VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI –––––––––

ĐOÀN VĂN LONG

BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ TỘI PHẠM MA TÚY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

–––––––––

ĐOÀN VĂN LONG

BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

VỀ TỘI PHẠM MA TÚY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN

TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

Hà Nội, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Biện pháp bắt người trong điều tra vụ án

hình sự về tội phạm ma túy từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh” là

công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn

trong Luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận

khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác.

Tác giả luận văn

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn thạc sỹ, tác giả đã nhận được

sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các thày, cô giáo, các nhà khoa học, các

cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đề tài nghiên cứu cũng được hoàn thành dựa trên

sự tham khảo, học tập kinh nghiệm từ các công trình nghiên cứu có liên quan

của các tác giả. Đặc biệt đề tài còn nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận

lợi từ gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp.

Tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thày TS. Nguyễn Trung

Thành, người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã dành nhiều thời gian, công

sức hướng dẫn tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.

Tác giả xin được trân trọng cảm ơn các nhà khoa học, các thày, cô giáo,

các bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ tác giả hoàn thiện công trình

nghiên cứu.

Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng đề tài không tránh khỏi những thiếu

sót, tác giả kính mong các quý thày, cô, các nhà khoa học những người quan

tâm đến đề tài đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả

Đoàn Văn Long

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT

NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................................ 7

1.1. Bắt người trong tố tụng hình sự. .......................................................... 7

1.2. Phân biệt bắt người với các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự khác. 24

Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI VÀ ÁP DỤNG

BIỆN PHÁP NÀY TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ

TỘI PHẠM MA TÚY TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH 29

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về

biện pháp bắt người. .................................................................................. 29

2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp bắt người trong điều tra các vụ

án hình sự về tội phạm ma túy tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ...... 46

Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN

PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ

TỘI PHẠM MA TÚY .................................................................................... 55

3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng các biện pháp bắt người. .................... 55

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật tố

tụng hình sự về biện pháp bắt người ......................................................... 61

KẾT LUẬN .................................................................................................... 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

TAND : Toà án nhân dân

TANDTC : Toà án nhân dân tối cao

TANDCC : Toà án nhân dân cấp cao

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

Nxb : Nhà xuất bản

VKS : Viện kiểm sát

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Các biện pháp ngăn chặn nói chung, bắt người nói riêng là một chế định

quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và được áp dụng phổ biến

trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Việc áp dụng các biện pháp ngăn

chặn, nhất là biện pháp bắt người tất yếu sẽ hạn chế quyền tự do của người bị bắt,

nhưng có tác dụng không nhỏ đối với quá trình điều tra, truy tố, xét xử, và thi hành

án hình sự cũng như đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều 20 (khoản 2) Hiến

pháp năm 2013 quy định: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án

nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp

phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định” [26, tr.19].

Quy định này của Hiến pháp năm 2013 đảm bảo người dân không bị bắt,

giam, giữ một cách tùy tiện, vô cớ. Vì thế, khi áp dụng biện pháp bắt người đòi

hỏi phải hết sức thận trọng, phải có căn cứ, đúng đối tượng và đúng thẩm quyền

do luật định. Có như vậy, mới phát huy được tác dụng của biện pháp bắt người

trong tố tụng hình sự. Nếu bắt người không đúng không chỉ ảnh hưởng đến

quyền con người, quyền công dân mà còn tạo dư luận xã hội không tốt và có thể

dẫn đến những hậu quả tiêu cực như để lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội,

gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án hình sự.

Để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)

năm 2015 đã quy định chặt chẽ, cụ thể các biện pháp bắt người, bao gồm: bắt

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người

đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

Trong số những biện pháp bắt người nêu trên, có biện pháp lần đầu tiên được

quy định trong BLTTHS (bắt người bị yêu cầu dẫn độ) để đáp ứng yêu cầu hợp

tác quốc tế trong tố tụng hình sự.

Từ thực tiễn bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy tại

huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trong 5 năm qua (2014 – 2018) cho thấy, các

biện pháp bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy được áp

dụng tương đối phổ biến. Do vậy, đã phát huy được tác dụng tích cực của các

biện pháp bắt người trong điều tra loại án này và góp phần quan trọng vào công

1

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện. Tuy nhiên,

bên cạnh những mặt tích cực, việc áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra vụ

án hình sự về tội phạm ma túy vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót ảnh hưởng đến

quá trình điều tra làm rõ vụ án, gây dư luận xấu trong nhân dân. Những hạn chế,

thiếu sót này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau đòi hỏi

phải có giải pháp khắc phục nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm ma túy trong tình hình mới. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống,

toàn diện, chuyên sâu biện pháp bắt người trong điều tra vụ án ma túy từ thực

tiễn của một địa bàn cấp huyện nhằm góp phần làm phong phú thêm lý luận về

biện pháp bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy, đánh giá

thực trạng áp dụng biện pháp này, trên cơ sở đó xây dựng, kiến nghị những giải

pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của BLTTHS năm 2015 về biện pháp bắt

người là hướng nghiên cứu cần thiết và cấp thiết.

Vì lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Biện pháp bắt người trong điều tra

vụ án hình sự về tội phạm ma túy từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”

để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến tài

Những vấn đề liên quan đến các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình

sự nói chung, biện pháp ngăn chặn bắt người nói riêng đã được các nhà nghiên

cứu lý luận và cán bộ thực tiễn đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu đã

được công bố.

Trước hết, là các giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại

học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội… Trong các cuốn giáo

trình này, các tác giả đã phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cũng như quy

định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn, trong đó có biện

pháp bắt người. Nhưng do khuôn khổ của một giáo trình bậc đại học nên những

vấn đề trên chỉ được đề cập ở mức độ khái quát.

Ngoài hệ thống giáo trình Luật Tố tụng hình sự, nghiên cứu lý luận và

quy định của pháp luật tố tụng hình sự còn có các cuốn bình luận khoa học

BLTTHS, tiêu biểu là cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự của

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ

2

biên, Nxb Tư pháp phát hành năm 2012; Cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015”, do TS. Phạm Mạnh Hùng chủ biên, do Nxb Lao động

phát hành năm 2018; cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm

2015” của tập thể tác giả, do Nxb Công an nhân dân phát hành năm 2018…

Trong các cuốn bình luận khoa học BLTTHS nêu trên, các tác giả đã bình luận

làm rõ nội dung các quy định của BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn, biện

pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, trong đó có đề cập đến các biện pháp bắt người.

Một số công trình khác đề cập đến biện pháp ngăn chặn là sách chuyên

khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình

sự. Điển hình là:

Sách chuyên khảo “những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc

đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Lê

Hữu Thể - TS. Đỗ Văn Đương – Th.S Nguyễn Thị Thủy (Đồng chủ biên), do

Nxb Chính trị quốc gia phát hành năm 2013; Sách chuyên khảo “chế định các

biện pháp ngăn chặn theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn dề lý luận

và thực tiễn” của TS. Nguyễn Trọng Phúc, do Nxb Chính trị quốc gia phát hành

năm 2015… Trong các cuốn sách chuyên khảo này, tác giả đã phân tích làm rõ

không chỉ những vấn đề lý luận mà còn thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn ở

Việt Nam.

Luận án tiến sĩ “áp dụng biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình

sự của lực lượng cảnh sát nhân dân” của tác giả Trịnh Văn Thanh, Học viện

Cảnh sát nhân dân; Luận văn thạc sĩ: “Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng

hình sự Việt Nam từ thực tiễn của thành phố Đà Nẵng” của tác giả Trương

Hùng Thanh, Học viện Khoa học xã hội, năm 2013; Luận văn thạc sĩ “Biện

pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, của tác giả Ngô Thùy Khánh

Linh, Học viện Khoa học xã hội năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Biện pháp tạm

giam theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của

tác giả Trần Thanh Tùng, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016… Trong các

công trình trên các tác giả đã đề cập đến biện pháp ngăn chặn ở nhiều cấp độ,

phạm vi khác nhau cả về phương diện lý luận, thực tiễn và giải pháp đảm bảo áp

3

dụng đúng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.

Nghiên cứu về các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS

năm 2015 còn có các bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí chuyên

ngành như: “chế định biện pháp chăn chặn trong BLTTHS năm 2015” của tác

giả Mai Đắc Biên và Mai Ngọc Hải; bài “Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy

định của BLTTHS năm 2015” của tác giả Hoàng Tám Phi; bài “Những nội dung

mới cơ bản về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong BLTTHS năm

2015” của tác giả Hoàng Anh Tuyên; bài “Một số quy định về biện pháp tạm giam

trong BLTTHS năm 2015” của tác giả Nguyễn Hồng Thiện; bài “Những điểm mới

trong các quy định về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam của BLTTHS năm

2015” của tác giả Ngô Văn Vịnh; bài “Một số vấn đề trao đổi về biện pháp giữ

người trong trường hợp khẩn cấp” của tác giả Ngô Thanh Nhân và Ngô Văn Vịnh;

bài “Tăng cường các biện pháp kiểm sát bảo đảm việc bắt, tạm giữ, tạm giam và

thi hành bản án hình sự tuân thủ đúng pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân” của tác giả Vũ Huy Thuận và Bùi Thị Tú Oanh.

Như vậy, mặc dù có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến các biện

pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự (trong đó có biện pháp bắt người). Tuy

nhiên, các công trình này chủ yếu đề cập đến các biện pháp ngăn chặn nói

chung, ít có công trình nghiên cứu chuyên sâu về biện pháp bắt người trong tố

tụng hình sự, đặc biệt là trong điều tra vụ án ma túy. Mặc dù vậy, các công trình

khoa học này là những tài liệu tham khảo hết sức bổ ích để học viên thực hiện

luận văn của mình. Đồng thời, qua đây có thể xác định đề tài luận văn này

không trùng với các công trình khoa học đã được công bố ở Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

3.1. Mục đích nghiên cứu.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình sự và

thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình sự về tội

phạm ma túy ở địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, luận văn hướng tới

mục đích xây dựng các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật

tố tụng hình sự về biện pháp bắt người trong điều tra vụ án ma túy.

4

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ

nghiên cứu sau:

+ Phân tích luận giải cơ sở lý luận về biện pháp bắt người trong tố tụng

hình sự trên các bình diện: khái niệm, đặc điểm, căn cứ, thẩm quyền, đối tượng,

áp dụng và mục đích, ý nghĩa của biện pháp bắt người đối với việc giải quyết vụ

án hình sự.

+ Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt

Nam (nhất là BLTTHS năm 2015) về biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự,

rút ra những điểm mới, hoàn thiện cũng như những vấn đề còn hạn chế, bất cập

trong các quy định đó.

+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra

vụ án hình sự về tội phạm ma túy ở địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh,

chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục.

+ Đưa ra yêu cầu và thiết lập các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy

định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

4.1. Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp ngăn chặn bắt người trong tố tụng

hình sự và thực tiễn áp dụng trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy.

4.2. Phạm vi nghiên cứu.

+ Về lý luận: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lý luận chuyên ngành

luật tố tụng hình sự Việt Nam.

+ Về thực tiễn: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện

pháp bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy

+ Về không gian, thời gian: Tại địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng

Ninh, từ năm 2014 đến năm 2018.

5

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác

- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách

tư pháp, về bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ngoài ra, luận văn còn

dựa trên cơ sở lý luận chuyên ngành luật tố tụng hình sự để làm rõ đối tượng

nghiên cứu.

5.2. Các phương pháp nghiên cứu.

Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân

tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia… để làm rõ đối tượng nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.

6.1. Ý nghĩa lý luận.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có tác dụng góp phần làm rõ và phong

phú thêm lý luận chuyên ngành luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người trong

tố tụng hình sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo trong thực tiễn áp dụng

pháp luật tố tụng hình sự, nhất là áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra vụ

án hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy.

Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng

dạy, nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo ngành luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp bắt người

trong tố tụng hình sự

Chương 2. Thực trạng quy định và áp dụng biện pháp bắt người trong

điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của

pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình sự

về tội phạm ma túy.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Bắt người trong tố tụng hình sự.

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.

Các biện pháp ngăn chặn là nhóm biện pháp cưỡng chế được áp dụng phổ

biến trong thực tiễn điều ta, truy tố, xét xử. Khi tiến hành tố tụng hình sự, cơ

quan người có thẩm quyền được phép áp dụng các biện pháp giữ người trong

trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã;

bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ; bảo lãnh; đặt tiền để

đảm bảo; cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh. Các biện pháp này khoa

học luật tố tụng hình sự Việt Nam gọi là các biện pháp ngăn chặn. Trong các

BLTTHS được ban hành năm 1988, 2003 và 2015, nhà lập pháp nước ta không

dành một điều luật riêng để quy định khái niệm pháp lý về các biện pháp ngăn

chặn, mặc dù có quy định cụ thể căn cứ, thẩm quyền, đối tượng và các biện pháp

cụ thể có thể áp dụng.

Trong khoa học luật tố tụng hình sự có nhiều quan niệm khác nhau về các

biện pháp ngăn chặn như: “những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp

cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối

với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang),

nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp

tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều

tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [49, tr.166]. Khái niệm này đã chỉ rõ tính chất

cưỡng chế, đối tượng áp dụng và mục đích áp dụng, song chưa chỉ ra căn cứ,

chủ thể áp dụng.

Quan niệm khác thì cho rằng “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp có tính

chất bắt buộc của Nhà nước do những người có thẩm quyền trong cơ quan tiến

hành tố tụng và cơ quan được quyền tiến hành một số hoạt động điều tra theo

luật định áp dụng, tạm thời tước bỏ hoặc hạn chế một phần quyền tự do thân thể

của bị can, bị cáo và trong trường hợp đặc biệt có thể áp dụng đối với người

7

chưa bị khởi tố về hình sự nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho công tác điều

tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc không cho họ tiếp tục gây nguy hại cho

xã hội”. [35, tr.40]. Khái niệm này đã cho thấy tính chất bắt buộc phải chấp

hành từ phía người bị áp dụng, chủ thể, đối tượng, mục đích áp dụng, nhưng

không hợp lý khi cho là khi áp dụng biện pháp ngăn chặn “tạm thời tước bỏ một

phần quyền tự do thân thể của bị can, bị cáo…” Trong khi đó, biện pháp ngăn

chặn không phải là hình phạt, không có nội dung “tước bỏ, hạn chế quyền, lợi

ích của người phạm tội” như hình phạt được quy định tại Điều 30 BLHS năm

2015. Ngoài ra, trong khái niệm này chưa liệt kê đầy đủ chủ thể có thẩm quyền

áp dụng biện pháp ngăn chặn như chủ thể bắt người phạm tội quả tang và bắt

người đang bị truy nã.

Quan niệm thứ ba thì cho rằng “Biện pháp ngăn chặn là biện pháp hạn

chế quyền tự do cá nhân, do người có quyền hạn được quy định trong Bộ luật tố

tụng hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người liên quan đến việc thực hiện

tội phạm chưa bị khởi tố, khi có căn cứ áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo

đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đạt hiệu quả

cao” [25, tr.41-42]

Quan niện này đã đúng khi chỉ ra bản chất chủ thể, đối tượng, mục đích

áp dụng. Tuy nhiên, không chỉ ra căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Mặc dù có sự khác nhau nhất định, nhưng các quan niệm nêu trên tương

đối thống nhất khi đề cập đến bản chất của biện pháp ngăn chặn là biện pháp

cưỡng chế trong tố tụng hình sự, có nội dung hạn chế tạm thời (chứ không tước

bỏ) quyền và lợi ích của đối tượng bị áp dụng, đối tượng, mục đích áp dụng. Tuy

nhiên những khái niệm này được xây dựng trước thời điểm ban hành BLTTHS

năm 2015 nên chưa thật sự chính xác và phản ánh đầy đủ những vấn đề thuộc

nội hàm của khái niệm biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.

Để đưa ra khái niệm biện pháp ngăn chặn thật sự khoa học, theo tác giả

của luận văn thì trong nội dung khái niệm này phải thể hiện được bản chất, căn

cứ; chủ thể có thẩm quyền áp dụng; đối tượng bị áp dụng; trình tự thủ tục và

mục đích áp dụng mà BLTTHS năm 2015 quy định.

Với cách tiếp cận như vậy, tác giả luận văn cho rằng: “các biện pháp ngăn

8

chặn là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự do cơ quan; người có thẩm

quyền áp dụng đối với những đối tượng nhất định khi có căn cứ và theo một trình

tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo

đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi”.

Từ khái niệm này cho thấy, các biện pháp ngăn chặn có các đặc điểm sau:

Một là, biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế do pháp luật

tố tụng hình sự quy định.

Đặc điểm này cho thấy tính cưỡng chế và tính pháp lý (tính luật định) của

biện pháp ngăn chặn

Tính cưỡng chế của các biện pháp ngăn chặn thể hiện ở tính chất và nội

dung cưỡng chế. Xét về tính chất, các biện pháp ngăn chặn là biện pháp tác động

trực tiếp của nhà nước và xã hội lên đối tượng bị áp dụng, buộc đối tượng bị áp

dụng phải chấp hành. Còn xét về nội dung, các biện pháp ngăn chặn khi được áp

dụng, chúng tác động đến thể chất và tinh thần của đối tượng bị áp dụng thông

qua việc cấm đoán một số hoạt động nhất định của đối tượng bị áp dụng như:

cấm tiếp tục phạm tội; cấm bỏ trốn, rời khỏi nơi cư trú mà không được phép của

cơ quan có thẩm quyền; cấm cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành

án; cấm phạm tội mới. Cùng với việc cấm đoán đó, các biện pháp ngăn chặn khi

được áp dụng còn hạn chế tạm thời một số quyền và lợi ích thiết thân của đối

tượng bị áp dụng như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại,

cư trú… Mặc dù các biện pháp ngăn chặn có nội dung này, nhưng không phải là

hình phạt.

Tính pháp lý của biện pháp ngăn chặn thể hiện ở chỗ, chỉ những biện

pháp nào có mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi cản trở việc điều

tra, truy tố, xét xử và thi hành án được pháp luật tố tụng hình sự quy định mới

được coi là biện pháp ngăn chặn truy tố hình sự.

Những tính chất này phản ánh bản chất xã hội pháp lý của biện pháp ngăn chặn.

Hai là, căn cứ áp dụng là những tài liệu, chứng cứ xác đáng phản ánh khả

năng đối tượng bị áp dụng (bị can, bị cáo) sẽ gây khó khăn cho việc điều tra,

truy tố, xét xử và thi hành án, cản trở việc xác định sự thật của vụ án hoặc khả

năng tiếp tục thực hiện tội phạm. Đây là những căn cứ thực tế chứng tỏ cần phải

9

ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn những hành vi gây khó khăn, cản trở các hoạt

động điều tra, truy tố, xét xử hoặc để bảo đảm thi hành án.

Ba là, mục đích áp dụng: mục đích chung nhất của việc áp dụng các biện

pháp ngăn chặn là để kịp thời ngăn chặn tội phạm và các hành vi gây trở ngại

cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như: ngăn chặn việc người

bị tình nghi phạm tội; người bị buộc tội bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ; ngăn chặn

việc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Bốn là, đối tượng bị áp dụng chỉ bao gồm những người mà BLTTHS quy

định. Họ có thể là người bị buộc tội (bao gồm người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị

cáo); người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; người bị kết án; người bị yêu cầu

dẫn độ. Trong số họ có người đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về tội hình sự

(bị can); có những người đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử (bị cáo); có người

đã bị tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật và phải thi hành bản án đó.

Nhưng cũng có người chưa bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về hình sự (người

bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người phạm tội quả tang…)

Năm là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng là những người mà theo quy định

của BLTTHS họ có quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn. Những chủ thể này chủ

yếu là những người tiến hành tố tụng hình sự; những người trong các cơ quan

được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; hoặc bất kỳ ai mà theo

quy định của pháp luật có quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang

bị truy nã.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của bắt người trong tố tụng hình sự.

Bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.

Do vậy, cũng có những đặc điểm chung của biện pháp ngăn chặn như đã phân

tích ở trên. Tuy nhiên, đây là một biện pháp ngăn chặn đặc thù khác với các biện

pháp ngăn chặn khác, nên có những đặc điểm riêng (biểu hiện riêng) về bản chất

xã hội pháp lý, căn cứ, mục đích, đối tượng, thẩm quyền áp dụng. Cụ thể là:

+ Thứ nhất, về bản chất xã hội – pháp lý: bắt người trong tố tụng hình sự

biện pháp tạm thời hạn chế tự do thân thể đối với đối tượng bị áp dụng.

Nếu như các biện pháp ngăn chặn khác khi được áp dụng có thể hạn chế

không chỉ quyền tự do thân thể mà còn hạn chế một số quyền, lợi ích thiết thực

10

khác của đối tượng bị áp dụng như quyền tự do cư trú, quyền về tài sản… thì

biện pháp này chủ yếu hạn chế quyền tự do thân thể của đối tượng bị áp dụng.

+ Thứ hai, căn cứ, điều kiện áp dụng tùy theo từng biện pháp bắt người

mà có những căn cứ, điều kiện tương ứng. Tuy nhiên những căn cứ bắt người

phải là những tài liệu, chứng cứ xác đáng phản ánh đối tượng có khả năng tiếp

tục thực hiện tội phạm, khả năng bỏ trốn, khả năng gây khó khăn cho hoạt động

điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

+ Thứ ba, mục đích áp dụng là để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn

những hành vi gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố xét xử, thi hành án,

nhất là hành vi tiêu hủy chứng cứ, bỏ trốn…

+ Thứ tư, đối tượng áp dụng là những người bị giữ trong trường hợp khẩn

cấp, người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người có yêu

cầu dẫn độ.

+ Thứ năm, chủ thể có thẩm quyền áp dụng rất đa dạng bao gồm không

chỉ những người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự,

những người trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động

điều tra mà còn có thể là bất kỳ ai trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang,

người đang bị truy nã.

Từ sự phân tích trên có thể rút ra khái niệm về các biện pháp bắt người

trong tố tụng hình sự như sau: “Bắt người là một trong những biện pháp ngăn

chặn trong tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị

buộc tội, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị yêu cầu dẫn độ, tạm

thời hạn chế tự do thân thể của họ, theo những trình tự thủ tục do pháp luật tố

tụng hình sự quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, người thực hiện tội phạm trốn

tránh pháp luật, bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử

và thi hành án được thuận lợi”.

1.1.3. Các biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS năm 2015, các biện pháp

bắt người gồm bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội

quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị

yêu cầu dẫn độ.

