VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT

----------

NGUYỄN THANH TÙNG

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO

THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN

CHƯƠNG MỸ, THANH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ

VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM MẠNH HÙNG

Hà Nội, Năm 2022

Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập

của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, xuất phát từ tình hình

thực tế của huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội.

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Tùng

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Phạm Mạnh Hùng,

người đã hướng dẫn tôi hết sức tận tâm, khoa học để tôi hoàn thành luận văn Thạc sỹ

này.

Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các Thầy, Cô giáo

của Trường Đại học Kiểm Soát, đặc biệt là các Thầy cô trong khoa sau Đại học đã giúp

tôi trong quá trình thực hiện luận văn.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp, những người đã quan

tâm, sát cánh bên cạnh và ủng hộ tôi là động lực cho tôi hoàn thành luận văn này một

cách thuận lợi.

Hà Nội, ngày tháng năm 2022

Tác giả luận văn

Nguyễn Thanh Tùng

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự BLHS

Tố tụng hình sự TTHS

Pháp luật hình sự PLHS

Giao thông đường bộ GTĐB

TGGTĐB Tham gia giao thông đường bộ

Cảnh sát giao thông CSGT

An toàn giao thông ATGT

Tai nạn giao thông TNGT

Tòa án nhân dân TAND

Ủy ban nhân dân UBND

Thành phố TP

Viện kiểm sát nhân dân VKSND

Cơ quan điều tra CQĐT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Số vụ án xét xử tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương

Mỹ từ (năm 2020- 2022) ...................................................................................... 34

Bảng 2.2. Tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ

xét theo địa bàn hành chính cấp xã ...................................................................... 34

Bảng 2.3. Tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ

theo tuyến đường .................................................................................................. 36

Bảng 2.4. Các điều kiện về điều khiển phương tiện của các bị cáo phạm tội vi

phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ ........................................... 38

Bảng 2.5. Cơ cấu bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại

huyện Chương Mỹ ................................................................................................ 38

Bảng 2.6. Các thiệt hại trong các vụ án về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại

huyện Chương Mỹ ................................................................................................ 40

Bảng 2.7. Các vụ án TNGT bị CQĐT xử lý hình sự về tội vi phạm quy định về

TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022 ............ 41

Bảng 2.8. Các vụ án TNGT về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện

chương Mỹ bị đình chỉ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022 ............................ 42

Bảng 2.9. Các loại vi phạm trong tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện

Chương Mỹ đã được đưa ra xử lý hình sự giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022

.............................................................................................................................. 45

Bảng 2.10. Hình phạt mà TAND huyện Chương Mỹ tuyên phạt cho các bị cáo

phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ ........................ 46

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

Chương 1 ................................................................................................................ 7

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG

ĐƯỜNG BỘ ........................................................................................................... 7

1.1. Khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ............... 7

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ ....................................................................................... 15

1.2.1. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ trước khi Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ

sung năm 2017 được ban hành ............................................................................. 15

1.2.2. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong Bộ luật hình

sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 ............................................................. 20

Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................ 31

Chương 2 .............................................................................................................. 32

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY

ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI HUYỆN CHƯƠNG

MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... 32

2.1. Khái quát chung về huyện Chương Mỹ và tình hình giao thông đường bộ tại

huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ............................................................... 32

2.2. Kết quả đạt được trong áp dụng Bộ luật hình sự về tội phạm vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội

từ năm 2020 đến năm 2022 .................................................................................. 33

2.2.1. Số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự về tội phạm vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà

Nội từ năm 2020 đến năm 2022 ........................................................................... 33

2.2.2. Kết quả đạt được trong việc áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội .... 47

2.3. Hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong áp

dụng luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại

huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ............................................................... 48

2.3.1. Hạn chế, thiếu sót trong áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ......... 48

2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong áp dụng luật hình sự về

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ,

Thành phố Hà Nội ................................................................................................ 49

Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................ 53

Chương 3 .............................................................................................................. 54

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY

ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI HUYỆN CHƯƠNG

MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... 54

3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự ........................................................................ 54

3.1.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật .......................................................... 54

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về an toàn giao

thông đường bộ .................................................................................................... 56

3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định

về an toàn giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ...... 58

3.2.1. Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của cán bộ, của cơ quan

tiến hành tố tụng ................................................................................................... 58

3.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ

quan có liên quan trong phòng chống tội phạm vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ............................................................................................. 61

3.2.3. Các giải pháp khác ..................................................................................... 67

Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................ 69

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 70

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 72

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng hơn với kinh tế thế

giới. Xã hội ngày càng phát triển, đời sống của người dân ngày một nâng cao

dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Số lượng người và

phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều. Điều đó đặt nhiều sức ép cho

hệ thống GTĐB của nước ta. Tình hình tội phạm vi phạm quy định về tham gia

GTĐB có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng tội phạm và số vụ án liên

quan đến tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Vấn đề cấp thiết được đặt ra

để đảm bảo an ninh trật tự, an toàn GTĐB là vấn đề luôn được Đảng và Nhà

nước ta hết sức quan tâm, yêu cầu ban ngành các cấp từ trung ương tới địa

phương tập trung chỉ đạo, quản lý chặt chẽ, đẩy mạnh phổ biến về giáo dục pháp

luật đối với người dân.

Huyện Chương Mỹ là huyện có diện tích lớn thứ 3 thuộc TP Hà Nội trong

tổng số 32 đơn vị hành chính trực thuộc Hà Nội (2 thị trấn và 30 xã). Huyện có

hệ thống giao thông thuận tiện với 2 quốc lộ lớn chạy qua là quốc lộ 6A với

chiều dài 18 km, quốc lộ 21A và đường Hồ Chí Minh với chiều dài 16,5 km.

Hiện nay, huyện là cửa ngõ tây nam của TP tập trung nhiều khu công nghiệp,

làng nghề truyền thống văn hoá, mật độ dân cư đông đúc, kinh tế ngày càng phát

triển. Cùng với sự phát triển về kinh tế, lượng người và xe cơ giới tham gia giao

thông lớn, số lượng các vụ tai nạn GTĐB nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng

và tài sản của con người ngày càng gia tăng.

Hiện nay, chưa có nhiều nghiên cứu về tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB tại huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội. Việc xử lý các đối tượng vi phạm quy

định về tham gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ còn gặp nhiều khó khăn trong

việc xác định hành vi phạm tội, xác định đúng đối tượng phạm tội do trình độ

năng lực cán bộ còn hạn chế, việc thu thập chứng cứ phức tạp do hiện trường các

vụ TNGT thường bị xáo trộn. Ngoài ra, ngày 19/06/2022, Bộ Công an ban hành

Thông tư số 63/2022/TT-BCA quy định quy trình điều tra, giải quyết tai nạn

giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát giao thông (Thông tư số 63), có

hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 khi áp dụng trong thực tiễn điều tra giải

quyết vụ án cũng đã phát sinh nhiều khó khăn, bất cập.

Do đó, việc lựa chọn đề tài: “Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB từ

thực tiễn huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội” để qua đó đánh giá đúng thực tế áp

dụng quy định, xác định tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện

Chương Mỹ, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng

pháp luật đối với tội phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ là

cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là một trong

những tội có tính phổ biến cao trong xã hội, và đã chiếm một phần không nhỏ

trong các tội phạm. Trong khoa học pháp lý hình sự đã có nhiều công trình

nghiên cứu về tội phạm này:

- Giáo trình Luật hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Sách

chuyên khảo Bình luận khoa học về những điểm mới của Bộ luật hình sự năm

2015 (Sửa đổi, bổ sung 2017) của tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa và Phan Anh

Tuấn, Bình luận khoa học Luật hình sự (hiện hành) sửa 3 đổi, bổ sung 2017 của

tác giả Nguyễn Đức Mai... đã phân tích các dấu hiệu pháp lý cũng như những

điểm mới của Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Về các bài báo: Đinh Văn Quế có bài viết “Bình luận về Tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ”, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số

11/2022.... Các bài viết này đều chỉ ra nhiều ưu điểm và hạn chế của quy định về

tội vi pham quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Điều 260 Bộ luật

hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung 2017). Tuy nhiên, do giới hạn ở phạm vi bài

viết nghiên cứu nên lý luận chưa sâu, và chỉ dừng lại ở mức độ nêu lên những

hạn chế, vướng mắc đề nghị sửa đổi.

Về luận văn thạc sỹ: Luận văn thạc sỹ “Tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ theo Pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà

thành phố Đà Nẵng” của tác giả Hồ Ngọc Linh (2020), Học viện Khoa học xã

hội - Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Luận văn thạc sỹ “Tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Pháp luật hình sự Việt Nam từ

thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Trần Hải Đăng (2021), Học viện Khoa

học xã hội - Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Luận văn thạc sỹ “Tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Bá Công (2022), Học viện

Khoa học xã hội - Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Nhìn chung, những công trình đó đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận,

pháp lý và thực trạng về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

đồng thời cũng đã đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong

việc giải quyết các vụ án trong thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, có thể thấy việc

nghiên cứu đề tài này còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ, chủ yếu tiếp cận dưới

góc độ luật hình sự. Tác giả kế thừa và phát huy những kết quả đạt được của

những công trình nghiên cứu này, đồng thời bổ sung những vấn đề mới về những

quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều

tra Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong thời gian qua từ

thực tiễn huyện Chương Mỹ, Hà Nội, từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp góp

phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn hướng đến mục tiêu làm rõ một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ, thực trạng áp dụng trên địa bàn

huyện Chương Mỹ, Hà Nội trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn

thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu

sau:

- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ.

- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ, thông qua việc nghiên cứu luận văn chỉ ra

những hạn chế, bất cập của các quy định này làm cơ sở cho việc đưa ra giải pháp

hoàn thiện pháp luật;

- Khảo sát thực tiễn áp dụng Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội trong thời gian qua, chỉ ra các

hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó làm cơ sở đưa

ra các giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng Tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Các quan điểm, công trình nghiên cứu về Tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ.

- Quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ.

- Thực tiễn áp dụng Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội thời gian qua.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:

- Các quan điểm, công trình khoa học trong nước về Tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ.

- Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về Tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ.

- Thực tế áp dụng Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội từ năm 2020 – 2022.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Phương pháp luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; phép duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy

vật lịch sử; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và

Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp

và đấu tranh phòng, chống tội phạm theo yêu cầu cải cách tư pháp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn

Bên cạnh phương pháp luận, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu cụ thể sau:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để giải quyết các nhiệm vụ đặt

ra của tình hình nghiêm cứu và những vấn đề lý luận (Chương 1);

- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá được sử dụng để

giải quyết các nhiệm vụ làm rõ thực tiễn áp dụng tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ - Hà Nội cũng như hạn

chế, bất cập và nguyên nhân của nó trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ

giải quyết vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ (Chương 2);

- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng để giải quyết

nhiệm vụ đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu

quả áp dụng tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Chương 3).

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm một số vấn đề lý luận về tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ, có thể được sử dụng làm tài liệu

tham khảo trong công tác nghiên cứu, đào tạo.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng

tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ sẽ góp phần hoàn thiện

các quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ, đồng thời nâng cao hiệu quả thực tiễn công tác đấu tranh phòng,

chống tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn

huyện Chương Mỹ - Hà Nội.

7. Bố cục của luận văn

Luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng

quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH

SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO

THÔNG ĐƯỜNG BỘ

1.1. Khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ

Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS

năm 2015) không quy định khái niệm Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ. Tuy nhiên, dưới góc độ luật hình sự, các nhà khoa học có

những quan điểm khác nhau về khái niệm Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ. Có thể khái quát một số quan điểm nổi bật như sau:

Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Vi phạm quy định về điều khiển phương

tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông

đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức

khỏe, tài sản của người khác” 1. Cùng quan điểm này nhưng tiếp cận dưới góc

độ Luật hình sự hiện hành cũng cho rằng: “Vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông trong khi

tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại

nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác”2. Các quan điểm nêu trên

mới chỉ nêu định nghĩa về hành vi chứ chưa làm rõ khái niệm tội phạm này.

Tác giả Trần Minh Hưởng lại cho rằng “Tội vi phạm quy định về điều

luận BLHS 2015: Tội vi phạm quy định về

tham gia giao

thông đường

khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định của Nhà

1 Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phàn các tội phạm, Tập VII – Các tội xâm phạm quy định về an toàn giao thông, Nxb Thành phố HCM. 2 Bài viết “Bình bộ”https://luatgiaiphong.com/binh-luan-toi-danh/binh-luan-blhs-2015-toi-vi-pham-quy-dinh-ve-tham-gia-giao- thong-duong-bo, Truy cập ngày 20/12/2022.

nước về an toàn giao thông đường bộ”3. Quan điểm này còn chung chung, chưa

đầy đủ dấu hiệu về chủ thể, thiệt hại do hành vi vi phạm quy định của Nhà nước

về an toàn giao thông đường bộ.

Tác giả Ngô Ngọc Thủy cho rằng “Tội vi phạm quy định về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ là hành vi hành vi của người điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ nhưng mà vi phạm quy định về an toàn giao

thông đường bộ sau đó gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của

người khác hoặc gây thiệt hại cho tính mạng của người khác”4. Khái niệm này

tiếp cận xây dựng từ quy định của BLHS năm 1999 nên cũng chưa phù hợp với

quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015.

Theo Luật sư Phạm Ngọc Minh: “Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ là hành vi của người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm

quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây

thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác”5. Khái niệm này

tương đối toàn diện nhưng dấu hiệu hậu quả của hành vi vi phạm quy định về an

toàn giao thông đường bộ không chỉ chỉ rõ là hành vi nguy hiểm cho xã hội và

hành vi đó phải được quy định trong BLHS.

Theo tác giả luận văn, để xây dựng được khái niệm Tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ cần phải tiếp cận từ khái niệm, đặc điểm của

tội phạm; các dấu hiệu pháp lý về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015.

Căn cứ theo quy định tại Điều 8 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung

3 Trần Minh Hưởng (2010) “Chương XIX – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”, Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2010. 4 Nguyên Ngọc Hòa (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 5 Bài viết Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ đăng tại https://hinhsu.luatviet.co/toi-vi-pham- quy-dinh-ve-tham-gia-giao-thong-duong-bo/n20161028120823081.html, truy cập ngày 25/12/2022.

2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015), khái niệm tội phạm đượ cụ thể hóa

như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật

Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại

thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,

toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn

hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ

chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm

phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy

định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Theo định nghĩa này có thể thấy các

đặc điểm của hành vi bị coi là tội phạm được xác định trong định nghĩa về tội

phạm là: Đặc điểm nguy hiểm cho xã hội; Đặc điểm có lỗi (cố ý hoặc vô ý); Đặc

điểm được quy định trong luật hình sự (trái pháp luật hình sự); Đặc điểm do

người có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS thực hiện; Đặc điểm phải chịu

hình phạt. Cụ thể:

Thứ nhất, tính nguy hiểm cho xã hội:

Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính của tội phạm

thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã

hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Nó là thuộc tính cơ bản và quan trọng

nhất, quyết định những thuộc tính khác của tội phạm. Việc nhận thức đúng đắn,

đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm với tư cách là một thuộc tính xã

hội của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức đúng đắn tính nguy

hiểm cho xã hội của tội phạm, là chìa khóa để làm sáng tỏ bản chất xã hội và giai

cấp của các chế định tội phạm và hình phạt, từ đó làm cơ sở cho việc xã hội hóa

đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Tính nguy hiểm cho xã hội được coi là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất,

điều này đã được thể hiện qua các quy định của pháp luật:

Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 đã khẳng định: “Tội phạm là hành vi

nguy hiểm cho xã hội…”. Như vậy tính nguy hiểm chính là dấu hiệu quan trọng

nhất quyết định một tội phạm, nó được thể hiện thông qua hành vi nguy hiểm

cho xã hội.

