VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT
----------
NGUYỄN THANH TÙNG
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, THANH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ
VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM MẠNH HÙNG
Hà Nội, Năm 2022
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, xuất phát từ tình hình
thực tế của huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội.
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn
Nguyễn Thanh Tùng
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Phạm Mạnh Hùng,
người đã hướng dẫn tôi hết sức tận tâm, khoa học để tôi hoàn thành luận văn Thạc sỹ
này.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các Thầy, Cô giáo
của Trường Đại học Kiểm Soát, đặc biệt là các Thầy cô trong khoa sau Đại học đã giúp
tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đồng nghiệp, những người đã quan
tâm, sát cánh bên cạnh và ủng hộ tôi là động lực cho tôi hoàn thành luận văn này một
cách thuận lợi.
Hà Nội, ngày tháng năm 2022
Tác giả luận văn
Nguyễn Thanh Tùng
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự BLHS
Tố tụng hình sự TTHS
Pháp luật hình sự PLHS
Giao thông đường bộ GTĐB
TGGTĐB Tham gia giao thông đường bộ
Cảnh sát giao thông CSGT
An toàn giao thông ATGT
Tai nạn giao thông TNGT
Tòa án nhân dân TAND
Ủy ban nhân dân UBND
Thành phố TP
Viện kiểm sát nhân dân VKSND
Cơ quan điều tra CQĐT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số vụ án xét xử tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương
Mỹ từ (năm 2020- 2022) ...................................................................................... 34
Bảng 2.2. Tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ
xét theo địa bàn hành chính cấp xã ...................................................................... 34
Bảng 2.3. Tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ
theo tuyến đường .................................................................................................. 36
Bảng 2.4. Các điều kiện về điều khiển phương tiện của các bị cáo phạm tội vi
phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ ........................................... 38
Bảng 2.5. Cơ cấu bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại
huyện Chương Mỹ ................................................................................................ 38
Bảng 2.6. Các thiệt hại trong các vụ án về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại
huyện Chương Mỹ ................................................................................................ 40
Bảng 2.7. Các vụ án TNGT bị CQĐT xử lý hình sự về tội vi phạm quy định về
TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022 ............ 41
Bảng 2.8. Các vụ án TNGT về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện
chương Mỹ bị đình chỉ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022 ............................ 42
Bảng 2.9. Các loại vi phạm trong tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện
Chương Mỹ đã được đưa ra xử lý hình sự giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022
.............................................................................................................................. 45
Bảng 2.10. Hình phạt mà TAND huyện Chương Mỹ tuyên phạt cho các bị cáo
phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ ........................ 46
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1 ................................................................................................................ 7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ ........................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ............... 7
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ ....................................................................................... 15
1.2.1. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trước khi Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017 được ban hành ............................................................................. 15
1.2.2. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong Bộ luật hình
sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 ............................................................. 20
Tiểu kết Chương 1 ................................................................................................ 31
Chương 2 .............................................................................................................. 32
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI HUYỆN CHƯƠNG
MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... 32
2.1. Khái quát chung về huyện Chương Mỹ và tình hình giao thông đường bộ tại
huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ............................................................... 32
2.2. Kết quả đạt được trong áp dụng Bộ luật hình sự về tội phạm vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội
từ năm 2020 đến năm 2022 .................................................................................. 33
2.2.1. Số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự về tội phạm vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà
Nội từ năm 2020 đến năm 2022 ........................................................................... 33
2.2.2. Kết quả đạt được trong việc áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội .... 47
2.3. Hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong áp
dụng luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại
huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ............................................................... 48
2.3.1. Hạn chế, thiếu sót trong áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ......... 48
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong áp dụng luật hình sự về
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ,
Thành phố Hà Nội ................................................................................................ 49
Tiểu kết Chương 2 ................................................................................................ 53
Chương 3 .............................................................................................................. 54
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI HUYỆN CHƯƠNG
MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................... 54
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự ........................................................................ 54
3.1.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật .......................................................... 54
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ .................................................................................................... 56
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định
về an toàn giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội ...... 58
3.2.1. Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của cán bộ, của cơ quan
tiến hành tố tụng ................................................................................................... 58
3.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ
quan có liên quan trong phòng chống tội phạm vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ............................................................................................. 61
3.2.3. Các giải pháp khác ..................................................................................... 67
Tiểu kết Chương 3 ................................................................................................ 69
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 72
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng hơn với kinh tế thế
giới. Xã hội ngày càng phát triển, đời sống của người dân ngày một nâng cao
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Số lượng người và
phương tiện tham gia giao thông ngày càng nhiều. Điều đó đặt nhiều sức ép cho
hệ thống GTĐB của nước ta. Tình hình tội phạm vi phạm quy định về tham gia
GTĐB có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng tội phạm và số vụ án liên
quan đến tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Vấn đề cấp thiết được đặt ra
để đảm bảo an ninh trật tự, an toàn GTĐB là vấn đề luôn được Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm, yêu cầu ban ngành các cấp từ trung ương tới địa
phương tập trung chỉ đạo, quản lý chặt chẽ, đẩy mạnh phổ biến về giáo dục pháp
luật đối với người dân.
Huyện Chương Mỹ là huyện có diện tích lớn thứ 3 thuộc TP Hà Nội trong
tổng số 32 đơn vị hành chính trực thuộc Hà Nội (2 thị trấn và 30 xã). Huyện có
hệ thống giao thông thuận tiện với 2 quốc lộ lớn chạy qua là quốc lộ 6A với
chiều dài 18 km, quốc lộ 21A và đường Hồ Chí Minh với chiều dài 16,5 km.
Hiện nay, huyện là cửa ngõ tây nam của TP tập trung nhiều khu công nghiệp,
làng nghề truyền thống văn hoá, mật độ dân cư đông đúc, kinh tế ngày càng phát
triển. Cùng với sự phát triển về kinh tế, lượng người và xe cơ giới tham gia giao
thông lớn, số lượng các vụ tai nạn GTĐB nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng
và tài sản của con người ngày càng gia tăng.
Hiện nay, chưa có nhiều nghiên cứu về tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB tại huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội. Việc xử lý các đối tượng vi phạm quy
định về tham gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ còn gặp nhiều khó khăn trong
việc xác định hành vi phạm tội, xác định đúng đối tượng phạm tội do trình độ
năng lực cán bộ còn hạn chế, việc thu thập chứng cứ phức tạp do hiện trường các
vụ TNGT thường bị xáo trộn. Ngoài ra, ngày 19/06/2022, Bộ Công an ban hành
Thông tư số 63/2022/TT-BCA quy định quy trình điều tra, giải quyết tai nạn
giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát giao thông (Thông tư số 63), có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 khi áp dụng trong thực tiễn điều tra giải
quyết vụ án cũng đã phát sinh nhiều khó khăn, bất cập.
Do đó, việc lựa chọn đề tài: “Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB từ
thực tiễn huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội” để qua đó đánh giá đúng thực tế áp
dụng quy định, xác định tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện
Chương Mỹ, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật đối với tội phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ là
cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là một trong
những tội có tính phổ biến cao trong xã hội, và đã chiếm một phần không nhỏ
trong các tội phạm. Trong khoa học pháp lý hình sự đã có nhiều công trình
nghiên cứu về tội phạm này:
- Giáo trình Luật hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Sách
chuyên khảo Bình luận khoa học về những điểm mới của Bộ luật hình sự năm
2015 (Sửa đổi, bổ sung 2017) của tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa và Phan Anh
Tuấn, Bình luận khoa học Luật hình sự (hiện hành) sửa 3 đổi, bổ sung 2017 của
tác giả Nguyễn Đức Mai... đã phân tích các dấu hiệu pháp lý cũng như những
điểm mới của Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Về các bài báo: Đinh Văn Quế có bài viết “Bình luận về Tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ”, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số
11/2022.... Các bài viết này đều chỉ ra nhiều ưu điểm và hạn chế của quy định về
tội vi pham quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Điều 260 Bộ luật
hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung 2017). Tuy nhiên, do giới hạn ở phạm vi bài
viết nghiên cứu nên lý luận chưa sâu, và chỉ dừng lại ở mức độ nêu lên những
hạn chế, vướng mắc đề nghị sửa đổi.
Về luận văn thạc sỹ: Luận văn thạc sỹ “Tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ theo Pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà
thành phố Đà Nẵng” của tác giả Hồ Ngọc Linh (2020), Học viện Khoa học xã
hội - Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Luận văn thạc sỹ “Tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Trần Hải Đăng (2021), Học viện Khoa
học xã hội - Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Luận văn thạc sỹ “Tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo Pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Bá Công (2022), Học viện
Khoa học xã hội - Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Nhìn chung, những công trình đó đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận,
pháp lý và thực trạng về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
đồng thời cũng đã đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong
việc giải quyết các vụ án trong thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, có thể thấy việc
nghiên cứu đề tài này còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ, chủ yếu tiếp cận dưới
góc độ luật hình sự. Tác giả kế thừa và phát huy những kết quả đạt được của
những công trình nghiên cứu này, đồng thời bổ sung những vấn đề mới về những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều
tra Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong thời gian qua từ
thực tiễn huyện Chương Mỹ, Hà Nội, từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hướng đến mục tiêu làm rõ một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ, thực trạng áp dụng trên địa bàn
huyện Chương Mỹ, Hà Nội trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ.
- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ, thông qua việc nghiên cứu luận văn chỉ ra
những hạn chế, bất cập của các quy định này làm cơ sở cho việc đưa ra giải pháp
hoàn thiện pháp luật;
- Khảo sát thực tiễn áp dụng Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội trong thời gian qua, chỉ ra các
hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó làm cơ sở đưa
ra các giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Các quan điểm, công trình nghiên cứu về Tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ.
- Quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ.
- Thực tiễn áp dụng Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội thời gian qua.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Các quan điểm, công trình khoa học trong nước về Tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ.
- Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về Tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ.
- Thực tế áp dụng Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
trên địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội từ năm 2020 – 2022.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; phép duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp
và đấu tranh phòng, chống tội phạm theo yêu cầu cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Bên cạnh phương pháp luận, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để giải quyết các nhiệm vụ đặt
ra của tình hình nghiêm cứu và những vấn đề lý luận (Chương 1);
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá được sử dụng để
giải quyết các nhiệm vụ làm rõ thực tiễn áp dụng tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ - Hà Nội cũng như hạn
chế, bất cập và nguyên nhân của nó trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ
giải quyết vụ án hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ (Chương 2);
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh được sử dụng để giải quyết
nhiệm vụ đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Chương 3).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm một số vấn đề lý luận về tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ, có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong công tác nghiên cứu, đào tạo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ sẽ góp phần hoàn thiện
các quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ, đồng thời nâng cao hiệu quả thực tiễn công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn
huyện Chương Mỹ - Hà Nội.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng
quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ
Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS
năm 2015) không quy định khái niệm Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ. Tuy nhiên, dưới góc độ luật hình sự, các nhà khoa học có
những quan điểm khác nhau về khái niệm Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ. Có thể khái quát một số quan điểm nổi bật như sau:
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức
khỏe, tài sản của người khác” 1. Cùng quan điểm này nhưng tiếp cận dưới góc
độ Luật hình sự hiện hành cũng cho rằng: “Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông trong khi
tham gia giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại
nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác”2. Các quan điểm nêu trên
mới chỉ nêu định nghĩa về hành vi chứ chưa làm rõ khái niệm tội phạm này.
Tác giả Trần Minh Hưởng lại cho rằng “Tội vi phạm quy định về điều
luận BLHS 2015: Tội vi phạm quy định về
tham gia giao
thông đường
khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định của Nhà
1 Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phàn các tội phạm, Tập VII – Các tội xâm phạm quy định về an toàn giao thông, Nxb Thành phố HCM. 2 Bài viết “Bình bộ”https://luatgiaiphong.com/binh-luan-toi-danh/binh-luan-blhs-2015-toi-vi-pham-quy-dinh-ve-tham-gia-giao- thong-duong-bo, Truy cập ngày 20/12/2022.
nước về an toàn giao thông đường bộ”3. Quan điểm này còn chung chung, chưa
đầy đủ dấu hiệu về chủ thể, thiệt hại do hành vi vi phạm quy định của Nhà nước
về an toàn giao thông đường bộ.
Tác giả Ngô Ngọc Thủy cho rằng “Tội vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ là hành vi hành vi của người điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ nhưng mà vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ sau đó gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của
người khác hoặc gây thiệt hại cho tính mạng của người khác”4. Khái niệm này
tiếp cận xây dựng từ quy định của BLHS năm 1999 nên cũng chưa phù hợp với
quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015.
Theo Luật sư Phạm Ngọc Minh: “Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ là hành vi của người tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm
quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây
thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác”5. Khái niệm này
tương đối toàn diện nhưng dấu hiệu hậu quả của hành vi vi phạm quy định về an
toàn giao thông đường bộ không chỉ chỉ rõ là hành vi nguy hiểm cho xã hội và
hành vi đó phải được quy định trong BLHS.
Theo tác giả luận văn, để xây dựng được khái niệm Tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ cần phải tiếp cận từ khái niệm, đặc điểm của
tội phạm; các dấu hiệu pháp lý về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015.
Căn cứ theo quy định tại Điều 8 Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung
3 Trần Minh Hưởng (2010) “Chương XIX – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”, Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2010. 4 Nguyên Ngọc Hòa (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 5 Bài viết Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ đăng tại https://hinhsu.luatviet.co/toi-vi-pham- quy-dinh-ve-tham-gia-giao-thong-duong-bo/n20161028120823081.html, truy cập ngày 25/12/2022.
2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015), khái niệm tội phạm đượ cụ thể hóa
như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Theo định nghĩa này có thể thấy các
đặc điểm của hành vi bị coi là tội phạm được xác định trong định nghĩa về tội
phạm là: Đặc điểm nguy hiểm cho xã hội; Đặc điểm có lỗi (cố ý hoặc vô ý); Đặc
điểm được quy định trong luật hình sự (trái pháp luật hình sự); Đặc điểm do
người có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS thực hiện; Đặc điểm phải chịu
hình phạt. Cụ thể:
Thứ nhất, tính nguy hiểm cho xã hội:
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính của tội phạm
thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã
hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Nó là thuộc tính cơ bản và quan trọng
nhất, quyết định những thuộc tính khác của tội phạm. Việc nhận thức đúng đắn,
đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm với tư cách là một thuộc tính xã
hội của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận thức đúng đắn tính nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm, là chìa khóa để làm sáng tỏ bản chất xã hội và giai
cấp của các chế định tội phạm và hình phạt, từ đó làm cơ sở cho việc xã hội hóa
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tính nguy hiểm cho xã hội được coi là dấu hiệu cơ bản quan trọng nhất,
điều này đã được thể hiện qua các quy định của pháp luật:
Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015 đã khẳng định: “Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội…”. Như vậy tính nguy hiểm chính là dấu hiệu quan trọng
nhất quyết định một tội phạm, nó được thể hiện thông qua hành vi nguy hiểm
cho xã hội.