11

1.1.3.1. Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn trong

tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự áp dụng đối

với người đã bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà xét thấy cần phải tiếp tục áp

dụng biện pháp bắt để tạm giữ đối với người đó trong một thời hạn nhất định.

Qua đây thấy rằng, đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt này chỉ là người bị

giữ trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại Điều 110 BLTTHS hiện hành.

Căn cứ để áp dụng biện pháp này là những tài liệu, chứng cứ cho thấy cần

phải tiếp tục áp dụng biện pháp bắt để tạm giữ đối với người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp trong một thời hạn nhất định

Mục đích áp dụng biện pháp này là nhằm ngăn chặn không để người đang

chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng tiếp tục thực hiện tội phạm, ngăn chặn ngay người phạm tội bỏ trốn, hoặc

tiêu hủy chứng cứ.

Về thẩm quyền, trình tự thủ tục bắt: theo quy định tại khoản 4 Điều 110

BLTTHS năm 2015, những người sau đây có thẩm quyền ra lệnh bắt người bị

giữ trong trường hợp khẩn cấp.

+ Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp;

+ Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Đồn trưởng

Đồn biên phòng; Chỉ huy trưởng Biên phòng cửa khẩu cảng; Chỉ huy trưởng Bộ

đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Cục trưởng Cục trinh sát

biên phòng; Cục trưởng cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên

phòng; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội

biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển; Cục trưởng Cục nghiệp vụ

và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng,

chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng chi cục kiểm

ngư vùng…

Việc áp dụng biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được

tiến hành theo trình tự thủ tục như sau:

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, cơ quan điều tra phải lấy lời khai và người có thẩm quyền ra lệnh bắt

12

phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp

hoặc trả tự do ngay cho người đó.

Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện

kiểm sát cùng cấp kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn

lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, VKS phải ra quyết định phê

chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Thời hạn 12 giờ xét phê chuẩn được

tính liên tục kể cả trong và ngoài giờ làm việc. Do vậy, sau khi đã dẫn giải người

bị bắt về trụ sở của mình. Cơ quan điều tra thụ lý vụ án phải chuyển ngay hồ sơ

có đủ tài liệu cho VKS cùng cấp xét phê chuẩn.

Trường hợp cơ quan điều tra đã ra quyết định tạm giữ nhưng VKS thấy

không có căn cứ để phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp

thì VKS quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp. Trường hợp VKS quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn

cấp phải ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ, cơ quan điều tra đã nhận

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ.

1.1.3.2. Bắt người phạm tội quả tang.

Căn cứ vào Điều 111 BLTTHS năm 2015 thì bắt người phạm tội quả tang

là trường hợp bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi

thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt [17, tr.217].

Qua đây cho thấy có ba trường hợp bắt người phạm tội quả tang:

+ Trường hợp thứ nhất là trường hợp bắt người khi người đó đang thực

hiện tội phạm thì bị phát hiện. Đối với trường hợp này phải có căn cứ xác định

một người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.

Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi được mô

tả trong cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng chưa kết thúc, hành vi phạm tội của

người này đang gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.

Việc đang thực hiện tội phạm diễn ra dài hay ngắn tùy thuộc vào tính chất của

hành vi phạm tội, có hành vi phạm tội được thực hiện trong một khoảng thời

gian ngắn như hành vi cướp giật, nhưng cũng có hành vi phạm tội được thực

13

hiện trong một thời gian dài và không gian đoạn như hành vi tàng trữ trái phép

chất ma túy quy định tại Điều 249 BLHS năm 2015. Đối với tội phạm này thì

trong suốt thời gian người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy mà bị phát

hiện vào bất kỳ thời điểm nào đều được coi là “đang thực hiện tội phạm thì bị

phát hiện” cần ngăn chặn không để tội phạm tiếp tục được thực hiện.

+ Trường hợp thứ hai là trường hợp một người ngay sau khi thực hiện tội

phạm thì bị phát hiện.

Đối với trường hợp này phải có căn cứ xác định một người ngay sau khi

thực hiện hành vi phạm tội xong, chưa kịp chạy trốn, chưa kịp cất giấu tang vật

hoặc đang cất giấu tang vật, xóa vết tích của tội phạm thì bị phát hiện. Đồng

thời, giữa thời điểm kết thúc việc thực hiện tội phạm và thời điểm phát hiện tội

phạm không có sự gián đoạn về mặt thời gian. Nếu người thực hiện tội phạm đã

kết thúc việc phạm tội và bỏ trốn, sau một khoảng thời gian nhất định người đó

mới bị người khác phát hiện, thì việc bắt người phạm tội trong trường hợp này

không thuộc trường hợp bắt người phạm tội quả tang.

Việc người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm

xong có bị phát hiện hay không tùy thuộc vào tính chất của tội phạm, bối cảnh

xảy ra tội phạm cũng như khả năng phát hiện của người khác.

+ Trường hợp thứ ba là trường hợp một người đang thực hiện tội phạm

hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt.

Đối với trường hợp này phải có căn cứ chứng minh một người đang thực

hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm xong thì bị phát hiện nên đã

bỏ chạy và bị đuổi bắt. Đồng thời giữa việc người phạm tội bị phát hiện, bỏ chạy

và việc bị người khác phát hiện đuổi bắt phải có sự kế tiếp nhau, không gián

đoạn về mặt thời gian, nghĩa là việc đuổi bắt phải diễn ra ngay sau khi người

phạm tội bỏ chạy.

Về thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang. Do tính cấp bách cần phải

bắt ngay người phạm tội quả tang để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc

hành vi trốn tránh pháp luật, cũng như để phát huy tính tích cực của nhân dân trong

đấu tranh phòng, chống tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định:

“bất kỳ người nào cũng có quyền bắt” (khoản 1 Điều 111 BLTTHS năm 2015).

14

Về thủ tục áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang. Để đảm bảo an

toàn cho những người tham gia bắt người phạm tội quả tang pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam quy định: “khi bắt người phạm tội quả tang thì người nào

cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt” (khoản 2 Điều 111

BLTTHS)

Sau khi bắt người phạm tội quả tang, người thực hiện việc bắt phải giải

ngay người bị bắt đến Cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân

nơi gần nhất.

Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay hoặc báo cáo

ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn công an phát hiện bắt giữ,

tiếp nhận người phạm tội quả tang thì Công an xã, phường, thị trấn, Đồn công an

có trách nhiệm thu giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan,

lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy

định của pháp luật; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra

có thẩm quyền.

1.1.3.3. Bắt người đang bị truy nã

Bắt người đang bị truy nã là bắt bị can, bị cáo, người bị kết án trục xuất,

phạt tù hoặc tử hình hoặc người đang chấp hành án trục xuất, chấp hành án phạt

tù hoặc người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp

hành án bỏ trốn và đã quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền [17,tr219].

Qua đây cho thấy, đối tượng áp dụng biện pháp bắt này là người đang bị truy

nã. Họ có thể là bị can, bị cáo, người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phạt

trục xuất, người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình, người đang chấp hành án

phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành

án mà bỏ trốn và đã có quyết định truy nã của cơ quan có thẩm quyền.

Như vậy, người đang bị truy nã, với tính chất là đối tượng bị áp dụng biện

pháp bắt người trong trường hợp này phải có đủ điều kiện: 1. Họ phải có một

trong những người nêu trên; 2. Có căn cứ xác định họ đã bỏ trốn hoặc không

biết đang ở đâu và đã tiến hành các biện pháp xác minh, truy bắt nhưng không

có kết quả; 3. Đã xác định chính xác lý lịch, các đặc điểm để nhận dạng đối

15

tượng bỏ trốn; 4. Đã bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định (lệnh) truy nã.

Về thẩm quyền và thủ tục áp dụng: tương tự như trường hợp bắt người

phạm tội quả tang.

1.1.3.4. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là một trong những biện pháp bắt người do

cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự áp dụng đối với bị can,

bị cáo để tạm giam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố,

xét xử và thi hành án, ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội.

Qua đây thấy rằng, đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người này chỉ có

thể là bị can hoặc bị cáo.

Bị can là người bị khởi tố về hình sự (Điều 60 BLTTHS).

Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (Điều 61 BLTTHS).

Về căn cứ áp dụng: mặc dù Điều 113 BLTTHS không quy định cụ thể căn

cứ áp dụng biện pháp này nhưng căn cứ vào Điều 119 BLTTHS năm 2015 về

tạm giam, có thể thấy căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải dựa trên căn cứ

áp dụng biện pháp tạm giam bởi vì sau khi áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo

để tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng ngay biện pháp tạm giam đối

với người bị bắt.

Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam được quy định tại Điều 119 BLTTHS

năm 2015, cụ thể là:

Căn cứ thứ nhất: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam có thể áp dụng đối với bị

can, bị cáo bị buộc tội về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.

Theo Điều 9 BLHS năm 2015 thì tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội

phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất

của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến

20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình; Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm

có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung

hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là là từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù.

Như vậy, bắt bị can, bị cáo để tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị

cáo phạm những tội có mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối

với tội ấy là từ trên 7 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Tuy nhiên,

16

không phải mọi bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm

trọng đều phải bắt để tạm giam. Những đối tượng này chỉ bị bắt để tạm giam nếu

việc bị bắt bị can, bị cáo để tạm giam là cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội phạm

hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, tuy

tố, xét xử, hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, hoặc để bảo đảm thi hành án.

Căn cứ thứ hai: bắt bị can, bị cáo để tạm giam có thể áp dụng đối với bị

can, bị cáo về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà BLHS quy

định phạt tù trên 2 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong những

trường hợp sau đây:

+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị

can;

+ Có dấu hiệu bỏ trốn;

+ Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian

dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;

+ Tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản

liên quan đến vụ án;

+ Đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội

phạm và người thân thích của những người này;

+ Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù

đến 2 năm nếu họ tiếp tục phạm tội.

Để bảo đảm nguyên tắc nhân đạo của pháp luật, đối với bị can, bị cáo là

phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị

bệnh nặng mà có nơi cư trú, lí lịch rõ ràng thì không bắt bị can, bị cáo để tạm

giam, mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp sau:

+ Bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội;

+ Bị can, bị cáo có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác

khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy chứng cứ, tài liệu, đồ vật

của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người

làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những

17

người này;

+ Bị can, bị cáo phạm tội về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn

cứ xác định nếu không bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy

hại đến an ninh quốc gia.

Về thẩm quyền áp dụng: Theo quy định tại Điều 113 BLTTHS thì những

người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam:

- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này,

lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;

- Viện trưởng, Phó viện trưởng VKSND; Viện trưởng, Phó viện trưởng

VKS quân sự các cấp;

- Chánh án, Phó chánh án TAND; Chánh án, Phó chánh án Tòa án quân

sự các cấp; Hội đồng xét xử.

Về thủ tục áp dụng: thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam được thực hiện

như sau:

+ Lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh bắt, quyết định bắt bị can, bị cáo

để tạm giam phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị bắt; lý do bắt; số, ngày,

tháng, năm; địa chỉ ban hành lệnh, quyết định phê chuẩn lệnh; căn cứ ban hành

lệnh, quyết định phê chuẩn; nội dung của lệnh, quyết định phê chuẩn; họ tên,

chức vụ, chữ ký của người ban hành lệnh, quyết định phê chuẩn và đóng dấu.

Khi tiến hành việc bắt, người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết

định; giải thích lệnh, quyết định, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị bắt,

đồng thời phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.

Khi tiến hành bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại nơi người đó cư trú phải

có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến (thân

nhân, người láng giềng của người bị bắt hoặc bất kỳ ai có mặt tại địa điểm thực

hiện việc bắt) chứng kiến. Khi tiến hành bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại nơi

người đó làm việc, học tập phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm

việc, học tập chứng kiến. Khi tiến hành bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại nơi

khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi

tiến hành việc bắt người.

Không được bắt bị can, bị cáo để tạm giam vào ban đêm (từ 22 giờ đến 06

18

giờ sáng ngày hôm sau), trừ trường hợp bắt bị can, bị cáo đang bị truy nã. Quy

định này nhằm bảo đảm việc bắt được công khai, minh bạch, giữ trật tự chung

cho người dân.

1.1.3.5. Bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ

Áp dụng biện pháp bắt người bị yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định

dẫn độ phát sinh từ nhu cầu hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự. Do vậy, trong

một số hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự mà Việt Nam đã ký kết có quy định

sau khi nhận được yêu cầu dẫn độ, bên được yêu cầu phải áp dụng các biện pháp

cần thiết theo pháp luật của nước mình để bắt người bị yêu cầu dẫn độ. Để đáp

ứng yêu cầu này, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 đã dành một điều (Điều 41)

để quy định các biện pháp ngăn chặn để dẫn độ. Nghiên cứu điều luật này thấy

rằng, nội dung của Điều 41 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 mới chỉ dừng lại ở

nguyên tắc chung, chưa quy định một cách cụ thể, rõ ràng đối tượng, cơ quan và

người có thẩm quyền ra quyết định áp dụng cũng như trình tự thủ tục áp dụng.

Để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc áp dụng biện pháp bắt người bị yêu

cầu dẫn độ để tạm giam, BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể 5 biện pháp

ngăn chặn, trong đó có biện pháp bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ để bảo

đảm cho việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành yêu cầu dẫn độ. Biện pháp

bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ lần đầu tiên được quy định tại Điều 503

BLTTHS năm 2015.

Mặc dù tại Điều 503 BLTTHS không quy định định nghĩa pháp lý về khái

niệm bắt để tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ, nhưng có thể hiểu: “Bắt tạm

giam người bị yêu cầu dẫn độ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, do

cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị yêu cầu dẫn độ để

tạm giam nhằm bảo đảm việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định

dẫn độ, đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự”.

Căn cứ vào quy định tại Điều 503 BLTTHS năm 2015 đối tượng bị áp

dụng biện pháp này là người xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc người bị dẫn độ.

Khi thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, cơ

quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền của Việt Nam có thể thực hiện việc dẫn độ

người nước ngoài đang ở trên lãnh thổ Việt Nam có hành vi phạm tội hoặc bị kết

19

án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật cho nước yêu cầu dẫn độ để truy

cứu trách nhiệm hình sự hoặc để thi hành án nếu có đủ điều kiện để dẫn độ.

Công dân Việt Nam mặc dù là đối tượng bị từ chối dẫn độ nhưng họ có thể là

đối tượng bị cơ quan có thẩm quyền nước ngoài yêu cầu cơ quan có thẩm quyền

của Việt Nam dẫn độ. Do vậy, trong quá trình xem xét yêu cầu dẫn độ của cơ

quan có thẩm quyền nước ngoài thì công dân Việt Nam có thể bị áp dụng biện

pháp ngăn chặn nhất định, trong đó có biện pháp bắt tạm giam người bị yêu cầu

dẫn độ.

Điều kiện áp dụng: Biện pháp bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ hoặc

người bị dẫn độ khi có đủ các điều kiện:

+ Tòa án đã có quyết định xem xét yêu cầu dẫn độ đối với người đó hoặc

quyết định dẫn độ đối với người đó đã có hiệu lực pháp luật;

+ Có căn cứ cho rằng người bị yêu cầu dẫn độ bỏ trốn hoặc gây khó khăn,

cản trở việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định dẫn độ.

Thẩm quyền quyết định áp dụng: Theo quy định tại Điều 502 BLTTHS năm

2015 thì Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp tỉnh; Chánh án, Phó chánh án TAND

cấp cao quyết định áp dụng biện pháp bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ.

Về thủ tục: Việc bắt người bị yêu cầu dẫn độ để tạm giam hoặc thi hành

quyết định dẫn độ được thực hiện theo thủ tục quy định tại Điều 113 BLTTHS

(bắt bị can, bị cáo để tạm giam).

Thời hạn tạm giam để xem xét yêu cầu dẫn độ không quá thời hạn trong

lệnh bắt giam của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ hoặc thời

hạn phải thi hành hoặc còn phải thi hành hình phạt tù trong bản án, quyết định

hình sự của Tòa án nước yêu cầu dẫn độ.

Trường hợp cần thiết, TAND cấp tỉnh, TAND cấp cao có thể gửi văn bản

yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ ra lệnh, quyết định tạm

giam hoặc gia hạn tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ để bảo đảm việc xem xét

yêu cầu dẫn độ; văn bản yêu cầu được gửi thông qua Bộ Công an.

“Trường hợp cần thiết” ở đây hiện tại chưa có văn bản giải thích, hướng

dẫn, nhưng có thể hiểu là trường hợp không có đủ tài liệu, chứng cứ để xem xét

quyết định áp dụng biện pháp tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ.

20

Quy định này của BLTTHS năm 2015 thể hiện tinh thần trách nhiệm của

Việt Nam trong việc hợp tác quốc tế và tương trợ tư pháp hình sự, cũng như tôn

trọng pháp luật của nước sẽ xét xử tội phạm được dẫn độ và mỗi nước khác nhau

có những quan niệm về tội phạm và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam với

thời hạn khác nhau [*, tr 810]

Khi tòa án có thẩm quyền quyết định từ chối dẫn độ hoặc hết thời hạn 15

ngày kể từ ngày quyết định thi hành dẫn độ có hiệu lực mà nước yêu cầu dẫn độ

không tiếp nhận người bị dẫn độ thì biện pháp ngăn chặn tạm giam đã áp dụng

bị hủy bỏ. Khi hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam, người bị yêu cầu dẫn độ

có thể hoặc không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

1.1.4. Ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng

hình sự.

Việc quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong tố tụng

hình sự có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự, bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội,

góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ý nghĩa lớn

lao đó được thể hiện trên các phương diện cơ bản sau đây:

+ Thứ nhất, việc quy định và áp dụng các biện pháp bắt người trong tố

tụng hình sự thể hiện quyền lực của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội

phạm bằng sức mạnh cưỡng chế.

Ở nước ta, đấu tranh phòng, chống tội phạm là trách nhiệm chung của

toàn xã hội, nhưng vai trò nòng cốt, có tính chất quyết định vẫn là các cơ quan nhà

nước, nhất là các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự. Điều 18

BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong

phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để

xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội”.

Với nhiệm vụ và trách nhiệm trên, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố

tụng được phép áp dụng các biện pháp do BLTTHS quy định, trong đó có các

biện pháp bắt người để tác động lên thân thể đối tượng bị áp dụng buộc đối

tượng phải chấm dứt ngay hành vi phạm tội, ngăn chặn đối tượng bỏ trốn, tiêu

21

hủy chứng cứ, phạm tội mới nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét

xử và thi hành án có hiệu quả.

Việc áp dụng các biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự được tiến

hành theo ý chí đơn phương của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

hình sự, cũng như của một số người khác được pháp luật trao quyền, không phụ

thuộc vào ý chí của đối tượng bị áp dụng. Về phía đối tượng bị áp dụng bắt buộc

phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp bắt người của cơ quan, người có

thẩm quyền, nếu không chấp hành thì đối tượng bị áp dụng phải chịu những hậu

quả pháp lý bất lợi do pháp luật quy định (trách nhiệm pháp lý).

+ Thứ hai, việc quy định và áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng

hình sự có tác dụng không chỉ ngăn chặn tội phạm mà còn tạo điều kiện thuận

lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được đúng đắn,

có cơ sở pháp lý, đồng thời thể hiện vai trò của bắt người trong các hoạt động tố

tụng nói chung, hoạt động điều tra nói riêng.

Để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, toàn diện và chính xác,

các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải thực hiện nhiều hoạt động, áp dụng

nhiều biện pháp khác nhau (trong đó có các biện pháp bắt người) trước hết là

nhằm ngăn chặn tội phạm, sau đó là nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội

phạm, làm rõ sự thật của vụ án. Để đạt được mục đích đó, cơ quan và người có

thẩm quyền được áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung, biện pháp bắt

người nói riêng trong những trường hợp cần thiết, đối với những đối tượng nhất

định nhằm: Không để cho đối tượng tự do thực hiện tội phạm, hoặc bỏ trốn;

không để cho đối tượng có những hoạt động cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử

(như tiêu hủy chứng cứ, thông cung, cất giấu phương tiện phạm tội...) hoặc gây

khó khăn cho việc thi hành án. Qua đó góp phần tạo thuận lợi cho việc giải

quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn; góp phần thực hiện có hiệu

quả nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm.

+ Thứ ba, việc quy định chặt chẽ và áp dụng đúng đắn các biện pháp bắt

người trong tố tụng hình sự còn góp phần tích cực vào việc bảo vệ lợi ích của

Nhà nước và tổ chức, bảo vệ quyền con người (nhất là quyền tự do cá nhân),

quyền công dân được Hiến pháp ghi nhận.

22

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có

thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc

phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng

đồng” (Khoản 2 Điều 14); “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa

án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường

hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định” (Khoản 2 Điều

20). Trên cơ sở Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 quy định một cách chặt chẽ chi

tiết về căn cứ, đối tượng, thẩm quyền, trình tự thủ tục bắt người trong tố tụng

hình sự buộc phải tuân thủ khi tiến hành bắt người nhằm hạn chế, chấm dứt việc

lạm dụng, áp dụng các biện pháp bắt người trái với quy định của pháp luật vi

phạm quyền con người, quyền công dân, nhất là quyền tự do cá nhân được Hiến

pháp và pháp luật bảo vệ và bảo đảm.

Mặt khác, việc quy định và áp dụng đúng đắn các biện pháp bắt người

trong tố tụng hình sự còn có tác dụng ngăn chặn tội phạm không để tội phạm

tiếp tục gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, xã hội, gây thiệt hại cho quyền và

lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, nhờ đó mà những lợi ích này được

bảo vệ và đảm bảo. Điều này thể hiện tính ưu việt của Nhà nước XHCN.

+ Thứ tư, việc quy định một cách chặt chẽ chi tiết về căn cứ, đối tượng,

chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự còn có

tác dụng giúp cơ quan, người có thẩm quyền nắm vững, nhận thức đúng đắn bản

chất, nội dung, điều kiện áp dụng của từng biện pháp bắt người, từ đó áp dụng

thống nhất, chính xác những biện pháp này, góp phần hạn chế tối đa những sai

sót có thể xảy ra, gây ảnh hưởng đến quyền tự do cá nhân được Hiến pháp, pháp

luật ghi nhận.