Khoản 4 Điều 8: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính

chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử

lý bằng các biện pháp khác”. Như vậy dấu hiệu tội phạm được coi là dấu hiệu

tiên quyết, quyết định các dấu hiệu khác. Một hành vi có đủ 3 dấu hiệu của tội

phạm nhưng tính nguy hiểm cho xã hội của nó là không đáng kế thì không bị coi

là tội phạm.

Tính nguy hiểm cho xã hội cũng là căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự

theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 của điều 29 Bộ luật hình sự 2015.

“1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong

những căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính

sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

b) Khi có quyết định đại xá.

2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong

các căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà

người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm

nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;

c, Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc

phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của

tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt được Nhà nước và xã hội

thừa nhận.”

Như vậy, chúng ta có thể thấy tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là

một thuộc tính phát sinh trong mối quan hệ giữa người thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm với xã hội và chỉ có thể nhận biết bằng tư duy.

Thứ hai tính có lỗi:

Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm

cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, thể hiện

dưới dạng cố ý và vô ý, là một dấu hiệu rất quan trọng trong cấu thành tội phạm.

Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ

bản. Người chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không phải chỉ

đơn thuần vì người này có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì

đã có lỗi trong thực hiện hành vi khách quan đó.

Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy

hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng

gây ra hậu quả từ hành vi đó.

Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành

vi đó là sự kết hợp của sự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan

và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.

Căn cứ vào yếu tố ý chí và yếu tố lý trí mà lỗi được phân ra làm 2 loại là:

lỗi cố ý và lỗi vô ý. Cũng trên cơ sở ý chí và lý trí của chủ thể vi phạm pháp luật

mà khoa học pháp lý cũng phân biệt lỗi cố ý gồm 2 hình thức: lỗi cố ý trực tiếp

và lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý cũng có 2 hình thức: lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô

ý do cẩu thả.

Thứ ba, tính trái pháp luật hình sự:

Tính trái pháp luật hình sự cũng được thể hiện thông qua Điều 8 là: “Tội

phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…được quy định trong Bộ luật hình sự..”.

Trong bộ luật hình sự, tính trái pháp luật hình sự không chỉ được thể hiện

ở Điều 8 mà còn được thể hiện ở Điều 2 và Điều 7. Điều 2 quy định: “chỉ người

nào phạm tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình

sự…” Như vậy tính trái pháp luật cũng là dấu hiệu đặc biệt quan trọng. Những

hành vi được coi là trái pháp luật cũng đồng thời là hành vi nguy hiểm cho xã

hội được quy định trong Luật hình sự. Tính trái pháp luật là căn cứ để đảm bảo

quyền lợi của công dân, tránh việc xử lý tùy tiện.

Tính trái pháp luật hình sự và tính nguy hiểm cho xã hộ là hai dấu hiệu có

mối quan hệ biện chứng với nhau, tính trai pháp luật hình sự là dấu hiệu về mặt

hình thức pháp lí phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội.

Thứ tư, tính phải chịu hình phạt:

Tính phải chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ có

hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm cũng không có

hình phạt. Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy

hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và tính

trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt, tính nguy

hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính nguy hiểm cho xã

hội của tội phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có thể bị đe dọa áp dụng

hình phạt.

Trên cơ sở khái niệm tội phạm, các dấu hiệu của tội phạm nói chung và

quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 quy định về Tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ có thể thấy Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ có những dấu hiệu pháp lý sau:

Dấu hiệu thứ nhất: là hành vi nguy hiểm cho xã hội – hành vi xâm phạm

vào những quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ được quy định tại

các văn bản Luật và các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành -

không thực hiện đúng những quy định trong Luật Giao thông đường bộ liên quan

đến những quy tắc giao thông đường bộ, gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã

hội được luật hình sự bảo vệ như tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác mà

theo quy định của BLHS năm 2015 thì thiết hại đó đến mức phải chịu trách

nhiệm hình sự. Do vậy, trường hợp vi phạm các quy định về an toàn giao thông

đường bộ gây thiệt hại cho chính bản thân người vi phạm mà không gây thiệt hại

cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, thì không bị coi là tội phạm.

Dấu hiệu thứ hai: hành vi nguy hiểm cho xã hội nêu trên "được quy định

trong Bộ luật hình sự". Hành vi xâm phạm vào những quy định về trật tự an toàn

giao thông đường bộ được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015. Tức là một

hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ không thể phạm Tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nếu như hành vi phạm tội đó

chưa được mô tả tại Điều 260 BLHS năm 2015.

Dấu hiệu thứ ba: hành vi nguy hiểm cho xã hội "do người có năng lực

trách nhiệm hình sự thực hiện". Điều 12 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm

2017 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu

trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy

định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự

về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một

trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173,

178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của

Bộ luật này”. Điều 21 BLHS năm 2015 quy định: “Người thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất

khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải

chịu trách nhiệm hình sự”.

Như vậy, chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên không thuộc tình trạng không có năng lực trách

nhiệm hình sự quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015.

Dấu hiệu thứ tư: là tính có lỗi của tội phạm. Lỗi là thái độ tâm lý của

người thực hiện tội phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện

và đối với hậu quả cho xã hội do hành vi đó gây ra. Lỗi của các tội xâm phạm

trật tự an toàn giao thông đường bộ nói chung và của Tội vi phạm quy định về an

toàn giao thông đường bộ được thể hiện dưới hình thức vô ý.

Lưu ý: Nếu người điều khiển phương tiện giao thông cố ý sử dụng phương

tiện để giết người, gây thương tích hoặc hủy hoại tài sản của người khác thì truy

cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng, còn sử dụng phương tiện giao thông

sẽ được coi là thủ đoạn để thực hiện tội phạm. Ví dụ: A muốn giết B nên đã dùng

xe máy để đâm chết B khi B đang đi bộ trên đường, thì truy cứu trách nhiệm

hình sự A về tội giết người theo Điều 93 BLHS, xe máy được coi là phương tiện

để gây án.

Dấu hiệu thứ năm: là tính phải chịu hình phạt của tội phạm. Hình phạt đối

với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được quy định tại điều 260 BLHS

với 4 khung hình phạt và 1 khung hình phạt bổ sung. Trong đó:

- Hình phạt thấp nhất là khung hình phạt tại khoản 4 điều này. Người

phạm tội bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo

không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

- Hình phạt cao nhất là khung hình phạt tại khoản 3 điều này. Người phạm

tội bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

- Hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 điều này. Người phạm tội có thể

bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm.

Ngoài ra, Các biện pháp xử lý hình sự khác là miễn TNHS theo quy định

tại khoản 3 điều 29 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Với các tiếp cận nêu trên có thể đưa ra khái niệm Tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ như sau: “Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật

hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách vô ý, xâm

phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng, sức

khỏe, tài sản của người khác”.

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ

1.2.1. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ trước khi Bộ luật hình sự năm 2015,

sửa đổi bổ sung năm 2017 được ban hành

1.2.1.1. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trước khi

Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời

Trước năm 1985, pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các điều

kiện lịch sử của đất nước trong giai đoạn này. Trước thời điểm ban hành BLHS

năm 1985, khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hình thành và bước

đầu là nguồn có tính chất bổ sung của luật hình sự Việt Nam. Nguồn luật hình sự

Việt Nam giai đoạn này là nguồn của luật hình sự cách mạng, dân chủ, nhân đạo

và nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công đã đem lại độc lập cho dân tộc,

tự do cho nhân dân. PLHS Việt Nam lúc này là pháp luật cách mạng, là ý chí của

nhân dân lao động Việt Nam đề lên thành luật để bảo vệ độc lập, chủ quyền của

Tổ quốc, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Trong giai đoạn

này, các tội liên quan đến vi phạm các quy định về tham gia GTĐB được thực

hiện căn cứ theo Bản sơ kết kinh nghiệm về đường lối xử lý tội vi phạm luật lệ

giao thông gây tai nạn (Công văn số 949 – NCPL ngày 25/11/1968 của TAND

tối cao). Đến năm 1976, Chính phủ ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày

15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự công

cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân.

Theo quy định tại Bản sơ kết kinh nghiệm ngày 25/11/1968 của Toà án

nhân dân tối cao về đường lối xử lý tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn,

thì:

Tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn xâm phạm nền ATGT, một bộ

phận của nền trật tự, trị an vốn thuộc loại tội khinh xuất. Đối với loại tội này, cần

xác định chắc chắn là có hành vi phạm luật lệ giao thông, có hậu quả tác hại cụ

thể do hành vi phạm tội gây nên. Đường lối xử lý đối với người phạm tội vi

phạm luật lệ giao thông gây tai nạn được quy định như sau: “trừng trị thích đáng

đối với những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị đúng mức đối với những vi

phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp với thận trọng để xem xét đầy đủ

mọi tình tiết một cách toàn diện”.

Tại Điều 9 của Sắc luật số 03-SL/76 có quy định “tội xâm phạm đến trật

tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân”.

1.2.1.2. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong Bộ

luật hình sự năm 1985

Khi BLHS năm 1985 được ban hành, mà theo đó, hành vi xâm phạm đến

các quy định về ATGT vận tải được quy định tại Điều 186 với tên tội danh là:

“Tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải gây hậu quả nghiêm trọng”. Tội vi

phạm các quy định về ATGT vận tải được quy định tại Điều 186 BLHS 1985

như sau:

1- Người nào điều khiển phương tiện giao thông vận tải mà vi phạm các

quy định về ATGT vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không gây

thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng

đến tài sản, thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không

giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm:

a) Đi quá tốc độ, trở quá trọng tải quy định, tránh, vượt trái phép;

b) Không đi đúng tuyến đường, phần đường, luồng lạch, đường bay và độ

cao quy định;

c) Vi phạm các quy định khác về ATGT.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba

năm đến mười năm:

a) Điều khiển phương tiện giao thông vận tải mà không có bằng lái; trong

khi say rượu hoặc say do dùng chất kích thích khác;

b) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp

người bị nạn.

3- Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm

đến hai mươi năm.

4- Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt

nghiêm trọng nếu được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ

đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

Năm 1985 BLHS đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế

bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm 1985 với ý

nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt.

Theo điều 186 BLHS năm 1985, có quy định về Tội vi phạm các quy định

về ATGT vận tải. Thời điểm này, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB chưa

được tách riêng mà chỉ xác định chung là tội vi phạm các quy định về ATGT vận

tải. Phạm vi xác định hành vi trong luật vẫn bị bó hẹp.

Vi phạm các quy định về điều khiện phương tiện GTĐB được xác định là

những hành vi không chấp hành hoặc chấp hành một phần không đầy đủ các quy

định về an toàn khi tham gia GTĐB.

1.2.1.3. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong Bộ

luật hình sự năm 1999

Ngày 22/12/1999, tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua BLHS (sửa đổi, bổ sung) có hiệu lực từ

ngày 01/7/2000, mà theo đó, tên tội danh và nội dung tội phạm trước đây được

quy định tại Điều 186 BLHS năm 1985 đã có sự thay đổi cơ bản và được quy

định tại Điều 202 BLHS năm 1999. Tên tội danh được sửa thành “Tội vi phạm

các quy định về ATGT vận tải”, riêng nội dung của tội phạm vẫn được giữ

nguyên.

Tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải được quy định tại Điều 202

BLHS năm 1999, như sau:

“1. Người nào điều khiển phương tiện GTĐB mà vi phạm quy định về an

toàn GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức

khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi

triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến

năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba

năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu

giúp người bị nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển

hoặc hướng dẫn giao thông;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm

đến mười lăm năm.

4. Vi phạm quy định về an toàn GTĐB mà có khả năng thực tế dẫn đến

hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải

tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB là hành vi của

người điều khiển phương tiện GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB

gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản

của người khác.

So với quy định của BLHS năm 1985, thì quy định tại Điều 202 BLHS

năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB, có một số

điểm mới sau:

Một là, với sự thay đổi tên tội danh, thì đối tượng tác động của tội phạm

chỉ là phương tiện GTĐB.

Hai là, thiệt hại được quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999

được quy định là “thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho

sức khoẻ, tài sản của người khác” thay cho quy định “thiệt hại cho tính mạng,

cho sức khoẻ của người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” tại

khoản 1 Điều 186 BLHS năm 1985.

Ba là, tại khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999 bổ sung thêm hai tình tiết

tăng nặng định khung hình phạt là: “không chấp hành hiệu lệnh của người đang

làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông” và “gây hậu quả rất

nghiêm trọng.”

Bốn là, về hình phạt chính cao nhất có thể áp dụng đối với người phạm tội

vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB được quy định tại khoản 3

Điều 202 BLHS năm 1999 “phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm” thay cho

quy định tại khoản 3 Điều 186 BLHS năm 1986 “phạt tù từ bảy năm đến hai

mươi năm”. Hình phạt chính có thể áp dụng đối với người phạm tội vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện GTĐB trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn

đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, được quy

định tại khoản 4 Điều 202 BLHS, đó là “phạt cải tạo không giam giữ đến một

năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm” thay cho quy định tại khoản 4 Điều

186 BLHS năm 1986 “cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba

tháng đến ba năm”

Năm là, hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 “Người phạm tội còn

có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

từ một năm đến năm năm.”

Như vậy, tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải quy định tại Điều 202

BLHS năm 1999 là tội nhẹ hơn tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải quy

định gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 186 BLHS năm 1985. Bởi vì, mức cao

nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 202 BLHS hiện hành nhẹ

hơn mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 186 BLHS

năm 1985.

1.2.2. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong Bộ

luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

1.2.2.1. Đặc điểm pháp lý cơ bản của Tội vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được quy định tại

Điều 260 BLHS năm 2015, cụ thể:

“Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an

toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các

trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng,

phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ

tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà

tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000

đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03

năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có

nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích

mạnh khác;

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị

nạn;

d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao

thông;

đ) Làm chết 02 người;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà

tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000

đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07

năm đến 15 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà

tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp

có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c

khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ

10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm

hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”.

Tại Điều 202 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định tội

này với tên gọi là “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ” với việc xác định chỉ những người nào điều khiển phương tiện giao

thông đường bộ mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Trong khi đó,

khoản 22 Điều 3 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định “Người tham gia

giao thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao

thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ”.

Với tên gọi tội danh như Điều 202 của BLHS 1999 thì không thể xử lý trách

nhiệm hình sự đối với “người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường

bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ” mặc dù họ

cũng tham gia giao thông và gây thiệt hại đến tính mạng, gây thương tích hoặc

tổn hại sức khỏe, gây thiệt hại về tài sản của người khác. Điều 260 BLHS năm

2015 đã sửa đổi tên điều luật theo hướng bao quát hơn, phản ánh đúng phạm vi

và đối tượng điều chỉnh của điều luật, tức là người nào tham gia giao thông

đường bộ mà vi phạm quy định về đảm bảo an toàn giao thông thì đều có thể bị

xử lý trách nhiệm hình sự về tội này.

