VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ MẠNH HÙNG
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ MẠNH HÙNG
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHÙNG THẾ VẮC
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, dẫn chứng thực tiễn trong luận văn là hoàn toàn khác quan, trung
thực, có nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu luận văn không có
sự trùng lặp với bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào đã được
nghiệm thu, công bố./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
LÊ MẠNH HÙNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY .............. 7
1.1. Nhận thức về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự ........ 7
1.2. Nội dung về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự ........ 14
1.3. Các yếu tố bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trong hoạt động tố
tụng hình sự hiện nay .......................................................................... 19
1.4. Đặc điểm, phân loại bị hại trong hoạt động điều tra tội phạm trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh ..................................................................... 24
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG
NINH ......................................................................................................... 34
2.1. Một số đặc điểm liên quan đến công tác áp dụng các quy định pháp
luật về bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh .. 34
2.2. Tình hình thực hiện áp dụng địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh .................................................................................. 39
2.3. Nhận xét, đánh giá chung ............................................................. 57
Chương 3: DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÓ
HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ............................................... 64
3.1. Dự báo về tình hình có liên quan công tác bảo đảm thực hiện có
hiệu quả các quy định về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh ......................................................................................... 64
3.2. Giải pháp và kiến nghị bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quy định
về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ................. 68
KẾT LUẬN .............................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 82
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ANTT:
An ninh, trật tự
BLHS:
Bộ luật Hình sự
CQĐT:
Cơ quan điều tra
ĐTV:
Điều tra viên
ĐVPL:
Địa vị pháp lý
TAND:
Tòa án nhân dân
TTHS:
Tố tụng hình sự
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước yêu cầu cải cách tư pháp thì các vấn đề đảm bảo quyền dân chủ và nhân
quyền, đặc biệt là các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong TTHS luôn được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” đã tiếp tục xác định: “Cải cách mạnh mẽ
các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch,
chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với
hoạt động tư pháp”. Cụ thể hóa quan điểm này của Đảng, thời gian qua, Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành nhiều đạo luật mới trong đó
có Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 đã có những thay đổi, bổ
sung, sửa đổi nhiều nội dung quan trọng, trong đó có những quy định về ĐVPL của
bị hại, làm cơ sở để cơ quan tiến hành tố tụng, các tổ chức, cá nhân phát huy quyền
và nghĩa vụ trong tham gia hoạt động tố tụng.
Thực tiễn thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 cho thấy, trong TTHS, tội phạm
không chỉ xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân mà còn xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức. Cùng với đó, BLHS quy định xử lý
không chỉ đối với các hành vi xâm hại quyên và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức mà trong một số trường hợp xử lí đối với cả hành vi đe dọa xâm hại
quyền và lợi ích hợp pháp. Do Bộ luật TTHS 2003 chưa quy định đầy đủ nên thực
tiễn áp dụng chưa thống nhất. Để khắc phục những vướng mắc bất cập này, Bộ luật
TTHS năm 2015 đã quy định bị hại là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tinh
thần do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Về quyền của bị hại hoặc người đại diện
của họ, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung các quyền như: Được thông báo, giải
thích quyền và nghĩa vụ; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến
về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp
luật; được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án; đề nghị thay đổi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch,
1
người dịch thuật; đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi
thường; tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và
người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình; xem biên bản phiên tòa. Do đó, cơ quan tiến hành tố tụng trong quá
trình tiến hành các hoạt động tố tụng cần đảm bảo ĐVPL của bị hại trên cơ sở chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng và các quy định pháp luật về hoạt động
tố tụng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bị hại.
Trên phương diện thực tiễn, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do
tội phạm gây ra chỉ trở thành bị hại trong TTHS khi họ được cơ quan có thẩm quyền
công nhận là bị hại thông qua hành vi triệu tập họ đến khai báo với tư cách là bị hại.
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bị hại trong TTHS ở nước ta hiện
nay cũng như thực trạng về bảo đảm ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh để
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tế, góp phần
xử lý kịp thời, khách quan nhằm bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, lợi ích của Nhà nước và xã hội là một yêu cầu khách quan và cần thiết.
Là tỉnh có nền kinh tế phát triển trọng điểm phía Bắc của nước ta, Quảng Ninh
đã có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng, tuy nhiên, Quảng Ninh cũng là tỉnh có tình hình tội phạm diễn biến phức tạp.
Từ năm 2014 đến hết năm 2018, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã khởi tố, điều
tra 7.222 vụ án, 10.474 bị can với đa dạng các loại tội phạm, chủ yếu là tội phạm ma
túy, tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội, tội phạm về kinh tế, môi trường...
Trong quá trình tiến hành các hoạt động điều tra tội phạm, CQĐT Công an tỉnh Quảng
Ninh đã quán triệt, nghiêm túc thực hiện yêu cầu đảm bảo pháp chế trong thực hiện
các quy định về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị hại. Tuy nhiên, với những quy
định mới về ĐVPL của bị hại theo Bộ luật TTHS, việc đảm bảo đúng, đủ các quyền
và nghĩa vụ của bị hại còn những khó khăn nhất định đối với CQĐT Công an tỉnh
Quảng Ninh như: Vấn đề thực hiện quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
vấn đề tham gia phiên tòa, tranh tụng tại tòa, vấn đề dẫn giải bị hại khi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc
không do trở ngại khách quan….
Trên phương diện lý luận, thời gian qua, vấn đề nghiên cứu lí luận về người bị
2
hại trong TTHS (theo Bộ luật TTHS năm 1998, Bộ luật TTHS năm 2003) đã được
nghiên cứu, đề cập tại các công trình khoa học ở các cấp độ khác nhau. Tuy nhiên,
xuất phát từ quan điểm, nội dung mới về “bị hại” thì đến nay chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu trực tiếp. Bên cạnh đó, lý luận tư pháp hình sự của nước ta quan
tâm nhiều chứng minh tội phạm và người phạm tội. Việc bảo đảm ĐVPL của bị hại
chỉ là nhiệm vụ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tức là thông qua
việc chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vị phạm tội thì ĐVPL của bị hại
được đảm bảo. Do đó, “khoảng trống” lí luận là ĐVPL của bị hại là điều không tránh
khỏi, cần được bổ sung.
Với những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “ĐVPL của bị hại theo pháp
luật TTHS Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” làm Luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đề tài
Bị hại là một người tham gia tố tụng được quy định trong luật TTHS năm
2015. Thời gian qua, ở nước ta đã có nhiều bài viết, công trình khoa học nghiên cứu
liên quan đến ĐVPL của người bị hại (1 bộ phận quan trọng cấu thành “bị hại”), như:
- Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Nguyên Thanh (2012), “Người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS”, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh đi sâu nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của người bị hại và nguyên đơn dân sự
với tư cách là người tham gia tố tụng độc lập.
- Luận án tiến sĩ của tác giả Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại
trong TTHS”, Viện khoa học và Xã hội Việt Nam tiếp cận quyền của người bị hại
dưới góc độ quyền con người, đồng thời nêu ra cơ chế bảo đảm quyền của người bị
hại trong TTHS.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Thịnh Quang Thắng (2010): “Người bị hại trong
TTHS Việt Nam” đã đề cập tương đối đầy đủ các luận cứ khoa học như: Bản chất, ý
nghĩa, mục đích của việc nghiên cứu về người bị hại, tham khảo kinh nghiệm nước
ngoài. Tuy nhiên, các dẫn chứng số liệu đều được lấy ở một địa bàn nhỏ hẹp là huyện
Đông Anh -một huyện ngoại thành Hà Nội nên việc nghiên cứu đánh giá còn nhiều
hạn chế.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Đặng Hoàng Phương (2015), “ĐVPL của người
bị hại trong TTHS (áp dụng trong thực tiễn TTHS trên địa bàn thành phố Hà Nội)”,
3
trường Đại học quốc gia đã nghiên cứu địa vị pháp lý của người bị hại trong TTHS,
việc áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 về địa vị pháp lý của người
bị hại trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Ngoài ra còn có các bài báo khoa học có nội dung liên quan đến ĐVPL bị hại
(người bị hại) trên các tạp chí khoa học như: “Bàn về việc tòa án cấp phúc thẩm có
được thay đổi tư cách của người tham gia tố tụng khi xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xác
định không đúng”, Tạp chí TAND tối cao số 24/2005. “Một số vướng mắc khi giải
quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại”, Tạp chí kiểm sát số 7/2008.
“Một số vấn đề cần chú ý khi xác định người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự”,
Tạp chí Toà án nhân dân số 13/2008. “Người bị hại trong TTHS”, Tạp chí khoa học
pháp lý số 01/2007. “Quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng tại phiên tòa hình
sự phúc thẩm”, Tạp chí Tòa án. TAND tối cao số 5/2004… Các bài viết, công trình
nghiên cứu trên đã phân tích, giải quyết và làm rõ một số vấn đề lý luận về chế định
quyền và nghĩa vụ của người bị hại trong TTHS Việt Nam nhưng vẫn còn nhiều vấn
đề về lý luận và thực tiễn mà các công trình nghiên cứu trên chưa đề cập đến ĐVPL
của bị hại theo Bộ luật TTHS năm 2015.
Như vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nghiên cứu về ĐVPL của bị hại
theo Bộ luật TTHS năm 2015 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, việc nghiên cứu đề tài “ĐVPL
của bị hại theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” không trùng lặp
với bất kì công trình khoa học nào đã được công bố, nghiệm thu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu về ĐVPL của bị hại trong Bộ
luật TTHS năm 2015; khảo sát và đánh giá việc áp dụng các quy định này trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh, đưa ra một số giải pháp thực hiện có hiệu quả các quy định về
bị hại trong thực tiễn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ như sau:
- Nêu nhận thức cơ bản về bị hại và ĐVPL của bị hại trong TTHS.
- Đánh giá khái quát thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về ĐVPL của
bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình
thực hiện và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị thực hiện có hiệu quả các quy định pháp
luật về ĐVPL của bị hại từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu ĐVPL của bị hại trong luật TTHS Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về nội dung: ĐVPL của bị hại trong TTHS theo quy định Bộ luật
TTHS năm 2015 và công tác áp dụng các quy định của Bộ luật TTHS về địa vị pháp
lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi chủ thể thực hiện: CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi địa bàn: Tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; những quan điểm cơ bản của Đảng
và Nhà nước ta về nhà nước, pháp luật và quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê; phân tích,
tổng hợp; phương pháp so sánh, tổng kết thực tiễn; tổ chức tọa đàm khoa học, phỏng
vấn chuyên gia và nghiên cứu tài liệu...
Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở phân tích địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự, đánh giá
một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề về thực trạng áp dụng các quy định về
quyền và nghĩa vụ của bị hại trong TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về bảo đảm
quyền và nghĩa vụ của bị hại trong Bộ luật TTHS cũng như các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả áp dụng trong TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần bổ sung lý luận và sáng tỏ ĐVPL bị hại theo pháp luật
TTHS hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục
vụ công tác nghiên cứu, tham mưu đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và cá nhân có
5
liên quan về bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị hại trong hoạt động liên quan tố tụng.
Bên cạnh đó, luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc bồi
dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng, các trường, trung tâm nghiên cứu, học tập về khoa học luật
hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận
văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Lý luận về ĐVPL của bị hại theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về ĐVPL của bị hại
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Dự báo và giải pháp bảo đảm ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh
6
Quảng Ninh.
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Nhận thức về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự hiện nay
Để làm rõ về khái niệm ĐVPL của bị hại trong TTHS, trước hết chúng ta cần
làm rõ khái niệm “ĐVPL”.
Theo Từ điển tiếng Việt, “địa vị” đó là vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, do
chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt được coi trọng ít hay nhiều; vị trí trong
quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị do vai trò, tác dụng mà có còn pháp lý là căn cứ, cơ
sở của pháp luật .Địa vị của cá nhân là vị trí của cá nhân đó trong vai trò xã hội của
mình, thể hiện năng lực, trình độ hoặc vai trò của cá nhân trong mối quan hệ tương
quan với các cá nhân khác trong xã hội. Địa vị này có thể do cá nhân xây dựng tạo
nên hoặc do thừa hưởng từ cá nhân khác (thừa kế chức vụ trong công ty, doanh
nghiệp, tổ chức…). Khái niệm “ địa vị” thường được dùng đi kèm bổ ngữ, tạo thành
khái niệm mang tính tập hợp, ví dụ: “địa vị xã hội”, “ĐVPL”...
Theo Từ điển luật học, “ĐVPL” được hiểu là “vị trí của chủ thể pháp luật trong
mối quan hệ với những chủ thể khác trên cơ sở các quy định pháp luật; ĐVPL của chủ
thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua
đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông
qua ĐVPL có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời,
cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan
hệ pháp luật” [39]. Như vậy “ĐVPL” khác với “địa vị xã hội” ở chỗ nó được pháp luật
quy định và thể hiện rõ các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
Như vậy, ĐVPL có thể hiểu: Là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật
quy định cho một chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể đó có khả năng tham gia quan
hệ pháp luật một cách độc lập.
Đối với khái niệm “bị hại”: Bị hại là khái niệm mới trong TTHS Việt Nam,
được công nhận trong Bộ luật TTHS năm 2015. Trước khái niệm “bị hại” được công
nhận, Bộ luật TTHS năm 2003 công nhận, sử dụng khái niệm “người bị hại”. Khái
niệm người bị hại đã xuất hiện từ rất sớm, khi bắt đầu có thủ tục TTHS. Sau này, khái
7
niệm người bị hại được các nhà nghiên cứu về tội phạm học đưa vào ứng dụng trong
việc xác định những mất mát, tổn thương do tội phạm gây ra từ khía cạnh của tội
phạm học. Đối với Việt Nam, nguời bị hại là khái niệm quen thuộc trong TTHS.
Trong Bộ luật TTHS năm 2003 đưa ra khái niệm “người bị hai” theo đó “người bị
hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Người
bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần
hoặc về tài sản. Nếu người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách
là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Trong trường hợp người bị hại chết thì
cha, mẹ, vợ, chồng, con của người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người đại
diện hợp pháp của người bị hại và có những quyền của người bị hại.”.
Tại Bộ luật TTHS năm 2015 thuật ngữ “người bị hại” trong Bộ luật TTHS
2003 đã được thay thế bằng thuật ngữ “bị hại”, theo đó khái niệm bị hại mở rộng hơn
đối tượng bao gồm công dân và pháp nhân, (Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người
bị hại chỉ có công dân). Thực tiễn thi hành Bộ luật TTHS năm 2003 cho thấy, trong
TTHS, tội phạm không chỉ xâm phạm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân mà con xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan tổ chức. Việc
mở rộng khái niệm “bị hại” bao gồm cá nhân và cơ quan, tổ chức là sự phù hợp với
thực tiễn hoạt động TTHS, sự thống nhất trong quy định giữa Hiến pháp, BLHS, Bộ
luật TTHS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác. Bị hại với tư cách
là người tham gia TTHS và được xác định tại Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015 về bị
hại: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.”.
Như vậy, theo quy định này thì bị hại bao gồm là cá nhân (hoặc người đại diện hợp
pháp của cá nhân bị thiệt hại hoặc pháp nhân (hoặc người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín).
Theo như quy định của BLTTHS năm 2015 bị hại có các đặc điểm sau đây
- Về chủ thể bị hại bao gồm là cá nhân, pháp nhân, tổ chức;
- Thiệt hại do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm: Cá nhân trực tiếp bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản,
uy tín. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt
8
buộc trong tất cả các trường hợp.
- Thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có
mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Đây là điều
kiện quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác
trong vụ án hình sự.
- Công dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách
là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
Chúng ta cần phân biệt “bị hại” với các khái niệm có nghĩa tương đồng là nạn
nhân của tội phạm. Nội dung khái niệm người bị hại có nội hàm hẹp hơn so với khái
niệm nạn nhân của tội phạm. Như đã biết, hành vi phạm tội luôn gây ra hoặc đe dọa
gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự bảo vệ. Để
gây ra những thiệt hại cho những quan hệ này, hành vi phạm tội đã tác động gây thiệt
hại cho một số cá nhân, tổ chức. Trong khi đó “Nạn nhân của tội phạm là những cá
nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây ra những thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác”[38, tr8]. Như vậy, nạn nhân
của tội phạm ngoài cá nhân còn có thể là tổ chức, pháp nhân; thiệt hại của nạn nhân
không chỉ về thể chất, về tinh thần, về tài sản mà còn có thể bao hàm những thiệt hại
về các quyền và các lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm cả những thiệt
hại gián tiếp; hơn nữa nạn nhân chỉ khi tham gia quan hệ pháp luật TTHS mới được
xem là bị hại.
Với việc xác nhận “bị hại” bao gồm cá nhân và cơ quan, tổ chức đã thể hiện
sự cụ thể nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật được coi là nguyên tắc
mang tính hiến định, ghi rõ trong Hiến pháp năm 2013 (khoản 1 Điều 16), được cụ
thể hóa trong Bộ luật TTHS: bình đẳng giữa chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng ( ví dụ bị hại), bình đẳng về quyền thu thập, đưa ra chứng
cứ, yêu cầu, đề nghị; mọi người tham gia tố tụng đều được hưởng quyền và nghĩa vụ
ngang nhau…
Với tư cách là người tham gia tố tụng hình sự, ĐVPL của bị hại bị chi phối bởi
nhiều yếu tố như: như đặc điểm của mô hình TTHS thẩm vấn hay tranh tụng, kết hợp
giữa mô hình thẩm vấn và mô hình tranh tụng; quan niệm về bị hại trong TTHS; mối
tương quan giữa bị hại và các chủ thể khác tham gia TTHS; hệ thống quy định pháp
9
luật về TTHS hiện hành... dẫn đến sự khác biệt giữa ĐVPL của bị hại với những người
tham gia tố tụng khác như bị can, bị cáo, người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ
án, luật sư, người bào chữa, và các chủ thể tham gia tố tụng khác.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: ĐVPL của bị hại trong TTHS là
tổng hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho bị hại, tạo cho bị hại có
khả năng tham gia quan hệ pháp luật tố tụng một cách độc lập.
1.1.2. Vai trò của bị hại trong tố tụng hình sự
1.1.2.1. Vai trò buộc tội
Trước hết, chúng ta cần xác định buộc tội là hoạt động của cơ quan nhà nước
hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội
phạm. Trong TTHS, buộc tội là chức năng chính của Viện kiểm sát khi thực hiện quyền
công tố.Tuy nhiên, hiểu rộng ra, trong quá trình xử lí hành vi phạm tội, bị hại trong
trường hợp nhất định cũng thể hiện vai trò “buộc tội”.
Trong TTHS một số quốc gia, bên cạnh khái niệm công tố, việc buộc tội nhân
danh cá nhân được gọi là tư tố (Liên bang Nga, Trung Quốc, Phần Lan, một số bang
của Hoa Kỳ...). thực tế trong quy định Bộ luật TTHS Việt Nam đã có những quy định
trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại tạo khả năng và điều kiện
cho bị hại được tự do lựa chọn cách giải quyết, hoặc là yêu cầu pháp luật can thiệp
hoặc là tự dàn xếp với người đã gây thiệt hại cho mình một cách ổn thoả, đó “là tư
tố”. Nội dung này được quy định tại khoản 3 Điều 62 của Bộ luật TTHS năm 2015:
“Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện
của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa” và tại Điều 155 của Bộ luật TTHS này:
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều:
- Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác);
- Điều 135. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
- Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi
bắt giữ người phạm tội;
- Điều 138. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
10
khác;
- Điều 139. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người
khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
- Điều 141. Tội hiếp dâm;
- Điều 143. Tội cưỡng dâm;
- Điều 155. Tội làm nhục người khác;
- Điều 156. Tội vu khống;
- Điều 226.Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của BLHS khi có yêu
cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ,
trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý
muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu,
CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Bị hại hoặc
người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ
trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Đây là một quy định vừa mang tính kế thừa của Bộ luật TTHS năm 2003, vừa
có sự sửa đổi, bổ sung: Một điểm mới đáng chú ý trong Bộ luật TTHS năm 2015 là
quy định cơ chế sử dụng quyền yêu cầu của người bị hại trong khởi tố vụ án hình sự.
Khoản 2 Điều 155 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Trường hợp người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ…”. Với nội dung này, so với quy
định trong Bộ luật TTHS năm 2003 thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã có tiến bộ hơn
khi mở rộng quyền rút yêu cầu của bị hại là bị hại được quyền rút yêu cầu bất cứ lúc
nào trong suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử (Khoản 2
Điều 105 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định người bị hại chỉ được rút yêu cầu trước
khi mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án mới được đình chỉ). Trong giai đoạn điều tra,
CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản
2 Điều 155… (điểm a khoản 1 Điều 230 Bộ luật TTHS năm 2015); trong giai đoạn
truy tố, Viện kiểm sát quyết định không truy tố và ra quyết định đình chỉ vụ án khi
có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155… (khoản 1 Điều 248 Bộ luật
TTHS năm 2015); trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra
quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều
11
155… (điểm a, khoản 1 Điều 282 Bộ luật TTHS năm 2015).
Như vậy, chức năng buộc tội trong TTHS là chức năng của Viện kiểm sát truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nhưng quyền buộc tội cá nhân vẫn
được tôn trọng ở mức độ nhất định. Không giống quyền công tố, với quyền “tư tố”,
pháp luật cho phép sự thể hiện ý chí cá nhân của bị hại trong việc tự giải quyết các
sự việc gây thiệt hại cho chính mình trong giới hạn nhất định mà xã hội và cộng đồng
có thể chấp nhận được. Trong mức độ nhất định, đây đã thiện vai trò “buộc tội” của
bị hại trong TTHS.
1.1.2.2. Xác định sự thật vụ án
Mục đích cuối cùng của công tác điều tra tội phạm nói riêng, hoạt động tố tụng
nói chung là xác định sự thật vụ án. Xác định sự thật của vụ án vừa là nguyên tắc vừa
là mục đích quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, và được Bộ luật TTHS
năm 2015 quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tại Điều 15 như sau:
“Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ
xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người
bị buộc tội”.
Như vậy, theo quy định này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm
cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra, trong đó: Cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm CQĐT, Viện kiểm sát và Toà
án; cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm các cơ
quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm
ngư, các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra khi điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải chứng minh các nội dung: Có hành vi phạm tội xảy ra hay
không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người
thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực
trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết giảm
12
nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của
bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân
và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm
hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt và các vấn đề khác có ý nghĩa xác
định sự thật vụ án và phục vụ công tác phòng ngừa tội phạm.
Để chứng minh tội phạm, xác định sự thật vụ án, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành hoạt động thu tập chứng cứ theo quy định của Bộ luật TTHS; yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình
tiết làm sáng tỏ vụ án. Với vị trí là người tham gia tố tụng, bị hại có vai trò quan trọng
trong việc xác định sự thật vụ án. Điều này thể hiện ở việc cung cấp cho cơ quan tiến
hành tố tụng những tình tiết liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự.
Theo quy định tại Điều 86, Bộ luật TTHS năm 2015:
“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ án”. Như vậy, những thông tin, tài liệu, vật chứng mà bị hại cung cấp, đặc
biệt lời khai của bị hại có nội dung trình bày về những tình tiết vụ án, quan hệ giữa
bị hại và các đối tượng liên quan; quan hệ giữa bị hại và bị can, bị cáo, được thu thập
đúng trình tự, thủ tục TTHS. Với vai trò bảo vệ lợi ích cá nhân trong vụ án hình sự
thông qua quyền yêu cầu khởi kiện dân sự trong vụ án hình sự là cơ sở quan trọng để
cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là cơ quan điều tra, định hướng điều tra; việc bị
hại cung cấp những thông tin, tài liệu, tình tiết liên quan giúp cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc điều tra, khám phá tội phạm, thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ những
vấn đề cần chứng minh nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong một số trường
hợp thông tin, tài liệu, chứng cư, lời khai của bị hại còn là căn cứ để khởi tố vụ án,
khởi tố bị can.
1.1.2.3. Xác định thiệt hại do tội phạm gây ra
Bị hại là đối tượng bị hành vi phạm tội của tội phạm gây thiệt hại trực tiếp đến
thể chất, tinh thần, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm… cho nên mong muốn được bù
đắp thiệt hại do tội phạm gây ra của bị hại là “quyền” chính đáng của bị hại trên cả
phương diện tình cảm và pháp luật. Trên thực tế “quyền” này của bị hại không giống
nhau: có bị hại mong muốn được bù đắp, bồi thường thiệt hại trên mức thiệt hại thực
13
tế; có bị hại mong muốn bồi thường thiệt hại bằng mức độ thiệt hại thực tế; cá biệt có
trường hợp vì cho rằng thiệt hại không đáng kể, “ái ngại” trước hoàn cảnh khó khăn
của tội phạm hoặc vì động cơ có tính chất vụ lợi khác, mà bị hại không yêu cầu việc
bồi thường thiệt hại. Vì vậy, những thông tin, tài liệu, vật chứng do bị hại cung cấp là
căn cứ quan trọng đề xác định thiệt hại do tội phạm gây ra.
Tuy nhiên, trên thực tế, do bị hại trong vụ án hình sự bị hành vi phạm tội gây
thiệt hại trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại nên sẽ tác động đến tâm lí
bị hại ở những mức độ khác nhau, chi phối, điều khiển hành vi của bị hại. Đối với
những bị hại bị hành vi xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm (như trong vụ án hiếp
dâm, cưỡng dâm..) hoặc bị hại có những hành vi sai trái về mặt đạo đức, có hành vi
vi phạm pháp luật; tâm lí lo sợ bị ảnh hưởng đến địa vị chính trị, hạnh phúc, danh dự
của bản thân, gia đình, người thân hoặc của cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức khác có
liên quan đã làm cho bị hại không thể khai báo, cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng
một cách khách quan, đúng đắn, chính xác, toàn diện.