Ngoài ra, việc quy định chặt chẽ, chi tiết các biện pháp bắt người trong tố

tụng hình sự còn có tác dụng nâng cao ý thức pháp luật của người dân trong việc

chủ động, tích cực tham gia các hoạt động tố tụng hình sự như bắt người phạm

tội quả tang, bắt người đang bị truy nã hoặc tham gia chứng kiến việc bắt người

bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, qua đó góp

phần vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

23

1.2. Phân biệt bắt người với các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự khác.

1.2.1 Phân biệt bắt người với các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ.

Theo quan điểm phổ biến hiện nay, các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng

hình sự được chia thành ba nhóm:

- Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: giữ người trong trường hợp khẩn

cấp, bắt người, bảo lãnh; đặt tiền để đảm bảo; cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn

xuất cảnh. Trong đó, biện pháp bắt người bao gồm các trường hợp: bắt người bị

giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị

truy nã; bắt người bị yêu cầu dẫn độ và bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

- Các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ bao gồm: Khám xét

(khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm phương tiện, tài liệu, đồ vật, thư

tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử); thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật.

- Các biện pháp đảm bảo hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi

hành án bao gồm: áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản.

Trong ba nhóm biện pháp cưỡng chế nêu trên, các biện pháp ngăn chặn,

nhất là các biện pháp bắt người là những biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có

tính nghiêm khắc nhất, được thể hiện ở việc hạn chế tạm thời một số quyền, lợi

ích thiết thân của đối tượng bị áp dụng như quyền bất khả xâm phạm về thân thể

quyền tự do đi lại, tự do cư trú....

Do đều là biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, nên cả ba nhóm biện pháp

này đều có những điểm chung như: đều là biện pháp mang tính quyền lực nhà

nước; do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự, thủ tục được

pháp luật tố tụng hình sự quy định; đối tượng bị áp dụng là những chủ thể có

hành vi vi phạm pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự; đều được thể hiện

ở việc hạn chế tạm thời một số quyền và lợi ích thiết thân của đối tượng bị áp

dụng; đều không nhằm mục đích trừng trị, giáo dục cải tạo người phạm tội mà

nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi. Tuy nhiên, giữa chúng

có sự khác nhau nhất định cần phải nắm vững để áp dụng đúng đắn trong quá

trình giải quyết vụ án.

24

Nếu so sánh biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự với các biện pháp

bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự thấy rằng giữa chúng

có những điểm khác nhau cơ bản sau đây:

+ Về nội dung cưỡng chế: Nội dung cưỡng chế của biện pháp bắt người

thể hiện ở việc hạn chế tạm thời quyền tự do thân thể của đối tượng bị áp dụng.

Họ bị cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định, do pháp luật tố tụng

hình sự quy định; còn các biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ không

có nội dung này.

+ Về đối tượng bị áp dụng: đối tượng áp dụng biện pháp bắt người chỉ có

thể là con người gồm các trường hợp: người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,

người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người bị yêu cầu

dẫn độ; còn đối tượng áp dụng các biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng

cứ không chỉ có con người (Biện pháp khám xét người) mà còn cả chỗ ở, nơi

làm việc, học tập, địa điểm, phương tiện, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu

kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử. Như vậy, đối tượng bị áp dụng các biện pháp

bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ có phạm vi rộng hơn các biện pháp bắt

người.

+ Về mục đích áp dụng: các biện pháp bắt người chủ yếu là nhằm ngăn

chặn tội phạm, không để cho tội phạm tiếp tục được thực hiện, không để cho

người phạm tội trốn tránh pháp luật.... Đồng thời, trong một chừng mực nhất

định cũng nhằm mục đích thu thập, bảo quản chứng cứ trong vụ án, tạo điều

kiện cho công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong khi đó,

mục đích chủ yếu và cơ bản của các biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng

cứ là nhằm phát hiện, thu giữ, ghi nhận và bảo quản chứng cứ chứng minh tội

phạm.

+ Về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp này có sự khác

nhau tùy thuộc vào từng biện pháp cụ thể.

+ Về tính chất: các biện pháp bắt người là một trong những biện pháp

ngăn chặn; còn các biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ là những biện

pháp điều tra.

25

1.2.2. Phân biệt biện pháp bắt người với các biện pháp bảo đảm cho việc tiến

hành hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (biện pháp cưỡng chế).

Ngoài những điểm giống như đã phân tích ở trên, hai nhóm biện pháp này

khác nhau ở những điểm cơ bản sau đây:

+ Về nội dung, mức độ cưỡng chế: các biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho

việc tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án chỉ có tính

chất cưỡng bức, buộc đối tượng bị áp dụng phải thi hành nghĩa vụ tố tụng.

Trong khi đó, biện pháp bắt người là biện pháp có tính cưỡng chế nghiêm khắc

hơn so với biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố,

xét xử và thi hành án bởi khi áp dụng các biện pháp bắt người, đối tượng bị áp

dụng sẽ bị hạn chế tạm thời quyền tự do thân thể.

+ Về đối tượng bị áp dụng: đối tượng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế

bảo đảm cho hoạt động khởi tố, điều tra truy tố, xét xử đa dạng hơn đối tượng bị

áp dụng biện pháp bắt người, cụ thể bao gồm: người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, người bị buộc tội (áp giải); người làm chứng, người bị hại, người bị tố

giác, người bị kiến nghị khởi tố trong những trường hợp luật định (dẫn giải); bị

can, bị cáo về tội mà BLHS quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài

sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại (kê biên tài sản); người bị buộc tội về

tội mà BLHS quy định hình phạt tiền, bị tịch thu tài sản để bảo đảm bồi thường

thiệt hại (phong toả tài khoản). Trong khi đó, đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt

người chỉ bao gồm các trường hợp: người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,

người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo, người bị yêu cầu

dẫn độ.

+ Về mục đích áp dụng: áp dụng các biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho

việc tiến hành các hoạt động, điều tra chủ yếu nhằm bảo đảm cho những hoạt

động được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy

định; không có mục đích ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn những hành vi cản trở

hoạt động khởi tố, điều tra truy tố xét xử và thi hành án như các biện pháp bắt

người.

26

+ Về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố

tụng và các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự cũng có sự khác nhau

nhất định tùy thuộc vào từng biện pháp cụ thể.

+ Về tính chất của biện pháp: các biện pháp cưỡng chế bảo đảm cho việc

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án không có tính chất ngăn chặn,

cũng như tính chất điều tra vụ án mà chỉ có tính chất hỗ trợ cho hoạt động khởi

tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành theo đúng trình tự, thủ

tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.

Mặc dù có sự khác nhau như vậy, nhưng biện pháp bắt người nói riêng,

các biện pháp ngăn chặn nói chung và các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác có

mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự. Bởi vì, việc áp dụng biện pháp bắt người trong tố tụng hình

sự sẽ tạo điều kiện cho việc áp dụng các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ

cũng như các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác. Ngược lại, việc áp dụng các

biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự khác sẽ tạo thuận lợi cho việc thu thập

được những chứng cứ, tài liệu làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp bắt người

trong tố tụng hình sự.

Trên đây là những điểm khác nhau cơ bản giữa các biện pháp bắt người

và các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác. Nắm vững những điểm khác nhau này

sẽ giúp các cơ quan, người tiến hành tố tụng áp dụng đúng đắn các biện pháp

này nhằm giải quyết vụ án hình sự được kịp thời, góp phần bảo vệ quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, thực hiện có hiệu

quả nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Tiểu kết chương 1

Chương 1của luận văn tập trung phân tích, luận giải làm rõ những vấn đề

lý luận về biện pháp bắt người theo quy định của BLTTHS năm 2015. Kết quả

nghiên cứu ở chương này là: đưa ra được khái niệm khoa học về biện pháp bắt

người với tính chất là một trong những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình

sự; chỉ ra những đặc điểm của biện pháp này về nội dung cưỡng chế, đối tượng

áp dụng, mục đích áp dụng; phân tích làm rõ các trường hợp bắt người trên các

27

khía cạnh: căn cứ, điều kiện, đối tượng áp dụng.... của từng biện pháp cụ thể;

phân biệt được biện pháp bắt người với các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác.

Những kết quả nghiên cứu này là cơ sở lý luận để đánh giá thực tiễn áp

dụng trong điều tra các vụ án về tội phạm ma túy tại huyện Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh ở Chương 2 của luận văn.

28

Chương 2

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI VÀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP

NÀY TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ TỘI PHẠM

MA TÚY TẠI HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện

pháp bắt người.

2.1.1. Khái quát lịch sử quy định biện pháp bắt người trong pháp luật tố tụng hình

sự Việt Nam giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

2.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự

năm 1988.

Bắt người là biện pháp ngăn chặn tạm thời hạn chế quyền tự do thân thể -

một trong những quyền tự do cá nhân rất quan trọng của con người được pháp

luật quy định và bảo đảm thực hiện. Do vậy, biện pháp này được quy định khá

sớm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác

nhau nên biện pháp bắt người mới chỉ được quy định xem kẽ trong các văn bản

pháp luật về tổ chức bộ máy. Cụ thể ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm

thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký sắc lệnh số 13/SL về tổ chức tòa án và

các ngạch thẩm phán, Trong đó Điều 4 có quy định: “Ban Tư pháp xã không có

quyền bắt bớ, giam giữ ai trừ khi có trát nã của một Thẩm phán, hay khi thấy

người phạm tội quả tang” [9, tr.65]. Như vậy, theo quy định này thì có hai

trường hợp bắt người có thể được áp dụng, đó là bắt người theo trát nã của

Thẩm phán và bắt người phạm tội quả tang. Thêm vào đó, tại Điều 5 của Sắc

lệnh này còn quy định: “Khi bắt người trong hai trường hợp trên, Ban Tư pháp

xã phải lập biên bản hỏi cung và giải bị can lên ngay Tòa án trong hạn 24 giờ

là cùng” [9, tr. 65 ]. Nghiên cứu các quy định của Sắc lệnh 13/SL cho thấy, luật

pháp nước ta thời kỳ này đã bước đầu quy định các trường hợp bắt người, quy

định thẩm quyền và thủ tục bắt người. Xong các quy định này còn hết sức đơn

giản, chưa chặt chẽ, đặc biệt là chưa quy định căn cứ bắt người.

29

Tiếp đó, ngày 29/3/1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa

đã ký Sắc lệnh số 40/SL về bảo vệ tự do cá nhân, trong đó Điều 1 của Sắc lệnh

này quy định: “Chỉ trừ khi nào có sự phạm pháp quả tang về khinh tội hay trọng

tội còn bao giờ bắt người cũng cần phải có lệnh của Thẩm phán viên. Lệnh bắt

của Thẩm phán viên phải viết ra giấy và bao giờ cũng do nhân viên của cơ quan

chính thức đem thi hành. Ở nơi nào chưa đặt Thẩm phán viên thì có những cơ

quan do pháp luật đã ấn định để thay cho Thẩm phán viên thì mới có quyền ra

lệnh bắt người” [9, tr.66]. Theo quy định này, thẩm quyền ra lệnh bắt người

thuộc về Thẩm phán viên. Ngoài ra, bất kỳ ai cũng không được quyền bắt ngoại

trừ trường hợp có sự phạm pháp quả tang về khinh tội hay trọng tội.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những quy định trên, Điều 2

Sắc lệnh số 40/SL đã đưa ra khái niệm về phạm pháp quả tang như sau: “Khi

nào sự phạm pháp đương xảy ra hoặc vừa xảy ra trước mắt hoặc chỉ khi nào kẻ

phạm pháp còn đương bị công chúng theo đuổi hay còn đương cầm giữ tang vật

thì gọi là phạm pháp quả tang. Trong trường hợp đặc biệt ấy (trường hợp phạm

pháp quả tang) thì bắt người không cần phải có lệnh trước của Thẩm phán viên.

Tư nhân bắt được kẻ phạm pháp quả tang phải lập tức dẫn đến trình nhà chức

trách ở nơi gần nhất. Những nhân viên có trách nhiệm về việc tuần phòng có thể

dẫn người bị bắt đến thẳng Thẩm phán viên mà không cần phải hỏi trước. Bất

kỳ vào trường hợp nào trong thời hạn 24 giờ kể từ lúc bắt, người bị bắt cũng

phải được đưa ra trước mặt thẩm phán viên để lấy cung” [9, tr.68]. Như vậy,

theo quy định này có bốn trường hợp được coi là phạm pháp quả tang: 1) Sự

phạm pháp đang xảy ra; 2) Sự phạm pháp vừa xảy ra trước mắt; 3) Kẻ phạm

pháp đang bị công chúng theo đuổi; 4) Kẻ phạm pháp đang còn đương giữ tang

vật. Ngoài việc quy định bốn trường hợp phạm pháp quả tang này, Sắc lệnh số

40/SL còn quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục bắt người phạm pháp quả tang

và bắt người trong trường hợp bình thường. Đây là điểm tiến bộ của Sắc lệnh số

40/SL so với Sắc lệnh số 13/SL.Tuy nhiên, Sắc lệnh số 40/SL việc quy định các

trường hợp bắt người vẫn còn đơn giản và chỉ quy định các trường hợp bắt

người phạm pháp quả tang và bất thường, chưa quy định các trường hợp bắt

người khác.

30

Để khắc phục hạn chế này, ngày 20/5/1957 Chủ tịch nước Việt Nam dân

chủ cộng hòa đã ký ban hành Luật số 103-SL/L.005 Về đảm bảo quyền tự do

thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân.

Tại Chương II của Luật số 103-SL/L.005 có quy định một cách cụ thể thẩm

quyền, trình tự, thủ tục bắt người (bắt người phạm pháp quả tang và bắt người

khẩn cấp). Điều 3 của Luật này quy định: “Ngoài trường hợp phạm pháp quả

tang và trường hợp khẩn cấp nói trong Điều 4, bắt người phạm đến pháp luật

nhà nước phải có lệnh viết của cơ quan tư pháp từ cấp tỉnh hoặc thành phố trở

lên nếu là thường dân phạm pháp, hoặc của tòa án binh nếu là quân nhân phạm

pháp hay thường dân phạm pháp có liên quan đến quân đội nhân dân” [9,

tr.85]. Tuy nhiên, Điều 4 của Luật số 103-SL/L.005 cũng chỉ quy định một cách

khái quát là: “Những trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp

là những trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định” mà chưa xác định cụ thể

về các trường hợp này. Do vậy, để kịp thời hướng dẫn và thi hành Luật số 103-

SL/L.005, ngày 18/6/1957 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc

luật số 002/SLt quy định cụ thể bốn trường hợp bắt người phạm pháp quả tang

và sáu trường hợp bắt khẩn cấp. Cụ thể là:

“ + Các trường hợp bắt quả tang gồm: 1. Đang làm việc phạm pháp hoặc

sau khi phạm pháp thì bị phát giác ngay; 2. Đang bị đuổi bắt sau khi phạm

pháp; 3. Đang bị giam giữ mà lẩn trốn; 4. Đang có lệnh truy nã (Điều1).

+ Các trường hợp bắt khẩn cấp gồm: 1. Có hành động chuẩn bị làm việc

phạm pháp; 2. Người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra vụ phạm pháp

chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp; 3. Tìm thấy chứng cớ

phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của người tình nghi phạm pháp; 4. Có

hành động chuẩn bị hoặc đang trốn; 5. Có hành động chuẩn bị tiêu hủy chứng

cứ hoặc đang tiêu hủy chứng cứ, có sự thông đồng giữa những kẻ phạm pháp

với nhau để trốn tránh pháp luật; 6. Căn cước, lai lịch không rõ ràng (Điều2)”

[9, tr. 67]. Nếu so với quy định tại Sắc lệnh số 40/SL thì tại Sắc luật số 002/SLt

đã quy định thêm hai trường hợp bắt người phạm pháp quả tang là: đang bị giam

giữ mà lẩn trốn và đang có lệnh truy nã. Như vậy, Sắc luật số 002/SLt đã đồng

nhất giữa bắt người phạm pháp quả tang và bắt người có lệnh truy nã. Mặt khác,

31

trong Sắc luật số 022/SLt vẫn sử dụng thuật ngữ “phạm pháp” với nghĩa là bất

cứ vi phạm pháp luật nào, từ vi phạm hình sự đến vi phạm hành chính... đều có

thể bị áp dụng biện pháp bắt người phạm pháp quả tang. Như vậy, đối tượng bị

áp dụng biện pháp bắt người phạm pháp quả tang là rất rộng. Điều đó có thể dẫn

đến không ít những trường hợp lạm dụng quy định này để bắt người phạm pháp

quả tang, vi phạm quyền tự do thân thể của công dân.

Đối với trường hợp bắt người khẩn cấp, Sắc luật số 022/SLt quy định

tương đối cụ thể căn cứ để bắt khẩn cấp. Tuy nhiên, việc quy định “căn cước,

lai lịch không rõ ràng” là một trong những căn cứ bắt khẩn cấp thì thật sự thiếu

cơ sở khoa học, bởi căn cứ này không liên quan gì đến hành vi phạm tội vì thế

rất bị lợi dụng để bắt người không liên quan gì đến việc phạm tội, chỉ vì “căn

cước, lai lịch không rõ ràng”. Để khắc phục những hạn chế này, ngày

24/12/1958 Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 556-TT về việc tăng

cường lãnh đạo đối với việc bắt giữ, truy tố, xét xử. Trong thông tư này, Thủ

tướng Chính phủ chỉ đạo: “Trong khi làm nhiệm vụ, Công an, Công tố và Toà

án phải chiếu theo pháp luật của Nhà nước mà làm đúng nguyên tắc bắt giữ và

xét xử: kẻ đáng bắt thì bắt; kẻ bắt cũng được, không bắt cũng được thì không

bắt; bắt giữ rồi thì phải hỏi cung mau chóng để kịp thời xử án, không được giam

lâu” [48, tr 8-9].

Ở miền Nam, sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, ngày

15/3/1976 Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt

Nam đã ban hành Sắc luật số 02/SL -76 quy định việc bắt, giam, khám người,

khám nhà ở, khám đồ vật. Tại Điều 1 của Sắc luật số 02/SL -76 quy định: “Việc

bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật phải có lệnh viết của cơ quan

có thẩm quyền, trừ trường hợp phạm tội quả tang và trường hợp khẩn cấp quy

định ở các Điều 2 và 3 dưới đây. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có thẩm

quyền ra lệnh bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật trong những vụ

án hình sự... Tòa án nhân dân có quyền ra lệnh bắt giam kẻ phạm tội trong

những vụ án hình sự đang thụ lý. Trưởng hoặc Phó Cơ quan An ninh từ cấp

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên có quyền ra lệnh bắt, giam,

khám người, khám nhà ở, khám đồ vật của kẻ phạm tội, lệnh đó phải được sự

32

phê chuẩn trước của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, nếu là vụ án hình sự,

hoặc của Ủy ban nhân dân cách mạng cùng cấp, nếu là trường hợp tập trung

cải tạo...” [48, tr.22].

Qua đây thấy rằng, Sắc luật số 02/SL -76 điều chỉnh 2 nhóm quan hệ xã

hội trong lĩnh vực tố tụng hình sự và hành chính khác nhau và hai nhóm có thẩm

quyền áp dụng các biện pháp bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật

theo thủ tục tố tụng hình sự và thủ tục hành chính. Mặc dù vậy, có thể coi đây là

bước tiến mới về kỹ thuật lập pháp khi đã đề cập đến thẩm quyền, thủ tục của

VKSND, Ủy ban nhân dân cách mạng, TAND và Cơ quan An ninh đối với việc

bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật.

Về các trường hợp bắt người phạm tội quả tang Điều 2 Sắc luật số 02/SL -

76 quy định:

”Trong trường hợp phạm tội quả tang, bất cứ công dân nào cũng có

quyền bắt và giải ngay kẻ phạm tội đến ủy ban nhân dân cách mạng, cơ quan An

ninh, hoặc Viện kiểm sát nhân dân gần nhất.

Những trường hợp sau đây là phạm tội quả tang:

a) Đang làm việc phạm tội hoặc ngay sau khi phạm tội thì bị phát giác;

b) Đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp;

c) Đang bị giam giữ mà lẩn trốn;

d) Đang có lệnh truy nã”. [48, tr.25]

Về các trường hợp bắt khẩn cấp, Điều 3 Sắc luật số 02/SL -76 tiếp tục quy

định 06 trường hợp đó là:

“1. Có hành động chuẩn bị phạm tội;

2. Người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt

trông thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm tội;

3. Tìm thấy chứng cớ phạm tội trong người hoặc tại nhà ở của người tình

nghi phạm tội;

4. Có hành động chuẩn bị trốn hoặc đang trốn;

5. Có hành động chuẩn bị tiêu hủy chứng cứ hoặc đang tiêu hủy chứng

cứ, có sự thông đồng giữa những kẻ phạm tội với nhau để trốn tránh pháp luật;

6. Căn cước, lai lịch không rõ ràng” [48, tr.26]

33

Như vậy, về cơ bản Sắc luật 02/SL-76 đã kế thừa các trường hợp bắt

người phạm pháp quả tang và các trường hợp bắt người khẩn cấp được quy định

tại Sắc luật số 002/SLt. Song điểm tiến bộ của Sắc luật số 02/SL-76 là đã thay

thuật ngữ “phạm pháp” bằng thuật ngữ “phạm tội”. Tuy nhiên, Sắc luật số

02/SL-76 vẫn chưa khắc phục những quy định bất hợp lý của Sắc luật 002/SLt

như đã phân tích ở trên.

2.1.1.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2015.

Ngày 28/6/1988, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 3 đã thông qua BLTTHS

đầu tiên BLTTHS năm 1988. Trong Bộ luật này, các biện pháp bắt người với

tính chất là một trong những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được

quy định tập trung, thống nhất tại Chương V, gồm có điều luật, trong đó Điều 63

quy định các trường hợp bắt khẩn cấp; Điều 64 quy định các trường hợp bắt

người phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã; Điều 62 quy định bắt bị

can, bị cáo để tạm giam.

Để bảo đảm cho việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp chỉ được áp

dụng trong những trường hợp mang tính cấp bách nhằm ngăn chặn tội phạm và

hành vi trốn tránh pháp luật, tiêu hủy chứng cứ của người thực hiện tội phạm,

đồng thời bảo đảm các quyền tự do cá nhân của con người, khoản 1 Điều 63

BLTTHS năm 1988 đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn các trường hợp bắt khẩn cấp

với nội dung như sau: “Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:

a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm

nghiêm trọng;

b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt

trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần

ngăn chặn ngay việc người đó trốn;

c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị

nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc

tiêu hủy chứng cứ” [22, tr. 325-326].

