VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THÁI BẢO

ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THÁI BẢO

ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên

cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận băn bảo đảm tính

chính xác, tin cậy và trung thực.

Người cam đoan

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn Thạc sĩ, tác giả đã nhận được

sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các Thầy cô giáo, các nhà khoa học, các

cơ quan, tổ chức cá nhân. Đề tài nghiên cứu cũng được hoàn thành dựa trên

sự tham khảo, học tập kinh nghiệm từ các công trình nghiên cứu có liên quan

của các tác giả. Đặc biệt đề tài còn nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận

lợi từ gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp.

Tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy GS, TS Võ Khánh

Vinh, người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian, công sức

hướng dẫn tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.

Tác giả xin được trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô giáo,

các bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ tác giả hoàn thiện công trình

nghiên cứu.

Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng đề tài không tránh khỏi những thiếu

sót, tác giả kính mong các quý Thầy cô, các nhà khoa học những người quan

tâm đến đề tài đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả

Đỗ Thái Bảo

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VỀ

ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC ................................................................................. 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm của đồng phạm có tổ chức ........................................... 7

1.2. Trách nhiệm hình sự đối với đồng phạm có tổ chức ................................... 16

1.3. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về đồng

phạm có tổ chức từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay ................... 21

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐỒNG

PHẠM CÓ TỔ CHỨC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HIỆN

HÀNH VỀ ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

QUẢNG NINH ........................................................................................................ 27

2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức ................... 27

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh........................................................................................... 35

2.3. Đánh giá chung ............................................................................................ 52

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ

ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC ............................................................................... 62

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm có tổ chức . 62

3.2. Tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật

hình sự về đồng phạm có tổ chức ....................................................................... 69

3.3. Giải pháp về công tác tổ chức cán bộ .......................................................... 70

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 78

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

BLHS Bộ luật Hình sự

TNHS Trách nhiệm hình sự

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chế định đồng phạm có tổ chức được quy định trong BLHS của hầu hết

các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên còn có nhiều cách thể hiện khác nhau về

đồng phạm có tổ chức cũng như trách nhiệm hình sự đối với những người

đồng phạm có tổ chức.

Ở nước ta, chế định đồng phạm có tổ chức đã được quy định từ rất sớm

trong lịch sử lập pháp. Trong thực tiễn, việc xác định yếu tố đồng phạm có tổ

chức trong các vụ án còn gặp rất nhiều khó khăn do tính chất phức tạp của tội

phạm và các yếu tố khác tác động. Mặt khác, so với tội phạm do một người

thực hiện, đồng phạm thường nguy hiểm hơn, vì khi một nhóm người cùng cố

ý thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng

tham gia thực hiện. Trong đồng phạm, sự tập trung sức lực, sự phối hợp,

tương trợ lẫn nhau giữa những người phạm tội, cho phép chúng không chỉ

thực hiện tội phạm một cách thuận lợi, mà trong nhiều trường hợp có thể gây

ra những thiệt hại nghiêm trọng hơn, dễ dàng che giấu dấu vết của tội phạm

để tránh sự điều tra, khám phá của các cơ quan bảo vệ pháp luật, về mặt tâm

lý, những người đồng phạm do dựa dẫm vào nhau, nên quyết tâm phạm tội

thường là cao hơn so với các trường hợp phạm tội riêng lẻ.

Do đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm phức tạp có mối

quan hệ hữu cơ với nhiều chế định quan trọng khác của Luật hình sự như chế

định tội phạm, chế định miễn trách nhiệm hình sự, chế định miễn hình phạt...

cho nên các cơ quan quan bảo vệ pháp luật vẫn còn bị lúng túng, mắc phải

thiếu sót trong việc giải quyết những vụ án có đồng phạm có tổ chức. Thực

tiễn công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm cũng đặt ra nhiều vấn

đề vướng mắc đòi hỏi Khoa học Luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết như

1

vai trò của các loại người trong đồng phạm có tổ chức, trách nhiệm hình sự

trong đồng phạm có tổ chức, các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng

phạm có tổ chức, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm có

tổ chức... Trong khi đó, đồng phạm có tổ chức lại là một trong những chế

định được quy định rất khác nhau trong pháp luật hình sự của các nước trên

thê giới.thậm chí trái ngược nhau.

Thực tiễn công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh trong năm qua cho thấy, tình hình tội phạm có những diễn

biến phức tạp, đặc biệt là các vụ án có yếu tố đồng phạm có tổ chức có xu

hướng gia tăng. Công tác phòng ngừa và đấu tranh các vụ án đồng phạm có tổ

chức đã đạt được những kết quả đáng kể, tuy nhiên vẫn còn một số những khó

khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án đồng phạm có tổ chức. có

thể kể đến: việc xác định dấu hiệu pháp lý của đồng phạm có tổ chức để phân

biệt giữa đồng phạm có tổ chức với các trường hợp đồng phạm thông thường

đôi khi còn nhầm lẫn, việc xác định vai trò và phân hóa TNHS của những

người tham gia trong đồng phạm có tổ chức còn chưa chính xác, ảnh hưởng

đến tính nghiêm minh của pháp luật…

Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu một cách toàn diện và có hệ thống những

vấn đề lý luận, cũng như thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình

sự về đồng phạm có tổ chức là cần thiết, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp

luật hình sự về đồng phạm có tổ chức và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định

này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: “Đồng phạm có tổ chức

theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài

luận văn Thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong Khoa học Luật hình sự Việt Nam, những vấn đề liên quan đến

chế định đồng phạm nói chung và đồng phạm có tổ chức nói riêng đã được đề

2

cập trong một số tài liệu giáo trình, sách tham khảo do nhiều tác giả khác

nhau biên soạn như: Chương X - Đồng phạm, trong sách: Giáo trình Luật

hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007; Chương

XIII - Đồng phạm, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất

bản Công an Nhân dân, 2005; Chương V - Đồng phạm, trong sách: Tìm hiểu

pháp luật hình sự, Nhà xuất bản Đồng Nai, 1995; Chương VII - Quyết định

hình phạt, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 1999, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, 2001.

Về chủ đề nghiên cứu liên quan đến chế định đồng phạm, một số

nghiên cứu đã được các tác giả hướng tới như: Tác giả Trần Quang Tiệp,

Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học - Đại học

Luật Hà Nội, 2000; Tác giả Nguyễn Thị Trang Liên, Các hình thức đồng

phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật -

Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; Tác giả Nguyễn Thị Thu Hòa, Người thực hành

trong đồng phạm theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa

Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, 2011, Mai Lan Ngọc. Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn về những loại người đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Luận

văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, 2012.

Mặt khác, có một số bài viết, đề tài tập trung phân tích trường hợp đồng

phạm có tổ chức theo Luật hình sự Việt Nam, chẳng hạn như bài “Phạm tội

có tổ chức và trách nhiệm hình sự đối với bọn phạm tội có tổ chức” của tác

giả Nguyễn Vạn Nguyên; Bài viết “Vấn đề tội phạm có tổ chức và trách

nhiệm hình sự pháp nhân trong sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999” của

GS,TS. Hồ Trọng Ngũ đăng trên tạp chí Lập pháp số 6/2009; Bài viết “Đấu

tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức và tội phạm xuyên quốc gia trong hội

nhập kinh tế quốc tế” của PGS,TS. Trần Hữu Ứng đăng trên tạp chí Cộng sản

điện tử, hoặc các bài viết của TS. Nguyễn Khắc Hải: “Đấu tranh phòng chống

tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang Nga” trong tạp chí

3

Khoa học - Đại học Quốc gia Hà Nội số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ

chức” (Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999) đã tạo

ra những nhận thức cơ bản trong việc tìm hiểu về đồng phạm có tổ chức. Đề

tài luận án của TS. Nguyễn Trung Thành “Phạm tội có tổ chức trong luật hình

sự Việt Nam và việc đấu tranh phòng chống” đề cập chi tiết đến trường hợp

đồng phạm có tổ chức ở cả góc độ Khoa học Luật hình sự và Tội phạm học.

Các nghiên cứu trên đã nghiên cứu một cách tổng thể về chế định đồng

phạm có tổ chức trong khoa học luật hình sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong tình

hiện nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn

diện về đồng phạm có tổ chức trong pháp luật hình sự từ thực tiễn địa bàn tỉnh

Quảng Ninh. Do đó, tác giả đã lựa chọn vấn đề này để nghiên cứu nhằm góp

phần hoàn thiện lý luận về đồng phạm có tổ chức và nâng cao hiệu quả áp dụng

chế định đồng phạm có tổ chức từ thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm sáng tỏ một cách có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng

chế định đồng phạm có tổ chức; chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên

nhân của tồn tại, hạn chế; trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm

nâng cao hiệu quả áp dụng chế định đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật về đồng phạm có tổ

chức về đồng phạm có tổ chức.

- Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ

chức và thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức trên

địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

- Đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định về đồng phạm

4

có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định

đồng phạm có tổ chức.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là chế định đồng phạm có tổ chức từ

thực tiễn địa bàn tỉnh Quảng Ninh, thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, pháp

luật của nhà nước về các nội dung có liên quan đến Luật hình sự nói chung và

chế định đồng phạm có tổ chức nói riêng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Trong quá trình nghiên cứu luận văn tác giả đã sử dụng các phương

pháp nghiên cứu cụ thể như: Tổng hợp, phân tích, so sánh, trao đổi, tọa đàm,

lấy ý kiến chuyên gia…

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ về chế định đồng

phạm có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu và những

đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa trong việc hoàn thiện BLHS hiện

hành, hoàn thiện lý luận Khoa học Luật hình sự, đồng thời góp phần tăng

cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm được

thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công

tác nghiên cứu, giảng dạy về Khoa học pháp lý và các cán bộ đang công tác

5

tại các cơ quan bảo vệ pháp luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn

gồm 03 chương.

Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật về đồng phạm có

tổ chức

Chương 2. Các quy định của pháp luật về đồng phạm có tổ chức và

thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh

Chương 3.Các giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định về đồng phạm

6

có tổ chức

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT

VỀ ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC

1.1. Khái niệm, đặc điểm của đồng phạm có tổ chức

1.1.1. Khái niệm đồng phạm có tổ chức

Tội phạm là một chế định bao trùm, là cơ sở cho mọi chế định khác và

có tính chất quyết định, nền tảng của Luật hình sự. Tội phạm có thể do một

người thực hiện, nhưng cũng có thể do nhiều người cố ý cùng gây ra. Khi tội

phạm được thực hiện bởi nhiều người cùng chung ý chí và hành động, Khoa

học luật hình sự gọi là đồng phạm.

Chế định đồng phạm được quy định tại Điều 17 BLHS Việt Nam hiện

hành với nội dung: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng

thực hiện một tội phạm”. Căn cứ vào từng tiêu chí cụ thể, đồng phạm được

phân chia thành các hình thức khác nhau. Cụ thể: khi căn cứ vào những dấu

hiệu khách quan, đồng phạm được phân chia thành đồng phạm giản đơn và

đồng phạm phức tạp; khi căn cứ vào những dấu hiệu chủ quan, đồng phạm

được phân chia thành đồng phạm có thông mưu trước và đồng phạm không có

thông mưu trước; khi căn cứ vào sự câu kết giữa những người đồng phạm,

đồng phạm được phân chia thành đồng phạm thông thường và đồng phạm có

tổ chức. Trong các hình thức đồng phạm, đồng phạm có tổ chức là một hình

thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp lý của nó được nhà làm luật Việt

Nam ghi nhận trong pháp luật hình sự.

Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành quy định đồng phạm có tổ chức

tại khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015 với nội dung: “Phạm tội có tổ chức là

hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện

tội phạm”. Các BLHS năm 1985, 1999 cũng như các lần sửa đổi, bổ sung đều

7

quy định đồng phạm có tổ chức với là hình thức đồng phạm đặc biệt với nội

dung không đổi so với BLHS năm 2015. Nghiên cứu cho thấy, BLHS năm

1985, 1999 và 2015 cũng như các lần sửa đổi, bổ sung đều quy định và sử

dụng thuật ngữ pháp lý “phạm tội có tổ chức”, trong đó đều khẳng định

“phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm …”. Do vậy, có thể khẳng định

“phạm tội có tổ chức” và “đồng phạm có tổ chức” là một, đồng nhất với nhau

và là một hình thức cụ thể của đồng phạm.

Pháp luật hình sự các quốc gia trên thế giới cũng có những quy định và

tên gọi khác nhau về chế định đồng phạm có tổ chức. Có thể kể đến: BLHS

nước Cộng hòa Pháp gọi là băng có tổ chức, BLHS Liên bang Nga gọi là

nhóm có tổ chức… Nghiên cứu cho thấy, hiện nay ở Việt Nam có nhiều quan

điểm khác nhau về bản chất pháp lý của hình thức đồng phạm có tổ chức. Có

thể kể đến: [9, tr. 168 - 172]

Quan điểm thứ nhất, trong đồng phạm có tổ chức nhất thiết phải có sự

phân công vai trò, nhiệm vụ khác nhau giữa những người cùng thực hiện tội

phạm, trong đó bắt buộc phải có người cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội

phạm. Trước khi thực hiện tội phạm, những người đồng phạm có tổ chức phải

có sự bàn bạc thống nhất về kế hoạch phạm tội, phương thức thực hiện tội

phạm một cách kỹ càng, chu đáo. Như vậy, có thể hiểu quan điểm này đã

đồng nhất giữa khái niệm đồng phạm có tổ chức với hình thức đồng phạm

phức tạp theo Khoa học Luật hình sự Việt Nam.

Quan điểm thứ hai, đồng phạm có tổ chức và đồng phạm có thông mưu

trước là một. Quan điểm này đã đồng nhất đồng phạm có tổ chức và đồng

phạm có thông mưu trước.

Quan điểm thứ ba, trong đồng phạm có tổ chức, những người đồng

phạm phải cùng thực hiện tội phạm có sự câu kết với nhau lâu dài, cùng nhau

phạm nhiều tội hoặc phạm một tội nhưng nhiều lần.

Quá trình nghiên cứu, tác giả không đồng ý với các quan điểm nói trên.

8

Cụ thể:

Đối với quan điểm thứ nhất, tác giả cho rằng đã tuyệt đối hóa những

người trong đồng phạm, việc tuyệt đối hóa này đã thu hẹp việc xác định đồng

phạm có tổ chức. Thực tiễn công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm

cho thấy, trong đồng phạm có tổ chức thường có sự phân công vai trò, vị trí

giữa những người cùng thực hiện tội phạm nhưng nó không phải là dấu hiệu

bắt buộc. Có những trường hợp, những người đồng phạm có tổ chức có sự câu

kết chặt chẽ với nhau khi thực hiện tội phạm nhưng đều giữ vai trò là người

thực hành mà không có người tổ chức, người xúi giục hoặc là người giúp sức.

Đối với quan điểm thứ hai, tác giả cho rằng chưa hợp lý, bởi quan điểm

đã đồng nhất giữa cái chung và cái cụ thể. Trong đó: đồng phạm có thông

mưu trước là cái chung, đồng phạm có tổ chức là cái cụ thể, không thể đồng

nhất cái chung với cái cụ thể. Xét về bản chất, đồng phạm có tổ chức và đồng

phạm có thông mưu trước là hai khái niệm thống nhất nhưng không đồng

nhất, đồng phạm có tổ chức đúng là hình thức đồng phạm có thông mưu

trước, nhưng đồng phạm có thông mưu trước không chỉ bao gồm đồng phạm

có tổ chức. Phạm vi của đồng phạm có thông mưu trước sẽ rộng hơn đồng

phạm có tổ chức và xét về mức độ tính nguy hiểm cho xã hội, đồng phạm có

tổ chức có mức độ tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn đồng phạm có thông

mưu trước.

Đối với quan điểm thứ ba, tác giả cho rằng đã quá thu hẹp việc xác

định phạm vi của những vụ án đồng phạm có tổ chức, bởi chỉ những tội phạm

chủ yếu được quy định ở trong Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia có

mục đích chống chính quyền nhân dân mới thỏa mãn được những điều kiện

có sự câu kết với nhau lâu dài, cùng nhau phạm nhiều tội hoặc phạm một tội

nhưng nhiều lần. Trong khi đó, BLHS ngoài quy định đồng phạm có tổ chức

là dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS còn quy định đồng phạm có tổ chức

là tình tiết tăng nặng TNHS. Nếu theo quan điểm trên thì dấu hiệu đồng phạm

9

có tổ chức không được quy định trong những tội phạm cụ thể và các tình tiết

tăng nặng TNHS, điều này không phù hợp trên thực tế đồng thời giảm nhẹ

hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm trên thực tiễn.

Như vậy, các quan điểm khác nhau xung quanh chế định đồng phạm có

tổ chức đều cho rằng đồng phạm có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc

biệt. Tuy nhiên do sự ghi nhận còn chung chung, chưa làm rõ được sự “câu

kết chặt chẽ” trong đồng phạm có tổ chức nên còn có nhận thức khác nhau về

hình thức đồng phạm này. Sự câu kết chặt chẽ của những người cùng thực

hiện tội phạm trong đồng phạm có tổ chức chính là đặc điểm chủ yếu thể hiện

bản chất của chế định đồng phạm có tổ chức, đồng thời cũng nói lên các dấu

hiệu đặc trưng riêng về mặt khách quan và chủ quan của chế định này. Vấn đề

đặt ra là sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm trong đồng phạm

có tổ chức được thể hiện như thế nào.

Sự câu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm trong đồng

phạm có tổ chức thể hiện mức độ liên kết về khách quan và chủ quan của

những người đồng phạm. Phần I, Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ ngày 16 tháng

11 năm 1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ

sung Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 05 tháng 01 năm 1986 đã xác định sự câu

kết chặt chẽ trong đồng phạm có tổ chức. Mặc dù Nghị quyết số

02/HĐTP/NQ ngày 16 tháng 11 năm 1988 và Nghị quyết số 02-HĐTP ngày

05 tháng 01 năm 1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm

1985. Tuy nhiên xét về bản chất, chế định đồng phạm có tổ chức trong BLHS

năm 1985, năm 1999, năm 2015 cũng như các lần sửa đổi, bổ sung không

thay đổi. Do vậy, căn cứ vào nội dung Nghị quyết, tác giả cho rằng đồng

phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt, trong hình thức đồng phạm

này có sự phân công vai trò giữa người trực tiếp thực hiện tội phạm với người

không trực tiếp thực hiện tội phạm (người tổ chức, người xúi giục và người

10

giúp sức). Trong đồng phạm có tổ chức, dấu hiệu phạm một tội nhiều lần hoặc

phạm nhiều tội cũng như sự câu kết lâu dài giữa những người đồng phạm

không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức đồng phạm này.