Khoản 4 Điều 8: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính
chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử
lý bằng các biện pháp khác”. Như vậy dấu hiệu tội phạm được coi là dấu hiệu
tiên quyết, quyết định các dấu hiệu khác. Một hành vi có đủ 3 dấu hiệu của tội
phạm nhưng tính nguy hiểm cho xã hội của nó là không đáng kế thì không bị coi
là tội phạm.
Tính nguy hiểm cho xã hội cũng là căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 của điều 29 Bộ luật hình sự 2015.
“1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong
những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính
sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong
các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà
người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm
nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c, Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc
phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của
tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt được Nhà nước và xã hội
thừa nhận.”
Như vậy, chúng ta có thể thấy tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là
một thuộc tính phát sinh trong mối quan hệ giữa người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm với xã hội và chỉ có thể nhận biết bằng tư duy.
Thứ hai tính có lỗi:
Lỗi là thái độ tâm lý chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà họ thực hiện và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, thể hiện
dưới dạng cố ý và vô ý, là một dấu hiệu rất quan trọng trong cấu thành tội phạm.
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc cơ
bản. Người chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam không phải chỉ
đơn thuần vì người này có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì
đã có lỗi trong thực hiện hành vi khách quan đó.
Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng
gây ra hậu quả từ hành vi đó.
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành
vi đó là sự kết hợp của sự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan
và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Căn cứ vào yếu tố ý chí và yếu tố lý trí mà lỗi được phân ra làm 2 loại là:
lỗi cố ý và lỗi vô ý. Cũng trên cơ sở ý chí và lý trí của chủ thể vi phạm pháp luật
mà khoa học pháp lý cũng phân biệt lỗi cố ý gồm 2 hình thức: lỗi cố ý trực tiếp
và lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý cũng có 2 hình thức: lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô
ý do cẩu thả.
Thứ ba, tính trái pháp luật hình sự:
Tính trái pháp luật hình sự cũng được thể hiện thông qua Điều 8 là: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội…được quy định trong Bộ luật hình sự..”.
Trong bộ luật hình sự, tính trái pháp luật hình sự không chỉ được thể hiện
ở Điều 8 mà còn được thể hiện ở Điều 2 và Điều 7. Điều 2 quy định: “chỉ người
nào phạm tội đã được bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự…” Như vậy tính trái pháp luật cũng là dấu hiệu đặc biệt quan trọng. Những
hành vi được coi là trái pháp luật cũng đồng thời là hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong Luật hình sự. Tính trái pháp luật là căn cứ để đảm bảo
quyền lợi của công dân, tránh việc xử lý tùy tiện.
Tính trái pháp luật hình sự và tính nguy hiểm cho xã hộ là hai dấu hiệu có
mối quan hệ biện chứng với nhau, tính trai pháp luật hình sự là dấu hiệu về mặt
hình thức pháp lí phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội.
Thứ tư, tính phải chịu hình phạt:
Tính phải chịu hình phạt cũng là dấu hiệu đặc trưng của tội phạm. Chỉ có
hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, không có tội phạm cũng không có
hình phạt. Tính phải chịu hình phạt là dấu hiệu kèm theo của dấu hiệu tính nguy
hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội và tính
trái pháp luật hình sự là cơ sở để cụ thể hóa tính phải chịu hình phạt, tính nguy
hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt càng cao. Cũng vì tính nguy hiểm cho xã
hội của tội phạm mà bất cứ hành vi phạm tội nào cũng có thể bị đe dọa áp dụng
hình phạt.
Trên cơ sở khái niệm tội phạm, các dấu hiệu của tội phạm nói chung và
quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015 quy định về Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ có thể thấy Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ có những dấu hiệu pháp lý sau:
Dấu hiệu thứ nhất: là hành vi nguy hiểm cho xã hội – hành vi xâm phạm
vào những quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ được quy định tại
các văn bản Luật và các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành -
không thực hiện đúng những quy định trong Luật Giao thông đường bộ liên quan
đến những quy tắc giao thông đường bộ, gây ra các thiệt hại cho các quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ như tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác mà
theo quy định của BLHS năm 2015 thì thiết hại đó đến mức phải chịu trách
nhiệm hình sự. Do vậy, trường hợp vi phạm các quy định về an toàn giao thông
đường bộ gây thiệt hại cho chính bản thân người vi phạm mà không gây thiệt hại
cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác, thì không bị coi là tội phạm.
Dấu hiệu thứ hai: hành vi nguy hiểm cho xã hội nêu trên "được quy định
trong Bộ luật hình sự". Hành vi xâm phạm vào những quy định về trật tự an toàn
giao thông đường bộ được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015. Tức là một
hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ không thể phạm Tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nếu như hành vi phạm tội đó
chưa được mô tả tại Điều 260 BLHS năm 2015.
Dấu hiệu thứ ba: hành vi nguy hiểm cho xã hội "do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện". Điều 12 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy
định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một
trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173,
178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của
Bộ luật này”. Điều 21 BLHS năm 2015 quy định: “Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự”.
Như vậy, chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ là người từ đủ 16 tuổi trở lên không thuộc tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015.
Dấu hiệu thứ tư: là tính có lỗi của tội phạm. Lỗi là thái độ tâm lý của
người thực hiện tội phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện
và đối với hậu quả cho xã hội do hành vi đó gây ra. Lỗi của các tội xâm phạm
trật tự an toàn giao thông đường bộ nói chung và của Tội vi phạm quy định về an
toàn giao thông đường bộ được thể hiện dưới hình thức vô ý.
Lưu ý: Nếu người điều khiển phương tiện giao thông cố ý sử dụng phương
tiện để giết người, gây thương tích hoặc hủy hoại tài sản của người khác thì truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng, còn sử dụng phương tiện giao thông
sẽ được coi là thủ đoạn để thực hiện tội phạm. Ví dụ: A muốn giết B nên đã dùng
xe máy để đâm chết B khi B đang đi bộ trên đường, thì truy cứu trách nhiệm
hình sự A về tội giết người theo Điều 93 BLHS, xe máy được coi là phương tiện
để gây án.
Dấu hiệu thứ năm: là tính phải chịu hình phạt của tội phạm. Hình phạt đối
với Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được quy định tại điều 260 BLHS
với 4 khung hình phạt và 1 khung hình phạt bổ sung. Trong đó:
- Hình phạt thấp nhất là khung hình phạt tại khoản 4 điều này. Người
phạm tội bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo
không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
- Hình phạt cao nhất là khung hình phạt tại khoản 3 điều này. Người phạm
tội bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
- Hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 điều này. Người phạm tội có thể
bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm.
Ngoài ra, Các biện pháp xử lý hình sự khác là miễn TNHS theo quy định
tại khoản 3 điều 29 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Với các tiếp cận nêu trên có thể đưa ra khái niệm Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ như sau: “Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách vô ý, xâm
phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng, sức
khỏe, tài sản của người khác”.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ
1.2.1. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ trước khi Bộ luật hình sự năm 2015,
sửa đổi bổ sung năm 2017 được ban hành
1.2.1.1. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trước khi
Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời
Trước năm 1985, pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các điều
kiện lịch sử của đất nước trong giai đoạn này. Trước thời điểm ban hành BLHS
năm 1985, khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã hình thành và bước
đầu là nguồn có tính chất bổ sung của luật hình sự Việt Nam. Nguồn luật hình sự
Việt Nam giai đoạn này là nguồn của luật hình sự cách mạng, dân chủ, nhân đạo
và nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công đã đem lại độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân. PLHS Việt Nam lúc này là pháp luật cách mạng, là ý chí của
nhân dân lao động Việt Nam đề lên thành luật để bảo vệ độc lập, chủ quyền của
Tổ quốc, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Trong giai đoạn
này, các tội liên quan đến vi phạm các quy định về tham gia GTĐB được thực
hiện căn cứ theo Bản sơ kết kinh nghiệm về đường lối xử lý tội vi phạm luật lệ
giao thông gây tai nạn (Công văn số 949 – NCPL ngày 25/11/1968 của TAND
tối cao). Đến năm 1976, Chính phủ ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày
15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự công
cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân.
Theo quy định tại Bản sơ kết kinh nghiệm ngày 25/11/1968 của Toà án
nhân dân tối cao về đường lối xử lý tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn,
thì:
Tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn xâm phạm nền ATGT, một bộ
phận của nền trật tự, trị an vốn thuộc loại tội khinh xuất. Đối với loại tội này, cần
xác định chắc chắn là có hành vi phạm luật lệ giao thông, có hậu quả tác hại cụ
thể do hành vi phạm tội gây nên. Đường lối xử lý đối với người phạm tội vi
phạm luật lệ giao thông gây tai nạn được quy định như sau: “trừng trị thích đáng
đối với những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị đúng mức đối với những vi
phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp với thận trọng để xem xét đầy đủ
mọi tình tiết một cách toàn diện”.
Tại Điều 9 của Sắc luật số 03-SL/76 có quy định “tội xâm phạm đến trật
tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của nhân dân”.
1.2.1.2. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong Bộ
luật hình sự năm 1985
Khi BLHS năm 1985 được ban hành, mà theo đó, hành vi xâm phạm đến
các quy định về ATGT vận tải được quy định tại Điều 186 với tên tội danh là:
“Tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải gây hậu quả nghiêm trọng”. Tội vi
phạm các quy định về ATGT vận tải được quy định tại Điều 186 BLHS 1985
như sau:
1- Người nào điều khiển phương tiện giao thông vận tải mà vi phạm các
quy định về ATGT vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không gây
thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản, thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm:
a) Đi quá tốc độ, trở quá trọng tải quy định, tránh, vượt trái phép;
b) Không đi đúng tuyến đường, phần đường, luồng lạch, đường bay và độ
cao quy định;
c) Vi phạm các quy định khác về ATGT.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a) Điều khiển phương tiện giao thông vận tải mà không có bằng lái; trong
khi say rượu hoặc say do dùng chất kích thích khác;
b) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp
người bị nạn.
3- Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm
đến hai mươi năm.
4- Phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt
nghiêm trọng nếu được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Năm 1985 BLHS đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế
bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm 1985 với ý
nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt.
Theo điều 186 BLHS năm 1985, có quy định về Tội vi phạm các quy định
về ATGT vận tải. Thời điểm này, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB chưa
được tách riêng mà chỉ xác định chung là tội vi phạm các quy định về ATGT vận
tải. Phạm vi xác định hành vi trong luật vẫn bị bó hẹp.
Vi phạm các quy định về điều khiện phương tiện GTĐB được xác định là
những hành vi không chấp hành hoặc chấp hành một phần không đầy đủ các quy
định về an toàn khi tham gia GTĐB.
1.2.1.3. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong Bộ
luật hình sự năm 1999
Ngày 22/12/1999, tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua BLHS (sửa đổi, bổ sung) có hiệu lực từ
ngày 01/7/2000, mà theo đó, tên tội danh và nội dung tội phạm trước đây được
quy định tại Điều 186 BLHS năm 1985 đã có sự thay đổi cơ bản và được quy
định tại Điều 202 BLHS năm 1999. Tên tội danh được sửa thành “Tội vi phạm
các quy định về ATGT vận tải”, riêng nội dung của tội phạm vẫn được giữ
nguyên.
Tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải được quy định tại Điều 202
BLHS năm 1999, như sau:
“1. Người nào điều khiển phương tiện GTĐB mà vi phạm quy định về an
toàn GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức
khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi
triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến
năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu
giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển
hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm.
4. Vi phạm quy định về an toàn GTĐB mà có khả năng thực tế dẫn đến
hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải
tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB là hành vi của
người điều khiển phương tiện GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB
gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản
của người khác.
So với quy định của BLHS năm 1985, thì quy định tại Điều 202 BLHS
năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB, có một số
điểm mới sau:
Một là, với sự thay đổi tên tội danh, thì đối tượng tác động của tội phạm
chỉ là phương tiện GTĐB.
Hai là, thiệt hại được quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999
được quy định là “thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho
sức khoẻ, tài sản của người khác” thay cho quy định “thiệt hại cho tính mạng,
cho sức khoẻ của người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” tại
khoản 1 Điều 186 BLHS năm 1985.
Ba là, tại khoản 2 Điều 202 BLHS năm 1999 bổ sung thêm hai tình tiết
tăng nặng định khung hình phạt là: “không chấp hành hiệu lệnh của người đang
làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông” và “gây hậu quả rất
nghiêm trọng.”
Bốn là, về hình phạt chính cao nhất có thể áp dụng đối với người phạm tội
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB được quy định tại khoản 3
Điều 202 BLHS năm 1999 “phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm” thay cho
quy định tại khoản 3 Điều 186 BLHS năm 1986 “phạt tù từ bảy năm đến hai
mươi năm”. Hình phạt chính có thể áp dụng đối với người phạm tội vi phạm quy
định về điều khiển phương tiện GTĐB trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn
đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, được quy
định tại khoản 4 Điều 202 BLHS, đó là “phạt cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm” thay cho quy định tại khoản 4 Điều
186 BLHS năm 1986 “cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm”
Năm là, hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 “Người phạm tội còn
có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ một năm đến năm năm.”
Như vậy, tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải quy định tại Điều 202
BLHS năm 1999 là tội nhẹ hơn tội vi phạm các quy định về ATGT vận tải quy
định gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 186 BLHS năm 1985. Bởi vì, mức cao
nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 202 BLHS hiện hành nhẹ
hơn mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 3 Điều 186 BLHS
năm 1985.
1.2.2. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
1.2.2.1. Đặc điểm pháp lý cơ bản của Tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được quy định tại
Điều 260 BLHS năm 2015, cụ thể:
“Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an
toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng,
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03
năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có
nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích
mạnh khác;
c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị
nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao
thông;
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
g) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000
đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07
năm đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp
có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại một trong các điểm a, b và c
khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”.
Tại Điều 202 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định tội
này với tên gọi là “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ” với việc xác định chỉ những người nào điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Trong khi đó,
khoản 22 Điều 3 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định “Người tham gia
giao thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao
thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ”.
Với tên gọi tội danh như Điều 202 của BLHS 1999 thì không thể xử lý trách
nhiệm hình sự đối với “người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường
bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ” mặc dù họ
cũng tham gia giao thông và gây thiệt hại đến tính mạng, gây thương tích hoặc
tổn hại sức khỏe, gây thiệt hại về tài sản của người khác. Điều 260 BLHS năm
2015 đã sửa đổi tên điều luật theo hướng bao quát hơn, phản ánh đúng phạm vi
và đối tượng điều chỉnh của điều luật, tức là người nào tham gia giao thông
đường bộ mà vi phạm quy định về đảm bảo an toàn giao thông thì đều có thể bị
xử lý trách nhiệm hình sự về tội này.
Ngoài ra, So với Điều 202 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung
năm 2009 thì Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 đã có nhiều thay đổi quan
trọng về kết cấu điều luật, khung hình phạt, mức hình phạt liên quan. Cụ thể:
Về kết cấu của điều luật: So với Điều 202 BLHS năm 1999 thì số khung
hình phạt của Điều 260 BLHS năm 2015 giảm hơn 01 khung hình phạt. Ngoài
ra, trong điều 260 BLHS năm 2015 đã thay đổi từ điều khiển giao thông thành
từ tham gia giao thông. Đây là sự sửa đổi phù hợp với quy định của Luật giao
thông đường bộ, đồng thời bao quát được các đối tượng vi phạm quy định do
Luật giao thông đường bộ điều chỉnh (không chỉ có người điều khiển phương
tiện).
