VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN NGỌC ÁI VI
THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN NGỌC ÁI VI
THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BÌNH CHÁNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Thi hành các hình phạt không tước tự do từ
thực tiễn huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có
nguồn gốc rõ ràng, trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phan Ngọc Ái Vi
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH PHẠT
KHÔNG TƯỚC TỰ DO VÀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG
TƯỚC TỰ DO ...................................................................................................... 8
1.1. Những vấn đề lý luận về các hình phạt không tước tự do..................... 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do ........... 14
1.3. Ý nghĩa của thi hành các hình phạt không tước tự do ........................ 20
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH
PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TRẠNG THI HÀNH TẠI
HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................ 22
2.1. Quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do .. 22
2.2. Quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do cụ
thể. ........................................................................................................... 27
2.3. Thực trạng thi hành các hình phạt không tước tự do tại huyện Bình
Chánh, thành phố Hồ Chí Minh ................................................................ 36
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ ÁP DỤNG
ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH
PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO ....................................................................... 56
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện và áp dụng đúng các quy định của
pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do ............................... 56
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thi
hành các hình phạt không tước tự do ........................................................ 62
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
Nxb : Nhà xuất bản
TAND : Toà án nhân dân
TANDTC : Toà án nhân dân tối cao
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính không tước tự do tại huyện
Bình Chánh, Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014-2018 .............................. 38
Bảng 2.2. Tình hình ra quyết định thi hành án phạt không tước tự do của TAND
huyện Bình Chánh, Thành Phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014 - 2018 ................. 42
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống hình phạt của nước ta cũng như các nước trên thế giới,
các hình phạt không tước tự có vị trí, vai trò không kém phần quan trọng đối
với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Các hình phạt không
tước tự do được quy định trong BLHS hiện hành và áp dụng trong thực tiễn
xét xử không chỉ bảo đảm nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể
hóa hình phạt mà còn thể hiện rõ chính sách hình sự nhân đạo, tôn trọng và
bảo vệ quyền con người của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện trong Hiến
pháp năm 2013 cũng như Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó nhấn mạnh:
"Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tư pháp, đề cao hiệu
quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm
hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam
giữ đối với một số tội phạm,... " [3].
Trên cơ sở định hướng trên, TAND huyện Bình Chánh thành phố (TP)
Hồ Chí Minh đã chú trọng áp dụng các hình phạt không tước tự do, chủ động
phối hợp với VKSND, Cơ quan Công an, chính quyền địa phương tổ chức thi
hành án và quản lý chặt chẽ các đối tượng phải thi hành các hình phạt không
nước tự do, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm tại địa
bàn huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, thì công tác thi hành các
hình phạt không tự do tại huyện Bình Chánh TP Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều
hạn chế, thiếu sót nhất định. Thực tế cho thấy, các cơ quan có thẩm quyền chủ
yếu chú trọng đến việc thi hành hình phạt tước tự do của người bị kết án, ít
chú trọng đến công tác thi hành các hình phạt không tước tự do. Các cơ quan
có thẩm quyền của huyện chưa thật sự phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm
trong chỉ đạo, phối hợp, quản lý, giám sát việc thi hành các hình phạt không
1
tước tự do của người phải chấp hành án, nhất là trong việc giám sát, cảm hóa,
giáo dục, giúp đỡ những đối tượng chấp hành án tại cộng đồng dân cư. Do
vậy, trong nhiều trường hợp, việc chấp hành các hình phạt không tước tự do
chưa thật sự nghiêm túc, các vi phạm phát sinh trong quá trình thi hành án
không được phát hiện, xử lý kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa tái
phạm... Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót này trước hết là do các quy
định của pháp luật về thi hành án, nhất là Luật Thi hành án hình sự năm 2010
sau một thời gian áp dụng đã bộc lộ một số bất cập không còn phù hợp với
những quy định mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và
BLTTHS năm 2015 về các hình phạt không trước tự do, cũng như việc thi
hành các hình phạt này trên thực tế.
Trong khoa học pháp lý, những vấn đề lý luận về thi hành các hình phạt
không tước tự do vẫn chưa được làm rõ một cách hệ thống, toàn diện nên vẫn
còn những quan điểm khác nhau về thi hành các hình phạt này.
Như vậy, xét trên cả bình diện lý luận, thực tiễn và pháp lý đòi hỏi phải
tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về thi hành các
hình phạt không tước tự do nhằm làm sâu sắc thêm về mặt lý luận, cung cấp
những luận cứ khoa học để sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án hình sự năm
2010 cũng như bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật về thi
hành các hình phạt không tước tự do trên thực tế, nhất là ở địa bàn quận,
huyện, qua đó góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận.
Vì lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "Thi hành các hình phạt không
tước tự do từ thực tiễn huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh" để
nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng
hình sự là hết sức cần thiết và cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu nâng cao hiệu quả thi hành các hình phạt không tước tự do hiện nay.
2
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do
nói riêng là một trong những chủ đề đã được một số tác giả quan tâm nghiên
cứu ở nhiều phương diện, cấp độ khác nhau. Điển hình là các công trình
nghiên cứu sau đây:
+ Các công trình nghiên cứu lý luận: Giáo trình Luật Thi hành án hình
sự của tác giả Võ Khánh Vinh và Cao Thị Oanh, Nxb Khoa học Xã hội năm
2013; Tập bài giảng - Một số vấn đề lý luận về thi hành án hình sự của tác giả
Nguyễn Văn Hiển năm 2014; Bình luận khoa học Luật Thi hành án hình sự
năm 2010 của tác giả Nguyễn Ngọc Anh, Nxb Chính trị quốc gia năm 2012
v.v... Trong các công trình này chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận về
thi hành án hình sự, trong đó có thi hành án không tước tự do ở mức độ cơ
bản, khái quát nhất hoặc bình luận làm rõ nội dung pháp lý của Luật Thi hành
án hình sự năm 2010. Đây là cơ sở lý luận để học viên tham khảo trong việc
triển khai thực hiện đề tài của mình.
Ngoài hệ thống giáo trình còn có các cuốn sách chuyên khảo về thi
hành án hình sự như: cuốn "Pháp luật về thi hành án hình sự Việt Nam những
vấn đề lý luận và thực tiễn" của các tác giả Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh
Khánh, Nxb Tư pháp năm 2006; cuốn "Hoàn thiện quản lý nhà nước trong
lĩnh vực thi hành án hình sự ở Việt Nam" của tác giả Vũ Trọng Hách, Nxb Tư
pháp năm 2006; cuốn "Một số vấn đề về thi hành án hình sự" của tác giả Trần
Quang Tiệp, Nxb Công an nhân dân năm 2002.
Trong những cuốn sách chuyên khảo này, các tác giả chủ yếu đề cập đến
những vấn đề lý luận liên quan đến thi hành án hình sự nói chung như: pháp
luật về thi hành án hình sự; quản lý nhà nước về thi hành án hình sự, trong đó
có nội dung đề cập đến thi hành án không tước tự do. Đây cũng là những tài
liệu bổ ích để học viên tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn.
3
Nghiên cứu chuyên sâu về thi hành các hình phạt không tước tự do còn
có một số luận án, luận văn như: Luận án tiến sỹ "Các hình phạt chính không
tước tự do trong Luật Hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Minh Khuê,
Học viện Khoa học xã hội năm 2016; luận văn thạc sĩ: "Thi hành các hình
phạt không tước tự do từ thực tiễn quận Gò Vấp thành phố Hồ Chí Minh" của
tác giả Nguyễn Khắc Lan Chi, Học viện Khoa học xã hội năm 2018; luận văn
thạc sĩ "Thi hành các hình phạt không tước tự do từ thực tiễn huyện Củ Chi
thành phố Hồ Chí Minh" của tác giả Phan Văn Phước, Học viện Khoa học xã
hội năm 2018; luận văn thạc sĩ "Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ,
án treo từ thực tiễn tỉnh Cà Mau" của tác giả Nguyễn Thị Hiền, Học viện
Khoa học xã hội năm 2016; luận văn thạc sĩ "Áp dụng các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Phú Yên", Học viện Khoa
học xã hội năm 2019; luận văn thạc sĩ "Thi hành án treo từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh" của tác giả Nguyễn Thị Kim Nga, Học viện Khoa học xã
hội năm 2018 v.v... Đây là các công trình nghiên cứu chuyên sâu về thi hành
các hình phạt không tước tự do nên có ý nghĩa rất lớn đối với việc định hướng
nghiên cứu đề tài luận văn của học viên.
Ngoài các công trình nêu trên còn có nhiều bài báo khoa học được đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành bàn về các hình phạt không tước tự do và
việc thi hành các hình phạt này.
Như vậy, mặc dù có khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề
thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do nói
riêng nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về thi hành các hình phạt
không tước tự do từ thực tiễn huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh. Do
vậy, có thể xác định đề tài luận văn của học viên không trùng lặp với các công
trình nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn đã được công bố.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về các hình phạt không
tước tự do, về thi hành các hình phạt này, cũng như thực tiễn thi hành các
hình phạt không tước tự do tại huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh,
luận văn hướng tới mục đích đưa ra những luận cứ khoa học cho việc hoàn
thiện pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do, cũng như đề xuất
các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thi hành
các hình phạt này trên địa bàn huyện Bình Chánh nói riêng, trong phạm vi cả
nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau đây:
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về các hình phạt không tước tự
do cũng như về thi hành các hình phạt này.
+ Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật về thi hành các hình
phạt không tước tự do, chỉ ra mặt tích cực cũng như những hạn chế bất cập
trong các quy định đó cần tiếp tục hoàn thiện.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do
tại huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh, chỉ ra những kết quả đạt được
cũng như hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân cần khắc phục;
+ Đưa ra yêu cầu và giải pháp hoàn thiện cũng như bảo đảm áp dụng
đúng các quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do
trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật và thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do tại
một địa bàn cấp huyện.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về lý luận: luận văn nghiên cứu vấn đề thi hành các hình phạt chính
không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trong phạm vi
chuyên ngành Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự và Luật Thi hành án.
+ Về thực tiễn: luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn quy định và thi
hành các hình phạt không tước tự do của cơ quan có thẩm quyền.
+ Về không gian, thời gian: Luận văn nghiên cứu việc thi hành các hình
phạt không tước tự do tại huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh từ năm
2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về pháp luật, các
thành tựu của lý luận về thi hành án hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp áp dụng để nghiên cứu của luận văn là phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp
chuyên gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và phong phú thêm
lý luận chuyên ngành thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt
không tước tự do nói riêng
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo về sửa đổi, bổ sung
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản pháp luật có liên quan.
6
+ Ngoài ra, luận văn có thể tham khảo để triển khai các giải pháp bảo
đảm chất lượng, hiệu quả thi hành các hình phạt không tước tự do trên thực tế.
+ Luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên
cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo ngành luật, chuyên ngành thi hành án
hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về các hình phạt không tước tự do và
thi hành các hình phạt không tước tự do.
Chương 2: Quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không
tước tự do và thực trạng thi hành tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí
Minh.
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện và áp dụng đúng các quy
định của pháp luật về thi hành án hình phạt không tước tự do trong thời
gian tới.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC
TỰ DO VÀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
1.1. Những vấn đề lý luận về các hình phạt không tước tự do
1.1.1. Khái niệm các hình phạt không tước tự do
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước,
không có chế tài nào nghiêm khắc hơn hình phạt, dù chỉ là hình phạt cảnh cáo
hay phạt tiền cũng được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn các chế
tài hành chính, dân sự. Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ người
bị kết án sẽ bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích và bị coi là có án tích; hậu
quả pháp lý của hình phạt nặng hơn các chế tài hình chính và dân sự.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, hình phạt thường được chia
thành hai loại (nhóm) hình phạt: các hình phạt chính, các hình phạt bổ sung.
Cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung là
khả năng áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Về nguyên tắc, hình phạt
chính là hình phạt được tuyên độc lập và có tính chất bắt buộc, mỗi tội phạm
chỉ áp dụng một hình phạt chính; Hình phạt bổ sung ít nghiêm khắc hơn so
với hình phạt chính, vì không được tuyên độc lập mà chỉ tuyên kèm theo với
hình phạt chính.
Đối với một tội phạm chỉ được áp dụng một hình phạt chính nhưng có
thể áp dụng một hoặc nhiều hình phạt bổ sung.
Hình phạt chính gồm có: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
trục xuất, tù chung thân, tử hình (đối với cá nhân phạm tội), phạt tiền, đình
chỉ hoạt động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (đối với pháp nhân
thương mại phạm tội).
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ giới hạn nghiên cứu ba hình phạt
chính không tước tự do, gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ.
8
Trong khoa học hình sự chưa có một thuật ngữ thống nhất để chỉ các hình
phạt này, do vậy còn có nhiều cách gọi khác nhau như: "Các hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù" hoặc "Các hình phạt không tước tự do" v.v...
Theo chúng tôi, việc dùng thuật ngữ "các hình phạt không tước tự do"
để chỉ các hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền, trục xuất là
có cơ sở khoa học, thể hiện được bản chất, nội dung của các hình phạt này là
"không tước tự do của người bị kết án". Như vậy, khác với các hình phạt như:
tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn, nhóm các hình phạt không tước tự do
có tính chất, nội dung trừng trị ít nghiêm khắc hơn. Nhóm các hình phạt này
chỉ hạn chế một số quyền và tài sản, quyền cư trú hoặc chỉ tác động đến tinh
thần của người phạm tội (cảnh cáo) mà không tước đi quyền sống, quyền tự
do thân thể của người bị kết án. Người bị kết án phạt không tước tự do vẫn
được sinh sống, làm việc tại cộng đồng mà không bị cách ly khỏi xã hội. Do
đó, có thể thấy tiêu chí cơ bản để phân loại các hình phạt như cảnh cáo, phạt
tiền, cải tạo không giam giữ thành một nhóm là "mức độ tước đoạt hoặc hạn
chế quyền tự chủ và quyết định về cuộc sống của con người - biểu hiện cơ
bản về tự do". Với nhận thức như vậy, có thể hiểu: "Các hình phạt không
tước tự do là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được quy
định trong BLHS do Tòa án quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật, nhằm buộc người bị kết án phải chịu một số hậu quả pháp lý bất lợi
nhưng không tước bỏ, hạn chế các quyền tự do thân thể của người bị kết án,
nhằm tạo điều kiện cho họ họ tự cải tạo, giáo dục tại cộng đồng xã hội".
1.1.2. Đặc điểm của các hình phạt không tước tự do
Với tính chất là một trong những hình phạt nói chung, nên các hình
phạt không tước tự do cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của hình phạt
như là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước; được quy định
trong BLHS; do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người bị kết
9
án hoặc pháp nhân thương mại bị kết án... Ngoài những đặc điểm chung này,
các hình phạt không tước tự do còn mang những đặc điểm riêng và cơ bản
sau:
- Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội: Đây là điểm cơ bản
quan trọng nhất của hình phạt không tước tự do. Khi áp dụng các hình phạt
này, người bị kết án được tự cải tạo, giáo dục tại cộng đồng, không phải cách
ly khỏi xã hội; người bị kết án chấp hành hình phạt tại nơi họ sinh sống, làm
việc; họ chịu sự giám sát, giúp đỡ, giáo dục của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã
hội, chính quyền địa phương, gia đình.
- Tính trừng trị của các hình phạt không tước tự do thấp hơn các hình
phạt tù: Đối với hình phạt tù (tù chung thân, tù có thời hạn), tính chất trừng trị
hết sức nghiêm khắc, bởi khi được áp dụng, người bị kết án phạt tù bị tước bỏ
hoặc hạn chế quyền tự do thân thể. Nhà nước áp dụng biện pháp giam giữ,
giám sát chặt chẽ và kỷ luật nghiêm khắc để giáo dục, cải tạo người phạm tội;
còn đối với hình phạt không tước tự do tính trừng trị thấp hơn các hình phạt
tù, bởi người bị kết án phạt không tước tự do thì không bị tước bỏ, hạn chế
quyền tự do thân thể mà chỉ bị hạn chế một số quyền và lợi ích về tài sản, cư
trú hoặc chỉ bị tác động về tinh thần. Họ không phải cách ly khỏi xã hội mà
được sống, sinh hoạt, làm việc trong môi trường cộng đồng xã hội và gia đình
như bình thường. Đồng thời, Nhà nước không thực hiện sự giám sát thường
xuyên, liên tục, chặt chẽ đối với người bị kết án không tước tự do, mà để cho
họ tự nguyện chấp hành hình phạt tại cộng đồng, tự giáo dục, cải tạo trở thành
người có ích cho xã hội. Việc cưỡng chế chỉ được thực hiện khi người bị kết
án không tự do vi phạm nghĩa vụ chấp hành án hoặc có hành vi vi phạm pháp
luật.
- Phạm vi, điều kiện áp dụng các hình phạt không tước tự do hẹp hơn
hình phạt tước tự do (tù có thời hạn, tù chung thân)
10
Theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành thì: “Cảnh cáo được áp
dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ,
chưa đến mức miễn hình phạt” (Điều 35); hình phạt tiền được áp dụng đối với
người phạm tội, "người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng…” (Điều 36); hình
phạt cải tạo không giam giữ được “áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư
trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã
hội” (Điều 36. Trong khi đó, hình phạt tù (hình phạt tước tự do của người bị
kết án) được áp dụng với hầu hết các loại tội phạm.
