quả và chứng nhận DNKHCN; sửa đổi thủ tục, trình tự giao quyền đối với các kết

quả nghiên cứu khác theo hướng đơn giản hóa.

Khuyến nghị sửa đổi một số điều của Luật KH&CN về đánh giá, nghiệm thu

kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN không sử dụng ngân sách nhà nước (Điều

37), DNKH&CN (Điều 58) làm cơ sở để tiếp tục hoàn thiện chính sách đối với

DNKH&CN:

+ Về công tác thẩm định, xác nhận kết quả hoạt động KH&CN không sử

dụng NSNN: cải tiến quy trình, thủ tục thẩm định theo hướng đơn giản và bổ sung

thẩm quyền đánh giá của Bộ KH&CN cho các địa phương triển khai thực hiện –

tương tự như việc cấp Giấy chứng nhận DNKH&CN.

+ Sửa đổi quy định về điều kiện công nhận DNKH&CN, các chính sách ưu

đãi hỗ trợ đối với DNKHCN quy định tại Điều 58: bỏ quy định về tỷ lệ doanh thu

152

khi đăng ký chứng nhận DNKH&CN và hưởng ưu đãi thuế TNDN, thiết kế chính

sách ưu đãi đối với DNKH&CN theo hướng ưu đãi toàn bộ doanh thu của sản

phẩm KH&CN.

+ Bổ sung quy định về việc cấp chứng nhận cho các cơ sở ươm tạo công

nghệ, ươm tạo DNKH&CN vào Luật để làm cơ sở ban hành các quy định về cấp

chứng nhận cho cơ sở ươm tạo.

Phê duyệt kế hoạch xây dựng văn bản soạn thảo năm 2025:

+ Ban hành mẫu hợp đồng dịch vụ KH&CN;

+ Ban hành quy định hướng dẫn việc xác định dự án mới thuộc lĩnh vực

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; xác định các tiêu chí để xác định

diện tích đất sử dụng cho hoạt động KH&CN.

+ Bổ sung hướng dẫn cụ thể về danh mục giải thưởng KH&CN,…

Chính phủ, Bộ KH&CN có chủ trương phù hợp hỗ trợ các DNKH&CN ở các

vùng nông thôn miền núi tiếp cận được các chương trình: Chương trình đổi mới

công nghệ quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm

2030... Bộ KH&CN cần tăng cường công tác truyền thông một cách có hệ thống

về DNKH&CN, tập trung vào các nội dung sau:

1) Ban hành cơ chế hỗ trợ và khuyến khích việc hình thành các tổ chức dịch

vụ trung gian KH&CN, đóng vai trò cầu nối giữa các DNKH&CN với các

nguồn lực ĐMST;

2) Tạo hành lang tiếp cận hiệu quả, minh bạch và dễ dàng hơn đối với các

nguồn vốn ưu đãi từ Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia, Quỹ Đổi mới công

nghệ Quốc gia, giúp DNKH&CN triển khai các dự án nghiên cứu ứng

dụng, cải tiến quy trình và đổi mới công nghệ sản xuất;

3) Tổ chức các hoạt động hỗ trợ quảng bá, xúc tiến thương mại cho sản phẩm

KH&CN, đồng thời xây dựng nền tảng thông tin trực tuyến giúp kết nối thị

trường, nhà đầu tư và đối tác tiêu thụ trong nước và quốc tế – từ đó mở

rộng không gian thị trường cho sản phẩm KH&CN Việt Nam;

4) Tăng cường triển khai các chương trình hỗ trợ vốn nghiên cứu, vốn mồi

khởi nghiệp, đặc biệt ưu tiên cho các DN có sản phẩm KH&CN quy mô

153

thương mại, có tiềm năng mở rộng chuỗi giá trị trong ngành hàng;

5) Tập trung hoàn thiện hệ sinh thái KH&CN tại địa phương như Lâm Đồng,

tạo môi trường đầu tư và đổi mới sáng tạo thuận lợi, từ đó nâng cao sức hút

đối với các doanh nghiệp công nghệ trong và ngoài tỉnh;

6) Thúc đẩy xây dựng hệ thống vườn ươm KH&CN, công viên công nghệ,

trung tâm nghiên cứu phát triển, không gian làm việc chung cho khởi

nghiệp ĐMST… nhằm tạo điều kiện phát triển và thu hút đội ngũ nhân lực

KH&CN chất lượng cao, đặc biệt là thế hệ trẻ;

7) Tổ chức các hoạt động học tập thực tế, khảo sát mô hình, trao đổi kinh

nghiệm tại các tỉnh thành có DNKH&CN thành công, giúp các địa phương,

tổ chức và DN trong vùng tiếp cận tư duy, cách làm và bài học kinh nghiệm

từ thực tiễn hiệu quả.

2.2. Khuyến nghị đối với chính quyền các Tỉnh vùng Tây Nguyên

Khuyến nghị về triển khai thực hiện chính sách phát triển DN KH&CN:

1) Đẩy nhanh công nhận kết quả nghiên cứu tự thực hiện bằng nguồn vốn xã

hội hóa: Đổi mới phương thức và đơn giản hóa thủ tục đánh giá, xác nhận

kết quả nghiên cứu KH&CN không sử dụng ngân sách nhà nước;

2) Mở rộng quyền tiếp cận của DNKH&CN vào các nhiệm vụ KH&CN cấp

địa phương: Bảo đảm cơ hội tham gia công bằng, minh bạch cho

DNKH&CN vào các đề tài, dự án KH&CN cấp tỉnh;

3) Áp dụng thực chất các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế và tín dụng đầu tư:

Khẩn trương hoàn thiện và thực thi các cơ chế hỗ trợ như miễn/giảm tiền

thuê đất, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và tiếp cận tín dụng ưu đãi;

4) Tăng cường hoạt động thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu: Triển

khai hiệu quả các chương trình hỗ trợ DN đưa kết quả KH&CN vào sản

xuất – kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm;

5) Hỗ trợ hình thành và vận hành hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST tại địa

phương: Khuyến khích thành lập các cơ sở ươm tạo DNKH&CN, không

gian sáng tạo, khu làm việc chung, trung tâm hỗ trợ kỹ thuật và các tổ chức

154

thúc đẩy khởi nghiệp.

Với thực tế địa phương, việc phát triển DN KH&CN trong thời gian tới trên

địa bàn cần đẩy mạnh ở một số lĩnh vực, ngành sản xuất thế mạnh của vùng Tây

Nguyên:

1) Phát triển DNKHCN ở ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển sản xuất nông

nghiệp: Công nghiệp hỗ trợ cơ khí, chế tạo đang là một trong những thế

mạnh của vùng Tây Nguyên với nhiều sản phẩm đã tạo được thương hiệu,

chỗ đứng vững chắc trên thị trường.

2) Phát triển DNKHCN ở lĩnh vực sản xuất nông nghiệp công nghệ cao như

sản xuất chế biến nông sản chủ yếu có thế mạnh của tỉnh;

3) Phát triển DNKHCN ở lĩnh vực sản xuất dược liệu;

4) Phát triển DNKHCN ở các lĩnh vực công nghệ sinh học

5) Phát triển DNKHCN ở lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng.