Ngoài ra, So với Điều 202 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung

năm 2009 thì Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 đã có nhiều thay đổi quan

trọng về kết cấu điều luật, khung hình phạt, mức hình phạt liên quan. Cụ thể:

Về kết cấu của điều luật: So với Điều 202 BLHS năm 1999 thì số khung

hình phạt của Điều 260 BLHS năm 2015 giảm hơn 01 khung hình phạt. Ngoài

ra, trong điều 260 BLHS năm 2015 đã thay đổi từ điều khiển giao thông thành

từ tham gia giao thông. Đây là sự sửa đổi phù hợp với quy định của Luật giao

thông đường bộ, đồng thời bao quát được các đối tượng vi phạm quy định do

Luật giao thông đường bộ điều chỉnh (không chỉ có người điều khiển phương

tiện).

Về mức hậu quả cấu thành tội phạm: So với quy định của Điều 202 BLHS

năm 1999 thì Điều 260 BLHS năm 2015 đã thay đổi quy định về mức độ hậu

quả do vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ làm cơ sở để quy kết

trách nhiệm hình sự. Điều 260 BLHS năm 2015 loại bỏ mức độ hậu quả gây tổn

thương cơ thể của 01 người dưới 61%, loại bỏ mức độ hậu quả tổn thương cơ thể

của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này dưới

61% và loại bỏ mức độ thiệt hại vật chất dưới 100 triệu đồng làm cơ sở để truy

cứu TNHS về tội phạm này. Đồng thời, điều 260 BLHS năm 2015 cũng loại

bỏ quy định cộng chung mức độ thiệt hại kép về sức khỏe con người và vật chất

như quy định ở điều 202 BLHS năm 1999 . Tuy nhiên, tại khoản 4 của Điều 260

BLHS năm 2015 khi chưa có thiệt hại xảy ra thì người vi phạm vẫn có thể bị truy

cứu TNHS nếu đủ các điều kiện quy định.

Về mức hình phạt: Điều 260 BLHS năm 2015 quy định hình phạt thấp

nhất trong trường hợp tội phạm đã hoàn thành, hậu quả đã xảy ra là phạt tiền 30

triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, phạt tù 01 năm; hình phạt

cao nhất là phạt tù đến 15 năm. So với quy định của Điều 202 BLHS năm 1999

thì mức hình phạt thấp nhất về phạt tiền (là hình phạt chính) tại điều 260 BLHS

năm 2015 đã tăng lên gấp 6 lần (từ 5 triệu đồng lên 30 triệu đồng) nhưng mức

hình phạt cao nhất về hình phạt tù có thời hạn thì không thay đổi. Xét ở khía

cạnh các yếu tố cấu thành tội phạm (khung cơ bản) thì Điều 260 Bộ luật hình sự

mới quy định có lợi hơn cho người phạm tội so với Điều 202 Bộ luật hình sự

cũ (kể cả trường hợp tội phạm chưa đạt – khoản 4). Ngoài ra, theo quy định tại

khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 thì “Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng

do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh

dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại

diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm

hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. Từ đó, đối chiếu quy định

này với khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 thì mức hình phạt cao nhất của

khung hình phạt này là 05 năm tù, người phạm tội nếu bị xét xử ở khung hình

phạt này thì thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng và lỗi do vô ý. Theo đó,

nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thì có

thể họ được miễn TNHS nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều

29 BLHS năm 2015. Đây là quy định có lợi cho người phạm tội mà chúng ta cần

phải chú ý khi áp dụng pháp luật đối với những hành vi phạm tội liên quan đến

tội phạm này.

Trên cơ sở quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 có thể thấy

Tội vi phạm quy định về ATGT có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:

Thứ nhất, về chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội phạm là người tham gia giao thông đường bộ gồm người

điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người

điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ. Khi xác định chủ thể

của tội phạm này cần chú ý: Người người tham gia giao thông thì có thể không

phải là người điều khiển phương tiện giao thông (đây cũng là dấu hiệu phân biệt

tội phạm này với các tội vi phạm an toàn giao thông khác). Đối với người từ đủ

14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.

Thứ hai, về khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội phạm này là trật tự an toàn giao thông đường bộ. Đối

tượng tác động của tội phạm này là phương tiện giao thông đường bộ bao gồm:

xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Điều

này căn cứ vào Luật Giao Thông đường bộ để xử lý.

Thứ ba, mặt khách quan của tội phạm

- Hành vi khách quan: Người phạm tội này đã có hành vi vi phạm các quy

định về tham gia giao thông đường bộ. Và để xác định hành vi vi phạm các quy

định về tham gia giao thông đường bộ, trước hết phải xác định phương tiện giao

thông đường bộ bao gồm những loại nào. Việc xác định hành vi vi phạm các quy

định về tham gia giao thông đường bộ không chỉ căn cứ vào các quy định của Bộ

luật hình sự mà phải căn cứ vào các quy định tại Luật giao thông đường bộ và

các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.

- Hậu quả: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu

hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

mà chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức

khoẻ, tài sản của người khác thì chưa cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy

định tại khoản 4 của điều luật. Thiệt hại cho tính mạng là làm người khác bị

chết; Thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác coi là làm

cho người khác bị thương nặng hoặc làm cho tài sản của người khác bị mất mát

hư hỏng nặng. Để được coi là gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài

sản của người khác thì thuộc một trong các trường hợp sau đây: (1) Gây tổn hại

cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31%

trở lên; (2) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của

mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ

41% đến 100%; (3) Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật

từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng

đến dưới năm mươi triệu đồng; (4) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người,

với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất

cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ

ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; (5) Gây thiệt hại về tài sản

có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

Khi xác định thiệt hại tài sản cho người khác cần chú ý: (1) Chỉ những tài

sản do hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ trực tiếp gây ra, còn những thiệt hại gián tiếp không tính là thiệt hại để

xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội như: Do bị thương nên phải

chi phí cho việc điều trị và các khoản chi phí khác (mất thu nhập, làm chân giả,

tay giả, mắt giả…). Mặt dù các thiệt hại này người phạm tội vẫn phải bồi thường

nhưng không tính để xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội. (2)

Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản mà người phạm tội gây ra là thiệt hại

đối với người khác, nên không tính thiệt hại mà người phạm tội gây ra cho chính

mình. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì

người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của

điều luật.

- Các dấu hiệu khách quan khác: Ngoài hành vi khách quan, hậu quả do

hành vi phạm tội gây ra, đối với tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông

đường bộ, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu

băt buộc của cấu thành tội phạm như: Phương tiện giao thông; địa điểm (nơi vi

phạm là công trình giao thông đường bộ)… Việc xác định các dấu hiệu khách

quan này là rất quan trọng, là dấu hiệu để phân biệt giữa tội phạm này với các tội

vi phạm an toàn giao thông khác.

Theo quy định của Luật giao thông đường bộ thì đường bộ gồm đường,

cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ. Còn phương tiện giao thông

đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông

thô sơ đường bộ. Phương tiện tham gia giao thông đường bộ gồm phương tiện

giao thông đường bộ và xe máy chuyên dùng. Xe máy chuyên dùng gồm xe máy

thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp có tham gia giao thông đường bộ. Đối

với phương tiện giao thông đường bộ, nói chung không khó xác định. Tuy nhiên,

đối với xe máy chuyên dùng, việc xác định có phải là phương tiện tham gia giao

thông hay không, có nhiều trường hợp phức tạp.

Ngoài ra còn có những dấu hiệu khách quan khác như: Đường bộ, công

trình đường bộ, đất của đường bộ, hành lang an toàn đường bộ, phần đường xe

chạy, làn đường, khổ giới hạn của đường bộ, đường phố, dải phân cách, đường

cao tốc v.v… Các yếu tố này cũng rất quan trọng khi xác định hành vi vi phạm

các quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm

- Người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ

thực hiện hành vi là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả), trong đó,

vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình

có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không

xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Vô ý vì cẩu thả là trường hợp người phạm

tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội,

mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Hiện nay trên một số sách báo có đề cấp đến hình thức “lỗi hỗn hợp” và

thường lấy hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông

đường bộ làm ví dụ cho trường hợp lỗi hỗn hợp như: Cố ý về hành vi, vô ý về

hậu quả. Một số trường hợp khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, các

Toà án cũng nhận định rằng người bị hại cũng có lỗi và coi trường hợp người bị

hại có lỗi cũng là lỗi hỗn hợp (cả hai bên đều có lỗi).

1.2.2.2. Các dấu hiệu định khung hình phạt

a) Các dấu hiệu định khung hình phạt tại khoản 2:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 thì người nào phạm

tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

Không có giấy phép lái xe theo quy định:

Không có giấy phép lái xe theo quy định bao gồm các trường hợp: Không

có giấy phép, bằng lái hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp; điều khiển phương

tiện giao thông trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, bằng lát hoặc

chứng chỉ chuyên môn do cơ quan có thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện

đang điều khiển; điều khiển phương tiện giao thông trong thời hạn bị cơ quan có

thẩm quyền cấm chỉ huy, điều khiển phương tiện đó.

Thời hạn sử dụng của giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp

được tính từ ngày cấp phép đến khi hết hạn ghi trên giấy phép lái xe đó (hoặc

theo quy định của pháp luật về thời hạn của giấy phép lái xe đó).

Trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đã bị cơ quan có

thẩm quyền tạm giữ giấy phép lái xe mà cần tiếp tục điều khiển phương tiện nốt

hành trình còn lại thì trên hành trình đó không bị coi là không có giấy phép lái xe

theo quy định.

- Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có

nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích

mạnh khác: Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có

nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích

thích mạnh khác là một trong các trường hợp sau đây:

- Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong

máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.

Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ còn vượt quá

50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.

- Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma

túy hoặc chất kích thích mạnh khác.

- Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị

nạn: Đây là trường hợp sau khi gây tai nạn, người phạm tội đã bỏ chạy để trốn

tránh sự điều tra, phát hiện, xử lý của cơ quan có thẩm quyền hoặc tuy không bỏ

chạy để trốn trách nhiệm sau khi gây tai nạn đã bỏ đi, không cứu giúp người bị

nạn khi có điều kiện để cứu giúp.

Trong trường hợp người phạm tội cố ý không cứu giúp người bị nạn mà

người bị nạn chết thì người phạm tội cũng không bị truy cứu TNHS thêm về tội

không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo

Điều 132 BLHS.

- Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao

thông: Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao

thông là không chấp hành hiệu lệnh của cảnh sát giao thông hoặc người khác

được giao nhiệm vụ hướng dẫn giao thông tại nơi thi công, nơi ùn tắc giao thông,

ở bến phà, tại cầu đường bộ đi chung với đường sắt.

- Làm chết 02 người: Đây là trường hợp hành vi phạm tội gây ra hậu quả

chết 02 người. Thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hậu quả chết người là

không mong muốn, không để mặc cho hậu quả đó xảy ra mà cho rằng hậu quả

chết người không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc không thấy hậu quả

chết người nhưng người đó phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà

tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%.

- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000

đồng.

b) Dấu hiệu định khung hình phạt tại khoản 3:

Theo quy định tại Khoản 3Điều 260 BLHS năm 2015 thì người nào phạm

tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

- Làm chết 03 người trở lên: Đây là trường hợp hành vi phạm tội gây ra

hậu quả chết 03 người trở lên. Thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hậu

quả chết người là không mong muốn, không để mặc cho hậu quả đó xảy ra mà

cho rằng hậu quả chết người không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc

không thấy hậu quả chết người nhưng người đó phải thấy trước và có thể thấy

trước hậu quả đó.

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà

tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên.

- Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

c) Các dấu hiệm định khung hình phạt tại khoản 4:

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015 thì người nào vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng

thực tế dẫn đến một trong các hậu quả sau nếu không được ngăn chặn kịp thời,

thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không

giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 1 năm: có khả năng thực tế

làm chết 03 người trở lên; có khả năng thực tế gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của 03 người trở lên; có khả năng thực tế gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của

những người này 201% trở lên; có khả năng thực tế gây thiệt hại về tài sản

1.500.000.000 đồng trở lên.

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 260 BLHS năm 2015 thì người phạm tội

ngoài việc phải chịu trách nhiệm hình sự nêu trên còn có thể bị cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Tiểu kết Chương 1

Nội dung chương 1 tác giả làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu của Tội

vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Theo đó, Tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được

quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực

hiện một cách vô ý, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại

cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.

Luận văn cũng đã phân tích lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt

Nam về tội phạm vi phạm quy định về TGGT đường bộ trong các giai đoạn:

Trước khi BLHS năm 1985 ra đời, quy định tại BLHS năm 1985, BLHS năm

1999, sửa đổi năm 2009.

Luận văn cũng đã phân tích các đặc điểm pháp lý cơ bản tội phạm vi

phạm quy định về TGGT đường bộ trong BLHS năm 2015, các dấu hiệu định

khung hình phạt đối với tội vi phạm quy định về TGGT đường bộ.

Cơ sở lý thuyết của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ của chương này là nền tảng cho việc đánh giá thực trạng của tội vi phạm

quy định về tham gia GTĐB tại các địa phương cũng như cơ sở cho việc đề ra

các biện pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của PLHS về tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB. Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần nắm rõ nội

dung của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, các khung áp dụng và các

hình phạt để áp dụng đúng người đúng tội, tránh bỏ lọt tội phạm, gây thiệt hại

về kinh tế, mất trật tự an toàn xã hội đồng thời đánh giá đúng tình hình tội

phạm trên mình quản lý.

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY

ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI HUYỆN

CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Khái quát chung về huyện Chương Mỹ và tình hình giao thông

đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội

Huyện Chương Mỹ trước đây là huyện trực thuộc tỉnh Hà Tây cũ. Từ ngày 01/8/2008, thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội khóa XII về việc điều chỉnh địa giới hành chính TP Hà Nội, Huyện Chương Mỹ cùng với nhiều huyện thuộc tỉnh Hà Tây cũ sát nhập vào TP Hà Nội. Đơn vị hành chính của huyện gồm 30 xã và 02 thị trấn.

Huyện là nơi tập trung của nhiều kkhu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề. Cụ thể: 01 khu công nghiệp, 9 cụm công nghiệp, 36 làng nghề truyền thông với đa số là nghề thủ công Mây tre đan truyền thống.

Chạy qua huyện Chương Mỹ có các tuyến đường lớn như đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 21A, quốc lộ 6, nhiều đường đô thị trong toàn thể hệ thống đô thị. Huyện đang tiến hành triển khai nhiều dự án trên các tuyến đường như Hà Đông - Xuân Mai (đoạn ngoài đường Vành đai 4), khu đô thị sinh thái Chúc Sơn (Chuc Son Eco Town), khu đô thị nhân tạo Xuân Mai.

Quốc lộ 6 chạy qua huyện Chương Mỹ dài gần 18km, từ Km19+920 (thị trấn Chúc Sơn) đến Km37 (thị trấn Xuân Mai). Tuyến đường được đưa vào sử dụng nhiều năm, hiện không còn đáp ứng được nhu cầu giao thông ngày càng tăng, chật hẹp, xuống cấp, đã xuất hiện nhiều rạn nứt, ổ gà gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông. Mặc dù nguy hiểm nhưng đây là tuyến được huyết mạch nối Thủ đô Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc… nên lượng người và phương tiện giao thông đi qua các đoạn đường này đều cao.