- Đối tượng bị áp dụng một số hình phạt không tước tự do (phạt tiền)
rộng hơn so với hình phạt tù.
Theo quy định của Điều 35 BLHS hiện hành thì hình phạt tiền là hình
phạt chính được áp dụng không chỉ đối với cá nhân người phạm tội bị kết án
mà còn đối với pháp nhân thương mại bị kết án. Trong khi đó, hình phạt tù
chỉ được áp dụng đối với cá nhân người phạm tội bị kết án (thể nhân).
1.1.3. Nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng các hình phạt không tước
tự do cụ thể
- Hình phạt cảnh cáo: Cảnh cáo là hình phạt được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa
đến mức miễn hình phạt.
Hình phạt cảnh cáo được áp dụng không nhằm trực tiếp hạn chế hoặc
tước bỏ những quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án mà chỉ là sự
khiển trách (lên án) công khai của Nhà nước do Tòa án quyết định áp dụng
đối với người bị kết án. Như vậy, hình phạt cảnh cáo chỉ gây cho người bị kết
án những tổn thất về tinh thần, người bị kết án phải chịu sự lên án của Nhà
nước về hành vi phạm tội đã thực hiện.
11
Theo quy định của Điều 34 BLHS, hình phạt cảnh cáo được áp dụng
khi có đủ các điều kiện sau:
(1) Tội phạm mà người phạm tội thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng,
tức là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt được quy định là phạt
tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
(2) Có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
(3) Người bị kết án chưa đến mức được miễn hình phạt theo quy định
tại Điều 59 BLHS.
Đây là những điều kiện cần và đủ để Tòa án áp dụng hình phạt cảnh
cáo đối với người bị kết án, thiếu một trong những điều kiện này Tòa án
không được áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người bị kết án. Trong thực
tiễn xét xử, hình phạt cảnh cáo được Tòa án áp dụng rất hạn chế, thường chỉ
áp dụng đối với tội ít nghiêm trọng mà điều luật có quy định hình phạt này và
trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình
phạt.
- Phạt tiền: Phạt tiền là việc Tòa án buộc người bị kết án phải nộp một
số tiền nhất định theo quy định của pháp luật để sung quỹ nhà nước. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 thì hình phạt tiền được áp
dụng là hình phạt chính trong hai trường hợp sau: 1)“Người phạm tội ít
nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng; 2) Người phạm tội rất nghiêm trọng
liên quan đến tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công
cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy
định”. Ngoài ra, phạt tiền còn được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với
người phạm tội về tham nhũng, ma túy. Mức phạt tiền được quyết định căn cứ
vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình
hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không thấp
hơn 1.000.000 đồng.
12
Hình phạt tiền không chỉ được áp dụng đối với cá nhân người bị kết án
(thể nhân) mà còn được áp dụng đối với cả pháp nhân thương mại bị kết án.
Trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền vừa được quy định là hình phạt
chính, vừa được quy định là hình phạt bổ sung. Đây là hình phạt có khả năng
tác động về mặt kinh tế đối với cá nhân, pháp nhân thương mại phạm tội.
- Hình phạt án cải tạo không giam giữ: Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015
không quy định rõ bản chất, nội dung của hình phạt này, nhưng có thể hiểu
cải tạo không giam giữ là hình phạt không buộc người bị kết án phải cách ly
khỏi xã hội mà vẫn để họ sinh sống, lao động, học tập, làm việc tại môi
trường sống bình thường dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn
vị quân đội hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi người bị kết cư trú và gia
đình họ nhằm giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật, tôn trọng quy tắc của
cuộc sống xã hội.
Theo quy định tại Điều 36, những điều kiện để áp dụng hình phạt cải
tạo không giam giữ là: (1) Chỉ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng; (2) Người phạm tội phải có nơi làm việc ổn
định hoặc có nơi cư trú rõ ràng; Như vậy, điều kiện đầu tiên đề áp dụng hình
phạt này là điều kiện về loại tội phạm mà người phạm tội thực hiện. Theo
điều kiện này, hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng (tội phạm có mức cao nhất của khung hình
phạt được quy định là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm) hoặc tội phạm nghiêm trọng (tội phạm có mức cao nhất của khung hình
phạt được quy định là hình phạt tù đến 07 năm) trong những trường hợp được
BLHS quy định. Tuy nhiên, đây chỉ là điều kiện cần, do vậy, để áp dụng hình
phạt này còn phải có điều kiện thứ hai là: "Người phạm tội phải có nơi làm
việc ổn định hoặc nơi cư trú rõ ràng và xét thấy không cần thiết phải cách ly
khỏi xã hội". Ngoài ra, khoản 1 Điều 36 còn quy định cụ thể là thời hạn của
13
hình phạt cải tạo không giam giữ là từ 06 tháng đến 03 năm. Nếu người phạm
tội bị tạm giữ, tạm giam, thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời
gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm
giam, bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. Thêm vào đó, Điều 36 còn quy
định chủ thể và nghĩa vụ của các chủ thể trong thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ. Theo đó, Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ
cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục người phải chấp hành án.
Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ
theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập
từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trường hợp người bị phạt cải tạo
không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp
hành hình phạt phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng
trong thời gian cải tạo không giam giữ.
1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do
1.2.1. Khái niệm thi hành các hình phạt không tước tự do
Trong khoa học pháp lý, thi hành án hình sự được xem là giai đoạn cuối
cùng của quá trình giải quyết vụ án; có mối quan hệ mật thiết với giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Giai đoạn thi hành án hình sự có vai trò hết sức
quan trọng, bởi các hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử sẽ trở nên vô
nghĩa, nếu Bản án, Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi
hành hoặc thi hành không đầy đủ. Chính vì vậy, tại Điều 106 Hiến pháp 2013
có quy định “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về bản chất của thi hành án
hình sự như: thi hành án hình sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử; là
14
một giai đoạn của quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng các quy phạm của
luật tố tụng hình sự; là một hoạt động hành chính - tư pháp hình sự, có những
nét đặc thù riêng với hoạt động tố tụng hình sự. Việc xác định thi hành án
hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng là một
giai đoạn tố tụng hay là hoạt động hành chính - tư pháp hình sự có ý nghĩa
quan trọng của việc làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự nói chung và thi
hành các hình phạt không tước tự do nói riêng. Chỉ khi xác định đúng bản
chất thi hành các hình phạt không tước tự do thì mới có thể tổ chức thi hành
các hình phạt này đạt được mục đích đặt ra.
Thi hành các hình phạt không tước tự do là một dạng thi hành án hình
sự nói chung, vì vậy, khái niệm thi hành các hình phạt không tước tự do được
xây dựng trên cơ sở khái niệm thi hành án hình sự nói chung. Nghiên cứu và
kế thừa những yếu tố hợp lý trong khái niệm thi hành án hình sự mà các nhà
khoa học pháp lý đưa ra, có thể hiểu: "Thi hành các hình phạt không tước tự
do là hoạt động áp dụng pháp luật mang tính quyền lực nhà nước, tính cưỡng
chế nghiêm khắc, tính mục đích, định hướng rõ ràng do cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện dựa trên các nguyên tắc
nhất định và theo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ nhằm đưa các bản án
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế nhằm
cải tạo, giáo dục người bị kết án tại cộng đồng xã hội trở thành người lương
thiện, có ích cho xã hội, không phạm tội mới cũng như giáo dục người khác
có ý thức tôn trọng và bảo vệ pháp luật, ý thức đấu tranh phòng, chống tội
phạm".
1.2.2. Đặc điểm thi hành các hình phạt không tước tự do
- Thứ nhất, thi hành các hình phạt không tước tự do là hoạt động áp
dụng pháp luật mang tính quyền lực nhà nước, tính cưỡng chế nghiêm khắc
15
Thi hành các hình phạt không tước tự do thực chất là hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án
hình sự, pháp luật thi hành án dân sự (hình phạt tiền). Những quy định của
những ngành luật này đều điều chỉnh hoạt động thi hành các hình phạt không
tước tự do.
Trong BLHS hiện hành, những quy định có liên quan đến thi hành các
hình phạt không tước tự do bao gồm: các quy định về hình phạt cảnh cáo
(Điều 34); phạt tiền (Điều 35); cải tạo không giam giữ (Điều 36); trục xuất
(Điều 37); quy định về thời hạn thi hành bản án (Điều 60); quy định về miễn
chấp hành hình phạt (Điều 62); quy định về giảm mức hình phạt đã tuyên
(Điều 63 và Điều 64) v.v....
Trong BLTTHS những quy định liên quan đến thi hành các hình phạt
không tước tự do gồm: quy định về bản án, quyết định được thi hành ngay
(Điều 363); quy định về thẩm quyền, thủ tục ra quyết định thi hành án (Điều
364); quy định về giải thích sửa chữa bản án, quyết định của Tòa án (Điều
365) và quy định về giải quyết kiến nghị đối với bản án quyết định của Tòa án
(Điều 366).
Trong Luật Thi hành án hình sự năm 2010, những quy định liên quan
đến thi hành các hình phạt không tước tự do gồm: những quy định chung về
thi hành án hình sự (Chương 1); quy định về thi hành án phạt cải tạo không
giam giữ (Điều 72 đến Điều 81).
Với tính chất là hoạt động áp dụng pháp luật, thi hành các hình phạt
không tước tự do được thực hiện bởi cơ quan nhà nước và người có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ thi hành các hình
phạt không tước tự do, cơ quan và người có thẩm quyền nhân danh Nhà nước,
sử dụng quyền lực nhà nước để buộc người bị kết án phạt không tước tự do
phải chấp hành hình phạt tại cộng đồng xã hội. Đối với người phải chấp hành
16
án nếu không chấp hành hình phạt có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
"tội không chấp hành bản án" theo quy định tại Điều 380 BLHS. Trong
trường hợp, người phải chấp hành án vi phạm các quy định về thi hành án
hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng
chế cần thiết để buộc họ phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về thi
hành án hoặc chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, mức độ cưỡng
chế trong thi hành các hình phạt không tước tự do thấp hơn so với thi hành
hình phạt tù.
- Thứ hai, thi hành các hình phạt không tước tự do luôn hướng tới mục
đích và thực hiện những nhiệm vụ nhất định.
Trước hết, thi hành các hình phạt không tước tự do là nhằm bảo đảm các
hình phạt mà Tòa án quyết định áp dụng với người bị kết án trong bản án đã có
hiệu lực pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh trên thực tế. Đây là mục
đích, nhiệm vụ hàng đầu và rất quan trọng, bởi nếu các hình phạt không tước tự
do đã được Tòa án tuyên trong bản án đã có hiệu lực pháp luật mà không được
chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ thì toàn bộ quá trình tố tụng trước đó
(như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) khó mà có ý nghĩa.
Mặt khác, các hình phạt không tước tự do mà Tòa án tuyên phạt đối với
người bị kết án không được thi hành trên thực tế thì rất khó giáo dục được
người dân ý thức tôn trọng pháp luật, ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm.
Ngoài ra, thi hành các hình phạt không tước tự do còn nhằm mục đích
quản lý, giáo dục, cải tạo người bị kết án trở thành người lương thiện, có ích
cho xã hội, không tái phạm, tạo điều kiện cho họ tự giác cải tạo tại cộng đồng
cũng như phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức, gia đình và mọi người
dân trong việc giáo dục, cải tạo người bị kết án.
- Thứ ba, việc thi hành các hình phạt không tước tự do được thực hiện
bởi nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nơi người bị kết án cư trú, làm việc với
sự tham gia của gia đình người chấp hành án.
17
Nếu thi hành hình phạt tù được giao cho cơ quan chuyên trách thi hành
án hình sự thực hiện, thì việc thi hành các hình phạt không tước tự do được
thực hiện với nhiều cơ quan tổ chức khác nhau. Đây là những cơ quan được
giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự không phải là cơ quan chuyên trách.
Điều này thể hiện rõ tại các quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010
và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như: việc thi hành hình phạt
cảnh cáo do Tòa án thi hành ngay tại phiên tòa; việc thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ được giao cho UBND cấp xã giám sát, giáo dục; thi hành
hình phạt tiền do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Có thể thấy, pháp luật
quy định nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau thi hành các hình phạt không tước
tự do là xuất phát từ tính chất đa dạng của các hình phạt không tước tự do;
đồng thời là để thực hiện chủ trương từng bước xã hội hóa công tác thi hành
án hình sự đã được đề cập trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
- Thứ tư, thi hành các hình phạt không tước tự do có nội dung hết sức
đa dạng, gồm nhiều hoạt động cụ thể khác nhau.
Nội dung của thi hành án các hình phạt không tước tự do bao gồm tất
cả những hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho
bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thi hành trên thực tế. Những
hoạt động này có thể là hoạt động của TAND trong việc ra quyết định thi
hành án và chuyển quyết định đó cho cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thi
hành án (UBND cấp xã, Cơ quan thi hành án dân sự). Thuộc nội dung của thi
hành các hình phạt không tước tự do còn có các hoạt động của cơ quan, tổ
chức có trách nhiệm thi hành án trong việc quản lý, giáo dục, cải tạo người
chấp hành án tại cộng đồng (hình phạt cải tạo không giam giữ) hoặc hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự (hình phạt tiền).
18
- Thứ năm, thi hành các hình phạt không tước tự do được tiến hành theo
một trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ và theo những nguyên tắc nhất định.
Thi hành các hình phạt không tước tự do ảnh hưởng, tác động nhất định
đến quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án, nhất là quyền con người,
quyền công dân. Do vậy, hoạt động này phải được tiến hành theo một trình tự,
thủ tục pháp lý chặt do Luật Thi hành án hình sự quy định (hình phạt cảnh
cáo, cải tạo không giam giữ) hoặc do Luật Thi hành án dân sự quy định (hình
phạt tiền).
Ngoài ra, hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do còn phải
tuân thủ các nguyên tắc tiến bộ, có tính chất nền tảng, chỉ đạo như: tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải được
cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh; bảo đảm
nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích của người
chấp hành án; kết hợp giữa trừng trị với giáo dục, cải tạo trong thi hành án; áp
dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm
tội, tuổi, giới tính, trình độ văn hóa và các đặc điểm nhân thân khác của người
chấp hành án; khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học
tập, lao động, cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại; bảo đảm quyền khiếu
nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật trong hoạt động thi hành
án hình sự; bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình
vào việc giáo dục, cải tạo người chấp hành án (Điều 4 Luật Thi hành án năm
2010).
- Thứ sáu, việc thi hành các hình phạt không tước tự do được tiến hành
ngoài các cơ sở giam giữ. Nếu như hình phạt tù được thi hành tại các cơ sở
giam giữ như trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; thi hành hình phạt không
tước tự do được thi hành ở ngoài các cơ sở giam giữ nêu trên. Tùy thuộc vào
19
từng loại hình phạt không tước tự do cụ thể mà nơi thi hành có thể là: tại
phiên tòa (nếu là hình phạt cảnh cáo); tại nơi cư trú hoặc làm việc của người
bị kết án (nếu là hình phạt cải tạo không giam giữ); tại cơ quan thi hành án
dân sự (nếu là hình phạt tiền).
Tóm lại, thi hành các hình phạt không tước tự do với tính chất là một
hoạt động thi hành án hình sự, nên có đầy đủ các đặc điểm chung của thi hành
án hình sự. Tuy nhiên, thi hành các hình phạt không tước tự do là hoạt động
có tính chất đặc thù, do đó có những đặc điểm riêng khác với thi hành hình
phạt tù (hình phạt tước tự do của người bị kết án). Nắm vững những đặc điểm
này mới có thể tổ chức tốt việc thi hành các hình phạt không tước tự do trên
thực tế.
1.3. Ý nghĩa của thi hành các hình phạt không tước tự do
Mỗi loại hình phạt hay biện pháp tư pháp đều xuất phát từ mục đích
của nó mà quyết định nội dung, phương pháp, hình thức cũng như thời hạn thi
hành. Có thể nói, thi hành án hình sự là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất, có thể tước bỏ hoặc hạn chế nhất định những quyền và lợi ích về vật
chất, tinh thần của người bị kết án.
Hiệu quả hoạt động của thi hành án nói chung và thi hành các hình phạt
không tước tự do nói riêng đã phản ánh tính hiệu quả của việc thực thi quyền
lực Nhà nước trong thực tiễn cuộc sống và có ý nghĩa quan trọng trong việc
bảo đảm trật tự, công bằng xã hội, tạo niềm tin cho nhân dân vào nền công lý,
tính nghiêm minh của pháp luật. Và chỉ khi hoạt động thi hành án có hiệu quả
thì công lý mới được thực thi; điều này gắn liền với việc bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội.