Về các trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã,

Điều 64 BLTTHS năm 1988 quy định:

34

“1. Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện

tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì

bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, VKS

hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này, lập biên bản và giải

ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

2. Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người

nào cũng có quyền tước vũ khí của người bị bắt” [22, tr.126].

Từ quy định này cho thấy, Điều 64 BLTTHS năm 1988 đã tách biện pháp

bắt người đang bị truy nã ra khỏi các trường hợp bắt người phạm tội quả tang

với tính chất là một trong các biện pháp bắt người độc lập, nhưng lại quy định

chung trong cùng một điều luật với bắt người phạm tội quả tang. Như vậy, theo

quy định của Điều 64 chỉ có ba trường hợp bắt người phạm tội quả tang, đó là:

Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt; người đang thực hiện

tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt; người ngay sau

khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt. Nếu so với Sắc luật 02/SL-76

thì BLTTHS năm 1988 đã kế thừa hai trường hợp bắt người phạm tội quả tang

được quy định trong sắc luật này, đồng thời hủy bỏ hai trường hợp bắt người:

đang bị giam giữ mà lẩn trốn và đang có lệnh truy nã thuộc các trường hợp bắt

người phạm tội quả tang.

Về thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang, BLTTHS năm 1988 quy

định: “Bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và khi bắt người phạm tội quả tang

hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí của người

bị bắt” (khoản 2 Điều 64).

Về trình tự, thủ tục bắt theo quy định tại khoản 1 Điều 64 BLTTHS năm

1988, khi bắt người phạm tội quả tang không cần có lệnh hay quyết định của cá

nhân hoặc cơ quan nào. Đồng thời phải “giải ngay đến cơ quan Công an, VKS

hoặc UBND nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay

người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền”

Về các trường hợp bắt khẩn cấp, Điều 63 BLTTHS năm 2018 quy định:

“Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:

35

a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm

nghiêm trọng;

b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt

trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần

ngăn chặn ngay việc người đó trốn;

c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị

nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc

tiêu hủy chứng cứ;”[22, tr.325].

Như vậy, khoản 1 Điều 63 BLTTHS năm 1988 chỉ quy định ba trường

hợp bắt khẩn cấp với những căn cứ, điều kiện cụ thể so với sáu trường hợp khẩn

cấp được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng trước đây, đánh dấu sự

trưởng thành về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo

vệ quyền tự do cá nhân của con người.

Khoản 2 Điều 63 BLTTHS năm 1988 quy định: “Những người sau đây có

quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:

a) Trưởng Công an, Phó Trưởng Công an cấp huyện; Thủ trưởng, Phó

Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở nên; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ

quan điều tra các cấp trong quân đội nhân dân;

b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương

đương; người chỉ huy Đồn biên phòng ở hải đảo, biên giới;

c) Người chỉ huy máy bay, tàu biển, khi máy bay tàu biển đã rời khỏi sân

bay bến cảng”.

Khi tiến hành bắt người trong trường hợp khẩn cấp, khoản 3 Điều 63

BLTTHS năm 1988 quy định: “Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt

người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 62

Bộ luật này”. Điều đó có ý nghĩa là việc tiến hành bắt người trong trường hợp

khẩn cấp phải tuân theo trình tự, thủ tục tố tụng tương tự như trình tự, thủ tục tố

tụng được áp dụng đối với việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Do tính chất cấp bách của việc ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người

phạm tội bỏ trốn, cản trở hoạt động điều tra, khám phá tội phạm, BLTTHS năm

1988 cho phép bắt khẩn cấp vào bất cứ thời gian nào trong ngày, lệnh bắt khẩn

36

cấp được thi hành trước khi có sự phê chuẩn của VKS. Tuy nhiên, để đảm bảo

các quyền tự do cá nhân của con người, tránh tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp,

khoản 4 Điều 63 BLTTHS năm 1988 quy định: “Trong mọi trường hợp, việc bắt

khẩn cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu

liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Nếu VKS không phê chuẩn thì

phải trả tự do ngay cho người bị bắt”.

Cùng với việc quy định chặt chẽ căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục bắt

người, khoản 1 Điều 65 BLTTHS năm 1988 còn quy định rõ những việc cần làm

ngay sau khi nhận người bị bắt với nội dung như sau: “Sau khi nhận người bị

bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải

lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự

do cho người bị bắt”.

Bên cạnh đó, để đảm bảo tính công khai, Điều 67 BLTTHS năm 1988 còn

quy định cụ thể thông báo về việc bắt, theo đó “Người ra lệnh bắt phải thông

báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ

quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở

việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt phải thông

báo ngay”.

Như vậy, BLTTHS năm 1988 đã quy định chặt chẽ đầy đủ hơn về biện

pháp bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang và bắt người trong trường

hợp khẩn cấp trên các phương diện: căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp

dụng và những việc làm ngay sau khi bắt cũng như thông báo về việc bắt. Với

việc quy định như vậy, đã phát huy tác dụng của các biện pháp bắt người trong

tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần

bảo vệ quyền tự do thân thể của con người.

Qua 15 năm áp dụng, BLTTHS năm 1988 đã có ba lần sửa đổi, bổ sung

vào các năm 1990, 1992, 2000 nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống

tội phạm trong tình hình mới. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng các quy định của

BLTTHS năm 1988 về các biện pháp bắt người cho thấy, bên cạnh mặt tích cực,

đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định cần phải sửa đổi, bổ sung.

37

Với tinh thần đó, ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khoá XI, Kỳ họp thứ 4 đã thông qua BLTTHS năm 2003. Trong

Bộ luật này, các biện pháp bắt người được quy định tại 6 điều luật Chương VI

“các biện pháp ngăn chặn”, gồm: Điều 80. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Điều

81. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp; Điều 82. Bắt người phạm tội quả tang

hoặc đang bị truy nã; Điều 83. Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận

người bị bắt; Điều 84. Biên bản về việc bắt giữ người và Điều 85. Thông báo về

việc bắt.

Đối chiếu với quy định của BLTTHS năm 1988 về các biện pháp bắt

người, Chương VI của BLTTHS năm 2003 quy định vấn đề này có một số điểm

sửa đổi, bổ sung sau đây:

Thứ nhất, về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Điều 80 BLTTHS năm 2003 quy định hết sức rõ ràng, cụ thể về đối tượng

có thể bị bắt, về thẩm quyền ra lệnh bắt và thủ tục bắt. Trong những vấn đề này

có những vấn đề vẫn giữ nguyên như quy định tại Điều 62 BLTTHS năm 1988,

nhưng có những vấn đề được sửa đổi, bổ sung. Cụ thể là:

+ Điều 80 quy định chặt chẽ hơn những người có thẩm quyền ra lệnh bắt

bị can, bị cáo để tạm giam. Theo đó, những người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị

can, bị cáo để tạm giam bao gồm: a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và

viện kiểm sát quân sự các cấp; b) Chánh án, Phó chánh án TAND và Toà án

quân sự các cấp; c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó chánh tòa phúc thẩm

TANDTC; d) Hội đồng xét xử; đ) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra

các cấp và đối với trường hợp này, lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn

trước khi thi hành. Như vậy, so với Điều 62 BLTTHS năm 1988 thì Điều 80

BLTTHS năm 2015 đã bỏ quy định tại điểm c Điều 62 quy định: “Thẩm phán

Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên chủ tọa

phiên tòa” có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam mà quy định cho

Thẩm phán giữ chức vụ Chánh án, Phó chánh án Tòa án phúc thẩm TANDTC

và Hội đồng xét xử có quyển ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Điều này

không chỉ đảm bảo thuận lợi cho hoạt động xét xử của Tòa án mà còn đảm bảo

tính khả thi hơn. Thêm vào đó, để phân định rõ chức danh thẩm quyền trong

38

hoạt động tư pháp với chức danh thẩm quyền trong hoạt động hành chính, Điều

80 BLTTHS năm 2003 quy định chỉ có “Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan

điều tra các cấp” với sự phê chuẩn của VKS cùng cấp thì mới có quyền ra lệnh

bắt bị can, bị cáo để tạm giam, chứ không như quy định như điều 62 BLTHS

năm 1988 là “Trưởng Công an, Phó trưởng Công an cấp huyện...” có quyền ra

lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điểm d khoản 1 Điểu 62). Việc sửa đổi này

đã khắc phục được sự thiếu chặt chẽ, cụ thể của điểm d khoản 1 Điều 62

BLTTHS năm 1988, bởi quy định như vậy dễ dẫn tới hiểu không đúng là cứ

Trưởng Công an, Phó trưởng Công an cấp huyện đều có thẩm quyền ra lệnh bắt

bị can, bị cáo để tạm giam. Trong khi đó, ở Công an cấp huyện, về tổ chức bộ

máy chỉ có một Trưởng Công an (đồng thời là Thủ trưởng cơ quan điều tra cấp

huyện) và một số Phó trưởng Công an cấp huyện. Trong số Phó trưởng Công an

cấp huyện chỉ có một Phó trưởng Công an phụ trách điều tra (đồng thời là Phó

thủ trưởng cơ quan điều tra cấp huyện) còn các Phó trưởng Công an cấp huyện

còn lại phụ trách các mảng công tác khác.

Về thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam cơ bản vẫn giữ nguyên như quy

định tại khoản 2 Điều 62 BLTTHS năm 1988 nhằm đảm bảo cho việc tác động

đến quyền tự do thân thể của con người được hợp pháp như: Việc bắt phải có

lệnh viết của người có thẩm quyền trong đó phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người

bị bắt, lý do bắt, lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh, có dấu cơ quan, lệnh

bắt phải có sự phê chuẩn trước của VKS cùng cấp mới được thi hành... Tuy

nhiên, để đảm bảo thuận lợi cho công tác điều tra, xử lý tội phạm, đồng thời đảm

bảo đúng thủ tục, trình tự do luật định, cũng như đảm bảo các quyền và lợi ích

hợp pháp của bị can, bị cáo... khoản 2 Điều 80 BLTTHS năm 2003 đã bổ sung

người chứng kiến khi bắt bị can, bị cáo ở nơi khác (ngoài nơi cư trú, nơi làm

việc như quy định tại Điều 62 BLTTHS năm 1988). Cụ thể là “Khi tiến hành bắt

người ở nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường,

thị trấn nơi tiến hành bắt người”.

Về thời điểm bắt phải tuân thủ nguyên tắc: “Không bắt người vào ban

đêm trừ trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, bắt người đang bị

truy nã quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này”. Như vậy, so với quy

39

định tại Điều 62 BLTTHS năm 1988, khoản 3 Điều 80 BLTTHS năm 2003 đã

bổ sung một đối tượng được bắt vào ban đêm, đó là người đang bị truy nã (ngoài

hai đối tượng là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp và người phạm tội quả

tang).

Thứ hai, về biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp.

So với Điều 63 BLTTHS năm 1988, Điều 87 BLTTHS năm 2003 về cơ

bản vẫn giữ nguyên các căn cứ để áp dụng biện pháp bắt người trong ba trường

hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, có hai điểm mới so với quy định về bắt khẩn cấp tại

Điều 63 BLTTHS năm 1988.

Một là, điểm a khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2003 khi đề cập đến thẩm

quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp có quy định ngắn gọn, cụ thể hơn là

“Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp” thay cho điểm a khoản

2 Điều 63 là “Trưởng Công an, Phó trưởng Công an cấp huyện; Thủ trưởng,

Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng

cơ quan điều tra các cấp trong quân đội nhân dân”. Theo tác giả quy định như

vậy tại khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2003 là hợp lý và chính xác.

Hai là, việc kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS trong việc bắt khẩn cấp

được quy định cụ thể và đầy đủ hơn trong khoản 4 Điều 87 BLTTHS năm 2003

theo hướng nâng cao trách nhiệm của VKS trong việc kiểm tra, giám sát chặt

chẽ tính đúng đắn và hợp pháp của việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp.

Cụ thể là “Trong trường hợp cần thiết, VKS phải trực tiếp gặp hỏi người bị bắt,

trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn”.

Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 87 BLTTHS năm 2003 còn quy định thời hạn VKS

phải xem xét quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt

khẩn cấp nhằm tránh tình trạng kéo dài gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người

bị bắt cũng như việc thi hành lệnh bắt, cụ thể là: “Trong thời hạn 12 giờ kể từ

khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu có liên quan đến việc bắt khẩn

cấp, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn”.

Thứ ba, về biện pháp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.

(Điều 82 BLTTHS năm 2003)

40

Về cơ bản quy định về hai trường hợp bắt người này vẫn giữ nguyên như

quy định tại Điều 64 BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 82 có quy

định rõ thêm là các chủ thể tiến hành bắt người trong những trường hợp này

ngoài việc có quyền tước vũ khí thì còn có quyền tước “hung khí” của người bị

bắt nhằm đảm bảo an toàn cho người tiến hành bắt và cũng hoàn toàn phù hợp

với thực tế. Bởi để có thể bắt được đối tượng đồng thời để đảm bảo an toàn cho

mình, người tiến hành bắt phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì đương

nhiên và cần thiết phải tước bỏ, vô hiệu hóa tất cả những vật mà người phạm tội

sử dụng làm hung khí như côn, gậy, gạch, đá... để chống lại việc bắt.

Thứ tư, về những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt

(Điều 83 BLTTHS năm 2003). Điều 83 BLTTHS năm 2003 tiếp tục quy định rõ

sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả

tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra

quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Nhìn chung quy định này

không có gì khác so với quy định tại khoản 1 Điều 65 BLTTHS năm 1988. Tuy

nhiên, khoản 2 Điều 83 BLTTHS năm 2003 có quy định bổ sung những việc cần

làm ngay sau khi bắt người đang bị truy nã, theo đó “Đối với người bị truy nã

thì sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay

cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.

Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay

quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã

không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, cơ quan điều tra

nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo cho cơ quan đã

ra quyết định truy nã biết.

Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm

quyền để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được

VKS phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.

Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có

trách nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất”. Quy định này

nhằm đảm bảo mọi hành động của cơ quan có thẩm quyền phải tuân theo các

41

quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan,

người tiến hành tố tụng hình sự thực hiện tốt việc điều tra, xử lý tội phạm.

Qua đây có thể thấy, quy định của BLTTHS năm 2003 về các trường hợp

bắt người trong tố tụng hình sự hoàn thiện và chặt chẽ hơn so với quy định của

BLTTHS năm 1988.

2.1.2 Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về các biện pháp bắt

người trong tố tụng hình sự.

BTTTHS năm 2015 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua

ngày 27/11/2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Trong Bộ luật này, các biện

pháp bắt người được quy định tại Chương VII “Biện pháp ngăn chặn, biện pháp

cưỡng chế”, Mục 1, gồm 7 điều luật, từ Điều 110 đến Điều 116 và Điều 503

chương XXXVI “Một số hoạt động hợp tác quốc tế” so với quy định của

BTTTHS năm 2003 về các biện pháp bắt người, BTTTHS năm 2015 có quy

định bổ sung một biện pháp bắt người, đó là bắt người bị yêu cầu dẫn độ (Điều

503) để đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế. Đồng thời, để đảm bảo tính rõ ràng, cụ

thể của các biện pháp bắt người, BTTTHS năm 2015 đã tách riêng biện pháp bắt

người phạm tội quả tang và biện pháp bắt người đang bị truy nã để quy định

trong 2 điều luật: Điều 111 “Bắt người phạm tội quả tang” và Điều 112 “Bắt

người đang bị truy nã”. Bên cạnh đó, BTTTHS năm 2015 đã thay biện pháp bắt

người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại Điều 81 BTTTHS năm 2003 bằng

biện pháp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và quy định chung với

biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110).

Về cơ bản, BTTTHS năm 2015 đã kế thừa những nội dung hợp lý trong

các quy định của BTTTHS năm 2003 về các biện pháp bắt người. Tuy nhiên,

BTTTHS năm 2015 có sửa đổi, bổ sung một số điểm mới sau đây:

+ Thứ nhất, về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bắt

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110).

Như đã nói ở trên, biện pháp ngăn chặn này thay thế cho biện pháp “Bắt

người trong trường hợp khẩn cấp” được quy định tại Điều 87 BTTTHS năm

2003. Lý do thay thế là để phù hợp với quy định tại Điều 20 Hiến pháp 2013:

42

“Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê

chuẩn của Viện kiểm sát”.

Các căn cứ áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, về cơ

bản không có sự khác biệt so với biện pháp “Bắt người trong trường hợp khẩn

cấp”. Tuy nhiên, có một số điểm mới sau:

+ Bổ sung và quy định chặt chẽ căn cứ áp dụng biện pháp này, cụ thể là:

Trước đây, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 87 BTTTHS năm 2003 thì

“Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất

nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” được bắt khẩn cấp. Nhưng

qua thực tiễn áp dụng cho thấy, việc quy định “Khi có căn cứ cho rằng...” còn

rất chung chung, không chặt chẽ và dễ bị lạm dụng căn cứ này để bắt người

trong trường hợp khẩn cấp. Vì vậy, BTTTHS năm 2015 đã khắc phục hạn chế

này và quy định như sau “Khi có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị

thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng”. Như vậy,

với quy định này thì cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể giữ người trong trường

hợp khẩn cấp nếu thu thập được đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định người đó

đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng. Thêm vào đó, BTTTHS năm 2015 còn bổ sung việc xác nhận của

“Người cùng thực hiện tội phạm” (Điểm b khoản 1 Điều 110) và việc phát hiện

dấu vết của tội phạm tại “nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi

thực hiện tội phạm” (Điểm c khoản 1 Điều 110) là một trong những căn cứ để

áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Về thẩm quyền, thì ngoài những người có thẩm quyền ra lệnh bắt người

trong trường hợp khẩn cấp quy định tại khoản 2 Điều 87 BTTTHS năm 2003,

BTTTHS năm 2015 còn bổ sung những người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị

trực thuộc Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư cũng có thẩm quyền ra

lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp nhưng gắn với điều kiện “Thực hiện

nhiệm vụ ở địa bàn biên giới, hải đảo, xa cơ quan điều tra chuyên trách” (cụ thể

xem khoản 2 Điều 110 BTTTHS năm 2015).

Về trình tự, thủ tục áp dụng: BTTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ hơn

trình tự, thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại khoản 3,

43

4 Điều 87 BTTTHS năm 2003. Cụ thể là những quy định về nội dung của lệnh

giữ người trong trường hợp khẩn cấp; quy định về hồ sơ kèm theo lệnh bắt

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đề nghị VKS phê chuẩn; quy định về

trách nhiệm của người chỉ huy tàu bay, tàu biển giao người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp cho Cơ quan điều tra tại sân bay, bến cảng đầu tiên trở về; quy

định về thời hạn và những nhiệm vụ mà cơ quan điều tra, người có thẩm quyền

theo luật định phải thực hiện như: Lấy lời khai của người bị giữ trong trường

hợp khẩn cấp, nếu có căn cứ thì ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp và chuyển hồ sơ cho VKS để xét phê chuẩn. Nếu

không đủ căn cứ thì phải trả tự do ngay cho người bị giữ. Điều cần chú ý ở đây

là BLTTHS năm 2015 đã rút ngắn thời hạn thực hiện những nhiệm vụ trên từ 24

giờ (theo quy định tại Điều 89 BLTTHS năm 2003) xuống 12 giờ (Theo quy

định tại Điều 110 BLTTHS năm 2015).

Để đề cao trách nhiệm của VKS, khoản 6 Điều 110 còn quy định: “Viện

kiểm sát phải kiểm sát chặt căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Trường hợp cần thiết, kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn, quyết định không

phê chuẩn, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp...

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn

lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết

định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp Viện kiểm sát

quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì

người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ”.

Thứ hai, về biện pháp bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị

truy nã.

Ngoài việc tách trường hợp bắt người phạm tội quả tang và bắt người

đang bị truy nã quy định tại Điều 82 BLTTHS năm 2003 để quy định tại hai

điều luật độc lập: Điều 111 “bắt người phạm tội quả tang” và Điều 112 “bắt

người đang bị truy nã”, các quy định của BLTTHS năm 2015 về hai biện pháp

bắt người này có một số điều mới là:

44

+ Bổ sung trách nhiệm của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an

trong trường hợp các chủ thể này phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội

quả tang hoặc người đang bị truy nã, theo đó các chủ thể này có trách nhiệm

“thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập

biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định

của pháp luật, giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có

thẩm quyền” (khoản 3 Điều 111 và Điều 112). Với quy định này thì những

người khác thực hiện bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy

nã không có thẩm quyền này mà chỉ có nghĩa vụ dẫn giải người bị bắt đến Cơ

quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất.

+ Ngoài ra, khoản 1 Điều 111 và khoản 1 Điều 112 BLTTHS năm 2015,

bên cạnh tiếp tục quy định Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, ủy ban nhân dân

nhận người bị bắt có nghĩa vụ lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt

đến cơ quan có thẩm quyền thì còn có thể “báo ngay cho Cơ quan có thẩm

quyền”. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực tế, bởi do nhiều nguyên nhân

khác nhau nên nhiều trường hợp các cơ quan này không thể giải ngay người bị

bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Vì vậy, để tháo gỡ vướng mắc này,

khoản 1 Điều 111 và khoản 1 Điều 112 BLTTHS năm 2015 quy định cho phép

Cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Ủy ban nhân dân tiếp nhận người bị bắt có thể

“báo ngay cho cơ quan điều tra có thẩm quyền”.

+ Thứ ba, về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam

Về cơ bản, quy định về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam quy định

tại Điều 113 BLTTHS năm 2015 không có nhiều thay đổi so với quy định tại

Điều 80 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, có sửa đổi, bổ sung một số điểm mới

sau đây:

⁃ Về thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam: BLTTHS năm 2015

không còn quy định thẩm quyền của “Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó

Chánh tòa phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao” trong việc bắt bị can, bị cáo

để tạm giam. Việc bỏ quy định này là có cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý. Bởi qua

thực tế áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thấy rằng, rất ít khi chủ thể này ra

quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam, đồng thời phù hợp yếu tố tinh thần cải

45

cách tư pháp là thu hẹp chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt,

tạm giam. Về mặt pháp lý, thì sau khi Luật tổ chức TAND năm 2014 được ban

hành và có hiệu lực, trong hệ thống TANDTC không còn Toà phúc thẩm.

⁃ Về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam

được BLTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ hơn và phù hợp với yêu cầu bảo vệ

quyền con người của bị can, bị cáo đó là quy định về văn bản tố tụng: “Lệnh bắt,

quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người

bị bắt, lý do bắt và những nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật này

như: số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng; căn cứ ban hành

văn bản tố tụng; Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và

đóng dấu”.