Về mức hậu quả cấu thành tội phạm: So với quy định của Điều 202 BLHS
năm 1999 thì Điều 260 BLHS năm 2015 đã thay đổi quy định về mức độ hậu
quả do vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ làm cơ sở để quy kết
trách nhiệm hình sự. Điều 260 BLHS năm 2015 loại bỏ mức độ hậu quả gây tổn
thương cơ thể của 01 người dưới 61%, loại bỏ mức độ hậu quả tổn thương cơ thể
của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này dưới
61% và loại bỏ mức độ thiệt hại vật chất dưới 100 triệu đồng làm cơ sở để truy
cứu TNHS về tội phạm này. Đồng thời, điều 260 BLHS năm 2015 cũng loại
bỏ quy định cộng chung mức độ thiệt hại kép về sức khỏe con người và vật chất
như quy định ở điều 202 BLHS năm 1999 . Tuy nhiên, tại khoản 4 của Điều 260
BLHS năm 2015 khi chưa có thiệt hại xảy ra thì người vi phạm vẫn có thể bị truy
cứu TNHS nếu đủ các điều kiện quy định.
Về mức hình phạt: Điều 260 BLHS năm 2015 quy định hình phạt thấp
nhất trong trường hợp tội phạm đã hoàn thành, hậu quả đã xảy ra là phạt tiền 30
triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, phạt tù 01 năm; hình phạt
cao nhất là phạt tù đến 15 năm. So với quy định của Điều 202 BLHS năm 1999
thì mức hình phạt thấp nhất về phạt tiền (là hình phạt chính) tại điều 260 BLHS
năm 2015 đã tăng lên gấp 6 lần (từ 5 triệu đồng lên 30 triệu đồng) nhưng mức
hình phạt cao nhất về hình phạt tù có thời hạn thì không thay đổi. Xét ở khía
cạnh các yếu tố cấu thành tội phạm (khung cơ bản) thì Điều 260 Bộ luật hình sự
mới quy định có lợi hơn cho người phạm tội so với Điều 202 Bộ luật hình sự
cũ (kể cả trường hợp tội phạm chưa đạt – khoản 4). Ngoài ra, theo quy định tại
khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015 thì “Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng
do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm
hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”. Từ đó, đối chiếu quy định
này với khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 thì mức hình phạt cao nhất của
khung hình phạt này là 05 năm tù, người phạm tội nếu bị xét xử ở khung hình
phạt này thì thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng và lỗi do vô ý. Theo đó,
nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự mới thì có
thể họ được miễn TNHS nếu thỏa mãn các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều
29 BLHS năm 2015. Đây là quy định có lợi cho người phạm tội mà chúng ta cần
phải chú ý khi áp dụng pháp luật đối với những hành vi phạm tội liên quan đến
tội phạm này.
Trên cơ sở quy định tại khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015 có thể thấy
Tội vi phạm quy định về ATGT có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau:
Thứ nhất, về chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm là người tham gia giao thông đường bộ gồm người
điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người
điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ. Khi xác định chủ thể
của tội phạm này cần chú ý: Người người tham gia giao thông thì có thể không
phải là người điều khiển phương tiện giao thông (đây cũng là dấu hiệu phân biệt
tội phạm này với các tội vi phạm an toàn giao thông khác). Đối với người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.
Thứ hai, về khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm này là trật tự an toàn giao thông đường bộ. Đối
tượng tác động của tội phạm này là phương tiện giao thông đường bộ bao gồm:
xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ. Điều
này căn cứ vào Luật Giao Thông đường bộ để xử lý.
Thứ ba, mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi khách quan: Người phạm tội này đã có hành vi vi phạm các quy
định về tham gia giao thông đường bộ. Và để xác định hành vi vi phạm các quy
định về tham gia giao thông đường bộ, trước hết phải xác định phương tiện giao
thông đường bộ bao gồm những loại nào. Việc xác định hành vi vi phạm các quy
định về tham gia giao thông đường bộ không chỉ căn cứ vào các quy định của Bộ
luật hình sự mà phải căn cứ vào các quy định tại Luật giao thông đường bộ và
các văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.
- Hậu quả: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu
hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
mà chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức
khoẻ, tài sản của người khác thì chưa cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy
định tại khoản 4 của điều luật. Thiệt hại cho tính mạng là làm người khác bị
chết; Thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác coi là làm
cho người khác bị thương nặng hoặc làm cho tài sản của người khác bị mất mát
hư hỏng nặng. Để được coi là gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài
sản của người khác thì thuộc một trong các trường hợp sau đây: (1) Gây tổn hại
cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31%
trở lên; (2) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của
mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ
41% đến 100%; (3) Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật
từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng
đến dưới năm mươi triệu đồng; (4) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người,
với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất
cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ
ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; (5) Gây thiệt hại về tài sản
có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.
Khi xác định thiệt hại tài sản cho người khác cần chú ý: (1) Chỉ những tài
sản do hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ trực tiếp gây ra, còn những thiệt hại gián tiếp không tính là thiệt hại để
xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội như: Do bị thương nên phải
chi phí cho việc điều trị và các khoản chi phí khác (mất thu nhập, làm chân giả,
tay giả, mắt giả…). Mặt dù các thiệt hại này người phạm tội vẫn phải bồi thường
nhưng không tính để xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội. (2)
Thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản mà người phạm tội gây ra là thiệt hại
đối với người khác, nên không tính thiệt hại mà người phạm tội gây ra cho chính
mình. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của
điều luật.
- Các dấu hiệu khách quan khác: Ngoài hành vi khách quan, hậu quả do
hành vi phạm tội gây ra, đối với tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông
đường bộ, nhà làm luật quy định một số dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu
băt buộc của cấu thành tội phạm như: Phương tiện giao thông; địa điểm (nơi vi
phạm là công trình giao thông đường bộ)… Việc xác định các dấu hiệu khách
quan này là rất quan trọng, là dấu hiệu để phân biệt giữa tội phạm này với các tội
vi phạm an toàn giao thông khác.
Theo quy định của Luật giao thông đường bộ thì đường bộ gồm đường,
cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ. Còn phương tiện giao thông
đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông
thô sơ đường bộ. Phương tiện tham gia giao thông đường bộ gồm phương tiện
giao thông đường bộ và xe máy chuyên dùng. Xe máy chuyên dùng gồm xe máy
thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp có tham gia giao thông đường bộ. Đối
với phương tiện giao thông đường bộ, nói chung không khó xác định. Tuy nhiên,
đối với xe máy chuyên dùng, việc xác định có phải là phương tiện tham gia giao
thông hay không, có nhiều trường hợp phức tạp.
Ngoài ra còn có những dấu hiệu khách quan khác như: Đường bộ, công
trình đường bộ, đất của đường bộ, hành lang an toàn đường bộ, phần đường xe
chạy, làn đường, khổ giới hạn của đường bộ, đường phố, dải phân cách, đường
cao tốc v.v… Các yếu tố này cũng rất quan trọng khi xác định hành vi vi phạm
các quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm
- Người phạm tội vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ
thực hiện hành vi là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả), trong đó,
vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không
xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Vô ý vì cẩu thả là trường hợp người phạm
tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội,
mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Hiện nay trên một số sách báo có đề cấp đến hình thức “lỗi hỗn hợp” và
thường lấy hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ làm ví dụ cho trường hợp lỗi hỗn hợp như: Cố ý về hành vi, vô ý về
hậu quả. Một số trường hợp khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, các
Toà án cũng nhận định rằng người bị hại cũng có lỗi và coi trường hợp người bị
hại có lỗi cũng là lỗi hỗn hợp (cả hai bên đều có lỗi).
1.2.2.2. Các dấu hiệu định khung hình phạt
a) Các dấu hiệu định khung hình phạt tại khoản 2:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 260 BLHS năm 2015 thì người nào phạm
tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
Không có giấy phép lái xe theo quy định:
Không có giấy phép lái xe theo quy định bao gồm các trường hợp: Không
có giấy phép, bằng lái hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp; điều khiển phương
tiện giao thông trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, bằng lát hoặc
chứng chỉ chuyên môn do cơ quan có thẩm quyền cấp đối với loại phương tiện
đang điều khiển; điều khiển phương tiện giao thông trong thời hạn bị cơ quan có
thẩm quyền cấm chỉ huy, điều khiển phương tiện đó.
Thời hạn sử dụng của giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp
được tính từ ngày cấp phép đến khi hết hạn ghi trên giấy phép lái xe đó (hoặc
theo quy định của pháp luật về thời hạn của giấy phép lái xe đó).
Trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông đã bị cơ quan có
thẩm quyền tạm giữ giấy phép lái xe mà cần tiếp tục điều khiển phương tiện nốt
hành trình còn lại thì trên hành trình đó không bị coi là không có giấy phép lái xe
theo quy định.
- Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có
nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích
mạnh khác: Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có
nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích
thích mạnh khác là một trong các trường hợp sau đây:
- Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong
máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.
Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ còn vượt quá
50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.
- Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma
túy hoặc chất kích thích mạnh khác.
- Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị
nạn: Đây là trường hợp sau khi gây tai nạn, người phạm tội đã bỏ chạy để trốn
tránh sự điều tra, phát hiện, xử lý của cơ quan có thẩm quyền hoặc tuy không bỏ
chạy để trốn trách nhiệm sau khi gây tai nạn đã bỏ đi, không cứu giúp người bị
nạn khi có điều kiện để cứu giúp.
Trong trường hợp người phạm tội cố ý không cứu giúp người bị nạn mà
người bị nạn chết thì người phạm tội cũng không bị truy cứu TNHS thêm về tội
không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo
Điều 132 BLHS.
- Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao
thông: Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao
thông là không chấp hành hiệu lệnh của cảnh sát giao thông hoặc người khác
được giao nhiệm vụ hướng dẫn giao thông tại nơi thi công, nơi ùn tắc giao thông,
ở bến phà, tại cầu đường bộ đi chung với đường sắt.
- Làm chết 02 người: Đây là trường hợp hành vi phạm tội gây ra hậu quả
chết 02 người. Thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hậu quả chết người là
không mong muốn, không để mặc cho hậu quả đó xảy ra mà cho rằng hậu quả
chết người không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc không thấy hậu quả
chết người nhưng người đó phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000
đồng.
b) Dấu hiệu định khung hình phạt tại khoản 3:
Theo quy định tại Khoản 3Điều 260 BLHS năm 2015 thì người nào phạm
tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
- Làm chết 03 người trở lên: Đây là trường hợp hành vi phạm tội gây ra
hậu quả chết 03 người trở lên. Thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hậu
quả chết người là không mong muốn, không để mặc cho hậu quả đó xảy ra mà
cho rằng hậu quả chết người không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc
không thấy hậu quả chết người nhưng người đó phải thấy trước và có thể thấy
trước hậu quả đó.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên.
- Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
c) Các dấu hiệm định khung hình phạt tại khoản 4:
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 260 BLHS năm 2015 thì người nào vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng
thực tế dẫn đến một trong các hậu quả sau nếu không được ngăn chặn kịp thời,
thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không
giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 1 năm: có khả năng thực tế
làm chết 03 người trở lên; có khả năng thực tế gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của 03 người trở lên; có khả năng thực tế gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của
những người này 201% trở lên; có khả năng thực tế gây thiệt hại về tài sản
1.500.000.000 đồng trở lên.
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 260 BLHS năm 2015 thì người phạm tội
ngoài việc phải chịu trách nhiệm hình sự nêu trên còn có thể bị cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Tiểu kết Chương 1
Nội dung chương 1 tác giả làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu của Tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Theo đó, Tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách vô ý, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại
cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.
Luận văn cũng đã phân tích lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội phạm vi phạm quy định về TGGT đường bộ trong các giai đoạn:
Trước khi BLHS năm 1985 ra đời, quy định tại BLHS năm 1985, BLHS năm
1999, sửa đổi năm 2009.
Luận văn cũng đã phân tích các đặc điểm pháp lý cơ bản tội phạm vi
phạm quy định về TGGT đường bộ trong BLHS năm 2015, các dấu hiệu định
khung hình phạt đối với tội vi phạm quy định về TGGT đường bộ.
Cơ sở lý thuyết của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ của chương này là nền tảng cho việc đánh giá thực trạng của tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB tại các địa phương cũng như cơ sở cho việc đề ra
các biện pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của PLHS về tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB. Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần nắm rõ nội
dung của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, các khung áp dụng và các
hình phạt để áp dụng đúng người đúng tội, tránh bỏ lọt tội phạm, gây thiệt hại
về kinh tế, mất trật tự an toàn xã hội đồng thời đánh giá đúng tình hình tội
phạm trên mình quản lý.
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về huyện Chương Mỹ và tình hình giao thông
đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội
Huyện Chương Mỹ trước đây là huyện trực thuộc tỉnh Hà Tây cũ. Từ ngày 01/8/2008, thực hiện Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội khóa XII về việc điều chỉnh địa giới hành chính TP Hà Nội, Huyện Chương Mỹ cùng với nhiều huyện thuộc tỉnh Hà Tây cũ sát nhập vào TP Hà Nội. Đơn vị hành chính của huyện gồm 30 xã và 02 thị trấn.
Huyện là nơi tập trung của nhiều kkhu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề. Cụ thể: 01 khu công nghiệp, 9 cụm công nghiệp, 36 làng nghề truyền thông với đa số là nghề thủ công Mây tre đan truyền thống.
Chạy qua huyện Chương Mỹ có các tuyến đường lớn như đường Hồ Chí Minh, quốc lộ 21A, quốc lộ 6, nhiều đường đô thị trong toàn thể hệ thống đô thị. Huyện đang tiến hành triển khai nhiều dự án trên các tuyến đường như Hà Đông - Xuân Mai (đoạn ngoài đường Vành đai 4), khu đô thị sinh thái Chúc Sơn (Chuc Son Eco Town), khu đô thị nhân tạo Xuân Mai.
Quốc lộ 6 chạy qua huyện Chương Mỹ dài gần 18km, từ Km19+920 (thị trấn Chúc Sơn) đến Km37 (thị trấn Xuân Mai). Tuyến đường được đưa vào sử dụng nhiều năm, hiện không còn đáp ứng được nhu cầu giao thông ngày càng tăng, chật hẹp, xuống cấp, đã xuất hiện nhiều rạn nứt, ổ gà gây nguy hiểm cho người tham gia giao thông. Mặc dù nguy hiểm nhưng đây là tuyến được huyết mạch nối Thủ đô Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc… nên lượng người và phương tiện giao thông đi qua các đoạn đường này đều cao.
Bên cạnh đó, người dân còn tổ chức họp chợ dọc tuyến đường này (một số chợ tồn tại nhiều năm như chợ Cống, chợ Đông Phương Yên, chợ Gốt); nhiều khu công nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhà máy sản xuất, kinh doanh sát
đường, lượng phương tiện vận tải giao dịch hàng hóa nhiều, vào giờ cao điểm, các đoạn đường thường xảy ra tình trạng ùn tắc và TNGT.
Theo thống kê của Ban ATGT huyện Chương Mỹ, năm 2022 số vụ tai nhạn giao thông giảm 20 vụ so với năm 2021. Tình hình TNGT năm 2021 so với năm 2020 đã giảm trên cả 3 tiêu chí, số vụ TNGT năm 2021 còn 81 vụ giảm 8 vụ so với năm 2020 (tương đương mức giảm 14%), số người chết giảm còn 35 người, giảm 4 người so với năm 2020 (tương đương với mức giảm 10,2%); số người bị thương giảm còn 77 người, giảm 16 người so với năm 2020 (tương đương với mức giảm 17,2%).
Vài năm gần đây, UBND huyện tích cực ra quân tiến hành giải toả vi phạm của nhiều điểm họp chợ trái phép tuyến QL6, Tỉnh lộ 80 cũ, Tỉnh lộ 419, đường Hồ Chí Minh. Năm 2022, xử lý 2.752 trường hợp vi phạm về trật tự giao thông, đô thị, môi trường, chở quá khổ, quá tải hàng hóa, tạm giữ 12 xe ô tô, 625 xe mô tô, 145 GPLX ô tô, 132 GPLX mô tô, 03 xe ba bánh.
2.2. Kết quả đạt được trong áp dụng Bộ luật hình sự về tội phạm vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ,
Thành phố Hà Nội từ năm 2020 đến năm 2022
2.2.1. Số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự về tội phạm vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành
phố Hà Nội từ năm 2020 đến năm 2022
Trong những năm qua, huyện Chương Mỹ đã tiến hành nhiều biện pháp
quyết liệt để giảm thiểu tình hình tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB. Cụ
thể:
a) Về số vụ án xét xử tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương
Mỹ từ năm 2020 đến năm 2022
Một trong những tiêu chí phản ánh tình hình tội vi phạm quy định về tham
gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ là thông qua mức độ vi phạm hay chính là số
lượng các vụ án xét xử tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện
Chương Mỹ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022.
Bảng 2.1. Số vụ án xét xử tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương
Mỹ từ (năm 2020- 2022)
Số vụ Năm Số bị cáo
53 Năm 2020 39
50 Năm 2021 35
42 Năm 2022 28
145 Tổng cộng 102
(Nguồn: TAND huyện Chương Mỹ giai đoạn 2020 - 2022)
Qua bảng 1.1 ta thấy, số vụ án về tội vi phạm quy định về TGGTĐB thống
kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử trong các vụ án giai đoạn 2020 – 2022 đều có
xu hướng giảm. Cụ thể:
- Năm 2021, số vụ án giảm nhẹ 3 vụ án so với năm 2020 xuống còn 50 vụ
án (tương đương với mức giảm 5,66%). Số vụ án về tội vi phạm quy định về
TGGTĐB năm 2022 giảm 8 vụ xuống còn 42 vụ so với năm 2021 (tương đương
mức giảm 16%).
- Năm 2021, số bị cáo liên quan đến các vụ án này là 35 bị cáo, giảm 4
người so với năm 2020 (tương đương với mức giảm 10,2%). Số bị cáo phạm tội
vi phạm quy định về TGGTĐB năm 2022 giảm 7 người xuống còn 28 người so
với năm 2021 (tương đương với mức giảm 20%).
Thực trạng tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương
Mỹ cho thấy tỉ lệ tội phạm ẩn ở tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện
Chương Mỹ là không nhỏ ẩn cả ở chủ quan và khách quan, thậm chí còn ẩn cả
trong thống kê.
b) Về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ xét theo
phạm vi
Bảng 2.2. Tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ xét
theo địa bàn hành chính cấp xã
STT
Thị trấn/Xã
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng số vụ
1. Chúc Sơn
6
5
5
16
2. Xuân Mai
5
3
3
11
3. Đại Yên
0
0
1
1
4. Đông Phương Yên
7
6
4
17
5. Đông Sơn
3
4
3
10
6. Đồng Lạc
0
0
0
0
7. Đồng Phú
0
1
0
1
8. Hòa Chính
0
1
0
1
9. Hoàng Diệu
1
0
1
2
10. Hoàng Văn Thụ
1
0
1
2
11. Hồng Phong
0
0
1
1
12. Hợp đồng
2
1
1
4
13. Hữu Văn
1
0
0
1
14. Lam Điền
1
0
0
1
15. Mỹ Lương
0
1
1
2
16. Nam Phương Tiến
2
1
0
3
17. Ngọc Hòa
0
1
0
1
18. Phú Nam An
1
1
0
2
19. Phú Nghĩa
5
4
4
13
20. Phụng Châu
1
2
1
4
21. Quảng Bị
1
2
0
3
22. Tân Tiến
0
1
1
2
23. Tiên Phương
3
4
3
10
24. Tốt Động
0
0
0
0
25. Thanh Bình
3
2
3
8
26. Thủy Xuân Tiên
5
4
5
14
27. Thụy Hương
1
0
0
1
28. Thượng Vực
0
1
0
1
29. Trần Phú
0
1
0
1
30. Trung Hòa
0
1
0
1
31. Trường Yên
4
3
3
10
32. Văn Võ
0
0
1
1
145
Tổng số vụ
53
50
42
(Nguồn: Đội CSGT công an huyện Chương Mỹ)
Qua bảng 2.2 cho thấy tình hình xảy ra các vụ án liên quan đến tội vi
phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ không đồng đều tại 30 xã và
02 thị trấn. Các có mật độ xảy ra các vụ án cao tập trung ở các xã và thị trấn có
quốc lộ 6, quốc lộ 21A, đường tỉnh lộ chạy qua, các xã và thị trấn này chủ yếu
đều có từ 3 vụ án xảy ra trở lên trong 1 năm như thị trấn Chúc Sơn, thị trấn Xuân
Mai, xã Đông Phương Yên, xã Đông Sơn, xã Phú Nghĩa, xã Tiên Phương, xã
Thanh Bình, xã Thủy Xuân Tiên, xã Trường Yên, tình hình tội phạm liên quan
đến tội vi phạm quy định về TGGTĐB.
Các xã các xa trung tâm huyện như xã Đồng Lạc, Đồng Phú, Nam Phương
Tiến…, không có đường quốc lộ, khoảng cách từ xã đến trung tâm huyện xa,
tình hình vi phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện gần như ít xảy ra
hoặc không xảy ra trong năm. Một số xã trong 3 năm giai đoạn từ năm 2020 đến
năm 2022 chỉ phát sinh 01 vụ án như xã Hồng Phong, Hữu Văn, Lam Điền…
c) Về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ xét theo
tuyến đường và nơi xảy ra tội phạm
Bảng 2.3. Tình hình tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ
theo tuyến đường
Đường Đường Đường Đường Tổng
quốc lộ tỉnh lộ huyện thị nông thôn
7 Năm 2020 39 5 2 53
6 Năm 2021 35 8 1 50
5 Năm 2022 30 6 1 42
18 Tổng 104 19 4
(Nguồn: Phòng CSGT công an huyện Chương Mỹ)
Huyện Chương Mỹ là một rộng lớn, 1 trong 3 địa phương có diện tích
rộng nhất khu vực Hà Nội với hạ tầng đường bộ đa dạng gồm đường quốc lộ,
đường tỉnh lộ, các trục đường nội thị, và các trục đường nông thôn. Với cơ sở hạ
tầng GTĐB đã được xây dựng từ nhiều năm trước, việc quản lý an toàn trật tự
GTĐB tại huyện hết sức khó khăn. Từ bảng 2.3 ta thấy rõ, các vụ án xảy ra chủ
yếu và tập trung ở khu vực đường quốc lộ với nhiều xe cơ giới trọng tải lớn và
lượng người tham gia giao thông cao, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất trật tự
ATGT. Năm 2020, 2021, 2022, số vụ án xảy ra ở khu vực đường quốc lộ lần
lượt là 39 vụ án (chiếm tỷ trọng 73,6% tổng số vụ án); 35 vụ án (chiếm tỷ trọng
70% tổng số vụ án); 30 vụ án (chiếm tỷ trọng 71,4% tổng số vụ án). Đây là vấn
đề thương xuyên được nhắc tới và chú ý trong các nghị quyết của Đảng bộ
huyện Chương Mỹ các năm gần đây.
Tiếp theo là mật độ số vụ án xảy ra ở được tỉnh lộ và huyện thị ở mức
trung bình. Trong giai đoàn từ 2020 – 2022 có tổng cộng 37 vụ án xảy ra ở
đường tỉnh lộ và huyện thị, chiếm 25,5% tổng số vụ án xảy ra trong giai đoạn
này.
Số vụ án xảy ra ở khu vực đường nông thôn giai đoạn 2020-2022 gần như
không đáng kể, chỉ xảy ra 1-2 vụ/năm.
d) Về tội vi phạm quy định về TGGTĐB xét theo điều kiện điều khiển
phương tiện GTĐB
Bảng 2.4. Các điều kiện về điều khiển phương tiện của các bị cáo phạm tội vi
phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ
(ĐVT: người)
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng
Chưa có bằng lái xe 2 1 2 5
Không có bằng lái xe 3 2 2 7
Nồng độ cồn trong máu 10 12 10 32 vượt quá mức độ cho phép
Sử dụng các chất ma túy 3 2 1 6
Đội mũ bảo hiểm 15 10 9 34
Điều kiện về loại phương 5 8 7 20 tiện được phép điều khiển
Các điều kiện khác 20 22 15 57
Tổng cộng 58 57 46
(Đội CSGT công an huyện Chương Mỹ 2020-2022)
Từ bảng 1.7 phản ánh rõ, xét theo phương diện lỗi của các bị cáo trong
các vụ án phạm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, các lỗi chiếm đa số là
lỗi nồng độ cồn trong máu vượt quá mức cho phép, lỗi không đội mũ bảo hiểm,
lỗi điều kiện về loại phương tiện được phép điều khiển và lỗi liên quan đến các
điều kiện khác. Ngoài ra là các lỗi không phổ biến như chưa có bằng lái xe,
không có bằng lái xe, sử dụng các chất ma túy…
d) Cơ cấu bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại
huyện Chương Mỹ
Bảng 2.5. Cơ cấu bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại
huyện Chương Mỹ
(Đơn vị: Người)
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng
Theo độ tuổi 39 35 28 102
Dưới 18 tuổi 5 3 2 10
Trên 18 tuổi 34 32 26 92
Theo giới tính 39 35 28 102
Nam 32 30 26 90
Nữ 7 5 2 12
(Nguồn Đội CSGT công an huyện Chương Mỹ 2020-2022)
Qua thống kê về độ tuổi của người phạm tội, các bị cáo có độ tuổi từ 18
tuổi trở lên chiếm đa số, một phần do tỷ lệ người điều khiển các phương tiện
tham gia GTĐB tuổi từ 18 tuổi trở lên vẫn chiếm đa số. Cụ thể, năm 2020, số bị
cáo trên 18 tuổi là 34 người, chiếm tỷ trọng 87% tổng số bị cáo của năm). Năm
2021, số bị cáo trên 18 tuổi giảm 2 người so với năm 2020 xuống còn 32 người,
chiếm tỷ trọng 91,4% tổng số bị cáo của năm. Năm 2022, số bị cáo trên 18 tuổi
giảm người so với năm 2021, xuống còn 26 người/năm, chiếm tỷ trọng 93% tổng
số bị cáo của năm.
Xét theo giới tính của người phạm tội, tỷ lệ nam giới phạm tội vi phạm
quy định về TGGTĐB vẫn chiếm đa số và tỷ lệ này có xu hướng ngày càng tăng
trong giai đoạn từ 2020-2022 mặc dù số lượng nam giới phạm tội có xu hướng
giảm. Năm 2020, số nam giới phạm tội là 32 người, chiếm tỷ trọng 82% tổng số
người phạm tội. Năm 2021, số nam giới phạm tội giảm 2 người so với năm
2020, xuống còn 30 người, chiếm tỷ trọng 85% tổng số người phạm tội. Năm
2022, số nam giới phạm tội giảm 4 người so với năm 2021, xuống còn 26
người, chiếm tỷ trọng 92,8% tổng số người phạm tội.
e) Các thiệt hại trong các vụ án về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại
huyện Chương Mỹ
Bảng 2.6. Các thiệt hại trong các vụ án về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại
huyện Chương Mỹ
Đơn vị: Vụ
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng
Thiệt hại về tính mạng 35 28 25 88
Thiệt hại về sức khỏe 22 17 15 54
Thiệt hại về tài sản 50 48 42 141
Thiệt hại khác 3 1 2 6
Tổng 110 94 84
(Nguồn: TAND huyện Chương Mỹ 2020 - 2022)
Trong giai đoạn từ 2020-2022, tổng số đã có tới 88 người thiệt mạng
trong các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB. Đây là con số đáng báo động.
Tính mạng con người là yêu cầu ATGT trên hết. Việc thường xuyên có người
chết trong các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB là điều cần được các cơ
quan ban ngành đặc biệt quan tâm và chú ý. Trong những năm gần đây, số
người chết đã có xu hướng giảm do số vụ TNGT giảm, xong vẫn chiếm tỷ trọng
tương đối cao trong tổng các thiệt hại của các vụ tai nạn. Việc khởi tố các vụ án
liên quan đến tính mạng con người đều được TAND huyện Chương Mỹ xác
định đây là những lỗi đặc biệt nghiêm trọng, thuộc khoản 2 phạt tù từ 3 năm đến
5 năm. Ngoài ra, còn những vụ án gây thiệt hại về tài sản, về sức khỏe con
người. Gần như vụ án liên quan đến TNGT nào cũng có thiệt hại về tài sản là
không tránh khỏi. Năm 2020, số vụ án có thiệt hại về sức khỏe là 22/53 vụ, thiệt
hại về tài sản là 50/53 vụ. Năm 2021, số vụ án có thiệt hại về sức khỏe là 17/50
vụ, thiệt hại về tài sản là 48/50 vụ. Năm 2022, số vụ án có thiệt hại về sức khỏe
là 15/42 vụ, thiệt hại về tài sản là 42/42 vụ.