Việc tổ chức thi hành có hiệu quả các hình phạt không tước tự do sẽ
phản ánh tính đúng đắn của cơ chế quản lý Nhà nước trong công tác thi hành
án, mà còn phản ánh tính quyền lực của Nhà nước, bảo vệ pháp chế, trật tự và
20
công bằng xã hội. Khi áp dụng các hình phạt không tước tự do, Nhà nước đã
thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong việc xử lý người phạm tội, tác động
tích cực đến nhận thức của người phạm tội, giúp họ cải tạo, phấn đấu trở
thành người có ích cho xã hội; còn giúp cho người bị kết án không gặp khó
khăn, trở ngại khi tái hòa nhập cộng đồng.
Kết luận chương 1
Thi hành án hình sự là hoạt động có định hướng của các chủ thể do luật
định, nhằm thực hiện các phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật về
các loại hình phạt đã được áp dụng đối với người bị kết án. Trừ hình phạt tử
hình, loại bỏ những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng không có khả năng
cải tạo, giáo dục ra khởi đời sống xã hội; hình phạt không tước tự do nhằm
mục đích giáo dục người bị kết án trở thành người lương thiện; người chấp
hành hình phạt không tước tự do không phải cách ly khỏi xã hội, phải tự cải
tạo và chịu sự giám sát, giáo dục của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
chính quyền địa phương, gia đình.
Theo pháp luật thực định, khi áp dụng các hình phạt không tự do phải
đảm bảo nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, người bị kết án phải chịu
hậu quả pháp lý trong một thời gian nhất định do luật định và những người
này chỉ được coi là “người lương thiện” khi họ được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác nhận họ đã chấp hành xong hình phạt theo quyết định thi
hành án. Mặc dù là hình phạt không tước tự do nhưng vẫn đảm bảo tính giáo
dục, tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội,
điều này được chứng minh tại chương 2.
21
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT
KHÔNG TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TRẠNG THI HÀNH
TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước
tự do
2.1.1. Các quy định chung có liên quan đến thi hành các hình phạt
không tước tự do
2.1.1.1. Quy định về bản án và quyết định được thi hành ngay
Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành ngay là bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay sau khi Tòa án cấp sơ thẩm tuyên
án hoặc từ khi ra quyết định mà không cần đợi đến khi bản án, quyết định đó
có hiệu lực pháp luật.
Theo Điều 363 của BLTTHS thì: “Trường hợp bị cáo đang bị tạm
giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có
tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không
phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn
phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định
của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị;
Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa”. Quy định này cho
thấy, nếu người bị kết án thuộc một trong những trường hợp trên thì các bản
án, quyết định của Tòa án được thi hành ngay tại phiên tòa, điều đó cũng có
nghĩa là bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và được
đưa ra thi hành.
2.1.1.2. Quy định về thẩm quyền và thủ tục ra quyết định thi hành án
Theo quy định tại Điều 364 của BLTTHS thì: "Chánh án Tòa án đã xét
xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Chánh
22
án Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án. Trong thời hạn 07 ngày
kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày
nhận được quyết định ủy thác thi hành án thì Chánh án Tòa án xét xử sơ thẩm
hoặc được ủy thác phải ra quyết định thi hành án".
Theo hướng dẫn của TANDTC, việc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp
ra quyết định thi hành án chỉ được thực hiện khi thuộc một trong những
trường hợp sau đây:
+ Sau khi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết định thi hành án và
đã gửi cho cơ quan Công an cùng cấp để thi hành, nhưng cơ quan Công an
cùng cấp thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết là người bị kết án đã
chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể;
+ Tòa án đã xét xử vụ án có căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú
trên địa bàn hành chính khác.
2.1.1.3. Quy định về giải thích, sửa chữa bản án, quyết định của Tòa án
Theo quy định tại khoản 2 Điều 365 của Bộ luật tố tụng hình sự thì “
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã ra bản án, quyết định có trách nhiệm giải
thích, sửa chữa những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định của Tòa án.
Trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không thể thực hiện được thì việc
giải thích, sửa chữa do Chánh án Tòa án đã ra bản án, quyết định đó thực
hiện”. Như vậy, chỉ có chủ tỏa phiên tòa đã xét xử vụ án và ra bản án, quyết
định thi hành án đối với người bị kết án mới có trách nhiệm giải thích, sửa
chữa bản án đã tuyên và quyết định thi hành án hình sự.
Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án có những điểm chưa rõ cần
phải giải thích là trường hợp bản án, quyết định của Tòa án gây khó hiểu, có
những nhận thức khác nhau, gây khó khăn cho việc thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án có điểm cần phải sửa chữa là
trường hợp phát hiện có lỗi chính tả, số liệu do nhầm lẫn hoặc do tính toán sai.
23
2.1.1.4. Quy định về giải quyết kiến nghị đối với bản án, quyết định của
Tòa án
Theo Điều 366 của BLTTHS thì "trường hợp cơ quan thi hành án dân
sự kiến nghị về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm thì Tòa án có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời kiến
nghị đó bằng văn bản kiến nghị".
Từ quy định này cho thấy, trong quá trình tổ chức việc thi hành án, nếu
phát hiện kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc
giải quyết vụ án hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật
của Tòa án thì cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự có
quyền kiến nghị về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ
tục giám đốc thẩm. Nếu phát hiện có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản
nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì cơ
quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự có quyền kiến nghị về
việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục tái thẩm.
Trường hợp cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự
kiến nghị về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm thì Tòa án có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời trong thời
hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị. Trường hợp vụ án phức
tạp thì thời hạn trả lời có thể kéo dài nhưng không quá 120 ngày kể từ ngày
nhận được văn bản kiến nghị.
2.1.1.5. Quy định về điều kiện thi hành các hình phạt không tước tự do
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án năm 2010 thì bản án tuyên
phạt không tước tự do của người bị kết án chỉ được thi hành khi đáp ứng các
điều kiện sau:
24
+ Bản án, quyết định tuyên phạt không tước tự do của người bị kết án
có hiệu lực pháp luật.
+ Đã có quyết định thi hành
Qua đây cho thấy, bản án phạt không tước tự do mà cụ thể là bản án
phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền của Tòa án được đưa ra thi hành bản án
đó phát sinh hiệu lực pháp luật. Đây là điều kiện đầu tiên để có thể đưa bản án
ra thi hành trên thực tế.
Theo quy định của Điều 2 Luật Thi hành án năm 2010 thì bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật gồm:
1) Bản án hoặc một phần bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị
kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
2) Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm;
3) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Về nguyên tắc, một bản án phạt không tước tự do của Tòa án cấp sơ
thẩm chỉ phát sinh hiệu lực pháp luật khi nội dung của bản án đó phản ánh
đúng sự thật khách quan của vụ án và không bị kháng cáo, kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm.
Như vậy, điều kiện để thi hành các hình phạt không tước tự do là bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Vì thế, thời điểm bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật chính là thời điểm để thi hành các
hình phạt không tước tự do. Tuy nhiên, bên cạnh thời điểm phát sinh hiệu lực
pháp luật nêu trên, bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật chỉ trở
thành điều kiện thi hành án phạt không tước tự do nếu bản án, quyết định đó
còn thời hiệu thi hành. Theo quy định của Điều 60 BLHS hiện hành (năm
2015) thì:
"1. Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy
định mà khi hết thời hạn đó, người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án
không phải chấp hành bản án đã tuyên.
25
2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án được quy
định như sau:
a) 05 năm đối với trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ
hoặc xử phạt tù từ 03 năm trở xuống;
b) 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tù trên 03 năm đến 15 năm;
c) 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình.
3. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với pháp nhân thương mại là
02 năm.
4. Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này
người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án lại thực hiện hành vi phạm
tội mới, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
5. Trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người bị kết án cố tình
trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày người
đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ".
Với quy định về thời hiệu thi hành bản án nêu trên cho thấy, chỉ những
bản án hình sự còn trong thời hiệu thi hành bản án thì mới đủ điều kiện để thi
hành trên thực tế. Đối với những bản án xử phạt tiền hoặc cải tạo không giam
giữ thì thời hiệu thi hành bản án là 05 năm kể từ ngày bản án phát sinh hiệu
lực pháp luật.
Như vậy, về nguyên tắc chỉ đưa ra thi hành bản án phạt tiền hoặc cải
tạo không giam giữ với điều kiện là "có hiệu lực pháp luật" và "còn thời hiệu
thi hành".
Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của bị cáo, Điều 363 BLTTHS năm
2015 quy định những trường hợp bản án, quyết định được thi hành ngay mặc
dù chưa có hiệu lực pháp luật (vấn đề này đã phân tích ở trên).
26
Theo quy định của pháp luật, thì đây mới chỉ là điều kiện cần nhưng
chưa đủ để đưa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và thi hành. Do
vậy, để bản án quyết định phạt không tước tự do được thi hành phải đáp ứng
điều kiện tiếp theo là "đã có quyết định thi hành án" của cơ quan, người có
thẩm quyền. Đây là điều kiện về mặt thủ tục (hình thức) để bản án, quyết định
phạt không tước tự do có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thi hành trên
thực tế. Vì bản án, quyết định phạt không tước tự do mặc dù đã có hiệu lực
pháp luật nhưng không thể đương nhiên được thi hành mà cần phải có quyết
định thi hành án của cơ quan và người có thẩm quyền theo quy định tại Điều
364 BLTTHS năm 2015.
Tóm lại, điều kiện để thi hành bản án phạt không tước tự do (phạt tiền,
cải tạo không giam giữ) của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật còn thời hiệu thi
hành án và đã có quyết định thi hành án của cơ quan, người có thẩm quyền là
hai điều kiện cần và đủ do luật định buộc cơ quan người có thẩm quyền thi
hành án hình sự và tuân theo khi buộc người bị kết án phạt tiền, cải tạo không
giam giữ phải chấp hành án tại nơi cư trú hoặc làm việc của người bị kết án.
2.2. Quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước
tự do cụ thể.
2.2.1. Thi hành án phạt cảnh cáo
Theo quy định tại Điều 71 Luật thi hành án hình sự năm 2010 thì:
“Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa do Tòa án tuyên;
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, Toà án đã xét
xử sơ thẩm phải gửi bản án cho người bị phạt cảnh cáo, cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi người bị phạt cảnh cáo cư trú hoặc làm việc, Sở Tư
pháp nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm có trụ sở; Cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có trách nhiệm
27
theo dõi, thống kê, báo cáo theo quy định của Luật thi hành án hình sự”. Như
vậy, với quy định trên hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa.
Điều này xuất phát từ tính đặc thù của hình phạt cảnh cáo là biện pháp công
khai bản án của Nhà nước đối với người phạm tội nên việc thi hành cũng như
chấp hành hình phạt cảnh cáo không giống như việc thi hành các hình phạt
không tước tự do khác như cải tạo không giam giữ, phạt tiền... Bởi ngay sau
khi Tòa án công khai tuyên án phạt cảnh cáo cũng có nghĩa là người bị kết án
cảnh cáo đã chấp hành xong hình phạt cảnh cáo hay nói một cách khác là hình
phạt cảnh cáo không phải tổ chức thi hành.
Tuy nhiên, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 có quy định việc
chuyển giao bản án cảnh cáo cho cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện,
UBND cấp xã, Sở Tư pháp... chứng tỏ rằng người bị kết án vẫn cần phải giám
sát, giáo dục tại cộng đồng để họ trở thành người lương thiện, có ích cho xã
hội.
2.2.2. Quy định của pháp luật thi hành án dân sự về thi hành án phạt
tiền
Hình phạt tiền được quy định tại Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015,
nhưng Luật thi hành án hình sự năm 2010 (Luật thi hành hình sự năm 2019)
lại không có điều khoản về việc thi hành án phạt tiền đối với cá nhân phạm tội
(LTHAHS năm 2019 có quy định trình tự, thủ tục đối với pháp nhân phạm
tội). Tuy nhiên, tại Điều 267 của BLTTHS năm 2003 có quy định về thi hành
hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, theo đó, quyết định đưa bản án phạt tiền ra
thi hành phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, chấp hành viên, người bị
kết án và chính quyền xã nơi người bị kết án cư trú. Đồng thời tại khoản 5
Điều 257 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ thi hành bản án và quyết định của Toà án là: "Cơ quan thi hành án
dân sự thi hành hình phạt tiền và quyết định dân sự trong vụ án hình sự.
Chính quyền xã hoặc cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giúp chấp hành viên trong 28
việc thi hành án. Nếu cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thì
cơ quan Công an và các cơ quan hữu quan khác có nhiệm vụ phối hợp".
Hiện nay, thẩm quyền, trình tự thủ tục tổ chức thi hành án phạt tiền sẽ
được thực hiện theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014 và 2018). Theo Điều 36 Luật thi hành án dân sự 2018 thì: "Thủ trưởng
Cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản
án, quyết định về hình phạt tiền, không phân biệt là hình phạt chính hay hình
phạt bổ sung và phân công chấp hành viên tổ chức thi hành Quyết định thi
hành án đó. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án,
quyết định thi hành án phạt tiền của Tòa án gửi đến, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án. Trong thời hạn 03 ngày làm
việc, kể từ ngày ra quyết định, các quyết định về thi hành án phải được gửi
cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã và người chấp
hành án. Trường hợp người chấp hành án không thực hiện nghĩa vụ của mình
thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định cưỡng chế thi
hành án, đồng thời quyết định này phải được gửi cho Ủy ban nhân dân xã nơi
tổ chức cưỡng chế thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến
việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án". Để đảm bảo nguyên tắc
nhân đạo, Điều 61 Luật thi hành án dân sự năm 2018 còn quy định việc miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước của
người phải thi hành án được xét miễn nghĩa vụ thi hành án, theo đó:
- Khi người chấp hành án không có tài sản hoặc có tài sản nhưng tài sản
đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án hoặc không
có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải
thi hành án và người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng; sau khi hết thời hạn
05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách
nhà nước có giá trị dưới 2.000.000 đồng hoặc hết thời hạn 10 năm, kể từ ngày
29
ra quyết định thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị
từ 2.000.000 đồng đến dưới 5.000.000 đồng.
- Khi người phải thi hành án đã thi hành được một phần hình phạt tiền,
được xét miễn thi hành phần phần tiền phạt chưa thực hiện, khi người chấp
hành án không có khả năng nộp phần tiền phạt theo bản án, quyết định của
Tòa án; hết thời hạn 05 năm mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị dưới
5.000.000 đồng hoặc hết thời hạn 10 năm mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị
từ 5.000.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng, tính từ ngày ra quyết định thi
hành án.
- Khi người phải thi hành án đã thi hành được một phần hình phạt tiền
nếu không có tài sản hoặc có tài sản theo quy định của pháp luật không được
xử lý để thi hành án, không có nguồn thu nhập, nguồn thu nhập không đảm
bảo để thi hành án thì được xét giảm một phần hình phạt tiền theo quy định.
Hết thời hạn 05 năm, phần tiền phạt còn lại có giá trị từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng thì mỗi lần giảm không quá một phần tư (1/4) số tiền còn
lại phải thi hành án; hết thời hạn 10 năm, phần hình phạt tiền còn lại có giá trị
trên 100.000.000 đồng thì mỗi lần giảm không quá một phần năm (1/5) số tiền
còn lại phải thi hành án tối đa, không quá 50.000.000 đồng tính từ ngày ra
quyết định thi hành án.
- Khi người phải thi hành án đã tích cực thi hành được một phần án phí,
tiền phạt, nhưng lâm vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai,
hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục thi hành án hoặc
người phải thi hành án lập công lớn thì được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ
hình phạt còn lại.
Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị
xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, Tòa án phải thụ lý hồ sơ đề nghị xét
miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án; trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý hồ
30
sơ, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải mở phiên họp xét miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án; trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra
quyết định về việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, Tòa án phải gửi quyết
định miễn, giảm cho người được xét miễn, giảm thi hành án, Viện kiểm sát
cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp và cơ quan thi hành án dân sự đề
nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, trại giam, trại tạm giam nơi người
được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành đối với khoản thu nộp ngân sách nhà
nước đang chấp hành hình phạt tù.
2.2.3. Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ
Khác với hình phạt cảnh cáo, hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ
được thi hành khi bản án về hình phạt này có hiệu lực pháp luật và đã có
quyết định thi hành án.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010
(khoản 8 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự sửa đổi) thì: "Thi hành án phạt cải
tạo không giam giữ là việc cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật giám sát, giáo dục người chấp hành án tại nơi cư trú hoặc
nơi làm việc, học tập; khấu trừ một phần thu nhập sung quỹ Nhà nước, giám
sát việc thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng theo bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật".
Khác với hình phạt cảnh cáo, hình phạt cải tạo không giam giữ chủ
được thi hành khi bản án của Tòa án về hình phạt này có hiệu lực pháp luật và
đã có quyết định thi hành án. Đồng thời trong quyết định thi hành án: 1.
“Phải ghi rõ họ tên người ra quyết định; bản án được thi hành; họ tên, ngày,
tháng, năm sinh, nơi cư trú của người chấp hành án; thời hạn chấp hành án
phạt cải tạo không giam giữ; hình phạt bổ sung; tên cơ quan có nhiệm vụ thi
hành; Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người chấp hành
án".