Căn cứ quy định của BLHS, cùng với sự phân tích trên, tác giả đưa ra

khái niệm về đồng phạm có tổ chức như sau:

Đồng phạm có tổ chức là một hình thức đồng phạm đặc biệt,được thực

hiện dưới hình thức lỗi cố ý, trong đó những người cùng thực hiện tội phạm

có sự câu kết chặt chẽ thông qua chính cơ cấu tổ chức (băng, nhóm…) và sự

bàn bạc, tính toán, phân công, lên kế hoạch nhằm thực hiện tội phạm nghiêm

trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

1.1.2. Đặc điểm của đồng phạm có tổ chức

Đồng phạm có tổ chức là một hình thức thực hiện tội phạm đặc biệt mà

ở đó những người thực hiện tội phạm có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong

việc thực hiện tội phạm. Đồng phạm có tổ chức có những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, đồng phạm có tổ chức là một hình thức đồng phạm

Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành đã ghi nhận đồng phạm có tổ chức

trước là một hình thức đồng phạm, do vậy đồng phạm có tổ chức có đầy đủ

những dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan của đồng phạm. Cụ thể:

Về khách quan, số lượng người trong đồng phạm có tổ chức phải có từ

hai người trở lên và những người trong đồng phạm có tổ chức phải thỏa mãn

điều kiện chủ thể của tội phạm. Cùng với đó, những người trong đồng phạm

có tổ chức phải cùng thực hiện tội phạm. Điều này có nghĩa những người

trong đồng phạm có tổ chức phải thực hiện một trong các hành vi trực tiếp

thực hiện tội phạm (thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành

tội phạm), hoặc hành vi không trực tiếp thực hiện tội phạm (không thực hiện

hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng chủ mưu,

cầm đầu, chỉ huy; kích động, dụ dỗ thúc đẩy hoặc tạo điều kiện tinh thần, vật

chất để cho người khác trực tiếp thực hiện tội phạm). Bằng những hành vi cụ

11

thể của mình, những người trong đồng phạm có tổ chức đều có hành vi nguy

hiểm cho xã hội, những hành vi đó được thực hiện trong sự liên kết thống

nhất với nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho nhau trong quá trình thực hiện tội

phạm. Trong đồng phạm có tổ chức, có thể tất cả những người trong đồng

phạm đều trực tiếp thực hiện tội phạm, cũng có thể chỉ một hoặc một số người

trực tiếp thực hiện tội phạm còn những người khác mặc dù không trực tiếp

thực hiện tội phạm nhưng đã góp phần vào việc thực hiện tội phạm trong mối

liên kết thống nhất với người trực tiếp thực hiện tội phạm. Hành vi của những

người trong đồng phạm có tổ chức dù trực tiếp hay không trực tiếp thực hiện

tội phạm đều có mối quan hệ nhân quả với hậu quả của tội phạm xảy ra, hậu

quả của tội phạm là kết quả chung do hành vi của những người đồng phạm có

tổ chức thực hiện.

Về chủ quan, những người trong đồng phạm có tổ chức phải thực hiện

tội phạm dưới lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Điều này

có nghĩa, về lý trí những người trong đồng phạm có tổ chức nhận thức được

hành vi của mình và hành vi của những người đồng phạm có tổ chức khác là

nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của tội phạm do việc cùng thực

hiện tội phạm sẽ xảy ra hoặc có thể xảy ra. Nếu chỉ nhận thức được hành vi

của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng không nhận thức được hành vi của

những người khác cũng nguy hiểm cho xã hội cùng với mình thì không đồng

phạm nói cung, cũng như đồng phạm có tổ chức nói riêng. Về ý chí, những

người trong đồng phạm có tổ chức đều mong muốn cho hậu quả của tội phạm

xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả của

tội phạm xảy ra, nói cách khác những người trong đồng phạm cùng mong

muốn có sự liên kết hành vi thực hiện tội phạm. Nếu cùng thực hiện tội phạm

nhưng không có sự nhất trí, không có sự liên kết hành vi thì không phải là

đồng phạm. Đối với dấu hiệu mục đích phạm tội, đối với tội phạm mà mục

đích là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm thì những người trong

12

đồng phạm có tổ chức phải cùng chung mục đích, nếu không cùng chung mục

đích thì không đồng phạm. Đối với tội phạm mục đích không phải là dấu hiệu

bắt buộc trong cấu thành tội phạm thì những người trong đồng phạm có tổ

chức có thể cùng hoặc không cùng chung mục đích phạm tội, điều này không

có ý nghĩa trong việc định tội.

Ngoài những dấu hiệu mang tính chất của đồng phạm đã nêu trên, đồng

phạm có tổ chức còn mang những đặc điểm riêng so với hình thức đồng phạm

nói chung. Cụ thể: đồng phạm có tổ chức không thể là hình thức đồng phạm

giản đơn, vì nếu không có sự phân công vai trò thì không thể hiện được “tính

có tổ chức” của loại đồng phạm đặc biệt này. Hơn nữa, đồng phạm có tổ chức

phải là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao vì những

người trong đồng phạm có sự câu kêt chặt chẽ trong việc thực hiện tội phạm,

tuy nhiên không được đồng nhất đồng phạm có tổ chức với hình thức đồng

phạm có thông mưu trước.

Đồng phạm có tổ chức được BLHS xác định là dấu hiệu định tội, dấu

hiệu định khung tăng nặng trong một số tội phạm nhất định. Cùng với đó,

đồng phạm có tổ chức được coi là tình tiết tăng nặng TNHS tại Điều 52

BLHS năm 2015.

Thứ hai, những người trong đồng phạm có tổ chức có sự câu kết chặt

chẽ với nhau trong việc thực hiện tội phạm

Với tính chất là hình thức thực hiện tội phạm đặc biệt, những người

trong đồng phạm có tổ chức có sự câu kết chặt chẽ trong việc thực hiện tội

phạm. Sự câu kết chặt chẽ là đặc điểm quan trọng nhất thể hiện tính chất và

mức độ nguy hiểm cao hơn của đồng phạm có tổ chức so với các hình thức

đồng phạm khác. Đặc trưng “câu kết chặt chẽ” đã nói lên tính chất của đồng

phạm có tổ chức, thể hiện ở những đặc điểm khách quan và chủ quan, là căn

cứ để phân biệt đồng phạm có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Tuy

13

nhiên, khoản 2 Điều 17 BLHS 2015 quy định những người trong đồng phạm

có tổ chức có sự “câu kết chặt chẽ” hoàn toàn mang tính chất định tính, dẫn

đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật.

Dưới góc độ Khoa học Luật hình sự, theo tác giả, có thể đánh giá sự

“câu kết chặt chẽ” trong đồng phạm có tổ chức như sau:

Về khách quan, tính câu kết chặt chẽ trong đồng phạm có tổ chức được

thể hiện thông qua tính tổ chức chặt chẽ và tính kế hoạch thống nhất.

Tính tổ chức chặt chẽ được hiểu là trước khi thực hiện tội phạm, những

người trong đồng phạm có tổ chức thường có sự liên kết, tập hợp với nhau

thành các băng, nhóm tội phạm với quy mô khác nhau. Những băng, nhóm tội

phạm này có phương hướng hoạt động trong một thời gian dài, chặt chẽ.

Trong nhiều trường hợp chỉ tổ chức phạm tội trong một thời gian ngắn. Giữa

những người đồng phạm có sự phân công vai trò giữa người cầm đầu, chỉ

huy, người xúi giục, người giúp sức và người thực hành trong việc thực hiện

tội phạm, mỗi người đều chịu sự điều khiển chung thống nhất. Hay nói cách

khác, trong hình thức đồng phạm này tồn tại quan hệ giữa “người quản lý” và

“người bị quản lý” trong đó yếu tố chỉ huy - phục tùng được xác lập. Nói đến

quan hệ chỉ huy - phục tùng là nói đến quan hệ giữa nngười cầm đầu và

những người khác trong tổ chức, quan hệ giữa người ra lệnh và người thực thi

mệnh lệnh. Hơn nữa, tính tổ chức chặt chẽ này còn được biểu hiện ở tính ổn

định trong sự phân công vai trò chỉ huy, cầm đầu và vai trò người thực hành.

Nếu trong hình thức đồng phạm thông thường, vai trò chỉ huy, cầm đầu có thể

có sự thay đổi khi thực hiện các tội phạm khác nhau thì trong đồng phạm có

tổ chức, vai trò này thường do một hoặc một vài cá nhân đảm nhiệm một cách

chuyên nghiệp. Vì vậy, sự tập trung sức lực, trí tuệ, sự phối hợp, tương trợ

giữa những người đồng phạm có tổ chức không những cho phép họ thực hiện

tội phạm một cách thuận lợi, mà còn có thể thực hiện nhiều tội phạm, gây ra

14

hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời

dễ dàng che giấu tội phạm, tránh sự điều tra, khám phá của các cơ quan bảo

vệ pháp luật. [20, tr. 49-50]

Việc nhận định phương hướng hoạt động lâu dài, chặt chẽ để cùng nhau

thực hiện tội phạm của những người đồng phạm có tổ chức là những nhận

định ý thức chủ quan chứ không nhất thiết phương hướng đó phải được hiện

thực hóa. Do vậy, khi những người cùng thực hiện tội phạm có ý thức câu kết

chặt chẽ thì nên coi là đồng phạm có tổ chức, mặc dù họ có thể chỉ thực hiện

một tội phạm cụ thể một lần thì bị phát hiện và bắt giữ. Do đó, số lần phạm

tội, loại tội phạm mà những người đồng phạm thực hiện không phải là dấu

hiệu bắt buộc của hình thức đồng phạm có tổ chức [20, tr.50].

Bên cạnh thuộc tính có tổ chức chặt chẽ, để được coi là đồng phạm có

tổ chức, về mặt khách quan đồng phạm có tổ chức đòi hỏi phải có kế hoạch

thống nhất. Trong đồng phạm có tổ chức, tội phạm được thực hiện bao giờ

cũng có kế hoạch từ trước, những người tham gia thực hiện tội phạm có sự

tính toán chu đáo, kỹ càng, đầy đủ và thống nhất, từ khâu chuẩn bị, thực hiện

tội phạm cho đến khi tội phạm kết thúc, thậm chí còn che giấu tội phạm. Điều

này cho thấy đồng phạm có tổ chức luôn là hình thức đồng phạm có thông

mưu trước. [20, tr.50]

Về mặt chủ quan, đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm

cóthông mưu trước ở mức độ cao. Sự cố ý cùng liên kết về mặt ý thức của

những người phạm tội có tổ chức khi bàn bạc kế hoạch và phân công vai trò

đã hình thành nên mối quan hệ và tính thống nhất trong hành động của họ.

Mối quan hệ này rất cặt chẽ và bền vững. Trong ý thức chủ quan của mỗi

người tham gia thực hiện tội phạm, mụa đích phạm tội được hằn sâu. Do vậy,

mỗi khi ý thức phạm tội được nêu ra thì mỗi thành viên đều chấp nhận tuyệt

đối, cùng bàn bạc, thỏa thuận phương pháp, cách thức thực hiện và che giấu

tội phạm tối ưu. Trên cơ sở đó, trong quá trình thực hiện tội phạm, mỗi người

15

tham gia thực hiện tội phạm trong đồng phạm có tổ chức đều tìm cách hỗ trợ

những người đồng phạm khác và nỗ lực thực hiện hoạt động của mình nhằm

đạt được kết quả phạm tội đã đề ra. [20, tr.50-51]

1.2. Trách nhiệm hình sự đối với đồng phạm có tổ chức

1.2.1. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự trong trường hợp đồng

phạm có tổ chức

Điều 2 BLHS năm 2015 quy định: “chỉ người nào phạm một tội đã

được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy,

cơ sở cần thiết và đầy đủ để truy cứu TNHS trong đồng phạm có tổ chức là

những người trong đồng phạm có tổ chức phải thực hiện tội phạm được quy

định trong BLHS.

Trong đồng phạm có tổ chức, những người thực hiện tội phạm ngoài

thỏa mãn những dấu hiệu pháp lý của tội phạm nói chung còn thỏa mãn

những điều kiện của đồng phạm có tổ chức nói riêng là sự câu kết chặt chẽ

trong việc thực hiện tội phạm. Cơ sở TNHS của đồng phạm có tổ chức là điều

luật cụ thể quy định tội phạm mà những người đồng phạm tham gia thực hiện

và điều luật quy định về chế định đồng phạm có tổ chức. Xác định TNHS của

những người trong đồng phạm có tổ chức ngoài tuân thủ những nguyên tắc

chung của Luật hình sự còn phải tuân thủ các nguyên tắc mang tính đặc thù,

cụ thể: Những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu TNHS chung về

việc câu kết chặt chẽ thực hiện tội phạm, chịu TNHS độc lập khi thực hiện tội

phạm; chịu TNHS tương xứng với tính chất, mức độ tham gia của họ khi câu

kết chặt chẽ thực hiện tội phạm.

1.2.2. Những nguyên tắc của việc giải quyết trách nhiệm hình sự

trong đồng phạm có tổ chức

Thứ nhất, những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu trách

nhiệm hình sự chung về việc câu kết chặt chẽ thực hiện tội phạm

Trong đồng phạm có tổ chức, nhiều người cùng chung ý chí, chung

16

hành động để hướng tới một kết quả chung, hành vi của mỗi người có mối

quan hệ nhân quả với hậu quả chung của tội phạm. Do vậy, hậu quả của tội

phạm là sự kết hợp không thể tách rời của tất cả hành vi cá nhân của những

người trong đồng phạm có tổ chức. Do vậy, không thể tách rời hành vi của cá

nhân với hậu quả của tội phạm để truy cứu TNHS riêng cho từng người. Do

vậy, khi xác định TNHS trong trường hợp đồng phạm có tổ chức phải tuân

thủ nguyên tắc tất cả những người đồng phạm có tổ chức phải chịu trách

nhiệm chung về toàn bộ tội phạm đã thực hiện.

Những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu trách nhiệm chung

về toàn bộ tội phạm do họ gây ra được thể hiện ở những nội dung sau:

Tất cả những người đồng phạm có tổ chức đều bị truy tố, xét xử về

cùng một tội danh, theo cùng một điều luật quy định tội phạm và trong phạm

vi chế tài mà điều luật đó quy định. Điều này có nghĩa, những người trong

đồng phạm có tổ chức phải chịu TNHS chung về tội phạm mà họ đã thực hiện

cùng với dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS “có tổ chức” nếu điều luật

quy định tội phạm có quy định, hoặc phải cùng chịu TNHS chung về tình tiết

tăng nặng TNHS “phạm tội có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52

BLHS năm 2015.

Ngoài việc phải chịu TNHS chung về tội phạm thực hiện, những người

đồng phạm có tổ chức còn phải chịu TNHS chung về những dấu hiệu định

khung tăng nặng TNHS trong điều luật quy định tội phạm phải chịu TNHS.

Ngoài ra, những người đồng phạm có tổ chức còn phải chịu TNHS chung về

những tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại Điều 52 BLHS nếu cùng câu kết

chặt chẽ để thực hiện tội phạm.

Ngoài ra, tất cả những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu

trách nhiệm chung về nguyên tắc truy cứu TNHS, nguyên tắc quyết định hình

phạt, thời hiệu truy cứu TNHS… đối với tội phạm mà họ đã câu kết chặt chẽ

17

cùng thực hiện.

Thứ hai, những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu trách

nhiệm hình sự độc lập khi thực hiện tội phạm.

Trong đồng phạm có tổ chức, những người đồng phạm phải cùng chịu

TNHS chung về tội phạm họ đã thực hiện. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc

TNHS là trách nhiệm của cá nhân, người phạm tội chỉ phải chịu TNHS về

những gì do cá nhân mình đã thực hiện bằng hành động hoặc không hành

động. Do vậy, việc xác định TNHS cụ thể đối với từng người trong đồng

phạm có tổ chức cần căn cứ vào hành vi cụ thể của họ. Nguyên tắc này được

thể hiện trên những nội dung sau:

Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của riêng người đồng phạm

có tổ chức nào thì chỉ được áp dụng cho người đó, không được áp dụng cho

những người đồng phạm có tổ chức khác.

Những người trong đồng phạm có tổ chức không phải chịu TNHS về

hành vi vượt quá của những người đồng phạm khác. Trong đồng phạm có tổ

chức, mặc dù những người đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong

khi thực hiện tội phạm, tuy nhiên có những người đồng phạm trong quá trình

thực hiện tội phạm đã thực hiện hành vi vượt quá ý định chung của những

người đồng phạm khác muốn thực hiện. Thông thường, người có hành vi vượt

quá là người thực hành, bởi người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội

phạm. Do vậy, nếu như người thực hành thực hiện hành vi vượt quá mức cần

thiết mà những người đồng phạm có tổ chức khác mong muốn thực hiện thì

chỉ riêng người thực hành phải chịu TNHS về hành vi vượt quá này, những

người đồng phạm không phải chịu TNHS về hành vi vượt quá đó. Đây cũng

chính là nội dung được quy định tại khoản 4 Điều 17 BLHS: “Những người

đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực

hành”. Hành vi vượt quá của người thực hành trong đồng phạm có tổ chức có

thể cấu thành một tội phạm độc lập cùng tính chất hoặc không cùng tính chất

18

với tội phạm mà những người đồng phạm có tổ chức khác mong muốn thực

hiện. Khoa học Luật hình sự xác định có hai trường hợp vượt quá của người

thực hành trong vụ án đồng phạm nói chung, đồng phạm có tổ chức nói riêng.

Cụ thể: vượt quá về số lượng và vượt quá về chất lượng hành vi. Trong đó

vượt quá về số lượng hành vi được hiểu là hành vi vượt quá của người thực

hành cùng tính chất với hành vi phạm tội mà những người đồng phạm có ý

định thực hiện. Vượt quá về chất lượng hành vi được hiểu là hành vi vượt quá

không cùng tính chất với hành vi những người đồng phạm có tổ chức có ý

định thực hiện.

Việc loại trừ TNHS, miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình

phạt của người đồng phạm có tổ chức nào thì chỉ áp dụng đối với người đó

mà không áp dụng đối với những người đồng phạm khác.

Thứ ba, những người trong đồng phạm có tổ chức phải chịu trách

nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ tham gia của họ khi câu kết

chặt chẽ thực hiện tội phạm

Mặc dù những người đồng phạm có tổ chức tuy cùng phạm một tội

nhưng tính chất và mức độ tham gia là khác nhau, do đó tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội của mỗi người cũng khác nhau. Cá thể hóa TNHS của

những người trong đồng phạm có tổ chức có cơ sở lý luận là nguyên tắc cá

thể hóa TNHS nói chung. Theo nguyên tắc này, việc xác định TNHS phải phù

hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà những người

đồng phạm thực hiện trong vụ án đồng phạm có tổ chức.

Tính chất, mức độ tham gia thực hiện tội phạm của những người trong

đồng phạm có tổ chức được xác định bởi vai trò của từng người đồng phạm,

đặc thù về hoạt động của họ trong đồng phạm có tổ chức. Xét về tính chất

hành vi phạm tội trong đồng phạm có tổ chức, người tổ chức với hành vi chủ

mưu, cầm đầu, chỉ huy, phân công vai trò, vị trí cho từng người đồng phạm.

Người tổ chức giữa vai trò thống nhất nỗ lực phạm tội của những người đồng

19

phạm, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm nên hành vi của

người tổ chức được xác định là nguy hiểm nhất trong đồng phạm có tổ chức.

Do vậy, một trong những nguyên tắc xử lý của Luật hình sự Việt Nam là

“nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy” được quy định tại điểm c

khoản 1 Điều 3 BLHS. Cùng với nghiêm trị, Luật hình sự nước ta đã xác định

chính sách “khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố

giác đồng phạm” quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 BLHS. Chính vì vậy,

“khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét

đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của

từng người đồng phạm” (Điều 58 BLHS năm 2015).

Ngoài việc tuân thủ những nguyên tắc khi xác định TNHS, quá trình

xác định TNHS của những người đồng phạm có tổ chức cũng cần phải chú ý

một số nội dung sau:

Đối với tội phạm mà những người đồng phạm có tổ chức thực hiện mà

tội phạm này đòi hỏi dấu hiệu chủ thể đặc biệt, khi xác định TNHS trong

đồng phạm có tổ chức chỉ cần xác định người thực hành - người trực tiếp thực

hiện tội phạm trong đồng phạm có tổ chức thỏa mãn dấu hiệu chủ thể đặc

biệt, những người đồng phạm có tổ chức khác không đòi hỏi phải thỏa mãn

những dấu hiệu của chủ thể đặc biệt.

Quá trình xác định tội phạm và các các giai đoạn cố ý thực hiện tội

phạm của những người đồng phạm có tổ chức căn cứ vào hành vi khách quan

của người thực hành, người thực hành thực hiện tội phạm ở giai đoạn nào thì

những người đồng phạm có tổ chức phải chịu TNHS đến giai đoạn đó.

Trong vụ án đồng phạm có tổ chức, người đồng phạm nào được xác

định là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì vấn đề miễn TNHS chỉ

được áp dụng đối với người này mà không áp dụng đối với người đồng phạm

khác. Vấn đề xác định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng

phạm có thể vận dụng Phần I Nghị quyết số 01 – HĐTP/NQ ngày 19 tháng 4

20

năm 1989 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ

sung áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985. Mặc dù Nghị quyết số

01/HĐTP/NQ hướng dẫn vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong

đồng phạm của BLHS năm 1985, tuy nhiên đến thời điểm hiện tại chưa có văn

bản thay thế. Đồng thời, xét về bản chất pháp lý của chế định tự ý nửa chừng

chấm dứt việc phạm tội và đồng phạm có tổ chức trong BLHS năm 2015 không

khác so với BLHS năm 1985. Do vậy, có thể vận dụng hướng dẫn trong Nghị

quyết số 01/HĐTP/NQ để xác định vấn đề tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm

tội trong đồng phạm có tổ chức theo quy định của BLHS năm 2015.