Đối với các mức thiệt hại khác nhau, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017, sửa đổi 2017 đã quy định rất cụ thể về khung hình phạt cho từng
mức, đảm bảo sự nghiêm minh của của luật pháp, xác định đúng người đúng tội,
tránh bỏ lọt tội phạm, đảm bảo an ninh trật tự, ATGT tại huyện Chương Mỹ, TP
Hà Nội. Việc xác định lỗi chính xác, đầy đủ sẽ đảm bảo tính răn đe, giáo dục,
giúp định hướng nhận thức cho các bị can về ATGT đường bộ, không có sự tái
phạm liên quan đến tội vi phạm quy định về ATGTĐB.
g) Các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ do Cơ
quan điều tra xử lý hình sự
Bảng 2.7. Các vụ án TNGT bị CQĐT xử lý hình sự về tội vi phạm quy định về
TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022
Số vụ khởi tố Số vụ truy tố Số vụ đình Số vụ xét
chỉ xử
Năm 2020 56 53 3 53
Năm 2021 52 50 2 50
Năm 2022 44 42 2 42
(Nguồn: Công an huyện Chương Mỹ giai đoạn 2020 - 2022)
Từ Bảng 2.7 cho thấy số vụ án TNGT bị CQĐT xử lý hình sự về tội vi
phạm quy định về TGGTĐB giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022 có tỷ lệ bị
truy tố cao luôn chiếm tỷ lệ trên 94% số vụ án được CQĐT ra quyết định khởi
tố. Đặc biệt, 100% số vụ khởi tố được tòa án xét xử. Chỉ khoảng 4-6% số vụ án
bị đình chỉ trong giai đoạn này tại huyện Chương Mỹ. Nguyên nhân cơ quan
điều tra tiến hành đình chỉ vụ án là do người phạm tội bị chết trong vụ án hoặc
người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3 điều 29 BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
h) Các vụ án được đình chỉ theo luật TTHS năm 2015:
Bảng 2.8. Các vụ án TNGT về tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện
chương Mỹ bị đình chỉ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022
Số vụ án đình chỉ tại CQĐT 2 1 1
Số vụ án đình chỉ tại VKSND 1 1 1
Tổng số vụ án đình chỉ 3 2 2
Tổng số vụ án khởi tố 56 52 44
(Nguồn: Công an huyện Chương Mỹ giai đoạn 2020 - 2022)
Bảng 2.8 cho thấy số vụ án TNGT về tội vi phạm quy định về TGGTĐB
tại huyện Chương Mỹ bị đình chỉ giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022 còn rất
thấp so với tổng số vụ án khởi tố, chỉ khoảng 2-3 vụ/năm. Các vụ án được đình
chỉ tại CQĐT hay tại tòa án đều căn cứ theo khoản 3 điều 29 bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015. Trong năm 2022, có 02 vụ án được đỉnh chỉ thì có 01 vụ bị đình
chỉ tại CQĐT, 01 vụ bị đình chỉ tại viện kiểm sát nhân dân. Cụ thể:
- Vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” xảy ra ngày
20/6/2022, tại TDP Nội An, Chúc Sơn, Chương Mỹ, Hà Nội được CQĐT công
an huyện Chương Mỹ ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị
can đối với ông Trương Đình Trường SN 1960, trú tại thôn Ngọc Giả, Ngọc
Hòa, Chương Mỹ, Hà Nội.
Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Chương Mỹ có đủ cơ
sở kết luận: Nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông là do hỗn hợp lỗi của hai
bên. Đối với ông Trương Đình Trường điều khiển xe ô tô (có Giấy phép lái xe
hạng B2 theo quy định) không chú ý quan sát, không đi đúng phần đường của
mình, không phát hiện ông Thêm đang nằm nghỉ giải lao tại trệ đường bên trái,
nên bánh xe phía trước chèn vào người ông Thêm, làm ông Thêm bị thương
nặng, sau đó tử vong. Hành vi của ông Trường vi phạm khoản 23 Điều 8 và Điều
9 Luật Giao thông đường bộ. Hành vi trên của ông Trường phạm tội “Vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1, Điều 260
BLHS.
Đối với nạn nhân Nguyễn Văn Thêm cũng có lỗi vì để xe cải tiến (chở các
thang tre) chiếm ½ lối rẽ vào TDP Nội An gây cản trở giao thông, làm hạn chế
tầm quan sát của ông Trường. Hơn nữa, ông Thêm nằm ngủ ở trên đường giao
thông gây cản trở giao thông, nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao
thông trên đường, dẫn đến việc ông Trường không phát hiện ra ông Thêm nằm
trên đường, nên đã điều khiển xe chèn vào người ông Thêm. Hành vi gây cản trở
giao thông, gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường
bộ của ông Thêm vi phạm khoản 23 Điều 8 và điểm i, khoản 2, Điều 35 Luật
Giao thông đường bộ, có dấu hiệu phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ” theo Điều 260/BLHS. Tuy nhiên, do ông Thêm đã tử vong, nên
Cơ quan CSĐT không đề cập xử lý.
Sau khi gây tai nạn, ông Trường đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội
của mình, đồng thời đã tích cực khắc phục hậu quả, bồi thường thoả đáng cho
gia đình nạn nhân Thêm. Đến nay, hai bên đã tự nguyện hoà giải, đại diện gia
đình nạn nhân Thêm có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị
can Trường. Xét thấy, nguyên nhân dẫn đến TNGT là lỗi hỗn hợp, ông Trường
phạm tội nghiêm trọng, nhưng do lỗi vô ý. Mặt khác, ông Trường có nhân thân
tốt (nguyên cán bộ công tác trong ngành Công an nghỉ hưu), gia đình chấp hành
đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành khẩn khai nhận
hành vi phạm tội của mình. Hành vi phạm tội của ông Trường không gây ảnh
hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, trật tự an toàn giao thông trên địa bàn.
Ngày 12/10/2021, ba ngành Công an-VKSND-TAND huyện Chương Mỹ đã họp
thống nhất đường lối giải quyết vụ án. Quan điểm của ba ngành thống nhất: Căn
cứ nội dung diễn biến, nguyên nhân và các tình tiết trong vụ án. Áp dụng khoản
3, Điều 29/BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Cơ quan CSĐT Công an
huyện Chương Mỹ ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều tra bị can
đối với Trương Đình Trường theo thẩm quyền.
- Vụ án ““Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định
tại khoản 1, Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 được VKSND huyện Chương
Mỹ ra quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can Tạ Trung Kiên.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án,
đến nay Cơ quan CSĐT Công an huyện Chương Mỹ có đủ cơ sở kết luận:
Nguyên nhân dẫn đến tai nạn là do Tạ Trung Kiên điều khiển xe ô tô có giấy
phép lái xe ô tô hạng B2 (đủ điều kiện điều khiển xe ô tô BKS 17A-143.36), đi
đúng phần đường, làn đường quy định, nhưng trong tình trạng buồn ngủ, không
quan sát làm xe mất lái đi sát vào lề đường bên phải theo hướng di chuyển, đâm
vào bà Dương Thị Hởi đang đứng ở lòng đường phải theo hướng di chuyển, gây
tai nạn giao thông, hậu quả nghiêm trọng, làm bà Hởi tử vong. Khi tham gia giao
thông Kiên có giấy phép lái xe hạng B2 (đủ điều kiện điều khiển xe ô tô BKS
17A-143.36), đi đúng tốc độ quy định. Lời khai của Kiên phù hợp với hiện
trường, dấu vết và các tài liệu chứng cứ khác. Hành vi của Kiên vi phạm khoản
23, điều 8 Luật giao thông đường bộ. Tạ Trung Kiên có năng lực trách nhiệm
hình sự, thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong bộ luật hình sự xâm
phạm tính mạng của người khác với lỗi vô ý. Hành vi của Kiên đã phạm tội “Vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo khoản 1, điều 260 BLHS.
Đối với bà Dương Thị Hởi có hành vi sử dụng lề đường để buôn bán hàng
cá, quá trình bà Hởi đi bộ từ hàng cá ra đường thì không đi trên lề đường mà lại
đi dưới lòng đường, mặt hướng vào hàng cá, không quan sát các phương tiện
tham giao thông trên đường. Hành vi của bà Hởi vi phạm khoản 1, điều 32 và
điểm a, khoản 2, điều 35 Luật giao thông đường bộ. Do bà Hởi đã tử vong sau tai
nạn, nên Cơ quan CSĐT không xem xét xử lý. Nên bà Hởi cũng có một phần lỗi
là nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn trên.
Xét thấy, bị can Tạ Trung Kiên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm
tội do lỗi vô ý, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự gì; nhân thân tốt. Tại
Cơ quan CSĐT, bị can Kiên thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đã
tích cực khắc phục hậu quả, bồi thường thỏa đáng cho gia đình nạn nhân trong
vụ tai nạn giao thông này. Đại diện gia đình nạn nhân có đơn xin miễn truy cứu
trách nhiệm hình sự cho Tạ Trung Kiên. Quá trình truy tố, xét xử. Đề nghị
VKSND huyện Chương Mỹ, Toà án nhân dân huyện Chương Mỹ xem xét, áp
dụng theo Khoản 3, Điều 29/BLHS đối với bị can Tạ Trung Kiên theo quy định
của pháp luật. Căn cứ nội dung diễn biến, nguyên nhân và các tình tiết trong vụ
án. Áp dụng khoản 3, Điều 29/BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,
VKSND huyện Chương Mỹ ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ điều
tra bị can đối với Tạ Trung Kiên theo thẩm quyền.
i) Các loại vi phạm trong tội vi phạm quy định về TGGTĐB
Bảng 2.9. Các loại vi phạm trong tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện
Chương Mỹ đã được đưa ra xử lý hình sự giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2022
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng
Vi phạm tốc độ 8 10 11 29
Vi phạm phần đường 7 6 6 19
Vi phạm tránh vượt 15 12 7 34
An toàn kỹ thuật phương 3 5 3 11 tiện
Do rượu bia 10 12 10 32
Thiếu chú ý quan sát 13 10 11 34
Lỗi khác 4 2 1 7
Tổng cộng 60 57 49
(Nguồn Đội CSGT công an huyện Chương Mỹ)
Từ bảng 2.9 có thể xác định, các lỗi vi phạm của tội vi phạm quy định về
TGGTĐB giai đoạn 2020-2022 chủ yếu là lỗi vi phạm tránh vượt, vi phạm phần
đường, sử dụng rượu bia khi tham gia giao thông. Một số lỗi xảy ra có tần suất
không đáng kể như lỗi an toàn kỹ thuật phương tiện, lỗi khác.
Việc xác định được đúng lỗi vi phạm của đội CSGT công an huyện
Chương Mỹ sẽ làm căn cứ để tòa án quyết định khung hình phạt cho bị cáo.
Tổng số lỗi của các vụ án nhiều hơn tổng số vụ án trong năm cho thấy có những
vụ án mà bị cáo phát sinh từ 2 lỗi trở lên, cho thấy tính phức tạp của các vụ án,
đòi hỏi cơ quan công an phải điều tra kỹ lưỡng, cẩn thận, tránh bỏ lọt tội phạm.
Ngày nay, trình độ hiểu biết về luật pháp của người dân ngày càng tăng, việc đấu
tranh với tội phạm ngày càng căng thẳng và phức tạp, khiến lực lượng chức năng
gặp nhiều khó khăn trong việc định tội danh vi phạm quy định về TGGTĐB của
các bị can.
k) Định khung hình phạt và áp dụng biện pháp xử lý hình sự về tội vi
phạm về tham gia GTĐB của toà án nhân dân huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội
Bảng 2.10. Hình phạt mà TAND huyện Chương Mỹ tuyên phạt cho các bị
cáo phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB tại huyện Chương Mỹ
(ĐVT: người)
Năm 2020 Năm 2021 Năm 2022 Tổng cộng
Tiền 12 10 7 29
Cải tạo không giam giữ 16 12 15 43
Án treo 13 18 10 41
Phạt tù từ 3 năm trở xuống 4 3 3 10
Phạt tù từ 3-7 năm 8 7 5 20
Tổng cộng 53 50 40 143
(Nguồn: TAND huyện Chương Mỹ 2020-2022)
Bảng 2.10 đã thống kê thực tiện định khung hình phạt và áp dụng các
biện pháp xử lý hình sự mà TAND các huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội tuyên
phạt cho các bị cáo phạm tội vi phạm quy định về TGGTĐB. Thực tế cho thấy,
hàng năm TAND huyện Chương Mỹ tuyên phạt rất nhiều trường hợp các bị cáo
liên quan đến tội vi phạm quy định về TGGTĐB. Năm 2022, Hình phạt phạt
tiền là 7 trường hợp (chiếm tỷ trọng 17,5% tổng số hình phạt), hình phạt cải tạo
không giam giữ là 15 trường hợp (chiếm tỷ trọng 37,5% tổng số hình phạt),
hình phạt xử án treo là 10 trường hợp (chiếm tỷ trọng 25% tổng số hình phạt),
hình phạt tù từ 3 năm trở xuống là 3 trường hợp (chiếm tỷ trọng 7,5% tổng số
hình phạt), hình phạt tù từ 3 năm đến 7 năm là 5 trường hợp (chiếm tỷ trọng
12,5% tổng số hình phạt).
2.2.2. Kết quả đạt được trong việc áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội
a) Các cơ quan có thẩm quyền đã áp dụng tốt pháp luật hình sự về tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB
Thời gian qua có thể thấy, công an, viện kiểm soát, toàn án nhân dân
huyện Chương Mỹ đã chấp hành nghiêm chỉnh, tuyệt đối áp dụng luật hình sự
hiện hành trong các vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ. Việc chấp hành nghiêm quy định của pháp luật đã tạo tính răn đe tới người
dân, trong các vụ án xảy ra, số lượng tội phạm ngày càng giảm, đặc biện là tội
phạm vi phạm ở mức ít nghiêm trọng. Đây là kết quả tích cực cần phát huy của
huyện Chương Mỹ. Ý thức tham gia GTĐB của một bộ phận người dân ngày
càng tăng, người dân chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về ATGT, hạn chế
mắc các lỗi vi phạm giao thông cơ bản.
b) Không có trường hợp nào áp dụng sai luật hình sự về tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB
Qua số liệu thông kê, tại huyện Chương Mỹ chưa để phát sinh vụ án oan
sai, đảm bảo kỷ cương pháp luật, công bằng xã hội, không có hiện tượng bỏ lọt
tội phạm. Dù số lượng công việc tăng, phải thực hiện nghiêm việc tinh giản biên
chế nhưng các cơ quan thi hành pháp luật của huyện Chương Mỹ vẫn thực hiện
tốt công việc, xét xử các vụ án hình sự đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Tinh thần cải cách tư pháp được áp dụng trong tổ chức các phiên tòa xét xử,
đổi mới mô hình xét xử theo hướng tiến bộ, phù hợp chung với xu thế của thế
giới.
c) Có sự phối hợp giữa các cơ quan thi hành pháp luật trong qua trình
thực thi nhiệm vụ
Các cơ quan thi hành pháp luật có sự thống nhất cao, không có vụ án nào
do CQĐT khởi tố bị tòa tuyên vô tội hay bị viện kiểm sát nhân dân trả điều tra
bổ sung do không đủ căn cứ định tội. Đã có sự phối hợp, trao đổi trong công tác
xây dựng pháp luật về bảo đảm trật tự, ATGT nhịp nhàng thông suốt. Trong thời
gian qua, việc ra quân của các cơ quan chức năng về quản lý giao thông của
huyện Chương Mỹ đã có kế hoạch, thường xuyên, kết quả xử lý rất nhiều trường
hợp vi phạm giao thông như không đội mũ bảo hiểm, uống rượu bia khi tham gia
giao thông… góp phần ngăn chặn nguy cơ gây ra các vụ án liên quan đến tội vi
phạm quy định về TGGTĐB.
2.3. Hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót
trong áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội
2.3.1. Hạn chế, thiếu sót trong áp dụng luật hình sự về tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà
Nội
a) Việc áp dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB còn gặp nhiều khó khăn
Thực tế và lý thuyết áp dụng chuẩn theo luật rất khó chính xác tuyệt đối.
Đặc thù của các vụ án vi phạm quy định về TGGTĐB là xảy ra trên đường, đông
người qua lại, dấu vết tại hiện trường thường bị xáo trộn, rất khó đó đạt dấu vết.
Ngoài ra, hướng dẫn về pháp luật còn chưa đầy đủ, các cơ quan chức năng thi
hành pháp luật còn gặp lúng túng trong việc hiểu ý nghĩa của điều luật và áp
dụng. Trong các vụ án, thường là lỗi vô ý, các vụ tai nạn liên quan đến các vụ án
của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ thường có người chết
hoặc bị thương nặng, đôi khi chính người phạm tội cũng bị chết nên việc xử lý vi
phạm rất thương tâm.
b) Vẫn có trường hợp chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan thi hành
pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
Căn cứ tình hình vi phạm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại
huyện Chương Mỹ giai đoạn từ 2020 đến 2022 có thể thấy, vẫn có trường hợp
CQĐT và VKSND chưa có sự thống nhất, cần tiến hành họp 3 ngành để thống
nhất. Có vụ án đình chỉ tại cơ quan điều tra với sự thống nhất của 3 ngành nhưng
cũng có vụ án cơ quan điều tra tiến hành khởi tố bị can nhưng khi chuyển
VKSND lại ra quyết định đình chỉ vụ án theo khoản 3 điều 29 luật TTHS.
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong áp dụng luật
hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại huyện
Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội
a) Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, chính sách, pháp luật và thực thi chính sách, pháp luật, công
tác thanh tra, xử lý vi phạm còn nhiều bất cập
Hệ thống pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB
còn chưa đầy đủ, các hướng dẫn thi hành luật chưa cụ thể. Như trong trường hợp
tiến hành đình chỉ vụ án căn cứ theo khoản 3 điều 29 bộ luật tố tụng hình sự năm
2015: “Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm
trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của
người khác đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả
và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện
hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm
hình sự”
Để người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự phải thỏa mãn
những căn cứ sau:
- Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêm trọng do vô ý;
- Hành vi phạm tội gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm hoặc tài sản;
- Phải được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện
hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội (không có
chứng cứ cho thấy có sự cưỡng ép hay mua chuộc người bị hại phải hòa giải với
người phạm tội).
Việc miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi thỏa mãn những
căn cứ trên đây là tính chất tùy nghi, chưa có hướng dẫn cụ thể của pháp luật
trường hợp nào là có thể được miễn TNHS và trường hợp nào là không được
miễn TNHS. Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể, căn cứ quy định của luật, tình
hình thực tế, người áp dụng luật tự mình cân nhắc, đánh giá để quyết định có
miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội hay không. Nếu người áp dụng
pháp luật áp dụng quá tràn lan thì sẽ khiến luật pháp thiếu tính răn đe, dễ phát
sinh tiêu cực khiến bỏ lọt tội phạm. Các cơ quan thi hành pháp luật nói chung và
cơ quan điều tra nói riêng vẫn còn lúng túng trong việc xem xét có nên hay
không nên đình chỉ vụ án do bị can được miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 3
Điều 29 BLHS.
Thứ hai, biên chế của đội CSGT huyện Chương Mỹ còn thiếu so với số
tuyến đường được phân công quản lý nên công tác tuần tra kiểm soát đảm bảo
trật tự ATGT còn hạn chế, không khép kín được thời gian và tuyến đường dẫn
đến hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông chưa cao.
Thứ ba, trang thiết bị được trang bị cho lực lượng CSGT làm nhiệm vụ
khu vực miền núi (Nam Phương Tiến, Đông Phương Yên) không phù hợp và
không đầy đủ (xe ô tô tuần tra kiểm soát chỉ có một cầu có khi vào những chỗ
đường sình lầy cán bộ còn phải huy động nhân dân ra để đẩy xe giúp), máy đo
nồng độ cồn, máy đo nồng độ ma túy còn thiếu…
Thứ tư, Chương Mỹ là một huyện ngoại thành Hà Nội, chủ yếu là địa bàn
nông thôn, trình độ dân trí thấp, xa trung tâm Hà Nội nên việc tuần tra kiểm soát
và tuyên truyền pháp luật về giao thông còn khó khăn.
Thứ năm, chi phí phục vụ những công việc này là lớn nhưng kinh phí
được nhà nước cấp cho việc xây dựng văn bản quy phạm về an toàn giao thông
nói chung còn ít, các cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản thường phải sử dụng kinh
phí được cấp cho công tác thường xuyên để phục vụ xây dựng văn bản nên gây
nhiều khó khăn cho công tác xây dựng văn bản quy phạm về bảo đảm trật tự,
ATGT.
b) Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, trình độ năng lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ
trong cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Chương Mỹ còn hạn chế
Trên địa bàn huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội nguyên nhân từ lực lượng này
xuất phát từ những cán bộ thực thi công vụ ở những nơi vùng sâu vùng xa vẫn
còn tình trạng lơ là trong công việc tuần tra kiểm soát xử lý vi phạm hành chính
trên lĩnh vực giao thông đường bộ:
Thứ hai, hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật còn chưa cao
Thực tiễn cho thấy tác dụng giáo dục trong việc xử lý vi phạm còn thấp,
gây khó khăn, cản trở cho lực lượng giải quyết, xử lý, giảm hiệu lực pháp luật,
tâm lý “trọng tình hơn trọng lý” của đại bộ phận người Việt Nam nói chung và
việc thực thi pháp luật của một bộ phận cán bộ quản lý nói riêng còn nặng nề gây
khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
Thứ ba, công tác quản lý không chặt chẽ dẫn đến có hiện tượng bỏ lọt
trường hợp lái xe vi phạm hành chính với mức xử phạt nặng về tiền phạt hay
tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, chứng chỉ hành nghề của cơ quan công an
nhưng lái xe bỏ không đến cơ quan công an để xử lý mà lại đến nơi cấp thông
báo mất để làm thủ tục xin cấp đổi lại các giấy tờ đó.
Thứ tư, quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ
quan có liên quan trong phòng chống tội phạm vi phạm quy định về tham gia
GTĐB còn hạn chế
Cơ chế trao đổi, phối hợp trong công tác xây dựng pháp luật về bảo đảm
trật tự, ATGT chưa nhịp nhàng, thông suốt hoặc khi có những nội dung chưa
thống nhất trong quá trình xây dựng văn bản, chưa có cơ chế cụ thể, hiệu quả để
giải quyết vướng mắc nên đã ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng các văn bản
quy phạm về trật tự, ATGT. Việc nghiên cứu, xây dựng văn bản quy phạm về
trật tự, ATGT là công việc khó khăn, phức tạp, bên cạnh việc đầu tư cơ sở vật
chất, thời gian còn cần có sự tham gia của các nhà khoa học, các chuyên gia có
nhiều kinh nghiệm nhưng hiện nay vẫn chưa có cơ chế thu hút đội ngũ chuyên
gia giỏi, các nhà khoa học tham gia vào quá trình xây dựng.
Tiểu kết Chương 2
Nội dung chương 2 đi sâu phân tích tình hình an toàn giao thông của
huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội cũng như thực trạng áp dụng PLHS về tội
vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
giai đoạn 2020 – 2022.
Trên cơ sở đánh giá và phân tích hệ thống số liệu thực tế tình hình áp dụng
PLHS về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB tại huyện Chương Mỹ, TP Hà
Nội, đề tài xác định được những mặt tích cực của như: Các cơ quan có thẩm
quyền đã áp dụng tốt PLHS về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, không
có trường hợp nào áp dụng sai PLHS về tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB, có sự phối hợp giữa các cơ quan thi hành pháp luật trong qua trình thực
thi nhiệm vụ.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Chương 2 của luận văn đã chỉ ra những
hạn chế, thiếu sót trong áp dụng PLHS về tội vi phạm quy định về tham gia
GTĐB tại huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội, đồng thời chỉ ra được những nguyên
nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan của những hạn chế, thiếu sót làm cơ sở
để đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của PLHS về tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB cho huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội
nhằm tạo môi trường sống an toàn, đảm bảo trật tự xã hội cho người dân.
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự
3.1.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật
a) Yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Ban chấp hành TW Đảng
khóa XIII đã xác định một trong những quan điểm tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới là
“Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã
hội bằng Hiến pháp và pháp luật...”, trên cơ sở đó xác định một trong những
mục tiêu là “Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện
đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân,
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của tổ chức, cá nhân”. Những chủ trương nêu trên đòi hòi hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự nói chung và đối với Tội vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ nói riêng là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền phải bảo
đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, đồng thời kịp thời phát hiện và xử lý
trách nhiệm, khắc phục kịp thời những vi phạm trong quá trình áp dụng pháp
luật hình sự.
b) Yêu cầu thực tiễn xử lý tội phạm vi phạm trật tự, an toàn giao thông
Tai nạn giao thông (TNGT) luôn là nỗi kinh hoàng, là vấn nạn nhức nhối
đối với toàn xã hội. Nó không chỉ gây tổn hại về thể chất, về vật chất mà còn để
lại tổn thất về tinh thần lâu dài cho bản thân người tham gia giao thông cũng như
gia đình họ.
Qua thực tế giải quyết các vụ án vi phạm trật tự an toàn giao thông trong
thời gian qua cho thấy, số lượng các vụ án vi phạm trật tự an toàn giao thông
ngày càng có xu hướng gia tăng, nhiều vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Các vụ án vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ chủ yếu xảy ra liên quan
tới vi phạm khi điều khiển ô tô và xe gắn máy. Trong số các vụ án vi phạm trật
tự an toàn giao thông mà Tòa án đã thụ lý và giải quyết thời gian qua thì số vụ án
vi phạm an toàn giao thông đường bộ chiếm tới 99%, còn lại là những vụ án vi phạm trật tự an toàn giao thông về đường thủy, đường sắt và hàng không6.
Để giảm thiểu tai nạn giao thông, Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 04/9/2012
của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm
trật tự, an toàn giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục
ùn tắc giao thông đã đưa ra đồng bộ nhiều biện pháp. Kết luận số 45-KL/TW
ngày 01/02/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Chỉ
thị số 18-CT/TW, Luật Giao thông đường bộ và các chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ, Ủy ban an toàn giao thông Quốc gia về công tác bảo đảm trật tự, an
toàn giao thông đến toàn thể cán bộ, đảng viên, Nhân dân xác định “Cần xác
định công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông là một nội dung của công tác
bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Các chủ trương nêu trên đã yêu cầu chính quyền các địa phương áp dụng
nhiều giải pháp, và một trong những giải pháp quan trọng là áp dụng đúng các
quy định của BLHS về các loại tội vi phạm quy định về an toàn giao thông, đặc
biệt là tội phạm về giao thông đường bộ.
Mặt khác, pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng luôn phải đổi
mới và sửa đổi theo sự phát triển của hoàn cảnh xã hội từng thời kỳ. Cần nghiên
6 Nguyễn Thanh Mai, Nguyễn Bá Hưng, Một số khó khăn, vướng mắc khi giải quyết các vụ án tai nạn giao thông đường bộ, Tạp chí Nghề luật số 3 năm 2021.
cứu thay đổi các nội dung, chế tài về lĩnh vực GTĐB nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tạo khung cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo trật tự an toàn xã hội, xử lý
các TNGT và phòng ngừa tội vi phạm quy định về TGGTĐB, đồng thời qua thực
tiễn áp dụng, tiếp thu những quy định chưa phù hợp, khó áp dụng, quy định
chồng chéo, bổ sung các điểm thiếu xót để kịp thời điều chỉnh những vấn đề giao
thông mới phát sinh trong thực tế áp dụng BLHS về Tội vi phạm quy định về an
toàn giao thông đường bộ.
c) Yêu cầu bảo vệ quyền con người
Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, các hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng ảnh hưởng tới các quyền của công dân, đặc biệt là các quyền cơ bản
được quy định trong Hiến pháp như: quyền tự do thân thể, quyền được bảo hộ về
tính mạng, sức khỏe, tài sản,… Để làm tốt công tác bảo vệ quyền con người khi
áp dụng BLHS về Tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, đòi hỏi
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng quy
trình áp dụng pháp luật, trong đó có việc đánh giá, phân tích đầy đủ các tình tiết
đã xảy ra trong thực tế khách quan và các dấu hiệu của Tội vi phạm quy định về
an toàn giao thông đường bộ, bảo đảm việc lựa chọn cấu thành tội phạm, các tính
tiết định khung hình phạt được chính xác. Điều này đòi hỏi hoạt động giải thích,
hướng dẫn pháp luật hình sự phải được thực hiện thường xuyên trên cơ sở giải
quyết kịp thời những khó khăn hoặc những tình huống phát sinh trong thực tiễn
áp dụng BLHS về Tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về an toàn
giao thông đường bộ
a) Việc quy định nhiều khung hình phạt tại Điều 260 BLHS vẫn chưa thể
hiện được nguyên tắc phân hóa TNHS trong luật hình sự. Ví dụ, phạm tội trong
trường hợp làm chết 01 người và gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của
02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này là 120%
hoặc làm chết 01 người và gây thiệt hại về tài sản 490.000.000 đồng… thì chỉ có
thể bị xử phạt theo khoản 1 Điều 260 BLHS (bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01
năm đến 05 năm) mà không thể bị xử phạt theo khoản 2 Điều 260, trong khi đó,
phạm tội trong trường hợp chỉ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người ngày từ
122% hoặc chỉ gây thiệt hại về tài sản 500.000.000 đồng đã có thể xử phạt theo
khoản 2 Điều 260 BLHS (từ 03 năm đến 10 năm tù). BLHS năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017 còn rất nhiều những quy định không hợp lý như vậy.
Ngoài ra, điều 260 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có khiếm
khuyết trong việc quy định các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng, thể hiện
ở việc Điều 260 đã bỏ sót nhiều tình tiết mà thực tế có thể xảy ra.
Để khắc phục khiếm khuyết này, trước khi có những sửa đổi, bổ sung
BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, thì các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng cần coi 01 người chế là mất 100% sức khỏe để cộng với tỷ lệ tổn
thương sức khỏe của người khác khi tính tổng tỷ lệ tổ thương cơ thể của những
người bị hại khi xem xét áp dụng các tình tiết định khung hình phạt tương ứng
được quy định trong điều 260.