Bên cạnh đó, người dân còn tổ chức họp chợ dọc tuyến đường này (một số chợ tồn tại nhiều năm như chợ Cống, chợ Đông Phương Yên, chợ Gốt); nhiều khu công nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhà máy sản xuất, kinh doanh sát

đường, lượng phương tiện vận tải giao dịch hàng hóa nhiều, vào giờ cao điểm, các đoạn đường thường xảy ra tình trạng ùn tắc và TNGT.

Theo thống kê của Ban ATGT huyện Chương Mỹ, năm 2022 số vụ tai nhạn giao thông giảm 20 vụ so với năm 2021. Tình hình TNGT năm 2021 so với năm 2020 đã giảm trên cả 3 tiêu chí, số vụ TNGT năm 2021 còn 81 vụ giảm 8 vụ so với năm 2020 (tương đương mức giảm 14%), số người chết giảm còn 35 người, giảm 4 người so với năm 2020 (tương đương với mức giảm 10,2%); số người bị thương giảm còn 77 người, giảm 16 người so với năm 2020 (tương đương với mức giảm 17,2%).

Vài năm gần đây, UBND huyện tích cực ra quân tiến hành giải toả vi phạm của nhiều điểm họp chợ trái phép tuyến QL6, Tỉnh lộ 80 cũ, Tỉnh lộ 419, đường Hồ Chí Minh. Năm 2022, xử lý 2.752 trường hợp vi phạm về trật tự giao thông, đô thị, môi trường, chở quá khổ, quá tải hàng hóa, tạm giữ 12 xe ô tô, 625 xe mô tô, 145 GPLX ô tô, 132 GPLX mô tô, 03 xe ba bánh.

2.2. Kết quả đạt được trong áp dụng Bộ luật hình sự về tội phạm vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ,

Thành phố Hà Nội từ năm 2020 đến năm 2022

2.2.1. Số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự về tội phạm vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành

phố Hà Nội từ năm 2020 đến năm 2022

Trong những năm qua, huyện Chương Mỹ đã tiến hành nhiều biện pháp

quyết liệt để giảm thiểu tình hình tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Cụ

thể:

a) Về số vụ án xét xử tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương

Mỹ từ năm 2020 đến năm 2022

Một trong những tiêu chí phản ánh tình hình tội vi phạm quy định về tham

gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ là thông qua mức độ vi phạm hay chính là số

lượng các vụ án xét xử tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện

Chương Mỹ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022.

Bảng 2.1. Số vụ án xét xử tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương

Mỹ từ (năm 2020- 2022)

Số vụ Năm Số bị cáo

53 Năm 2020 39

50 Năm 2021 35

42 Năm 2022 28

145 Tổng cộng 102

(Nguồn: TAND huyện Chương Mỹ giai đoạn 2020 - 2022)

Qua bảng 1.1 ta thấy, số vụ án về tội vi phạm quy định về TGGTĐB thống

kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử trong các vụ án giai đoạn 2020 – 2022 đều có

xu hướng giảm. Cụ thể:

- Năm 2021, số vụ án giảm nhẹ 3 vụ án so với năm 2020 xuống còn 50 vụ

án (tương đương với mức giảm 5,66%). Số vụ án về tội vi phạm quy định về

TGGTĐB năm 2022 giảm 8 vụ xuống còn 42 vụ so với năm 2021 (tương đương

mức giảm 16%).

- Năm 2021, số bị cáo liên quan đến các vụ án này là 35 bị cáo, giảm 4

người so với năm 2020 (tương đương với mức giảm 10,2%). Số bị cáo phạm tội

vi phạm quy định về TGGTĐB năm 2022 giảm 7 người xuống còn 28 người so

với năm 2021 (tương đương với mức giảm 20%).

Thực trạng tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương

Mỹ cho thấy tỉ lệ tội phạm ẩn ở tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện

Chương Mỹ là không nhỏ ẩn cả ở chủ quan và khách quan, thậm chí còn ẩn cả

trong thống kê.

b) Về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ xét theo

phạm vi

Bảng 2.2. Tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ xét

theo địa bàn hành chính cấp xã

STT

Thị trấn/Xã

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng số vụ

1. Chúc Sơn

6

5

5

16

2. Xuân Mai

5

3

3

11

3. Đại Yên

0

0

1

1

4. Đông Phương Yên

7

6

4

17

5. Đông Sơn

3

4

3

10

6. Đồng Lạc

0

0

0

0

7. Đồng Phú

0

1

0

1

8. Hòa Chính

0

1

0

1

9. Hoàng Diệu

1

0

1

2

10. Hoàng Văn Thụ

1

0

1

2

11. Hồng Phong

0

0

1

1

12. Hợp đồng

2

1

1

4

13. Hữu Văn

1

0

0

1

14. Lam Điền

1

0

0

1

15. Mỹ Lương

0

1

1

2

16. Nam Phương Tiến

2

1

0

3

17. Ngọc Hòa

0

1

0

1

18. Phú Nam An

1

1

0

2

19. Phú Nghĩa

5

4

4

13

20. Phụng Châu

1

2

1

4

21. Quảng Bị

1

2

0

3

22. Tân Tiến

0

1

1

2

23. Tiên Phương

3

4

3

10

24. Tốt Động

0

0

0

0

25. Thanh Bình

3

2

3

8

26. Thủy Xuân Tiên

5

4

5

14

27. Thụy Hương

1

0

0

1

28. Thượng Vực

0

1

0

1

29. Trần Phú

0

1

0

1

30. Trung Hòa

0

1

0

1

31. Trường Yên

4

3

3

10

32. Văn Võ

0

0

1

1

145

Tổng số vụ

53

50

42

(Nguồn: Đội CSGT công an huyện Chương Mỹ)

Qua bảng 2.2 cho thấy tình hình xảy ra các vụ án liên quan đến tội vi

phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ không đồng đều tại 30 xã và

02 thị trấn. Các có mật độ xảy ra các vụ án cao tập trung ở các xã và thị trấn có

quốc lộ 6, quốc lộ 21A, đường tỉnh lộ chạy qua, các xã và thị trấn này chủ yếu

đều có từ 3 vụ án xảy ra trở lên trong 1 năm như thị trấn Chúc Sơn, thị trấn Xuân

Mai, xã Đông Phương Yên, xã Đông Sơn, xã Phú Nghĩa, xã Tiên Phương, xã

Thanh Bình, xã Thủy Xuân Tiên, xã Trường Yên, tình hình tội phạm liên quan

đến tội vi phạm quy định về TGGTĐB.

Các xã các xa trung tâm huyện như xã Đồng Lạc, Đồng Phú, Nam Phương

Tiến…, không có đường quốc lộ, khoảng cách từ xã đến trung tâm huyện xa,

tình hình vi phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện gần như ít xảy ra

hoặc không xảy ra trong năm. Một số xã trong 3 năm giai đoạn từ năm 2020 đến

năm 2022 chỉ phát sinh 01 vụ án như xã Hồng Phong, Hữu Văn, Lam Điền…

c) Về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ xét theo

tuyến đường và nơi xảy ra tội phạm

Bảng 2.3. Tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ

theo tuyến đường

Đường Đường Đường Đường Tổng

quốc lộ tỉnh lộ huyện thị nông thôn

7 Năm 2020 39 5 2 53

6 Năm 2021 35 8 1 50

5 Năm 2022 30 6 1 42

18 Tổng 104 19 4

(Nguồn: Phòng CSGT công an huyện Chương Mỹ)

Huyện Chương Mỹ là một rộng lớn, 1 trong 3 địa phương có diện tích

rộng nhất khu vực Hà Nội với hạ tầng đường bộ đa dạng gồm đường quốc lộ,

đường tỉnh lộ, các trục đường nội thị, và các trục đường nông thôn. Với cơ sở hạ

tầng GTĐB đã được xây dựng từ nhiều năm trước, việc quản lý an toàn trật tự

GTĐB tại huyện hết sức khó khăn. Từ bảng 2.3 ta thấy rõ, các vụ án xảy ra chủ

yếu và tập trung ở khu vực đường quốc lộ với nhiều xe cơ giới trọng tải lớn và

lượng người tham gia giao thông cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất trật tự

ATGT. Năm 2020, 2021, 2022, số vụ án xảy ra ở khu vực đường quốc lộ lần

lượt là 39 vụ án (chiếm tỷ trọng 73,6% tổng số vụ án); 35 vụ án (chiếm tỷ trọng

70% tổng số vụ án); 30 vụ án (chiếm tỷ trọng 71,4% tổng số vụ án). Đây là vấn

đề thương xuyên được nhắc tới và chú ý trong các nghị quyết của Đảng bộ

huyện Chương Mỹ các năm gần đây.

Tiếp theo là mật độ số vụ án xảy ra ở được tỉnh lộ và huyện thị ở mức

trung bình. Trong giai đoàn từ 2020 – 2022 có tổng cộng 37 vụ án xảy ra ở

đường tỉnh lộ và huyện thị, chiếm 25,5% tổng số vụ án xảy ra trong giai đoạn

này.

Số vụ án xảy ra ở khu vực đường nông thôn giai đoạn 2020-2022 gần như

không đáng kể, chỉ xảy ra 1-2 vụ/năm.

d) Về tội vi phạm quy định về TGGTĐB xét theo điều kiện điều khiển

phương tiện GTĐB

Bảng 2.4. Các điều kiện về điều khiển phương tiện của các bị cáo phạm tội vi

phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ

(ĐVT: người)

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng

Chưa có bằng lái xe 2 1 2 5

Không có bằng lái xe 3 2 2 7

Nồng độ cồn trong máu 10 12 10 32 vượt quá mức độ cho phép

Sử dụng các chất ma túy 3 2 1 6

Đội mũ bảo hiểm 15 10 9 34

Điều kiện về loại phương 5 8 7 20 tiện được phép điều khiển

Các điều kiện khác 20 22 15 57

Tổng cộng 58 57 46

(Đội CSGT công an huyện Chương Mỹ 2020-2022)

Từ bảng 1.7 phản ánh rõ, xét theo phương diện lỗi của các bị cáo trong

các vụ án phạm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, các lỗi chiếm đa số là

lỗi nồng độ cồn trong máu vượt quá mức cho phép, lỗi không đội mũ bảo hiểm,

lỗi điều kiện về loại phương tiện được phép điều khiển và lỗi liên quan đến các

điều kiện khác. Ngoài ra là các lỗi không phổ biến như chưa có bằng lái xe,

không có bằng lái xe, sử dụng các chất ma túy…

d) Cơ cấu bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại

huyện Chương Mỹ

Bảng 2.5. Cơ cấu bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại

huyện Chương Mỹ

(Đơn vị: Người)

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng

Theo độ tuổi 39 35 28 102

Dưới 18 tuổi 5 3 2 10

Trên 18 tuổi 34 32 26 92

Theo giới tính 39 35 28 102

Nam 32 30 26 90

Nữ 7 5 2 12

(Nguồn Đội CSGT công an huyện Chương Mỹ 2020-2022)

Qua thống kê về độ tuổi của người phạm tội, các bị cáo có độ tuổi từ 18

tuổi trở lên chiếm đa số, một phần do tỷ lệ người điều khiển các phương tiện

tham gia GTĐB tuổi từ 18 tuổi trở lên vẫn chiếm đa số. Cụ thể, năm 2020, số bị

cáo trên 18 tuổi là 34 người, chiếm tỷ trọng 87% tổng số bị cáo của năm). Năm

2021, số bị cáo trên 18 tuổi giảm 2 người so với năm 2020 xuống còn 32 người,

chiếm tỷ trọng 91,4% tổng số bị cáo của năm. Năm 2022, số bị cáo trên 18 tuổi

giảm người so với năm 2021, xuống còn 26 người/năm, chiếm tỷ trọng 93% tổng

số bị cáo của năm.

Xét theo giới tính của người phạm tội, tỷ lệ nam giới phạm tội vi phạm

quy định về TGGTĐB vẫn chiếm đa số và tỷ lệ này có xu hướng ngày càng tăng

trong giai đoạn từ 2020-2022 mặc dù số lượng nam giới phạm tội có xu hướng

giảm. Năm 2020, số nam giới phạm tội là 32 người, chiếm tỷ trọng 82% tổng số

người phạm tội. Năm 2021, số nam giới phạm tội giảm 2 người so với năm

2020, xuống còn 30 người, chiếm tỷ trọng 85% tổng số người phạm tội. Năm

2022, số nam giới phạm tội giảm 4 người so với năm 2021, xuống còn 26

người, chiếm tỷ trọng 92,8% tổng số người phạm tội.

e) Các thiệt hại trong các vụ án về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại

huyện Chương Mỹ

Bảng 2.6. Các thiệt hại trong các vụ án về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại

huyện Chương Mỹ

Đơn vị: Vụ

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng

Thiệt hại về tính mạng 35 28 25 88

Thiệt hại về sức khỏe 22 17 15 54

Thiệt hại về tài sản 50 48 42 141

Thiệt hại khác 3 1 2 6

Tổng 110 94 84

(Nguồn: TAND huyện Chương Mỹ 2020 - 2022)

Trong giai đoạn từ 2020-2022, tổng số đã có tới 88 người thiệt mạng

trong các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB. Đây là con số đáng báo động.

Tính mạng con người là yêu cầu ATGT trên hết. Việc thường xuyên có người

chết trong các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB là điều cần được các cơ

quan ban ngành đặc biệt quan tâm và chú ý. Trong những năm gần đây, số

người chết đã có xu hướng giảm do số vụ TNGT giảm, xong vẫn chiếm tỷ trọng

tương đối cao trong tổng các thiệt hại của các vụ tai nạn. Việc khởi tố các vụ án

liên quan đến tính mạng con người đều được TAND huyện Chương Mỹ xác

định đây là những lỗi đặc biệt nghiêm trọng, thuộc khoản 2 phạt tù từ 3 năm đến

5 năm. Ngoài ra, còn những vụ án gây thiệt hại về tài sản, về sức khỏe con

người. Gần như vụ án liên quan đến TNGT nào cũng có thiệt hại về tài sản là

không tránh khỏi. Năm 2020, số vụ án có thiệt hại về sức khỏe là 22/53 vụ, thiệt

hại về tài sản là 50/53 vụ. Năm 2021, số vụ án có thiệt hại về sức khỏe là 17/50

vụ, thiệt hại về tài sản là 48/50 vụ. Năm 2022, số vụ án có thiệt hại về sức khỏe

là 15/42 vụ, thiệt hại về tài sản là 42/42 vụ.