1.3. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam về đồng phạm có tổ chức từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945

đến nay

1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước

khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985

Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, chế định đồng phạm có tổ chức

đã được đề cập đến trong một số văn bản pháp lý đơn hành, như:

Thông tư số 442/TTg ngày 19 tháng 1 năm 1955 của Thủ tướng Chính

phủ quy định về việc trừng trị một số tội phạm. Trong Thông tư này, không

đề cập đến thế nào là có tổ chức trong đồng phạm có tổ chức mà chỉ đưa ra

một số hành vi có tổ chức đơn lẻ như “cướp đường hay trộm có tổ chức”,

“đánh bị thương có tổ chức”.

Pháp lệnh số 149-LCT ngày 21 tháng 10 năm 1970 của Ủy ban Thường

vụ Quốc hội quy định trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa,

Pháp lệnh số 150-LCT ngày 21 tháng 10 năm 1970 của Ủy ban Thường vụ

Quốc hội quy định trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Trong hai Pháp lệnh này, đồng phạm có tổ chức được quy định là dấu hiệu

định khung tăng nặng TNHS của một số tội phạm xâm phạm sở hữu. Tuy

nhiên, giống như Thông tư số 442/TTg, Pháp lệnh số 149 và 150 cũng không

21

có định nghĩa thế nào là “có tổ chức”.

Đến năm 1973, lần đầu tiên đồng phạm có tổ chức đã được đề cập

trong Thông tư liên bộ ngày 16/3/1973 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện

kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an trong hướng dẫn quy định Pháp lệnh

số 149-LCT và 150-LCT. Cụ thể: “…là một hình thức cộng phạm của hai hay

nhiều người trong đó có một số tên cầm đầu hoặc đóng vai trò cầm đầu, cùng

bàn bạc trước việc thực hiện một hoặc nhiều tội phạm nào đó, thủ đoạn phạm

tội thường là tinh vi, xảo quyệt, vai trò của từng tên phân công giữa bọn

chúng có thể không dứt khoát rõ ràng hoặc lợi dụng hay nấp dưới danh nghĩa

một tổ chức công khai để bàn bạc về việc thực hiện một tội phạm, hoặc có khi

chúng không bàn bạc nhau trước nhưng do quan hệ công tác hàng ngày nên

hiểu ý đồ nhau rồi cùng hành động phạm tội, mặc nhiên câu kết chặt chẽ”.

Như vậy, trong giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 đến trước pháp

điển hóa lần thứ nhất, do các nguyên nhân khách quan và chủ quan nên nước

ta chưa có điều kiện để xây dựng một BLHS thống nhất. Các văn bản pháp

luật được ban hành chỉ là các văn bản đơn lẻ, mỗi văn bản chỉ quy định một

hoặc một số vấn đề riêng biệt, trong đó có điểm qua nội dung đồng phạm có

tổ chức nhưng chưa thực sự đầy đủ, chưa khái quát hóa được khái niệm đồng

phạm có tổ chức. Chính vì vậy, việc xây dựng và ban hành một BLHS quy

định thống nhất các chế định, không riêng gì chế định đồng phạm có tổ chức

là vấn đề có tính tất yếu, khách quan và cấp thiết.

1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến nay

BLHS năm 1985 được Quốc hội khóa VII thông qua ngày 27 tháng 06

năm 1985, tại kỳ họp thứ 9, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1986. BLHS

năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của pháp luật hình sự Việt

Nam giai đoạn trước đây, đồng thời đánh dấu một bước phát triển mới của

pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, các quy định về đồng phạm và đồng

phạm có tổ chức nói riêng. Trong BLHS năm 1985, khái niệm đồng phạm

22

chính thức được ghi nhận tại Điều 17 với nội dung: “Hai hoặc nhiều người

cùng cố ý thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Với việc ghi nhận này,

thuật ngữ đồng phạm đã được sử dụng để thay thế cho thuật ngữ tòng phạm,

cộng phạm được sử dụng trong các văn bản pháp luật hình sự trước đây. Cùng

với đó, chế định đồng phạm có tổ chức được quy định tại khoản 3 Điều 17

BLHS năm 1985 với nội dung: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm

có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”.

Có thể nói, việc BLHS năm 1985 chính thức ghi nhận định nghĩa pháp

lý “phạm tội có tổ chức” đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển về kĩ

thuật và tư duy lập pháp, thể hiện thái độ nghiêm khắc của Đảng và Nhà nước

trong việc đấu tranh, xử lý với hình thức đồng phạm đặc biệt này. Tuy nhiên,

cụm từ “câu kết chặt chẽ” trong đồng phạm có tổ chức mang tính định tính,

dẫn đến có những quan điểm, vận dụng không thống nhất về chế định đồng

phạm có tổ chức. Chính vì vậy, ngày 16 tháng 11 năm 1988 Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao đã ra Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ hướng dẫn

bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05-01-1986. Theo đó, Mục 3 Nghị

quyết số 02-/HĐTP/NQ đã xác định các hình thức biểu hiện của đồng phạm

có tổ chức. Cụ thể:

“3- Phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người

cùng thực hiện tội phạm. Trong thực tế, sự câu kết này có thể thể hiện dưới

các dạng sau đây:

a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như:

đảng phái, hội, đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… có những tên chỉ huy,

cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ

huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất

cùng nhau hoạt động phạm tội. Thí dụ: sau khi đã hết hạn tù, một số tên

chuyên trộm cắp đã tập hợp nhau lại và thống nhất cùng nhau tiếp tục hoạt

23

động phạm tội.

b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một

kế hoạch đã thống nhất trước. Thí dụ: một số nhân viên nhà nước đã thông

đồng với nhau tham ô nhiều lần; một số tên chuyên cùng nhau đi trộm cắp;

một số tên hoạt động đầu cơ, buôn lậu có tổ chức đường dây để nắm nguồn

hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả…

c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã

tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu

đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch

che giấu tội phạm. Thí dụ: Trong các trường hợp trộm cắp, cướp tài sản của

công dân mà có phân công điều tra trước về nơi ở, quy luật sinh hoạt của gia

đình chủ nhà, phân công chuẩn bị phương tiện và hoạt động của mỗi người

đồng phạm; tham ô mà có bàn bạc trước về kế hoạch sửa chữa chứng từ sổ

sách, hủy chứng từ, tài liệu hoặc làm giả giấy tờ; giết người mà có bàn bạc

hoặc phân công điều tra sinh hoạt của nạn nhân, chuẩn bị phương tiện và kế hoạch

che giấu tội phạm v.v…”

Các lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 vào các năm 1989, 1991,

1992 và 1997 vẫn ghi nhận chế định đồng phạm có tổ chức tại khoản 3 Điều

17 BLHS. Ngoài việc ghi nhận đồng phạm có tổ chức là dấu hiệu định khung

tăng nặng TNHS trong điều luật quy định tội phạm cụ thể, BLHS năm 1985

cũng như các lần sửa đổi đều quy định đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 39 BLHS.

Ngày 21 tháng 12 năm 1999, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa X đã

thông qua BLHS năm 1999, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 nam 2000. Trong

lần pháp điển hóa lần thứ hai, cũng như lần sửa đổi, bổ sung năm 2009, chế

định về đồng phạm có tổ chức được quy định tại khoản 3 Điều 20 với nội

dung: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ

24

giữa những người cùng thực hiện tội phạm”.

Ngày 27 tháng 11 năm 2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã

thông qua BLHS năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Ngày

20 tháng 6 năm 2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số

12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015, theo đó

BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01

năm 2018. BLHS năm 2015 và BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

ghi nhận đồng phạm có tổ chức tại khoản 2 Điều 17 với nội dung: “Phạm tội

có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người

cùng thực hiện tội phạm”.

Như vậy, từ lần pháp điển hóa lần thứ nhất năm 1985 đến pháp điển

hóa lần thứ ba năm 2015, cũng như các lần sửa đổi, bổ sung sau đó, chế định

đồng phạm có tổ chức được ghi nhận trong các BLHS đều giống nhau cả về

hình thức pháp lý và nội dung pháp lý. BLHS đều xác định đồng phạm có tổ

chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng

thực hiện tội phạm. Trong các BLHS, đồng phạm có tổ chức là dấu hiệu định

tội và dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS trong một số tội phạm cụ thể,

đồng thời đồng phạm có tổ chức còn là tình tiết định khung tăng nặng TNHS.

Mặc dù vậy, kể từ khi Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành

Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ ngày 16 tháng 11 năm 1988 hướng dẫn về đồng

phạm có tổ chức trong BLHS năm 1985 đến nay vẫn chưa có văn bản pháp

luật nào thay thế. Tuy nhiên như đã trình bày, xét về nội dung và hình thức,

chế định đồng phạm có tổ chức trong các BLHS đều giống nhau, do vậy có

thể căn cứ nội dung của Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ để vận dụng xác định

25

đồng phạm có tổ chức trong thực tiễn.

Tiểu kết chương 1

Trong các hình thức đồng phạm, đồng phạm có tổ chức là hình thức

đồng phạm đặc biệt và nguy hiểm nhất. Đồng phạm có tổ chức được phân biệt

với các hình thức đồng phạm khác bởi dấu hiệu “có sự câu kết chặt chẽ” giữa

những người cùng thực hiện tội phạm. Đặc điểm này vừa thể hiện mức độ liên

kết chặt chẽ về mặt chủ quan, vừa thể hiện mức độ phân hóa vai trò, nhiệm vụ

về mặt khách quan của trường hợp đồng phạm có tổ chức.

Trong Chương 1, luận văn đã nêu ra các quan điểm khác nhau về đồng

phạm có tổ chức, trên có sở đánh giá những hạn chế của các quan điểm, luận

văn đã đưa ra khái niệm đồng phạm có tổ chức. Cùng với đó, luận văn đã đưa

ra các đặc điểm của đồng phạm có tổ chức, cũng như lịch sử phát triển của

chế định đồng phạm có tổ chức trong Luật hình sự Việt Nam.

Những kết quả trình bày trong Chương 1 là cơ sở để luận văn nghiên

cứu các quy định của pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức. Trên cơ

sở đó, luận văn khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về đồng phạm

26

có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được trình bày trong Chương 2.

Chương 2

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐỒNG PHẠM

CÓ TỔ CHỨC VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

VỀ ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ chức

2.1.1. Quy định về đồng phạm có tổ chức trong Bộ luật Hình sự hiện hành

Đồng phạm có tổ chức là hình thức đặc biệt của đồng phạm, chế định

này được quy định tại khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017) với nội dung: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự

câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”.

Theo thống kê của tác giả, nếu như trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ

sung năm 2009) đồng phạm có tổ chức được quy định là dấu hiệu định khung

tăng nặng TNHS tại 78 điều luật, thì đến lần pháp điển hóa thứ 3 với sự ra đời

của BLHS năm 2015 cũng như BLHS năm 2017 sửa đổi, bổ sung năm 2017

số lượng này đã tăng lên 129 điều luật. Cùng với việc giữ nguyên dấu hiệu

đồng phạm có tổ chức với tư cách là dấu hiệu định tội và định khung tăng

nặng TNHS ở các điều luật quy định tội phạm trong BLHS năm 1999, BLHS

năm 2015 đã bổ sung đồng phạm có tổ chức là dấu hiệu định khung tăng nặng

TNHS tại các điều luật quy định tội phạm khác mà trước đây BLHS năm

1999 chưa quy định.

Sở dĩ BLHS năm 2015 quy định đồng phạm có tổ chức là dấu hiệu tăng

nặng nhiều hơn so với BLHS năm 1999 là do có sự thay đổi về chính sách

hình sự, cùng với đó, BLHS năm 2015 đã tách những tội phạm được quy định

trong cùng một điều luật thành các tội phạm được quy định trong các điều luật

độc lập, hơn nữa tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ

27

chức trong giai đoạn hiện nay ngày càng gia tăng. Do vậy, dấu hiệu tăng nặng

đồng phạm có tổ chức được quy định nhiều hơn trong BLHS năm 2015 nhằm

tăng tính nghiêm minh và chặt chẽ trong xử lý người phạm tội hoặc pháp

nhân thương mại phạm tội.

Thống kê cho thấy, đồng phạm có tổ chức là dấu hiệu định khung tăng

nặng TNHS được quy định tại các tội phạm sau đây: tội giết người (điểm o

khoản 1 Điều 123); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác (điểm đ khoản 1 Điều 134); tội hiếp dâm (điểm a khoản 2

Điều 141); tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (điểm a khoản 2 Điều 142); tội

dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (điểm a khoản 2 Điều 146); tội sử dụng

người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (điểm a khoản 2 Điều 147); tội cố

ý truyền HIV cho người khác (điểm a khoản 2 Điều 149); tội mua bán người

(điểm a khoản 2 điều 150); tội mua bán người dưới 16 tuổi (điểm a khoản 3

Điều 151); tội đánh tráo người dưới 01 tuổi (điểm a khoản 1 Điều 152); tội

chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (điểm a khoản 2 Điều 153); tội mua bán, chiếm

đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (điểm a khoản 2 Điều 154); tội vu khống

(điểm a khoản 2 Điều 156); tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (điểm

a khoản 2 Điều 157); tội xâm phạm chỗ ở của người khác (điểm a khoản 2

Điều 158); tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điên thoại, điên tín hoặc

hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác (điểm a khoản 2

Điều 159); tội xâm phạm quyền của công dân về bầu cử, ứng cử hoặc biểu

quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (điểm a khoản 2 Điều 160); tội làm sai

lệch kết quả bầu cử, kết quả trưng cầu ý dân (điểm a khoản 2 Điều 161); tội

xâm phạm quyền hội họp, lập hội của công dân (điểm a khoản 2 Điều 163);

tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác (điểm a khoản

2 Điều 164); tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo (điểm a khoản 2 Điều

166); tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin,

quyền biểu tình của công dân (điểm a khoản 2 Điều 167); tội cướp tài sản

28

(điểm a khoản 2 Điều 168); tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản

2 Điều 169); tội cưỡng đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 170); tội cướp giật

tài sản (điểm a khoản 2 Điều 171); tội trộm cắp tài sản (điểm a khoản 2 Điều

173); tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 174); tội lạm dụng

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 175); tội hủy hoại hoặc cố

ý làm hư hỏng tài sản (điểm a khoản 2 Điều 178); tội buôn lậu (điểm a khoản

2 Điều 188); tội vận chuyển trái phép, hàng hóa tiền tệ qua biên giới (điểm a

khoản 2 Điều 189); tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (điểm a khoản 2 Điều

190); tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm (điểm a khoản 2 Điều 191); tội sản

xuất, buôn bán hàng giả (điểm a khoản 2 Điều 192); tội sản xuất, buôn bán

hành giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia là thực phẩm (điểm a khoản 2

Điều 193); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng

bệnh (điểm a khoản 2 Điều 194); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn

dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây

trồng, giống vật nuôi (điểm a khoản 2 Điều 195); tội đầu cơ (điểm a khoản 2

Điều 195); tội lừa dối khách hàng (điểm a khoản 2 Điều 198); tội trốn thuế

(điểm a khoản 2 Điều 200); tội làm, buôn bán tem giả, vé giả (điểm a khoản 2

Điều 202); tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp

ngân sách nhà nước (điểm a khoản 2 Điều 203); tội cố ý công bố thông tin sai

lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán (điểm a khoản 2

Điều 209); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (điểm a

khoản 2 Điều 210); tội thao túng thị trường chứng khoán (điểm a khoản 2

Điều 211); tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán

(điểm a khoản 2 Điều 212); tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (điểm a

khoản 2 Điều 213); tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (điểm a

khoản 2 Điều 214); tội gian lận bảo hiểm y tế (điểm a khoản 2 Điều 215); tội

vi phạm quy đinh về hoạt động bán đấu giá tài sản (điểm a khoản 2 Điều

218); tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước, gây thất

29

thoát, lãng phí (điểm a khoản 2 Điều 219); tội vi phạm quy định về quản lý và

sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (điểm b khoản 2 Điều

220); tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (điểm b

khoản 2 Điều 221); tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm

trọng (điểm b khoản 2 Điều 222); tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế

gây hậu quả nghiêm trọng (điểm b khoản 2 Điều 223); tội vi phạm quy định

về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (điểm b khoản 2

Điều 224); tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (điểm a khoản 2

Điều 225); tội xâm phạm quyền sở hữu về công nghiệp (điểm a khoản 2 Điều

226); tội vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên

(điểm c khoản 2 Điều 227); tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (điểm

a khoản 2 Điều 228); tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (điểm a

khoản 2 Điều 229); tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

nhà nước thu hồi đất (điểm b khoản 2 Điều 230); tội cố ý làm trái quy định về

phân phối tiền, hàng cứu trợ (điểm a khoản 2 Điều 231); tội vi phạm quy định

về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản (điểm m khoản 2 Điều 232); tội vi phạm

quy định về quản lý rừng (điểm a khoản 2 Điều 233); tội vi phạm quy định về

bảo vệ động vật hoang dã (điểm a khoản 2 Điều 234); tội vi phạm quy định về

quản lý chất thải gây hại ( điểm b, khoản 2, điều 236); tội vi phạm quy định

về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng chống thiên tai; vi

phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (điểm a khoản 2 Điều 238); tội đưa

chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (điểm a khoản 2 Điều 239); tội hủy hoại rừng

(điểm a khoản 2 Điều 243); tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy

cấp, quý hiếm (điểm đ khoản 2 Điều 244); tội vi phạm về quản lý khu bảo tồn

thiên nhiên (điểm c khoản 2 Điều 245); tội nhập khẩu, phát tán các loại ngoại

lai xâm hại (điểm a khoản 2 Điều 246); tội trồng cây thuốc phiện, cây côca,

cây cần sa, hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (điểm a khoản 2 Điều

247); tội sản xuất trái phép chất ma túy (điểm a khoản 2 Điều 248); tội tàng

30

trữ trái phép chất ma túy (điểm a khoản 2 Điều 249); tội vận chuyển trái phép

chất ma túy (điểm a khoản 2 Điều 250); tội mua bán trái phép chất ma túy

(điểm a khoản 2 Điều 251); tội chiếm đoạt chất ma túy (điểm a khoản 2 Điều

252); tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào

việc sản xuất trái phép chất ma túy (điểm a khoản 2 Điều 253); tội sản xuất,

tàng trữ vận chuyển hoặc mua bán phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản

xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (điểm a khoản 2 Điều 254); tội cưỡng

bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy (điểm a khoản 2 Điều 257); tội

lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (điểm a khoản 2 Điều 258);

tội vi phạm quy định quản lý chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc

hướng thần (điểm a khoản 2 Điều 259); tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (điểm

a khoản 2 Điều 282); tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ,

thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (điểm a khoản 2

Điều 285); tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (điểm a khoản 2 Điều 286);

tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điên tử (điểm a khoản 2 Điều 287); tội đưa hoạt sử dụng trái phép

mạng máy tính, mạng viễn thông (điểm a khoản 2 Điều 288); tội xâm phạm

trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của

người khác (điểm a khoản 2 Điều 289); tội sử dụng mạng máy tính, mạng

viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (điểm a

khoản 2 Điều 290); tội thu thập, tàng trữ,trao đổi, mua bán, công khai hóa, trái

phép thông tin về tài khoản ngân hàng (điểm b khoản 2 Điều 291); tội sử dụng

trái phép tần số vô tuyến điên dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn , tìm

kiếm, cứu hộ, cứu nạn,quốc phòng, an ninh (điểm a khoản 2 Điều 293); tội cố

ý gây nhiễu có hại (điểm a khoản 2 Điều 294); tội cưỡng bức lao động (điểm

a khoản 2 Điều 297); tội bắt cóc con tin (điểm a khoản 2 điều 301); tội cướp

biển (điểm a khoản 2 Điều 302); tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện

31

quan trọng về an ninh quốc gia (điểm a khoản 2 Điều 303); tội chế tạo vận

chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm dụng vũ khí quân dụng,

phương tiện ky thuật quân sự (điểm a khoản 2 Điều 304)); tội chế tạo, tàng

trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ

(điểm a khoản 2 Điều 305); tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua

bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao, công

cụ hỗ trợ và các vũ khí khác có tính năng tác dụng tương tự (điểm a khoản 2

Điều 306); tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, phát tán, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân (điểm a khoản 2 Điều

309); tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất

cháy, chất độc (điểm a khoản 3 Điều 311); tội vi phạm quy định về vệ sinh an

toàn thực phẩm (điểm a khoản 2 Điều 317); Tội gây rối trật tự công cộng

(điểm a khoản 2 Điều 318); tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác

phạm tội mà có (điểm a khoản 2 Điều 323); tội rửa tiền (điểm a khoản 2 Điều

324); tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp (điểm

a khoản 2 Điều 325); tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy (điểm a khoản 2

Điều 326); tội chứa mại dâm (điểm a khoản 2 Điều 327); tội môi giới mại

dâm (điểm b khoản 2 Điều 328); tội chống người thi hành công vụ (điểm a

khoản 2 Điều 330); tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán,

tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước (điểm a khoản 3 Điều 337); tội làm giả con

dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu, tài liệu giả của cơ

quan, tổ chức (điểm a khoản 2 Điều 341); tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy

con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (điểm a khoản 2 Điều 342); tội vi phạm

các quy định về hoạt động xuất bản (điểm a khoản 2 Điều 344); tội tham ô tài

sản (điểm a khoản 2 Điều 353); tội nhận hối lộ (điểm a khoản 2 Điều 354); tội

lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 355);

tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (điểm a khoản 2

Điều 356); tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (điểm a khoản 2 Điều

32

357); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để

trục lợi (điểm a khoản 2 Điều 358); tội giả mạo trong công tác (điểm a khoản

2 Điều 359); tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc

tiêu hủy tài liệu bí mật công tác (điểm a khoản 2 Điều 361); tội ra quyết định

trái pháp luật (điểm a khoản 2 Điều 371); tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc

(điểm a khoản 2 Điều 375); tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian

dối (điểm a khoản 2 Điều 382); tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang

bị áp giải, đang bị xét xử (điểm a khoản 2 Điều 386); tội vi phạm quy định về

giam giữ (điểm a khoản 2 Điều 388).