Từ thực tiễn trên, để xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, thì bị hại có vai trò
quan trọng, nhưng không quyết định đến việc xác định thiệt hại. Cơ quan tiến hành
tố tụng cần thu thập thông tin, tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, đánh giá cẩn trọng,
chính xác các thông tin, tài liệu, vật chứng từ bị hại cung cấp để xác định tính đúng
đắn, khách quan, phù hợp với các tình tiết, tài liệu liên quan vụ án hình sự.
1.2. Nội dung về địa vị pháp lý của bị hại trong tố tụng hình sự
Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của các chủ thể trong các
hoạt động của mình. Ví dụ: Địa vị pháp lý cơ bản của công dân được thể hiện thành
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định.
Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật
khác, đồng thời, cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật
trong các mối quan hệ pháp luật
Theo Từ điển Luật học thì địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là vị trí của chủ
thể pháp luật trong mối quan hệ với chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định
của pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể,
qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình.
14
Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật
khác, đồng thời xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối
quan hệ pháp luật.
Một người có địa vị pháp lý là Bị hại (tham gia tố tụng với tư cách là bị hại: một
chủ thể tham gia tố tụng) thì sẽ có các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của
PLTTHS.
Tuy nhiên, địa vị pháp lý của bị hại không chỉ là quyền và nghĩa vụ của bị hại.
Hiểu một cách đầy đủ và theo nghĩa rộng nhất, địa vị pháp lý của Bị hại không
chỉ bao gồm quyền và nghĩa vụ của Bị hại mà còn được quyết định bởi mô hình
TTHS, chức năng của TTHS, các nguyên tắc của TTHS, vai trò, vị trí của Bị hại trong
các hoạt động tố tụng và đặc biệt là các địa vị pháp lý của các chủ thể khác (như điều
tra viên, hay địa vị của bị can bị cáo, đặc biệt là địa vị của luật sư bảo vệ quyền của
bị hại...) cũng ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý của bị hại. Tức là quyền và nghĩa
vụ của Bị hại chỉ là 2 yếu tố, 2 nội dung chính quyết định địa vị pháp lý của bị hại.
Ví dụ: Địa vị pháp lý của bị hại trong mô hình tố tụng thẩm vấn khác với địa vị của
bị hại trong mô hình tranh tụng. Nguyên tắc
Do giới hạn luận văn và khả năng nghiên cứu của học viên cũng như do giới hạn
của đề tài chỉ nghiên cứu địa vị pháp lý của bị hại theo PLTTHS Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ninh, nên đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu địa vị pháp lý của bị hại theo
nghĩa hẹp, chỉ bao gồm 2 nội dung cơ bản quyết định địa vị pháp lý của chủ thể này
là quyền và nghĩa vụ bị hại (theo PLTTHS Việt Nam) mà không nghiên cứu về sự
ảnh hưởng của mô hình tố tụng, các nguyên tắc và các chức năng của tố tụng ảnh
hưởng đến địa vị pháp lý của bị hại.
1.2.1. Quyền của bị hại
Trong vụ án hình sự, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra
hoặc đe dọa gây ra. Do đó để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của bị hại thì phải
được thực hiện một số quyền nhất định.
Khác với quyền con người nói chung, quyền của người bị hại (bị hại theo quy
định Bộ luật TTHS năm 2015) trong TTHS là “Quyền có điều kiện chỉ phát sinh khi
cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp gây thiệt hại và họ tham
15
gia chủ động hay bị động vào quá trình tố tụng” [27, Tr54]. Là người bị tội phạm trực
tiếp gây thiệt hại, bị hại phải gánh chịu những hậu quả do tội phạm gây ra mà họ hoàn
toàn không mong muốn. Tuy nhiên, bị hại chỉ tham gia tố tụng trong trường hợp được
cơ quan có thẩm quyền thừa nhận, tùy từng giai đoạn, thời kỳ mà quyền của bị hại
thay đổi.
Tại Điều 51 của Bộ luật TTHS năm 2003 quy định “quyền của người bị hại” là:
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Được thông báo về kết quả điều tra;
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
theo quy định của Bộ luật này;
- Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
- Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như
về hình phạt đối với bị cáo.
- Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định
tại Điều 105 của Bộ luật TTHS năm 2003 thì người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Đây là những quyền cơ bản của
“người bị hại” theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003. Thực tiễn thi hành Bộ luật
TTHS năm 2003 cho thấy, trong TTHS, quá trình xử lí vụ án hình sự, bị hại (theo quy
định của Bộ luật TTHS năm 2015) có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật
vụ án, xác định thiệt hại cho tội phạm gây ra và đồng thời, để đảm bảo quyền bình
đẳng và bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động TTHS,
Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định các quyền của bị hại như sau:
+ Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
+ Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
+ Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật;
+ Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
+ Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định,
16
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
+ Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
+ Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và
người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
+ Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
+ Tham gia các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này;
+ Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người
thân thích của mình khi bị đe dọa;
+ Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
+ Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
+ Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người
đại diện của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Như vậy, so với Bộ luật TTHS năm 2003 thì quyền của bị hại theo Bộ luật
TTHS năm 2015 đã được bổ sung các quyền: Được thông báo, giải thích quyền và
nghĩa vụ; đưa ra chứng cứ; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và
yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; đề nghị giám định,
định giá tài sản theo quy định của pháp luật; được thông báo kết quả điều tra, giải
quyết vụ án; đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị hình phạt;
đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại
phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa; tự
bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; tham gia các hoạt
động tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi
ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa; các quyền khác
theo quy định của pháp luật. Các quyền của bị hại tăng lên đồng nghĩa với việc trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng cần tổ chức thực hiện đầy đủ các quyền hợp
pháp của bị hại, góp phần thực hiện yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
17
động TTHS.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, học viên tập trung nghiên cứu, phân
tích đánh giá các “quyền” của bị hại liên quan công tác điều tra tội phạm của CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh.
1.2.2. Nghĩa vụ của bị hại
Quyền và nghĩa vụ là bộ phận hợp thành ĐVPL của bị hại trong TTHS. Bên
cạnh việc thực hiện quyền của bị hại thì bị hại cũng cần thực hiện nghĩa vụ. nghĩa vụ
có thể được hiểu là việc Nhà nước (ở đây cơ quan tiến hành tố tụng là đại diện) đòi
hỏi công dân (ở đây là bị hại) phải thực hiện những hành vi cần thiết khi Nhà nước
yêu cầu, nếu không thực hiện thì Nhà nước buộc phải áp dụng bằng mọi biện pháp từ
giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Nghĩa vụ của bị hại là cách xử sự mà bị hại
buộc phải thực hiện khi tham gia quan hệ pháp luật TTHS nhằm đáp ứng việc thực
hiện quyền của các chủ thể khác. Việc buộc bị hại phải thực hiện nghĩa vụ của mình
nhằm đáp ứng cho việc thực hiện trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan tiến hành tố
tụng. Điều này thể hiện nguyên tắc thống nhất về quyền và nghĩa vụ trong mối quan
hệ giữa Nhà nước và công dân. Nhà nước tạo mọi khả năng để người bị hại bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời cũng đòi hỏi công dân (bị hại)
thực hiện một số nghĩa vụ nhất định nhằm bảo đảm cho việc xác định sự thật khách
quan của vụ án. Nội dung này phù hợp, thống nhất với quy định tại khoản 2, Điều 5
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức và cá
nhân trong đấu tranh phòng, chống tội pham: “Tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa
vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Cùng với quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của tổ chức và cá nhân trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm, khoản 6, Điều 5 Bộ luật TTHS năm 2015 “nghiêm cấm mọi hành vi cản trở
hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ”
nhằm bảo đảm không gây khó khăn, cản trở cho hoạt động TTHS và khoản 1, Điều
15 của Hiến pháp năm 2013: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”.
Với tư cách là người tham gia tố tụng, bị hại bên cạnh việc được cơ quan tiến
hành tố tụng và cơ quan Nhà nước khác, tổ chức, cá nhân khác đảm bảo các “quyền”
thì bị hại còn là chủ thể tham gia tố tụng có nghĩa vụ nhất định. Đó là nghĩa vụ:
- Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường
hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan
18
thì có thể bị dẫn giải;
- Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng.
Cùng với quy định trường hợp bị hại bị chết, Bộ luật TTHS năm 2015 còn quy
định trường hợp bị mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người
đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này. Cơ quan,
tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người đại diện theo pháp luật
hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó có những
quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều này. Đây là nội dung mới bổ sung so với
quy định tại Điều 51 của Bộ luật TTHS năm 2003, bảo đảm phù hợp với thực tiễn
đồng thời phù hợp với việc bổ sung bị hại là cơ quan, tổ chức.
1.3. Các yếu tố bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trong hoạt động tố tụng
hình sự hiện nay
1.3.1. Yếu tố pháp luật
Ðảng và Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo tiền
đề pháp lý bảo đảm quyền con người với nguyên tắc tất cả vì tự do và hạnh phúc nhân
dân; bảo đảm quyền con người, quyền công dân nói chung, quyền của bị hại trong
hoạt động TTHS nói riêng. TTHS là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện quyền con người
trong hoạt động TTHS. Theo phạm vi rộng, pháp luật bảo đảm địa vị của bị hại trong
TTHS liên quan đến quy định của toàn bộ hệ thống pháp luật, phụ thuộc vào chất
lượng của toàn bộ hệ thống pháp luật. Theo phạm vi hẹp, pháp luật bảo đảm ĐVPL
của bị hại bao gồm các nội dung cơ bản sau đây:
- Quy định về bị hại và xác định quyền và nghĩa vụ của bị hại trong TTHS.
- Các nguyên tắc cơ bản của TTHS nhằm bảo đảm ĐVPL của bị hại trong hoạt
động TTHS.
- Trình tự giải quyết vụ án hình sự nhằm bảo đảm ĐVPL của bị hại.
- Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng liên quan quyền và nghĩa vụ của bị hại.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, BLHS và luật TTHS có mối quan hệ
khăng khít giữa nội dung và hình thức. Luật hình sự quy định về tội phạm, hình phạt,
19
Luật TTHS quy định về trình tự xác định tội phạm, trình tự áp dụng hình phạt, mức
hình phạt, thi hành hình phạt. Quy định của luật hình sự sẽ không thể áp dụng được
nếu không có quy định của luật TTHS và ngược lại.
Pháp luật bảo đảm ĐVPL của bị hại trong Bộ luật TTHS phải thường xuyên hệ
thống hoá, pháp điển hoá nhằm sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật chưa phù hợp
với thực tiễn, loại bỏ những văn bản pháp luật đã lạc hậu. Kịp thời ban hành các văn
bản pháp luật mới điều chỉnh những vấn đề không còn phù hợp với nội dung đảm bảo
ĐVPL của bị hại trong thực tiễn. Có thể nói, pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền
và nghĩa vụ của công dân trong TTHS là yếu tố đầu tiên rất quan trọng để bảo đảm
ĐVPL của bị hại được thực hiện bởi vì không có pháp luật thì không có ĐVPL của bị
hại và cơ sở pháp lý bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị hại trong TTHS.
1.3.2. Tổ chức hoạt động của các cơ quan, tổ chức liên quan tới địa vị pháp
lý của bị hại trong tố tụng hình sự
TTHS là trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định
của pháp luật, gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, Viện
Kiểm sát, Tòa án), người tiến hành tố tụng (ĐTV, kiểm sát viên, Thẩm phán, hội thẩm
nhân dân và Thư ký phiên tòa), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bào
chữa...), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc
giải quyết vụ án theo quy định của Luật TTHS.
Ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định;
mỗi giai đoạn tố tụng đều có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án hình
sự theo quy định của pháp luật.
Xét về mặt lý luận, mọi cơ quan tổ chức có liên quan tới vụ án hình sự đều
có trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động TTHS,
trách nhiệm giải quyết vụ án hình sự chủ yếu thuộc về các cơ quan THTT hình sự
gồm CQĐT, Viện Kiểm sát, Tòa án và các cơ quan tổ chức khác như tổ chức luật
sư, tổ chức giám định. Trong giới hạn luận văn này, học viên tập trung nghiên cứu
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh về bảo đảm ĐVPL của bị hại trong công tác điều
tra tội phạm.
* Đối với các cơ quan tiến hành TTHS:
20
- CQĐT:
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS, trong đó CQĐT căn cứ vào các
quy định của pháp luật TTHS và dưới sự giám sát của Viện Kiểm sát tiến hành các
biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết
của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm
cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết
định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó
cho Viện Kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của TTHS, CQĐT có nhiệm vụ áp dụng
mọi quy định biện pháp do luật TTHS quy định nhằm xác định sự thật khách quan
của vụ án hình sự, bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, trong đó có
bị hại. Các biện pháp do CQĐT thực hiện theo quy định pháp luật rất đa dạng, ảnh
hưởng trực tiếp tới đến quyền người tham gia tố tụng. Vì vậy, tổ chức hoạt động của
CQĐT phải phù hợp với chức năng nhiệm vụ được quy định, bảo đảm tính linh hoạt,
đội ngũ ĐTV phải có phẩm chất chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Viện kiểm sát:
Trong TTHS, Viện Kiểm sát có trách nhiệm áp dụng mọi biện pháp do luật
định để loại trừ sự vi phạm pháp luật của bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Viện Kiểm sát
đại diện cho Nhà nước thực hiện quyền buộc tội người bị tình nghi phạm tội theo quy
định của luật TTHS.
Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện Kiểm sát được thực hiện theo nguyên tắc
tập trung, thống nhất, thực hiện tốt chế độ giám sát, báo cáo giữa Viện Kiểm sát cấp
dưới với Viện Kiểm sát cấp trên. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện Kiểm sát được
thực hiện nhằm tạo điều kiện cho Viện Kiểm sát thực hiện tốt việc kiểm sát hoạt động
tư pháp, tập trung vào chức năng thực hành quyền công tố, qua đó góp phần bảo đảm
ĐVPL của bị hại.
- Tòa án:
Tòa án thực hiện chức năng xét xử, nhân danh Nhà nước đề ra các phán quyết
và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế Nhà nước. Tòa án là cơ quan duy
nhất có chức năng xét xử, có quyền kết tội và áp dụng các hình phạt đối với một con
21
người. Điều đó được thể hiện qua “nguyên tắc suy đoan vô tội”, trong đó khẳng định
rõ: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa
án có hiệu lực pháp luật”. Tòa án có trách nhiệm bảo vệ và thực hiện đầy đủ các biện
pháp nhằm bảo đảm quyền công dân, quyền con người không chỉ đối với bị can, bị cáo
mà cả đối với bị hại. Một số quyền của bị hại liên quan trực tiếp đến Tòa án như: Tham
gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham
gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
xem biên bản phiên tòa; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án; khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng…
* Đối với các cơ quan, tổ chức khác tham gia vào TTHS:
Trong hoạt động TTHS, bên cạnh CQĐT, Viện Kiểm sát, Tòa án, thì còn có các
cơ quan, tổ chức khác tham gia và hoạt động TTHS như tổ chức luật sư, cơ quan giám
định… Các tổ chức này có vai trò quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan
của vụ án hình sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan.
- Tổ chức luật sư vai trò bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức trong và ngoài tố tụng (trong luận văn này là ĐVPL của bị
hại): trợ giúp pháp lý với tư cách là đại diện hợp pháp của bị hại, nhất là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần… theo sự phân công của Trung
tâm trợ giúp pháp lý, Đoàn luật sư và Tổ chức hành nghề luật sư trên cơ sở yêu cầu trợ
giúp pháp lý của người thuộc diện trợ giúp pháp lý hoặc của cơ quan tiến hành tố tụng.
- Cơ quan giám định: Đặc trưng cơ bản của hoạt động giám định tư pháp là
hoạt động chuyên môn do chuyên gia thực hiện. Theo quy định của pháp luật tố tụng
thì trong một số trường hợp bắt buộc hoặc khi xét thấy cần thiết cho việc giải quyết
vụ án, bị hại có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành hoạt động trưng
cầu giám định tư pháp. Cơ quan tiến hành tố tụng có thể trưng cầu bất cứ chuyên gia
nào có kiến thức về lĩnh vực chuyên môn liên quan đến vụ án để thực hiện giám định.
Khi thực hiện giám định, người giám định tư pháp phải sử dụng những kiến thức
nghiệp vụ, phương pháp phù hợp và phải thực hiện đúng các quy chuẩn chuyên môn
của từng lĩnh vực cụ thể để thực hiện giám định và phải chịu trách nhiệm cá nhân về
kết luận giám định do mình thực hiện. Hoạt động giám định tư pháp góp phần bảo vệ
một cách hữu hiệu các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thông qua
việc tạo lập và cung cấp những chứng cứ không thể phản bác, bảo đảm an toàn cho
22
công dân trong các quan hệ pháp luật mà họ tham gia. Thực tiễn thời gian qua cho
thấy hoạt động giám định tư pháp có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả và chất lượng
của hoạt động tố tụng. Thực hiện giám định tư pháp là một biện pháp hữu hiệu trong
việc giải quyết các vụ án, hướng hoạt động tố tụng theo cơ chế minh bạch, đúng người
đúng tội, tránh oan sai nói chung, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại.
1.3.3. Yếu tố cơ chế phối hợp trong hoạt động tố tụng hình sự
Hoạt động TTHS là một quá trình liên tục bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau.
Trong đó, giai đoạn trước là tiền đề, cơ sở của giai đoạn sau; giai đoạn sau kiểm tra
lại tính đúng đắn của giai đoạn trước. Để bảo đảm sự thống nhất của quá trình này,
luật TTHS xác định rõ ĐVPL, nguyên tắc hoạt động của các cơ quan, tổ chức tham
gia TTHS. Mặt khác, quá trình TTHS cũng không thể diễn ra đúng pháp luật, đạt hiệu
quả cao, nếu các chủ thể này không phối hợp với nhau. Chính vì vậy, bảo đảm sự
phối hợp giữa các cơ quan tổ chức tham gia vào hoạt động tố tụng, nhất là hoạt động
điều tra tội phạm là một yêu cầu khách quan, tất yếu của TTHS, thông qua đó quyền
của bị hại được bảo đảm.
Đặc trưng cơ chế phối hợp là sự phối hợp, chế ước lẫn nhau. Trong đó, sự phối
hợp là cơ sở để giải quyết các sự việc thuận lợi, đúng pháp luật. Sự chế ước được đặt
ra nhằm giúp các chủ thể này phát hiện ra những thiếu sót, vi phạm pháp luật của
nhau, yêu cầu chủ thể vi phạm tự khắc phục hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền giải quyết. Thông qua đó, hạn chế sự sai phạm trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức tham gia TTHS dựa trên cơ sở
quy định của luật TTHS, thực tế hoạt động giải quyết vụ án hình sự. Các mối quan
hệ đó bao gồm:
+ Mối quan hệ giữa các CQĐT trong lực lượng hoặc khác lực lượng (Công an,
Quân đội), quan hệ giữa Đoàn luật sư với văn phòng luật sư, mối quan hệ giữa các tổ
chức giám định, mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành TTHS.
+ Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành TTHS với tổ chức luật sư, cơ quan
giám định.
+ Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành TTHS, tổ chức luật sư, tổ chức giám
định với các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức kinh tế xã hội tham gia quá trình
giải quyết vụ án hình sự.
Hoàn thiện cơ chế phối hợp các chủ thể này được tiến hành thông qua việc xác
23
định về mặt pháp lý các mối quan hệ, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể,
làm cơ sở để xác định trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động TTHS, góp phần bảo đảm ĐVPL của bị hại.
1.3.4. Yếu tố giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo
Bảo đảm ĐVPL của bị hại là trách nhiệm của mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức và
cá nhân. Trong hoạt động TTHS, quyền và nghĩa vụ của bị hại luôn có nguy cơ bị xâm hại
vì các cơ quan Nhà nước tham gia vào hoạt động này trực tiếp ảnh hưởng tới các quyền,
nghĩa vụ cơ bản của công dân được pháp luật quy định. Sự vi phạm pháp luật trong hoạt
động TTHS chính là sự vi phạm ĐVPL của bị hại bao gồm nhiều nguyên nhân khác nhau
từ phía các cơ quan tổ chức tiến hành TTHS. ĐVPL của bị hại có thể nảy sinh khi các điều
kiện bảo đảm này không hiệu quả như: Hệ thống pháp luật yếu kém, tổ chức hoạt động
của các cơ quan tổ chức tham gia TTHS còn chồng chéo.. Chính vì vậy, bảo đảm cơ chế
giám sát, giải quyết khiếu nại tố cáo trong TTHS, là một yêu cầu thường xuyên, cấp bách.
Để thực hiện tốt bảo đảm này, cần xác định rõ về cơ chế, chủ thể, phương thức
thực hiện, các biện pháp bảo đảm cho hoạt động này có hiệu lực trong thực tiễn cuộc
sống. Nhà nước ban hành một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Trong hoạt động TTHS
nhằm bảo đảm mọi vi phạm, xâm phạm ĐVPL của bị hại từ các cơ quan, tổ chức, cá
nhân đều bị phát hiện, xử lí. Khi vi phạm ĐVPL của bị hại xảy ra thì cần xử lý nghiêm
minh theo nguyên tắc công bằng, đúng pháp luật.
1.3.5. Yếu tố điều kiện đảm bảo và cơ sở vật chất kỹ thuật trong TTHS
Hoạt động TTHS bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau nhằm xác định sự thật
khách quan của vụ án hình sự. Hoạt động này chỉ được vận hành hiệu quả trên một
nền điều kiện đảm bảo và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đặt ra. Điều kiện
đảm bảo gồm chế độ, chính sách đối với người tiến hành TTHS và điều kiện cơ sở
vật chất (trụ sở làm việc, công cụ phương tiện làm việc, trang thiết bị, công cụ hỗ
trợ). Yếu tố điều kiện đảm bảo và cơ sở vật chất, kỹ thuật có vai trò hỗ trợ trong hoạt
động TTHS, nhất là hoạt động điều tra tội phạm, xác định sự thật vụ án, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại. Để đáp ứng yêu cầu này, Đảng cần ban hành
chủ trương đường lối và Nhà nước cụ thể hóa bằng các quy định về chế độ, chính
sách đối với cơ quan tiến hành TTHS (CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án) và tiếp tục đầu
tư cơ sở vật chất kỹ thuật trong TTHS đảm bảo về số lượng, chất lượng.
1.4. Đặc điểm, phân loại bị hại trong hoạt động điều tra tội phạm trên địa
24
bàn tỉnh Quảng Ninh
1.4.1. Đặc điểm bị hại trong hoạt động điều tra tội phạm trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh
Nghiên cứu 603 bị hại trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự của CQĐT Công
an cấp tỉnh Quảng Ninh (từ năm 2014 - 2018), cho thấy, bị hại chủ yếu là cá nhân, bị
hại là pháp nhân chiếm tỷ lệ ít (có 02 bị hại là pháp nhân). Như vậy, đặc điểm bị hại
trong hoạt động điều tra tội phạm trên địa vàn tỉnh Quảng Ninh chủ yếu là đặc điểm
của “người bị hại”. Các đặc điểm cơ bản sau:
a. Bị hại có thành phần dân tộc đa dạng, có trình độ văn hóa khác nhau.
* Về thành phần dân tộc:
Trong số 601 bị hại thì có 302/601 bị hại là người dân tộc kinh, 213/601 bị
hại là người dân tộc thiểu số 86/601 bị hại là người nước ngoài. Đặc điểm này xuất
phát từ đặc điểm địa bàn- dân cư của tỉnh Quảng Ninh có 1.163.700 người, với 22
dân tộc cùng sinh sống (theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam năm 2012)
trong đó: đông nhất là người Kinh với 1.011.794 người chiếm 87% dân số, tiếp đến
là người Dao với 59.156 người chiếm 5%, người Tày 35.010 người chiếm 3%, Sán
Dìu cú 17.946 người chiếm 1,5%, người Sán Chay có 13.786 người chiếm 1,2%,
người Hoa có 4.375 người chiếm 0,3%, còn lại là các dân tộc khác. Mặt khác, Quảng
Ninh là tỉnh có đường biên giới trên bộ, trên biển giáp Trung Quốc, là tỉnh phát triển
mạnh mẽ về các ngành dịch vụ, đặc biệt là ngành du lịch. Do đó, hằng năm, trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh, người nước ngoài đến với mục đích kinh doanh, đầu tư, du
lịch… rất lớn, đây là điều kiện “thuận lợi” để tội phạm hoạt động, nhất là tội phạm
cướp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với người nước ngoài.
* Về trình độ văn hóa:
Đánh giá chung, trình độ bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh không đồng đều,
cụ thể:
- Có 284/601 bị hại có trình độ từ lớp 5/12 trở xuống;
- Có128/601 bị hại có trình độ từ lớp 6/12 đến 10/12;
- Có117/601 bị hại có trình độ từ lớp 10/12 đến 12/12;
- Có 72/601 bị hại có trình độ từ trung cấp trở lên;
Như vậy, đánh giá chung, trình độ văn hóa của bị hại không đồng đều. Đặc
điểm này do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu do sự phát triển kinh tế- xã hội của
25
tỉnh Quảng Ninh không đồng đều. Mặc dù là tỉnh có sự phát triển mạnh mẽ về công
nghiệp, dịch vụ, du lịch nhưng với đặc thù là tỉnh biên giới, kinh tế phát triển không
đồng đều. Tại các thành phố, thị xã, trung tâm công nghiệp, du lịch kinh tế có bước
phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, đối
với đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống tập chung ở các huyện: Hoành Bồ, Hải
Hà, Đầm Hà, Bình Liêu, Ba Chẽ, Vân Đồn... nhìn chung trình độ văn hóa địa bàn này
còn thấp, như trong vụ án “mua bán trẻ em” do bị can Chìu Tắc Hình, Tằng Dảu Lồng
và Chíu Tài Múi thực hiện trên địa bàn xã Đồng Lâm, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng
Ninh. Trong vụ án này, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh xác định
bị hại là Chị Dương Thị Sinh đẻ được một cháu trai đặt tên là Hà Đức Tuấn, do cháu
Tuấn khi đẻ ra bị dính phân trên mặt, theo phong tục tập quán hủ tục của người dân tộc
Dao tại xã Đồng Lâm, huyện Hoành Bồ và trình độ văn hóa thấp nên gia đình chị Sinh
cho rằng không nuôi được bé phải đem cho. Chị Sinh đã đăng nội dung muốn cho con
trên mạng xã hội Zalo. Các bị can đã biết, liên hệ chị Sinh xin nhận con nuôi và mang
sang Trung Quốc bán với giá 56.000 Nhân dân tệ.
b. Kiến thức pháp luật và nhận thức về ĐVPL và của bị hại có sự khác nhau
trong các loại tội phạm
Qua nghiên cứu đặc điểm nhân thân các bị can trong vụ án do CQĐT Công an
tỉnh Quảng Ninh thực hiện, căn cứ trên trình độ kiến thức về pháp luật và nhận thức
về ĐVPL của bị hại thì có thể chia thành 02 trường hợp, đó là:
- Trường hợp 1: Bị hại có kiến thức pháp luật và nhận thức rõ về ĐVPL của
bị hại. Đây là bị hại có trình độ văn hóa nhất định, có sự hiểu biết các vấn đề trong
xã hội, tập trung tại các địa bàn thành phố, thị xã, trung tâm văn hóa, kinh tế của tỉnh
Quảng Ninh hoặc từ các tỉnh khác. Bị hại này thường có trong các vụ án về kinh tế,
các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại, một số trường hợp bị hại trong vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản. Trước khi thiệt hại do tội phạm gây ra, bị hại có kiến thức pháp
luật nhất định, hiểu được mức độ nguy hiểm, thiệt hại do tội phạm gây ra, nhưng vì
yếu tố khách quan (tính bất ngờ bị tội phạm gây ra thiệt hại, chủ quan, tự tin thái quá,
ham muốn vật chất…). Khi tham gia tố tụng, bị hại thường chủ động đưa ra tài liệu,
vật chứng, phối hợp chặt chẽ với CQĐT để xác định sự thật vụ án, mong muốn pháp
luật trừng phạt tội phạm và được bồi thường thiệt hại. tuy nhiên, cũng có trường hợp
bị hại nhận thức được nguyên nhân hành vi tội phạm xảy ra có nguyên nhân từ phía
26
bị hại thì quá trình điều tra, bị hại luôn tìm cách che giấu hành vi liên quan, không có
lợi của bị hại, gây ra những khó khăn nhất định đối với CQĐT trong quá trình điều
tra tội phạm.
- Trường hợp 2: Bị hại không có kiến thức pháp luật và không nhận thức rõ về
ĐVPL của bị hại khi tham gia hoạt động tố tụng. Đa số bị hại trong trường hợp này
bị hại có trình độ văn hóa hạn chế (có trình độ văn hóa dưới 5/12 hoặc mù chữ). Tội
phạm lợi dụng sự thiếu hiểu pháp luật, kiến thức xã hội, sinh sống tại các vùng nông
thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa còn khó khăn về kinh tế, không có điều kiện học tập,
tìm hiểu pháp luật… Qua nghiên cứu công tác điều tra tội phạm của Công an tỉnh
Quảng Ninh cho thấy đối tượng bị hại không có kiến thức pháp luật và không nhận
thức rõ về ĐVPL thường xảy ra trong các vụ án buôn bán người. Bị hại trong các vụ
án mua bán người chủ yếu là những phụ nữ, trẻ em sống tại các vùng nông thôn
nghèo, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số, các địa bàn giáp tuyến biên giới Việt - Trung
lười lao động, thích hướng thụ, dẫn đến bị lừa gạt, dụ dỗ…Quá trình tham gia TTHS,
bị hại không nhận thức rõ ĐVPL của bản thân, không chủ động đưa ra những thông
tin, tài liệu, vật chứng liên quan vụ án, thực hiện “quyền và nghĩa vụ” bị hại một cách
“thụ động”, mong đợi sự giúp đỡ, hướng dẫn của CQĐT. Do đó, quá trình điều tra vụ
án, ĐTV cần thiết thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của bị hại, có giải thích, hướng
dẫn, động viên, khích lệ bị hại thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của bản thân,
góp phần điều tra, làm rõ hành vi phạm tội của tội phạm, xác định mức thiệt hại của
bị hại để đề xuất hình thức, mức bồi thường thiệt hại đối với bị hại một cách đúng
đắn, kịp thời, phù hợp.
c. Đặc điểm về tâm lí của bị hại
Từ thực tiễn điều tra vụ án hình sự của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh có
thể khái quát hóa những đặc điểm tâm lí phổ biến của bị hại như sau:
- Bị giảm khả năng tri giác đầy đủ, chính xác các sự kiện đã xảy ra:
Đây là đặc trưng tâm lí phổ biến, mang tính đặc thù của bị hại, ảnh hưởng đến
quá trình cung cấp thông tin, tài liệu cho CQĐT. Biểu hiện của việc mất khả năng tri
giác đầy đủ, chính xác các sự kiện ở bị hại là bị hại tri giác sai lệch sự việc liên quan
hành vi phạm tội theo hướng phóng đại, nhìn nhận các đối tượng, các tình tiết vụ việc
nghiêm trọng hơn thực tế đã xảy ra. Hoặc nhận biết sự việc một cách lệch lạc, không
đầy đủ, không bao quát toàn bộ sự việc, chỉ nhìn thấy bộ phận mà không nhìn thấy
27
tổng thể. Nguyên nhân là do bị hại nhận tri giác sự kiện trong điều kiện tâm lí không
thuận lợi cả về mặt khách quan và mặt chủ quan. Do đó, những thông tin, tài liệu, vật
chứng… mà bị hại cung cấp cho CQĐT sẽ có thể không đúng hoặc không đủ so với
thực tế. Do vậy, khi tiếp xúc với bị hại, ĐTV cần giúp bị hại có tâm lí bình tĩnh, xây
dựng niềm tin cho bị hại và hướng dẫn bị hại cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng
một cách đầy đủ, đúng đắn; quá trình đánh giá thông tin, tài liệu, vật chứng do bị hại
cung cấp khách quan, trung thực.
- Hoảng loạn:
Đây là trạng thái tâm lí tiêu cực của bị hại thể hiện ở sự mất lí trí, bị ám ảnh
bởi một sự đe dọa nào đó, trí nhớ giảm nghiêm trọng, các cảm xúc tiêu cực bao trùm,
đè nặng tâm lí. Đặc biệt trong trường hợp bị xâm hại về thể chất; bị đe dọa xâm phạm
về tính mạng… Thông thường, ở trạng thái tâm lí này, bị hại khó khăn trong việc
cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng một cách mạch lạc, đầy đủ cho CQĐT, nhất là
những thông tin, tài liệu, vật chứng có giá trị. Tuy nhiên, những hành động, lời nói
của bị hại thường gián tiếp bộc lộ những vấn đề liên quan trực tiếp đến hành vi phạm
tội, là nguyên nhân dẫn đến sự sợ hãi, hoảng loạn của bị hại.
- Đau khổ, thất vọng:
Đây là trạng thái tâm lí thường gặp ở những bị hại ít có sự hiệu biết xã hội, pháp
luật. Chính sự thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản đã thúc đẩy bị hại rơi vào tình thế
khó khăn trong cuộc sống, nhất là đối với những hành vi phạm tội gây ra ở bị hại những
chấn động mạnh, những tổn thất nặng nề, làm bị hại thiệt hại về danh dự, nhân phẩm,
uy tín, sự nghiệp, khiến bị hại không còn khả năng khắc phục. Đặc điểm tâm lí này dẫn
đến phản ứng của bị hại thường chậm chạp, cam chịu nhẫn nhục, chán nản, mệt mỏi
sau khi trình bày sự kiện. Mặc dù bị hại có thể nhận thức tương đối chính xác các sự
kiện, hiện tượng đã xẩy ra nhưng do phản ứng tiêu cực chi phối nên bị hại không muốn
khai báo, tham gia thiếu tích cực vào quá trình điều tra.
- Tức giân, căm thù:
Đây là trạng thái tâm lí mang nặng màu sắc tình cảm, gắn bó chặt chẽ với khí
chất cá nhân, thường có ở những người có khí chất nóng nảy, thiếu điềm tỉnh. Bị hại
bộc lộ bằng sự tức giận qua thái độ bức bội, hằn học, có lời nói, hành động thái quá
khi đề cấp đến các chi tiết của vụ án. Những người điềm tĩnh thì ít bộc lộ ra bên ngoài
bằng hành động nhưng trong quá trình làm việc với CQĐT, bị hại thường khai báo
28
phóng đại theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự của tội phạm.
Những bị hại này thường có thái độ tích cực, tự giác nhưng do bị thiệt hại về
thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội của tội phạm gây ra nên bị hại dễ phản
ứng mạnh mẽ, khiến bị hại không có thái độ đúng đắn, khách quan trong khai báo với
CQĐT. Có thể dẫn đến trường hợp bị hại mong muốn tội phạm bị trừng phạt hơn là
mong muốn bù đắp thiệt hại.
- Mong muốn được bồi thường thiệt hại:
Mong muốn được bồi thường thiệt hại của bị hại là hoàn toàn chính đáng.
Mặc dù tính chất, mức độ mong muốn bù đắp thiệt hại của bị hại trên thực tế không
hoàn toàn giống nhau; có bị hại mong muốn được bù đắp thiệt hại bằng mức độ thiệt
hại thực tế; có người mong muốn được bù đắp, bồi thường thiệt hại trên mức thiệt hại
thực tế; cá biệt có trường hợp vì cho rằng thiệt hại do hành vi tội phạm không đáng
kể, có mối quan hệ thân thích, quen biết trước với tội phạm hoặc vì lí do khác mà bị
hại không quan tâm nhiều đến việc bồi thường thiệt hại do hành vi tội phạm gây ra.
- Có ấn tượng đậm nét với hành vi phạm tội và có hiểu biết sâu sắc về vụ án:
Do bị hại là người bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài
sản nên bị hại có nhận thức, ấn tượng sâu sắc về các tình tiết liên quan vụ án, đặc biệt
đối với các vụ án mà tội phạm khi thực hiện hành vi phạm tội tiếp cận trực tiếp với
bị hại (các vụ án cố ý gây thương tích, hiếp dâm, cưỡng dâm…).
- Có sự mâu thuẫn giữa mong muốn bồi thường thiệt hại và mong muốn trừng
phạt tội phạm nhưng lại khai báo không trung thực:
Biểu hiện tâm lí này xảy ra đối với bị hại bị hành vi phạm tội xâm phạm đến
danh dự, nhân phẩm (vụ án hiếp dâm, cưỡng dâm) hoặc bị hại có hành vi là nguyên
nhân, điều kiện của các hành vi tội phạm. trong trường hợp này, bị hại có sự mâu
thuẫn giữa mong muốn bồi thường thiệt hại và mong muốn trừng phạt tội phạm nhưng
lại khai báo không trung thực do lo sợ khai báo sự thật thì “lợi bất gặp hại”, liên quan
vấn đề bí mật đời tư, quan hệ riêng tư, cũng có thể tội phạm là người thân thích của
bị hại… Trong thực tế, bị hại có thể bị tội phạm, đồng phạm hoặc gia đình tội phạm
không chế, mua chuộc dẫn đến bị hại không khai báo trung thực, cung cấp thông tin,
tài liệu, vật chứng, không đúng, không đủ, không kịp thời, gây khó khăn trong quá
trình điều tra vụ án.
1.4.2. Phân loại bị hại trong hoạt động điều tra tội phạm trên địa bàn tỉnh
29
Quảng Ninh
Bị hại trong các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được phân chia
thành nhiều loại, dựa trên các căn cứ khác nhau và mục đích của việc này nhằm định
hướng cho CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh nghiên cứu, định hướng hoạt động bảo đảm
ĐVPL của bị hại trong điều tra tội phạm một cách hiệu quả, hợp lí nhất. Khảo sát thực
tiễn điều tra của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014-2018 cho thấy, CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh đã có một số cách phân loại bị hại chủ yếu sau:
- Căn cứ vào mối quan hệ của bị hại đối với vụ án hình sự có thể chia làm 02
loại bị hại:
+ Bị hại không có hành vi sai phạm: Đây là trường hợp bị hại bị tội phạm gây
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản một cách bất ngờ, bị hại là đối tượng bị tấn
công, họ không có những sai phạm (vi phạm pháp luật, sai phạm về đạo đức) có thể
là nguyên nhân dẫn đến việc tội phạm thực hiện hành vi phạm tội, gây thiệt hại đến
bị hại. Sau khi bị tội phạm gây thiệt hại, bị hại thường bộc lộ xu hướng kịch liệt lên
án, tố cáo; không che giấu hành vị phạm tội của tội phạm trước cơ quan điều tra,
mong muốn trừng phạt (hình phạt do pháp luật quy định) tội phạm và yêu cầu bồi
thường thiệt hại (vật chất, tinh thần, danh dự, nhân phẩm…) cho bị hại.
+ Bị hại có hành vi sai phạm nhất định: Thông thường, bị hại vốn đã có hành
vi sai phạm là nguyên nhân, điều kiện dẫn đến việc tội phạm gây thiệt hại cho bị hại;
kẻ phạm tội thường không chủ trương, mục đích trước về việc gây thiệt hại cho bị
hại. Khi thực hiện hành vi sai phạm, bị hại đã ý thức trước có thể tội phạm gây thiệt
hại. Trường hợp này thường xảy ra trong các vụ án giết người trong trường hợp vượt
quá phòng vệ chính đáng, các vụ án mà hành vi của tội phạm do lỗi vô ý, tội phạm
buôn bán người... Trường hợp này, bị hại có xu hướng khi tiếp xúc với CQĐT thường
cung cấp thông tin, tài liệu theo hướng giảm nhẹ hoặc che giấu những sai phạm của
bản thân, thổi phồng tính nguy hiểm hành vi phạm tội của tội phạm. Thậm chí có
trường hợp từ chối khai báo vì lo sợ những hành vi sai phạm của bị hại sẽ bị phát
hiện, xử lí.
- Căn cứ mối quan hệ giữa bị hại và bị can trong vụ án hình sự, có thể chia làm
02 loại bị hại:
+ Bị hại có mối quan hệ thân thuộc hoặc ràng buộc với bị can. Cụ thể, mối
quan hệ có thể là quan hệ cha-con, vợ-chồng, anh-em, đồng nghiệp, bạn thân… Trong
30
trường hợp này, bị hại thường bộc lộ xu hướng che giấu hành vi phạm tội của bị can
khi tiếp xúc với CQĐT; cung cấp thông tin, tài liệu không đúng, không đầy đủ, việc
xác định thiệt hại và yêu cầu bồi thường thiệt hại thường ít hơn so với thực tế, có
trường hợp không yêu cầu bồi thường thiệt hại, đề nghị giảm hình phạt đối với bị can
(trường hợp này thường xảy ra trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hiếp dâm,
cưỡng dâm…). Vì vậy, trong quá trình điều tra, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
không chỉ đảm bảo các quyền lợi chính đáng của bị hại, đồng thời giải thích các nghĩa
vụ của bị hại trong hoạt động TTHS, nhất là nghĩa vụ cung cấp thông tin, tài liệu liên
quan vụ án một cách chính xác, đầy đủ.
+ Bị hại không có mối quan hệ thân thuộc hoặc ràng buộc với bị can: Đối với
trường hợp này, bị hại trước khi bị tội phạm (bị can) gây thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản thì bị hại không có mối quan hệ thân thuộc hoăc ràng buộc với bị can.
Vì vậy, khi tiếp xúc với CQĐT, bị hại thường dễ dàng cung cấp thông tin, tài liệu,
vật chứng đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp bị hại khai báo,
cung cấp thông tin, tài liệu không chính xác theo hướng thổi phồng sự việc hoặc bị
hại bị tội phạm khống chế, mua chuộc dẫn đến bị hại cung cấp thông tin, tài liệu
không trung thực, đầy đủ, thiếu chính xác, gây khó khăn cho CQĐT trong quá trình
điều tra vụ án hình sự.
- Căn cứ vào lĩnh vực bị thiệt hại, có thể chia bị hại thành 03 loại cơ bản:
+ Bị hại thiệt hại về tinh thần: là trường hợp bị hại bị hành vi phạm tội gây ảnh
hưởng xấu đến lĩnh vực tư tưởng, tinh thần, uy tín, danh dự, nhân phẩm (các tội thuộc
các Điều 141; Điều 143; Điều 155; Điều 156 của BLHS năm 2015).
+ Bị hại thiệt hại về thể chất: là trường hợp bị hại bị hành vi phạm tội gây ra
những thiệt hại trên cơ thể, ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc đến tính mạng. Đối với
trường hợp bị hại thiệt hại về thể chất có thể chia làm 04 loại dựa trên tính chất, mức độ
thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe: (1) bị hại bị thương tích hoặc tổn hại sức khỏe mà
tỷ lệ thương tật dưới 11%; (2) bị hại bị thương tích hoặc tổn hại sức khỏe mà tỷ lệ thương
tật từ 11%-30%; (3) bị hại bị thương tích hoặc tổn hại sức khỏe mà tỷ lệ thương tật từ 31%
đến 60%; (4) bị hại bị thương tích hoặc tổn hại sức khỏe mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở
lên. Việc phân chia bị hại theo tính chất, mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe
như trên là một trong những cơ sở để CQĐT tính toán, xem xét trách nhiệm hình sự trong
một số loại án và cũng là cơ sở giúp CQĐT lựa chọn hình thức, thời gian, địa điểm… để
31
bảo đảm ĐVPL của bị hại một cách phù hợp nhất.
+ Bị hại thiệt hại về tài sản: Là trường hợp hành vi phạm tội của tội phạm xâm
hại đến quyền sở hữu tài sản của bị hại (thường xảy ra trong các vụ án về tội phạm
trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…).
Bị hại thiệt hại về tài sản cũng có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau, theo
mức độ giá trị tài sản bị thiệt hại, như: Bị hại thiệt hại về tài sản giá trị lớn; bị hại thiệt
hại về tài có giá trị không lớn… và chính vấn đề mức độ, giá trị tài sản bị thiệt hại có
thể là yếu tố chi phối đến mức độ, thái độ hợp tác giữa bị hại với CQĐT trong quá
trình điều tra vụ án. Là căn cứ để CQĐT đưa ra các phương hướng điều tra vụ án,
phát huy tối đa tính tích cực của bị hại trong làm rõ hành vi phạm tội của tội phạm,
xác định đúng mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra.
Ngoài ra, CQĐT có thể phân loại bị hại dựa trên căn cứ về đặc điểm nhân thân,
đó là:
- Dựa vào ngôn ngữ có thể phân chia bị hại thành 02 loại: Bị hại biết và có khả
năng trình bày, diễn đạt bằng Tiếng Việt và bị hại không có khả năng diễn đạt bằng
Tiếng Việt.
- Dựa vào độ tuổi, có thể phân loại bị hại thành 03 loại: Bị hại là người thành
niên (từ đủ 18 tuổi trở lên); bị hại là người chưa thành niên ( từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi); bị hại là trẻ em ( dưới 14 tuổi).
- Dựa vào quốc tịch có thể phân chia bị hại thành 02 loại: Bị hại là công dân
Việt Nam và bị hại là người nước ngoài.
- Dựa vào trình độ văn hóa có thể chia bị hại thành: Bị hại không biết chữ và
bị hại có trình độ văn hóa nhất định.
Tóm lại, việc phân loại bị hại theo các căn cứ trên là cơ sở quan trọng để
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh nghiên cứu, tính toán, lựa chọn hình thức tiếp xúc,
lấy lời khai, thu thập tài liệu, vật chứng từ bị hại và xem xét trách nhiệm pháp lý của
bị hại một cách phù hợp.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận văn đã tập trung làm rõ một số nhận thức cơ bản về bị hại
theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 (có sự so sánh các nội dung liên quan đến
ĐVPL của bị hại theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003). Luận văn đã đưa ra
32
khái niệm về bị hại, khái niệm về ĐVPL của bị hại.
Chương 1 cũng đã phân tích, đánh giá vai trò của bị hại trong hoạt động TTHS
hiện nay, nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của bị hại trong hoạt động TTHS, đó là:
vai trò buộc tội, xác định sự thật vụ án và xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, đây
là những thông tin, tài liệu, căn cứ quan trọng để CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, pháp luật trong hoạt động điều tra nhằm nhanh
chóng làm sáng tỏ sự thật vụ án, đảm bảo tốt nhất ĐVPL của bị hại, góp phần bảo
đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động TTHS.
Chương 1 đã phân tích, làm rõ nội dung ĐVPL của bị hại theo quy định của
Bộ luật TTHS bao gồm nội dung về quyền và nghĩa vụ của bị hại. đồng thời, trình
bày, phân tích các yếu tố bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trong hoạt động TTHS
hiện nay và đặc điểm, phân loại bị hại trong hoạt động điều tra tội phạm trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh.
Đây vừa là cơ sở lý luận, vừa là cơ sở thực tiễn để đánh giá thực trạng công
tác bảo đảm quy định pháp luật về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng
33
Ninh tại Chương 2 của luận văn.
Chương 2
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA BỊ HẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Một số đặc điểm liên quan đến công tác áp dụng các quy định pháp
luật về bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
2.1.1. Đặc điểm địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển thuộc Đông Bắc của Tổ Quốc, vùng kinh tế
trọng điểm duyên hải Bắc Bộ. Quảng Ninh có 4 thành phố (Hạ Long, Cẩm Phả, Uông
Bí, Móng Cái), 2 thị xã (Quảng Yên, Đông Triều), 8 huyện (Hoành Bồ, Vân Đồn, Cô
Tô, Ba Chẽ, Bình Liêu, Tiên Yên, Hải Hà, Đầm Hà) trong đó có 2 huyện đảo là Vân
Đồn và Cô Tô, 186 xã, phường, thị trấn. Đời sống của nhân dân chủ yếu dựa vào
ngành than, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, thương mại, lâm nghiệp, thuỷ, hải sản...
Là tỉnh duy nhất có đường biên giới trên bộ và trên biển với Trung Quốc, với
đường biên giới trên bộ dài 132,8 km trong đó có 90 km đường biên giới trên sông,
suối và 42,8 km đường biên giới trên đồi núi. Ngoài ra còn có đường phân định Vịnh
Bắc Bộ trên biển dài 191 km. Biên giới quốc gia trên đất liền tỉnh Quảng Ninh có 01
cửa khẩu quốc tế và 03 cửa khẩu quốc gia. Cửa khẩu quốc tế Móng Cái đối diện với
cửa khẩu Đông Hưng, Trung Quốc trên km 187+500 quốc lộ 18A. Ngoài ra tuyến
biên giới Quảng Ninh còn có nhiều đường mòn, lối mở qua lại. Trong đó, địa bàn khu
vực kinh tế Cửa khẩu quốc tế Móng Cái là địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đường biên giới giữa hai bên có nhiều sông, suối
tương đối thuận lợi cho đi lại, giao lưu, buôn bán. Trong đó có 12 km đường biên giói
trên sông Bắc Luân rất dễ dàng cho hoạt động lưu thông hàng hóa và nhân dân đi lại.
Quảng Ninh là tỉnh có bờ biển dài 250 km, có 2.078 hòn đảo lớn nhỏ, diện tích
tự nhiên là 6.102,4 km2 trong đó diện tích đất liền là 5.899,3 km2 (chiếm 87%), 13%
là hải đảo. Dân số Quảng Ninh có 1.163.700 người, với 22 dân tộc cùng sinh sống
(theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam năm 2012) trong đó: đông nhất là
người Kinh với 1.011.794 người chiếm 87% dân số, tiếp đến là người Dao với 59.156
người chiếm 5%, người Tày 35.010 người chiếm 3%, Sán Dìu cú 17.946 người chiếm
1,5%, người Sán Chay có 13.786 người chiếm 1,2%, người Hoa có 4.375 người chiếm
0,3%, còn lại là các dân tộc khác. Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống tập chung
34
ở các huyện: Hoành Bồ, Hải Hà, Đầm Hà, Bình Liêu, Ba Chẽ, Vân Đồn... Đây là
những huyện miền núi còn nhiều khó khăn về kinh tế, văn hoá. Với những đặc điểm
như trên cho thấy tỉnh Quảng Ninh có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, những điều kiện trên cũng là một số điều kiện thuận lợi để các đối tượng
hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội triệt để lợi dụng.
Hằng năm, lưu lượng người và phương tiện qua lại hai bên biên giới để kinh
doanh, buôn bán, du lịch, thăm thân… Các đối tượng phạm tội thường triệt để lợi dụng
các điều kiện tự nhiên, xã hội trên để thực hiện các hành vi phạm tội, nhất là tội phạm về
ma túy, tội phạm kinh tế, tội phạm mua bán người… Nhìn chung, đời sống của đồng bào
các dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh còn khó khăn về kinh tế, trình độ văn hóa thấp, trình
độ hiểu biết pháp luật- xã hội còn nhiều hạn chế. Cho nên, trong quá trình điều tra vụ án,
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh gặp nhiều khó khăn trong công tác đảm bảo ĐVPL của
bị hại, nhất là việc giải thích quyền và nghĩa vụ của bị hại, phát huy tính tích cực, chủ
động phối hợp trong xác định sự thật vụ án, xác định thiệt hại do tội phạm gây ra.
2.1.2. Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Đánh giá chung: tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh diễn biến
phức tạp, hoạt động xuyên quốc gia với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh
vi hơn. Từ năm 2014 đến hết năm 2018, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã khởi
tố, điều tra 7.222 vụ án, với 10.474 bị can. Đáng chú ý, trong số vụ án đã khởi tố có
51 vụ án với 73 bị can theo yêu cầu của bị hại (khởi tố theo tội danh quy định tại
BLHS năm 1999) [phụ lục 1]. Do bị tấn công, trấn áp mạnh nên hoạt động của tội phạm
có tổ chức không còn công khai, trắng trợn nhưng vẫn tiềm ẩn phức tạp tại một số địa
bàn trọng điểm (Thành phố Hà Long, Thành phố Móng Cải..), thủ đoạn hoạt động tinh
vi hơn; tội phạm tìm mọi cách để che giấu hành vi phạm tội, nhất là núp dưới vỏ bọc
các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh, dịch vụ du lịch, nên gây những khó khăn nhất
định cho lực lượng chức năng trong việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tình trạng hoạt động các băng nhóm lưu mạnh, côn đồ, gây rối trật tự công cộng diễn
ra phức tạp, có lúc, có nơi gây lo lắng, bất an trong nhân dân.
Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nổi lên một số loại tội phạm
cần chú ý:
- Tội phạm mua bán người tiếp tục diễn ra phức tạp. phương thức, thủ đoạn
tội phạm mua bán người rất đa dạng, song phổ biến hiện nay là lợi dụng sử thiếu hiểu
35
biết của số phụ nữ, trẻ em sinh sống tại các vùng nông thôn nghèo, vùng sâu, vùng
xa; có trình độ học vấn thập, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm, để lừa
gạt thông qua thủ đoạn hứa hẹn tìm việc làm, công việc tốt, mức lương ổn định, hoặc
lừa gạt “tình cảm” để tìm cách đưa qua biên giới bán thu lợi bất chính. Hầu hết bị hại
trong các vụ án buôn bán người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là phụ nữ, trẻ em, một
số nạn nhân khác là những cô gái trẻ, lười lao động nhưng thích hưởng thụ, dẫn đến
vị lừa gạt, dụ dỗ đi du lịch, tham quan.. sau đó bị đem đi bán. Cá biệt có phụ nữ tự
nguyện, đồng thuận để các đối tượng phạm tội đưa đi bán, chủ yếu do ảnh hưởng về
nhận thức, tập quán, đối tượng phạm tội là người thân thiết, có quan hệ với bị hại
(đây là đặc điểm quan trọng để CQĐT nghiên cứu đặc điểm bị hại trong việc bảo đảm
thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị hại. Từ năm 2011 đến 2018, Công an tỉnh Quảng
Ninh đã phát hiện, đấu tranh, triệt phá 46 vụ, bắt 81 đối tượng phạm tội mua bán
người, kịp thời giải cứu 56 nạn nhân bị mua bán trong các vụ án [23].
- Tội phạm về ma túy vẫn diễn ra phức tạp, đặc biệt hoạt động mua bán, vận
chuyển trái phép chất ma túy qua “tiểu ngạch”, cửa khẩu tuyến đường biên giới Việt
Nam – Trung Quốc, qua đường biển. Phương thức thủ đoạn hoạt động của các đối
tượng ngày càng tinh vi, hơn nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng. Từ
năm 2014 đến 2018, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã phát hiện, bắt giữ và khởi
tố 2.474 vụ án, 3.518 bị can (lần lượt chiếm 35,2% và 33,6% tổng số vụ án/bị can
trên toàn tỉnh). Quảng Ninh có nguy cơ trở thành điểm trung chuyển ma túy giữa các
nước vào Việt Nam hoặc từ Việt Nam sang các nước khác.
- Tội phạm xâm phạm trật tự an toàn xã hội và tội phạm xâm phạm sở hữu trên
địa bàn tỉnh mặc dù số vụ, số đối tượng ít biến động nhưng chiếm tỷ lệ cao nhất [Phụ
lục 1]. Hầu hết số vụ án về loại tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng không
tăng [25]. Một số loại tội phạm còn tiềm ẩn: (1) tội phạm giết người do mâu thuẫn
xung đột tức thời, mang tính chất bộc phát trong đời sống sinh hoạt, giết người thân
trong gia đình còn chiếm tỷ lệ cao (chiếm 42,3% tổng số vụ giết người); các tội xâm
phạm sở hữu chiếm 51,2% tổng số vụ vi phạm pháp luật, nổi lên là tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản (các vụ án này thì có số lượng từ 02 bị hại trở lên chiếm 90% tổng số vụ
án). Hoạt động của các đối tượng hình sự là người tỉnh ngoài (không có hộ khẩu
thường trú tỉnh Quảng Ninh) có chiều hướng gia tăng, gây khó khăn cho CQĐT trong
hoạt động điều tra tội phạm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của bị hại, nhất là các tội
36
phạm cướp, giết người.
- Tội phạm sử dụng công nghệ cao có diễn biến phức tạp, hoạt động xuyên
quốc gia với nhiều phương thức, thủ đoạn mới. Trên địa bàn tỉnh, tội phạm này nổi
lên là các hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản với thủ đoạn “hack tài khoản”, cài đặt
phần mềm trên điện thoại, sử dụng thẻ tín dụng giả để mua hàng, hoặc lập công ty,
mở tài khoản ngân hàng, sử dụng dịch vụ thanh toán thẻ, rút tiền để chiếm đoạt tài
sản của cá nhân, doanh nghiệp (bị hại trong vụ án này là cá nhân và các chi nhánh
ngân hàng trên địa bàn).
Bên cạnh các loại tội phạm có diễn biến phức tạp, hoạt động nguy hiểm trên thì
trên địa bàn tỉnh các loại tội phạm về an ninh quốc gia, tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp, tội phạm về tham nhũng và chức vụ và tội phạm về kinh tế và môi trường đã được
kiềm chế, chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu tội phạm trên địa bàn tỉnh [Phụ lục 1], góp phần
bảo đảm ANTT trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Qua tình hình tội phạm trên cho thấy, tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
diễn ra phức tạp, đa dạng các loại tội phạm và gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với
xã hội, gây thiệt hại về vật chất, tinh thần của nhân dân. Trên cơ sở nghiên cứu phân
tích tình hình tội phạm, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã phân loại tội phạm cụ
thể trong từng năm, từng giai đoạn, xác định các phương thức, thủ đoạn hành vi tội
phạm, xác định mục tiêu gây thiệt hại của tội phạm thường xâm phạm để đề ra phương
hướng, nhiệm vụ, biện pháp bảo vệ cụ thể, hạn chế mức tối đa thiệt hại cho nhân dân
do tội phạm gây ra, giảm thiểu thiệt hại cho nhân dân, cũng chính là biện pháp bảo
đảm tốt nhất các quyền lợi chính đáng của bị hại.
2.1.3. Tổ chức Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh
- Về cơ cấu tổ chức:
Căn cứ Luật Tổ chức CQĐT hình sự năm 2015, thì CQĐT Công an tỉnh Quảng
Ninh được tổ chức:
- Theo hệ lực lượng: thành 02 hệ lực lượng Cơ quan An ninh điều tra và Cơ
quan Cảnh sát điều tra.
- Theo cấp hành chính: CQĐT gồm: Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp
tỉnh; Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp tỉnh; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp
huyện.
Tính đến nay, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh có 16 CQĐT: 02 cấp tỉnh (Cơ
quan An ninh điều tra và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh), 14 Cơ quan Cảnh
37
sát điều tra Công an cấp huyện.
- Về số lượng ĐTV, cán bộ điều tra:
Tính đến 03/2019, đội ngũ ĐTV Công an tình Quảng Ninh có 683 cán bộ,
chiến sỹ, trong đó có: 16 Thủ trưởng, 31 Phó Thủ trưởng CQĐT, 366 ĐTV và cán bộ
điều tra, cụ thể:
+ ĐTV cao cấp: 25 ĐTV;
+ ĐTV trung cấp: 137 ĐTV;
+ ĐTV sơ cấp: 217 ĐTV;
+ Cán bộ điều tra (chưa bổ nhiệm ĐTV): 304 cán bộ.
- Về độ tuổi, giới tính:
Đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh nhìn chung đảm bảo
sức khỏe, trình độ, kinh nghiệm điều tra. Số ĐTV, cán bộ điều tra trên 50 tuổi có 73
người (chiếm 10,6%), từ 30 tuổi đến 50 tuổi có 298 người (chiếm 43,6%), và dưới 30
tuổi có 312 người (chiếm 45,6%).
Số ĐTV, cán bộ điều tra là nam chiếm tỷ lệ lớn với 646 đồng chí chiếm 94,6%;
ĐTV, cán bộ điều tra nữ chiếm tỷ lệ ít với 37 đồng chí, chiếm 5,4%. Đây là một khó
khăn trong công tác điều tra các vụ án khởi tố theo yêu cầu bị hại (các vụ án hiếp
dâm, cưỡng dâm..) khi CQĐT lấy lời khai bị hại, thu thập tài liệu, vật chứng từ bị hại
là nữ, trẻ em nữ.
- Về trình độ:
Hầu hết các ĐTV, cán bộ điều tra đã qua quá trình đào tạo, công tác thực tiễn
tại các đơn vị nghiệp vụ khác nhau, có năng lực công tác chuyên môn, có kiến thức
pháp luật, nắm vững kiến thức nghiệp vụ của ngành Công an, có kinh nghiệm điều
tra. Tính đến nay, 78% ĐTV, cán bộ điều tra có trình độ từ đại học trở lên, trong đó
có 24 ĐTV có trình độ thạc sỹ, 02 ĐTV đang theo học nghiên cứu sinh.
Nhìn chung, ĐTV, cán bộ điều tra của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh cơ
bản đáp ứng yêu cầu về số lượng, bước đầu đáp ứng yêu cầu về chất lượng (hiện tại
có 24 ĐTV có trình độ thạc sỹ, 02 ĐTV đang theo học nghiên cứu sinh); số lượng
ĐTV có thời gian công công tác điều tra từ 05 năm đến dưới 10 năm chiếm 18,1%;
từ 10 năm trở lên chiếm 17,1%, có 20,8%. Tuy nhiên, số lượng cán bộ điều tra có
thời gian công tác điều tra dưới 5 năm còn chiếm tỷ lệ 18,4%, cần thiết được đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, góp phần thực hiện công tác điều tra, công
38
tác bảo đảm ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh [22].
2.2. Tình hình thực hiện áp dụng địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Công tác chuẩn bị liên quan bảo đảm địa vị pháp lý của bị hại
2.2.1.1. Nghiên cứu thông tin, tài liệu liên quan vụ án
Mục đích việc nghiên cứu thông tin, tài liệu nhằm xác định những vấn đề cấp
biện pháp cấp bách cần giải quyết ngay; đặc biệt những vấn đề góp phần phát hiện
đối tượng gây án, vật chứng vụ án, những tài liệu cần thu thập, điều tra; xác định
những vấn đề cần làm rõ trong lấy lời khai của bị hại, trình tự các vấn đề cần làm rõ;
xác định mối quan hệ của bị hại với các đối tượng khác có liên quan; nghiên cứu tâm
lí, thái độ, nhận thức của bị hại đối với hành vi phạm tội của tội phạm và các vấn đề
khác có ý nghĩa xác định sự thật vụ án.
Thực tiễn trong quá trình nghiên cứu thông tin, tài liệu liên quan đến vụ án,
ĐTV của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thường tập trung vào các nội dung sau:
- Nghiên cứu về loại hành vị phạm tội xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của bị hại để định hướng cho việc bảo đảm ĐVPL của bị hại.
- Nghiên cứu về tình trạng hiện tại của bị hại, từ đó xác định xem họ có khả
năng cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng hay không có khả năng.
- Nghiên cứu về lập trường, thái độ, mong muốn của bị hại đối với tội phạm
xảy ra và thiệt hại do hành phạm tội gây ra; từ đó xác định bị hại có tự giác, chủ động
phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng một cách đầy đủ, khách quan, kịp
thời đối với CQĐT hay không.
- Nghiên cứu về thực tế khắc phục hậu quả thiệt hại mà các cơ quan có trách
nhiệm hoặc người có hành phạm tội đã tiến hành.
- Nghiên cứu về những phương hướng, khả năng, biện pháp thu thập, bổ sung
các tài liệu cần thiệt cho việc xác định nội dung, phương pháp điều tra.
Bằng phương pháp phỏng vấn, cho thấy 42% ĐTV được hỏi cho biết trước khi
tiếp xúc, lấy lời khai bị hại thì không nghiên cứu những thông tin, tài liệu có liên quan
đến vụ án; vì cho rằng bị hại luôn có mong muốn tìm ra tội phạm nên bị hại sẽ nhiệt
tình, chủ động cộng tác với CQĐT, 58% ĐTV còn lại cho rằng trước khi tiếp xúc,
gặp gỡ, lấy lời khai của bị hại thì cần nghiên cứu những thông tin, tài liệu liên quan
đến vụ án, vì các tài liệu này là căn cứ quan trọng để định hướng quá trình tổ chức
39
điều tra, đảm bảo ĐVPL của bị hại một cách tốt nhất.
2.2.1.2. Phân loại bị hại và nghiên cứu về bị hại
Phân loại bị hại có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiểu quả công tác
điều tra nói chung, công tác đảm bảo ĐVPL của bị hại nói riêng. Thực tế khảo sát
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cho thấy, nếu việc phân loại tốt bị hại sẽ có giúp quá
trình thu thập, củng cố tài liệu, chứng về những vấn đề cần phải chưng minh trong
điều tra vụ án được tiến hành nhanh chóng, đảm bảo các quyền chính đáng của bị hại,
nhất là trong vụ án có nhiều bị hại. Đối với vụ án nhiều bị hại, tuy cùng là người bị
thiệt hại nhưng tính chất, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra là khác nhau, khả năng
khai báo, cung cấp thông tin, tài liệu của từng bị hại cũng không giống nhau; có người
biết rõ về diễn biến vụ án và tội phạm, nhưng cũng có người chỉ hiểu biết ở một mức
độ nhất định. Vì vậy, trong quá trình điều tra, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã
tiến hành phân loại bị hại, nghiên cứu về đặc điểm nhân thân, sự hiểu biết, khả năng
cung cấp thông tin, tài liệu của bị hại để có định hướng tổ chức lấy lời khai, đối chất,
nhận dạng và các hoạt động điều tra khác có sự tham gia của bị hại. Sau khi phân loại
bị hại, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh lựa chọn bị hại để thực hiện lấy lời khai theo
quy định. Như trong vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại thành phố Hạ
Long, tỉnh Quảng Ninh (2018), bị can Bùi Phương thảo có hành vi sử dụng mẫu giấ
vay tiền có hình con dấu “Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế - Phòng Giao dịch
Bãi Cháy - ĐÃ THU TIỀN” vay số tiền để lừa đảo chiếm đoạt 156.852.250.000 đồng
của 52 bị hại là các cá nhân và rút tiền chiếm đoạt 5.640.000 đồng của VIB Quảng
Ninh. Qua công tác nghiên cứu tài liệu, phân loại bị hại, Cơ quan Cảnh sát điều tra
tỉnh Quảng Ninh xác định có 02 loại bị hại là cá nhân và tổ chức (Phòng giao dịch
VIB Bãi Cháy) có liên quan, từ đó định hướng, lựa chọn nội dung lấy lời khai của đại
diện Phòng Giao dịch VIB Bãi Cháy, thực hiện đối chất giữa bị can Bùi Phương Thảo
với 13/52 bị hại khác, qua đó giúp Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng
Ninh thu 58 giấy vay tiền, 09 giấy viết tay, 01 giấy nộp tiền, do bị hại trong vụ án
cung cấp; thu 12 giấy vay tiền bản gốc, 24 quyển sổ đã ghi chép do Phòng giao dịch
VIB Bãi Cháy cung cấp, làm rõ hành vi phạm tội của bị can, xác định mức độ thiệt
hại của từng bị hại trong vụ án [10].
2.2.1.3. Thiết lập quan hệ tâm lí giữa ĐTV và bị hại
Tuy đây không phải yêu cầu bắt buộc theo quy định pháp luật nhưng quan
40
trọng trong việc đảm bảo ĐVPL của bị hại. Qua các cuộc tọa đàm, trao đổi, 100%
ĐTV của CQĐT công an tỉnh Quảng Ninh cho cho biết, việc thiết lập quan hệ tâm lí
giữa ĐTV và bị hại là nhiệm vụ đầu tiên, có tính chất “mở đầu” trong thực hiện bảo
đảm ĐVPL của bị hại. Để thiết lập được quan hệ tâm lý tốt giữa ĐTV và bị hại thì
ĐTV cần có lời nói, tác phong làm việc nghiêm túc, có thái độ thông cảm với bị hại,
mọi sự thờ ơ, biểu hiện hoài nghi của ĐTV đều có thể làm bị hại “thu mình lại”. ĐTV
đã giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của bị hại để bị hại nhận thức rõ ĐVPL của bị hại
và pháp luật luôn bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bị hại và nhân dân; mọi
hành vi phạm tội của tội phạm đều chịu hình phạt tương ứng của pháp luật. Trong
mọi trường hợp, ĐTV CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh không để tình cảm bộc phát
lấn át, nhất là khi bị hại có tình trạng khó khăn, thương tâm hoặc khi bị hại thổi phồng
sự việc liên quan vụ án.
Để thiết lập quan hệ tâm lí giữa ĐTV và bị hại thì ĐTV của CQĐT Công an
tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện các hoạt động có tính chất đặt vấn đề thông thường như
xác định nhân thân bị hại, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị hại. Mục đích nhằm
tạo không khí bình thường ở đó ĐTV và bị hại tôn trọng lẫn nhau; xây dựng ở bị hại
có trạng thái tâm lí tốt, thoải mái nhất, tin tưởng vào pháp luật và CQĐT; dễ dàng
trình bày hết sự hiểu biết của bản thân về vụ án và bị can của vụ án. Đồng thời thông
qua hoạt động này để xác định ĐVPL của bị hại khi tham gia tố tụng. Trong vụ án “hiếp
dâm trẻ em” do bị can Hoàng Văn Đào đã có hành vi giao cấu với Triệu Thị Hà (con
riêng của vợ bị can) xảy ra tại xã Minh Cầm, huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh năm 2015.
Qua công tác thu thập và nghiên cứu tài liệu, ĐTV Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh Quảng Ninh nắm bắt tâm lí hoang mang lo sợ, xấu hổ của Triệu Thị Hà cho nên quá
trình tiếp xúc, ĐTV đã hỏi thăm, động viên tinh thần bị hại, tạo tin tưởng của bị hại đối
với ĐTV, kết hợp với chị Trương Thị Huyền (mẹ của Triệu Thị Hà) động viên, hướng
dẫn Triệu Thị Hà cung cấp thông tin liên quan đến hành vi phạm tội của bị can, qua đó
giúp CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh củng cố tài liệu, vật chứng, xác định hành vi phạm
tội của bị can Hoàng Văn Đào [5].
2.2.2. Thực hiện quan hệ phối hợp trong công tác đảm bảo địa vị pháp lý
của bị hại trong điều tra tội phạm do Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh
thực hiện
41
2.2.2.1. Phối hợp giữa CQĐT và các lực lượng trong ngành Công an
Với đặc trưng tình huống tiếp nhận điều tra chủ yếu ở cấp cơ sở, phối hợp giữa
CQĐT và các lực lượng trong ngành Công an là yêu cầu khách quan, tất yếu trong
hoạt động điều tra của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh. Nội dung công tác phối hợp
liên quan bảo đảm ĐVPL bị hại gồm:
- Phối hợp trao đổi thông tin, phân loại các thông tin, tài liệu liên quan bị hại
mà hồ sơ vụ án có, nhất là trong giai đoạn điều tra ban đầu.
- Phối hợp xây dựng kế hoạch điều tra, kế hoạch lấy lời khai bị hại, thu thập,
bảo quản xử lí thông tin, tài liệu, vật chứng do bị hại cung cấp.
- Phối hợp đảm bảo an toàn tuyệt đối cho bị hại trong suốt quá trình điều tra,
xử lí vụ án và sau điều tra.
Công tác phối hợp giữa CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh và lực lượng khác
trong ngành Công an đã đáp ứng yêu cầu chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, góp phần
đảm bảo ĐVPL của bị hại.
2.2.2.2. Phối hợp với VKSND tỉnh, TAND tỉnh
Trong quá trình điều tra, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã phối hợp chặt
chẽ với VKSND tỉnh, TAND tỉnh ngay từ khi tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc
vụ án. Nội dung công tác phối hợp tập trung:
- Phối hợp đánh giá, phân loại tài liệu, vật chứng đã thu thập được trong vụ án
làm căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, phê chuẩn khởi tố vụ án, phê chuẩn khởi tố
bị can và các quyết định khác liên quan hoạt động tố tụng của CQĐT.
- Phối hợp xác định tư cách của bị hại trong hoạt động điều tra vụ án.
- Phối hợp trong nhiệm vụ, quyền hạn giám sát hoạt động điều tra, giám sát
công tác đảm bảo ĐVPL của bị hại.
- Khi kết thúc điều tra vụ án, Cơ quan ANĐT, VKSND tỉnh, TAND tỉnh phối
hợp tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình chuyển hồ sơ vụ án sang
Viện kiểm sát, Tòa án đề truy tố, xét xử. Họp bàn, thống nhất chủ trương, đánh giá
tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, thống nhất dự kiến chủ trương về hình thức xử lý
vụ án đối tượng; xác định mức độ thiệt hại và đề xuất phương hướng giải quyết bồi
thường thiệt hại của bị hại do hành vi phạm tội của bị can gây ra .
- Phối hợp trong việc đảm bảo nhiệm vụ giám sát của VKSND đối với hoạt động
42
điều tra nói chung, đối với công tác bảo đảm ĐVPL của bị hại nói riêng.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, cho thấy 100% vụ án hình sự do CQĐT Công an
tỉnh Quảng Ninh thụ lí thì trong quá trình điều tra, quan hệ phối hợp giữa CQĐT -
Viện Kiểm sát - Tòa án đều tổ chức thực hiện, đảm bảo các quyền, lợi ích chính đáng
của bị hại.
2.2.2.3. Phối hợp với Cơ quan giám định
Trưng cầu giám định là một biện pháp điều tra do CQĐT thực hiện bằng cách
ra quyết định yêu cầu những người có kiến thức về chuyên môn, xem xét, kết luận về
các vấn đề có ý nghĩa với hoạt động điều tra vụ án mà CQĐT nêu ra trong quyết định
yêu cầu trưng cầu giám định nhằm phát hiện, thu thập chứng cứ phục vụ cho yêu cầu
điều tra, cũng là một biện pháp nhằm đảm bảo tối đa quyền, lợi ích chính đáng của bị
hại, đặc biệt là các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định quy định tại Điều
206 Bộ luật TTHS năm 2015. Qua khảo sát, từ năm 2014 -2018, trong số 7.222 vụ án
do CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thụ lí điều tra có 3.215 vụ án đã được CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với các cơ quan giám định: Trung tâm pháp y
tỉnh Quảng Ninh, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, Phòng Giám
định pháp y – Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh và Viện Kỹ thuật hình sự Bộ Công
an tiến hành trưng cầu giám định các tài liệu, vật chứng liên quan vụ án, tập trung
vào các vụ án giết người (chiếm 12%), cố ý gây thương tích (chiếm 14,3%), hiếp
dâm, cưỡng dâm (chiếm 15,3%), lừa đảo chiếm đoạt tài sản (10,7%, mua bán người
(9,6%) [22]. Đây là các vụ án có nhiều bị hại trong một vụ án, do đó, nội dung, kết
quả trưng cầu giám ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích chính đáng của bị hại.
2.2.2.4. Phối hợp với Công an xã
Tỉnh Quảng Ninh có địa hình đồi núi, địa bàn rộng nên trong công tác điều tra vụ
án, để bảo đảm ĐVPL của bị hại, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã luôn chú trọng
phối hợp với lực lượng cấp cơ sở, cụ thể phối hợp với Công an xã. Khảo sát chung cho
thấy, từ 2014 đến nay có từ 30 - 35% vụ án trên địa bàn Quảng Ninh do Công an xã là
lực lượng đầu tiên tiếp nhận thông tin vụ, việc phạm tội (thu giữ vật chứng, lấy lời khai
ban đầu...), báo cáo thông tin vụ, việc phạm tội lên Cơ quan Cảnh sát điều tra cấp huyện
[23]. Qua nghiên cứu, nội dung công tác phối hợp giữa CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
đã phối hợp với Công an xã trong điều tra vụ án trên địa bàn tỉnh, góp phần bảo đảm
43
ĐVPL của bị hại gồm:
- Phối hợp xác minh đặc điểm nhân thân đối tượng, nhân thân bị hại, các mối
quan hệ liên quan của đối tượng và bị hại có ý nghĩa điều tra vụ án.
- Phối hợp thực nghiệm điều tra, dựng lại hiện trường vụ án, nhất là trong
trường hợp Công an xã là lực lượng đầu tiên tiếp cận vụ, việc phạm tội.
- Phối hợp giao giấy triệu tập bị hại, chuẩn bị địa điểm lấy lời khai, nhận dạng,
đối chất giữa bị hại và bị can theo yêu cầu bị hại (thống kê cho thấy có 20% số vụ án
đã được CQĐT tiến hành lấy lời khai bị hại tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, Trụ sở
Công an xã).
- Phối hợp bảo đảm an toàn tính mạng, danh dự, tài sản của bị hại khi có yêu
cầu của CQĐT (chủ yếu đối với các vụ án giết người, cố ý gây thương tích, lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh).
- Phối hợp thu giữ tài liệu, vật chứng liên quan vụ án, truy tìm tài liệu, vật
chứng (nếu có); phối hợp thực hiện các nhiệm vụ khác khi có yêu cầu của CQĐT
trong thẩm quyền chức năng, nhiệm vụ của Công an xã.
2.2.2.5. Phối hợp lực lượng khác
Bên cạnh các lực lượng phối hợp thường xuyên nêu trên, trong quá trình điều
tra vụ án nhằm bảo đảm ĐVPL của bị hại, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh còn phối
hợp với một số lực lượng khác như: Lực lượng Cảnh sát giao thông (trong vụ án vi
phạm các quy định về an toàn giao thông xảy ra trên địa bàn tỉnh), phối hợp thực hiện
ủy thác tư pháp về hình sự đến Vụ Hợp tác quốc tế - VKSND tối cao (đối với các vụ
án có yếu tố nước ngoài, vụ án mua bán người). Phối hợp với Đồn Biên phòng trong
các vụ án do Đồn Biên phong phát hiện, khởi tố, điều tra ban đầu (như trường hợp
Đồn Biên Phòng Cửa Khẩu Móng Cái đã bắt quả tang đối tượng Phan Thị Thu Thủy
đã lừa bán các chị Đào Thị Ngọc Nga, Lê Thị Mỹ Hạnh, Trần Thị Trúc Chi sang
Trung Quốc, căn cứ tài liệu thu được, Đồn Biên Phòng Cửa Khẩu Móng Cái đã khởi
tố vụ án hình sự “mua bán phụ nữ” năm 2015 và chuyển toàn bộ hồ sơ đến Công an
thị xã Móng Cái). Quá trình điều tra vụ án Cơ quan Cảnh sát điều tra thị xã Móng Cái
đã phối hợp với Đồn Biên phòng Cửa khẩu Móng Cái xác minh nhân thân, lấy lời
khai, đảm bảo các quyền, lợi ích chính đáng của bị hại Đào Thị Ngọc Nga, Lê Thị
Mỹ Hạnh, Trần Thị Trúc Chi trong vụ án [7]. Nhìn chung, hoạt động phối hợp với
đơn vị, lực lượng đã góp phần quan trọng trong công tác bảo đảm ĐVPL bị hại trên
44
địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua.
2.2.3. Áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của bị hại trong hoạt động điều
tra vụ án do Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh thực hiện
2.2.3.1. Thực hiện quyền của bị hại
(1). Thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của bị hại
Thủ tục thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị hại được áp dụng trong
hoạt động lấy lời khai của bị hại; khi tiến hành đối chất, nhận dạng, khám người,
khám nơi làm việc, chỗ ở, địa điểm của sự tham gia của bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của bị hại.
Trong quá trình thực hiện lấy lời khai của bị hại; khi tiến hành đối chất, nhận
dạng, khám người, khám nơi làm việc, chỗ ở, địa điểm của sự tham gia của bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại, ĐTV của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
đã thực hiện các hoạt động có tính chất đặt vấn đề đối với bị hại về xác định nhân
thân và thực hiện Thông báo nội dung “làm việc” giữa ĐTV với bị hại, giải thích
quyền và nghĩa vụ của bị hại. Hoạt động thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của
bị hại không chỉ có ý nghĩa đặt vấn đề, thiết lập quan hệ giữa ĐTV và bị hại mà còn
xác định ĐVPL của bị hại trong tham gia tố tụng.
Qua trao đổi, phỏng vấn ĐTV, cán bộ điều tra của CQĐT Công an tỉnh Quảng
Ninh thực hiện “thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của bị hại’ như thế nào thì
đa số ĐTV đều thực hiện thường xuyên, số ít ĐTV thỉnh thoảng thực hiện, khi có yêu
cầu của bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại và được ghi vào biên bản.
Việc giải thích quyền và nghĩa vụ của bị hại thường được ĐTV của CQĐT Công an
tỉnh Quảng Ninh tiến hành bằng 02 cách:
Một là, ĐTV trực tiếp thông báo những điểm chính về quyền và nghĩa vụ của bị
hại theo quy định của pháp luật, trong đó chú ý nhấn mạnh hậu quả pháp lý của hành vi
từ chối khai báo, cung cấp thông tin, tài liệu hoặc khai báo gian dối.
Hai là, đọc nguyên văn bản các điều luật quy định trong BLHS, Bộ luật TTHS
về quyền và nghĩa vụ của bị hại hoặc cho bị hại tự đọc các quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của họ.
Việc thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của bị hại được ĐTV của CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh thực hiện trên cơ sở thông tin, tài liệu về tâm lí, động cơ,
mục đích, thái độ, mối quan hệ giữa bị hại và bi can và các thông tin, tài liệu khác có
45
ý nghĩa trong hoạt động điều tra. Đối với những bị hại có cơ sở để xác định bị hại sẽ
cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng, lời khai thiếu trung thực, thổi phồng sự thật
thì ĐTV áp dụng cách thông báo thứ nhất; đối với trường hợp bị hại có cơ sở xác định
sẽ phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra, cung cấp, thông tin, tài liệu chính xác thì
ĐTV áp dụng cách thứ hai. Mục đích của các cách này để giúp cơ quan điều tra thu
thập được đúng, đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin, tài liệu, đảm bảo tốt nhất
về thực hiện quyền của bị hại khi tham gia tố tụng.
(2). Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và trình bày ý kiến về chứng cứ,
tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra,
đánh giá.
- Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và trình bày ý kiến về chứng cứ,
tài liệu, đồ vật liên quan:
Quá trình giải quyết vụ án hình sự thực chất là quá trình thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ để chứng minh có tội phạm xảy ra hay không? chứng minh sự có
tội hoặc vô tội của một con người cụ thể.
Thực hiện quy định tại Bộ luật TTHS năm 2003, CQĐT Công an tỉnh Quảng
Ninh thực hiện theo quy định tại điểm a, b, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật TTHS năm
2003, theo đó, người bị hại (bị hại) có quyền:
+ Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Được thông báo về kết quả điều tra.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản Điều 64. Chứng cứ:
“1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định mà CQĐT, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định
có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
46
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác”.
Như vây, theo quy định tại Điều 64 Bộ luật TTHS năm 2003 thì “chủ thể” sử
dụng chứng cứ trong khái niệm chứng cứ là “CQĐT, Viện kiểm sát và Toà án” mà
không phải các chủ thể khác tham gia tố tụng.
Để tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng có thể tham gia vào quá trình
chứng minh, giải quyết vụ án hình sự thì Tại Điều 86 Bộ luật TTHS năm 2015 quy
định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải
quyết vụ án”. Bộ luật TTHS năm 2015 không quy định “chủ thể” sử dụng chứng cứ
trong khái niệm về chứng cứ, đây là quy định thể hiện sự tiến bộ trong TTHS, tạo
điều kiện cho những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị buộc tội, người
bào chữa, bị hại... có thể tham gia vào quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình
sự.
Để thực hiện quy định “đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và trình bày
ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan”, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã
tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ, lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá
chứng cứ do bị hại cung cấp và củng cố chứng cứ theo quy định của Bộ luật TTHS
năm 2015.
+ Về hoạt động thu thập chứng cứ do bị hại cung cấp:
Thu thập chứng cứ là một giai đoạn của quá trình chứng minh tội phạm. Nếu
không có thu thập chứng cứ thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng
cứ. Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền thu thập chứng cứ. Theo quy định tại
Điều 88 thì CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án thu thập chứng cứ bằng cách: Triệu tập
những người biết về vụ án (trong đó có bị hại) để hỏi và nghe họ trình bày về những
vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm
và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật TTHS. Yêu cầu bị hại cung
cấp những tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án. và thủ tục thu
thập chứng cứ trong những trường hợp này được CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
tuân thủ những quy định như:
Triệu tập bị hại để hỏi và nghe bị hại trình bày về những vấn đề có liên quan
đến vụ án.Giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị hại đối với quyền “đưa ra chứng cứ,
47
tài liệu, đồ vật, yêu cầu và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và
yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”: Thủ tục này được
áp dụng trong lấy lời khai của bị hại; khi tiến hành đối chất, nhận dạng, khám người,
khám nơi làm việc, khám chỗ ở, địa điểm có sự tham gia của bị hại.
Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do
bị hại đưa ra, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh tiến hành lập biên bản giao nhận và
kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật TTHS:
Thứ nhất, đối với dấu vết: Khi thu thập thì các cơ quan điều tra Công an tỉnh
Quảng Ninh và ĐTV được phân công điều tra vụ án ghi biên bản nêu rõ: Dấu vết thu
thập được là dấu vết gì, vị trí, đặc điểm ra sao? Về tên của dấu vết cần ghi rõ đó là
dấu vết gì: Là vân tay, vết máu, vết cày, vết cạy phá, dấu chân, dấu tay,... Trường hợp
khó đặt tên ngắn gọn thì mô tả cụ thể nhưng phải phản ánh được nội dung chủ yếu,
cơ bản. Về đặc điểm của dấu vết: Cần mô tả các nội dung hình dáng, kích thước, màu
sắc và các đặc điểm khác của dấu vết để phục vụ tốt cho công tác giám định làm rõ
nguyên nhân...
Thứ hai, đối với vật chứng: Khi thu thập vật chứng trong mọi trường hợp đều
được ghi cụ thể trong biên bản thu giữ các nội dung sau:
Tên của vật là gì (con dao, khẩu súng, hay công cụ phương tiện khác) nếu là
mô tô xe máy, thì phải ghi rõ biển số, số khung, số máy... Trường hợp vật chứng
không phải là vật thông dụng, khó đặt tên, thì có thể đặt tên dạng mô tả hình dạng,
kích thước, màu sắc...
Đặc điểm của vật, tùy từng loại vật mà có cách mô tả cụ thể, nhưng nhìn chung
phải thể hiện được các nội dung: Số lượng, chất lượng, trọng lượng, khối lượng, hình
dạng kích thước, màu sắc, mùi vị, tính nguyên vẹn và trạng thái mới, cũ của vật. Những
dấu vết của tội phạm để lại trên vật chứng. Trường hợp trên vật chứng có dấu vết thì
được mô tả dấu vết theo nội dung củng cố dấu vết đã nêu trên . Mô tả từng dấu vết, kích
thước của dấu vết, màu sắc của dấu vết, chiều hướng của dấu vết...
Địa điểm tìm thấy vật: Địa điểm tìm thấy vật và cách thức giấu vật liên quan
chặt chẽ tới giá trị chứng minh của chứng cứ, giá trị pháp lý của chứng cứ, làm nảy
sinh căn cứ pháp lý để tiến hành các hoạt động tố tụng khác.
Thứ ba, đối với sự việc, khi cần ghi lại trong biên bản một sự việc cụ thể nào
48
đó, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh và ĐTV lập biên bản ghi đầy đủ các nội dung
sau: Tên sự việc, thời gian xảy ra, hậu quả thiệt hại, nguyên nhân xảy ra sự việc,
người biết việc.
Khi thu thập chứng cứ đối với các “nguồn chứng cứ mới” là dữ liệu điện tử thì
nội dung biên bản được ghi rõ: Phương tiện điện tử phải được thu giữ kịp thời, đầy
đủ, mô tả đúng thực trạng và niêm phong ngay sau khi thu giữ. Việc niêm phong, mở
niêm phong được tiến hành theo quy định của pháp luật. Trường hợp không thể thu
giữ phương tiện lưu trữ dữ liệu điện tử thì cơ quan điều tra sao lưu dữ liệu điện tử đó
vào phương tiện điện tử và bảo quản như đối với vật chứng, đồng thời yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ
quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh đã sao lưu và họ phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về hành vi bảo toàn dữ liệu của mình.
- Yêu cầu CQĐT kiểm tra, đánh giá:
Đây vừa là quyền của bị hại, vừa là trách nhiệm của CQĐT Công an tỉnh
Quảng ninh. Để thực hiện quyền này của bị hại, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã
tiến hành kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ, tài liệu do
bị hại đưa ra. Quá trình kiểm tra đánh giá được CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh tiến
hành khách quan, không bị chi phối bởi ý thức chủ quan hoặc theo nhiệm vụ hướng
tới (mục đích làm rõ sự thật vụ án); xác định tính phù hợp của chứng cứ, giá trị chứng
minh của từng chứng cứ do bị hại đưa ra.
Thực tiễn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cho thấy: Trong
quá trình điều tra, giải quyết vụ án, bị hại đã chủ động đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, yêu cầu và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Các tài liệu, chứng cứ mà
bị hại đưa ra trong các vụ án do CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thụ lí là có tính
khác quan, có tính xác thực và liên qua vụ án. Tuy nhiên, do nhận thức, trình độ, tâm
lí, mối quan hệ và các vấn đề khác có ý nghĩa chi phối đến quyền đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, yêu cầu và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan thì
từng bị hại có cách thức hiện khác nhau: Có bị hại đưa toàn bộ (tích cực tham gia,
phối hợp với cơ quan điều tra); có bị hại đưa chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan vụ
án một cách ‘nhỏ giọt”, lần lượt hoặc theo hướng dẫn của CQĐT hoặc bị hại không
49
đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan.
Chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan vụ án mà bị hại đưa ra cho CQĐT Công
an tỉnh Quảng Ninh chủ yếu là các giấy tờ viết tay, hóa đơn, chứng từ; băng ghi âm,
ghi hình có nội dung, hình ảnh liên quan hành vi phạm tội của bị can (trong các vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh do
bị can Phạm Thị Ngọc Bích thực hiện, 07 bị hại là Trần Thị Mỵ, Trần Anh Huy,
Bùi Văn Minh, Nguyễn Thị Nhung, Trần Việt Phương, Đoàn Thị Thanh, Nguyễn
Văn Tám đã cung cấp cho CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh 05 Giấy biên nhận, 04
Giấy vay tiền, 01 Giấy vay tiền và khất nợ, 01 Giấy hẹn trả nợ, 01 Giấy nộp tiền
vào tài khoản ngân hàng, 01 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, qua kiểm
tra, đánh giá, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh xác định các tài liệu do bị hại cung
cấp có tính hợp pháp, xác thực và liên quan vụ án, qua đó, góp phần củng cố hồ sơ,
kết luận điều tra vụ án, xác định rõ hành vi phạm tội của bị can và thiệt hại của bị
hại [9].
(3). Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi
thường.
Đối với quyền này, từ năm 2014 - đến 01/01/2018, quyền bị hại được thực
hiện theo quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật TTHS năm 2003 quy
định về “Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường”. Từ thực
tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cho thấy: Quá trình điều tra vụ án, ĐTV,
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện thông qua công tác lấy lời khai của bị
hại (người bị hại theo quy định Bộ luật TTHS năm 2003). Nghiên cứu hồ sơ vụ án do
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thụ lí cho thấy: Quyền đề nghị hình phạt, mức bồi
thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường của bị hại đã được thực hiện ở các
hình thức khác nhau.
Đối với quyền “đề nghị hình phạt”: Quá trình tham gia tố tụng, bị hại luôn
quan tâm đến hình phạt mà tội phạm đã gây thiệt hại cho bị hại, tuy nhiên, mức đề
nghị hình phạt của bị hại chủ yếu dựa trên đặc điểm tâm lí, mối quan hệ giữa bị hại-
bi can và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của tội phạm đối với bị hại (thiệt hại
của bị hại càng lớn thì mức đề nghị hình phạt của bị hại càng cao) như trong vụ án
“giết người” xảy ra trên địa bàn thôn 7, xã Nguyễn Huệ, thị xã Đông Triều, tỉnh
Quảng Ninh, ngày 23/9/2016, bị can Ngô Văn Phú đã cho cháu Ngô Thị Thu Phương
50
(con của Phú) uống dung dịch chứa thuốc diệt cỏ, hậu quả làm cháu Phương tử vong.
Quá trình điều tra, bị can khai nhận hành vi phạm tội của bản thân. Chị Nguyễn Thị
Bích là đại diện hợp pháp của bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt cho bị can Ngô Văn
Phú vì cả hai có mối quan hệ vợ - chồng [8].
Qua thống kê hồ sơ vụ án do CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh cho thấy hình
thức đề nghị hình phạt: Bị hại chủ yếu đề nghị mức hình phạt “tăng nặng” (chiếm
khoảng 10,5%); đề nghị hình phạt theo quy định pháp luật” (chiếm khoảng 56%), đề
nghị “giảm nhẹ hình phạt” chiếm khoảng 25% và không đề nghị hình phạt (chiếm
8.5%) [21].
Đối với quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi
thường: Đây là một quyền cơ bản của bị hại, tuy nhiên, quyền này chỉ được CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh thực hiện “cuối cùng” trong hoạt động điều tra vụ án, mà
tập trung điều tra chứng minh hành vi phạm tội; khi thụ lý hồ sơ vụ án để chuẩn bị
chuyển hồ sơ truy tố lên VKSND. CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh căn cứ vào kết
quả điều tra vụ án, xác định tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị can và
mức độ thiệt hại của bị hại để áp dụng biện pháp bảo đảm bồi thường bằng cách
phong tỏa tài sản của bị can trong các ngân hàng, niêm phong các tài sản của bị can
có giá trị (nhà cửa, xe, tài sản khác…) nhằm đảm bảo bồi thường cho bị hại khi bản
án của tòa án có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, đối với các trường hợp bị can không
có tài sản thì công tác bảo đảm bồi thường thiệt hại cho bị hại không thực hiện được.
Bên cạnh đó, một số ĐTV của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh cho rằng, vấn
đề “bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường” là vấn đề “dân sự” trong vụ
án hình sự, là trách nhiệm của Tòa án chứ không phải trách nhiệm của CQĐT. Cũng
như quyền đề nghị hình phạt, quyền đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo
đảm bồi thường được bị hại thực hiện trong các vụ án khác nhau, dựa trên nhận thức,
tình cảm, tâm lí, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra đối với bị hại. có trường hợp
“không đề nghị bồi thường” (như bị hại là Đặng Thị Hồng không yêu cầu Trần Thị
Bình, Bùi Thị Hợp, Nguyễn Thị Tĩnh, Đoàn Thị Hoa bồi thường thiệt trong vụ án
“mua bán người” xảy ra trên huyện Hoành Bồ, Tỉnh Quảng Ninh (năm 2017) [12];
có trường hợp đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng phải bồi thường thiệt hại
(như đại diện hợp pháp của cháu Nguyễn Diệu Thúy là chị Trường Anh không yêu
cầu tăng năng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can Cao Xuân Nhiệm và đề
51
nghị Cao Xuân Nhiệm phải bồi thường thiệt hại về mặt tinh thần, sức khỏe cho cháu
Nguyễn Diệu Thúy là 200.000.000 đồng trong vụ án “Hiếp dâm trẻ em” xảy ra trên địa
bàn Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh (năm 2017) [13].
Một số trường hợp bị can và bị hại có sự thỏa thuận bồi thường thiệt hại để bị
hại đề nghị CQĐT giảm hình phạt, hoặc gây sức ép bị hại như một điều kiện để được
hưởng tình tiết giảm nhẹ hoặc ngược lại.
(4) Các quyền khác của bị hại:
Cùng các quyền trên, thì bị hại được thực hiện các quyền sau:
- Đề nghị giám định, định giá tài sản theo quy định của pháp luật.
Đối với quyền này của bị hại, qua công tác tọa đảm, phỏng vấn các ĐTV của
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh cho biết: CQĐT tiếp nhận đề nghị giám định, định
giá tài sản theo quy đinh của bị hại chủ yếu tập trung trong các vụ án:
+ Vụ án về xâm phạm về sức khỏe (giết người, cố ý gây thương tích), danh
dự, nhân phẩm ( hiếp dâm): bị hại yêu cầu trưng cầu giám định lại về tỷ lệ thương
tích, nguyên nhân dân chết của nạn nhân..
+ Đối với các vụ yêu cầu định giá tài sản: từ năm 2014 đến nay, cơ quan điều tra
Công an Tỉnh Quảng Ninh chưa tiếp nhận yêu cầu nào của bị hại về định giá tài sản.
- Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
- Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định,
người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật: Theo kết quả thống kê của
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh, từ năm 2014-2018, bị hại đã đề nghị cơ quan điều
tra Công an tỉnh Quảng Ninh thay đổi 02 trường hợp ĐTV thụ lí vụ án do bị hại có
căn cứ xác định ĐTV tiến hành công tác điều tra không khách quan trong quá trình
điều tra vụ án.
Thực hiện các quyền trên của bị hại, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh tiến
hành các bước cơ bản sau:
+ Tiếp nhận đơn đề nghị, yêu cầu của bị hại.
+ Nghiên cứu, đánh giá đề nghị, yêu cầu của bị hại.
+ Thông báo nội dung đề nghị, yêu cầu của bị hại đến Viện kiểm sát, báo cáo
lãnh đạo Công an tỉnh về nội dung này và xin ý kiến chỉ đạo.
+ Phối hợp với cơ quan trưng cầu giám định, định giá tài sản để thực hiện yêu cầu.
+ Ra quyết định thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám
52
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật…
+ Thông báo kết quả xử lí đề nghị, yêu cầu của bị hại bằng văn bản đến bị hại,
lãnh đạo Công an tỉnh và VKSND.
2.2.3.2. Thực hiện về nghĩa vụ của bị hại
(1) Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách
quan thì có thể bị dẫn giải;
Việc triệu tập bị hại được CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thực hiện theo Bộ
luật TTHS năm 2015, theo đó, thẩm quyền ký giấy triệu tập bị hại là ĐTV (Điều 37)
và nghĩa vụ của bị hại “Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng” quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 62 Bộ luật TTHS năm 2015. Theo quy
định, khi tiến hành hoạt động tố tụng không sử dụng Giấy mời mà chỉ duy nhất giấy
triệu tập. Tuy nhiên, để phục vụ công tác điều tra vụ án một cách nhanh chóng, hiệu
quả, ĐTV Công an tỉnh Quảng Ninh đã “linh hoạt” sử dụng giấy triệu tập bằng hai
hình thức “Giấy mời” và “Giấy triệu tập”. ĐTV của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
căn cứ đặc điểm nhân thân, mối quan hệ, đặc điểm tâm lí của bị hại mà gửi giấy triệu
tập bị hại được thực hiện theo mẫu tố tụng “Giấy triệu tập” hoăc “Giấy mời”. Khảo
sát các vụ án do CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thụ lí thì 100% các vụ án có bị hại
thì CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đều thực hiện gửi giấy triệu tập bị hại để lấy lời
khai bị hại.
Trường hợp gửi “Giấy triệu tập” đối với bị hại mà CQĐT có căn cứ xác định
bị hại không hợp tác với ĐTV, CQĐT trong điều tra vụ án hình sự; có thái độ tích
cực cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng không đầy đủ, chính xác, kịp thời, thổi
phổng sự thật hoặc cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng theo hướng có lợi cho bị
can; đối với trường hợp bị hại đã được CQĐT gửi “Giấy mời” nhưng cố ý vắng mặt
không vì lý do bất khả khắng hoặc không do trở ngại khách quan, CQĐT xét thấy
chưa cần thiết áp dụng biện pháp “dẫn giải” thì sử dụng gửi “Giấy triệu tập” để triệu
tập bị hại.
Đối với trường hợp bị hại có lí lịch, đặc điểm nhân thân tốt, có trình độ, học
vấn, là người có uy tín, địa vị trong xã hội và có thái độ tích cực phối hợp cơ quan
điều tra trong giải quyết vụ án hình sự thì CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh sử dụng
“Giấy mời” để triệu tập bị hại.
Thông qua việc trao đổi, tọa đàm với các ĐTV đều sử dụng cả hai hình thức
53
trên. Tuy nhiên, đối với hình thức “Giấy triệu tập” thì bị hại tỏ ra không thoải mái,
không hài lòng, thậm chí còn có những phản ứng với việc bị CQĐT “triệu tập” vì bị
hại cho rằng bản thân bị hại là bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm
gây ra, bị hại có quyền được CQĐT, các cơ quan nhà nước khác bảo vệ, vì vậy khi bị
“triệu tập’ thì không phân biệt rõ ràng giữa bị hại và tội phạm, khiến bị hại đến CQĐT,
làm việc với ĐTV trong tâm trạng nặng nề, không thoải mái, thậm chí có suy nghĩ
tiêu cực, ảnh hưởng đến việc phối hợp cùng CQĐT trong điều tra vụ án hình sự mà
bị hại có liên quan.
Để khắc phục tình trạng này và tạo điều kiện thuận lợi cho bị hại có mặt theo
giấy triệu tập, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh nghiên cứu đặc điểm nhân thân, tâm
lí, thái độ làm việc giữa bị hại và CQĐT trong điều tra vụ án. Phối hợp với Công an
huyện, Công an xã nơi bị hại ở, làm việc để gửi giấy triệu tập đến bị hại; nắm bắt tâm
tư, thái độ, điều kiện đi lại. CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh nghiên cứu địa điểm
gặp gỡ bị hại tại: (1) CQĐT hoặc tại địa điểm mà CQĐT bố trí để gặp gỡ bị hại. (2)
ĐTV đến nơi ở, nơi làm việc của bị hại. Việc ĐTV triệu tập bị hại làm việc tại nơi ở,
nơi làm việc hoặc tại bệnh viện, trụ sở ủy ban nhân dân xã nơi bị hại cư trú tạo cho
bị hại có tâm lí thoải mái hơn trong giao tiếp, mạnh dạn trong việc bộc lộ suy nghĩ,
cung cấp thông tin, tài liệu một cách rành mạch, logic. Tuy nhiên, hình thức này có
khó khăn nhất định đối với ĐTV về chi phí đi lại, lưu trú, điều kiện tổ chức lấy lời
khai bị hại.
Đối với trường hợp bị hại không có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng thì CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh áp dụng biện pháp “dẫn
giải”. Dẫn giải không phải là một khái niệm mới mà đã được Bộ luật TTHS năm 2003
quy định như là một biện pháp cưỡng chế để bảo đảm cho hoạt động khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử được diễn ra theo đúng trình tự, quy định của pháp luật tố tụng mà
không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. Biện pháp dẫn giải
không chỉ được áp dụng đối với người làm chứng mà còn có thể được áp dụng đối
với người bị hại, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (trong các trường hợp
cụ thể theo khoản 2 điều 127 Bộ luật TTHS năm 2015). Từ năm 2014- 2018, CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành “dẫn giải” 12 bị hại/10 vụ án (08 vụ án tội cố
54
ý gây thương tích, 01 vụ án tội hiếp dâm, 01 vụ án tội cưỡng dâm). Việc áp dụng biện
pháp “dẫn giải” bị hại được CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thực hiện bằng các hoạt
động cụ thể:
- Xác định thẩm quyền quyết định biện pháp dẫn giải: Theo Điều 126 Bộ luật
TTHS năm 2015 đã bổ sung không chỉ có cơ quan mà “người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải…” và khoản 3 Điều 127 cũng
đã quy định cụ thể người có thẩm quyền quyết định dẫn giải là “ĐTV, cấp trưởng của
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử”. Việc mở rộng thẩm quyền ra quyết định áp
dụng biện pháp áp giải, dẫn giải đã giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng có thể áp dụng linh hoạt hơn, giúp cho quá trình giải quyết các vụ án
hình sự được thuận lợi và nhanh chóng.
- Xác định trường hợp áp dụng biện pháp “dẫn giải”: là khi bị hại cố ý vắng
mặt không vì lí do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan. Thực tế tại địa
bàn tỉnh Quảng Ninh, trường hợp CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh áp dụng biện pháp
“dẫn giải” bị hại trong các vụ án cố ý gây thương tích, tội hiếp dâm, tội cưỡng dâm.
Qua khảo sát các trường hợp áp dụng biện pháp dẫn giải bị hại chủ yếu tập trung các
vụ án cố ý gây thương tích mà bị hại từ chối giám định sức khỏe nhưng các cơ quan
tiến hành tố tụng không cưỡng chế được, làm cho việc xử lý vụ án bị kéo dài hoặc đi
vào bế tắc. Bị hại từ chối giám định thương tích do nhiều nguyên nhân. Có trường
hợp do giữa bị hại và đối tượng gây án có mối quan hệ gia đình, họ hàng (anh, em
ruột, vợ chồng…) hoặc có mối quan hệ hàng xóm, láng giềng, nên bị hại từ chối giám
định thương tích. Có trường hợp do bị hại và đối tượng phạm tội có sự thỏa thuận, tự
hòa giải, bồi thường mà không đi giám định thương tích; hoặc do bị hại hoặc người
thân của bị hại bị đối tượng đe dọa, mua chuộc … nên lo sợ cho tính mạng bản thân,
gia đình mà không hợp tác với CQĐT, tự thỏa thuận bồi thường dân sự, viết đơn từ
chối giám định thương tích hoặc kéo dài thời gian đi giám định thương tích để gây
khó khăn cho việc xử lý, điều tra vụ án của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh.
- Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị hại và người có đại diện hợp pháp, người
thân bị hại, khi tham gia TTHS; động viên, khuyến khích sự tự giác, tích cực của bị hại
55
trong điều tra vụ án hình sự mà bị hại là người tham gia tố tụng trong vụ án.
- Không áp dụng biện pháp dẫn giải bị hại vào ban đêm; không dẫn giải bị hại
là người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế.
- Phối hợp với Công an xã, Công an cấp huyện (trường hợp CQĐT Công an tỉnh
ra quyết định áp dụng biện pháp dẫn giải) để tổ chức áp giải bị hại một cách an toàn,
không gây ảnh hưởng đến tình hình ANTT trên địa bàn; hạn chế tối đa việc áp dụng “dẫn
giải” bị hại nhằm không ảnh hưởng đến sức khỏe, uy tín, danh dự của bị hại.
(2) Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng.
Để bị hại có thể thực hiện “nghĩa vụ” chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, ĐTV, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
đã tiến hành các hoạt động:
- Thông báo đến bị hại về các quyết định liên quan đến khởi tố vụ án, khởi tố
bị can, quyết định về tư cách người tham gia tố tụng của bị hại.
- Giải thích quyền và nghĩa vụ của bị hại khi tham gia TTHS.
- Thông báo các quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng đến bị hại và yêu cầu bị hại thực hiện đầy đủ.
- Phối hợp với chính quyền địa phương, Công an xã, Công an huyện thực hiện
công tác nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, thái độ của bị hại có liên quan điều tra vụ án;
xác định trình độ, nhận thức, khả năng tư duy, trình bày, ghi nhớ về các tình tiết có ý
nghĩa điều tra vụ án. phối hợp với người thân, đồng nghiệp bị hại động viên, khuyến
khích bị hại tích cực hợp tác với ĐTV, CQĐT trong quá tham gia điều tra vụ án với
tư cách là bị hại.
Nhìn chung, trong vụ án do CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thụ lí, bị hại cơ
bản chấp hành các quyết định, yêu cầu của ĐTV, CQĐT: Quyết định về tội danh khởi
tố vụ án, khởi tố bị can, thực hiện vị trí, vai trò về trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ
của bị hại theo TTHS… Tuy nhiên, thực tế một số bị hại đã không chấp hành chấp
hành các quyết định, yêu cầu của ĐTV, CQĐT như: không cung cấp thông tin, tài
liệu, vật chứng theo yêu cầu của ĐTV, không thực hiện; từ chối tham gia lấy lời khai,
từ chối giám định, thậm chí tỏ thái độ bất hợp tác với các cơ quan tố tụng với lý do
trình bày là có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Vấn đề đặt ra ở đây là theo khoản
1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 và Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về
56
“quyền bất khả xâm phạm về thân thể” thì cơ quan thực hiện việc giám định không
thể tiến hành giám định, gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án, như trong vụ án
“Cố ý gây thương tích” do CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh khởi tố đối với bị can
Bùi Anh Tuấn (năm 2017), Quá trình điều tra, CQĐT đã xác định bị can Bùi Anh
Tuấn đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” khi bị can dùng dao nhọm gây thương tích
cho anh Trần Duy Thanh (kết quả giám định tỷ lệ tổn thương sức khỏe là 12%). Tuy
nhiên, đối với trường hợp chị Phạm Thị Hoa và chị Phạm Thị Hậu khai nhận chị Hoa
bị anh Trần Duy Thanh dùng chân đạp vào người, quá trình điều tra chị Hoa không
hợp tác làm việc, không đi khám thương tích nên CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
không có căn cứ để xử lí [14].
2.3. Nhận xét, đánh giá chung
2.3.1. Kết quả đạt được
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Ban Giám đốc Công an tỉnh, CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh, đã thực hiện đầy đủ, có trách nhiệm, đạt hiệu quả trong
điều tra tội phạm theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, đảm bảo yêu cầu chính trị,
nghiệp vụ, pháp luật, không xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Kết quả công tác
điều tra vụ án hình sự của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã từng bước ngăn chăn,
đẩy lùi tội phạm trên địa bàn tỉnh, góp phần đảm bảo ANTT và xây dựng niềm tin,
sự ủng hộ của quần chúng nhân dân đối với quá trình vụ án hình sự, làm cơ sở để phát
huy tính tích cực của bị hại trong quá trình điều tra vụ án hình sự.
Quan hệ phối hợp giữa CQĐT và Viện Kiểm sát nhân dân được tổ chức thực
hiện chặt chẽ, góp phần đảm bảo ĐVPL của bị hại trong điều tra vụ án hình sự do
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thực hiện.
Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị hại đã
được Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT chỉ đạo thực hiện nghiêm túc; công tác giám
sát kiểm tra của Viện kiểm sát được đảm bảo thực hiện; vai trò của quần chúng nhân
dân trong giám sát hoạt động tố tụng của CQĐT được phát huy. Cơ sở vật chất và
điều kiện từng bước đáp ứng đảm yêu cầu công tác điều tra tội phạm và công tác bảo
đảm ĐVPL của bị hại.
Trong hoạt động tham gia tố tụng, bị hại đã được CQĐT Công an tỉnh Quảng
Ninh giải thích và thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của bị hại theo quy định của
57
pháp luật. Đến nay, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh chưa để xảy ra trường hợp nào
vi phạm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị hại. Trong một số vụ án, CQĐT Công
an tỉnh Quảng Ninh đã tạo điều kiện thuận lợi để luật sư, người đại diện hợp pháp của
bị hại thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật như trong vụ án
“Giết người” do bị can Hoàng Văn Tướng và Đinh Văn Quy dùng tay, chân đánh anh
Lê Văn Hoạt, hậu quả làm anh Hoạt tử vong. Gia đình anh Lê Văn Hoạt đã mời luật
sư Đặng Quốc Anh- Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ninh bảo vệ quyền lợi cho anh Hoạt
trước pháp luật. CQĐT đã cung cấp thông tin, tài liệu liên quan vụ án, tạo điều kiện
để luật sư Đặng Quốc Anh tham gia hỏi cung bị can, thực hiện đề nghị trưng cầu giám
định lại nguyên nhân chết của anh Hoạt và đề nghị mức bồi thường cho bị hại [11].
2.3.2. Một số hạn chế, khó khăn và nguyên nhân
2.3.2.1. Một số hạn chế, khó khăn
- Quá trình thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của bị hại, ĐTV còn thực hiện
đơn giản, trong khi tiếp xúc với bị hại, thái độ của một số ĐTV chưa được chuẩn mực;
thông báo nội dung một cách hình thức, không thiết lập được quan hệ tâm lí tốt với bị
hại, gây ra tâm lí lo lắng, căng thẳng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc trình bày lời khai,
cung cấp thông tin, tài liệu, vật chứng một cách cụ thể, rõ ràng. Một số ĐTV không giải
thích cụ thể các quyền và nghĩa vụ, đôi khi không xác định được ý nghĩa, vai trò của hoạt
động này trong điều tra nên dẫn tới hiệu quả việc thông báo, giải thích quyền và nghĩa
vụ không đạt yêu cầu, bị hại không xác định được ĐVPL của bản thân trong tố tụng hình
sự, nên khi tham gia điều tra vụ án chỉ chú ý thực hiện “quyền” và ít quan tâm thực hiện
“nghĩa vụ”.
- Xác định sai tư cách của bị hại: Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tùy
thuộc và kết quả chứng minh, tư cách tố tụng của người tham gia có thể thay đổi
nhưng điều đáng nói ở đây là, thực tế cơ quan tiến hành tố tụng khá “tùy tiện” trong
việc công nhận và thay đổi tư cách tố tụng của người tham gia tố tụng từ bị hại sang
nguyên đơn dân sự, người làm chứng hay người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến
vụ án tuy CQĐT Công an tỉnh Quảng đã giải thích hay thông báo để bị hại chủ động
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. việc xác định sai tư cách tố
tụng của người bị hại gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, trong
một số trường hợp bị hại từ chối không nhận mình là bị hại như trong vụ án lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh (năm 2018), bị hại
58
Trần Anh Huy khi được CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh triệu tập lên CQĐT lấy lời
khai với tư cách là “bị hại” thì Trần Anh Huy phản ứng, không công nhận bản thân là bị
hại. Qua tìm hiểu, CQĐT xác định nguyên nhân do: Trần Anh Huy và bị can Phạm Thị
Ngọc Bích là có quan hệ gia đình Bị can là bác họ của anh Huy) và có sự thỏa thuận về
bồi thường thiệt hại giữa bị can và bị hại [9].
- Việc áp dụng biện pháp “dẫn giải” bị hại gặp những khó khăn nhất định.
- Quá trình lấy lời khai bị hại, thu thập tài liệu chứng cứ của bị hại, ĐTV CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh chỉ tập trung vào thu thập, đánh giá, kiểm tra tính chính xác,
tính liên quan của thông tin, tài liệu, chứng minh về hành vi phạm tội của bị can, ít tập
trung thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến quyền lợi chính đáng của bị hại.
- Do nhận thức, trình độ, tư duy và khả năng ghi nhớ, trình bày của bị hại còn
những hạn chế nên quá trình cấp thông tin, tài liệu, vật chứng do bị hại cung cấp
thường tản mạn, rời rạc, thiếu tính logic gây khó khăn cho ĐTV trong công tác xác
minh, liên kết, đánh giá thông tin, tài liệu, vật chứng này.
- Hiệu quả phối hợp giữa CQĐT và Viện kiểm sát còn những khó khăn trong
việc xác định tội danh khởi tố vụ án, khởi tố bị can, trong xác định tư cách người
tham gia tố tụng (người làm chứng, bị hại). Công tác giám sát, kiểm tra của VKSND
tỉnh còn mang tính “thụ động” chủ yếu CQĐT Công an tỉnh hoàn thiện hồ sơ vụ án,
chuyển hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn mà thiếu sự giám sát, kiểm tra hoạt
động điều tra thường xuyên.
2.3.2.2. Nguyên nhân:
- Kiến thức pháp luật, tính tích cực, tự giác tham gia đấu tranh, phòng, chống
tội phạm và công tác điều tra tội phạm của nhân dân còn hạn chế.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng công tác bảo đảm ĐVPL của
bị hại trong hoạt động TTHS của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đó là nhận thức
pháp luật của nhân dân còn hạn chế. Nhân dân chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm,
nghĩa vụ của công dân trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm, nhất là công
tác tố giác tội phạm, dẫn đến tình trạng nhân dân biết tội phạm xảy ra, gây thiệt hại
cho xã hội, thậm chí là chính bản thân mà vì những lí do khách quan, chủ quan, trong
đó có nguyên nhân từ kiến thức pháp luật, xem công tác phòng, chống tội phạm là
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, lực lượng Công an và những người có liên
quan mà không thông báo, tố giác tội phạm kịp thời, để tội xảy ra, đối tượng bỏ trốn,
59
tẩu tán tài liệu, vật chứng… gây khó khăn đối với công tác điều tra vụ án của CQĐT.
- Tổ chức bộ máy CQĐT trong lực lượng Công an còn những bất cập.
Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp đến nay, CQĐT trong
Công an nhân dân đã có những bước chuyển biến tích cực cả về tổ chức và hoạt động,
hiệu quả điều tra ngày càng được nâng cao. Tổ chức hệ thống CQĐT theo mô hình
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004, đến nay đã ổn định, thực hiện việc
phân công, phân cấp, phân quyền điều tra theo luật định; các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng đã được củng cố và từng bước đi
vào nền nếp. Đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra đã được tăng cường về số lượng và chất
lượng, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… Tuy nhiên, so với yêu cầu của cải cách
tư pháp, thì những đổi mới về CQĐT trong Công an nhân dân thời gian qua chưa đáp
ứng yêu cầu thực tiễn. Bộ máy CQĐT còn cồng kềnh do được tổ chức ở nhiều cơ quan
khác nhau, nhiều tầng nấc, vận hành chưa thật nhịp nhàng, chưa đáp ứng yêu cầu kịp
thời trong công tác điều tra và công tác phòng, chống tội phạm. Hoạt động điều tra, xử
lý tội phạm hiện nay vẫn bộc lộ những sơ hở, thiếu sót, sai phạm. Việc phối hợp giữa các
đơn vị trong CQĐT Công an các cấp xuất hiện xu hướng chia cắt, làm giảm sức mạnh
của cả hệ thống CQĐT; công tác chỉ đạo của một số đơn vị có hiện tượng thoát ly khỏi
sự quản lý theo chức năng quản lý về hoạt động tố tụng của Thủ trưởng CQĐT và Thủ
trưởng cơ quan Công an cùng cấp; tình trạng để lộ lọt thông tin, tài liệu điều tra trong
quá trình tiến hành tố tụng vẫn xảy ra, có thời điểm rất phức tạp, tạo ra những khó khăn
nhất định trong công tác điều tra vụ án hình sự và công tác bảo đảm ĐVPL của người
tham gia tố tụng, trong đó có bị hại.
Mô hình CQĐT hiện nay không tạo được tính chế ước lẫn nhau giữa khâu trinh
sát và hoạt động điều tra tố tụng do chưa quy định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của
lực lượng trinh sát và ĐTV. Hai hoạt động này được khép kín trong một đơn vị điều
tra, nếu không quản lí chặt chẽ dễ nảy sinh tiêu cực; tình hình tội phạm có những diễn
biến phức tạp, có thời điểm tội phạm gia tăng đột biến dẫn đến tình trạng CQĐT tập
trung nhiều vào việc điều tra, xử lí vụ án mà chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động
phòng ngừa tội phạm.
- Vai trò của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT chưa được phát huy tối đa
60
trong công tác đảm bảo ĐVPL bị hại.
Trong hoạt động điều tra vụ án hình, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT đã được quy định tại Điều 34 của Bộ luật TTHS
năm 2003 và sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 36 Bộ luật TTHS năm 2015 nhằm bảo
đảm phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể này trên thực tế hiện nay. Qua thực tế
điều tra vụ án, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh đã phát huy
vai trò trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và thực hiện các hoạt động điều tra của
cơ quan, góp phần quan trong trọng việc làm sáng tỏ sự thật vụ án hình sự. Tuy nhiên, vai
trò của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT chưa được phát huy tối đa trong công tác đảm
bảo ĐVPL bị hại do Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT vừa thực hiện chức danh quản lý
hành chính nhà nước (người đứng đầu đơn vị) vừa là chức danh tư pháp của CQĐT theo
quy định Bộ luật TTHS nên quá trình điều tra vụ án, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng chủ yếu
thực hiện chức năng “tổ chức và chỉ đạo”; phân công ĐTV và thực hiện các chức năng tư
pháp theo quy định mà ít trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể (lấy lời khai bị hại, thu
thập, xác minh thông tin tài liệu, vật chứng do bị hại cung cấp…) mà giao toàn bộ hoạt
động này cho ĐTV, cán bộ điều tra. Cho nên, dẫn đến tình trạng những vi phạm của ĐTV,
cán bộ điều tra không được phát hiện, khắc phục kịp thời, làm ảnh hưởng trực tiếp đến
ĐVPL của bị hại.
- Đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh còn những
hạn chế.
Về số lượng: Biên chế cán bộ, chiến sỹ ở Công an cấp huyện đang thiếu so với
yêu cầu thực tiễn. Hằng năm, kế hoạch biên chế số lượng cán bộ, chiến sỹ cho từng
địa phương do Bộ ấn định, trong khi đó tình hình tội phạm, an ninh trật tự diễn biến
phức tạp, số vụ phạm pháp mà CQĐT các cấp xử lí tăng lên. Thẩm quyền điều tra,
xử lí các vụ án cũng tăng theo quy định pháp luật dẫn đến số vụ điều tra thuộc thẩm
quyền CQĐT các cấp, nhất là CQĐT Công an cấp huyện ngày càng nhiều, dẫn đến
tình trạng một ĐTV cùng lúc xử lí nhiều vụ án.
Về năng lực đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra: Mặc dù thời gian qua, Bộ Công an,
Công an tỉnh Quảng Ninh đã chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, bồi dưỡng lại
đối với đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra ở CQĐT các cấp trên địa bàn tỉnh, nhưng so với
yêu cầu thực tiễn điều tra tội phạm thì chưa đáp ứng được. Số lượng ĐTV có kinh
nghiệm điều tra ít (so với yêu cầu), số lượng cán bộ điều tra chưa được bổ nhiệm
61
ĐTV còn chiếm tỷ lệ cao dẫn đến kinh nghiệm điều tra vụ án còn hạn chế. Đa số
ĐTV CQĐT công an tỉnh Quảng Ninh không sử dụng thành thạo ngoại ngữ và tiếng
dân tộc, dẫn đến khó khăn trong công tác lấy lời khai bị hại là người nước ngoài, người
dân tộc thiểu số; công tác thuyết phục, giáo dục, phụ thuộc vào đội ngũ phiên dịch viên;
đồng thời, kiến thức pháp luật quốc tế còn hạn chế, làm cho công tác phối hợp quốc tế
trong điều tra tội phạm chưa đạt yêu cầu nên hiệu quả điều tra vụ án có bị hại là người
nước ngoài. Đối với công tác bảo đảm ĐVPL của bị hại còn một bộ phận ĐTV, cán bộ
điều tra nhận thức không đầy đủ về ĐVPL của bị hại trong TTHS, không đề cao vai trò
của bị hại trong điều tra vụ án hình sự, xem nhẹ công tác bảo đảm “quyền” của bị hại,
mà chỉ tập trung thực hiện “nghĩa vụ” của bị hại.
- Nhận thức về công tác phối hợp trong điều tra vụ án hình sự trên địa bàn
của các cơ quan, ban, ngành, nhân dân còn hạn chế.
Công tác phối hợp thực điều tra vụ án hình sự trên địa bàn của các cơ quan,
ban, ngành, nhân dân là một biện pháp quan trọng nhằm huy động sức mạnh toàn dân
tham gia đấu tranh, phòng, chống tội phạm, cũng như bảo đảm ĐVPL của bị hại. Tuy
nhiên, trong quá trình triển khai, các cơ quan, ban, ngành ngoài lực lượng Công an
có tư duy “khoán trắng” cho lực lượng Công an nói chung, CQĐT Công an tỉnh
Quảng Ninh nói riêng cho nên không huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính
trị, đặc biệt ở cơ sở. Điều kiện phương tiện, kinh phí tổ chức công tác phối hợp còn
ít, thậm chí là không tổ chức phối hợp. Quần chúng nhân dân đại đa số có tâm lí e
ngại trước tội phạm, phối hợp với CQĐT, dẫn đến một bộ phận quần chúng nhân dân
thờ ơ, thiếu trách nhiệm trong việc tham gia công tác phòng, chống tội phạm, hiệu
quả công tác đảm bảo ĐVPL của bị hại gắn liền công tác phòng, chống tội phạm còn
hạn chế, khó khăn.
- Hệ thống pháp luật liên quan bảo đảm ĐVPL đã được hoàn thiện, có nhiều
nội dung tiến bộ, tuy nhiên vẫn có những bất cập.
Mặc dù so với Bộ luật TTHS năm 2003 thì Bộ luật TTHS năm 2015 đã có
điểm đổi mới, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác điều tra tội phạm và công
tác bảo đảm ĐVPL của bị hại nhưng thực tiễn áp dụng còn khó khăn, vướng mắc do
những quy định trong Bộ luật TTHS chưa cụ thể, bám sát thực tiễn hiện nay, như: Bộ
luật TTHS năm 2015 chưa có quy định về thủ tục đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho bị hại là người bị Tòa án tuyên bố mất, hạn chế năng lực hành vi dân
62
sự; có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Bộ luật TTHS năm 2015 ngoài quy định về thủ tục đăng ký bào chữa thì không
quy định về thủ tục đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị hại. Điều này đã làm
cho người đại diện của bị hại là người có khó khăn nhận thức, làm chủ hành vi; mất
hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự muốn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại
nhưng họ không biết phải làm như thế nào. Vì vậy mà trong thực tế các cơ quan tiến
hành tố tụng thường vận dụng tương tự như quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 để tiến hành thủ tục đăng ký bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị hại (trong đó
có bị hại là người bị Tòa án tuyên bố mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự; có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi).
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của luận văn đã trình bày, phân tích về đặc điểm địa bàn, tình hình
tội phạm và tổ chức CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh nhằm đưa ra những vấn đề thực
tiễn có liên quan đến công tác áp dụng các quy định pháp luật về bảo đảm địa vị pháp
lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Với nội dung trọng tâm của Chương 2 đánh giá về thực trạng công tác áp dụng
các quy định của pháp luật TTHS về ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh,
luận văn đã trình bày, đánh giá thực trạng công tác đảm bảo ĐVPL của bị hại của
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thực hiện trên nội dung về quyền và nghĩa vụ của
bị hại trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Trên cơ sở phân tích các nội dung trên, Chương 2 đã đưa ra những đánh giá
về kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, khó khăn và nguyên nhân trong
công tác đảm bảo ĐVPL của bị hại. Những kết quả nghiên cứu, phân tích ở Chương
2 là cơ sở để luận văn đưa ra các dự báo, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả công tác đảm bảo ĐVPL của bị trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong Chương 3
63
của luận văn.
Chương 3
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
CÓ HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA BỊ HẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
3.1. Dự báo về tình hình có liên quan công tác bảo đảm thực hiện có hiệu
quả các quy định về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
3.1.1. Dự báo tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Với địa bàn giáp biên giới, là trung tâm phát triển kinh tế của các tỉnh phía
Bắc và cẩ nước, thời gian tới Quảng Ninh tiếp tục có những đóng góp quan trọng
trong sự phát triển kinh tế đất nước. Với điều vị trí địa lí, tự nhiên thuận lợi cho Quảng
Ninh phát triển , đồng thời, đây là địa bàn có nhiều điều kiện thuận lợi để tội phạm
tồn tại, hoạt động, nổi lên một số vấn đề cần chú ý, đó là:
Do bị tấn công, trấn áp mạnh nên hoạt động của tội phạm có tổ chức trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh sẽ không còn công khai, trắng trợn nhưng vẫn tiềm ẩn tính phức
tạp, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi hơn, tìm mọi cách để che giấu hành vi phạm
tội, nhất là núp dưới vỏ bọc các doanh nghiệp, nên việc phát hiện xử lí gặp nhiều khó
khăn, việc xác định bị hại trong vụ án không dễ dàng. Tình trạng các băng , nhóm lưu
manh, côn đồ, tụ tập thanh toán, trả thù lẫn nhau, gây rối trật tự công cộng vẫn sẽ diễn
ra phức tạp, xảy ra do nguyên nhân xã hội là chủ yếu, gây tâm lí lo lắng, hoang mang
đến một bộ phận nhân dân, từ đó việc công tác phát huy vai trò của quần chúng nhân
dân tham gia đấu tranh, tố giác tội phạm gặp nhiều khó khăn.
Tội phạm mua bán người tiếp tục diễn ra phức tạp, xảy ra chủ yếu tại các địa
bàn giáp biên giới Trung Quốc, vùng sâu vùng xa, nơi đời sống nhân dân gặp nhiều
khó khăn, trình độ văn hóa, kiến thức pháp luật còn hạn chế, các vùng đồng bào dân
tộc thiểu số còn có hủ tục lạc hậu (trong tội phạm mua bán người chủ yếu bán sang
Trung Quốc, nạn nhân không chỉ là phụ nữ, trẻ em mà cả nạn nhân là nam giới, trẻ
sơ sinh, trẻ trong bào thai).
Tội phạm sử dụng vũ khí, vật liệu nổ gây án gia tăng, đối tượng gây án hoạt
động manh động, liều lĩnh hơn, sẵn sàng chống trả quyết liệt khi bị bắt giữ. Tội phạm
trộm cắp tài sản có sự liên kết địa bàn hoạt động, hoạt động có tính lưu động, hình
thành các đường dây khép kín từ trộm cắp đến tiêu thụ tài sản, cho nên bị hại sẽ không
64
chỉ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh mà có bị hại là các tỉnh khác, thậm chí bị hại là người
nước ngoài. Đặt ra những thách thức đối với CQĐT trong quá trình điều tra vụ án nói
chung, quá trình thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ từ bị hại nói riêng.
Hoạt động tội phạm về cờ bạc, mại dâm vẫn diễn ra phổ biến ở nhiều nơi, nhất
là địa bàn giáp biên giới, địa bàn phát triển du lịch, địa bàn có người nước ngoài và tội
phạm sử dụng công nghệ cao (như đánh bạc, cá độ bóng đá qua Internet, làm giả thẻ
tín dụng, giả mạo danh nghĩa các tổ chức, cá nhân, cơ quan nhà nước để lừa đảo, chiếm
đoạt tài sản, tẩu tán tài sản ra nước ngoài qua các mua, bán sản phẩm hàng hóa trên
Internet, chuyển tiền ra nước ngoài qua dịch vụ trực tuyến của ngân hàng…) gây thiệt
hại lớn về tài sản cho nhân dân, cơ quan, doanh nghiệp, việc xác định tội phạm và đối
tượng thiệt hại (bị hại) của CQĐT gặp nhiều khó khăn.
Tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh vẫn chiếm
tỉ lệ thấp nhất trong cơ cấu tội phạm hằng nằm, đối với tội phạm này thì thường không
có bị hại.
Tội phạm về kinh tế có chiều hướng phát triển mạnh, mở rộng, liên kết hoạt
động phạm tội không chỉ trong phạm vi tỉnh Quảng Ninh mà ra cả nước và nước
ngoài; tội phạm kinh tế trong và ngoài các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục xuất hiện
nhiều thủ đoạn lừa đảo, chiếm dụng vốn qua việc cổ phần hóa doanh nghiệp, phá sản
giả tạo. Đặc điểm này sẽ đặt ra những khó khăn đối với CQĐT Công an tỉnh Quảng
Ninh trong điều tra tội phạm có tính pháp nhân, bị hại là cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp (pháp nhân).
Tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường nổi lên là vi phạm trong lĩnh
vực vệ sinh an toàn thực phẩm, vi phạm tiêu chuẩn bảo vệ môi trường trong các khu,
cụm công nghiệp, khu kinh tế, cơ sở sản xuất, chăn nuôi tập trung, vi phạm các quy
định về bảo vệ, khai thác tài sản tài nguyên khoáng sản (chủ yếu là khai thác trái phép
than),… Đối với tội phạm này thì trong vụ án của tội phạm này thì số lượng bị hại
thường đông, thuộc nhiều thành phần, trình độ khác nhau. Nên quá trình điều tra vụ
án, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh cần thu thập thông tin, tài liệu, thống kê số lượng
bị hại một cách đầy đủ, cụ thể, đảm bảo tính khách quan, toàn diện.
Một số tội phạm tiếp tục chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu tội phạm và có chiều
hướng gia tăng đó là tội buôn bán người, tội phạm về ma túy, tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản… đặc biệt là hoạt động tội phạm có tổ chức, tội phạm quốc tế, tội phạm xuyên
quốc gia, tội phạm do người nước ngoài thực hiện, hoạt động rộng trên nhiều địa bàn
65
trong nước và ngoài nước sẽ là thách thức, khó khăn trong công tác điều tra vụ án.
Từ đó, vấn đề đảm bảo ĐVPL của bị hại đối với CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh sẽ
gặp khó khăn, nhất là công tác xác định bị hại trong vụ án (đối với vụ án có nhiều bị
hại, vụ án có yếu tố nước ngoài, vụ án có tính chất xuyên quốc gia).
3.1.2. Dự báo yếu tố tác động đến công tác bảo đảm thực hiện quy định về
địa vị pháp lý bị hại
- Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện làm cơ sở pháp lý trong công tác
bảo đảm ĐVPL của bị hại khi tham gia TTHS.
Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và các nghị quyết, chỉ thị, nghị định, thông tư
hướng dẫn khác, hệ thống pháp luật liên quan công tác điều tra tội phạm, công tác
bảo đảm ĐVPL của người tham gia tố tụng nói chung, ĐVPL của bị hại nói riêng ở
nước ta ngày càng hoàn thiện. Theo đó, BLHS, Bộ luật TTHS, Luật Tổ chức CQĐT
hình sự và các luật khác liên quan sẽ được điều chỉnh, bổ sung nhằm khắc phục, sửa
chữa những khiếm khuyết, tăng tính chặt chẽ, xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể tham gia TTHS, đề cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, tăng
cường vai trò kiểm tra, giám sát và tham gia ngày càng sâu rộng của nhân dân trong
hoạt động TTHS; vai trò của người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị hại cũng
được quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ. Đồng thời, trong quan hệ hợp tác quốc tế,
sự điều chỉnh, bổ sung, thay đổi các văn bản quy phạm pháp luật liên quan công tác
TTHS, nhất là công tác điều tra tội phạm sẽ ngày càng phù hợp, chặt chẽ với luật hình
sự thế giới mà Việt Nam đã tham gia kí kết, hoặc thừa nhận, tạo điều kiện thuận lợi
cho quan hệ hợp tác trên phòng, chống tội phạm giữa nước ta với các quốc gia sẽ
được tăng cường trên nhiều hình thức, trong đó có việc tiếp tục kí kết các Hiệp định
tương trợ tư pháp hình sự, Hiệp định quan hệ song phương, các văn bản ghi nhớ giữa
Bộ Công an với các tổ chức cảnh sát các nước, với Interpol và Aseanpol. Đây sẽ là
cơ sở pháp lý quan trọng để CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh tiếp tục triển khai công
tác điều tra, phòng, chống tội phạm, có điều kiện đảm bảo ĐVPL của bị hại một cách
tốt nhất thời gian tới.
- Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, việc quy định rõ trách nhiệm nhiệm
vụ, quyền hạn của CQĐT, Viện kiểm sát, Toàn án sẽ là cơ sở pháp lý thuận để thực
hiện quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và các cơ quan tiến hành tố tụng được
66
nâng cao về chất lượng hiệu quả.
- Dự báo về tình hình, đặc điểm bị hại trong các vụ án hình sự trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh
Do tình hình tội phạm ở Quảng Ninh trong thời gian tới có nhiều diễn biến
phức tạp, một số tội phạm có chiều hướng gia tăng, tội phạm xảy ra ở nhiều địa bàn,
lĩnh vực khác nhau, thủ đoạn thực hiện hành vi của tội phạm ngày càng tinh vi, xảo
quyệt. Vì vậy, số bị hại trong các vụ án hình sự cũng sẽ tăng lên với các đặc điểm tâm
lí xã hội phức tạp ở nhiều loại, nhiều lĩnh vực khác nhau. Một số đặc điểm của bị hại
trong thời gian tới cần chú ý:
- Nhận thức của bị hại về quyền và nghĩa vụ theo các quy định của pháp luật
tố tụng tăng lên. Do kinh tế, xã hội ở Quảng Ninh trong thời gian tới có bước phát
triển mạnh, đời sống, trình độ văn hóa của nhân dân tiếp tục được nâng cao; công tác
tuyên truyền, giáo dục pháp luật được chú ý hơn và bước đầu có tác động tích cực
đối với nhân dân, bị hại sẽ tích cực tham gia quá trình điều tra vụ án hình sự.
- Bị hại trong các vụ án hình sự do CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh thụ lí sẽ
gồm nhiều thành phần xã hội khác nhau: có thể là công nhân, nông dân, viên chức,
công chức; bị hại ở thành thị, nông thôn, vùng sâu vùng xa, là người dân tộc thiểu số,
người nước ngoài… mỗi loại bị hại có đặc điểm riêng về nhận thức, thời gian sinh
hoạt, công tác, ý thức cộng tác với cơ quan điều tra. Đây là những yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình bảo đảm ĐVPL của bị hại.
- Một bộ phận bị hại trong các vụ án sẽ từ chối khai báo sự thật về vụ án do lo
sợ bị trả thù, đặc biệt trong các vụ án cố ý gây thương tích, giết người, hủy hoại tài
sản, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, lừa đảo chiếm đoạt tài sản… do tội phạm này
có tính chất nguy hiểm, hoạt động liều lĩnh, đối tượng phạm tội sử dụng nhiều thủ
đoạn để ngăn chặn, đe dọa bị hại và người thân bị hại để bị hại không thực hiện được
các quyền và nghĩa vụ của mình.
- Do quy mô một số tội phạm ngày càng gia tăng trên nhiều lĩnh vực, số bị hại
có quan hệ thân thuộc, phụ thuộc với bị can cũng sẽ gia tăng. tình trạng này làm cho
bị hại không khai báo đầy đủ, chính xác, kịp thời theo hướng có lợi cho bị can ngày
càng nhiều.
- Một bộ phận nhân dân còn gặp khó khăn về kinh tế, kiến thức pháp luật hạn
chế (địa bàn miền núi) dẫn đến tình trạng bị hại không nhận thức, thực hiện đầy đủ
67
các quyền và nghĩa vụ của bị hại trong công tác điều tra vụ án hình sự.
Như vậy, tính phức tạp của bị hại trong thời gian tới đã đặt ra những thách
thức đối với ĐTV, đòi hỏi ĐTV CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh cần trang bị kiến
thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ để thực hiện tốt nhất vừa đảm bảo ĐVPL bị hại
vừa thực hiện công tác điều tra vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời, không để xảy
ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội.
- Công tác kiến toàn tổ chức bộ máy CQĐT và xây dựng đội ngũ ĐTV của
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh.
Thực hiện Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, triển khai thực
hiện hành Nghị định số 01/2018/NĐ-CP ngày 06/8/2018 quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Bộ Công an, Công tác kiện toàn tổ chức bộ
máy Bộ Công an đang được tiếp tục tổ chức theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả, khắc phực tình trạng chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm ANTT và xây dựng lực
lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới được triển khai sâu, rộng tác động trực tiếp đến tất cả lực lượng, trong đó có tổ
chức CQĐT và lực lượng ĐTV, cán bộ điều tra Công an nhân dân. Công tác kiện toàn
tổ chức bộ máy CQĐT của lực lượng Công an nhân dân ngày càng hoàn thiện, theo
hướng thu gọn đầu mối, tăng cường CQĐT Công an cấp huyện, nhất là địa bàn vùng
sâu, vùng xa, địa bàn trọng điểm về bảo đảm ANTT.
Thực hiện nội dung Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính
trị về tinh giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, công tác
tinh giản biên chế trong công an từ nay đến năm 2020 thì số lượng ĐTV, cán bộ điều
tra của CQĐT Công an tỉnh có xu hướng giảm, số lượng ĐTV sơ cấp, điều tra viên
Trung cấp tăng lên không đáng kể nhưng giảm số lượng ĐTV cao cấp. Năng lực đội
ngũ ĐTV, cán bộ điều tra sẽ được nâng cao, nhất là năng lực điều tra tội phạm. Tuy
nhiên, trình độ ngoại ngữ của ĐTV, cán bộ điều tra của CQĐT vẫn còn hạn chế sẽ
gây ra khó khăn cho công tác điều tra tội phạm, công tác bảo đảm ĐVPL bị hại, nhất
là công tác bảo đảm ĐVPL là người nước ngoài, người dân tộc thiểu số. Một số nhận
thức hạn chế, tiêu cực của ĐTV đối với vai trò của bị hại trong điều tra vụ án vẫn còn
tồn tại, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác bảo đảm ĐVPL của bị hại.
Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy CQĐT và xây dựng đội ngũ ĐTV của CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh sẽ có tác động đến công tác đảm bảo ĐVPL của bị hại.
3.2. Giải pháp và kiến nghị bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quy định
68
về địa vị pháp lý của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
3.2.1. Giải pháp
3.2.1.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan bị hại và ĐVPL
của bị hại
Hiện nay, những quy định của pháp luật liên quan đến ĐVPL của bị hại trong
Bộ luật TTHS năm 2015 đã cơ bản đầy đủ, hoàn thiện hơn so với quy định tại Bộ luật
TTHS năm 2003. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, thực hiện vẫn những khó khăn,
vướng mắc do những quy định chưa được cụ thể hóa bằng các luật và văn bản hướng
dẫn thực hiện . Do đó, cần hoàn thiện những quy định pháp lý liên quan địa vị bị hại
trong TTHS theo định hướng cụ thể:
- Phải coi việc bảo đảm quyền con người nói chung, quyền của bị hại trong
TTHS nói riêng là nhiệm vụ chung của cả hệ thống pháp luật nước ta. Bảo đảm quyền
của bị hại trong TTHS dựa trên những nguyên tắc đã được thừa nhận về mặt quốc tế
như quyền sống, quyền được hưởng tự do và an ninh cá nhân; có sự mở rộng hơn nữa
quyền của bị hại trên cơ sở các nguyên tắc hiến định như tôn trọng và bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân; bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư
tín, điện thoại, điện tín của công dân; quyền bào chữa; quyền tố cáo đối với những
hành vi trái pháp luật.
- Khi bổ sung những quy định về bảo đảm quyền của bị hại trong Bộ luật
TTHS phải tuân theo các mục tiêu: Phản ánh được nền dân chủ XHCN, đảm bảo đúng
mục tiêu coi con người và lợi ích của con người luôn là trọng tâm của mọi chính sách
và pháp luật. Trong TTHS phải coi trọng và xác định vị trí, vai trò của bị hại góp
phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm; phải đảm bảo cho bị hại phát huy
quyền làm chủ và bảo đảm các quyền tự do.
- Bảo đảm ĐVPL của bị hại trong TTHS phải được đặt trong mối quan hệ, tác
động qua lại với những chủ thể của TTHS - người tham gia tố tụng và người tiến hành
tố tụng tham gia tranh luận dân chủ để quá trình điều tra, xử lý vụ án đảm bảo yêu
cầu đúng người, đúng tội, đảm bảo nguyên tắc “không bỏ lọt tội phạm và không làm
oan người vô tội”.
- Bảo đảm ĐVPL của bị hại theo hướng gắn chặt quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân mà pháp luật quy định. Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm và mở rộng các
quyền tự do cá nhân trong TTHS của bị hại, ngược lại bị hại có nghĩa vụ thực hiện
69
đúng quy định của pháp luật.
- Cần nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước đối với
việc bảo đảm ĐVPL của bị hại trong TTHS, kịp thời sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS
cho phù hợp với tình hình mới.
- Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị hại, nhất là trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự. Xây dựng các văn bản luật, dưới luật có nội dung xác
định các quy trình thực hiện về quyền của bị hại, nhất là đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, yêu cầu và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; tạo điều kiện để bị hại có
thể tham gia cùng CQĐT trong điều tra vụ án hình sự. Xác định rõ quyền và nghĩa vụ
của người đại diện bị hại trong tham gia hoạt động điều tra vụ án để có điều kiện bảo
đảm tốt nhất ĐVPL của bị hại trong điều tra vụ án hình sự.
- Cần xây dựng quy định cụ thể về trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng,
đặc biệt CQĐT Công an nhân dân cần đảm bảo tuyệt đối an toàn về tình mạng, danh
dự, nhân phẩm, tài sản và các nội dung khác có ý nghĩa đến bảo đảm ĐVPL của bị
hại trong quá trình điều tra.
3.2.1.2. Nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng CQĐT và bồi dưỡng phẩm chất
chính trị, đạo đức và năng lực của đội ngũ điều tra viên của CQĐT trong hoạt động
điều tra tội phạm.
- Nâng cao trách nhiệm của Thủ trưởng CQĐT đối với công tác bảo đảm
ĐVPL của bị hại trong hoạt động điều tra tội phạm.
Trước hết, cần khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của Thủ trưởng CQĐT
đối với điều tra tội phạm. Vai trò của thủ trưởng CQĐT, trước hết ở hoạt động lãnh
đạo, chỉ huy. Đây là yêu cầu tất yếu trong bất kỳ hình thức lao động chung nào của
đời sống xã hội và trong mọi thắng lợi của sự nghiệp bảo đảm ANTT không thể thiếu
được sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, hiệu quả của các thủ trưởng CQĐT, là khâu thiết
yếu, giữ vai trò quyết định trong toàn bộ công tác điều tra vụ án. Chính vì vậy, trách
nhiệm của Thủ trưởng CQĐT không chỉ bao hàm trong việc đưạ ra các quyết định
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn trong điều tra tội phạm, mà còn những quyết định
liên quan đến mục tiêu, nhiệm vụ bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
con người, trong đó có bảo đảm địa vị của bị hại.
Trong hoạt động điều tra tội phạm theo TTHS, Thủ trưởng CQĐT có vai trò
quan trọng, quyết định đến kết quả điều tra vụ án, quyết định đến việc bảo đảm thực
hiện quy định ĐVPL của bị hại. Thời gian qua, Thủ trưởng CQĐT đã nhận thức được
70
vai trò của người đứng đầu đối công tác điều tra tội phạm, tuy nhiên, sự đề cao trách
nhiệm của Thủ trưởng CQĐT chưa tương xứng với nhận thức và vai trò của Thủ
trưởng trong công tác này. Do đó, cần thiết nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng
CQĐT trong thời gian tới. Thủ trưởng CQĐT cần quán triệt sâu sắc các quan điểm
của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân; quán triệt nguyên tắc
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong điều tra tội phạm. Trách nhiệm, vai trò nêu
gương, đi đầu trong việc bảo đảm các quyền, lợi ích chính đáng của bị hại.
Trên cở sở nhận thức đúng đắn, Thủ trưởng CQĐT cần xác định rõ vai trò,
trách nhiệm của mình trong công tác điều tra tội phạm nói chung, trong công tác bảo
đảm ĐVPL của bị hại nói riêng, từ đó không ngừng học tập, rèn luyện để có những
phẩm chất, năng lực uy tín cần thiết phục vụ công tác điều tra tội phạm. Trong bất kỳ
hoàn cảnh nào, Thủ trưởng CQĐT cũng phải gương mẫu, chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của
Ngành Công an; tổ chức điều hành tổ chức, đơn vị thực hiện tốt các nhiệm vụ chính
trị được giao; tự mình có ý thức chịu trách nhiệm chính trong việc đưa ra các quyết
định, chủ trương, giải pháp cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ đó. Đồng thời, phải
có khả năng thuyết phục, quy tụ cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, sẵn sàng chịu trách
nhiệm cá nhân trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều tra tội phạm.
- Quan tâm thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo
đức và năng lực của đội ngũ ĐTV của CQĐT:
Để thực hiện có hiệu quả công tác điều tra tội phạm nói chung, công tác đảm
bảo ĐVPL của bị hại trong hoạt động điều tra hình sự nói riêng của Cơ quan CSĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh thì một trong nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là xây dựng
đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Ninh làm công
tác điều tra cần có “tâm và tầm” bằng các giải pháp cơ bản sau:
Bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức tốt, lối sống
trong sáng, lành mạnh và mối quan hệ gần gũi với quần chúng nhân dân. Đồng thời,
nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức. Giáo dục tính liêm chính, đạo
đức công vụ đối ĐTV, cán bộ điều tra coi đây là công việc thực sự quan trọng. Bởi
lẽ, bất kỳ công việc nào cũng đòi hỏi phải có những chuẩn mực nghề nghiệp và đạo
đức nghề nghiệp. Xây dựng và thực thi chế tài nghiêm khắc, nghiêm trị những hành
vi vi phạm pháp luật để ĐTV, cán bộ điều tra “không dám” thực hiện những hành vi
vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức công vụ trái với lương tâm và đạo đức xã hội.
Thiết lập thể chế chặt chẽ, minh bạch, công khai nhằm ngăn ngừa những hành vi vi
71
phạm pháp luật của ĐTV, cán bộ điều tra.
Đối với ĐTV, cán bộ điều tra cần nắm vững kiến thức về ĐVPL, pháp luật
liên quan đến bị hại, nắm rõ đặc điểm bị hại để vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị haivừa chủ động thực hiện phát huy tối đa vai trò của bị hại trong quá trình
điều tra vụ án; phòng ngừa hành vi vi phạm của bị hại liên quan hoạt động điều tra.
Để nâng cao năng lực đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra phải thực hiện đồng bộ các giải
pháp, từ tuyển dụng, điều động đến bố trí, sử dụng ĐTV, cán bộ điều tra, trong đó tập
trung vào những việc sau:
Thực hiện công tác tuyển dụng, điều động ĐTV, cán bộ điều tra theo nguyên
tắc đúng người, đúng việc, lấy công việc và hiệu quả công việc làm tiêu chí lựa chọn
cán bộ; bố trí, sử dụng nhân sự theo cơ chế giao việc và xác định trách nhiệm cụ thể;
đánh giá năng lực ĐTV, cán bộ điều tra dựa trên hiệu quả công việc, bảo đảm tính
công bằng trong đánh giá, không đánh đồng và đồng nhất kết quả đánh giá giữa các
đối cán bộ, chiến sĩ khác nhau và giữa các cán bộ, chiến sĩ chuyên môn với cán bộ
giữ vị trí lãnh đạo, quản lý. Thực hiện việc xây dựng tiêu chí và xét các danh hiệu thi
đua theo từng nhóm đối tượng có vị trí, chức năng, nhiệm vụ tương đương nhau,
không xét các danh hiệu thi đua theo cơ quan, đơn vị. Có như vậy mới có thể bảo đảm
tính công bằng và tạo động lực thực sự trong đội ngũ ĐTV. Thủ trưởng CQĐT, lãnh
đạo Công an tỉnh cần có thái độ kiên quyết, dứt khoát đối với những ĐTV, cán bộ
điều tra không đáp ứng được công việc. Thực hiện luân chuyển vị trí công tác hoặc
tinh giản biên chế đối với ĐTV, cán bộ điều tra không làm đáp ứng yêu cầu công tác
điều tra, công tác phòng ngừa tội phạm.
Nâng cao năng lực đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra Cơ quan CSĐT Công an tỉnh
Quảng Ninh trong công tác điều tra tội phạm thông qua tập trung vào nâng cao trình
độ ngoại ngữ, tin học và nghiệp vụ chuyên môn bằng cách: Cơ quan CSĐT công an
tỉnh Quảng Ninh cần xây dựng cơ chế, bố trí thời gian, hỗ trợ kinh phí, khuyến khích
cán bộ, chiến sĩ tự học, tự nâng cao kiến thức ngoại ngữ, tin học; tổ chức các lớp học
ngoại ngữ một cách thường xuyên, hoặc chọn lọc cử cán bộ, chiến sĩ sang nước ngoài
học tập; xây dựng tiêu chí trình độ liên quan ngoại ngữ để đánh giá chất lượng cán
bộ, bố trí hợp lí, phù hợp vị trí công tác đối với những cán bộ, chiến sĩ có trình độ
ngoại ngữ tốt, tin học tốt để họ phát huy hết năng lực bản thân, phục vụ công tác điều
tra tội phạm nói chung, công tác bảo đảm ĐVPL của bị hại nói riêng.
Cải cách chế độ, chính sách và trang bị thiết bị, phương tiện phục vụ công tác
phòng ngừa tội phạm đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, tạo động lực cho ĐTV,
72
cán bộ điều tra làm công tác điều tra tội phạm; trong đó chế độ, chính sách cần tương
xứng với giá trị sức lao động, việc trả lương cần dựa trên kết quả lao động. Đổi mới
công tác thi đua - khen thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng, môi trường và điều kiện
làm việc.
3.2.1.3. Tăng cường phối hợp giữa CQĐT và Viện kiểm sát.
Theo quy định hiện hành, Viện kiểm sát là cơ quan quyết định các nhiệm vụ
tố tụng quan trọng trong giai đoạn điều tra, nhưng thực tế Viện kiểm sát chưa thực
hiện được. Điều này có nguyên nhân do CQĐT không độc lập mà phụ thuộc vào bộ
máy hành chính. Vai trò của Viện kiểm sát và cơ chế pháp lý ràng buộc trách nhiệm
của CQĐT với Viện kiểm sát chưa chặt chẽ, Viện kiểm sát còn thụ động trong quá
trình điều tra. Tuy CQĐT có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của
Viện kiểm sát, nhưng thực chất chỉ ràng buộc về thủ tục pháp lý, còn nội dung tiến
hành các hoạt động điều tra như thế nào chủ yếu do ĐTV dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT quyết định. Như vậy, để bảo đảm hiệu quả
trong quan hệ phối hợp giữa CQĐT và Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án,
đây cũng là biện pháp bảo đảm ĐVPL của bị hại trong TTHS, thì cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa CQĐT và Viện Kiểm sát, cụ thể:
Thứ nhất, giữa CQĐT và Viện kiểm sát có sự phân công chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn rõ ràng theo pháp luật, mỗi cơ quan có chức năng riêng, mỗi bên chịu trách
nhiệm riêng, không thay thế cho nhau, cũng không đùn đẩy lẫn nhau.
Thứ hai, trên cơ sở phân công trách nhiệm nhưng cùng đảm nhận chức năng
buộc tội trong TTHS nên Viện kiểm sát và CQĐT phải phối hợp chặt chẽ, làm cho
việc xử lý vụ án được tiếp nối nhau về mặt trình tự, hoàn thành nhiệm vụ làm rõ sự
thật vụ án, truy cứu, trừng phạt tội phạm.
Thứ ba, quan hệ giữa Viện kiểm sát và CQĐT là quan hệ chế ước, ràng buộc
lẫn nhau để tạo sự cân bằng với nhau theo sự phân công và trình tự thuộc chức năng
tố tụng. Thông qua việc chế ước giữa Viện kiểm sát và CQĐT nhằm ngăn chặn hoặc
kịp thời uốn nắn các sai sót, bảo đảm chấp hành pháp luật chính xác, không để xảy ra
oan, sai.
Thứ tư, sự phối hợp và chế ước giữa Viện kiểm sát và CQĐT là quan hệ mang
tính tương hỗ, tính hai chiều. Xét trong quan hệ tố tụng, mục đích cuối cùng của điều
tra là đưa ra công tố (buộc tội), điều tra chỉ là sự chuẩn bị của công tố, buộc phải phục
tùng theo yêu cầu của công tố. Nếu xét về quan hệ chức năng của hai cơ quan thì
CQĐT là người thực hiện cụ thể hoạt động điều tra, còn Viện kiểm sát chịu trách
73
nhiệm thẩm tra phê chuẩn bắt giữ và thẩm tra truy tố - thẩm tra công tác điều tra theo
quy định của pháp luật. Do vậy, trong quan hệ phối hợp, chế ước lẫn nhau, Viện kiểm
sát nằm ở vị trí chủ đạo.
3.2.1.4. Thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật, nâng cao trình độ, kiến
thức pháp luật đến tổ chức và nhân dân
Công tác bảo đảm ĐVPL của bị hại không thể đạt kết quả tốt nếu như không
có sự tham gia tích cực của quần chúng nhân dân. Thực tiễn cho thấy còn có một bộ
phận nhân dân do thiếu hiểu biết về pháp luật nên đôi khi còn có thái độ tiêu cực
trong đấu tranh chống tội phạm do sợ mất thời gian, sợ liên lụy tới pháp luật, sợ bị
trả thù... nên không tích cực tham gia vào việc tố giác tội phạm. Thậm chí có người
còn vì những lý do cá nhân khác nhau mà cung cấp những thông tin thiếu chính xác,
sai sự thật gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, chứng
minh vụ án. Bởi vậy công tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân là cần thiết. Để
nâng cao hiệu quả, vai trò của quần chúng nhân dân trong công tác này thì CQĐT
Công an tỉnh Quảng Ninh, cần thực hiện:
Trước hết, CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với các phòng nghiệp
vụ khác có liên quan triển khai xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc
trên địa bàn tỉnh, nhất là các khu công nghiệp, các địa bàn tập phức tạp về ANTT, địa
bàn giáp biên giới. Nội dung là tuyên truyền pháp luật, nâng cao ý thức cảnh giác,
trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong phòng ngừa tội phạm; tuyền truyền về
nhận biết các phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm, nhất là tội phạm do
người nước ngoài thực hiện, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội phạm buôn, bán
người; khuyến khích, động viên, khen thưởng những cá nhân, tổ chức thực hiện tốt
công tác phòng, chống tội phạm; xây dựng các mô hình phòng, chống tội phạm ở các
khu công nghiệp, dân cư, khu du lịch và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến
về bảo vệ ANTT đang triển khai đạt hiệu quả trên địa bàn.
Phối hợp với các đơn vị trong lực lượng, các ban, ngành, tổ chức đoàn thể
như: Đài phát thanh, truyền hình, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu
Chiến binh… thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, vận động quần chúng
nhân dân tham gia phát hiện, tố giác tội phạm thông qua các hình thức tuyên truyền
phù hợp (bản tin ngắn về tội phạm, tuyên truyền qua hệ thống loa truyền thanh tại các
điểm giao thông quan trọng, qua tin nhắn điện thoại).. Thông báo kịp thời về những
phương thức, thủ đoạn tội phạm trên địa bàn để nhân dân nâng cao cảnh giác phòng
ngừa tội phạm, kịp thời phát hiện người nước ngoài tại cư trú, làm việc có dấu hiệu
74
thực hiện hành vi phạm tội để thông tin, tố giác với cơ quan chức năng.
Giáo dục, tuyên truyền đến mọi tầng lớp nhân dân về nhận thức trách nhiệm
tôn trọng pháp luật, nâng cao nhận thức về trách nhiệm của bản thân, gia đình trong
việc tham gia công tác phòng, chống tội phạm (chú ý hình thức tuyên truyền cần ngắn
gọn, rõ nội dung, phù hợp với từng đối tượng, thời gian tuyên truyền). Giáo dục nhân
dân tôn trọng pháp luật, đấu tranh với các biểu hiện thờ ơ, vô trách nhiệm với công
tác phòng, chống tội phạm của một bộ phận nhân dân. Đội ngũ Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng, ĐTV, cán bộ điều tra của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh cần xây dựng hình
ảnh “người Công an cách mạng” tận tụy công việc, tôn trọng nhân dân; gần nhân dân
để củng cố niềm tin của nhân dân vào lực lượng Công an, khuyến khích, động viên
nhân dân tham gia đấu tranh tội phạm. Xây dựng các trụ sở, địa điểm để nhân dân
thuận lợi thực hiện thông tin tố giác tội phạm.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc gắn liền với tình hình thức tiễn, hoạt động phong trào cách mạng
khác trên địa phương; cần nhân rộng gương người tốt, việc tốt trong công tác phòng,
chống tội phạm bảo vệ ANTT.
3.2.1.5. Tiếp tục hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam theo hướng phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng và nâng cao chất lượng điều tra.
Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật tố tụng về ĐVPL của người bị hại
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cho thấy với những đặc điểm mang tính chất đặc thù
của một đô thị cấp một, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước, việc hoàn
thiện các quy định pháp luật và áp dụng trên thực tế địa bàn tỉnh Quảng Ninh phải
được tăng cường đẩy mạnh và nhanh chóng triển khai trên cả chiều sâu và bề rộng để
đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của nhu cầu đời sống xã hội, nhân dân trong thời kỳ
hội nhập và phát triển. Thực hiện đồng bộ và mạnh mẽ tất cả các kiến nghị và giải
pháp trên đây sẽ là cơ sở để các quy định của pháp luật đi vào thực chất, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại.
Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: “Nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên tòa xét xử, coi đây là một khâu đột phá của hoạt động tư pháp” và xác
định đây là hướng đi phù hợp, Bộ luật TTHS Việt Nam ghi nhận tranh tụng là một
nguyên tắc, điều này cũng phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013. Đồng thời
ghi nhận bị hại là một bên tham gia tranh tụng đối lập với bị can, bị cáo. Muốn tranh
75
tụng có hiệu quả cần phải có quy định phân biệt rõ chức năng buộc tội, bào chữa và
xét xử nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng,
tránh tình trạng đùn đẩy công việc cho nhau.
3.2.2. Kiến nghị
3.2.2.1. Đối với Quốc hội, Chính phủ
- Hoàn thiện trách nhiệm đối với người tiến hành tố tụng: Nâng cao trách
nhiệm của Nhà nước trước công dân là giải pháp quan trọng trong bảo đảm quyền
công dân. Nhà nước không chỉ có trách nhiệm trong việc ban hành pháp luật và duy
trì để pháp luật về quyền công dân được thực hiện trên thực tế, mà còn xử lý các vi
phạm pháp luật bằng các chế độ trách nhiệm khác nhau. Vì vậy, việc hoàn thiện chế
độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng cũng là giải pháp cần thiết để bảo đảm
quyền con người trong TTHS.
- Từng bước hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong trường hợp
oan, sai trong TTHS. Trong hoạt động điều tra vụ án, tình trạng để oan, sai, bỏ lọt tội
phạm vẫn xảy ra; công tác đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham
gia tố tụng (trong đó có bị hại) vẫn chưa được CQĐT thực hiện nghiêm túc, đầy đủ
và để xảy ra những vi phạm trong hoạt động tố tụng. Quy định trách nhiệm chưa được
rõ ràng, minh bạch, việc truy cứu trách nhiệm vi phạm chưa thật nghiêm minh đối
với các vi phạm quyền con người của bị hại từ phía người tiến hành tố tụng. Chế tài
tố tụng đối với các vi phạm chưa rõ ràng, thiếu cụ thể. Cho đến nay chúng ta đã có
Nghị quyết số 388/NQ- UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động
TTHS gây ra. Luật bồi thường của Nhà nước được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ
V Quốc hội khóa 12 cũng chưa bao hàm hết các trường hợp oan, sai trong TTHS.
Mặc dù Bộ luật TTHS có các nguyên tắc quan trọng quy định người làm trái pháp
luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu TNHS; quy định được
bồi thường thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền THTT gây ra. Nhưng trên
thực tế các quy định này ít được áp dụng. Việc truy cứu TNHS ít được đặt ra, nếu đó
không phải là hành vi cố ý; chế độ kỷ luật mới được thực hiện ở mức độ hạn chế, chủ
yếu là không bổ nhiệm lại chức danh tố tụng nếu có nhiều sai sót nghiêm trọng; việc
bồi thường thiệt hại do sai hầu như chưa được thực hiện. Đặc biệt, quyền hạn, trách
nhiệm của cơ quan THTT, người tiến hành tố tụng liên quan đến quyền con người,
ĐVPL của bị hại chủ yếu tập trung ở người lãnh đạo các cơ quan THTT như Thủ
76
trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS, trách nhiệm đó
lại không gắn với hoạt động tố tụng trực tiếp cho nên chế độ trách nhiệm không rõ
ràng. Do đó, Quốc hội, Chính phủ cần nghiên cứu, cụ thể hóa quy định về trách nhiệm
của Thủ trưởng CQĐT trong hoạt động điều tra vụ án, nhất là công tác đảm bảo quyền
con người, quyền của người tham gia tố tụng.
- CQĐT là cơ quan tư pháp, không làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước vì vậy
không nên giao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Đặc trưng này đòi hỏi phải
xác lập đúng nội dung nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ, trách nhiệm của CQĐT và
nội dung đó phải được cụ thể hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể là,
cần nghiên cứu xác định lại nhiệm vụ của CQĐT trong quan hệ với các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo hướng CQĐT có thẩm
quyền điều tra tất cả các vụ án hình sự. Một số cơ quan khác như: Kiểm lâm, Bộ đội
biên phòng, Hải quan, lực lượng Cảnh sát biển hoặc các cơ quan khác trong Công an
nhân dân chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu, như: Lập biên bản về sự
việc phạm tội xảy ra; bảo vệ hiện trường, thu giữ tang vật, phương tiện, giữ người
phạm tội… sau đó chuyển mọi tài liệu, tang vật, người bị bắt giữ cho CQĐT để tiến
hành điều tra theo trình tự, thủ tục TTHS.
- Hợp tác quốc tế trong điều tra tội phạm là nhiệm vụ rất quan trọng của CQĐT,
đặc biệt là việc triển khai tổ chức thực hiện các quy định về vấn đề này trong Bộ luật
TTHS năm 2015. Theo đó, cần phải tính toán để quy định cụ thể cơ chế hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực tư pháp của các CQĐT; đồng thời, có phương án bảo đảm các điều
kiện để thực hiện tốt nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này vì đây là vấn đề lâu
nay ở nước ta chưa được quan tâm đúng mức.
3.2.2.2. Đối với Bộ Công an
- Tiếp tục nghiên cứu tổ chức lại các CQĐT cho gọn đầu mối, thống nhất chỉ
đạo hoạt động điều tra; kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra
theo tố tụng. Trong Công an nhân dân chỉ nên tổ chức một hệ thống CQĐT (từ trung
ương đến địa phương); chỉ đạo CQĐT là Thủ trưởng CQĐT. CQĐT có ĐTV cao cấp,
trung cấp, sơ cấp và các cán bộ giúp việc. Thủ trưởng CQĐT, ĐTV khi tiến hành tố
tụng không căn cứ chức danh hành chính. Về lâu dài, không nên quy định cho các cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, điều tra tố tụng,
vì đây là những cơ quan quản lý Nhà nước, trong thực hiện chức năng quản lý nhà
nước thuộc lĩnh vực quản lý của cơ quan, đơn vị mà phát hiện hành vi có dấu hiệu
phạm tội thì phải báo ngay cho CQĐT hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để quyết
77
định việc khởi tố, điều tra. Các cơ quan khác có trách nhiệm phối hợp theo sự chỉ đạo
của CQĐT chuyên trách và của Viện kiểm sát. Nguyên tắc CQĐT chỉ đạo các cơ
quan khác liên quan đến hoạt động điều tra còn được áp dụng trong quan hệ giữa
CQĐT với cơ quan trinh sát, giữa ĐTV với Trinh sát viên. Mô hình tổ chức CQĐT
như hiện nay được tổ chức theo hướng ĐTV và trinh sát ở trong cùng một cơ quan;
do đó, một mặt phải làm tốt công tác phòng ngừa, mặt khác, bộ phận điều tra phải
làm tốt công tác điều tra tội phạm.
- Các CQĐT có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là điều tra, phát hiện và xử lý
tội phạm theo quy định của pháp luật. Do đó, cần có các quy định cụ thể để mọi hoạt
động điều tra thực hiện được thuận lợi. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ điều tra,
các đơn vị, cán bộ được giao nhiệm vụ điều tra có quyền áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, các biện pháp thu thập chứng cứ và các biện pháp khác theo quy định của pháp
luật TTHS để điều tra, xử lý tội phạm; được áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, sử
dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ theo quy định của pháp luật.
3.2.2.3. Đối với Công an tỉnh Quảng Ninh
Để công tác đảm bảo quyền con người, quyền công dân nói chung, đảm bảo
ĐVPL của bị hại nói riêng trong hoạt động điều tra vụ án trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh thi trong thời tới, Công an tỉnh Quảng Ninh cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, bám sát kết quả hoạt động điều tra của
CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh nhằm đảm bảo sự thống nhất trong việc thực hiện
nhiệm vụ, phát huy tối đa vai trò, nhiệm vụ của các lực lượng, đơn vị trong Công an tỉnh.
- Chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiện toàn tổ chức bộ CQĐT theo quy
định của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Bộ luật TTHS năm 2015
và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, theo định hướng tăng cường
CQĐT Công an cấp huyện, tại địa bàn huyện trọng điểm về ANTT.
- Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra, quan tâm thực hiện
công tác bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh tư pháp trong CQĐT. Thực hiện
nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát trong hoạt động tố tụng của CQĐT. Kiên quyết
không bổ nhiệm, tái bổ nhiệm đối với các ĐTV, cán bộ điều tra vi phạm các quyền
công dân, vi phạm ĐVPL của người tham gia tố tụng, trong đó có bị hại. Quan tâm
xây dựng, thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra, nhất là
tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa; địa bàn biên giới, hải đảo.
- Đầu tư các cơ sở vật chất, điều kiện đảm bảo công tác điều tra của CQĐT
78
Công an tỉnh Quảng Ninh, trước mắt, cần đầu tư, nâng cấp trang thiết bị kỹ thuật tại
các phòng hỏi cung, phòng lấy lời khai và đầu tư cơ sở hạ tầng tại các CQĐT trong
địa bàn tỉnh.
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu của Chương 1, Chương 2, Chương 3 của luận văn đã đưa
ra 02 nhóm dự báo, 05 giải pháp và 03 kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả
các quy định về ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
Trước hết, luận văn đã đưa ra dự báo về tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh và dự báo yếu tác động đến công tác bảo đảm thực hiện quy định về địa
vị pháp lý bị hại. Các dự báo là kết quả của quá trình suy luận logic của người nghiên
cứu trên cơ sở những căn cứ khoa học, lý luận và kinh nghiệm của ĐTV, cán bộ điều
tra của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh.
Tiếp đó, luận văn đã đưa ra 05 giải pháp và 03 kiến nghị đến Quốc hội, Chính
phủ, Bộ Công an và Công an tỉnh Quảng Ninh. Nội dung của các giải pháp, kiến nghị
này nhằm góp phần bảo đảm thực hiện có hiệu quả các quy định về ĐVPL của bị hại
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
Những kết quả nghiên cứu về dự báo, giải pháp, kiến nghị dựa trên cơ sở kết
quả nghiên cứu những vấn đề lý luận ở Chương 1 và những vấn đề thực tiễn tại
Chương 2 của luận văn, kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
dự báo khoa học. Dưới góc độ khoa học, đây là những tư liệu khoa học để nghiên
cứu, hoàn thiện công tác nghiên cứu lý luận về bảo đảm ĐVPL của bị hại theo quy
định. Dưới góc độ thực tiễn, các dự báo, giải pháp, kiến nghị là những chỉ dẫn khoa
học để CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh nghiên cứu, áp dụng trong thực tiễn công
79
tác điều tra tội phạm, góp phần bảo đảm ĐVPL của bị hại hiệu quả nhất.
KẾT LUẬN
Địa vị pháp lý của bị hại không phải là một vấn đề mới đề cập trong pháp luật
TTHS Việt Nam. Những quy định về địa vị pháp lý của bị hại trong Bộ luật TTHS
năm 2003 và bổ sung, hoàn thiện trong Bộ luật TTHS năm 2015 vừa là sự kế thừa có
chọn lọc những thành tựu lập pháp của Nhà nước ta, vừa là bước đột phá quan trọng
về thủ tục TTHS. Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện một khung pháp lý hoàn
thiện về ĐVPL của bị hại phù hợp và thực hiện có hiệu quả trong điều kiện thực tế
của nước ta là một vấn đề không hề đơn giản.
Trước các yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân
và vì dân đã và đang đặt ra đối với các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có CQĐTthì
vấn đề bảo đảm quyền con người, đặc biệt là các quyền công dân trong TTHS luôn
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Việc xây dựng ĐVPL bị hại và bảo
đảm thực hiện nghiêm túc về bản chất là góp phần bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, mà trước tiên là quyền công dân trong quá trình điều tra vụ án
hình sự.
Là một bộ phận công tác bảo đảm ĐVPL của bị hại, công tác công tác bảo đảm
ĐVPL của bị hại trong hoạt điều tra hình sự của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
cần đảm bảo tối đa các quyền và nghĩa vụ của bị hại, góp phần bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bằng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, luận văn “Địa vị pháp
lý của bị hại theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” đã đạt
được các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, cụ thể là:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về ĐVPL của bị hại theo pháp luật TTHS;
đưa ra khái niệm về bị hại, khái niệm về ĐVPL bị hại, vai trò của bị hại trong TTHS.
- Phân tích, làm rõ nội dung ĐVPL của bị hại theo quy định của Bộ luật TTHS
bao gồm nội dung về quyền và nghĩa vụ của bị hại. Đồng thời, phân tích các yếu tố
bảo đảm ĐVPL của bị hại trong hoạt động TTHS hiện nay và đặc điểm, phân loại bị
hại trong hoạt động điều tra vụ án hình sự.
- Đánh giá về thực trạng công tác áp dụng các quy định của pháp luật TTHS
về ĐVPL của bị hại trong hoạt điều tra hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đưa ra
những đánh giá về kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, khó khăn và
nguyên nhân trong công tác đảm bảo ĐVPL của bị hại.
80
- Xây dựng 02 nhóm dự báo, 05 giải pháp và 03 kiến nghị đến Quốc hội, Chính
phủ, Bộ Công an và Công an tỉnh Quảng Ninh nhằm góp phần bảo đảm thực hiện có
hiệu quả các quy định về ĐVPL của bị hại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời
gian tới.
Quảng Ninh là tỉnh trọng điểm về kinh tế-văn hóa-xã hội phía Bắc nước ta,
công tác bảo đảm ĐVPL của bị hại của CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh cần sự tham
gia, ủng hộ của toàn lực lượng Công an, các cơ quan tiến hành tố tụng, các ban, ngành,
đoàn thể và toàn dân. Trong quá trình nghiên cứu, Học viên đã nhận được sự giúp đỡ
tận tình của đội ngũ ĐTV, cán bộ điều tra CQĐT Công an tỉnh Quảng Ninh và các
đơn vị có liên quan; các nhà khoa học, thầy cô, và Người hướng dẫn khoa học. Tuy
nhiên, nghiên cứu về ĐVPL của bị hại theo pháp luật TTHS Việt Nam là vấn đề khoa
học khó tiếp cận cả lý luận và thực tiễn. Trong quá trình nghiên cứu, học viên đã gặp
những khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, tài liệu cùng với trình độ, năng lực
nghiên cứu khoa học của bản thân còn hạn hẹp nên kết quả nghiên cứu trong luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót, học viên rất mong muốn nhận được những ý kiến
đóng góp ý kiến của các thầy, cô, các nhà khoa học để học viên tiếp tục chỉnh sửa, bổ
81
sung, hoàn thiện luận văn này./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ 1 Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Bộ Chính trị, Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị
2 về tinh giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức,
công tác tinh giản biên chế trong công an từ nay đến năm 2020.
Bộ Chính trị, Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính
3 trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Chính phủ, Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Thủ tướng Chính
4 phủ về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tội phạm trong tình hình mới
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, bản kết luận điều tra vụ 5 án về tội mua bán người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ năm 2014-2018.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, bản kết luận điều
6 tra vụ án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bản tỉnh Quảng Ninh
từ năm 2014-2018.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, bản kết luận điều tra 7 vụ án về tội mua bán người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, từ năm 2014-2018.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, bản kết luận điều
8 tra vụ án về tội cố ý gây thương tích, tội giết người trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh, từ năm 2014-2018.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh, Bản thống kê tình 9 hình tội phạm xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014-2018.
Công an tỉnh Quảng Ninh, (2015), Báo cáo tổng kết Chương trình hành 10 động phòng, chống tội phạm mua, bán người giai đoạn 2011-2015.
Công an tỉnh Quảng Ninh, Báo công tổng kết công tác năm 2014, 2015, 11 2016, 2017, 2018.
Công an tỉnh Quảng Ninh,Báo Cáo tổng kết Chương trinh hành động
phòng, chống tội phạm mua bán người giai đoạn 2011-2015 và Báo cáo 12 công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người năm 2016,
82
2017, 2018.
Công an tỉnh Quảng Ninh,Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công tác 13 đảm ANTT trên địa bàn tỉnh năm 2018.
Đinh Thị Mai (2014), “Quyền của người bị hại trong TTHS Việt Nam”, 14 Luận án tiến sĩ luật học, Viện Khoa học và Xã hội, Hà Nội.
Đặng Hoàng Phương (2015), “Địa vị pháp lý của người bị hại trong TTHS
15 (áp dụng trong thực tiễn TTHS trên địa bàn thành phố Hà Nội)”, luận văn
thạc sỹ, trường Đại học quốc gia.
Lê Văn Phương, (2017), “Địa vị pháp lý của người bị buộc tội theo pháp
16 luạt tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”, luận văn
thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.
17 Quốc hội, (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
18 Quốc hội, (2009), Bộ Luật Hình sự.
19 Quốc hội, (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội, (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 20 NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21 Quốc hội, (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
22 Quốc hội, (2015), Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự.
Quốc hội, Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về công tác 23 phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm
Quốc hội, Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội 24 về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm
Thịnh Quang Thắng (2010), “Người bị hại trong TTHS Việt Nam”, luận 25 văn thạc sỹ, Đại học luật Hà Nội.
Trần Hữu Tráng, (2000), Nạn nhân học trong tội phạm học Việt nam – 26 một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội.
27 Viện Khoa học pháp lý, (2016), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp.
83
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, báo cáo tổng kết công tác kiểm 28 sát từ năm 2014 – 2018.
Phụ lục 1:
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
(TỪ NĂM 2014-2018)
2014 2016 2017 2018 2015
Năm/loại tội phạm (vụ/bị can) Tội phạm về
1/2 0/1 0 1/1 0 an ninh quốc
gia
Tội phạm 504/67 426/58 544/79 488/73 512/72
3 9 4 5 7 ma túy
Tội phạm về
tham nhũng 10/43 2/12 2/4 5/20 11/25
và chức vụ
Tội phạm về
kinh tế và môi 64/112 71/128 63/107 32/59 62/69
trường
Tội phạm 470/60 397/44 366/40 461/45 510/53 xâm phạm sở 2 8 1 2 8 hữu
Tội phạm về 390/68 378/71 360/99 440/84 441/76 trật tự an toàn 3 7 1 8 0 xã hội
Tội phạm
xâm phạm 4/8 1/3 0/1 1/10 1/4 hoạt động tư
pháp
1.446/ 1.276/ 1.335/ 1.427/ 1.538/ Tổng
2135 1.886 2.206 2.118 2.129
84
Nguồn: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Quảng Ninh
Phụ lục 2:
KẾT QUẢ TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TIN BÁO TỐ GIÁC
TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
(TỪ NĂM 2014 -2018)
NĂM SỐ SỐ TIN SỐ TIN SỐ TIN
LƯỢNG BÁO, TỐ LÀM CHƯA
TIN BÁO, GIÁC CĂN ĐƯỢC
TỐ GIÁC ĐƯỢC CỨ GIẢI
KHỞI QUYẾT GIẢI
QUYẾT TỐ VỤ
ÁN
1.783 1.167 119 2014 1902
1.508 906 88 2015 1.596
1.557 960 72 2016 1.629
1.684 919 88 2017 1.696
1.424 623 107 2018 1.437
7.956 4.575 474 Tổng 6.564
85
Nguồn: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Quảng Ninh
Phục lục 3:
SỐ LƯỢNG VỤ ÁN ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA
DO BỊ HẠI RÚT ĐƠN TRONG CÁC VỤ ÁN KHỞI TỐ THEO YÊU CẦU
(TỪ NĂM 2014 -2018)
Năm Số vụ án Đình chỉ Đình chỉ Tỷ lệ vụ
đề nghị điều tra điều tra án đình
truy tố (Vụ/bị do bị hại chỉ điều
(vụ/bị can) can) rút đơn tra do bị
(vụ án/bị hại rút
đơn (%) can)
1.354/2.251 2014 63/71 60/67 95,2
1.185/1.949 2015 34/34 32/32 94,1
1.217/2.218 2016 34/65 23/38 67,8
1.241/2.062 2017 8/10 4/6 50
1.295/2.085 2018 67/51 29/28 43,2
86,0 Tổng 6.292/10.565 172/231 148/171
86
Nguồn: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Quảng Ninh
Phụ lục 4:
THỐNG KÊ SỐ VỤ ÁN KHỞI TỐ THEO YÊU CẦU
CỦA BỊ HẠI VỀ TỘI DANH QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH
(TỪ NĂM 2013 - 2018)
(Đơn vị tính: vụ/bị can)
20 13 20 14 20 15 20 16 20 17 20 18 TỔ NG
0 0 0 0 0 0 0
0 0 6/6 1/ 1 1/ 1
0 0 0 0 4/10 1/ 1 2/ 5 3/ 3 2/ 5
0 0 0 0 0 0 0
0 0 0 0 0 0 1/ 0
0 7/ 8 3/ 1 9/ 7 1/ 1 29/2 6
0 0 0 0 2/3 9/ 9 1/ 2
0 0 0 0 3/5 1/ 1
0 0 7/23 2/ 6 1/ 1 2/ 12 1/ 1 2/ 4 2/ 4
0 0 0 0 0 0 0 NĂM/ TỘI DANH Điều 104 Điều 105 Điều 106 Điều 108 Điều 109 Điều 111 Điều 113 Điều 121 Điều 121 Điều 171
87
Nguồn: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Quảng Ninh