VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG DUY TÙNG

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN

TẠI TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG DUY TÙNG

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN

TẠI TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

Hà Nội, 2019

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ

trợ từ người hướng dẫn khoa học là TS. Nguyễn Trung Thành.

Các nội dung nghiên cứu, số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung

thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đặng Duy Tùng

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA

BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ........................................................................ 7

1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm ma túy .................. 7

1.2. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy ..................... 23

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI TỈNH

QUẢNG NINH ......................................................................................................... 35

2.1. Khái quát tình hình xét xử các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma

túy tại tỉnh Quảng Ninh .................................................................................... 35

2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự trong xét

xử các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy của tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh ...................................................................................................... 36

Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY

ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT

MA TÚY ................................................................................................................... 57

3.1. Yêu cầu ...................................................................................................... 57

3.2. Các giải pháp ............................................................................................. 61

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

KHXH : Khoa học xã hội

Nxb : Nhà xuất bản

TAND : Toà án nhân dân

TANDTC : Toà án nhân dân tối cao

TANDCC : Toà án nhân dân cấp cao

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong hơn 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản

Việt Nam, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, ”Đất nước ta đã thu

được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa

xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN” [22, tr 190]. Tuy nhiên, bên cạnh những

thành tựu, chúng ta còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết. Dưới sự tác động của mặt trái

kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế....Tình hình tội phạm nói chung, tội

phạm về ma túy nói riêng xảy ra phổ biến, diễn biến cực kỳ phức tạp và nghiêm

trọng có nhiều hướng gia tăng trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương.

Quảng Ninh là một tỉnh ven biển có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế - xã

hội, có vị trí chiến lược về quốc phòng và an ninh, có đường biên giới với nước láng

giềng Trung Quốc và đặc biệt là hết sức thuận lợi về giao thông, giao thương buôn

bán. Chính vì vậy, bọn tội phạm về ma túy chọn Quảng Ninh là một trong những địa

bàn tiêu thụ và chung chuyển ma túy sang một số nước khác. Thực tế ở Quảng Ninh

cho thấy, các đối tượng mua bán trái phép ma túy ngày càng hoạt động tinh vi, liều

lĩnh hơn, hình thành đường dây mua bán ma túy lớn trong nội địa cũng như ra nước

ngoài. Trước tình hình đó, các cơ quan chức năng của tỉnh đã và đang tập trung lực

lượng, phương tiện, áp dụng nhiều biện pháp đấu tranh với tội phạm ma túy, nhất là

tội mua bán trái phép ma túy, nhờ đó đem lại kết quả nhất định, bước đầu đã hạn chế,

kiểm soát được tình hình tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, do tội phạm về ma túy hoạt

động hết sức tinh vi, manh động nên việc phát hiện, xử lý vẫn còn hạn chế, chưa đáp

ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy mà thực tiễn đặt ra.

Việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh còn gặp nhiều khó

khăn, vướng mắc. Trong khi đó, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có

nhiều quy định mới về các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm

đoạt chất ma túy; chính sách hình sự, nhất là chính sách xử lý các tội phạm này có

nhiều thay đổi, thể hiện nguyên tắc xử lý tội phạm về ma túy có phân biệt, phân hóa

của pháp luật hình sự Việt Nam. Trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện một số chất ma túy

mới chưa có trong danh mục của Chính phủ đang là loại “hàng hóa đặc biệt” được

1

mua bán trái phép.

Với mong muốn nghiên cứu góp phần làm phong phú thêm lý luận về tội mua

bán trái phép chất ma túy, đánh giá thực trạng lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự

xử lý tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở đó kiến nghị những giải

pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự mới về tội mua bán trái

phép chất ma túy, học viên lựa chọn đề tài: “Tội mua bán trái phép chất ma túy theo

pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận

văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Tội phạm về ma tuý nói chung, tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng là

một trong những tội xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội. Do vậy, có nhiều công

trình khoa học quan tâm nghiên cứu về tội phạm này ở nhiều phương diện, cấp độ

khác nhau, nhất là phương diện luật hình sự và tội phạm học. Các công trình nghiên

cứu về chủ đề này đã có những đóng góp quan trọng vào việc làm rõ những vấn đề lý

luận và thực tiễn về tội phạm này. Đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn bổ ích mà

học viên tiếp thu để thực hiện luận văn của mình. Trong các công trình đã công bố

mà học viên có điều kiện tiếp cận, tiêu biểu là các công trình cụ thể sau đây:

+ Các giáo trình Luật hình sự Việt Nam - phần các tội phạm của những cơ sở

đào tạo ngành luật như: Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật Đại học Quốc gia, Đại học

Luật thành phố Hồ Chí Minh..., đặc biệt là giáo trình Luật hình sự Việt Nam - phần

các tội phạm do GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên, được NXB khoa học xã hội phát

hành năm 2013. Trong các giáo trình này, các nhà nghiên cứu đều đề cập đến những

vấn đề lý luận và quy định của luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy ở mức

độ khái quát nhất. Ngoài hệ thống giáo trình, đề cập đến tội phạm này dưới góc độ lý

luận và quy định của BLHS là các cuốn Bình luận khoa học BLHS, đặc biệt là cuốn

“Bình luận khoa học BLHS 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần các tội

phạm) - Quyển 2” của GS.TS Nguyễn Ngọc Hoà, do NXB Tư pháp phát hành năm

2018. Trong các cuốn bình luận khoa học BLHS (phần các tội phạm), các tác giả đều

có bình luận quy định của BLHS về tội mua bán trái phép chất ma túy, làm rõ các yếu

tố cấu thành cũng như hình phạt được BLHS quy định đối với tội phạm này.

2

+ Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ (chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình

sự; hoặc chuyên ngành tội phạm học) có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Luận án

tiến sĩ “Phòng ngừa các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt

chất ma túy trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh,

Học viện Khoa học xã hội, năm 2016; luận án tiến sĩ “Các tội phạm về ma túy trên địa

bàn tỉnh Điện Biên: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Đỗ

Thành Trường, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017; Luận án tiến sĩ “Các tội phạm về

ma túy trên địa bàn tỉnh Nghệ An: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của

tác giả Bùi Thị Phương Quỳnh, Học viện Khoa học xã hội 2018; Luận văn thạc sĩ “Định

tội danh các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt

Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Huỳnh Như Thương, Học viện Khoa

học xã hội, năm 2019; Luận văn thạc sĩ “Tội mua bán trái phép chất ma túy trong pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định” của tác giả Nguyễn Thị Mai, Học viện

Khoa học xã hội năm 2016… Các luận án, luận văn này đề cập đến tội phạm về ma túy

hoặc dưới góc độ tội phạm học, hoặc dưới góc độ luật hình sự từ thực tiễn của một địa bàn

cụ thể với những nội dung rộng hẹp khác nhau nhưng đều tập trung vào ba vấn đề: lý

luận, thực tiễn và giải pháp. Đây cũng là những tài liệu tham khảo quý giá để học viên

thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình.

+ Sách chuyên khảo: có công trình nghiên cứu về “Trách nhiệm hình sự đối với

các tội phạm về ma túy” của tiến sĩ Trần Văn Luyện, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội -

2000, cuốn “Tìm hiểu về tội phạm và các tội phạm về ma túy” của các tác giả Trần

Minh Hưởng và Nguyễn Văn Niêm, NXB Lao động, Hà Nội - 2002 ... Những cuốn

sách chuyên khảo này đi sâu phân tích vấn đề trách nhiệm hình sự theo quy định của

BLHS năm 1999 về các tội phạm ma túy.

+ Những bài báo khoa học bàn đến các khía cạnh cụ thể có liên quan đến tội

phạm về ma túy rất phong phú, nhưng tiêu biểu là các bài báo sau đây: “Ma tuý và chất

ma túy theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Xuân Thiện; “Những bất cập

trong việc giám định hàm lượng chất ma túy” của tác giả Nguyễn Thành Long; “Một số

ý kiến trong việc sửa đổi Thông tư liên tịch số 17/2007/TTCT-BCA-VKSNDTC-

TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII

3

các tội phạm về ma túy” của tác giả Trần Mạnh Hà; “Những điểm mới của Thông tư

liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSDNTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 đối với tội

phạm về ma tuý” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh; “Những quy định của BLHS năm 1999 đối

với các tội phạm về ma tuý” của tác giả Phạm Minh Tuyên; “Những khó khăn, vướng

mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án về ma tuý”

của tác giả Đỗ Văn Kha; “Bàn về sửa đổi, bổ sung Điều 194 BLHS năm 1999” của tác

giả Nguyễn Ngọc Anh; “Một số vướng mắc khi xét xử các tội phạm về ma túy và những

vấn đề cần hướng dẫn, hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Văn Trượng; “Tội tàng trữ, vận

chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý” của tác giả Mai Bộ; “Hoàn

thiện một số quy định của BLHS về tội phạm ma tuý theo tinh thần cải cách tư pháp”

của tác giả Nguyễn Văn Trượng...

Như vậy, mặc dù có khá nhiều công trình khoa học đề cập đến các tội phạm

về ma túy ở các phương diện, cấp độ, phạm vi nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên,

chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về tội mua bán trái

phép chất ma túy theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) từ

thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Qua đây có thể xác định luận văn này không trùng lặp với

các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài luận văn của học viên.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình

sự về tội mua bán trái phép chất ma túy và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ninh,

luận văn hướng tới mục đích xây dựng các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định

của BLHS năm 2015 về tội phạm này, qua đó góp phần đấu tranh phòng chống tội

phạm về ma tuý có hiệu quả trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ nghiên

cứu sau:

+ Phân tích làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất

ma túy trên các bình diện: khái niệm, dấu hiệu pháp lý đặc trưng, phân biệt tội phạm

này với các tội phạm khác có liên quan.

4

+ Bình luận, nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam

về tội phạm ma tuý; chỉ ra những hạn chế, bất cập của những quy định đó gây khó

khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.

+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Quảng Ninh của các cơ quan

tiến hành tố tụng hình sự (chủ yếu là TAND), rút ra những kết quả đạt được và

những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân.

+ Đưa ra yêu cầu, giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của BLHS

năm 2015 về tội mua bán trái phép chất ma túy trong thời gian tới.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của

pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy và thực tiễn áp

dụng của quy định đó tại tỉnh Quảng Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Về lý luận: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lý luận chuyên ngành luật

hình sự Việt Nam.

+ Về thực tiễn: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự,

nhưng trong giới hạn định tội danh và quyết định hình phạt của TAND tỉnh Quảng

Ninh là cơ bản.

+ Về không gian, thời gian: Số liệu, tài liệu được thu thập ở địa bàn tỉnh

Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018 gồm số liệu thống kê và một số bản án hình

sự sơ thẩm, phúc thẩm về tội mua bán trái phép chất ma tuý.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về pháp luật hình

sự và đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên lý luận

chuyên ngành luật hình sự về tội phạm ma túy để làm rõ đối tượng nghiên cứu.

5

5.2. Các phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích,

tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia... để làm rõ từng nội dung nghiên cứu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn có tác dụng góp phần làm rõ và phong phú

thêm lý luận chuyên ngành luật hình sự về một tội phạm cụ thể - Tội mua bán trái

phép chất ma túy.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp cơ sở thực tế có thể tham khảo để

sửa đổi, bổ sung quy định của BLHS hiện hành về tội mua bán trái phép ma túy cũng

như giúp các chủ thể áp dụng đúng quy định của BLHS về tội mua bán trái phép chất

ma túy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án về tội phạm này.

Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu tham khảo trong học tập, nghiên cứu, giảng

dạy chuyên ngành luật hình sự ở các cơ sở đào tạo luật.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép chất

ma túy.

Chương 2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội mua

bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Quảng Ninh.

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp

luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy trong thời gian tới.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm ma túy

1.1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm ma túy giai

đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017)

1.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự đầu

tiên năm 1985

Sau khi giành được chính quyền về tay giai cấp công nông, ngoài việc tạm

thời sử dụng luật lệ của chế độ cũ không trái với nền độc lập của nước Nam và chính

thể dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đã từng bước xây dựng hệ thống

pháp luật mới làm cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng chống, chống tội phạm,

trong đó có tội phạm về ma túy. Nhận thức rõ thuốc phiện là loại độc dược đặc biệt

cần hạn chế, từng bước xóa bỏ, ngày 05/03/1952 Thủ tướng Chính phủ ban hành

Nghị định số 150 quy định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý

thuốc phiện. Theo các điều 1,2,3,4 của Nghị định này thì cây thuốc phiện chỉ được

trồng ở thượng du Bắc bộ, Liên khu 4; người trồng cây thuốc phiện phải nộp thuế

hiện vật bằng 1/3 nhựa thuốc phiện thu được và bán toàn bộ số thuốc phiện còn lại

cho mậu dịch quốc doanh. Điều 5, Nghị định 150 còn quy định: “Ngoài cơ quan

chuyên trách, không ai được tàng trữ và vận chuyển nhựa thuốc phiện hay thuốc

phiện đã nấu rồi” [15]. Tiếp đó, ngày 22/12/1952, Thủ tướng Chính phủ ban hành

Nghị định số 225-TTg quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc

phiện sẽ phải chịu các chế tài như sau:

- Tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép;

- Phạt tiền từ 1 đến 5 lần trị giá thuốc phiện lậu. Ngoài ra người phạm pháp

còn có thể bị truy tố trước tòa án.

Nghiên cứu các nghị định nêu trên, chúng tôi thấy, Nhà nước ta (Chính phủ)

mới chỉ đề cập đến việc xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển trái phép thuốc phiện,

không đề cập đến việc xử lý hành vi “sản xuất hoặc mua bán trái phép thuốc phiện”.

7

Đây có thể là những thiếu sót của công tác lập pháp lúc bấy giờ, nên không đáp ứng

được yêu cầu đấu tranh chống việc buôn lậu thuốc phiện. Chính vì vậy, Nghị định số

580-TTg ngày 15/09/1955 của Thủ tướng Chính phủ đã bổ sung Nghị định số 150-

TTg, trong đó có một nội dung quan trọng là: “Những người vi phạm Nghị định số

150-TTg ngày 05/03/1952 trong các trường hợp sau đây có thể bị đưa ra TAND để

xét xử:

1. Buôn thuốc phiện lậu có nhiều người tham dự và có thủ đoạn để gian dối;

2. Tang vật trị giá trên 1 triệu đồng;

3. Buôn nhỏ hoặc làm môi giới nhưng có tính chất thường xuyên, đã thành

chuyên môn hoặc đã bị phạt tiền nhiều lần;

4. Các vụ liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ đội;

5. Không thi hành quyết định phạt tiền của cơ quan thuế hoặc hải quan.

Người có hành vi phạm tội nêu trên có thể bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm, phạt

tiền, tịch thu tang vật và các phương tiện dùng vào việc phạm tội” [15].

Trong giai đoạn này Bộ Tư pháp còn ban hành một số Thông tư hướng dẫn

đường lối truy tố và xét xử những vụ án về buôn lậu thuốc phiện như: Thông tư số

635-VHH/HS ngày 29/03/1958; Thông tư số 33-VHH/HS ngày 05/07/1958. Theo

hướng dẫn tại các Thông tư này thì: “Trường hợp việc buôn lậu thuốc phiện gây tác

hại lớn làm cản trở việc thực hiện chính sách và kế hoạch Nhà nước thì có thể áp

dụng Sắc lệnh số 267-SL ngày 15/06/1956 để xử phạt trên 5 năm tù. Đối với bọn cầm

đầu những tổ chức buôn lậu có thể phạt tù từ 5 năm đến 10 năm tù, bọn tay chân

chuyên nghiệp phạt từ 3 đến 5 năm tù, bọn cơ hội đã giáo dục nhiều lần mà còn vi

phạm thì phạt từ 1 đến 3 năm tù, trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì vẫn có

thể phạt dưới 1 năm tù hoặc cho hưởng án treo...” [49].

Như vậy, qua nghiên cứu một số văn bản pháp luật trong những năm đầu

thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân cho thấy nổi lên một số nét đặc trưng cơ bản

sau đây:

+ Các vi phạm pháp luật được áp dụng để xử lý tội phạm liên quan đến thuốc

phiện chỉ được quy định trong các văn bản dưới luật là nghị định hoặc thông tư, chứ

không phải là luật hoặc sắc lệnh, sắc luật.

8

+ Đối tượng đấu tranh mới chỉ là thuốc phiện chứ chưa đề cập đến các chất

ma túy.

+ Hành vi bị coi là tội phạm lúc đầu mới chỉ là hành vi tàng trữ, vận chuyển

trái phép, sau đó là hành vi buôn bán trái phép (buôn lậu thuốc phiện); không xử lý

hành vi trồng cây thuốc phiện.

+ Về đường lối, chính sách xử lý theo hướng kết hợp tuyên truyền, giáo dục,

vận động với nghiêm trị kẻ cố tình phạm tội buôn lậu thuốc phiện và có thể xử phạt

tù đến 10 năm, trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ có thể cho hưởng án treo.

Sau khi miền Nam được giải phóng, căn cứ vào Nghị định số 76/CP ngày

25/03/1977 của Hội đồng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ đã ra Thông

tư liên ngành hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong cả nước. Tại điểm 2 mục

H của Thông tư này đã xác định là Nghị định số 580-TTG về trừng trị tội buôn lậu

thuốc phiện tiếp tục có hiệu lực thi hành và cho áp dụng thống nhất trong cả nước.

Đến những năm của thập kỷ 80 - thế kỷ thứ 19, tình hình trồng cây thuốc

phiện, buôn bán thuốc phiện, hút thuốc phiện, tiêm chích ma túy có chiều hướng gia

tăng và diễn biến phức tạp, đòi hỏi phải xử lý nghiêm khắc hơn. Do vậy, quy định

của Nghị định số 580-TTg về trách nhiệm hình sự của người phạm tội buôn lậu thuốc

phiện không còn phù hợp nữa, không đủ tác dụng đấu tranh với tội phạm này. Do đó,

Nhà nước ta đã quy định hành vi buôn bán, tàng trữ trái phép chất ma túy phải chịu

trách nhiệm hình sự về tội buôn bán hàng cấm theo quy định của Pháp lệnh trừng trị

các tội đầu cơ, buôn lậu, buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982 với hình

phạt cao nhất là tử hình và phạt tiền đến 10 lần trị giá hàng phạm pháp hoặc thu lợi

bất chính.

1.1.1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự

năm 2015

Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới,

ngày 27/06/1985 Quốc hội nước ta đã chính thức thông qua BLHS đầu tiên (sau đây

gọi là BLHS năm 1985). Trong Bộ luật này lúc mới ban hành có 2 điều luật đề cập

đến tội phạm về ma túy, đó là: Điều 166 quy định tội buôn bán, tàng trữ hàng cấm

(trong đó có ma tuý) và Điều 203 quy định tội tổ chức dùng chất ma túy. Do đánh giá

9

không đúng tính chất đặc biệt nguy hiểm của hành vi buôn bán, tàng trữ trái phép

chất ma túy nên nhà làm luật đã coi ma túy ngang hàng với kim khí quý, đá quý,

ngoại tệ và chỉ quy định mức phạt cao nhất đối với tội buôn lậu là 20 năm tù. Mặt

khác, Điều 166 BLHS năm 1985 cũng chỉ đề cập đến việc xử lý hình sự hành vi,

buôn bán, tàng trữ hàng cấm, trong đó có ma túy, cho nên hành vi sản xuất, vận

chuyển trái phép chất ma túy xảy ra trong thực tiễn không được xử lý hình sự (không

bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Đây là một bất cập lớn của BLHS năm 1985 lúc

mới ban hành.

Trước tình hình đó, ngày 28/12/1989, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật

Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985, theo đó có bổ sung Điều 96a quy

định tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy ở mục B,

Chương 1 “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”. Điều 96a quy định 3 khung hình

phạt hết sức nghiêm khắc đối với tội phạm này; hình phạt nghiêm khắc nhất áp dụng

trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng là tử hình.

Tháng 04/1992, Quốc hội nước ta thông qua Hiến pháp mới (Hiến pháp năm

1992) mở đầu cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tại Điều 61 Hiến

pháp 1992 đã quy định: “Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử

dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma túy khác. Nhà nước quy định chế độ cai

nghiện bắt buộc và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm”. [40]. Đây là cơ sở pháp lý

quan trọng để các cơ quan lập pháp và áp dụng pháp luật cũng như các cơ quan hữu

quan khác phối hợp đấu tranh có hiệu quả với tội phạm về ma túy và hoàn thiện cơ

chế, chính sách, pháp luật về kiểm soát, phòng chống ma tuý (tệ nạn ma tuý và tội

phạm về ma tuý).

Để triển khai thực hiện Hiến pháp năm 1992 ngày 29/01/1993 Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 60/CP về tăng cường chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm

soát ma túy. Cùng với đó, ngày 05/12/1992, TANDTC, VKSNDTC, Bộ nội vụ cũng

ra Thông tư liên ngành số 07/TTLN hướng dẫn áp dụng Điều 96a và Điều 203 BLHS

năm 1985 nhằm cụ thể hoá Điều 61 Hiến pháp năm 1992. Trong Thông tư này, lần

đầu tiên các cơ quan có thẩm quyền đã định lượng thuốc phiện và các chất ma túy

10

khác làm căn cứ để xác định ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính, cũng

như xác định trách nhiệm hình sự theo các khoản của Điều 96a. Đồng thời, trong

Thông tư này còn hướng dẫn cụ thể tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi tổ

chức sử dụng chất ma túy. Theo quy định tại Thông tư này thì những hành vi sản

xuất, vận chuyển, tàng trữ trái phép thuốc phiện từ 100 gam trở lên và hành vi mua

bán trái phép thuốc phiện với bất kỳ số lượng nào đều bị coi là tội phạm và phải chịu

trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 96a BLHS năm 1985. Đối với hành vi tổ

chức sử dụng trái phép chất ma túy thì dù là lần đầu và dưới bất cứ hình thức nào đều

bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 203 BLHS năm 1985.

Thực tiễn 5 năm áp dụng Thông tư 07/TTLN cho thấy, Thông tư này đã góp

phần quan trọng vào việc đấu tranh phòng, chống ma túy. Tuy nhiên qua thực tiễn áp

dụng cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập mà thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội

phạm về ma túy đòi hỏi phải tháo gỡ, sửa đổi, bổ sung, đó là:

+ Thông tư liên ngành số 07/TTLN chỉ quy định vấn đề “định lượng” đối với

thuốc phiện, còn các chất ma túy khác thì hướng dẫn “tính theo giá trị tương đương

của thuốc phiện”. Hướng dẫn này có nhiều hạn chế, bất cập, đúng như một nhà

nghiên cứu đánh giá và đặt ra vấn đề phải giải quyết khi áp dụng là “Giá trị tương

đương nói trong Thông tư số 07/TTLN là giá trị tương đương tính bằng tiền hay căn

cứ vào tính độc hại, độ gây nghiện hay một đại lượng gì khác để quy đổi tương

đương” [26, tr 13].

+ Thông tư 07/TTLN vẫn chưa hướng dẫn cụ thể, thỏa đáng về hành vi trái

pháp luật của người có trách nhiệm quản lý thuốc gây nghiện; về hành vi chiếm đoạt

chất ma túy và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại Điều 203 BLHS năm 1985.