Ngoài việc BLHS quy định đồng phạm có tổ chức là dấu hiệu định

khung tăng nặng TNHS đối với các tội đã nêu ở trên, BLHS năm 2015 còn

quy định đồng phạm có tổ chức là dấu hiệu bắt buộc để định tội đối với một

số tội phạm. Có thể kể đến tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân

quy định tại Điều 109 BLHS năm 2015. Theo đó, người phạm tội có “hoạt

động thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm chống chính quyền nhân dân”.

Mặc dù điều luật không quy định hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức

nhằm lật đổ chính quyền nhân nhân phải là hoạt động của nhiều người nhưng

việc hoạt động đó chắc chắn có sự câu kết chặt chẽ giữa nhiều người trong

việc thực hiện tội phạm.

Khi xác định đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăng nặng TNHS cần

lưu ý: “Các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc

định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng” theo quy định

tại khoản 2 Điều 52 BLHS năm 2015.

Nghiên cứu dấu hiệu đồng phạm có tổ chức trong BLHS hiện hành

cũng cần phân biệt với hành vi tổ chức trong một số tội phạm như: tổ chức tảo

hôn (Điều 183), tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 255), tổ chức

đua xe trái phép (điều 266), tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 322), tội

tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam

33

trái phép (điều 348), tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước người

hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 349). Đối với những tội phạm này,

người phạm tội có hành vi tổ chức cho người khác thực hiện các hành vi vi

phạm pháp luật. Đó là các hành vi lôi kéo, dụ dỗ, kích động hoặc sắp đặt, tạo

điều kiện thuận lợi để người khác thực hiện hành vi theo ý muốn của người

phạm tội. Tuy nhiên, đối với các tội phạm này, có trường hợp tội phạm được

thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức, nhưng không phải mọi

trường hợp thực hiện các tội phạm trên đều bị coi là đồng phạm có tổ chức,

bởi không phải lúc nào những người cố ý cùng thực hiện các tội phạm nói

trên cũng có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện tội phạm.

2.1.2. Văn bản hướng dẫn quy định đồng phạm có tổ chức trong Bộ

luật Hình sự hiện hành

Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ

ngày 01 tháng 01 năm 2018, tuy nhiên đến thời điểm hiện tại chưa có văn bản

pháp luật nào hướng dẫn nội dung chế định đồng phạm có tổ chức trong

BLHS năm 2015. Mặc dù vậy, trong lịch sử phát triển các quy định của pháp

luật hình sự Việt Nam về đồng phạm có tổ chức,ngày 16 tháng 11 năm 1988

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02-

/HĐTP/NQ hướng dẫn về đồng phạm có tổ chức trong BLHS năm 1985. Xét

trên phương diện pháp lý, văn bản này hiện nay đã hết hiệu lực pháp luật nên

không thể viện dẫn quy định của Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ để áp dụng

quy định đồng phạm có tổ chức trong BLHS năm 2015. Tuy nhiên, xét về bản

chất pháp lý của chế định đồng phạm có tổ chức có thể thấy chế định này

trong BLHS năm 2015 không có gì thay đổi so với BLHS năm 1985. Chính vì

vậy, có thể vận dụng tinh thần của Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ ngày 16

tháng 11 năm 1988 để xác định đồng phạm có tổ chức trong BLHS năm 2015.

Sự ra đời của Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ đã mang đến một cách nhìn

nhận tương đối thống nhất mang tính định hướng về đồng phạm có tổ chức.

34

Tuy vậy, hướng dẫn về đồng phạm có tổ chức trong Nghị quyết số 02-

/HĐTP/NQ mới chỉ liệt kê các trường hợp câu kết chặt chẽ cụ thể trong đồng

phạm có tổ chức mà chưa khái quát được bản chất của sự câu kết chặt chẽ. Do

vậy, trong thời gian tới cần nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện hệ thống lý luận

vè đồng phạm có tổ chức và ban hành các văn bản hướng dẫn về chế định

đồng phạm có tổ chức trong BLHS hiện hành.

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về đồng phạm có tổ

chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

2.2.1. Tình hình xét xử các vụ án về đồng phạm có tổ chức tại địa bàn

tỉnh Quảng Ninh

Quảng Ninh là tỉnh ven biển phía bắc Việt Nam, phía Đông Bắc giáp

Trung Quốc, phía Đông Nam giáp Vịnh Bắc Bộ, phía Tây Nam giáp tỉnh Hải

Dương và thành phố Hải Phòng; phía Tây Bắc giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc

Giang và Hải Dương. Quảng Ninh có đường bờ biển dài 250km, diện tích

toàn tỉnh rộng hơn 6.110,813 km2 đất liền và 6.000 km2 diện tích mặt biển.

Với vị trí là địa phương giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, thuận lợi về

vị trí địa lý, có hệ thống giao thông thuận lợi, có nhiều cảng biển, cửa khẩu

quốc tế, trong thời gian qua Quảng Ninh đã đạt nhiều thành tựu trong phát

triển kinh tế - xã hội, được đánh giá là một đầu tàu kinh tế phía Bắc và là một

trong tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Bên cạnh những kết quả đạt được, tác động mặt trái của nền kinh tế thị

trường đã ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh. Theo báo

cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, thời gian từ năm 2014

đến hết năm 2018, trên địa bàn tỉnh xảy ra 3.015 vụ an hình sự (trong đó có

332 vụ trọng án), làm 88 người chết, 818 người bị thương, thiệt hại về tài sản

là 86,9 tỷ đồng. Tính trung bình trên địa bàn tỉnh xảy ra 603 vụ an hình

sự/năm; 18 người chết/năm, 164 người bị thương/năm, thiệt hại tài sản 17,38

35

tỷ đồng/năm. [Xem Bảng 2.1]

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm, nhất là đấu tranh đối với các băng, nhóm đồng phạm có tổ chức. Trong

thời gian qua, việc đấu tranh với các băng, nhóm đồng phạm có tổ chức luôn

được các cơ quan bảo vệ pháp luật tại tỉnh Quảng Ninh quan tâm sâu sát. Các

cơ quan chức năng tỉnh Quảng Ninh đã triển khai nhiều biện pháp đấu tranh

đối với các băng, nhóm đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh. Trước khi Bộ

Công an ban hành Kế hoạch 03/KH-BCA ngày 06/01/2014 về công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã xuất

hiện những băng nhóm tội phạm hoạt động phức tạp tại khu vực biên giới,

cửa khẩu liên quan đến hoạt động buôn lậu; vận chuyển trái phép hàng hóa

qua biên giới và tại các địa bàn khai thác, sản xuất, kinh doanh than…Các đối

tượng phạm tội có xu hướng liên kết, cấu kết chặt chẽ với nhau hoạt động

dưới dạng đồng phạm có tổ chức. Sự liên kết chặt chẽ đó tạo ra các điều kiện

về vật chất và tinh thần cho các đối tượng đồng phạm có tổ chức thực hiện tội

phạm một cách tinh vi, táo bạo và liều lĩnh hơn. Đồng thời, chính vì giữa các

đối tượng sự bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau về kế hoạch thực hiện tội

phạm, che giấu tội phạm làm cho chúng khó bị phát hiện, gây khó khăn cho

các cơ quan tiến hành tố tụng. Tình trạng sử dụng các loại công cụ, phương

tiện, vũ khí nóng để gây án như: dao, kiếm, mã tấu, vũ khí tự tạo, súng bắn

đạn ghém... trong các băng, nhóm đồng phạm có tổ chức để gây án vẫn là vấn

đề bức xúc, gây ra hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, làm ảnh

hưởng đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh.

Theo báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, thời gian

từ năm 2014 đến năm 2018, ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã đưa

ra xét xử 492 vụ án đồng phạm có tổ chức với 2.901 bị cáo. Trung bình mỗi

năm ngànhTòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã xử lý 98,4 vụ với 580 đối bị

36

cáo trong các vụ án đồng phạm có tổ chức. [Xem Bảng 2.2]

- Cơ cấu của các vụ án đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống đồng phạm có tổ chức trên

địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian quan cho thấy: Trong tổng số 492 vụ

án đồng phạm có tổ chức được ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đưa

ra xét xử có:[Xem Bảng 2.2]

+ 300 vụ án phạm tội hình sự (chiếm 61%);

+ 169 vụ án phạm tội về ma túy (chiếm 34,3%);

+ 13 vụ án phạm tội về kinh tế (chiếm 2,6%);

+ 10 vụ án phạm tội về môi trường, tội phạm sử dụng công nghệ cao và

tội phạm khác (2,1%).

Tội phạm hình sự

Tội phạm ma túy

Tội phạm kinh tế

Tội phạm môi trường, công nghệ cao và tội phạm khác

Cơ cấu của các vụ án đồng phạm có tổ chức

Trong cơ cấu các vụ án đồng phạm có tổ chức, tội phạm hình sự chiếm

tỷ lệ lớn nhất về số vụ cũng như đối tượng phạm tội (1.748bị cáophạm tội có

37

tổ chức, chiếm 67,9 %).

- Tính chất của vụ án đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Nghiên cứu tính chất của các vụ án đồng phạm có tổ chức trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh cho thấy, tính chất của vụ án đồng phạm có tổ chức thường

tồn tại dưới 02 dạng: đồng phạm có tổ chức giản đơn và đồng phạm có tổ

chức phức tạp. Cụ thể theo từng hệ tội phạm như sau: [Xem Bảng 2.3]

+ Tội phạm hình sự: trong tổng số 300 vụ án đồng phạm có tổ

chứcphạm tội hình sự bị triệt phá, có đến 259 vụ án đồng phạm có tổ chức

giản đơn (chiếm86,33%); 34 vụ án đồng phạm có tổ chức phức tạp (chiếm

11,33%). Đặc biệt, trong 300 vụ án đồng phạm có tổ chức phạm tội hình sự có

07 vụ hoạt động phạm tội có dấu hiệu xuyên quốc gia (chiếm 2,34%). Mặc dù

có sự chênh lệch theo tính chất băng, nhóm nhưng nhìn chung các băng,

nhóm tội phạm hình sự hoạt động tương đối phức tạp, có sự xuất hiện của các

băng, nhóm đồng phạm phức tạp, chủ yếu các băng nhóm này là các nhóm

côn đồ, hung hãn, bảo kê các ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các loại

hình dịch vụ trên địa bàn.

+ Tội phạm về ma túy: Trong tổng số 169 vụ án đồng phạm có tổ chức

phạm tội ma túy bị triệt phá có đến 35 vụ án đồng phạm có tổ chức có tính

chất xuyên quốc gia (chiếm 20,71%); 134 vụ án còn lại là các vụ án đồng

phạm có tổ chức giản đơn (chiếm 79,29%).

+ Tội phạm về kinh tế, tội phạm về môi trường, tội phạm sử dụng công

nghệ cao và các tội phạm khác: tất cả đều là các vụ án đồng phạm có tổ chức

giản đơn.

Trong tổng số 492 vụ án đồng phạm có tổ chức các loại được Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Ninh đưa ra xét xử có 416 vụ án đồng phạm có tổ chức

giản đơn (chiếm 84,55%); 34 vụ án đồng phạm có tổ chức phức tạp (chiếm

6,91%); 39 vụ án đồng phạm có tổ chức hoạt động xuyên quốc gia (chiếm

38

8,56%) và đa số là tội phạm về ma túy.

Các lực lượng chức năng tỉnh Quảng Ninh, qua công tác rà soát, thống

kê trong 05 năm từ 2014-2018 trên địa bàn tỉnh, chưa phát hiện băng, nhóm

nào hoạt động theo kiểu “xã hội đen” theo như Hướng dẫn số 1369/C45-P5

ngày 24 tháng 7 năm 2012 của Cục Cảnh sát hình sự Bộ Công an. Những

băng, nhóm có biểu hiện hoạt động cũng như đã bị triệt phá đa phần là các vụ

án đồng phạm có tổ chức giản đơn, có sự câu kết chặt chẽ nhưng chưa cao,

chưa có sự phân hóa mạnh đối với đối tượng cầm đầu, chỉ huy. Các đối tượng

hoạt động trong các vụ án đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh đa phần là những mắt xích trong một nhóm tội phạm, thiếu tính bền

vững, dễ tan rã...số lượng thành viên mỗi vụ án khoảng từ 03 đến 07 người.

2.2.2. Thực tiễn định tội danh đối với các vụ án đồng phạm có tổ

chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Để xác định một vụ án đồng phạm có tổ chức hay đồng phạm thông

thường đòi hỏi chủ thể định tội danh phải nhận thức đầy đủ, thấu đáo, khách

quan về hình thức đồng phạm này, trên cơ sở kinh nghiệm công tác đấu tranh

chống tội phạm. Thực tiễn cho thấy, phần lớn chủ thể định tội danh làm công

tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong quá trình định tội danh đều

hiểu được nội dung, bản chất, các hình thức thường gặp của đồng phạm có

tổchức. Chính điều này đã giúp cho công tác phòng ngừa và đấu tranh chống

băng, nhóm đồng phạm có tổ chức đạt được những kết quả nhất định.

Quá trình định tội danh, hầu hết các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó

cóTòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã áp dụng đúng dấu hiệu

đồng phạm có tổ chức với tư cách là dấu hiệu định tội hoặc dấu hiệu định

khung tăng nặng TNHS, có sự phân biệt rõ ràng giữa các vụ án được thực

hiện dưới hình thức đồng phạm thông thường với các vụ án đồng phạm có tổ

chức. Các quyết định tố tụng, bản án về cơ bản đã xác định đúng người, đúng

39

tội, áp dụng chính xác dấu hiệu đồng phạm có tổ chức với tư cách là dấu hiệu

định tội, dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS cũng như tình tiết tăng nặng

TNHS. Có thể kể đến:

Vụ án 1: Ngày 27 tháng 05 năm 2016, Phòng Cảnh sát hình sựCông an

tỉnh Quảng Ninh đấu tranh chuyên án bí số BN516, đã triệt phá đường dây

mua bán người sang Trung Quốc; bắt giữ 03 đối tượng về hành vi mua bán

người. Nạn nhân là 02 cô gái người dân tộc cư trú tại huyện Mai Sơn, tỉnh

Sơn La.

Theo kết luận điều tra của Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng

Ninh: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên quốc lộ 18,

tổ công tác của Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt Công an tỉnh

Quảng Ninh nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc hai hành

khách đi trên xe ô tô BKS 14B-003.33, lưu thông hướng Hà Nội - Móng Cái

nghi bị lừa bán sang Trung Quốc. Lực lượng Cảnh sát giao thông Công an

tỉnh Quảng Ninh triển khai kế hoạch kiểm tra hành chính phương tiện trên,

sau đó đưa 02 phụ nữ và 01 nam thanh niên về trụ sở Công an thành phố

Uông Bí để làm việc.

Qua công tác điều tra xác minh, cơ quan Công an bước đầu nắm được

lý lịch của hai cô gái trẻ là Lò Thị Xong và Lò Thị Môn cùng trú tại bản Ta

Vắt, xã Phiềng Pằn, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Nam thanh niên đi cùng là

Lò Văn Hải, trú tại bản Pẻn, cùng xã Phiềng Pằn. Quá trình đấu tranh, Công

an tỉnh Quảng Ninh đã có đủ tài liệu, chứng cứ xác định hành vi phạm tội của

các đối tượng, qua đó, làm rõ, bắt gọn nhóm 04 đối tượng buôn người tuyến

các tỉnh miền núi phía Bắc đi Trung Quốc thông qua khu vực biên giới của

tỉnh Quảng Ninh, bao gồm: Nguyễn Trường Sơn (41 tuổi, trú tại Uông Bí,

Quảng Ninh) là đối tượng chủ mưu, cầm đầu; Hoàng Văn Hòa (35 tuổi, trú tại

Quảng Yên, Quảng Ninh), Doãn Văn Minh (35 tuổi, trú tại Đông Triều,

Quảng Ninh) và Lò Văn Hải (29 tuổi, trú tại Phiềng Pằn, Mai Sơn, Sơn La).

40

Trước đó các đối tượng đã có 03 lần thực hiện hành vi mua bán người với thủ

đoạn dụ dỗ các cô gái trẻ sang bên Trung Quốc làm ăn và lừa bán. Kết thúc

chuyên án, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh khởi tố vụ án,

khởi tố bị can, tiến hành điều tra và kết luận điều tra, đề nghị truy tố 04 bị can

về tội mua bán người với dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS có tổ chức

quy định tại điểm b khoản 2 Điều 119 BLHS năm 1999. Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh đã áp dụng dấu hiệu định khung tăng nặng “phạm tội có tổ chức”

quy định tại tại điểm b khoản 2 Điều 119 BLHS năm 1999 trong quá trình

định tội danh để xét xử các đối tượng.

Quan điểm của tác giả cho rằng: trong vụ án này, giữa các đối tượng có

sự câu kết chặt chẽ với nhau để thực hiện hành vi mua bán người, bọn chúng

không những thực hiện tội phạm một lần mà trước đó đã thực hiện tội phạm

3 lần. Các đối tượng có sự tính toán kĩ càn, chu đáo về mọi mặt, lên kế hoạch

từ trước, móc nối với các đối tượng bên Trung Quốc để chuyển giao người bị

bán. Do vậy, trong vụ án này việc định tội danh của Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh và các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Quảng Ninh đối với các đối

tượng với dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS “phạm tội có tổ chức” là hợp

lý, chính xác.