31
2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành
án, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người chấp hành án; Viện kiểm sát
cùng cấp; Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chấp
hành án cư trú, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người chấp
hành án làm việc; Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có
trụ sở”.
Pháp luật quy định việc ra quyết định nội dung quyết định cũng như
việc gửi quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Tòa án cho
các chủ thể trên là nhằm nâng cao trách nhiệm của Tòa án và các cơ quan có
thẩm quyền thi hành án trong việc tổ chức thi hành án phạt cải tạo không
giam giữ.
Những quy định về thi hành án cải tạo không giam giữ được quy định
cụ thể từ Điều 73 đến Điều 81 Luật Thi hành hình sự. Cụ thể là:
Điều 73 quy định về thủ tục thi hành quyết định thi hành án cải tạo
không giam giữ, theo đó:
"1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định
thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi
hành án hình sự cấp quân khu có nhiệm vụ triệu tập người chấp hành án đến
trụ sở cơ quan thi hành án để ấn định thời gian người chấp hành án có mặt
tại Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục và cam kết việc
chấp hành án, lập hồ sơ thi hành án. Hồ sơ thi hành án bao gồm: Bản án đã
có hiệu lực pháp luật; Quyết định thi hành án; Cam kết của người chấp hành
án; Tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án.
2. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày triệu tập người chấp hành án, cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự
cấp quân khu phải giao hồ sơ cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám
sát, giáo dục.
32
3. Trước khi hết thời hạn chấp hành án 03 ngày, Ủy ban nhân dân cấp
xã được giao giám sát, giáo dục bàn giao hồ sơ thi hành án cho cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân
khu để cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt cải tạo không giam
giữ ngay khi hết thời hạn chấp hành án. Giấy chứng nhận phải gửi cho người
chấp hành án, Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục, Tòa án
đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi
hành án có trụ sở".
Từ quy định này cho thấy, cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành án
phạt này là cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện và cơ quan thi
hành án hình sự cấp quân khu. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này là lập
hồ sơ chấp hành án; triệu tập người bị kết án, người đại diện hợp pháp của
người được hưởng án phạt cải tạo không giam giữ; giao hồ sơ thi hành án cho
Ủy ban nhân dân cấp xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người chấp
hành án; xem xét, cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt cải tạo
không giam giữ ngay khi hết thời hạn chấp hành án; gửi giấy chứng nhận này
cho người chấp hành án, Ủy ban nhân dân cấp xã giao giám sát, giáo dục và
Tòa án đã quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi
hành án có trụ sở; đồng thời thực hiện chế độ thông tin, báo cáo.
- Nhiệm vụ tổ chức thực hiện thi hành án phạt cải tạo không giam giữ
của Ủy ban nhân dân cấp xã giao giám sát, giáo dục người chấp hành án được
quy định chi tiết tại Điều 74 Luật thi hành án hình sự, theo đó:
"1. Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan được giao giám sát, giáo dục
người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
tiếp nhận hồ sơ, tổ chức giám sát, giáo dục người chấp hành án; phân công
người trực tiếp giám sát, giáo dục người chấp hành án; yêu cầu người chấp
hành án thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; có biện pháp giáo dục, phòng
ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật; biểu dương người chấp
33
hành án có nhiều tiến bộ hoặc lập công; giải quyết cho người chấp hành án
được vắng mặt ở nơi cư trú theo quy định của Luật thi hành án và pháp luật
về cư trú; phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự thực hiện khấu trừ một
phần thu nhập của người chấp hành án theo quyết định của Toà án để sung
quỹ nhà nước; phối hợp với gia đình, cơ quan và tổ chức nơi người chấp
hành án làm việc, học tập trong việc giám sát, giáo dục người đó; lập hồ sơ
đề nghị xem xét việc giảm thời hạn chấp hành án, miễn chấp hành án gửi cơ
quan có thẩm quyền đề nghị quy định tại khoản 1 Điều 77 của Luật Thi hành
án hình sự; nhận xét bằng văn bản và lưu vào sổ theo dõi về quá trình chấp
hành án của người chấp hành án khi người đó chuyển đi nơi khác; thống kê,
báo cáo cơ quan thi hành án hình sự về kết quả thi hành án; xử phạt vi phạm
hành chính theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính đối với người chấp hành án theo quy định của pháp luật;
giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án theo quy định của pháp luật".
Theo khoản 2 Điều 74 Luật thi hành án hình sự, thì: Trưởng Công an
cấp xã có nhiệm vụ tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ được nêu trên.
Đối với đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành
án có nhiệm vụ, quyền hạn tương tự như nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban
nhân dân cấp xã, nhưng trừ một số nhiệm vụ, quyền hạn như: xử phạt vi phạm
hành chính theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính đối với người chấp hành án theo quy định của pháp luật;
giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án. Như vậy, nhiệm vụ của đơn vị
quân đội chỉ có 10/12 nhiệm vụ so với Ủy ban nhân dân cấp xã tại khoản 1
Điều 74 Luật thi hành án hình sự năm 2010.
Quy định này rất cần thiết và phù hợp để bảo đảm tính chặt chẽ, nâng
cao hiệu quả hoạt động thi hành án hình sự và quan hệ phối hợp giữa các cơ
34
quan có thẩm quyền trong việc tổ chức, theo dõi và thi hành án phạt cải tạo
không giam giữ.
Ngoài quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án hình sự
trong hoạt động giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không
giam giữ. Luật Thi hành án hình sự còn quy định về nghĩa vụ của người chấp
hành án (Điều 75) và trách nhiệm của gia đình người chấp hành án. Điều này
được quy định tại (Điều 76). Cụ thể là:
+ Để đảm bảo cho hoạt động thi hành án cải tạo không giam giữ có
hiệu quả, hiệu lực, tại Điều 75 Luật thi hành án hình sự quy định về nghĩa vụ
của người chấp hành án, đó là: "Chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của mình
trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy,
quy chế của nơi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp
hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ
nộp phần thu nhập bị khấu trừ theo bản án của Tòa án. Phải có mặt theo yêu
cầu Ủy ban nhân dân cấp xã nơi được giao giám sát, giáo dục. Trường hợp
người chấp hành án đi khỏi nơi cư trú từ 01 ngày trở lên thì phải khai báo
tạm vắng. Ba tháng một lần phải nộp bản tự nhận xét về việc thực hiện nghĩa
vụ chấp hành án cho người trực tiếp giám sát, giáo dục về việc chấp hành
pháp luật; trường hợp đi khỏi nơi cư trú từ 03 tháng đến 06 tháng, thì phải có
nhận xét của Công an cấp xã nơi người đó đến lưu trú hoặc tạm trú để trình
Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người đó". Trong quá
trình chấp hành án, cải tạo không giam giữ ngoài sự giám sát, giáo dục của cơ
quan thi hành án hình sự, thì trách nhiệm của gia đình người chấp hành án
cũng rất quan trọng. Do vậy, Điều 81 Luật thi hành án hình sự quy định trách
nhiệm của gia đình người chấp hành án. Theo đó, "gia đình người chấp hành
án trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, người được phân công
giám sát, giáo dục người chấp hành án để giám sát, giáo dục họ. Thông báo
kết quả chấp hành án của người chấp hành án với Ủy ban nhân dân cấp xã
35
giao giám sát, giám dục khi có yêu cầu. Bồi thường thiệt hại và thực hiện các
nghĩa vụ dân sự khác do người chấp hành án là người chưa thành niên gây ra
theo bản án, quyết định của Tòa án. Có mặt tại cuộc họp kiểm điểm người
chấp hành án theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát,
giáo dục".
2.3. Thực trạng thi hành các hình phạt không tước tự do tại huyện
Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của huyện Bình Chánh
Huyện Bình Chánh là một trong 05 huyện ngoại thành thuộc thành phố
Hồ Chí Minh, với vị trí là địa lý cửa ngõ phía Tây Nam, nối liền thành phố
Hồ Chí Minh với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (phía Đông giáp quận
Bình Tân, quận 7, quận 8 và huyện Nhà Bè; phía Tây giáp huyện Đức Hòa -
tỉnh Long An; phía Bắc giáp huyện Hóc Môn; phía Nam giáp huyện Bến Lức,
huyện Cần Giuộc - tỉnh Long An). Bình Chánh có diện tích tự nhiên là
25.255,99 ha; dân số có 686.837 người với 176.872 hộ (tính đến ngày 31
tháng 12 năm 2018), trong đó người dân tạm trú khoảng từ 40% đến 60%;
đơn vị hành chính được chia thành 15 xã và 01 thị trấn với 101 ấp, 05 khu
phố, 1.778 tổ nhân dân, 65 tổ dân phố, gồm: thị trấn Tân Túc (là trung tâm
hành chính Huyện), xã An Phú Tây, Bình Hưng, Bình Chánh, Tân Kiên, Tân
Quý Tây, Tân Nhựt, Hưng Long, Phong Phú, Đa Phước, Qui Đức, Phạm Văn
Hai, Lê Minh Xuân, Bình Lợi, Vĩnh Lộc A và Vĩnh Lộc B. Dân số biến động
rất nhanh, trung bình mỗi năm tăng 22.510 người (năm 2018: 686.837 người
tăng 112.551 người, so với năm 2014: 574.286 người), trong đó có xã có số
dân cao nhất là xã Vĩnh Lộc A có 119.795 người, Vĩnh Lộc B có 118.835
người và xã Bình Hưng có 87.509 dân; xã có số dân thấp nhất là xã Bình Lợi
có 12.887 dân, xã Qui Đức có 15.004 dân và xã An Phú Tây có 18.071 dân.
36
Vì là cửa ngõ của thành phố nên có nhiều điều kiện thuận lợi để giao
thương giữa các tỉnh thành với nhau, kinh tế ngày một phát triển, người dân
dễ làm ăn, sinh sống; chính điều này, nên người dân từ các tỉnh đến thành phố
Hồ Chí Minh, đặc biệt là huyện Bình Chánh. Song song với sự phát triển kinh
tế xã hội, kéo theo sự tăng dân số cơ học nhanh, công tác quản lý nhà nước về
an ninh trật tự, an toàn xã hội ngày càng tăng cường. Nơi nào dân số biến
động nhanh, an ninh trật tự nơi đó phức tạp, tệ nạn xã hội phát sinh, người vi
phạm pháp luật tăng. Trong 05 năm trên địa bàn huyện Bình Chánh xảy ra
2.791 vụ vi phạm liên quan đến an ninh trật tự - an toàn xã hội, trong đó: có
1.540 vụ phạm pháp hình sự, 337 vụ tội phạm ma túy, 343 vụ tệ nạn xã hội
liên quan đến đánh bài, đá gà, mại dâm, game… và 557 vụ tai nạn giao thông.
Không vì dân số tăng nhanh mà công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự
buông lỏng, ngược lại công tác tuần tra, kiểm tra thường xuyên thực hiện
nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội của tội phạm.
2.3.2. Thực trạng áp dụng và thi hành các hình phạt không tước tự do
tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
2.3.2.1. Thực trạng áp dụng các hình phạt không tước tự do tại huyện
Bình Chánh
Qua số liệu thống kê của TAND huyện Bình Chánh thấy rằng, từ năm
2014 đến năm 2018 trong tổng số 2.271 bị cáo bị Tòa án huyện xét xử sơ
thẩm chỉ có 22 bị cáo được áp dụng các hình phạt không tước tự do (chiếm
0,97%), số còn lại bị Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Cụ thể các năm
như sau:
Năm 2014: Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xét xử 426 vụ, với
593 bị cáo, trong đó: hình phạt cải tạo không giam giữ là 01 trường hợp.
Năm 2015: Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xét xử 479 vụ, với
490 bị cáo, trong đó: có 02 bị cáo áp dụng hình phạt tiền.
37
Năm 2016: Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xét xử 437 vụ, với
453 bị cáo, trong đó: có 01 bị cáo áp dụng hình phạt tiền, 04 bị cáo được áp
dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
Năm 2017: Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xét xử 275 vụ, với
351 bị cáo, trong đó: số bị cáo áp dụng hình phạt tiền là 09 trường hợp, hình
phạt cải tạo không giam giữ là 04 bị cáo.
Năm 2018: Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xét xử 258 vụ, với
384 bị cáo, trong đó: số bị cáo áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ là 01
bị cáo (xem bảng 2.1).
Bảng 2.1. Tình hình thực tiễn áp dụng các hình phạt không tước tự
do của TAND huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2014 – 2018
Số bị cáo áp dụng các hình phạt không Tổng số tước tự do STT Năm bị cáo đã Cải tạo không xét xử Cảnh cáo Phạt tiền giam giữ
1 2014 593 0 1 0
2 2015 490 2 0 0
3 2016 453 1 4 0
4 2017 351 9 4 0
5 2018 384 0 1 0
Tổng 2.271 12 10 0
(Nguồn: Số liệu thống kê từ Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh)
Từ số liệu thống kê nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét cơ bản sau đây:
+ Số bị cáo mà TAND huyện Bình Chánh áp dụng các hình phạt không
tước tự do chiếm tỷ lệ thấp, cụ thể chỉ có 22/2.271 bị cáo, chiếm tỷ lệ 0,97%.
38
+ Số bị cáo mà TAND huyện Bình Chánh áp dụng các hình phạt không
tước tự do có xu hướng tăng dần theo từng năm. Nếu năm 2014 chỉ có 01 bị
cáo được áp dụng hình phạt không tước tự do (hình phạt cải tạo không giam
giữ), thì: năm 2015 có 02 bị cáo được áp dụng hình phạt không tước tự do là
hình phạt tiền; năm 2016 có 05 bị cáo được áp dụng các hình không tước tự
do (trong đó có 01 bị cáo áp dụng hình phạt tiền và 04 bị cáo áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ); năm 2017 có 13 bị cáo được áp dụng các hình
phạt không tước tự do (trong đó có 09 bị cáo áp dụng hình phạt tiền và 04 bị
cáo áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ), đây là năm có số bị cáo được
áp dụng hình phạt không tước tự do cao nhất trong giai đoạn từ năm 2014 đến
năm 2018 (13/22 bị cáo, chiếm 59,09%). Tuy nhiên, năm 2018 thì chỉ có 01
bị cáo được áp dụng hình phạt không tước tự do là hình phạt cải tạo không
giam giữ. Thực tế này cho thấy, TAND huyện Bình Chánh đã quán triệt
nghiêm túc chủ trương của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện trong Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 là: "Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt
tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm" [3].
+ Các hình phạt không tước tự do mà TAND huyện Bình Chánh áp
dụng đối với bị cáo trong giai đoạn này phổ biến là hình phạt tiền (12/22), còn
lại là hình phạt cải tạo không giam giữ (10/22). Như vậy, trong giai đoạn từ
năm 2014 đến năm 2018, không có bị cáo nào được TAND huyện Bình
Chánh áp dụng hình phạt cảnh cáo.
Về cơ bản, các hình phạt không tước tự do mà TAND huyện Bình
Chánh áp dụng đối với bị cáo bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự có trong vụ án. Đặc biệt là khi áp dụng hình phạt tiền, ngoài những căn cứ
39
quyết định hình phạt quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999 (nay là Điều 50
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017), TAND huyện Bình Chánh còn
chú ý xem xét tình hình tài sản của người bị kết án, sự biến động của giá cả
trên thị trường để lựa chọn và quyết định mức tiền phạt phù hợp với khả năng
thi hành của người bị kết án phạt tiền. Vụ án sau đây là một minh chứng.
Ví dụ: Ngày 03 tháng 4 năm 2018, Tòa án nhân dân huyện BC đưa ra
xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo Cao Thị Mỹ L, thường trú tại 390/130
Nguyễn Đình Chiểu, phường A, quận N, thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú tại
C/22G3 ấp P, xã B, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 13 tháng 7 năm
2017, Đội Cảnh sát Hình sự - Công an Huyện BC kết hợp với Công an xã BH
kiểm tra chổ ở của Cao Thị Mỹ L tại địa chỉ C4/22G3, ấp 4, xã BH, huyện BC
đã phát hiện L có hành vi bán số đề cho Cao Hữu N, cơ quan công an đã lập
biên bản bắt người phạm tội quả tang. Sau khi điều tra, kết luận L bán số đề
cho nhiều người khác. Theo bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện
BC khỏi tố bị cáo L với tội danh “Đánh bạc”, Tòa án huyện Bình Chánh áp
dụng Điều 32, 35, điểm s khoản, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52
Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Cao
Thị Mỹ L phải nộp 45.000.000 đồng vào công quỹ nhà nước.
Như vậy, trong xét xử các vụ án hình sự, các hình phạt không tước tự
do mà TAND huyện Bình Chánh áp dụng đối với bị cáo đã thể hiện được
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là: "Nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng, giữa trừng trị với giáo dục, cải tạo người phạm tội"; tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, bảo đảm tính hướng thiện trong việc xử lý người
phạm tội cũng như đề cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm của các hình phạt
không tước tự do.
2.2.2.2. Thực trạng thi hành các hình phạt không tước tự do tại huyện
Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
40
Thứ nhất, thực trạng ra quyết định thi hành các hình phạt không tước
tự do của TAND huyện Bình Chánh.
Theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (nay là Luật Thi
hành án năm 2019), trong thi hành án phạt không tước tự do (phạt tiền, cải tạo
không giam giữ...), TAND huyện Bình Chánh có thẩm quyền ra quyết định
thi hành án; quyết định giảm thời hạn chấp hành án cải tạo không giam giữ,
quyết định miễn chấp hành án cải tạo không giam giữ. Ngoài ra, TAND
huyện Bình Chánh có trách nhiệm gửi quyết định thi hành án phạt tiền, án
phạt cải tạo không giam giữ, quyết định giảm thời hạn chấp hành án cải tạo
không giam giữ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để thi hành; thực
hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi hành án theo thẩm quyền.
Như vậy, từ khi bản án, quyết định về các hình phạt không tước tự do
đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành đều là công việc của Tòa án. Do
vậy, TAND huyện Bình Chánh phải thực hiện nghiêm túc và chính xác, đúng
luật nhằm đảm bảo các bản án, quyết định về các hình phạt không tước tự do
được đưa ra thi hành trên thực tế.
Qua khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành án phạt không
tước tự do của TAND huyện Bình Chánh thấy rằng, từ năm 2014 đến năm
2018, TAND huyện Bình Chánh đã ra 408 quyết định thi hành án; trong đó,
phạt tiền đối với 12 bị án, án phạt cải tạo không giam giữ đối với 10 bị án. Cụ
thể các năm như sau:
+ Năm 2014, ra quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ đối
với 01 người bị kết án.
+ Năm 2015, ra quyết định thi hành án phạt tiền đối với 02 người bị kết
án.
+ Năm 2016, ra quyết định thi hành án phạt tiền đối với 01 người bị kết
án, án phạt cải tạo không giam giữ đối với 04 người bị kết án.
41
+ Năm 2017, ra quyết định thi hành án phạt tiền đối với 09 người bị kết
án, án phạt cải tạo không giam giữ đối với 04 người bị kết án.
+ Năm 2018, ra quyết định thi hành án phạt cải tạm không giam giữ đối
với 01 người bị kết án.
Bảng 2.2 dưới đây thể hiện rõ tình hình ra quyết định của TAND huyện
Bình Chánh.
Bảng 2.2. Tình hình ra quyết định thi hành án phạt không tước tự
do của TAND huyện Bình Chánh, giai đoạn 2014 – 2018
Trong đó Tổng số quyết STT Năm Cải tạo không định thi hành án Phạt tiền giam giữ
1 2014 73 01 0
2 2015 81 0 02
3 2016 127 04 01
4 2017 67 04 09
5 2018 55 01 0
Tổng 408 10 12
(Nguồn: Số liệu thống kê của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh)
Như vậy, ở giai đoạn này trung bình mỗi năm TAND huyện Bình
Chánh đã ra quyết định thi hành án phạt không tước tự do đối với 04 người bị
kết án.
Về cơ bản, việc ra quyết định thi hành án phạt không tước tự do của
TAND huyện Bình Chánh đảm bảo đúng luật định, kịp thời. Các quyết định
thi hành án phạt không tước tự do đáp ứng các yêu cầu về nội dung và hình
thức mà luật định. Trong quyết định thi hành án, TAND huyện Bình Chánh
đều ghi rõ họ tên người ra quyết định, bản án được thi hành; họ, tên, ngày,
42
tháng, năm sinh, nơi cư trú của người cấp hành án; thời hạn chấp hành án phạt
cải tạo không giam giữ; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành án; Ủy ban nhân
dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án.
Việc ra quyết định giảm thời hạn chấp hành án cải tạo không giam giữ,
miễn chấp hành án cải tạo không giam giữ đều có căn cứ và đảm bảo trình tự,
thủ tục luật định, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án.
Công tác phối hợp giữa Tòa án với Viện Kiểm sát, cơ quan thi hành án
hình sự cấp huyện và các cơ quan, tổ chức hữu quan đảm bảo chặt chẽ, đúng
tính chất "phối hợp và chế ước" nhưng vẫn đáp ứng được tính độc lập trong
thực thi chức năng, nhiệm vụ thi hành án của mỗi bên, khắc phục được tình
trạng "quyền anh, quyền tôi" trong thi hành án.
Công tác kiểm tra, giám sát, thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi
hành án phạt không tước tự do của TAND huyện Bình Chánh được thực hiện
nghiêm túc, thường xuyên, kịp thời nên đã khắc phục được những bất cập,
vướng mắc trong thi hành án và các biện pháp khắc phục có hiệu quả v.v...
Thứ hai, thực trạng tổ chức thi hành án phạt không tước tự do tại
huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
Theo số liệu thống kê của TAND và Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Bình Chánh, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện cho thấy, trong
giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn huyện đã tổ chức thi hành
12 quyết định thi hành án phạt tiền và 10 quyết định thi hành án phạt cải tạo
không giam giữ, trong đó bao gồm cả số quyết định thi hành án do TAND các
địa phương khác ủy thác.
Về cơ bản, công tác tổ chức thi hành án phạt không tước tự do (phạt
tiền, cải tạo không giam giữ) trên địa bàn huyện Bình Chánh có nhiều chuyển
biến tích cực, mang lại nhiều hiệu quả thiết thực, bảo đảm đúng quy định của
pháp luật thi hành án hình sự, pháp luật thi hành án dân sự, đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn, góp phần bảo vệ an ninh, trật tự và đấu tranh phòng, chống tội
43
phạm tại địa phương, nhất là bảo đảm các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh trên thực tế. Điều
này được thể hiện ở cả việc thi hành án cải tạo không giam giữ cũng như thi
hành án phạt tiền.
- Trước hết, trong tổ chức thi hành án cải tạo không giam giữ
+ Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Bình Chánh đã thực hiện
nghiêm túc trình tự, thủ tục thi hành quyết định thi hành án của Tòa án. Cụ
thể là, sau khi (kể từ ngày) nhận được quyết định thi hành án phạt cải tạo
không giam giữ, Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Bình Chánh đã
triệu tập kịp thời người phải chấp hành án đến trụ sở cơ quan thi hành án để
ấn định thời gian người chấp hành án có mặt tại Ủy ban nhân dân cấp xã được
giao giám sát, giáo dục và cam kết chấp hành án. Việc lập hồ sơ thi hành án
và giao hồ sơ đó cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục
người chấp hành án bảo đảm đúng quy định của pháp luật, không để quá thời
hạn. Việc cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt cải tạo không giam
giữ được cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Bình Chánh được thực
hiện ngay sau khi hết thời hạn chấp hành án, không để chậm trễ và được gửi
đầy đủ, kịp thời cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của
pháp luật.
+ Về phía Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người
chấp hành án
Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người chấp hành
án phạt cải tạo không giam giữ thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ được quy
định tại Điều 74 Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Đặc biệt là, Ủy ban
nhân dân cấp xã được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người chấp hành án
đã chủ động phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc giám sát,
giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cũng như tạo điều
44
kiện cho người phải chấp hành án thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, tích cực
cải tạo để trở thành người lương thiện.
+ Về phía gia đình của người chấp hành án
Gia đình người phải chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ thường
xuyên phối hợp với Ủy ban nhân dân xã và người được phân công giám sát,
giáo dục người chấp hành án trong việc giám sát, giáo dục người chấp hành án
luôn quan tâm gần gũi và có biện pháp cụ thể giúp đỡ người chấp hành án sửa
chữa lỗi lầm của mình, không vi phạm pháp luật; nhắc nhở, uốn nắn kịp thời
khi người đó có hành vi sai trái; thông báo kịp thời kết quả chấp hành án của
người phải chấp hành án với Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo
dục người chấp hành án khi có yêu cầu; luôn có mặt tham dự cuộc họp kiểm
điểm người chấp hành theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao
giám sát, giáo dục (trừ trường hợp bất khả kháng hoặc vì lý do chính đáng).
+ Về phía người chấp hành án
Người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, nhìn chung đã chấp
hành nghiêm chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc, học
tập; tích cực tham gia lao động, học tập, chấp hành đầy đủ nghĩa vụ nộp phần
thu nhập bị khấu trừ theo bản án của Tòa án; có mặt theo yêu cầu Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi được giao giám sát, giáo dục. Khi đi khỏi nơi cư trú, đa
số người chấp hành án cải tạo không giam giữ đều khai báo tạm vắng. Đặc
biệt là, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ luôn tự giác nộp bản
nhận xét về việc thực hiện nghĩa vụ chấp hành án cho người trực tiếp giám
sát, giáo dục về việc chấp hành pháp luật tại nơi cư trú, làm việc.
+ Về phía Viện kiểm sát
Trong thi hành các biện pháp giám sát, giáo dục người chấp hành án
thường xuyên có sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình
45
Chánh. Hàng năm, Viện kiểm sát huyện đều xây dựng kế hoạch thực hiện chức
năng kiểm tra, giám sát công tác thi hành án phạt không tước tự do. Đặc biệt là
đã trực tiếp kiểm tra, giám sát tại 08/16 xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Sau
kiểm tra, giám sát, đều có kết luận đánh giá kết quả công tác thi hành án của cơ
quan, tổ chức có liên quan, đồng thời kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân được
giao giám sát, giáo dục đề ra những biện pháp khắc phục những hạn chế, thiếu
sót trong công tác thi hành án phạt không tước tự do.
- Trong tổ chức thi hành án phạt tiền
Theo số liệu thống kê của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình
Chánh, từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn huyện đã tổ chức thi hành 12
quyết định thi hành án phạt tiền. Về cơ bản việc áp dụng và thi hành hình phạt
tiền (là hình phạt chính) đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Trong 12 bản án, quyết
định thi hành án hình sự mà Tòa án áp dụng hình phạt tiền, Chi cục thi hành
án dân sự huyện Bình Chánh đã tổ chức thi hành được 10/12 trường hợp,
đang triển khai thi hành 02 trường hợp. Đa số, người chấp hành án đều tự
nguyện chấp hành án phạt tiền, ít có trường hợp phải cưỡng chế thi hành án.
Có được kết quả này là do BLTTHS năm 2003 đã giao nhiệm vụ thi hành
hình phạt tiền cho cơ quan chuyên trách thi hành án dân sự. Mặt khác, đến
nay, trình tự, thủ tục thẩm quyền và các vấn đề khác liên quan đến thi hành án
phạt tiền đã được quy định cụ thể, chặt chẽ trong Luật Thi hành án dân sự
năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014 và năm 2018). Thêm vào đó, ngay
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp
dụng các biện pháp bảo đảm cho việc thi hành hình phạt tiền như: tạm giữ, kê
biên, phong tỏa tài sản... Đặc biệt là khi quyết định áp dụng hình phạt tiền,
TAND huyện Bình Chánh luôn cân nhắc tình hình tài sản của người bị kết án,
cũng như sự biến động giá cả thị trường nên đã bảo đảm được tính khả thi của
hình phạt tiền. Đồng thời, theo quy định của Điều 30 BLHS năm 1999, thì
46
tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Tòa án
quyết định trong bản án. Với quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi để
những người bị kết án với những hoàn cảnh, khả năng kinh tế, tài sản khác
nhau đều có thể thi hành hình phạt tiền mà Tòa án áp dụng đối với họ.
2.2.2.3. Những hạn chế, thiếu sót trong thi hành các hình phạt không
tước tự do và nguyên nhân
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, việc thi hành các hình phạt
không tước tự do tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn một
số hạn chế, thiếu sót nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động thi hành án.
Những hạn chế, thiếu sót này có ở cả khâu áp dụng và ra quyết định thi hành
của các hình phạt không tước tự do của TAND huyện Bình Chánh cũng như
khâu tổ chức thi hành các hình phạt này của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm
thi hành án.
Thứ nhất, trong việc áp dụng và ra quyết định thi hành các hình phạt
không tước tự do của TAND huyện Bình Chánh, những hạn chế, thiếu sót cơ
bản được thể hiện ở một số mặt sau:
- Việc áp dụng các hình phạt không tước tự do của TAND huyện Bình
Chánh còn rất hạn chế (như đã phân tích ở trên). Do vậy, chưa đáp ứng đầy
đủ chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc: "giảm hình phạt tù, mở
rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối
với một số tội phạm".
- Việc ra quyết định thi hành án và chuyển giao quyết định này cho cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm thi hành các hình phạt không tước tự do đối với
một số trường hợp vẫn còn chậm, chưa kịp thời. Khi gửi quyết định thi hành
án cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đôi khi chưa bảo đảm đúng thủ
tục mà luật định. Vẫn còn tình trạng một số quyết định thi hành án chưa đảm
47
bảo về mặt nội dung, hình thức như: trong quyết định thi hành án phạt cải tạo
không giam giữ không ghi thời gian chấp hành hình phạt này.
Thứ hai, trong tổ chức thi hành các hình phạt không tước tự do, những
hạn chế, thiếu sót chủ yếu được thể hiện ở một số mặt sau:
+ Trong hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do, đặc biệt là
án cải tạo không giam giữ, Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện Bình
Chánh có vai trò hết sức quan trọng trong việc hướng dẫn nghiệp vụ thi hành
án cho Ủy ban nhân dân cấp xã. Mặc dù vậy, công việc này chưa được tiến
hành thường xuyên, hoặc mang tính hình thức, chưa thật sự cụ thể và toàn
diện. Việc chỉ đạo, kiểm tra Công an cấp xã trong việc tham mưu, giúp Ủy
ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ thi hành án đôi lúc chưa được quan
tâm đúng mức.
+ Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người chấp
hành án cải tạo không giam giữ mặc dù là chủ thể chính có trách nhiệm giám
sát, giáo dục người chấp hành án, nhưng thường giao hết nhiệm vụ giám sát,
giáo dục người chấp hành án cho công an cấp xã hoặc cán bộ tư pháp xã thực
hiện, một số Ủy ban nhân dân cấp xã thường phân công cán bộ kiêm nhiệm
thực hiện việc tham mưu, giúp cho chủ tịch Ủy ban nhân dân trong thi hành
án, nên việc thực hiện nhiệm vụ giám sát, giáo dục người chấp hành án cải tạo
không giam giữ chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra, chưa động viên
được người dân và gia đình người chấp hành án cùng tham gia quản lý, giám
sát, giáo dục người chấp hành án. Một số Ủy ban nhân dân cấp xã không lập
sổ theo dõi người phải chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; chưa thực
hiện nghiêm việc nhận xét kết quả chấp hành án định kỳ 3 tháng 1 lần đối với
người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, do vậy có trường hợp
không nắm được chính xác người chấp hành án đang đi làm việc, sinh sống ở
đâu, có thường trú tại địa phương hay không. Trong một số trường hợp, Ủy
48
ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án cải tạo
không giam giữ chậm bàn giao hồ sơ thi hành án cho Cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện để cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong án
phạt cải tạo không giam giữ ngay khi hết thời hạn chấp hành án v.v...
+ Có một số trường hợp thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa
TAND và Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Ủy ban nhân dân
cấp xã, cũng như với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong quản lý, giám sát,
giáo dục, giúp đỡ người chấp hành án. Các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở
chưa phát huy hết trách nhiệm của mình trong quản lý, giám sát, giáo dục,
động viên người chấp hành án tự cải tạo để trở thành người lương thiện, có
ích cho xã hội.
+ Một số gia đình của người bị kết án chưa thực sự quan tâm đến việc
quản lý, giáo dục, cảm hóa người chấp hành án, thậm chí phó mặc việc quản
lý, giám sát, giáo dục cho cơ quan, người có trách nhiệm thi hành án. Thậm
chí có gia đình còn tâm lý kỳ thị, ghét bỏ người bị kết án.
+ Vẫn còn tình trạng người chấp hành án vi phạm nghĩa vụ thi hành án
như: không có bản cam kết với cơ quan, tổ chức được sao giám sát, giáo dục;
không thực hiện định kỳ 3 tháng 1 lần phải nộp bản tự nhận xét về kết quả thi
hành án; không khai báo khi đi khỏi nơi cư trú. Việc chấp hành nghĩa vụ khấu
trừ thu nhập để sung quỹ nhà nước chưa được người chấp hành án thực hiện
nghiêm chỉnh.
+ Việc thi hành án phạt tiền vẫn còn tình trạng tồn đọng án do nhiều lý
do khác nhau như: người chấp hành án cố tình dây dưa, trầy ỳ không thi hành
án hoặc không có tài sản, không có thu nhập... để thi hành án phạt tiền v.v...
Những hạn chế, tồn tại nêu trên là do nhiều nguyên nhân khách quan,
chủ quan khác nhau, nhưng cơ bản là những nguyên nhân sau đây:
- Nguyên nhân khách quan:
49
+ Những quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước
tự do vẫn còn một số hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho việc thi
hành án. Cụ thể là:
Mặc dù BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có nhiều nội
dung mới mang tính đột phá, thể chế hóa đầy đủ, toàn diện chủ trương: "Thu
hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền,
hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm". Có thể thấy, các
quy định của BLHS năm 1999 cũng như BLHS hiện hành về hình phạt tiền,
hình phạt cải tạo không giam giữ, mặc dù có sự hoàn thiện hơn so với quy
định của BLHS năm 1985 về các hình phạt này. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng
cho thấy, các quy định của BLHS năm 1999 cũng như BLHS hiện hành về
hình phạt tiền đã bộc lộ những bất cập, hạn chế gây khó khăn, vướng mắc cho
thực tiễn thi hành hình phạt này. Chẳng hạn, khoản 4 Điều 30 BLHS năm
1999 có quy định: "Tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong
thời hạn do Tòa án quyết định trong bản án". Nhưng trong một số bản án có
tuyên hình phạt tiền theo quy định của BLHS năm 1999, Tòa án chỉ tuyên
phạt bị cáo một khoản tiền nhất định sung quỹ nhà nước mà không quyết định
cho bị cáo nộp tiền phạt một lần hay nhiều lần và cũng không ấn định thời hạn
nộp tiền phạt. Do vậy, đã gây khó khăn vướng mắc cho công tác thi hành án
phạt tiền.