Do một số vấn đề hướng dẫn tại Thông tư số 07/TTLN không còn phù hợp với tình

hình tội phạm về ma túy diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi, manh động

nên TANDTC, VKSNDTC, Bộ nội vụ sau khi trao đổi ý kiến với Bộ y tế đã ban

hành Thông tư số 05/TTLN ngày 31/08/1996 và Thông tư số 09/TTLN ngày

10/10/1996 hướng dẫn áp dụng Điều 96a và Điều 203 BLHS năm 1985.

Trong Thông tư số 09/TTLN ngày 10/10/1996, đề cập đến nhiều vấn đề mà

thực tiễn đấu tranh phòng, chống ma túy đặt ra như:

11

+ Xác định các chất ma túy thường gặp;

+ Các trường hợp cần giám định để xác định chất ma túy;

+ Giải thích từ ngữ (đưa ra khái niệm) đối với các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận

chuyển, mua bán trái phép chất ma túy và tổ chức sử dụng chất ma túy;

+ Xác định đường lối xử lý cũng như trách nhiệm hình sự của người quản lý

thuốc gây nghiện mà cố ý làm trái quy chế quản lý thuốc;

+ Quy định trách nhiệm hình sự trong các trường hợp chiếm đoạt chất ma túy;

+ Quy định số lượng chất ma túy làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự theo

các khoản của Điều 96a BLHS và các trường hợp có thể xử lý bằng biện pháp hành

chính. Đặc biệt là lần đầu tiên Thông tư số 09/TTLN đã đề cập đến vấn đề xác định cụ

thể số lượng của nhiều loại ma túy thường gặp, đồng thời xác định rõ số lượng chất ma

túy mà người phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán bị xử phạt tù chung

thân hoặc tử hình. Cụ thể là: người sản xuất, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép

dưới 20kg thuốc phiện phải chịu hình phạt tù có thời hạn, chỉ khi số lượng hàng phạm

pháp vượt quá 25 kg thuốc phiện hoặc trên 1kg heroin (côcain) thì người phạm tội có

thể phải chịu hình phạt tử hình. Mặc dù hình phạt quy định đối với những trường hợp

này cũng khá nghiêm khắc nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng

chống tội phạm ma túy đang có xu hướng tăng đột biến vào những năm 1996, 1997.

Trước tình hình đó, qua nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh chống ma túy của

một số nước trên thế giới, tổng kết thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật nhiều

năm qua, ngày 10/05/1997, Quốc hội Khoá IX đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung

một số điều của BLHS năm 1985, trong đó quy định một chương riêng (Chương

VIIA) “Các tội phạm về ma tuý”. Chương này gồm 14 điều (từ Điều 185a đến Điều

185o), trong đó có 13 Điều quy định các tội phạm về ma tuý cụ thể (từ Điều 185a

đến Điều 185n) và một số điều quy định hình phạt bổ sung (Điều 185o). So với trước

đây, Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS lần thứ tư này đã quy định 9 tội danh mới về ma

túy, ngoài việc tách các tội phạm quy định tại Điều 96a BLHS năm 1985 (Trước khi

sửa đổi, bổ sung lần thứ tư này) thành 4 tội danh độc lập quy định tại các Điều 185a,

185b, 185c, 185đ. Nghiên cứu các điều luật này thấy rằng trách nhiệm hình sự và

hình phạt đối với các tội sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma

12

túy nghiêm khắc hơn so với quy định tại Điều 96a BLHS và hướng dẫn áp dụng pháp

luật tại Thông tư liên ngành số 09/TTLN ngày 10/10/1996. Sau khi ban hành Luật

sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLHS năm 1985 ngày 10/05/1997, TANDTC,

VKSNDTC, Bộ nội vụ (nay là Bộ công an) đã có Thông tư liên ngành số

01/1998/TTLN ngày 02/01/1998 hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS năm

1985 (sửa đổi). Trong Thông tư này đã giải thích, hướng dẫn tương đối đầy đủ về các

tội sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy và một số tội phạm

khác của Chương VIIA.

Mặc dù BLHS năm 1985 trong hơn chục năm thi hành đã có 4 lần sửa đổi, bổ

sung, đặc biệt là lần thứ 4 vào năm 1997 đã có đầy đủ những quy định cụ thể về tội

phạm ma túy, xong về cơ bản thì Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm

1985 chỉ là giải pháp tình thế nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn đấu tranh

phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về ma túy. Do vậy, trong bối cảnh

đất nước ta đang chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế

theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế mới - cơ chế thị trường định

hướng XHCN giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mở cửa hợp tác

rộng rãi với các nước trong khu vực và trên thế giới nên BLHS năm 1985 đã bộc lộ

nhiều hạn chế, bất cập, không còn phù hợp với tình hình mới, cần phải sửa đổi, bổ

sung toàn diện. Trên tinh thần đó, BLHS năm 1999 được ban hành thay thế BLHS

năm 1985. Trong BLHS năm 1999, các tội phạm về ma túy được quy định tại

Chương XVIII gồm 10 điều (từ Điều 192 đến Điều 201).

So với BLHS năm 1985, quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm ma

túy có những điểm mới sau đây:

Một là, nhập 4 tội quy định tại các điều Điều 185c (tội tàng trữ trái phép chất

ma tuý); Điều 185d (tội vận chuyển trái phép chất ma tuý); Điều 185đ (tội mua bán

trái phép chất ma tuý) và Điều 185e (Tội chiếm đoạt chất ma tuý) thành một tội danh

mới quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 (Thực chất đây là điều luật quy định tội

phạm ghép). Do có việc nhập 4 tội quy định ở 4 điều luật khác nhau vào một điều luật,

bởi vậy từ 13 điều quy định tội phạm về ma túy trong BLHS năm 1985, nay chỉ còn 10

điều luật quy định các tội phạm này trong BLHS năm 1999. Chúng tôi cho rằng, việc

13

BLHS năm 1999 nhập 4 tội quy định ở 4 điều luật và 1 điều luật có cùng chế tài là có

cơ sở, vì các tội phạm này có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội không khác biệt

nhau lớn. Mặt khác, thực tế cho thấy, các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán chiếm

đoạt chất ma túy thường đan xen nhau, hành vi này được thực hiện là tiền đề để thực

hiện hành vi kia. Chẳng hạn, vận chuyển, tàng trữ là để mua bán chất ma túy. Chính vì

vậy, nhiều nhà thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho rằng: “Nhiều vụ án tuy đã được

khám phá, song rất khó phân biệt, bóc tách xem đâu là hành vi vận chuyển, đâu là

hành vi mua bán, tàng trữ” [59, tr 7]. Do vậy, việc nhập các tội phạm này vào một

điều luật cũng có bất cập nhất định.

Hai là, bỏ hình phạt tử hình đối với một tội; điều chỉnh mức xử phạt tù của

từng khung hình phạt cho phù hợp với các loại tội phạm được phân loại ở phần

chung của BLHS; hình phạt bổ sung không còn quy định ở một điều luật riêng mà

đưa vào từng điều luật quy định các tội phạm. Cụ thể là:

Nếu Điều 185m, BLHS năm 1985 có quy định hình phạt tử hình đối với tội

cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy thì Điều 200 BLHS

năm 1999 không còn quy định hình phạt tử hình đối với tội phạm này. Việc bỏ hình

phạt tử hình đối với tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy

không chỉ phù hợp với trào lưu chung của nhân loại về tôn trọng, bảo vệ quyền sống

của con người, mà còn phù hợp với chính sách, đường lối xử lý nhân đạo, phù hợp

với thực tế điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này ở nước ta.

Về hình phạt tiền, BLHS năm 1999 cũng điều chỉnh mức phạt tiền khởi điểm

từ 10 triệu (Theo quy định của BLHS năm 1985) xuống 5 triệu đối với một số tội có

quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Việc sửa đổi như vậy, có ý kiến cho

rằng: “Điều này, thể hiện BLHS năm 1999 đã đề cao hình thức xử lý bằng hình phạt

tù, còn hình phạt tiền chỉ là hình phạt bổ sung mà không có tính bắt buộc như BLHS

năm 1985. Thực tế việc quy định hình phạt tiền mang tính bắt buộc và mức khởi điểm

của phạt tiền là 10 triệu đồng theo BLHS năm 1985 là không mang tính khả thi. Có

nhiều đối tượng phạm tội bản thân là con nghiện và gia đình thực chất không hề có

khả năng để chấp hành phán quyết của tòa án về hình phạt tiền” [59, tr 8].

14

Ba là, BLHS đã sửa đổi, bổ sung một số tình tiết định khung hình phạt như:

Bỏ tình tiết định khung “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 điều này” và tình tiết

“có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 điều này” ở các khung hình phạt tăng nặng

của một số tội phạm về ma túy. Việc BLHS năm 1999 bỏ các tình tiết định khung

nêu trên là có cơ sở, bởi vì trong mỗi khung hình phạt của các tội phạm về ma túy,

nhà làm luật đều quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình phạt để Toà án có thể

lựa chọn quyết định một mức hình phạt phù hợp trong giới hạn đó. Nếu có nhiều tình

tiết định khung tăng nặng được quy định trong từng khoản của điều luật cụ thể thì

đương nhiên mức hình phạt cụ thể được quyết định áp dụng với người bị kết án có

thể tới mức tối đa được quy định trong khung hình phạt đó. Do vậy, nếu áp dụng tình

tiết “có nhiều tình tiết quy định ở khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này” để tiếp tục tăng

nặng hình phạt được áp dụng là bất hợp lý, vì đã áp dụng hai lần các tình tiết định

khung tăng nặng. Điều đó không đảm bảo nguyên tắc xử lý có lợi cho người phạm

tội, nguyên tắc công bằng.

Cùng với việc bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng, BLHS năm 1999 còn

bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội đối với trẻ em” tại điểm c khoản 2

điều 198 (tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý). Điều này đã đáp ứng được

yêu cầu bảo vệ trẻ em của Đảng, Nhà nước ta, đồng thời phù hợp với Công ước quốc

tế về Quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên.

Ngoài ra, BLHS năm 1999 còn sửa đổi các tình tiết tăng nặng định khung một

cách cụ thể, rõ ràng hơn để đảm bảo áp dụng thống nhất như: tình tiết “gây tổn hại

nặng cho sức khỏe của người khác hoặc gây cố tật nặng cho người khác” quy định

tại điểm e khoản 2 Điều 185i và tại điểm h của khoản 2 Điều 185m BLHS năm 1985.

Đây là những tình tiết tăng nặng định khung gây không ít khó khăn, vướng mắc

trong thực tiễn áp dụng dẫn tới việc áp dụng tình tiết này thiếu sự thống nhất và

không được chính xác. Để khắc phục hạn chế, thiếu sót này, BLHS năm 1999 đã quy

định tỷ lệ thương tật cụ thể đối với những trường hợp này là “gây tổn hại cho sức

khỏe người khác và tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc tỷ lệ thương tật từ 61%

trở lên”.

15

Sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, ngày 24/12/2007, Bộ Công an,

VKSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số

17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP hướng dẫn áp dụng một số quy

định tại Chương XVIII ”Các tội phạm này về ma tuý” của BLHS năm 1999. Tại

Thông tư này đã giải thích một số thuật ngữ (khái niệm) hướng dẫn áp dụng, tình tiết

là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt; hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm

hình sự trong trường hợp có nhiều hành vi phạm tội; hướng dẫn áp dụng từng tội

danh cụ thể được quy định tại Chương XVIII BLHS năm 1999. Điều đó đã giúp việc

nhận thức và áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về các tội phạm về ma túy

được thống nhất và chính xác.

Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng, Thông tư số 17/TTLT đã bộc lộ nhiều

hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho việc điều tra, truy tố, xét xử; đặc biệt

là làm cho các vụ án về tội phạm ma túy bị tồn đọng, không được xử lý kịp thời

nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy mà thực tiễn đặt

ra. (Những bất cập, hạn chế của Thông tư này, chúng tôi sẽ trình bày ở Chương 2

luận văn để đảm bảo sự cân đối giữa các chương).

Mặt khác, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng

Thông tư số 17/TTLT, đồng thời để phù hợp với quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung

một số điều của BLHS năm 1999 về các tội phạm ma túy, ngày 14/11/2015, các cơ

quan liên ngành ở Trung ương đã ban hành thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-

BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP sửa đổi, bổ sung Thông tư số 17. Những sửa đổi,

bổ sung cơ bản quan trọng của Thông tư 08/2015/TTLT là:

+ Thứ nhất, sửa đổi tiểu mục 1.4 Phần I Thông tư số 17 quy định về giám định

hàm lượng chất ma túy, theo đó đã hướng dẫn như sau: “Trong mọi trường hợp khi

thu giữ được các chất nghi là ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép

chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng

lượng chất ma túy, tiền chất...” [8]. Do có quy định này mà nhiều vụ án về ma túy

phải “đắp chiếu” không đưa ra xét xử được vì cơ quan điều tra không xác định được

“hàm lượng chất ma túy” thu giữ được. Trong khi đó tình hình tội phạm về ma túy trên

phạm vi cả nước có xu hướng ngày càng tăng và diễn biến phức tạp, nghiêm trọng.

16

Đến nay theo Thông tư số 08/2015/TTLT thì chỉ còn có bốn trường hợp bắt buộc

phải trưng cầu giám định hàm lượng để xác định trọng lượng chất ma túy, đó là:

“a) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất ma túy ở thể rắn được hòa

thành dung dịch;

b) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất ma túy ở thể lỏng đã được

pha loãng;

c) Xái thuốc phiện;

d) Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần” [8]

+ Thứ hai, bác bỏ một số hướng dẫn trong Thông tư số 17/2007/TTLT có liên

quan đến tội sử dụng trái phép chất ma túy để phù hợp với BLHS năm 1999 (sửa đổi

bổ sung năm 2009). Bởi Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 đã

phi tội phạm hoá “tội sử dụng trái phép chất ma tuý”. Như vậy, kể từ ngày

01/01/2010 (ngày mà BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 có hiệu lực

thi hành) thì pháp luật hình sự nước ta không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma

túy là tội phạm.

Tóm lại, trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, Nhà nước ta luôn luôn quan

tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật hình sự làm công cụ sắc bén trong

cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, có thời kỳ do nhận thức

và trình độ kĩ thuật lập pháp nên pháp luật hình sự của nước ta chậm được đổi mới và

còn nhiều bất cập, hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời thực tiễn đấu tranh phòng, chống

tội phạm ma túy. Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ma

túy ngày càng gia tăng, diễn biến cực kỳ phức tạp, tính chất ngày càng nghiêm trọng,

gây nhiều hậu quả tác hại cho xã hội, pháp luật hình sự Việt Nam cần tiếp tục được

đổi mới, sửa đổi bổ sung ngày càng hoàn thiện hơn.

1.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

về tội phạm ma túy nói chung, tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nói riêng

Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được Quốc Hội khoá

XIII chính thức thông qua ngày 27/11/2015 tại kỳ họp thứ 10 và được sửa đổi, bổ

sung năm 2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Bộ luật này tiếp tục dành một

chương quy định các tội phạm về ma túy. Đó là Chương XX “Các tội phạm về ma tuý”.

17

Chương XX gồm 13 điều luật (từ Điều 247 đến Điều 259) quy định 13 tội danh tương

ứng với 9 tội quy định trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

So với BLHS năm 1999 cho thấy, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) có những nội dung sửa đổi bổ sung sau đây về các tội phạm ma túy:

+ Thứ nhất, quy định cụ thể, rõ ràng hơn các dấu hiệu cấu thành tội phạm và

định lượng đối tượng tác động, hậu quả do tội phạm gây ra; đồng thời phân hóa trách

nhiệm hình sự giữa các hành vi tội phạm nhằm đảm bảo tính công bằng trong việc xử

lý tội phạm, vì thế đã tạo thuận lợi trong việc áp dụng, cụ thể là:

- Quy định rõ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tại 5 điều luật (Điều 249,

250, 252, 257 và 258); bổ sung để làm rõ hành vi “chứa chấp việc sử dụng trái phép

chất ma tuý” ở Điều 256; bổ sung và sắp xếp lại cho phù hợp với quy trình quản lý,

sử dụng chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần ở Điều 259;

- Quy định rõ các trường hợp cụ thể nếu người thực hiện hành vi phạm tội,

bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại khoản 1 của 05 điều luật (Điều 247, 249, 252,

254 và 259).

- Quy định rõ mức tối thiểu chất ma túy mà người thực hiện hành vi phạm tội

bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại 06 điều Luật (Điều 247, 249, 250, 252, 253, 254)

để làm ranh giới với xử lý hành chính. Đây là điểm mới nhất của Chương XX so với

Chương XVIII của BLHS năm 1999, bởi kể từ ngày BLHS năm 2015 có hiệu lực thi

hành thì việc xử lý các tội phạm về ma túy chỉ căn cứ vào quy định của BLHS,

không phải theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch như trước đây nữa.

+ Thứ hai, sửa đổi bổ sung hoặc tách một số điều luật của BLHS năm 1999 như:

- Sửa đổi, bổ sung một số yếu tố định tội, định khung tại 08 điều luật (Điều

247, 248, 251, 253, 254, 255, 256, 259).

- Tách tội danh quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 thành bốn tội danh cụ

thể được quy định tại 04 điều luật độc lập, đó là: Điều 249 (Tội tàng trữ trái phép

chất ma túy); Điều 250 (Tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (Tội mua

bán trái phép chất ma túy) và Điều 252 (Tội chiếm đoạt chất ma túy). Đồng thời tách

tội danh được quy định tại Điều 200 BLHS năm 1999 thành hai tội danh được quy

định tại các điều đó là: Điều 257 (Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất

18

ma túy) và Điều 258 (Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy).

+ Thứ ba, thay đổi đơn vị đo “trọng lượng” thành “khối lượng” cho đúng với

đơn vị đo lường theo quy định của pháp luật quốc tế và các văn bản pháp luật hiện

hành có liên quan của Nhà nước ta. Chẳng hạn, theo Nghị định số 65/2001/NĐ-CP

ngày 28/09/2001 của Chính phủ ban hành hệ thống đơn vị đo lường hợp pháp của

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thì đơn vị đo trọng lượng là Niutơn (N), đơn vị đo

khối lượng là gam, kilogam. Vì vậy phải thay thuật ngữ “trọng lượng” bằng thuật

ngữ “khối lượng” để phù hợp với quy định của Nghị định này và đảm bảo chính xác

về mặt khoa học.

+ Thứ tư, bổ sung thêm một số ma túy thường gặp phổ biến trong đời sống xã

hội vào điều luật như: bổ sung “cây côca, cây cần sa” vào Điều 247; bổ sung 04 chất

ma túy ở thể rắn là “Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, XLR-11 và lá khát”

vào các điểm, khoản của điều: Điều 248, 249, 250, 251, 252; bổ sung “rễ, thân, cành

cây cần sa” vào các điểm, khoản của điều: Điều 249, 250, 251, 252.

+ Thứ năm, sửa đổi, bổ sung một số quy định về hình phạt, cụ thể là:

- Bỏ hình phạt tử hình đối với hai tội, đó là tội tàng trữ trái phép chất ma túy

và tội chiếm đoạt chất ma túy. Hình phạt nghiêm khắc nhất đối với hai tội phạm này

là tù chung thân.

- Mức hình phạt tù được quy định thấp hơn ở một số tội phạm thuộc các điều

như: Điều 249, 258 và 259.

- Sửa đổi quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung như: Nâng mức khởi

điểm hình phạt tiền từ 1 triệu đồng (quy định tại Điều 192 BLHS năm 1999) lên 5

triệu đồng ở Điều 247 BLHS năm 2015 và từ 5 triệu đồng (quy định tại Điều 201

BLHS năm 1999) lên 10 triệu đồng ở Điều 259 BLHS năm 2015. Đối với các tội

phạm còn lại vẫn giữ nguyên như quy định của BLHS năm 1999.

- Sắp xếp lại các tình tiết tại khoản quy định hình phạt bổ sung tại các điều

như: Điều 248, 249, 250, 251, 252, 253, 255, cụ thể đưa tình tiết “cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”

lên trước tình tiết tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”;

19

- Quy định việc miễn trách nhiệm hình sự đối với người trồng cây thuốc

phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy nhưng đã tự

nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền trước khi thu hoạch

(Điều 247, khoản 4).

Đối với tội mua bán trái phép chất ma túy, ngoài việc tách ra khỏi Điều 194

BLHS năm 1999 và được quy định tại một điều luật riêng (Điều 251) BLHS năm

2015, thì cũng có những nội dung sửa đổi, bổ sung nhất định giống các tội phạm về

ma túy khác như: bổ sung ba loại ma túy mới (Methamphetamine, Amphetamine,

MDMA) là đối tượng tác động của tội phạm này. Ngoài ra, Luật Sửa đổi, bổ sung

một số điều của BLHS năm 2015 được Quốc Hội thông qua năm 2017 còn bổ sung

02 loại ma túy khác là: XLR-11 và lá khát là đối tượng tác động của tội mua bán trái

phép chất ma túy.

Thêm vào đó, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 còn bổ

sung một tình tiết định khung tăng nặng “qua biên giới” ở khoản 2 Điều 251 BLHS

năm 2015, mà lúc mới ban hành BLHS năm 2015 đã để lọt tình tiết này.

So với tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), tội vận chuyển trái phép

chất ma túy (Điều 250) và tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252) nhà làm luật có quy

định rõ mức tối thiểu chất ma túy ở khoản 1 của điều luật để làm ranh giới giữa xử lý

hình sự với xử lý hành chính thì đối với tội mua bán trái phép chất ma túy nhà làm luật

không quy định vấn đề này. Điều đó có nghĩa là mọi hành vi mua bán trái phép chất ma

túy không kể khối lượng bao nhiêu đều bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, ở khoản 2, 3, 4 của

Điều 251, nhà làm luật có quy định khối lượng chất ma túy cụ thể với tính chất là yếu tố

định khung tăng nặng hình phạt.

Như vậy, sau lần sửa đổi bổ sung vào năm 2017, tội mua bán trái phép chất

ma túy được quy định tại điều 251 như sau:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07

năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm

đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

20

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người

dưới 16 tuổi;

g) Qua biên giới;

h) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam

đến 01 kilôgam;

i) Heroine, Côcaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11

có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

k) Lá cây côca, lá khát (lá cây Catha edulis); rễ, lá, thân, cành, hoa, quả của

cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định

có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

n) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;

o) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

p) Có hai chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất

đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các

điểm từ điểm h đến điểm o của khoản này;

q) Tái phạm nguy hiểm;

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm

đến 20 năm:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 kilôgam

đến dưới 05 kilôgam;

b) Heroine, Côcaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11

có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

c) Lá cây côca, lá khát (lá cây Catha edulis); rễ, lá, thân, cành, hoa, quả của

cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định

21

có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;

d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam;

đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;

e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam;

g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít;

h) Có hai chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất

đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các

điểm từ điểm a đến điểm g của khoản này;

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 20 năm,

tù chung thân hoặc tử hình:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam

trở lên;

b) Heroine, Côcaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11

có khối lượng 100 gam trở lên;

c) Lá cây côca, lá khát (lá cây Catha edulis); rễ, lá, thân, cành, hoa, quả của

cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định

có khối lượng 75 kilôgam trở lên;

d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên;

đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên;

e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên;

g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên;

h) Có hai chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất

đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các

điểm từ điểm a đến điểm g của khoản này;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 500 triệu đồng,

cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm

đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Như vậy, Điều 251 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy

định khá chi tiết, cụ thể các tình tiết định tội, định khung hình phạt đối với tội mua

bán trái phép ma túy, đảm bảo tính minh bạch của pháp luật hình sự Việt Nam và

22

tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật hình sự trong điều tra, truy tố, xét xử

các vụ án về tội phạm này. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng đối với định tội danh và

quyết định hình phạt của tòa án trong quá trình xét xử vụ án về tội mua bán trái

phép chất ma túy.