Vụ án 2: Ngày 18 tháng 6 năm 2015, Phòng Cảnh sát hình sự Công an

tỉnh Quảng Ninh chủ trì, phối hợp với Công an thành phố Móng Cái và Đồn

Biên phòng Hoành Mô cùng các đơn vị liên quan triệt phá nhóm cướp tài sản

xảy ra vào ngày 06 tháng 6 năm 2015 tại khu vực sông biên giới Lục Lầm

thuộc phường Hải Hòa, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Vật chứng thu

giữ gồm: 27 bao hàng (05 tấn da lông chồn) trị giá khoảng 1,2 tỷ đồng, 01 xe

ô tô tải, 03 xe máy, 01 kiếm.

Kết quả điều tra của Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh

xác định: Chiều 06 tháng 6 năm 2015, sau khi phát hiện Công ty cổ phần xuất

nhập khẩu thủy sản Quảng Ninh đang làm thủ tục xuất 05 tấn da lông chồn

41

sang Trung Quốc qua bến Lục Lầm, thành phố Móng Cái. Nguyễn Quốc Hà

(sinh năm 1987, trú tại xã Đông Ngũ, huyện Tiên Yên, Quảng Ninh) cùng Bế

Văn Cương (sinh năm 1987, trú tại xã Nghĩa Phương, Lục Nam, Bắc Giang)

đã bàn bạc và rủ thêm Nguyễn Ngọc Huynh (sinh năm 1989, trú tại Đông

Ngũ, Tiên Yên, Quảng Ninh) và Lê Văn Quyền (sinh năm 1993, trú tại xã An

Sinh, Đông Triều, Quảng Ninh) cướp số hàng trên. Để thực hiện việc chiếm

đoạt tài sản, 04 đối tượng đã tính toán kĩ càng, chu đáo, phân công vai trò,

nhiệm vụ cho từng người: Hà chuẩn bị dao, kiếm; Quyền chuẩn bị áo chống

nắng che mặt; chuẩn bị xuồng máy; Cương người điều khiển đò máy của

Huynh nằm quan sát tình hình. Đến 22 giờ ngày 06 tháng 6 năm 2015, bọn

chúng phát hiện thấy lô hàng được vận chuyển xuống đò của một người

Trung Quốc tên Trần Thiên Nguyên được chở qua biên giới. Cả bọn đã điều

khiển phương tiện áp sát vào đò chở hàng rồi xông lên dùng dao, kiếm chém

tới tấp khiến lái đò phải nhảy xuống sông chạy trốn. Sau khi đưa chiếm đoạt

được tài sản, cả bọn vận chuyển số hàng trên về Tiên Yên cất giấu. Sau một

thời gian xác minh, Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh đã phối

hợp bắt giữ các đối tượng tại cột mốc 1326, Móng Cái, Quảng Ninh. Kết thúc

điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh đã kết luận điều

tra, chuyển hồ sơ vụ án, bị can, cùng vật chứng sang Viện kiểm sát nhân dân

tỉnh đề nghị truy tố các bị can về tội cướp tài sản với dấu hiệu định khung

tăng nặng TNHS “có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 133 BLHS

năm 1999, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh sau đó xét xử các đối tượng với

dấu hiệu định khung tăng nặng này.

Quan điểm của tác giả: trong vụ án này, mặc dù các đối tượng chỉ thực

hiện tội phạm một lần nhưng đã có sự chuẩn bị kĩ càng, chu đáo về mọi mặt.

Bọn chúng có sự phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể cho từng người; chuẩn bị

công cụ, phương tiện và kế hoạch che giấu tội phạm. Cơ quan tiến hành tố

42

tụng tỉnh Quảng Ninh đã áp dụng dấu hiệu đồng phạm có tổ chức để định tội

danh trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với các đối tượng là

phù hợp, chính xác.

Quá trình áp dụng quy định của BLHS về đồng phạm có tổ chức của

Tòa án nhân dân và các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh trong quá trình định định tội danh về cơ bản đã kịp thời, chính xác. Tuy

nhiên, thực tiễn định tội danh đối với chế định này cho thấy, một số trường

hợp cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã đồng nhất hình

thức đồng phạm có tổ chức với đồng phạm có thông mưu trước. Nói cách

khác, một số cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng giữa các đối tượng có sự bàn

bạc, thỏa thuận với nhau trước (đồng phạm có thông mưu trước) khi thực hiện

tội phạm thì đều là đồng phạm có tổ chức. Điều này dẫn đến việc định tội

danh không chính xác.

Vụ án 3: Vụ án Lê Trọng Nghĩa đồng phạm cướp tài sản. Nội dung vụ

án như sau: khoảng 21h30’ ngày 26 tháng 5 năm 2017, Lê Trọng Nghĩa (sinh

năm 1989) rủ Bùi Văn Thắng (sinh năm 1990) và Vũ Đức Tâm (sinh năm

1987)cùng trú tại phường Vàng Danh, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh

lên sườn núi ngồi uống rượu trên một lán nhỏ. Trong lúc ngồi uống rượu,

Nghĩa thấy anh Đoàn Văn Trường (sinh năm 1992, trú tại phường Quang

Trung, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) điều khiển xe máy và dừng lại

dưới gốc cây ven đường nghỉ. Thấy vậy, Nghĩa nói với Thắng và Tâm là

xuống xin ít tiền để có tiền đi hát thì được Thắng và Tâm đồng ý. Thắng nói

với Tâm và Nghĩa: Tâm đứng ở đầu xe, Nghĩa đứng ở cuối xe máy của anh

Trường giữ lại còn Thắng sẽ xin tiền. Khi cả bọn xuống chặn xe anh Trường,

anh Trường nói không có tiền và không đưa, lúc này Thắng túm cổ áo anh

Trường rồi đấm 05 phát vào mặt anh Trường. Thấy anh Trường choáng váng,

Nghĩa đã rút ví trong người anh Trường lấy 2.500.000 đồng, nói với anh

Trường “cho xin ít tiền đi hát, gì mà căng để bị đánh” rồi vứt ví lại. Cả bọn

43

sau đó bỏ đi, anh Trường sau đó đến Công an thành phố Uông Bí trình báo.

Tiến hành điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Uông Bí,

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí và Tòa án nhân dân thành phố

Uông Bí đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra, truy tố, xét xử đối với

Nghĩa, Thắng, Tâm về tội cướp tài sản với dấu hiệu định khung tăng nặng

TNHS “có tổ chức” quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 133 BLHS năm 1999.

Bị cáo Thắng và Tâm sau đó kháng cáobản án hình sự sơ thẩm của Tòa án

nhân dân thành phố Uông Bí. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã xét xử

phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, không áp dụng dấu hiệu đồng phạm có tổ

chức là dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS để xét xử đối với các bị cáo

như bản án hình sự sơ thẩm, áp dụng khoản 1 Điều 133 BLHS năm 1999 để

xét xử đối với các bị cáo.

Quan điểm của tác giả: Trong vụ án này, tiến hành tố tụng thành phố

Uông Bí đã có sai sót trong việc đánh giá về sự câu kết chặt chẽ giữa các đối

tượng Nghĩa, Thắng và Tâm và cho rằng 03 đối tượng đồng phạm có tổ chức

là không chính xác, bởi lẽ: việc nảy sinh ý định cướp tài sản của ba đối tượng

chỉ nảy sinh khi bọn chúng ngồi uống rượu, cả ba đối tượng đã cùng thực hiện

tội phạm nhung không có sự tính toán, chuẩn bị để thực hiện tội phạm. Mặc

dù Thắng phân công vị trí cho Nghĩa và Tâm chặn xe anh Trường, nhưng đây

là hành vi bột phát, chưa thể hiện sự câu kết chặt chẽ của các đối tượng trong

việc thực hiện tội phạm. Do vậy, các đối tượng không đồng phạm có tổ chức

mà chỉ đồng phạm có thông mưu trước. Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí

đã xét xử sơ thẩm các đối tượng theo điểm a khoản 2 Điều 133 BLHS năm

1999 là không chính xác.

Thực tiễn đã chỉ ra rằng sự phân công vai trò giữ các loại người khác

nhau giữa những người đồng phạm có tổ chức là dấu hiệu phổ biến của hình

thức đồng phạm này. Tuy nhiên, cũng có trường hợp khi thực hiện tội phạm

thì mỗi người đều là người thực hành, giữa những người này câu kết chặt chẽ

44

với nhau trong khi thực hiện tội phạm vẫn được xác định là đồng phạm có tổ

chức. Trong một số trường hợp, Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh cho rằng đồng phạm có tổ chứcnhất định phải là hình thức đồng phạm

phức tạp, tức là phải có các loại người khác nhau trong việc thực hiện tội

phạm, nếu không có các loại người khác nhau thì không phải là đồng phạm có

tổ chức. Điều này dẫn đến một số trường hợp, vụ án được xác định là đồng

phạm có tổ chức nhưng Tòa án nhân dân lại cho rằng không phải là đồng

phạm có tổ chức vì không có các loại người khác nhau trong việc thực hiện

tội phạm.

Vụ án 4: Cuối tháng 12 năm 2018, Công an thành phố Móng Cái tỉnh

Quảng Ninh đã triệt phá nhóm buôn bán vũ khí quân dụng hoạt động thông

qua mạng xã hội. Nhóm này gồm 02 đối tượng là Phạm Hữu Nam (sinh năm

1992), Lê Công Tuấn (sinh năm 1993) và Nguyễn Đức Trọng (sinh năm

1993) cùng trú tại thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

Theo kết quả điều tra của Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Quảng

Ninh, Nam cùng Tuấn và Trọng đặt mua súng của một số người không quen

biết ở khu vực biên giới thuộc thành phố Móng Cái tỉnh Quảng Ninh rồi bán

lại cho các đối tượng có nhu cầu. Sau khi thống nhất giá cả và mua súng ở

biên giới, Tuấn đã đưa súng cho Nam và Trọng, Nam và Trọng nhận súng,

đạn rồi cất giấu tại nơi ở của mình và những nỡi khác, khi có khách trên mạng

xã hội mua sẽ bán. Nam đã tháo rời các bộ phận súng, đạn để cất giấu, tại nhà

Nam lắp đặt hệ thống an ninh, camera theo dõi từ xa, đồng thời đối tượng di

chuyển liên tục nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng. Trọng được

giao nhiệm vụ tìm khách trên mạng xã hội, thông báo cho Tuấn và Nam. Khi

có khách hỏi mua, tùy từng vụ mà một trong ba tên sẽ giao súng cho khách

hàng. Thời gian từ tháng 3 đến tháng 9/2018, các đối tượng đã bán súng quân

dụng nhiều lần cho các đối tượng trên mạng xã hội ở các tỉnh khác nhau, số

45

tiền thu về các đối tượng chia nhau theo tỷ lệ thỏa thuận.

Quá trình định tội danh, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân

dân và Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xác định các đối tượng phạm tội

mua bán trái phép vũ khí quân dụng theo quy định tại Điều 304 BLHS năm

2015. Tuy nhiên, quan điểm các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Móng

Cái cho rằng các đối tượng không đồng phạm có tổ chức theo điểm a khoản 2

Điều 304 BLHS năm 2015 và Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái xét xử

các đối tượng theo quy định tại khoản 1 Điều 304 BLHS năm 2015.

Quan điểm của tác giả:Trong vụ án này, việc định tội danh của các cơ

quan tiến hành tố tụng thành phố Móng Cái nói chung, Tòa án nhân dân thành

phố Móng Cái nói riêng là chưa chính xác. Bởi lẽ: mặc dù các đối tượng đều

giữ vai trò là người trực tiếp thực hiện tội phạm, tuy nhiên các đối tượng có

sự câu kết chặt chẽ, tính toán chu đáo, kĩ càng về mọi mặt từ trước khi thực

hiện tội phạm đến việc thực hiện tội phạm và che giấu tội phạm, bọn chúng

thực hiện tội phạm nhiều lần ở các khoảng thời gian khác nhau. Do vậy, hành

vi của các đối tượng thuộc trường hợp đồng phạm có tổ chức quy định tại

điểm a khoản 2 Điều 304 BLHS năm 2015.

2.2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các vụ án đồng phạm có

tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Quá trình định tội danh các vụ án đồng phạm có tổ chức phục vụ xét

xử, Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh về cơ bản đã định tội danh

chính xác, do vậy việc xét xử và quyết định hình phạt các vụ án đồng phạm có

tổ chức đã đạt được những kết quả nhất định. Hình phạt trong các bản án về

cơ bản đã phù hợp, đáp ứng được yêu cầu công tác phòng ngừa và đấu tranh

chống tội phạm trên địa bàn tỉnh.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình xét xử, quyết

định hình phạt đối với những vụ án đồng phạm có tổ chức địa bàn tỉnh Quảng

46

Ninh vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót nhất định. Cụ thể:

- Thứ nhất, một số Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh còn

nhầm lẫn trong việc xác định, áp dụng đường lối xét xử các vụ án đồng phạm

có tổ chức.

Đường lối xét xử là một trong những bộ phận cấu thành chính sách

hình sự nhằm xác định phương hướng chỉ đạo của hoạt động xét xử, góp phần

bảo đảm sự ổn định của hệ thống tư pháp hình sự, bảo vệ các quyền và tự do

của con người, nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội

phạm. Khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015 quy định về nguyên tắc xử lý đối với

người phạm tội: “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy…” và

“nghiêm trị người phạm tội … có tổ chức”. Do vậy trong quá trình quyết định

hình phạt đối với những vụ án đồng phạm có tổ chức, Tòa án nhân dân cần

phải quyết định hình phạt nghiêm khắc hơn đối với người tổ chức và các

trường hợp phạm tội dưới hình thức đồng phạm có tổ chức.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời

gian vừa qua cho thấy, một số Tòa án đã không vận dụng đúng nguyên tắc

nàyquyết định hình phạt. Điều này dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nhẹ

hoặc quá nặng đối với người chủ mưu cầm đầu, chỉhuy và những người phạm

tội trong vụ án đồng phạm có tổ chức.

Vụ án 5: Vụ án Nguyễn Khắc Dũng (sinh năm 1978, trú tại phường Hà

Khẩu, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh) cùng các đồng phạm phạm tội

cố ý gây thương tích ngày 15/3/2018.

Do có mâu thuẫn trong việc làm ăn kinh doanh với với anh Đỗ Tiến

Khoa (sinh năm 1981, trú tại phường Vàng Danh, thành phố Uông Bí, tỉnh

Quảng Ninh) nên Nguyễn Khắc Dũng muốn đánh dằn mặt anh Khoa. Dũng đã

nhờ Nguyễn Hữu Nam (sinh năm 1989), Lê Văn Chiến (sinh năm 1990) và

Mai Chí Thọ (sinh năm 1987) cùng trú tại xã Thượng Yên Công, thành phố

Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đánh anh Khoa và được Nam, Chiến, Thọ đồng ý.

47

Dũng đã dẫn Nam đến nhà anh Khoa để Nam biết trước nhà, mô tả và chỉ đặc

điểm của anh Khoa cho nhóm của Nam, Thọ, Chiến biết. Nam đã chuẩn bị xe

máy đã tháo biển kiểm soát, chuẩn bị áo che mặt và dao (loại dao tông, dài

khoảng 45 cm, chỗ rộng nhất dài 7cm) đưa cho Thọ và Chiến. Khoa còn dự

kiến, chuẩn bị địa điểm lẩn trốn cho mình cùng Thọ và Chiến sau khi gây

thương tích cho anh Khoa.

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 15/3/2015, Thọ điều khiển xe máy do

Nam chuẩn bị chở Chiến đến đứng chờởgần nhà anh Khoa. Khi anh Khoa đi

làm về, xuống xe mở cửa cổng thì bị Chiến cầm dao chém 03 nhát vào lưng

sau đó lên xe máy đã che biển kiểm soát Thọ đang đứng chờ để tẩu thoát. Kết

luận giám định xác định: anh Khoa bị thương tật 43%.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 65/2015/HSST ngày 15/7/2018, Tòa

án nhân dân thành phố Uông Bí xác định các bị cáo phạm tội cố ý gây thương

tích với dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS “có tổ chức” quy định tại điểm

c khoản 3 Điều 134 BLHS năm 2015. Khi quyết định hình phạt, Tòa án nhân

dân thành phố Uông Bí đã áp dụng khoản 3 Điều 134, điểm s Khoản 1

Điều 51 BLHS xử phạt Nguyễn Hữu Nam 03 năm 06 tháng tù về tội cố ý gây

thương tích; áp dụng khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2

Điều 51 BLHS xử phạt Nguyễn Khắc Dũng 36 tháng tù, Lê Văn Chiến và

Mai Chí Thọ 20 tháng tù về tội cố ý gây thương tích.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình

phạt. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã xét xử phúc thẩm, giữ nguyên

quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đối với Nguyễn Hữu Nam; áp dụng thêm

Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc Dũng 03 năm tù về tội cố ý gây

thương tích nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm.

Quan điểm của tác giả: Trong vụ án này, Nguyễn Khắc Dũng mặc dù

không phải là người trực tiếp thực hiện tội phạm nhưng Tuấn giữ vai trò là

người tổ chức (chỉ nhà, chỉ mặt anh Khoa để các đồng phạm đánh và gây

48

thương tích cho anh Khoa), hành vi phạm tội có tính chất côn đồ. Như vậy,

Dũng có vai trò phạm tội nguy hiểm hơn các bị cáo khác, phải chịu trách

nhiệm chính trong vụ án và cần phải nghiêm trị theo tinh thần quy định tại

khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015. Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xét xử

sơ thẩm xử phạt Nguyễn Khắc Dũng 03 năm tù đã là nhẹ, chưa tương xứng

với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo Dũng đã thực hiện.

Tuy nhiên, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh khi xét xử phúc thẩm lại cho bị

cáo Dũng hưởng án treo là đánh giá không đúng tính chất nghiêm trọng của

vụ án, áp dụng không đúng quy định của BLHS về đường lối xét xử đối với

các vụ án đồng phạm có tổ chức.

Thứ hai, một số Tòa án không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, điều này đã

dấn đến sai sót trong quyết định hình phạt trường hợp đồng phạm có tổ chức.

Nghiên cứu việc quyết định hình phạt các vụ án đồng phạm có tổ chức

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua cho thấy, khi quyết định

hình phạt trong các vụ ánđồng phạm có tổ chức, một số Tòa án nhân dân trên

địa bàn tỉnh đã chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, thường bỏ sót một số dấu

hiệu định khung giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, vận dụng không đúng các tình

tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS được quy định tại Điều 51 và Điều 52

BLHS năm 2015 hoặc bỏ sót các tình tiết thuộc về nhân thân bị cáo có ý

nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Vụ án 6:Vụ án trộm cắp tài sản xảy ra ngày 12/6/2017 theo bản án hình

sự sơ thẩm số 182/2017/HSST ngày 29/12/2017 của Tòa án nhân dân thành

phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Hoàng Đức Long (sinh năm 1989, trú tại phường Cẩm Bình, thành phố

Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh) đã lôi kéo Nguyễn Mạnh Toàn (sinh năm 1991)

và Vũ Thế Hùng (sinh năm 1992) cùng trú tại phường Mông Dương, thành

phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh phạm tội trộm cắp tài sản ở các nhà dân trên

địa bàn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Các bị cáo đã thực hiện 07 vụ

49

trộm cắp tài sản từ tháng 01 năm 2017 đến tháng 6 năm 2017. Ngày

12/7/2017, sau khi cả bọn trộm cắp tài sản tại gia đình anh Đỗ Thế Ngọc (sinh

năm 1987, trú tại phường Cẩm Phú, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh) và

đang đi trên đường thì bị tổ tuần tra kiểm soát của Công an thành phố Cẩm

Phả phát hiện và bắt giữ. Quá trình điều tra còn xác định, bị cáo Long trước

đó đã bị kết án 01 năm tù về tội cố ý gây thương tích vào ngày 13/7/2015

chưa được xóa án tích. Vụ án sau đó được Tòa án nhân dân thành phố Cẩm

Phả thụ lý, tuyên các bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản với dấu hiệu định

khung tăng nặng “có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 138 BLHS

năm 1999.