Đặc biệt là, Điều 113 BLTTHS năm 2015 còn quy định bổ sung trách

nhiệm “giao lệnh, quyết định cho người bị bắt”. Về vấn đề này, Điều 80

BLTTHS năm 2003 chỉ quy định: “Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích

lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt” mà

không đặt vấn đề phải giao lệnh bắt cho người bị bắt.

Đối với người chứng kiến việc thực hiện lệnh, quyết định bắt, BLTTHS

năm 2015 đã thay thế “người láng giềng của người bị bắt” bằng “người khác”

tức là bất kỳ người nào có năng lực hành vi và năng lực pháp luật. Điều này

hoàn toàn phù hợp với thực tế khi gặp tình huống người láng giềng đi vắng lâu

ngày (chẳng hạn đi công tác ở nước ngoài), trong khi việc bắt bị can, bị cáo để

tạm giam không thể trì hoãn. Đối với địa điểm bắt, tại Điều 113 BLTTHS năm

2015 bổ sung thêm “nơi học tập”.

2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình

sự về tội phạm ma túy tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

2.2.1. Khái quát tình hình điều tra, bắt người trong điều tra các vụ án hình sự

về tội phạm ma tuý.

Theo số liệu thống kê tại Bảng 2.1 (Phụ lục) cho thấy, trong giai đoạn từ

năm 2014 đến năm 2018, cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh đã thụ lý

điều tra 3.027 với 4.526 bị can về tội phạm ma túy, trong đó đã kết luận điều tra

và đề nghị truy tố 2.534 vụ với 3.691 bị can [13]. Riêng cơ quan cảnh sát điều

46

tra Công an huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đã thụ lý điều tra 56 vụ với 63 bị

can về tội phạm mà túy, trong đó đã kết luận điều tra và đề nghị truy tố 56 vụ

với 63 bị can, đạt 100% cả về số vụ và số bị can. Cụ thể các năm như sau:

+ Năm 2014: Thụ lý điều tra 07 vụ với 07 bị can, trong đó kết thúc điều

tra, đề nghị truy tố: 07 vụ với 07 bị can;

+ Năm 2015: Thụ lý điều tra 10 vụ với 10 bị can, trong đó kết thúc điều

tra, đề nghị truy tố 10 vụ với 10 bị can;

+ Năm 2016: Thụ lý điều tra 15 vụ với 15 bị can, trong đó kết thúc điều

tra, đề nghị truy tố 15 vụ với 15 bị can;

+ Năm 2017: Thụ lý điều tra 09 vụ với 14 bị can, trong đó kết thúc điều

tra, đề nghị truy tố 09 vụ với 14 bị can;

+ Năm 2017: Thụ lý điều tra 15 vụ với 17 bị can, trong đó kết thúc điều

tra, đề nghị truy tố 15 vụ với 17 bị can [14]. (Xem bảng 2.2 phụ lục). Qua đây

cho thấy tỉ lệ án ma túy có kết luận điều tra và chuyển cho VKS đề nghị truy tố

đạt 100% không có vụ án nào phải trả lại để điều tra bổ sung hoặc bị đình chỉ

điều tra.

* Về công tác bắt giữ người trong điều tra các vụ án về ma túy.

Theo số liệu thống kê tại Bảng 2.3 (Phụ lục) cho thấy, trong giai đoạn từ

năm 2014 đến năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy Công an

tỉnh Quảng Ninh đã bắt giữ 3.375 đối tượng bị buộc tội về các tội phạm ma túy,

trong đó có: 2.209 đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người phạm tội quả tang

(chiếm 65,45%); 1.119 đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người trong trường

hợp khẩn cấp (chiếm 33,15%); 23 đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt người

đang bị truy nã (chiếm 0,68%) và 25 đối tượng bị áp dụng biện pháp bắt bị can

để tạm giam (chiếm 0,74%). Về tội danh mà các đối tượng bị áp dụng biện pháp

bắt người gồm: Tội mua bán trái phép chất ma túy (1.963 đối tượng, chiếm

58,16%); tội tàng trữ trái phép chất ma túy (1.190 đối tượng, chiếm 35,25%); tội

vận chuyển trái phép chất ma túy (58 đối tượng, chiếm 1,71%); tội chiếm đoạt

chất ma túy (03 đối tượng, chiếm 0,08%); tội chứa chấp hoặc lôi kéo sử dụng

trái phép chất ma túy (14 đối tượng, chiếm 0,41%); tội tổ chức sử dụng trái phép

chất ma túy (127 đối tượng, chiếm 3,76%) và các tội phạm khác liên quan đến

47

vụ án ma túy (như: không tố giác tội phạm, tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng,

lừa đảo chiếm đoạt tài sản (20 đối tượng, chiếm 0,59%). Qua đây thấy rằng, các

đối tượng bị bắt chủ yếu về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái

phép chất ma túy.

Riêng cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh

trong quá trình thụ lý điều tra các vụ án về tội phạm ma túy từ năm 2014 đến

năm 2018 đã bắt giữ 63 đối tượng, trong đó: bắt quả tang là 46 đối tượng (chiếm

73,01%); bắt khẩn cấp 17 đối tượng (chiếm 26,98%) không có trường hợp nào

bắt người đang bị truy nã và bắt bị can để tạm giam. Tội danh mà các đối tượng

bị bắt chủ yếu tập trung vào hai tội: Tội mua bán trái phép chất ma túy: 46/63

(chiếm 73,01%); tội tàng trữ trái phép chất ma túy: 17/63 (chiếm 26,98%) (xem

Bảng 2.5-phụ lục).

Những số liệu thống kê trên đây mới chỉ phản ánh mặt lượng của hoạt

động điều tra và áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong giai đoạn điều tra

các vụ án về tội phạm ma túy. Do vậy, để thấy được chất lượng điều tra cũng

như áp dụng các biện pháp bắt người có dấu hiệu phạm tội về ma túy của Cơ

quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh nói chung, của Công an huyện

Vân Đồn nói riêng cần phải đánh giá cả mặt tích cực cũng như hạn chế, thiếu sót

và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót đó.

2.2.2. Đánh giá thực trạng điều tra và áp dụng các biện pháp bắt người trong

điều tra các vụ án về tội phạm ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an

huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.

2.2.2.1. Mặt tích cực.

Trên cơ sở nghiên cứu 56 vụ với 63 bị can mà Cơ quan Cảnh sát điều tra

Công an huyện Vân Đồn thụ lý điều tra, cũng như 63 đối tượng bị áp dụng biện

pháp bắt người trong quá trình điều tra các vụ án về ma túy có thể đánh giá

những kết quả đạt được như sau:

- Trong quá trình điều tra các vụ án về tội phạm ma túy và áp dụng các biện

pháp bắt người, Cơ quan điều tra huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh luôn quán

triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết, Chương trình công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm ma túy của Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh Quảng

48

Ninh. Do vậy, đã góp phần đáng kể vào công tác đấu tranh phòng, chống tội

phạm về ma túy trên địa bàn huyện.

- Trong quá trình điều tra các vụ án về ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra

Công an huyện Vân Đồn đã tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp

năm 2013 về bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; các quy định

của BLHS và BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan, đặc biệt từ

năm 2010 trở lại đây khi VKSND yêu cầu chặt chẽ hơn trong bắt bị can để tạm

giam nhằm tránh oan sai, cùng với thủ đoạn hoạt động của đối tượng phạm tội

về ma túy ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Do vậy, công tác điều tra vụ án cũng

như việc áp dụng các biện pháp bắt người phạm tội ma túy đảm bảo chặt chẽ,

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc bắt người trong điều tra vụ án hình

sự về tội phạm ma túy được tiến hành thận trọng hơn, có đầy đủ căn cứ, đúng

thẩm quyền, đảm bảo các yêu cầu về trình tự, thủ tục bắt theo luật định, không

để xảy ra các trường hợp bắt oan, bắt sai gây ảnh hưởng đến quyền tự do thân

thể của con người mà Hiến pháp đã quy định.

- Trong quá trình điều tra các vụ án về ma túy và áp dụng biện pháp bắt

người, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Đồn đã chủ động sáng tạo,

linh hoạt vận dụng đúng đắn các biện pháp, chiến thuật điều tra, các biện pháp bắt

người phù hợp với từng vụ án và đối tượng trong vụ án. Do vậy, chất lượng, hiệu

quả điều tra, bắt giữ người phạm tội về ma túy đã được nâng cao, kịp thời ngăn

chặn tội phạm, ngăn chặn việc trốn tránh pháp luật của người phạm tội, tạo điều

kiện thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả.

- Trong quá trình điều tra các vụ án về ma túy và áp dụng biện pháp bắt

người phạm tội về ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Đồn

đã chủ động phối hợp chặt chẽ với lực lượng trinh sát, phòng kỹ thuật hình sự

giám định hàm lượng, khối lượng chất ma túy để có căn cứ khởi tố vụ án và bị

can trong vụ án. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với VKS trong việc quyết định phê

chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt để ra quyết định tạm giữ hoặc

trả tự do ngay cho người bị bắt. Qua đó đã phát huy được sức mạnh tổng hợp

của nhiều lực lượng trong việc điều tra làm rõ vụ án, kịp thời tháo gỡ những khó

khăn, vướng mắc trong điều tra, bắt giữ người bị buộc tội có được những kết

49

quả nêu trên là do: trong quá trình điều tra, bắt giữ người phạm tội về ma túy,

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Đồn luôn được sự chỉ đạo kịp

thời của Ban Giám đốc Công an tỉnh, của lãnh đạo chỉ huy Công an huyện; sự

phối hợp nhịp nhàng chặt chẽ của các lực lượng chức năng có liên quan. Song

vấn đề có tính quyết định đến kết quả điều tra, bắt giữ người phạm tội là do cán

bộ, chiến sĩ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Đồn luôn nắm vững

các quy định của pháp luật, nêu cao tinh thần của pháp luật trong công tác,

nghiên cứu kỹ tài liệu, chứng cứ, tin báo về tội phạm, nắm chắc tình hình, đặc

điểm có liên quan đến vụ án ma túy để tính toán, lựa chọn các biện pháp, chiến

thuật điều tra, cũng như bắt đối tượng phù hợp, đem lại hiệu quả, đáp ứng các

yêu cầu điều tra, bắt giữ người phạm tội về ma túy.

2.2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân.

Bên cạnh những ưu điểm trên, việc áp dụng các biện pháp bắt người trong

điều tra các vụ án về tội phạm ma túy của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện

Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót nhất định như:

- Vẫn còn một số trường hợp do công tác nắm tình hình chưa thật sự kịp

thời, đầy đủ nên việc bắt đối tượng thực hiện tội phạm về ma túy chưa đáp ứng

yêu cầu đặt ra, thậm chí để đối tượng bỏ trốn hoặc tẩu tán vật chứng nên không

có căn cứ để áp dụng biện pháp bắt người, để khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong

vụ án;

- Một số trường hợp do khó khăn, vướng mắc trong việc giám định hàm lượng,

khối lượng chất ma túy nên việc khởi tố điều tra vụ án, áp dụng biện pháp bắt bị can

để tạm giam không thể thực hiện được, hoặc thực hiện không kịp thời;

- Hoạt động khám xét; thu thập tài liệu, chứng cứ, hoạt động lấy lời khai

ngay người bị bắt hoặc nhận người bị bắt phạm tội quả tang hoặc đang bị truy

nã... kết quả chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu điều tra làm rõ sự thật của vụ án;

- Một số trường hợp vẫn còn tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, gây ảnh

hưởng đến quyền tự do thân thể của người bị bắt hoặc vi phạm thủ tục bắt khẩn

cấp, chẳng hạn không có người láng giềng chứng kiến;

- Việc trả tự do ngay cho người bị bắt trong trường hợp VKS quyết định

không phê chuẩn lệnh bắt đôi khi còn chậm;

50

- Sự phối hợp giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an với các lực lượng

chức năng đôi khi còn thiếu chủ động, chưa thường xuyên, kịp thời;

- Việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo ở một số vụ

án chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu chỉ huy, chỉ đạo trong bắt giữ người

phạm tội về ma túy.v.v.

Những hạn chế, thiếu sót trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ

quan khác nhau như:

- Vân Đồn là một huyện đảo, có 05 xã đảo, giao thông đi lại gặp nhiều khó

khăn, khi có vụ án xảy ra tin báo, tố giác tội phạm ma túy chưa kịp thời nên gây

khó khăn cho hoạt động điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, biện

pháp bắt người nói riêng.

- Tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện diễn biến phức tạp, có

xu hướng gia tăng; bọn tội phạm về ma túy hoạt động hết sức tinh vi, xảo quyệt,

manh động nên khó khăn không ít cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ để có căn

cứ bắt đối tượng, cũng như tiến hành bắt đối tượng.

- Quy định của BLTTHS năm 2003 về các biện pháp bắt người còn một số

hạn chế bất cập, văn bản hướng dẫn áp dụng còn thiếu và có nội dung chưa thật

sự hợp lý gây khó khăn, vướng mắc cho việc áp dụng trên thực tế. Cụ thể là:

+ Về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Điều 80 BLTTHS năm 2003 và (Hiện nay là Điều 113 BLTTHS năm 2015)

mới chỉ quy định về thẩm quyền ra lệnh, về nội dung lệnh, về trình tự, thủ tục và

thời điểm bắt mà không quy định điều kiện, căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm

giam, tức là chưa quy định những trường hợp cụ thể nào thì bị can, bị cáo có thể

bị bắt để tạm giam. Do vậy, khi áp dụng biện pháp này, cơ quan tiến hành tố

tụng hình sự phải căn cứ vào quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 88 BLTTHS

năm 2003 (Điều 119 BLTTHS năm 2015) quy định và điều kiện, căn cứ áp dụng

biện pháp tạm giam. Trong khi đó tại Điều 80 không có quy định viện dẫn về

điều kiện, căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam quy định tại Điều 88 BLTTHS

năm 2003. Như vậy, không có sự liên hệ logic giữa các điều luật mà buộc người

có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải tự tìm hiểu, nghiên

cứu để áp dụng biện pháp này được đúng luật.

51

+ Về biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp:

Điều 81 BLTTHS năm 2003 quy định các trường hợp, căn cứ, điều kiện áp

dụng biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, về cơ bản là phù hợp với

thực tiễn. Tuy nhiên, quy định của Điều 81 mang tính khái quát, chưa thật cụ

thể, rõ ràng, dẫn tới việc nhận thức và áp dụng không thống nhất, thậm chí còn

có thể bị lạm dụng để bắt khẩn cấp. Ví dụ: quy định “Khi có căn cứ cho rằng...”

là một trong những quy định chưa cụ thể, rõ ràng. Trong khi đó, theo hướng dẫn

tại Thông tư số 05/2005/ TTLT ngày 07/09/2005 của VKSNDTC, Bộ Công an,

Bộ Quốc phòng thì “Chỉ việc bắt khẩn cấp khi có đủ tài liệu chứng minh việc

bắt khẩn cấp quy định khoản 1 Điều 81 BLTTHS”. Như vậy, giữa quy định của

BLTTHS năm 2003 và quy định tại Thông tư số 05/2005/TTLT có sự mâu thuẫn

(Đến nay Điều 110 BLTTHS năm 2015 đã khắc phục hạn chế này).

Một bất cập nữa là khoản 4 Điều 81 BLTTHS năm 2003 chưa quy định rõ

thời điểm “Trả tự do ngay” được tính từ khi nào, dẫn đến có trường hợp VKS ra

quyết định không phê chuẩn lệnh bắt nhưng Cơ quan điều tra vẫn chưa trả tự do

cho người bị bắt.

Do quy định còn chung, chưa rõ ràng, cụ thể như vậy nên trên thực tế có

trường hợp giữa cơ quan điều tra và VKS không có sự thống nhất trong việc

đánh giá căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp, nên VKS từ chối phê

chuẩn lệnh bắt của cơ quan điều tra buộc cơ quan điều tra phải trả tự do cho

người bị bắt. Điều đó làm cho người phạm tội có điều kiện để tiêu hủy chứng

cứ, xóa dấu vết, bình tĩnh có thời gian tính toán, cân nhắc tìm mọi cách đối phó

với Cơ quan điều tra.

+ Về biện pháp bắt người phạm tội quả tang. Theo quy định của Điều 82

BLTTHS năm 2003, thì chỉ được bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang

khi người bị bắt “đang thực hiện tội phạm”. Nhưng trên thực tế, việc xác định

một người nào đó đang phạm tội quả tang hay vi phạm hành chính (phạm pháp

quả tang) trong một số trường hợp rất khó, hoặc không thể xác định được, nhất

là đối với người dân khi mà sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Điều đó đã dẫn

đến có trường hợp chỉ là vi phạm hành chính (phạm pháp quả tang) nhưng do

nhận thức, đánh giá không đúng nên đã tiến hành bắt quả tang cả người phạm

pháp quả tang (vi phạm hành chính) và giải ngay người này đến Cơ quan Công

52

an, VKS nơi gần nhất. Nếu cán bộ của những cơ quan này cũng không nhận

thức đúng là phạm tội quả tang hay phạm pháp quả tang thì việc lập biên bản bắt

người phạm tội quả tang cũng không đúng và có thể dẫn đến bắt oan sai.

- Trình độ pháp luật và năng lực nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ điều tra

còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ công tác bắt, giam giữ

người bị buộc tội. Việc bố trí, sắp xếp cán bộ làm công tác điều tra, xử lý tội

phạm về ma túy chưa thật sự phù hợp. Một số cán bộ điều tra có biểu hiện ngại

khó, ngại khổ, sợ nguy hiểm đến bản thân khi bắt giữ tội phạm ma túy nên ý

thức trách nhiệm trong công tác chưa cao, sa sút về phẩm chất đạo đức, vi phạm

quy trình công tác dẫn đến hành vi sai phạm trong bắt giữ người.

- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra phát hiện những sơ hở,

thiếu sót trong việc bắt giữ người phạm tội trong quá trình điều tra các vụ án về

ma túy chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời, mang tính hình thức nên

không phát hiện được những sơ hở, thiếu sót và sai phạm để kịp thời chấn chỉnh.

- Trang thiết bị, cơ sở vật chất, nhất là các phương tiện khoa học - kỹ thuật

giám định chất ma túy còn hạn chế và bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh

phòng, chống tội phạm về ma túy. Công cụ, phương tiện nghiệp vụ hỗ trợ hoạt

động điều tra, bắt giữ người bị buộc tội còn thiếu.v.v.

Tiểu kết chương 2

Từ kết quả nghiên cứu ở Chương 2 cơ thể rút ra một số kết luận như sau:

Các biện pháp bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng

chế, tác động tiêu cực đến quyền tự do thân thể của người bị áp dụng. Do vậy,

vấn đề bắt người trong tố tụng hình sự đã được quy định khá sớm trong các văn

bản pháp luật.

Trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988,

vấn đề bắt người đã được quy định rải rác trong các văn bản dưới luật. Những

quy định về bắt người thời kỳ này tuy còn đơn giản và chưa chặt chẽ, đầy đủ,

nhưng đã tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng trên thực tiễn điều tra, truy tố, xét

xử các vụ án hình sự.

Chỉ đến khi BLTTHS đầu tiên được ban hành vào năm 1988, thì các biện

pháp bắt người mới được quy định tương đối đầy đủ và cụ thể về căn cứ, thẩm

quyền, đối tượng, trình tự, thủ tục bắt người. Tuy nhiên, qua hơn chục năm áp

53

dụng, BLTTHS năm 1988 mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng vẫn

bộc lộ những hạn chế, bất cập, gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng,

đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một cách căn bản.

Với tinh thần đó, BLTTHS năm 2003 được ban hành nhằm khắc phục

những hạn chế, bất cập của BLTTHS năm 1988. Có thể thấy, các quy định của

BLTTHS năm 2003 về các biện pháp bắt người hoàn thiện hơn so với các quy

định của BLTTHS năm 1988, thực sự tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, thống nhất cho

việc áp dụng các biện pháp bắt người nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn

người phạm tội trốn tránh pháp luật và tạo điều kiện cho hoạt động khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử được thuận lợi, qua đó góp phần đấu tranh phòng chống tội

phạm. Tuy nhiên, so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối

cảnh tình hình trong nước, khu vực và tình hình thế giới có nhiều thay đổi, thì

các quy định của BLTTHS năm 2003 đã bộ lộ những hạn chế, bất cập. Vì vậy,

BLTTHS năm 2015 được ban hành thay thế BLTTHS năm 2003. Cùng với việc

kế thừa những yếu tố hợp lý trong các BLTTHS trước đây, BLTTHS năm 2015

đã đổi mới cả về nội dung và kỹ thuật lập pháp, thể chế hóa sâu sắc, đầy đủ chủ

trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, cụ thể hóa những yêu cầu của

Hiến pháp năm 2013 về dân chủ, pháp quyền, tôn trọng và bảo vệ, bảo đảm

quyền con người, quyền công dân, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm trong tình hình mới. Những quy định của BLTTHS năm 2015 về biện

pháp ngăn chặn bắt người cũng được sửa đổi theo hướng này.

Ngoài ra, tại Chương 2 của luận văn còn tập trung nghiên cứu thực trạng áp

dụng các biện pháp bắt người trong điều tra vụ án hình sự về tội phạm ma túy ở

huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh. Kết quả nghiên cứu vấn đề này đã rút ra được

những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn chế của việc áp dụng các biện

pháp bắt người của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vân Đồn, cũng

như chỉ ra những hạn chế, tồn tại đó.

Như vậy, kết quả nghiên cứu ở Chương 2 thực sự là cơ sở pháp lý và cơ sở

thực tế cho việc đề xuất các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các biện pháp bắt

người trong tố tụng hình sự ở Chương 3.

54

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH

CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI

TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ TỘI PHẠM MA TÚY

3.1. Yêu cầu đối với việc áp dụng các biện pháp bắt người.

3.1.1. Yêu cầu bảo vệ và đảm bảo quyền con người, quyền công dân đã được ghi

nhận trong Hiến pháp năm 2013 và trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Áp dụng các biện pháp bắt người đưuọc quy định trong BLTTHS năm

2015 là hoạt động thực tiễn pháp lý mang tính quyền lực nhà nước, liên quan

đến việc bảo vệ và đảm bảo quyền con người, quyền công dân đã được Hiến

pháp năm 2013 ghi nhận. Do vậy, yêu cầu đầu tiên đối với việc áp dụng biện

pháp bắt người trong tố tụng hình sự nói chung, trong điều tra các vụ án hình sự

về tội phạm ma túy nói riêng phải đáp ứng yêu cầu bảo vệ và bảo đảm quyền

con người, quyền công dân.

Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền bất khả

xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân

phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử

nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.

2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết

định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả

tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. [27, tr.19]

Để thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 tại Điều 2 có

quy định: “BLTTHS có nhiệm vụ ... bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật,

đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [30, tr.11]. Ngoài ra, BLTTHS năm

2015 còn quy định vấn đề tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình

sự, theo đó: “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của

mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ

quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra

55

tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ

hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có sự vi phạm pháp luật hoặc

không còn cần thiết” (Điều 8 BLTTHS năm 2015). Biện pháp bắt người trong tố

tụng hình sự là một trong những biện pháp ngăn chặn có nội dung hạn chế tạm

thời quyền tự do thân thể của người bị áp dụng, do vậy phải tuân thủ nghiêm

chỉnh quy định tại Điều 10 BLTTHS năm 2015: “Mọi người có quyền bất khả

xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án,

quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp quả tang.

Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam

người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung dùng

nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng,

sức khỏe của con người”. [30, tr27].

Trong những năm qua, việc áp dụng các biện pháp bắt người của cơ quan,

người tiến hành tố tụng trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương

(trong đó có huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh) đã đem lại những kết quả thiết

thực trong việc bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Tuy

nhiên, vẫn còn có những hạn chế, sai sót nhất định trong việc áp dụng biện pháp

bắt người, ảnh hưởng đến quyền tự do thân thể của người bị bắt. Những hạn chế

này không chỉ gây tâm lý bất bình, bức xúc trong xã hội mà còn là “cái cớ” để

một số phần tử chống đối ở trong và ngoài nước thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc,

thậm chí vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền. Vì vậy, việc bảo vệ, bảo đảm

quyền con người nói chung, quyền của người bị buộc tội nói riêng trong áp dụng

các biện pháp bắt người cần phải được quan tâm, quán triệt đặc biệt.

Để bảo vệ, bảo đảm quyền con người, việc áp dụng các biện pháp bắt người

phải có căn cứ, đảm bảo đúng đối tượng, đúng thẩm quyền, đúng thủ tục, trình tự

và thời hạn mà luật định. Không được bắt người vô căn cứ, trái pháp luật.

Đối với các trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt

người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì phải có quyết định hoặc

phê chuẩn của VKS, quyết định của Tòa án.

56

Khi áp dụng biện pháp bắt người nghiêm cấm thực hiện hành vi tra tấn,

bức cung, nhục hình hay bất cứ hình thức đối xử nào xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.

Khi tiến hành bắt người, trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, cơ

quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con

người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, nhất là quyền của người bị bắt

(người bị buộc tội) mà BLTTHS đã quy định như: Quyền được cơ quan tiến

hành tố tụng giao lệnh, quyết định cho người bị bắt, quyền được trình bày lời

khai, đưa ra ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai hoặc chứng cứ chống lại

mình hoặc buộc phải nhận mình có tội, quyền được đưa ra chứng cứ, chứ không

chỉ là đồ vật, tài liệu, quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng

bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và những lợi ích hợp

pháp của mình khi bị đe dọa, quyền khiếu nại quyết định bắt người cũng như

hành vi bắt người của người tiến hành tố tụng.

Khi áp dụng các biện pháp bắt người, cơ quan có thẩm quyền phải thường

xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của biện pháp bắt người đã áp

dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy vi phạm

pháp luật hoặc không còn cần thiết.

3.1.2. Yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm ma túy

nói riêng.

Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là do tác động của

mặt trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, tình hình tội phạm nói

chung, tình hình tội phạm ma túy nói riêng có mức độ xảy ra ngày càng nhiều,

diễn biến phức tạp và có xu hướng ra tăng. Theo số liệu thống kê của Cơ quan

Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an tỉnh Quảng Ninh thấy rằng, chỉ

trong vòng 5 năm (từ năm 2014 đến năm 2018) ở địa bàn tỉnh Quảng Ninh có tới

3.027 vụ với 4.526 bị can bị thụ lý điều tra về tội phạm ma túy, trong đó tại

huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh có 56 vụ với 63 bị can bị thụ lý điều tra về tội

phạm này [12]. Tình hình này đặt ra yêu cầu phải tăng cường đấu tranh phòng,

chống loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm này.

57

Để góp phần có hiệu quả vào công tác đấu tranh chống tội phạm ma túy,

ngăn chặn không cho loại tội phạm này xảy ra, tiếp tục được thực hiện, ngăn

chặn việc trốn tránh pháp luật cũng như để đảm bảo việc khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi và có kết quả, pháp luật tố tụng hình sự

quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, trong đó có cơ quan điều tra

được áp dụng các biện pháp bắt người. Do vậy, khi áp dụng các biện pháp bắt

người trong điều tra các vụ án hình sự về tội phạm ma túy, cơ quan điều tra xuất

phát từ yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm, nghĩa là phải đạt được mục

đích ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn không để cho người phạm tội trốn tránh

pháp luật, hoặc có hành vi cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét

xử người phạm tội, đảm bảo “mọi hành vi phạm tội do người phạm tội được

phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật” (khoản 1

Điều 3 BLTTHS năm 2015). Do vậy, khi áp dụng các biện pháp bắt người phạm

tội về ma túy luôn luôn phải quán triệt quan điểm “Nhanh chóng, thận trọng,

khách quan, toàn diện, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”

Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên các cấp

trong lực lượng Công an cần phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị,

nghị quyết của Đảng, Nhà nước về phòng, chống và kiểm soát ma túy, trọng tâm

là kết luận số 95-KL/TW ngày 02/04/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và

tiếp tục thực hiện chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/03/2008 của Bộ chính trị về tăng

cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý. Mặt

khác, khi áp dụng các biện pháp bắt người trong điều tra tội phạm về ma túy, Cơ

quan điều tra cần quán triệt quan điểm chỉ đạo “tập trung lực lượng, sử dụng

tổng hợp các biện pháp, chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh ngăn chặn tội

phạm, trong đó lấy phòng ngừa là chính; kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa xã

hội với phòng ngừa nghiệp vụ; kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, làm rõ

nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm; coi trọng công tác phòng ngừa tại

cộng đồng, gia đình và ngay từ cơ sở; tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp

luật nhằm nâng cao cảnh giác, ý thức trách nhiệm chấp hành pháp luật, tự giác

tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chủ động tấn công trấn áp tội

phạm, kịp thời phát hiện, điều tra, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, gắn

58

với tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, không để

oan sai, lọt tội phạm, nghiêm cấm bức cung, nhục hình” [11].

3.1.3. Yêu cầu cải cách tư pháp.

Cải cách tư pháp là một trong những nội dung quan trọng của đường lối

đổi mới toàn diện đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng

hoà XHCN Việt Nam hiện nay.

Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về

“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã đề ra mục tiêu cải cách tư pháp

là: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo

vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam

XHCN” [8, tr.3].

Để đạt được mục tiêu này, Nghị quyết số 49-NQ/TW đã đề ra phương

hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp. Trong những phương hướng nhiệm vụ được

đặt ra trong Nghị quyết số 49/NQ-TW trở thành yêu cầu bắt buộc cần quán triệt

trong hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nói chung, áp dụng quy định

của pháp luật tố tụng về biện pháp bắt người nói riêng. Đây là những phương

hướng, nhiệm vụ về tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp (trong đó có Cơ quan điều

tra); về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; về hoàn thiện

các thủ tục tố tụng tư pháp bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh

bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; về phân định rõ thẩm quyền quản lý

hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp theo hướng tăng quyền và trách

nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong

thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về

hành vi và quyết định tố tụng của mình; xác định rõ căn cứ tạm giam, hạn chế

việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp đối

tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam...

Cơ quan điều tra các cấp của lực lượng Công an nhân dân là một trong

những cơ quan tham gia hoạt động tư pháp, có chức năng, nhiệm vụ điều tra làm

rõ sự thật của vụ án hình sự (trong đó có vụ án hình sự về tội phạm ma tuý) nên

cũng phải quán triệt những phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp nêu trên

nhằm bảo đảm việc áp dụng các biện pháp bắt người trong điều tra vụ án ma túy

59

có đủ căn cứ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn luật định, không để lọt

tội phạm, không để xảy ra sai sót trong áp dụng biện pháp bắt người.

3.1.4. Yêu cầu hợp tác quốc tế.

Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong đấu

tranh phòng, chống tội phạm, nhất là trong bối cảnh tình hình tội phạm có yêu tố

nước ngoài, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm khủng bố quốc tế, tội

phạm ma túy phát sinh ngày càng gia tăng về mức độ, phức tạp về tính chất. Vì

thế, nhiều yêu cầu về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự đã nảy sinh và được

ghi nhận trong các điều ước quốc tế đa phương, song phương mà Việt Nam là

thành viên và được nội luật hóa trong một số văn bản pháp luật của Việt Nam

như Luật Tương trợ tư pháp năm 2007; BLTTHS năm 2003 và hiện nay là

BLTTHS năm 2015.

Căn cứ vào quy định trong các văn bản pháp luật trên cho thấy, một trong

những yêu cầu hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự là áp dụng biện pháp ngăn

chặn nói chung và bắt người để bảo đảm cho việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc

thi hành quyết định dẫn độ nói riêng.

Do vậy xem xét yêu cầu dẫn độ và thực hiện việc dẫn độ có những đặc thù

về đối tượng, cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định dẫn độ nên quy định

và áp dụng các biện pháp ngăn chặn (trong đó có biện pháp bắt người) để bảo

đảm việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định dẫn độ có những yêu

cầu riêng về căn cứ, thẩm quyền, thời hạn áp dụng từng biện pháp, về hủy bỏ

hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn. Cụ thể là, theo quy định của BLTTHS năm

2015 thì có 05 biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng để bảo đảm cho việc

xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định dẫn độ gồm: bắt; tạm giam;

cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền để bảo đảm; tạm hoãn xuất cảnh (khoản 1 Điều

502 BLTTHS năm 2015). Tuy nhiên, những biện pháp ngăn chặn nêu trên chỉ

được áp dụng khi có đủ hai điều kiện: 1) Tòa án đã có quyết định xem xét yêu

cầu dẫn độ đối với người đó hoặc quyết định dẫn độ đối với người đó đã có hiệu

lực pháp luật; 2) Có căn cứ cho rằng người bị yêu cầu dẫn độ bỏ trốn hoặc gây

khó khăn, cản trở việc xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định dẫn độ

(khoản 2 Điều 502 BLTTHS năm 2015).

60

Về thẩm quyền áp dụng: theo quy định tại khoản 3 Điều 502, thì Chánh

án, Phó Chánh án TAND cấp tỉnh quyết định áp dụng cả 5 biện pháp ngăn chặn

quy định tại khoản 1 Điều 502 BLTTHS năm 2015; Thẩm phán chủ tọa phiên

họp xem xét yêu cầu dẫn độ có quyền quyết định việc áp dụng biện pháp cấm đi

khỏi nơi cư trú, biện pháp đặt tiền để đảm bảo sự có mặt của người bị yêu cầu

dẫn độ tại phiên họp.

Biện pháp bắt tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ được thực hiện theo quy

định tại Điều 113 BLTTHS năm 2015. Để bảo đảm quyền con người, lợi ích hợp

pháp của người bị yêu cầu dẫn độ, BLTTHS năm 2015 quy định: “Thời hạn tạm

giam để xem xét yêu cầu dẫn độ không được vượt quá thời hạn trong lệnh bắt

giam của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ hoặc thời hạn phải thi

hành hoặc còn phải thi hành hình phạt tù trong bản án, quyết định hình sự của Tòa

án nước yêu cầu dẫn độ. Trong trường hợp cần thiết, TAND cấp tỉnh, TAND cấp

cao có thể gửi văn bản yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ ra

lệnh, quyết định tạm giam hoặc gia hạn tạm giam người bị yêu cầu dẫn độ để bảo

đảm việc xem xét yêu cầu dẫn độ; văn bản yêu cầu được gửi thông qua Bộ công

an”. Những quy định trên của BLTTHS năm 2015 về hợp tác quốc tế trong tố tụng

hình sự đã trở thành một trong những yêu cầu đối với việc áp dụng các biện pháp

ngăn chặn nói chung, biện pháp tạm giam để xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành

quyết định dẫn độ, đòi hỏi cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự

phải tuân thủ khi áp dụng biện pháp bắt người.

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật tố tụng hình

sự về biện pháp bắt người

Bên cạnh việc quán triệt các yêu cầu trên, để đảm bảo áp dụng đúng quy

định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người trong điều tra vụ án

ma túy, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp cơ bản sau đây:

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015 về biện pháp bắt người.

Qua nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 về các biện pháp

bắt người, cũng như thực tiễn áp dụng hơn một năm qua, chúng tôi thấy một số

vấn đề sau đây cần hoàn thiện trong thời gian tới:

61

Một là, hoàn thiện quy định tại Điều 113 BLTTHS năm 2015 về bắt bị

can, bị cáo để tạm giam.

- Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã khắc phục những hạn chế, bất cập của

BLTTHS năm 2003 về biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, nhưng chúng

tôi thấy tại Điều 113 BLTTHS năm 2015 mới chỉ quy định về thẩm quyền, trình

tự, thủ tục bắt mà không đề cập đến các trường hợp cũng như căn cứ, điều kiện

bắt bị can, bị cáo để tạm giam trong các trường hợp đó. Do vậy, trong thực tiễn

áp dụng, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đã vận dụng căn cứ tạm giam để

bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Chúng tôi đồng tình với cách hiểu và vận dụng

này, bởi bắt bị can, bị cáo là để tạm giam, do vậy biện pháp bắt bị can, bị cáo và

biện pháp tạm giam có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, để có căn cứ pháp

lý chặt chẽ, minh bạch cho việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm

giam Điều 113 BLTTHS năm 2015 cần quy định vấn đề này bằng một quy

phạm viện dẫn đến Điều 119 BLTTHS năm 2015 để đảm bảo logic giữa các

điều luật.

- Điều 113 BLTTHS năm 2015 quy định về chủ thể có thẩm quyền bắt bị

can, bị cáo để tạm giam chưa thật cụ thể, rõ ràng, nghĩa là còn chung chung nên

chưa rõ chủ thể nào có thẩm quyền bắt bị can để tạm giam, chủ thể nào có thẩm

quyền bắt bị cáo để tạm giam. Trong khi đó, đây là hai trường hợp bắt khác

nhau, ở những giai đoạn tố tụng khác nhau. Do vậy, trong thời gian tới, các cơ

quan có thẩm quyền cần ra văn bản hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền ra lệnh,

quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam theo hướng:

+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp có thẩm quyền ra

lệnh, quyết định bắt bị can để tạm giam trong giai đoạn điều tra;

+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện kiểm sát quân sự các

cấp có thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can để tạm giam trong giai đoạn

truy tố;

+ Chánh án, Phó Chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp có thẩm

quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can để tạm giam trong thời gian chuẩn bị xét xử

và bắt bị cáo để tạm giam (trừ trường hợp bị cáo đang bị xét xử tại phiên toà);

62

+ Hội đồng xét xử có thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can để tạm

giam tại phiên tòa đang xét xử.

⁃ Khoản 3 Điều 113 BLTTHS năm 2015 quy định: “Không được bắt

người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị

truy nã”. Với quy định này cho thấy, nội dung của khoản 3 Điều 113 BLTTHS

năm 2015 cần sửa lại như sau: “Không được bắt người vào ban đêm, trừ bắt

người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người

đang bị truy nã, bắt người bị yêu cầu dẫn độ”.

Hai là, Hoàn thiện quy định tại Điều 111 “Bắt người phạm tội quả tang”

và Điều 112 “bắt người đang bị truy nã”.

- Theo quy định tại Điều 111 “Bắt người phạm tội quả tang” của

BLTTHS năm 2015 thì người thực hiện việc bắt người phạm tội quả tang cũng

như cơ quan tiếp nhận người bị bắt phải giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay

cho cơ quan có thẩm quyền. Trong khi đó, khoản 1 Điều 164 BLTTHS năm

2015 lại quy định: “1. Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực

và địa bàn quản lý của mình thì các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan,

Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành

một số hoạt động điều tra có nhiệm vụ, quyền hạn:

a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang,

chứng cứ và lý lịch người phạm tội rõ ràng thì quyết định khởi tố vụ án hình sự,

khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS có thẩm quyền trong

thời hạn 01 tháng kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án hình sự;

b) Đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì quyết

định khởi tố vụ án hình sự, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ

sơ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày

ra quyết định khởi tố vụ án hình sự”.

Từ quy định này cho thấy, đối với những vụ án thuộc thẩm quyền mà các

cơ quan này phát hiện bắt giữ người phạm tội quả tang thì không phải giải ngay

hoặc báo ngay cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. Do vậy, rõ ràng quy định tại

Điều 111 và Điều 164 có sự mâu thuẫn, chưa đảm bảo tính thống nhất của các

63

quy định trong BLTTHS. Vì thế, để đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ trong các

quy định của BLTTHS năm 2015, chúng tôi nhất trí với quan điểm cho rằng cần

bổ sung thêm khoản 4 Điều 111 BLTTHS năm 2015 với nội dung như sau:

“4. Trong trường hợp cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra phát hiện bắt người phạm tội quả tang hoặc tiếp nhận người bị

bắt trong trường hợp phạm tội quả tang thì thu giữ vũ khí, hung khí và bảo quản

tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu,

bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp luật, giải ngay người bị bắt hoặc

báo ngay cho cơ quan điều tra có thẩm quyền trừ trường hợp quy định tại Điều

164 Bộ luật này”. [54, tr.48].

- Khoản 2,3 Điều 114 BLTTHS năm 2015 mới chỉ quy định những việc

cần làm ngay đối với cơ quan điều tra nhận người bị bắt trong trường hợp đang

bị truy nã mà không quy định đối với Cơ quan điều tra trực tiếp bắt người đang

bị truy nã. Đây là một thiếu sót của Bộ luật này. Vì vậy, để khắc phục thiếu sót

này cần bổ sung những việc cần làm ngay đối với cả Cơ quan điều tra trực tiếp

bắt người đang bị truy nã, bằng cách thay cụm từ “Cơ quan điều tra nhận người

bị bắt” bằng cụm từ “cơ quan điều tra bắt hoặc nhận người bị bắt” tại khoản 2

và khoản 3 của Điều 114 BLTTHS năm 2015.

Ba là, hoàn thiện quy định của Điều 110 “Giữ người trong trường hợp

khẩn cấp”. Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những biện pháp

ngăn chặn trong tố tụng hình sự, vì thế việc áp dụng biện pháp này ngoài việc

ngăn chặn tội phạm còn nhằm hỗ trợ cho việc điều tra, truy tố, xét xử (truy cứu

trách nhiệm hình sự) đối với người bị buộc tội, là tiền đề để áp dụng các biện

pháp ngăn chặn khác như bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ

v.v. cho nên, biện pháp này chỉ áp dụng đối với người có hành vi phạm tội như

chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

hoặc đã thực hiện tội phạm nhưng bỏ trốn; hay người cùng thực hiện tội phạm,

người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và

xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm; hoặc có dấu vết của tội phạm ở

người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi

64

thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu

hủy chứng cứ.

Theo quy định của Điều 17 BLHS năm 1999 thì: “Người chuẩn bị phạm

một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng, thì phải chịu trách

nhiệm hình sự về tội định thực hiện”. Còn hiện nay, theo quy định tại khoản 2

Điều 14 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì: “Người chuẩn bị

phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115,

116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 244, 300, 301, 302, 303

và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Còn theo khoản 3 Điều 14 BLTTHS năm 2015 thì “Người đủ 14 tuổi đến

dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123, Điều 168 của Bộ luật này

thì phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Với quy định trên, đối chiếu với quy định tại Điều 9 BLTTHS năm 2015

và chế tài được quy định đối với những tội phạm mà theo quy định của BLHS

năm 2015 phải chịu trách nhiệm hình sự thấy rằng: Vấn đề trách nhiệm hình sự

không chỉ đặt ra đối với người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc

phạm một tội đặc biệt nghiêm trọng mà còn đối với người chuẩn bị phạm một

tội ít nghiêm trọng (khoản 1 Điều 134), chuẩn bị phạm một tội nghiêm trọng

(quy định tại khoản 2 các điều 115, 116, 118; các khoản 2,3 Điều 134; khoản 1

các điều 169, 207, 324; khoản 3 Điều 299 và các khoản 1,2 Điều 301 BLTTHS

năm 2015). Mặt khác, không phải mọi trường hợp chuẩn bị phạm một tội rất

nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đều phải chịu trách nhiệm hình sự về

tội định thực hiện. Vì vậy, điểm a khoản 1 Điều 110 BLHS năm 2015 quy định:

“Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất

nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” là một trong những trường

hợp giữ người là không hợp lý, mâu thuẫn với quy định của BLTTHS năm 2015

về trách nhiệm hình sự của người chuẩn bị phạm tội. Vì vậy, để khắc phục hạn

chế này, chúng tôi cho rằng cần sửa lại quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 110

BLTTHS năm 2015 về trách nhiệm hình sự trong trường hợp chuẩn bị phạm tội.

65

Cụ thể như sau: “Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện

tội phạm mà theo quy định của Bộ luật hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Ngoài ra, khi quy định về thủ tục thi hành lệnh giữ, khoản 3 Điều 110 có quy

định: “.....việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải tuân

theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 của Bộ luật này”. Theo quy định tại

khoản 2 Điều 113 BLTTHS năm 2015 cho thấy, một trong những thủ tục bắt bị

can, bị cáo để tạm giam là thủ tục chứng kiến việc bắt, theo đó: “Khi tiến hành

bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị

trấn và người khác chứng kiến. Khi bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập

phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến.

Khi tiến hành bắt người ở nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính

quyền xã, phường thị trấn nơi tiến hành bắt người”.