1.2. Những vấn đề lý luận về tội mua bán trái phép chất ma túy

1.2.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội mua bán trái

phép chất ma túy

1.2.1.1. Khái niệm

Tội mua bán trái phép chất ma túy là một trong những tội phạm về ma túy

được quy định tại Chương VXIII BLHS năm 1999 và hiện nay tiếp tục được quy

định tại Chương XX BLHS năm 2015 bao gồm 13 điều luật (từ Điều 247 đến Điều

259) quy định 13 tội danh tương ứng với 9 tội danh được quy định trong BLHS năm

1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Trong đó, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái

phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý (Điều 149 BLHS năm 1999) được tách thành 04

tội danh quy định tại 04 điều luật khác nhau: Điều 249 “Tội tàng trữ trái phép chất

ma tuý”; Điều 250 “Tội vận chuyển trái phép chất ma tuý”; Điều 251 “Tội mua bán

trái phép chất ma túy” và Điều 252 “Tội chiếm đoạt chất ma túy”. Như vậy, tội mua

bán trái phép chất ma túy là một trong những tội phạm nói chung, đồng thời là một

trong những tội phạm về ma túy được quy định tại Chương XX BLHS năm 2015

(Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Với nghĩa đó, khái niệm tội phạm về ma túy phải được

xây dựng trên cơ sở khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành và khái

niệm chung về tội phạm ma túy. Đây là những khái niệm nền tảng, khái niệm gốc

giúp cho việc xây dựng khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy có cơ sở khoa

học và pháp lý vững chắc. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu đã được công bố, học

viên đồng tình với khái niệm các tội phạm về ma túy với nội dung như sau: ”Tội

phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà

nước” [23,tr 191]. Đây là một khái niệm khái quát phản ánh dấu hiệu pháp lý đặc

trưng của nhóm tội phạm này so với nhóm tội phạm khác được quy định trong các

chương tương ứng thuộc phần các tội phạm BLHS, đó là dấu hiệu khách thể loại của

tội phạm. Do vậy, nếu định nghĩa một cách đầy đủ khái niệm tội phạm về ma túy thì

23

trong nội hàm khái niệm phải phản ánh tất cả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng chung

của các tội phạm về ma túy theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam. Với quan

niệm như vậy, cần phải hiểu: ”Các tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm

cho xã hội được quy định trong BLHS (Chương XX) do người có năng lực trách

nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm

phạm chế độ quản lý các chất ma túy của nhà nước mà theo quy định của Bộ luật

hình sự hiện hành phải bị xử lý hình sự”. Có định nghĩa như vậy, thì trong nội hàm

khái niệm các tội phạm về ma túy mới phản ánh đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng chung

của tất cả các tội phạm về ma tuý.

Trên cơ sở khái niệm chung về các tội phạm ma túy, có thể đưa ra khái niệm

về tội phạm mua bán trái phép chất ma túy như sau: “Tội mua bán trái phép chất ma

túy là hành vi mua bán trái phép chất ma túy, được quy định trong BLHS (Điều 251

BLHS), do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình

sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ độc quyền mua bán các chất ma túy

của Nhà nước và theo quy định của BLHS hiện hành phải bị xử lý hình sự”. Khái

niệm này đã phản ánh đầy đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này với

tính chất là: hành vi mua bán trái phép chất ma túy có tính nguy hiểm cho xã hội

(Phương diện khách quan); được quy định trong BLHS (Phương diện pháp lý); do

người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện

một cách cố ý (Phương diện chủ quan) và theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình

sự (phương diện hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm)

1.2.1.2. Những dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy

Xét về cấu trúc pháp lý, tội mua bán trái phép chất ma túy được hợp thành bởi

04 yếu tố: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Mỗi

yếu tố đều có dấu hiệu pháp lý đặc trưng phản ánh bản chất xã hội - pháp lý của hành

vi mua bán trái phép chất ma túy.

* Về khách thể của tội phạm

Tội mua bán trái phép chất ma túy có khách thể chung được quy định tại Điều

8 BLHS, đồng thời có cùng khách thể loại với các tội phạm về ma túy khác, nhưng

có khách thể trực tiếp riêng của mình. Nếu như khách thể loại của các tội phạm về

24

ma túy là chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước thì khách thể trực tiếp của tội

mua bán trái phép chất ma túy thì chỉ là một bộ phận của chế độ quản lý đó, mà cụ

thể là chế độ mua, bán các chất ma túy của Nhà nước. Theo chế độ này, vấn đề mua

bán chất ma túy thuộc độc quyền của Nhà nước. Ngoài Nhà nước (thông qua các cơ

quan, tổ chức của mình) thì không có một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào có

quyền mua bán chất ma túy.

Đối tượng tác động của tội phạm ở đây không phải là hàng hóa thông thường

mà là các chất ma túy. Theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 thì:

“Các chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong danh

mục do chính phủ ban hành” (Khoản 1 Điều 2). [36]. Như vậy, theo luật phòng,

chống ma túy của nước ta, thì chất ma túy gồm hai loại: Chất gây nghiện và chất

hướng thần. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh hoặc gây ảo

giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.

Chất hướng thần là chất kích thích hoặc bức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện

đối với người sử dụng.

Danh mục các chất ma túy và tiền chất mà Chính phủ Việt Nam ban hành được

dựa trên danh mục các chất ma túy và tiền chất theo các công ước quốc tế về ma túy.

Do vậy, mỗi khi có sự thay đổi trong danh mục các chất ma túy, chất hướng thần và

tiền chất theo thông báo của Tổng thư ký Liên hợp quốc thì danh mục các chất ma túy

và tiền chất trong pháp luật Việt Nam cũng được xem xét để sửa đổi, bổ sung cho phù

hợp. Về vấn đề này, Điều 3 Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định:

“Khi phát hiện chất mới chưa có trong các danh mục chất ma túy, chất hướng thần và

tiền chất ban hành theo quy định này liên quan đến việc sản xuất, điều chế, sử dụng

chất ma túy hoặc cần thiết phải chuyển đổi các chất trong danh mục theo thông báo

của Tổng thư ký Liên hợp quốc thì Bộ công an có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ

y tế, Bộ công thương, Bộ khoa học và công nghệ và các cơ quan có liên quan xem xét,

trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung và công bố danh mục đó”.

Hiện nay ở Việt Nam theo các Danh mục (Danh mục I, II, III, IV về các chất

ma túy và tiền chất) của Chính phủ ban hành theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP

ngày 19/7/2013 và được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 126/2015) NĐ-CP ngày

25

09/12/2015 và mới nhất là Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 thì có tới

250 chất ma túy và 43 tiền chất. Tất cả các chất ma túy và tiền chất được ban hành

trong các danh mục này đều được kiểm soát chặt chẽ theo quy định của pháp luật.

Những hành vi vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước (trong đó có hành vi

mua bán trái phép) đối với các chất ma túy và tiền chất đều có thể bị xử lý theo quy

định của pháp luật, trên cơ sở khối lượng, thể tích của chất ma túy và tiền chất. Các

chất ma túy trong các danh mục của Chính phủ Việt Nam phải được viện dẫn khi giải

quyết vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy, trong quá trình điều tra,

truy tố, xét xử vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy, các cơ quan tiến hành tố

tụng hình sự phải chứng minh được đối tượng của hành vi mua bán là chất ma túy có

trong danh mục của Chính phủ, đặc biệt là phải xác minh được khối lượng, thể tích

chất ma túy theo quy định tại Điều 251 BLHS năm 2015. Đối với hoạt động xét xử

của TAND, việc xác định này có ý nghĩa không chỉ đối với định tội danh mà còn đối

với quyết định hình phạt. TAND sẽ không thể xét xử và kết án một người phạm tội

mua bán, trái phép chất ma túy nếu không chứng minh được người đó có hành vi

mua bán trái phép chất ma túy.

* Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy bao gồm tổng thể

những biểu hiện của tội phạm này ra bên ngoài mà các cơ quan tiến hành tố tụng

hình sự có thể nhận thức và chứng minh được. Những biểu hiện đó bao gồm: hành vi

mua bán trái phép chất ma tuý và các biểu hiện khách quan khác như: Thời gian, địa

điểm, phương thức, thủ đoạn, công cụ phương tiện, hoàn cảnh thực hiện hành vi mua

bán trái phép chất ma túy. Trong những biểu hiện khách quan của tội phạm này chỉ

có hành vi mua bán trái phép chất ma túy mới được luật hình sự quy định là dấu hiệu

bắt buộc để định tội.

Hành vi mua bán chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS hiện hành

không chỉ đơn thuần là hành vi mua, hành vi bán theo nghĩa thông thường trong giao

lưu dân sự mà phải được hiểu theo nghĩa rộng, tức là ngoài hoạt động mua, bán

thông thường còn có các hình thức giao dịch khác như: mang chất ma túy để trao đổi

lấy hàng hóa khác; cho vay, khấu nợ, đặt cọc, cầm cố, thanh toán tiền dịch vụ bằng

26

chất ma tuý.... một cách trái phép. Theo thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-

VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

Chương XVIII “Các tội phạm về ma tuý” của BLHS năm 1999 thì “Mua bán trái

phép chất ma túy là một trong các hành vi sau:

a, Bán trái phép chất ma túy cho người khác (Không phụ thuộc vào nguồn gốc

chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác để

hưởng tiền công hoặc lợi ích khác.

b, Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

c, Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

d, Dùng chất ma túy nhằm trao đổi, thanh toán trái phép.

đ, Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán... lấy chất ma túy

nhằm bán lại trái phép cho người khác.

e, Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.

g, Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.”

Hành vi mua bán chất ma túy được coi là trái phép khi hành vi đó được thực

hiện mà không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền hoặc không đúng với nội

dung được phép.

Theo quy định tại Điều 251 BLHS năm 2015 thì hậu quả của tội phạm và các

dấu hiệu khách quan khác không phải là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của

tội này. Do vậy, không có ý nghĩa định tội. Tuy nhiên, những biểu hiện khách quan

không bắt buộc này là tình tiết để đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội

của hành vi mua bán trái phép chất ma túy - một trong những căn cứ để quyết định

hình phạt.

* Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ cá nhân nào có năng lực trách nhiệm hình

sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà luật định đã thực hiện hành vi mua bán

trái phép chất ma túy đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Theo quy định tại

Điều 12 và Điều 251 BLHS hiện hành thì người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách

nhiệm hình sự, nếu hành vi phạm tội thuộc Khoản 1 Điều 251, còn người đủ 14 tuổi

trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này, nếu hành vi phạm tội thuộc khoản

27

2,3,4 Điều 251 BLHS năm 2015.

*Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép chất ma túy là mặt bên trong của tội

phạm, thể hiện trạng thái tâm lý, ý thức của người phạm tội đối với các biểu hiện

khách quan của tội phạm. Những biểu hiện thể hiện trạng thái; ý thức của người

phạm tội bao gồm: lỗi của chủ thể, động cơ, mục đích phạm tội, trong đó lỗi của chủ

thể là dấu hiệu bắt buộc.

- Căn cứ vào Điều 251 BLHS và hành vi mà người phạm tội thực hiện cho thấy,

lỗi của người phạm tội mua bán trái phép chất ma túy là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm

tội nhận thức được đối tượng mà mình mua bán trái phép là chất ma túy, nhận thức

được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mua bán trái phép chất ma

túy nhưng vẫn thực hiện hành vi đó để đạt được mục đích mong muốn.

Trường hợp cả người mua, cả người bán đều nhầm đối tượng mà họ mua bán

là chất ma túy thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo Khoản

1 Điều 251 BLHS.

Còn trường hợp chỉ có người mua nhầm đối tượng mà mình mua là chất ma

túy, còn người bán biết rõ là chất ma tuý giả thì chỉ có người mua trong trường hợp

này (với mục đích mua để bán lại) phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái

phép chất ma túy ở giai đoạn phạm tội chưa đạt mà khoa học luật hình sự gọi là

“chưa đạt vô hiệu”, còn người bán ma túy giả cho người mua thì hành vi của người

bán không cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy mà cấu thành tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS hiện hành.

Động cơ, mục đích phạm tội này chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận cao hoặc để

thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 251 BLHS thì

dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ

quan của tội phạm này.

Trên đây là những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, điển hình của tội mua bán trái

phép chất ma túy. Những dấu hiệu này có ý nghĩa rất lớn đối với việc định tội danh.

Vì thế, để kết án một người về tội phạm này Hội đồng xét xử phải chứng minh công

khai, minh bạch tại phiên tòa hành vi mà người đó thực hiện thỏa mãn đầy đủ các

28

dấu hiệu nêu trên.

Bên cạnh những dấu hiệu định tội thuộc bốn yếu tố cấu thành tội phạm, Điều

251 BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) còn quy định các dấu hiệu định

khung tại Khoản 2,3,4 của điều luật.

Những dấu hiệu định khung tăng nặng được quy định tại các khoản 2,3,4 Điều

251 BLHS chủ yếu là những dấu hiệu có tính chất định lượng (khối lượng, thể tích)

chất ma túy với mức độ cao thấp khác nhau tương ứng với mức độ nghiêm khắc của

chế tài trong các khoản đó. Tuy nhiên, một số dấu hiệu định khung quy định tại

Khoản 2 Điều 251 BLHS có tính chất định tính cần phải làm rõ, đó là:

a, Có tổ chức: Đây là trường hợp đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa

những người đồng phạm tội mua bán trái phép chất ma túy;

b, Phạm tội 02 lần trở lên: Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện

hành vi mua bán trái phép chất ma túy tối thiểu là 02 lần và chưa bị xét xử lần

nào;

c, Đối với 02 người trở lên: Đây là trường hợp người phạm tội thực hiện hành

vi mua bán trái phép chất ma túy đối với 02 người trở lên;

d, Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Đây là trường hợp người phạm tội sử dụng

chức vụ, quyền hạn được giao như là điều kiện, phương tiện để thực hiện hành vi

mua bán trái phép chất ma tuý;

đ, Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức: Đây là trường hợp, người phạm tội

đã lấy danh nghĩa cơ quan hay tổ chức có thực để thực hiện hoặc che giấu hành vi

mua bán trái phép chất ma tuý;

e, Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội hoặc bán ma túy cho người

dưới 16 tuổi: Đây là trường hợp người phạm tội đã sử dụng người dưới 16 tuổi vào

việc thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy hoặc bán ma túy cho người

dưới 16 tuổi;

g, Qua biên giới: Đây là trường hợp hành vi mua bán trái phép chất ma túy

được thực hiện không chỉ qua biên giới quốc gia giữa nước ta với các nước khác mà

còn có thể qua hàng rào biên giới thuế quan.

Việc quy định tình tiết định khung tăng nặng “qua biên giới” tại Khoản 2

29

Điều 251 là hết sức cần thiết và phù hợp với tình hình thực tế mở cửa, hội nhập của

nước ta hiện nay, đáp ứng yêu cầu đấu tranh với đường dây buôn bán ma túy xuyên

quốc gia.

Những dấu hiệu định khung tăng nặng khác có tính chất định lượng đã được

quy định tại Khoản 2,3,4 một cách cụ thể, rõ ràng, minh bạch. Do vậy, do khuôn khổ

số trang của luận văn thạc sĩ (80 trang) học viên không phân tích làm rõ những dấu

hiệu định khung này.

1.2.2. Phân biệt tội mua bán trái phép chất ma túy với các tội vận chuyển,

tàng trữ, chiếm đoạt chất ma túy

Theo quy định của BLHS và văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

Chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 cho thấy, bốn tội

phạm này có nhiều yếu tố, dấu hiệu giống nhau như: khách thể, đối tượng tác động

của tội phạm, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Tuy nhiên, bốn tội phạm này

khác nhau ở hành vi khách quan và mục đích thực hiện hành vi khách quan của tội

phạm. Cụ thể là:

Thứ nhất, đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249) hành vi khách

quan của tội phạm được quy định là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tức là hành

vi cất giữ, cất giấu ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, trong quần áo, tư

trang hoặc trong người) và không giới hạn về thời gian.

Đồng thời hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ bị coi là hành vi khách

quan của tội phạm này trong 03 trường hợp sau:

- Đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều luật này (hành vi tàng

trữ trái phép chất ma tuý). Đây là trường hợp chủ thể thực hiện hành vi tàng trữ trái

phép sau khi đã bị xử phạt hành chính về hành vi này và chưa hết thời hạn để được

coi là chưa bị xử phạt hành chính được quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính

năm 2012;

- Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Đây là

trường hợp, chủ thể thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy sau khi chủ thể

đã bị kết án về tội phạm này đã được thực hiện trước đó và chưa được xóa án tích về

tội phạm này;

30

- Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Điều 248 (tội sản xuất trái

phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội

mua bán trái phép chất ma túy) và Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma tuý) của Bộ luật

này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Đây là trường hợp, chủ thể thực hiện

hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy sau khi chủ thể đã bị kết án về một trong bốn

tội phạm quy định tại các điều nêu trên và chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

- Các trường hợp khác, nếu hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối

lượng nhất định được BLHS năm 2015 định lượng cụ thể đối với từng chất ma tuý.

Về mục đích phạm tội: Theo quy định của Điều 249, BLHS đối với tội phạm

này phải có dấu hiệu “không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép

chất ma túy”. Qua đây thấy rằng, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục

đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thì không cấu thành tội

phạm này mà cấu thành tội phạm khác tùy thuộc vào mục đích cụ thể của người thực

hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là mục đích gì: mua bán hay vận chuyển

hay sản xuất trái phép chất ma túy. Nếu tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho

người khác thì trường hợp này bị xử lý về tội mua bán trái phép chất ma túy. Vấn đề

này đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-

TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương

XVIII “các tội phạm về ma tuý” của BLHS năm 1999. Cụ thể tại phần II, mục 3, tiểu

mục 3.3 có quy định “Mua bán trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau:

“a,

b,

c,

d,

e, Tàng trữ chất ma tuý nhằm bán cho người khác.”

Như vậy, giữa tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tàng trữ trái phép chất

ma túy khác nhau cơ bản ở mục đích phạm tội. Để tránh nhầm lẫn khi định tội danh,

các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự cần chứng minh làm rõ hành vi tàng trữ chất

ma túy nhằm mục đích cụ thể gì?

Thứ hai, đối với tội vận chuyển trái phép chất ma tuý (Điều 250): Hành vi

31

khách quan của tội phạm này là hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, tức là

chuyển dịch chất ma túy từ nơi này đến nơi khác mà không có giấy phép hợp lệ, dưới

bất kỳ hình thức nào, bằng phương tiện gì.

Theo quy định, tại Điều 250 BLHS hiện hành, hành vi vận chuyển trái phép

chất ma túy chỉ được coi là hành vi khách quan của tội phạm này trong các trường

hợp cụ thể tương tự như các trường hợp tàng trữ trái phép chất ma túy như đã phân

tích ở trên. Đồng thời đối với tội phạm này phải có dấu hiệu mục đích phạm tội là

“không nhằm mục đích sản xuất, mua bán tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Theo đó,

hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy là nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng

trữ trái phép chất ma túy thì không cấu thành tội vận chuyển trái phép chất ma tuý

theo quy định tại Điều 250, mà cấu thành các tội phạm khác tùy thuộc vào mục đích

cụ thể của người thực hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Do vậy, trường

hợp người thực hiện hành vi vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho người

khác thì bị xử lý về tội mua bán trái phép chất ma túy. Qua đây thấy rằng, ở trường

hợp này giữa tội mua bán trái phép chất ma túy và tội vận chuyển trái phép chất ma

túy khác nhau chủ yếu ở mục đích phạm tội.

Thứ ba, đối với tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy: Hành vi khách quan của

tội phạm này là hành vi chiếm đoạt chất ma túy, tức là chuyển dịch chất ma túy của

người khác thành của mình bằng bất cứ thủ đoạn, phương thức nào như: trộm cắp,

lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp giật, cướp, công nhiên chiếm đoạt

chất ma túy của người khác. Đồng thời, theo quy định tại Điều 252, hành vi chiếm

đoạt chất ma túy được coi là hành vi khách quan của tội phạm này trong trường hợp

đã bị xử phạt hành chính về hành vi được quy định tại điều này hoặc đã bị kết án về

tội chiếm đoạt chất ma túy hoặc một trong các tội quy định tại các điều: Điều 248,

Điều 249, Điều 250 và Điều 251 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi

phạm, hoặc trong các trường hợp khác mà khối lượng từng loại chất ma túy cụ thể

đáp ứng khối lượng mà BLHS năm 2015 đã định lượng tại Điều 252.

Vấn đề được đặt ra ở đây là: trường hợp chiếm đoạt chất ma túy của người

này nhằm bán trái phép cho người khác thì xử lý về tội phạm nào? Chiếm đoạt chất

ma tuý hay mua bán chất ma tuý? BLHS năm 1999 (Điều 194) quy định 04 tội danh

32

trong cùng 1 điều luật có cùng chế tài như nhau. Vì thế tại tiểu mục 3.4, mục 3, phần

II của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP Ngày

27/12/2007 có hướng dẫn: ”Trường hợp người có hành vi chiếm đoạt chất ma túy

nhằm mục đích bán lại chất ma túy đó cho người khác thì bị truy cứu trách nhiệm

hình sự với tội danh đầy đủ đối với hành vi được thực hiện theo Điều 194 BLHS và

chỉ phải chịu một hình phạt” [9]. Tuy nhiên, đến nay BLHS năm 2015 đã tách các

tội quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 thành 04 tội quy định độc lập ở 04 điều

luật khác nhau với các chế tài khác nhau. Vì thế không thể áp dụng hướng dẫn này để

truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trường hợp nêu trên. Đối với vấn đề này, theo

quan điểm cá nhân cần phân biệt hai trường hợp:

+ Trường hợp người phạm tội chiếm đoạt chất ma túy của người này nhằm

bán lại trái phép chất ma tuý đó cho người khác thì chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự

về tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy. Đối với tội phạm này, mục đích phạm tội

không được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc, vì thế không có ý nghĩa gì đối với

việc định tội danh, kể cả trường hợp nhằm mục đích bán lại cho người khác.

+ Còn trường hợp người phạm tội chiếm đoạt chất ma túy của người này sau

đó đã có hành vi bán lại chất ma túy đó cho người khác thì phải truy cứu trách nhiệm

hình sự về hai tội: tội chiếm đoạt chất ma tuý (Điều 252) và tội mua bán trái phép

chất ma tuý (Điều 251), đồng thời khi xét xử tòa án phải tuyên hình phạt đối với từng

tội sau đó tổng hợp hình phạt chung trong trường hợp phạm nhiều tội theo quy định

tại Điều 55 BLHS năm 2015.

Nếu so sánh hai tội phạm này thì thấy giữa chúng khác nhau không phải ở dấu

hiệu mục đích phạm tội mà ở dấu hiệu hành vi khách quan và trường hợp cụ thể mà

người thực hiện hành vi chiếm đoạt chất ma túy và hành vi mua bán trái phép chất ma

túy bị xử lý hình sự. Cụ thể là ở tội chiếm đoạt chất ma túy thì hành vi khách quan của

tội phạm là hành vi chiếm đoạt chất ma túy của người khác và hành vi này chỉ bị xử lý

hình sự (chỉ cấu thành tội phạm), trong những trường hợp nhất định được quy định tại

Điều 252. Còn ở tội mua bán trái phép chất ma túy thì hành vi khách quan của tội

phạm là hành vi mua bán trái phép chất ma túy và BLHS không giới hạn những trường

hợp bị xử lý hình sự.

33

Tiểu kết Chương 1

Qua nghiêm cứu Chương 1 có thể rút ra một số kết luận cơ bản sau:

Để nhận thức đúng, đầy đủ về bản chất xã hội pháp lý của tội mua bán trái

phép chất ma túy, về mặt lý luận phải đưa ra được định nghĩa khoa học về khái

niệm tội phạm này một cách đầy đủ, trong đó phản ánh tất cả các dấu hiệu pháp lý

đặc trưng về phương diện khách quan, chủ quan và pháp lý của tội phạm.

Để định tội danh đúng tội mua bán trái phép chất ma túy, bên cạnh khái

niệm phải nắm vững các dấu hiệu pháp lý đặc trưng thuộc bốn yếu tố cấu thành của

tội phạm: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm.

Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng, điển hình phản ánh đầy đủ tính chất, mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi mua bán trái phép chất ma túy trong tổng thể của

chúng được khoa học luật hình sự gọi là cấu thành tội phạm, đóng vai trò là mô

hình pháp lý của định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy.

Để tránh nhầm lẫn tội mua bán trái phép chất ma túy với các tội phạm khác có

liên quan, cần so sánh chúng với nhau để tìm ra điểm tương đồng (điểm giống) và

điểm khác biệt giữa những tội phạm này cùng với việc nghiên cứu lý luận, để áp

dụng đúng pháp luật hình sự nói chung, định tội danh và quyết định hình phạt nói

riêng đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đòi hỏi phải nắm vững các quy

định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy qua các thời kỳ, nhất

là quy định của BLHS năm 2015, chỉ ra mặt tích cực, cũng như hạn chế, bất cập của

các quy định đó để có phương hướng, biện pháp sửa đổi, bổ sung.

Như vậy, kết quả nghiên cứu Chương 1 của luận văn là cơ sở lý luận và

pháp luật của định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép

chất ma túy.

34

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

TẠI TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Khái quát tình hình xét xử các vụ án về tội mua bán trái phép chất

ma túy tại tỉnh Quảng Ninh

Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Quảng Ninh cho thấy, từ năm 2014 đến

năm 2018, TAND các cấp của tỉnh đã thụ lý để xét xử 7.189 vụ với 12.909 bị cáo

phạm các tội khác nhau, trong đó đã xét xử 6.201 vụ với 10.563 bị cáo, chiếm 86,2%

về số vụ và 81,8% về số bị cáo. Có thể thấy, tỷ lệ vụ án và bị cáo đã được TAND tỉnh

Quảng Ninh xét xử tương đối cao, không có vụ án nào xét xử quá thời hạn luật định.

Trong tổng số vụ án được đưa ra xét xử có 636 vụ được xét xử lưu động hoặc án điểm,

26 vụ xét xử theo thủ tục rút gọn.

Đối với vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy, thì trong giai đoạn từ năm

2014 đến năm 2018, TAND tỉnh Quảng Ninh đã đưa ra xét xử 2.111 vụ với 3.073 bị

cáo. Cụ thể các năm như sau:

Bảng 2.1. Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử về tội mua bán trái

phép chất ma tuý trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018

Năm

Số bị cáo

2014

Số vụ án xét xử về tội mua bán trái phép chất ma túy 453

700

2015

426

546

2016

526

754

2017

506

754

2018

200

319

Tổng số

2.111

3.073

Nguồn: VKSND tỉnh Quảng Ninh

Nếu so sánh với tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm các tội phạm về ma túy

bị đưa ra xét xử hình sự sơ thẩm thì số vụ án về tội mua bán trái phép chiếm 82,75%

(2.111/2.551 vụ) về số vụ và 85,90% về số bị cáo (3.073/3.577 bị cáo).

35

Như vậy, số vụ án và bị cáo bị đưa ra xét xử về các tội phạm ma túy, chủ yếu

là vụ án và bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Trong giai đoạn này bình

quân mỗi năm TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử 422 vụ với 614 bị cáo về tội mua bán

trái phép chất ma túy.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là con số thống kê phản ánh mặt số lượng hoạt động

xét xử các vụ án hình sự nói chung, vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy nói

riêng của TAND tỉnh Quảng Ninh. Do vậy, để thấy được chất lượng xét xử của

TAND tỉnh Quảng Ninh, nhất là vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt cần

phải đánh giá trên nhiều phương diện khác nhau, trong đó cả mặt tích cực (kết quả

đạt được) cũng như những hạn chế, thiếu sót của hoạt động định tội danh và quyết

định hình phạt trong xét xử vụ án về tội mua bán trái phép ma túy của TAND tỉnh

Quảng Ninh.

2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự trong

xét xử các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy của Tòa án nhân dân tỉnh

Quảng Ninh

2.2.1. Mặt tích cực

Áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử vụ án hình sự nói chung, vụ án về tội

mua bán trái phép chất ma túy nói riêng là hoạt động tư duy, đồng thời là hoạt động

thực tiễn pháp lý của TAND nhằm đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào đời sống

thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm; bảo vệ công lý, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, tổ chức; bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ trật tự pháp luật

XHCN. Nội dung áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử vụ án hình sự, trong đó có

vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy gồm nhiều vấn đề khác nhau. Song do

khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, người nghiên cứu chủ yếu tập trung đánh giá 2

nội dung cơ bản của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự là định tội danh và quyết

định hình phạt đối với bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy. Để thấy được

chất lượng của hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt trong xét xử vụ án

này cần phải đánh giá cả mặt tích cực cũng như hạn chế, thiết sót và nguyên nhân

của những hạn chế thiếu sót đó.

36

Trên cơ sở nghiên cứu 2.111 vụ với 3.073 bị cáo mà TAND tỉnh Quảng Ninh

xét xử về tội mua bán trái phép chất ma túy và nghiên cứu ngẫu nhiên một số bản án

kết tội của tòa án mà người nghiên cứu thu thập được, có thể đánh giá những kết quả

đạt được như sau:

* Thứ nhất, đối với định tội danh

Do nhận thức đúng đắn về bản chất, cơ sở, quy trình, mục đích, ý nghĩa,

nguyên tắc của định tội danh cũng như xem xét một cách khách quan, toàn diện

những tình tiết thực tế của vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy nên TAND

tỉnh Quảng Ninh cơ bản đã lựa chọn đúng tội danh để truy cứu trách nhiệm hình sự

đối với bị cáo, tránh xảy ra sai sót, nhầm lẫn giữa tội mua bán trái phép chất ma túy

với các tội phạm khác có liên quan như: Tàng trữ trái phép chất ma túy, vận chuyển

trái phép chất ma túy và chiếm đoạt chất ma túy... Đặc biệt là không để lọt tội phạm

đối với những trường hợp bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau nhưng

có liên quan với nhau. Vụ án cụ thể sau đây là một minh chứng: Tại bản án số

05/2019/HSST ngày 10/01/2019 của TAND tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở nội dung vụ

án, căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh

tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

+ Ngày 01/5/2018 và ngày 07/5/2018 tại phường Đằng Giang, quận Ngô

Quyền, thành phố Hải Phòng, bị cáo Trần Trọng Phú đã 2 lần bán trái phép tổng cộng

2.079,152 gam các chất ma túy cho Nguyễn Khánh Hòa và Tạ Đình Hiếu.

+ Trong khoảng thời gian từ đầu tháng 02 đến ngày 07/5/2018, tại quận Lê

Chân và phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, bị cáo

Nguyễn Khánh Hòa có hành vi tàng trữ 2.386,808 gam các chất ma túy mục đích để

bán nhưng chưa bán được thì bị thu giữ.

+ Đầu tháng 5/2018, tại phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải

Phòng, bị cáo Tạ Đình Hiếu có hành vi giúp sức cho Nguyễn Khánh Hòa mua bán

trái phép các chất ma túy.

+ Trong khoảng thời gian vào đầu tháng 3/2018 và đầu tháng 5/2018, tại

thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh và ngày 06/5/2018 tại tổ 8, khu 10, Bãi Cháy,

thành phố Hạ Long, bị cáo Nguyễn Thái Giang bán trái phép 149,367 gam các chất

37

ma túy (trong đó có 103,863 gam chưa bán được thì bị thu giữ).

Ngoài ra, từ tháng 01/2018 đến ngày 06/02/2018, tại thành phố Hạ Long,

thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh, Thành phố Hải Phòng và tỉnh Bắc Giang:

+ Bị cáo Bùi Trọng Tước bán 308,758 gam các chất ma túy cho người khác

(trong đó có 102,74 gam mục đích để bán nhưng chưa bán được thì bị thu giữ).

+ Bị cáo Bùi Thị Thu Thảo có hành vi cùng Bùi Trọng Tước bán 302,2 gam

các chất ma túy cho người khác.

+ Bị cáo Đinh Anh Tuấn thực hiện hành vi giúp sức cho Nguyễn Khánh

Hòa bán trái phép 303,2 gam các chất ma túy cho Bùi Trọng Tước và Đoàn Thị

Thu Thảo.

+ Bị cáo Phùng Ngọc Hải thực hiện hành vi giúp sức cho Bùi Trọng Tước và

Đoàn Thị Thu Thảo mua trái phép 303,2 gam các chất ma túy.

+ Bị cáo Phạm Anh Tuấn bán trái phép 70,22 gam các chất ma túy (trong đó

có 21,087 gam chưa bán được thì bị thu giữ).

+ Bị cáo Nguyễn Văn Dũng bán trái phép 50,706 gam chất ma túy cho

Phạm Anh Tuấn. Số ma túy Dũng bán cho Tuấn, Tuấn sử dụng còn 21,01 gam thì

bị thu giữ.

+ Bị cáo Nguyễn Ngọc Hiệp nhiều lần bán trái phép, tổng khối lượng là

22,083 gam chất ma túy (trong đó có 1,083 gam mục đích để bán nhưng chưa bán

được thì bị thu giữ).

+ Bị cáo Vũ Thị Mai tàng trữ trái phép 4,026 gam ma túy các loại mục đích để

sử dụng thì bị thu giữ.

+ Bị cáo Hoàng Hải Yến tàng trữ 1,2 gam ma túy các loại mục đích để sử

dụng thì bị phát hiện thu giữ.

+ Bị cáo Nguyễn Thị Thanh Tuyền biết rõ các bị cáo Bùi Trọng Tước, Đoàn

Thị Thu Thảo, Phùng Ngọc Hải mua bán trái phép chất ma túy nhưng không tố giác

hành vi phạm tội của các bị cáo trên với cơ quan chức năng.

Xét hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử tuyên bố:

- Các bị cáo Trần Trọng Phú, Tạ Đình Hiếu, Nguyễn Thái Giang, Đinh Anh

Tuấn, Phùng Ngọc Hải, Nguyễn Khánh Hòa, Bùi Trọng Tước, Đoàn Thị Thu Thảo,

38

Phạm Anh Tuấn, Nguyễn Ngọc Hiệp, Nguyễn Văn Dũng phạm tội “Mua bán trái

phép chất ma túy”

- Các bị cáo Hoàng Hải Yến, Vũ Thị Mai phạm tội “Tàng trữ trái phép chất

ma túy”

- Bị cáo Nguyễn Thị Thanh Tuyền phạm tội “Không tố giác tội phạm”.

Qua đây cho thấy, tội danh mà Hội đồng xét xử lựa chọn để buộc tội các bị

cáo trong vụ án này là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đặc biệt là đối với 2

bị cáo Hoàng Hải Yến và Vũ Thị Mai, mặc dù cơ quan có thẩm quyền (Công an) có

thu giữ được chất ma túy mà các bị cáo này tàng trữ nhưng đã chứng minh được

mục đích tàng trữ chất ma túy của các bị cáo là để sử dụng, chứ không phải để bán

nên tuyên bố 02 bị cáo này phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều

249 BLHS năm 2015 là hoàn toàn chính xác. Mặt khác, trong vụ án có 02 bị cáo

Đinh Anh Tuấn và Phùng Ngọc Hải mặc dù không có hành vi mua bán trái phép

chất ma túy nhưng đã có hành vi giúp sức người khác mua bán trái phép chất ma

túy nên TAND tỉnh Quảng Ninh đã áp dụng Điều 17 BLHS năm 2015 và Điều 251

để truy cứu 02 bị cáo này về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với vai trò đồng

phạm là đúng pháp luật. Riêng bị cáo Nguyễn Thị Thanh Tuyền do không có hành

vi mua bán trái phép chất ma túy và cũng không có hành vi giúp sức người khác

mua bán trái phép chất ma túy, nhưng không tố giác tội phạm nên TAND tỉnh

Quảng Ninh đã áp dụng khoản 1 Điều 390 BLHS năm 2015 để truy cứu trách

nhiệm bị cáo này về tội “Không tố giác tội phạm” là có cơ sở. Bởi vì, bị cáo Tuyền

biết rõ các bị cáo Bùi Trọng Tước, Đoàn Thị Thu Thảo, Phùng Ngọc Hải mau bán

trái phép chất ma túy nhưng không tố giác với cơ quan chức năng. Do vậy, hành vi

của bị cáo Tuyền đủ yếu tố cấu thành tội “Không tố giác tội phạm” quy định tại

Điều 390 BLHS năm 2015.

Đối với những vụ án mà các bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định

tại Điều 194 BLHS năm 1999, TAND tỉnh Quảng Ninh đã căn cứ vào tiểu mục 3.5

mục 3 phần thứ nhất Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT ngày 24/12/2007 để định

tội danh vừa đảm bảo không để lọt tội phạm vừa không làm oan người vô tội. Vụ án

sau đây là một minh chứng: Tại bản án số 56/2018/HS-ST ngày 10/5/2018 của

39

TAND tỉnh Quảng Ninh, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: bị cáo Đỗ Tiến Duy

và bị cáo Nguyễn Thị Vân Anh phạm hai tội “Tội mua bán trái phép chất ma túy” và

“Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” và buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình

sự về cả hai tội. Nội dung vụ án tóm tắt như sau:

Đối với bị cáo Đỗ Tiến Duy: Khoảng 19h ngày 28/8/2017, anh Cường gọi

điện rủ bị cáo Đỗ Tiến Duy qua chỗ anh Quyết ở khách sạn Đại Nam thuộc phường

Ka Long, Thành phố Móng Cái chơi. Sau đó, bị cáo Duy và Cường cùng đến phòng

513 khách sạn Đại Nam. Tại phòng 513 ngoài anh Quyết còn có anh Cương là anh

trai anh Quyết. Bị cáo Duy đưa cho anh Quyết một túi ma túy đá để cùng sử dụng.

Anh Cương cũng lấy ra một túi nilong chứa chất ma túy Ketamine và bảo đấy mới là

Ke ngon. Anh Cương đưa cho anh Quyết xem, anh Quyết đưa lại cho bị cáo Duy, bị

cáo xem xong trả lại cho anh Quyết. Lúc này, bị cáo Duy cũng lấy một túi Ketamine

trong túi quần đưa cho Quyết xem. Cũng vào thời điểm này, bị cáo Nguyễn Thị Vân

Anh (là bạn Quyết) vào phòng. Bị cáo Duy và mọi người tiếp tục sử dụng chất ma

túy khoảng được 10 phút thì cơ quan Công an đến kiểm tra và thu giữ dưới sàn nhà

cạnh đầu giường 01 túi nilong trong đó có 03 túi nhỏ chưa chất ma túy Ketamine và

05 viên thuốc lắc màu tím của bị cáo Duy. Số thuốc lắc và ma túy Ketamine bị cáo

Duy mua của người khác để sử dụng.

- Đối với bị cáo Nguyễn Thị Vân Anh: tháng 08/2017, bị cáo bán cho Quyết 02

lần ma túy, gồm 2.100 viên thuốc lắc. Ngoài ra, ngày 28/8/2017, bị cáo Vân Anh về

thành phố Móng cái đến khách sạn Đại Nam nơi Quyết ở. Tại đây Quyết đưa cho bị

cáo Vân Anh 1.200.000 đồng bảo đi mua ma túy về dùng nhưng bị cáo không mua

được nên đã gọi điện cho anh Phong xin một ít ma túy đá. Anh Phong đồng ý và cho

người cầm đến cho Vân Anh. Bị cáo Vân Anh cầm ma túy về đến phòng khách sạn

Đại Nam thì bị Công an kiểm tra thu giữ.

Về vụ án này, luật sư bào chữa cho bị cáo Đỗ Tiến Duy và Nguyễn Thị Vân

Anh có cùng quan điểm cho rằng, Duy và Vân Anh không phạm tội “Tàng trữ trái

phép chất ma túy”, mà cần thu hút vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Theo

tác giả của luận văn thì quan điểm này của luật sư thiếu chính xác, không đúng với

hướng dẫn tại tiểu mục 3.5, mục 3, phần I của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT

40

ngày 24/12/2007 và dẫn tới để lọt tội phạm. Bởi căn cứ vào nội dung vụ án nêu trên,

cả hai bị cáo Duy và Vân Anh đều có hành vi mua, bán trái phép chất ma túy và hành

vi tàng trữ trái phép chất ma túy; hai hành vi này hoàn toàn độc lập với nhau. Do

vậy, cả hai bị cáo đều phải chịu trách nhiệm hình sự về hai tội “Mua bán trái phép

chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là hoàn toàn có căn cứ và đúng

pháp luật.

- Trong những trường hợp đặc biệt khác như: Phạm tội chưa đạt, đồng

phạm..., TAND tỉnh Quảng Ninh đã căn cứ vào quy định tại các điều: Điều 18, Điều

20 và Điều 52, 53 BLHS năm 1999 để xem xét đối chiếu với những tình tiết cụ thể

của vụ án, do vậy việc xác định sự tương đồng, phù hợp của những tình tiết này với

các dấu hiệu phạm tội chưa đạt và đồng phạm đảm bảo chính xác và có căn cứ.

Chẳng hạn, trong vụ án Nông Trịnh Tiến Thành cùng đồng phạm phạm tội “Mua

bán trái phép chất ma túy”. Theo Bản án sơ thẩm số 29/2018/HS-ST ngày 20/3/2018

của TAND tỉnh Quảng Ninh, nội dung của vụ án tóm tắt như sau: Khoảng đầu tháng

9/2017, Nông Trịnh Tiến Thành nói với Hoàng Tuấn Tú có hơn 01 lạng ma túy

Ketamine và nhờ Tú bán với giá 15 triệu đồng, Tú đồng ý nhưng sau đó không bán

được nên trả lại. Sau một tuần Tú gọi điện cho Mai Xuân Thắng bán giúp số ma túy

nêu trên, Thắng đồng ý. Sau khi thỏa thuận với thắng, Tú đến nhà Thành nhận túi ma

túy mang về để chuyển cho Thắng.

Sáng ngày 21/9/2017, Tú bảo Hoàng Thanh Long vận chuyển ma túy từ Cao

Bằng về thành phố Cẩm Phả giao cho Thắng để Thắng bán. Tú thỏa thuận với Long

nếu Thắng bán được số ma túy này sẽ trả cho Long 5 triệu đồng tiền công. Tú giao

ma túy cho Long rồi chở Long ra bến xe để Long vận chuyển ma túy về thành phố

Cẩm Phả cho Thắng.

Đến chiều ngày 21/9/2017, Long mang túi ma túy đến thành phố Cẩm Phả.

Khi Long đến thành phố Cẩm Phả, Tú gọi điện bảo Long chờ Thắng bán được ma

túy thì cầm tiền về cho Tú. Thắng gọi điện thỏa thuận với Tú bán túi ma túy với giá

22.000.000 đồng rồi mang ma túy đi bán, còn Long ở lại nhà Thắng chờ lấy tiền.

Khoảng 23h ngày 21/9/2017, Thắng mang ma túy đến khu vực tổ 7, khu 2,

phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long để bán cho một đối tượng không biết tên

41

với giá 52.000.000 đồng, nhưng chưa bán được thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều

tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Quảng Ninh bắt quả tang, thu giữ 160,26 gam

ma túy Ketamine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 29/2018/HS-ST ngày 20/3/2018 của TAND tỉnh

Quảng Ninh đã xét xử các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Các bị cáo

trong vụ án này đã gửi đơn kháng cáo lên TAND cấp cao tại thành phố Hà Nội.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại Hà Nội sau khi đánh

giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vai trò của từng bị

cáo trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội

đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết

định của bản án sơ thẩm.

Các luật sư trình bày luận cứ bào chữa cho các bị cáo đều có chung quan điểm

nhất trí về tội danh và khung hình phạt đối với các bị cáo. Tuy nhiên, đối với bị cáo

Hoàng Thanh Long là người chuyển ma túy cho bị cáo Thắng đem bán, chưa bán

được thì bị bắt giữ, đề nghị áp dụng tình tiết “Phạm tội chưa đạt” quy định tại Điều

52 BLHS năm 1999 và xử phạt bị cáo Long mức án dưới khung hình phạt.

Đại diện VKSND không nhất trí luận cứ bào chữa cho là bị cáo Long phạm

tội chưa đạt. Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định: “Bị cáo Thắng bị bắt quả tang khi

đang thực hiện việc bán 163,26 gam ma túy Ketamine. Số ma túy này do Tú lấy từ

Thành giao cho Long chuyển cho Thắng để bán. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên

các bị cáo Nông Trịnh Tiến Thành, Hoàng Tuấn Tú, Mai Xuân Thắng, Hoàng Thanh

Long về tội mua bán trái phép chất ma túy là có căn cứ, đúng người, đúng tội”.

Đồng thời, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét kháng cáo của các bị cáo thấy

rằng: “Vụ án có đồng phạm nhưng thuộc đồng phạm giản đơn, các bị cáo Thành,

Tú, Thắng, Long đều nhận thức tính chất nguy hiểm của ma túy nhưng vẫn thực

hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy để thu lời, tuy không được bàn bạc cụ

thể, chi tiết nhưng các bị cáo đều thống nhất thực hiện việc bán 163,26 gam ma túy

Ketamine. Vụ án bị phát hiện bắt quả tang nên việc đề nghị cho các bị cáo áp dụng

tình tiết phạm tội chưa đạt là không có căn cứ. Quyết định không chấp nhận kháng

cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm” [52].

42

Tác giả luận văn thấy rằng, nhận định của đại diện VKSND và Hội đồng xét

xử phúc thẩm là hoàn toàn chính xác. Bởi vì, trong vụ án này có từ 02 người trở lên

cố cùng thực hiện một tội phạm “Mua bán trái phép ma túy”. Mặc dù mỗi bị cáo có

tính chất, mức độ tham gia khác nhau nhưng đều thống nhất việc bán 163,26 gam ma

túy Ketamine để thu lời. Do vậy, các bị cáo đồng phạm tội “Mua bán trái phép chất

ma túy” theo quy định tại Điều 20 và Điều 194 BLHS năm 1999.

Việc luật sư bào chữa cho bị cáo Long đề nghị cho bị cáo áp dụng tình tiết

“phạm tội chưa đạt”, đúng như Hội đồng xét xử phúc thẩm kết luận là không có căn

cứ, bởi: “tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”

theo quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 là tội có cấu thành tội phạm hình thức,

tội này được coi là hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi phạm tội được mô tả

trong cấu thành tội phạm, không đòi hỏi hậu quả đã xảy ra hay chưa. Đối chiếu với

hành vi vận chuyển trái phép ma túy của bị cáo Long nhằm mục đích để Thắng bán

lại thu lời thấy rằng, hành vi đó là hoàn thành về mặt pháp lý, không còn là trường

hợp phạm tội chưa đạt.

* Thứ hai, đối với quyết định hình phạt

Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Quảng Ninh cho thấy, từ năm 2014 đến

năm 2018, các loại hình phạt chính mà TAND tỉnh Quảng Ninh quyết định áp dụng

đối với các bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy bao gồm hình phạt: tù

dưới 03 năm: 1.398/3.073 bị cáo (chiếm 45,49%); tù từ 03 năm đến dưới 07 năm:

624/3.073 bị cáo (chiếm 20,30%); tù từ 07 năm đến dưới 15 năm: 626/3.073 bị cáo

(chiếm 20,37%); tù từ 15 năm đến 20 năm: 272/3.073 bị cáo (chiếm 8,58%); tù

chung thân: 78/3.073 bị cáo (chiếm 2,53%); tử hình: 64/3.073 bị cáo (chiếm 2,08%).

Như vậy hình phạt chính mà TAND quyết định áp dụng đối với các bị cáo

phạm tội này hết sức nghiêm khắc. 100% hình phạt mà TAND quyết định áp dụng

đối với bị cáo đều là hình phạt tước tự do, thậm chí tước bỏ cả quyền sống của người

bị kết án. Mặc dù nghiêm khắc như vậy nhưng hình phạt mà TAND tỉnh Quảng Ninh

quyết định áp dụng đối với các bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy đều

phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các đặc

điểm nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình

43

sự và đều thuộc phần chế tài của điều luật. Do vậy đã góp phần tích cực vào việc đấu

tranh phòng, chống tội phạm này ở địa bàn tỉnh Quảng Ninh, có tác dụng phòng ngừa

riêng, phòng ngừa chung. Điển hình là tại Bản án số 05/2019/HSST ngày

10/01/2019, TAND tỉnh Quảng Ninh đã tuyên bố các bị cáo phạm tội mua, bán trái

phép chất ma túy và đã quyết định áp dụng: hình phạt tử hình đối với 02 bị cáo là

Trần Trọng Phú và Tạ Đình Hiếu; tù chung thân đối với 02 bị cáo là Nguyễn Khánh

Hòa và Bùi Trọng Tước; tù có thời hạn 20 năm đối với 04 bị cáo là Đoàn Thị Thu

Thảo, Đinh Anh Tuấn, Nguyễn Thái Giang và Phùng Ngọc Hải. Số bị cáo còn lại có

mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. TAND tỉnh Quảng Ninh nhận định: “Tội phạm

do các bị cáo thực hiện là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự

công cộng và chế độ độc quyền của nhà nước đối với chất ma túy. Đây là một loại

độc dược không những hủy hoại sức khỏe của người sử dụng, mà còn gây tác hại

nhiều mặt trong đời sống xã hội và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh

các loại tội phạm khác. Các bị cáo đã mua bán ma túy với số lượng lớn. Do đó, cần

phải có hình phạt thật nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo

để đảm bảo tính răn đe, cải tạo và phòng ngừa” [53].

Đặc biệt là khi quyết định hình phạt đối với những người bị kết án về tội mua

bán trái phép chất ma túy, TAND tỉnh Quảng Ninh hết sức chú ý đánh giá các tình

tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc từng bị cáo để quyết định mức

hình phạt tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội mà các bị cáo thực hiện. Vụ án sau đây là một minh chứng: Tại Bản án số

37/2018/HSST ngày 04/4/2018 của TAND tỉnh Quảng Ninh tuyên bố các bị cáo:

Nguyễn Thị Thúy Liễu, Nguyễn Mạnh Cường, Nghiêm Quang Tú, Vũ Quý Trọng,

Nguyễn Mạnh Út, Trần Hữu Đạt, Nguyễn Thị Thu Hà, Trần Thị Lệ, Nguyễn Thị

Chung, Bùi Ngọc Trang phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy”. Nguyễn Trung

Quang phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tại phần nhận định của Bản án về

các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, TAND đã kết luận như sau:

“+ Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Vũ Quý Trọng, Trần Thị Lệ mỗi bị cáo

có 01 tiền án chưa được xóa án tích đến nay tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp

tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

44

Các bị cáo Út, Đạt, Hà, Lệ có hành vi phạm tội nhiều lần, nhưng do đã được

quy định là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng nên không xem xét là tình tiết

tăng nặng trách nhiệm hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo

cơ bản đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ

tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Riêng bị cáo Nguyễn Mạnh Út, Nghiêm Quang

Tú có bố đẻ, ông nội được tặng thưởng huân huy chương kháng chiến hạng nhất,

hạng ba nên xem xét cho bị cáo Út, Tú được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại

khoản 2 Điều 51 BLHS. Đối với bị cáo Nguyễn Quang Trung bị truy tố về tội “tàng

trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999. Căn cứ vào

khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015, nên áp dụng khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015

để xử phạt bị cáo.

Tuy nhiên, dù có xem xét chiếu cố cho các bị cáo cũng cần phải áp dụng hình

phạt nghiêm khắc tương xứng với vai trò, hành vi phạm tội của từng bị cáo mới đảm

bảo được tính răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung” [53]. Từ nhận định này

của TAND tỉnh Quảng Ninh cho thấy, việc quyết định hình phạt của TAND tỉnh luôn

kết hợp giữa trừng trị với khoan hồng theo hướng có lợi cho người phạm tội, đảm

bảo nguyên tắc công bằng, nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, phù hợp với chủ

trương đề cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm và tính hướng thiện trong xử lý người

phạm tội được đề cập trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính

trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Đối với những trường hợp bị cáo phạm nhiều tội hoặc có nhiều bản án, TAND

tỉnh Quảng Ninh đã xác định chính xác là trường hợp bị cáo phạm nhiều tội và khi xét

xử cùng một lần một người phạm nhiều tội tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội

và tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành theo quy định

tại Điều 55, BLHS năm 2015. Còn đối với trường hợp có nhiều bản án, tức là trường

hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mua

bán trái phép chất ma túy, TAND tỉnh đã quyết định đối với tội “Mua bán trái phép

chất ma túy” (tội mới) sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án

trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định của Điều 55 BLHS năm 2015.

45

Chẳng hạn, tại Bản án số 04/2018/HS-ST ngày 30/05/2018, TAND tỉnh

Quảng Ninh đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Bảo Ngọc phạm tội “Mua bán trái phép chất

ma túy”, áp dụng tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999; điểm s khoản 1

Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 56 BLHS năm 2015 xử phạt

Nguyễn Bảo Ngọc 06 năm tù. Do bị cáo Nguyễn Bảo Ngọc ngày 15/01/2016 bị

TAND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 05 năm 08 tháng tù về tội

“mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo Ngọc chưa chấp hành hình phạt tù vì đang

nuôi con nhỏ theo quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù số 03 ngày 20/02/2017

của TAND quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. Do vậy, TAND tỉnh Quảng Ninh

đã quyết định hình phạt chung của hai bản án là 11 năm 08 tháng tù, thời hạn tù kể từ

ngày bị bắt 15/12/2017.

Tóm lại, trong định tội danh và quyết định hình phạt trong những vụ án về

tội “mua bán trái phép chất ma túy”, TAND tỉnh Quảng Ninh đã bám sát đường

lối, nguyên tắc xử lý người phạm tội quy định tại Điều 03 BLHS năm 1999 (nay

là Điều 03 BLHS năm 2015); căn cứ vào quy định của BLHS về tội “mua bán trái

phép chất ma túy” và các văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS

có liên quan đến tội phạm này, đồng thời trên cơ sở đánh giá một cách khách

quan, toàn diện các tình tiết thực tế của vụ án nên việc định tội danh cũng như

quyết định hình phạt tội mua bán trái phép chất ma túy cơ bản đảm bảo đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tối đa oan sai trong xét xử vụ án. Nhờ

vậy, đã góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma

túy, bảo đảm an ninh trật tự tại địa phương.

2.2.2. Những hạn chế, thiếu sót

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc áp dụng pháp luật hình sự nói

chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy

nói riêng vẫn còn một số tồn tại, hạn chế nhất định. Cụ thể là:

2.2.2.1. Trong định tội danh

Về cơ bản, việc định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy không có gì

hạn chế, thiếu sót đáng kể. Song vẫn còn một số vấn đề cần phải lưu ý khắc phục

trong thời gian tới:

46

+ Một là, trước khi có Công văn số 234/CV ngày 17/09/2014 của TANDTC

và Thông tư số 08/2015/TTLT ngày 14/11/2015 của Liên ngành thì hầu hết các vụ án

về tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đều được TAND

xét xử, định tội danh không dựa trên cơ sở kết luận giám định về hàm lượng chất ma

túy. Điều này là không đúng với quy định tại tiểu mục 1.4, mục I, Thông tư liên tịch

số 17/2007/TTLT ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương

XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999. Bởi vì, tại tiểu mục này có

quy định: “Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là ma túy.... thì

đều phải trưng cầu giám định để xác định loại,hàm lượng, trọng lượng chất ma

túy....”. Theo tác giả của luận văn, thì việc giám định hàm lượng chất ma túy, tiền

chất khi thu giữ được chất nghi là ma túy hoặc nghi là tiền chất ma túy là cơ sở quan

trọng để định tội danh và quyết định hình phạt, hạn chế được oan sai trong xét xử.

+ Hai là, một số vụ án mua bán trái phép chất ma túy được thực hiện bằng

hình thức đồng phạm, TAND (mà cụ thể là Hội đồng xét xử) chưa đánh giá đúng, toàn

diện tính chất, vai trò tham gia của từng người đồng phạm. Do vậy, việc định tội danh

cũng như quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm chưa thực sự chính xác.

Nghiên cứu các bản án của TAND tỉnh Quảng Ninh xét xử về tội “ Mua bán

trái phép chất ma túy” thấy rằng, đa số là vụ án đồng phạm. Những người đồng

phạm giữ vai trò khác nhau hoặc có trường hợp một số người tham gia vào việc thực

hiện tội phạm với nhiều vai trò. Song Hội đồng xét xử, khi nhận định về vụ án có

đồng phạm thì không xác định người đồng phạm giữ vai trò cụ thể gì “người tổ

chức”, “người thực hành” hay “người giúp sức” theo quy định tại Điều 20 BLHS

năm 1999 (nay là Điều 17 BLHS năm 2015). Chẳng hạn, tại Bản án số 56/2018/HS-

ST ngày 10/05/2018 của TAND tỉnh Quảng Ninh, khi nhận định, đánh giá vai trò của

từng bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau: “Đây là vụ án có đồng phạm. Đầu

tiên phải kể đến Phạm Quỳnh Thơ và Trần Văn Quyền đã nhiều lần câu kết với nhau

mua ma túy với số lượng lớn để bán kiếm lời nên giữ vai trò chính.

Tiếp đó là Nguyễn Thị Vân Anh và Nguyễn Văn Quyết là đầu mối cung cấp

ma túy cho Quyền và Thơ. Trong đó, Vân Anh là người trực tiếp tìm mua ma túy bán

cho Quyết để Quyết bán lại cho Thơ hưởng tiền chênh lệch.

47

Tiếp đến là Đỗ Tiến Duy là người đã kết nối việc mua bán ma túy giữa Quyền,

Thơ với Quyết và Vân Anh. Bản thân bị cáo còn là người trực tiếp nhiều lần giúp

Quyền, Thơ mang ma túy đi bán để kiếm lời nên cần xếp bị cáo ngang với Quyết.

Lê Văn Bắc là người giúp Quyền chuyển ma túy cho Thơ. Lượng ma túy Bắc

giúp Quyền bán ít hơn so với Duy, bản thân không vì lợi nhuận nên bị cáo có vai trò

sau Duy....”

Như vậy, trong vụ án này, Hội đồng xét xử không xác định rõ hình thức đồng

phạm là đồng phạm thường hay đồng phạm có tổ chức (phạm tội có tổ chức), đồng

thời cũng không xác định cụ thể bị cáo nào là người tổ chức, bị cáo nào là người thực

hành và bị cáo nào là người giúp sức. Với việc xác định vai trò của những người

đồng phạm như trên, thì định tội danh cũng như quyết định hình phạt khó có thể

chính xác, đúng luật.

2.2.2.2. Trong quyết định hình phạt

Nhìn chung hình phạt mà TAND tỉnh Quảng Ninh quyết định áp dụng đối với

bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” đảm bảo tính nghiêm minh của

pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân của

người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong từng vụ

án, góp phần đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình

phạt đã tuyên. Tuy nhiên, việc quyết định hình phạt đối với bị cáo phạm tội “Mua

bán trái phép chất ma túy” trong những năm qua cũng không tránh khỏi những hạn

chế, sai sót nhất định. Cụ thể là:

+ Trong một số vụ án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, việc quyết

định hình phạt của tòa án vẫn chưa đảm bảo được đầy đủ yêu cầu, đòi hỏi của

nguyên tắc công bằng, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Vì thế có một số vụ án ma

túy lớn, nếu tuyên án tử hình nhiều thì sẽ ảnh hưởng đến vấn đề nhân quyền. Do vậy,

TAND khi xét xử những vụ án này thường phải giảm số lượng bị cáo bị tuyên hình

phạt tử hình. Trong khi đó, ở những vụ án có ít bị cáo, nếu xét thấy đủ điều kiện, đủ

căn cứ áp dụng hình phạt tử hình thì tòa án vẫn tuyên án tử hình đối với bị cáo phạm

tội mua bán trái phép chất ma túy có khối lượng tương đương với bị cáo ở những vụ

án có nhiều bị cáo nhưng không bị xử phạt tử hình mà xử phạt tù chung thân hoặc 20

48

năm tù. Do vậy, không đảm bảo nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt.

+ Việc xem xét, cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự, tình tiết định khung hình phạt trong một số vụ án chưa thật sự toàn diện, chính

xác. Do vậy, mức hình phạt mà TAND cấp sơ thẩm quyết định áp dụng đối với bị

cáo có phần nghiêm khắc; bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Chẳng

hạn, tại bản án hình sự sơ thẩm số 91/2018/HSST ngày 27/08/2018 của TAND tỉnh

Quảng Ninh, tuyên bố bị cáo: Vũ Khắc Trịnh phạm tội “Mua bán trái phép chất ma

túy”, áp dụng điểm b, p, Khoản 2, Điều 251; điểm s, Khoản 1, Điều 51, BLHS năm

2015 xử phạt bị cáo Vũ Khắc Trịnh 09 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/01/2018.

Ngày 04/09/2018, bị cáo Vũ Khắc Trịnh có đơn kháng cáo với nội dung xin

giảm hình phạt.

Ngày 19/12/2018, TAND cấp cao tại Hà Nội đã xét xử phúc thẩm vụ án này

do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2018/HSST ngày

27/08/2018 của TAND tỉnh Quảng Ninh. Khi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử

phúc thẩm thấy rằng: “Bị cáo Vũ Khắc Trịnh phạm tội với vai trò giúp sức. Tại phiên

tòa phúc thẩm, bị cáo thể hiện sự thành khẩn, ăn năn, hối cải; xuất trình tài liệu mới

có xác nhận của chính quyền địa phương về hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ bị mắc

bệnh tim, bố không có công việc ổn định và có thời gian tham gia phục vụ quân đội

thời kỳ chiến tranh biên giới phía Bắc; em trai hiện tại cũng đang phục vụ trong

quân đội; gia đình bị cáo có ông, bà nội, ngoại cùng những người thân thích có công

trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước được tặng Huân chương kháng chiến hạng

Nhất, hạng Nhì. Vì vậy, có căn cứ giảm một phần hình phạt cho bị cáo Vũ Khắc

Trịnh” [51].

Vì các lẽ trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định: Chấp nhận kháng cáo

của bị cáo Vũ Khắc Trịnh, sửa về phần hình phạt đối với bị cáo Vũ Khắc Trịnh tại

Bản án hình sự sơ thẩm số 91/2018/HSST ngày 28/08/2018 của TAND tỉnh Quảng

Ninh. Cụ thể là: Tuyên bố bị cáo Vũ Khắc Trịnh phạm tội “Mua bán trái phép chất

ma túy”; áp dụng điểm b, p, Khoản 2, Điều 251; điểm s, Khoản 1; Khoản 2, Điều

251 xử phạt bị cáo Vũ Khắc Trịnh 07 năm tù.

Như vậy, TAND cấp cao tại Hà Nội đã khắc phục được hạn chế của TAND

49

cấp sơ thẩm tỉnh Quảng Ninh là không áp dụng Khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015,

theo đó “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi tình tiết khác là tình tiết giảm

nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án”.

+ Việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép

chất ma túy” còn hạn chế.

+ Mặc dù Khoản 5, Điều 194, BLHS năm 1999 cũng như Khoản 5, Điều 251,

BLHS năm 2015 đều quy định người phạm tội có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định với tính chất là hình phạt

bổ sung. Lý do không áp dụng hình phạt bổ sung được thể hiện trong các bản án chủ

yếu là “Bị cáo không có thu nhập ổn định”. Tác giả của luận văn cho rằng, lý do này

chỉ đúng với một số trường hợp mua bán khối lượng ma túy không lớn, còn đối với

trường hợp mua bán ma túy với khối lượng lớn, thu lợi bất chính lớn mà không áp

dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thì không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh

phòng, chống tội phạm.

2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

Những hạn chế, thiếu sót trong định tội danh và quyết định hình phạt nêu trên

là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, nhưng chủ yếu là

những nguyên nhân cơ bản sau đây:

+ Một là, nguyên nhân xuất phát từ những quy định của pháp luật, đó là

những hạn chế, bất cập của các quy phạm pháp luật hình sự có liên quan đến việc

giải quyết đúng đắn các vụ án về tội phạm ma túy nói chung, tội mua bán trái phép

chất ma túy nói riêng.

Trước hết là quy định tại Điều 194 BLHS năm 1999 về tội “Tàng trữ, vận

chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý”. Thực chất đây là điều luật

quy định tội phạm ghép, cụ thể là được ghép từ Điều 185c “Tội tàng trữ trái phép chất

ma tuý”; Điều 185d “Tội vận chuyển trái phép chất ma tuý”; Điều 185đ “Tội mua bán

trái phép chất ma tuý” và Điều 185e “Tội chiếm đoạt chất ma tuý” của BLHS năm

1985. Do quy định 4 tội danh chung trong một điều luật như vậy, nên khi áp dụng để

giải quyết trường hợp người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội như: vừa có tàng trữ,

vận chuyển, vừa có hành vi mua bán trái phép chất ma túy gặp không ít khó khăn,

50

vướng mắc. Mặc dù vấn đề này đã được hướng dẫn tại mục 3 “Truy cứu trách nhiệm

hình sự trong trường hợp có nhiều hành vi phạm tội” của Thông tư liên tịch số

17/2007/TTLT nhưng trên thực tế thì nhận thức vấn đề này vẫn chưa hoàn toàn thống

nhất, dẫn tới áp dụng cũng không thống nhất. Chẳng hạn, khi người phạm tội thực hiện

một hoặc một vài hành vi phạm tội quy định tại Điều 194, thì có nơi khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử vụ án với tội danh đầy đủ hành vi phạm tội mà điều luật quy định,

nhưng có nơi thì chỉ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án với tội danh tương ứng với

hành vi phạm tội được thực hiện trên thực tế. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án

tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép chất ma túy cho thấy, các hành vi này luôn đan

xen với nhau, liên quan chặt chẽ với nhau, rất khó bóc tách, để xác định trường hợp nào

thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh đầy đủ, trường hợp nào thì truy cứu trách

nhiệm hình sự về tội danh tương ứng với hành vi phạm tội được thực hiện. Do vậy, việc

áp dụng Điều 194 để giải quyết vụ án không thống nhất là điều khó tránh khỏi.

Mặt khác, bốn hành vi phạm tội này, tuy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã

hội không chênh lệch nhau lớn, nhưng không thể bằng nhau. Trong khi đó, cả bốn

hành vi đều quy định chung trong một điều luật có cùng chế tài, trong đó có một chế

tài hết sức nghiêm khắc là hình phạt tử hình. Do vậy, không đảm bảo được nguyên

tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt của luật hình sự Việt Nam và

có thể dẫn đến việc quyết định hình phạt thiếu công bằng.

- Một điểm hạn chế, bất cập nữa của Điều 194 BLHS năm 1999 là quy định

về định lượng chất ma túy. Nghiên cứu điều luật này cho thấy, ngoài việc sử dụng

đơn vị đo lường để định lượng chất ma túy thiếu chính xác và không phù hợp với

quy định của pháp luật Việt Nam cũng như của quốc tế, thì quy định về định lượng

chất ma túy làm cơ sở để định tội và định khung hình phạt còn nhiều hạn chế. Một

trong những hạn chế liên quan đến việc định lượng chất ma túy là ở cấu thành cơ bản

của tội danh này, nhà làm luật không định lượng chất ma túy làm ranh giới giữa xử

lý hành chính với xử lý hình sự. Do vậy, bất cứ người nào thực hiện hành vi vận

chuyển, tàng trữ, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy không kể số lượng

chất ma túy như thế nào đều phải chịu trách nhiệm hình sự nếu thỏa mãn các dấu

hiệu khác được mô tả trong cấu thành tội phạm.

51

Do vậy, tại tiểu mục 3.6 của Thông tư số 17/2007/TTLT có hướng dẫn:

“Người nào tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý với số

lượng sau đây không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy

khác thì áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS, Theo đó không truy cứu trách nhiệm hình sự

nhưng phải xử lý hành chính:

a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng dưới một gam;

b) Hêroin hoặc côcain có trọng lượng dưới không phẩy một gam;

c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng dưới một kilogam;

d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng dưới năm kilogam;

đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng dưới một kilogam;

e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng dưới một gam;

g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng từ 10 mililit trở xuống”. [9]. Đây là văn

bản áp dụng pháp luật mang tính tình thế, đáp ứng yêu cầu trước mắt của công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy vào thời điểm đó. Do vậy, trong tình hình

hiện nay, khi mà có nhiều chất ma túy mới (như: lá khát…) với số lượng bao nhiêu

thì Thông tư này chưa đề cập đến. Ngoài ra có một số mới truy cứu trách nhiệm hình

sự? Hướng dẫn trong Thông tư số 17/2007-TTLT chưa thật sự hợp lý. Chẳng hạn,

quy định số lượng quả thuốc phiện khô có trọng lượng dưới 5kg; quả thuốc phiện

tươi có trọng lượng dưới 1kg thì xử lý hành chính, trên mức đó thì xử lý hình sự.

Thực tế cho thấy khoảng 3kg quả thuốc phiện tươi mới được 1kg quả khô, trong khi

đó chỉ cần có hành vi bán 1kg thuốc phiện quả tươi đã bị xử lý hình sự, còn quả

thuốc phiện khô thì phải 5kg mới bị xử lý hình sự. Do vậy, có quan điểm cho rằng:

“Quy định về trọng lượng như trên sẽ là kẽ hở để các đối tượng phạm tội lợi dụng

trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật; đồng thời thể hiện việc chưa đấu tranh triệt

để đối với tội phạm về ma tuý” [9, tr 32].

Thêm vào đó, điểm b, khoản 4, Điều 194 có quy định: “Heroin hoặc côcain

có trọng lượng từ 100 gam trở lên thì bị phạt tù 20 năm tù chung thân hoặc tử

hình”. Quy định như vậy chưa thật sự cụ thể, minh bạch, rõ ràng dẫn đến việc áp

dụng thiếu thống nhất giữa các địa phương, cùng một trọng lượng heroin hoặc

côcain từ 100 gam trở lên (như nhau), nhưng có nơi xử phạt tù 20 năm hoặc tù

52

chung thân, có nơi thậm chí xử phạt tử hình. Để áp dụng thống nhất tình tiết này,

các cơ quan chức năng ở Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 01/2001/NQ-

HĐTP ngày 15/03/2001 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, hướng dẫn:

“....Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ,

hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ nhưng đánh giá tính

chất tăng nặng, giảm nhẹ tương đương nhau thì xử phạt người phạm tội mức án

tương ứng với trọng lượng chất ma túy như sau:

+ Xử phạt 20 năm tù nếu Heroin hoặc côcain có trọng lượng từ 100 gam đến

dưới 300 gam;

+ Xử phạt tù chung thân nếu Heroin hoặc côcain có trọng lượng từ 300 gam

đến dưới 600 gam;

+ Xử phạt tử hình nếu Heroin hoặc côcain có trọng lượng từ 600 gam trở

lên” [44].

Nghiên cứu hướng dẫn này chúng tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến cho là:

“Việc hướng dẫn tại Nghị định số 01/2001/NQ-HĐTP với định lượng Heroin từ 100

gam đến dưới 300 gam là khoảng cách quá xa. Điều đó là bất hợp lý và không công

bằng khi quyết định hình phạt” [60, tr 10].

Liên quan đến vấn đề định lượng chất ma túy là vấn đề xác định hàm lượng

chất ma túy. Tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần I của Thông tư liên tịch số 17 quy định:

“Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất

dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để

xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy....”. Như vậy, theo hướng dẫn này

đối với tất cả các trường hợp khi thu giữ được chất nghi là chất ma túy... thì cùng với

việc xác định loại, trọng lượng bắt buộc phải xác định hàm lượng. Vấn đề đặt ra ở

đây là, có nhất thiết phải xác định hàm lượng chất ma túy hay không? Khi trên thực

tế việc thực hiện quy định này rất khó khăn, phức tạp. Trong khi đó, theo quy định

tại Điều 194 BLHS năm 1999 không quy định việc xác định hàm lượng chất ma túy.

Thực tế ở một số địa phương, trong đó có tỉnh Quảng Ninh, vấn đề giám định

hàm lượng chất ma túy trong vụ án không được thực hiện. Vì để xác định được hàm

lượng chất ma túy thì các địa phương vẫn phải gửi mẫu giám định tới cơ quan giám

53

định ở Trung ương nhưng thời gian gửi và trả kết quả giám định thường khá dài, ảnh

hưởng tới tiến độ giải quyết vụ án. Do vậy, quy định tại tiểu mục 1.4 nêu trên của

Thông tư liên tịch số 17 thực tế không khả thi. Trường hợp bắt buộc phải giám định

hàm lượng chất ma túy thì phải kịp thời đầu tư máy móc, trang thiết bị, đào tạo con

người thực hiện việc giám định, tránh tình trạng quy định không được thực hiện

nghiêm túc, gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án

về tội phạm ma túy nói chung, tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.

Ngoài những bất cập liên quan đến tình tiết định tội, định khung nêu trên thì

việc quy định hình phạt bổ sung tại Điều 194 BLHS năm 1999 (nay là Điều 251

BLHS năm 2015) với tính chất tùy nghi (có thể) áp dụng đối với người phạm tội này

cũng bộc lộ hạn chế, bất cập, không đáp ứng đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng, chống

tội phạm. Tuy nhiên, việc hạn chế áp dụng hình phạt bổ sung không chỉ do quy định

của pháp luật hình sự mà còn do nhận thức, đánh giá về vị trí, vai trò của hình phạt

bổ sung trong phòng, chống tội phạm chưa thật sự đúng đắn; do thủ tục áp dụng và

thi hành hình phạt bổ sung (nhất là hình phạt tiền) hết sức khó khăn, phức tạp. Vì

vậy, TAND tỉnh Quảng Ninh không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bất kỳ bị cáo

nào bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy.

+ Hai là, các vụ án về mua bán trái phép chất ma túy ở địa bàn tỉnh Quảng

Ninh chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số các vụ án về tội phạm ma túy nói chung (như mục

2.1 đã phân tích). Thêm vào đó, bọn tội phạm mua bán trái phép chất ma túy hoạt

động với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, manh động, hình thành những đường dây

buôn bán ma túy khép kín, xuyên quốc gia. Chúng rất khôn ngoan trong việc che dấu

hành vi phạm tội và nếu bị bắt thì rất ngoan cố, không chịu khai báo, hợp tác với cơ

quan điều tra... Điều này gây không ít khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng

hình sự trong việc chứng minh làm rõ sự thật khách quan của vụ án buôn bán trái

phép chất ma túy.

+ Ba là, nguyên nhân xuất phát từ chủ thể áp dụng pháp luật, đó là:

Năng lực chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp, đạo đức công vụ của đội ngũ cán

bộ, công chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, nhất là đội ngũ Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án..... còn yếu, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu

54

cầu công tác;

Một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm

trong công tác, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án và các quy định của pháp luật hình

sự có liên quan;

Chất lượng tranh tụng tại tại phiên tòa còn thấp, dẫn đến một số tình tiết của

vụ án chưa được làm sáng tỏ, rõ ràng một cách toàn diện;

Công tác tổ chức, cán bộ chưa được quan tâm đúng mức, số lượng, chất

lượng, kỹ năng xét xử của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tòa án

chưa đồng đều ảnh hưởng đến chất lượng xét xử vụ án;

Điều kiện, phương tiện công tác nhất là phương tiện khoa học, kỹ thuật hiện

đại chưa đáp ứng được yêu cầu công tác...

Tóm lại, bên cạnh những mặt tích cực trong xét xử, nhất là định tội danh và

quyết định hình phạt là cơ bản, thì hoạt động xét xử của TAND tỉnh Quảng Ninh đối

với vụ án mua bán trái phép chất ma túy vẫn không tránh khỏi những hạn chế, sai sót

nhất định. Những sai sót, hạn chế này là do cả nguyên nhân khách quan, cả nguyên

nhân chủ quan, đòi hỏi phải có giải pháp khắc phục.

55

Tiểu kết chương 2

Chương 2 của luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định

của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy của TAND tỉnh

Quảng Ninh, trong đó nhấn mạnh hai hoạt động cơ bản là định tội danh và quyết

định hình phạt.

Kết quả nghiên cứu chương này cho thấy, công tác xét xử của TAND tỉnh

Quảng Ninh nói chung, xét xử vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng đạt

được nhiều kết quả tích cực, cơ bản đảm bảo đúng người, đúng tội, tránh bỏ lọt tội

phạm. Hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma

túy đều đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ

nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội trong từng vụ án. Kết quả

này đã góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, đảm

bảo trật tự, an toàn xã hội.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xét xử nói chung, định

tội danh và quyết định hình phạt nói riêng trong xét xử vụ án về tội mua bán trái

phép chất ma túy vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót nhất định cần phải khắc phục để

đảm bảo chất lượng xét xử. Những hạn chế, thiếu sót này do nhiều nguyên nhân

khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó có những nguyên nhân thuộc về các quy

định của pháp luật hình sự; những nguyên nhân xuất phát từ tình hình tội phạm mua

bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (nguyên nhân khách quan) và

những nguyên nhân thuộc về chủ thể áp dụng pháp luật hình sự giải quyết vụ án

(nguyên nhân chủ quan).

Những kết quả nghiên cứu ở chương này là cơ sở thực tế quan trọng đối với

việc đề xuất các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự trong

giải quyết vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy ở Chương 3.

56

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

3.1. Yêu cầu

Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung, định tội danh và quyết định

hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng là hoạt động thực tiễn

pháp lý, mang tính quyền lực nhà nước, có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý sâu sắc,

liên quan đến bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Do vậy, trong mọi trường hợp, việc

áp dụng pháp luật hình sự phải đáp ứng các yêu cầu có tính nguyên tắc sau đây:

3.1.1 Yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân

Ở nước ta hiện nay, việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân là mục tiêu

nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Hiến pháp năm 2013 qui định: “1.

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân

về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng và bảo vệ,

đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có

thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc

phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng

đồng” (Điều 14 Hiến pháp 2013) [40].

Để thể chế hóa Hiến pháp, Nhà nước ta qui định bảo vệ quyền con người,

quyền công dân là một trong những nhiệm vụ của BLHS và BLTTHS (Điều 2); Xác

định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng:

“…phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người…” (Điều 8 BLTTHS năm 2015).

Trong những năm qua, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan

tiến hành tố tụng hình sự, nhất là của TAND trong phạm vi cả nước cũng như ở tỉnh

Quảng Ninh đã đem lại những kết quả thiết thực trong việc bảo vệ quyền con người,

quyền công dân. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định ảnh hưởng đến

việc bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Những hạn chế, sai sót này

không chỉ gây bức xúc trong xã hội mà còn là cái cớ để một số phần tử chống đối ở

trong và ngoài nước lợi dụng thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc thậm chí vu cáo Việt

57

Nam vi phạm nhân quyền nhằm chống Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc bảo vệ và

bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của người bị buộc tội nói riêng trong hoạt

động áp dụng pháp luật hình sự, nhất là áp dụng hình phạt cũng như các biện pháp cưỡng

chế tố tụng hình sự cần phải được quan tâm đặc biệt ở góc độ bảo vệ quyền con người.

Để bảo vệ quyền con người nhất là quyền người bị buộc tội, việc giải quyết vụ

án về tội mua bán trái phép chất ma túy phải đảm bảo khách quan, toàn diện, kết hợp

hài hòa giữa trừng trị với khoan hồng với giáo dục, cải tạo, cảm hóa người phạm tội;

đáp ứng yêu cầu hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, đề cao hiệu quả phòng

ngừa tội phạm. Hình phạt mà TAND tuyên phạt bị cáo phạm tội mua bán trái phép

chất ma túy phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm

hình sự có trong vụ án, đồng thời phải đảm bảo công bằng, phù hợp với khả năng thi

hành của người bị kết án.

Bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong áp dụng pháp luật

hình sự xử lý người bị buộc tội mua bán trái phép chất ma túy không chỉ là yêu cầu

mà còn là mục tiêu, động lực thúc đẩy hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của cơ

quan, tiến hành tố tụng hình sự, nhất là của TAND.

3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp

Cải cách tư pháp là một trong những nội dung quan trọng trong đường lối đổi

mới toàn diện đất nước của Đảng và Nhà nước ta.

Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW này 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra mục tiêu của cải cách tư pháp là : “Xây dựng

nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng

bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư

pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”

[5]. Để đạt được mục tiêu này, Nghị quyết đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cải

cách tư pháp, trong đó có những phương hướng, nhiệm vụ trở thành yêu cầu cần

quán triệt trong hoạt động áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án hình sự nói chung,

vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Một trong những phương

hướng nhiệm vụ cần quán triệt thực hiện là:

58

“Đề cao hiệu quả phòng ngừa, tính nhân đạo, hướng thiện và bảo vệ quyền

con người trong việc xử lý người phạm tội. Hạn chế việc áp dụng hình phạt tử hình;

giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ

đối với một số tội phạm… Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại

tội phạm”.

TAND là một cơ quan trong Bộ máy nhà nước có chức năng xét xử các vụ án

hình sự, trong đó có vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy. Do vậy, TAND luôn

luôn phải quán triệt những phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp nhằm bảo vệ

công lý, công bằng trong xử lý người phạm tội, góp phần đấu tranh phòng, chống tội

phạm có hiệu quả.

3.1.3. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo môi trường xã hội ổn

định, an toàn, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là sự tác động của mặt

trái nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, tình hình tội phạm trong phạm vi cả

nước cũng như ở Quảng Ninh có mức độ xảy ra ngày càng cao, diễn biến phức tạp

và có xu hướng gia tăng. Phân tích số liệu thống kê tội phạm của TAND tỉnh

Quảng Ninh thấy rằng ở địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018 có

tổng số 7.189 vụ với 12.909 bị cáo phạm các tội khác nhau. Trung bình mỗi năm ở

giai đoạn này có khoảng 1.437 vụ với 2.581 bị cáo bị TAND thụ lý xét xử. Thực

trạng này đặt ra yêu cầu phải tăng cường đấu tranh phòng chống tội phạm đối với

các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có TAND.

Để góp phần đấu tranh phòng, chống tội mua bán trái phép chất ma túy có

hiệu quả thì việc xử lý tội phạm, nhất là việc định tội danh phải đảm bảo đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều

được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo đúng qui định của pháp luật. Hình

phạt mà TAND quyết định áp dụng đối với người bị kết án phải đủ sức răn đe và góp

phần đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung của hình phạt.

Việc áp dụng pháp luật hình sự để đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả

không ngoài mục đích tạo môi trường xã hội ổn định, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế

- xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã

59

hội. Do vậy, khi áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội phạm về ma túy, TAND phải đáp

ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy đang diễn ra ngày càng

nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa

phương, đặc biệt là tỉnh Quảng Ninh.

3.1.4. Yêu cầu hội nhập quốc tế

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, thì hội nhập quốc tế là một vấn đề tất

yếu khách quan đối với nước ta. Đảng ta xác định “Hội nhập quốc tế là định hướng

chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy

tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh

vực khác từng bước mở rộng; nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế đi đôi với

chủ động, tích cực tham gia xây dựng, thực hiện các chuẩn mực chung bảo đảm lợi

ích quốc gia, dân tộc” [22, tr132].

Trong lĩnh vực tư pháp, Đảng và Nhà nước ta chủ trương: “Tăng cường củng

cố và tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp với các

nước. Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc

tham gia. Tiếp tục ký hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là các

nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước có quan hệ truyền thống, các

nước có đông người Việt Nam sinh sống. Tăng cường phối hợp chung trong phòng

ngừa và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế với các tổ

chức INTERPOL, ASEANPOL,…, với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với

cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học tập”

[3, tr.33-34].

Quán triệt chủ trương đó, đến nay Nhà nước ta đã ký kết hoặc tham gia nhiều

công ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm, điển hình là: 03 công ước của

Liên hợp quốc về chống ma túy; Công ước thống nhất các chất ma túy năm 1961;

Công ước về chất hướng thần năm 1971 và Công ước về chống buôn bán bất hợp

pháp các chất ma túy và các chất hướng thần năm 1988. Ngoài ra, Việt Nam còn ký

kết nhiều hiệp định tương trợ tư pháp hình sự với các nước trên thế giới, hiệp định

dẫn độ tội phạm, hiệp định chuyển giao phạm nhân bị kết án phạt tù... với các nước

láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có nhiều người Việt Nam sinh sống,

60

học tập, lao động. Với tư cách là quốc gia thành viên tham gia các công ước quốc tế

nêu trên, Việt Nam đã tích cực nội luật hóa các yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội

phạm quốc tế, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm ma túy, rửa tiền, buôn

bán người, tội phạm tham nhũng … trong BLHS cũng như các luật chuyên ngành về

đấu tranh phòng chống tội phạm. Những yêu cầu này không chỉ đòi hỏi đối với hoạt

động lập pháp mà còn đối với hoạt động áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống

tội phạm. Do vậy, trong xét xử vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy, nhất là

trong quyết định hình phạt, TAND cần phải quán triệt các yêu cầu về hợp tác quốc tế

đấu tranh phòng chống tội phạm, yêu cầu của Công ước quốc tế về chống tra tấn và

các hình thức trừng phạt vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người năm 1984 của Liên

hợp quốc để vừa đảm bảo đúng pháp luật Việt Nam, vừa đáp ứng được các yêu cầu

của pháp luật quốc tế.

3.2. Các giải pháp

Cùng với việc quán triệt các yêu cầu trên, để đảm bảo áp dụng đúng qui định

của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy, cần áp dụng đồng bộ các

nhóm giải pháp cơ bản sau đây:

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự

về các tội phạm ma tuý

Qua nghiên cứu các quy định của Chương XX BLHS năm 2015 về các tội

phạm ma túy, cũng như thực tiễn áp dụng hơn một năm qua, chúng tôi thấy cần

nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số dấu hiệu định tội, định khung hình phạt sau đây:

Một là, dấu hiệu định lượng chất ma túy làm ranh giới giữa xử lý hình sự và

xử lý hành chính đối với một số hành vi liên quan đến chất ma túy, đồng thời làm cơ

sở để định khung hình phạt đối với một số tội phạm về ma túy.

Trong BLHS năm 2015, nhà làm luật đã quy định rõ mức tối thiểu chất ma túy

mà người thực hiện hành vi phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại 05 điều

luật (Điều 247, 249, 250, 252 và 254). Có thể thấy đây là một điểm mới của BLHS

năm 2015, nhờ vậy mà việc xử lý, giải quyết các vụ án liên quan đến chất ma túy chỉ

căn cứ vào quy định tại các điều luật này (nhất là dấu hiệu định lượng mức tối thiểu

chất ma túy), về cơ bản không phải theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số

61

17/2007/TTLT và Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT nữa.

Mức tối thiểu chất ma túy được quy định trong các điều luật của BLHS năm

2015 được định lượng bằng một đơn vị đo lường là “khối lượng” chất ma túy, chứ

không phải là “hàm lượng” chất ma túy. Đơn vị khối lượng ở đây được tính bằng

gam, kilogam…

Thực tế cho thấy, nếu không giám định hàm lượng thì không xác định được

khối lượng chất ma túy. Do vậy, giám định hàm lượng là để xác định khối lượng chứ

không nhằm mục đích gì khác. Khối lượng chất ma túy mà điều luật quy định là tinh

chất (nguyên chất) chứ không bao hàm tạp chất. TAND căn cứ vào khối lượng thực

chất ma túy (tinh chất) sau khi đã giám định chứ không thể căn cứ vào tổng khối

lượng chất ma túy thu giữ được để định tội danh đối với những hành vi liên quan đến

ma túy. Điều này có nghĩa là trong mọi trường hợp để định tội danh được đúng đắn,

tránh để lọt tội phạm hoặc làm oan ngoài vô tội, đảm bảo đúng luật thì phải giám

định hàm lượng, bởi có giám định hàm lượng mới xác định được khối lượng thực

(tinh chất) chất ma túy. Chẳng lẽ, Tòa án xét xử cả những trường hợp thu giữ được

những chất, trong đó có chất ma túy và tạp chất như nước cất, bột nhẹ… Do vậy,

chúng tôi cho rằng, hướng dẫn tại tiểu mục 1.4, phần I, Thông tư liên tịch số

17/2007/TTLT: “Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma

túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng

cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất” là

hợp lý và cần thiết.

Tuy nhiên, trên thực tế việc giám định để xác định hàm lượng chất ma túy lại

hết sức khó khăn, vướng mắc, bởi cả nước ta hiện nay chỉ có Viện Khoa học hình sự

Bộ Công an mới có đủ máy móc, trang thiết bị để thực hiện giám định hàm lượng

chất ma túy, nên không thể đáp ứng được nhu cầu thực tế. Điều đó đã dẫn tới một số

lượng lớn vụ án ma túy tồn bị đọng do phải chờ kết quả giám định. Trước thực trạng

đó, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc này, ngày 14/11/2015 các cơ quan liên ngành ở

Trung ương đã ban hành Thông tư số 08/2015/TTLN-BCA, TANDTC-VKSNDTC-

BTP, theo đó có sửa đổi tiểu mục 1.4 của Thông tư số 17/2007/TTLT với nội dung

như sau: “Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc

62

tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép ma túy thì đều phải trưng cầu giám định

để xác định loại và trọng lượng (nay là khối lượng) chất ma túy, tiền chất thu giữ

được. Bắt buộc phải trưng cầu giám định hàm lượng để xác định trọng lượng chất

ma túy trong các trường hợp sau:

a) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy ở thể

lỏng đã được pha loãng;

b) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy ở thể

rắn được hòa thành dung dịch;

c) Xái thuốc phiện;

d) Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần.

Ngoài ra trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d tiết 1.4 mục này, nếu có

căn cứ và xét thấy cần thiết, tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để đảm bảo việc

xét xử đúng luật” [8].

Thực tế đấu tranh phòng, chống ma túy ở nước ta cho thấy, sau khi Thông tư liên

tịch số 08/2015/TTLT được ban hành đã tháo gỡ được vấn đề tồn đọng án ma túy

Tuy nhiên, hướng dẫn nêu trên của Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT lại

mâu thuẫn với Điều 15 BLTTHS năm 2015, bởi tại điều luật này có quy định:

“…Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành

tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án một cách

khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác

định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người

bị buộc tội”.

Trong khi đó, theo nội dung hướng dẫn tại Thông tư 08/2015/TTLT thì chỉ

bắt buộc giám định hàm lượng chất ma túy trong 04 trường hợp nêu trên, sau đó lấy

tổng khối lượng chất ma túy làm căn cứ để định khung hình phạt, còn lại là không

phải giám định hàm lượng. Thêm vào đó, một vấn đề đặt ra là: tại sao chỉ 04 trường

hợp được nêu trong Thông tư 08/2015/TTLT thì phải giám định hàm lượng chất ma

túy, còn các chất ma túy có pha trộn chất khác (ví dụ ma túy tổng hợp) lại không

phải giám định hàm lượng chất ma túy, như vậy có đảm bảo công bằng không? Qua

đây cho thấy, hướng dẫn này của Thông tư 08/2015/TTLT vô hình chung đã tạo

63

điều kiện, thậm chí là chỉ đạo các cơ quan tiến hành tố tụng cố ý làm sai sự thật,

trái với Điều 15 BLTTHS năm 2015, gây bất lợi cho người bị buộc tội. Về nguyên

tắc, muốn xác định được sự thật trong các vụ án ma túy thì phải chứng minh làm rõ

tang vật thu giữ được thực sự là chất ma túy (tinh chất mà không bao hàm tạp chất)

thì phải giám định hàm lượng chất ma túy để xác định khối lượng thực chất ma túy.

Chứng minh được sự thật này là một căn cứ quan trọng để xác định có tội hay

không có tội, là cơ sở để định khung hình phạt, để quyết định áp dụng hình phạt tù

hay tử hình. Nếu không giám định hàm lượng chất ma túy để xác định khối lượng

(trọng lượng) chất ma túy mà chỉ căn cứ vào khối lượng chất ma túy bị thu giữ

(tang vật) để truy cứu trách nhiệm hình sự thì vấn đề oan, sai trong tố tụng hình sự

là không tránh khỏi. Qua thực tế giám định hàm lượng chất ma túy từ trước đến nay

cho thấy, chưa bao giờ có kết quả 100% là chất ma túy mà luôn luôn có sự pha

trộn. Do vậy, chắc chắn phải giám định hàm lượng chất ma túy mới tránh được oan

sai và mới đúng luật. Chúng ta không thể tuyên một bản án tử hình đối với một

người khi họ mua, bán ma túy mà lại chỉ có 300 gam đích thực là chất ma túy còn

lại 700 gam là bột nhẹ hoặc bột mì được. Chính vì lẽ đó, tại Công văn số 315-CV

ngày 11/12/2015, TANDTC có hướng dẫn: “Những trường hợp phạm tội về ma túy

có khung hình phạt tù 20 năm đến chung thân hoặc tử hình thì bắt buộc phải giám

định hàm lượng chất ma túy nếu có căn cứ cho rằng có sự pha trộn để xét xử đúng

pháp luật [47].

Từ sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng, để định tội danh và quyết định hình

phạt được đúng pháp luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám

định hàm lượng chất ma túy đối với mọi trường hợp, nghĩa là cần tiếp tục thực hiện

theo Thông tư số 17/2007/TTLT. Thế còn những khó khăn về trang thiết bị máy

móc phục vụ công tác giám định có thể giải quyết bằng biện pháp khác, chẳng hạn

vận động sự hỗ trợ kinh phí của địa phương để mua sắm trang thiết bị như tỉnh Bắc

Ninh đã làm.

Ngoài sự hạn chế, bất cập trên, trong Thông tư số 08/2015/TTLT còn một số

nội dung chưa cụ thể, rõ ràng, mang tính tùy nghi, cụ thể là:

Tại Thông tư số 08/2015/TTLT có hướng dẫn: “...Nếu có căn cứ và xét thấy

64

cần thiết, tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để đảm bảo cho việc xét xử đúng pháp

luật…”. Hướng dẫn như vậy, theo chúng tôi sẽ dẫn tới việc nhận thức và áp dụng

pháp luật không thống nhất, bởi hiểu như thế nào là “có căn cứ và xét thấy cần

thiết”. Đây là một quy phạm đánh giá mang tính tùy nghi, không cụ thể, rõ ràng,

minh bạch. Điều đó có thể dẫn tới tình trạng tòa án cấp sơ thẩm đánh giá là không

cần thiết phải giám định hàm lượng chất ma túy, nhưng tòa án cấp phúc thẩm hoặc

giám đốc thẩm định lại đánh giá là cần thiết phải giám định hàm lượng chất ma túy,

nếu tòa án cấp sơ thẩm không trưng cầu giám định trong trường hợp này thì nguy cơ

có thể bị hủy án. Chẳng hạn, trường hợp một người có hành vi tàng trữ trái phép chất

ma túy là Heroin sau khi giám định hàm lượng chất ma túy thì không đủ khối lượng

trên 0,1 gam. Nếu căn cứ vào tiết 3.6 của Thông tư số 17/2007/TTLT thì họ chỉ bị xử

phạt hành chính, nhưng nếu căn cứ vào Thông tư số 08/2015/TTLT và quy định của

BLHS năm 2015 thì trường hợp này không bắt buộc phải giám định hàm lượng chất

ma túy, nếu tòa án cũng cho rằng không cần thiết và không trưng cầu giám định thì

có thể dẫn tới oan, sai trong tố tụng hình sự.

Thêm vào đó, hướng dẫn tại khoản 2, phần I của Thông tư số 08/2015/TTLT

cũng gây không ít khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố xét xử các

vụ án ma túy, nhất là các vụ án ma túy mang tính truy xét. Bởi tại khoản 2, phần I

của Thông tư này có hướng dẫn: “… Trường hợp không thu giữ được vật chứng là

chất ma túy, tiền chất nhưng có căn cứ xác định được trọng lượng chất ma túy, tiền

chất mà người phạm tội đã mua bán vận chuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt thì người

phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh và điều khoản tương ứng” [47].

Hướng dẫn này mặc dù đã đảm bảo xử lý được những vụ án ma túy mang tính

truy xét (không thu giữ được vật chứng của vụ án là chất ma túy hoặc tiền chất),

nhưng chưa thật sự thuyết phục, chưa thật sự chặt chẽ vì: dựa vào đâu, căn cứ nào để

xác định được khối lượng chất ma túy mà người phạm tội đã mua bán, vận chuyển,

tàng trữ hoặc chiếm đoạt? Chắc chắn chỉ dựa vào lời khai của người bị buộc tội, vậy

đã “tâm phục, khẩu phục” hay chưa? Đã đủ căn cứ hay chưa? Cách tính khối lượng

như thế nào trong xử lý các vụ án ma túy mang tính truy xét? Trong khi đó, phần lớn

các lời khai của người bị buộc tội chỉ là số lượng bánh heroin có trọng lượng (khối

65

lượng) không giống nhau (có bánh là 350 gam, có bánh 300 gam hoặc ít hơn 300

gam…). Vì thế rất khó định lượng được một bánh Heroin chính xác là bao nhiêu gam

trong các vụ án ma túy có tính truy xét. Nếu vậy, việc xác định khối lượng chất ma

túy có chính xác không để làm căn cứ định tội danh và quyết định hình phạt?

Một vấn đề nữa mà trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết các

vụ án ma túy còn có những quan điểm chưa thống nhất, đó là vấn đề được hướng dẫn tại

điểm 1.4, Điều 1, Thông tư số 08/2015/TTLT, theo đó: “Nếu chất ma túy được giám

định không phải là chất ma túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái

phép chất ma túy, nhưng người thực hiện hành vi phạm tội ý thức được rằng chất đó là

chất ma túy hoặc chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì

tùy hành vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy

định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma túy” [47]. Đối với

trường hợp này, nếu kết luận giám định thể hiện “mẫu đem giám định không có chất ma

túy”, nhưng người bán trái phép ý thức rằng chất đó là chất ma túy và họ phạm tội trong

trường hợp có một số tình tiết định khung tăng nặng như: “phạm tội 02 lần trở lên”;

“phạm tội có tổ chức”, “sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội”… thì việc xử lý

người này theo khoản 1 hay khoản 2 của Điều 251? Có xử lý họ theo các tình tiết định

khung tăng nặng hay không? Vấn đề này chưa được giải thích, hướng dẫn, nên nhận

thức và áp dụng không thống nhất.

Từ những vấn đề nêu trên, tác giả của luận văn đề xuất các cơ quan liên

ngành tư pháp trung ương sớm phối hợp xây dựng thông tư mới hướng dẫn áp

dụng một số quy định tại Chương XX “các tội phạm về ma túy” của BLHS năm

2015. Đồng thời, các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLHS

năm 2015 theo hướng quy định việc giám định hàm lượng chất ma túy và tiền

chất trong các vụ án ma túy là bắt buộc đối với mọi trường hợp.

Hai là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn áp dụng quy định tại Điều 251

về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Tại Điều 251 BLHS năm 2015 nhà làm luật không mô tả cụ thể, rõ ràng dấu

hiệu hành vi mua bán trái phép chất ma túy nên việc nhận thức và xác định hành vi

này chưa được thống nhất và chính xác. Trong khi đó, hành vi mua bán trái phép

66

chất ma túy có liên quan đến nhiều hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm của

một số tội phạm về ma túy khác, nhất là tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặt khác,

hành vi mua bán trái phép chất ma túy được thể hiện trên thực tế rất đa dạng, dưới

nhiều hình thức khác nhau (như đã phân tích ở Chương 1). Do vậy, để việc định tội

danh được chính xác, hạn chế sự sai sót, nhà làm luật cần mô tả dấu hiệu hành vi

phạm tội của tội phạm này một cách cụ thể khi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2015.

Tuy nhiên, BLHS năm 2015 mới được sửa đổi, bổ sung năm 2017, do vậy, các cơ

quan liên quan ở Trung ương trước hết cần sớm được ban hành văn bản hướng dẫn,

trong đó cần chỉ rõ những hình thức biểu hiện cụ thể của hành vi mua bán trái phép

chất ma túy như hướng dẫn tại Thông tư số 17/2007/TTLT.

- Một số tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại khoản 2, 3, 4 của

Điều 251 thiếu chính xác, chưa thật sự phù hợp với thực tế, đó là tình tiết định lượng

quả thuốc phiện khô và quả thuốc phiện tươi. Chẳng hạn, khoản 2, Điều 251 BLHS

năm 2015 quy định: “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị

phạt tù từ 07 đến 15 năm:

l) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilogam đến dưới 200 kilogam

m) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilogam đến dưới 50

kilogam;…..”

Quy định định lượng về quả thuốc phiện khô và quả thuốc phiện tươi như vậy

là thiếu chính xác không thỏa đáng, bởi vì thực tế cho thấy phải có 03 kilogam quả

thuốc phiện tươi mới có được 01 kilogam quả thuốc phiện khô, tức là phải gấp ba lần

quả thuốc phiện khô. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2, quả thuốc phiện khô

phải có khối lượng từ 50 kilogam đến dưới 200 kilogam, còn quả thuốc phiện tươi chỉ

cần có khối lượng từ 10 kilogam đến dưới 50 kilogam đã bị xử lý theo khoản 2, Điều

251. Do vậy, cần nghiên cứu để có cơ sở sửa đổi hai tình tiết định khung này quy định

tại Điều 251 cũng như tại các điều luật khác của Chương XX có quy định những tình

tiết liên quan đến việc định lượng quả thuốc phiện tươi, quả thuốc phiện khô.

- Ngoài những tình tiết định khung tăng nặng đã được định lượng cụ thể, rõ

ràng tại các khoản 2, 3, 4 nhưng vẫn còn những tình tiết định lượng chưa thật sự cụ

thể, rõ ràng cần có sự giải thích hướng dẫn để áp dụng thống nhất. Đó là tình tiết

67

“phạm tội 02 lần trở lên”. Thực tế giải quyết vụ án ma túy ở tỉnh Quảng Ninh đã có

trường hợp bắt quả tang đối tượng đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma

túy, khi tiến hành khám xét nơi ở của đối tượng còn thu giữ thêm chất ma túy đủ

khối lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối tượng khai nhận tàng trữ số ma túy

đó nhằm mục đích để bán. Đối với trường hợp này, có ý kiến cho rằng, việc đối

tượng bán trái phép chất ma túy bị bắt quả tang là một lần phạm tội và số ma túy bị

thu giữ do đối tượng tàng trữ tại nơi ở nhằm để bán là một hành vi phạm tội mua bán

trái phép chất ma túy độc lập nên trong trường hợp này cần áp dụng tình tiết “phạm

tội 2 lần trở lên” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 để xử lý người phạm tội. Nhưng

cũng có ý kiến cho là chỉ tính 01 lần phạm tội và xử lý người phạm tội theo khoản 1,

Điều 251 BLHS năm 2015. Vì vậy, tác giả của luận văn đề nghị các cơ quan có thẩm

quyền hướng dẫn cụ thể tình tiết này (nhất là đối với trường hợp trên) theo hướng

xác định trường hợp này là một trong những trường hợp phạm tội từ 2 lần trở lên

theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS năm 2015 thì mới phù hợp với tính chất của

hành vi phạm tội.

- Mặc dù tại các khoản 2, 3, 4 Điều 251 nhà lập pháp nước ta đã quy định khá đầy

đủ, toàn diện các tình tiết định khung tăng nặng, nhưng để đáp ứng yêu cầu đấu tranh

phòng, chống tội phạm này, theo tác giả luận văn cần bổ sung tình tiết “thu lợi bất chính”

và định lượng cụ thể là tình tiết định khung tăng nặng, bởi việc buôn bán trái phép chất ma

túy thường đem lại siêu lợi nhuận, nhất là đối với trường hợp bán trái phép chất ma túy.

3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề

nghiệp cho những người có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự giải quyết vụ án

Trong Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cũng như trong Báo cáo tổng kết 8 năm thực

hiện Nghị quyết số 49–NQ/TN ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược

này có đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong

sạch, vững mạnh theo hướng đề cao quyền hạn và trách nhiệm pháp lý, nâng cao

và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ

và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ… [3, tr3]. Để thực hiện

được nhiệm vụ đó, cần phải làm tốt các công việc sau:

68

Một là, đối với đội ngũ Thẩm phán

Trước tiên, cần hoàn thiện tiêu chí, điều kiện, qui trình bổ nhiệm Thẩm phán.

Mặc dù vấn đề này đã được qui định tương đối chặt chẽ trong Luật Tổ chức TAND

năm 2014, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cũng như một số văn bản

pháp luật khác, nhưng kết quả tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán vẫn chưa đáp ứng

được những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn xét xử. Ở một vài địa phương; việc

tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán chủ yếu quan tâm đến số lượng, ít chú ý đến chất

lượng. Vấn đề tổ chức thi tuyển để chọn người bổ nhiệm thẩm phán tuy đã được triển

khai, nhưng vẫn mang tính hình thức, không có tính cạnh tranh cao. Một số điều kiện

để được bổ nhiệm Thẩm phán được qui định trong luật chưa cụ thể, rõ ràng, còn

chung chung và rất khó đánh giá. Chẳng hạn, khoản 3, Điều 68, Luật Tổ chức TAND

năm 2014 có qui định một trong những điều kiện để bổ nhiệm Thẩm phán là “có

năng lực xét xử”. Vậy như thế nào là “có năng lực xét xử” thì việc đánh giá chưa có

sự thống nhất, dẫn tới có trường hợp thẩm phán được bổ nhiệm không đáp ứng được

yêu cầu “có năng lực xét xử”.

- Vấn đề tiếp theo không kém phần quan trọng là tiếp tục đổi mới nội dung,

phương thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng

xét xử, đạo đức công vụ cho đội ngũ Thẩm phán. Tại báo cáo tổng kết 8 năm thực

hiện Nghị quyết số 49–NQ/TW của Bộ chính trị nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới nội

dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh

tư pháp (trong đó có Thẩm phán), bổ trợ tư pháp. Thường xuyên bồi dưỡng cán bộ

tư pháp, theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã

hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất, đạo đức trong

sáng, có bản lĩnh dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN, tôn trọng

và bảo vệ quyền con người” [3,tr32]. Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn, bởi

cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp nói chung, đội ngũ Thẩm phán nói riêng là những chủ

thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự trong việc giải quyết vụ án về tội mua

bán trái phép chất ma túy. Nếu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp

hạn chế, đạo đức công vụ yếu kém… thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả áp

dụng pháp luật hình sự giải quyết đúng đắn vụ án.

69

Mặc dù vậy, trong một thời gian dài, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,

nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán nói riêng, cán bộ tư pháp nói chung chưa được

chú trọng đúng mức. Phương thức đào tạo chủ yếu trang bị kiến thức cơ bản mang

tính lý luận, ít chú ý đến đào tạo kỹ năng xét xử đối với từng loại án cũng như kinh

nghiệm thực tiễn… Do vậy, thời gian tới cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp

đào tạo chuyên sâu về kỹ năng xét xử đối với từng loại án, nhất là loại án về các tội

phạm về ma túy, tăng cường tập huấn nghiệp vụ để phổ biến kinh nghiệm xét xử cho

đội ngũ Thẩm phán.

Thêm vào đó, cần nghiên cứu kéo dài thời gian nhiệm kỳ của thẩm phán

TANDTC theo hướng bổ nhiệm một lần Thẩm phán TANDTC đến khi nghỉ hưu,

đồng thời kéo dài tuổi nghỉ hưu của Thẩm phán TANDTC đến 65 tuổi. Hiện nay,

theo qui định của pháp luật thì nhiệm kỳ đầu của Thẩm phán là 05 năm. Khi kết thúc

nhiệm kỳ, thì phải làm thủ tục bổ nhiệm lại. Thực tế cho thấy qui định, thủ tục điều

kiện bổ nhiệm lại chức danh Thẩm phán đã cho phép sang lọc những Thẩm phán

không đủ điều kiện, năng lực công tác. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm Thẩm phán theo

nhiệm kỳ 05 năm đã làm cho một số Thẩm phán nảy sinh “tư duy nhiệm kỳ”, chưa

mang hết khả năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình để thực thi công vụ, cá

biệt có người còn tranh thủ nhiệm kỳ được bổ nhiệm làm Thẩm phán để thu vén lợi

ích cá nhân.

Mặt khác, nhiệm kỳ Thẩm phán ngắn dẫn đến việc có một số Thẩm phán trẻ

có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ xét xử giỏi, có phẩm chất đạo đức trong sáng

không còn điều kiện, thời gian phát huy khả năng của mình để phục vụ nhân dân,

phụng sự Tổ quốc, bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Do vậy, ngoài Thẩm phán

TANDTC, cần nghiên cứu bổ nhiệm lại lần thứ hai đối với những Thẩm phán

TAND cấp tỉnh, cấp huyện có phẩm chất, đạo đức công vụ trong sáng, có kiến thức

chuyên môn nghiệp vụ sâu rộng, có nhiều kĩ năng xét xử và còn tuổi công tác, có

sức khỏe tốt tiếp tục đảm nhiệm chức danh Thẩm phán.

+ Trong bối cảnh kinh tế thị trường cũng như đời sống sinh hoạt hiện nay cần

quan tâm hơn nữa đến cải cách chế độ tiền lương cũng như đãi ngộ khác, nhất là trợ

cấp nghề nghiệp cho đội ngũ Thẩm phán để họ thực sự yên tâm thực thi công vụ, hạn

70

chế tối đa những hiện tượng tiêu cực không đáng có.

+ Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng xét xử cho

Thẩm phán, cần chú trọng hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức lối

sống cho đội ngũ này. Có như vậy, mới có thể đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi

của thực tiễn, mới có thể hạn chế được những biểu hiện suy thoái về chính trị, tư

tưởng – một căn bệnh nguy hiểm của không ít cán bộ ở nước ta hiện nay.

Hai là, đối với Hội thẩm nhân dân có vị trí, vai trò quan trọng đảm bảo tính

dân chủ trong xét xử, góp phần giúp việc xét xử của Tòa án được chính xác, khách

quan và đảm bảo công bằng. Mặc dù vậy, các quy định của pháp luật cũng như thực

tiễn áp dụng pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm nhân dân còn nhiều bất cập,

vướng mắc, dẫn tới việc Hội thẩm nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Tòa án

chưa phát huy được vị trí, vai trò của mình. Do vậy, đối với đội ngũ này, cần tập

trung triển khai các biện pháp cụ thể sau:

+ Cần phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của Hội thẩm nhân dân

trong hoạt động xét xử.

+ Quy định một cách cụ thể, rõ ràng, minh bạch hơn về việc lựa chọn nhân sự

để bầu Hội thẩm, cũng như những điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ đối

với hội thẩm.

Trước hết cần lựa chọn những người có uy tín, có kiến thức pháp luật và hiểu

biết trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; có sức khỏe và quỹ thời gian dành cho

hoạt động Hội thẩm. Đặc biệt là phải lấy ý kiến của nhân dân nơi người được giới

thiệu cư trú, để giới thiệu bầu, cử làm Hội thẩm.

Về điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ đối với Hội thẩm mặc dù đã

được quy định tại Điều 85 Luật Tổ chức TAND năm 2014, nhưng còn chung chung.

Chẳng hạn tiêu chuẩn “có kiến thức pháp luật”… Đây là tiêu chuẩn quan trọng, vì

thế phải quy định một cách cụ thể, rõ ràng hơn như: phải có trình độ trung học pháp

lý trở lên; phải qua lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ về những vấn đề liên quan

trực tiếp đến hoạt động xét xử…

+ Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới nội dung, phương

pháp bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm. Học viện Tòa án cần nghiên cứu, biên soạn

71

tài liệu nghiệp vụ và tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ xét xử cho Hội thẩm.

Bên cạnh đó, cần tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên sâu theo từng chuyên đề, phổ

biến các văn bản pháp luật mới liên quan đến nghiệp vụ xét xử đảm bảo Hội thẩm

được cập nhật thường xuyên các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà

nước. Hàng năm cần tổ chức hội nghị tổng kết công tác tham gia xét xử của Hội

thẩm, thông qua đó đánh giá chất lượng hoạt động của Hội thẩm.

+ Cùng với việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, cần chú ý giáo dục phẩm

chất, đạo đức nghề nghiệp cho Hội thẩm, đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn về chính trị

của Hội thẩm là “…có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy

tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm

khiết và trung thực” (Điều 82, Luật Tổ chức TAND năm 2014).

+ Quy định rõ chế độ trách nhiệm của Hội thẩm đối với các bản án, quyết

định mà mình tham gia giải quyết. Trường hợp Hội thẩm nào có nhiều bản án bị hủy,

sửa hoặc thiếu trách nhiệm trong công tác xét xử thì cần áp dụng các hình thức miễn

nhiệm, bãi nhiệm hoặc các chế tài xử lý khác.

+ Cần sửa đổi bổ sung chế độ chính sách đối với Hội thẩm, đặc biệt là chế độ thù

lao thỏa đáng đối với Hội thẩm. Phụ cấp cho Hội thẩm như xét xử cần nâng mức cao

hơn quy định hiện hành chứ không dừng lại ở mức 90.000 đồng/ngày như hiện tại.

3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa Tòa án nhân dân với các cơ quan tiến

hành tố tụng hình sự khác trong việc giải quyết vụ án

Trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới có đề ra một trong những

nhiệm vụ là: “Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố

tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan,

không hữu khuynh, đùn đẩy trách nhiệm” [5,tr4]. Quán triệt nhiệm vụ này, ba cơ

quan tiến hành tố tụng hình sự cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ trong suốt quá

trình giải quyết vụ án, kể từ khi tiếp nhận, xử lý, giải quyết tin báo về tội phạm cho

đến khi xét xử vụ án. Muốn vậy, phải xây dựng được một cơ chế phối hợp chặt chẽ,

khoa học, trong đó phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan và trách

nhiệm phối hợp của ba cơ quan này để tạo ra mối quan hệ cần thiết, bổ sung cho

72

nhau trong suốt quá trình giải quyết vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Đồng thời, phải kiên quyết khắc phục hiện tượng hữu khuynh, tình trạng: “quyền anh

quyền tôi” hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Đối với từng vụ án, từng giai đoạn tố

tụng cần xác định nội dung, hình thức phối hợp cụ thể sát với tình hình thực tế; việc

phối hợp phải được tiến hành kịp thời, thường xuyên, liên tục. Kinh nghiệm cho

thấy, nếu ba cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với

nhau thì việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy,

cũng như vụ án hình sự nói chung được tiến hành nhanh chóng, kịp thời và chính

xác, việc định tội danh và quyết định hình phạt của Tòa án đảm bảo đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật; hạn chế tối đa những sai sót, nhất là việc trả hồ sơ để điều

tra bổ sung.

Cùng với việc tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình

sự, Tòa án cần chú trọng phối hợp với các cơ quan bổ trợ tư pháp, nhất là cơ quan

giám định tư pháp. Thực tế cho thấy, vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy có

được giải quyết kịp thời, nhanh chóng hay không, có đúng thời hạn luật định hay

không, phần nào phụ thuộc vào kết quả giám định chất ma túy của cơ quan giám định

tư pháp. Bởi, theo qui định của pháp luật hình sự chất ma túy và khối lượng chất ma

túy được nhà làm luật qui định là dấu hiệu bắt buộc để định tội cũng như định khung

hình phạt. Chỉ khi nào có kết luận của cơ quan giám định tư pháp về chất ma túy thì

mới có cơ sở để xử lý hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng mới khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử người bị buộc tội. Như vậy, khối lượng, hàm lượng chất ma túy được xác

định trong bản kết luận giám định tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả

định tội danh và quyết định hình phạt của tòa án. Do vậy, việc giám định chất ma túy

đòi hỏi phải chính xác, khách quan, có cơ sở khoa học thì việc định tội danh và quyết

định hình phạt mới chính xác, có cơ sở. Mọi trường hợp giám định không chính xác,

không kịp thời sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giải quyết vụ án về tội mua bán

trái phép chất ma túy. Với ý nghĩa như vậy, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng nói

chung, tòa án nói riêng phải hết sức coi trọng phối hợp với cơ quan giám định tư pháp.

Đặc biệt là phần xây dựng được một cơ chế phối hợp, trong đó xác định rõ nội dung,

cách thức phối hợp, trách nhiệm của bên trưng cầu giám định và bên tổ chức thực hiện

73

giám định cho phù hợp với tính chất đặc thù của giám định tư pháp đối với mẫu ghi là

chất ma túy.

Trong quá trình xét xử vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy, những

người tham gia tố tụng có vai trò không nhỏ đối với việc làm sáng tỏ sự thật khách

quan của vụ án, nhất là luật sư bào chữa. Do vậy, Hội đồng xét xử phải hết sức tôn

trọng và lắng nghe ý kiến của họ khi tranh luận, tranh tụng tại phiên tòa. Thực tế cho

thấy, phiên tòa nào có luật sư bào chữa tham gia thì việc giải quyết vụ án về tội mua

bán trái phép chất ma túy sẽ được chính xác, khách quan, công bằng và nhân đạo

hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, người bị hại … được bảo vệ

tốt hơn. Đúng như một nhà nghiên cứu đã đánh giá: “Sự tham gia của luật sư trong

tố tụng hình sự thúc đẩy công tác điều tra, truy tố, xét xử được đầy đủ và khách quan

hơn, định tội đúng hơn, áp dụng hình phạt có xem xét tất cả các tình tiết của vụ án và

nhân dân bị cáo”. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, vai trò của luật sư, của người bào

chữa chưa được đề cao đúng mức trong xã hội, cũng như trong hoạt động tố tụng

hình sự. Vì thế, để phát huy vai trò của luật sư bào chữa trong hoạt động tố tụng hình

sự nói chung, trong hoạt động tranh luận, tranh tụng tại phiên tòa nói riêng phải đẩy

mạnh triển khai các biện pháp để phát triển và nâng cao năng lực của đội ngũ luật sư

đã được đề cập trong Chiến lược phát huy nghề luật sư đến năm 2020 được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011. Đồng

thời xây dựng cơ chế phối hợp đảm bảo cho luật sư bào chữa thực hiện tốt quyền và

nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đúng qui định của pháp luật và lương tâm nghề

nghiệp, nhất là cơ chế bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng dân chủ tại

phiên tòa.

3.2.4. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát

xét xử, tổng kết thực tiễn về tội mua bán trái phép chất ma túy

Để đảm bảo hoạt động định tội danh và quyết định của TAND trong xét xử

các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy được chính xác, khách quan, đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, vấn đề không kém phần quan trọng là phải tăng

cường lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của Tòa án.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm

74

vụ: “Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò giám sát của cơ

quan dân cử, của công luận và nhân dân đối với hoạt động tư pháp” [5, tr4]. Đây là

việc hết sức cấp thiết và quan trọng, vì thế phải thường xuyên đổi mới và tăng cường

hơn nữa. Thực tế cho thấy ở địa phương nào, Tòa án cấp nào làm tốt công tác này thì

ở đó hoạt động xét xử nói chung, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt

trong giải quyết vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng sẽ có chất

lượng, hiệu quả, sẽ phát hiện và khắc phục kịp thời những hạn chế, sai sót trong hoạt

động xét xử của Tòa án. Mặc dù có ý nghĩa, vai trò quan trọng như vậy, nhưng có thể

thấy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ cải

cách tư pháp nói chung, hoạt động xét xử của tòa án nói riêng có nơi, có lúc bị buông

lỏng, chưa thường xuyên, kịp thời, chất lượng chưa cao.

Trong Đảng, chính quyền địa phương, trong ngành tòa án cũng như trong xã

hội còn thiếu một cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát một cách đầy đủ, công

khai, minh bạch và có hiệu quả để ngăn chặn, khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu

kém trong hoạt động xét xử của tòa án. Việc thanh tra, kiểm tra trong nội bộ ngành

tòa án đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử của Tòa án dường như chưa

đạt được kết quả mong muốn do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong khi đó, giám

sát của các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) cũng như cơ quan thanh

tra chuyên ngành đôi khi còn mang tính hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.

Giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án thì chưa thực sự phát huy

tác dụng vì chưa có các qui định cụ thể, chặt chẽ, đầy đủ về quyền giám sát của nhân

dân đối với hoạt động xét xử của tòa án… Về vấn đề này, trong Báo cáo tổng kết 8

năm thực hiện Nghị quyết số 49–NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, tổ

chức đảng đối với một số nhiệm vụ cải cách tư pháp còn hạn chế, có nơi bị buông

lỏng, thiếu kiểm tra, đôn đốc, sự phối giữa các cấp ủy đảng các cơ quan tư pháp với

nhau và với cấp ủy đảng địa phương chưa thật sự chặt chẽ” [7, tr24]. Ở tỉnh Quảng

Ninh, những hạn chế, thiếu sót này cũng không ngoại lệ. Chẳng hạn, khi đánh giá

những mặt tồn tại trong công tác của TAND tỉnh Quảng Ninh năm 2018 về vấn đề

này có kết luận: “Lãnh đạo một số Tòa án chưa thật sự chủ động trong triển khai

75

nhiệm vụ công tác, công tác kiểm tra các hoạt động nghiệp vụ và thực thi công vụ

của một số nơi chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu

đặt ra” [54, tr.9].

Có thể thấy, những hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm

tra, giám sát này đã ảnh hưởng không nhỏ đối với chất lượng, hiệu quả xét xử của tòa

án. Do vậy, để nâng cao chất lượng hiệu quả xét xử, đảm bảo việc định tội danh và

quyết định hình phạt của tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế những

oan sai trong xử lý vụ án về tội mua bán trái phép chất ma tuý cần chú trọng đổi mới

và tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng, sự chỉ đạo

của Tòa án cấp trên nhưng phải đảm bảo: “Khi xét xử, tòa án hoàn toàn độc lập và

chỉ tuân thủ theo pháp luật”. Do vậy, khi thực hiện công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần

tránh sự can thiệp quá sâu vào hoạt động tác nghiệp của tòa án.

Mặt khác, cần đề cao vai trò kiểm tra, giám sát các hoạt động tư pháp của

Viện kiểm sát, vai trò của cơ quan thanh tra chuyên ngành đối với hoạt động xét xử

của Tòa án. Đồng thời, cần xây dựng một cơ chế giám sát của nhân dân, của công

luận đối với hoạt động xét xử của tòa án một cách cụ thể, công khai, minh bạch,

trong đó qui định rõ quyền và nghĩa vụ giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét

xử của tòa án cũng như của các cơ quan tư pháp khác.

Bên cạnh đó, cần triển khai tổ chức nhiều phiên tòa lưu động ở nơi xảy ra vụ

án về tội mua bán trái phép chất ma túy vừa để nhân dân địa phương có điều kiện

giám sát hoạt động xét xử của tòa án, vừa để tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật cho nhân dân.

Cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra,

kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của tòa án, cần định kỳ tổng kết thực tế xét xử để

đánh giá những kết quả đạt được, rút ra bài học kinh nghiệm… và phổ biến rộng rãi

những kinh nghiệm đó trong ngành tòa án nếu có đủ điều kiện thì xây dựng thành án lệ.

Đồng thời, khi tổng kết cần đặc biệt chú ý đến việc chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong

hoạt động xét xử, đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục kịp thời, không để cho

những hạn chế, thiếu sót đó tiếp tục xảy ra, gây ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả xét

xử, nhất là đối với hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt của tòa án.

76

3.2.5. Đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, phương tiện công tác, nhất là

phương tiện khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các cơ quan tiến hành tố

tụng hình sự thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao

Trong nghị quyết số 49–NQ/TW ngày 02/5/20005 của Bộ Chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra phương hướng: “Tổ chức các cơ quan

tư pháp và các chế định hỗ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ

chức và điều kiện, phương tiện làm việc” [5].

Đây là một phương hướng hết sức đúng đắn, nhất là trong bối cảnh tác động

của cuộc cách mạng 4.0. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo cho TAND định tội danh và

quyết định hình phạt đúng, nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về tội mua bán trái

phép chất ma túy cũng như các vụ án hình sự khác, Nhà nước cần đầu tư thỏa đáng

kinh phí, đảm bảo các điều kiện phục vụ hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của

từng cơ quan tư pháp, đặc biệt là TAND.

Trước hết, cần đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan

tư pháp và hoạt động tư pháp, trong đó có TAND. Tiếp tục đầu tư xây dựng trụ sở làm

việc của TAND cấp huyện khang trang phù hợp với yêu cầu sử dụng. Ưu tiên trang bị

phương tiện phục vụ công tác điều tra, công tác xét xử, thi hành án, công tác giám định

tư pháp; tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xét xử, tiến tới xây

dựng tòa án điện tử. Đặc biệt trong bối cảnh tỉnh Quảng Ninh đang là 1 trong 3 tòa án

được TANDTC áp dụng thí điểm hệ thống gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu chứng từ và

cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử, triển khai phần niên

giám sát hoạt động chuyên môn.

Trên đây là những giải pháp cơ bản, nếu được triển khai đồng bộ, kịp thời,

quyết liệt, chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo áp dụng đúng pháp luật

hình sự trong định tội danh cũng như quyết định hình phạt của TAND không chỉ ở

tỉnh Quảng Ninh mà còn trong phạm vi cả nước.

77

Kết luận chương 3

Xuất phát từ thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật hình sự về tội mua

bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Quảng Ninh đặt ra vấn đề phải tìm ra những giải

pháp nâng cao chất lượng xét xử, để đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt

đúng, thỏa đáng đối với người bị kết án về phạm tội này. Việc đề ra các giải pháp

bảo đảm áp dụng đúng qui định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất

ma túy cần phải quán triệt các yêu cầu mà thực tiễn đặt ra, trong đó tập trung vào các

yêu cầu cơ bản như: yêu cầu bảo vệ quyền con người, yêu cầu cải cách tư pháp, yêu

cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, yêu cầu hội nhập quốc tế. Những yêu cầu này

có tính chất định hướng, chỉ đạo việc thiết lập hệ thống giải pháp đảm bảo áp dụng

đúng các qui định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Để đáp ứng các yêu cầu trên nhằm đảm bảo định tội danh đúng và quyết định

hình phạt thỏa đáng, cần triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản từ việc

tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, đến việc tăng cường nhân lực, vật lực

cho hoạt động xét xử các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy. Những giải

pháp này nếu được triển khai thực hiện sẽ đem lại kết quả thiết thực trong quá trình

giải quyết vụ án.

78

KẾT LUẬN

Tội mua bán trái phép chất ma túy là một tội phạm xảy ra phổ biến trong đời sống

xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, ảnh hưởng tiêu

cực đến an toàn và trật tự xã hội, đến quyền con người, nhất là sự phát triển của giống nòi.

Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

này, pháp luật hình sự Việt Nam đã sớm quy định hành vi mua bán trái phép chất ma

túy (thuốc phiện) là một tội danh cụ thể trong các văn bản pháp luật hình sự và ngày

càng được hoàn thiện.

Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự để xử lý tội mua bán trái

phép chất ma túy trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, trong đó có tỉnh

Quảng Ninh ngoài những kết quả đạt được thì vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót.

Những hạn chế, thiếu sót này do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác

nhau như: sự hạn chế, bất cập trong các qui định của pháp luật hình sự và pháp luật

có liên quan; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức công vụ của chủ thể áp dụng

còn yếu kém (đặc biệt là TAND); kinh phí, điều kiện, phương tiện công tác của các

cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nói chung của TAND nói riêng còn hạn chế,…

Để đảm bảo chất lượng xét xử, nhất là định tội danh và quyết định hình phạt

đối với tội mua bán trái phép chất ma túy cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp

khác nhau như: tiếp tục hoàn thiện các qui định của BLHS năm 2015 và các qui định

của BLTTHS năm 2015 có liên quan đến việc điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán

trái phép chất ma túy; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kỹ năng, đạo đức

nghề nghiệp cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự; tăng cường sự

phối hợp chặt chẽ giữa TAND với các cơ quan hữu quan; tăng cường lãnh đạo, chỉ

đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát xét xử, tổng kết thực tiễn về tội mua bán trái phép

chất ma túy; đầu tư kịp thời, thỏa đáng kinh phí, điều kiện, phương tiện công tác cho

các cơ quan tư pháp, nhất là TAND... Các giải pháp này nếu được triển khai đồng

bộ, liên tục, kiên quyết tin tưởng sẽ đem lại kết quả thiết thực trong áp dụng pháp

luật hình sự giải quyết vụ án về tội phạm này.

Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã có nhiều có gắng, nhưng không

thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả kính mong nhận được sự đóng góp

của các nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn, các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp

để tác giả của luận văn tiếp tục hoàn thiện, đảm bảo luận văn có giá trị khoa học hơn.

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Ngọc Anh (2007), Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng chống tội phạm

của lực lượng Cảnh sát nhân dân Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

2. Nguyễn Ngọc Anh (2009), “Bàn về việc sửa đổi, bổ sung Điều 194 BLHS

năm 1999”, Tạp chí Kiểm sát, số 4, tr. 44-51;

3. Ban chấp hành Trung ương – Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2014), Báo cáo

tổng kết 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020, Hà Nội;

4. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội;

5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ

Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;

6. Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương (2014), Kết luận số 92-KL/TW

ngày 12/3/2014 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, Hà Nội;

7. Bộ Tư pháp – Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2000), số chuyên đề về BLHS

(năm 1999), Hà Nội;

8. Bộ Công an, TANDTC, VKSNDTC–BTP (2015), Thông tư số

08/2015/TTLT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 17/2017/TTLT , Hà Nội;

9. Bộ Công an, VKSNDTC, TANDTC, BTP (2007), Thông tư liên tịch số

17/2007/TTLT-BTC-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007, hướng dẫn áp

dụng Chương XVIII “các tội phạm về mua bán” của BLHS năm 1999, Hà Nội;

10. Mai Bộ (2007), “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm

đoạt chất ma túy”, Tạp chí TAND, số 3;

11. Chính phủ (2003), Nghị định số 58/2003/NĐ-CP ngày 29/5/2003 của

Chính phủ quy định về kiểm soát nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển quá cảnh lãnh

thổ Việt Nam chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, Hà Nội;

12. Chính phủ (2001), Nghị định số 67/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính

phủ ban hành danh mục các chất ma túy và tiền chất dùng vào việc sản xuất trái

phép chất ma túy, Hà Nội;

80

13. Chính phủ (2003), Nghị định số 133/2003/NĐ-CP ngày 6/11/2003 của

Chính phủ bổ sung một số chất vào danh mục các chất ma túy và tiền chất, Hà Nội;

14. Chính phủ (2001), Nghị định số 65/2001/NĐ-CP ngày 28/9/2001 của

Chính phủ ban hành hệ thống đo lường hợp pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, Hà Nội;

15. Chính phủ (1952), Nghị định số 150/NĐ-CP ngày 05/4/1952 về xử lý hành

vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, Hà Nội;

16. Chính phủ (2013), Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013, Hà Nội;

17. Chính phủ (2015), Nghị định số 126/2013/NĐ-CP ngày 9/12/2015 của Chính

phủ sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP, Hà Nội;

18. Chính phủ (2013), Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của

Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã

hội; phòng, chống tệ nạn xã hội, Hà Nội;

19. Chính phủ (2018), Nghị định số 73/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị

định số 126/2015/NĐ-CP, Hà Nội;

20. Chủ tịch nước (1997), Quyết định số 798/QĐ-CTN ngày 01/9/1997 về việc

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia 3 công ước của Liên hợp quốc

về kiểm soát ma túy, Hà Nội;

21. Đỗ Văn Chỉnh (2018), “Những điểm mới của Thông tư liên tịch số

08/2015/TTLT-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP đối với tội phạm về ma túy”, Tạp

chí TAND, số 2, tr. 14-18;

22. Đảng cộng sản Việt Nam – Ban chỉ đạo tổng kết (2015), Báo cáo tổng kết

một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội;

23. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), “Bình luận khoa học BLHS năm 2015 (Phần

các tội phạm)”, Quyển 2, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

24. Nguyễn Thị Phương Hoa (2007), “Hoàn thiện khái niệm chất ma túy trong

pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3, Thành phố Hồ Chí Minh;

25. Trần Mạnh Hà (2011), “Một số ý kiến trong việc sửa đổi Thông tư liên

tịch số 17/2007/TTLT–BCA–TANDTC–VKSNDTC–BTP ngày 24/12/2007 hướng

81

dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “các tội phạm về ma túy” của BLHS

năm 1999”, Tạp chí TAND, số 20, tr. 11-14;

26. Nguyễn Văn Hiện (2000), “Một số vấn đề về trách nhiệm hình sự đối với

các tội phạm ma túy theo pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Tạp chí TAND,

số 12, tr11-15;

27. Nguyễn Mạnh Hùng (2018), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015, Nxb

Lao động, Hà Nội;

28. Đỗ Văn Kha (2010), “Bàn về công tác phối hợp trong việc điều tra, truy

tố, xét xử các vụ án ma túy”, Tạp chí Kiểm sát, số 9, Hà Nội;

29. Đỗ Văn Kha (2008), “Những khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định

của pháp luật trong giải quyết vụ án về ma túy”, Tạp chí Kiểm sát, số 2, tr. 39-42;

30. Vũ Thành Long (2008), “Một số bất cập, vướng mắc trong truy tố xét xử

các tội phạm về ma túy, Tạp chí Dân chủ và pháp luật”, tr 18;

31. Nguyễn Hoàng Long (2018), “Những bất cập của quy định pháp luật trong

việc giám định hàm lượng chất ma túy”, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số 9, Hà Nội;

32. Trần Văn Luyện (2000), “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma

túy, Nxb Chính trị quốc gia”, Hà Nội;

33. Nguyễn Thị Mai Nga (2008), “Bàn về quy định xử lý tội phạm ma túy của

BLHS trong thời kỳ hội nhập”, Tạp chí Kiểm sát, số 12, tr 22-25;

34. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự của nước cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2000 (sửa 2008);

36. Quốc hội (2000), Luật Phòng, chống ma túy, Nxb Chính trị Quốc gia,

Quốc hội (2008), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng chống ma túy,

năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

37. Quốc hội (2012), Luật Giám định tư pháp năm 2012, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội;

38. Quốc hội (2016), Luật Dược năm 2016, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

39. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội;

82

40. Quốc hội (2013), Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

41. Lê Thị Sơn (2000), “Các tội phạm về ma túy, so sánh giữa BLHS năm

1985 và BLHS năm 1999”, Tạp chí Luật học, số 3, Hà Nội;

42. Lê Thị Sơn (2016), “Đánh giá tính thống nhất giữa BLHS và Luật phòng

chống ma túy”, Tạp chí Luật học, số 10, tr.43-51;

43. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 101/QĐ-TTg ngày 27/6/2011

của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống ma túy ở

Việt Nam, Hà Nội;

44. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày

15/3/2001 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định

của BLHS, Hà Nội;

45. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Công văn số 234/TANDTC-HS ngày

17/9/2014, Hà Nội;

46. Tòa án nhân dân tối cao (2015), Công văn số 315/TANDTC-HS ngày

11/12/2015, Hà Nội;

47. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Thông báo số 264/TANDTC ngày

29/10/2014 của TANDTC, Hà Nội;

48. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Tập luật lệ hình sự (1945-1974), Hà Nội;

49. Tòa án nhân dân tối cao (1990), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố tụng

(1984-1990), Hà Nội;

50. Tòa án nhân dân tối cao (1992), Các văn bản về hình sự, dân sự và tố

tụng, tập 1, 2, Hà Nội;

51. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (2018), Bản án phúc thẩm số

451/2018/HSST ngày 11/7/2018;

52. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2019), Bản án số 05/2019/HSST ngày

30/01/2019;

53. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2014 – 2018), Báo cáo kết quả thực

hiện nhiệm vụ công tác năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018;

54. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018), Thống kê thụ lý và giải quyết

các vụ án hình sự sơ thẩm;

83

55. Nguyễn Xuân Thiện (2017), “Ma túy và chất ma túy theo pháp luật Việt

Nam”, Tạp chí TAND, số 19, tr24-29;

56. Nguyễn Thị Thu (2017), “Thực tiễn định tội danh các tội phạm về ma túy

trong trường hợp đồng phạm trên địa bàn tỉnh Hòa Bình”, Tạp chí Kiểm sát, số 10,

tr25-29;

57. Huỳnh Như Thương (2019), Định tội danh các tội phạm và ma túy trong

trường hợp đồng phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà

Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH;

58. Phạm Minh Tuyên (2005), “Những quy định của BLHS năm 1999 đối với

các tội phạm về ma túy”, Tạp chí TAND, số 17, tr7-9;

59. Phạm Minh Tuyên (2005), “Một số bất cập và những kiến nghị đối với các

quy định của BLHS về các tội phạm ma túy theo pháp luật hiện hành”, Tạp chí

TAND, số 18, tr.9-14;

60. Phạm Minh Tuyên (2006), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về

ma túy trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện nghiên cứu Nhà

nước và pháp luật;

61. Nguyễn Thu Trang (2018), Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp

luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ, Học viện

KHXH, Hà Nội;

62. Nguyễn Văn Trượng (2008), “Một số vướng mắc khi xét xử các tội phạm về

ma túy và những vấn đề cần hướng dẫn, hoàn thiện”, Tạp chí TAND, số 3, Hà Nội;

63. Văn phòng thường trực phòng, chống ma túy (2001), Ba công ước quốc tế

về kiểm soát ma túy, Nxb CAND Hà Nội (1961, 1971, 1988);

64. Võ Khánh Vinh (2014), “Giáo trình Luật hình sự (phần các tội phạm)”,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

65. Võ Khánh Vinh (2013), “Giáo trình lý luận chung về định tội danh”, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

84