Nghiên cứu bản án này cho thấy, các bị cáo đã thực hiện tội phạm 07

vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Cẩm Phả. Để thực hiện tội phạm,

các bị cáo đã có hành vi bàn bạc, phối hợp với nhau cùng hành động theo một

kế hoạc thống nhất từ trước nên hành vi của các bị cáo có sự câu kết chặt chẽ

trong việc thực hiện tội phạm, hành vi của các bị cáo là đồng phạm có tổ

chức. Tuy nhiên, trong quá trình quyết định hình phạt, Tòa án nhân dân thành

phố Cẩm Phả đã bỏ sót tình tiết tăng nặng TNHS “tái phạm” quy định tại

điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 đối với bị cáo Long, bởi trước đó bị

cáo Long đã bị kết án 01 năm tù về tội cố ý gây thương tích vào ngày

13/7/2015 chưa được xóa án tích.

Thứ ba, một số trường hợp, Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh đã áp dụng sai nguyên tắc xác định TNHS trong vụ án đồng phạm có tổ

chức, áp dụng đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăng nặng TNHS riêng của

từng người đối với tất cả những người trong vụ án đồng phạm có tổ chức hoặc

ngược lại. Điều này dẫn đến tình trạng phân hóa không chính xác TNHS của

những người trong vụ án, hình phạt áp dụng đối với những người trong vụ án

đồng phạm có tổ chức không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm

50

cho xã hội của hành vi phạm tội từng người trong vụ án.

Vụ án 7: Theo bản án hình sự sơ thẩm số 170/2015/HSST ngày

5/6/2015 của Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều xét xử các bị cáo Nguyễn

Đức Sơn (sinh năm 1991), Trần Thanh Tùng (sinh năm 1992), Nguyễn Trọng

Đạt (sinh năm 1989) và Bùi Văn Hạnh (sinh năm 1990) cùng trú tại xã Hoàng

Quế đồng phạm về tội trộm cắp tài sản.

Nội dung vụ án như sau: Thời gian từ tháng 09 năm 2014 đến tháng 03

năm 2015, các bị cáo Sơn, Tùng, Đạt và Hạnh liên tiếp phạm tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn thị xã Đông Triều theo một kế hoạch đã thống nhất từ trước.

Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều áp dụng dấu hiệu định khung tăng nặng

“có tổ chức” quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 để truy

cứu TNHS chung cho cả 04 bị cáo. Bị cáo Tùng sau đó đã kháng cáo bản án

số số 170/2014/HSST theo hướng giảm nhẹ hình phạt. Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh đã xét xử sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Tùng so với

bản án hình sự sơ thẩm.

Nghiên cứu vụ án này cho thấy: Trong phần đánh giá, Hội đồng xétxử

Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều khẳng định là xét các bị cáo đã cùng nhau

phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất từ trước,vận dụng quy

định tại điểm b khoản 3 Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ ngày 16/11/1988 để xác

định các bị cáo Sơn, Tùng, Đạt và Hạnh đồng phạm có tổ chức. Tuy nhiên, tài

liệu trong hồ sơ vụ án thu thập được trong quá trình điều tra đã xác định các

bị cáo Sơn, Đạt và Hạnh đã cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp 05 lần

trước thời điểm bị bắt, riêng bị cáo Tùng mới thực hiện tội phạm 01 lần vào

ngày 13/3/2014 sau khi được bị cáo Sơn lôi kéo tham gia nhóm thì bị phát

hiện và bắt giữ. Do vậy, việc Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều áp dụng dấu

hiệu định khung tăng nặng “có tổ chức” để truy cứu TNHS chung cho 04 bị

cáo là chưa chính xác. Trong vụ án này, chỉ có các bị cáo Sơn, Hạnh và Đạt bị

áp dụng dấu hiệu định khung tăng nặng này để xác định khung hình phạt, bị

51

cáo Tùng không phải chịu TNHS về dấu hiệu tăng nặng này.

2.3. Đánh giá chung

2.3.1. Những kết quả đạt được

Nhận thức được tính nguy hiểm của tội phạm được thực hiện dưới hình

thức đồng phạm có tổ chức. Thời gian qua, các lực lượng chức năng trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh đã triển khai các biện pháp phòng ngừa xã hội và phòng

ngừa nghiệp vụ, hạn chế tới mức thấp nhất tình hình tội phạm thực hiện dưới

hình thức đồng phạm có tổ chức trên địa bàn. Trường hợp khi có tội phạm

được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức xảy ra đã chủ động triển

khai các biện pháp đấu tranh, xử lý đối với các đối tượng đồng phạm có tổ

chức. Cụ thể:

- Công tác phòng ngừa

Trong công tác phòng ngừa tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng

phạm có tổ chức, các lực lượng chức năng, nòng cốt là Công an tỉnh Quảng

Ninh với nhiệm vụ thường trực Ban Chỉ đạo phòng chống tội phạm, tệ nạn xã

hội và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã chủ động

tham mưu cho các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương triển khai các biện

pháp phòng ngừa đối với tội phạm nói chung, tội phạm thực hiện dưới hình

thức đồng phạm có tổ chức nói riêng. Các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng

Ninh đã chỉ đạo triển khai thực hiện các mặt công tác; trong đó chỉ đạo tổ

chức tốt các biện pháp phòng ngừa xã hội; huy động sức mạnh của cả hệ

thống chính trị và quần chúng nhân dân tham gia vào phòng, chống tội phạm

có tổ chức; nhất là quan tâm phát động mạnh mẽ phong trào toàn dân bảo vệ

an ninh Tổ quốc để vận động nhân dân tích cực tham gia tố giác, cung cấp

thông tin về hoạt động phạm tội của các băng, nhóm đồng phạm có tổ chức.

Cùng với đó, Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã

phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí của tỉnh tuyên truyền, thông báo

52

tình hình các loại tội phạm, phương thức thủ đoạn, đặc điểm đối tượng trong

băng, nhóm đồng phạm có tổ chức để quần chúng nhân dân biết, chủ động

triển khai và nâng cao ý thức cảnh giác, phòng ngừa.

Song song với việc triển khai các biện pháp phòng ngừa xã hội đối với

tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức, Các cơ quan chức

năng tỉnh Quảng Ninh cũng đã chủ động tiến hành các biện pháp phòng ngừa

nghiệp vụ theo chức năng nhằm ngăn chặn, hạn chế, không để cho các đối

tượng có biểu hiệu hoạt động phạm tội đồng phạm có tổ chức thực hiện hành

vi phạm tội. Cụ thể: Cơ quan chức năng ở các đơn vị, địa phương trong tỉnh

tiến hành công tác điều tra cơ bản nắm tình hình, rà soát quản lý các băng,

nhóm đối tượng có biểu hiện hoạt động đồng phạm có tổ chức; xác định các

tuyến, địa bàn trọng điểm mà các đối tượng trong các băng, nhóm có biểu

hiện hoạt động; phát hiện phương thức, thủ đoạn, quy luật, địa bàn lĩnh vực…

của từng nhóm, từng đối tượng để đưa vào diện sưu tra, quản lý và có kế

hoạch phòng ngừa, đấu tranh phù hợp. Quá trình triển khai thực hiện luôn gắn

với các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản, công tác lập hồ sơ đưa đối tượng đi cơ

sở giáo dục, trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh và cùng với việc thực hiện

các biện pháp, hình thức xử lý trên nhằm góp phần ngăn chặn, kiềm chế, vô

hiệu hóa và làm tan rã băng, nhóm đồng phạm có tổ chức. Hàng năm, các cơ

quan chức năng, đặc biệt là Công an các đơn vị, địa phương trong tỉnh đã chủ

động xây dựng kế hoạch, tiến hành kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm đối

với các tụ điểm, lán trại, nơi cư trú của các nhóm đối tượng để chủ động

phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời biểu hiện hoạt động phạm tội đồng phạm có

tổ chức.

- Công tác đấu tranh

Nhận thức được hậu quả của tội phạm được thực hiện dưới hình thức

đồng phạm có tổ chức đối với xã hội, thời gian từ năm 2014 đến năm 2018,

các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp của tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành khởi

53

tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với tội phạm được thực hiện dưới hình thức

đồng phạm có tổ chức. Qua việc xét xử các đối tượng đồng phạm có tổ chức

góp phần giáo dục, răn đe những đối tượng khác có ý định hoạt động phạm tội

đồng phạm có tổ chức. Thời gian từ năm 2014 đến năm 2018, các cơ quan

tiến hành tố tụng tỉnh Quảng Ninh đã xử lý hình sự 2.576 đối tượng hoạt động

phạm tội đồng phạm có tổ chức, xử phạt vi phạm hành chính 165 đối tượng

trong các vụ án đồng phạm có tổ chức. [Xem Bảng 2.4]

Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Quảng Ninh, công tác phòng

ngừa, đấu tranh đối với các vụ án đồng phạm có tổ chức đã được triển khai

thực hiện nghiêm túc từ tỉnh đến cơ sở, đã đạt được những kết quả tích cực.

Cụ thể:

Đã góp phần kiềm chế, giảm tình hình tội phạm nói chung, tội phạm

thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh nói riêng về

số vụ, số đối tượng cũng như tính chất nghiêm trọng. Các vụ án đặc biệt

nghiêm trọng, các vụ án do các băng, nhóm đồng phạm có tổ chức sử dụng

“vũ khí nóng” gây ángiảm rõ rệt. Đặc biệt, hoạt động của tội phạm có tổ chức,

tội phạm hoạt động xuyên quốc gia trên địa bàn tỉnh đã được kiềm chế, công

tác đấu tranh, triệt xóa các nhóm đối tượng hoạt động đồng phạm có tổ chức

ngày càng đạt hiệu quả cao. Không để xảy ra tình trạng các băng nhóm hoạt

động công khai, lộng hành theo kiểu “xã hội đen” gây mất ổn định; không còn

tình trạng phức tạp liên quan đến băng, nhóm tội phạm hoạt động bảo kê, khai

thác khoáng sản trái phép, bao biên, buôn lậu tại các khu vực giáp ranh, biên

giới trên địa bàn tỉnh.

Công an các đơn vị, địa phương trong tỉnh đã nhận thức rõ vị trí, tầm

quan trọng của công tác phòng, chống tội phạm có tổ chức nên đã chủ động

nắm tình hình, không để bị động, bất ngờ trước diễn biến hoạt động của các

đối tượng đồng phạm có tổ chức trên địa bàn. Chủ động xác lập nhiều chuyên

án, vụ án lớn triệt phá được nhiều băng, nhóm đồng phạm có tổ chức, tạo thế

54

trận đồng loạt tấn công, trấn áp tội phạm; đã kịp thời tham mưu, chỉ đạo giải

quyết tình hình tội phạm phức tạp nổi lên trong từng thời điểm, địa bàn như

tội phạm có tổ chức núp bóng doanh nghiệp, tội phạm liên quan đến “tín dụng

đen”, tội phạm hoạt động lưu động, tội phạm buôn lậu, tội phạm công nghệ

cao, tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, tội phạm tổ chức đánh

bạc, tội phạm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép vũ khí… làm

chuyển biến tình hình tội phạm có tổ chức từ hoạt động công khai, liều lĩnh

chuyển sang hoạt động “núp bóng”, cầm chừng; một số băng, nhóm đồng

phạm có tổ chức có biểu hiện “nằm im”, tự tan rã, góp phần lấy lại thế chủ

động trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Công tác rà soát, dựng các băng, nhóm đồng phạm có tổ chứcđang có

biểu hiện hoạt động, phối hợp trong phòng ngừa, đấu tranh giữa các phòng

nghiệp vụ và Công an cấp huyện được thực hiện thường xuyên, nề nếp và kịp

thời. Biện pháp tuần tra vũ trang, mô hình phối hợp tuần tra, kiểm soát phòng

chống tội phạm giữ các lực lượng Cảnh sát hình sự, Cảnh sát giao thông,

Cảnh sát cơ động (theo phương án số 12/PA-CA-PV11 ngày 26/2/2012 của

Công an tỉnh) có sự răn đe rất lớn, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hoạt

động phạm tội.

Đã tập trung điều tra, khám phá nhanh các vụ án nghiêm trọng do băng,

nhóm đồng phạm có tổ chức gây ra, bắt giữ và xử lý triệt để các đối tượng

phạm tội…Công tác phối hợp giữa Công an tỉnh với Cục nghiệp vụ, Công an

các đơn vị địa phương và các lực lượng Bộ đội biên phòng, Hải quan, Cảnh

sát biển, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân trong công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm có tổ chức được tăng cường và đạt hiệu quả cao. Công

tác hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức

đã đạt được kết quả tích cực, nhất là trong công tác trao đổi, xác minh thông

tin, điều tra các vụ án và truy bắt đối tượng truy nã, nạn nhân trong các vụ án

55

đồng phạm có tổ chức.

Đối với ngành Tòa án nhân dân, trong bối cảnh thẩm quyền của Tòa án

được mở rộng, số lượng các vụ việc phải thụ lý giải quyết tăng nhiều, trong

khi biên chế của ngành Tòa án không tăng mà phải tinh giản theo chủ trương,

Nghị quyết của Đảng, với tinh thần trách nhiệm và quyết tâm cao của tập thể

lãnh đạo, cán bộ công chức Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Ninh đã đạt

được nhiều kết quả trong công tác xét xử các vụ án hình sự nói chung, vụ án

đồng phạm có tổ chức nói riêng. Các bản án về các vụ đồng phạm có tổ chức

đưa ra với mức hình phạt thích hợp, tương xứng với các đối tượng đồng phạm

có tổ chức;không có người bị kết án oan, tỷ lệ các bản án, quyết định bị sửa,

hủy thấp và giảm dần. Các phán quyết của Tòa án nhân dân hai cấp trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo

vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ công tác

trong quá trình xét xử góp phần răn đe, phòng ngừa tình hình tội phạm có tổ

chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

2.3.2. Những hạn chế, thiếu sót

Bên cạnh kết quả đạt được, thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về

đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh vẫn còn một số hạn chế,

thiếu sót nhất định. Cụ thể:

- Việc định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, ngành

Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh nói riêng trong một số vụ án đồng phạm có

tổ chức còn chưa chính xác. Thực tiễn công tác phòng ngừa và đấu tranh

chống tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức cho thấy, đến

thời điểm hiện tại vẫn chưa có quan điểm đồng nhất về đồng phạm có tổ chức,

chưa thực sự có sự phân biệt rạch ròi giữa đồng phạm có tổ chức với các hình

thức đồng phạm khác, quá trình vận dụng còn có sự nhầm lẫn.

Một số vụ án, cácTòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chưa

nghiên cứu, đánh giá kĩ các tình tiết của vụ án, dẫn đến tình trạng có trường

56

hợp một số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS được vận dụng chưa chính

xác. Hoặc đôi khi có sự nhầm lẫn khi áp dụng đồng phạm có tổ chức với tư

cách là dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS với trường hợp đồng phạm có

tổ chức với tư cách là tình tiết tăng nặng TNHS.

- Hoạt động quyết định hình phạt trong một số vụ án đồng phạm có tổ

chức còn có những hạn chế nhất định. Thực tiễn cho thấy,một số Tòa án nhân

dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh còn nhầm lẫn trong việc xác định, áp dụng

đường lối xét xử các vụ án đồng phạm có tổ chức; chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ

vụ án; bỏ sót một số dấu hiệu định khung giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, vận

dụng không đúng các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS được quy định

tại Điều 51 và Điều 52 BLHS năm 2015 hoặc bỏ sót các tình tiết thuộc về

nhân thân bị cáo có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt; áp dụng chưa

đúng nguyên tắc xác định TNHS trong vụ án đồng phạm có tổ chức, áp dụng

đồng phạm có tổ chức là tình tiết tăng nặng TNHS riêng của từng người đối

với tất cả những người trong vụ án đồng phạm có tổ chức hoặc ngược lại.

Điều này đã dấn đến sai sót trong quyết định hình phạt trường hợp đồng phạm

có tổ chức.

- Bên cạnh việc tồn tại, hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết

định hình phạt đối với các vụ án đồng phạm có tổ chức, hoạt động phòng

ngừa và đấu tranh chống tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ

chức còn một số hạn chế, thiếu sót. Cụ thể:

Công tác rà soát, lên danh sách, áp dụng biện pháp quản lý đối với các

băng, nhóm tội phạm hoạt động có tổ chức của cac cơ quan chức năng tỉnh

Quảng Ninh chưa đạt hiệu quả như mong muốn, tỷ lệ số băng, nhóm trong

diện quản lý bị triệt phá chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số băng, nhóm bị triệt

phá. Vẫn còn tồn tại tình trạng tồn tại nhiều băng, nhóm đồng phạm có tổ

chức gây án mới bị phát hiện, triệt phá… Công tác nghiệp vụ cơ bản, công tác

nắm tình hình, quản lý địa bàn phục vụ phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm

57

có tổ chức chưa đạt được yêu cầu đặt ra, vẫn còn tình trạng chạy theo vụ việc

do đó công tác phòng ngừa nghiệp vụ còn nhiều thiếu sót. Hơn nữa, một số

đơn vị địa phương còn nhầm lẫn giữa đồng phạm có tổ chức với đồng phạm

thông thường, dẫn đến việc tập trung phòng ngừa, đấu tranh còn chưa đúng

trọng tâm, trọng điểm.

Công tác quản lý các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, quản lý vũ

khí, vật liệu nổ, quản lý cư trú nhiều nơi còn hành chính, đơn thuần, hiệu quả

phòng, ngừa phát hiện tội phạm chưa cao, chưa nắm được hoạt động của đối

tượng hoạt động lưu động do vậy chưa hỗ trợ nhiều cho công tác đấu tranh

với tội phạm có tổ chức. Tình trạng đối tượng lợi dụng các ngành, nghề kinh

doanh có điều kiện (cơ sở cho thuê lưu trú, karaoke, vũ trường, cầm đồ, cho

vay tài chính…) để tội phạm còn diễn ra phức tạp.

2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

Nghiên cứu cho thấy, những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng

pháp luật về đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh xuất phát từ

những nguyên nhân cơ bản sau đây:

- Hệ thống văn bản pháp luật hình sự hiện hành hướng dẫn chế định

đồng phạm có tổ chức chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn trên địa bàn cả

nước nói chung, tỉnh Quảng Ninh nói riêng.

Văn bản hướng dẫn cũng chưa thật đầy đủ, mới chỉ liệt kê một số các

trường hợp câu kết chặt chẽ mà chưa thể hiện bản chất của việc câu kết chặt

chẽ này. Những nội dung hướng dẫn Nghịquyết số 02/HĐTP ngày 05 tháng

01 năm 1986 cho đến nay vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung hòa thiện nên trong

quá trình giải quyết các vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng gặp rất nhiều khó

khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, thực tiễn cuộc sống luôn luôn biến đổi và

thường đi trước so với sự điều chỉnh kịp thời của pháp luật. Quá trình xây

dựng pháp luật chưa thật sự coi trọng nghiên cứu khoa học, thiếu tổng kết

58

thực tiễn.

- Năng lực và trách nhiệm của một bộ phận cán bộ tư pháp nói chung,

cán bộ thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đôi lúc vẫn chưa đáp ứng

được yêu cầu đề ra.

Trình độ nhận thức về các quy định của pháp luật trong đó có các quy

định của pháp luật về đồng phạm, đồng phạm có tổ chức của một số cán bộ

trong các cơ quan có thẩm quyền tố tụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chưa

đồng đều, kiến thức pháp luật đôi khi chưa vững, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra.

Một số cán bộ Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh áp dụng pháp luật một cách

máy móc, cứng nhắc, chỉ dựa vào điều luật làm căn cứ pháp lý mà chưa nhìn

nhận khách quan, toàn diện, vận dụng tổng thể các quy định của pháp luật và

các văn bản hướng dẫn pháp luật để xem xét. Điều này dẫn đến tình trạng

đánh giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của từng

người trong đồng phạm có tổ chức, không áp dụng các quy định về giai đoạn

phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội để xác định TNHS cho từng

người trong đồng phạm có tổ chức.

- Kinh phí, trang thiết bị phương tiện của các lực lượng phòng chống

tội phạm nói chung, các băng, nhóm đồng phạm có tổ chức nói riêng của các

lực lượng chức năng tỉnh Quảng Ninh chưa đáp ứng được thực tiễn công tác

đấu tranh, phòng chống tội phạm có tổ chức trong tình hình hiện nay. Bên

cạnh đó, tình trạng tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, khối lượng công

việc nhiều nên thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu thực hiện đề án (công tác

phòng ngừa cũng như việc nghiên cứu tính chất, phương thức thủ đoạn, địa

bàn hoạt động của đối tượng...) của cán bộ phụ trách bị hạn chế dẫn đến hiệu

quả đấu tranh chống tội phạm hoạt động có tổ chức chưa cao.

- Công tác sơ kết, tổng kết các vụ án, chuyên án đồng phạm có tổ chức

chưa được quan tâm; việc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo quy định đôi

khi chưa thực hiện nghiêm túc, thường xuyên. Cùng với đó, các nhóm đối

59

tượng hoạt động phạm tội đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh có sự đan

xen giữa tội phạm hình sự với tội phạm kinh tế, ma túy, môi trường… một số

nhóm núp dưới danh nghĩa doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu

hạn, tổ chức… để tạo vỏ bọc pháp lý, mở rộng các mối quan hệ với cán bộ có

chức quyền trong các cơ quan nhà nước để khuếch trương thanh thế, che đậy

cho các hành vi vi phạm pháp luật. Điều này đã gây không ít khó khăn cho

hoạt động, gây không ít khó khăn cho công tác rà soát, phát hiện nhận dạng để

đưa vào diện phòng ngừa đấu tranh.

- Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng có lúc, có nơi

còn chưa hiệu quả, dẫn tới việc nhận thức và áp dụng quy định của BLHS về

đồng phạm có tổ chức giữa các cơ quan chưa thống nhất.

Xuất phát từ nội dung của chế định đồng phạm có tổ chức là một chế

định phức tạp, đòi hỏi phải có sự thống nhất trong nhận thức và hành động để

bảo đảm việc xử lý được chính xác và khách quan. Tuy nhiên sự phối hợp,

trao đổi thông tin trong quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành

tố tụng tỉnh Quảng Ninh đối với chế định đồng phạm có tổ chức đôi khi chưa

hiệu quả. Điều này dẫn đến tình trạng có các quan điểm khác nhau giữa Cơ

quan điều tra - Viện kiểm sát - Tòa án trong xác định vụ án có hay không có

60

đồng phạm có tổ chức.

Tiểu kết chương 2

Trong Chương 2, luận văn đã trình bày tình hình tội phạm thực hiện

dưới hình thức đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, khảo sát

số liệu, đánh giá đặc điểm các vụ án đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh

dưới những tiêu chí khác nhau.

Bên cạnh đó, trong Chương 2 luận văn đã nêu thực trạng công tác định

đội danh đối với các vụ án đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh; thực trạng quyết định hình phạt đối với các vụ án đồng phạm có tổ chức

trê địa bàn tỉnh; cũng như thực trạng công tác phòng ngừa và đấu tranh chống

tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức trên địa bàn. Qua

đó, tác giả đã rút ra những kết quả đạt được; hạn chế, thiếu sót và nguyên

nhân của những hạn chế, thiếu sót trong quá trình áp dụng quy định của pháp

luật hình sự về đồng phạm có tổ chức.

Những kết quả nghiên cứu trong Chương 2 là cơ sở để tác giả đưa ra

các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định đồng phạm có tổ chức

trong pháp luật hình sự vào thực tiễn công tác sẽ được trình bày trong Chương

61

3 của luận văn.

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH

VỀ ĐỒNG PHẠM CÓ TỔ CHỨC

3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm

có tổ chức

Đồng phạm nói chung, đồng phạm có tổ chức nói riêng là hình thức

phạm tội thường có tính chất nguy hiểm cao, gây ra những hậu quả nghiêm

trọng cho xã hội. Trong đồng phạm có tổ chức có sự tham gia của nhiều

người, những người tham gia có sự câu kết chặt chẽ, giúp đỡ nhau về vật chất,

hỗ trợ nhau về tinh thần nên hoạt động phạm tội của các đối tượng trong đồng

phạm có tổ chức thường táo bạo và quyết liệt hơn. Trong các hình thức đồng

phạm, đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt, được phân biệt

với các hình thức đồng phạm khác ở sự câu kết chặt chẽ giữa những người

cùng thực hiện tội phạm.

Quá trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về đồng phạm có tổ chức

trong Luật hình sự Việt Nam, cũng như từ thực tiễn áp dụng chế định này trên

địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tác giả nhận thấy quy định này còn một số nội dung

bất cập, cần được sửa đổi bổ sung để hoàn thiện. Vấn đề sửa đổi, bổ sung

hoàn thiện chế định đồng phạm có tổ chức xuất phát từ những lý do sau đây:

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh chống

tội phạm có tổ chức, Việt Nam đã tham gia Công ước của Liên hợp quốc về

chống tội phạm có tổ chức xuyênquốc gia. Thựchiện cam kết quốc tế, Việt

Nam đã nội luật hóa những nội dung cơ bản của Công ước trên cơ sở thực tiễn

điều kiện của Việt Nam. BLHS hiện hành đã đề cập đồng phạm có tổ chức là

dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS đối với tội phạm quy định trong 129

điều thuộc BLHS. So với BLHS năm 1985 cũng như BLHS năm 1999, đồng

62

phạm có tổ chức với tư cách là dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS trong

BLHS năm 2015 đã tăng lên ở mức đáng kể. Theo nội dung của Công ước,

những tội phạm được thực hiện bởi đồng phạm có tổ chứcđều được coi là tội

phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên,

trong 129 điều luật thuộc BLHS quy định đồng phạm có tổ chức là dấu hiệu

định khung tăng nặng TNHS vẫn có những trường hợp coi đó là loại tội phạm

ít nghiêm trọng. Có thể kể đến tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện

thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người

khác,đối với tội phạm này, phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm có tổ chức

thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 nămtheo quy định tại khoản 2 Điều 159

BLHS, đây trường hợp ít nghiêm trọng. Chính điều này cho thấy sự không

tương thích giữa BLHS với Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc

gia, do vậy nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để phù hợp.

Để triển khai chính sách hình sự, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung

ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005

về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020 thể hiện vai trò “hoàn thiện hệ thống pháp

luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm… phát huy sức mạnh của toàn xã hội

trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Hoàn thiện chính sách

hình sự,bảo đảm yêu cầu để nâng cao hiệu quả phòng ngừa…”. Ngoài ra,

Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị Ban Chấp

hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020 xác định: một trong những công việc chính phải thực hiện là

“thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội

phạm tham nhũng, tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu “xã hội đen”…”.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hệ thống pháp luật hiện nay chưa bảo đảm được

hiệu quả của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm thực hiện

dưới hình thức có tổ chức. Pháp luật về hình sự còn thiếu tính đồng bộ, việc

63

sửa đổi bổ sung còn chậm, chưa bắt kịp với tình hình tội phạm đang diễn ra.

Mặc dù BLHS hiện hành có đã quy định chế định đồng phạm và trường hợp

đặc biệt là đồng phạm có tổ chức nhưng vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót và bất

cập. Do vậy, cần chủ động nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp

luật hình sự hiện hành về chế định đồng phạm có tổ chức là một việc làm tất

yếu nhằm tương thích với quy định của các Công ước quốc tế, góp phần nâng

cao hiệu quả thực hiện các hoạt động hợp tác về tương trợ tư pháp hình sự

giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới.

Để hoàn thiện pháp luật hình sự về chế định đồng phạm có tổ chức, góp

phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc áp dụng chế định này trên thực tế,

tác giả xin đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự về

chế định đồng phạm có tổ chức như sau:

3.1.1. Hoàn thiện những quy định chung của Bộ luật Hình sự về

đồng phạm có tổ chức

Thứ nhất, cần quy định khái niệm đầy đủ về đồng phạm có tổ chức

trong Bộ luật Hình sự Việt Nam

Khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015 hiện hành đã nêu ra định nghĩa về

đồng phạm có tổ chức. Tuy nhiên, BLHS năm 1985, 1999 cũng như 2015 đều

sử dụng dấu hiệu “câu kết chặt chẽ” giữa những người thực hiện tội phạm để

xác định hình thức đồng phạm đặc biệt này. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các

cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử chưa có

nhận thức thống nhất trong các tiêu chí nhận dạng hình thức đồng phạm này.

Theo quan điểm của tác giả cần xác định rõ đồng phạm có tổ chức là hình

thức đồng phạm có thông mưu trước giữa những người thực hiện tội phạm,

mà ở đó những người thực hiện tội phạm có sự liên kết ở mức độ cao, có sự

phân công vai trò giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Do vậy, trong

thời gian tới cần đưa ra một khái niệm đầy đủ về đồng phạm có tổ chức hoặc

ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể về hình thức đồng

64

phạm có tổ chức.

Cùng với đó, với sự thay đổi về chính sách hình sự, BLHS năm 2015 đã

quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm được quy định tại 33

điều thuộc BLHS (22 điều thuộc Chương các tội xâm phạm trật tự quản lý

kinh tế; 09 điều thuộc Chương các tội phạm về môi trường; 02 điều thuộc

Chương các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng). Tuy nhiên,

quy định tại Điều 17 BLHS về đồng phạm và đồng phạm có tổ chức chỉ đề

cập đến chủ thể là con người, không đề cập đến chủ thể là pháp nhân thương

mại. Trong khi đó, các tình tiết tăng nặng TNHS áp dụng đối với pháp nhân

thương mại quy định tại Điều 85 BLHS năm 2015 có tình tiết “câu kết với

pháp nhân thương mại khác để phạm tội”. Như vậy, Điều 17 BLHS quy định

chế định đồng phạm đã tự loại bỏ pháp nhân thương mại là một thành viên

trong đồng phạm, có nghĩa nó cũng sẽ không thể trở thành một thành viên

trong đồng phạm có tổ chức, hay một tổ chức tội phạm. Theo ý kiến của tác

giả, đây có thể là một bất cập, và là một lỗ hổng trong hệ thống pháp luật hình

sự khi các pháp nhân thương mại câu kết chặt chẽ với nhau để thực hiện tội

phạm. Do vậy, tác giả đề nghị thêm chủ thể trong Điều 17 BLHS ngoài cá

nhân còn có cả pháp nhân thương mại. Cụ thể như sau:

“ Điều ... Đồng phạm

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện

tội phạm.

Pháp nhân thương mại câu kết với cá nhân hoặc pháp nhân thương mại

khác cố ý cùng thực hiện tội phạm là đồng phạm.

2. Đồng phạm có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt

chẽ giữa những người hoặc pháp nhân thương mại cùng thực hiện tội phạm.

3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người

xúi giục, người giúp sức.

Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

65

Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm

Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực

hiện tội phạm.

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc

thực hiện tội phạm.

4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi

vượt quá của người thực hành.

5. Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương

mại phạm tội được áp dụng theo các quy định chung về đồng phạm.”

Thứ hai, Bộ luật Hình sự Việt Nam cần quy định về tổ chức tội phạm

Mặc dù chế định đồng phạm của Việt Nam cho phép trừng trị hành vi

của một người biết rõ mục đích hoặc hành vi phạm tội chung của một nhóm

tội phạm có tổ chức, hoặc ý định của nhóm tội phạm có tổ chức trong việc

thực hiện tội phạm đang bị điều tra mà tham gia vào việc thực hiện các hành

vi phạm tội của nhóm tội phạm có tổ chức đó, hoặc tham gia vào những hoạt

động khác của nhóm tội phạm có tổ chức mà biết rằng sự tham gia của mình

sẽ góp phần đạt được mục tiêu phạm tội của nhóm tội phạm có tổ chức theo

quy định của Điều 5 khoản 1 (a), (ii) Công ước. Tuy nhiên, quy định này chưa

đủ thỏa mãn yêu cầu của Công ước về việc hình sự hóa việc tham gia vào

nhóm tội phạm có tổ chức, mà bản chất của nó chính là tổ chức tội phạm vì

BLHS hiện hành không có điều luật nào quy định một tội phạm chính, riêng

biệt về dự mưu đồng phạm hay về việc tham gia vào nhóm tội phạm có tổ

chức. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu này của Công ước, cần phải hoàn thiện quy

định của BLHS hiện hành về tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” nói chung và

tổ chức phạm tội nói riêng. [20, tr.193]

Cho đến nay, pháp luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa

chính thức về tổ chức tội phạm. Chính điều này đã tạo ra những cách hiểu,

nhận thức không thống nhất về vấn đề này. Để xác định TNHS đối với người

66

hoạt động phạm tội dưới hình thức đồng phạm có tổ chức mà vẫn bảo đảm về

TNHS đối với cá nhân, tác giả cho rằng BLHS cần quy định chế định “tổ

chức tội phạm” và TNHS liên quan đến tổ chức tội phạm.

Tổ chức tội phạm về thực chất là đồng phạm ở mức độ cao, vừa là đa

tội phạm, khi các yếu tố của đồng phạm đã cùng phát triển nhảy vọt về lượng

và do đó, có sự biến đổi về chất để tạo ra đồng phạm ở một trạng thái mới.

Trạng thái mới này phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ cao hơn, do

vậy nếu tiếp cận tổ chức tội phạm chỉ ở góc độ là tình tiết tăng nặng hoặc tình

tiết định khung thì chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh đối với hình thức tội phạm

này [20, tr193-194]. Theo quan điểm của tác giả, BLHS nên quy định tổ chức

tội phạm như sau:

Điều … Tổ chức tội phạm

1. Tổ chức tội phạm là một tập hợp từ 03 người có sự liên kết, phân

công, phân cấp, phối hợp hoạt động với nhau do một hoặc một số cá nhân

thành lập, điều khiển một cách có kế hoạch nhằm hướng đến mục đích thực

hiện tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.

2. Người thành lập, lãnh đạo, chỉ huy tổ chức tội phạm phải chịu trách

nhiệm hình sự về việc thành lập, lãnh đạo, chỉ huy tổ chức tội phạm trong

những trường hợp được quy định tương ứng tại Phần các tội phạm của Bộ

luật này.

3. Người thành lập, lãnh đạo, chỉ huy tổ chức tội phạm phải chịu trách

nhiệm tội phạm do tổ chức đó thực hiện mà không có sự cố ý cùng tham gia

của mình.

4. Những người khác tham gia tổ chức tội phạm phải chịu trách nhiệm

hình sự trong những trường hợp được quy định tương ứng tại Phần các tội

phạm của Bộ luật này.

Như vậy, tổ chức tội phạm là một tập hợp người được bố trí, sắp xếp cụ

thể, có sự phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể cho từng người. Để đạt được

67

mục đích chung, những người trong tổ chức tội phạm cùng nhau thực hiện tội

phạm để gây ra hậu quả. Trong đồng phạm có tổ chức, những người đồng

phạm có trường hợp phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể, nhưng cũng có

trường hợp những người trong đồng phạm có tổ chức không có sự phân công

vai trò, nhiệm vụ cụ thể. Trong khi đó, những người trong tổ chức tội phạm

có tính thống nhất, phân công vai trò nhiệm vụ cụ thể ở mức độ cao hơn so

với đồng phạm có tổ chức.

Tổ chức tội phạm có cơ cấu về mặt tổ chức rất ổn định, những người

trong tổ chức tội phạm có sự điều hành của người lãnh đạo, chỉ huy. Chính sự

điểu hành hành này bảo đảm tính liên kết và sự phối hợp, thống nhất chặt chẽ

giữa các thành viên; còn trong đồng phạm có tổ chức thì có thể có trường hợp

không có người lãnh đạo, chỉ huy việc thực hiện tội phạm, hoặc nếu có thì

giữ vai trò mờ nhạt.

Trong việc truy cứu TNHS đối với người trong tổ chức tội phạm cần

xác định: Người thành lập, người tham gia tổ chức tội phạm phải chịu TNHS

về hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm được quy định trong các

tội phạm cụ thể thuộc phần các tội phạm của BLHS.

Cùng với việc đưa ra khái niệm và đưa các dạng tổ chức tội phạm vào hệ

thống các quy định của pháp luật hình sự, cũng cần nhận thấy việc thực hiện

hành vi phạm tội với chủ thể là một tổ chức tội phạm có khả năng gây ra hậu quả

và thiệt hại cho xã hội lớn hơn rất nhiều so với trường hợp phạm tội đơn lẻ.

Chính vì vậy, Điều 52 BLHS quy định các tình tiết tăng nặng TNHS cần thêm

trường hợp phạm tội thực hiện bởi các liên kết tội phạm có tổ chức là một trong

những tình tiết tăng nặng TNHS nhằm đồng bộ, thể hiện được đường lối xử lý

nghiêm khắc và phân hoá đối với tội phạm do tổ chức tội phạm thực hiện.

3.1.2. Hoàn thiện những quy định phần các tội phạm của Bộ luật

Hình sự về đồng phạm có tổ chức

Phần các tội phạm của BLHS Việt Nam hiện hành quy định hành vi

68

thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm là hành vi khách quan của tội phạm

được quy định tại 03 điều, cụ thể: Điều 109 - tội hoạt động nhằm lật đổ chính

quyền nhân dân; điểm a khoản 2 Điều 113 - tội khủng bố nhằm chống chính

quyền nhân dân; điểm a khoản 2 Điều 299 - tội khủng bố.

Quá trình áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, thuật ngữ “tổ chức tội

phạm” đã được sử dụng trong các công trình nghiên cứu khoa học cũng như

trong thực tiễn đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy

nhiên, về mặt lý luận còn nhiều quan điểm khác nhau, chưa thống nhất về vấn

đề pháp lý tổ chức tội phạm và khái niệm tổ chức tội phạm, nên chưa đề ra

được những giải pháp phòng ngừa và đấu tranh một cách hiệu quả đối với loại

hình tội phạm này. Trong thời gian tới, tội phạm hóa các tội liên quan đến tổ

chức tội phạm trong phần các tội phạm thuộc BLHS là cần thiết, đáp ứng yêu

cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự,

tác giả cho rằng những hành vi sau đây cần tội phạm hóa:

- Thành lập tổ chức tội phạm nhằm thực hiện tội phạm nghiêm trọng,

rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;

- Tham gia vào tổ chức tội phạm để thực hiện tội phạm;

- Lãnh đạo, chỉ huy tổ chức tội phạm nhằm thực hiện tội phạm nghiêm

trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;

3.2. Tổng kết thực tiễn và hướng dẫn áp dụng các quy định của

pháp luật hình sự về đồng phạm có tổ chức

Quá trình áp dụng những chế định phức tạp trong pháp luật hình sự để

đúc rút được những kinh nghiệm thực tiễn nhất định phải tiến hành sơ kết,

tổng kết đánh giá. Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là một trong những nội

dung nhằm góp phần bảo đảm việc vận dụng chế định đồng phạm có tổ chức

trong khoảng thời gian tiếp theo. Thực tiễn công tác phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức cho thấy, việc

tổng kết rút kinh nghiệm chưa được tiến hành đánh giá riêng một cách hệ

69

thống mà chỉ được lồng ghép vào các đợt tổng kết đấu tranh chống tội phạm.

Thiết nghĩ, đây là một yêu cầu nghiệp vụ cần được coi trọng của các cơ quan

tư pháp, do vậy cần chú trọng tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết đánh giá

thực trạng áp dụng chế định đồng phạm có tổ chức. Thông qua tổng kết thực

tiễn, các cơ quan chức năng đánh giá được kết quả đấu tranh phòng, chống tội

phạm có tổ chức; đánh giá được những khó khăn, vướng mắc và đưa ra các

giải pháp để nâng cao hiệu quả vận dụng chế định đồng phạm có tổ chức trên

thực tiễn.