Từ những quy định trên cho thấy, thành phần người chứng kiến khi tiến

hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp cũng phải đúng như thành phần

người chứng kiến khi tiến hành bắt người. Vấn đề đặt ra ở đây là, tại điểm c

khoản 2 Điều 110 BLTTHS năm 2015 có quy định về thẩm quyền giữ người

trong trường hợp khẩn cấp cho người chỉ huy tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân

bay, bến cảng. Vậy trong trường hợp này, ai sẽ là người chứng kiến? Nếu theo

quy định tại khoản 2 Điều 113 của BLTTHS năm 2015 thì đây là trường hợp giữ

người ở nơi khác và người chứng kiến là người đại diện của chính quyền xã,

phường, thị trấn nơi tiến hành giữ người. Nhưng khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi

sân bay, bến cảng thì rất khó tìm được và cũng không thể tìm được người đại

diện của chính quyền xã, phường, thị trấn chứng kiến. Đây rõ ràng là một bất

cập trong quy định của BLTTHS năm 2015. Đối với trường hợp này, để đảm

bảo tính khả thi, theo chúng tôi cần quy định người chứng kiến là người có mặt

trên máy bay, tàu biển đó. Do vậy, tại khoản 2 Điều 113 BLTTHS năm 2015 cần

bổ sung quy định: “Đối với trường hợp giữ người trên máy bay, tàu biển phải

có người trên máy bay, tàu biển đó chứng kiến”. Họ có thể là hành khách hoặc

nhân viên phục vụ trên máy bay, tàu biển đó.

66

3.2.2. Đảm bảo biên chế, nâng cao năng lực điều tra, trình độ, kiến thức pháp

luật, nghiệp vụ; chiến thuật, kĩ thuật bắt người đối với chủ thể có thẩm quyền

ra lệnh, quyết định bắt người và chủ thể thi hành lệnh bắt người trong Cơ

quan điều tra.

Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 36, điểm a khoản 2 Điều 110,

điểm a khoản 1 Điều 113 BLTTHS năm 2015 chủ thể có thẩm quyền ra lệnh,

quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, trong đó có biện pháp bắt người

(bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt bị can, bị cáo để tạm giam)

thuộc về Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Theo quy định

tại điểm c Điều 37 BLTTHS năm 2015, thì chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn thi

hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh hoặc quyết định bắt người

thuộc về Điều tra viên. Do vậy, hiệu quả của việc áp dụng biện pháp bắt người

cao hay thấp phụ thuộc vào các chủ thể này cả về mặt biên chế, cả về mặt năng

lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ.

Để đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về

biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình sự về tội phạm ma túy thì

trước hết là phải bảo đảm biên chế cho Cơ quan điều tra đáp ứng yêu cầu điều

tra vụ án hình sự nói chung, vụ án về tội phạm ma túy nói riêng. Về vấn đề này,

khoản 1 Điều 61 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định:

“Nhà nước bảo đảm biên chế cần thiết cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra”

Hiện nay, tổng quân số của Cơ quan điều tra công an huyện Vân Đồn, tỉnh

Quảng Ninh có 19 cán bộ, chiến sĩ, trong đó: 01 Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát

điều tra, 01 Phó thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra; 07 Điều tra viên (01 Điều

tra viên kiêm nhiệm kỹ thuật hình sự), 02 cán bộ tổng hợp; 08 cán bộ điều tra và

trinh sát. Với biên chế như vậy đã hạn chế, ảnh hưởng đến kết quả điều tra, nhất

là nắm tình hình, diễn biến của đối tượng phạm tội liên quan đến ma túy để có

đủ căn cứ áp dụng các biện pháp bắt giữ đối tượng. Do vậy, cần tính toán để bổ

sung biên chế cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện nhằm đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ đặt ra. Thêm vào đó, cần hoàn thiện tiêu chuẩn, quy định bổ

nhiệm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra, cũng như Điều tra

67

viên theo các ngạch cụ thể. Chỉ bổ nhiệm chức danh Thủ trưởng, Phó thủ trưởng

cơ quan điều tra những Điều tra viên cao cấp hoặc Điều tra viên trung cấp có

năng lực tổ chức, chỉ đạo hoạt động điều tra và đáp ứng các tiêu chuẩn chung

của Điều tra viên quy định tại Điều 46 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự và

tiêu chuẩn đối với Điều tra viên cao cấp quy định tại Điều 49, hoặc tiêu chuẩn

đối với Điều tra viên trung cấp quy định tại Điều 48 Luật Tổ chức Cơ quan điều

tra hình sự năm 2015. Chấm dứt cơ chế bổ nhiệm Điều tra viên qua tuyển chọn

và thay bằng cơ chế thi tuyển Điều tra viên. Khi bổ nhiệm chức danh Thủ

trưởng, Phó Thủ trưởng, Điều tra viên cần quan tâm đến vấn đề chất lượng,

tránh chạy theo số lượng, vấn đề thi tuyển cần thực chất hơn, tránh hình thức.

Vấn đề tiếp theo không kém phần quan trọng là tiếp tục đổi mới nội dung,

phương thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ

năng điều tra, chiến thuật, kĩ thuật bắt giữ người phạm tội, đạo đức công vụ cho

đội ngũ Điều tra viên, cán bộ điều tra, theo hướng “cập nhật các kiến thức mới

về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực

tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong sáng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng

cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN, tôn trọng và bảo vệ quyền

con người” [8].

Đây là một phương hướng hết sức đúng đắn, toàn diện. Mặc dù vậy, trong

một thời gian dài, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ, kiến thức pháp luật chưa được chú trọng đúng mức, ít chú ý đến việc

đào tạo kỹ năng điều tra, áp dụng các biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự

đối với từng chuyên án, loại án, nhất là án ma túy. Do vậy, thời gian tới cần tiếp

tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo chuyên môn và kĩ năng điều tra, kỹ

năng áp dụng các biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình sự về tội

phạm ma túy, tăng cường tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ để phổ biến kinh

nghiệm thực tế cho đội ngũ Điều tra viên. Chú ý nâng cao nhận thức cho Điều

tra viên về tính phức tạp, nguy hiểm, sự khó khăn trong áp dụng biện pháp bắt

người trong điều tra loại tội phạm này để có phương pháp, chiến kĩ thuật bắt phù

hợp kịp thời đáp ứng yêu cầu ngăn chặn tội phạm, tạo thuận lợi cho công tác

68

điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, cũng như yêu cầu bảo vệ quyền con

người, quyền công dân.

Thêm vào đó, cần nghiên cứu kéo dài thời gian nhiệm kỳ của Điều tra

viên cao cấp theo hướng bổ nhiệm một lần đến khi nghỉ hưu, đồng thời kéo dài

tuổi nghỉ hưu của Điều tra viên cao cấp đến 65 tuổi. Hiện nay, theo quy định tại

Điều 51 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 thì: “Điều tra viên

được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại

hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm” [31]. Thực tế cho thấy, quy định vấn

đề bổ nhiệm lại chức danh Điều tra viên cho phép sàng lọc những Điều tra viên

không đủ tiêu chuẩn, năng lực công tác...Tuy nhiên, việc bổ nhiệm lại chức danh

Điều tra viên theo nhiệm kỳ 05 năm có thể dẫn tới tình trạng một số Điều tra

viên nảy sinh “tư duy nhiệm kỳ”, chưa mang hết khả năng, trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ của mình để thực hiện nhiệm vụ công tác được giao. Mặt khác, nhiệm

kỳ của Điều tra viên ngắn có thể dẫn đến việc có một số điều tra viên có kiến

thức chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, kiến thức pháp luật vững vàng, có phẩm chất

chính trị, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, có kinh nghiệm thực tiễn phong

phú....không còn điều kiện để tiếp tục phát huy trong công tác điều tra vụ án. Do

vậy, cần nghiên cứu bổ nhiệm lại lần thứ hai đối với điều tra viên cao cấp, điều

tra viên trung cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp, công vụ

trong sáng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sâu rộng, có kinh nghiệm điều tra

phong phú và còn tuổi công tác, có sức khỏe tốt để tiếp tục đảm nhiệm chức

danh điều tra viên.

Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng điều tra

vụ án cho đội ngũ Điều tra viên, cán bộ điều tra, cần quan tâm, chú trọng hơn

nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho đội ngũ này. Có

như vậy mới có thể hạn chế được những biểu hiện suy thoái về chính trị, tư

tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận Điều tra viên, cán bộ điều tra.

Trong bối cảnh kinh tế thị trường, cũng như đời sống sinh hoạt hiện nay,

cần quan tâm hơn nữa đến chế độ, chính sách đối với đội ngũ Điều tra viên, nhất

là vấn đề trợ cấp nghề nghiệp để họ thực sự yên tâm thực hiện nhiệm vụ công

tác, hạn chế tối đa hiện tượng tiêu cực không đáng có.

69

3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa lực lượng điều tra với lực lượng trinh sát,

giữa cơ quan điều tra với Viện kiểm sát và các cơ quan chức năng khác trong

việc điều tra vụ án, bắt giữ người phạm tội về ma túy.

Trong Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về

một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có đề ra một

trong những nhiệm vụ là “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp

trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm” [7]. Quán triệt

chủ trương này, trong Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 đã quy

định cụ thể về quan hệ phân công và phối hợp trong điều tra hình sự.

- Thứ nhất, cần củng cố mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ giữa lực lượng điều

tra với lực lượng trinh sát trong phát hiện, ngăn chặn, điều tra, xử lý và phòng

ngừa tội phạm về ma tuý; xác định cụ thể trách nhiệm của từng lực lượng trong

quan hệ phối hợp. Cụ thể là:

+ Đối với lực lượng trinh sát: cần áp dụng các biện pháp cần thiết theo

quy định của pháp luật để phát hiện hành vi vi phạm pháp luật có liên quan đến

ma túy và cung cấp thông tin cho lực lượng điều tra để có căn cứ bắt giữ người

phạm tội, khởi tố, điều tra, xử lý người phạm tội; áp dụng các biện pháp cần

thiết để phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm về ma túy theo chức năng

nhiệm vụ, quyền hạn được giao; áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định

của pháp luật để hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm

ma túy và vi phạm pháp luật có liên quan đến ma tuý.

+ Đối với lực lượng điều tra: cần cung cấp thông tin về tội phạm ma túy

và người phạm tội cho lực lượng trinh sát để thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo

quy định của pháp luật; phối hợp với lực lượng trinh sát đánh giá, xác định

những sơ hở, thiếu sót trong công tác bắt giữ người phạm tội về ma túy để có

biện pháp khắc phục, đánh giá nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm về

ma túy, phương thức, thủ đoạn phạm tội để trao đổi, phối hợp với đơn vị trinh

sát thực hiện công tác phòng ngừa, phát hiện tội phạm về ma tuý.v.v..

+ Đối với thủ trưởng Cơ quan điều tra, trên cơ sở phân định rõ thẩm

quyền điều tra theo tố tụng hình sự với thẩm quyền hành chính tư pháp, có trách

70

nhiệm: thực hiện đúng quy định của pháp luật để bảo đảm tính độc lập, khách

quan trong quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên và cán bộ điều tra khi

tiến hành điều tra các vụ án về tội phạm ma túy; bảo đảm các điều kiện cần thiết

về nhân lực, cơ sở vật chất, kĩ thuật, trang thiết bị và điều kiện cần thiết khác

cho hoạt động bắt giữ người phạm tội nói riêng, cho hoạt động điều tra nói

chung; tổ chức lực lượng hỗ trợ cho Điều tra viên thi hành lệnh, quyết định bắt

người trong điều tra các vụ án về tội phạm ma túy, tiến hành các biện pháp theo

quy định của pháp luật để ngăn ngừa các hành vi cản trở, làm sai lệch kết quả

điều tra, xử lý vụ án về tội phạm ma túy, cản trở hoạt động bắt người phạm tội.

⁃ Thứ hai, thực hiện nghiêm túc cơ chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra

với Viện kiểm sát cùng cấp trong áp dụng biện pháp bắt người, cũng như trong

điều tra các vụ án hình sự về tội phạm ma túy.

Đối với Viện kiểm sát, cần quán triệt đầy đủ chủ trương “Tăng cường

trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều

tra”. Để thực hiện chủ trương này, VKS cùng cấp chủ động phối hợp với Cơ

quan điều tra từ khi tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, tăng cường trao đổi,

giải quyết các thông tin ban đầu mà mình tiếp nhận được để cùng nhau bàn bạc

đi đến thống nhất quan điểm xử lý. Cơ quan điều tra cần nhanh chóng tổ chức

việc xác minh tố giác, tin báo về tội phạm. Về tổng thể, hai cơ quan này cần

thực hiện nghiêm chỉnh các quy định tại Thông tư liên ngành số 06/2013/TTLT

ngày 06/8/2013 của Liên ngành Trung ương hướng dẫn thi hành quy định của

BLTTHS về tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Có như

vậy, mới có căn cứ để quyết định khởi tố, áp dụng các biện pháp bắt người. Bởi

trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự về ma túy, Cơ quan điều tra là chủ thể

chính áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung, biện pháp bắt người nói

riêng, còn VKS là chủ thể kiểm tra giám sát và phối hợp. Đây là mối quan hệ

phối hợp và chế ước. Do vậy, hai cơ quan này cần bàn bạc, trao đổi với nhau để

thống nhất áp dụng hay không cần thiết áp dụng biện pháp bắt người hay áp

dụng các biện pháp ngăn chặn khác. Do tính chất đặc thù của vụ án ma túy, nên

việc phát hiện bắt giữ chủ yếu là trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc trong

trường hợp khẩn cấp. Đối với trường hợp này, Viện kiểm sát cần kiểm tra chặt

71

chẽ các căn cứ, tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho việc áp dụng. Nếu đã đủ căn cứ

áp dụng, VKS phải nhanh chóng phê chuẩn lệnh bắt để Cơ quan điều tra triển

khai thi hành. Nếu thấy hồ sơ chưa đủ tài liệu, chứng cứ để xét phê chuẩn, thì

VKS yêu cầu cơ quan điều tra nhanh chóng cung cấp kịp thời, đầy đủ tài liệu,

chứng cứ. Trong những trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên được phân công thụ

lý vụ án về ma túy phải trực tiếp gặp hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp

trước khi xem xét quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh

bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Trường hợp khi cơ quan điều tra đã

bổ sung tài liệu, chứng cứ mà vẫn chưa đủ căn cứ để áp dụng thì kiên quyết

không phê chuẩn hoặc yêu cầu hủy bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của

pháp luật.

Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án về ma

túy, Kiểm sát viên cần chủ động phối hợp với điều tra viên trong việc lấy lời khai

người bị bắt, đồng thời phải nắm chắc tiến độ điều tra, đề ra các yêu cầu điều tra

nhằm đảm bảo việc điều tra vụ án về ma túy được khách quan, toàn diện và đúng

trình tự, thủ tục luật định. Ngay trong giai đoạn điều tra, Kiểm sát viên cần nghiên

cứu kỹ hồ sơ, tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập được chuyển đến để

kịp thời phát hiện ra những thiếu sót, vi phạm về thủ tục tố tụng, về tài liệu, chứng

cứ làm căn cứ cho việc khởi tố, điều tra vụ án, nhất là cho việc bắt giữ người

phạm tội. Đối với những vụ án ma tuý lớn, phức tạp, nghiêm trọng, VKS cần phối

hợp với cơ quan điều tra đề xuất thành lập ban chỉ đạo nhằm tăng cường sự phối

hợp giữa các lực lượng để điều tra, xử lý vụ án có hiệu quả.

Trước khi kết thúc điều tra, Kiểm sát viên và Điều tra viên cần chủ động

phối hợp để rà soát, đánh giá toàn bộ chứng cứ trong vụ án và các thủ tục tố

tụng, phát hiện những thiếu sót về chứng cứ, về thủ tục tố tụng và có biện pháp

khắc phục nhằm hạn chế việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đồng thời bảo

đảm nội dung bản kết luận điều tra phản ánh đúng kết quả điều tra, làm cơ sở

quan trọng cho việc xây dựng cáo trạng sau này. Như vậy, để đảm bảo hiệu quả

điều tra các vụ án về ma túy, trước hết VKS cũng như cơ quan điều tra phải thực

hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời phải đẩy mạnh công tác

72

phối hợp nhằm bảo đảm việc điều tra vụ án về ma túy được khách quan, toàn

diện và đúng pháp luật.

Cùng với việc phối hợp với lực lượng trinh sát và VKS, Cơ quan điều tra

cần chú trọng phối hợp với các cơ quan bổ trợ tư pháp nhất là cơ quan giám định

tư pháp. Thực tế cho thấy, vụ án về tội phạm ma túy có được giải quyết kịp thời,

đúng đắn hay không phần nào phụ thuộc vào kết quả giám định chất ma túy. Bởi

khối lượng, hàm lượng chất ma túy được nhà làm luật quy định là dấu hiệu định

tội, định khung hình phạt. Chỉ khi có kết luận của cơ quan giám định tư pháp về

chất ma túy thì mới có cơ sở xử lý hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng mới

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử người bị buộc tội. Với ý nghĩa như vậy, đòi hỏi

Cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, Cơ quan điều tra nói riêng phải chủ động,

kịp thời phối hợp với Cơ quan giám định tư pháp. Đặc biệt là phải xây dựng

được một cơ chế phối hợp chặt chẽ, trong đó xác định rõ nội dung, cách thức

phối hợp, trách nhiệm của bên trưng cầu giám định và bên tổ chức thực hiện

giám định cho phù hợp với tính chất đặc thù của giám định tư pháp đối với mẫu

giám định nghi là ma túy.

Để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy nói

chung, hiệu quả áp dụng bắt người trong điều tra các vụ án về ma túy nói riêng,

Cơ quan điều tra cần chú trọng phối hợp với chính quyền địa phương và các cơ

quan, tổ chức hữu quan cũng như quần chúng nhân dân trong việc quản lý số đối

tượng nghiện ma túy trên địa bàn trong việc phát động phong trào quần chúng

tham gia tích cực vào công tác đấu tranh phòng chống ma túy, nhất là tích cực,

kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm ma túy, bắt người phạm tội quả tang.v.v...

Trong quá trình phối hợp giữa Cơ quan điều tra với các lực lượng khác

cần hết sức tránh khuynh hướng hoặc là né tránh, đùn đầy trách nhiệm, tình

trạng “quyền anh, quyền tôi” hoặc là chỉ sử dụng cứng nhắc quyền năng pháp lý

của mình mà không có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời dẫn đến hạn chế chất

lượng, hiệu quả điều tra các vụ án về tội phạm ma túy.

73

3.2.4. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát quá trình áp

dụng các biện pháp bắt người và xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật liên

quan đến việc bắt người trong điều tra các vụ án về ma túy.

Để bảo đảm việc áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án về

tội phạm ma túy được đúng đắn, không ảnh hưởng đến quyền con người, quyền

và lợi ích hợp pháp của con người bị bắt, kịp thời ngăn chặn tội phạm về ma túy,

tạo thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án..., một trong

những biện pháp không kém phần quan trọng là phải tăng cường sự lãnh đạo,

chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng các biện pháp bắt người

trong quá trình điều tra các vụ án hình sự về tội phạm ma túy.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới và tăng cường

sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của cơ quan dân cử,

của công luận và nhân dân đối với hoạt động tư pháp” [8]. Đây là vấn đề có

tính nguyên tắc và hết sức quan trọng, vì vậy phải đổi mới và tăng cường hơn

nữa. Thực tế cho thấy, ở địa phương nào, cơ quan điều tra cấp nào làm tốt công

tác này thì ở đó hoạt động điều tra vụ án về ma túy nói chung, việc áp dụng các

biện pháp bắt người nói riêng sẽ có chất lượng, hiệu quả, khắc phục được những

hạn chế, sai sót trong hoạt động điều tra vụ án, hạn chế được việc bắt oan, sai.

Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy, nhưng thực tế cho thấy, công tác lãnh

đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy, cũng

như hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong tố tụng hình sự có

lúc bị buông lỏng, chưa thường xuyên, kịp thời, chất lượng kiểm tra, giám sát

chưa cao.

Trong cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, trong hệ cơ quan điều tra các

cấp cũng như trong xã hội còn thiếu một cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra,

giám sát một cách đầy đủ, công khai, minh bạch và có hiệu quả để phát hiện,

khắc phục kịp thời những yếu kém, hạn chế trong công tác điều tra các vụ án về

ma túy nói chung, trong hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người nói

riêng. Việc thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành công an đối với việc thực hiện

chức năng, nhiệm vụ điều tra các vụ án hình sự, trong đó có vụ án về ma túy

74

chưa đạt được kết quả thiết thực do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong khi đó,

việc kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra của VKS vẫn tồn tại những hạn chế

nhất định. Giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, của chính quyền

địa phương đôi khi còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.

Giám sát của nhân dân đối với hoạt động điều tra các vụ án hình sự thì chưa

thực sự phát huy tác dụng vì chưa có quy chế cụ thể, chặt chẽ và đầy đủ về

quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động điều tra của lực lượng công an.

Có thể thấy, những hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm

tra, giám sát đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả điều tra vụ án, cũng

như đến việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong tố tụng hình sự.

Do vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả điều tra các vụ án hình sự về tội

phạm ma túy cũng như áp dụng các biện pháp bắt người cần chú trọng hơn nữa

công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan, người có

thẩm quyền đối với hoạt động điều tra vụ án của Cơ quan điều tra.

Từ bài học kinh nghiệm thực tiễn về công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều tra

các vụ án về ma túy ở tỉnh Quảng Ninh nói chung, ở huyện Vân Đồn nói riêng

thời gian qua cho thấy, để nâng cao chất lượng điều tra loại án này, nhất là trong

áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an

huyện Vân Đồn cần thường xuyên báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Đảng ủy, Ban

giám đốc Công an tỉnh. Nội dung xin ý kiến chỉ đạo cần tập trung vào những

vấn đề như: có đưa vụ án ma túy ra xử lý hình sự hay không? hay tiếp tục triển

khai chuyên án trinh sát; có khởi tố, điều tra vụ án hay không? Cần thiết bắt hay

không bắt đối tượng trong vụ án, bắt vào thời điểm nào để phục vụ yêu cầu

chính trị, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy ở địa phương.v.v...Để

tạo điều kiện thuận lợi cho cấp lãnh đạo có thẩm quyền lãnh đạo, chỉ đạo điều

tra vụ án về ma túy, Cơ quan điều tra tội phạm về ma túy cần phải báo cáo đầy

đủ các thông tin, tài liệu đã thu thập được về vụ án và đối tượng trong vụ án; về

tình hình an ninh trật tự, tệ nạn ma túy ở địa phương. Đồng thời, Cơ quan cảnh

sát điều tra tội phạm về ma túy cần chủ động đề xuất cấp có thẩm quyền cân

nhắc cho ý kiến chỉ đạo đối với từng vụ án ma túy cụ thể, nhất là các vụ án ma

túy lớn, tính chất nghiêm trọng, phức tạp. Tránh tình trạng báo cáo không đầy

75

đủ, cụ thể; không đề xuất hướng xử lý vụ án cũng như áp dụng các biện pháp bắt

đối tượng trong vụ án.