Đối với các mức thiệt hại khác nhau, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung

năm 2017, sửa đổi 2017 đã quy định rất cụ thể về khung hình phạt cho từng

mức, đảm bảo sự nghiêm minh của của luật pháp, xác định đúng người đúng tội,

tránh bỏ lọt tội phạm, đảm bảo an ninh trật tự, ATGT tại huyện Chương Mỹ, TP

Hà Nội. Việc xác định lỗi chính xác, đầy đủ sẽ đảm bảo tính răn đe, giáo dục,

giúp định hướng nhận thức cho các bị can về ATGT đường bộ, không có sự tái

phạm liên quan đến tội vi phạm quy định về ATGTĐB.

g) Các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ do Cơ

quan điều tra xử lý hình sự

Bảng 2.7. Các vụ án TNGT bị CQĐT xử lý hình sự về tội vi phạm quy định về

TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022

Số vụ khởi tố Số vụ truy tố Số vụ đình Số vụ xét

chỉ xử

Năm 2020 56 53 3 53

Năm 2021 52 50 2 50

Năm 2022 44 42 2 42

(Nguồn: Công an huyện Chương Mỹ giai đoạn 2020 - 2022)

Từ Bảng 2.7 cho thấy số vụ án TNGT bị CQĐT xử lý hình sự về tội vi

phạm quy định về TGGTĐB giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022 có tỷ lệ bị

truy tố cao luôn chiếm tỷ lệ trên 94% số vụ án được CQĐT ra quyết định khởi

tố. Đặc biệt, 100% số vụ khởi tố được tòa án xét xử. Chỉ khoảng 4-6% số vụ án

bị đình chỉ trong giai đoạn này tại huyện Chương Mỹ. Nguyên nhân cơ quan

điều tra tiến hành đình chỉ vụ án là do người phạm tội bị chết trong vụ án hoặc

người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 điều 29 BLHS năm

2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

h) Các vụ án được đình chỉ theo luật TTHS năm 2015:

Bảng 2.8. Các vụ án TNGT về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện

chương Mỹ bị đình chỉ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022

Số vụ án đình chỉ tại CQĐT 2 1 1

Số vụ án đình chỉ tại VKSND 1 1 1

Tổng số vụ án đình chỉ 3 2 2

Tổng số vụ án khởi tố 56 52 44

(Nguồn: Công an huyện Chương Mỹ giai đoạn 2020 - 2022)

Bảng 2.8 cho thấy số vụ án TNGT về tội vi phạm quy định về TGGTĐB

tại huyện Chương Mỹ bị đình chỉ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022 còn rất

thấp so với tổng số vụ án khởi tố, chỉ khoảng 2-3 vụ/năm. Các vụ án được đình

chỉ tại CQĐT hay tại tòa án đều căn cứ theo khoản 3 điều 29 bộ luật tố tụng hình

sự năm 2015. Trong năm 2022, có 02 vụ án được đỉnh chỉ thì có 01 vụ bị đình

chỉ tại CQĐT, 01 vụ bị đình chỉ tại viện kiểm sát nhân dân. Cụ thể:

- Vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” xảy ra ngày

20/6/2022, tại TDP Nội An, Chúc Sơn, Chương Mỹ, Hà Nội được CQĐT công

an huyện Chương Mỹ ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị

can đối với ông Trương Đình Trường SN 1960, trú tại thôn Ngọc Giả, Ngọc

Hòa, Chương Mỹ, Hà Nội.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chương Mỹ có đủ cơ

sở kết luận: Nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông là do hỗn hợp lỗi của hai

bên. Đối với ông Trương Đình Trường điều khiển xe ô tô (có Giấy phép lái xe

hạng B2 theo quy định) không chú ý quan sát, không đi đúng phần đường của

mình, không phát hiện ông Thêm đang nằm nghỉ giải lao tại trệ đường bên trái,

nên bánh xe phía trước chèn vào người ông Thêm, làm ông Thêm bị thương

nặng, sau đó tử vong. Hành vi của ông Trường vi phạm khoản 23 Điều 8 và Điều

9 Luật Giao thông đường bộ. Hành vi trên của ông Trường phạm tội “Vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1, Điều 260

BLHS.

Đối với nạn nhân Nguyễn Văn Thêm cũng có lỗi vì để xe cải tiến (chở các

thang tre) chiếm ½ lối rẽ vào TDP Nội An gây cản trở giao thông, làm hạn chế

tầm quan sát của ông Trường. Hơn nữa, ông Thêm nằm ngủ ở trên đường giao

thông gây cản trở giao thông, nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao

thông trên đường, dẫn đến việc ông Trường không phát hiện ra ông Thêm nằm

trên đường, nên đã điều khiển xe chèn vào người ông Thêm. Hành vi gây cản trở

giao thông, gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường

bộ của ông Thêm vi phạm khoản 23 Điều 8 và điểm i, khoản 2, Điều 35 Luật

Giao thông đường bộ, có dấu hiệu phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ” theo Điều 260/BLHS. Tuy nhiên, do ông Thêm đã tử vong, nên

Cơ quan CSĐT không đề cập xử lý.

Sau khi gây tai nạn, ông Trường đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội

của mình, đồng thời đã tích cực khắc phục hậu quả, bồi thường thoả đáng cho

gia đình nạn nhân Thêm. Đến nay, hai bên đã tự nguyện hoà giải, đại diện gia

đình nạn nhân Thêm có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị

can Trường. Xét thấy, nguyên nhân dẫn đến TNGT là lỗi hỗn hợp, ông Trường

phạm tội nghiêm trọng, nhưng do lỗi vô ý. Mặt khác, ông Trường có nhân thân

tốt (nguyên cán bộ công tác trong ngành Công an nghỉ hưu), gia đình chấp hành

đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành khẩn khai nhận

hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của ông Trường không gây ảnh

hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, trật tự an toàn giao thông trên địa bàn.

Ngày 12/10/2021, ba ngành Công an-VKSND-TAND huyện Chương Mỹ đã họp

thống nhất đường lối giải quyết vụ án. Quan điểm của ba ngành thống nhất: Căn

cứ nội dung diễn biến, nguyên nhân và các tình tiết trong vụ án. Áp dụng khoản

3, Điều 29/BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Cơ quan CSĐT Công an

huyện Chương Mỹ ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can

đối với Trương Đình Trường theo thẩm quyền.

- Vụ án ““Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định

tại khoản 1, Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 được VKSND huyện Chương

Mỹ ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Tạ Trung Kiên.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án,

đến nay Cơ quan CSĐT Công an huyện Chương Mỹ có đủ cơ sở kết luận:

Nguyên nhân dẫn đến tai nạn là do Tạ Trung Kiên điều khiển xe ô tô có giấy

phép lái xe ô tô hạng B2 (đủ điều kiện điều khiển xe ô tô BKS 17A-143.36), đi

đúng phần đường, làn đường quy định, nhưng trong tình trạng buồn ngủ, không

quan sát làm xe mất lái đi sát vào lề đường bên phải theo hướng di chuyển, đâm

vào bà Dương Thị Hởi đang đứng ở lòng đường phải theo hướng di chuyển, gây

tai nạn giao thông, hậu quả nghiêm trọng, làm bà Hởi tử vong. Khi tham gia giao

thông Kiên có giấy phép lái xe hạng B2 (đủ điều kiện điều khiển xe ô tô BKS

17A-143.36), đi đúng tốc độ quy định. Lời khai của Kiên phù hợp với hiện

trường, dấu vết và các tài liệu chứng cứ khác. Hành vi của Kiên vi phạm khoản

23, điều 8 Luật giao thông đường bộ. Tạ Trung Kiên có năng lực trách nhiệm

hình sự, thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật hình sự xâm

phạm tính mạng của người khác với lỗi vô ý. Hành vi của Kiên đã phạm tội “Vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1, điều 260 BLHS.

Đối với bà Dương Thị Hởi có hành vi sử dụng lề đường để buôn bán hàng

cá, quá trình bà Hởi đi bộ từ hàng cá ra đường thì không đi trên lề đường mà lại

đi dưới lòng đường, mặt hướng vào hàng cá, không quan sát các phương tiện

tham giao thông trên đường. Hành vi của bà Hởi vi phạm khoản 1, điều 32 và

điểm a, khoản 2, điều 35 Luật giao thông đường bộ. Do bà Hởi đã tử vong sau tai

nạn, nên Cơ quan CSĐT không xem xét xử lý. Nên bà Hởi cũng có một phần lỗi

là nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn trên.

Xét thấy, bị can Tạ Trung Kiên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm

tội do lỗi vô ý, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự gì; nhân thân tốt. Tại

Cơ quan CSĐT, bị can Kiên thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đã

tích cực khắc phục hậu quả, bồi thường thỏa đáng cho gia đình nạn nhân trong

vụ tai nạn giao thông này. Đại diện gia đình nạn nhân có đơn xin miễn truy cứu

trách nhiệm hình sự cho Tạ Trung Kiên. Quá trình truy tố, xét xử. Đề nghị

VKSND huyện Chương Mỹ, Toà án nhân dân huyện Chương Mỹ xem xét, áp

dụng theo Khoản 3, Điều 29/BLHS đối với bị can Tạ Trung Kiên theo quy định

của pháp luật. Căn cứ nội dung diễn biến, nguyên nhân và các tình tiết trong vụ

án. Áp dụng khoản 3, Điều 29/BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,

VKSND huyện Chương Mỹ ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều

tra bị can đối với Tạ Trung Kiên theo thẩm quyền.

i) Các loại vi phạm trong tội vi phạm quy định về TGGTĐB

Bảng 2.9. Các loại vi phạm trong tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện

Chương Mỹ đã được đưa ra xử lý hình sự giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng

Vi phạm tốc độ 8 10 11 29

Vi phạm phần đường 7 6 6 19

Vi phạm tránh vượt 15 12 7 34

An toàn kỹ thuật phương 3 5 3 11 tiện

Do rượu bia 10 12 10 32

Thiếu chú ý quan sát 13 10 11 34

Lỗi khác 4 2 1 7

Tổng cộng 60 57 49

(Nguồn Đội CSGT công an huyện Chương Mỹ)

Từ bảng 2.9 có thể xác định, các lỗi vi phạm của tội vi phạm quy định về

TGGTĐB giai đoạn 2020-2022 chủ yếu là lỗi vi phạm tránh vượt, vi phạm phần

đường, sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Một số lỗi xảy ra có tần suất

không đáng kể như lỗi an toàn kỹ thuật phương tiện, lỗi khác.

Việc xác định được đúng lỗi vi phạm của đội CSGT công an huyện

Chương Mỹ sẽ làm căn cứ để tòa án quyết định khung hình phạt cho bị cáo.

Tổng số lỗi của các vụ án nhiều hơn tổng số vụ án trong năm cho thấy có những

vụ án mà bị cáo phát sinh từ 2 lỗi trở lên, cho thấy tính phức tạp của các vụ án,

đòi hỏi cơ quan công an phải điều tra kỹ lưỡng, cẩn thận, tránh bỏ lọt tội phạm.

Ngày nay, trình độ hiểu biết về luật pháp của người dân ngày càng tăng, việc đấu

tranh với tội phạm ngày càng căng thẳng và phức tạp, khiến lực lượng chức năng

gặp nhiều khó khăn trong việc định tội danh vi phạm quy định về TGGTĐB của

các bị can.

k) Định khung hình phạt và áp dụng biện pháp xử lý hình sự về tội vi

phạm về tham gia GTĐB của toà án nhân dân huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội

Bảng 2.10. Hình phạt mà TAND huyện Chương Mỹ tuyên phạt cho các bị

cáo phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ

(ĐVT: người)

Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng

Tiền 12 10 7 29

Cải tạo không giam giữ 16 12 15 43

Án treo 13 18 10 41

Phạt tù từ 3 năm trở xuống 4 3 3 10

Phạt tù từ 3-7 năm 8 7 5 20

Tổng cộng 53 50 40 143

(Nguồn: TAND huyện Chương Mỹ 2020-2022)

Bảng 2.10 đã thống kê thực tiện định khung hình phạt và áp dụng các

biện pháp xử lý hình sự mà TAND các huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội tuyên

phạt cho các bị cáo phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB. Thực tế cho thấy,

hàng năm TAND huyện Chương Mỹ tuyên phạt rất nhiều trường hợp các bị cáo

liên quan đến tội vi phạm quy định về TGGTĐB. Năm 2022, Hình phạt phạt

tiền là 7 trường hợp (chiếm tỷ trọng 17,5% tổng số hình phạt), hình phạt cải tạo

không giam giữ là 15 trường hợp (chiếm tỷ trọng 37,5% tổng số hình phạt),

hình phạt xử án treo là 10 trường hợp (chiếm tỷ trọng 25% tổng số hình phạt),

hình phạt tù từ 3 năm trở xuống là 3 trường hợp (chiếm tỷ trọng 7,5% tổng số

hình phạt), hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm là 5 trường hợp (chiếm tỷ trọng

12,5% tổng số hình phạt).

2.2.2. Kết quả đạt được trong việc áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội

a) Các cơ quan có thẩm quyền đã áp dụng tốt pháp luật hình sự về tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB

Thời gian qua có thể thấy, công an, viện kiểm soát, toàn án nhân dân

huyện Chương Mỹ đã chấp hành nghiêm chỉnh, tuyệt đối áp dụng luật hình sự

hiện hành trong các vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ. Việc chấp hành nghiêm quy định của pháp luật đã tạo tính răn đe tới người

dân, trong các vụ án xảy ra, số lượng tội phạm ngày càng giảm, đặc biện là tội

phạm vi phạm ở mức ít nghiêm trọng. Đây là kết quả tích cực cần phát huy của

huyện Chương Mỹ. Ý thức tham gia GTĐB của một bộ phận người dân ngày

càng tăng, người dân chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về ATGT, hạn chế

mắc các lỗi vi phạm giao thông cơ bản.

b) Không có trường hợp nào áp dụng sai luật hình sự về tội vi phạm quy

định về tham gia GTĐB

Qua số liệu thông kê, tại huyện Chương Mỹ chưa để phát sinh vụ án oan

sai, đảm bảo kỷ cương pháp luật, công bằng xã hội, không có hiện tượng bỏ lọt

tội phạm. Dù số lượng công việc tăng, phải thực hiện nghiêm việc tinh giản biên

chế nhưng các cơ quan thi hành pháp luật của huyện Chương Mỹ vẫn thực hiện

tốt công việc, xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp

luật. Tinh thần cải cách tư pháp được áp dụng trong tổ chức các phiên tòa xét xử,

đổi mới mô hình xét xử theo hướng tiến bộ, phù hợp chung với xu thế của thế

giới.

c) Có sự phối hợp giữa các cơ quan thi hành pháp luật trong qua trình

thực thi nhiệm vụ

Các cơ quan thi hành pháp luật có sự thống nhất cao, không có vụ án nào

do CQĐT khởi tố bị tòa tuyên vô tội hay bị viện kiểm sát nhân dân trả điều tra

bổ sung do không đủ căn cứ định tội. Đã có sự phối hợp, trao đổi trong công tác

xây dựng pháp luật về bảo đảm trật tự, ATGT nhịp nhàng thông suốt. Trong thời

gian qua, việc ra quân của các cơ quan chức năng về quản lý giao thông của

huyện Chương Mỹ đã có kế hoạch, thường xuyên, kết quả xử lý rất nhiều trường

hợp vi phạm giao thông như không đội mũ bảo hiểm, uống rượu bia khi tham gia

giao thông… góp phần ngăn chặn nguy cơ gây ra các vụ án liên quan đến tội vi

phạm quy định về TGGTĐB.

2.3. Hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

trong áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội

2.3.1. Hạn chế, thiếu sót trong áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà

Nội

a) Việc áp dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB còn gặp nhiều khó khăn

Thực tế và lý thuyết áp dụng chuẩn theo luật rất khó chính xác tuyệt đối.