Cũng thông qua hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng chế định đồng

phạm có tổ chức tại các địa phương, những khó khăn, vướng mắc trong quá

trình áp dụng chế định đồng phạm có tổ chức ở các địa phương sẽ được tập

hợp. Qua đó, các cơ quan tư pháp Trung ương có cơ sở nghiên cứu, hoàn

thiện lý luận về đồng phạm có tổ chức và đưa ra các văn bản hướng dẫn về

chế định này. Và như đã trình bày ở phần thực trạng, đến thời điểm hiện tại

chỉ có Nghị quyết số 02-/HĐTP/NQ ngày 16 tháng 11 năm 1988 của Hội

đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số

02-HĐTP ngày 05 tháng 01 năm 1986 là hướng dẫn chế định đồng phạm có

tổ chức, trong khi đó Nghị quyết này đã hết hiệu lực bởi hướng dẫn áp dụng

chế định đồng phạm có tổ chức trong BLHS năm 1985. Trong thời gian tới,

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành Nghị quyết

hướng dẫn cụ thể về chế định đồng phạm có tổ chức để thay thế Nghị quyết

số 02-/HĐTP/NQ ngày 16 tháng 11 năm 1988.

3.3. Giải pháp về công tác tổ chức cán bộ

Quá trình áp dụng chế định đồng phạm có tổ chức trên thực tiễn muốn

đạt hiệu quả thì cần thiết phải có sự thống nhất cao trong nhận thức của cán

bộtrực tiếp áp dụng chế định này trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội

phạm. Sự thống nhất về nhận thức là nền tảng định hướng cho hành động, tạo

điều kiện vận dụng chính xác chế định đồng phạm có tổ chức trên thực tiễn.

70

Thực tiễn triển khai áp dụng các quy định của pháp luật về chế định đồng

phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua cho thấy,

phần lớn cán bộ các cơ quan tư pháp nói chung, cán bộ thuộc Tòa án nhân dân

tỉnh Quảng Ninháp dụng quy định của pháp luật hình sự về đồng phạm có tổ

chức đã có nhận thức đúng đắn về chế định này. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng

bộ phận cán bộ ngành Tòa án tỉnh Quảng Ninh chưa có nhận thức đầy đủ về

vấn đề đặt ra. Chính điều này làm cho việc áp dụng chế định đồng phạm có tổ

chức trên thực tiễn đôi khi còn thiếu thống nhất, qua đó ảnh hưởng đến hiệu

quả của công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm thực hiện dưới

hình thức đồng phạm có tổ chức. Do vậy, việc bồi dưỡng nâng cao nhận thức

về các chế định của BLHS nói chung, chế định đồng phạm có tổ chức nói

riêng là việc làm cần thiết, chỉ khi có nhận thức đúng mới vận dụng đúng và

làm đúng.

- Nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán

Trong hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân nói chung, Tòa án nhân

dân tỉnh Quảng Ninh nói riêng, Thẩm phán là nhân vật trung tâm, quyết định

nhiệm vụ chính trị của Tòa án - công tác xét xử. Chất lượng đội ngũ Thẩm

phán một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động xét xử

củaTòa án, quyết định tình đúng đắn của việc định tội danh và quyết định

hình phạt trong các vụ án đồng phạm có tổ chức. Do vậy, để nâng cao hiệu

quả định tội danh và quyết định hình phạt trong các vụ án đồng phạm có tổ

chức, nhất định cần quan tâm đến đến đội ngũ Thẩm phán và chất lượng hoạt

động. Đây được coi là nhiệm vụ then chốt, có vai trò quyết định hiệu quả của

hoạtđộng xét xử nói chung và hoạt động quyết định hình phạt trong các vụ án

đồng phạm có có tổ chức nói riêng.

Để nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán ngành Tòa án trên phạm vi

cả nước nói chung, trên điạ bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng cần:

+ Nâng cao chất lượng Thẩm phán trên cơ sở nâng cao chất lượng

71

hoạt động xét xử, lấy hoạt động xét xử làm trung tâm.

Cải cách Tòa án, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử là một

trongnhững nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp. Trong đó, để tạo bước

chuyển biến mạnh mẽ, mang tính đột phá trong công cuộc cải cách tư pháp thì

vấn đề cơ bản là nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán. Nghị quyết

49/NQTW của Bộ Chính trị ngày 02 tháng 6 năm 2005 nhấn mạnh: "Trọng

tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân”.

+ Nâng cao chất lượng Thẩm phán trên cơ sở nâng cao tiêu chuẩn

đạo đức, phẩm chất, chính trị, trình độ chuyên môn và kỹ năng, kinh nghiệm

nghề nghiệp.

Lãnh đạo ngành Tòa án các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trước hết

phải nhận thức đúng tầm quan trọng của việc nâng cao tiêu chuẩn về đạo đức

phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn và kỹ năng, kinh nghiệm nghề

nghiệp. Cùng với đó lãnh đạo ngành Tòa án các cấp phải thường xuyên giáo

dục ý thức chính trị tư tưởng cho đội ngũ Thẩm phán. Không ngừng nâng cao

bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần

trách nhiệm trong công tác. Việc giáo dục chính trị, tư tưởng này cần được

tiến hành một cách thường xuyên, liên tục để nâng cao nhận thức, tinh thần

dũng cảm, kiên quyết đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm có

tổ chức nói riêng. Qua giáo dục về chính trị, tư tưởng làm cho mỗi Thẩ phán

ngành Tòa án ý thức được tầm quan trọng của việc áp dụng chính xác các chế

định của pháp luật hình sự, trong đó có chế định đồng phạm có tổ chức vào

thực tiễn công tác. Từ đó có thái độ không ngừng học tập, nâng cao phẩm

chất chính trị, năng lực công tác, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao.

Tổ chức học tập, quán triệt chủ trương, đường lối chính sách của Đảng,

pháp luật của Nhà nước có liên quan đến công tác đấu tranh phòng chống tội

phạm, trong đó có tội phạm có tổ chức. Thông qua đó, mỗi Thẩm phán nâng

72

cao hiểu biết về chính sách pháp luật, những phương thức thủ đoạn của các

đối tượng trong đồng phạm có tổ chức; những tồn tại, vướng mắc trong chính

sách pháp luật hình sự trong quá trình áp dụng chế định đồng phạm có tổ chức

có thể phát sinh.

Song song với việc nâng cao nhận thức là việc nâng cao trình độ, năng

lực công tác cho Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh. Đây là điều kiện để mỗi cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ, áp

dụng chính xác, có hiệu quả chế định đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh. Để nâng cao nhận thức các chế định trong BLHS cũng như chế

định đồng phạm có tổ chức, trong thời gian tới lãnh đạo các cấp ngành Tòa án

tỉnh Quảng Ninh cần thực hiện tốt một số nội dung công tác sau:

Tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên đề về công tác định tội

danh và quyết định hình phạt đối với các vụ án đồng phạm có tổ chức.

Rà soát, phân loại trình độ Thẩm phán và cán bộ khác của ngành Tòa

án theo từng cấp học, hệ học, để có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo cụ thể. Đa

dạng hóa các loại hình đào tạo, có thể phối hợp với Học viện Tòa án, Học

viện Tư pháp mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề chuyên sâu; khuyến

khích, tạo điều kiện để cán bộ học tập nâng cao trình độ phục vụ công tác

chuyên môn.

Để nâng cao hiệu quả áp dụng chế định đồng phạm có tổ chức trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh, ngoài giải pháp về công tác cán bộ trong ngành Tòa án

cũng cần hoàn thiện và đưa ra các giải pháp trong công tác cán bộ trong

ngành Công an và Kiểm sát trên các tiêu chí: chính trị - tư tưởng; kiến thức

pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ. Thắt chặt tinh thần đoàn kết, quan hệ

phối hợp giữa các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án);

lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần cho

cán bộ, chiến sĩ, có chính sách động viên khen thưởng phù hợp để cán bộ,

73

chiến sĩ yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Nâng cao chất lượng của Hội thẩm nhân dân

Trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự nói chung, vụ án đồng phạm

có tổ chức nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đội ngũ Hội thẩm nhân dân

đã góp phần quan trọng trong việc hoàn thành nhiệm vụ xét xử của ngành Tòa

án. Bên cạnh những kết quả tích cực mà đội ngũ Hội thẩm nhân dân đã đóng

góp, vẫn còn những vấn đề về chất lượng cần phải tiếp tục được quan tâm để

nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án đồng phạm có tổ chức. Thời gian tới, theo

tác giả cần thực hiện một số nội dung sau để nâng cao hiệu quả, chất lượng

trong công tác xét xử của đội ngũ Hội thẩm nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh như sau:

+Đổi mới quy định tiêu chuẩn tuyển chọn Hội thẩm nhân dân, cần quy

định rõ ràng về tiêu chuẩn đạo đức, trình độ pháp luật và trình độ nghiệp vụ.

Về đạo đức, Hội thẩm nhân dân phải là người có đạo đức tốt, có uy tín trong

quần chúng nhân dân, có lối sống lành mạnh. Về trình độ pháp luật, cần xây

dựng và quy định chi tiết, cụ thể về tiêu chuẩn pháp luật của Hội thẩm nhân

dân. Tiêu chí cụ thể về trình độ, kiến thức pháp luật được nâng cao sẽ

góp phần đáng kế vào việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của ngành

Tòa án nói chung và hoạt động quyết định hình phạt trong các vụ án đồng

phạm có tổ chức.

+ Hoàn thiện các quy định của pháp luật về Hội thẩm nhân dân, thể chế

quyền và nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân. Nâng cao trách nhiệm pháp lý của

Hội thẩm nhân dân đối với các quyết định pháp lý của mình. Trước khi xét

xử, bố trí thời gian cho Hội thẩm tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ, nghiên

cứu hồ sơ về các vụ án đồng phạm có tổ chức để có quyết định chính xác.

+ Có chế độ bồi dưỡng cho Hội thẩm nhân dân hợp lý, thường xuyên

mở các lớp tập huấn về nghiệp vụ xét xử, kiến thức pháp luật trong tất cả các

lĩnh vực, nâng cao ý thức trách nhiệm của Hội thẩm để họ thấy được trách

74

nhiệm của mình trong hoạt động xét xử.

Tiểu kết chương 3

Đồng phạm có tổ chức là chế định phức tạp, thực tiễn quá trình áp dụng

chế định này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh vẫn còn gặp một số khó

khăn,vướng mắc nhất định. Qua tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật chế định

đồng phạm có tổ chức trong Chương 2, tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân

của hạn chế, thiếu sót trong quá trình áp dụng chế định này từ thực tiễn công

tác đấu tranh chống tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Trên cơ sở đó, trong Chương 3, tác giả đã đưa

ra nhóm các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng đúng các quy định về đồng

phạm có tổ chức trong BLHS hiện hành. Cụ thể:

Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về đồng

phạm có tổ chức, trong đó tác giả đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện ác

quy định của pháp luật hình sự phần thứ nhất - những quy định chung và phần

thứ hai - các tội phạm.

Nhóm giải pháp đề xuất tiến hành tổng kết thực tiễn và ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng các quy định của pháp luật

hình sự về chế định đồng phạm có tổ chức.

Nhóm các giải pháp về công tác tổ chức cán bộ trực tiếp tiến hành áp

dụng chế định đồng phạm có tổ chức trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội

phạm.

Nhóm các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu

tranh chống tội phạm thực hiện dưới hình thức đồng phạm có tổ chức trên địa

75

bàn tỉnh Quảng Ninh.

KẾT LUẬN

Trên cơ sở nghiên cứu chế định về đồng phạm có tổ chức trong pháp

luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật về đồng phạm có tổ

chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, có

thể đưa ra một số kết luận sau:

1. Đồng phạm là hình thức phạm tội đặc biệt, thường có tính chất, mức

độ nguy hiểm cho xã hội lớn hơn so với trường hợp tội phạm do một người

thực hiện. Trong các hình thức đồng phạm, đồng phạm có tổ chức là hình

thức đồng phạm đặc biệt. Đồng phạm có tổ chức được phân biệt với các hình

thức đồng phạm khác ở dấu hiệu "có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cố

ý cùng tham gia thực hiện tội phạm". Chính sự câu kết chặt chẽ này là đặc

điểm quan trọng yếu nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn hẳn,

đồng thời quy định sự khác nhau về chất giữa đồng phạm có tổ chức với các

hình thức đồng phạm khác.

2. Định tội danh là các hoạt động quan trọng trong áp dụng pháp luật

hình sự, trên cơ sở kết quả của hoạt động định tội danh để xác định biện pháp

xử lý tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.

Tuy nhiên, với bản chất pháp lý phức tạp, định tội danh trong trường hợp

đồng phạm có tổ chức trên cả nước nói chung, địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói

riêng trong một số trường hợp gặp những vướng mắc, điều này dẫn đến

những khó khăn nhất định khi áp dụng pháp luật hình sự trong phòng ngừa và

đấu tranh chống tội phạm.

3. Thực tiễn áp dụng chế định đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh trong những năm qua cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được

vẫn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót trong quá trình định tội danh và quyết

76

định hình phạt đối với trường hợp đồng phạm có tổchức, cũng như hoạt động

phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm hoạt động dưới hình thức đồng

phạm có tổ chức. Thực trạng đó đòi hỏi phải tìm ra những nguyên nhân về lý

luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm

77

áp dụng chế định đồng phạm có tổ chức trên thực tiễn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự (2000), Tài liệu tập huấn

chuyên sâu Bộ luật hình sự năm 1999, Nhà in Bộ Công an, Hà Nội.

2. Trương Công Bình (2015), Luận văn thạc sĩ luật học: “Phạm tội có tổ

chức theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn

tỉnh Đắc Lắc”; Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

3. Công an tỉnh Quảng Ninh (2018), Báo cáo sơ kết 05 năm (2014-2018)

công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh.

4. Công an tỉnh Quảng Ninh (2018), Báo cáo tổng kết 05 năm (2014-

2018) công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh.

5. Phí Thành Chung (2010), Luận văn thạc sĩ luật học: “Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có

tổ chức theo luật hình sự Việt Nam”, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

6. Phí Thành Chung (2016), Luận án tiến sĩ luật học: “Trách nhiệm hình

sự trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam”, Khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

7. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn

Nhà nước pháp quyền: một số vấn đề cơ bản phần chung, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

8. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình

sự, (Tập III), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

9. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: những vấn đề cơ bản

78

trong khoa học hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội.

10. Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản (Đồng chủ trì) (2006),

Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố

tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam,

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, mã số:

QL.04.03, Hà Nội.

11. Lê Quang Chiều (2012), Luận văn thạc sĩ luật học: “Mối liên hệ giữa

trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”, Khoa

Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5

của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật Việt Nam đến năm 2020, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp thời gian tới, Hà Nội.

15. Nguyễn Trường Giang, Nguyễn Ngọc Anh (2005), Sách chuyên khảo:

Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên

quốc gia và các nghị định thư bổ sung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

16. Dương Tuyết Miên (2007), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb

Lao động-xã hội, Hà Nội.

17. Trình Hồng (2013) Thực trạng quy định về tội phạm có tổ chức tại

Trung Quốc, Hội thảo khoa học Pháp luật hình sự Việt Nam và Trung

Quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế (Tổ chức tại Đại học Luật Hà

Nội tháng 01/2013).

18. Học viện Cảnh sát nhân dân (2018), Tập bài giảng Lý luận về định tội

79

danh và quyết định hình phạt, Hà Nội.

19. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (1988), Nghị quyết số 02-

/HĐTP/NQ ngày 16 tháng 11 năm 1988 hướng dẫn bổ sung Nghị quyết

số 02-HĐTP ngày 05 tháng 01 năm 1986.

20. Nguyễn Văn Hiển (2016), Tổ chức tội phạm ở Việt Nam những vấn đề

lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội

21. Nguyễn Phong Hòa (2005), Bàn về khái niệm tội phạm có tổ chức và

tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Tạp chí Tòa án nhân dân

22. Nguyễn Ngọc Hòa (2014), Trách nhiệm hình sự của chủ thể là tổ chức

và vấn đề sửa đổi Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học số 12,

tr .9-16.

23. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

24. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam số 15/1999/QH10, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

26. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam số 100/2015/QH13, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

27. Quốc hội (2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự

năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

28. Lê Thị Sơn (2012), Tội phạm có tổ chức và việc bổ sung chế định tổ

chức tội phạm trong Bộ luật Hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, (12),

tr-45-49.

29. Nguyễn Văn Thuyết (2018), So sánh và thống kê Bộ luật Hình sự năm

2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa

đổi, bổ sung năm 2009); Nxb Lao động, Hà Nội.

30. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Liên bang Nga,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp,

80

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Hunggary, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

33. Nguyễn Trung Thành (1999), Phạm tội có tổ chức trong Luật hình sự

Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật số 9, tr. 16-27.

34. Nguyễn Trung Thành (2002), Cơ sở và những nguyên tắc truy cứu

trách nhiệm hình sự trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật số 6, tr. 59-65.

35. Nguyễn Trung Thành (2002), Phạm tội có tổ chức trong luật hình sự

Việt Nam và việc đấu tranh phòng chống, Luận án tiến sĩ Luật học,

Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

36. Trần Qang Tiệp (2000), Đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam,

Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.

37. Trần Qang Tiệp (2007), Đồng phạm có tổ chức trong Luật hình sự Việt

Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

38. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an

(1973), Thông tư liên bộ ngày 16/3/1973 hướng dẫn quy định Pháp

lệnh số 149-LCT và 150-LCT của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

39. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 149-LCT ngày 21

tháng 10 năm 1970 quy định trùng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội

chủ nghĩa.

40. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1970), Pháp lệnh số 150-LCT ngày 21

tháng 10 năm 1970 quy định trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng

81

của công dân.

PHỤ LỤC SỐ LIỆU

Bảng 2.1. Tình hình phạm pháp hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

từ năm 2014 đến năm 2018

Năm Số vụ trọng án Số người chết Số người bị thương Số vụ phạm pháp hình sự Thiệt hại tài sản (tỷ đồng)

140 8.4 2014 620 80 15

144 9 2015 570 74 19

181 5.1 2016 537 59 26

173 8.6 2017 589 60 9

180 55.8 2018 699 59 19

818 86,9 Tổng 3015 332 88

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác các năm của Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh, từ năm 2014 đến năm 2018

Bảng 2.2. Thống kê số vụ án và số bị cáo trong các vụ án đồng phạm có tổ

chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã được đưa ra xét xử

từ năm 2014 đến năm 2018

Vụ án Bị cáo

Tính chất

Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %

1748 67,9% Tội phạm hình sự 300 61%

683 26,5% Tội phạm ma túy 169 34,3%

53 2,1% Tội phạm kinh tế, chức vụ 13 2,6%

Tội phạm môi trường, tội phạm sử

92 3,6% dụng công nghệ cao và tội phạm 10 2,1%

khác

2.576 100% Tổng 492 100%

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác các năm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng

Ninh, từ năm 2014 đến năm 2018

Bảng 2.3. Tính chất của các vụ án đồng phạm có tổ chức đã được đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018

Phân loại vụ án

Tính chất băng, nhóm Tổng số Giản đơn Phức tạp Xuyên quốc gia

Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %

Tội phạm hình sự 300 259 86,33 % 34 11,33 % 7 2,34 %

Tội phạm kinh tế 169 134 79,29 % 0 0 35 20,71 %

Tội phạm ma túy 13 13 100 % 0 0 0 0

Tội phạm môi trường 4 4 100 % 0 0 0 0

Tội phạm công nghệ cao 6 6 100 % 0 0 0 0

Tổng 492 416 84,55 % 34 6,91 % 42 8,54 %

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác các năm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, từ năm 2014 đến năm 2018

Bảng 2.4. Thống kê hình thức xử lý đối tượng hoạt động đồng phạm có tổ chức trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

từ năm 2014 đến năm 2018

Hinh thức xử lý

Tính chất băng, nhóm Tổng số Xử lý hình sự Xử phạt VPHC

Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %

Tội phạm hình sự 1.904 91,81 % 156 8,19 % 1748

Tội phạm kinh tế 691 98,84 % 08 1,16 % 683

Tội phạm ma túy 54 98,15 % 01 1,85 % 53

Tội phạm môi trường, công nghệ 92 100 % 0 0 92 cao, tội phạm khác

Tổng 2.741 93,98 % 165 6,02 % 2.576

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác các năm của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, từ năm 2014 đến năm 2018