Đến nay, BLHS hiện hành (năm 2015) đã chính thức bỏ quy định về
thể thức thi hành hình phạt tiền, trong khi đó Luật Thi hành án dân sự năm
2008 cũng không có quy định điều chỉnh vấn đề này. Vì thế tiếp tục gây
không ít khó khăn cho việc thi hành hình phạt tiền.
Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, BLHS năm 2015 đã có một
số sửa đổi, bổ sung về phạm vi, điều kiện áp dụng, cũng như nghĩa vụ pháp lý
của người bị áp dụng hình phạt này.
50
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định trình tự, thủ tục, tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án phạt cải
tạo không giam giữ từ Điều 72 đến Điều 81. Nghiên cứu các quy định của
Luật Thi hành án hình sự năm 2010, cũng như qua thực tiễn áp dụng cho thấy,
các quy định của Luật này về thi hành án cải tạo không giam giữ bộc lộ một
số hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng. Điển
hình là:
+ Luật Thi hành án hình sự năm 2010 không quy định việc gửi quyết
định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ cho Ủy ban nhân dân cấp xã,
đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án. Trong khi
đó, Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan có nhiệm vụ quản lý, giám sát, giáo
dục người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
+ Luật Thi hành án hình sự năm 2010 không quy định hướng giải quyết
đối với người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ vắng mặt tại nơi cư
trú, thay đổi nơi cư trú hoặc làm việc.
+ Điểm b khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy
định Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người chấp hành
án có nhiệm vụ "phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người chấp
hành án" nhưng không ghi rõ người đó thuộc cơ quan, tổ chức cụ thể nào dẫn
đến có nơi thì giao cho công an xã, có nơi thì giao cho Tư pháp xã thực hiện
việc giám sát, giáo dục người chấp hành án.
+ Điểm e khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy
định nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám
sát, giáo dục người chấp hành án là: "Phối hợp với cơ quan thi hành án dân
sự thực hiện khấu trừ một phần thu nhập của người chấp hành án theo quyết
định của Tòa án để sung quỹ nhà nước" nhưng không quy định cụ thể cơ
quan chịu trách nhiệm khấu trừ.
51
+ Luật Thi hành án hình sự năm 2010 mặc dù có quy định việc xử lý
người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp vi phạm
các nghĩa vụ chấp hành án nhưng mới chỉ bằng hình thức kiểm điểm và hậu
quả pháp lý chỉ là ảnh hưởng đến việc xem xét giảm thời hạn chấp hành án
(không xét giảm thời hạn chấp hành án). Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có
trường hợp người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ đã bị kiểm điểm
nhiều lần nhưng sau khi kiểm điểm vẫn tiếp tục vi phạm, thậm chí đã bị xử
phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn cố tình vi phạm, vẫn cố ý không chấp
hành án thì chưa có biện pháp xử lý nghiêm khắc để bảo đảm thi hành án (xử
lý hình sự).
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 chưa xây dựng được cơ chế thi
hành án phạt cải tạo không giam giữ nhằm phát huy hỗ trợ của cộng đồng,
trong khi đó hình phạt cải tạo không giam giữ về bản chất là hình phạt mang
tính cộng đồng, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ chấp hành
hình phạt dưới sự giám sát, hỗ trợ của cộng đồng bao gồm chính quyền địa
phương, tổ chức chính trị - xã hội, gia đình và cộng đồng dân cư v.v....
+ Hệ thống các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật có liên quan thi
hành các hình phạt không tước tự do chưa được ban hành kịp thời và chưa
đầy đủ, cụ thể, vẫn còn chung chung.
+ Chưa có quy định cụ thể về chế độ, chính sách, quyền lợi và trách
nhiệm đối với đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý giám sát, giáo dục người
chấp hành án phạt không tước tự do.
+ Lực lượng, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác tổ chức
và thi hành án phạt không tước tự do còn hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời với
yêu cầu và nhiệm vụ được giao.
+ Nhận thức của một số người phải chấp hành án phạt không tước tự do
còn hạn chế, hoặc do mặc cảm, định kiến nên không tự giác chấp hành nghĩa
vụ thi hành án. Bản thân người chấp hành án và gia đình họ ít được tuyên
52
truyền, giáo dục pháp luật về thi hành án phạt không tước tự do, bản thân họ
không tự tìm hiểu các quy định của pháp luật có liên quan đến thi hành án
phạt không tước tự do nên không nắm được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình trong thời gian chấp hành án. Ngoài ra, điều kiện, hoàn cảnh kinh tế gia
đình còn khó khăn cũng là nguyên nhân làm hạn chế kết quả công tác thi hành
án phạt không tước tự do, nhất là án phạt tiền.
- Nguyên nhân chủ quan
+ Cơ quan, người có thẩm quyền thi hành án phạt không giam giữ chưa có
quan niệm thống nhất và nhận thức đầy đủ, toàn diện về công tác thi hành án.
+ Ở một số địa phương, trong đó có huyện Bình Chánh, cấp ủy Đảng,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã chưa thật sự quan tâm, coi trọng
công tác thi hành án phạt không giam giữ.
+ Một số chủ thể có trách nhiệm thi hành án phạt không tước tự do
chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm trong công tác thi hành án nên hiệu
quả thi hành hình phạt không tước tự do chưa thật sự đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm của những hình phạt này.
+ Việc tổ chức bộ máy và công tác cán bộ thi hành các hình phạt không
tước tự do chưa thật sự hợp lý đã làm cho việc thi hành các hình phạt không
tước tự do bị cắt khúc, phân tán, không đồng bộ. Đội ngũ cán bộ, công chức
của Ủy ban nhân dân cấp xã làm công tác thi hành các hình phạt không tước
tự do chưa thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ thi
hành án trong khi đó đó lại phải kiêm nhiệm nhiều công việc nên khó có điều
kiện thực hiện công tác thi hành các hình phạt không tước tự do một cách
cách bài bản và và có hiệu quả.
+ Công tác phối hợp của các cơ quan, tổ chức, gia đình trong quá trình
thi hành các hình phạt không tước tự do chưa thật sự đồng bộ, chặt chẽ và có
hiệu quả.
53
+ Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra hoạt động thi hành các
hình phạt không tước tự do chưa được tiến hành thường xuyên, sát sao để kịp
thời phát hiện những hạn chế, thiếu sót và có biện pháp khắc phục.
Kết luận chương 2
Từ kết quả nghiên cứu ở Chương 2 của Luận văn có thể rút ra một số
kết luận cơ bản sau:
+ Để thấy được thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do, trước
hết phải nhận thức, đánh giá chính xác, đầy đủ các quy định của pháp luật về
thi hành các hình phạt này, nhất là quy định của BLHS, BLTTHS và Luật Thi
hành án hình sự cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan.
+ Việc khảo sát, đánh giá thực trạng thi hành các hình phạt không tước
tự do phải bảo đảm toàn diện, đầy đủ; nghĩa là phải khảo sát, đánh giá tất cả
các khâu của quá trình thi hành các hình phạt này trên thực tế: từ việc áp dụng
và ra quyết định thi hành các hình phạt không tước tự do, chuyển giao quyết
định này cho cơ quan, người có trách nhiệm thi hành án đến việc tổ chức thi
hành các hình phạt này trên thực tế.
+ Khi phân tích, đánh giá thực trạng thi hành các hình phạt không tước
tự do không chỉ dừng lại ở việc nhận xét, đánh giá mặt tích cực, chất lượng,
hiệu quả của công tác thi hành án phạt không tước tự do mà còn phải xem xét,
đánh giá mặt hạn chế, thiếu sót và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế
thiếu sót đó.
+ Từ thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do tại huyện Bình
Chánh thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, công tác thi hành các hình phạt này
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong những năm qua đã đem lại nhiều
kết quả tích cực, luôn hướng tới mục đích cao nhất là giáo dục, cải tạo người
kết án trở thành người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội, tôn trọng và
54
bảo vệ quyền con người. Do vậy, đa số những người chấp hành án phạt không
tước tự do đều tự giác học tập, cải tạo hoàn lương, không tái phạm.
+ Bên cạnh những mặt tích cực, hoạt động thi hành các hình phạt
không tước tự do vẫn còn những hạn chế thiếu sót nhất định do nhiều nguyên
nhân khách quan, chủ quan khác nhau. Những hạn chế, thiếu sót này ảnh
hưởng tiêu cực đến chất lượng, hiệu quả thi hành các hình phạt không tước tự
do.
+ Kết quả nghiên cứu nêu trên là cơ sở thực tế để luận văn xây dựng,
kiến nghị những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật về
thi hành các hình phạt không tước tự do ở Chương 3.
55
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT
KHÔNG TƯỚC TỰ DO
3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện và áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do
3.1.1. Yêu cầu, tôn trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong thi hành các hình phạt không tước tự do
Tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là vấn đề quan
trọng, xuyên suốt, nhất quán của Nhà nước ta. Điều 14 Hiến pháp năm 2013
quy định: "Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền
công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn
trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe cộng đồng" [33; tr17].
Thi hành các hình phạt không tước tự do là hoạt động áp dụng pháp
luật mang tính quyền lực nhà nước nhằm hiện thực hóa bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật trong đời sống thực tế. Đây là hoạt động của cơ
quan, người có thẩm quyền nhằm buộc người bị kết án phạt không tước tự do
phải chấp hành hình phạt tại cộng đồng.
Do vậy, trong lĩnh vực này, quyền con người, quyền công dân của
người bị kết án dễ bị tổn thương nhất. Chính vì thế, vấn đề bảo đảm quyền
con người, quyền công dân không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn
trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thi hành các hình phạt
như: BLHS, BLTTHS, Luật Thi hành án hình sự. Tại Điều 1 BLHS có quy
định: "BLHS có nhiệm vụ... bảo vệ quyền con người, quyền công dân..." [19,
56
tr9]. BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận vấn đề tôn trọng và bảo vệ quyền con
người là một trong những nguyên tắc tố tụng, theo đó: "Khi tiến hành tố
tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự
cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không cần thiết
nữa" [34, tr14]. Luật Thi hành án hình sự năm 2010, mặc dù không trực tiếp
ghi nhận vấn đề tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân nhưng khi quy định nguyên tắc thi hành án hình sự cũng nhấn mạnh
phải "bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân"
[36, tr11].
Như vậy, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong
thực thi pháp luật, trong đó có pháp luật về thi hành án hình sự là một vấn đề
có tính nguyên tắc, tính hiến định, luật định. Vì vậy, khi áp dụng pháp luật
trong thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do
nói riêng, cơ quan và người có thẩm quyền phải quán triệt yêu cầu bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Để đáp ứng yêu cầu này:
+ Trước hết, đối với Tóa án khi quyết định hình phạt, kể cả các hình
phạt không tước tự do đối với bị cáo cần phải đảm bảo tính đúng đắn, tính cần
thiết của hình phạt đã tuyên; phải kết hợp hài hòa giữa trừng trị với giáo dục,
cải tạo người bị kết án, trong đó lấy giáo dục, cải tạo là chính. Hình phạt đã
tuyên phải bảo đảm tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội, phù hợp với những đặc điểm nhân thân của người bị kết án, với
những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có trong vụ án. Đặc
biệt là Tòa án phải hết sức quan tâm đến việc xem xét, giải quyết các biện
pháp miễn chấp hành, giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam
giữ.
57
+ Thứ hai, đối với cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan được giao
nhiệm vụ thi hành án hình sự, khi tổ chức thi hành các hình phạt không tước
tự do, trước hết phải bảo đảm quyền được an toàn về thân thể, được tôn trọng
về danh sự, nhân phẩm; quyền được lao động, học tập, học nghề và các
quyền, lợi ích hợp pháp khác. Đồng thời, khi thi hành các hình phạt không
tước tự do, cán bộ thi hành án không được thực hiện những hành vi xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người chấp hành án; đảm bảo quyền
khiếu nại, tố cáo các quyết định, hành vi của người có thẩm quyền thi hành án
nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân
không chỉ được quán triệt trong lĩnh vực lập pháp quy định quyền con người
mà còn được và cần phải quán triệt trong áp dụng pháp luật về thi hành án
hình sự.
3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp là một trong những vấn đề hết sức quan trọng trong
đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Tại
Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có đề ra một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới là: "Trên cơ sở
tổng kết, đánh giá về công tác thi hành án, cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ
chế, chính sách và nâng cao trách nhiệm của cơ quan thi hành án, bảo đảm
các quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn
trọng và thi hành nghiêm chỉnh" [2]. Thêm vào đó, tại Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã đề ra những phương hướng cần phải quán triệt trong quá trình
thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do nói
58
riêng: "Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư
pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người
phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền, hình
phạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm..." [3]; "Xây dựng đội
ngũ cán bộ tư pháp, hỗ trợ tư pháp theo hướng đề cao quyền hạn, trách
nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất, đạo
đức, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại
cán bộ" [2].
Quán triệt các yêu cầu trên, trong thi hành các hình phạt không tước tự
do cần tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ sau:
+ Hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt
tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số tội phạm và BLHS hiện
hành có quy định các loại hình phạt này.
+ Đổi mới hoạt động quản lý, giám sát, giáo dục, giúp đỡ người chấp
hành án phạt không tước tự do tự cải tạo trở thành người lương thiện, có ích
cho xã hội và gia đình.
+ Kiện toàn bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ có trách nhiệm thi hành
các hình phạt không tước tự do theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm
pháp lý; có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, lối sống trong sáng, có
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác vững chắc đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn thi hành án hình sự đặt ra.
3.1.3. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
Qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, không chỉ có
hình phạt tước tự do mà ngay cả các hình phạt không tước tự do của người bị
kết án cũng có tác dụng không nhỏ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Cũng như các hình phạt khác, hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ, trục xuất cũng có mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.
59
Tuy nhiên, những mục đích này có đạt được hay không, đạt đến mức độ nào
không chỉ phụ thuộc vào phạm vi áp dụng mà còn phụ thuộc vào việc tổ chức
thi hành các hình phạt này trên thực tế. Như vậy, yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm cũng là một trong những yêu cầu cơ bản đối với hoạt động thi
hành các hình phạt không tước tự do.
Để đáp ứng yêu cầu này, trong quá trình tổ chức thi hành các hình phạt
không tước tự do cần tập trung làm tốt những vấn đề sau đây:
+ Quán triệt nghiêm túc chương châm "Trừng trị kết hợp với giáo dục,
cải tạo; lấy giáo dục cải tạo người bị kết án là chính, là cơ bản".
+ Đổi mới nội dung, hình thức quản lý, giám sát, giáo dục, cải tạo
người bị kết án phạt không tước tự do, giúp họ chuyển hóa về tư tưởng, ý
thức; nhận thức rõ lỗi lầm và quyết tâm sửa chữa, hối cải lập công chuộc tội,
tôn trọng pháp luật, các quy tắc của cuộc sống cộng đồng; chấp hành nghiêm
chỉnh nghĩa vụ chấp hành án, đặc biệt là không tái phạm.
+ Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý, giám sát đi đôi với giáo dục chính trị,
pháp luật, văn hóa, gắn mục đích lao động sáng tạo với dạy nghề cho người
chấp hành án; chuẩn bị tốt cho người chấp hành án phạt không tước tự do là
có điều kiện để hòa nhập với cộng đồng, v.v...
Có như vậy, mục đích phòng ngừa tội phạm của việc áp dụng cũng như
thi hành các hình phạt không tước tự do mới có thể đạt được.
3.1.4. Yêu cầu khắc phục những tồn tại, hạn chế, thiếu sót trong các
quy định của pháp luật về thi hành án hình sự cũng như trong thực tiễn áp
dụng
Thực tiễn áp dụng pháp luật về thi hành án hình sự nói chung, thi hành
các hình phạt không tước tự do nói riêng trên phạm vi cả nước cũng như ở
từng địa phương cho thấy, các quy định của pháp luật có liên quan đến các
hình phạt này mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhưng vẫn còn
60
những hạn chế, bất cập, không theo kịp những biến đổi trong đời sống xã hội.
Điều đó dẫn tới hệ thống pháp luật liên quan đến thi hành các hình phạt không
tước tự do còn chưa thật sự hoàn thiện, đồng bộ đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng chống tội phạm trong tình hình mới, cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện. Các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong thi
hành án phạt không tước tự do thì chưa được ban hành kịp thời, đầy đủ; nội
dung một số văn bản thì còn chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể. Việc tổ chức
bộ máy, công tác cán bộ, cơ chế phối hợp của các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền thi hành các hình phạt không tước tự do còn những bất hợp lý, chưa
thật sự phù hợp. Đội ngũ cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ thi hành các
hình phạt không tước tự do chưa được đào tạo bài bản, bố trí hợp lý, chưa thật
sự chuyên nghiệp...