Đặc thù của các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB là xảy ra trên đường, đông

người qua lại, dấu vết tại hiện trường thường bị xáo trộn, rất khó đó đạt dấu vết.

Ngoài ra, hướng dẫn về pháp luật còn chưa đầy đủ, các cơ quan chức năng thi

hành pháp luật còn gặp lúng túng trong việc hiểu ý nghĩa của điều luật và áp

dụng. Trong các vụ án, thường là lỗi vô ý, các vụ tai nạn liên quan đến các vụ án

của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thường có người chết

hoặc bị thương nặng, đôi khi chính người phạm tội cũng bị chết nên việc xử lý vi

phạm rất thương tâm.

b) Vẫn có trường hợp chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan thi hành

pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB

Căn cứ tình hình vi phạm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại

huyện Chương Mỹ giai đoạn từ 2020 đến 2022 có thể thấy, vẫn có trường hợp

CQĐT và VKSND chưa có sự thống nhất, cần tiến hành họp 3 ngành để thống

nhất. Có vụ án đình chỉ tại cơ quan điều tra với sự thống nhất của 3 ngành nhưng

cũng có vụ án cơ quan điều tra tiến hành khởi tố bị can nhưng khi chuyển

VKSND lại ra quyết định đình chỉ vụ án theo khoản 3 điều 29 luật TTHS.

2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong áp dụng luật

hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện

Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội

a) Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, chính sách, pháp luật và thực thi chính sách, pháp luật, công

tác thanh tra, xử lý vi phạm còn nhiều bất cập

Hệ thống pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB

còn chưa đầy đủ, các hướng dẫn thi hành luật chưa cụ thể. Như trong trường hợp

tiến hành đình chỉ vụ án căn cứ theo khoản 3 điều 29 bộ luật tố tụng hình sự năm

2015: “Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm

trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của

người khác đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả

và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện

hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm

hình sự”

Để người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự phải thỏa mãn

những căn cứ sau:

- Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm

nghiêm trọng do vô ý;

- Hành vi phạm tội gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm hoặc tài sản;

- Phải được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện

hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội (không có

chứng cứ cho thấy có sự cưỡng ép hay mua chuộc người bị hại phải hòa giải với

người phạm tội).

Việc miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi thỏa mãn những

căn cứ trên đây là tính chất tùy nghi, chưa có hướng dẫn cụ thể của pháp luật

trường hợp nào là có thể được miễn TNHS và trường hợp nào là không được

miễn TNHS. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể, căn cứ quy định của luật, tình

hình thực tế, người áp dụng luật tự mình cân nhắc, đánh giá để quyết định có

miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội hay không. Nếu người áp dụng

pháp luật áp dụng quá tràn lan thì sẽ khiến luật pháp thiếu tính răn đe, dễ phát

sinh tiêu cực khiến bỏ lọt tội phạm. Các cơ quan thi hành pháp luật nói chung và

cơ quan điều tra nói riêng vẫn còn lúng túng trong việc xem xét có nên hay

không nên đình chỉ vụ án do bị can được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3

Điều 29 BLHS.

Thứ hai, biên chế của đội CSGT huyện Chương Mỹ còn thiếu so với số

tuyến đường được phân công quản lý nên công tác tuần tra kiểm soát đảm bảo

trật tự ATGT còn hạn chế, không khép kín được thời gian và tuyến đường dẫn

đến hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông chưa cao.

Thứ ba, trang thiết bị được trang bị cho lực lượng CSGT làm nhiệm vụ

khu vực miền núi (Nam Phương Tiến, Đông Phương Yên) không phù hợp và

không đầy đủ (xe ô tô tuần tra kiểm soát chỉ có một cầu có khi vào những chỗ

đường sình lầy cán bộ còn phải huy động nhân dân ra để đẩy xe giúp), máy đo

nồng độ cồn, máy đo nồng độ ma túy còn thiếu…

Thứ tư, Chương Mỹ là một huyện ngoại thành Hà Nội, chủ yếu là địa bàn

nông thôn, trình độ dân trí thấp, xa trung tâm Hà Nội nên việc tuần tra kiểm soát

và tuyên truyền pháp luật về giao thông còn khó khăn.

Thứ năm, chi phí phục vụ những công việc này là lớn nhưng kinh phí

được nhà nước cấp cho việc xây dựng văn bản quy phạm về an toàn giao thông

nói chung còn ít, các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản thường phải sử dụng kinh

phí được cấp cho công tác thường xuyên để phục vụ xây dựng văn bản nên gây

nhiều khó khăn cho công tác xây dựng văn bản quy phạm về bảo đảm trật tự,

ATGT.

b) Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, trình độ năng lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ

trong cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Chương Mỹ còn hạn chế

Trên địa bàn huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội nguyên nhân từ lực lượng này

xuất phát từ những cán bộ thực thi công vụ ở những nơi vùng sâu vùng xa vẫn

còn tình trạng lơ là trong công việc tuần tra kiểm soát xử lý vi phạm hành chính

trên lĩnh vực giao thông đường bộ:

Thứ hai, hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật còn chưa cao

Thực tiễn cho thấy tác dụng giáo dục trong việc xử lý vi phạm còn thấp,

gây khó khăn, cản trở cho lực lượng giải quyết, xử lý, giảm hiệu lực pháp luật,

tâm lý “trọng tình hơn trọng lý” của đại bộ phận người Việt Nam nói chung và

việc thực thi pháp luật của một bộ phận cán bộ quản lý nói riêng còn nặng nề gây

khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.

Thứ ba, công tác quản lý không chặt chẽ dẫn đến có hiện tượng bỏ lọt

trường hợp lái xe vi phạm hành chính với mức xử phạt nặng về tiền phạt hay

tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, chứng chỉ hành nghề của cơ quan công an

nhưng lái xe bỏ không đến cơ quan công an để xử lý mà lại đến nơi cấp thông

báo mất để làm thủ tục xin cấp đổi lại các giấy tờ đó.

Thứ tư, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ

quan có liên quan trong phòng chống tội phạm vi phạm quy định về tham gia

GTĐB còn hạn chế

Cơ chế trao đổi, phối hợp trong công tác xây dựng pháp luật về bảo đảm

trật tự, ATGT chưa nhịp nhàng, thông suốt hoặc khi có những nội dung chưa

thống nhất trong quá trình xây dựng văn bản, chưa có cơ chế cụ thể, hiệu quả để

giải quyết vướng mắc nên đã ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng các văn bản

quy phạm về trật tự, ATGT. Việc nghiên cứu, xây dựng văn bản quy phạm về

trật tự, ATGT là công việc khó khăn, phức tạp, bên cạnh việc đầu tư cơ sở vật

chất, thời gian còn cần có sự tham gia của các nhà khoa học, các chuyên gia có

nhiều kinh nghiệm nhưng hiện nay vẫn chưa có cơ chế thu hút đội ngũ chuyên

gia giỏi, các nhà khoa học tham gia vào quá trình xây dựng.

Tiểu kết Chương 2

Nội dung chương 2 đi sâu phân tích tình hình an toàn giao thông của

huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội cũng như thực trạng áp dụng PLHS về tội

vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội

giai đoạn 2020 – 2022.

Trên cơ sở đánh giá và phân tích hệ thống số liệu thực tế tình hình áp dụng

PLHS về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ, TP Hà

Nội, đề tài xác định được những mặt tích cực của như: Các cơ quan có thẩm

quyền đã áp dụng tốt PLHS về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, không

có trường hợp nào áp dụng sai PLHS về tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB, có sự phối hợp giữa các cơ quan thi hành pháp luật trong qua trình thực

thi nhiệm vụ.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Chương 2 của luận văn đã chỉ ra những

hạn chế, thiếu sót trong áp dụng PLHS về tội vi phạm quy định về tham gia

GTĐB tại huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội, đồng thời chỉ ra được những nguyên

nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan của những hạn chế, thiếu sót làm cơ sở

để đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của PLHS về tội vi

phạm quy định về tham gia GTĐB cho huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội

nhằm tạo môi trường sống an toàn, đảm bảo trật tự xã hội cho người dân.

Chương 3

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY

ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI HUYỆN

CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự

3.1.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật

a) Yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn tiếp tục xây dựng và hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Ban chấp hành TW Đảng

khóa XIII đã xác định một trong những quan điểm tiếp tục xây dựng và hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới là

“Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã

hội bằng Hiến pháp và pháp luật...”, trên cơ sở đó xác định một trong những

mục tiêu là “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện

đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân,

bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội

chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng

của tổ chức, cá nhân”. Những chủ trương nêu trên đòi hòi hoạt động áp dụng

pháp luật hình sự nói chung và đối với Tội vi phạm quy định về an toàn giao

thông đường bộ nói riêng là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền phải bảo

đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, đồng thời kịp thời phát hiện và xử lý

trách nhiệm, khắc phục kịp thời những vi phạm trong quá trình áp dụng pháp

luật hình sự.

b) Yêu cầu thực tiễn xử lý tội phạm vi phạm trật tự, an toàn giao thông

Tai nạn giao thông (TNGT) luôn là nỗi kinh hoàng, là vấn nạn nhức nhối

đối với toàn xã hội. Nó không chỉ gây tổn hại về thể chất, về vật chất mà còn để

lại tổn thất về tinh thần lâu dài cho bản thân người tham gia giao thông cũng như

gia đình họ.

Qua thực tế giải quyết các vụ án vi phạm trật tự an toàn giao thông trong

thời gian qua cho thấy, số lượng các vụ án vi phạm trật tự an toàn giao thông

ngày càng có xu hướng gia tăng, nhiều vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Các vụ án vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ chủ yếu xảy ra liên quan

tới vi phạm khi điều khiển ô tô và xe gắn máy. Trong số các vụ án vi phạm trật

tự an toàn giao thông mà Tòa án đã thụ lý và giải quyết thời gian qua thì số vụ án

vi phạm an toàn giao thông đường bộ chiếm tới 99%, còn lại là những vụ án vi phạm trật tự an toàn giao thông về đường thủy, đường sắt và hàng không6.

Để giảm thiểu tai nạn giao thông, Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012

của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm

trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục

ùn tắc giao thông đã đưa ra đồng bộ nhiều biện pháp. Kết luận số 45-KL/TW

ngày 01/02/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ

thị số 18-CT/TW, Luật Giao thông đường bộ và các chỉ đạo của Thủ tướng

Chính phủ, Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia về công tác bảo đảm trật tự, an

toàn giao thông đến toàn thể cán bộ, đảng viên, Nhân dân xác định “Cần xác

định công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là một nội dung của công tác

bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.

Các chủ trương nêu trên đã yêu cầu chính quyền các địa phương áp dụng

nhiều giải pháp, và một trong những giải pháp quan trọng là áp dụng đúng các

quy định của BLHS về các loại tội vi phạm quy định về an toàn giao thông, đặc

biệt là tội phạm về giao thông đường bộ.

Mặt khác, pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn phải đổi

mới và sửa đổi theo sự phát triển của hoàn cảnh xã hội từng thời kỳ. Cần nghiên

6 Nguyễn Thanh Mai, Nguyễn Bá Hưng, Một số khó khăn, vướng mắc khi giải quyết các vụ án tai nạn giao thông đường bộ, Tạp chí Nghề luật số 3 năm 2021.

cứu thay đổi các nội dung, chế tài về lĩnh vực GTĐB nhằm hoàn thiện hệ thống

pháp luật, tạo khung cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo trật tự an toàn xã hội, xử lý

các TNGT và phòng ngừa tội vi phạm quy định về TGGTĐB, đồng thời qua thực

tiễn áp dụng, tiếp thu những quy định chưa phù hợp, khó áp dụng, quy định

chồng chéo, bổ sung các điểm thiếu xót để kịp thời điều chỉnh những vấn đề giao

thông mới phát sinh trong thực tế áp dụng BLHS về Tội vi phạm quy định về an

toàn giao thông đường bộ.

c) Yêu cầu bảo vệ quyền con người

Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, các hoạt động của cơ quan tiến

hành tố tụng ảnh hưởng tới các quyền của công dân, đặc biệt là các quyền cơ bản

được quy định trong Hiến pháp như: quyền tự do thân thể, quyền được bảo hộ về

tính mạng, sức khỏe, tài sản,… Để làm tốt công tác bảo vệ quyền con người khi

áp dụng BLHS về Tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, đòi hỏi

các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng quy

trình áp dụng pháp luật, trong đó có việc đánh giá, phân tích đầy đủ các tình tiết

đã xảy ra trong thực tế khách quan và các dấu hiệu của Tội vi phạm quy định về

an toàn giao thông đường bộ, bảo đảm việc lựa chọn cấu thành tội phạm, các tính

tiết định khung hình phạt được chính xác. Điều này đòi hỏi hoạt động giải thích,

hướng dẫn pháp luật hình sự phải được thực hiện thường xuyên trên cơ sở giải

quyết kịp thời những khó khăn hoặc những tình huống phát sinh trong thực tiễn

áp dụng BLHS về Tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về an toàn

giao thông đường bộ

a) Việc quy định nhiều khung hình phạt tại Điều 260 BLHS vẫn chưa thể

hiện được nguyên tắc phân hóa TNHS trong luật hình sự. Ví dụ, phạm tội trong

trường hợp làm chết 01 người và gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của

02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này là 120%

hoặc làm chết 01 người và gây thiệt hại về tài sản 490.000.000 đồng… thì chỉ có

thể bị xử phạt theo khoản 1 Điều 260 BLHS (bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01

năm đến 05 năm) mà không thể bị xử phạt theo khoản 2 Điều 260, trong khi đó,

phạm tội trong trường hợp chỉ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người ngày từ

122% hoặc chỉ gây thiệt hại về tài sản 500.000.000 đồng đã có thể xử phạt theo

khoản 2 Điều 260 BLHS (từ 03 năm đến 10 năm tù). BLHS năm 2015, sửa đổi

bổ sung năm 2017 còn rất nhiều những quy định không hợp lý như vậy.

Ngoài ra, điều 260 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có khiếm

khuyết trong việc quy định các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng, thể hiện

ở việc Điều 260 đã bỏ sót nhiều tình tiết mà thực tế có thể xảy ra.

Để khắc phục khiếm khuyết này, trước khi có những sửa đổi, bổ sung

BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, thì các cơ quan có thẩm quyền tiến

hành tố tụng cần coi 01 người chế là mất 100% sức khỏe để cộng với tỷ lệ tổn

thương sức khỏe của người khác khi tính tổng tỷ lệ tổ thương cơ thể của những

người bị hại khi xem xét áp dụng các tình tiết định khung hình phạt tương ứng

được quy định trong điều 260.