Ví dụ, trường hợp phạm tội làm chết 01 người và gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏa của người khác (một hoặc nhiều người) với tỷ lệ (hoặc
tổng tỷ lệ) tổn thương cơ thể của họ là 61% thì phải coi trường hợp này tương
ứng với trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người
trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này là 161%. Do vậy,
cần phải áp dụng điểm e khoản 2 Điều 260 để truy cứu TNHS đối với người
phạm tội;
Trường hợp phạm tội làm chết 02 người và gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ (hoặc tổng tỷ lệ) tổn thương cơ thể của
họ là 61% thì phải coi trường hợp này tương ứng với trường hợp gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ
thể của những người này là 261%. Do vậy, cần phải áp dụng điểm b khoản 3
điều 260 để truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
b) Để ban hành một văn bản pháp luật hoàn thiện cần tổ chức các đợt góp
ý dự thảo để các chuyên gia, người dân có thể nêu quan điểm, nguyện vọng, các
vấn đề bất cấp của luật mới. Rất nhiều ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân
dân giúp điều chỉnh văn bản pháp luật hoàn chỉnh nhất, pháp luật mới phát huy
hiệu quả cao nhất.
c) Tính răn đe của pháp luật hiện nay vẫn chưa cao, cần nghiên cứu tăng
nặng các hình thức xử phạt hiện nay trong xử lý các vi phạm trong lĩnh vực đảm
bảo trật tự an toàn giao thông nói chung và tặng nặng khung hình phạt đối với tội
vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Nghiên cứu sửa đổi bổ sung đồng thời
các văn bản pháp luật về tật tự an toàn giao thông, các văn bản thuộc mảng luật
dân sự và tố tụng dân sự, luật hình sự và tố tụng hình sự, luật giao thông đường
bộ. Kiên quyết áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung (tịch thu xe, tạm giữ
phương tiện), đảm bảo đủ mức cưỡng chế, răn đe đối với các đối tượng phạm tội;
tinh gọn các thủ tục xử phạt vi phạm hành chính về tránh gian lận, dễ quản lý,
hình thức bỏ nộp tiền vi phạm hành chính về trật tự an toàn xã hội tại kho bạc,
thay thế bằng hình thức xử phạt thông qua tài khoản để tiết kiệm thời gian và chi
phí đi lại của người dân, tăng hiệu quả xử phạt của nhà nước; nâng thẩm quyền
xử phạt cho cán bộ chiến sỹ CSGT; xử phạt bằng hình ảnh ghi nhận vi phạm trật
tự ATGT mà người dân thu thập đồng thời trả thưởng để khích lệ người dân
mạnh dạn trong công tác tố giác tội phạm.
3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội vi phạm
quy định về an toàn giao thông đường bộ tại huyện Chương Mỹ, Thành phố
Hà Nội
3.2.1. Nâng cao trình độ, năng lực, ý thức trách nhiệm của cán bộ, của cơ
quan tiến hành tố tụng
Kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng phức tạp, hiểu biết của
người dân ngày càng tăng, các vụ khiếu kiện hành chính, tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại có số lượng ngày càng nhiều và phức
tạp đòi hỏi với các cơ quan tư pháp. Trước những yêu cầu xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức thực hiện bảo vệ pháp luật phải đáp ứng với tình hình xã hội và
đặt ra những nhiệm vụ mới, chính phủ cần có những giải pháp cơ bản để xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam cần phải đáp ứng nhu cầu cải cách tư
pháp và đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế.
Thực hiện chức năng và nhiệm vụ tư pháp của mình, các cơ quan tư pháp
cần coi trọng thay đổi bộ máy tổ chức và công tác xây dựng lực lượng, các cán
bộ phải luôn trung thành với Đảng và Nhà nước, giữ gìn phẩm chất đạo đức,
nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh vượt qua cán dỗ, dũng cảm đứng
lên bảo vệ công lý. Cần thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực cán bộ, rèn luyện lý luận chính trị về bản lĩnh nghề nghiệp, đáp ứng
ngày càng tốt yêu cầu cải cách tư pháp.
Các cán bộ, công chức cần phải tạo được sự tin cậy và tín nhiệm của Đảng
và của nhân dân với việc xây dựng hình ảnh người cán bộ gương mẫu, luôn
mạnh dạn đấu tranh, phát hiện những vấn đề tiêu cực, không ngừng tu dưỡng,
rèn liệu phẩm chất đạo đức cách mạng, không khoan nhưỡng với những hành vi
sai trái pháp luật.
Bên cạnh đó, trong quá trình tiếp xúc, xử lý các vấn đề của một vụ án,
Điều tra viên, Kiểm sát viên, thẩm phán cần phải làm việc trên cơ sở chứng cứ
khách quan, xử lý các công việc một cách lý trí, dựa theo quy định của pháp luật
hiện hành, không được để bất kỳ tác động chủ quan nào chi phố. Để thực thi
công lý, bắt giữ người có tội, bảo vệ cái đúng, Cán bộ của cơ quan tư pháp phải
có bản lĩnh trong công việc.
Ngoài đội ngũ công chức, đội ngũ lãnh đạo của cơ quan tư pháp cũng cần
không ngừng rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức. Người đứng đầu phải thực
sự “công bằng, trách nhiệm, gương mẫu”, cấp dưới phải “trung thực, tận tụy,
trách nhiệm” trong công việc.
Một trong những chức năng quan trọng của cơ quan Công an nhân dân là
tổ chức và trực tiếp tiến hành cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Căn cứ vào hoạt động thực tế phòng chống
tội phạm có thể xác định nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm trật tự an toàn
xã hội của ngành Công an như sau:
Trực tiếp tiến hành nghiên cứu nắm tình hình diễn biến của tình hình tội
phạm trật tự an toàn xã hội phạm tội, phát hiện nguyên nhân, điều kiện của loại
tội phạm này, trên cơ sở đó tham mưu cho các cấp ủy Đảng và chính quyền các
cấp đề ra chủ trương, chính sách đấu tranh phòng ngừa ngăn chặn tình hình tội
phạm trật tự an toàn xã hội;
Phối hợp với các cơ quan chức năng, các ngành có liên quan tiến hành
hoạt động tuyên truyền giáo dục, tổ chức vận động quần chúng tham gia trong
công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm trật tự an toàn xã hội;
Trực tiếp tổ chức và tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm trật tự an toàn xã hội tại các khu tập thể, khu dân cư và các công cộng;
Tiến hành điều tra, xử lý, giải quyết các trường hợp vi phạm pháp luật của
lứa tuổi chưa thành niên nhằm xóa bỏ những nguyên nhân, điều kiện tiếp tục
phạm pháp dẫn đến con đường phạm tội của tội phạm trật tự an toàn xã hội.
Nhiệm vụ này thuộc về trách nhiệm hàng ngày của cán bộ, chiến sĩ Công an
nhân dân ở cơ sở với mục đích phòng ngừa, ngăn chặn hành vi phạm tộ i của tội
phạm trật tự an toàn xã hội;
Trực tiếp tiến hành công tác giáo dục, cải tạo những đối tượng tội phạm
trật tự an toàn xã hội ở các trại giam hoặc ở các cơ sở giáo dục, trường giáo
dưỡng do Bộ Công an quản lý.
Bằng việc quản lý công tác thi hành án, các cơ quan thi hành án hình sự
của Bộ Công an cũng đóng góp tích cực vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm. Việc kịp thời thực hiện các bản án có hiệu lực pháp luật sẽ loại trừ những
xung đột mà từ đó có thể phát sinh ra tội phạm hoặc nảy sinh những hiện tượng
tiêu cực là tiền đề của tội phạm.
Trong từng nhiệm vụ, lực lượng công an phải có những biện pháp cụ thể
phù hợp để tiến hành phòng ngừa có hiệu quả.
3.2.2. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
và các cơ quan có liên quan trong phòng chống tội phạm vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
Là những cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong hệ thống bộ máy nhà
nước ta, các cơ quan tư pháp hình sự tham gia vào các giai đoạn tố tụng hình sự
thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vụ án hình sự. Các quan tư pháp
hình sự gồm: Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án (cơ
quan Thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an và cơ quan Thi hành án dân sự
thuộc Bộ Tư pháp). Ngoài các cơ quan tư pháp hình sự còn có một số cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như: Hải quan,
kiểm lâm, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, kiểm ngư…; hệ thống Công an các
xã tham gia tiếp nhận các nguồn tin báo, tố giác tội phạm; hệ thống UBND các
xã tham gia quá trình giám sát thi hành án hình sự đối với các đối tượng được
hưởng án treo, cải tạo không giam giữ. Việc thực hiện phối hợp và kiểm soát lẫn
nhau giữa các cơ quan tư pháp hình sự và một số cơ quan khác trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự là rất quan trọng, được quy định cụ thể trong chức năng,
nhiệm vụ của mỗi cơ quan tại Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức
Công an nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức TAND,
Luật thi hành án dân sự, Luật thi hành án hình sự… và các thông tư liên ngành
về quan hệ phối hợp. Trong khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mỗi ngành,
các cơ quan tư pháp hình sự đều có sự độc lập, tuân theo pháp luật và chịu sự
kiểm soát lẫn nhau. Đồng thời, các cơ quan tư pháp hình sự còn phối hợp chặt
chẽ để đạt hiệu quả chung là giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, nhanh chóng,
kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và tội phạm, không xảy ra oan
sai, bỏ lọt tội phạm.
Bên cạnh việc kiểm soát, phối hợp giữa các cơ quan tư pháp hình sự với
nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự còn có sự kiểm soát của các cơ
quan Đảng với vai trò cấp ủy địa phương, lãnh đạo, chỉ đạo các chi bộ trực thuộc
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng ngành và với Hội đồng nhân
dân các cấp để phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Việc kiểm soát, phối hợp
giữa các cơ quan tư pháp hình sự ở nước ta thực hiện theo cơ chế đa chiều, đa cơ
quan với các phương pháp, cách thức khác nhau. Cụ thể là:
a) Quan hệ giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát:
Hoạt động kiểm soát, phối hợp với giữa CQĐT và Viện kiểm sát được thể
hiện rõ nhất trong việc thực hiện các chức năng điều tra, thực hành quyền công
tố kiểm sát hoạt động điều tra của hai cơ quan trên khi thực hiện các quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) trong các giai đoạn tố tụng như: Hoạt
động tiếp nhận, giải quyết tin báo tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố; hoạt
động Viện kiểm sát phê chuẩn các lệnh, quyết định của CQĐT; hoạt động thực
hiện các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát; hoạt động kiểm sát kết thúc điều
tra... Cụ thể:
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định Viện kiểm sát không có thẩm quyền
kiểm sát Công an cấp xã trong hoạt động việc tiếp nhận nguồn tin về tố giác tội
phạm nhưng Viện kiểm sát có quyền kiểm sát CQĐT trong việc tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin, tố giác tội phạm trong đó có nguồn tin từ Công an cấp xã
chuyển đến. Thực tế, có nhiều đơn vị xây dựng quy chế phối hợp, CQĐT và
Viện kiểm sát cùng phối hợp nắm nguồn tin thông qua hoạt động kiểm tra bắt xét
(kiểm tra hành chính giữa cấp trên với cấp dưới trong ngành Công an) để nắm
bắt và kiểm sát các căn cứ bắt giữ của Công an cấp dưới. Thông qua các kỳ kiểm
sát trực tiếp hàng năm Viện kiểm sát sẽ kiểm sát toàn bộ hoạt động tiếp nhận,
giải quyết tin báo, tố giác tội phạm của CQĐT. Nếu phát hiện sai phạm, Viện
kiểm sát sẽ ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị tùy từng tính chất mức độ
nghiêm trọng sai phạm của CQĐT.
Ngay sau khi CQĐT phát hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát phối hợp
cùng CQĐT tiếp cận tài liệu, hồ sơ, cùng tham gia một số hoạt động điều tra với
CQĐT như: Gặp hỏi người tố giác, người bị tố giác, người bị thiệt hại, người
chứng kiến để cùng CQĐT đánh giá chứng cứ, phân loại đối tượng trước khi áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ hình sự hoặc phê chuẩn lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp. Trong quá trình điều tra, CQĐT có trách nhiệm thực hiện
các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát. Ở giai đoạn chuẩn bị kết thúc điều tra,
CQĐT và Viện kiểm sát, cụ thể là Điều tra viên và Kiểm sát viên sẽ phối hợp
cùng đánh giá chứng cứ thống nhất các vấn đề trong vụ án để kết thúc điều tra
hoặc gia hạn thời hạn điều tra...
b) Quan hệ giữa Viện kiểm sát với Tòa án:
Mối quan hệ phối hợp và kiểm soát giữa Viện kiểm sát với Tòa án cũng
tương tự như với CQĐT được quy định tương đối rõ ràng, cụ thể trong BLTTHS
khi giải quyết vụ án hình sự. Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Tòa án, Hội đồng xét xử; có quyền kiến nghị, kháng nghị đối với
các quyết định, bản án của Tòa án khi có vi phạm pháp luật hoặc có sai sót trong
việc đánh giá chứng cứ, quyết định hình phạt. Ngược lại, Tòa án cũng có quyền
trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát để kiểm soát lại việc đánh giá chứng
cứ của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự khi có bị cáo kêu
bị oan hoặc có dấu hiệu sai sót trong việc đánh giá chứng cứ, bỏ lọt tội phạm.
Trường hợp Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm, Tòa án vẫn trái quan điểm thì
có quyền kiến nghị trong bản án.
Đối với một số trường hợp Tòa án và Viện kiểm sát có quan điểm đánh
giá chứng cứ khác nhau thì Tòa án, Viện kiểm sát hai cấp phối hợp tổ chức họp
liên ngành để đánh giá chứng cứ, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
d) Quan hệ giữa Viện kiểm sát với cơ quan Thi hành án:
Hoạt động kiểm soát, phối hợp giai đoạn thi hành án được chia làm 02
nhóm. Nhóm thi hành án hình sự được thể hiện thông qua công tác kiểm sát tạm
giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù với các hệ thống nhà tạm giữ, lưu giam, trại
tạm giam, trại giam thuộc ngành Công an quản lý và công tác kiểm sát thi hành
án treo, cải tạo không giam giữ do UBND cấp xã giám sát, quản lý. Nhóm thi
hành án dân sự được thể hiện thông qua công tác kiểm sát thi hành án dân sự đối
với việc thi hành các phần hình phạt bổ sung, án phí, bồi thường dân sự, xử lý
vật chứng trong bản án đã tuyên có hiệu lực pháp luật của hệ thống cơ quan Thi
hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
e) Quan hệ giữa Viện Kiểm Sát với cơ quan Thi hành án hình sự và
Uỷ ban nhân dân xã:
Viện kiểm sát xây dựng kế hoạch kiểm sát trực tiếp việc tạm giữ (theo
ngày, tháng, quý, năm, đột xuất); tạm giam (theo quý, năm, đột xuất); chấp hành
án phạt tù hoặc chấp hành án treo, cải tạo không giam giữ (theo quý, năm). Đồng
thời, phối hợp tham gia Hội đồng xét giảm thi hành án cùng với Tòa án và các
trại giam trên để tạo điều kiện cho người phạm tội được hưởng chính sách khoan
hồng của nhà nước và sớm được tái hòa nhập cộng đồng. Quá trình kiểm sát,
nghiên cứu các hồ sơ thi hành án thấy căn cứ xét giảm thời hạn chấp hành hình
phạt tù, diện đối tượng được xét giảm, chế độ tạm giữ, tạm giam… chưa đảm
bảo thì kiến nghị với Tòa án, trại giam về những thiếu sót, sai phạm ít nghiêm
trọng, kháng nghị đối với những vi phạm nghiêm trọng hoặc nhắc nhở đối với
sai phạm, thiếu sót không đáng kể hoặc do lỗi hành chính tư pháp.
Viện kiểm sát cũng tiến hành kiểm sát việc giám sát của Uỷ ban nhân dân
cấp xã đối với các bị án treo, cải tạo không giam giữ trên. Quá trình thực hiện
chức năng nhiệm vụ, Viện kiểm sát và các cơ quan Thi hành án hình sự, Uỷ ban
nhân dân cấp xã thường xuyên phối hợp nắm bắt tình hình của từng ngành, nếu
có khó khăn, vướng mắc thì cùng tổ chức họp đánh giá và đưa ra các biện pháp
tháo gỡ cụ thể; cùng xây dựng quy chế phối hợp với sự tham gia của các cơ quan
thuộc Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam các cấp cùng tham gia các đoàn kiểm
tra, giám sát trực tiếp tại các cơ sở giam giữ để đảm bảo tính khách quan, thận
trọng trong các hoạt động này, hạn chế thấp nhất việc sai sót, bảo đảm quyền con
người đặc biệt là những người bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành án phạt tù.
g) Quan hệ giữa Viện Kiểm Sát cơ quan Thi hành án dân sự:
Việc phối hợp, kiểm soát giữa cơ quan Thi hành án hình sự với Viện kiểm
sát chủ yếu trong các hoạt động xử lý vật chứng các vụ án hình sự, thi hành phần
án phí, hình phạt bổ sung là phạt tiền, vấn đề dân sự và biện pháp tư pháp khác
trong vụ án hình sự. Định kỳ, Viện kiểm sát tiến hành kiểm sát trực tiếp tại
Cục/Chi cục Thi hành án dân sự cùng cấp để kiểm tra, tổng hợp những thiếu sót,
sai phạm trong hoạt động thi hành án dân sự. Viện kiểm sát cũng phối hợp với
cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp trong hoạt động xác minh điều kiện thi
hành án của các đối tượng phải thi hành án để làm căn cứ miễn, giảm hoặc
cưỡng chế thi hành án. Việc tổ chức cưỡng chế thi hành án khi người phải thi
hành án không tự nguyện thi hành án, có biểu hiện chống đối thì cơ quan Thi
hành án tổ chức xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án chi tiết, cụ thể. Đồng
thời cũng tranh thủ ý kiến góp ý của Viện kiểm sát và cơ quan Công an (lực
lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp) để đảm bảo việc cưỡng chế thi hành án an toàn,
hiệu quả.
Quá trình kiểm sát thi hành án dân sự nếu phát hiện các sai sót nhỏ, mang
tính chất thủ tục hành chính thì Viện kiểm sát chủ động nhắc nhở Chấp hành
viên của cơ quan Thi hành án sửa chữa, khắc phục. Đối với những vi phạm ít
nghiêm trọng mang tính hệ thống thì tập hợp để kiến nghị chung. Đối với vi
phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm sát sẽ kháng nghị buộc dừng ngay việc thi
hành án để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tuân thủ đúng quy
định pháp luật.
h) Quan hệ giữa các cơ quan tư pháp hình sự với cơ quan Đảng, chính
quyền địa phương:
Việc phối hợp kiểm soát giữa các cơ quan tư pháp hình sự với các cơ quan
Đảng, chính quyền dựa trên các quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát, Tòa
án phải báo cáo công tác của mình trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.
Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các ngành tư pháp ở địa phương là độc
lập và tuân theo quy định của pháp luật. Tùy từng địa phương sẽ xây dựng quy
chế phối hợp giữa các cơ quan nội chính (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ
quan Thi hành án...) để cùng thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy địa
phương, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và thực hiện tốt chức năng của
mỗi ngành. Tại các buổi giao ban tháng/quý (tùy từng đơn vị bố trí theo thời gian
nhất định), thường trực cấp ủy địa phương sẽ tổ chức cuộc họp khối nội chính.
Theo đó, các đơn vị nội chính bao gồm các cơ quan tư pháp hình sự sẽ phát biểu
nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
mình và liên quan đến công tác phối hợp với các ngành khác. Trên cơ sở đó, với
vai trò lãnh đạo cơ quan cấp ủy địa phương sẽ thống nhất các biện pháp để các
cơ quan nội chính, cơ quan tư pháp hình sự thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ
của mình
3.2.3. Các giải pháp khác
a) Tăng cường đầu tư trang thiết bị cho công tác giải quyết án vi phạm quy
định về tai nạn giao thông đường bộ. Công an Thành phố Hà Nội cần quan tâm
bố trí ngân sách cho Công an huyện Chương Mỹ và các quận, huyện khác để đầu
tư trang thiết bị phương tiện kỹ thuật hiện đại cho lực lượng Công an phục vụ
công tác điều tra giải quyết án tai nạn giao thông, đặc biệt là trong công tác khám
nghiệm hiện trường; đầu tư lắp đặt thêm hệ thống camera giám sát trên một số
tuyến đường thường xẩy ra vi phạm để nâng cao hiệu quả phát hiện, xử lý vi
phạm pháp luật.
b) Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo đối với công tác kiến
nghị nói chung, công tác kiến nghị khắc phục vi phạm trong xét xử vụ án hình sự
nói riêng. Kinh nghiệm cho thấy, ở đơn vị nào mà lãnh đạo quan tâm, chỉ đạo,
phân công nhiệm vụ cụ thể cho Cán bộ tư pháp và thường xuyên đôn đốc, kiểm
tra, rút kinh nghiệm thì chất lượng, hiệu quả công tác kiến nghị khắc phục vi
phạm ở đơn vị đó được nâng cao.
c) Tích cực tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy đảng địa phương trong quan
hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp nói chung và quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân với Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra theo đúng tinh thần Chỉ
thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị “Về sự lãnh đạo của Đảng
đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và
công tác bảo vệ Đảng”. Khi có khó khăn vướng mắc về đường lối xử lý các vụ
án hình sự hoặc những vụ án án nhạy cảm, phức tạp cần kịp thời báo cáo, đề
nghị cấp ủy Đảng cùng cấp chủ trì cuộc họp lãnh đạo liên ngành tư pháp để
thống nhất giải quyết.
d) Công tác thanh tra, xử lý vi phạm về điều khiển các phương tiện giao
thông thông đường bộ cần được thực hiện thường xuyên hơn, nghiêm khắc hơn.
Thời gian qua, công tác này còn lỏng lẻo nên ý thức tham gia giao thông của
người dân trên huyện Chương Mỹ chưa cao. Chỉ trong thời gian khi việc ra quân
của các cơ quan chức năng về quản lý giao thông thì việc đội mũ bảo hiểm,
không uống rượu bia… khi điều khiển các phương tiện giao thông giảm. Chính
vì vậy việc thực hiện các nội dung thanh tra và đa dạng các hình thức và phương
pháp thanh tra cần được quan tâm thực hiện nhiều hơn.
d) Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng lực lượng tham gia giải quyết
án giao thông. Để nâng cao trình độ, ý thức và trách nhiệm đối với những cán bộ
làm công tác giao thông và hiện trường khi vụ việc mới xảy ra, hạn chế đến mức
thấp nhất việc vô tình tiêu hủy chứng cứ chứng minh tại hiện trường do không
tuân thủ đúng quy định về nghiệp vụ đòi hỏi:
Đối với ngành Công an: Các cơ sở đào tạo, bồi dường ngành Công an cần
tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ,
chiến sỹ làm công tác tuần tra, kiểm soát giao thông, công tác điều tra, giải quyết
các vụ tai nạn giao thông, đặc biệt là công tác khám nghiệm hiện trường tai nạn
giao thông.
Đối với ngành Kiểm sát: Các cơ sở đào tạo, bồi dường ngành Kiểm sát
cần tăng cường tập huấn, bồi dưỡng chuyên sâu về thực hành quyền công tố,
kiểm sát khởi tố, điều tra các vụ án vi phạm về trật tự an toàn giao thông. Bồi
dưỡng chuyên sâu chuyên đề thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám
nghiệm hiện trường tai nạn giao thông.
e) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến giào dục pháp luật về an toàn giao
thông đường bộ, nâng cao ý thực trách nhiệm của nhân dân trong quá trình điều
tra, giải quyết án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Kiến nghị
với Ban An toàn giao thông tỉnh có văn bản chỉ đạo các ngành, đoàn thể thực
hiện công tác tuyên truyền, tạo chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức đến hành
động, hình thành “văn hoá giao thông” trong đời sống Nhân dân.
Tiểu kết Chương 3
Trên cơ sở quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ, các chủ trương của Đảng và Nhà nước, thực tiễn
giải quyết vụ án tai nạn giao thông, chương 3 của luận văn đã xác định những cơ
sở hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương
Mỹ: Yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Yêu cầu thực tiễn xử lý tội
phạm vi phạm trật tự, an toàn giao thông; Yêu cầu bảo vệ quyền con người.
Trên cơ sở những cơ sở hoàn thiện pháp luật, nguyên nhân của những hạn
chế, thiếu sót trong áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ, tác giả luận văn đã đưa
ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến Tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ và hệ thống các giải pháp đáp ứng các yêu cầu,
khắc phục nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót để nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ, trong đó có giải pháp hoàn thiện pháp luật và nhóm các giải pháp khác có
tính khả thi cao, gắn với đặc điểm tình hình của địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà
Nội.
KẾT LUẬN
Bằng việc nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc những tri thức về
khoa học pháp lý hình sự, các quy định của BLHS để làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; phân tích
pháp luật và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ trong
những năm qua để từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện BLHS năm 2015 và
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ trong thời gian tới, luận văn đã tiếp cận và giải
quyết một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trong phạm vi nghiên cứu của đề tài trên các
phương diện sau đây:
1. Trên cơ sở tiếp cận vào các quy định của pháp luật hình sự, tác giả luận
văn đã xây dựng khái niệm pháp lý của tội vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ, các dấu hiệu của ội vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ.
2. Trình bày lịch sử quy định của pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; Phân tích được quy định của pháp luật
hình sự hiện hành Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
3. Trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và quá trình thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ của CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án từ năm 2020 đến năm 2022 trên
địa bàn huyện Chương Mỹ, chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, khó khăn khi áp dụng
pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ,
đồng thời chỉ ra những nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót, khó khăn đó.
4. Xác định những cơ sở những cơ sở hoàn thiện pháp luật để nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ.
5. Trên cơ sở những cơ sở hoàn thiện pháp luật, nguyên nhân của những
hạn chế, thiếu sót trong áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn huyện Chương Mỹ, tác giả luận văn
đã đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến Tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ và hệ thống các giải pháp đáp ứng các
yêu cầu, khắc phục nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót để nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ gắn với đặc điểm tình hình của địa bàn huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII (2012), Chỉ thị số 18-CT/TW ngày
04/09/2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm
TTATGT đường bộ đường sắt, đường thủy nội địa và khắc phục ùn tắc giao
thông.
2. Bộ chính trị (2010), Chỉ thị số 48/CT-TW ngày 22/10/2010 về sự tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình
mới
3. Bộ Công an (2010), Những giải pháp tăng cường công tác đảm bảo trật tự an
toàn giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát giao thông giai đoạn 2001 -
2010, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
4. Bộ Công An (2011), Thông tư số 76/2011/TT-BCA ngày 22/11/2011 về quy
định phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác điều tra, giải
quyết tai nạn giao thông của lực lượng cảnh sát nhân dân.
5. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Toà án nhân dân tối cao (2013), Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-
BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013.Hà Nội.
6. Bùi Kiến Quốc (2001), Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về
TGGTĐB ở Hà Nội, Luận án tiến sỹ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội.
7. Chính phủ (2007), Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 của Chính
phủ về các giải pháp kiềm chế gia tăng và tiến tới giảm dần tai nạn giao thông
và ùn tắc giao thông.
8. Chính phủ (2010), Nghị định số 34/2010/NĐ-CP của chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
9. Chính phủ (2012), Nghị định số 71/2012/NĐ-CP ngày 19/9/2012 của chính
phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ.
10. Chính phủ (2014), Nghị định số 06/NĐ-CP ngày 21/1/2014 về Biện pháp vận
động quần chúng bảo vệ an ninh quôc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội; Quyết
định số 800/QĐ-TTg về phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010 -2022.
11. Chính phủ (2013), Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của
chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 71/2012/NĐ/CP quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
12. Cao Thị Oanh (chủ biên) (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam Phần các
tội phạm, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
13. Dương Tuyết Miên (2010), Bàn về tội phạm rõ, tôi phạm ẩn, Tạp chí Luật
học số 3/2010.
14. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh, Trần Văn Độ, Trần Đình Nhã, Nguyễn Ngọc
Hòa, Đặng Quang Phương, Ngô Ngọc Thủy, Phạm Văn Tỉnh (1994), Tội phạm
học, Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đỗ Ngọc Quang (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Chương XIX –
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Phần các tội phạm),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
16. Đinh Văn Quế (2005), Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự -
Phần các tội phạm, Tập VII-Các tội xâm phạm quy định về an toàn giao thông,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
17. GS.TS Võ Khánh Vinh (2013): “Lý luận chung về định tội danh, chương
X “Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng”; Giáo trình luật
hình sự Việt Nam, phần các tội phạm do GS. TS Võ Khánh Vinh làm chủ
biên.
18. Hoàng Minh Tiến Dũng (2016), Tội vi phạm quy định về TGGTĐB trên tỉnh
Lai Châu, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà
Nội.
19. Hồ Sỹ Sơn (2020), Luật Hình sự so sánh, Học viện khoa học xã hội Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.
20. Nguyễn Ngọc Hòa (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Chương XXV –
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Tập II), Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
21. Nguyễn Thế Anh (2013), Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về
TGGTĐB trên thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện khoa
học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
22. Nguyễn Xuân Yêm (2003), Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, Nxb
CAND, Hà Nội.
23. Lê Thị Thu Dung (2016), Đấu tranh phòng, chống tình hình tội phạm quy
định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên thành phố Hải Phòng,
Luận án tiến sỹ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam.
24. Phạm Văn Tỉnh - Nguyễn Văn Cảnh (2013) Một số vấn đề tội phạm học Việt
Nam, Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân, Hà Nội.
25. Phạm Văn Tỉnh (2015), Bài giảng Tội phạm học, Hà Nội.
26. Phùng Thế Vắc (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
27. Phạm Văn Beo (2011), Tình hình vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ ở một số tỉnh đồng bằng sông Cử Long và giải pháp
phòng chống, Tạp chí khoa học 2011; 17b 34-42, Trường Đại học Cần Thơ.
28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật giao
thông đường bộ Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Bộ luật hình
sự, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật hình
sự, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Thủ tướng chính phủ (2009), Quyết định số 1327/QĐ-TTg ngày
24/08/2009 về phê duyệt quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt
Nam đến năm 2022 và định hướng đến năm 2030.
35. Thủ tướng chính phủ (2013) Chỉ thị số 12/CT-TTg ngày 23/6/2013 về việc
tăng cường thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tai nạn giao
thông nghiêm trọng trong hoạt động vận tải.
36. Trần Minh Hưởng (2002), Tìm hiểu các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính , Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
38. Viện Pháp y quốc gia (2009), Công văn số 190/PYQG-CV ngày 11-9-2009
của Viện pháp y quốc gia - Bộ Y tế, Hà Nội.
39. Viện Chiến lược và khoa học Công an-Bộ Công an (2005), Từ điển bách
khoa Công an nhân dân, Nhà xuất bản Công an nhân dân.
40. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt Nam. Một
số vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb CAND, Hà Nội;
41. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb CAND, Hà Nội;