Tất cả những hạn chế, bất cập, tồn tại nêu trên đã và đang là lực cản,
làm giảm hiệu lực, hiệu quả thi hành các hình phạt không tước tự do trên thực
tế. Vì vậy, trong thời gian tới, cần có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục
những hạn chế, tồn tại gây khó khăn, vướng mắc cho hoạt động thi hành các
hình phạt không tước tự do.
3.1.5. Yêu cầu xã hội hóa công tác thi hành các hình phạt không tước
tự do
Các hình phạt không tước tự do, đặc biệt là việc thi hành các hình phạt
này luôn mang tính cộng đồng. Do vậy, hoạt động thi hành các hình phạt
không tước tự do không chỉ là nhiệm vụ riêng của cơ quan quản lý thi hành án
hình sự, cơ quan chuyên trách thi hành án hình sự hay cơ quan, tổ chức được
giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự mà còn là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội, của gia đình người bị kết án cũng như chính
bản thân người chấp hành án. Đây là hoạt động có tính xã hội hóa cao và trở
61
thành một trong những yêu cầu đối với quá trình thi hành án hình phạt không
tước tự do.
Để đáp ứng yêu cầu này, trong tổ chức thi hành các hình phạt không
tước tự do cần chú ý làm tốt một số vấn đề sau:
+ Quá trình thi hành các hình phạt không tước tự do luôn phải đặt dưới
sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành
của chính quyền địa phương, phát huy vai trò nòng cốt của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền thi hành các hình phạt không tước tự do;
+ Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các
ngành, các tổ chức chính trị- xã hội, đoàn thể quần chúng, gia đình của người
chấp hành án cũng như mọi người dân trong việc quản lý, giám sát, giáo dục,
giúp đỡ người chấp hành án tự cải tạo để trở thành người lương thiện, không
vi phạm pháp luật và tái phạm tội.
+ Thu hút toàn xã hội trong việc giúp đỡ người chấp hành án phạt
không tước tự do nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, v.v...
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp
luật về thi hành các hình phạt không tước tự do
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành các
hình phạt không tước tự do
Thi hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do
nói riêng với tính chất là một trong những hoạt động áp dụng pháp luật. Vì
vậy, hệ thống pháp luật về thi hành án hình sự là cơ sở pháp lý quan trọng để
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tổ chức thi hành án.
Hiện nay, các quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để tổ chức thi
hành các hình phạt không tước tự do hết sức đa dạng, bao gồm: các quy định
của BLHS hiện hành về các hình phạt không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền,
cải tạo không giam giữ, trục xuất); các quy định của BLTTHS về năm 2015
62
về thủ tục thi hành án hình sự; các quy định của Luật Thi hành án hình sự
năm 2010; các quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ
sung năm 2014 và năm 2018). Ngoài ra, còn có các văn bản quy phạm pháp
luật quy định chi tiết hoặc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
về thi hành án, điển hình là: Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-BCA-BQP-
TANDTC-VKSNDTC ngày 16/8/2012 hướng dẫn giảm, miễn thời hạn chấp
hành án phạt cải tạo không giam giữ và miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú,
quản chế còn lại; Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-
VKSNDTC ngày 15/9/2015 về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản
thu, nộp ngân sách Nhà nước,... Do vậy, để hoạt động thi hành án hình phạt
không tước tự do có hiệu lực và hiệu quả thì các quy định của pháp luật về thi
hành án hình sự nói chung, thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng
phải hoàn chỉnh, thống nhất, đồng bộ, minh bạch và khả thi. Điều này đòi hỏi
Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi
hành án.
- Trước hết, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về các hình phạt không tước tự do.
Mặc dù BLHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2018, nhưng qua gần hai năm áp dụng cho thấy, các quy định của Bộ
luật này về các hình phạt không tước tự do đã bộc lộ những hạn chế, bất cập
cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, cụ thể là:
+ Đối với các quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt tiền cần xem
xét sửa đổi, bổ sung các quy định như: quy định tại khoản 3 Điều 35 về căn
cứ quyết định mức phạt tiền đối với cá nhân bị kết án. Theo quy định này, Hội
đồng xét xử phải "xét đến tình hình tài sản của người phạm tội" để ấn định
mức tiền phạt cụ thể. Quy định này gây không ít khó khăn, vướng mắc cho
Hội đồng xét xử khi quyết định áp dụng hình phạt tiền và cũng là nguyên
63
nhân dẫn đếnmức phạt được quyết định trong bản án chưa thật phù hợp với
tình hình tài sản của người bị kết án, làm giảm tính khả thi của hình thức phạt
tiền.
Ngoài ra, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về mức tối thiểu
của hình phạt tiền, bởi theo quy định tại khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 thì
mức tối thiểu của hình phạt tiền là 1.000.000 đồng. Nhưng tại các điều luật có
quy định hình phạt tiền đối với các tội phạm cụ thể đều quy định mức phạt
tiền tối thiểu là 5.000.000 đồng. Như vậy, quy định về mức tối thiểu của hình
phạt tiền ở phần chung và phần tội phạm của BLHS hiện hành là không thống
nhất.
Đồng thời, khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 vẫn tiếp tục quy định
mức tối thiểu 1.000.000 đồng chung cho hình phạt tiền là hình phạt chính và
hình phạt tiền là hình phạt bổ sung như quy định tại khoản 3 Điều 30 BLHS
năm 1999. Chúng tôi cho rằng, mức tối thiểu của hình phạt tiền là 1.000.000
đồng là quá thấp, không đủ sức răn đe phòng ngừa tội phạm, vì thế cần điều
chỉnh mức tối thiểu của hình phạt tiền là 5.000.000 đồng.
Hiện nay, BLHS năm 2015 loại bỏ quy định về thể thức thi hành hình
phạt tiền được quy định tại khoản 4 Điều 30 BLHS năm 1999, đồng thời Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) vẫn không có quy
định về vấn đề này. Thêm vào đó, quy định tại Điều 35 về hình phạt tiền cũng
thiếu tính cưỡng chế không cần thiết để bảo đảm cho việc thi hành hình phạt
tiền. Vì vậy, không ít trường hợp người bị kết án phạt tiền cố tình không chịu
nộp phạt hoặc dây dưa, trầy ỳ không chịu nộp tiền phạt, gây khó khăn cho
công tác thi hành án, làm giảm hiệu quả của hình phạt tiền trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm nhưng vẫn không có biện pháp xử lý. Theo chúng tôi,
để bảo đảm việc thi hành hình phạt tiền của người bị kết án, khắc phục tình
trạng người bị kết án phạt tiền cố tình không chịu nộp tiền phạt cần bổ sung
64
theo khoản 5 tại Điều 35 BLHS năm 2015 về thể thức thi hành hình phạt tiền
với nội dung như sau: "5. Tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần
trong thời hạn do Tòa án quyết định trong bản án nhưng không quá 1 năm kể
từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật". Có quy định như vậy, một mặt tạo điều
kiện cho người bị kết án nộp tiền phạt, nhưng mặt khác sẽ có tác dụng khắc
phục tình trạng dây dưa, trầy ỳ, có tình không chịu nộp tiền phạt, bảo đảm
tính khả thi của hình phạt tiền.
+ Đối với hình phạt cảnh cáo được quy định tại Điều 35 BLHS năm
2015
Nghiên cứu nội dung được quy định tại Điều 34 BLHS hiện hành về
hình phạt cảnh cáo thấy rằng, mặc dù điều luật này quy định cụ thể những
điều kiện để áp dụng hình phạt này, nhưng quy định về điều kiện "chưa đến
mức miễn hình phạt" là một quy định có tính chất định tính, khó xác định và
thuộc về sự đánh giá của Hội đồng xét xử. Do vậy, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung theo hướng quy định một cách cụ thể, minh bạch điều kiện này hoặc ra
văn bản hướng dẫn áp dụng quy định này, trong đó giải thích rõ như thế nào
là "chưa đến mức miễn hình phạt". Có như vậy, mới bảo đảm áp dụng hình
phạt này được thống nhất.
+ Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại Điều 36 BLHS
năm 2015.
Nghiên cứu nội dung của Điều 36 BLHS năm 2015 chúng tôi thấy cần
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung những nội dung sau:
Để đảm bảo nguyên tắc pháp chế và công bằng cần bổ sung quy định về
việc chuyển đổi thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ thành
thời gian chấp hành hình phạt tù đối với trường hợp người bị kết án cố ý
không chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Theo chúng tôi, có thể
chuyển hình phạt cải tạo không giam giữ sang hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03
65
ngày cải tạo không giam giữ bằng 01 ngày tù. Việc chuyển đổi này cần ghi rõ
trong bản án để tạo thuận lợi cho việc thi hành.
Mặt khác, cần bổ sung quy định về thời điểm bắt đầu tính thời gian cải
tạo không giam giữ. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, bởi không chỉ là thời
điểm mà người bị kết án phải bị áp dụng chế tài hình sự (hình phạt) mà còn là
cái mốc để xác định họ chấp hành xong hình phạt và xác định người bị kết án
được xóa án tích từ lúc nào, qua đó để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm
nếu sau đó họ tiếp tục phạm tội lại. Hiện nay, theo quy định tại mục 3 Điều 2
Nghị quyết số 02/2010/HĐTP Tòa án nhân dân tối cao thì "Thời điểm bắt đầu
tính thời gian cải tạo không giam giữ là ngày cơ quan, tổ chức được giao
giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bảo
sao bản án. Thời điểm bắt đầu tính thời gian cải tạo không giam giữ phải
được tuyên trong phần quyết định của bản án". Đây là một hướng dẫn quan
trọng nhằm đảm bảo việc áp dụng thống nhất quy định của BLHS cũng như
Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Chúng tôi cho rằng cần luật hóa quy định
này trong BLHS năm 2015 hoặc trong Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi).
Bên cạnh đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLHS, BLTTHS theo
hướng quy định trong trường hợp người chấp hành hình phạt cải tạo không
giam giữ tự ý bỏ đi khỏi nơi cư trú, có dấu hiệu trốn chấp hành án thì giao cho
Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện ra quyết định truy nã hoặc
quyết định áp giải.
- Thứ hai, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Thi
hành án hình sự năm 2010 có liên quan đến thi hành các hình phạt không tước
tự do nhằm đảm bảo thi hành các quy định mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017) và BLTTHS năm 2015. Theo chúng tôi, cần nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung những quy định sau đây:
66
+ Bổ sung quy định về thời điểm bắt đầu chấp hành án hình phạt cải tạo
không giam giữ theo hướng tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, mà
không phải từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị
kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án như hướng dẫn tại
Nghị quyết số 02/2010/HĐTP của Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Theo chúng tôi, thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ
được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở vì bản chất của
hình phạt cải tạo không giam giữ chủ yếu là để cho người bị kết án tự cải tạo
tại nơi cư trú, làm việc, không phải cách ly khỏi xã hội. Việc tự cải tạo của
người bị kết án không phải chỉ bắt đầu khi chính quyền địa phương tiếp nhận
hồ sơ thi hành án mà từ khi bản án có hiệu lực pháp luật người bị kết án đã
phải có ý thức tuân thủ các quyết định, yêu cầu của cơ quan thi hành án. Nếu
người phạm tội không trình diện tại cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu hoặc không có mặt tại Ủy
ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người
chấp hành được coi là hành vi không chấp hành án. Quy định tại thời gian
chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật không chỉ có tác dụng nâng cao trách nhiệm chấp hành các
nghĩa vụ của người bị kết án mà còn có tác dụng thúc đẩy trách nhiệm của cơ
quan có thẩm quyền nhanh chóng thực hiện các thủ tục hành chính để giám
sát, giáo dục người bị kết án.
+ Bổ sung 01 điều luật quy định giải quyết việc vắng mặt tại nơi cư trú
hoặc thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc của người chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ vào mục 3, chương V Luật Thi hành án hình sự năm 2010
nhằm đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của người chấp hành án phạt
cải tạo không giam giữ được thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc (vấn đề
này đã được bổ sung tại Luật Thi hành án hình sự sửa đổi).
67
+ Quy định bổ sung thẩm quyền của Cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp huyện có quyền ra lệnh truy nã hoặc quyết định áp giải thi hành án đối
với những người phải chấp hành phạt cải tạo không giam giữ tự ý bỏ đi, có
dấu hiệu bỏ trốn chấp hành án hoặc cố tình trốn không đến cơ quan thi hành
án hình sự theo yêu cầu.
+ Quy định chế tài cụ thể, nghiêm khắc hơn đối với trường hợp cá
nhân, tổ chức có thẩm quyền vi phạm pháp luật thi hành án phạt không tước
tự do; chế tài hình sự đối với trường hợp người bị xử phạt cải tạo không giam
giữ không chấp hành đúng hoặc chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ chấp hành
án tại nơi cư trú. Việc sửa đổi những vấn đề này là giải pháp quan trọng nhằm
bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành án phạt không tước tự do nói riêng, thi
hành án hình sự nói chung.
+ Bổ sung quy định về việc khấu trừ thu nhập của người bị kết án cải
tạo không giam giữ theo hướng Tòa án quyết định hình thức khấu trừ và cách
thức thi hành trong quyết định thi hành án.
+ Bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, Ủy ban nhân dân cấp
xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án trong
việc tổ chức một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian
chấp hành án đối với người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm
hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt.
+ Ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết công tác thi hành các hình
phạt không tước tự do, tước hết cần bàn hành Nghị định mới thanh thế Nghị
đinh số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định về việc thi hành hình phạt
cải tạo không giam giữ.
3.2.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về
thi hành các hình phạt không tước tự do
68
Pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do chỉ trở thành hiện
thực, đi vào đời sống xã hội - pháp lý và phát huy hiệu lực, hiệu quả điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này khi được các cơ quan, tổ chức và
từng cá nhân có liên quan thực hiện và áp dụng một cách nghiêm chỉnh. Xuất
phát từ thực tế áp dụng pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do
trong những năm qua cho thấy, muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp
luật về thi hành các hình phạt không tước tự do cần có những giải pháp cơ bản
sau đây:
3.2.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi
hành các hình phạt không tước tự do nhằm nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai
trò của các hình phạt này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về thi
hành các hình phạt không tước tự do nói riêng có ý nghĩa quan trọng đối với
việc bảo đảm chất lượng, hiệu quả thi hành các hình phạt này trên thực tế. Bởi
việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành các hình phạt
không tước tự do không chỉ nâng cao kiến thức pháp luật cho những cơ quan
tổ chức và người có thẩm quyền thi hành các hình phạt không tước tự do mà
còn giúp cho người phải chấp hành các hình phạt này hiểu biết về quyền và
nghĩa vụ của mình trong thi hành án; từ đó tự giác thi hành, giảm thiểu những
vi phạm pháp luật, vi phạm nghĩa vụ chấp hành án. Thêm vào đó, việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do còn có
tác dụng lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng, nhất là trong việc vận động, thuyết
phục các cơ quan, tổ chức và mọi người dân tích cực tham gia quản lý, giám
sát, giáo dục, cảm hóa người chấp hành án.
Để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi
hành các hình phạt không tước tự do, đòi hỏi cơ quan, tổ chức và người có
thẩm quyền luôn đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền phù hợp với
69
từng đối tượng. Nội dung tuyên truyền phải xác thực, hình thức tuyên truyền
phải phong phú; kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục cá biệt với
tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng dân cư. Đặc biệt là cần chú ý tuyên
truyền để mọi cơ quan, tổ chức và người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ về
vai trò, tác dụng của các hình phạt không tước tự do trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm, để từ đó nâng cao trách nhiệm của mình trong việc thi hành
các hình phạt không tước tự do trên thực tế.
3.2.2.2. Đổi mới công tác tổ chức và nhân sự thi hành các hình phạt
không tước tự do
Cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền là những chủ thể trực tiếp áp
dụng pháp luật, trực tiếp thi hành các hình phạt không tước tự do. Do vậy,
việc kiện toàn tổ chức bộ máy cũng như nâng cao năng lực, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức có trách
nhiệm thi hành các hình phạt không tước tự do là hết sức cần thiết.
- Trước hết, cần đổi mới mô hình cơ quan thi hành các hình phạt không
tước tự do.
Hiện nay, công tác thi hành các hình phạt không tước tự do đang được
giao cho nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau, trong đó Tòa án có thẩm quyền ra
quyết định thi hành án, còn việc thi hành án phạt không tự do là do Cơ quan
thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc Cơ quan thi hành án hình sự cấp
Quân khu và Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện.