Về phía các cấp lãnh đạo có thẩm quyền, nhất là Thủ trưởng, Phó thủ

trưởng Cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy với tư cách là người có

trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo toàn bộ quá trình điều tra vụ án ma túy, không chỉ

nắm vững toàn bộ diễn biến, các tình tiết thực tế của vụ án ma túy như: âm mưu,

phương thức, thủ đoạn gây án của đối tượng; quy mô, địa bàn, lĩnh vực, tuyến

triển khai vụ án của đối tượng; các đặc điểm nhân thân của đối tượng gây án,

nhất là những đối tượng có nhân thân đặc biệt (người nước ngoài, dân tộc thiểu

số, cán bộ, Đảng viên, người chưa đủ 18 tuổi...) mà còn phải nghiên cứu, đánh

giá toàn diện các chứng cứ thu được phản ánh về hoạt động phạm tội của đối

tượng; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra hoặc nghe các Điều tra viên báo cáo tình

hình, kết quả vướng mắc trong quá trình điều tra vụ án để kịp thời ra ý kiến ý chỉ

đạo phù hợp.

Thêm vào đó, việc chỉ đạo phải quyết liệt, khẩn trương, thống nhất về nội

dung để kịp thời định hướng cho hoạt động áp dụng các biện pháp bắt đối tượng

trong điều tra vụ án về ma túy. Nội dung chỉ đạo vừa phải có tính định hướng

cho hoạt động điều tra, cho hoạt động bắt đối tượng, đồng thời phải cụ thể, rõ

ràng, sát với tình hình thực tế, hạn chế tối đa tình trạng chỉ đạo chung chung,

không rõ ràng, cụ thể hoặc can thiệp quá sâu vào hoạt động tác nghiệp của Điều

tra viên.

Cùng với việc tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo nêu trên, cần nêu cao

vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra từ phía VKS, vai trò của cơ quan

thanh tra chuyên ngành, liên ngành đối với hoạt động bắt người trong điều tra

các vụ án về ma túy. Đồng thời cần xây dựng một cơ chế giám sát của Hội đồng

nhân dân, của công luận và toàn thể nhân dân đối với hoạt động điều tra các vụ

án về ma túy, trong đó quy định rõ quyền, nghĩa vụ giám sát của những chủ thể

này đối với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra.

Trong quá trình kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra các vụ án về ma túy,

nhất là việc áp dụng biện pháp bắt người nếu phát hiện sai phạm thì phải xử lý

nghiêm khắc theo quy định của pháp luật. Có như vậy, mới có thể hạn chế, chấm

76

dứt hiện tượng bắt người vô căn cứ, không đúng trình tự, thủ tục do pháp luật

quy định, mới bảo vệ được quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của

người bị bắt. Việc xử lý sai phạm trong việc bắt người không chỉ bằng biện pháp

xử phạt mà còn bằng các biện pháp phục hồi quyền, lợi ích cho người bị bắt oan

sai, đặc biệt là bồi thường thiệt hại theo Luật Bồi thường thiệt hại Nhà nước.

3.2.5. Đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác, nhất là

phương tiện khoa học kỹ thuật, công cụ hỗ trợ cho Cơ quan điều tra tội phạm

về ma túy.

Trong bối cảnh tác động của cuộc cách mạng 4.0 và sự phát triển nhanh

chóng của khoa học, công nghệ, sự xuất hiện nhiều loại ma túy chưa có trong

danh mục của Chính phủ... thì việc đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, phương

tiện công tác hiện đại là một yêu cầu tất yếu khách quan.

Trước hết, cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách trung

ương, ngân sách địa phương cho cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, trong đó

có Cơ quan điều tra. Tiếp tục đầu tư xây dựng trụ sở làm việc của Công an

huyện Vân Đồn khang trang phù hợp với yêu cầu sử dụng. Ưu tiên trang bị

phương tiện phục vụ công tác điều tra án ma túy, công tác giám định tư pháp

chất ma túy. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động điều tra,

nhất là triển khai phần mềm giám sát hoạt động phạm tội của đối tượng.v.v.

Trên đây là những giải pháp cơ bản, nếu được triển khai đồng bộ, kịp thời

chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả điều tra các vụ án về ma túy, đảm bảo áp dụng

đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người không

chỉ ở địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh mà còn trong phạm vi cả nước.

Tiểu kết chương 3

Xuất phát từ thực tiễn quy định và áp dụng các quy định của pháp luật tố

tụng hình sự về các biện pháp bắt người ở địa bàn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng

Ninh đặt ra vấn đề phải xây dựng, thiết lập các giải pháp nhằm đảm bảo chất

lượng, hiệu quả của áp dụng biện pháp bắt người trong điều tra vụ án hình sự nói

chung, vụ án về tội phạm ma túy nói riêng.

Việc xây dựng, thiết lập các giải pháp này phải xuất phát từ những yêu

cầu có tính nguyên tắc như: Yêu cầu bảo vệ quyền con người, yêu cầu đấu tranh

77

phòng, chống tội phạm về ma túy; yêu cầu cải cách tư pháp và yêu cầu hợp tác

quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Những yêu cầu này có tính định

hướng, chỉ đạo việc xây dựng, thiết lập các giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo chất

lượng, hiệu quả điều tra các vụ án về tội phạm ma túy nói chung, áp dụng biện

pháp bắt người nói riêng.

Để đáp ứng những yêu cầu trên nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn

chặn hành vi trốn tránh pháp luật của đối tượng phạm tội ma túy, tạo thuận lợi

cho quá trình điều tra truy tố, xét xử và thi hành án, cần triển khai đồng bộ, kịp

thời các giải pháp cơ bản liên quan đến việc hoàn thiện các quy định của pháp

luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người, đến các giải pháp tăng cường nguồn

nhân lực, vật lực cho hoạt động điều tra vụ án về tội phạm ma túy, trong đó tập

trung vào bốn giải pháp cơ bản như: Tiếp tục rà soát các quy định của BLTTHS

hiện hành về biện pháp bắt người, chỉ ra những hạn chế, bất cập cần phải sửa

đổi, bổ sung hoàn thiện; đảm bảo biên chế, nâng cao trình độ chuyên môn

nghiệp vụ, năng lực điều tra vụ án đối với chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện

pháp bắt người; tăng cường phối hợp giữa lực lượng điều tra vụ án với các lực

lượng liên quan; tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt

động áp dụng biện pháp bắt người; đầu tư thỏa đáng kịp thời kinh phí, phương

tiện công tác cho cơ quan điều tra tội phạm về ma túy. Những giải pháp này có

cơ sở lý luận và thực tế, đảm bảo tính khả thi.

78

KẾT LUẬN

Bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự,

được áp dụng phổ biến ở giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung, vụ án

hình sự về tội phạm ma túy nói riêng.

Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc áp dụng trên thực tế nhằm ngăn

chặn tội phạm, ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, đồng

thời tạo thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố xét xử và thi hành án, pháp luật

tố tụng hình sự Việt Nam đã sớm quy định các biện pháp bắt người là một trong

những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, do trình độ kỹ

thuật lập pháp, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp bắt

người trước khi ban hành BLTTHS đầu tiên vào năm 1988 còn đơn giản và chưa

đầy đủ. Chỉ khi BLTTHS năm 1988 và sau đó là BLTTHS năm 2003, BLTTHS

năm 2015 được ban hành thì các biện pháp bắt người mới được quy định đầy đủ,

chặt chẽ và ngày càng hoàn thiện hơn.

Để áp dụng đúng đắn các biện pháp bắt người trong tố tụng hình sự, nhất

là trong điều tra các vụ án hình sự về tội phạm ma túy, không chỉ nắm vững các

quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà còn phải nhận thức đúng đắn những

vấn đề lý luận về các biện pháp này. Đồng thời phải đánh giá thực tiễn áp dụng

các biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án hình sự về tội phạm ma túy của

Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, để rút ra kinh

nghiệm.

Qua đánh giá thực tiễn việc áp dụng các biện pháp này trong điều tra các

vụ án hình sự về tội phạm ma túy của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Đồn

cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn những hạn chế, thiếu sót

nhất định. Những hạn chế thiếu sót này do nhiều nguyên nhân khách quan và

chủ quan khác nhau.

Để đảm bào áp dụng đúng biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án

hình sự về tội phạm ma túy, cần phải quán triệt các yêu cầu có tính nguyên tắc,

đồng thời phải triển khai đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có những

biện pháp tiếp tục hoàn thiện của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, có những

biện pháp tăng cường nguồn nhân lực, vật lực cho hoạt động áp dụng các biện

79

pháp bắt người. Có như vậy, mới phát huy được vai trò của các biện pháp bắt

người trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trên địa bàn huyện Vân

Đồn, cũng như ở những địa bàn khác.

Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã tuân thủ nghiêm chỉnh các

quy định của Học viện khoa học xã hội, tiếp thu ý kiến chỉ đạo về mặt khoa học

của người hướng dẫn. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng không tránh khỏi

những hạn chế nhất định. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp của các nhà

khoa học, các thầy, cô giáo, các cán bộ thực tiễn để tác giả tiếp tục chỉnh sửa,

đảm bảo luận văn có giá trị khoa học cao hơn./.

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Ngọc Anh (2011), Nâng cao hiệu quả hoạt động của điều tra

viên trong điều tra vụ án hình sự, Nxb CAND, Hà Nội

2. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên) (2016), Những nội dung mới trong

BLTTHS năm 2015 (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Mai Thế Bảy (2009), “Cần sửa đổi, bổ sung BLTTHS về nhiệm vụ,

quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc phê chuẩn các lệnh, quyết định áp dụng

các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự khác trong giai

đoạn điều tra”, Tạp chí Kiểm sát số 16, tr.20-23;

4. Nguyễn Đình Bình (2008), “Một số ý kiến về việc hoàn thiện các quy

định về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 5,

tr.27-29;

5. Mai Đắc Biên, Mai Ngọc Hải (2016), “Chế định biện pháp ngăn chặn

trong BLTTHS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 05, tr.26-29;

6. Mai Bộ (2007), “Sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về những

biện pháp ngăn chặn”, Tạp chí Kiểm sát số 20, tr.7-14;

7. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội;

8. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;

9. Bộ tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội;

10. Lê Cảm (2007), Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và

pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb

Tư pháp, Hà Nội;

11. Công an tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo kết quả công tác phòng, chống ma

túy các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018;

12. Công an tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tình hình, kết quả công tác các năm

2014, 2015, 2016, 2017, 2018;

13. Công an tỉnh Quảng Ninh, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy,

Số liệu thống kê về các vụ án ma túy giai đoạn 2014-2018;

81

14. Công an huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tình hình, kết quả

công tác các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018;

15. Nguyễn Minh Đức (2017), “Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả

công tác phối hợp trong giải quyết vụ án ma túy”, tạp chí Kiểm sát số 09, tr.10-

14;

16. Nguyễn Hữu Hậu (2017), “Vai trò, trách nhiệm của VKS trong việc bảo

đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội

ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát,

số 24, tr.26-32;

17. Phạm Mạnh Hùng (Chủ biên) (2018), Bình luận khoa học BLTTHS năm

2015, Nxb Lao Động, Hà Nội;

18. Phạm Mạnh Hùng (2007), “Hoàn thiện các quy định về các biện pháp

ngăn chặn trong BLTTHS theo yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát số

21, tr.30-35;

19. Nguyễn Ngọc Khánh (2011), “Thẩm quyền của VKS trong việc quyết

định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế tố tụng khác trong

hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, tạp chí Kiểm sát số 01, tr.44-54;

20. Vũ Gia Lâm (2003), “Các điểm mới trong quy định về những biện pháp

ngăn chặn của BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Luật học (số đặc sau về BLTTHS

năm 2003), tr.43-51;

21. Nguyễn Thanh Mai (2008), “Một số vấn đề áp dụng biện pháp ngăn

chặn bắt, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nghề luật, số 05,

tr.26-30;

22. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1994), Hệ thống hóa các văn bản pháp

luật về hình sự và tố tụng hình sự;

23. Hoàng Tám Phi (2018), “Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định

của BLTTHS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 07, tr.46-49;

24. Lê Ngọc Quan (2015), “Những bất cập trong quy định và thực hiện thủ

tục bắt người phạm tội quả tang đối với công an cấp xã”, Tạp chí An ninh xã hội,

tr.75-78;

82

25. Nguyễn Tuấn Sơn (2008), “Tăng cường phối hợp giữa Cơ quan tiến hành

tố tụng trong quá trình điều tra các vụ án ma túy”, Tạp chí Kiểm sát số 12, tr.43-

48;

26. Nguyễn Trọng Phúc (2015), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn (Sách

chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

27. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm

2013, Hà Nội;

28. Quốc hội (2007), Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Hà Nội;

29. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội;

30. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội;

31. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Hà Nội;

32. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự năm 2015, Hà Nội;

33. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Hà Nội;

34. Trần Thanh Tâm (2019), Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ luật học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội;

35. Trương Hùng Thanh (2013), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng

hình sự Việt Nam từ thực tiễn của thành phố Đã Nẵng, Luận văn thạc sĩ luật học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội;

36. Trịnh Văn Thanh (2001), Hệ thống biện pháp ngăn chặn trong tố tụng

hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng của lực lượng vũ

trang nhân dân, Nxb CAND, Hà Nội;

37. Dương Văn Thắng (2002), “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về

biện pháp bắt người đang bị truy nã”, Tạp chí TAND số 9, tr.6-7;

38. Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Dương, Nguyễn Thị Thủy (Đồng chủ biên),

(2013), Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố

tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

39. Nguyễn Đức Thuận (2008), “Về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn

theo quy định của BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Luật học số 7, tr.73-80;

83

40. Vũ Huy Thuận, Bùi Thị Tú Oanh (2017), “Tăng cường các biện pháp

kiểm sát bảo đảm việc bắt, tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự tuân thủ

đúng pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, Tạp chí Kiểm sát số

9, tr.15-19;

41. Nguyễn Hồng Thiện (2016), “Một số quy định về biện pháp tạm giam

trong BLTTHS năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát số 23, tr.33-37;

42. Trần Quang Tiệp (2005), Về tự do các nhân và biện pháp cưỡng chế tố

tụng hình sự (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

43. Trần Quang Tiệp (2006), “Biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn

cấp”, Tạp chí TAND, tr.14-17;

44. Lại Anh Tuấn (2017), “Nội dung quan hệ giữa VKSND với Cơ quan

điều tra trong điều tra vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát số 16, tr.5-10;

45. Hoàng Anh Tuyên (2016), “Những nội dung mới cơ bản về các biện

pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí

Kiểm sát số 14, tr.27-31;

46. Trần Thanh Tùng (2016), Biện pháp tạm giam theo pháp luật tố tụng

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học

viện Khoa học xã hội, Hà Nội;

47. TANDTC (1976), Tập hệ thống luật lệ về tố tụng hình sự, Hà Nội;

48. TANDTC (1979), Hệ thống hóa luật lệ về tố tụng hình sự, Tập II, Hà

Nội;

49. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình luật tố tụng hình sự,

Nxb CAND, Hà Nội;

50. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật tố

tụng hình sự Việt Nam, Nxb Hồng Đức;

51. Võ Khánh Vinh (2012), Bình luận Khoa học BLTTHS của nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp;

52. Ngô Văn Vịnh (2017), “Khái quát lịch sử hình thành và hoàn thiện các

quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt người phạm

tội quả tang”, Tạp chí Nghề luật số 6, tr. 22-27;

84

53. Ngô Văn Vịnh (2016), “Những điểm mới trong các quy định về biện

pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam của BLTTHS năm 2005”, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, số 3, tr. 39-41;

54. Ngô Văn Vịnh (2017), “Những điểm mới trong BLTTHS năm 2015 về

biện pháp bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã và một số vấn

đề cần trao đổi”, Tạp chí Nghề luật số 1, tr. 46-49;

55. Trịnh Tiến Việt (2004), “Một số điểm mới về những biện pháp ngăn

chặn trong BLTTHS năm 2003”, Tạp chí TAND số 8, tr. 15-18;

56. Trịnh Tiến Việt (2005), “Về biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người

chưa thành niên phạm tội trong BLTTHS năm 2003”, Tạp chí TAND số 6, tr. 11-

13.

85

Trong đó

Khởi tố mới

Năm

Tổng số vụ/bị can

Năm trước chuyển sang

Tiếp nhận bàn giao

Phục hồi điều tra

Trả điều tra bổ sung

Tạm đình chỉ điều tra

Đình chỉ điều tra

Kết luận đề nghị truy tố

63 vụ

35 vụ

479 vụ

12 vụ

10 vụ

14 vụ

539 vụ

2014

602 vụ

887 BC

157 BC

38 BC

657 BC

12 BC

32 BC

5 BC

780 BC

30 vụ

365 vụ

23 vụ

23 vụ

17 vụ

390 vụ

560 vụ

49 vụ

2015

827 BC

102 BC

34 BC

516 BC

24 BC

24 BC

13 BC

577 BC

54 vụ

501 vụ

21 vụ

04 vụ

10 vụ

03 vụ

541 vụ

636 vụ

53 vụ

2016

940 BC

155 BC

60 BC

739 BC

22 BC

24 BC

11 BC

04 BC

759 BC

26 vụ

412 vụ

06 vụ

02 vụ

12 vụ

01 vụ

516 vụ

617 vụ

82 vụ

2017

957 BC

166 BC

26 BC

779 BC

07 BC

02 BC

07 BC

04 BC

773 BC

612 vụ

87 vụ

11 vụ

507 vụ

10 vụ

02 vụ

03 vụ

548 vụ

2018

915 BC

173 BC

12 BC

716 BC

10 BC

02 BC

03 BC

802 BC

PHỤ LỤC Bảng 2.1. Tình hình thụ lý điều tra các vụ án hình sự về tội phạm ma túy của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014 – 2018

3.027 vụ

364 vụ

156 vụ

2.344 vụ

72 vụ

41 vụ

56 vụ

04 vụ

2.534 vụ

Tổng

4.526 BC

747 BC

170 BC

3.401 BC

75 BC

84 BC

39 BC

08 BC

3.619 BC

Nguồn: Phòng CSĐT tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Quảng Ninh

Vụ án hình sự nói chung

Vụ án về tội phạm ma túy

Trong đó

Tội danh

Năm

Thụ lý điều tra

Thụ lý điều tra

Khởi tố mới

Mua bán

Tàng trữ

Chuyển VKS đề nghị truy tố

Phục hồi điều tra

Tạm đình chỉ điều tra

Đề nghị truy tố

38 vụ

05 vụ

01 vụ

39 vụ

07 vụ

07 vụ

05 vụ

02 vụ

2014

43 BC

05 BC

01 BC

52 BC

07 BC

07 BC

05 BC

02 BC

52 vụ 61 BC 48 vụ

34 vụ

03 vụ

9 vụ

34 vụ

10 vụ

10 vụ

10 vụ

0 vụ

2015

54 BC

38 BC

03 BC

04 BC

45 BC

10 BC

03 BC

10 BC

0 BC

44 vụ

37 vụ

01 vụ

14 vụ

28 vụ

15 vụ

15 vụ

11 vụ

04 vụ

2016

53 BC

42 BC

01 BC

05 BC

46 BC

15 BC

15 BC

11 BC

04 BC

34 vụ

02 vụ

05 vụ

31 vụ

09 vụ

09 vụ

04 vụ

05 vụ

2017

48 BC

02 BC

05 BC

47 BC

14 BC

14 BC

08 BC

06 BC

40 vụ 52 BC 68 vụ

55 vụ

03 vụ

07 vụ

49 vụ

15 vụ

15 vụ

10 vụ

05 vụ

2018

81 BC

68 BC

02 BC

04 BC

68 BC

17 BC

17 BC

12 BC

05 BC

Bảng 2.2. Tình hình thụ lý điều tra các vụ án hình sự và vụ án về tội phạm ma túy của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014 – 2018

252 vụ

198 vụ

14 vụ

17 vụ

181 vụ

56 vụ

56 vụ

40 vụ

16 vụ

Tổng

301 BC

238 BC

13 BC

19 BC

258 BC

63 BC

63 BC

46 BC

17 BC

Nguồn: Công an huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh

Bảng 2.3. Thống kê các biện pháp bắt người trong điều tra các vụ án về tội phạm ma túy của Công an tỉnh Quảng Ninh

Các biện pháp bắt

Năm Tổng số đối tượng bị bắt giữ Quả tang Truy nã Khẩn cấp

2014 2015 2016 2017 2018 Tổng 639 563 719 735 719 3.375 508 400 416 380 505 2.209 12 10 0 0 01 23 115 147 299 354 204 1.119 Bắt tạm giam 04 06 04 01 10 25

Nguồn: Phòng CSĐT tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Quảng Ninh

Bảng 2.4. Thống kê đối tượng bị bắt trong điều tra các vụ án về ma túy theo các tội danh cụ thể giai đoạn 2014 - 2018 của Công an tỉnh Quảng Ninh

Năm Tội danh Chiếm đoạt chất ma túy

Số đối tượng bị bắt Tàng trữ trái phép chất ma túy

Vận chuyển trái phép chất ma túy

Mua bán trái phép chất ma túy Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy Các tội phạm khác liên quan vụ án ma túy

418 639 2014 408 563 2015 417 719 2016 426 735 2017 2018 294 719 Tổng 3.375 1.963 125 106 290 279 390 1.190 15 07 04 20 12 58 02 00 01 00 00 03 Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy 08 00 01 04 01 14 62 36 03 04 22 127 09 06 03 02 00 20

Nguồn: Phòng CSĐT tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Quảng Ninh

Bảng 2.5. Tình hình bắt người trong điều tra các vụ án ma túy của Công an huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014-2018

Các biện pháp bắt Tội danh bắt

Năm Ghi chú Số đối tượng bị bắt Bắt truy nã Bắt quả tang Bắt khẩn cấp Bắt tạm giam

Tàng trữ trái phép chất ma túy Mua bán trái phép chất ma túy

0 05 02 2014 07 05 02 0

0 10 00 2015 10 07 03 0

0 11 04 2016 15 12 03 0

0 08 06 2017 14 06 08 0

0 12 05 2018 17 16 01 0

0 46 17 Tổng 63 46 17 0

Nguồn: Công an huyên Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh