VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ KHẮC SƠN
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI PHẠM THAM Ô
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ KHẮC SƠN
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA ĐỐI VỚI TỘI PHẠM THAM Ô
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ
Lê Khắc Sơn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô
TÀI SẢN ........................................................................................................... 9
1.1. Khái niệm Quyền công tố và Thực hành Quyền công tố .................... 9
1.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô tài sản ............................................................................................ 16
1.3. Những hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản ................................ 22
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô
TÀI SẢN Ở VKSND TỈNH QUẢNG NINH ............................................... 31
2.1.Tình hình tội phạm tham ô trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh .................. 31
2.2. Kết quả công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô ở VKSND tỉnh Quảng Ninh .......................................................... 37
2.3 Những hạn chế yếu kém, vướng mắc khi THQCT trong giai đoạn điều
tra các tội phạm tham ô ở VKSND tỉnh Quảng Ninh và nguyên nhân .......... 42
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI
PHẠM THAM Ô TÀI SẢN Ở VKSND TỈNH QUẢNG NINH ................ 49
3.1. Dự báo về tội phạm tham ô tài sản và giải pháp nâng cao hiệu quả
THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND
tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................ 49
3.2. Phương hướng và các giải pháp nhằm đảm bảo, nâng cao hiệu quả
THQCT tố ở giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND
tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................ 53
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
CQĐT Cơ quan điều tra
THQCT Thực hành quyền công tố
KTVA Khởi tố vụ án
KTBC Khởi tố bị can
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn được Đảng và Nhà
nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Nhận thức được tác hại của tham nhũng, ngay từ khi mới giành
được chính quyền, Đảng ta đã xác định tham nhũng là một kẻ thù nguy hiểm
không kém gì giặc ngoại xâm nên phải kiên quyết loại bỏ. Trong từng nhiệm
kỳ Đại hội, Đảng ta đã xác định quan điểm, đề ra các chủ trương và những
giải pháp cơ bản, quan tâm chỉ đạo có tính chất chiến lược về phòng, chống
tham nhũng phù hợp từng thời kỳ cách mạng. Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ
trọng tâm là phải ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo
bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã
hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch,
vững mạnh.
Với vai trò chức năng là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong
những năm qua Viện kiểm sát nhân dân đã thực hiện đầy đủ, chất lượng
những mục tiêu mà Đảng đã chỉ rõ; đồng thời, thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần quan trọng vào kết quả công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng
thời gian qua cho thấy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng còn
nhiều hạn chế dẫn đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa cao
và một trong những nguyên nhân của những tồn tại đó là do quy định của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa hoàn thiện.
1
Trong những năm gần đây, trên địa bàn cả nước cũng như địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, tình hình tội phạm tham nhũng nói chung và tội phạm tham ô tài
sản nói riêng diễn ra phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về số vụ, số
người phạm tội lẫn tính chất, mức độ phạm tội. Thực hiện chủ trương cải cách
tư pháp, trong những năm qua, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
tham nhũng nói chung, các vụ án tham ô tài sản nói riêng đã được chú trọng
hơn và có những chuyển biến tích cực, từng bước nâng cao chất lượng. Các
cơ quan tiến hành tố tụng các cấp đã khởi tố điều tra, truy tố, xét xử được
nhiều vụ án có tính chất phức tạp, được dư luận quan tâm, đảm bảo đúng thời
hạn luật định, bước đầu đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm tham nhũng trong tình hình mới, nhất là đối với những vụ án tham
nhũng được theo dõi, chỉ đạo của Ban nội chính Trung ương, của các Tỉnh uỷ
và Thành uỷ. Các vụ án tham nhũng được tiến hành khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử đều đảm báo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh
đó, việc phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án tham nhũng nói
chung, các vụ án tham ô tài sản nói riêng còn chậm, số lượng xử lý chưa phản
ánh đúng thực trạng tội phạm tham nhũng xảy ra trên thực tế, vẫn còn tình
trạng bỏ lọt tội phạm; việc thu thập chứng cứ còn gặp nhiều khó khăn; nhiều
vụ án việc xác định đường lối xử lý chưa tốt do có nhiều quan điểm khác
nhau về đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng các quy định của pháp luật; đội ngũ
cán bộ chuyên trách trong công tác phòng, chống tham nhũng cũng như đội
ngũ cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng còn mỏng, nhiều cán bộ hạn chế về
năng lực, kinh nghiệm, bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của một số
cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng.
Là cơ quan do Quốc hội thành lập, Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan
được giao chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp,
được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho trọng trách phối hợp với các cơ
2
quan chức năng trong bộ máy Nhà nước trực tiếp đấu tranh phòng, chống các
loại tội phạm nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng; đồng thời, tham mưu
với Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, biện pháp đấu tranh quyết liệt, mạnh
mẽ và phòng, chống hiệu quả đối với loại tội phạm này, góp phần quan trọng
vào việc thực hiện công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội. Trong
những năm qua, công tác thực hành quyền công tố đối với các vụ án tham
nhũng của ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều nỗ lực, đạt được những kết
quả quan trọng, góp phần vào kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm tham nhũng, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận. Viện kiểm
sát nhân dân các cấp đã chủ động thực hiện nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực,
phối hợp với Cơ quan điều tra, Toà án nhân dân và các cơ quan hữu quan kịp
thời phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử nghiêm minh nhiều vụ án
tham nhũng được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ. Công tác thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án tham nhũng được thực
hiện tốt; 100% các vụ án về tham nhũng được kiểm sát ngay từ khi vụ án
được phát hiện, khởi tố, bảo đảm việc phê chuẩn khởi tố bị can, áp dụng, thay
thế các biện pháp ngăn chặn, đảm bảo các trường hợp bị giam, giữ có căn cứ,
đúng hạn luật định; đảm bảo thời hạn tố tụng điều tra, giải quyết; việc truy tố,
xét xử đúng người, đúng tội; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố
tụng đẩy nhanh tiến độ giải quyết án, đề ra nhiều biện pháp để thu hồi triệt để
tài sản tham nhũng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động thực hành
quyền công tố đối với các vụ án tham nhũng nói chung, các vụ án tham ô tài
sản nói riêng còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc như: Việc tăng cường
trách nhiệm công tố của Kiểm sát viên trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm; một số Kiểm sát viên chưa chủ động bám sát hoạt động điều tra để
phối hợp cùng Điều tra viên trong việc xác định kế hoạch điều tra, thu thập và
3
đánh giá chứng cứ; việc đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật trong nhiều
vụ án còn chưa thống nhất; tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn chiếm
tỷ lệ cao, nhiều vụ án trả nhiều lần dẫn đến thời hạn giải quyết bị kéo dài;
nhiều vụ án kéo dài thời hạn giải quyết do phải chờ kết luận giám định tư
pháp… Những tồn tại, hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
điều tra và hoạt động thực hành quyền công tố đối với các vụ án tham ô tài
sản. Những hạn chế tồn tại nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau; trong
đó nguyên nhân cơ bản là nhận thức về công tác thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân còn thiếu đầy đủ và chưa thống nhất. Lý luận về công
tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chưa
được nghiên cứu có hệ thống, toàn diện. Thực tiễn công tác thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trong đó có các vụ án tham ô tài
sản chưa được chú trọng sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thường xuyên.
Với mục đích tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Đảng, Nhà
nước và nhân dân giao phó; từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài
“Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài
sản từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn thạc sỹ luật học, nhằm đáp ứng
cả về phương diện lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản tại Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
vấn đề thực hành quyền công tố và tội phạm tham ô tài sản. Điển hình như:
- Luận án Tiến sĩ luật: “Thực trạng, nguyên nhân các biện pháp đấu
tranh phòng chống tội phạm về tham nhũng” của tác giả Trần Công Phàn-Phó
Viện trưởng VKSND tối cao, bảo vệ tại Viện nhà nước và pháp luật năm
2004.
4
- Luận văn thạc sĩ luật: “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham
nhũng” của tác giả Nguyễn Thế Anh, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ luật: “Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm
tham nhũng” của tác giả Trần Anh Tuấn, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006.
- Luận văn thạc sĩ luật: “Cơ sở lí luận, thực tiễn xây dựng và hoàn thiện
bộ máy phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Vũ Việt
Phương, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
năm 2007.
Ngoài ra còn nhiều bài viết của các tác giả đăng trên tạp chí ngành kiểm
sát và nhiều chuyên đề nghiệp vụ như: “VKSND các cấp cần tập trung làm
tốt việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra” của TS. Trần Công Phàn, đăng trên Tạp chí Kiểm sát
số 8-2012; “Kết quả nghiên cứu tình hình tội phạm tham nhũng và một số
giải pháp đấu tranh phòng, chống” của TS. Nguyễn Xuân Hà và Th.sỹ Hoàng
Thành Nam, đăng trên Thông tin khoa học kiểm sát tập 5 năm 2017; “Kinh
nghiệm và bài học trong giải quyết các vụ án tham nhũng, kinh tế, chức vụ
đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp” của TS. Nguyễn Huy Tiến, đăng trên Tạp trí
Kiểm sát số 06-2019;
Kết quả nghiên cứu của các đề tài, bài viết trên đã được đưa vào vận dụng
trong thực tiễn và đã mang lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên, tại địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, dưới góc độ lý luận, chưa có nghiên cứu nào đi sâu về thực trạng của
công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các vụ án tham ô tài sản.
Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu bởi công tác đấu tranh phòng, chống
các loại tội phạm trong đó có tội phạm tham ô tài sản ngoài đặc điểm chung thì ở
từng địa phương, mỗi vụ án lại có những đặc điểm riêng như tính chất, mức độ,
phương thức, thủ đoạn phạm tội, điều kiện kinh tế, xã hội...
5
Hơn nữa, tỉnh Quảng Ninh hiện là một trong những địa bàn tội phạm
tham ô tài sản diễn biến phức tạp và hiện quá trình giải quyết các vụ án về tội
phạm tham ô tài sản tiếp tục nảy sinh những vấn đề vướng mắc mới. Vì vậy,
việc nghiên cứu đề tài sẽ có ý nghĩa thiết thực trong công tác phòng, chống tội
tham ô và tiếp tục nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra tài sản đối với tội phạm tham ô tài sản của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích: Luận văn phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về thực
hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản. Đánh giá
thực trạng và đề xuất các giải pháp bảo đảm, nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản tại Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Về nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về quyền
công tố, thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
như khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền công tố và thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra. Đặc điểm, căn cứ pháp lý và các giai đoạn thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản.
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động, kết quả đạt được của VKSND
tỉnh Quảng Ninh trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra các tội
phạm tham ô tài sản. Đồng thời, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên
nhân; trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cụ thể để khắc phục hạn chế, khó
khăn, vướng mắc, nhằm đảm bảo đảm, nâng cao chất lượng THQCT ở giai
đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản tại VKSND tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận,
pháp luật và thực tiễn về hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
6
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động THQCT trong
giai đoạn điều tra đối với các tội phạm tham ô tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh trong 05 năm, từ năm 2014 đến năm 2018, trên cơ sở quy định
của Bộ luật Hình sự năm 1999 và năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 và năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật xã hội
chủ nghĩa, về mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ
nghĩa; các quan điểm, đường lối của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp thể
hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị; các chính sách, pháp luật của Nhà
nước và chỉ đạo của ngành Kiểm sát nhân dân về đấu tranh phòng, chống tội
phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội phạm tham ô tài sản nói riêng.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của khoa học Luật hình sự,
Luật tố tụng hình sự và cách tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp
nghiên cứu của Triết học Mác - Lênin và các khoa học chuyên ngành khác,
trong đó chú trọng đến phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn: Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về hoạt
động của VKSND trong THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài
sản; hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội tham ô tài sản. Các nghiên cứu
của luận văn là nguồn tư liệu mang tính lý luận và thực tiễn, có thể làm cơ sở
cho việc nhận thức thống nhất pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng khi
giải quyết các vụ án tham ô tài sản.
7
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Làm rõ thêm khái niệm, đối tương, phạm vi
và nội dung của Quyền công tố và THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô tài sản của VKSND; phân tích đánh giá ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân của hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài
sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; nêu quan điểm, đề xuất các giải pháp, kiến
nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra
các tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và
tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu của các cơ quan tiến hành tố tụng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài các phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo,
danh mục những từ viết tắt, nội dung của luận văn gồm có 03 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản.
Chương 2: Thực trạng công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra tội phạm tham ô tài sản ở VKSND tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản ở VKSND tỉnh
Quảng Ninh.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN
1.1. Khái niệm Quyền công tố và Thực hành Quyền công tố
1.1.1. Khái niệm Quyền công tố
“Công tố” có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ có hành vi phạm
pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án”. Do vậy Công tố được hiểu là nhân danh
Nhà nước để cáo buộc, buộc tội người đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm
trước Tòa án. Ở nước ta, quyền công tố và THQCT gắn với chức năng của
VKSND. Hiến pháp năm 1980, 1992, 2013 và Luật tổ chức VKSND năm
1981, 2002, 2014 đều đề cập đến quyền công tố và quy định rõ: “Viện kiểm
sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp... Tuy
nhiên, khái niệm về Quyền công tố còn có các quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Các hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đều là hoạt động thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát”. Quan điểm này đánh đồng quyền công tố
với kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát các hoạt động tư pháp) của
VKSND. Nhận thức như trên về quyền công tố là chưa đúng, vì chức năng
công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp (kiểm sát việc tuân theo
pháp luật) là hai chức năng độc lập, riêng biệt của VKSND đã được Hiến
pháp quy định. Trong quá trình thực hiện các khâu công tác kiểm sát, chức
năng công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND luôn
song hành, tác động, bổ trợ chặt chẽ với nhau.
Quan điểm thứ hai cho rằng “Quyền công tố là nhân danh Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật, người thực hiện hành vi phạm pháp luật
ra Tòa án để xét xử”. Theo nhận thức này, quyền công tố xuất hiện và gắn với
Nhà nước và Pháp luật, là quyền lực mà Nhà nước giao cho VKSND thực
9
hiện chức năng, nhiệm vụ để thực thi pháp luật và các hoạt động tố tụng trong
lĩnh vực tư pháp (bao gồm lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính và các lĩnh
vực tố tụng khác. Nếu theo quan điểm này nội dung, phạm vi của quyền công
tố của VKSND quá rộng, bao gồm cả trong lĩnh vực tố tụng hình sự cũng
nhưc lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, hành chính.
Quan điểm thứ ba cho rằng “Quyền công tố là quyền lực của Nhà nước
giao Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc buộc tội hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội”. Theo quan điểm này, quyền công tố
là quyền buộc tội của VKSND nhân danh Nhà nước đối với người thực hiện
hành vi phạm tội và được tiến hành trong lĩnh vực tố tụng hình sự. VKSND
có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập chứng cứ, tài liệu nhằm chứng minh,
quy kết hành vi phạm tội; thực hiện quyền năng truy tố người phạm tội, buộc
tội người phạm tội để đề nghị Tòa án tuyên áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội theo luật định.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba nhận thức về khái niệm quyền
công tố, vì quan điểm này đã khẳng định được quyền công tố là quyền lực của
Nhà nước, giao cho một cơ quan nhà nước là VKSND nhân danh Nhà nước để
buộc tội đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự (tội phạm); đồng
thời cũng xác định quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội; truy tố và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa. Quan điểm này thể
hiện quan điểm của Đảng qua các thời kỳ về xây dựng thể chế Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và chủ trương về cải cách nền tư pháp Việt Nam.
Khái niệm Quyền công tố: Là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
buộc tội, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, bảo đảm quá
trình thu thập tài liệu, chứng cứ đầy đủ, khách quan, toàn diện để chứng minh
tội phạm, từ đó quyết định việc truy tố người phạm tội và bảo vệ việc buộc tội đó
trước Tòa án.
10
Đối tượng của quyền công tố: Hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác
nhau về đối tượng quyền công tố.
Với quan điểm quyền công tố so với với chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp là đồng nhất thì đối tượng của quyền công tố là sự chấp hành
pháp luật, tuân thủ trình tự luật định của những người tham gia tố tụng, người
tiến hành tố tụng và của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, về bản
chất, kiểm sát việc tuân theo pháp luật (hay còn được hiểu là kiểm sát các
hoạt động tư pháp) và quyền công tố là hoàn toàn khác nhau. Bản chất của
kiểm sát việc tuân theo pháp luật là việc kiểm tra, giám sát tính có căn cứ và
tính hợp pháp, còn bản chất của quyền công tố là trừng phạt những hành vi
phạm tội.
Với quan điểm hiểu quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh Nhà
nước để đưa các vụ việc, đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật ra trước Tòa
án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh,
thống nhất thì đối tượng của quyền công tố được coi là các hành vi vi phạm
pháp luật mà Nhà nước đã quy định. Nếu hiểu theo cách này thì đối tượng của
quyền công tố tức là các hành vi vi phạm pháp luật rất rộng, không chỉ xảy ra
trong lĩnh vực hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực như dân sự, hành
chính, kinh tế…
Với quan điểm xác định quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có hành vi vi phạm pháp
luật bị xác định là tội phạm và quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
buộc tội đối với người phạm tội, thì đối tượng của quyền công tố là tội phạm
và người phạm tội. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, do đó Nhà nước phải đại diện xã hội
11
chứng minh tội phạm và trừng trị người phạm tội bằng các quy định do chính
Nhà nước quy định. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba cho rằng đối
tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội.
Nội dung của quyền công tố: Từ việc đồng tình với quan điểm quyền công
tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, đối tượng của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội, tác giả đồng tình với quan điểm: “Nội dung của quyền công tố
là quá trình thực hiện buộc tội đối với người phạm tội (người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội) và bảo vệ việc buộc tội đó trước Tòa án ”. Trong các hoạt
động tố tụng hình sự luôn tồn tại các chức năng: buộc tội (truy cứu trách nhiệm
hình sự), gỡ tội (bào chữa), kết tội (xét xử, tuyên án). Chức năng buộc tội chính
là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người hoặc pháp nhân thực
hiện hành vi bị coi là tội phạm. Cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng
buộc tội có thẩm quyền, trách nhiệm đưa ra các luận điểm, chứng cứ để quy kết,
cáo buộc tội phạm.
Phạm vi quyền công tố: Như vậy, quyền công tố là quyền lực Nhà nước,
được trao cho VKSND bằng việc quy định trong Hiến pháp và pháp luật. Hiện
nay cũng còn nhiều quan điểm khác nhau về phạm vi quyền công tố:
Về phạm vi không gian: Có nhiều quan điểm cho rằng quyền công tố
không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực khác
như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính... Tuy nhiên, với quan điểm xác định
quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh Nhà nước để thực hiện việc buộc tội,
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, tác giả đồng tình với quan
điểm quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Về phạm vi thời gian (tức thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công
tố): Hiện nay cũng còn nhiều quan điểm: Quan điểm thứ nhất cho rằng “Phạm vi
quyền công tố được bắt đầu từ khi Cơ quan điều tra kết thúc việc điều tra tội
phạm, Viện kiểm sát thụ lý vụ án và ban hành quyết định truy tố người phạm tội
12
ra trước Tòa án và kết thúc khi Tòa án xét xử, tuyên bản án có hiệu lực pháp
luật đối với người bị buộc tội”. Nếu hiểu theo cách này thì phạm vi quyền công
tố sẽ chỉ có ở giai đoạn truy tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án; phạm vi
quyền công tố bị thu hẹp không đánh giá được hoạt động quyền công tố trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Quan điểm thứ hai cho rằng “Phạm vi
quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi người phạm tội
chấp hành xong bản án do Tòa án tuyên”. Theo quan điểm này, quyền công tố là
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đến cùng đối với người phạm tội; quyền
công tố chỉ kết thúc khi người phạm tội chấp hành xong bản án có hiệu lực pháp
luật; cách hiểu này quá rộng và không cụ thể về nội dung, đối tượng, phạm vi
của quyền công tố. Quan điểm thứ ba cho rằng “Phạm vi quyền công tố được bắt
đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án của Tòa án đã tuyên đối với
người phạm tội có hiệu lực pháp luật”. Theo quan điểm này khi hành vi phạm
tội xảy ra, các cơ quan đại diện cho Nhà nước và được Nhà nước giao thực hiện
chức năng, thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội phải tiến
hành các hoạt động tố tụng theo luật định nhằm phát hiện, thu thập tài liệu,
chứng cứ để chứng minh, xác định tội phạm và người phạm tội, làm cơ sở để
buộc tội và kết tội người phạm tội. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ ba về
phạm vi quyền công tố bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước để buộc tội,
truy cứu TNHS đối với người phạm tội nên phải bắt đầu từ khi tội phạm được
thực hiện và chỉ kết thúc khi người phạm tội bị trừng phạt bằng bản án đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân danh Nhà nước. Bộ luật tố tụng hình sự 2015
quy định Quyền công tố được bắt đầu từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về
tội phạm cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật; theo đó, VKSND được đại
diện cho Nhà nước thực hiện quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng như: giải
quyết nguồn tin về tội phạm (khi tội phạm được thực hiện), khởi tố và điều tra vụ
án, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
13
1.1.2. Khái niệm Thực hành quyền công tố
Nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong nhận thức về THQCT
và hoạt động thực tiễn, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận, tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân, Hiến pháp năm 2013 và Luật
Tổ chức VKSND năm 2014 đã thể chế hóa các chủ trương cải cách tư pháp
của Đảng, xác định rõ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản
của VKSND trong đó có chức năng THQCT. Trong hệ thống các cơ quan tư
pháp, Đảng và Nhà nước ta giao cho VKSND là cơ quan duy nhất thực hiện
chức năng quyền công tố để buộc tội, truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm
tội và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức
VKSND năm 2014 và Bộ luật TTHS năm 2015 đều quy định: Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật; Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong
tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án..., nhằm
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố điều tra,
truy tố, xét xử thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Theo đó, hoạt động
THQCT luôn gắn liền với việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội;
THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội, đại diện Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm.
THQCT là quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp
luật TTHS để truy cứu TNHS người phạm tội, buộc tội và đưa người phạm tội ra
xét xử trước Tòa án. Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong
giai đoạn tố tụng hình sự đại điện cho Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối
với người hoặc pháp nhân phạm tội, được thực hiện từ khi giải quyết nguồn
tin về tội phạm cũng như trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự.
14
Do đó, quyền công tố và THQCT là hai khái niệm khác nhau về cơ bản
theo nội hàm, bản chất của nó. Khi nói đến Quyền công tố phải hiểu là quyền
của Nhà nước, đại diện cho Nhà nước để thực hiện việc truy cứu TNHS, buộc
tội đối với người hoặc pháp nhân phạm tội, đó là phạm trù lý luận. Còn khi
nói đến THQCT phải hiểu đây là một phạm trù thực tiễn, đó là quá trình tiến
hành và tổ chức thực hiện quyền công tố.
Xác định chính xác phạm vi THQCT có ý nghĩa quan trọng, bởi chỉ khi
xác định đúng phạm vi của nó thì quá trình tiến hành thực hiện THQCT thì mới
đảm bảo hiệu quả. Có quan điểm cho rằng “phạm vi THQCT bắt đầu từ khi
khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng cáo kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự”. Theo Tiến sĩ Lê Hữu Thể (nguyên Phó Viện trưởng VKSND
tối cao) thì THQCT là việc VKSND sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
Tác giả cho rằng quan điểm trên có những điểm chưa hợp lý, còn thể hiện dưới
dạng khái quát, có phạm vi quá hẹp, đồng thời cũng chưa nêu được bản chất của
hoạt động thực hành quyền công tố so với các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Quan điểm này chỉ đưa ra được bản chất của hoạt động THQCT là thực hiện
việc “buộc tội” của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội. Nếu chỉ để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội thì Cơ quan điều tra hay Toà án cũng có thể tiến hành các hoạt động tố tụng
để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tuy
nhiên theo quy định pháp luật TTHS hiện hành, trong quá trình giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền có
quyền tiến hành một số hoạt động xác minh, điều tra như: lấy lời khai, khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và áp dụng một số biện pháp hạn chế
quyền con người, quyền công dân như: bắt, tạm giữ người trong trường hợp
15
khẩn cấp, phạm tội quả tang; gia hạn tạm giữ, thu giữ, tạm giữ các đồ vật, tài
liệu… những hoạt động này được tiến hành trước khi khởi tố vụ án và theo
Điều 165 BLTTHS thì khi THQCT trong giai đoạn điều tra VKSND có nhiệm
vụ phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT, trong đó việc
phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ của
CQĐT được VKS thực hiện khi chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can có nghĩa là
hành vi đó mới có dấu hiệu của tội phạm, cần xác minh làm rõ để có căn cứ khởi
tố hay quy định VKSND có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát toàn
bộ các hoạt động của CQĐT ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm,
chứ không phải sau khi đã khởi tố vụ án hình sự; VKS còn có quyền trực tiếp
giải quyết mọi nguồn tin về tội phạm trong trường hợp phát hiện có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu
nhưng không được CQĐT khắc phục. Phạm vi THQCT cũng cần phải được
hiểu rộng hơn, tức là từ khi tội phạm xảy ra, từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố chứ không phải từ giai đoạn khởi tố
điều tra. Như vậy phạm vi THQCT bắt đầu từ khi tiếp nhận, giải quyết tin báo tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật.
1.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô tài sản
1.2.1. Đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra các vụ án tham ô tài sản
- Đối tượng THQCT: THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
ô tài sản là các hoạt động đại diện cho Nhà nước tiến hành việc buộc tội đối
với người thực hiện hành vi phạm tội tham ô tài sản, bảo đảm việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có căn cứ pháp luật, bảo đảm mọi
hành vi phạm tội tham ô tài sản đều được phát hiện và khởi tố, điều tra, trừng
trị kịp thời theo đúng quy định của pháp luật.
16
- Phạm vi THQCT: Phạm vi quyền công tố đồng nhất với THQCT có
nghĩa là phạm vi bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án. Quá trình giải
quyết vụ việc tham ô tài sản được tiến hành bởi các giai đoạn tố tụng độc lập
khác nhau như: giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố vụ án hình sự, điều
tra vụ án hình sự, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trong đó điều tra là giai đoạn
thứ hai được tiến hành sau khi khởi tố vụ án hình sự mà trong đó các cơ quan
có thẩm quyền điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
và dưới sự kiểm sát của VKSND tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu
thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, để xác định tội phạm và người phạm tội,
làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án. Hoạt động công tố phải được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi
thi hành nhiệm vụ (Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2012 của Bộ Chính trị). Như
vậy, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
ô tài sản được bắt đầu từ khi quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi
cơ quan điều tra có thẩm quyền ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố
các bị can hoặc đình chỉ vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
vụ án tham ô tài sản
Việc xác định nội dung THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
ô tài sản có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định hoạt động nào thuộc THQCT,
hoạt động nào thuộc kiểm sát hoạt động tư pháp (kiểm sát việc tuân theo pháp
luật). Hoạt động THQCT gắn bó mật thiết, song hành với kiểm sát hoạt động
tư pháp; hoạt động này sẽ tạo cơ sở để hoạt động kia được thực hiện và khi
thực hiện tốt hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ tác động ngược trở lại
hoạt động THQCT, giúp cho hoạt động THQCT được chính xác, đảm bảo
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nội dung của hoạt động THQCT là
17
việc sử dụng những quyền hạn pháp lý do pháp luật TTHS quy định để phát
hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và tội phạm. Các hoạt
động của VKSND nhằm phục vụ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc
tội) thì sẽ thuộc nội dung THQCT. Nội dung THQCT trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự nói chung và đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng là
việc Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng và tiến hành các hoạt động sau:
“1. Yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. 2. Phê chuẩn hoặc hủy bỏ
quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
không có căn cứ và trái pháp luật.3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can trong các trường hợp do Bộ luật này quy
định. 4. Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các
quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy
định của Bộ luật này; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái
pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong
quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do. 5. Quyết định áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy
định của Bộ luật này. 6. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành
điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy
nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. 7. Trực tiếp tiến hành
một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu,
chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan
18
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trường hợp
phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện
kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục hoặc trường
hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố. 8. Khởi
tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố,
điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự
khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu
hiệu tội phạm. 9. Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm
giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp
bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án ” (Điều 165 Bộ luật
TTHS năm 2015).
Theo quy định của pháp luật TTHS ở Việt Nam, quá trình tiến hành tố
tụng vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn độc lập khác nhau (giải
quyết nguồn tin về tội phạm, KTVAHS, điều tra vụ án hình sự, truy tố người
phạm tội, xét xử và thi hành án), ở mỗi giai đoạn đều quy định cụ thể quyền
năng của các CQTHTT kiểm soát và chế ước lẫn nhau; trong đó chức năng,
quyền hạn THQCT trong tố tụng hình sự được giao cho VKSND. Giai đoạn
điều tra có nhiệm vụ thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm và người phạm
tội, làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, nhân thân người phạm tội tạo điều kiện
cần thiết cho việc giải quyết vụ án; tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội,
yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và
phòng ngừa tội phạm; góp phần phổ biến và giáo dục ý thức pháp luật cho
quần chúng nhân dân. Do giai đoạn điều tra có vị trí, vai trò như nêu trên nên
việc xác định đúng phạm vi THQCT của VKS trong giai đoạn này là cần
thiết.
19
1.2.3. Khái niệm tội phạm tham ô tài sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 đưa ra khái
niệm của tội phạm như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Đối với tội tham ô, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là dấu hiệu quan
trọng nhất để xác định hành vi chiếm đoạt tài sản có phải là hành vi phạm tội
tham ô hay là hành vi phạm tội khác. Người phạm tội tham ô phải là người có
chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm quản lý đối với tài sản mà họ chiếm đoạt.
Vấn đề xác định tư cách chủ thể đối với tham ô tài sản, ngoài chức vụ mà họ có
do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng
lương hoặc không hưởng lương thì điều quan trọng là những người này có được
giao thực hiện một công vụ, nhiệm vụ hay không? Theo BLHS năm 2015 thì
người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước
cũng là chủ thể của tội tham ô tài sản. Quy định này chỉ phù hợp với các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước là những doanh nghiệp, tổ chức cổ phần, còn
đối với doanh nghiệp tư nhân thì khó truy cứu trách nhiệm hình sự vì không ai
lại chiếm đoạt tài sản của mình cả. Khách thể của tội phạm tham ô tài sản trực
tiếp xâm phạm hai quan hệ xã hội đó là: xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và xâm phạm quan hệ sở hữu. Mặt
khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu: Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn tức là người phạm tội sử dụng quyền hạn do chức trách, nhiệm vụ,
công tác được giao như là một phương tiện phạm tội để thực hiện không đúng
chức trách của mình hoặc làm trái các quy định về chế độ quản lý tài sản thuộc
20
lĩnh vực công tác mà mình phụ trách hoặc quản lý để biến tài sản của Nhà nước
thành tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt tài sản có thể thực hiện công khai, có
thể thực hiện bí mật. Thông thường là để che dấu hành vi chiếm đoạt người
phạm tội thường có hành vi sửa chữa sổ sách, chứng từ, lập chứng từ giả mạo,
tạo hiện trường giả, tiêu huỷ hoá đơn, chứng từ…; các thủ đoạn này có thể thực
hiện trước, trong hoặc sau khi chiếm đoạt tài sản. Chủ thể của tội phạm phải thoả
mãn đầy đủ 2 điều kiện đó là: Người phạm tội phải là người có chức vụ, quyền
hạn và là người có trách nhiệm quản lý tài sản. Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi
cố ý trực tiếp. Nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội phạm tham ô tài sản có ý
nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn; có nghiên cứu xem xét đầy
đủ, khoa hoạc các dấu hiệu pháp lý nhất là mặt khách quan và chủ quan của tội
phạm, mới giúp cho hoạt động của Kiểm sát viên trong công tác thực hành
quyền công tố ở giai đoạn điều tra tội phạm tham ô đảm bảo chính xác, đúng
người, đúng tội, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm. Như vậy, tội phạm tham ô tài
sản là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do
người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ; là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có chức vụ thực hiện trong khi thi hành
công vụ, nhiệm vụ và là những vụ việc phạm pháp có dấu hiệu của tội phạm do
người có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý, chiếm đoạt tài sản được
giao quản lý, bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về hình sự theo quy định của
pháp luật.
1.2.4. Khái niệm THQCT trong giai đoạn điều tra
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự
mà trong đó cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của VKSND tiến hành các biện pháp cần thiết
nhằm thu thập và củng cố chứng cứ; nghiên cứu, đánh giá các tình tiết của vụ án
hình sự; phát hiện kịp thời và đầy đủ tội phạm, cũng như người hoặc pháp nhân
thực hiện tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, làm cơ sở cho việc giải
21
quyết vụ án. Nếu có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi có
dấu hiệu của tội tham ô tài sản thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án,
khởi tố bị can. Để thu thập chứng cứ làm rõ những vấn đề phải làm sáng tỏ, phải
chứng minh trong vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền điều tra được tiến hành
các hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Để Viện kiểm
sát có thể truy tố đúng người phạm tội, Toà án có thể xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật thì trong giai đoạn điều tra phải thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ buộc tội và gỡ tội. Trong thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra có thẩm
quyền khi kết thúc điều tra phải ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố
các bị can hoặc quyết định đình chỉ điều tra vụ án, bị can theo luật định.
Như vậy, điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm
quyền điều tra áp dụng các biện pháp do luật định để làm rõ những vấn đề cần
phải chứng minh trong vụ án án hình sự, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án tham ô tài sản là
hoạt động theo hướng buộc tội của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện
việc buộc tội của Nhà nước đối với bị can thực hiện hành vi tham ô tài sản.
1.2.5. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội
phạm tham ô tài sản
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài
sản là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực
hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội tham ô tài sản, được
thực hiện từ khi quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi cơ quan điều
tra có thẩm quyền ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố các bị can
hoặc đình chỉ vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
1.3. Những hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các tội phạm tham ô tài sản
Thứ nhất, khởi tố vụ án hình sự: Khi đủ căn cứ xác định có hành vi phạm
tội xảy ra, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Cơ quan Nhà nước có thẩm
22
quyền khởi tố vụ án hình sự; đồng thời, VKSND bắt đầu tiến hành các hoạt động
THQCT để chứng minh tội phạm tội phạm và bảo đảm việc khởi tố vụ án hình
sự có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai. Nếu trường hợp có đủ căn cứ khởi
tố vụ án mà CQĐT có thẩm quyền không khởi tố, VKS có quyền ra quyết định
khởi tố vụ án và chuyển cho CQĐT tiến hành điều tra. Bên cạnh việc KTVAHS,
Điều 157 BLTTHS năm 2015 quy định căn cứ không được khởi tố vụ án. Theo
đó VKS sẽ ra quyết định không KTVAHS khi: Không có sự việc phạm tội;
Hành vi không cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà hành vi phạm tội
của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm
đối với người khác; Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136,
138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người
đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Vai trò của VKS trong việc KTVAHS là quan trọng; các quyết định
KTVAHS của CQĐT có thẩm quyền chỉ hợp pháp và có hiệu lực khi có quan
điểm thống nhất của VKS. Bởi nếu quyết định KTVAHS của CQĐT không có
căn cứ, VKS có quyền hủy bỏ quyết định đó theo quy định. Khởi tố vụ án là giai
đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng, có ý nghĩa quyết định đến việc có hay không
có vụ án tham ô tài sản, làm cơ sở cho hoạt động tiếp theo của quá trình tố tụng.
Đây là giai đoạn thể hiện vai trò, vị trí, chức năng của VKSND trong tố tụng
hình sự được quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014, Điều 112,
Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Thứ hai, khởi tố bị can: Khi có căn cứ xác định người thực hiện hành vi có
dấu hiệu phạm tội thì CQĐT có thẩm quyền tiến hành KTBC. VKS tiến hành
phê chuẩn quyết định KTBC hoặc nếu thấy không có căn cứ thì hủy bỏ quyết
định đó. VKS chỉ ra quyết định KTBC khi phát hiện có người đã thực hiện
23
hành vi phạm tội, Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi
tố bị can nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện.
Ngay từ ban đầu, VKSND phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự trong việc xem xét phê chuẩn bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, lệnh tạm giam, căn cứ khởi tố vụ án hình sự, căn cứ khởi tố bị can.
Thực tiễn các hành vi tham ô tài sản được phát hiện điều tra, truy tố, xét xử là
hành vi chiếm đoạt tài sản của Nhà nước trong đó chủ thể đã cố ý thực hiện hành
vi làm trái nguyên tắc tài chính, quyết định hoạt động kinh tế của đơn vị thông
qua việc ký và thực hiện các hợp dồng kinh tế, thương mại; do vậy, để xác định
chính xác phương thức, thủ đoạn phạm tội ngoài các yếu tố cấu thành tội phạm
được quy định cụ thể tại Điều 353 của Bộ luật hình sự, cần đối chiếu để chọn lựa
các đạo luật cơ bản đã ban hành để chỉ dẫn yếu tố “lỗi” có tính chất thực hiện
một cách “cố ý” nhằm để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, tổ chức thông qua
chức vụ, quyền hạn của mình được giao quản lý tài sản. Ngoài các vấn đề về chủ
thể, khách thể để chứng minh xác định hành vi tham ô tài sản cần điều tra làm
rõ: Xác định người thực hiện hành vi phạm tội tham ô tài sản; Thu thập chứng
cứ để chứng minh thời điểm người phạm tội hoàn thành việc chiếm đoạt tài sản;
Kiểm sát viên trong quá trình được phân công thực hành quyền công tố cần xây
dựng, đề ra nội dung yêu cầu điều tra vụ án, yêu cầu định giá tài sản, giám định
tài chính để xác định thiệt hại và chú trọng các biện pháp thu hồi tài sản tham ô.
- Xác định rõ yếu tố “chức vụ, quyền hạn” của người có dấu hiệu sai
phạm đã có hành vi chỉ đạo, quyết định làm trái nguyên tắc tài chính, nguyên tắc
quản lý kinh tế cụ thể gì? Hậu quả của việc làm trái đó đã gây thiệt hại chi tài sản
của Nhà nước, tổ chức hay chưa. Có hay không có yếu tố chiếm hưởng cá nhân
tài sản.
- Đối với loại hình doanh nghiệp có phần góp vốn của Nhà nước cần xem
xét kỹ yếu tố “Nhà nước” trong doanh nghiệp đó được thể hiện tại Giấy đăng
ký kinh doanh; thời điểmcó dấu hiệu sai phạm thì Nhà nước chiếm giữ vốn điều
24
lệ bao nhiêu và nội dung sai phạm đó liên quan đến người có “chức vụ, quyền
hạn” cụ thể như thế nào; trách nhiệm sai phạm thuộc về chủ thể nào trong doanh
nghiệp; cần thiết phải yêu cầu trưng cầu giám định tài chính để có căn cứ pháp lý
xác định khách thể bị xâm hại để xem xét khởi tố điều tra.
Thứ ba, yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định KTVAHS, KTBC:
Khi vụ án đang được điều tra nếu phát hiện người phạm tội chưa bị khởi tố thì
VKS yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự. VKS yêu cầu CQĐT thay đổi hoặc
bổ sung quyết định KTVA, KTBC nếu trong quá trình điều tra hoặc khi đã kết
thúc điều tra có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi
phạm tội; hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã khởi tố hoặc còn
có tội phạm khác; có căn cứ xác định còn có người khác thực hiện hành vi phạm
tội trong vụ án. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay
đổi hoặc bổ sung quyết định KTVAHS, KTBC theo Điều 156 và 180 BLTTHS
năm 2015 và Điều 12, Điều 14 Quy chế tạm thời công tác THQCT, kiểm sát
việc khởi tố, điều tra, truy tố (ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC
ngày 29/12/2017 của VKSND tối cao) và Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-
VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 quy định về phối hợp giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Thứ tư, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để
làm rõ tội phạm, người phạm tội hoặc trực tiếp tiến hành điều tra khi cần thiết:
Để đảm bảo THQCT có hiệu quả, pháp luật quy định VKS có quyền đề ra yêu
cầu điều tra. Đó là những yêu cầu về vấn đề cần điều tra làm rõ, tài liệu chứng cứ
cần thu thập, được hiểu là mệnh lệnh của cơ quan công tố đối với CQĐT. Ngay
sau khi vụ án được khởi tố, VKS phải đề ra yêu cầu điều tra cho CQĐT để xác
định chứng cứ về hành vi phạm tội của bị can hay mở rộng điều tra vụ án.
CQĐT có trách nhiệm thực hiện yêu cầu này.
25
Thứ năm, Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn:
Thực hiện chức năng THQCT, VKSND có trách nhiệm bảo đảm việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn như tạm giam, tạm giữ, bão
lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền để bảo đảm có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật. VKS kịp thời ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong trường
hợp khi thấy không cần thiết. Pháp luật quy định cho CQĐT có quyền ra các
quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác phục
vụ cho việc điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ, ngăn chặn người phạm tội tiếp
tục phạm tội, tiêu hủy chứng cứ. Nhưng đối với các biện pháp ngăn chặn trực
tiếp làm hạn chế quyền tự do của công dân như bắt khẩn cấp, bắt tạm giam, gia
hạn tạm giữ, gia hạn tạm giam phải được VKS phê chuẩn. Nếu VKS thấy không
có căn cứ hợp pháp và không phê chuẩn thì các biện pháp ngăn chặn đó bị hủy
bỏ, người bị hạn chế quyền tự do phải được trả tự do ngay. Những quy định trên
nhằm nâng cao trách nhiệm của VKS trong việc bảo đảm quyền tự do của công
dân, đồng thời bảo đảm cho VKS thực hiện tốt chức năng THQCT trong giai
đoạn điều tra của mình...
Như vậy nội dung THQCT của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án tham ô
tài sản theo quy định tại Điều 165 BLTTHS xuyên suốt từ khi khởi tố vụ án đến
khi cơ quan điều tra có thẩm quyền ban hành bản kết luận điều tra đề nghị
truy tố các bị can hoặc đình chỉ vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Xuất phát từ những nhận thức chung trong chức năng, nhiệm vụ của
VKSND theo quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố các vụ án
tham ô tài sản trong giai đoạn điều tra; cũng như thực tiễn hoạt động THQCT
đối với loại tội phạm tham ô tài sản trong thời gian qua, nhận thấy hoạt động
này có một số hoạt động sau:
- Trong hoạt động kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can:
Kiểm sát viên khi được phân công THQCT vụ án tham ô tài sản luôn chủ
động giám sát hoạt động điều tra ngay từ khi giải quyết nguồn tin về tội
26
phạm; nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều
tra chuyển sang đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn. Đặc trưng của tội phạm
tham ô tài sản là người phạm tội đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình
trong thực thi công vụ, nhiệm vụ để làm trái pháp luật vì vụ lợi, nhằm chiếm
đoạt tài sản mình được giao quản lý. Thực tiễn, mặt trái của nền kinh tế thị
trường phát triển cũng làm gia tăng việc phân tầng xã hội, phân hoá giàu
nghèo và mức chi tiêu giữa các vùng, miền có chênh lệch rất lớn, trong khi đó
các chính sách phát triển và quản lý kinh tế-xã hội, chế độ lương và phụ cấp
còn thấp nên đã tác động rất lớn đến tư tưởng, đời sống của những người có
chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Một số người có chức
vụ, quyền hạn có lối sống tiêu cực, vì nhu cầu hưởng thụ cuộc sống cá nhân
mà thực hiện hành vi phạm tội tham nhũng để thu lợi, vụ lợi. Tội phạm tham
nhũng không chỉ xảy ra ở những địa phương có nền kinh tế phát triển, tỉ lệ đô
thị hoá cao mà còn xảy ra nhiều ở các địa phương kinh tế kém phát triển. Đối
tượng phạm tội đa số là Đảng viên, có học vấn cao, nhiều đối tượng có trình
độ đại học, trên đại học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, hoàn cảnh,
điều kiện kinh tế giàu có, có quan hệ xã hội rộng rãi. Đây là một trong những
loại tội phạm khó phát hiện, việc điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh hành
vi phạm tội để khởi tố, truy tố, xét xử gặp nhiều khó khăn. Tội phạm tham
nhũng khó được phát hiện và xử lý qua việc kiểm tra, thanh tra mà thường
được phát hiện, xử lý khi các đối tượng phạm tội có mâu thuẫn nội bộ. Các tội
phạm về tham nhũng nhất là tội tham ô tài sản xảy ra trong các ngành, các
lĩnh vực, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể, nhiệm vụ, chức trách,
tuỳ thuộc từng địa phương mà có phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng như
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Thủ đoạn thực hiện hành
vi tham nhũng rất đa dạng, phức tạp, tinh vi, khôn khéo, có sự bàn bạc, móc
lối giữa nhiều đối tượng có liên quan trong hoạt động công vụ. Các đối tượng
phạm tội về tham nhũng thường lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong công
27
tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý kinh tế cũng như sự không đồng
bộ về chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự buông lỏng trong công tác thanh
tra, kiểm tra để thực hiện hành vi phạm tội và che dấu tội phạm. Tội phạm
tham nhũng thường diễn ra theo quá trình lâu dài, đối tượng luôn có ý thức
hợp thức hoá về hành vi phạm tội để tránh bị phát hiện.
- Trong hoạt động THQCT cần phải làm rõ những vấn đề cần chứng
minh trong các vụ án tham ô tài sản:
+ Chứng minh về chủ thể thực hiện hành vi phạm tội: Chủ thể của tội
phạm tham ô tài sản là chủ thể đặc biệt, phải là người có chức vụ, quyền hạn
và họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản. “Chức vụ, quyền hạn” là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành định
tội hoặc định khung của loại tội phạm này. Đây là dấu hiệu đặc trưng để phân
biệt tội tham ô với các loại tội phạm khác trong Bộ luật Hình sự. Để chứng minh
một người có phạm tội tham ô tài sản hay không cần phải làm rõ người đó có
chức vụ, quyền hạn hay không. Đây là yếu tố bắt buộc của tội phạm tham ô tài
sản. Tuy nhiên để người có chức vụ, quyền hạn có phạm tội tham ô tài sản hay
không, cần phải chứng minh làm rõ quyền của người có chức vụ, quyền hạn đó
với tài sản mà người đó chiếm đoạt. Điều 353 Bộ luật Hình sự (Tội tham ô tài
sản) quy định dấu hiệu chủ thể cấu thành tội phạm tham ô tài sản là người được
giao trực tiếp quản lý tài sản, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản do chính họ trực tiếp quản lý.
+ Chứng minh về tài sản bị chiếm đoạt: Hành vi khách quan của tội
tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản, có thể thực hiện công khai hoặc
lén lút, bí mật. Người phạm tội có thể thực hiện các hành vi: Sửa chữa sổ
sách, chứng từ, lập chứng từ giả, tiêu huỷ chứng từ, đốt tài sản… Để xác định
hành vi của một người có phạm tội tham ô hay không phải thoả mãn hai điều
kiện: Thứ nhất, tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản mà người phạm tội có
trách nhiệm quản lý, tức là người phạm tội có quyền chiếm hữu hợp pháp đối
28
với tài sản đó. Thứ hai, giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ 02 triệu đồng trở
lên; nếu tài sản bị chiếm đoạt giá trị dưới 02 triệu đồng thì phải thoả mãn điều
kiện: Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; Đã bị kết án về một
trong các tội quy định tại Mục 1 Chương 23 Bộ luật Hình sự năm 2015, chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm.
+ Về nguồn chứng cứ chứng minh tội tham ô tài sản: Lời khai của
người tố giác, người có liên quan đến vụ án; Lời khai của người thực hiện
hành vi tham ô tài sản; Các vật chứng liên quan đến vụ án tham ô tài sản; Kết
luận định giá, kết luận giám định của cơ quan chuyên môn…
Việc nghiên cứu đặc điểm nhân thân của những đối tượng phạm tội về
tham ô tài sản giúp Kiểm sát viên xác định được nhiệm vụ của hoạt động
THQCT và phạm vi những vấn đề phải chứng minh đối với từng đối tượng cụ
thể; đồng thời, giúp Kiểm sát viên có hành vi ứng xử phù hợp với từng loại
đối tượng, đồng thời lựa chọn và tiến hành những hoạt động phù hợp với đặc
điểm nhân thân, với vị trí xã hội của từng loại đối tượng, phù hợp với chính
sách hình sự của Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
tham ô tài sản. Bên cạnh đó, trong quá trình THQCT các tội phạm tham ô,
việc nghiên cứu tìm hiểu và nắm được thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm
giúp cho VKSND xác định được nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động THQCT
trong quá trình tố tụng, tương ứng với những tình huống, với từng đối tượng
trong từng vụ án cụ thể, nhằm thu thập được những thông tin phản ánh về tội
phạm, người phạm tội, tạo cơ sở cho các Kiểm sát viên chủ động yêu cầu
Điều tra viên nhanh chống thu thập chứng cứ làm rõ vụ án.
29
Tiểu kết Chương 1
Chương 1 tập trung phân tích, luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về
QCT và THQCT; về khái niệm vụ án về tham ô tài sản và khái niệm thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản; phân tích các
quan điểm khác nhau về QCT, THQCT của VKSND trong giai đoạn điều tra nói
chung và THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản nói
riêng, từ đó đưa ra quan điểm của người nghiên cứu về khái niệm này. Những
nhận thức chung về QCT và THQCT trong giai đoạn điều tra là cơ sở để tác giả
phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm và các giai đoạn của quá trình THQCT ở
giai đoạn điều tra của VKSND đối với các vụ án tham ô tài sản. Bên cạnh đó,
Luận văn cũng đi sâu phân tích các yêu cầu và điều kiện đảm bảo hoạt động
THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND, đặc biệt là
các bảo đảm pháp lý và đảm bảo về mặt tổ chức. Đây là những yếu tố quan trọng
để nâng cao chất lượng THQCT ở giai đoạn điều tra của VKSND đối với tội
phạm tham ô tài sản, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cuộc đấu tranh phòng, chống
tội phạm tham nhũng và công cuộc cải cách tư pháp trong tình hình hiện nay của
VKSND.
30
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN Ở VKSND
TỈNH QUẢNG NINH
2.1.Tình hình tội phạm tham ô trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là tỉnh thuộc trọng điểm kinh tế Bắc Bộ, có vị trí chiến
lược quan trọng, là cửa ngõ giao lưu quốc tế của cả nước và vùng Đông Bắc,
tiếp giáp với Trung Quốc cả trên bộ và trên biển với 1 cửa khẩu quốc tế, 2
cửa khẩu quốc gia, có nguồn tài nguyên phong phú, có Vịnh Hạ Long là di
sản thiên nhiên thế giới nên rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, rất
nhiều lợi thế để phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, du
lịch. Sau 30 năm đổi mới, nhất là 10 năm trở lại đây, Quảng Ninh đã đạt được
những thành tựu to lớn: Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên
địa bàn tỉnh được bảo đảm, quốc phòng - an ninh được giữ vững; công tác xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền được vững mạnh; quan hệ đối ngoại được
tăng cường; Kinh tế tiếp tục phát triển toàn diện, sức cạnh tranh được nâng
lên rõ rệt. Tăng trưởng kinh tế đạt mức cao so với mặt bằng chung cả nước;
quy mô và tiềm lực kinh tế tiếp tục tăng lên; sản xuất công nghiệp từng bước
phục hồi, giá trị ngành công nghiệp và xây dựng tăng trưởng cao; giảm dần tỷ
trọng công nghiệp khai khoáng và tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo và sản xuất, phân phối điện; hoạt động dịch vụ phát triển đa
dạng, tăng trưởng qua từng năm; hạ tầng du lịch tiếp tục được đầu tư nâng
cấp, tạo sức hút cho du khách đến Quảng Ninh; sản xuất nông nghiệp phát
triển ổn định, là 1 trong 5 tỉnh, thành phố dẫn đầu cả nước về xây dựng nông
thôn mới; văn hoá-xã hội được quan tâm hơn, đời sống nhân dân được cải
thiện... Quảng Ninh là tỉnh thuộc trọng điểm kinh tế Bắc Bộ, có vị trí chiến
lược quan trọng, là tỉnh có nhiều đặc thù, vừa là tiềm năng, cơ hội, lợi thế để
31
phát triển, vừa đặt ra những thách thức về công tác quản lý, tiềm ẩn nguy cơ
cao về an ninh, trật tự và nảy sinh tiêu cực, tham nhũng, tham ô. Trong giai
đoạn 05 năm từ năm 2014 đến năm 2018, công tác xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị của tỉnh được tập trung chỉ đạo, nổi bật với Đề án “Đổi mới
phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; thực hiện tinh giản bộ
máy, biên chế”; đóng góp quan trọng cho Trung ương trong xây dựng, thực
hiện Nghị quyết 18, 19 Hội nghị Trung ương 6 khóa XII. Từ những lợi thế về
địa lý và những tiềm năng tài nguyên của tỉnh, với sự lãnh đạo của Đảng bộ,
chính quyền tỉnh, kinh tế Quảng Ninh luôn tăng trưởng ở mức cao; thu ngân
sách thuộc nhóm đứng đầu cả nước, trong đó thu nội địa tăng mạnh (Đến năm
2017, GRDP tăng trưởng 10,2%, trong nhóm đứng đầu cả nước; thu ngân
sách trên địa bàn ước đạt 38.597 tỷ đồng, tăng 13,9% kế hoạch trong đó thu
nội địa 27.650 tỷ đồng, tăng 4,5% dự toán đầu năm, tăng 10% so cùng kỳ
2016. 09 tháng đầu năm 2018 GRDP tiếp tục tăng trưởng 10,7%); mức đô thị
hóa cao với 04 thành phố, 02 thị xã; các công trình hạ tầng quan trọng của
tỉnh được đẩy mạnh đầu tư; an sinh xã hội được quan tâm, xây dựng nông
thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực.
Cùng với sự phát triển về kinh tế-xã hội của tỉnh, tình hình tội phạm
nói chung và tội phạm tham ô nói riêng trên địa bàn tỉnh vẫn diễn biến phức
tạp, với thủ đoạn ngày càng tinh vi, khó phát hiện, nhất là loại tội phạm tham
ô; xảy ra ở nhiều lĩnh vực, các cấp, các ngành ... Việc phát triển công nghiệp
than và tài nguyên, khoáng sản là một trong những thế mạnh của tỉnh, song lại
làm phát sinh tội phạm tham ô liên quan đến quản lý, kinh doanh than. Hoạt
động đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng nông thôn
mới, tín dụng ngân hàng... cũng đặt ra thách thức lớn về công tác quản lý, đặc
biệt làm gia tăng các tội phạm tham ô trong lĩnh vực ngân hàng, quản lý
doanh nghiệp nhà nước, quản lý ngân sách nhà nước trong cơ quan hành
chính, doanh nghiệp tư nhân...
32
Từ năm 2014 đến năm 2018, đã phát hiện, khởi tố, điều tra 20 vụ/ 62 bị
can về tội phạm tham ô. Đã kết luận điều tra, đề nghị truy tố; truy tố; xét xử:
18 vụ vụ/60 bị can, bị cáo. Đình chỉ điều tra: 01 vụ. Tạm đình chỉ điều tra: 01
vụ/02 bị can (do bị can bỏ trốn). Nhiều vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng, số tiền bị chiếm đoạt, thiệt hại lớn đã được phát hiện, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, điển hình như:
- Vụ án Lê Thị Thúy Hằng là giao dịch viên kế toán Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn- Chi nhánh thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng
Ninh đã lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn lập khống chứng từ, làm giả sổ tiết
kiệm rút tiền trong tài khoản tiết kiệm của 17 khách hàng, chiếm đoạt số tiền
17.342.830.000 đồng.
- Vụ án Vũ Khắc Từ cùng đồng phạm: Từ quý 4/2007 đến quý 3/2013,
lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, Vũ Khắc Từ (Chủ tịch HĐQT Công
ty cảng Quảng Ninh) đã chỉ đạo các nhân viên cấp dưới Đông Thị Bé (kế toán
trưởng), Bùi Thị Thắm (thủ quỹ), Đinh Ngọc Uyên (phó giám đốc) lập khống
bảng lương để quyết toán chiếm đoạt 22.812.000.000 đồng.
- Vụ án Nhuần Hải Hà cùng đồng phạm: Trong thời gian từ tháng
12/2012 đến ngày 31/12/2015, Đào Văn Nhuần (Trưởng phòng Kinh tế và Hạ
tầng huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh), Trịnh Thị Nga (Phó trưởng phòng
Kinh tế và Hạ tầng huyện Hải Hà), Lê Thị Bích Thủy (Kế toán phòng Kinh tế
và Hạ tầng huyện Hải Hà) đã bàn bạc thống nhất lập hồ sơ giả để được Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện Hải
Hà cấp 15 thẻ thụ hưởng tiền ngân sách Nhà nước của 15 cán bộ, công chức
của Phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện Hải Hà, lập chứng từ chi để chuyển tiền
vào tài khoản số 2, sau đó Bích đã rút ra chi một phần cho cán bộ, công chức,
số tiền còn lại 436.486.000 đồng Nhuần, Nga, Bích cùng nhau chiếm đoạt.
- Vụ án Đồng Văn Quyền cùng đồng phạm: Ngày 26/7/2015, Đồng
Văn Quyền (nhân viên giám định kho vận Nam Cầu Trắng-Công ty than Hòn
33
Gai) đã thông đồng với Lê Như Ngọc (nhân viên phân xưởng KCS công ty
tuyển than Hòn Gai), Nguyễn Kế Truy (thủ kho ghi chuyến công ty tuyển
than Hòn Gai ), Nguyễn Sỹ Cường (quản lý tàu TB-1691) điều chỉnh cân xe
chở than qua trạm cân đổ xuống tàu, tăng số lượng so với hóa đơn là 20 tấn
than cục 5a trị giá 49.000.000đ. Ngày 27/7/2015, khi đang chuyển than xuống
tàu TB-1691 ở cảng Nam Cầu Trắng để chiếm đoạt thì bị phát hiện bắt giữ.
- Vụ án Nguyễn Thị Quyên: Từ năm 2010 đến 2012, Nguyễn Thị
Quyên là nhân viên thu ngân Điện lực thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh
đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái nguyên tắc thu chi tiền, lập khống
chứng từ chiếm đoạt 17.777.998.624 đồng (tiền của người dân nộp tiền điện
hàng tháng và tiền trong tài khoản của Điện lực thành phố Uông Bí).
- Vụ án Trần Thị Phương Thủy: Từ tháng 4/2016 đến 23/10/2017, Trần Thị
Phương Thủy (thủ quỹ Công ty than Nam Mẫu thuộc Chi nhánh tập đoàn than
khoáng sản Việt Nam), phường Quang Trung, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng
Ninh đã lợi dụng nhiệm vụ được giao nhiều lần lập khống chứng từ chiếm đoạt
tổng số 1.838.611.504đ của công ty do Thủy quản lý để chi tiêu cá nhân.
Nhìn chung, số lượng tội phạm tham ô được phát hiện, khởi tố từng
năm được VKSND các cấp thụ lý, THQCT có xu hướng tăng giảm không
đồng đều. Cụ thể: Năm 2014: 07 vụ/26 bị can; Năm 2015: 01 vụ/04 bị can;
Năm 2016: 01 vụ/03 bị can; Năm 2017: 05 vụ/12 bị can; Năm 2018: 06 vụ/17
bị can.
* Về yếu tố lỗi, động cơ, mục đích của tội phạm: Các chủ thể của tội
phạm tham ô đều thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Động cơ chủ yếu
xuất phát từ lòng tham, nhằm thỏa mãn nhu cầu về kinh tế, tiền, tài sản và các
lợi ích vật chất khác cho cá nhân, gia đình, đã nảy sinh tâm lý tiêu cực mà
thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích, mong muốn trục lợi hoặc chiếm
đoạt tiền, tài sản trái pháp luật.
34
* Về lĩnh vực xảy ra tội phạm và phương thức, thủ đoạn phạm tội:
Quản lý, kinh doanh trong các doanh nghiệp ngành than xảy ra 11 vụ/46 bị
can; các đối tượng được giao quản lý trực tiếp tiền, tài sản (gồm than, dầu, cột
chống lò...) đã lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mình được
giao quản lý tại các công ty thuộc Tập đoàn Than- Khoáng sản Việt Nam.
Trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân xảy ra
04 vụ/07 bị can; các đối tượng lập khống bảng lương, chứng từ kế toán để
chiếm đoạt tiền hoặc lợi dụng việc được giao quản lý tiền, tài sản để chiếm
đoạt. Trong lĩnh vực quản lý ngân sách nhà nước xảy ra 03 vụ/04 bị can; các
đối tượng lợi dụng chức vụ, quyền hạn lập khống chứng từ để rút tiền trong
ngân sách nhà nước rồi chiếm đoạt sử dụng vào mục đích cá nhân hoặc lập hồ
sơ, chứng từ khống chiếm đoạt tiền hồ trợ dự án, gây thất thoát cho ngân sách.
Trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng xảy ra 02 vụ/05 bị can, trong lĩnh vực này
thủ đoạn phạm tội được thực hiện như sau: Khi nhận tiền gửi tiết kiệm của
khách hàng, cán bộ ngân hàng bảo khách hàng ký trước vào Giấy gửi tiền
chưa điền thông tin, nhận tiền của khách hàng, rồi lập giả sổ tiết kiệm đúng
với số tiền gửi và đưa cho khách hàng; sau đó sử dụng Giấy gửi tiền khách
hàng đã ký, ghi số tiền gửi với giá trị nhỏ, không nộp đủ tiền khách hàng gửi
vào hệ thống ngân hàng mà giữ lại chiếm đoạt; cán bộ ngân hàng tự bỏ tiền ra
làm thủ tục gửi tiết kiệm với số tiền nhỏ để lấy phôi sổ tiết kiệm thật của ngân
hàng, sử dụng phôi số tiết kiệm trắng, tự in phát hành giả các sổ tiết kiệm
mang tên các khách hàng có ý định chiếm đoạt tiền trong tài khoản của họ, ký
giả chữ khách hàng và lãnh đạo ngân hàng, lập khống chứng từ giao dịch, làm
thủ tục tất toán, rút toàn bộ tiền gốc và lãi trong sổ tiết kiệm của khách hàng;
sử dụng thủ đoạn đánh tráo sổ tiết kiệm thật của khách hàng khi khách hàng
đến lấy tiền lãi sau đó sử dụng rút tiền chiếm đoạt; trộm cắp các loại mật khẩu
của lãnh đạo ngân hàng có thẩm quyền phê duyệt, để tự làm thủ tục tất toán,
phê duyệt, chiếm đoạt tiền trong hệ thống ngân hàng.
35
* Về tính chất đồng phạm trong các vụ án tham ô: Qua phân tích, đánh
giá về số bị can bị VKSND các cấp thụ lý, THQCT và kiểm sát điều tra (20
vụ/ 62 bị can) cho thấy: số bị can có tỷ lệ lớn hơn nhiều so với số vụ án, tỷ lệ
đồng phạm khá cao. Trong các vụ án tham ô, ngoài các bị can phạm tội tham
ô còn có các bị can khác phạm tội khác như Thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng, Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc ngoài phạm tội tham ô bị can còn phạm tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
* Về hình phạt: Từ năm 2014 đến 2018, Tòa án nhân dân các cấp đã xét
xử 18 vụ/60 bị cáo; trong đó hình phạt được áp dụng cụ thể như sau: tù có
thời hạn từ 15 năm đến 20 năm: 09 bị cáo (chiếm tỷ lệ 15%); tù có thời hạn từ
trên 03 năm tù đến 07 năm năm tù: 20 bị cáo (chiếm tỷ lệ 33,3%); phạt từ 03
năm tù trở xuống: 31 bị cáo (chiếm tỷ lệ 51,7%), trong đó phạt tù nhưng cho
hưởng án treo là 16 bị cáo (chiếm tỷ lệ 26,6%, chủ yếu là đối tượng đồng
phạm, vai trò tham gia phạm tội có mức độ). Không có hình phạt cải tạo
không giam giữ, phạt tiền, chung thân, tử hình.
Thực hiện chỉ đạo của Trung ương về xử lý các vụ án tham nhũng nói
chung và các vụ án tham ô nói riêng, đặc biệt là Chỉ thị số 50-CT/TW ngày
07/12/2015 của Bộ Chính trị “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng”; Kết luận số 10-KL/TW
ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị “về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung
ương 3 khóa X”; Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2017 của Bộ Chính trị
(khóa X) về “Sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng”; thực hiện
chỉ đạo của Tỉnh ủy Quảng Ninh hàng năm về công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm tham nhũng và Chỉ thị, Kế hoạch công tác hàng năm của
Ngành Kiểm sát nhân dân về chỉ đạo giải quyết các vụ án tham nhũng, chức
vụ (Công văn số 1782/VKSTC-V1B ngày 15/5/2015, Kế hoạch số 01-
36
KH/BCSĐ ngày 31/3/2016, Thông báo số 479/TB-VKSTC ngày
28/12/2017...), hoạt động khởi tố điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham ô của
các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Quảng Ninh luôn được tăng cường, đảm
bảo xử lý nghiêm minh, đúng quy định của pháp luật, phục vụ tốt nhiệm vụ
chính trị tại địa phương.
2.2. Kết quả công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm
tham ô ở VKSND tỉnh Quảng Ninh
Trong thời gian qua, công tác THQCT trong giai đoạn điều tra đối với
tội phạm tham ô của VKSND tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều nỗ lực, góp phần
quan trọng vào kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh. Cùng với thực hiện tốt chức năng THQCT trong giai
đoạn điều tra đối với các vụ án tham ô tài sản, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp
đã chủ động phối hợp với Cơ quan điều tra để làm tốt kiểm sát việc xử lý tin
báo, tố giác về tội phạm; kiểm sát hoạt động điều tra, 100% các vụ án đều đề
ra yêu cầu điều tra, kịp thời phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, các biện
pháp ngăn chặn (tạm giữ, tạm giam...) qua đó, tham mưu kịp thời cho cấp Uỷ
đánh giá đúng tình hình tội phạm tham ô để đề ra các biện pháp phòng ngừa,
đấu tranh phù hợp, có hiệu quả.
- Công tác THQCT trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can phạm tội tham ô
tài sản: Cùng với việc THQCT và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết và xử lý
tố giác, tin báo về tội phạm tham ô, thì công tác THQCT trong giai đoạn khởi
tố vụ án, khởi tố bị can phạm tội tham ô đã được nâng lên rõ rệt. Kiểm sát
viên khi được phân công THQCT vụ án tham ô đã chủ động nghiên cứu kỹ tài
liệu do Cơ quan điều tra gửi sang đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn, phân tích
đánh giá chứng cứ khách quan, toàn diện để đối chiếu các dấu hiệu đặc trưng
của tội tham ô được quy định tại Điều 353 Bộ luật hình sự năm 2015, từ đó
xem xét việc phê chuẩn và định hướng việc khởi tố, điều tra chính xác, có căn
cứ pháp luật. Những vấn đề hồ sơ chưa thể hiện rõ, chứng cứ chưa đảm bảo
37
chặt chẽ, chưa thuyết phục để khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì Kiểm sát viên
yêu cầu Điều tra viên tiến hành điều tra bổ sung, củng cố tài liệu. Kiểm sát
viên còn phân tích, đánh giá về vị trí, vai trò thực hiện hành vi phạm tội của
đối tượng bị khởi tố, cũng như cân nhắc khởi tố đối tượng nào trước, đối
tượng nào sau để đảm bảo việc điều tra vụ án được thuận lợi, khởi tố điều tra
đúng người, đúng tội. Đối với một số vụ án tham ô đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp, sau khi nghiên cứu chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu
thập để làm căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can và đề nghị Viện kiểm sát phê
chuẩn, Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo Viện, trao đổi yêu cầu Điều tra viên
báo cáo Thủ trưởng Cơ quan điều tra tổ chức họp bàn với Viện kiểm sát để
đánh giá chứng cứ trước khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can được phê chuẩn. Từ
việc phối hợp chặt chẽ, thống nhất trong việc xác định các căn cứ để khởi tố,
tội danh, chứng cứ cơ bản của cấu thành tội phạm, Kiểm sát viên đã kiểm sát
chặt chẽ toàn bộ quá trình tố tụng, ngay từ giai đoạn đầu từ khi khởi tố vụ án,
bị can, đảm bảo việc điều tra, xử lý đúng pháp luật. Đối với các đối tượng đã
đủ căn cứ khởi tố mà Cơ quan điều tra chưa khởi tố, Viện kiểm sát kịp thời
ban hành yêu cầu khởi tố để xử lý theo quy định. Nhìn chung, công tác
THQCT đối với việc khởi tố vụ án, bị can phạm tội tham ô trong thời gian
qua đã có những chuyển biến rõ rệt, chất lượng được nâng lên, do Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát nói chung, Điều tra viên và Kiểm sát viên nói riêng
đã thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ
chức cơ quan điều tra hình sự, Quy chế kiểm sát điều tra và các Thông tư
hướng dẫn công tác THQCT và kiểm sát điều tra việc khởi tố vụ án, phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can; đảm bảo mọi hành vi phạm tội tham ô được
phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố một cách nghiêm minh, kịp thời, đúng
pháp luật, hạn chế tối đa việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội.
38
- Công tác THQCT trong áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn: Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS 2015 là những
biện pháp can thiệp trực tiếp nghiêm trọng đến quyền con người, các quyền
cơ bản của công dân, tước đi một số quyền cơ bản của người phạm tội, bị can
trong một thời gian nhất định, do vậy mà pháp luật đã quy định rất chặt chẽ về
căn cứ, trình tự, thủ tục và thẩm quyền áp dụng; đa số các biện pháp ngăn
chặn bắt buộc phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát trước khi thi hành.
VKSND tỉnh Quảng Ninh luôn quán triệt đầy đủ tinh thần chỉ đạo của Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp: “Tăng công tác kiểm sát việc bắt, giam,
giữ đảm bảo đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm
giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện
và xử lý lịp thời các trường hợp oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam
thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình” và những hậu quả nghiêm
trọng của việc xử lý oan sai, bỏ lọt tội phạm và trách nhiệm của Viện kiểm sát
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam xử lý oan sai theo tinh thần của Luật trách
nhiệm bồi thường Nhà nước. Do có nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng
của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nên trong quá trình THQCT trong
giai đoạn điều tra các vụ án tham ô, Viện kiểm sát đã có sự đánh giá, phân
loại về tính chất, mức độ phạm tội, hậu quả của tội phạm, nhân thân của các
bị can để quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn cho phù hợp, có căn cứ,
đúng pháp luật. Hầu hết các bị can bị bắt, tạm giam trong các vụ án tham ô do
Viện kiểm sát thụ lý đều là bị can có hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng.
Khác với các loại tội phạm hình sự khác, việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn đối với các bị can phạm tội tham ô (người có chức vụ, quyền hạn) chủ
yếu là tạm giam đối với các bị can phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng hoặc trong trường hợp cần thiết nhằm ngăn chặn bị can
39
bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, bị can ngoan cố chối tội không thành khẩn, gây
cản trở quá trình tra. Khi có căn cứ hoặc không cần thiết phải tiếp tục tạm
giam như các bị can thành khẩn khai báo, khắc phục toàn bộ thiệt hại, nộp lại
toàn bộ số tiền chiếm đoạt, hợp tác với Cơ quan điều tra làm rõ vụ án, tài liệu
chứng cứ về vụ án đã rõ ràng thì không áp dụng biện pháp tạm giam, xét cần
thiết sẽ áp dụng biện pháp bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú... 100% các hồ sơ
đề nghị phê chuẩn Lệnh bắt tạm giam, Lệnh tạm giam đều được Kiểm sát
viên thụ lý vụ án nghiên cứu thận trọng, đề xuất phê chuẩn đúng căn cứ,
cương quyết không phê chuẩn những đối tượng không đủ căn cứ; vì vậy, đã
đảm bảo được việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với các bị can phạm
tội tham ô đúng người, đúng tội; các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát
đều đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật.
- Kiểm sát viên chủ động bám sát quá trình điều tra, đề ra yêu cầu điều
tra ngay từ khi khởi tố vụ án; nội dung yêu cầu điều tra vụ án phải có căn cứ
và khả thi, cụ thể, tập trung vào làm sáng tỏ những dấu hiệu pháp lý đặc trưng
của tội phạm tham ô và những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự;
hàng tuần đôn đốc tiến độ điều tra vụ án và trao đổi thống nhất với Điều tra
viên về kế hoạch điều tra tiếp theo. Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên kịp
thời chuyển giao, thông báo cho Kiểm sát viên những tài liệu, chứng cứ mới
thu thập được trong quá trình điều tra để từng bước nắm vững vụ án và có cơ
sở để ra các quyết định tố tụng về vụ án; đồng thời, cùng Điều tra viên dự báo
trước những khó khăn, phức tạp để báo cáo lãnh đạo hai ngành cho ý kiến chỉ
đạo tháo gỡ kịp thời, nhất là đối với các vụ án trọng điểm, phức tạp. Kiểm sát
viên phải chịu trách nhiệm về các tài liệu, chứng cứ trong vụ án và sự tuân thủ
các quy định tố tụng hình sự về thời hạn, thủ tục, thẩm quyền trong suốt quá
trình điều tra. Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên thường xuyên kiểm
tra việc chấp hành các thủ tục tố tụng đối với vụ án, nhất là các biện pháp
ngăn chặn đã áp dụng, các biện pháp cưỡng chế đã áp dụng như kê biên tài
40
sản, phong tỏa tài khoản...; tiến hành sơ kết, đánh giá kết quả điều tra và xác
định yêu cầu nội dung điều tra tiếp theo. Trước khi kết thúc điều tra, Kiểm sát
viên cũng Điều tra viên kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ trong hồ sơ vụ án
xem đã đủ để buộc tội hay chưa, khắc phục các sai sót trong áp dụng pháp luật.
Do thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành trong đó có chức năng
thực hành quyền công tố đối với các vụ án tham ô, nên từ năm 2014 đến
2018, 100% các vụ án, bị can phạm tội tham ô đều đảm bảo việc khởi tố, điều
tra, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không để xảy ra oan sai.
Kết quả đạt được nêu trên là do những nguyên nhân cơ bản như sau:
Một là: Công tác tư pháp nói chung và công tác của ngành kiểm sát nói
riêng luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
ta. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị về cải cách tư
pháp, về đấu tranh phòng chống tham nhũng đặc biệt là tội phạm tham ô.
Thực hiện những chủ trương của Đảng trong lĩnh vực này, Nhà nước ta đã
ban hành mới các bộ luật, luật trong lĩnh vực tư pháp để hoàn thiện hệ thống quy
phạm pháp luật, phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tham ô, như:
BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015, Luật phòng chống tham nhũng, Luật tổ
chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật tổ chức VKSND năm 2014...
Hai là: Ngoài các quy phạm pháp luật về hoạt động THQCT nói chung
và giai đoạn điều tra nói riêng, thì công tác THQCT của ngành KSND cũng
được Viện trưởng VKSND tối cao quan tâm chỉ đạo và ban hành nhiều văn
bản hướng dẫn rõ quy trình nghiệp vụ, chế độ, trách nhiệm của lãnh đạo,
Kiểm sát viên, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động THQCT (như các chỉ
thị công tác hàng năm, quy chế thông tin báo cáo, quy chế THQCT, kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự, chỉ thị tăng cường gắn công tố với điều tra). Công
tác hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết rút kinh nghiệm THQCT, hội nghị
chuyên sâu về công tác THQCT đối với các vụ án tham ô luôn được VKSND
41
tối cao coi trọng thực hiện thường xuyên, tạo điều kiện thuận lợi và giúp cho
đội ngũ KSV các cấp nhận thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn, kịp thời khắc phục
thiếu sót, nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội
phạm tham ô.
Ba là: VKSND tỉnh Quảng Ninh khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mình thường xuyên phối hợp với các cơ quan hữu quan ở địa phương, nhất là
đối với các cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Tòa án; đồng
thời, luôn tranh thủ sự ủng hộ, chỉ đạo của cấp Ủy địa phương, để hạn chế
tình trạng xảy ra oan sai.
Bốn là: Lãnh đạo VKSND tỉnh Quảng Ninh đã nhận thức đúng đắn,
đầy đủ vị trí, tầm quan trọng của công tác THQCT trong giai đoạn điều tra đối
với tội phạm tham ô, đã tập trung công tác lãnh đạo, chỉ đạo ngay từ khi phát
hiện tội phạm cũng như trong suốt quá trình điều tra vụ án; chỉ đạo việc xây
dựng kế hoạch cụ thể, tổ chức thực hiện kế hoạch, đảm bảo các điều kiện cho
hoạt động THQCT; coi trọng công tác tổng kết, rút kinh nghiệm chuyên đề, đề
cao kỷ luật, trách nhiệm công vụ, vì vậy chất lượng THQCT được nâng lên.
Năm là: Đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên trực tiếp được phân công
THQCT đối với tội phạm tham ô đã từng bước trưởng thành về cả lập trường
tư tưởng chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp; về ý thức trách nhiệm nghề nghiệp,
trách nhiệm công vụ, năng lực trình độ và kỹ năng nghề nghiệp.
2.3 Những hạn chế yếu kém, vướng mắc khi THQCT trong giai đoạn
điều tra các tội phạm tham ô ở VKSND tỉnh Quảng Ninh và nguyên nhân
2.3.1. Những hạn chế, tồn tại
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động THQCT trong
giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô của VKSND tỉnh Quảng Ninh còn
bộc lộ một số tồn tại, hạn chế đó là:
- Việc nắm, phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm liên quan đến tội
phạm tham ô chưa được kịp thời, triệt để, dẫn đến làm hạn chế vai trò chủ
42
động của VKSND tỉnh Quảng Ninh khi tiến hành các hoạt động THQCT
trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô. Cụ thể là hạn chế việc sử
dụng các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT của VKSND như yêu cầu
cơ quan điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can; hủy bỏ quyết định khởi tố vụ
án, quyết định không khởi tố vụ án; ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Việc đề ra Yêu cầu điều tra vụ án nhất là đối với các vụ án tham ô
luôn được VKSND tỉnh Quảng Ninh coi trọng; tuy nhiên, nhiều nội dung yêu
cầu điều tra chưa toàn diện, đầy đủ, việc này dẫn tới định hướng điều tra chưa
kịp thời, chậm chễ áp dụng biện pháp điều tra dẫn đến bỏ lỡ cơ hội làm rõ
hành vi phạm tội của người bị tình nghi, dẫn đến bỏ lọt tội phạm, chưa kịp
thời thu hồi tài sản tham ô bị chiếm đoạt, gây thiệt hại; hoặc có vụ án quá
trình điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ nên phải trả hồ sơ điều
tra bổ sung, có nhiều vụ phải trả hồ sơ nhiều lần, kéo dài thời hạn giải quyết
vụ án.
- Việc nghiên cứu, phân tích đánh giá tài liệu, chứng cứ trong giải
quyết một số vụ án tham ô chưa toàn diện, chưa khoa học dẫn đến việc khởi
tố vụ án, bị can không đúng tội danh, phải thay đổi quyết định khởi tố vụ án,
bị can hoặc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ tội danh.
Những hạn chế, tồn tại nêu trên chiếm tỷ lệ không lớn so với những kết
quả đã đạt được, nhưng cũng một phần xuất phát từ tính chất đặc thù của hoạt
động bảo vệ pháp luật nói chung và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
tham ô nói riêng cũng như đặc thù của loại tội phạm tham ô. Để khắc phục
những hạn chế nêu trên, vấn đề đặt ra là phải xác định được nguyên nhân của
những hạn chế đó.
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
Những tồn tại, hạn chế nêu trên là do nhiều nguyên nhân, những qua
nghiên cứu thực tế hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
tô của VKSND tỉnh Quảng Ninh, tôi thấy chủ yếu là những nguyên nhân sau:
43
Một là: Hệ thống các quy phạm pháp luật là căn cứ pháp lý để xử lý tội
phạm tham ô chưa hoàn thiện, còn thiếu, còn có những quy định chưa phù
hợp, chưa rõ ràng với yêu cầu thực tiễn; trong khi đó công tác giải thích,
hướng dẫn áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền còn chậm, chưa đáp
ứng kịp thời, đầy đủ yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
tham nhũng nói chung và tội phạm tham ô tài sản nói riêng trong giai đoạn
hiện nay.
BLHS năm 2015 quy định xử lý đối với tội tham ô tài sản tại Điều 353,
nhiều tình tiết định khung như: “Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ,
công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức; Gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, đặc biệt là quy định mới xử lý
tội phạm tham ô đối với “Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh
nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước”, nhưng chưa có sự hướng dẫn thống nhất
nên thực tế áp dụng pháp luật xử lý đối với tội phạm tham ô còn hạn chế, gặp
nhiều khó khăn khi định tội danh. Việc này đòi hỏi cần phải có sự hướng dẫn
kịp thời, thống nhất của liên ngành tư pháp Trung ương hoặc Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể, rõ ràng trình tự tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; trách nhiệm của Cơ
quan điều tra các cấp trong việc gửi thông báo việc việc tiếp nhận, giải quyết
nguồn tin về tội phạm cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát thực hiện chức
năng THQCT; tuy nhiên, chưa quy định cụ thể về trách nhiệm của Cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng khi trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm, thì
phải có trách nhiệm gửi tài liệu, chứng cứ cho Viện kiểm sát (ví dụ: Cơ quan
điều tra qua hoạt động trinh sát phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm tham
ô, BLTTHS 2015 không quy định thời hạn cơ quan điều tra phải gửi chứng
cứ, tài liệu cho Viện kiểm sát, nhiều vụ việc Cơ quan điều tra tự xác minh, thu
thập chứng cứ nhiều tháng, nếu khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan điều tra mới
44
gửi quyết định và tài liệu cho Viện kiểm sát, còn nếu sau đó xử lý hành chính
thì cơ quan điều tra không phải chuyển tài liệu cho Viện kiểm sát). Do vậy
trên thực tế, nhiều vụ việc ảnh hưởng đến hoạt động THQCT của Viện kiểm
sát, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến bỏ lọt tội phạm trong đó có
tội phạm về tham ô.
Hai là: Trang thiết bị, phương tiện, điều kiện làm việc của các cơ quant
ư pháp nói chung và của VKSND nói riêng, chế độ đãi ngộ đối với Kiểm sát
viên còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Trong khi tội phạm tham nhũng nói chung, tội phạm tham ô tài sản nói
riêng luôn diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt,
ý thức che dấu sai phạm, tìm mọi cách xóa dấu vết, tẩu tán tài sản; sử dụng
chính quyền hạn, chức vụ, quan hệ của mình để gây cản trở, ảnh hướng đến
công tác điều tra hoặc mua chuộc, thì trang thiết bị, phương tiện, điều kiện
làm việc của các cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng tuy đã được
quan tâm cải thiện, tăng cường đáng kể so với thời gian trước, nhưng so với
yêu cầu đấu tranh tội phạm còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: phương
tiện giao thông, liên lạc, trinh sát kỹ thuật, phương tiện trực tiếp phục vụ cho
hoạt động pháp luật (tra cứu văn bản tài liệu, quản lý thông tin), máy vi tính
vừa thiếu, vừa lạc hậu. Trong khi đó, chế độ đối với cán bộ trực tiếp được
giao làm công tác THQCT thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý, trách
nhiệm của cán bộ, là những yếu tố đã tác động làm hạn chế không nhỏ đến
hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng nói chung
và tội phạm tham ô nói riêng.
Ba là: Trình độ, năng lực, trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp của một
bộ phận Kiểm sát viên của VKSND tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ những hạn
chế nhất định.
Kết quả tích cực của VKSND tỉnh Quảng Ninh trong công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm tham nhũng nói chung, tội phạm tham ô nói riêng góp
45
phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương, được cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương ghi nhận đã thể hiện rõ vai trò đóng góp to
lớn của đội ngũ Kiểm sát viên. Bên cạnh đó, tồn tại, hạn chế trong công tác
THQCT cũng có nguyên nhân cơ bản từ hạn chế về trình độ nhận thức, kỹ
năng, bản lĩnh nghề nghiệp, kinh nghiệm thực tiễn, trách nhiệm của Kiểm sát
viên. Về nhận thức vẫn còn một số Kiểm sát viên hiểu chưa sâu, chưa đầy đủ,
chưa có tính hệ thống các quy phạm pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, các
quy phạm pháp luật chuyên ngành liên quan, các văn bản hướng dẫn pháp
luật; thậm chí nhận thức chưa đúng, đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ của
ngành kiểm sát, từ đó hạn chế đến chất lượng THQCT. Về kỹ năng, kinh
nghiệm nghề nghiệp: Còn có một số Kiểm sát viên không được đào tạo bài
bản về kỹ năng nghề nghiệp (chủ yếu được tích lũy hình thành qua quá trình
công tác thực tiễn), trong khi đó có một số Kiểm sát viên trẻ, ít kinh nghiệm
thực tiễn, nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động THQCT.
Do tính chất đặc thù của tội phạm tham ô, cũng như yêu cầu đòi hỏi
ngày càng cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với các cơ quan tư pháp,
đội ngũ cán bộ tư pháp nên đòi hỏi tất yếu Kiểm sát viên phải có trách nhiệm,
bản lĩnh nghề nghiệp cao mới đáp ứng thực hiện tốt nhiệm vụ. Tuy nhiên, vẫn
còn một số Kiểm sát viên chưa đề cao tinh thần trách nhiệm, nghiên cứu
không sâu, thực hiện không đầy đủ quy trình công tác, ngại va chạm, ngại vất
vả khi được giao THQCT hoặc do trách nhiệm bồi thường nếu để xảy ra oan
sai hoặc áp lực tác động từ dư luận, những người có quyền lực; cũng có một
số Kiểm sát viên do trách nhiệm, bản lĩnh nghề nghiệp hạn chế đã bộc lộ tư
tưởng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu kiên quyết trong đấu tranh với tội
phạm tham nhũng nói chung và tội phạm tham ô nói riêng.
Bốn là: Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan, tổ chức liên quan trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm tham ô còn hạn chế, chưa chặt chẽ. Vẫn còn nhiều lúc
46
xảy ra tình trạng “quyền anh, quyền tôi”, tính trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy
trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiệu quả phối hợp giữa
VKSND với cơ quan điều tra cũng như với các cơ quan, tổ chức hữu quan
liên quan là một trong những tiền đề quan trọng đảm bảo công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm tham ô đạt kết quả, cũng như nâng cao chất lượng
công tác THQCT trong giai đoạn điều tra. Thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh cho
thấy ở đâu, trong vụ án nào mà Cơ quan điều tra và VKSND có sự phối hợp
chặt chẽ, kịp thời trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của từng ngành và phối hợp
tốt với các cơ quan, tổ chức hữu quan (như chính quyền địa phương, Thanh
tra, Thuế, Hải quan…) thì việc giải quyết các vụ án tham ô được tiến hành
nhanh chóng, kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, tài sản tham ô được thu hồi triệt để.
Ngược lại, nếu sự phối hợp giữa các cơ quan thiếu chặt chẽ, ý thức phối hợp
không cao sẽ dẫn đến việc phát hiện, ngăn chặn tội phạm, thu hồi vật chứng
thiếu kịp thời, thời hạn điều tra kéo dài, yêu cầu điều tra của Viện kiểm nsats
không được đề ra kịp thời, việc thực hiện yêu cầu điều tra của Cơ quan điều
tra kết quả hạn chế. Việc phối hợp giữa Cơ quan điều tra và VKSND còn bộc
lộ hạn chế trong việc phối hợp tổng kết kinh nghiệm giải quyết án tham ô,
tổng kết đánh giá phương thức, thủ đoạn phạm tội tham ô trên địa bàn để chủ
động phòng ngừa, kiến nghị phòng ngừa, tham mưu cho cấp ủy Đảng trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm tham ô.
47
Tiểu kết Chương 2
Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, tác giả đã đi
sâu làm rõ thực trạng (ưu điểm và tồn tại, hạn chế) của hoạt động THQCT ở
giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng
Ninh giai đoạn 2014-2018; làm rõ nguyên nhân cơ bản của ưu điểm cũng như
tồn tại, hạn chế của hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội
tham ô tài sản.
Nhìn chung hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài
sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2014-2018 đã đạt được nhiều kết
quả tích cực, góp phần quan trọng cùng với các cấp, các ngành ở địa phương
đấu tranh xử lý nghiêm minh, ngăn chặn có hiệu quả đối với tội phạm tham
nhũng nói chung và tội phạm tham ô tài sản nói riêng, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, tạo tiền đề cho kinh tế, xã hội phát triển.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm tham ô tài sản và yêu cầu cải cách tư pháp, hoạt động
THQCT ở giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh
Quảng Ninh còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế. Nguyên nhân cơ bản của
những tồn tại, hạn chế của hoạt động THQCT nằm ở sự hạn chế của hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật, ở chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên, ở quan
điểm cơ chế phối hợp.
Trong tình hình hiện nay, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả thực
hiện chức năng của ngành kiểm sát nói chung và hoạt động THQCT trong giai
đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng là yêu cầu có tính cấp
thiết. Yêu cầu này đòi hỏi đề ra các giải pháp phù hợp để khắc phục kịp thời
tồn tại, thiếu sót, nâng cao hiệu quả, chất lượng THQCT trong giai đoạn điều
tra đối với tội phạm tham ô tài sản. Từ đó góp phần tích cực và kết quả đấu
tranh phòng, chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn
hiện nay.
48
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI PHẠM THAM Ô
TÀI SẢN Ở VKSND TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Dự báo về tội phạm tham ô tài sản và giải pháp nâng cao hiệu
quả THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND
tỉnh Quảng Ninh
3.1.1. Dự báo về tội phạm tham ô tài sản ở tỉnh Quảng Ninh
Trên cơ sở phân tích tính hình tội phạm tham ô tài sản xảy ra trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014-2018 có thể thấy các hành vi vi phạm,
hành vi tiêu cực, tội phạm tham ô tài sản trong những năm tới vẫn diễn biến
phức tạp và ngày càng nghiêm trọng hơn trên nhiều lĩnh vực như:
- Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, mặc dù các cơ quan tư pháp tỉnh
Quảng Ninh đã phát hiện, điều tra khám phá một số vụ án lớn tham ô “rút ruột
công trình” và đưa ra khởi tố, truy tố, xét xử, song vi phạm và tội phạm trong
lĩnh vực này vẫn không thuyên giảm. Tội phạm xảy ra ở nhiều khâu, nhiều
giai đoạn khác nhau: từ khi hình thành dự án xây dựng cơ bản, xin phê duyệt
dự án (chạy dự án), đến các khâu khảo sát, thiết kế, đấu thầu, đền bù giải
phóng mặt bằng, thi công, giám sát, nghiệm thu, quyết toán… vẫn luôn tiền
ẩn tiêu cực, tham ô, lãng phí.
- Tiêu cực, tham ô xảy ra ở cơ quan quản lý hành chính nhà nước: Tình
hình hiện nay vẫn xảy ra một số cán bộ trong các cơ quan Nhà nước thoái hóa
biến chất, có biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, nên hiện tượng tiêu cực,
tham nhũng “vặt”, tham ô trong các cơ quan này ngày càng tăng, nhất là trong
các cơ quan như: Quản lý đất đai, thuế, Hải quan, quản lý thị trường, công an
giao thông… Các cán bộ thoái hóa biến chất này có chức vụ, quyền hạn, lợi
dụng sơ hở, thiếu sót, bất cập trong các văn bản, chính sách của nhà nước để
49
tham ô, gây bức xúc trong nhân dân và làm giảm uy tín của hệ thống các cơ
quan hành pháp.
- Tình hình tiêu cực, tham ô tài sản trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng
sẽ tiếp tục có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Hiện nay trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh có rất nhiều các chi nhánh, văn phòng giao dịch của
nhiều hệ thống các ngân hàng; hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng ngày
càng mở rộng với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Mặt khác nhu cầu vay
vốn để sản xuất kinh doanh cũng như việc lựa chọn ngân hàng để gửi tiền tiết
kiệm là rất lớn, trong khi đó đạo đức nghề nghiệp của một số cán bộ ngân
hàng còn thấp, công tác quản lý, kiểm tra, hậu kiểm của hệ thống ngân hàng
còn chưa chặt chẽ. Do đó, tính chất, mức độ, hậu quả của các vi phạm trong
lĩnh vực này sẽ nghiêm trọng hơn và diễn ra trên diện rộng.
- Tình hình vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai: Công tác quản lý,
sử dụng đất đai thời gian tới vẫn còn nhiều khó khăn, phức tạp; các văn bản
pháp luật liên quan đến đai còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tế đặc
biệt là các quy định về khung giá đất khi bồi thường giải phóng mặt bằng so
với giá chuyển nhượng thực tế, nhiều quy định còn lỏng lẻo. Một số người
dân lợi dụng sơ hở của chính sách pháp luật đất đai để trục lợi; một số cán bộ
địa chính, cán bộ được giao quản lý nhà nước về đất đai trình độ am hiểu
pháp luật về đất đai còn hạn chế, bên cạnh đó đội ngũ công chức còn lợi dụng
nhiệm vụ, quyền hạn để tham ô; dự báo trong thời gian tới vi phạm và tội
phạm tham ô tài sản trong lĩnh vực đất đai tiềm ẩn nguy cơ gia tăng.
- Tình hình vi phạm, tội phạm về tham ô tài sản trong các cơ quan quản
lý nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước,
doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh ghiệp tư nhân) thời gian tới sẽ tiếp tục
có chiều hướng gia tăng. Với đặc thù của tỉnh Quảng Ninh trên địa bàn có
nhiều doanh nghiệp ngành than hoạt động khai thác tài nguyên, sản xuất kinh
doanh; xuất phát từ lợi ích nhóm, động cơ kinh tế, một số cán bộ có chức vụ,
50
quyền hạn được giao trực tiếp quản lý nguồn tài nguyên than, nguồn vốn như
giám đốc, kế toán, thủ quỹ, thủ kho, quản đốc, bảo vệ… sẽ thông đồng, hợp
thức hóa chứng từ để nâng khống chi phí, vật tư, chiếm đoạt nguồn than bán
ra bên ngoài để tham ô, chiếm đoạt tiền của doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
BLHS năm 2015 quy định xử lý hành vi tham ô tài sản đối với các doanh
nghiệp ngoài nhà nước, nên tội phạm trong các doanh nghiệp như bảo hiểm,
bưu điện, xây dựng… sẽ có chiều hướng gia tăng.
3.1.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả THQCT trong giai đoạn điều tra
tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh
3.1.2.1. THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài
sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh phải quán triệt sâu sắc quan điểm của
Đảng, chính sách hình sự của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm
tham nhũng nói chung, tội phạm tham ô tài sản nói riêng
Trong thời gian tới, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục phát triển là trung tâm
chính trị, kinh tế, xã hội của vùng Đông Bắc Bộ. Tuy nhiên cùng với sự phát
triển, mặt trái của nó là tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm ngày càng gia
tăng về số vụ việc, tính chất hành vi ngày càng tinh vi, hậu quả ngày càng lớn
đối với xã hội.
Trước tình hình như vậy, quan điểm trong việc xây dựng Nhà nước và
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng nói chung, tội phạm
tham ô tài sản nói riêng trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI là:
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu
sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm
phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị
mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
51
Quan điểm của Đảng, chính sách hình sự của Nhà nước ta là phát huy
sức mạnh của cả hệ thống chính trị và đông đảo quần chúng nhân dân (trong
số các cơ quan bảo vệ pháp luật mà trước hết là lượng lượng chuyên trách
được giao nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng) đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đấu tranh kiên quyết không khoan nhượng, nhằm ngăn chặn hiểm họa
của tội phạm và tệ nạn tham ô, với phương châm giáo dục, phòng ngừa là
chính, đồng thời phải kiên quyết đấu tranh phát hiện xử lý nghiêm minh đối
với tội phạm tham ô tài sản.
Cùng với việc phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật,
không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội; hoạt động THQCT
trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô của VKSND tỉnh Quảng
Ninh phải làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội để yêu cầu các cơ quan, tổ
chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa; đồng thời, chủ
động tham mưu tích cực, có hiệu quả cho cấp ủy, chính quyền địa phương
trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
3.1.2.2. THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài
sản ở VKSND tỉnh Quảng Ninh phải xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung, tội phạm tham ô tài sản nói riêng và phải căn cứ
vào thực tế tình hình, xu hướng của tội phạm tham ô tài sản trên địa bàn tỉnh
Tình hình tội phạm nói chung và tội phạm tham ô tài sản nói riêng trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gia tăng
về số lượng và tính chất, mức độ, hậu quả; đòi hỏi phải áp dụng nhiều giải
pháp đồng bộ trong đấu tranh phòng, chống. Hoạt động THQCT của VKSND
tỉnh Quảng Ninh đòi hỏi phải kịp thời, chính xác; trên cơ sở thực hiện tốt
chức năng THQCT được Đảng, Nhà nước giao, đồng thời phối hợp chặt chẽ
với Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh các vụ án tham ô tài sản gây nhức
nhối trong dư luận xã hội, làm mất an ninh chính trị tại địa phương.
52
THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản phải
đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay và xu hướng
hội nhập quốc tế. Đây là một xu hướng tất yếu đối với mọi mặt đời sống kinh
tế-chính trị, văn hóa-xã hội và càng bộc lộ rõ hơn trong lĩnh vực đấu tranh
phòng, chống hiểm họa tội phạm tham ô. Tội phạm tham ô là hiểm họa không
chỉ gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, sự tồn tại chế độ nhà nước ta, mà nó
còn ảnh hưởng đến mối quan hệ ngoại giao quốc tế. Do đó, hoạt động đấu
tranh phòng, chống tội phạm tham ô, hoạt động THQCT đối với loại tội phạm
này phải coi trọng công tác hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực về vật
chất, phương tiện, về tri thức, kinh nghiệm trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm tham ô tài sản của các nước và tổ chức quốc tế.
3.2. Phương hướng và các giải pháp nhằm đảm bảo, nâng cao hiệu
quả THQCT tố ở giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND
tỉnh Quảng Ninh
3.2.1. Phương hướng đảm bảo, nâng cao hiệu quả THQCT tố ở giai
đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh
Để đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT tố ở giai đoạn điều
tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh trong tình hình hiện
nay đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các phương hướng sau:
- Từ tổng kết thực tiễn thi hành BLHS và BLTTHS cũng như yêu cầu
của cải cách tư pháp hiện nay và xu hướng hội nhập quốc tế, cần kiến nghị
Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chính sách hình sự để thực sự đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội phạm tham ô tài
sản nói riêng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư
pháp trong đó có VKSND.
- Từ thực tiễn công tác THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội
phạm tham ô tài sản cho thấy còn có sự cản trở không nhỏ đến hoạt động
THQCT như: Việc giải thích, hướng dẫn, áp dụng pháp luật trong xử lý hành
53
vi vi phạm, tội phạm tham ô tài sản thiếu đồng bộ, không kịp thời, không đầy
đủ, cụ thể dẫn đến nhận thức pháp luật chưa thống nhất, thiếu căn cứ pháp
luật vận dụng để thực hiện hoạt động THQCT. Vì vậy, trong thời gian tới, các
cơ quan có chức năng, thẩm quyền cần tăng cường công tác hướng dẫn, giải
thích pháp luật.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ
quan VKSND, cũng như việc quản lý, điều hành của VKS cấp trên đối với
VKS cấp dưới; coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đào tạo bồi
dưỡng trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, để xây dựng đội ngũ Kiểm
sát viên các cấp có bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp vững vàng, tinh thông pháp
luật, tinh thần trách nhiệm cao, có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, xứng đáng với
Lời dạy của Hồ Chủ tịch “Cán bộ kiểm sát phải công minh, chính trực, khách
quan, thận trọng, khiêm tốn”.
- Tăng cường sự lãnh đạo thường xuyên, sâu sát của cấp ủy Đảng địa
phương và phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan dân
cử đối với hoạt động thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát nói chung và
hoạt động THQCT nói riêng. Khẳng định rõ vai trò vị trí quan trọng của
VKSND trong hệ thống chính trị và hoạt động THQCT trong giai đoạn điều
tra đối với tội phạm tham ô tài sản của VKSND đối với công tác đấu tranh
phòng, chống tham nhũng.
- Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế phối hợp liên ngành
trong giải quyết các vụ án hình sự nói chung, các vụ án tham ô tài sản nói
riêng giữa các cơ quan tư pháp, trên cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
từng ngành.
- Đảng và Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến việc đầu tư cơ sở vật chất,
cải thiện điều kiện làm việc và đời sống cho cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành
Kiểm sát; tạo điều kiện thuận lợi cho ngành Kiểm sát nói chung và cho VKSND
tỉnh Quảng Ninh nói riêng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
54
3.2.2. Các giải pháp nhằm đảm bảo, nâng cao hiệu quả THQCT tố ở
giai đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh
3.2.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường hướng dẫn
áp dụng pháp luật
* Hoàn thiện BLHS: BLHS năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2018) đã tạo cơ sở, hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh, cơ bản đáp
ứng được các yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm
tham ô tài sản nói riêng. Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động THQCT đối với tội
phạm tham ô tài sản trong thời gian qua, thấy cần sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn
áp dụng thống nhất các nội dung sau:
- BLHS năm 2015 quy định xử lý đối với tội tham ô tài sản tại Điều
353, nhiều tình tiết định khung như: “Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức; Gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; đặc biệt là quy định mới so
với BLHS năm 1999 là xử lý tội phạm tham ô tài sản đối với “Người có chức
vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước”, nhưng chưa
có sự hướng dẫn thống nhất nên thực tế áp dụng pháp luật xử lý đối với tội
phạm tham ô tài sản còn hạn chế, gặp nhiều khó khăn khi định tội danh. Việc
này đòi hỏi cần phải có sự hướng dẫn kịp thời về các điều kiện áp dụng, quy
định cụ thể khái niệm “tham ô tài sản trong khu vực ngoài Nhà nước”, thống
nhất của liên ngành tư pháp Trung ương hoặc Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao.
- Quy định về mức hình phạt đối với tội phạm nói chung, tội phạm
tham ô tài sản nói riêng trong BLHS khung hình phạt trong mỗi khoản còn
quá rộng; cùng với đó là những quy định về chế định án treo, tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS
còn được quy định chung chung, nhiều quy định chưa được hướng dẫn chi
tiết. Các văn bản hướng dẫn hoặc chỉ đạo đường lối xử lý tội phạm tham ô tài
55
sản hết hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 nhưng đến nay chưa được các cơ
quan tư pháp trung ương phối hợp hướng dẫn kịp thời dẫn đến việc áp dụng
còn thiếu thống nhất, tùy tiện, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm tham ô tài sản trong giai đoạn hiện nay.
* Hoàn thiện BLTTHS: BLTTHS năm 2015 có bước tiến bộ rõ rệt
trong việc thể hiện quan điểm đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và
Nhà nước ta trong lĩnh vực tố tụng hình sự; tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho
hoạt động của các cơ quan tư pháp, cũng như đảm bảo trật tự pháp luật, lợi
ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; thể hiện sâu
sắc tính dân chủ và tôn trọng quyền con người. Tuy nhiên thấy một số các quy
định của BLTTHS cần tiếp tục được nghiên cứu bổ sung để hoàn thiện như:
- BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể, rõ ràng trình tự tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; trách nhiệm của Cơ
quan điều tra các cấp và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra trong việc gửi thông báo việc việc tiếp nhận, giải quyết
nguồn tin về tội phạm cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát thực hiện chức
năng THQCT. Cụ thể hóa tinh thần của BLTTHS, liên ngành Trung ương đã
ban hành Thông tư liên tịch số 01 ngày 29/12/2017 của Bộ Công an - Bộ
Quốc phòng - Bộ Tài chính - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Viện
kiểm sát nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm
quyền trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
tạo cơ sở và bảo đảm cơ chế cho VKS có thể quản lý, theo dõi cơ bản đầy đủ,
kịp thời việc xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tuy
nhiên, chưa quy định cụ thể về trách nhiệm của Cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng khi trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm, thì phải có trách nhiệm
gửi tài liệu, chứng cứ cho Viện kiểm sát (ví dụ: Cơ quan điều tra qua hoạt
động trinh sát phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm tham ô, BLTTHS 2015
56
không quy định thời hạn cơ quan điều tra phải gửi chứng cứ, tài liệu cho Viện
kiểm sát, nhiều vụ việc Cơ quan điều tra tự xác minh, thu thập chứng cứ nhiều
tháng, nếu khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan điều tra mới gửi quyết định và tài
liệu cho Viện kiểm sát, còn nếu sau đó xử lý hành chính thì cơ quan điều tra
không phải chuyển tài liệu cho Viện kiểm sát). Do vậy trên thực tế, nhiều vụ
việc ảnh hưởng đến hoạt động THQCT của Viện kiểm sát, đây là một trong
những nguyên nhân dẫn đến bỏ lọt tội phạm trong đó có tội phạm về tham ô
tài sản. Do vậy, BLTTHS năm 2015 cần bổ sung quy định: Cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng khi trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm, thì phải có
trách nhiệm gửi đầy đủ, kịp thời tài liệu, chứng cứ cho Viện kiểm sát. VKS
xác định trong số các vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm thì có
quyền yêu cầu CQĐT có thẩm quyền giải quyết theo trình tự, thủ tục giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo quy định của BLTTHS.
- Xuất phát từ chức năng của VKSND là THQCT nên cần phải tiếp tục
hoàn thiện các quy định của BLTTHS liên quan đến quyền năng của VKS
theo hướng mở rộng các quyền năng công tố mà VKS trực tiếp quyết định
như: VKS trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can theo đề nghị của CQĐT (song
song với quy định VKS phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT như
hiện nay), VKS trực tiếp ra quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo
đề nghị của CQĐT thay vì chủ yếu phê chuẩn như quy định của luật hiện
hành. Đồng thời tăng cường trách nhiệm pháp lý của CQĐT và Điều tra viên
trong việc chấp hành, thực hiện yêu cầu điều tra của VKS và Kiểm sát viên
theo hướng bổ sung quy định về chế tài phải chịu trách nhiệm cụ thể nếu
không chấp hành mà không có lý do chính đáng.
* Tăng cường hướng dẫn pháp luật
Từ thực tiễn THQCT nói chung và trong giai đoạn điều tra đối với tội
phạm tham ô nói riêng đã cho thấy các tình huống, tình tiết vụ án xảy ra trên
thực tế luôn đa dạng, phong phú hơn các quy định của pháp luật hiện hành.
57
Mặt khác các quy định của pháp luật hình sự, TTHS thường được xây dựng
mang tính khái quát cao, nên thường thiếu cụ thể, gây khó khăn và còn nhiều
nhận thức chưa thống nhất khi áp dụng trực tiếp vào các tình huống của vụ án.
Những năm qua, công tác giải thích, hướng dẫn pháp luật đã được tăng cường
nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Theo quy định của
Hiến pháp thì cơ quan giải thích pháp luật là Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
nhưng hầu như việc giải thích pháp luật mà cụ thể là pháp luật hình sự, TTHS
của cơ quan này còn bị bỏ trống. Việc tổng kết kinh nghiệm và hướng dẫn
pháp luật của các cơ quan tư pháp Trung ương nhiều lúc còn chậm và còn bộc
lộ sự thiếu thống nhất, còn có nội dung chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy,
theo tác giả cần phải nghiên cứu, thực hiện các giải pháp sau:
- Đề nghị Trung ương tiếp tục chỉ đạo thi hành Luật phòng, chống tham
nhũng, bảo đảm tính khả thi của các quy định phòng ngừa tham ô, tham
nhũng, có cơ chế khuyến khích người tố cáo tội phạm về tham nhũng; tiếp tục
rà soát những quy định hiện hành, khắc phục những sơ hở thiếu sót trong các
lĩnh vực dễ xảy ra tội phạm tham ô, tham nhũng (như: quản lý và sử dụng đất
đai, tài nguyên khoáng sản, đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý ngân sách và sử
dụng vốn công, kê khai thuế, quản lý và sử dụng hóa đơn, xuất nhập khẩu
hàng hóa…) sớm hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống có
hiệu quả đối với các vi phạm pháp luật, tội phạm tham ô, tham nhũng; hoàn
thiện văn bản quy định quản lý nhà nước về kê khai tài sản, thu nhập và cơ
chế kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn và rộng hơn là cơ
chế kiểm soát thu nhập trong xã hội nói chung để giúp phát hiện nguy cơ
tham nhũng; kịp thời phát hiện và thu hồi tài sản tham nhũng; bổ sung các
quy định liên quan đến việc quản lý, xử lý tài sản không minh bạch để nâng
cao hiệu quả thu hồi tài sản trong các vụ án tham ô tài sản.
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần tăng cường việc hướng dẫn, giải
thích pháp luật để đảm bảo tính thống nhất trong việc thi hành pháp luật; chủ
58
động tổ chức tổng kết công tác thực hiện pháp luật trong thực tế và giải thích,
hướng dẫn pháp luật để làm rõ thực trạng, tìm ra nguyên nhân tồn tại, thiếu
sót để từ đó có giải pháp chấn chỉnh, khắc phục.
- Đối với các cơ quan tư pháp Trung ương cần thường xuyên tập hợp
những vướng mắc, bắt cập khi áp dụng các quy định pháp luật hình sự, TTHS
để phối hợp ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện đầy đủ, phù hợp
với thực tiễn; đồng thời, có thể kịp thời báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội
xem xét ban hành hướng dẫn áp dụng pháp luật.
- Đề nghị Lãnh đạo VKSND tối cao kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc
hội giải thích pháp luật hoặc có sự phân công cho các Bộ, Ngành liên quan, nhất
là Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan chủ trì xây dựng BLHS phối hợp với các cơ
quan tư pháp Trung ương hướng dẫn việc áp dụng các quy định của BLHS về các
tội phạm kinh tế, chức vụ, tham nhũng đặc biệt là tội phạm tham ô tài sản (vì tội
phạm này hiện nay nhiều vướng mắc mà việc hướng dẫn cũng gặp nhiều vướng
mắc trong quan điểm giữa các ngành, nhất là sau khi có Hiến pháp năm 2013). Về
chính sách hình sự đối với tội phạm về chức vụ, tham nhũng nói chung và tội
phạm tham ô tài sản nói riêng cần được quan tâm chỉ đạo đúng mức trong quá
trình hướng dẫn áp dụng pháp luật, xử lý các hành vi tham ô tài sản, bảo đảm phù
hợp với cơ chế quản lý kinh tế, thực tiễn đất nước trong giai đoạn hiện nay; phù
hợp với công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, nhất là việc xử lý
những hành vi liên quan trong lĩnh vực tư nhân (không có vốn Nhà nước); các quy
định cần cụ thể, dễ áp dụng. Đề nghị Lãnh đạo VKSND tối cao kiến nghị Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng và Ban Nội chính Trung
ương có sự phân định rõ hơn về quan điểm chỉ đạo xử lý giữa các vụ án lớn
liên quan đến tham ô, tham nhũng.
- Đối với VKSND tỉnh Quảng Ninh thường xuyên thực hiện tốt công
tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn công tác THQCT nói chung và trong giai
đoạn điều tra tội phạm tham ô tài sản nói riêng để kịp thời phát hiện những
59
vấn đề vướng mắc, những vấn đề còn có nhận thức khác nhau khi áp dụng các
quy định của pháp luật và để kịp thời kiến nghị với VKSND tối cao cùng liên
ngành tư pháp Trung ương có hướng dẫn áp dụng thống nhất.
- Để giải quyết đúng đắn các vụ án tham ô tài sản, các cơ quan tiến
hành tố tụng phải căn cứ vào nhiều nguồn chứng cứ, trong đó kết luận giám
định là một nguồn chứng cứ quan trọng và được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên
những bất cập trong công tác giám định hiện nay đang là một trong những
nguyên nhân hạn chế đáng kể ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác giải quyết
các vụ án tham nhũng nói chung và các vụ án tham ô tài sản nói riêng. Vì vậy,
cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về giám định tư pháp, trong đó
khắc phục các bất cập của Luật giám định tư pháp hiện nay, đồng thời hoàn
thiện các chế định liên quan đến giám định theo chuyên ngành (như: giám
định tài chính, kế toán, xây dựng…) để tạo cơ sở pháp lý hoàn chỉnh cho việc
xác định đúng đắn và kịp thời giá trị thiệt hại về tài sản trong các vụ án tham
ô tài sản.
3.2.2.2. Nhóm giải pháp đối với công tác xây dựng ngành Kiểm sát
* Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức và trình độ chuyên môn cho đội ngũ Kiểm sát viên
Để đảm bảo hoạt động THQCT của VKSND nói chung và THQCT
trong giai đoạn điều tra đối với tội tham ô tài sản nói riêng đạt hiệu quả, chất
lượng thì việc đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao ý thức chính trị, đạo
đức và trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên trong
giai đoạn hiện nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì chủ thể trực tiếp thực
hiện công tác THQCT là cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành Kiểm sát và cũng
xuất phát từ những yêu cầu của cải cách tư pháp.
- Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức cán bộ theo Luật Tổ chức VKSND
năm 2014 và yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát các
hoạt động tư pháp của ngành kiểm sát nhân dân. Trước thực trạng công tác tổ
60
chức cán bộ của VKSND tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ một số tồn tại, cụ thể
như: Biên chế cán bộ cho các đơn vị (VKSND cấp huyện và các phòng
nghiệp vụ thuộc VKSND tỉnh) còn thiếu cả về số lượng và chất lượng, Kiểm
sát viên có năng lực đáp ứng được yêu cầu có tính chuyên sâu trong công tác
THQCT đối với các vụ án hình sự về tham ô tài sản còn thiếu. Cụ thể theo tác
giả cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản như sau:
+ Rà soát lại nhiệm vụ và các quy chế hoạt động của các đơn vị cấp
phòng trực thuộc VKSND tỉnh Quảng Ninh để xác định nhiệm vụ phù hợp, bảo
đảm việc phân công, phối hợp giữa các đơn vị cụ thể, rõ rang về nhiệm vụ, về
trách nhiệm, về mục tiêu và yêu cầu, từ đó đảm bảo tốt hơn hiệu quả, chất lượng
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát nói chung và công tác
THQCT ở giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng.
- Nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng tình hình biên chế, nhu cầu về
biên chế, nhu cầu Kiểm sát viên chuyên trách của các bộ phận THQCT trong
đó có hoạt động THQCT đối với các vụ án về tham ô. Đánh giá ưu, khuyết
điểm của việc bố trí, sắp xếp cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ nghiệp vụ, Kiểm
sát viên, để từ đó có sự sắp xếp lại cán bộ cho phù hợp với yêu cầu, phù hợp
với năng lực sở trường của cán bộ, Kiểm sát viên, góp phần nâng cao sức
mạnh, hiệu quả công tác của ngành kiểm sát Quảng Ninh.
+ Trước yêu cầu hiện nay là thực hiện chiến lược cải cách tư pháp theo
Nghị quyết số 49-NQ/TW trong đó có nội dung tổ chức Tòa án nhân dân theo
cấp xét xử và tổ chức mô hình của VKSND phù hợp với mô hình của Tòa án
nhân dân các cấp, VKSND tỉnh Quảng Ninh cần nghiên cứu, đánh giá đúng
thực trạng cơ sở vật chất, năng lực trình độ cán bộ về số lượng và chất lượng;
đồng thời, đánh giá khối lượng công việc của đơn vị trực thuộc đang đảm
nhiệm; những khó khăn, bất cập, vướng mắc trong việc tổ chức theo cấp xét
xử, từ đó chủ động đề xuất với VKSND tối cao về tổ chức bộ máy để đảm
61
bảo chất lượng công tác của ngành nói chung và hoạt động THQCT ở giai
đoạn điều tra nói riêng.
- Có biện pháp đào tạo để nâng cao nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức và trình độ chuyên môn cho đội ngũ Kiểm sát viên
Yếu tố con người trong bất cứ tổ chức nào cũng rất quan trọng, nó
quyết định đến hiệu quả hoạt động của tổ chức đó. Khi đề cập đến vai trò của
cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc có thành công hay thất bại đều
do cán bộ tốt hay kém”. Để đáp ứng điều kiện yêu cầu hiện nay công tác tổ chức
cán bộ của VKSND tỉnh Quảng Ninh cần thực hiện các giải pháp sau:
+ Luôn tạo điều kiện và khuyến khích cán bộ, Kiểm sát viên học tập
nâng cao trình độ nhận thức chính trị, chuyên môn nghiệp vụ; phải coi trọng
việc gắn quy hoạch với đào tạo bồi dưỡng cán bộ và có kế hoạch đào tạo phù
hợp, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ, Kiểm sát viên nâng cao trình độ của
mình, đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong
giai đoạn hiện nay.
+ Đặc thù của cán bộ công tác trong ngành KSND, là cơ quan bảo vệ
pháp luật, nên đội ngũ cán bộ ngoài việc có kiến thức chuyên môn thì phải có
tư tưởng chính trị vững vàng thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Công tác
này phải được thường xuyên ngay trong từng đơn vị và gắn với cuộc vận
động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”gắn
với cuộc vận động xây dựng đội ngũ cán bộ ngành kiểm sát “Vững về chính
trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ
cương và trách nhiệm”.
+ Bên cạnh việc đào tạo nâng cao trình độ nhận thức chính trị, chuyên
môn cho đội ngũ cán bộ, cần coi trọng việc định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng
kiến thức chuyên sâu theo hình thức học tập nghiên cứu các chuyên đề, như:
chuyên đề về công tác THQCT và kiểm sát điều tra vụ án tham ô tài sản,
62
chuyên đề về hội nhập quốc tế, chuyên đề nâng cao kỹ năng THQCT và kiểm
sát điều tra các vụ án tham ô tài sản… Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh
nghiệm theo chuyên đề, như: chuyên đề nâng cao chất lượng THQCT trong
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham ô tài sản, chuyên đề tổng hợp
những khó khăn, vướng mắc trong giải quyết các vụ án tham ô tài sản, chuyên
đề nâng cao hiệu quả giữa VKSND với Cơ quan điều tra trong giải quyết các
vụ án tham ô tài sản…
* Đổi mới công tác quản lý chỉ đạo và điều hành hoạt động THQCT ở
giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản của VKSND
Thực tiễn những năm qua, trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành,
VKSND tỉnh Quảng Ninh đã quán triệt đầy đủ các nguyên tắc của ngành
KSND (như nguyên tắc tập trung thống nhất, dân chủ…) và đạt được nhiều
kết quả đáng khích lệ, được VKSND tối cao cũng như cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương ghi nhận trong công tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ nói
chung và thực hiện hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án về tham
ô tài sản nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, công tác này vẫn bộc lộ
không ít tồn tại, hạn chế làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động
của từng đơn vị trong ngành. Để nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả hoạt
động quản lý, chỉ đạo, điều hành của VKSND tỉnh Quảng Ninh đối với hoạt
động thực hiện chức năng nhiệm vụ nói chung, thực hiện hoạt động THQCT
ở giai đoạn điều tra các vụ án về tham ô tài sản nói riêng, theo tôi cần phải
thực hiện một số công việc như sau:
+ Một là, xây dựng quy chế tổ chức, hoạt động của VKSND tỉnh Quảng
Ninh. Nội dung của quy chế quy định rõ nhiệm vụ của từng chức danh, vị trí
công tác; quy định mối quan hệ giữa các chức danh quản lý với nhau và với
đối tượng quản lý, chỉ đạo, điều hành; quy định về mối quan hệ giữa Viện
trưởng VKSND tỉnh Quảng Ninh với Ban cán sự Đảng, Đảng ủy và các đoàn
thể chính trị xã hội.
63
+ Hai là, Lãnh đạo VKS các cấp, các đơn vị nghiệp vụ cần xác định
đúng tầm quan trọng của việc giải quyết các vụ án về chức vụ, tham nhũng
nói chung và tội phạm tham ô tài sản nói riêng, để có sự tập trung chỉ đạo.
Ngay từ ban đầu cần thực hiện tốt việc phê chuẩn các quyết định tố tụng một
cách chặt chẽ để hạn chế oan, sai và cũng giúp việc điều tra sau đó được thuận
lợi, dễ dàng hơn. Cần có quy định ràng buộc trách nhiệm của Kiểm sát viên
phải bám sát tiến độ điều tra, cập nhật nghiên cứu tài liệu điều tra để kịp thời
đề ra các yêu cầu điều tra sát, đúng trong quá trình điều tra, bảo đảm việc khởi
tố, truy tố có căn cứ, đúng pháp luật.
+ Ba là, việc phân công nhiệm vụ cho cán bộ quản lý, Kiểm sát viên
phải phù hợp giữa khả năng chuyên môn và yêu cầu đỏi hỏi của từng vị trí
công tác trong tổ chức bộ máy. Cần rà soát, đánh giá lại đội ngũ cán bộ tại các
đơn vị có nhiệm vụ chủ chốt trong giải quyết các vụ án về tham ô để điều chỉnh,
bổ sung đủ số lượng, tăng cường chất lượng. Mặt khác cần tăng cường đào tạo, tự
đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh nghề nghiệp, phẩm chất
đạo đức để đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay; để giải quyết tốt các vụ án
lớn về kinh tế, chức vụ và tham nhũng người cán bộ cần có hai tố chất cơ bản là trí
tuệ và bản lĩnh.
+ Bốn là, xây dựng chế độ thông tin, báo cáo và xử lý thông tin; báo
cáo phải chính xác, kịp thời, đầy đủ. Thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo trong
ngành KSND; báo cáo cấp ủy Đảng, Ban Nội chính Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng chống tham nhũng những vụ đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp cần
báo cáo các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước để có sự chỉ đạo kịp thời các vụ án
này, đảm bảo các yếu tố pháp lý, nghiệp vụ, chính trị.
+ Năm là, coi trọng công tác tổng kết hoạt động của ngành kiểm sát, từ
đó đánh giá đúng, đầy đủ thực trạng, làm rõ ưu, khuyết điểm, nguyên nhân
của ưu, khuyết điểm, trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo quản lý, của Kiểm sát
viên, cán bộ trong chỉ đạo, điều hành cũng như thực hiện chức trách nhiệm
64
vụ. Các vụ án về tham ô tài sản thường là các vụ án phức tạp, dễ xảy ra oan
sai hoặc bỏ lọt tội phạm, cần có sự xem xét đánh giá thận trọng, tăng cường
trao đổi, nâng cao trình độ chuyên môn. Sau mỗi vụ án cần tổ chức rút kinh
nghiệm để việc giải quyết các vụ án sau được tốt hơn. Đảm bảo quyền bào
chữa của bị can, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, những trường
hợp có đơn kêu oan cần được đặc biệt quan tâm.
Đối với hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án về tội tham ô tài
sản cần tăng cường tổng kết, rút kinh nghiệm theo chuyên đề, như: chuyên đề
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THQCT, kiểm sát điều tra, kiểm sát
xét xử án tham ô tài sản; chuyên đề phối hợp giữa VKS với CQĐT trong giai
đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, điều tra, truy tố đối với tội phạm tham
ô tài sản; chuyên đề tổng hợp những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động
THQCT khi giải quyết các vụ án tham ô tài sản; chuyên đề phương pháp thu
thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ, tài liệu trong các vụ án tham ô tài sản;
chuyên đề nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản trong các vụ án tham ô
tài sản, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả THQCT ở giai đoạn điều tra đối
với tội phạm tham ô tài sản.
* Tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho ngành Kiểm sát và hoàn thiện
chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên
Từ khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW “về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” đến nay cơ sở vật chất, phương tiện, điều
kiện làm việc của các cơ quan tư pháp nói chung và ngành Kiểm sát nói riêng
đã được tăng cường và cải thiện đáng kể, từ đó nâng cao được chất lượng và
hiệu quả công tác. Nhưng so với yêu cầu thì cơ sở vật chất, trang thiết bị,
phương tiện làm việc, chính sách chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên
của ngành Kiểm sát nói chung và VKSND tỉnh Quảng Ninh nói riêng còn bộc
lộ nhiều hạn chế. Các phương tiện để phục vụ công tác chuyên môn như:
phương tiện giao thông, máy ghi âm, ghi hình, trang thiết bị văn phòng còn
65
thiếu, có loại chưa được trang bị; chế độ chính sách đãi ngộ tuy có cải thiện
nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cho cán bộ, một số chế độ đãi ngộ
mới chỉ quy định đối tượng được hưởng là Kiểm sát viên trong khi đó số lượng
cán bộ nghiệp vụ khác như chuyên viên, kiểm tra viên chưa được hưởng.
Từ thực trạng cơ sở vật chất, điều kiện trang thiết bị, phương tiện làm
việc và chế độ chính sách đối với cán bộ Viện kiểm sát hiện nay, để đảm bảo
chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát nói
chung và hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô
nói riêng, theo ý kiến tác giả cần phải:
+ Một là, Đảng, Nhà nước cần nghiên cứu, xây dựng đề án tổng thể về
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ quan tư pháp; cải cách chế độ
tiền lương, đãi ngộ đối với cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp trong đó có
VKSND. Xác định trách nhiệm của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương
trong việc tạo điều kiện hỗ trợ về kinh phí để đầu tư cơ sở vật chất, cải thiện
điều kiện làm việc cho các cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng.
+ Hai là, việc đầu tư xây dựng, cải tạo trụ sở làm việc, mua sắm cơ sở
vật chất, phương tiện, trang thiết bị làm việc cho ngành Kiểm sát cần phải
đồng bộ, thiết thực, đảm bảo chất lượng. Ưu tiên việc đầu tư trang thiết bị
chuyên dùng cho hoạt động THQCT nói chung và hoạt động THQCT trong
giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng, như: phương tiện
thông tin liên lạc, máy ghi âm, ghi hình, máy vi tính xách tay với các phần
mềm ứng dụng có hiệu quả cao). Trang bị đầy đủ có hệ thống tài liệu tham
khảo, tài liệu tổng kết rút kinh nghiệm, kết quả nghiên cứu chuyên sâu các
vấn đề liên quan đến hoạt động THQCT nói chung và hoạt động THQCT
trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng.
3.2.2.3. Nhóm giải pháp khác
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của
VKSND nói chung và và hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với
tội phạm tham ô tài sản nói riêng
66
Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn diện là nguyên tắc Hiến pháp
đã quy định. Do vậy, hoạt động của các cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà
nước ta nói chung và cơ quan VKSND nói riêng đều đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Mặt khác, các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành
kiểm sát suy cho cùng là thực hiện nhiệm vụ chính trị do Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao phó. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của ngành
kiểm sát nói chung và hoạt động THQCT luôn cần phải tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng. Do đó, phải đảm bảo sự lãnh đạo thường xuyên, toàn
diện, chặt chẽ đối với mọi mặt hoạt động của ngành kiểm sát, cả về chính trị,
tư tưởng, tổ chức cán bộ của cấp ủy Đảng địa phương.
Trong những năm qua, đặc biệt là thời gian gần đây, Đảng ta đã và
đang lãnh đạo thực hiện cải cách tư pháp cũng như đẩy mạnh chỉ đạo công tác
đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung trong đó có tội phạm tham ô
tài sản. Chất lượng công tác tư pháp đã đạt được nhiều thành quả trong đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội phạm
tham ô tài sản nói riêng. Để đảm bảo hoạt động THQCT nói chung và hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản nói
riêng, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động thực hiện
chức năng của ngành KSND nói chung và hoạt động THQCT nói riêng, cụ
thể như sau:
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với hoạt động của ngành
Kiểm sát nói chung và hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội
phạm tham ô tài sản nói riêng. Yêu cầu là chống khuynh hướng buông lỏng,
thả nổi, không kiểm tra, kiểm soát và không can thiệp quá sâu vào những vấn
đề thuộc về chuyên môn nghiệp vụ của ngành Kiểm sát. Các cấp ủy Đảng cần
tập trung lãnh đạo hoạt động của ngành Kiểm sát bằng quan điểm, đường lối
và định hướng các vấn đề quan trọng đối với hoạt động của ngành KSND. Sự
lãnh đạo này phải thường xuyên, kịp thời đối với các mặt hoạt động của
67
ngành Kiểm sát. Coi trọng công tác lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với Ban cán
sự Đảng VKSND về công tác tư tưởng, tổ chức và công tác kiểm tra.
- VKSND tỉnh Quảng Ninh cần chủ động tham mưu đề xuất với cấp ủy
Đảng địa phương tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao
nhận thức của các cấp ủy Đảng, của đảng viên về vai trò, vị trí, chức năng
nhiệm vụ của ngành KSND. Vì chỉ khi nào đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên
trong ngành KSND có lập trường tư tưởng vững vàng, tin tưởng vào đường
lối lãnh đạo của Đảng, nhận thức rõ về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của
ngành KSND thì mới hoàn thành được nhiệm vụ công tác của mình nói chung
và trong mặt trận đấu tranh phòng, chống tội phạm tham ô tài sản nói riêng.
Thứ hai, tăng cường mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Quảng Ninh với
Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an tỉnh Quảng Ninh trong hoạt động điều tra
và THQCT ở giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản.
Thực tiễn hoạt động điều tra của CQĐT và THQCT ở giai đoạn điều tra
của VKSND đã cho thấy ở vụ án nào mà VKS và CQĐT có sự phối hợp chặt
chẽ trên cơ sở đảm bảo hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, thì ở
đó hoạt động điều tra và hoạt động THQCT đạt chất lượng, hiệu quả cao. Vì vậy,
để tăng cường mối quan hệ giữa VKSND tỉnh Quảng Ninh với Cơ quan Cảnh
sát điều tra-Công an tỉnh Quảng Ninh trong động điều tra và THQCT ở giai đoạn
điều tra tội phạm tham ô tài sản; cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quyết định đến
mối quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan tố tụng này trong công tác đấu tranh
chống tội phạm. Do đó, lãnh đạo VKS và CQĐT phải tăng cường và thường
xuyên coi trọng công tác quán triệt giáo dục để nâng cao nhận thức cho đội ngũ
Kiểm sát viên, Điều tra viên về chức năng, nhiệm vụ, địa vị pháp lý của từng cơ
quan trong TTHS và chỉ đạo tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành mình.
- Ban hành quy chế phối hợp liên ngành giữa VKS với CQĐT, trong
quá trình điều tra vụ án hình sự theo hướng quy định rõ nội dung phối hợp cụ
68
thể, trách nhiệm của VKS, Kiểm sát viên; trách nhiệm của CQĐT, Điều tra
viên; phương thức, hình thức phối hợp ngay từ đầu (từ giai đoạn tiếp nhận,
giải quyết nguồn tin về tội phạm) và các bước tố tụng tiếp theo đến khi kết
thúc việc điều tra vụ án. Đối với Phòng THQCT và kiểm sát điều tra, kiểm sát
xét xử sơ thẩm án kinh tế, chức vụ (Phòng 3) VKSND tỉnh Quảng Ninh và
Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu (PC03)-
Công an tỉnh Quảng Ninh cần tổ chức nghiên cứu, xây dựng Quy chế phối
hợp giữa hai đơn vị trong hoạt động điều tra và hoạt động THQCT trong giai
đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản; để cụ thể hóa nội dung, phương
thức, trách nhiệm trong công tác phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng
điều tra và THQCT ở giai đoạn điều tra đối với các vụ án tham ô tài sản.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và của nhân
dân đối với hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô
tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh.
Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử là giám sát của Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp đối với các cơ quan nhà nước. VKSND trong quá
trình hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình chịu sự giám sát của
các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, của các cơ quan tổ chức khác và
nhân dân. Sự giám sát này là một trong những yếu tố đảm bảo cho hoạt động
thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nói chung và trong hoạt
động THQCT ở giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản nói riêng.
Để thực hiện được giải pháp này, đòi hỏi:
Cần hoàn thiện Luật Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các
cấp, trong hoạt động giám sát sự hoạt động của cơ quan nhà nước theo hướng
quy định rõ trách nhiệm giám sát của các ban chuyên trách; của cá nhân đại
biểu; của Hội đồng nhân dân tại các kỳ họp; quy định rõ hình thức giám sát
(giám sát toàn diện, giám sát chuyên đề...).
69
Mặt khác, việc giám sát của cơ quan dân cử không chỉ là để các cơ
quan nhà nước khác hoạt động đúng khuôn khổ pháp luật, mà còn phải nghiên
cứu để ban hành các kiến nghị, nghị quyết của cơ quan dân cử nhằm đảm bảo
các điều kiện cho cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng hoạt động
có hiệu quả.
Đổi mới, nâng cao chất lượng giám sát thường xuyên và hoạt động chất
vấn của các cơ quan dân cử. Để làm được việc này cần phải: tạo bước chuyển
cơ bản về lựa chọn đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, theo hướng tăng
cường đại biểu chuyên trách, giảm đến mức thấp nhất đại biểu kiêm nhiệm,
đại biểu giữ chức vụ lãnh đạo chủ chốt cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp;
không vì cơ cấu mà giảm yêu cầu về chất lượng đại biểu. Riêng đối với Ban
pháp chế Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong cơ cấu đại biểu giữ chức vụ
Trưởng, Phó ban này phải có trình độ am hiểu pháp luật; phải phân công một
số cán bộ chuyên trách am hiểu pháp luật và hoạt động của các cơ quan tư
pháp. Có như vậy thì việc giám sát của cơ quan dân cử đối với các cơ quan tư
pháp nới đạt hiệu quả cao.
Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa VKSND và Mặt trận tổ quốc Việt
Nam tỉnh Quảng Ninh theo hướng cụ thể hóa các hình thức để Mặt trận tổ
quốc và các tổ chức thành viên tham gia giám sát hoạt động của VKS. Mặt
trận tổ quốc giám sát kết quả hoạt động tổng hợp ý kiến cử tri về hoạt động
của ngành Kiểm sát; tuyên truyền pháp luật để nâng cao nhận thức của cán
bộ, đảng viên và nhân dân về chức năng, nhiệm vụ ngành KSND; trực tiếp
các đại biểu tham gia vào một số hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của
ngành Kiểm sát như: hoạt động kiểm sát trực tiếp việc tuân theo pháp luật
trong kiểm sát giải quyết nguồn tin về tội phạm, kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự, giải quyết khiếu nại- tố cáo
trong hoạt động tư pháp.
70
Để nhân dân phát huy và thực hiện quyền giám sát của mình thì cùng
với việc tuyên truyền nâng cao nhận thức pháp luật cho nhân dân. Nhận thức
về quyền hạn, trách nhiệm của công dân, về chức năng nhiệm vụ của
VKSND, cần phải nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định
về nội dung và trách nhiệm của VKS các cấp trong việc công khai hóa kết quả
hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành, để tạo điều kiện cho
công dân thực hiện quyền giám sát của mình.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở phân tích những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc và
những nguyên nhân của nó, trong Chương 3 của luận văn, tác giả đã đưa ra
phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo việc THQCT trong giai
đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. Đó là các
nhóm giải pháp:
Một là, nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường giải thích,
hướng dẫn pháp luật, trong đó tác giả đưa ra các giải pháp cụ thể như tiếp tục
hoàn thiện Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và tăng cường công tác
giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật.
Hai là, nhóm giải pháp đối với công tác xây dựng ngành Kiểm sát,
trong đó tác giả đưa ra 3 giải pháp cụ thể là: Đổi mới công tác tổ chức, cán
bộ, nâng cao ý thức bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ năng lực
chuyên môn của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên; Đổi mới công tác quản lý chỉ
đạo và điều hành hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm
tham ô tài sản của VKSND; Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc
cho ngành kiểm sát và hoàn thiện chế độ chính sách cho cán bộ, kiểm sát
viên.
71
Ba là, nhóm giải pháp khác, trong đó có những giải pháp cụ thể sau:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của VKSND nói chung
và hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản
nói riêng; Tăng cường mối giữa VKSND tỉnh Quảng Ninh với Cơ quan Cảnh
sát điều tra- Công an tỉnh Quảng Ninh trong hoạt động điều tra và THQCT
trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản; Hoàn thiện cơ chế
giám sát của các cơ quan dân cử và của nhân dân đối với hoạt động THQCT
trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản của VKSND tỉnh
Quảng Ninh.
72
KẾT LUẬN
Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay đang được Đảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm
đặc biệt với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây
dựng mô hình tổng thể của tổ chức bộ máy Nhà nước, trong đó có hệ thống
các cơ quan tư pháp. Phân định rõ vai trò, vị trí, chức năng, cơ chế hoạt động
của từng cơ quan tư pháp trong hệ thống chính trị. Với việc xác định chức
năng, nhiệm vụ của VKSND là thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, đây là cơ sở phương pháp luận để tác giả tiếp cận, nghiên
cứu về vấn đề THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài
sản của VKSND tỉnh Quảng Ninh hiện nay. Từ năm 2014 đến năm 2018, hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm nói chung và đối với
tội phạm tham ô tài sản nói riêng của VKSND tỉnh Quảng Ninh đã đạt được
những kết quả tích cực, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự
tại địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh đó hoạt động THQCT trong giai đoạn
điều tra đối với tội phạm nói chung và đối với tội phạm tham ô tài sản nói
riêng vẫn còn bộc lộ hạn chế, thiếu sót, như: áp dụng pháp luật chưa chính
xác, có thể bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, thời hạn điều tra kéo dài, trình
trạng hoàn hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng giảm
chưa đáng kể, việc kiến nghị vi phạm thiếu sót trong quản lý Nhà nước, quản
lý xã hội về an ninh trật tự qua công tác THQCT còn hạn chế...; tình hình tội
phạm về tham nhũng nói chung và tội phạm tham ô tài sản nói riêng vẫn diễn
biến phức tạp, công tác thu hồi tài sản tham nhũng còn thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu của cải cách tư pháp đặt ra và sự mong mỏi của người dân. Để
góp phần vào khắc phục tình trạng trên và để đảm bảo chất lượng hoạt động
THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô của VKSND tỉnh
Quảng Ninh, tác giả đã sử dụng, kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa
học như phân tích, tổng hợp, so sánh tiếp thu thành tựu nghiên cứu khoa học
73
của những người đi trước để đánh giá thực trạng của hoạt động THQCT trong
giai đoạn điều tra đối với tội phạm tham ô tài sản ở VKSND tỉnh Quảng Ninh.
Để từ đó đưa ra phương hướng, giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả
hoạt động THQCT của VKSND tỉnh Quảng Ninh, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Những kết quả đạt được trong Luận văn ngoài sự nỗ lực, cố gắng, tâm
huyết của bản thân tác giả, còn có sự giúp đỡ của thầy cô, bạn bè, đồng
nghiệp, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn Luận văn này
(PGS.TS Trần Đình Nhã). Tuy nhiên, do khả năng của học viên và điều kiện
nghiên cứu, Luận văn này không tránh khỏi những hạn chế nhất định về nội
dung và hình thức. Học viên mong nhận được sự đóng góp ý kiến tham gia
của các thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp để học viên tiếp tục hoàn thiện
Luận văn của mình./.
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb sự thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, Nxb sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành Trung ương khóa VIII, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
8. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp Việt
Nam (1956, 1959, 1980, 1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
Việt Nam 2013, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
10. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Hình
sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Hình
sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75
14. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới,
Hà Nội.
15. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngay 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
16. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị "về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Hà Nội.
17. Bộ Công an (2005), Từ điển bách khoa Công an nhân dân, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
18. Lê Cảm (2001), Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố, Báo cáo
Hội nghị khoa học, thành phố Hồ Chí Minh.
19. Ngô Văn Đọn (Chủ biên) (2004), Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động
tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu
trong công tác kiểm sát hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
20. Đỗ Văn Đương (2004), "Những biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003", Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, (7), tr.31-36.
21. Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật
học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
22. Học viện Tư pháp (2014), Giáo trình kỹ năng thực hiện quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.
23. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (2003), Nghị quyết số
02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 Hướng dẫn áp dụng một số qui định của
Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.
24. Nguyễn Đức Mai (1999), Một số ý kiến về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài
khoa học cấp Bộ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
25. Khuất Văn Nga (2004), "Những tư tưởng mới của Bộ luật Tố tụng hình sự
76
năm 2003", Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, (14), tr.39-42.
26. Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
27. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức
Viện Kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
28. Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2008), Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
29. Hà Mạnh Trí (2003), "Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm đấu tranh có
hiệu quả với tội phạm. Bảo vệ tốt hơn quyền tự do dân chủ của công dân",
Tạp chí Kiểm sát, (25), tr.27-29.
30. Trường Đại học kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình đào tạo nghiệp vụ
kiểm sát, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
31. Trường Học Viện Cảnh sát nhân dân (1999), Giáo trình luật tố tụng hình
sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và
pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
34. Viện Khoa học Pháp lý (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
Khoa, Hà Nội.
35. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Những vấn đề lý luận về quyền
công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến
năm 1999, Hà Nội.
36. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
37. Luận án Tiến sĩ luật: “Thực trạng, nguyên nhân các biện pháp đấu tranh
phòng chống tội phạm về tham nhũng” của tác giả Trần Công Phàn-Phó Viện
trưởng VKSND tối cao, bảo vệ tại Viện nhà nước và pháp luật năm 2004.
38. Luận văn: “Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn
77
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay” của thạc sĩ Trịnh
Duy Tám, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
năm 2005.
39. Luận văn thạc sĩ luật: “Hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng”
của tác giả Nguyễn Thế Anh, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh năm 2005.
40. Luận văn thạc sĩ luật: “Thực trạng và giải pháp phòng chống tội phạm
tham nhũng” của tác giả Trần Anh Tuấn, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006.
41. Luận văn thạc sĩ luật: “Cơ sở lí luận, thực tiễn xây dựng và hoàn thiện bộ
máy phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Vũ Việt
Phương, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
năm 2007.
42. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (2018),
Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 về
quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện
một số qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội.
43. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay kiểm sát viên hình sự, Tập
I, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
44. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017): Qui chế tạm thời thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Hà Nội.
45. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Qui chế tạm thời công tác kiểm sát
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Hà
Nội.
46. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2014), Báo cáo tổng kết công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án
kinh tế, chức vụ, tham nhũng năm 2014, Quảng Ninh.
47. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2015), Báo cáo tổng kết công
78
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án
kinh tế, chức vụ, tham nhũng năm 2015, Quảng Ninh.
48. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2016), Báo cáo tổng kết công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án
kinh tế, chức vụ, tham nhũng năm 2016, Quảng Ninh.
49. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2017), Báo cáo tổng kết công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án
kinh tế, chức vụ, tham nhũng năm 2017, Quảng Ninh.
50. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018), Báo cáo tổng kết công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án
kinh tế, chức vụ, tham nhũng năm 2018, Quảng Ninh.
79