2.3. Khuyến nghị đối với bản thân các doanh nghiệp tiềm năng và các doanh

nghiệp đã được cấp giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN vùng Tây Nguyên

Khoa học và công nghệ, ĐMST trong DN không chỉ là yếu tố hỗ trợ mà là

động lực then chốt, giúp DN chuyển hóa tri thức thành giá trị, định vị lại vai trò

trên chuỗi giá trị. Vì vậy, khi hoạt động kinh doanh luôn thay đổi đòi hỏi Doanh

nghiệp phải biết dùng KH&CN, ĐMST thành tư duy chiến lược, nắm bắt những

tiềm năng và thế mạnh của vùng để R&D, để tranh thủ thời cơ, nắm bắt cơ hội đầu

tư cho KH&CN, ý thức về sản phẩm chất lượng cao là sản phẩm được hình thành

từ nghiên cứu KH&CN. Vấn đề nhức nhối của DN hiện nay là làm thể nào để phát

triển KH&CN, ĐMST để trở thành DNKH&CN?

Doanh nghiệp ở vùng Tây Nguyên cần xây dựng chiến lược nghiên cứu và

phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo cho kinh doanh. Rào cản lớn nhất về

KH&CN, ĐMST trong DN không phải là thiếu công nghệ hay nguồn lực, mà là sự

thiếu vắng một văn hóa đổi mới thực chất – nơi ý chí cải tiến được nuôi dưỡng từ

lãnh đạo và lan tỏa đến từng bộ phận, từng con người trong tổ chức. Ý thức và ý

chí để trở thành doanh nghiệp KH&CN phải xuất phát từ xây dựng văn hóa doanh

155

nghiệp, văn hóa đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

TT Tên tạp chí Tên công trình bài bài báo

1 Năm công bố 2020

Tạp chí Quản lý nhà nước (ISSN 2354 – 0761), số 295 (8/2020)

2023 Hoàn thiện chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 2 Quản lý tri thức nhằm trưởng thúc đẩy tăng kinh tế Việt Nam

3 2024

Bàn về sự hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học công nghệ ở Việt Nam

Tạp chí Quản lý nhà nước phiên bản điện tử (ISSN 2815 – 5831), https://www.quanlynhanuoc.vn/202 3/12/20/quan-ly-tri-thuc-nham-thuc- day-tang-truong-kinh-te-viet-nam/ Tạp chí Quản lý nhà nước phiên bản điện tử (ISSN 2815 – 5831), https://www.quanlynhanuoc.vn/202 4/03/07/ban-ve-su-hinh-thanh-va- phat-trien-doanh-nghiep-khoa-hoc- cong-nghe-o-viet-nam/

TT Tên đề tài và vai trò tham gia Số giấy chứng nhận đăng ký kết quả

Năm đăng ký kết quả 2017

Số đăng ký: 2017-60- 1067/KQNC, cấp ngày 28/9/2017

1 Thành viên chính đề tài cấp Quốc gia thuộc chương trình Nghị định thư Việt Nam – Lào: “Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý khoa học và công nghệ của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào giai đoạn 2013-2014”

2017

Số đăng ký: 2017-60- 1068/KQNC, cấp ngày 28/9/2017

2 Thành viên chính đề tài cấp Bộ: “Nghiên cứu áp dụng phương pháp tình huống nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý khoa học và công nghệ trong giai đoạn hiện nay”

2020

3 Thành viên chính đề tài cấp Bộ: “Nghiên cứu đề xuất giải pháp phát triển văn hóa đổi mới sáng tạo để Số đăng ký: 2020-60- 992/KQNC, cấp ngày 06/10/2020

thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp ở Việt Nam”

2021

Số đăng ký: 2021-12- 774/KQNC, cấp ngày 26/4/2021

4 Thành viên chính đề tài cấp Quốc gia: “Nghiên cứu các giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”

2021

Số đăng ký: 2021-12- 883/KQNC, cấp ngày 12/5/2021 5 Thành viên chính đề tài cấp Quốc gia: “Nghiên cứu các giải pháp xã hội hóa hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay”

2025

Số đăng ký: 29/GCN- KHCN, cấp ngày 27/02/2025

157

6 Thành viên đề án cấp tỉnh: “ Nghiên cứu giải pháp đẩy mạnh công tác xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia”

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Kiều Quỳnh Anh, Hồ Việt Hạnh (2022), Một số vấn đề lý luận về thực thi

chính sách công, tạp chí Khoa học Xã hội số 12 (292) 2022.

2. Nguyễn Vân Anh (2013), “Một số cơ chế, chính sách hiện nay đối với doanh

nghiệp Khoa học và Công nghệ”, tạp chí Thông tin Khoa học Chính trị –

Hành chính, Trung tâm Thông tin Khoa học, Học viện Chính trị – Hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh, số 1 năm 2013.

3. Nguyễn Vân Anh, Nguyễn Hồng Hà, Lê Vũ Toàn (2014), Doanh nghiệp

khoa học và công nghệ Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Khoa

học và Công nghệ Việt Nam, S. 19 (2014

4. Dương Hồng Anh, Triệu Bảo Hoa (2018),“ Vai trò của doanh nghiệp trong

đổi mới sáng tạo quốc gia tại Úc” tại tạp chí Chính sách và Quản lý

KH&CN số 3/2018

5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (2020)

6. Bộ KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ (2012), Thông tư Liên tịch số

17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 10.9.2012 sửa đổi, bổ sung Thông

tư 06

7. Bộ KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ (2008), Thông tư Liên tịch số

06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 18.6.2008 hướng dẫn thực hiện

Nghị định số 80/NĐ-CP

8. Bộ KH&CN (2011), Thông tư 32/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011

9. Bộ KH&CN (2013), Tài liệu Hội nghị Phát triển doanh nghiệp KH&CN,

tháng 11.2013

10. Bộ KH&CN (2019), Quyết định số 3263/QĐ-BKHCN ngày 06/11/2019 của

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quy chế tổ chức xét chọn,

vinh doanh “Doanh nghiệp khoa học và công nghệ tiêu biểu”

11. Bộ KH&CN (2021), Quyết định số 2282/QĐ-BKHCN ngày 13/9/2021 của

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Ban hành Kế hoạch phát triển doanh

nghiệp khoa học và công nghệ đến năm 2025, tầm nhìn 2030

12. Bộ KH&CN(2008), Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-

BNV ngày 18/6/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 80/2007/NĐ-CP

158

13. Bộ KH&CN(2008), Thông tư liên tịch số 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-

BNV ngày 10/9/2012 sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 06/2008/TTLT-

BKHCN-BTC-BNV ngày 18/6/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số

80/2007/NĐ-CP

14. Bộ KH&CN(2008), Thông tư số 15/2014/TT-BKHCN ngày 13/6/2014 quy

định về thủ tục giao quyền sở hữu, sử dụng kết quả KH&CN

15. Bộ KH&CN(2008), Thông tư số 02/2020/TT-BKHCN ngày 10/8/2020 hướng

dẫn thi hành Nghị định số 70/2018/NĐ-CP

16. Bộ KH&CN(2008), Thông tư số 10/2021/TT-BKHCN ngày 17/11/2021 của

Bộ Khoa học và Công nghệ quy định biện pháp thi hành một số điều của

Nghị định số 13/2019NĐ-CP về doanh nghiệp khoa học và công nghệ

17. Bộ KH&CN(2008), Thông tư 05/2022/TT-BKHCN ngày 31/5/2022 Bộ Khoa

học và Công nghệ hướng dẫn sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của doanh

nghiệp

18. Cục sở hữu trí tuệ (2013), Báo cáo thường niên hoạt động sở hữu trí tuệ

2013, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, 2013.

19. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia (2010) nghiên cứu về

“Chính sách thúc đẩy sự hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và

công nghệ: kinh nghiệm của Trung Quốc”

20. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2012) nghiên cứu về

"Chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp

21. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia (2015), tổng luận khoa học-

công nghệ - kinh tế

22. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia (2017), ), tổng luận khoa

học-công nghệ - kinh tế

23. Phạm Văn Diễn (2012), “Trao đổi về doanh nghiệp KH&CN”, tài liệu tập

huấn KH&CN tại Bình Dương ngày 23/10/2012, Trường quản lý KH&CN,

Bộ KH&CN, 2012

24. Lê Vinh Danh [2001] trong công trình “Chính sách công của Hoa Kỳ giai

đoạn 1935 – 2000” , NXB thống kê.

25. Phạm Đại Dương, Đào Thanh Trường, Nguyễn Thị Ngọc Anh, Nguyễn Thúy

Hiền (2017), Ươm tạo doanh nghiệp công nghệ ở Việt Nam: Một tiếp cận

phân tích cơ sở pháp lý, Tạp chí Nghiên cứu Chính sách và Quản lý, Đại học

159

Quốc gia Hà Nội.

26. Trần Văn Đích (2014), “Khái niệm, con đường hình thành và phát triển

doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, tài liệu hội nghị triển khai “Chương

trình khoa học và công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất

lượng sản phẩm và hàng hóa tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2014 –

2020”, Bà Rịa – Vũng Tàu, ngày 10/9/2014.

27. Vũ Cao Đàm (2006), “Lại bàn về doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ” tạp

chí Hoạt động khoa học, Bộ Khoa học và Công nghệ, số tháng 10, 2006;

28. Lê Thi Gấm - Nguyễn Thi Ánh Mây. 2022. Thực hiện chính sách công –

Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.

29. Hồ Việt Hạnh, Kiều Quỳnh Anh (đồng chủ biên, 2024), Chính Sách Công

So Sánh, NXB Khoa học Xã hội:

30. Mai Hà, Hoàng Văn Tuyên, Đào Thanh Trường (2015), Doanh nghiệp Khoa

học và Công nghệ, Từ lý luận đến thực tiễn, NXB Khoa học và Kỹ thuật

31. Bùi Thị Huy Hợp, Nguyễn Hồng Nhung, Đỗ Văn Xuân, Phạm Hùng

Phong, Nguyễn Minh Hương, Lưu Thị Lam Giang có bài viết: “ Tư vấn,

hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hội nhập toàn cầu”,

tại tạp chí Chính sách và Quản lý KH&CN số 2/2017.

32. Hoàng Xuân Hòa, PGS.TS. Phạm Thị Hồng Yến (2016) về đổi mới cơ chế,

chính sách hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp, Tạp chí Khoa học Việt

Nam trực tuyến

33. Hồ Ngọc Luật, Phạm Thế Dũng với bài viết: “ Điều tra thống kế đổi mới

sáng tạo trong doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt

Nam” tại tạp chí Chính sách và Quản lý KH&CN số 3/2018.

34. Nguyễn Thị Minh Nga, Hoàng Văn Tuyên (2006), “Chính sách hỗ trợ phát

triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ – kinh nghiệm các nước châu

Âu”, tạp chí nghiên cứu chính sách khoa học và công nghệ, Viện chiến lược

và chính sách Khoa học và Công nghệ, số 12 tháng 12 năm 2006;

35. Nguyễn Thị Minh Nga (2013), Nghiên cứu sự hình thành và phát triển doanh

nghiệp KH&CN: Trường hợp Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Báo

cáo tổng hợp đề tài, năm 2013

36. Phạm Đức Nghiệm (2014), “Ba nhóm giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh

160

nghiệp khoa học và công nghệ”, http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/khoa-

hoc/item/23299202-ba-nhom-giai-phap-day-manh-phat-trien-doanh-nghiep-

khoa-hoc-va-cong-nghe.htmlhttp://khoinghiep.daklak.gov.vn.

36b. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2020), “Tổng quan về chính sách phát triển tổ chức

vệ tinh (spin-off) thành doanh nghiệp khởi nghiệp trong trường đại học:

Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn,

6(2b), 229–239.

37. Quốc hội (2013), Luật KH&CN số 29/2013/QH13 ngày 18.6.2013;

38. Quốc hội (2008), Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 ngày 13.11.2008;

39. Quốc hội (2006), Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày

29.6.2006;

40. Quốc hội (2005), Luật đầu tư số 59/2005/QH 11 ngày 29/11/2005;

41. Quốc hội (2005), Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm

2009);

42. Quốc hội (2008), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (được sửa đổi,

bổ sung năm 2013);

43. Quốc hội (2013), Luật Khoa học và công nghệ năm 2013; 2)

44. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2013;

45. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư năm 2014;

46. Quốc hội (2017), Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14

47. Quốc hội (2017), Luật chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14

48. Quốc hội (2017), Luật quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14;7

49. Quốc hội (2020), Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 ngày 17 tháng 6 năm 2020;

50. Quốc hội (2020), Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 ngày 17 tháng 6 năm

2020.

51. Quốc hội (2020), Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 ngày 17 tháng 6 năm 2020,

52. Nguyễn Quân (2006), “Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ – một lực lượng

sản xuất mới”, tạp chí Hoạt động khoa học, Bộ Bộ Khoa học và Công nghệ,

số tháng 10, 2006;

53. Phạm Hồng Quất (2014), “Doanh nghiệp KH&CN: Cơ hội và thách

thức”, http://baodatviet.vn/khoa-hoc/doanh-nghiep-khampcn-co-hoi-va-

thach-thuc-3039541/

54. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk (2021), Kế hoạch số 148/KH-

161

SKHCN ngày 24/8/2021

55. Sở Khoa học và Công nghệ (2023), Kế hoạch số 25/KH-SKHCN Ngày

31/3/2023 về Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2023, để thực hiện nhiệm

vụ được giao tại Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon

Tum giai đoạn 2021-2025

56. Vũ Anh Tuấn (2012) Một số vấn đề về chính sách công ở Việt Nam hiện nay

Tạp chí Tổ chức nhà nước Số 6/2012

57. Trần Văn Tùng (2008), Bản chất doanh nghiệp KH&CN ở nước ta, Tạp chí

hoạt động khoa học, số sthangs 4.2008

58. Trần Văn Tùng (2011), Thành lập doanh nghiệp KH&CN trên cơ sở chuyển

hình thức hoạt động của tổ chức KH&CN theo quan điểm phát triển. Tạp chí

hoạt động khoa học, số tháng 11/2010

59. Thủ tướng Chính phủ (2005), Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5.9.2005

quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập;

60. Thủ tướng Chính phủ (2007), Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19.5.2007

về doanh nghiệp KH&CN;

61. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định 49/2010/QĐ-TTg ngày 19 tháng 7

năm 2010 về việc phê duyệt danh mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển

và doanh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển.

62. Thủ tướng Chính phủ (2010), Nghị định 96/2010/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm

2010

63. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1244/QĐ-TTg ngày 25 tháng 7

năm 2011 về việc phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN

chủ yếu giai đoạn 2011 – 2015;

64. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày 22.5.2012 về

việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ

chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm

65. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4

năm 2012 phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn

2011 – 2020

66. Thủ tướng Chính phủ (2014), Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014

quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.

67. Thủ tướng Chính phủ (2014) Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014

162

về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN.

68. Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ hướng dẫn

một số điều của Luật đầu tư.

69. Thủ Tướng Chính phủ ( 2016), Nghị định số 140/2016/NĐ-CP ngày

10/10/2016 quy định về lệ phí trước bạ.

70. Thủ tướng Chính phủ (2017) Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/03/2017

về tín dụng đầu tư của Nhà nước.

71. Thủ tướng Chính phủ (2018) Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018

quy định chi tiết một số điều của Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

72. Thủ tướng Chính phủ (2018) Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chuyển giao

công nghệ.

73. Thủ tướng Chính phủ (2018), Nghị định số 70/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018

quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển

khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước

74. Thủ tướng Chính phủ (2019) Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 02

năm 2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN (thay thế Nghị định số

80/2007/NĐ-CP, Nghị định số 96/2010/NĐ-CP và Điều 20 Nghị định số

95/2014/NĐ-CP về DN KH&CN.

75. Thủ tướng Chính phủ (2021) Quyết định số 2282/QĐ-BKHCN ngày

13/09/2021 của Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Kế hoạch phát triển

doanh nghiệp KH&CN đến năm 2025, tầm nhìn 2030.

76. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 569/QĐ-TTg ngày 11 tháng 5

năm 2022 ban hành Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST.

77. Thủ tướng chính phủ (2022), Nghị quyết số 152/NQ-CP của Chính Phủ,

ngày 15 tháng 11 năm 2022.

78. Thủ tướng Chính phủ (2021) Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3

năm 2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu

tư.

79. Thủ tướng Chính phủ (2022) Nghị định Số: 109/2022/NĐ-CP ngày 30 tháng

12 năm 2022 Qui định về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo

163

dục đại học.

80. Thủ tướng Chính phủ (2023) Quyết định số 12/2023/QĐ-TTg ngày

15/5/2023 có hiệu lực từ 1/7/2023, qui định về cấp giấy chứng nhận chuyển

giao công nghệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ.

81. Đào Thanh Trường (2017) “Một số vấn đề lý luận trong nghiên cứu thúc đẩy

hình thành doanh nghiệp công nghệ thông qua vườn ươm doanh nghiệp công

nghệ” Chuyên san Nghiên cứu chính sách và quản lý, Tạp chí Khoa học Đại

học Quốc gia Hà Nội, số 33 số 4/ 2017, ISSN: 0866-8612, 2017.

82. UBND tỉnh Đắk Lắk (2020), Quyết định số: 1839/QĐ-UBND ngày

13/8/2020 về phê duyệt đề án hỗ trợ và phát triển DNNVN trên địa bàn tỉnh

Đắk Lắk giai đoan 2020-2025, định hướng đến năm 2030;

83. UBND tỉnh Đắk Lắk (2021), Kế hoạch Số: 3756/KH-UBND ngày 05 tháng

05 năm 2021 về nâng cao năng suất sựa trên nền tảng KH,CN&ĐMST trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2021-2023

84. UBND tỉnh Đắk Lắk( 2018), kế hoạch số 2722/KH-UBND, Ngày 09/4/2018

“Kế hoạch Hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và khởi sự kinh doanh tỉnh

Đắk Lắk đến năm 2020, định hướng 2025”.

85. UBND tỉnh Đắk Lắk (2021), Chương trình quốc gia “hỗ trợ doanh nghiệp

nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá trên địa bàn tỉnh Đắk

Lắk giai đoạn 2021- 2025, định hướng đến năm 2030”.

86. UBND tỉnh Đắk Lắk (2018), Kế hoạch số 2722/KH-UBND ngày 09/4/2018

về hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và khởi sự kinh doanh tỉnh Đắk Lắk

đến năm 2020, định hướng đến năm 2025.

87. UBND tỉnh Đắk Lắk (2021), Kế hoạch số 148/KH-SKHCN ngày 24/8/2021

của Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk, về việc thực hiện “Chương trình

quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm,

hàng hoá trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2021- 2025, định hướng đến

năm 2030” trong năm 2021;

88. UBND tỉnh Đắk Lắk (2020), Quyết định số: 1839/QĐ-UBND ngày

13/8/2020 của UBND tỉnh Đắk Lắk về phê duyệt đề án hỗ trợ và phát triển

DNNVN trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoan 2020-2025, định hướng đến

164

năm 2030;

89. UBND tỉnh Đắk Lắk (2021), Kế hoạch Số: 3756/KH-UBND ngày 05 tháng

05 năm 2021 về nâng cao năng suất sựa trên nền tảng KH,CN&ĐMST trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2021-2023 của UBND tỉnh Đắk Lắk.

90. UBND tỉnh Lâm Đồng (2016), Quyết định số 225/QĐ-UBND ngày

04/02/2016

91. UBND tỉnh Lâm Đồng Quyết định số 2323/QĐ-UBND ngày 26/10/2016 về

Chương trình hỗ trợ KH&CN cho DN trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn

2016-2020.

92. UBND tỉnh Gia Lai (2021), Quyết định số 663/QĐ-UBND ngày 5/10/2021

Kế hoạch thực hiện Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Quốc gia đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Gia Lai”

93. UBND tỉnh Kon Tum (2021), Quyết định số 456/QĐ-UBND ngày 26/5/2021

của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Đề án hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ

và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum giai đoạn 2021-2025

94. UBND tỉnh Kon Tum (2020), Kế hoạch số 1587/KH-UBND ngày 08/5/2020

về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN trên địa bàn tỉnh Kon Tum đến

năm 2025;

95. UBND tỉnh Kon Tum (2021), Kế hoạch số 4485/KH-UBND ngày 03 tháng

12 năm 2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh về phát triển KH&CN tỉnh Kon Tum

giai đoạn 2021-2025,

96. UBND tỉnh Kon Tum (2021), Kế hoạch số 14/KH-SKHCN Ngày 02/2/2021

về việc Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN năm 2021.

97. UBND tỉnh Kon Tum (2021), Kế hoạch số 1587/KH-UBN ngày 08 tháng 5

năm 2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp

KH&CN trên địa bàn tỉnh Kon Tum đến năm 2025.

98. UBND tỉnh Kon Tum (2021), Kế hoạch số 1587/KH-UBND ngày 08/5/2020

của UBND tỉnh Kon Tum vềhỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN trên địa

bàn tỉnh Kon Tum đến năm 2025;

99. UBND tỉnh Kon Tum (2023), Kế hoạch số 2629/KH-UBND ngày 15/8/2023

về triển khai thực hiện Chiến lược đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh.

100. UBND tỉnh Kon Tum (2020), Kế hoạch số 1587/KH-UBND ngày 08/5/2020

về Hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp Khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh

165

Kon Tum đến năm 2025.

101. UBND tỉnh Gia Lai (2021), Kế hoạch số 3232/KH-UBND ngày 10/9/2021

về triển khai thực hiện Quyết định số 1158/QĐ-TTg ngày 13 tháng 7 năm 2021

của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình phát triển thị

trường khoa học và công nghệ quốc gia đến năm 2030.

102. UBND tỉnh Gia Lai (2021), Kế hoạch số 6648/KH-UBND ngày 21/7/2021 về

việc thực hiện kế hoạch số 9239/KH-UBND, ngày 16/11/2016 về triển khai Đề

án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”.

103. UBND tỉnh Gia Lai (2022), Kế hoạch số 4/ KH-UBND ngày 04/01/2022 Ủy

ban nhân dân tỉnh ban hành về phát triển doanh nghiệp khoa học và công

nghệ trên địa bàn tỉnh Gia Lai đến năm 2025.

104. Nguyễn Trọng Xuân Phát triển doanh nghiệp ở Tây Nguyên 2013 - 2014

Chương trình KHCN trọng điểm cấp nhà nước "Khoa học và Công nghệ

phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên”, Mã số KHCN-

TN3/11-15 (Chương trình Tây Nguyên 3).

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

105. Anh-Minh Do. Techinasia. 2013. “A comprehensive mindmap of Vietnam’s

startup ecosystem”. http://www.techinasia.com/mindmap-vietnam-startup-

ecosystem.

106. Anh-Minh Do. Techinasia. 2014. “A comprehensive look at Vietnam’s

startup ecosystem in 2014: 6 investors, 10 incubators, and lots more”.

http://www.techinasia.com/comprehensive-on-vietnam-incubator-ecosystem.

107. Autio E (1994a) , Four types of innovator. A conceptual and empirical study

of New tecnology based companies as innovators, Helsinki University of

Technology.

108. Autio E (1997a), Atomistic andsystemic approaches to researches to

resiearch on new, technology-based firms: aliterature study, small Bussiness

Economics, ol 9. Pp 195-209.

109. Anna Trunina, Xielin Liu, Jian Chen, “Small and medium technology

enterprises in Zhongguancun and Silicon Valley: Regional innovation system

approach” Journal of Science and Technology Policy Management ISSN:

166

2053-4620 , Publication date: 4 March 2019 , t

110. Barbara Bigliardi, Francesco Galati, Chiara Verbano (2013), “Evaluating

Performance of University Spin – Off Companies: lessons from Italy”,

Journal of Technology Management & Innovation. 2013, Volum 8, Issue 2,

ISSN:0718 – 2724 (http://www.jotmi.org), Universidad Alberto Hurtado,

Facultad de Economia y Negocios.

111. Balazs K (1996), Aca demic entreprenneurss and their role in economic

development, No,37, University of Susex.

112. Butchar. R (1987), A new UK science and technology, Economic Review,

Vol 40, pp 82088.

113. Candi. M. (2008), oil in water Explaining difiren Tenovation, Vol 28, pp

474-471.

114. Chamanski A (2001), The oganizational success of new, technology-based

firms, Univesity of science and technology.

115. Cooper A.C (1971), The founding of technology – based firms, Univesity of

science and technology

116. Coeuderoy R (2008), Regulatory environments and the locationde, Journal of

Internatinal Biusiness Studies, Vol 30, pp 670

117. David Abbott (2019): Beyond public policy: A public action languages

approach, Spink, Peter Kevin Edward Elgar, 2019, 256 pp

118. Doh, S., Kim, B., (2014), “Government support for SME innovations in the

regional industries: The case of government financial support program in

South Korea”, Res. Policy, http://dx.doi.org/10.1016/j.respol.2014.05.001

119. Donckels R (1991), Are family business really diferent, Journal of

Internatinal Biusiness Studies, Vol 31.

120. Edwards, George C. 1980. Implementing Public Policy, Washington, D.C.:

Congressional Quarterly Press, p.143.

121. Fontes (1995), New technology-based firm, Univesity of science and

technology

122. Hsi-Yin Yeh (2014), The Longitudinal Study of Highly-Impact-Technology

Enterprises in the ICT Industry: A Social Network Perspective, Journal of

Global Information Management (JGIM) 22.

123. http://www.tradingeconomics.com/china/sales-tax-rate

167

124. http://www.chinaconsulatesf.org/eng/kj/kjjh/t43943.htm

125. http://www.chinaconsulatesf.org/eng/kj/kjjh/t43943.htm

126. IDG Ventures (2009), Venture Impact (5 ed.). IHS Global Insight,

p. 2. ISBN 0-9785015-7-8.

127. John H.Dunning, “Multinational enterprises and the globalization of

innovatory capacity”, Author links open overlay paneluch of this paper was

originally published as a chapter by the author in Technology Management

and International Business: Internationalization of R&D Technology, edited

by O. Granstrand, S. Sjöland and L. Hakansson (J. Wiley, London, 1992),

Copyright © 1994 Published by Elsevier B.

128. James Anderson (1984) “Public Policy: An Introduction to the Theory and

Practice of policy Analysis”

129. Jing Liu, Modeling Analysis of the Fierce Influence of Environmental

Governance on Small Science and Technology of Enterprises, Ekoloji, 2019,

Issue 108, Pages: 1129-113

130. Kraft, Michael E.; Furlong, Scott R. 2015. Public Policy: Politics, Analysis,

and Alternatives. 5th Edition, Washington, D.C: CQ Press.

131. Lee J (19950 Small firms inovation in two technological setings, Research

Policy, Vol 24

132. Masayuki Kondo (2004), “University spin – offs in Japan”; tech monitor,

Mar-Apr 2004.

133. Ministry of SMEs and startups (2015), “No. of Korean SMEs & Employees

byYear”, https://www.mss.go.kr/site/eng/02/20204000000002019110624.jsp

?fbclid=IwAR3PW49mEpqoxoYGl7h9QzYMC44DFLsrKLj6j8CwOO-

WLhXSWuT0OY3n_Fc.

134. MSS (2017), “Biz. Environment – MSS Policies – Major Policies”,

https://www.mss. go.kr/site/eng/03/10302000000002017111508.jsp.

135. Pratyush Bharati and Abhijit Chaudhury (2012), Technology Assimilation

Across the Value Chain: An Empirical Study of Small and Medium-Sized

Enterprises. University of Massachusetts, USA; Bryant University, USA

136. Perez M.F (2003) The developtment of university spin-offs Source Title:

168

Information Resources Management Journal (IRMJ).

137. Qiwen Lu (2001), “Learning and innovation in a transitional economy: the rise of science and technology enterprises in the Chinese information

technology industry” , Published online 1 January 2001.

Working Korea”, OECD, in

138. Randall S.Jones, Jea Wan Lee (2018), “Enhancing Dynamism in SMEs and Entrepreneurship Papers No 1510, http://www.oecd.org/officialdocuments/publicdisplaydocumentpdf/ ?cote=ECO/WKP(2018)58&docLanguage=En

139. S.I.Oladeji, “Technology policy and the development of small and medium

scale enterprises in contemporary Nigeria”, science public policy.

140. Shearman C.(2014), Tindara Abbate, Fabrizio Cesaroni, “Market Orientation and academic spin-off firms”, Working Paper, ISSN 1989-8843, January,

2014, Universidad Carlos III de Madrid.

141. Stankiewica R, (1994), Spin-off companies from universities, science public

policy.

142. Storey D.J (1994), Understanding the small business sector, Lon Don,

Routledge.

143. Soo-Yong Kim (2007), SME Innovation Policies in Korea, The Policy Environment for the Development of SMEs, pp. 129-149, Published by

Pacific Economic Cooperation Council and the Chinese Taipei Pacific

Economic Cooperation Committee.

144. Thomas Dye (năm 1972) “Policy Analysis: A political and Or Michael Howlett and M. Ramesh: Studying Public Policy: Policy Cycles and Policy

Subsystems”, Oxford University Press, 1995

145. Thomas Astebro, Navid Bazzazian, Serguey Braguinsky (2011), “Startup by

Recent Univercity Graduates versus their Faculty- Implications for

University Entrepreneurship Policy”, available

at: http://www.andrew.cmu/user/sbrag/ABB.pdf; http://www.stanford.edu/home/stanford/facts/

146. Thomas R. Dye. (2007) Understanding Public Policy. (12th Edition). Prentice

Hall.

147. Tingli Pan (2020), Analysis on the Development of High-Tech Enterprises Against the Background of Tax and Fee Reduction Policies: Taking

169

Chongqing as an Example, 4th International Conference on Culture,

Education and Economic Development of Modern Society (ICCESE 2020),

Publication Date 19 March 2020

148. Tindara Abbate, Fabrizio Cesaroni (2014), “Market Orientation and academic spin-off firms”, Working Paper, ISSN 1989-8843, January,2014,

Universidad Carlos III de Madrid, 2014.

149. William Jenkins (1978), “Policy Analysis: A Political and Organizational

Perspective”.

150. Weiqi Liang, Yinying Kong, Jiankui Huang and Jiajun Zeng, Research on the Evaluation of the Developmental Potential in Guangdong's Listed High- Tech Enterprises under the Policy of Guangdong-Hong Kong-Macao

Greater Bay Area, Published under licence by IOP Publishing Ltd, IOP

Conference Series: Materials Science and Engineering, Volume 677, Issue 3. 151. WIPO (2001), “KIPO Activities Targeted at the SMEs Sector (Republic of vation, Korea)”, https://www.wipo.int/sme/en/best_ practices/kipo.htm

Entrepreneurship, and the Economy in the US, China, and India

152. Xiaolin Mo, Ningkang Zheng, Incentive Practice and Enlightenment of State-Owned Science and Technology Enterprises (2019), Conference paper

First Online: 30 March 2019, Part of the Advances in Intelligent Systems and

Computing book series (AISC, volume 929), Volume 18, Issue 2, February

1998, Pages 125-132.

153. Yan Xiaochang; Huang Guitian (2019) The Impact of Government Subsidies on Other Sources of Science and Technology Funds for Enterprises——Study

Based on Software Industrial Base, School of Economics,Peking University. 154. YonghongShaanxi (2019). Institute of International Trade and Commerce, Shaanxi, 712046, International Social Sciences and Education Conference

(ISSEC 2019), Supporting Policy of Breeding Unicorn Enterprises in Xi'an

Jiang China.

155. Yvonne Bernardt, Richard Kerste, Joris Meijaard (2002), “ Spin-off, Start – ups in the Netherlands”, Strategic Study B200106, ISBN: 90-371-0854-7,

Netherlands Ministry of Economic Affairs, Zoetermeer, May,2002.

156. Zofia Gródek-Szostak (2019), The role of innovative policy in creating system services to support development of agri-food enterprises. Cracow

University of Economics, 31-510 Kraków, Rakowicka 27, Poland . The

170

Authors, published by EDP Sciences, 2019

PHỤ LỤC 1: MẪU BẢNG HỎI 1 (Dành cho các doanh nghiệp )

Thưa ông (bà)!

Tôi đang làm đề tài: “Chính sách phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ-

từ thực tiễn vùng Tây Nguyên” để phục vụ cho việc viết luận án tiến sỹ.

Qua bảng hỏi này tôi muốn tìm hiểu ý kiến của ông (bà) về một số thông tin liên

quan đến luận án ở vùng Tây Nguyên Việt Nam hiện nay. Sự giúp đỡ của ông (bà)

sẽ giúp tôi hoàn thành luận án nghiên cứu trong chương trình học tập của mình.

Xin ông (bà) vui lòng cho ý kiến cá nhân của mình đối với các thông tin sau bằng

cách đánh dấu khoanh tròn vào con số phương án lựa chọn.

I.THÔNG TIN VỀ NGƯỜI TRẢ LỜI

1. Họ tên:

2.Đơn vị công tác:

3. Chức vụ

II. ĐÁNH GIÁ VỀ VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT

TRIỂN DOANH NGHIỆP KH&CN Ở VÙNG TÂY NGUYÊN

1. Ông/bà có được biết chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho phát triển doanh nghiệp

KHCN ở Việt Nam hiện nay?

1. Có 2. Không

2. Nếu có ông/bà được biết chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho phát triển danh

nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên qua các nguồn nào sau đây?

1. Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (báo viết, báo hình, báo

mạng…)

Qua cổng thông tin điện tử của Chính phủ, 2.

Qua cổng thông tin điện tử của Bộ KHCN 3.

Qua cổng thông tin điện tử của địa phương 4.

Qua sở KH&CN 5.

Qua hội thảo, hội nghị, tập huấn 6.

Qua các đồng nghiệp 7.

171

Hình thức khác (Ghi rõ:……………..……………….) 8.

3. Theo ông/bà, khi thực hiện đăng ký doanh nghiệp khoa học và công nghệ

(DNKH&CN) thì có thuận lợi hay khó khăn?

Thuận lợi 1.

Khó khăn 2.

3. Lý do của thuận lợi/khó khăn:……………………

………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………

4. Ông (bà) hãy cho biết ý kiến về mức độ quan trọng của việc nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh ở

doanh nghiệp/ địa phương của ông, bà:

Nội dung Rất Quan Tương Không

quan trọng đối quan quan

trọng trọng trọng

Đối với thương hiệu doanh nghiệp, uy

tín của khách hàng

Đối với chất lượng sản phẩm hàng hóa

Đối với việc được ưu đãi

Đối với phát triển kinh tế địa phương

Đối với tăng lợi nhuận sản xuất, kinh

doanh

Xin ông (bà) bổ sung một số vấn đề

khác:

………………………………………

………………………………………

5. Theo ông/bà, chính sách về hỗ trợ, đầu tư tài chính cho nghiên cứu và phát

triển KH&CN (R&D) ở vùng Tây Nguyên được huy động từ nguồn nào?

1. Từ sự đóng góp nguồn lực tài chính của các Qũi phát triển KH&CN, Qũi

172

đổi mới Công nghệ Quốc gia

Từ ngân sách nhà nước 2.

Từ sự đóng góp nguồn lực tài chính của các tổ chức trong nước 3.

Từ sự tham gia đóng góp nguồn lực tài chính của các tổ chức Quốc tế 4.

Từ nguồn hoạt động sản xuất, kinh doanh của chính doanh nghiệp mình 5.

Hình thức khác (Ghi rõ:……………..…………………………………) 6.

6. Ông/bà đánh giá như thế nào về chính sách tín dụng cho R&D của DN?

1. Ưu đãi, ưu tiên cho các doanh nghiệp tiềm năng ( khởi nghiệp sáng tạo,

khởi nguồn từ tổ chức khác) nhưng chưa ưu tiên cho DNKH&CN

2. Ưu đãi, ưu tiên cho các cho DNKH&CN nhưng chưa ưu tiên các doanh

nghiệp tiềm năng ( khởi nghiệp sáng tạo, khởi nguồn từ tổ chức khác)

Chưa ưu đãi, hỗ trợ các doanh nghiệp ở địa phương 3.

Có chính sách tín dụng bình đẳng giữa các doanh nghiệp KH&CN 4.

Có chính sách bình đẳng giữa các địa phương trong vùng Tây Nguyên 5.

Các doanh nghiệp KH&CN ở Tây Nguyên khó tiếp cận được chính sách tín 6.

dụng cho R&D

7. Khác(Ghi rõ…………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

7. Ông/bà đánh giá thế nào về chính sách thuế cho R&D ở các DNKH&CN Tây

Nguyên?

Có sự bình đẳng giữa các DNKH&CN 1.

Chưa có sự bình đẳng giữa các DN KH&CN 2.

Lý do có/chưa bình đẳng: ………………………………………………. 3.

……………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………..

8. Theo ông/bà chính sách đất đai trong R&D của các DNKH&CN vùng Tây

Nguyên như thế nào?

1. Ưu đãi về đất đai cho các cho DNKH&CN nhưng chưa ưu tiên các doanh

nghiệp tiềm năng, khởi nghiệp sáng tạo, khởi nguồn từ tổ chức khác

2. Ưu đãi về đất đai cho các doanh nghiệp tiềm năng, khởi nghiệp sáng tạo,

173

khởi nguồn từ tổ chức khác, nhưng chưa ưu tiên khác DNKH&CN

Các doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên khó tiếp cận chính sách đất 3.

đai

4. Ưu đãi chưa bình đẳng giữa các lĩnh vực R&D

5. Khác (Ghi rõ:……………..…………………………………………………)

9. Ông/bà có đánh giá như thế nào về chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng và đầu

tư trang thiết bị cho R&D của các doanh nghiệp tiềm năng và doanh nghiệp

KH&CN hiện nay?

1. Đầu tư hoàn toàn cơ sở hạ tầng (nhà làm việc) và trang thiết bị cho R&D

2. Ưu đãi đầu tư một phần cơ sở hạ tầng (nhà làm việc) và trang thiết bị làm

việc cho R&D

3. Ưu đãi đầu tư một phần cơ sở hạ tầng (nhà làm việc) và trang thiết bị làm

việc cho DN khởi nghiệp sáng tạo

4. Có chính sách đầu tư bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp

5. Có chính sách đầu tư bình đẳng giữa các vùng, miền

6. Khác (Ghi rõ:……………..……………………………………………….)

10. Ông/bà cho biết ý kiến về chính sách đào tạo nhân lực cho R&D của các

DN tiềm năng và các DNKH&CN hiện nay?

1. Có cơ chế ưu đãi, cơ hội đào tạo nhân lực ở các doanh nghiệp KH&CN

2. Có cơ chế ưu đãi, cơ hội đào tạo nhân lực ở các doanh nghiệp tiềm năng

3. Có chính sách đào tạo nhân lực ở tất cả các loại hình doanh nghiệp như

nhau

4. Có chính sách đào tạo nhân lực ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất,

kinh doanh như nhau

5. Khác: :……………..………………………………………………………

11. Theo ông/bà để nâng cao năng lực thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN thì cần có giải pháp nào?

1. Cải cách các thủ tục hành chính trong cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp

KH&CN

2. Tạo môi trường bình đẳng về mọi phương diện cho các loại hình DN ở Tây

174

Nguyên

3. Tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp, viện, trường trong việc nghiên

cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu KH&CN

4. Có cơ chế đặc thù, khuyến khích các doanh nghiệp đang hoạt động ở vùng

Tây Nguyên có đóng góp và sáng kiến mới trong nghiên cứu

5. Có cơ chế thực hiện đúng qui trình, công khai và minh bạch hơn trong việc

thụ hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với các doanh nghiệp KH&CN

6. Đào tạo nâng cao năng lực khoa học và công nghệ cho các doanh nghiệp

tiềm năng và doanh nghiệp KH&CN

7. Cần đổi mới công tác lập kế hoạch thực hiện chính sách phát triển

DNKH&CN

8. Cần đổi mới công tác tổ chức, chỉ đạo, điều hành trong thực hiện chính sách

phát triển DNKH&CN

9. Cần đổi mới công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện chính

sách phát triển DNKH&CN của các cấp chính quyền ở Tây Nguyên

10. Khác:……………..…………………………………………………………

12. Ông/bà cho biết hoạt động sản xuất, kinh doanh của DNKHCN của địa

phương mình hiện nay đang có khó khăn và thuận lợi gì?

Thuận lợi 1.

Khó khăn 2.

Lý do của khó khăn/thuận lợi: 3.

………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………

13. Xin Ông/Bà cho biết thực trạng thực hiện chính sách phát triển doanh

nghiệp KH&CN hiện nay ở vùng Tây Nguyên?

1. Tốt

2. Khá

3. Trung bình

4. Yếu

175

Các vấn đề khác:…………………………………………………………. 5.

14. Xin ông (bà) cho biết mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc phát

triển doanh nghiệp KH&CN ở địa phương ông, bà?

Các yếu tố Cao Trung Thấp

bình

Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

Tổ chức bộ máy thực thi chính sách

Năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách

Nhận thức và năng lực của các doanh nghiệp

Nguồn lực vật chất, tài chính

Văn hóa, phong tục, tập quán

15.Xin ông (bà) đánh giá về mức độ cần thiết của các lĩnh vực cần được ứng

dụng thành tựu nghiên cứu và phát triển KH&CN trong sản xuất, kinh

doanh ở địa phương ông, bà đang công tác:

Các lĩnh vực Cần Tương đối Không

cần cần

Văn hóa

Công nghiệp

Nông nghiệp

Giao thông

Chăn nuôi

Giáo dục

Y tế

Môi trường

Xây dựng

Giao thông

176

Ý kiến khác:

PHỤ LỤC 2: PHIẾU KHẢO SÁT MẪU 2 (Dành cho cán bộ, công chức quản

lý DNKH&CN ở vùng Tây Nguyên)

Để có được thông tin chính xác làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp

nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN hiện nay ở vùng

Tây Nguyên. Xin ông (bà) vui lòng dành thời gian để có thể điền thông tin và ý

kiến của ông (bà) vào phiếu này bằng cách đánh dấu V hoặc khoanh tròn vào ô

thích hợp hoặc ông (bà) có thể đưa ra ý kiến cá nhân ông (bà) vào phần giấy trắng.

Thông tin ông (bà) cung cấp chỉ dùng để phục vụ cho nghiên cứu khoa học mà

không dùng vào mục đích nào khác.

I. Thông tin cá nhân

1. Họ tên

2. Đơn vị công tác

3. Chức vụ

II. Ý kiến đánh giá

1.Ông (bà) hãy cho biết ý kiến về mức độ quan trọng của việc nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh ở

doanh nghiệp/ địa phương của ông, bà:

Nội dung

Quan trọng

Rất quan trọng Không quan trọng

Tương đối quan trọng

177

Đối với thương hiệu doanh nghiệp, uy tín của khách hàng Đối với chất lượng sản phẩm hàng hóa Đối với việc được ưu đãi Đối với phát triển kinh tế địa phương Đối với tăng lợi nhuận sản xuất, kinh doanh Xin ông (bà) bổ sung một số vấn đề khác: ………………………………………………

2. Xin ông (bà) cho biết mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến việc phát triển

doanh nghiệp KH&CNở địa phương ông, bà?

Các yếu tố Cao Trung Thấp

bình

Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước

Tổ chức bộ máy thực thi chính sách

Năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách

Nhận thức và năng lực của các doanh nghiệp

Nguồn lực vật chất, tài chính

Văn hóa, phong tục, tập quán

Sự ủng hộ, hỗ trợ của xã hội

Ý kiến khác: ………………………………

3. Đánh giá của ông (bà) về hiệu quả thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp

KH&CN ở địa phương ông (bà) công tác:

4. Xin ông (bà) đánh giá về mức độ cần thiết của các lĩnh vực cần được ứng dụng

Tốt Khá Trung bình Yếu

thành tựu nghiên cứu và phát triển KH&CN trong sản xuất, kinh doanh ở địa

phương ông, bà đang công tác:

178

Các lĩnh vực Văn hóa Công nghiệp Nông nghiệp Giao thông Chăn nuôi Giáo dục Y tế Môi trường Xây dựng Giao thông Ý kiến khác: Cần Tương đối cần Không cần

5. Xin ông (bà) hãy khoanh tròn vào những điểm còn hạn chế trong các công

việc thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN liên quan đến

chính quyền địa phương vùng Tây Nguyên

a) Ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ

chế, chính sách, chiến lược phát triển DNKH&CN, tiến hành quy hoạch mạng lưới

phát triển DN KH&CN.

b) Phân công, phân cấp để có thể thực hiện tốt chính sách phát triển DN KH&CN.

c) Chỉ đạo các hoạt động trong việc hội nhập quốc tế về DNKH&CN; phát triển

mạnh nguồn nhân lực về cho DNKH&CN.

d) Chỉ đạo các công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phát triển

DNKH&CN; thường xuyên tiến hành kiểm tra việc thực hiện pháp luật về hỗ trợ

DNKH&CN

e) Chỉ đạo, đôn đốc công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết kịp thời các vấn đề

khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về thực hiện chính sách phát triển

DNKH&CN.

6. Xin ông, bà hãy khoanh tròn vào những điểm còn hạn chế trong việc thực

hiện trách nhiệm của Bộ KHCN đối với phát triển DNKH&CN ở vùng Tây

Nguyên

a) Thống nhất trong quản lý nhà nước về phát triển DNKHCN, Ban hành và tổ

chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, cơ chế, chính sách, kế

hoạch XHH KHCN, quy hoạch mạng lưới DN KHCN;

b) Quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển

DNKH&CN; xây dựng phương án và đề xuất cơ cấu, tỉ lệ chi ngân sách nhà nước

cho phát triển DNKH&CN;

c) Thẩm định việc thành lập các DNKH&CN; cho phép thành lập các DNKH&CN

có vốn nước ngoài; đăng ký thành lập DNKH&CN theo thẩm quyền;

d) Xây dựng và quản lý các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về DN

KH&CN; hệ thống thống kê DNKH&CN và tiêu chí thống kê được thống nhất

trong cả nước; đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng sáng chế; phát triển và tìm thị

179

trường mới cho DNKH&CN;

e) Tổ chức quản lý, triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp

vụ cho DNKH&CN;

f) Tuyên truyền, phổ biến và tổ chức hướng dẫn thực hiện pháp luật về

DNKH&CN;

g) Hợp tác quốc tế về DNKH&CN;

h) Thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp

hành pháp luật về DNKH&CN; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp

luật về thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN;

7. Xin ông, bà hãy khoanh tròn vào điểm còn hạn chế trong việc thực hiện

trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ở vùng Tây Nguyên trong việc

thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN

a) Ban hành các văn bản theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành

và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chiến lược, cơ chế,

kế hoạch phát triển DNKH&CN;

b) Bảo đảm việc sử dụng nguồn ngân sách nhà nước cho phát triển DNKH&CN và

các nguồn lực khác của xã hội tập trung chủ yếu cho phát triển DNKH&NC ở

vùng Tây Nguyên;

c) Quản lý, sử dụng nguồn kinh phí đầu tư cho phát triển DNKH&CN, kinh phí hỗ

trợ cho DNKH&CN đúng mục đích và có hiệu quả; phải bảo đảm cấp kinh phí đầy

đủ, kịp thời, phù hợp với đặc thù và tiến độ kế hoạch phát triển DNKH&CN để

thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ phát triển DNKH&CN của vùng Tây Nguyên

nói riêng và của cả nước nói chung;

d) Tuyên truyền, phổ biến và tổ chức hướng dẫn thực hiện pháp luật về phát triển

DNKH&CN;

e) Thường xuyên tiến hành thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp với thanh tra, kiểm

tra việc chấp hành pháp luật về phát triển DNKH&CN; giải quyết khiếu nại, tố

cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN theo

thẩm quyền.

8. Xin ông, bà cho biết các dịch vụ KHCN nào quan trọng để trở thành

180

DNKH&CN?

Các nội dung Cao Thấp

Trung bình

Nghiên cứu khoa học Sở hữu trí tuệ Đo lường chất lượng sản phẩm Thông tin khoa học và công nghệ Chuyển giao, đánh giá, định giá công nghệ Phát triển công nghệ Ý kiến khác:

9. Xin ông (bà) cho biết mức độ cần thiết của các giải pháp nâng cao hiệu quả

thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN ở vùngTây Nguyên?

Các giải pháp

Rất cần Tương đối cần Không cần

181

Sự cam kết của các cấp lãnh đạo Hoàn thiện chính sách phát triển DNKH&CN Phân cấp quản lý đối với DNKH&CN Thu hút nguồn nhân lực cho DNKH&CN Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước Chuyển từ mô hình tổ chức KH&CN sang DNKH&CN Phát triển các DNKH&CN có khởi nguồn từ các trường đại học, viện nghiên cứu Hỗ trợ điều kiện trang thiết bi, cơ sở R&D Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp Xây dựng mô hình hợp tác công tư và đồng tài trợ Có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với thực hiện sự cam kết của chính phủ về xã hội hóa hoạt động KHCN Nâng cao năng lực KHCN Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý KHCN Hình thành thị trường dịch vụ KHCN Ý kiến khác:

PHỤ LỤC 3

MẪU PHỎNG VẤN SÂU (Dành cho một số nhà lãnh đạo, công chức của sở,

ban, ngành vùng địa phương)

Tôi đang làm đề tài: “Thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN” để phục vụ

cho việc hoàn thành luận án . Tôi mong ông (bà) dành thời gian trả lời ý kiến của

mình.

Xin ông (bà) cho phát biểu và ghi những ý kiến sâu sắc của mình vào các phần

câu hỏi chúng tôi nêu ra dưới đây.

1. Xin ông/bà cho biết một số thông tin liên quan đến cá nhân của mình (Tên, cơ

quan công tác, chức vụ, thời gian công tác ở cương vị của ông bà)?

2. Ông/bà đánh giá thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp KH&CN và các

DN khởi nghiệp ĐMST hiện nay (kết quả thành công, hạn chế, bất cập) trong

nghiên cứu KH và phát triển công nghệ của các DNKH&CN trong sản xuất, kinh

doanh hiện nay ở vùng Tây Nguyên? kết quả thành công, hạn chế, bất cập) vì sao?

3. Xin ông/bà đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển DNKH&CN ở

vùng Tây Nguyên hiện nay

4. Xin ông/bà đánh giá sự tác động của các yếu tố đến quá trình thực hiện chính

sách phát triển DNKH&CN hiện nay ở vùng Tây Nguyên?

5. Ông/bà cho biết nguyên nhân của những hạn chế bất cập trong thực hiện chính

sách phát triển doanh nghiệp KH&CN ở vùng Tây Nguyên

6. Ông/bà đánh giá như thế nào về các chính sách phát triển DNKH&CN đang hiện

hành?

7. Xin Ông/ bà đánh giá thực trạng trách nhiệm quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý

đối với việc phát triển DNKH&CN hiện nay?

8. Xin ông/bà đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính

sách phát triển DNKH&CN hiện nay ở vùng Tây Nguyên.

9. Xin ông/bà cho biết lỗ hổng lớn nhất trong chính sách hỗ trợ, ưu đãi doanh nghiệp

182

KH&CN hiện nay là gì? Cho xin một tình huống?