Thực trạng này đã làm cho việc tổ chức thi hành các hình phạt không
tước tự do bị cắt khúc, gián đoạn, xé lẻ, phân tán, không đồng bộ, thiếu thống
nhất và do một cơ quan đảm nhiệm. Do vậy, cần nghiên cứu trong thời gian
tới xây dựng một hệ thống cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm thi hành
các hình phạt không tước tự do nhằm chuyên môn hóa hoạt động của các cơ
quan này. Đây là hướng nghiên cứu rất cần thiết phù hợp với tinh thần cải
70
cách tư pháp. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới là thành lập các trung
tâm quản chế xuyên suốt từ trung ương đến địa phương nhằm hỗ trợ cũng như
thực hiện việc quản lý, giám sát, giáo dục hiệu quả người bị kết án phạt không
tước tự do.
Trong khi chưa thành lập được hệ thống cơ quan chuyên trách thi hành
các hình phạt không tước tự do thì cần nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm
của các cấp chính quyền địa phương, nhất là Ủy ban nhân dân cấp xã trong
việc quản lý, giám sát, giáo dục người chấp hành hình phạt không tước tự do
tại địa bàn. Có thể thấy, các cấp chính quyền địa phương là nơi sát dân, gần
dân nhất, là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương nên việc quản lý, giám
sát, giáo dục người chấp hành án không tước tự do là thuận lợi nhất. Chính vì
vậy, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh: "Xác định rõ trách nhiệm của Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn, các cơ quan chuyên môn của cấp Ủy ban nhân
dân tỉnh thành phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt
tù để thực hiện nghiêm túc bản án, quyết định của Tòa án" [3]. Để đáp ứng
yêu cầu này, Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người
chấp hành án phải thực hiện nghiêm túc đúng quy định của pháp luật về quản
lý, giám sát, giáo dục người chấp hành án; bố trí đủ cán bộ trực tiếp theo dõi,
giám sát, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành án, tránh tình trạng kiêm nhiệm;
có chế độ đãi ngộ thỏa đáng để họ yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
- Tiếp đến, cần bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ
năng và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ có thẩm quyền thi hành các
hình phạt không tước tự do.
Trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp có đề ra nhiệm vụ: "Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong
71
sạch, vững mạnh theo hướng đề cao quyền hạn và trách nhiệm pháp lý, nâng
cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ..." [3]. Do
vậy, trong thời gian tới, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có thẩm
quyền thi hành các hình phạt không tước tự do, trong đó trọng tâm là đội ngũ
công chức Ủy ban nhân dân cấp xã, chấp hành viên, cơ quan thi hành án hình
sự Công an cấp huyện phải theo hướng chuẩn hóa cụ thể các tiêu chuẩn về
chuyên môn nghiệp vụ, về đạo đức lối sống, phẩm chất chính trị đối với từng
loại cán bộ. Đồng thời phải có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, nhất là kiến thức pháp luật về thi hành
các hình phạt không tước tự do cũng như kinh nghiệm, kiến thức xã hội, ngoại
ngữ, tin học v.v... Các trung tâm bồi dưỡng, đào tạo cần đổi mới nội dung,
phương thức đào tạo, bồi dưỡng theo hướng ngoài việc cung cấp kiến thức lý
luận cơ bản, cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thi hành án và kinh
nghiệm thực tiễn.
Cùng với việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cần chú
trọng hơn nữa giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong sáng cho
đội ngũ cán bộ, công chức có thẩm quyền thi hành các hình phạt không tước
tự do để họ thực sự là người "phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư" mà Bác
Hồ đã từng căn dặn.
3.2.2.3. Củng cố và tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan, tổ
chức có trách nhiệm thi hành các hình phạt không tước tự do
Trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có nhấn mạnh:
"Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan Tư pháp trong hoạt động tố tụng
trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan,
không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm" [2]. Quán triệt yêu cầu này, các cơ
72
quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành các hình phạt không tước tự do cần tăng
cường sự phối hợp chặt chẽ trong suốt quá trình thi hành án. Muốn vậy, phải
xây dựng được một cơ chế phối hợp khoa học, chặt chẽ, trong đó có sự phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của từng cơ
quan, tổ chức trong thi hành các hình phạt không tước tự do nhằm tạo ra mối
quan hệ cần thiết, bổ sung cho nhau trong suốt quá trình thi hành các hình
phạt không tước tự do. Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục tình trạng đùn
đẩy trách nhiệm cho nhau, tình trạng "quyền anh, quyền tôi" trong thi hành
các hình phạt này. Đối với từng loại án, từng trường hợp thi hành án cụ thể
cần xác định nội dung, hình thức phối hợp sát với tình hình thực tế đặt ra.
Việc phối hợp phải được tiến hành kịp thời, thường xuyên, liên tục. Có như
vậy mới khắc phục được tình trạng cơ chế phối hợp trong thi hành án phạt
không tước tự do hiện nay ở nhiều địa phương, trong đó có huyện Bình Chánh
còn thiếu chặt chẽ, chưa thật sự rõ ràng, chưa phân công cụ thể cơ quan nào
chịu trách nhiệm chủ trì công tác thi hành các hình phạt không tước tự do, cơ
quan, tổ chức nào tham gia phối hợp. Kinh nghiệm cho thấy, ở địa phương
nào có sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng thì việc thi hành các hình phạt không
tước tự do được tiến hành kịp thời, nhanh chóng và có chất lượng hiệu quả và
ngược lại.
3.2.2.4. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát
thi hành án, cũng như tổng kết thực tiễn, rút ra kinh nghiệm, bài học trong thi
hành các hình phạt không tước tự do
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành các hình phạt
không tước tự do, vấn đề không kém phần quan trọng là phải tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cơ sở, sự chỉ đạo tập trung thống nhất của chính
quyền địa phương đối với công tác thi hành các hình phạt không tước tự do.
Chính vì vậy, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
73
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ: "Đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của cơ quan dân
cư, của công luận và nhân dân đối với hoạt động tư pháp" [3]. Đây là một
chủ trương hết sức cấp thiết và quan trọng, vì thế trong công tác thi hành các
hình phạt không tước tự do phải thường xuyên đổi mới và tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp Đảng ủy cơ sở, sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền địa
phương hơn nữa.
Cùng với việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương, cần thường xuyên, định kỳ thanh tra, kiểm tra, giám
sát công tác thi hành các hình phạt không tước tự do của cơ quan thanh tra
chuyên ngành, của cơ quan quản lý cấp trên, đặc biệt là công luận và nhân
dân đối với công tác này. Có như vậy, mới có thể phát hiện ra những hạn chế,
thiếu sót trong thi hành các hình phạt không tự do và có biện pháp khắc phục
kịp thời.
Ngoài ra, hàng năm thậm chí hàng quý cần sơ kết, tổng kết công tác thi
hành các hình phạt không tước tự do để rút ra những bài học kinh nghiệm tiếp
tục phát huy cũng như tồn tại cần khắc phục.
3.2.3. Các giải pháp khác
3.2.3.1. Đẩy mạnh việc xã hội hóa công tác thi hành các hình phạt
không tước tự do
Hiện nay, xã hội hóa các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước là một chủ
trương lớn nằm trong chiến lược cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong
bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Tại Nghị quyết
số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
có đề ra chủ trương: "Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những
hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực
hiện một số công việc thi hành án" [3]. Đây là một chủ trương hết sức đúng
74
đắn nhằm phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức, đoàn thể xã hội, gia
đình người chấp hành án và cộng đồng dân cư trong việc giám sát, theo dõi,
giáo dục, cảm hóa người chấp hành án không tước tự do tích cực lao động,
học tập, cải tạo hoàn lương; giúp đỡ họ tái hòa nhập cộng đồng.
Thực tế cho thấy, gia đình người chấp hành các hình phạt không tước
tự do có vai trò hết sức quan trọng đối với việc thi hành án. Do vậy, cần phát
huy vai trò, trách nhiệm của gia đình trong việc quan tâm, gần gũi và có biện
pháp cụ thể giúp đỡ người bị kết án sửa chữa lỗi lầm của mình, không vi
phạm pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ chấp hành án mà luật định;
nhắc nhở, uốn nắn kịp thời khi người đó có hành vi sai trái. Mặt khác, gia
đình người bị kết án phạt cải tạo không giam giữ cần kịp thời thông báo cho
cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án về kết quả rèn luyện, tu
dưỡng, cải tạo của người đó, nhất là khi có yêu cầu.
3.2.3.2. Đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác, nhất
là phương tiện khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm thi hành các hình phạt không tước tự do
Đây cũng là một giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác thi hành các hình phạt không tước tự do. Trước hết cần đổi mới hoàn
thiện cơ chế phân bổ ngân sách địa phương cho cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền thi hành các hình phạt không tước tự do nhằm đáp ứng đầy đủ, thỏa
đáng kinh phí, phương tiện công tác phù hợp với từng cơ quan, tổ chức.
Trong bối cảnh tác động của cuộc cách mạng 4.0 cần chú ý trang bị phương
tiện khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin cho cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền thi hành án.
Trên đây là những giải pháp cơ bản, nếu được triển khai đồng bộ, kịp
thời, quyết liệt chắc hẳn sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành các hình
phạt không tước tự do trên thực tế.
75
Kết luận chương 3
Xuất phát từ thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do tại
huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh đặt ra vấn đề phải tìm ra những
giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành các hình phạt này trong thời
gian tới.
Để việc xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của công
tác thi hành các hình phạt không tước tự do được đúng hướng, phù hợp với
những đòi hỏi mà thực tiễn hiện nay đặt ra, cần phải quán triệt các yêu cầu cơ
bản như: yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân; yêu cầu cải cách
tư pháp; yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm; yêu cầu khắc phục những
hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về thi hành án hình sự và
yêu cầu xã hội hóa công tác thi hành các hình phạt không tước tự do.
Để đáp ứng các yêu cầu trên và bảo đảm chất lượng, hiệu quả thi hành
các hình phạt không tước tự do cần phải áp dụng tổng thể ba nhóm giải pháp,
đó là: Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành các hình
phạt không tước tự do; giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của
pháp luật về việc thi hành các hình phạt này trên thực tế và một số giải pháp
khác. Đây là những giải pháp được đề ra trên cơ sở lý luận và thực tiễn vì vậy
có tính khả thi.
76
KẾT LUẬN
Trong hệ thống hình phạt nước ta cũng như các nước trên thế giới, các
hình phạt không tước tự do như: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
trục xuất có vị trí, vai trò không kém phần quan trọng đối với công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, vai trò này của các hình phạt không tước tự do chỉ được
phát huy khi được áp dụng và tổ chức thi hành trên thực tế một cách nghiêm
chỉnh và có hiệu quả.
Mặc dù vậy, trong thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do ở
các địa phương, trong đó có huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh, bên
cạnh những mặt tích cực vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định. Những
hạn chế, thiếu sót này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác
nhau, trong đó nguyên nhân chủ quan là cơ bản.
Từ những hạn chế, thiếu sót này đặt ra nhu cầu phải xây dựng các giải
pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành các hình phạt không
tước tự do cũng như giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định đó trên
thực tế. Những giải pháp này cần được triển khai một cách đồng bộ, toàn diện
thì mới có thể nâng cao chất lượng, hiệu quả thi hành các hình phạt không
tước tự do không chỉ ở địa bàn huyện Bình Chánh mà còn ở các địa phương
khác.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù học viên đã có nhiều cố
gắng, nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Học viên kính
mong nhận được sự đóng góp của các nhà khoa học, các thầy cô giáo, các cán
bộ thực tiễn giúp học viên tiếp tục chỉnh sửa để luận văn có giá trị khoa học
và hoàn thiện hơn./.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) (2012), Bình luận khoa học Luật
THAHS, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 01/01/2002 của
Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, Hà Nội;
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/5/2005 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;
4. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Báo cáo kết quả
công tác thi hành án dân sự từ năm 2014-2018
5. Nguyễn Khắc Lan Chi (2018), Thi hành các hình phạt không tước tự
do từ thực tiễn quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Học viện
Khoa học xã hội.
6. Lê Cảm (2006), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách
pháp luật THAHS, Tạp chí kiểm sát số 10, Hà Nội, tr.3-12;
7. Trương Việt Dũng (2004), Nâng cao hiệu quả công tác thi hành hình
phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tù cho hưởng án treo, Tạp chí TAND
số 6, tr.23-24;
8. Bùi Kiên Điện (2007), Điều kiện đảm bảo hiệu quả hoạt động
THAHS, Tạp chí Luật học số 6, tr.13-19;
9. Trần Văn Độ (2019), Quyền, nghĩa vụ của người chấp hành án trong
sửa đổi, bổ sung Luật THAHS, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Học viện KHXH,
tr.30-36;
10. Nguyễn Khắc Hải (2019), Nhận thức về bảo vệ quyền con người
trong THAHS, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Học viện KHXH, Hà Nội;
11. Vũ Trọng Hách (2002), Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về THAHS ở
nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5, tr.29-45;
12. Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực
THAHS ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
13. Nguyễn Thị Hiền (2016), Thi hành các hình phạt cải tạo không
giam giữ, án treo từ thực tiễn tỉnh Cà Mau, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa
học xã hội;
14. Nguyễn Văn Hoàn (2007), Hoàn thiện pháp luật thi hành án đối với
người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 11, tr.48-
55;
15. Nguyễn Phong Hòa (2006), Thực trạng công tác THAHS và những
kiến nghị, Tạp chí TAND số 21, tr.22-32;
16. Nguyễn Ngọc Hòa (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần chung), Nxb Tư pháp Hà Nội;
17. Nguyễn Thị Ánh Hồng (2018), Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều Luật Thi hành án hình sự về thi hành án phạt cải tạo không
giam giữ, Tạp chí Khoa học pháp lý số 8, tr.26-31;
18. Phạm Mạnh Hùng (2018), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2015, Nxb Lao động, Hà Nội;
19. Nguyễn Minh Khuê (2016), Các hình phạt chính không tước tự do
trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội;
20. Bùi Đức Long (2006), Kết quả và bài học kinh nghiệm qua 10 năm
công tác kiểm sát THAHS, Tạp chí kiêm sát số Tết, tr.27-29;
21. Nguyễn Văn Nam (2018), Một số vấn đề về thẩm quyền của Tòa án
trong THAHS, Tạp chí TAND số 6, tr.19-22
22. Nguyễn Hoài Nam (2009), Thực tiễn công tác thi hành hình sự một
số vướng mắc và kiến nghị, Tạp chí TAND số 21, tr.18-22;
23. Nhà xuất bản chính trị quốc gia - sự thật (2018), Luạt THAHS hiện
hành (năm 2010) và các văn bản hướng dẫn thi hành, Hà Nội;
24. Nguyễn Văn Nghĩa (2006), Thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo
và hình phạt cải tạo không giam giữ trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số 12, tr.34-36;
25. Võ Thị Kim Oanh, Trịnh Duy Thuyên, Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật THAHS về tái hòa nhập cộng đồng, Tạp chí
khoa học pháp lý số 8, tr.14-25;
26. Phan Văn Phước (2018), Thi hành các hịnh phạt không tước tự do
từ thực tiễn huyện Củ Chi, TP Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa
học xã hội;
27. Quốc hội (2014), Hiến pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
Nxb Lao động;
28. Quốc hội (2016), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội;
29. Quốc hội (2016), Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
30. Quốc hội (2010), Luật THAHS, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
31. Bùi Lê Sinh (2017), Một số dạng vi phạm phổ biến trong công tác
thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, Tạp chí kiểm sát số 02, tr.25-29;
32. Vũ Huy Thuận (2018), Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn thi hành
Luật THAHS năm 2010, Tạp chí kiểm sát số 4, tr.12-21;
33. Trần Quang Tiệp (2002), Một số vấn đề THAHS, Nxb CAND, Hà
Nội;
34. Trần Quang Tiệp (2004), Vai trò của gia đình trong việc thi hành
các loại hình phạt không tước tự do và các biện pháp tư pháp, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật số 2, tr.61-63;
35. Đào Anh Tới (2011), Chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng
và Nhà nước ta trong Luật THAHS, Tạp chí kiểm sát số 17, tr.2-7;
36. Vũ Ngọc Thừa (2016), Một số vướng mắc khi thực hiện Luật
THAHS trong quân đội, Tạp chí kiểm sát số 19, tr.46-49;
37. Trịnh Xuân Toản (2015), Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự
VIệt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
38. Trần Hữu Tráng (2019), Chính cách pháp luật về tái hòa nhập cộng
đồng, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Học viện KHXH, tr.37-56;
39. Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (2006), Pháp luật THAHS-
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
40. Võ Khánh Vinh (2019), Những vấn đề lý luận về chính sách pháp
luật THAHS, Kỷ yếu hội thảo khoa học Học viện KHXN, Hà Nội;
41. Võ Khánh Vinh, Cao Thị Oanh (2013), Luật THAHS, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội;
42. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2019), Dự thảo Luật THAHS (sửa đổi)
(Dự thảo xin ý kiến Đoàn Đại biểu Quốc hội), Hà Nội;
43. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2019), Báo cáo giải trình, tiếp thu,
chỉnh lý Dự thảo Luật THAHS (sửa đổi), Hà Nội;
44. Ủy ban Quốc phòng và An ninh (2018), Tọa đàm về Dự án THAHS
(sửa đổi), Quy Nhơn;
45. Nguyễn Như Ý (2015), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Hồ Chí Minh;