Ví dụ, trường hợp phạm tội làm chết 01 người và gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏa của người khác (một hoặc nhiều người) với tỷ lệ (hoặc

tổng tỷ lệ) tổn thương cơ thể của họ là 61% thì phải coi trường hợp này tương

ứng với trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người

trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này là 161%. Do vậy,

cần phải áp dụng điểm e khoản 2 Điều 260 để truy cứu TNHS đối với người

phạm tội;

Trường hợp phạm tội làm chết 02 người và gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ (hoặc tổng tỷ lệ) tổn thương cơ thể của

họ là 61% thì phải coi trường hợp này tương ứng với trường hợp gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ

thể của những người này là 261%. Do vậy, cần phải áp dụng điểm b khoản 3

điều 260 để truy cứu TNHS đối với người phạm tội.

b) Để ban hành một văn bản pháp luật hoàn thiện cần tổ chức các đợt góp

ý dự thảo để các chuyên gia, người dân có thể nêu quan điểm, nguyện vọng, các

vấn đề bất cấp của luật mới. Rất nhiều ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân

dân giúp điều chỉnh văn bản pháp luật hoàn chỉnh nhất, pháp luật mới phát huy

hiệu quả cao nhất.

c) Tính răn đe của pháp luật hiện nay vẫn chưa cao, cần nghiên cứu tăng

nặng các hình thức xử phạt hiện nay trong xử lý các vi phạm trong lĩnh vực đảm

bảo trật tự an toàn giao thông nói chung và tặng nặng khung hình phạt đối với tội

vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Nghiên cứu sửa đổi bổ sung đồng thời

các văn bản pháp luật về tật tự an toàn giao thông, các văn bản thuộc mảng luật

dân sự và tố tụng dân sự, luật hình sự và tố tụng hình sự, luật giao thông đường

bộ. Kiên quyết áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung (tịch thu xe, tạm giữ

phương tiện), đảm bảo đủ mức cưỡng chế, răn đe đối với các đối tượng phạm tội;

tinh gọn các thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về tránh gian lận, dễ quản lý,

hình thức bỏ nộp tiền vi phạm hành chính về trật tự an toàn xã hội tại kho bạc,

thay thế bằng hình thức xử phạt thông qua tài khoản để tiết kiệm thời gian và chi

phí đi lại của người dân, tăng hiệu quả xử phạt của nhà nước; nâng thẩm quyền

xử phạt cho cán bộ chiến sỹ CSGT; xử phạt bằng hình ảnh ghi nhận vi phạm trật

tự ATGT mà người dân thu thập đồng thời trả thưởng để khích lệ người dân

mạnh dạn trong công tác tố giác tội phạm.

3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội vi phạm

quy định về an toàn giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố

Hà Nội

3.2.1. Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của cán bộ, của cơ

quan tiến hành tố tụng

Kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng phức tạp, hiểu biết của

người dân ngày càng tăng, các vụ khiếu kiện hành chính, tranh chấp dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại có số lượng ngày càng nhiều và phức

tạp đòi hỏi với các cơ quan tư pháp. Trước những yêu cầu xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức thực hiện bảo vệ pháp luật phải đáp ứng với tình hình xã hội và

đặt ra những nhiệm vụ mới, chính phủ cần có những giải pháp cơ bản để xây

dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam cần phải đáp ứng nhu cầu cải cách tư

pháp và đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế.

Thực hiện chức năng và nhiệm vụ tư pháp của mình, các cơ quan tư pháp

cần coi trọng thay đổi bộ máy tổ chức và công tác xây dựng lực lượng, các cán

bộ phải luôn trung thành với Đảng và Nhà nước, giữ gìn phẩm chất đạo đức,

nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh vượt qua cán dỗ, dũng cảm đứng

lên bảo vệ công lý. Cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng

cao năng lực cán bộ, rèn luyện lý luận chính trị về bản lĩnh nghề nghiệp, đáp ứng

ngày càng tốt yêu cầu cải cách tư pháp.

Các cán bộ, công chức cần phải tạo được sự tin cậy và tín nhiệm của Đảng

và của nhân dân với việc xây dựng hình ảnh người cán bộ gương mẫu, luôn

mạnh dạn đấu tranh, phát hiện những vấn đề tiêu cực, không ngừng tu dưỡng,

rèn liệu phẩm chất đạo đức cách mạng, không khoan nhưỡng với những hành vi

sai trái pháp luật.

Bên cạnh đó, trong quá trình tiếp xúc, xử lý các vấn đề của một vụ án,

Điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán cần phải làm việc trên cơ sở chứng cứ

khách quan, xử lý các công việc một cách lý trí, dựa theo quy định của pháp luật

hiện hành, không được để bất kỳ tác động chủ quan nào chi phố. Để thực thi

công lý, bắt giữ người có tội, bảo vệ cái đúng, Cán bộ của cơ quan tư pháp phải

có bản lĩnh trong công việc.

Ngoài đội ngũ công chức, đội ngũ lãnh đạo của cơ quan tư pháp cũng cần

không ngừng rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức. Người đứng đầu phải thực

sự “công bằng, trách nhiệm, gương mẫu”, cấp dưới phải “trung thực, tận tụy,

trách nhiệm” trong công việc.

Một trong những chức năng quan trọng của cơ quan Công an nhân dân là

tổ chức và trực tiếp tiến hành cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Căn cứ vào hoạt động thực tế phòng chống

tội phạm có thể xác định nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm trật tự an toàn

xã hội của ngành Công an như sau:

Trực tiếp tiến hành nghiên cứu nắm tình hình diễn biến của tình hình tội

phạm trật tự an toàn xã hội phạm tội, phát hiện nguyên nhân, điều kiện của loại

tội phạm này, trên cơ sở đó tham mưu cho các cấp ủy Đảng và chính quyền các

cấp đề ra chủ trương, chính sách đấu tranh phòng ngừa ngăn chặn tình hình tội

phạm trật tự an toàn xã hội;

Phối hợp với các cơ quan chức năng, các ngành có liên quan tiến hành

hoạt động tuyên truyền giáo dục, tổ chức vận động quần chúng tham gia trong

công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm trật tự an toàn xã hội;

Trực tiếp tổ chức và tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm trật tự an toàn xã hội tại các khu tập thể, khu dân cư và các công cộng;

Tiến hành điều tra, xử lý, giải quyết các trường hợp vi phạm pháp luật của

lứa tuổi chưa thành niên nhằm xóa bỏ những nguyên nhân, điều kiện tiếp tục

phạm pháp dẫn đến con đường phạm tội của tội phạm trật tự an toàn xã hội.

Nhiệm vụ này thuộc về trách nhiệm hàng ngày của cán bộ, chiến sĩ Công an

nhân dân ở cơ sở với mục đích phòng ngừa, ngăn chặn hành vi phạm tộ i của tội

phạm trật tự an toàn xã hội;

Trực tiếp tiến hành công tác giáo dục, cải tạo những đối tượng tội phạm

trật tự an toàn xã hội ở các trại giam hoặc ở các cơ sở giáo dục, trường giáo

dưỡng do Bộ Công an quản lý.

Bằng việc quản lý công tác thi hành án, các cơ quan thi hành án hình sự

của Bộ Công an cũng đóng góp tích cực vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội

phạm. Việc kịp thời thực hiện các bản án có hiệu lực pháp luật sẽ loại trừ những

xung đột mà từ đó có thể phát sinh ra tội phạm hoặc nảy sinh những hiện tượng

tiêu cực là tiền đề của tội phạm.

Trong từng nhiệm vụ, lực lượng công an phải có những biện pháp cụ thể

phù hợp để tiến hành phòng ngừa có hiệu quả.

3.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

và các cơ quan có liên quan trong phòng chống tội phạm vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ

Là những cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong hệ thống bộ máy nhà

nước ta, các cơ quan tư pháp hình sự tham gia vào các giai đoạn tố tụng hình sự

thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vụ án hình sự. Các quan tư pháp

hình sự gồm: Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án (cơ

quan Thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an và cơ quan Thi hành án dân sự

thuộc Bộ Tư pháp). Ngoài các cơ quan tư pháp hình sự còn có một số cơ quan

khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như: Hải quan,

kiểm lâm, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, kiểm ngư…; hệ thống Công an các

xã tham gia tiếp nhận các nguồn tin báo, tố giác tội phạm; hệ thống UBND các

xã tham gia quá trình giám sát thi hành án hình sự đối với các đối tượng được

hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Việc thực hiện phối hợp và kiểm soát lẫn

nhau giữa các cơ quan tư pháp hình sự và một số cơ quan khác trong quá trình

giải quyết vụ án hình sự là rất quan trọng, được quy định cụ thể trong chức năng,

nhiệm vụ của mỗi cơ quan tại Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức

Công an nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức TAND,

Luật thi hành án dân sự, Luật thi hành án hình sự… và các thông tư liên ngành

về quan hệ phối hợp. Trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mỗi ngành,

các cơ quan tư pháp hình sự đều có sự độc lập, tuân theo pháp luật và chịu sự

kiểm soát lẫn nhau. Đồng thời, các cơ quan tư pháp hình sự còn phối hợp chặt

chẽ để đạt hiệu quả chung là giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, nhanh chóng,

kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và tội phạm, không xảy ra oan

sai, bỏ lọt tội phạm.

Bên cạnh việc kiểm soát, phối hợp giữa các cơ quan tư pháp hình sự với

nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự còn có sự kiểm soát của các cơ

quan Đảng với vai trò cấp ủy địa phương, lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ trực thuộc

trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng ngành và với Hội đồng nhân

dân các cấp để phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Việc kiểm soát, phối hợp

giữa các cơ quan tư pháp hình sự ở nước ta thực hiện theo cơ chế đa chiều, đa cơ

quan với các phương pháp, cách thức khác nhau. Cụ thể là:

a) Quan hệ giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát:

Hoạt động kiểm soát, phối hợp với giữa CQĐT và Viện kiểm sát được thể

hiện rõ nhất trong việc thực hiện các chức năng điều tra, thực hành quyền công

tố kiểm sát hoạt động điều tra của hai cơ quan trên khi thực hiện các quy định

của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) trong các giai đoạn tố tụng như: Hoạt

động tiếp nhận, giải quyết tin báo tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố; hoạt

động Viện kiểm sát phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT; hoạt động thực

hiện các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát; hoạt động kiểm sát kết thúc điều

tra... Cụ thể:

Bộ luật Tố tụng hình sự quy định Viện kiểm sát không có thẩm quyền

kiểm sát Công an cấp xã trong hoạt động việc tiếp nhận nguồn tin về tố giác tội

phạm nhưng Viện kiểm sát có quyền kiểm sát CQĐT trong việc tiếp nhận, giải

quyết nguồn tin, tố giác tội phạm trong đó có nguồn tin từ Công an cấp xã

chuyển đến. Thực tế, có nhiều đơn vị xây dựng quy chế phối hợp, CQĐT và

Viện kiểm sát cùng phối hợp nắm nguồn tin thông qua hoạt động kiểm tra bắt xét

(kiểm tra hành chính giữa cấp trên với cấp dưới trong ngành Công an) để nắm

bắt và kiểm sát các căn cứ bắt giữ của Công an cấp dưới. Thông qua các kỳ kiểm

sát trực tiếp hàng năm Viện kiểm sát sẽ kiểm sát toàn bộ hoạt động tiếp nhận,

giải quyết tin báo, tố giác tội phạm của CQĐT. Nếu phát hiện sai phạm, Viện

kiểm sát sẽ ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị tùy từng tính chất mức độ

nghiêm trọng sai phạm của CQĐT.

Ngay sau khi CQĐT phát hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát phối hợp

cùng CQĐT tiếp cận tài liệu, hồ sơ, cùng tham gia một số hoạt động điều tra với

CQĐT như: Gặp hỏi người tố giác, người bị tố giác, người bị thiệt hại, người

chứng kiến để cùng CQĐT đánh giá chứng cứ, phân loại đối tượng trước khi áp

dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ hình sự hoặc phê chuẩn lệnh giữ người trong

trường hợp khẩn cấp. Trong quá trình điều tra, CQĐT có trách nhiệm thực hiện

các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát. Ở giai đoạn chuẩn bị kết thúc điều tra,

CQĐT và Viện kiểm sát, cụ thể là Điều tra viên và Kiểm sát viên sẽ phối hợp

cùng đánh giá chứng cứ thống nhất các vấn đề trong vụ án để kết thúc điều tra

hoặc gia hạn thời hạn điều tra...

b) Quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa án:

Mối quan hệ phối hợp và kiểm soát giữa Viện kiểm sát với Tòa án cũng

tương tự như với CQĐT được quy định tương đối rõ ràng, cụ thể trong BLTTHS

khi giải quyết vụ án hình sự. Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật của Tòa án, Hội đồng xét xử; có quyền kiến nghị, kháng nghị đối với

các quyết định, bản án của Tòa án khi có vi phạm pháp luật hoặc có sai sót trong

việc đánh giá chứng cứ, quyết định hình phạt. Ngược lại, Tòa án cũng có quyền

trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát để kiểm soát lại việc đánh giá chứng

cứ của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự khi có bị cáo kêu

bị oan hoặc có dấu hiệu sai sót trong việc đánh giá chứng cứ, bỏ lọt tội phạm.

Trường hợp Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm, Tòa án vẫn trái quan điểm thì

có quyền kiến nghị trong bản án.

Đối với một số trường hợp Tòa án và Viện kiểm sát có quan điểm đánh

giá chứng cứ khác nhau thì Tòa án, Viện kiểm sát hai cấp phối hợp tổ chức họp

liên ngành để đánh giá chứng cứ, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá

trình giải quyết vụ án hình sự.

d) Quan hệ giữa Viện kiểm sát với cơ quan Thi hành án:

Hoạt động kiểm soát, phối hợp giai đoạn thi hành án được chia làm 02

nhóm. Nhóm thi hành án hình sự được thể hiện thông qua công tác kiểm sát tạm

giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù với các hệ thống nhà tạm giữ, lưu giam, trại

tạm giam, trại giam thuộc ngành Công an quản lý và công tác kiểm sát thi hành

án treo, cải tạo không giam giữ do UBND cấp xã giám sát, quản lý. Nhóm thi

hành án dân sự được thể hiện thông qua công tác kiểm sát thi hành án dân sự đối

với việc thi hành các phần hình phạt bổ sung, án phí, bồi thường dân sự, xử lý

vật chứng trong bản án đã tuyên có hiệu lực pháp luật của hệ thống cơ quan Thi

hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.

e) Quan hệ giữa Viện Kiểm Sát với cơ quan Thi hành án hình sự và

Uỷ ban nhân dân xã:

Viện kiểm sát xây dựng kế hoạch kiểm sát trực tiếp việc tạm giữ (theo

ngày, tháng, quý, năm, đột xuất); tạm giam (theo quý, năm, đột xuất); chấp hành

án phạt tù hoặc chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ (theo quý, năm). Đồng

thời, phối hợp tham gia Hội đồng xét giảm thi hành án cùng với Tòa án và các

trại giam trên để tạo điều kiện cho người phạm tội được hưởng chính sách khoan

hồng của nhà nước và sớm được tái hòa nhập cộng đồng. Quá trình kiểm sát,

nghiên cứu các hồ sơ thi hành án thấy căn cứ xét giảm thời hạn chấp hành hình

phạt tù, diện đối tượng được xét giảm, chế độ tạm giữ, tạm giam… chưa đảm

bảo thì kiến nghị với Tòa án, trại giam về những thiếu sót, sai phạm ít nghiêm

trọng, kháng nghị đối với những vi phạm nghiêm trọng hoặc nhắc nhở đối với

sai phạm, thiếu sót không đáng kể hoặc do lỗi hành chính tư pháp.

Viện kiểm sát cũng tiến hành kiểm sát việc giám sát của Uỷ ban nhân dân

cấp xã đối với các bị án treo, cải tạo không giam giữ trên. Quá trình thực hiện

chức năng nhiệm vụ, Viện kiểm sát và các cơ quan Thi hành án hình sự, Uỷ ban

nhân dân cấp xã thường xuyên phối hợp nắm bắt tình hình của từng ngành, nếu

có khó khăn, vướng mắc thì cùng tổ chức họp đánh giá và đưa ra các biện pháp

tháo gỡ cụ thể; cùng xây dựng quy chế phối hợp với sự tham gia của các cơ quan

thuộc Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp cùng tham gia các đoàn kiểm

tra, giám sát trực tiếp tại các cơ sở giam giữ để đảm bảo tính khách quan, thận

trọng trong các hoạt động này, hạn chế thấp nhất việc sai sót, bảo đảm quyền con

người đặc biệt là những người bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù.

g) Quan hệ giữa Viện Kiểm Sát cơ quan Thi hành án dân sự:

Việc phối hợp, kiểm soát giữa cơ quan Thi hành án hình sự với Viện kiểm

sát chủ yếu trong các hoạt động xử lý vật chứng các vụ án hình sự, thi hành phần

án phí, hình phạt bổ sung là phạt tiền, vấn đề dân sự và biện pháp tư pháp khác

trong vụ án hình sự. Định kỳ, Viện kiểm sát tiến hành kiểm sát trực tiếp tại

Cục/Chi cục Thi hành án dân sự cùng cấp để kiểm tra, tổng hợp những thiếu sót,

sai phạm trong hoạt động thi hành án dân sự. Viện kiểm sát cũng phối hợp với

cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp trong hoạt động xác minh điều kiện thi

hành án của các đối tượng phải thi hành án để làm căn cứ miễn, giảm hoặc

cưỡng chế thi hành án. Việc tổ chức cưỡng chế thi hành án khi người phải thi

hành án không tự nguyện thi hành án, có biểu hiện chống đối thì cơ quan Thi

hành án tổ chức xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án chi tiết, cụ thể. Đồng

thời cũng tranh thủ ý kiến góp ý của Viện kiểm sát và cơ quan Công an (lực

lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp) để đảm bảo việc cưỡng chế thi hành án an toàn,

hiệu quả.

Quá trình kiểm sát thi hành án dân sự nếu phát hiện các sai sót nhỏ, mang

tính chất thủ tục hành chính thì Viện kiểm sát chủ động nhắc nhở Chấp hành

viên của cơ quan Thi hành án sửa chữa, khắc phục. Đối với những vi phạm ít

nghiêm trọng mang tính hệ thống thì tập hợp để kiến nghị chung. Đối với vi

phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm sát sẽ kháng nghị buộc dừng ngay việc thi

hành án để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tuân thủ đúng quy

định pháp luật.

h) Quan hệ giữa các cơ quan tư pháp hình sự với cơ quan Đảng, chính

quyền địa phương:

Việc phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan tư pháp hình sự với các cơ quan

Đảng, chính quyền dựa trên các quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát, Tòa

án phải báo cáo công tác của mình trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.

Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các ngành tư pháp ở địa phương là độc

lập và tuân theo quy định của pháp luật. Tùy từng địa phương sẽ xây dựng quy

chế phối hợp giữa các cơ quan nội chính (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ

quan Thi hành án...) để cùng thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy địa

phương, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và thực hiện tốt chức năng của

mỗi ngành. Tại các buổi giao ban tháng/quý (tùy từng đơn vị bố trí theo thời gian

nhất định), thường trực cấp ủy địa phương sẽ tổ chức cuộc họp khối nội chính.

Theo đó, các đơn vị nội chính bao gồm các cơ quan tư pháp hình sự sẽ phát biểu

nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của

mình và liên quan đến công tác phối hợp với các ngành khác. Trên cơ sở đó, với

vai trò lãnh đạo cơ quan cấp ủy địa phương sẽ thống nhất các biện pháp để các

cơ quan nội chính, cơ quan tư pháp hình sự thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ

của mình

3.2.3. Các giải pháp khác

a) Tăng cường đầu tư trang thiết bị cho công tác giải quyết án vi phạm quy

định về tai nạn giao thông đường bộ. Công an Thành phố Hà Nội cần quan tâm

bố trí ngân sách cho Công an huyện Chương Mỹ và các quận, huyện khác để đầu

tư trang thiết bị phương tiện kỹ thuật hiện đại cho lực lượng Công an phục vụ

công tác điều tra giải quyết án tai nạn giao thông, đặc biệt là trong công tác khám

nghiệm hiện trường; đầu tư lắp đặt thêm hệ thống camera giám sát trên một số

tuyến đường thường xẩy ra vi phạm để nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý vi

phạm pháp luật.

b) Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo đối với công tác kiến

nghị nói chung, công tác kiến nghị khắc phục vi phạm trong xét xử vụ án hình sự

nói riêng. Kinh nghiệm cho thấy, ở đơn vị nào mà lãnh đạo quan tâm, chỉ đạo,

phân công nhiệm vụ cụ thể cho Cán bộ tư pháp và thường xuyên đôn đốc, kiểm

tra, rút kinh nghiệm thì chất lượng, hiệu quả công tác kiến nghị khắc phục vi

phạm ở đơn vị đó được nâng cao.

c) Tích cực tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy đảng địa phương trong quan

hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp nói chung và quan hệ giữa Viện kiểm sát

nhân dân với Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra theo đúng tinh thần Chỉ

thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị “Về sự lãnh đạo của Đảng

đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và

công tác bảo vệ Đảng”. Khi có khó khăn vướng mắc về đường lối xử lý các vụ

án hình sự hoặc những vụ án án nhạy cảm, phức tạp cần kịp thời báo cáo, đề

nghị cấp ủy Đảng cùng cấp chủ trì cuộc họp lãnh đạo liên ngành tư pháp để

thống nhất giải quyết.

d) Công tác thanh tra, xử lý vi phạm về điều khiển các phương tiện giao

thông thông đường bộ cần được thực hiện thường xuyên hơn, nghiêm khắc hơn.

Thời gian qua, công tác này còn lỏng lẻo nên ý thức tham gia giao thông của

người dân trên huyện Chương Mỹ chưa cao. Chỉ trong thời gian khi việc ra quân

của các cơ quan chức năng về quản lý giao thông thì việc đội mũ bảo hiểm,

không uống rượu bia… khi điều khiển các phương tiện giao thông giảm. Chính

vì vậy việc thực hiện các nội dung thanh tra và đa dạng các hình thức và phương

pháp thanh tra cần được quan tâm thực hiện nhiều hơn.

d) Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng lực lượng tham gia giải quyết

án giao thông. Để nâng cao trình độ, ý thức và trách nhiệm đối với những cán bộ

làm công tác giao thông và hiện trường khi vụ việc mới xảy ra, hạn chế đến mức

thấp nhất việc vô tình tiêu hủy chứng cứ chứng minh tại hiện trường do không

tuân thủ đúng quy định về nghiệp vụ đòi hỏi:

Đối với ngành Công an: Các cơ sở đào tạo, bồi dường ngành Công an cần

tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ,

chiến sỹ làm công tác tuần tra, kiểm soát giao thông, công tác điều tra, giải quyết

các vụ tai nạn giao thông, đặc biệt là công tác khám nghiệm hiện trường tai nạn

giao thông.

Đối với ngành Kiểm sát: Các cơ sở đào tạo, bồi dường ngành Kiểm sát

cần tăng cường tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về thực hành quyền công tố,

kiểm sát khởi tố, điều tra các vụ án vi phạm về trật tự an toàn giao thông. Bồi

dưỡng chuyên sâu chuyên đề thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám

nghiệm hiện trường tai nạn giao thông.

e) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giào dục pháp luật về an toàn giao

thông đường bộ, nâng cao ý thực trách nhiệm của nhân dân trong quá trình điều

tra, giải quyết án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Kiến nghị

với Ban An toàn giao thông tỉnh có văn bản chỉ đạo các ngành, đoàn thể thực

hiện công tác tuyên truyền, tạo chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành

động, hình thành “văn hoá giao thông” trong đời sống Nhân dân.

Tiểu kết Chương 3

Trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ, các chủ trương của Đảng và Nhà nước, thực tiễn

giải quyết vụ án tai nạn giao thông, chương 3 của luận văn đã xác định những cơ

sở hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi

phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương

Mỹ: Yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn tiếp tục xây dựng và hoàn thiện

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Yêu cầu thực tiễn xử lý tội

phạm vi phạm trật tự, an toàn giao thông; Yêu cầu bảo vệ quyền con người.

Trên cơ sở những cơ sở hoàn thiện pháp luật, nguyên nhân của những hạn

chế, thiếu sót trong áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham

gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ, tác giả luận văn đã đưa

ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến Tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ và hệ thống các giải pháp đáp ứng các yêu cầu,

khắc phục nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót để nâng cao hiệu quả áp

dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ, trong đó có giải pháp hoàn thiện pháp luật và nhóm các giải pháp khác có

tính khả thi cao, gắn với đặc điểm tình hình của địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà

Nội.

KẾT LUẬN

Bằng việc nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc những tri thức về

khoa học pháp lý hình sự, các quy định của BLHS để làm sáng tỏ một số vấn đề

lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; phân tích

pháp luật và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ trong

những năm qua để từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện BLHS năm 2015 và

giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định

về tham gia giao thông đường bộ trong thời gian tới, luận văn đã tiếp cận và giải

quyết một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về Tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ trong phạm vi nghiên cứu của đề tài trên các

phương diện sau đây:

1. Trên cơ sở tiếp cận vào các quy định của pháp luật hình sự, tác giả luận

văn đã xây dựng khái niệm pháp lý của tội vi phạm quy định về an toàn giao

thông đường bộ, các dấu hiệu của ội vi phạm quy định về an toàn giao thông

đường bộ.

2. Trình bày lịch sử quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; Phân tích được quy định của pháp luật

hình sự hiện hành Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

3. Trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và quá trình thực tiễn áp

dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về an toàn giao thông

đường bộ của CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án từ năm 2020 đến năm 2022 trên

địa bàn huyện Chương Mỹ, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, khó khăn khi áp dụng

pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ,

đồng thời chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót, khó khăn đó.

4. Xác định những cơ sở những cơ sở hoàn thiện pháp luật để nâng cao

hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao

thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ.

5. Trên cơ sở những cơ sở hoàn thiện pháp luật, nguyên nhân của những

hạn chế, thiếu sót trong áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về

tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ, tác giả luận văn

đã đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến Tội vi phạm

quy định về tham gia giao thông đường bộ và hệ thống các giải pháp đáp ứng các

yêu cầu, khắc phục nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót để nâng cao hiệu

quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông

đường bộ gắn với đặc điểm tình hình của địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII (2012), Chỉ thị số 18-CT/TW ngày

04/09/2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm

TTATGT đường bộ đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao

thông.

2. Bộ chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về sự tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình

mới

3. Bộ Công an (2010), Những giải pháp tăng cường công tác đảm bảo trật tự an

toàn giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát giao thông giai đoạn 2001 -

2010, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.

4. Bộ Công An (2011), Thông tư số 76/2011/TT-BCA ngày 22/11/2011 về quy

định phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác điều tra, giải

quyết tai nạn giao thông của lực lượng cảnh sát nhân dân.

5. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và

Toà án nhân dân tối cao (2013), Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-

BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013.Hà Nội.

6. Bùi Kiến Quốc (2001), Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về

TGGTĐB ở Hà Nội, Luận án tiến sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.

7. Chính phủ (2007), Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 của Chính

phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng và tiến tới giảm dần tai nạn giao thông

và ùn tắc giao thông.

8. Chính phủ (2010), Nghị định số 34/2010/NĐ-CP của chính phủ quy định xử

phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.

9. Chính phủ (2012), Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 của chính

phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường

bộ.

10. Chính phủ (2014), Nghị định số 06/NĐ-CP ngày 21/1/2014 về Biện pháp vận

động quần chúng bảo vệ an ninh quôc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; Quyết

định số 800/QĐ-TTg về phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng

nông thôn mới giai đoạn 2010 -2022.

11. Chính phủ (2013), Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của

chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 71/2012/NĐ/CP quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.

12. Cao Thị Oanh (chủ biên) (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam Phần các

tội phạm, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

13. Dương Tuyết Miên (2010), Bàn về tội phạm rõ, tôi phạm ẩn, Tạp chí Luật

học số 3/2010.

14. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh, Trần Văn Độ, Trần Đình Nhã, Nguyễn Ngọc

Hòa, Đặng Quang Phương, Ngô Ngọc Thủy, Phạm Văn Tỉnh (1994), Tội phạm

học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

15. Đỗ Ngọc Quang (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Chương XIX –

Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Phần các tội phạm),

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

16. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự -

Phần các tội phạm, Tập VII-Các tội xâm phạm quy định về an toàn giao thông,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

17. GS.TS Võ Khánh Vinh (2013): “Lý luận chung về định tội danh, chương

X “Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”; Giáo trình luật

hình sự Việt Nam, phần các tội phạm do GS. TS Võ Khánh Vinh làm chủ

biên.

18. Hoàng Minh Tiến Dũng (2016), Tội vi phạm quy định về TGGTĐB trên tỉnh

Lai Châu, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà

Nội.

19. Hồ Sỹ Sơn (2020), Luật Hình sự so sánh, Học viện khoa học xã hội Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.

20. Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Chương XXV –

Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Tập II), Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

21. Nguyễn Thế Anh (2013), Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về

TGGTĐB trên thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa

học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

22. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb

CAND, Hà Nội.

23. Lê Thị Thu Dung (2016), Đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm quy

định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên thành phố Hải Phòng,

Luận án tiến sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam.

24. Phạm Văn Tỉnh - Nguyễn Văn Cảnh (2013) Một số vấn đề tội phạm học Việt

Nam, Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân, Hà Nội.

25. Phạm Văn Tỉnh (2015), Bài giảng Tội phạm học, Hà Nội.

26. Phùng Thế Vắc (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

27. Phạm Văn Beo (2011), Tình hình vi phạm quy định về điều khiển phương

tiện giao thông đường bộ ở một số tỉnh đồng bằng sông Cử Long và giải pháp

phòng chống, Tạp chí khoa học 2011; 17b 34-42, Trường Đại học Cần Thơ.

28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật tố

tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật giao

thông đường bộ Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Bộ luật hình

sự, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố

tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật hình

sự, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Thủ tướng chính phủ (2009), Quyết định số 1327/QĐ-TTg ngày

24/08/2009 về phê duyệt quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt

Nam đến năm 2022 và định hướng đến năm 2030.

35. Thủ tướng chính phủ (2013) Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 23/6/2013 về việc

tăng cường thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tai nạn giao

thông nghiêm trọng trong hoạt động vận tải.

36. Trần Minh Hưởng (2002), Tìm hiểu các tội xâm phạm an toàn công cộng,

trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính , Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

38. Viện Pháp y quốc gia (2009), Công văn số 190/PYQG-CV ngày 11-9-2009

của Viện pháp y quốc gia - Bộ Y tế, Hà Nội.

39. Viện Chiến lược và khoa học Công an-Bộ Công an (2005), Từ điển bách

khoa Công an nhân dân, Nhà xuất bản Công an nhân dân.

40. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam. Một

số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb CAND, Hà Nội;

41. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội;