VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ GIANG
HỎI CUNG BỊ CAN TRONG VỤ ÁNTHAM Ô TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄNĐIỀU TRA TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ GIANG
HỎI CUNG BỊ CAN TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN
TỪ THỰC TIỄN ĐIỀU TRA TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN LUYỆN
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ trong Luận
văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình khoa học nào khác.
Tác giả
Hà Giang
LỜI CÁM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực
tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy của các thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của
cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành
Luận văn thạc sỹ Luật hình sự và tố tụng hình sự. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm
ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng các thầy cô Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt
nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại đây.
Cám ơn Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh và Công an tỉnh Quảng Ninh đã giúp đỡ rất nhiều để tôi
hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Trần Văn
Luyện, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
thực hiện Luận văn.
Cám ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian học tập.
Tác giả luận văn
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN
VÀ HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN ..... 5
1.1. Nhận thức chung về tội phạm tham ô tài sản. ...................................... 5
1.2. Một số vấn đề cơ bản về chiến thuật hỏi cung bị can trong quá
trình điều tra vụ án tham ô tài sản. ............................................................ 15
Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT
ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TRẠNG HỎI CUNG BỊ
CAN TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐIỀU
TRA TỈNH QUẢNG NINH .......................................................................... 34
2.1. Những quy định của pháp luật về hoạt động hỏi cung bị can............ 34
2.2. Một số kết quả điều tra, xử lý các vụ án tham ô tài sản. .................... 35
2.3. Thực trạng hoạt động hỏi cung bị can trong các vụ án tham ô tài
sản của lực lượng Cảnh sát điều tra .......................................................... 41
2.4. Nhận xét, đánh giá ............................................................................. 52
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN TRONG VỤ ÁN
THAM Ô TÀI SẢN ....................................................................................... 54
3.1. Dự báo tình hình tội phạm tham ô tài sản trong những năm tới và
những khó khăn trong công tác hỏi cung bị can. ...................................... 54
3.2 Một số kiến nghị ................................................................................. 58
3.3. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can
trong vụ án tham ô tài sản ......................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 77
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CSĐT
Cảnh sát điều tra
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
BLHS
Bộ luật hình sự
ĐTV
Điều tra viên
CSKT
Cảnh sát kinh tế
TNHH 1 TV
Trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên
NN&PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
CQĐT
Cơ quan điều tra
CĐTS
Chiếm đoạt tài sản
CVQH
Chức vụ quyền hạn
CQ ANĐT
Cơ quan an ninh điều tra
TS
Tài sản
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai đoạn Điều tra là công việc đầu tiên của hoạt động tố tụng hình sự, có vai
trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Để thu thập chứng cứ trong
giai đoạn này, Cơ quan điều tra được tiến hành các biện pháp điều tra theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hoạt động điều tra là bắt buộc đối với tất cả các vụ án
hình sự, thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm sát không có cơ sở để truy tố, Tòa án
không có cơ sở để xét xử vụ án. Chính vì vậy mà pháp luật tố tụng hình sự quy định
rất chặt chẽ về các biện pháp điều tra. Điều này được thể hiện trong Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 của Nhà nước Cộng hòa
XHCNViệt Nam, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 2004 và luật Tổ chức cơ quan
điều tra hình sự năm 2015 các văn bản chuyên ngành khác. Trong những biện pháp
điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, hỏi cung bị can là biện pháp có
vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Qua hỏi cung bị can giúp Cơ quan điều tra làm rõ
sự thật khách quan của vụ án, làm rõ được âm mưu, ý đồ, động cơ, hành vi phạm tội
của bị can và đồng bọn. Đồng thời hỏi cung còn tạo điều kiện mở rộng công tác
điều tra, giúp phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm có hiệu quả. Với ý nghĩa ấy hỏi
cung bị can đựơc xem là hoạt động trọng yếu của quá trình điều tra vụ án.
Trong thời gian qua, những vấn đề lý luận cơ bản về hỏi cung bị can đã được
quan tâm tuy nhiên việc nghiên cứu hỏi cung bị can đối với mỗi tội riêng biệt là rất ít.
Vì vậy, việc nghiên cứu về hỏi cung bị can trong vụ án Tham ô tài sản có ý nghĩa về
mặt lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, là nhiệm vụ đặt ra không chỉ
với khoa học điều tra hình sự mà còn là yêu cầu cấp thiết đối với thực tiễn điều tra tội
phạm trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự là quá trình thu thập tài liệu
làm rõ toàn bộ về vụ án, hành vi phạm tội của bị can để lập hồ sơ truy tố. Hỏi cung
bị can là biện pháp điều tra làm rõ động cơ và mục đích phạm tội phát hiện ra đồng
bọn, những vật chứng còn cất giấu hay phát hiện những âm mưu và hành động
chuẩn bị để gây án… Điều này lý giải tại sao vấn đề hỏi cung bị can luôn là một
1
trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp mỗi nước khi xây dựng
BLTTHS. Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra phổ biến bởi vì hỏi cung bị can
thường được tiến hành trong hoạt động điều tra mọi loại tội phạm.
Một trong những loại tội phạm nguy hại nhất cho xã hội được Bộ luật Hình sự
quy định là tội tham ô. Khi còn sống Hồ Chí Minh coi tệ tham ô là một căn bệnh, là
hành động xấu xa nhất. Người cho rằng “Tham ô là lấy của công làm của tư. Là
gian lận tham lam”, “tham ô là trộm cướp”… Trong cơ chế thị trường hiện nay,
kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng tham ô lớn. Do đó lợi ích vật chất được
xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hành vi tham ô tài sản. Từ thực tiễn những
năm gần đây thấy tội phạm tham ô tài sản ngày càng gia tăng với quy mô, mức độ
phức tạp rất cao, điển hình như Tham ô tài sản xảy ra ở các tập đoàn, tổng công ty
lớn Tập đoàn dầu khí, Vinashin… Yêu cầu đặt ra trong công tác Hỏi cung bị can
trong các vụ án Tham ô tài sản phải làm rõ được vụ án để thấy rõ kẻ phạm tội, các
yếu tố của vụ án, hậu quả xảy ra để Viện kiểm soát và Tóa án đề xuất, quyết định
hình phạt thích đáng đồng thời nắm được thực trạng tham ô và rút ra các bài học,
biện pháp giải quyết phù hợp.Tại tỉnh Quảng Ninh, số lượng vụ án về tham ô rất
đáng kể, công tác hỏi cung bị can nhìn chung được thực hiện hiệu quả, đúng pháp
luật,được Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đánh giá cao. Tuy nhiên việc hỏi cung bị
can còn bộc lộ những thiếu sót trong áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Điều đó đòi
hỏi cần có sự nghiên cứu, áp dụng pháp luật vào hỏi cung bị can có hiệu quả, hợp
lý, hợp pháp hơn trong khi số lượng công trình nghiên cứu rất hạn chế.
Với những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Hỏi cung bị can trong vụ án
tham ô tài sản từ thực tiễn điều tra tỉnh Quảng Ninh” làm Luận văn thạc sĩ của
mình. Qua việc tìm hiểu công tác hỏi cung bị can trong vụ án tham ô tài sản trong
các quy định của BLTTHS về hỏi cung bị can để đề xuất những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác hỏi cung bị can trong tố tụng hình sự góp phần tránh bỏ
lọt tội phạm, gây oan sai cho người vô tội…
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn hỏi cung bị can trong hoạt động điều tra các vụ
án tham ô tài sản nhằm đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động hỏi cung bị can trong quá trình điều tra các vụ án tham ô tài sản, góp phần bổ
sung, từng bước hoàn thiện lý luận về hỏi cung bị can.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ lý luận cơ bản về tội phạm tham ô tài sản và hoạt động hỏi cung bị
can trong vụ án tham ô tài sản.
+ Làm rõ những diễn biến của tình hình tội phạm tham ô và kết quả điều tra
xử lý giai đoạn 2008-2018.
+ Phân tích làm rõ được những nội dung cơ bản của đặc điểm hình sự tội
phạm tham ô tài sản.
+ Nghiên cứu thực tiễn hỏi cung của lực lượng CSĐT đối với bị can trong các
vụ án tham ô tài sản.
+ Kiến nghị và đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục vướng mắc, hạn chế
để nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can trong điều tra vụ án tham ô tài sản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn
hoạt động hỏi cung bị can trong vụ án tham ô tài sản.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
+ Về mặt nội dung: Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề hỏi cung bị can
trong điều tra vụ án tham ô tài sản do CSĐT Công an tỉnh Quảng Ninh tiến hành.
+ Địa bàn nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở số liệu một số vụ
ántrên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
+Về khoảng thời gian khảo sát:Giai đoạn 2008-2018.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn chủ yếu được thực hiện trên cơ sở những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật; các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
3
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm về hoạt động quản
lý kinh tế nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, tọa đàm, tham khảo ý
kiến chuyên gia, nghiên cứu hồ sơ vụ án ..để hoàn thiện đề tài này.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
- Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống lý luận
về hỏi cung bị can nói chung và trong hoạt động điều tra các vụ án tham ô tài sản
nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Những đề xuất của đề tài có thể giúp các Cục nghiệp vụ Cảnh sát, Công an các
địa phương nghiên cứu, tham khảo, áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả biện pháp hỏi
cung bị can trong hoạt động điều tra các vụ án kinh tế nói chung và tham ô tài sản
nói riêng.
6.Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm ba chương. Cụ thể:
Chương 1: Lý luận cơ bản về tội phạm tham ô tài sản và hoạt động hỏi cung
bị can trong vụ án tham ô tài sản.
Chương 2: Những quy định của pháp luật về hoạt động hỏi cung bị can và thực
trạng hỏi cung bị can trong vụ án tham ô tài sản từ thực tiễn điều tra tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Những kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả hỏi cung bị can
trong vụ án tham ô tài sản.
4
Chương 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TỘI PHẠM THAM Ô TÀI SẢN VÀ HOẠT ĐỘNG
HỎI CUNG TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN
1.1. Nhận thức chung về tội phạm tham ô tài sản.
1.1.1. Khái niệm tội phạm tham ô tài sản.
Theo từ điển Tiếng Việt, tham ô được hiểu là hành vi “lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc chức trách để ăn cắp của công”[17,tr.728]. Hiểu theo cách chung
nhất thì tham ô là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ,
quyền hạn ấy để chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý.
Ở nước ta kể từ sau Cách mạng tháng Tám, từ những năm đầu mới giành được
chính quyền về tay nhân dân, hành vi tham ô được gọi là “biển thủ công quỹ” hành
vi này lần đầu tiên được quy định tại Sắc lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 “Trừng
trị các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ nhằm bảo vệ tài sản của công”. Sau đó
khái niệm “biển thủ công quỹ” dần dần được thay thế bằng khái niệm “tham ô”.
Cùng với quá trình phát triển của xã hội và quá trình hệ thống pháp luật, nhận
thức về tội phạm tham ô ngày càng được hoàn thiện. Về cơ bản thì nội dung của hai
khái niệm” Tham ô tài sản” và khái niệm “Biển thủ công quỹ” không có gì khác
nhau, mà chỉ khác nhau về tên gọi của tài sản bị chiếm đoạt mà thôi. Tội danh
“Tham ô tài sản” lần đầu tiên được quy định trong văn bản pháp luật hình sự tại
Điều 8 của Pháp lệnh Trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN được Uỷ ban
thường vụ Quốc hội Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua ngày 21/10/1970.
Trước năm 1975, khi đất nước chưa thống nhất giữa 2 miền Nam Bắc, để kịp
thời trừng trị tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ngày
25/3/1976, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ban
hành Sắc luật số 03 “về tội phạm và hình phạt”. Điều 4 của Sắc luật này đã quy định
về tài sản công cộng và tội tham ô tài sản công cộng.
Quá trình phát triển của xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật là một yêu cầu
tất yếu, ngày 9/7/1985 Bộ luật hình sự đầu tiên của Nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam đã được công bố và có hiệu lực từ ngày 1/1/1986. Tội tham ô tài sản XHCN đã
5
được quy định tại Điều 133 của Bộ luật này. Theo quy định của điều luật thì tham ô
tài sản XHCN là hành vi của những người có chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ
quyền hạn ấy để chiếm đoạt tài sản XHCN mà họ có trách nhiệm trực tiếp quản lý.
Hơn 10 năm thi hành Bộ luật 1985, nội dung của nhiều điều luật không còn
phù hợp và đã được sửa đổi, trong đó có Điều 133 quy định về tội tham ô tài sản
XHCN. Tại Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 133 (Tham ô tài sản XHCN) được
thay thế bằng Điều 278 (Tội tham ô tài sản), nay là Điều 353 BLHS 2015(Sửa đổi
bổ sung 2017) Về khách thể bị xâm hại trong Bộ luật Hình sự 2015 đã mở rộng hơn,
không chỉ còn là tài sản XHCN (tài sản của Nhà nước) mà yếu tố tài sản ở đây đã
được mở rộng với các hình thức sở hữu. Luật sửa đổi đã bỏ yếu tố trực tiếp trong
quản lý tài sản và đưa ra khái niệm có trách nhiệm quản lý nhằm mở rộng phạm vi
chủ thể của tội phạm tham ô, tránh được sự tranh cãi về khái niệm thế nào là trực
tiếp quản lý tài sản. Về xác định giá trị tài sản trong Bộ luật cũng có sự thay đổi,
trước đây tài sản bị tham ô phải có giá trị từ năm triệu đồng trở lên; thì ở Bộ luật
Hình sự 2015 qui định “ " từ hai triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng .... ”.
Thông qua giá trị định lượng vật chất ở đây đã thể hiện quan điểm đấu tranh
mạnh mẽ, triệt để của Đảng và Nhà nước ta với tội phạm tham ô.
Đặc trưng cơ bản nhất của hành vi phạm tội tham ô là lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý. Đây là hành vi sử dụng
và dựa vào quyền năng do chức vụ mà có để làm không đúng, sai với chức trách,
làm trái nguyên tắc chính sách, chế độ, thể lệ về quản lý tài sản thuộc lĩnh vực công
việc của mình phụ trách để chiếm đoạt tài sản. Hành vi làm không đúng có thể là
trong giới hạn được phép nhưng có liên quan đến cương vị công tác hoặc cũng có
thể dùng uy quyền, chức vụ để tác động đến cấp dưới, hoặc người khác. Tài sản bị
tham ô ở đây có thể được hiểu bao hàm tất cả các tài sản thuộc các nhóm sở hữu: tài
sản thuộc sở hữu của Nhà nước; tài sản thuộc sở hữu chung theo phần hoặc sở hữu
chung hỗn hợp.
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý.
- Bị can trong các vụ án tham ô tài sản là những đối tượng có nhiều kinh
nghiệm, hiểu biết cuộc sống, có trình độ chuyên môn, có quan hệ xã hội rộng rãi.
6
1.1.2. Những đặc điểm hình sự của tội phạm tham ô tài sản
"Đặc điểm hình sự tội phạm là sự phản ánh của hệ thống những đặc tính, dấu
hiệu của những vụ tội phạm trong hiện thực khách quan"
Từ đó cho thấy đặc điểm hình sự của tội phạm là một tập hợp thông tin về hệ
thống các đặc điểm, dấu hiệu của một loại tội phạm hoặc một nhóm tội phạm cụ thể
được hình thành trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn điều tra, đóng vai trò là cơ sở đưa ra
những chỉ dẫn tối ưu hoá quá trình thực hiện mục đích điều tra khám phá tội phạm.
Cấu trúc đặc điểm hình sự của tội phạm bao gồm những thông tin về các vấn
đề sau: Dấu vết vật chất của vụ án, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm, thời gian
và địa điểm xảy ra vụ án, diễn biến của quá trình gây án, hoàn cảnh điều kiện xảy ra
vụ án, đối tượng bị xâm hại, mục đích và động cơ gây án, phẩm chất cá nhân của
người phạm tội, của người bị hại và những hoàn cảnh tạo thuận lợi cho tội phạm.
a) Đặc điểm thông tin ban đầu về tội phạm tham ô tài sản:
Để xác định có vụ việc phạm tội xảy ra có căn cứ tiến hành tổ chức hoạt động
điều tra, cơ quan điều tra phải có những thông tin cụ thể về vụ phạm tội. Những
thông tin ban đầu đến với cơ quan điều tra từ nhiều nguồn khác nhau và dưới những
hình thức khác nhau.
Điều 143 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về căn cứ khởi tố vụ
án hình sự như sau:
“Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc
xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1) Tố giác của cá nhân;
2) Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3) Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4) Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước:
5) Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
5) Người phạm tội tự thú”.
Những cơ sở nêu trong điều luật có tính chất quy định chung làm căn cứ để
khởi tố vụ án đối với các loại tội phạm. Song đi sâu nghiên cứu bản chất của các cơ
sở đó, trên cơ sở các tài liệu thực tiễn của hoạt động điều tra tội phạm thì mỗi loại
7
tội phạm hoặc nhóm tội phạm cụ thể sẽ có những đặc tính riêng về nguồn thông tin
ban đầu đối với loại tội phạm hoặc nhóm tội phạm cụ thể ấy.
Theo số liệu thống kê tổng hợp nhiều năm của Cơ quan CSĐT, Cơ quan
CSKT và kết quả nghiên cứu của một số đề tài khoa học về tội phạm và hoạt
động điều tra tội phạm cho thấy các nguồn thông tin ban đầu về các vụ phạm tội
kinh tế nói chung, trong đó có các vụ phạm tội tham ô tài sản được tiếp nhận từ
các nguồn sau:
- Tố giác của cá nhân.
- Tin báo về tội phạm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong đó có
các phương tiện thông tin đại chúng.
- Kết quả hoạt động nghiệp vụ trinh sát
- Kết quả thanh tra của các cơ quan chức năng và hoạt động kiểm sát của Viện
kiểm sát.
- Người phạm tội tự thú.
- Người phạm tội bị bắt quả tang.
- Kết quả khai thác từ các vụ án khác.
Tóm lại thông tin ban đầu về vụ tham ô tài sản thường rất đa dạng phong phú
và đòi hỏi phải phân tích đánh giá sâu.
b) Đặc điểm về địa bàn, lĩnh vực xảy ra tội phạm tham ô tài sản:
Căn cứ số liệu thống kê của các cơ quan chức năng và các thông tin đăng tải
trên các phương tiện thông tin đại chúng thì thấy rằng: tham ô xảy ra ở tất cả các địa
bàn, các lĩnh vực, các địa phương trong toàn quốc, song tập trung chủ yếu ở các
thành phố lớn, các trung tâm kinh tế, các tỉnh có nền kinh tế phát triển. Những khu
vực này được gọi là các địa bàn trọng điểm về kinh tế, đồng thời cũng là những địa
bàn trọng điểm về hoạt động của tội phạm kinh tế. Ở các địa bàn này tập trung nhiều cơ
quan nhà nước, nhiều doanh nghiệp lớn của Nhà nước cũng như của các thành phần
kinh tế khác... Trong đó tham ô tài sản chủ yếu xảy ra ở các doanh nghiệp nhà nước.
Hầu hết các vụ án tham ô lớn được phát hiện trong khoảng thời gian 5 năm trở
lại đây đều xảy ra ở các địa bàn trọng điểm về kinh tế hoặc có liên quan đến các địa
bàn này. Một vụ án tham ô không còn chỉ xảy ra trong một phạm vi hẹp là một cơ
8
quan, một doanh nghiệp như trước đây. Nhiều vụ án tham ô liên quan đến nhiều cơ
quan, doanh nghiệp nhà nước, nhiều cấp từ Trung ương đến cơ sở. Đặc biệt đã có cả
yếu tố nước ngoài trong một số vụ án tham ô được phát hiện trong thời gian gầy đây.
Có những cơ quan, tổ chức trước đây rất ít xảy ra tham ô như lực lượng vũ
trang, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan thuộc tổ chức Đảng... nhưng thời
gian gần đây tham ô đã xảy ra ở đây, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng.
Ở các ngành, các lĩnh vực trong xã hội đều có tham ô xảy ra, nhưng tập trung
chủ yếu ở các ngành, các lĩnh vực trọng điểm tập trung nhiều tài sản, tiền bạc của
nhà nước như Tài chính, Ngân hàng, Kho bạc, Thương mại, Đầu tư xây dựng cơ
bản, Quản lý nhà đất, Bảo hiểm,Y tế, Giáo dục, Dự trữ quốc gia, Giao thông-Vận
tải, thực hiện các chương trình kinh tế-xã hội của Nhà nước v.v...
c) Đặc điểm về đối tượng gây án:
Theo quy định tại Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 sủa đổi bổ sung 2017
thì đối tượng phạm tội tham ô là những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ quyền hạn ấy để chiếm đoạt tài sản mà họ có trách nhiệm quản lý. Chức vụ
ở đây là vị trí làm việc trong hệ thống lãnh đạo, điều hành cơ quan, doanh nghiệp
mà người phạm tội được cấp có thẩm quyền phân công. Quyền hạn ở đây là những
quyền năng đi cùng với các chức vụ ấy và các quyền của những người khác không
giữ chức vụ nhưng được giao những nhiệm vụ có trách nhiệm trong việc quản lý tài
sản của cơ quan, doanh nghiệp nhà nước. Nói cách khác, chủ thể của tội phạm tham
ô là chủ thể đặc biệt. Những người khác không phải chủ thể đặc biệt thì chỉ phạm
tội tham ô khi họ là đồng phạm với những chủ thể phạm tội.
Như vậy, đối tượng phạm tội tham ô là những người có chức vụ, địa vị trong
các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước hoặc những người khác làm việc trong các cơ
quan doanh nghiệp ấy. Những người này thường là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ
quan, doanh nghiệp, những người phụ trách các bộ phận của cơ quan, doanh nghiệp,
những người khác có trách nhiệm, quyền hạn nhất định đối với công tác quản lý tài
sản của cơ quan, doanh nghiệp như nhân viên kế toán, thủ kho, thủ quỹ; nhân viên
nghiệp vụ khác như kế hoạch, cung ứng vật tư, kỹ thuật viên v.v...
9
Trong cơ chế quản lý hành chính tập trung, bao cấp trước đây, đối tượng tham
ô thường chỉ tập trung ở những đối tượng giữ các chức vụ thấp, những nhân viên
nghiệp vụ như: thủ kho, thủ quỹ, kế toán... và ở các cơ quan, doanh nghiệp cấp thấp,
ở những bộ phận trực thuộc v.v... Nhưng từ khi có sự chuyển đổi cơ chế, địa vị,
chức vụ của các đối tượng khi phạm tội tham ô đã thay đổi rất nhiều. Nhiều đối
tượng phạm tội tham ô giữ những chức vụ, cương vị quan trọng trong hệ thống các
cơ quan chính quyền nhà nước như lãnh đạo cấp Bộ, Lãnh đạo các Tổng cục, Vụ,
Cục của các Bộ. Nhiều người giữ những chức vụ quan trọng trong các doanh nghiệp
nhà nước như Tổng Giám đốc, Phó tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc các
tổng công ty, công ty, các viện nghiên cứu... Hầu hết các vụ án tham ô tài sản
nghiêm trọng được phát hiện trong thời gian gần đây đều có liên quan đến những
người đứng đầu các cơ quan, doanh nghiệp nơi xảy ra vụ án.
d) Thành phần, đặc điểm tâm lý đối tượng:
Các đối tượng tham ô chiếm phần lớn là những người có trình độ văn hoá cao,
có trình độ chuyên môn được đào tạo có hệ thống, nhất là về nghiệp vụ quản lý kinh
tế. Đây là một đặc điểm rất quan trọng trong tổ chức điều tra các vụ án tham ô.
Với đặc điểm này của tội phạm tham ô, trong việc lập kế hoạch điều tra cần
cân nhắc tính toán việc bố trí phân công ĐTV sao cho thích hợp với từng đối tượng
cụ thể. Ngoài yêu cầu về kinh nghiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ĐTV được
phân công điều tra loại án này đòi hỏi phải có thêm những phẩm chất khác như có
kinh nghiệm sống, có kiến thức xã hội, có nghiệp vụ và những hiểu biết nhất định
về nghiệp vụ chuyên môn liên quan trực tiếp đến đối tượng phạm tội, đặc biệt là đối
với ĐTV được phân công hỏi cung bị can.
Từ đặc điểm này cần chú ý một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
điều tra vụ án, đó là: Do có chức vụ quyền hạn, nhiều đối tượng phạm tội giữ những
cương vị lãnh đạo quan trọng do đó họ thường có những quan hệ xã hội rộng rãi và
phức tạp, nhất là có quan hệ với những người có chức, có quyền, trong hệ thống bộ
máy nhà nước do đó dễ tạo ra những vụ án tham ô lớn bị “chìm xuồng” cùng với
thời gian...
10
Cũng do có những quyền hạn nhất định, các đối tượng thường sử dụng các
quyền hạn đó để thực hiện hành vi che giấu tội phạm và cản trở hoạt động điều tra
như khống chế những nhân viên dưới quyền không được tạo điều kiện thuật lợi cho
hoạt động điều tra, hoặc những người dưới quyền phải tham gia vào việc hợp pháp hoá
hoặc thủ tiêu các tài liệu, chứng cứ về tội phạm... Thậm chí có khi họ dùng quyền hành
để đổ tội cho người khác để lẩn tránh trách nhiệm.
đ) Đặc điểm về thủ đoạn phạm tội và che giấu tội phạm:
Cũng như các tội phạm khác một vụ tham ô xảy ra là kết quả của một loạt các
hành vi nhất định của chủ thể phạm tội. Những hành vi được gọi là thủ đoạn phạm
tội (hay thủ đoạn gây án) chỉ có ở những tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý.
Những hành vi ấy vừa nhằm mục đích phạm tội, vừa nhằm che giấu tội phạm.
Trong Bộ luật Hình sự có đề cập đến thủ đoạn phạm tội nhưng đó chỉ là những quy
định chung có tính khái quát và không phải khi nào cũng được thể hiện rõ trong
hành vi của đối tượng gây án mà phải phân tích, mổ xẻ, chứng minh.
Đây là một yêu cầu rất quan trọng, bởi vì "Từ phương thức, thủ đoạn
thực hiện tội phạm mà nghiên cứu phương pháp chiến thuật khám phá tội phạm đó"
Tham ô tài sản là loại tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Người phạm tội sử
dụng chính ngay quyền hạn và nghiệp vụ của mình trong việc quản lý tài sản để
thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, thủ đoạn phạm tội và che giấu tội phạm của loại
tội phạm này thường rất tinh vi và phức tạp. Tính chất phức tạp và tinh vi còn thể
hiện ở hiện tượng sau: Trong thực tế nhiều khi để nhận biết được đối tượng phạm
tội tham ô nói riêng và tham nhũng nói chung không khó, chỉ cần quan sát điều kiện
sống và sinh hoạt của chúng là có thể nhận biết ngay được. Song để chứng minh
chúng đã phạm tội tham ô thì lại là một công việc không đơn giản. Chính vì vậy số
vụ án tham ô tài sản được phát hiện và xử lý trong những năm gần đây không tăng
nhưng vẫn có thể nhận định tội phạm tham ô nói riêng và tham nhũng nói chung
ngày càng nghiêm trọng và phức tạp.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, thủ đoạn phạm tội tham ô có những đặc điểm
riêng có tính đặc thù. Song về bản chất chung của thủ đoạn tham ô là những cách
thức để chiếm đoạt tài sản và hợp pháp hoá tài sản bị chiếm đoạt. Cách thức chung
11
phổ biến nhất là lập chứng từ giả mạo về các chi phí để rút tiền, tài sản ra khỏi sự
quản lý, kiểm soát của cơ quan, doanh nghiệp để chiếm đoạt tài sản đó. Chứng từ
giả mạo ở đây cần phải được hiểu là chứng từ được hợp thức hoá về mặt hình thức,
hoặc hình thức biểu hiện bên ngoài của chứng từ là như thật (theo đúng quy định
của Nhà nước) nhưng nội dung là giả là trái với sự thật.
Người phạm tội tham ô luôn tìm những thủ đoạn mới trong cách thực hiện và
che giấu tội phạm. Những thủ đoạn mới đã dần thay thế các thủ đoạn tham ô “cổ
điển” như tẩy xoá, sửa chữa chứng từ, sổ sách bằng các phương pháp cơ học hoặc
hoá học...
Khác với một số loại tội phạm khác, vụ án tham ô tài sản thường là một quá
trình được thực hiện bằng một loạt các hành vi tham ô (thực hiện tham ô nhiều lần)
trong những khoảng thời gian nhất định, có khi liên tục, có khi gián đoạn; tài sản bị
chiếm đoạt nhiều lần. Do đó nếu có bị phát hiện thì cơ quan điều tra cũng không dễ
gì phát hiện được toàn bộ các hành vi tham ô mà đối tượng phạm tội đã thực hiện.
Đây là một thủ đoạn tham ô rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Thực tế hiện nay
cho thấy rất ít vụ án tham ô mà hành vi chiếm đoạt tài sản có khối lượng lớn diễn ra
một cách chớp nhoáng bởi vì như vậy rất dễ bị phát hiện và làm rõ.
Bằng kinh nghiệm thực tiễn, nhiều cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các
ngành bảo vệ pháp luật đã đưa ra kết luận: Chỉ cần chứng minh được 50% số tài sản
bị chiếm đoạt trong một vụ án tham ô đã là thắng lợi lớn. Điều đó có nghĩa là rất
khó có thể chứng minh làm rõ được toàn bộ các hành vi phạm tội đã thực hiện trong
các vụ án tham ô kéo dài.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và quá trình hoàn thiện các cơ chế quản
lý kinh tế, thủ đoạn phạm tội của tội phạm tham ô ngày càng phức tạp về nội dung
và đa dạng về hình thức.
Thủ đoạn phạm tội tham ô thường biểu hiện phổ biến dưới các hình thức sau:
- Đánh tráo tài sản: Đưa tài sản có giá trị thấp vào tráo lấy tài sản có giá trị cao
để chiếm đoạt (bán đi lấy chênh lệch hoặc sử dụng trực tiếp cho nhu cầu của đối
tượng phạm tội).
12
- Đưa vào các công trình xây dựng những vật tư, nguyên liệu... không đúng
chủng loại, có giá trị thấp hơn giá trị dự toán tạo ra khoản chênh lệch để chiếm đoạt.
- Khai khống, nâng khối lượng công việc đã thực hiện, khai khống chi phí
nhân công... tạo ra chênh lệch về chi phí để chiếm đoạt.
- Móc ngoặc giữa chủ đầu tư (bên A) với nhà thầu (bên B) hoặc thông đồng
mua chuộc cán bộ giám sát thi công, cán bộ giám định để thực hiện các hành vi gian
dối trong thi công công trình hoặc mua bán vật tư, vật liệu... nhằm tạo chênh lệch để
chiếm đoạt.
- Nâng định mức kinh tế-kỹ thuật trong sản xuất, kinh doanh từ đó dẫn đến
nâng khống giá trị chi phí tạo chênh lệch để chiếm đoạt.
- Trong đấu thầu xây lắp công trình, mua sắm vật tự, tài sản... chủ đầu tư và
nhà thầu thông đồng với nhau để thực hiện mục đích tham ô.
- Hạ giá sản phẩm sản xuất ra hoặc tài sản thanh lý thấp hơn so với giá trị thực
và giá bán thực tế, tạo chênh lệch để chiếm đoạt.
Những người phạm tội tham ô tài sản còn dùng một số thủ đoạn che giấu tội
phạm như:
- Thủ tiêu các tài liệu, chứng cứ bằng cách gây ra hoả hoạn. Thủ tiêu tài liệu,
chứng từ rồi tạo hiện trường giả vụ trộm v.v...
- Không sử dụng trực tiếp các tài sản chiếm đoạt là các vật cụ thể cho các nhu
cầu sinh hoạt cá nhân mà bán các tài sản đó đi, chuyển đổi thành vàng, ngoại tệ hoặc các
tài sản có giá trị khác để cất giấu hoặc sử dụng vào các việc như: cho vay, gửi vào ngân
hàng, đầu tư vào kinh doanh v.v...
- Tìm mọi cách hợp pháp hoá tiền và tài sản do phạm pháp dưới dạng quà biếu,
được thừa kế, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh; mua vé số trúng thưởng
v.v...
- Sử dụng các mối quan hệ với các nhân vật có địa vị, chức vụ cao trong xã hội
để bao che hành vi phạm tội (hiện tượng "ô dù").
- Sử dụng quyền hành khống chế những người dưới quyền, cản trở họ tố giác
với cơ quan chức năng... Hoặc không trực tiếp thực hiện tội phạm mà tạo điều kiện
13
cho người khác phạm tội rồi cùng chiếm đoạt tài sản, nếu có bị bại lộ thì chỉ có vi
phạm “thiếu trách nhiệm...”.
- Dùng các thủ thuật nghiệp vụ kế toán và các chế độ quản lý kinh tế khác
trong hạch toán tạo ra hiện tượng lỗ giả trong kết quả hoạt động kinh doanh để che
giấu hành vi chiếm đoạt tài sản. Đây là một thủ đoạn khá phổ biến trong giai đoạn
hiện nay.
- Tạo ra tình huống phá sản, thanh lý tài sản; hạ giá để chuyển nhượng... và
nhiều thủ đoạn khác.
- Trong những năm gần đây xuất hiện hình thức mới là “tham nhũng chính
sách”. Đó là những người có quyền lực sử dụng nó để xây dựng, ban hành chính
sách đó móc ngoặc với các tập đoàn, tổng công ty để xây dựng, ban hành những
chính sách có lợi, sau đó chia nhau những lợi ích như tăng giá một mặt hàng, giảm
giá hàng loạt, hạn chế hay nối rộng hạng ngạch xuất nhập khẩu,…chỉ cần một quyết
định sẽ tạo ra lợi ích hàng nghìn tỷ đồng chia nhau.
e) Đặc điểm về tài sản bị chiếm đoạt của tội phạm tham ô:
Ngày nay, những vụ tham ô có giá trị tài sản bị chiếm đoạt lớn, đối tượng
tham ô không sử dụng trực tiếp tài sản chiếm đoạt được cho nhu cầu cuộc sống mà
được chuyển đổi thành tiền và các tài sản có giá trị khác (vàng, ngoại tệ, đá quí) để
cất giữ và sử dụng dần cho nhu cầu cuộc sống của cá nhân và gia đình. Ngoài ra,
chúng còn sử dụng vào các việc khác như: mua bất động sản, gửi vào ngân hàng,
cho vay lãi, đầu tư vào kinh doanh...
Cùng với nhiệm vụ chính của hoạt động điều tra tội phạm tham ô tài sản là
khám phá; làm rõ sự thật của vụ án thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm một
trong những yêu cầu rất quan trọng của hoạt động điều tra loại tội phạm này là thu hồi
triệt để tài sản bị chiếm đoạt. Do đó, nghiên cứu nắm vững các đặc điểm về tài sản bị
chiếm đoạt trong các vụ án tham ô tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động
điều tra cũng như trong công tác bảo vệ tài sản cho Nhà nước và nhân dân.
g) Đặc điểm về quan hệ giữa tội phạm tham ô tài sản và các tội phạm khác
Thực tiễn kết quả hoạt động điều tra, khám phá tội phạm tham ô trong những
năm gần đây cho thấy trong các vụ án tham ô lớn hầu hết đều có các tội phạm khác
14
đi cùng. Các tội phạm khác thường gặp là: tội nhận hối lộ, Tội lạm dụng chức vụ
chiếm đoạt tài sản, Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người
khác để trục lợi v.v...
Thực tiễn cho thấy tội phạm tham ô không chỉ đi liền và gắn với các tội phạm
kinh tế khác mà nó còn có mối quan hệ với một số tội phạm và tệ nạn khác như: cờ
bạc, mại dâm, ma tuý v.v... Sau khi có được tài sản, bọn tội phạm tham ô thường sa
vào cuộc sống hưởng lạc, ăn chơi sa đoạ; cờ bạc, mại dâm đã trở thành bạn đồng
hành và nhu cầu sống hàng ngày của bọn chúng.
Nắm vững mối quan hệ giữa tội phạm tham ô với các tội phạm khác sẽ giúp
cho ĐTV trong hoạt động điều tra tội phạm tham ô hoạch định được nhiều phương
án điều tra, biết sử dụng các đặc điểm này để mở rộng khám phá tội phạm. Trong
lập kế hoạch điều tra các vụ án tham ô, nhất là các vụ án có tính chất phức tạp và
nghiêm trọng cần đề cập tới vấn đề chứng minh làm rõ các tội phạm khác có liên
quan. Điều đó góp phần quan trọng để bảo đảm thực hiện nguyên tắc không để sót,
lọt tội phạm.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về chiến thuật hỏi cung bị can trong quá
trình điều tra vụ án tham ô tài sản.
1.2.1. Khái niệm, nhiệm vụ, nguyên tắc của hỏi cung bị can phạm tội tham ô
tài sản .
1.2.1.1. Khái niệm:
Dưới góc độ khoa học điều tra hình sự, khái niệm hỏi cung bị can phạm tội
tham ô được hiểu như sau:
Hỏi cung bị can là một hoạt động điều tra do ĐTV tiến hành theo trình tự tố
tụng hình sự nhằm phát hiện và thu thập từ những lời khai của bị can những thông
tin có giá trị chứng cứ phản ánh về vụ phạm tội tham ô tải sản, những nội dung tình
tiết liên quan đến vụ án tham ô tài sản, hành vi phạm tội của bị can, đồng bọn và
những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với công tác điều tra, truy tố,
xét xử người phạm tội và phòng ngừa tội phạm.
Thực tiễn hoạt động điều tra cho thấy, hỏi cung bị can nói chung và tham ô tài
sản nói riêng là một biện pháp điều tra phổ biến, rất phức tạp. Tính phức tạp của hỏi
15
cung bị can tham ô được thể hiện ở chỗ trong quá trình hỏi cung thường xảy ra mâu
thuẫn gay gắt giữa một bên là ĐTV luôn mong muốn thu thập được những thông tin
chính xác phản ánh sự thật khách quan của vụ án từ lời khai của bị can và một bên
là bị can luôn tìm mọi thủ đoạn cản trở quá trình thu thập thông tin của ĐTV.
Những mâu thuẫn thường xảy ra trong quá trình hỏi cung có thể là bị can từ chối
khai báo, bị can khai báo gian dối. Tuy nhiên, có những trường hợp bị can không cố
tình khai báo gian dối, mà do bị can bị hạn chế về khả năng nhận biết, trí nhớ... nên
đã dẫn đến khai không đầy đủ hoặc khai sai một số tình tiết về vụ án. Bên cạnh đó,
quá trình hỏi cung bị can còn chịu sự ảnh hưởng, tác động bởi những yếu tố tâm lý
của chính chủ thể và khách thể của quá trình hỏi cung.
Mục đích của hỏi cung được thể hiện ở chỗ nhằm thu thập củng cố những tài
liệu, chứng cứ chứng minh làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Ngoài xác định rõ
vụ việc và người phạm tội đồng phạm trong vụ án, hỏi cung bị can còn có vai trò
quan trọng trong việc tìm ra những nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh tội phạm
để áp dụng những biện pháp phòng ngừa phù hợp và thu lại tài sản, lấy căn cứ để
đấu tranh làm rõ vai trò cầm đầu, đồng phạm với các bị can khác.
1.2.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can phạm tội tham ô tài sản.
Từ lý luận và thực tiễn đã xác định nhiệm vụ của hỏi cung bị can phạm tội
tham ô tài sản gồm:
a) Kịp thời làm rõ những người phạm tội, đồng phạm những tài sản vật chứng
còn cất dấu để kịp thời thu giữ và phát hiện sớm những âm mưu và hành động tiếp
tục gây án, đang gây án hoặc chuẩn bị gây án để kịp thời ngăn chặn. Đây là nhiệm
vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động điều tra các vụ án tham ô tài sản,
đặc biệt các vụ án tham ô tài sản có tính đồng phạm. Thực hiện tốt nhiệm vụ này,
giúp cho ĐTV có điều kiện thuận lợi để hoàn thành việc điều tra, khám phá vụ án.
Mặt khác, kịp thời ngăn chặn không để tội phạm xảy ra hoặc có thể hạn chế đến
mức thấp nhất những hậu quả thiệt hại do tội phạm gây ra.
b) Xác định rõ nội dung vụ án, vai trò, vị trí mức độ phạm tội của từng đối
tượng, thủ đoạn gây án và che dấu tội phạm, động cơ, mục đích phạm tội, tài sản bị
chiếm đoạt để lập hồ sơ đề nghị truy tố.
16
Thực hiện tốt nhiệm vụ này, giúp cho việc điều tra xác định đúng người, đúng tội,
đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không làm oan người vô
tội. Tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân đối với cuộc đấu tranh chống tội
phạm. Có cơ sở để theo dõi tài sản sau này.
c) Khai thác mở rộng nhằm phát hiện thêm và làm rõ các hoạt động phạm tội
của từng bị can và các đối tượng ổ nhóm tội phạm khác. Thu thập những tin tức, tài
liệu về hoạt động của những tên tội phạm hay ổ nhóm tội phạm khác mà bị can biết.
Nhiệm vụ này đòi hỏi trong quá trình hỏi cung bị can, ĐTV cần thu thập và sử
dụng triệt để những tài liệu phản ánh về đặc điểm nhân thân, các quan hệ về quá khứ
của từng bị can, về những vụ phạm tội đã xảy ra trước đó nhưng chưa được điều tra,
khám phá. Khai thác và sử dụng triệt để những mâu thuẫn giữa các thành viên trong vụ
án để làm rõ quá trình hoạt động phạm tội của từng bị can và đồng bọn.
d) Làm rõ nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm và những sơ hở
thiếu sót trong hoạt động điều tra để có biện pháp khắc phục, ngăn ngừa tội phạm.
Thực hiện tốt nhiệm vụ này, giúp cho ĐTV chủ động tìm ra và đề xuất những
biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và tham ô tài sản nói riêng có hiệu quả,
không để cho tội phạm tiếp tục phạm tội hoặc nảy sinh tội phạm mới.
Tóm lại: Thực hiện tốt được các nhiệm vụ trên trong quá trình hỏi cung bị can
nó không chỉ thể hiện tính nhanh chóng, khách quan, toàn diện và đầy đủ của hoạt động
điều tra, mà còn thể hiện tính tích cực phòng ngừa tội phạm của biện pháp hỏi cung nói
riêng và của hoạt động điều tra nói chung.
1.2.1.3. Nguyên tắc của hỏi cung bị can phạm tội tham ô
Hỏi cung là một biện pháp điều tra có liên quan trực tiếp đến quyền tự do thân
thể, danh dự và nhân phẩm của con người. Cho nên, trong quá trình hỏi cung bị can
phạm tội tham ô phải chấp hành theo những nguyên tắc nhất định.
a) Nghiêm chỉnh tuân theo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước có liên quan đến hỏi cung bị can.
Trong quá trình tiến hành hỏi cung bị can, ĐTV phải luôn lấy đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước làm cơ sở, nội dung để giáo dục,
thuyết phục bị can khai báo, coi đây là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
17
Thực hiện nguyên tắc này, trong mọi trường hợp việc hỏi cung bị can phạm tội
tham ô phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng hình sự được quy
định tại các Điều 182, 183, 184 BLTTHS năm 2015
b) Nghiêm cấm bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can.
Quá trình tiến hành hỏi cung bị can, ĐTV phải tôn trọng và bảo vệ những
quyền và lợi ích hợp pháp của con người được pháp luật quy định, tất cả những
hành vi xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của con người đều là vi phạm
pháp luật.
Thực hiện nguyên tắc này, ĐTV cần nắm vững và hiểu về bức cung và nhục
hình như sau:
- Bức cung: Là người tiến hành hoạt động điều tra áp dụng những thủ đoạn trái
pháp luật buộc người bị thẩm vấn phải khai sai sự thật gây hậu quả nghiêm trọng
cho việc giải quyết vụ án. Những thủ đoạn này thường được thể hiện thông qua các
hành vi tác động đến thể chất và tâm lý của người bị thẩm vấn như:
+ Tra tấn, gây đau đớn về thể xác, tổn hại về sức khoẻ cho bị can, buộc bị can
phải khai theo ý muốn chủ quan của ĐTV mặc dù những lời khai này là không đúng
sự thật.
+ Đe doạ về tinh thần của bị can.
+ Dùng những hành vi dụ dỗ, đánh lừa bị can...
+ Dùng lý lẽ ngụy biện truy vặn, dồn bị can vào thế bí không giải thích được.
- Nhục hình: là người tiến hành hoạt động điều tra có hành vi dùng vũ lực đối
với bị can như: đánh đập, không cho ăn uống, phơi nắng, cùm chân, xích tay. và
bằng các hình thức khác tác động về mặt tâm lý làm cho bị can đau đớn về thể xác
và tinh thần. Việc áp dụng các hình thức nhục hình cũng có thể nhằm mục đích bức
cung hoặc cũng có thể nhằm mục đích trả thù do có những mặc cảm, thù tức cá
nhân đối với bị can.
Mọi biểu hiện bức cung, nhục hình đều có thể dẫn đến những hậu quả xấu
thậm chí ĐTV có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trên đây là một số những nguyên tắc cần quán triệt trong công tác hỏi cung,
ĐTV cần nhận thức đúng đắn về bản chất, nội dung của các nguyên tắc và phải
18
chấp hành nghiêm chỉnh trong quá trình hỏi cung. Đồng thời, trong quá trình thực
hiện không được coi nặng hoặc xem nhẹ nguyên tắc nào. Thực hiện tốt các nguyên
tắc trên chính là giúp cho việc hỏi cung bị can đạt được mục đích, tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác điều tra khám phá các vụ án.
1.2.2. Chiến thuật hỏi cung bị can.
Để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm hiện nay, lý luận về
chiến thuật hỏi cung bị can từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Trên cơ sở
nghiên cứu lý luận về chiến thuật hỏi cung bị can được trình bày trong một số tài
liệu, giáo trình và dựa trên cơ sở các khái niệm “Chiến thuật điều tra hình sự”, “thủ
thuật chiến thuật” theo chúng tôi khái niệm về “Chiến thuật hỏi cung” được hiểu
như sau:
Chiến thuật hỏi cung bị can là hệ thống những thủ thuật và những chỉ dẫn
chiến thuật được xây dựng trên cơ sở Bộ luật Tố tụng hình sự và thực tiễn hoạt
động điều tra về chuẩn bị hỏi cung, tiến hành hỏi cung, lập biên bản hỏi cung,
nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá và sử dụng kết quả hỏi cung để chứng minh sự thật
của vụ án.
Như vậy, tính chiến thuật của hỏi cung bị can được thể hiện ở chỗ, tùy từng
tình huống cụ thể trong từng giai đoạn của quá trình hỏi cung, ĐTV lựa chọn những
hành vi ứng xử (thủ đoạn thực hiện hành vi) có hiệu quả cao nhất để đạt được mục
đích của cuộc hỏi cung.
Chiến thuật hỏi cung bị can bao gồm:
a) Chuẩn bị hỏi cung bị can.
Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra phức tạp, hiệu quả của nó phụ thuộc
vào công tác chuẩn bị của ĐTV. Nếu công tác chuẩn bị được tiến hành khoa học,
chu đáo, sẽ tạo điều kiện cho ĐTV chủ động, linh hoạt, sáng tạo lựa chọn và áp dụng
những thủ thuật, chiến thuật hỏi cung phù hợp trong từng tình huống cụ thể để thu thập
lời khai của bị can một cách đầy đủ, chính xác và thuận lợi, không bị rơi vào tình thế bị
động, lúng túng trước những diễn biến phức tạp của cuộc hỏi cung. Đặc biệt, trong
công tác hỏi cung bị can các vụ án tham ô tài sản thì việc chuẩn bị hỏi cung là yêu cầu
vô cùng cần thiết. Nội dung của việc chuẩn bị hỏi cung bao gồm:
19
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án và các tài liệu có liên quan:
Mục đích của việc nghiên cứu này giúp cho ĐTV nắm được nội dung, diễn
biến của vụ án, hành vi phạm tội của bị can và đồng bọn cùng đặc điểm nhân thân của
chúng. Từ đó, xác định những vấn đề cần làm rõ trong quá trình hỏi cung, dự kiến
những tình huống có thể xảy ra và những thủ thuật chiến thuật cần áp dụng, xác định
những tài liệu, chứng cứ cần sử dụng trong quá trình hỏi cung. Ngoài ra, còn giúp cho
ĐTV có khả năng kiểm tra, đánh giá lời khai của bị can ngay trong quá trình hỏi cung.
Phạm vi những tài liệu, chứng cứ cần nghiên cứu gồm:
+ Những tài liệu, chứng cứ thu thập được từ các hoạt động điều tra tố tụng
hình sự như: biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của người bị hại, người
làm chứng, các lời khai có liên quan kết luận giám định...
+ Những tài liệu thu thập được từ biện pháp trinh sát phản ánh về những mối
quan hệ, những hành vi nghi vấn... của bị can vào thời điểm trước, trong và sau khi
vụ án xảy ra như: báo cáo của trinh sát, đặc tình, cơ sở bí mật,tài liệu của trinh sát
kỹ thuật, những nguồn tài liệu khác...
+ Những tài liệu có liên quan đến hoạt động phạm tội và các hoạt động khác
của bị can trước đó như: trích lục tiền án, tiền sự,tiểu sử quan hệ bản thân hồ sơ
những vụ án do bị can gây ra trước đây...
+ Những tài liệu, chứng cứ thu thập được về những vụ án chưa được điều tra
khám phá nhưng ĐTV có cơ sở nhận định những vụ án đó là do chính bị can gây ra.
+ Những tài liệu phản ánh về đặc điểm nhân thân của bị can như: quan hệ gia
đình, quan hệ xã hội, nghề nghiệp, điều kiện sống, môi trường giáo dục, đặc điểm
tâm lý, tính cách và sở trường...
Trên cơ sở nghiên cứu, ĐTV cần phải xác định rõ những vấn đề cần phải làm
rõ trong quá trình hỏi cung; những tài liệu, chứng cứ cần phải thu thập, bổ sung hoặc
cần được kiểm tra, xác minh lại để sử dụng trong quá trình hỏi cung; những tài liệu,
chứng cứ có thể và cần phải sử dụng trong quá trình hỏi cung.
- Lập kế hoạch hỏi cung:
Lập kế hoạch hỏi cung là ĐTV căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ cần đạt được
của hoạt động điều tra vụ án để dự kiến và nêu ra những công việc cần giải quyết,
20
những tình huống có thể phát sinh trong quá trình hỏi cung và biện pháp giải quyết
tình huống đó.
Nội dung của bản kế hoạch hỏi cung bao gồm các vấn đề sau:
+ Xác định những vấn đề cần phải làm rõ trong quá trình hỏi cung.
+ Những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được về vụ án và hành vi phạm tội của
bị can, những tài liệu chứng cứ khác có thể và cần sử dụng trong quá trình hỏi cung.
+ Dự kiến những câu hỏi cần đưa ra để bị can trả lời:
Trong bản kế hoạch hỏi cung, ĐTV cần dự kiến những câu hỏi và trình tự đưa
ra các câu hỏi để bị can trả lời, nhưng chú ý đảm bảo cho những câu hỏi đó phải rõ
ràng, cụ thể và có liên quan đến những vấn đề cần làm rõ. Đồng thời, bảo đảm tính
lôgic và có cơ sở của các câu hỏi đó. Thông thường, những câu hỏi được đưa ra bao
gồm các dạng câu hỏi sau:
* Câu hỏi thẳng.
* Câu hỏi bổ sung lời khai.
* Câu hỏi làm chính xác lời khai.
* Câu hỏi gợi nhớ.
* Câu hỏi kiểm tra.
* Câu hỏi vạch trần lời khai gian dối.
+ Dự kiến chiến thuật hỏi:
Trên cơ sở những tài liệu, chứng cứ về vụ án đã thu thập được, đặc điểm nhân
thân của bị can và những vấn đề cần làm rõ trong quá trình hỏi cung... ĐTV cần dự
kiến những tài liệu, chứng cứ được đưa ra sử dụng trong khi hỏi cung, thời điểm sẽ
đưa những tài liệu, chứng cứ đó ra để đấu tranh với bị can, các biện pháp cần thiết
để bảo đảm an toàn những tài liệu, chứng cứ đó khi đưa ra sử dụng, nơi bảo quản
chúng trước khi đưa ra sử dụng. Dự kiến những thủ thuật chiến thuật thích hợp đối
với từng tình huống cụ thể có thể nảy sinh trong quá trình hỏi cung.Dự kiến những
thủ thuật tác động tâm lý, sử dụng mâu thuẫn và những tình huống có thể xảy ra
trong khi hỏi cung, kế hoạch phối hợp với các lực lượng và biện pháp nghiệp vụ
khác phục vụ cho hoạt động hỏi cung.
+ Lựa chọn thời gian và địa điểm tiến hành hỏi cung.
21
* Về thời gian: Trong mọi trường hợp, việc lựa chọn thời gian tiến hành hỏi
cung bị can phải căn cứ vào yêu cầu của pháp luật. Song trong các vụ án tham ô tài
sản việc lựa chọn thời gian tiến hành hỏi cung đối với từng bị can đòi hỏi ĐTV phải
dựa trên cơ sở tính toán, cân nhắc đến tầm quan trọng của những thông tin mà ĐTV
biết được, mối quan hệ của các bị can trong vụ án, cũng như vai trò, vị trí của bị can
đó trong vụ án. Ngoài ra, ĐTV cần căn cứ vào tình trạng sức khoẻ của bị can,
những xúc động mà bị can trải qua trong thời điểm xảy ra vụ án. Từ các vấn đề trên,
ĐTV xây dựng và lựa chọn một trình tự hỏi cung các bị can về mặt thời gian sao
cho có hiệu quả nhất.
* Về địa điểm: Trong mọi trường hợp tốt nhất là đưa về phòng hỏi cung của
cơ quan điều tra, việc lựa chọn địa điểm hỏi cung bị can, ĐTV phải tính toán lựa
chọn địa điểm có nhiều thuận lợi cho việc hỏi cung như: địa điểm mà bị can không
có khả năng chạy trốn, hành hung ĐTV, thông cung. Đặc biệt phải xem xét các vật
dụng trong phòng hỏi cung phải loại trừ những thứ có thể dùng làm hung khí. Ngoài
ra, không làm cho bị can phân tán tư tưởng khi hỏi cung, có khả năng giữ được bí
mật về nội dung cuộc hỏi cung.
+ Xác định hình thức triệu tập bị can
Việc xác định hình thức triệu tập bị can ĐTV cần tính toán sao cho có lợi cho
việc thiết lập sự tiếp xúc tâm lý giữa ĐTV và bị can, giữ được bí mật với những đối
tượng khác. Đồng thời, phải đảm bảo đúng các yêu cầu của pháp luật về việc triệu
tập bị can.
+ Lựa chọn và phân công ĐTV tiến hành hỏi cung
Thông thường ĐTV thụ lý điều tra vụ án sẽ trực tiếp tiến hành hỏi cung.
Nhưng trong trường hợp điều tra theo nhóm, hoặc vụ án có nhiều bị can hoặc có yêu
cầu khác đặt ra thì cần bố trí, lựa chọn ĐTV phù hợp về độ tuổi, đặc điểm tâm lý,
tính cách... với bị can cần phải hỏi cung.
- Chuẩn bị những phương tiện cần thiết cho cuộc hỏi cung:
Bước tiếp theo sau khi lập kế hoạch hỏi cung là ĐTV chuẩn bị những phương
tiện phục vụ cho việc hỏi cung như: giấy, bút, biên bản hỏi cung, máy ghi âm,
camera, phương tiện giao thông, thông tin liên lạc, buồng hỏi cung và các phương
22
tiện kỹ thuật cần thiết khác. Tuỳ theo tính chất, mức độ yêu cầu của vấn đề cần giải
quyết; thái độ tâm lý của đối tượng... mà tính toán phương tiện cần sử dụng.
Trên đây là những nội dung cơ bản cần tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị hỏi
cung. Song những nội dung này không phải là cố định, mà trong từng trường hợp cụ
thể, nó có thể được bổ sung, thay đổi. Thực hiện tốt những nội dung trên có ý nghĩa
hết sức quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những bước tiếp theo
trong quá trình hỏi cung bị can.
b) Tiến hành hỏi cung bị can
Đây là giai đoạn ĐTV tiến hành thu thập lời khai của bị can theo trình tự và
nội dung mà bản kế hoạch hỏi cung đã đề ra. Tuy nhiên, trong quá trình hỏi cung,
ĐTV cần phải linh hoạt, sáng tạo khi thực hiện các nội dung đó. Thông thường, việc
tiến hành hỏi cung bị can được thực hiện qua các bước sau:
- Giải quyết các thủ tục tố tụng hình sự cần thiết, không chỉ đơn thuần là
những yêu cầu của pháp luật, mà còn thể hiện tính chiến thuật trong hỏi cung bị can.
Để giải quyết vấn đề này, ĐTV cần thực hiện các công việc sau:
+ Sau khi đến buồng hỏi cung, ĐTV vào phòng hỏi cung trước để kiểm tra
phòng, rồi sau đó yêu cầu bị can vào phòng, ngồi đúng nơi quy định.
+ Tiến hành nhận dạng và kiểm tra căn cước của bị can.
+ ĐTV tự giới thiệu mình với bị can.
+ Đọc quyết định khởi tố bị can, giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can.
+ Nếu có người bào chữa, người phiên dịch tham dự buổi hỏi cung thì ĐTV
cũng cần giải thích quyền và nghĩa vụ của họ. Việc giải thích phải được ghi vào
biên bản. Trong trường hợp đối với người đại diện hợp pháp của bị can tham dự
buổi hỏi cung thì cũng tiến hành như vậy.
- Thiết lập sự tiếp xúc tâm lý giữa ĐTV và bị can
“Thiết lập sự tiếp xúc tâm lý giữa ĐTV và bị can” hay còn gọi là “giai đoạn
tìm hiểu”, “giai đoạn giao tiếp” là quá trình ĐTV thông qua các hình thức như:
thăm hỏi, giải thích, khuyên nhủ... làm cho bị can hiểu được nhiệm vụ và trách
23
nhiệm của ĐTV, sự vô tư của ĐTV khi hỏi cung, tạo ra môi trường tâm lý thuận
lợi cho quá trình hỏi cung.
Thông qua quá trình này, ĐTV có thể tìm hiểu, nắm bắt được đặc điểm tâm lý,
tính cách, diễn biến tư tưởng của bị can, để cảm hoá giáo dục bị can... Quá trình này
chỉ tác động bởi những yếu tố: điều kiện hoàn cảnh diễn ra hỏi cung, nghệ thuật ứng
xử của ĐTV, khả năng tự chủ, âm thanh, giọng nói, thái độ, tác phong của ĐTV...
Để cho quá trình thiết lập sự tiếp xúc đạt được hiệu quả, ĐTV cần lựa chọn nội
dung, cách tiếp xúc phù hợp đối với từng bị can cụ thể. Đồng thời phải chuẩn bị nội
dung thật cụ thể cho sự tiếp xúc, những nội dung đó bao gồm:
+ Xác định mục đích, yêu cầu và nội dung của sự tiếp xúc.
+ Biện pháp và thời gian, địa điểm thực hiện nội dung tiếp xúc.
- Hỏi cung bị can theo nội dung đã dự kiến trong bản kế hoạch hỏi cung
Tùy thuộc vào thái độ khai báo của bị can để ĐTV lựa chọn thủ thuật chiến
thuật hỏi cung phù hợp. Sau đây là những tình huống khai báo cụ thể của bị can và
những thủ thuật hỏi cung được áp dụng trong các tình huống cụ thể đó.
+ Tình huống bị can khai báo thành khẩn
Đây là tình huống thuận lợi trong công tác hỏi cung. Trong tình huống này,
ĐTV nên áp dụng thủ thuật như sau:
Để cho bị can tự khai về hành vi phạm tội của mình và đồng bọn bằng một
trong hai cách: trình bày bằng miệng hoặc viết bản tự khai về tất cả những tình
tiết mà bị can biết theo một trình tự mà bị can lựa chọn hoặc theo sự hướng dẫn
của ĐTV.
* Đối với trường hợp bị can trình bày bằng miệng: Trong quá trình bị can trình
bày, điều tra viên không nên ngắt lời của bị can như: phản ứng lại lời khai, đưa ra
những câu hỏi hoặc nhận xét đúng, sai hoặc yêu cầu bị can trình bày cụ thể, chi tiết
về một vấn đề nào đó... Bởi vì, sự can thiệp này có thể làm cho bị can lạc hướng
khai báo, trình tự khai báo bị xáo trộn dẫn đến bị can có thể bỏ sót hoặc quên những
tình tiết quan trọng của vụ án. Yêu cầu của ĐTV trong trường hợp này phải chú ý
lắng nghe bị can trình bày và quan sát cử chỉ, thái độ khai báo của bị can, chỉ ghi lại
những vấn đề mà điều tra viên cho là quan trọng, hoặc những vấn đề mâu thuẫn
24
giữa lời khai trước với lời khai sau, hoặc những vấn đề mà điều tra viên chưa rõ, xét
thấy cần phải làm rõ sau này.
* Đối với trường hợp bị can viết bản tự khai: Trước khi bị can viết, ĐTV phải
xác định thái độ, trách nhiệm cho bị can, động viên, giáo dục để bị can viết đầy đủ,
đúng sự thật, không để bị can viết tràn lan, kể lể công lao thành tích và những vấn
đề không có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra. Trong quá trình bị can viết, ĐTV cần
chú ý giám sát bị can để nắm bắt diễn biến tư tưởng của bị can qua những biểu hiện về
cử chỉ, thái độ, hành động như: chần chừ, do dự, ngồi thừ ra, cắn bút suy nghĩ, đặc biệt
chú ý những đoạn bị can viết rồi lại xoá bỏ. Sau khi bị can viết xong, phải thu lại đầy
đủ giấy, bút đã đưa cho bị can.
+ Tình huống bị can từ chối khai báo.
Đây là một trong những tình huống thường xảy ra trong quá trình hỏi cung bị
can. Khi gặp tình huống này, ĐTV cần phải bình tĩnh thận trọng tìm hiểu nguyên
nhân tại sao bị can từ chối khai báo. Trên cơ sở đó, ĐTV lựa chọn và sử dụng
những thủ thuật tác động làm thay đổi lập trường, thái độ khai báo của bị can.
Kết quả nghiên cứu về mặt lý luận và thực tế cho thấy, trong tình huống này
ĐTV nên áp dụng thủ thuật như sau:
* Giáo dục thuyết phục bị can thay đổi về nhận thức và khai báo thành khẩn.
Là thủ thuật nhằm mục đích, làm cho bị can dần dần chuyển biến về mặt nhận
thức, từ bỏ lập trường ngoan cố, khai báo thành khẩn. Việc giáo dục, thuyết phục bị
can phải linh hoạt, sáng tạo, có tình có lý, phù hợp với từng bị can cụ thể. Nội dung
giáo dục thuyết phục phải gắn liền với nguyên nhân từ chối khai báo của bị can,
tránh trường hợp giáo dục, thuyết phục mang tính chất chung chung, trừu tượng,
khó hiểu. Để tiến hành thủ thuật này có hiệu quả, ĐTV phải nắm vững đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác điều tra, xử
lý tội phạm và biết cách vận dụng nó trong quá trình giáo dục, thuyết phục.
* Tác động về xúc cảm.
Điều tra viên có thể lợi dụng tình trạng tâm lý lo lắng cho vợ con, bố mẹ của
bị can trong quá trình hỏi cung, nhất là sau khi bị bắt như: hoang mang, lo sợ, tinh
thần suy sụp để tác động đến bị can, buộc bị can phải khai báo thành khẩn.
25
Cần chú ý chủ động tác động làm thay đổi tâm trạng và tình cảm của bị can
đang là động cơ kìm hãm sự khai báo của bị can như: tâm trạng bi quan, thất vọng,
sợ bị mất uy tín...
Điều tra viên cần khơi dậy, nhen nhóm những tình cảm, phẩm chất tốt của bị
can để làm động cơ thúc đẩy bị can khai báo thành khẩn như: tình cảm của gia đình,
quê hương, những thành tích và cống hiến của bị can...
* Sử dụng những tình tiết mà tất cả những đồng bọn khác của ổ nhóm tội
phạm đã thành khẩn khai báo.
Thủ thuật này chỉ áp dụng trong từng trường hợp bị can bị cắt đứt mọi nguồn
thông tin, giữa các bị can của vụ án không thông cung được cho nhau, không nắm
được tình trạng khai báo của đồng bọn. Trong quá trình sử dụng thủ thuật này, ĐTV
không nên để bị can đọc lời khai của đồng bọn hoặc sử dụng lời khai của đồng bọn
để đấu tranh với bị can, mà chỉ nên đưa cho bị can xem chữ ký của đồng bọn ở biên
bản hỏi cung để làm đòn bẩy tác động tâm lý bị can.
* Sử dụng chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can.
Điều tra viên chủ động đưa ra những chứng cứ cụ thể chứng minh hành vi
phạm tội của bị can, rồi yêu cầu bị can trả lời ngay vào những chứng cứ đó, nhằm
đánh mạnh vào tư tưởng ngoan cố của bị can, buộc bị can phải thừa nhận và đi đến
thành khẩn khai báo.
Những chứng cứ sử dụng để đấu tranh với bị can trong quá trình hỏi cung bao
gồm: những vật chứng, kết luận của giám định viên, lời khai của người bị hại, người
làm chứng, lời khai của những bị can khác...
Khi áp dụng chiến thuật này, ĐTV cần hỏi bị can xung quanh những tình tiết
có liên quan đến tài liệu chứng cứ đó, để sau khi đưa chứng cứ ra bị can không thể
xuyên tạc, bác bỏ chứng cứ. Trong một số trường hợp khi đưa chứng cứ ra đấu
tranh, ĐTV phải giải thích ý nghĩa của chứng cứ, nhất là những chứng cứ thu thập
được nhờ những phương tiện kỹ thuật đặc biệt. Khi đưa chứng cứ ra đấu tranh với
bị can phải đảm bảo được yếu tố bất ngờ và chú ý không đưa cho bị can cầm, xem
các tài liệu, vật chứng, đề phòng bị can phá huỷ, tự sát, hành hung ĐTV... Đồng
26
thời, khi sử dụng chứng cứ phải chú ý theo dõi diễn biến tâm lý của bị can, phục vụ
cho việc lựa chọn thủ thuật hỏi cung tiếp theo phù hợp.
Sử dụng mâu thuẫn giữa bị can với các bị can trong vụ án.
Một đặc điểm đặc trưng của các tổ chức tội phạm là giữa các bị can trong vụ
án thường xuất hiện và tồn tại mâu thuẫn về vai trò, vị trí hoặc về quyền lợi... Chính
vì những mâu thuẫn này, cho nên sau khi bị bắt và trong quá trình hỏi cung giữa các
bị can thường khai đổ tội cho nhau. Mặt khác, một đặc điểm đặc trưng về mặt tâm
lý của các bị can trong tổ chức tội phạm là lo sợ nếu mình là người khai báo chậm
hoặc không khai thì đồng bọn khai trước sẽ khai hết tội lõi cho mình và mình sẽ
phải chịu hình phạt nặng hơn...
Từ những đặc điểm trên, trong quá trình hỏi cung bị can, ĐTV cần chú ý phân
tích, nghiên cứu những tài liệu phản ánh về vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các bị
can với các bị can trong vụ án để phát hiện, khai thác triệt để mâu thuẫn giữa bị can
và đồng bọn, cũng như nguyên nhân, mức độ của những mâu thuẫn đó, trên cơ sở
đó áp dụng các biện pháp tác động cần thiết làm thay đổi lập trường khai báo của bị
can. Đây là thủ thuật hỏi cung rất có hiệu quả trong quá trình hỏi cung bị can các vụ
án tham ô tài sản nói riêng và các vụ án kinh tế nói chung.
+ Tình huống bị can khai báo gian dối.
Bị can khai báo gian dối là trường hợp nội dung lời khai của bị can không
đúng với thực tế khách quan. Đây là tình huống khó khăn, phức tạp thường xảy ra
trong quá trình hỏi cung.
Qua nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn công tác hỏi cung, chúng tôi rút ra một
số nguyên nhân phổ biến dẫn tới bị can khai báo gian dối như sau:
* Bị can muốn trốn tránh trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của
mình, hoặc mong muốn chịu hình phạt về một tội danh khác nhẹ hơn.
* Bị can mong muốn bao che hay làm giảm nhẹ tội của đồng bọn vì những
mối quan hệ gia đình, bạn bè hoặc vì những mục đích vụ lợi khác.
* Bị can mong muốn vu khống cho đồng bọn do thù tức hoặc nhằm mục đích
bảo đảm an toàn cho bản thân trong tương lai.
* Bị can muốn che dấu một tội phạm khác nghiêm trọng hơn.
27
Từ những nguyên nhân trên, để xác định và vạch trần sự gian dối trong lời khai
của bị can, trong quá trình hỏi cung, ĐTV vẫn chủ động phát hiện những mâu thuẫn
trong lời khai của bị can. Những mâu thuẫn này thường là:
* Mâu thuẫn giữa lời khai của bị can với lôgic diễn biến của sự việc,
hiện tượng.
* Mâu thuẫn giữa lời khai của bị can với những tài liệu, chứng cứ khác của vụ
án như: lời khai của người bị hại, người làm chứng, kết quả khám nghiệm hiện
trường, kết luận giám định...
* Nội dung lời khai trái với những quy luật của tự nhiên, xã hội.
* Lời khai của bị can không phù hợp với trình độ nhận thức của bị can.
* Mâu thuẫn giữa lời khai của bị can với lời khai của các bị can khác...
Ngoài ra, sau khi đã hỏi cung, ĐTV có thể phát hiện mâu thuẫn trong lời khai của
bị can thông qua việc tiến hành kiểm tra lời khai đó bằng các biện pháp điều tra khác,
hoặc thu được những chứng cứ mới mâu thuẫn với lời khai đó.
Trên cơ sở những mâu thuẫn trong lời khai của bị can, ĐTV có thể sử dụng
thủ thuật hỏi cung như trong tình huống bị can từ chối khai báo. Ngoài ra, ĐTV có
thể áp dụng một số thủ thuật khác như:
* Sử dụng mâu thuẫn trong lời khai của bị can để đấu tranh với bị can.
Thực hiện thủ thuật này, trước tiên ĐTV cần phân tích, làm rõ nội dung và
nguyên nhân của những mâu thuẫn trong lời khai của bị can. Từ đó lựa chọn mâu
thuẫn cần đưa ra đấu tranh với bị can.
Trường hợp mâu thuẫn phát sinh do bị can cố ý khai sai sự thật thì ĐTV cần
phân tích một cách lôgic những mâu thuẫn đó cho bị can thấy và yêu cầu bị can tự
giải thích về những mâu thuẫn này. Nếu bị can không giải thích được thì bị can tự
nhận thấy vô lý trong lời khai của mình và nếu cứ tiếp tục khai báo gian dối thì sẽ tự
dẫn mình vào ngõ cụt, do đó buộc phải khai đúng sự thật.
Trường hợp mâu thuẫn phát sinh không phải do bị can cố ý khai sai sự thật thì
ĐTV không dùng thủ thuật sử dụng mâu thuẫn để đấu tranh với bị can, mà phải
dùng những biện pháp khác để kích thích cho bị can nhớ lại những tình tiết đã quên
trong khi khai báo. Trong trường hợp này, ĐTV nên áp dụng thủ thuật hỏi tuần tự
28
để bị can nhớ lại và trả lời. Ngoài ra, có thể kết hợp biện pháp đối chất để làm rõ
mâu thuẫn giữa những lời khai của bị can với lời khai của những bị can khác, giữa
lời khai của bị can với lời khai của người làm chứng.
c) Lập biên bản hỏi cung bị can.
Biên bản hỏi cung là một thủ tục tố tụng hình sự bắt buộc trong quá trình điều
tra các vụ án hình sự, nó phản ánh toàn bộ diễn biến của quá trình hỏi cung bị can.
Vì vậy, sau mỗi lần hỏi cung, ĐTV đều phải lập biên bản hỏi cung.Trong biên bản
hỏi cung phải đảm bảo được những nội dung, trình tự, thủ tục mà Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định. Cụ thể là:
Ở phần đầu của biên bản cần ghi rõ thời gian, địa điểm tiến hành hỏi cung, họ
tên, chức vụ, đơn vị công tác của người lập biên bản, họ tên tuổi, quốc tịch của bị
can và những người tham gia trong quá trình hỏi cung. Nếu trong quá trình hỏi cung
có người phiên dịch, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can, thì cần
giải thích quyền và nghĩa vụ của họ và yêu cầu bị can cùng những người tham gia
dự buổi hỏi cung ký tên.
Ở phần nội dung của biên bản ghi chính xác đầy đủ, khách quan những câu hỏi
của ĐTV và câu trả lời của bị can. Quá trình ghi những câu trả lời của bị can phải
chú ý ghi đúng những diễn đạt đặc trưng và cách dùng từ của bị can. Sau khi hỏi
cung nếu bị can có yêu cầu, đề nghị gì thì thêm cũng được ghi vào biên bản.
Ở phần cuối của biên bản ghi rõ thời gian kết thúc lập biên bản và ghi rõ biên
bản này đã được đọc cho mọi người cùng nghe, tất cả đều khẳng định sự chính xác
của biên bản và cùng ký tên vào biên bản (gồm ĐTV, bị can và có thể có người bào
chữa, người đại diện hợp pháp, người phiên dịch).
Ngoài ra, những người tham dự quá trình hỏi cung phải ký tên vào cuối mỗi trang
biên bản hỏi cung và dưới những chỗ chú thích, bổ sung, sửa chữa, tẩy xoá.
Trong biên bản hỏi cung, ĐTV không được tẩy xoá, sửa chữa, ghi thêm vào
biên bản mà không được bị can xác nhận.
d) Nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá và sử dụng kết quả hỏi cung.
Việc nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá lời khai của bị can là việc làm có ý nghĩa
hết sức quan trọng và cần thiết, nhằm đảm bảo tính đúng đắn, chính xác của kết quả
29
hỏi cung, phục vụ cho việc xác lập hệ thống chứng cứ để chứng minh sự thật khách
quan của bất kỳ một vụ án nào nói chung và tham ô tài sản nói riêng.
- Nghiên cứu kết quả hỏi cung: Trong mọi trường hợp lời khai của bị can đều
phải được nghiên cứu một cách tỷ mỉ, thận trọng. Nội dung của sự nghiên cứu bao
gồm: xác định xem quá trình thu thập lời khai của bị can có đảm bảo yêu cầu pháp
luật về trình tự, thủ tục, cách tiến hành và nội dung của lời khai có đảm bảo sự lôgic
không, có phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác về vụ án đã thu thập được hay
không. Ngoài ra, cần tìm hiểu trong quá trình bị can khai báo có bị ảnh hưởng của
những yếu tố chủ quan và khách quan nào không?
- Kiểm tra kết quả hỏi cung: Trong mọi trường hợp lời khai của bị can phải
được kiểm tra kịp thời, khách quan, thận trọng và có kế hoạch. Để kiểm tra mức độ
đúng đắn, chính xác của lời khai, ĐTV có thể áp dụng các biện pháp như: yêu cầu
bị can giải thích những vấn đề chưa rõ hoặc còn mâu thuẫn trong lời khai, tiến hành
thu thập tài liệu, chứng cứ về vụ án từ những biện pháp điều tra khác như: lấy lời
khai người làm chứng, người bị hại, lời khai của những bị can khác, kết quả khám
xét... để kiểm tra lời khai. Ngoài ra, có thể tiến hành đối chất, thực nghiệm điều tra
để kiểm tra lời khai hoặc sử dụng các hoạt động trinh sát để kiểm tra... Nội dung
của sự kiểm tra là ĐTV kiểm tra tính phù hợp và đúng đắn, chính xác của lời khai
trong mối quan hệ với các tài liệu chứng cứ khác về vụ án đã thu thập được.
- Đánh giá kết quả hỏi cung: Sau khi đã nghiên cứu, kiểm tra, lời khai của bị
can cần được đánh giá trên các phương diện: tính khách quan, đầy đủ, lôgic, cụ
thể, rõ ràng. Sau khi đánh giá, rút ra kết luận về giá trị của lời khai đã thu thập
được đối với hoạt động điều tra trong quá trình chứng minh tội phạm, làm rõ các
tình tiết của vụ án, làm rõ vai trò vị trí của từng đồng phạm trong vụ án và tài sản
chiếm đoạt được.
- Sử dụng kết quả hỏi cung: Là sử dụng lời khai của bị can vào việc chứng
minh làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Lời khai của bị can là
một chứng cứ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc làm rõ sự thật khách quan
của vụ án, đồng thời còn được dùng làm cơ sở để ĐTV tiến hành những biện pháp
30
ngăn chặn những hoạt động điều tra khác, như mở rộng vụ án, phong tỏa tài sản, thu
hồi tài sản đã chiếm đoạt,…
Trên đây là những lý luận cơ bản về chiến thuật hỏi cung bị can trong hoạt
động điều tra hình sự. Để đáp ứng được yêu cầu hỏi cung của thực tiễn đấu tranh
chống tội phạm, theo chúng tôi về mặt lý luận cần nghiên cứu và xây dựng hệ thống
lý luận về hỏi cung bị can mang tính chất chuyên sâu đối với từng nhóm tội phạm
cụ thể. Đặc biệt là đối với các vụ án tham ô tài sản.
1.2.3. Những vấn đề cơ bản trong vụ án tham ô tài sản.
Khi tiến hành điều tra một vụ án kinh tế nói chung và tham ô tài sản nói riêng,
cán bộ được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra phải triệt để tuân thủ Điều 85
BLTTHS 2015, và phải tiến hành làm rõ tất cả những tình tiết liên quan đến vụ án để
chứng minh hành vi phạm tội một cách khách quan từ khâu thu thập, phát hiện, đánh
giá, xử lý thông tin, tiến hành điều tra, thu thập đánh giá, sử dụng và bảo quản chứng
cứ.... Đó là quá trình tư duy khoa học pháp lý mang tính chất lôgíc, biện chứng dựa trên
cơ sở pháp luật để chứng minh hành vi phạm tội của đối tượng phạm tội mục đích tìm
ra sự thật của vụ án. Tại Điều 85 (BLTTHS) qui định, khi điều tra, truy tố và xét xử vụ
án hình sự Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh:
1) Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội;
2) Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay
vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích hoặc động cơ phạm tội;
3) Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo
và những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo;
4) Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị
can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội “. Như vậy,
trách nhiệm để chứng minh tội phạm, theo Điều 85 BLTTHS 2015 thuộc về các cơ
quan đó là : Cơ quan điều tra, Toà án và Viện kiểm sát ...
1) Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
2) Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
31
Trong khoa học luật hình sự có nhiều quan điểm khác nhau khi đi phân loại
nhóm những điều phải chứng minh, tựu trung lại bao gồm:
Nhóm thứ nhất: Những vấn đề phải chứng minh là bản chất của vụ án, đó là
có hành vi phạm tội xảy ra không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có đủ
năng lực trách nhiệm hình sự không, địa điểm, thời gian xảy ra hành vi phạm tội, có
nằm trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự không ?
Nhóm thứ hai: Những vấn đề nhằm chứng minh tính chất mức độ hành vi
phạm tội, đó là : xác định tính chất mức độ hành vi phạm tội, hậu quả gây ra, tình
tiết tăng nặng và giảm nhẹ của tội phạm .
Nhóm thứ ba: Những tình tiết khác để xác định rõ hành vi phạm tội, đó là, xác
định nhân thân tội phạm, mối quan hệ của các đối tượng trong vụ án, những đối
tượng liên quan đến vụ án, những tình tiết xác định bồi thường vật chất, nguyên
nhân điều kiện phạm tội.
Do vậy, để tiến hành điều tra vụ án tham ô tài sản khi chứng minh những hành
vi phạm tội phải chứng minh những vấn đề sau :
- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không ?
Đây là yếu tố quan trọng đầu tiên mà cơ quan tiến hành điều tra phải chứng
minh, đặc biệt với việc điều tra tội phạm tham ô tài sản, thì phải xác minh làm rõ
mức thiệt hại.
- Thời gian, địa điểm xảy ra vụ việc tham ô tài sản và những tình tiết khác của
hành vi phạm tội. Đây là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm và có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đến toàn bộ quá trình chứng minh tội phạm. Đó là việc cơ quan
điều tra xác định có hành vi tham ô xảy ra tại một cơ quan, đơn vị cụ thể đóng tại
một địa bàn nhất định. Bên cạnh đó phải xác định được thời gian xảy ra hành vi
phạm tội, thông thường với tội phạm tham ô thì thời gian xảy ra hành vi phạm tội
không giống như một số tội phạm hình sự khác là xảy ra mang tính bột phát nhất
thời, mà ở đây tội phạm xảy ra kéo dài trong một quãng thời gian, có sự chuẩn bị kỹ
càng về những điều kiện tác động để tiến hành phạm tội, thậm chí những hành vi
tham ô này được thực hiện một cách có hệ thống, lặp đi, lặp lại mang tính bền vững,
có tổ chức.
32
- Đối tượng thực hiện hành vi phạm tội, tức là ai là tội phạm, họ tên là gì?, bao
nhiêu tuổi, nghề nghiệp là gì? đảm nhiệm chức vụ gì? nơi đăng ký hộ khẩu, đã có
tiền án, tiền sự gì chưa? có đồng phạm hay không, có bao nhiêu người thực hiện
hành vi phạm tội, ...
Riêng đối với tội danh tham ô tài sản yếu tố bắt buộc đối với chủ thể phải là
người giữ chức vụ hoặc được giao đảm nhiệm một công đoạn để thực hiện một
công việc nhất định liên quan đến việc quản lý tài sản và đạt độ tuổi nhất định theo
luật định.
Ở Điều 51 và Điều 52 BLHS năm 2015 còn xác định “ những tình tiết tăng
nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân
thân bị can, bị cáo ”. Do vậy đây là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc xét xử tội
phạm vừa là để xác định đúng người, đúng tội. Đối với tội phạm tham ô tài sản,
ĐTV vừa phải thu thập tất cả những tình tiết để chứng minh hành vi phạm tội, cũng
vừa phải tìm ra tất cả những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
cho bị can và xác định cụ thể tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
để giúp cơ quan xét xử xác định khung hình phạt đối với đối tượng phạm tội. Để
nghiêm trị với kẻ ngoan cố, xảo quyệt.ĐTV phải tìm kiếm và triệt để khai thác các
tài liệu, chứng cứ để chứng minh những tình tiết, như các hành vi phạm tội có tổ
chức, có tính chất chuyên nghiệp, hành vi ngoan cố không khai báo, dùng thủ đoạn
xảo quyệt, đê hèn, tái phạm nhiều lần, mục đích vụ lợi hoặc vì những động cơ cá
nhân khác, hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng về tài sản.
Tóm lại: Nắm vững những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự nói
chung và tham ô tài sản nói riêng có một vai trò vô cùng quan trọng trong công tác
điều tra tội phạm, qua đó nó giúp cho ĐTV xác định làm rõ những tình tiết cần xác
minh trong một vụ án, là cơ sở để xác định người phạm tội. Nắm vững và áp dụng
triệt để những vấn đề phải chứng minh trong quá trình điều tra, chính là ĐTV đã
thực hiện và tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế XHCN, một trong những bảo
đảm quan trọng để khám phá đầy đủ các tình tiết của vụ án, thu hồ tài sảnđã bị
chiếm đoạt về cho nhà nước.
33
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ
CAN VÀ THỰC TRẠNG HỎI CUNG BỊ CAN TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI
SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐIỀU TRA TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Những quy định của pháp luật về hoạt động hỏi cung bị can
- Quy định về hỏi cung bị can trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 như sau:
Điều 131 BLTTHS 2003: Hỏi cung bị can
+ Việc hỏi cung bị can do ĐTV tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị
can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó.
Trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, ĐTV phải giải thích cho bị can rõ quyền và
nghĩa vụ theo qui định tại điều 49 của Bộ luật này. Việc này phải ghi vào biên bản.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp
xúc với nhau. Có thể cho bị can viết bản tự khai của mình.
+ Không hỏi cung bị can vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn
được nhưng phải ghi rõ vào biên bản.
+ ĐTV hoặc Kiểm sát viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can phải
chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 299 hoặc điều 298 của Bộ luật hình sự.
- Qui định cụ thể của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về hỏi cung bị can
như sau:
Điều 183 BLTTHS 2015: Hỏi cung bị can.
+ Việc hỏi cung bị can do ĐTV tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị
can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó.
Trước khi hỏi cung bị can, ĐTV phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào
chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham gia
hỏi cung bị can.
+ Trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, ĐTV phải giải thích cho bị can rõ quyền
và nghĩa vụ theo qui định tại điều 60 của Bộ luật này. Việc này phải ghi vào biên bản.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp
xúc với nhau. Có thể cho bị can viết bản tự khai của mình.
34
+ Không hỏi cung bị can vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn
được nhưng phải ghi rõ vào biên bản.
+ Kiểm sát viên hỏi cung bị can trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại
hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc
trong trường hợp khác thi thấy cần thiết. Việc Kiểm sát viên hỏi cung bị can được
tiến hành theo qui định tại điều này.
+ Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một sốhooạt động điều tra phải được ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh.
Việc hỏi cung bị can tại thời điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh
theo yêu cầu của bị can hoặc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
So với Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, quy định về hỏi cung bị can trong Bộ
luật Tố tụng hình sự 2015 có những điểm mới đáng chú ý sau:
- Trước khi hỏi cung, ĐTV phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào
chữa cho bị can về thời gian, địa điểm hỏi cung.
- Quy định rõ hơn các trường hợp Kiểm sát viên hỏi cung bị can. Cụ thể Kiểm
sát viên hỏi cung bị can trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều
tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp
khác thi thấy cần thiết.
- Phải ghi âm, ghi hình việc hỏi cung bị can trong các trường hợp:
+ Hỏi cung bị can tại cơ quan tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
+ Bị canhoặc cơ quan, người có thẩm quyền tiến thành tố tụng có yêu cầu
được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
2.2. Một số kết quả điều tra, xử lý các vụ án tham ô tài sản.
2.2.1. Một số vụ án tham ô tài sản điển hình giai đoạn 2008-2018
Theo Báo cáo số 354/BC-PC46, ngày 29/3/2018 của phòng PC46 - Công an
tỉnh Quảng Ninh đã thống kê trong giai đoạn từ 2008 – 2018 công an tỉnh Quảng Ninh
đã tham gia điều tra 44 vụ án liên quan đến tham ô tài sản,với 270 người phạm tội
35
Bảng 1.1: Số vụ và số người phạm tội của tội tham ô tài sản
ở Quảng Ninh trong giai đoạn 2008 – 2018
Giai đoạn 2008-2018 Tổng Trung bình năm
Số người phạm tội Số vụ 270 44 24,5 4 (Nguồn: Phòng PC46 Công an tỉnh Quảng Ninh)
Trong đó có một số vụ án tham ô tài sản điển hình như sau:
1. Vụ án tham ô tài sản xảy ra năm 2014 tại Công ty TNHH 1TV Cảng
Quảng Ninh
- Căn cứ kết quả tiếp nhận, giải quyết đơn tố giác của công dân về hành vi
tham nhũng của một số cán bộ lãnh đạo Công ty TNHH 1TV Cảng Quảng Ninh,
sau thời gian khẩn trương điều tra xác minh và thu thập tài liệu chứng cứ, lần lượt
trong các ngày 27/5, 29/5, 06/6 và 19/6/2014 PC46 đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can
và thi hành lệnh bắt, khám xét 4 đối tượng gồm: Bùi Thị Thắm, là Thủ quỹ, Đồng
Thị Bé, là Chủ tịch Công đoàn (nguyên Kế toán trưởng), Đinh Ngọc Uyên, nguyên
Phó Tổng Giám đốc (đã nghỉ hưu) và Vũ Khắc Từ, là Phó Tổng Giám đốc
Vinalines kiêm Chủ tịch Hội đồng thành viên (nguyên TGĐ Công ty) để điều tra
về hành vi tham ô tài sản. Kết quả điều tra xác định: Từ năm 2007 đến 2013, Vũ
Khắc Từ, Đinh Ngọc Uyên và Đồng Thị Bé đã bàn thống nhất chỉ đạo Bùi Thị
Thắm thực hiện hành vi giả mạo chữ ký để có chứng từ, tiền chi phí các khoản chi
đối ngoại ngoài sổ sách kế toán và chiếm đoạt tiền từ quỹ lương năng suất chia lại
cho công nhân, với thủ đoạn lập 2 bảng lương, gồm 1 bảng thực nhận tiền, 1 bảng
lập khống với số tiền nhận nhiều hơn thực tế được ký giả chữ ký của gần 1.000
công nhân thuộc 36 tổ bốc xếp, cơ giới của 3 Công ty con là Công ty Xếp dỡ Cái
Lân, Công ty Xếp dỡ Hạ Long và Công ty Xếp dỡ container; bằng thủ đoạn trên,
các bị can đã rút, chiếm đoạt 18,571 tỷ đồng tiền lương chia lại của công nhân
(PC46 đã thu hồi được 10,238 tỷ). Vụ án đã kết thúc điều tra đề nghị truy tố.
2. Vụ án tham ô tài sản của Đào Văn Nhuần năm 2016 tại huyện Hải Hà, tỉnh
Quảng Ninh
Tháng 8/2016, phòng PC46 đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thi hành lệnh
bắt đối với Đào Văn Nhuần – kế toán phòng kinh tế và hạ tầng huyện Hải Hà và 12
36
đối tượng khác trong phòng kinh tế và hạ tầng huyện Hải Hà để điều tra về tội
“tham ô tài sản”. Kết quả điều tra xác định từ năm 2012 đến năm 2015 Đào Văn
Nhuần đã lập khống chứng từ chi, chuyển tiền vào 13 tài khoản của các cá nhân
trong phòng để rút 1.871.045.000đ tiền ngân sách Nhà nước để chi tiêu và chia
nhau. Vụ án đã kết thúc, đề nghị truy tố theo tội danh đã khởi tố.
3. Vụ án tham ô tài sản tại công ty than Năm Mẫu năm 2017
Trần Thị Phương Thủy là thủ quỹ Phòng tài chính- thống kê- kế toán; từ đầu
năm 2016 lợi dụng sơ hở trong quản lý giấy tờ, tiền mặt, Thủy đã nhiều lần rút tiền
trong quỹ của Công ty để trả nợ và chi tiêu cá nhân, mỗi lần rút khoảng 50.000.000đ
đến 300.000.000đ. Đến ngày 23/10/2017, Thủy đến Công an tự thú, tổng số tiền
Thủy đã chiếm đoạt của Công ty là 1.838.611.504đ, số tiền này đã được gia đình
Thủy nộp lại toàn bộ để khắc phục hậu quả.
2.2.2. Một số kết quả điều tra, xử lý các vụ án tham ô tài sản
Bảng 1.2: Số liệu xử lý các vụ án tham ô tài sản ở Quảng Ninh
trong giai đoạn 2008 – 2018
Khởi tố vụ án 2 4 4 5 2 4 5 4 4 5 5
Truy tố 10 27 21 30 5 31 30 23 28 34 29
Đình chỉ 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0
Tạm đình chỉ 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0
Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 (Nguồn: Phòng PC46 Công an tỉnh Quảng Ninh)
Bảng 1.3: Số liệu về việc thu hồi tài sản trong vụ án tham ô tài sản ở
Quảng Ninh trong giai đoạn 2008 – 2018
Tiền Xe Đất đai Nhà
139 220ha 125 Giai đoạn 2008-2018 Tổng 107 tỷ 534 triệu đồng
(Nguồn: Phòng PC46 Công an tỉnh Quảng Ninh)
37
Bảng 1.4: Số liệu về thành phần bị can trong vụ án tham ô tài sản ở
Đảng viên
Giai đoạn 2008-2018
Tổng số bị can
Cán bộ nhà nước
Thành phần khác
Cán bộ doanh nghiệp tư nhân 100
Tổng
270
140
30
121
9,0
24,5
12,7
2,7
11
Trung bình/năm
Quảng Ninh trong giai đoạn 2008 – 2018
(Nguồn: Phòng PC46 Công an tỉnh Quảng Ninh)
Qua tổng kết đánh giá cho thấy tội phạm tham nhũng, chức vụ tiếp tục gia tăng
phức tạp, với phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, có sự câu kết trong ngoài và
xảy ra ở hầu hết các ngành, lĩnh vực trọng điểm như:
- Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, sai phạm phần lớn xuất phát từ nguyên
nhân công tác quản lý quỹ, nguồn vốn, hoạt động tín dụng còn bị buông lỏng, tạo kẽ
hở cho nhân viên thông đồng với các đối tượng ngoài xã hội chiếm dụng vốn để
trục lợi. Vi phạm trong công tác quản lý, sử dụng đất đai tiếp tục diễn biến phức tạp,
chủ yếu là vi phạm về thực hiện chính sách đền bù GPMB, hợp thức hóa quyền sử
dụng để cấp đất trái quy định (như sai phạm tại Móng Cái, Hạ Long đã khởi tố 3 vụ
24 bị can, trong đó có 20 cán bộ công chức). Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ
bản, việc triển khai các dự án có sử dụng vốn ngân sách còn xảy ra vi phạm ở cả 3
giai đoạn (đấu thầu, lập dự án, thiết kế; đền bù GPMB, thi công; quyết toán, nghiệm
thu công trình), phổ biến là tình trạng đầu tư theo kiểu “lướt sóng”, thi công kéo dài,
nợ đọng vốn, rút ruột công trình, sử dụng vật liệu không đúng hồ sơ thiết kế, lập
khống hồ sơ quyết toán, lạm dụng chức vụ quyền hạn trong giám sát thi công để
chiếm đoạt tài sản Nhà nước. Sai phạm trong triển khai mô hình hỗ trợ sản xuất và
đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp thuộc Chương trình xây dựng nông thôn
mới xảy ra hầu hết ở các địa phương trong tỉnh (kết quả thanh tra phát hiện, thu hồi
số tiền thất thoát trên 7 tỷ đồng, đồng thời chuyển CQĐT khởi tố 12 bị can, trong đó
có 8 cán bộ chính quyền cấp xã). Lĩnh vực bảo hiểm đã phát hiện một số vụ sai
phạm lớn như vụ tẩy xoá thông tin trên thẻ bảo hiểm y tế để trục lợi (khởi tố 2 bị
can) và chiếm dụng tiền bảo hiểm qua việc lập hồ sơ khống để thanh toán tiền chi
trả chế độ thai sản, ốm đau, phục hồi sức khoẻ (khởi tố 4 bị can) ở Uông Bí; thông
38
đồng trục lợi chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần ở Tiên Yên, Cẩm Phả (khởi tố 7
bị can). Trong lĩnh vực công nghiệp than, công tác quản lý, kiểm tra và giám sát của
một số đơn vị ngành than còn nhiều sơ hở, lỏng lẻo nên để xảy ra một số vụ việc vi
phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến cả số cán bộ lãnh đạo và công nhân viên
chức, từ quản lý khai trường, kho cảng, các hoạt động khai thác, chế biến than, đến
vi phạm trong lĩnh vực giám định phẩm cấp, chất lượng than, có sự móc nối, thông
đồng với doanh nghiệp tư nhân để tráo đổi phẩm cấp, đưa tài nguyên, vật tư ra
ngoài tiêu thụ trái phép.
* Trước thời điểm 01/01/2012 chuyển sang
Tổng số 2 vụ, 9 bị can, gồm: 1 vụ 4 bị can tham ô tài sản và lợi dụng chức vụ,
quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại 360 triệu đồng tại ban quản lý dự
án khí sinh học thuộc Sở NN&PTNT; 1 vụ 5 bị can tham ô tài sản, lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về
quản lý kinh tế và lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gây thiệt hại 29 tỷ đồng, xảy ra tại
Phòng Giao dịch Quang Hanh thuộc Ngân hàng NN&PTNT Cẩm Phả. Phân tích:
- Vụ việc do cơ quan Thanh tra, Kiểm tra chuyển đến: Không.
- Nguồn phát hiện: 1 vụ qua phát hiện, điều tra của cơ quan Công an tự thú; 1
vụ qua giải quyết đơn tố giác tội phạm.
- Số bị can là đảng viên: 4/9, chiếm tỷ lệ 44,4%.
- Tội danh tham nhũng 7 (5 tham ô tài sản, 2 tham ô tài sản và lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ). Tội danh khác 2 (1 cố ý làm trái quy
định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, 1 lừa đảo CĐTS).
- Các trường hợp tại ngoại bị khởi tố về tội tham nhũng: 4, do khai báo thành
khẩn, tự nguyện khắc phục hậu quả trước và sau khi bị khởi tố, tích cực hợp tác,
không cản trở hoạt động điều tra.
- Việc tách, nhập, đình chỉ, tạm đình chỉ: Không.
- Trường hợp vụ án phải gia hạn điều tra từ 2 lần trở lên: Vụ án tham ô tài sản
tại BQL dự án khí sinh học thuộc Sở NN&PTNT phải gia hạn điều tra lần thứ 2, vì
vụ án xảy ra tại hầu hết các xã trên địa bàn tỉnh, CQĐT phải làm việc trực tiếp với
khoảng 3.000 hộ dân, tài liệu giám định nhiều.
39
- Về kết quả thu hồi tài sản: Vụ án thứ nhất thu hồi 360 triệu đồng (100%), vụ
án thứ 2 thu hồi 530 triệu đồng (1,8%).
- Số vụ án, bị can đang giải quyết: Không.
* Từ 01/01/2012 đến 01/01/2017
Tổng số 22 vụ, 148 bị can, gồm: Lĩnh vực ngành than 7 vụ 77 bị can; lĩnh vực
quản lý, sử dụng đất đai 4 vụ 24 bị can; lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn 3 vụ 14 bị
can; lĩnh vực quản lý cảng 3 vụ 9 bị can; lĩnh vực điện, xi măng 2 vụ 12 bị can; lĩnh
vực bảo hiểm xã hội 1 vụ 7 bị can; lĩnh vực quản lý kinh tế hạ tầng 1 vụ 3 bị can;
lĩnh vực quản lý công trình 1 vụ 1 bị can; lĩnh vực quản lý nhân hộ khẩu 1 bị can.
Phân tích:
- Nguồn phát hiện: Qua phát hiện, điều tra của cơ quan Công an 14 vụ; thanh
tra, kiểm tra 4 vụ; cơ quan chủ quản phát hiện 2 vụ; đơn tố giác 2 vụ.
- Vụ việc do cơ quan Thanh tra chuyển đến: 4 vụ (đền bù giải phóng mặt bằng
tại Đầm Hà 1 vụ; quản lý, sử dụng đất đai tại Vân Đồn 1 vụ, tại Hạ Long 1 vụ;
Chương trình xây dựng nông thôn mới tại Hải Hà 1 vụ). Vụ việc do cơ quan Kiểm
toán chuyển đến: Không.
- Số bị can là đảng viên: 47/148, chiếm tỷ lệ 31,7%.
- Tội danh tham nhũng 119, gồm:
+ Tham ô tài sản: 78
+ Tham ô tài sản và lừa đảo CĐTS: 2
+ Lạm dụng CVQH chiếm đoạt tài sản: 14
+ Lợi dụng CVQH trong khi thi hành công vụ: 23
+ Giả mạo trong công tác: 1
+ Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng: 16
+ Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước: 4
+ Chiếm giữ trái phép tài sản: 2
+ Lừa đảo CĐTS: 7
+ Tiêu thụ TS do người khác phạm tội mà có: 1.
- Việc tách, nhập, đình chỉ, tạm đình chỉ:
40
+ Đình chỉ 1 vụ: Vụ án vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai tại Vân Đồn bị
CQ ANĐT đình chỉ điều tra (lý do: thực hiện theo Thông báo kết luận số 1250 ngày
22/01/2014 của Ban thường vụ Tỉnh ủy v/v chuyển Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy xem
xét xử lý).
+ Đình chỉ điều tra hành vi tham ô tài sản (mới khởi tố vụ án, chưa khởi tố bị can)
trong vụ án liên quan đến sai phạm trong việc triển khai thực hiện Chương trình xây
dựng nông thôn mới tại Hải Hà và Móng Cái (chỉ đề nghị truy tố 12 bị can về tội cố ý
làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng).
+ Đình chỉ 3 bị can bị khởi tố về tội tham ô tài sản trong vụ tham ô dầu Diesel
xảy ra tại Xí nghiệp Vật tư vận tải Hòn Gai và Công ty than Hà Tu (lý do: do
chuyển biến tình hình theo quy định tại khoản 1 Điều 25-BLHS). Tạm đình chỉ 1 bị
can bị khởi tố về tội tham ô tài sản trong vụ án này do bỏ trốn (truy nã, đã bắt được
và phục hồi điều tra, đề nghị truy tố theo quy định).
+ Tạm đình chỉ 1 bị can bị khởi tố về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn CĐTS
trong vụ án lạm dụng chức vụ, quyền hạn CĐTS tại Công ty Xây dựng mỏ hầm lò I
do bỏ trốn (truy nã).
- Số vụ án, bị can kết thúc đề nghị truy tố: 19 vụ 134 bị can (trong đó chuyển
từ tội danh xâm phạm sở hữu sang tội danh tham nhũng 7 bị can, chuyển từ tội danh
tham nhũng sang tội danh xâm phạm sở hữu 3 bị can). Số bị can bị đề nghị truy tố
về tội danh tham nhũng là 107 bị can.
- Số vụ án, bị can đang giải quyết: 2 vụ 10 bị can (5 tội danh tham nhũng).
- Về kết quả thu hồi tài sản: Có 19/22 vụ thu hồi được 20 tỷ 534 triệu đồng.
2.3. Thực trạng hoạt động hỏi cung bị can trong các vụ án tham ô tài sản
của lực lượng Cảnh sát điều tra
2.3.1. Thực trạng tổ chức và cán bộ trong điều tra các vụ án tham ô tài sản
của Công an tỉnh Quảng Ninh
Tổng số ĐTV của công an tỉnh Quảng Ninh hiện nay là 307 ĐTV. Trong đó
ĐTV trình độ trên đại học là 12, ĐTV trình độ đại học là 139, ĐTV cao cấp: 2,
ĐTV trung cấp: 105 và ĐTV sơ cấp: 49.
41
Kết quả nghiên cứu và trao đổi tọa đàm với các ĐTV cho thấy: 100% ĐTV
đều thống nhất cho rằng: Hỏi cung bị can là một hoạt động điều tra rất phức tạp.
Tuy nhiên nếu biết sử dụng biện pháp này sẽ mang lại hiệu quả rất cao. Trong quá
trình hỏi cung bị can luôn xảy ra mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là ĐTV và một
bên là bị can. Mâu thuẫn giữa việc luôn mong muốn thu thập được những thông tin
chính xác phản ánh về sự thật khách quan của vụ án từ lời khai của bị can với một
bên luôn tìm mọi cách, mọi thủ đoạn che giấu sự thật, cản trở quá trình điều tra
nhằm mục đích trốn tội hoặc càng giảm nhẹ tội trạng càng tốt.
Từ thực tiễn điều tra các vụ án tham ô tài sản, các ĐTV đều thấy được tính
chất gay go, quyết liệt của cuộc đấu tranh. Có thể thấy rằng đây là một cuộc đấu trí
căng thẳng giữa ĐTV với bị can. Là những người có trình độ văn hoá, trình độ
nghiệp vụ về quản lý, kinh tế, tài chính, có nhiều thủ đoạn trong việc tội phạm. Bên
cạnh đó thói quen của người vốn có sẵn quyền lực chỉ quen sai bảo người khác, ít
chịu phục tùng thực hiện đã tác động rất lớn đến quá trình hỏi cung.
Các ĐTV cũng thống nhất ý kiến về mức độ thận trọng, khéo léo của ĐTV
trong quá trình hỏi cung bị can phạm tội tham ô. Có thể nói mức độ tương tác về
tâm lý xảy ra trong quá trình hỏi cung bị can phạm tội tham ô diễn ra rất quyết liệt,
tác động lên nhiều mặt, nhiều góc độ khác nhau. Vì thế tiến hành hoạt động hỏi
cung trong các vụ án tham ô tài sản đòi hỏi phải tính toán đầy đủ khía cạnh tâm lý
nảy sinh trong toàn bộ hoạt động này. Chỉ có tính toán đầy đủ các khía cạnh tâm lý
của hoạt động hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản và có sự tác
động giải quyết một cách phù hợp thì mới có thể đưa lại hiệu quả cao. Trong thực tế
có nhiều trường hợp hoạt động hỏi cung bị can diễn ra thuận lợi, thành công, cũng
không ít trường hợp gặp phải khó khăn, không đạt kết quả. Sở dĩ có tình trạng đó do
nhiều nguyên nhân nhưng cơ bản vẫn thuộc về phía ĐTV.
Khảo sát tình hình ĐTV trong lực lượng CSĐT Công an tỉnh Quảng Ninh
tham gia điều tra các vụ án tham ô tài sản từ năm 2008 – 2018 cho thấy:
42
Năm Vụ
Trình độ của ĐTV tham gia Trên ĐH ĐH TH Cao cấp Trung cấp Sơ cấp
2008 2 0 9 6 0 15 11
2009 4 0 12 8 0 18 14
20010 4 1 14 9 0 20 10
2011 5 1 11 10 0 17 11
2012 2 3 10 12 0 15 10
2013 4 5 13 11 1 19 12
2014 5 5 24 0 1 15 13
2015 4 6 26 0 1 20 13
2016 4 8 32 0 2 19 15
2017 5 9 35 0 2 18 17
2018 5 10 39 0 2 25 19
Qua thống kê cho thấy trình độ của ĐTV tham gia điều tra các vụ án tham ô
tài sản ngày càng được nâng lên. Nhiều ĐTV đã có bề dày công tác, có kinh nghiệm
trong công tác điều tra.
Ý kiến đánh giá của các ĐTV đối với bị can phạm tội tham ô tập trung vào
những khía cạnh sau đây:
- Bị can thường tỏ ra sĩ diện ngoan cố không chịu khai báo hành vi phạm tội.
Tâm lý lo sợ bị mất chức, mất quyền, cậy có quan hệ rộng, quan hệ cấp trên.
- Trong quá trình khai báo thường đổ lỗi do cấp dưới hoặc do cấp dưới gian
dối, hoặc nêu nhiều lý do biện luận cho những sai phạm. Tìm mọi cách che giấu
hành vi, hoặc làm giảm nhẹ tội trạng, mà phổ biến thường kêu oan hoặc đổ do trình
độ, năng lực yếu kém, mất cảnh giác.
- Tội phạm tham ô trong những năm gần đây thường do nhiều người cấu kết,
thông đồng với nhau chiếm đoạt tài sản. Do đó quá trình hỏi cung bị can thường
thấy xuất hiện tình trạng bị can rất dè dặt khi trả lời thẳng vào vấn đề mà ĐTV đặt
ra. Hoặc nếu có trả lời luôn trả lời nhỏ giọt hoặc luôn ở trong trạng thái thăm dò,
cảnh giác về đồng bọn.
43
- Bị can thường cố tình để lộ các mối quan hệ với một số người có thẩm quyền
nhằm vừa để củng cố vị thế bản thân, vừa có thâm ý nhắc khéo hoặc luôn dùng
quan hệđe dọaĐTV.
Xuất phát từ những vấn đề trên, qua phỏng vấn trao đổi, tọa đàm với ĐTV đều
nhất trí về những thuận lợi và khó khăn khi tiến hành hỏi cung bị can trong điều tra
các vụ án tham ô như sau:
- Về thuận lợi:
+ Cho đến nay Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương về đấu tranh chống
tham nhũng, trong đó có tội phạm tham ô. Trong nhiều Nghị quyết, Chỉ thị đều xác
định phải kiên quyết đấu tranh với loại tội phạm này: "Đấu tranh chống tham nhũng
được tiến hành đồng bộ với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí và tập trung vào hai
loại hành vi: tham ô, chiếm đoạt làm thất thoát tài sản của Nhà nước và nhận hối lộ,
đòi hối lộ. Đó chính là quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về tham
nhũng và đấu tranh chống tham nhũng, là vũ khí sắc bén để các cơ quan bảo vệ
pháp luật tiến công tội phạm tham nhũng, tham ô, dù đó là ai, cương vị nào nếu
phạm tội đều phải bị xử lý đúng pháp luật.
+ Trong những năm qua, Chính phủ và các Bộ, ngành đã kịp thời xây dựng,
ban hành nhiều văn bản pháp quy về quản lý kinh tế tài chính. đây là cơ sở quan
trọng được sử dụng trong quá trình hỏi cung bị can phạm tội tham ô.
+ Do hành vi thực hiện tội phạm có liên quan đến nhiều người, nhiều ngành,
nhiều cấp nên có điều kiện để khai thác sử dụng các tài liệu đấu tranh.
+ Trong các vụ án có đồng phạm, có nhiều tội danh cho phép so sánh, kiểm
tra, đánh giá mức độ chính xác, tính lôgíc của lời khai giữa các bị can với nhau,
giữa các hành vi có liên quan, từ đó vạch trần mâu thuẫn trong quá trình đấu tranh.
- Về khó khăn:
Điều tra án tham ô tài sản là một công việc đòi hỏi thận trọng, tỉ mỷ, chính
xác. Phát hiện vụ án tham ô đã khó nhưng hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ để
chứng minh tội phạm lại càng khó khăn hơn. Điều được thể hiện rõ ở hoạt động hỏi
cung bị can, cụ thể là:
+ Thái độ ngoan cố, thủ đoạn xảo quyệt của bị can trước ĐTV.
44
+ Bị can thường chuẩn bị khá kỹ về tâm lý, đặt ra các tình huống sẽ xảy ra
trong quá trình hỏi cung để đối phó. Trong nhiều trường hợp bị can còn dùng chính
những hiểu biết của bản thân để tác động lại ĐTV nhằm mục đích chuyển hướng
khai báo.
+ Những tên có vai trò thứ yếu trong các vụ án có nhiều bị can thường tìm mọi
cách khai báo nhỏ giọt, trông chờ vào những đối tượng chính xem xét tình hình diễn
biến đến đâu, hoặc tìm cách thông cung với các bị can khác.
+ Thu hồi tài sản bị chiếmđoạt hết sức khó khăn.
Như vậy, nhìn chung ĐTV đều có nhận thức đúng về vai trò quan trọng cũng
như những thuận lợi và khó khăn của công tác hỏi cung bị can trong điều tra các vụ
án tham ô tài sản. Từ đó luôn coi trọng việc áp dụng chiến thuật hỏi cung trong
những vụ án về tội phạm này nhằm đem lại hiệu quả cao nhất, ít chi phí nhất về sức
lực, thời gian cũng như đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn một bộ phận ĐTV chưa nhận thức đầy đủ về
hoạt động này.Thực tế cho thấy một số ĐTV chưa đánh giá đúng mức và chưa thấy
hết ý nghĩa, tác dụng của hoạt động hỏi cung bị can. Một số cho rằng: Hỏi cung là
nhằm thay thế một số biện pháp khác trong các dạng của hoạt động điều tra. Số
khác thì cho rằng: Do luật tố tụng hình sự quy định, vì vậy chỉ cần hỏi và ghi lời
khai vào biên bản là xong. Chính vì những nhận thức đó, cùng với trình độ năng lực
yếu kém nên đã xảy ra tình trạng cuộc hỏi cung trở thành cuộc cãi vã giữa một bên
là bị can và một bên là ĐTV. Do đó cuộc hỏi cung không đem lại kết quả, thậm chí
trong một số vụ, chính ĐTV đã để lộ về nghiệp vụ cho bị can gây nên những hậu
quả rất nghiêm trọng
2.3.2. Thực trạng hoạt động hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô
tài sản từ thực tiễn điều tra tỉnh Quảng Ninh
Từ những kết quả của công tác điều tra nêu trên, tôi nhận thấy thực trang hỏi
cung bị can trong các giai đoạn có những đặc điểm sau:
2.3.2.1.Chuẩn bị hỏi cung.
Nhìn chung, ĐTV quan tâm thực hiện trình tự thủ tục hỏi cung, viết giấy triệu
tập trong trường hợp bị can tại ngoại, đề nghị giám thị trại tạm giam trích xuất và
45
dẫn giải bị can đến buồng hỏi cung, đọc quyết định khởi tố bị can, giải thích quyền
và nghĩa vụ của bị can theo quy định tại Điều 60 Bộ luật tố tụng hình sự. Việc làm
này, đảm bảo cho cuộc hỏi cung được tiến hành công khai, khách quan, tạo ra môi
trường tiếp xúc tâm lý tâm lý thuận lợi của ĐTV và bị can. Qua nghiên cứu thực
trạng hoạt động điều tra cho thấy, việc thực hiện các thủ tục pháp lý nêu trên của
ĐTV không cứng nhắc, cơ bản là phù hợp với đặc điểm của bị can trong các vụ án
tham ô tài sản nói chung và từng bị can trong từng vụ án cụ thể nói riêng. Phong
thái giao tiếp, các hành vi cử chỉ, lời nói của ĐTV đều biểu hiện tinh thần chung đó
là tôn trọng bị can, thông cảm với hoàn cảnh hiện tại của bị can. Mặt khác, thông
qua giao tiếp, thực hiện các thủ tục pháp lý, ĐTV đều mong muốn tỏ rõ cho bị can
biết là cuộc hỏi cung sẽ tiến hành khách quan, nghiêm túc, nhằm mục đích làm rõ
sự thật của vụ án. Đồng thời, ĐTV cũng thể hiện rõ cho bị can biết cuộc hỏi cung
diễn ra nhanh chóng hay kéo dài chủ yếu phụ thuộc vào sự thành khẩn khai báo và
sự cộng tác của bị can trong quá trình điều tra. Tất cả các việc làm này đều nhằm
mục đích tạo ra sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa ĐTV và bị can trong quá
trình hỏi cung. Qua trao đổi với các ĐTV cho thấy 100% ĐTV đều quan tâm thực
hiện bước ban đầu này của quá trình tiến hành hỏi cung và cho rằng có tác động
nhiều đến thái độ khai báo của bị can v.v... Đồng thời 100% ĐTV được hỏi cho
rằng, đối với bị can trong vụ án tham ô tài sản, ĐTV phải rất thận trọng trong cư xử,
phải luôn tôn trọng và thông cảm với hoàn cảnh hiện tại của bị can. Đặc biệt, không
để xảy ra các lời nói, hành vi xúc phạm đến bị can, coi thường bị can. Những sai
lầm này thường làm phát sinh thái độ bất hợp tác của bị can.
- Nghiên cứu kỹ đặc điểm nhân thân, tuổi của bị can để phân công ĐTV hỏi
cung cho phù hợp tránh tình trạng Bị can nhiều tuổi lại cử ĐTV chua có kinh
nghiệm vàđáng tuổi con cháu thì cuộc hỏi cung bị can sẽ không đạt kết quả như
mong muốn.
2.3.2.2. Tiến hành hỏi cung bị can
Qua khảo sát tôi thấy, 100% ĐTV đều cho rằng đây là thời điểm rất quan
trọng của quá trình tiến hành hỏi cung. Bởi vì sau khi bị can trả lời câu hỏi này bắt
đầu diễn ra tình huống đầu tiên của quá trình tiến hành hỏi cung: Tình huống bị can
46
khai thành khẩn hành vi phạm tội và các tình tiết của vụ án; tình huống bị can từ
chối khai báo; tình huống bị can khai báo gian dối. Những câu hỏi này đưa ra
thường dựa trên các cơ sở sau đây:
+ Những vấn đề cần làm rõ trong quá trình hỏi cung từng vụ án cụ thể. Những
vấn đề này thường thuộc nội dung các nhiệm vụ của hỏi cung bị can phạm tội này
đã được nêu trong Chương 1 của luận văn.
+ Trạng thái tâm lý và thái độ khai báo của bị can theo dự báo của ĐTV. Kết
quả trao đổi tọa đàm cho thấy 100% ĐTV cho rằng để đảm bảo tính khách quan của
kết quả hỏi cung, ĐTV ít khi hỏi thẳng ngay vào hành vi tham ô của bị can để bị can
trả lời. ĐTV thường đưa ra câu hỏi để bị can trả lời về lai lịch, quá trình công tác,
chức vụ, quyền hạn trước thời điểm bị khởi tố bị can và trong quá trình công tác có
những sai phạm gì, trách nhiệm của bị can về các sai phạm đó. Đưa ra câu hỏi này
sẽ giữ được không khí bình thường của cuộc hỏi cung. Đồng thời khi bị can trả lời,
ĐTV nắm được cụ thể thái độ khai báo của bị can trong quá trình hỏi cung. Nhưng
hiếm trường hợp, ĐTV chưa đưa ra câu hỏi bị can đã khẳng định ngay là mình hoàn
toàn vô tội, đề nghị cơ quan điều tra xem xét lại quyết định của mình. Trong trường
hợp này, đa số ĐTV cho rằng cần phải kiềm chế.tránh xúc động có thể dẫn tới có
những hành vi lời nói gây xung đột tâm lý giữa ĐTV và bị can. Xử thế tốt nhất của
ĐTV trong tình huống này là đề nghị bị can trấn tĩnh, suy nghĩ lại toàn bộ quy trình
công tác và những sai phạm của mình. Đề nghị bị can có thái độ cộng tác và đây là
con đường duy nhất đúng để bị can có thể tự cứu mình trong bối cảnh hiện nay.
Nghiên cứu hồ sơ các vụ án cụ thể, trao đổi phỏng vấn ĐTV cho thấy, việc áp
dụng chiến thuật hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản có đặc điểm
riêng xuất phát từ đặc điểm của bị can phạm tội này.
- Áp dụng chiến thuật giáo dục, thuyết phục bị can khai báo thành khẩn.
Qua trao đổi, phỏng vấn cho thấy 100% ĐTV cho rằng trong quá trình hỏi
cung đều thường xuyên áp dụng chiến thuật này. Để áp dụng chiến thuật này có
hiệu quả, ĐTV đã quan tâm nghiên cứu hồ sơ vụ án, nhất là các tài liệu chứng cứ về
hành vi phạm tội của bị can đã thu thập được, đặc điểm nhân thân của bị can, thái
độ khai báo của bị can trong từng lần hỏi cung và trong các tình huống cụ thể.
47
Trong đó, đặc biệt quan tâm là mức độ hiểu biết của bị can về pháp luật, về nghiệp
vụ quản lý kinh tế tài chính, nhận thức của bị can về hành vi vi phạm pháp luật của
bị can đã thực hiện, đặc điểm tâm lý bị can v.v...
Qua nghiên cứu thực tiễn cũng cho thấy, ĐTV thường phân tích rõ hoàn cảnh
hiện tại của bị can sau đó giải thích pháp luật, nhất là nguyên tắc xử lý của pháp luật
hình sự: khoan hồng với người thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công
chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa và bồi thường thiệt hại gây ra.
Qua nghiên cứu thực tế cho thấy, phương pháp sử dụng chiến thuật giáo dục
thuyết phục của ĐTV trong hỏi cung bị can phạm tội tham ô tài sản cơ bản là phù
hợp với đặc điểm của bị can và có hiệu quả.
- Áp dụng chiến thuật tác động tâm lý.
Kết quả nghiên cứu thực tế cho thấy, trong quá trình hỏi cung, Điều tra viên
của cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp đều coi trọng áp dụng các thủ thuật tác động
tâm lý trong quá trình hỏi cung bị can. Cụ thể, trong quá trình hỏi cung, ĐTV luôn
luôn biểu thị sự tôn trọng và thông cảm với hoàn cảnh của bị can nhằm tạo ra sự
tiếp xúc tâm lý có lợi trong quá trình hỏi cung. Mặt khác, trong quá trình hỏi cung
ĐTV đã chú ý khai thác sử dụng những phẩm chất tốt của bị can, những thành tích,
cống hiến của bị can với xã hội với doanh nghiệp trước đây, truyền thống tốt đẹp
của gia đình bị can để tác động. Sử dụng các nguồn tình cảm này tác động thường
kích thích làm hình thành ở bị can trạng thái tâm lý có lợi như xám hối một cách
thành khẩn, thừa nhận những sai phạm của mình, thành khẩn khai nhận.
- Sử dụng tài liệu chứng cứ trong quá trình hỏi cung.
Qua nghiên cứu thực tiễn cho thấy mặc dù quá trình thực hiện hành vi tham ô
thường được ngụy trang, che giấu kín đáo nhưng tội phạm tham ô cũng bộc lộ do
tâm lý chủ quan, coi thường pháp luật, do nội bộ mâu thuẫn, do bất minh về kinh tế,
nhất là hành vi tiêu xài phung phí. Các tài liệu, hóa đơn chứng từ có dấu vết tội
phạm tham ô thường được lưu giữ ở nhiều bộ phận, nhiều cơ quan khác nhau, do đó
ĐTV theo đường luân chuyển này có thể thu thập được tài liệu chứng cứ để buộc
tội. Ngoài ra, hành vi tham ô thường có liên quan đến nhiều hành vi phạm tội khác
như cố ý làm trái, lừa đảo, thiếu trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng, giả mạo
48
giấy tờ, đưa, nhận hối lộ, đánh bạc, tổ chứcđánh bạc lợi dụng ảnh hưởng đối với
người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Do đó, ĐTV có điều kiện để thu thập tài
liệu chứng cứ về những hành vi phạm tội có liên quan. Vì vậy, việc sử dụng tài liệu
chứng cứ trong quá trình hỏi cung bị can phạm tội tham ô tài sản cũng được ĐTV
quan tâm.
Qua nghiên cứu thực tế chúng tôi thấy, những tài liệu chứng cứ và ĐTV
thường sử dụng bao gồm: các hóa đơn chứng từ khống, các hợp đồng kinh tế
khống, kết luận giám định, nhưng tài sản đó có giá trị lớn bất minh về nguồn gốc
vv... Sử dụng những tài liệu chứng cứ này trong hỏi cung bị can thường có hiệu quả.
Nghiên cứu thực tế, nhất là trao đổi với các ĐTV chúng tôi thấy để sử dụng
chứng cứ, ĐTV đã chú ý nghiên cứu, đánh giá lựa chọn những tài liệu, chứng cứ có
thể sử dụng trong quá trình hỏi cung. Đồng thời, ĐTV đều chuẩn bị kỹ cho mình về
nhận thức và hành vi xử thế có liên quan đến quá trình sử dụng chứng cứ. Do đó,
ĐTV đã chú ý nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến chứng cứ để bác bỏ những
hành vi ngoan cố, xuyên tạc chứng cứ nếu như ĐTV dự báo tình hình này có thể
xảy ra. Kết quả nghiên cứu thực tế cũng cho thấy, chiến thuật sử dụng chứng cứ của
ĐTV cơ bản là đúng lúc và phù họp với bị can phạm tội này cũng như phù hợp với
các tình huống cụ thể. Khi sử dụng chứng cứ, ĐTV đều giải thích cho bị can rõ
chứng cứ có ý nghĩa chứng minh tình tiết nào của vụ án và cũng như vấn đề khác có
liên quan đến chứng cứ. Đồng thời, ĐTV luôn tạo mọi điều kiện cho bị can tranh
luận, đưa ra những thắc mắc, lập luận cho tính hợp pháp trong hành vi của mình.
Trên cơ sở đó ĐTV sử dụng chứng cứ chứng minh và bác bỏ những lời thanh minh,
ngụy biện đó, buộc bị can phải thừa nhận hành vi phạm tội
Thực tiễn hỏi cung bị can phạm tội tham ô tài sản: dễ bị tác động, thay đổi từ
các mối quan hệ của bị can, thậm chí mua chuộc các ĐTV. Đòi hỏi điều tra viên
phải có bản lĩnh vững vàng, phẩm chất trong sáng, không bị uy quyền và đồng tiền
khuất phục. Thực sự là cuộc đấu trí, đấu lý, sự tác động tâm lý căng thẳng, là nghệ
thuật đi vào lòng người, làm cho họ từ bỏ ý định ngoan cố không khai để chạy tội.
Đối với những bị can quan trọng trong vụ án thường là ĐTV có kinh nghiệm,
lãnh đạo cơ quan CSĐT thực hiện hỏi cung, phải là 2 ĐTV hỏi cung.
49
- Sử dụng mâu thuẫn trong quá trình hỏi cung.
Nghiên cứu thực tế cho thấy, trong quá trình hỏi cung bị can, ĐTV của cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an các địa phương chú ý sử dụng mâu thuẫn trong lời
khai của bị can và mâu thuẫn giữa lời khai của các bị can trong cùng một vụ án để
thuyết phục bị can khai báo thành khẩn.
2.3.2.3. Lập biên bản hỏi cung bị can
Kết quả khảo sát cho thấy, lập biên bản hỏi cung bị can trong điều tra vụ án
tham ô tài sản được các ĐTV coi trọng. Bởi vì biên bản hỏi cung bị can là văn bản
pháp lý rất quan trọng, nó phản ánh các bước của quá trình hỏi cung và lời khai của
bị can về vụ án, hành vi phạm tội của bị can và đồng bọn cũng như những tài liệu
chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra. Thông qua biên bản hỏi
cung bị can còn xác định được thái độ khai báo của bị can và năng lực của ĐTV,
nhất là năng lực hỏi cung của ĐTV. Do đó hầu hết các biên bản hỏi cung bị can
trong các vụ án tham ô tài sản mà chúng tôi nghiên cứu về cơ bản đều đáp ứng được
yêu cầu về hình thức và nội dung. Cụ thể các biên bản đều được lập theo mẫu quy
định. Trong biên bản hỏi cung đều phản ánh rõ những thông tin cá nhân theo quy
định của pháp luật về ĐTV hỏi cung, về bị can, ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm tiến
hành hỏi cung, việc thực hiện trình tự thủ tục tố tụng của cuộc hỏi cung, câu hỏi của
ĐTV và lời khai của bị can. Biên bản hỏi cung đều có chữ ký của ĐTV và bị can,
(Người bào chữa nếu có). Các câu hỏi của ĐTV nên trong biên bản hỏi cung bị can
về cơ bản đều bám sát vào những vấn đề phải chứng minh trong vụ án tham ô tài
sản và khai thác mở rộng vụ án. Thông qua câu hỏi, nhất là từng từ ngữ trong câu
hỏi thể hiện được ý đồ chiến thuật hỏi cung của ĐTV. Nhìn chung, lời khai của bị can
thể hiện trong biên bản hỏi cung được ghi chép cụ thể, đọc dễ hiểu, phản ánh các tình
tiết của vụ án tham ô tài sản mà bị can biết, về những tình tiết khác có liên quan. Đồng
thời trong biên bản hỏi cung ĐTV còn đưa ra những câu hỏi để bị can trả lời nhằm mục
đích củng cố lời khai của bị can, đề phòng bị can phản cung sau này.
Biên bản hỏi cung bị can đều được ĐTV kiểm tra đánh giá thận trọng. Điều đó
được thể hiện rất cụ thể trong các biên bản hỏi cung từng bị can trong hồ sơ vụ án.
Có thể đánh giá tổng quát, biên bản hỏi chung bị can đã phản ánh trong quá trình
50
tiến hành và kết quả hỏi cung, đảm bảo giá trị pháp lý, là một trong những căn cứ
quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố xét xử các vụ án tham ô
tài sản đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2.3.2.4. Nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá và sử dụng kết quả hỏi cung
Biên bản hỏi cung bị can là văn bản pháp lý rất quan trọng trong hồ sơ vụ án.
Thông qua nghiên cứu biên bản hỏi cung có thể xác định được các tình tiết của vụ
án tham ô tài sản bao gồm các tình tiết đã rõ và các tình tiết chưa rõ theo dự đoán
của ĐTV, thái độ khai báo của bị can. Kết quả hỏi cung bị can là cơ sở để tiến hành
nhiều biện pháp, nhất là các biện pháp điều tra và các biện pháp trinh sát, thu thập
các tài liệu có liên quan, xác định các đối tượng khác của vụ án, trưng cầu và tiến
hành giám định, tiến hành các biện pháp trinh sát hỗ trợ điều tra, thu hồi tài sản do
các bị can chiếm đoạt.
Do đó, kết quả khảo sát cho thấy, ĐTV của cơ quan Cảnh sát điều tra đã quan
tâm nghiên cứu đánh giá kết quả hỏi cung cả về nội dung và hình thức. Thông qua
nghiên cứu đánh giá để xác định có phải tiến hành hỏi cung lại hay không. Đồng
thời, thông qua nghiên cứu, đánh giá mà xác định giá trị lời khai của bị can trong
quá trình chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Nhìn chung,
kết quả hỏi cung được khai thác sử dụng triệt để trong quá trình điều tra.
Tóm lại, trong những năm qua, công tác hỏi cung bị can trong điều tra các vụ
án tham ô tài sản đã được Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp và
ĐTV rất coi trọng. Công tác hỏi cung đã chấp hành tốt các quy định của pháp luật,
hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng bức cung, không để xảy ra nhục hình đối với bị
can. Quyền và nghĩa vụ của bị can trong quá trình hỏi cung được đảm bảo. Trong
quá trình hỏi cung, ĐTV đã sáng tạo linh hoạt vận dụng chiến thuật hỏi cung phù
hợp với tội phạm tham ô tài sản và bị can phạm tội tham ô tài sản nói chung, các
tình huống cụ thể nói riêng. Biên bản hỏi cung về cơ bản đáp ứng được yêu cầu về
pháp lý, phản ánh trung thực quá trình tiến hành và kết quả hỏi cung, góp phần quan
trọng vào quá trình chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Kết
quả hỏi cung được kiểm tra, đánh giá thận trọng, khai thác sử dụng triệt để trong
51
quá trình điều tra, mở rộng vụán, xác định tính chất mức độ của từng bị can trong
vụán và thu hồi tài sản các bị can chiếm đoạt được.
2.4. Nhận xét, đánh giá
2.4.1. Những kết quả đạt được
- ĐTV chủ động nắm bắt nội dung vụ án, vụ việc và quá trình giải quyết các
vụ án, vụ việc trước đó để có định hướng điều tra, xác định những vướng mắc, khó
khăn cần giải quyết.
- Quá trình điều tra có sự phối hợp chặt chẽ giữa ĐTV và kiểm sát viên của
viện kiểm sát để thu thập, đánh giá, nắm chắc tài liệu, chứng cứ, nội dung vụ án để
giải quyết đúng thời gian, tiến độ đề ra.
Ngoài ra, kết quả này giải quyết các vụ án tham ô tài sản góp phần giải quyết
cơ bản tình trạng bức xúc, khiếu kiện phức tạp, kéo dài và tạo được niềm tin, sự
đồng tình, ủng hộ cao của nhân dân trên địa bàn đối với các dự án, mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2.4.2. Những hạn chế
- Các vụ án, vụ việc về tội phạm tham ô tài sản có hồ sơ rất lớn, việc thu thập
tài liệu, chứng cứ kéo dài, do đó dẫn đến việc nhiều vụ án, vụ việc kiểm tra, xác
minh, điều tra kéo dài, không triệt để. Quan điểm đánh giá chứng cứ, xác định tội
danh, diện đối tượng xử lý còn nhiều ý kiến khác nhau, nên các vụ án này đều phải
chia thành nhiều giai đoạn để giải quyết từng phần, nhiều vụ án bị trả hồ sơ để điều
tra bổ sung.
- Việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong vụ án tham ô tài sản còn nhiều khó
khăn do các đối tượng phạm tội che dấu tài sản, không chịu giao nộp.
- Một số cán bộ còn hạn chế về năng lực, trách nhiệm chưa được đề cao, trong
qua trình điều tra chưa bám sát được tiến độ điều tra.
- Việc điều tra một số vụ án tham ô tài sản trong những năm gần đây khó khăn
và phức tạp hơn do một số vụ án tham ô tài sản không còn chỉ xảy ra ở một cơ quan,
doanh nghiệp như trước đây, mà nó còn liên quan đến nhiều cơ quan, doanh nghiệp
nhà nước, nhiều cấp từ Trung ương đến cơ sở. Đặc biệt có cả yếu tố nước ngoài
trong một số vụ án tham ô tài sản.
52
- Công cụ, phương tiện phục vụ công tác hỏi cung còn nhiều hạn chế như thiếu
máy ghi âm, camera, phương tiện thông tin, liên lạc, buồng hỏi cung, phương tiện
kỹ thuật cần thiết khác.
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Trong vụ án tham ô tài sản các đối tượng thường lợi dụng các mối quan hệ để
tác động, thay đổi các chứng cứ theo hướng có lợi cho bị can nên làm cho việc điều
tra khó khăn, kéo dài.
Một số cán bộ chưa được tiếp xúc với nhiều các vụ án tham ô tài sản, một số
cán bộ chưa chịu nghiên cứu hồ sơ tài liệu để nâng cao trình độ, kinh nghiệm trong
việc hỏi cung bị can trong vụ án tham ô tài sản,
Các đối tượng trong vụ án tham ô tài sản thường là muốn che giấu tài sản,
không muốn giao nộp nên tìm mọi cách cất giấu tài sản làm cho việc thu thập chứng
cứ, tài liệu của CQĐT khó khăn.
Đối tượng phạm tội tham ô tài sản là những người có chức vụ, quyền hạn.
Nhiều đối tượng thuộc diện quản lý của cấp ủy địa phương, có người thuộc diện
quản lý của Trung ương nên công tác đấu tranh với các đối tượng này thường khó
khăn, phức tạp
53
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN TRONG VỤ ÁN THAM Ô TÀI SẢN
3.1. Dự báo tình hình tội phạm tham ô tài sản trong những năm tới và
những khó khăn trong công tác hỏi cung bị can.
3.1.1. Dự báo tình hình tội phạm tham ô tài sản trong những năm tới.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo tiếp tục phát huy những
tác dụng tích cực. Nhờ đó nền kinh tế của đất nước có những bước phát triển mới.
Đời sống vật chất- tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, an ninh trật
tự được giữ vững tạo thuận lợi cho sự phát triển.
Trong xu thế chung của thế giới, đất nước ta từng bước đẩy mạnh các hoạt
động hội nhập quốc tế và khu vực. Có thể nói chưa thời kỳ nào nhu cầu về hợp tác
trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt về kinh tế lại phát triển mạnh mẽ trong những năm đầu
của thế kỷ XXI này.Tình hình đó đã và đang đặt ra cho đất nước ta nhiều vận hội
mới, cùng những khó khăn thách thức mới. Với xuất phát điểm từ một nền kinh tế
kém phát triển, lạc hậu là khó khăn lớn nhất khi hoà nhập vào trào lưu chung của
thế giới, khi mà trình độ phát triển của các nước đã vượt qua chúng ta từ nhiều năm
trước. Những thách thức đó hiện diện trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Trên mặt
trận đấu tranh chống tội phạm, xu thế đó đã làm nẩy sinh nhiều thách thức mới như
Nghị quyết lần thứ VIII- BCH Trung ương Đảng khoá IX tiếp tục xác định thách
thức đối với an ninh nước ta vẫn là bốn nguy cơ: Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trên thế giới và trong khu vực; chệch hướng XHCN; nạn tham nhũng và
tệ nạn quan liêu; "diễn biến hoà bình". Các nguy cơ trên diễn biến đan xen, phức
tạp, không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Như vậy có thể thấy trong những năm tới đến 2025, tội phạm tham nhũng nói
chung có xu hướng gia tăng trở thành một nguy cơ, thách thức đối với đất nước ta.
Đối với tội phạm tham ô tài sản, những dự báo được đề cập trên những khía
cạnh chủ yếu sau đây:
54
- Về lĩnh vực xảy ra tội phạm:
+ Trong những năm tới, tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế của đảng và Nhà nước nhằm khuyến khích mọi tiềm năng và nguồn
vốn để hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Nhiều cơ chế chính sách mới sẽ được ban hành thông thoáng hơn,
sẽ có những sơ hở để tội phạm lợi dụng hoạt động.Tiến hành hoà nhập kinh tế quốc
tế, tiếp tục được đẩy mạnh. Từ năm 2003 nước ta bắt đầu thực hiện các quy định
của AFTA, qua đó khoảng 700 mặt hàng sẽ có thuế nhập khẩu giảm xuống còn từ
0% đến 5%; đồng thời mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu với Trung Quốc, WTO sẽ
đặt ra nhiều vấn đề mới như vừa hội nhập vừa bảo hộ sản xuất trong nước, từ đó sẽ
nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp.
+ Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, xây dựng các công trình giao thông, các
công trình trọng điểm của Nhà nước, các dự án phát triển nông thôn, vùng sâu vùng
xa... sẽ tiếp tục xảy ra các vụ tham ô tất cả các khâu. Chủ yếu là: Trong đấu thầu; thi
công; giám sát; đền bù giải phóng mặt bằng.
+ Tội phạm tham ô, tiêu cực sẽ có nhiều diễn biến phức tạp trong việc thực
hiện cổ phần hoá doanh nghiệp, trong quản lý đất đai, cấp bán đất trái thẩm
quyền.Tham ô tài sản gắn liền với tội đưa, nhận hối lộ, lạm dụng chức vụ quyền hạn
- Về đối tượng phạm tội.
+ Đối tượng phạm tội có chức vụ, quyền hạn ở tất cả các vị trí, bộ phận trong
nền kinh tế. Xong xu thế những đối tượng có chức vụ chủ chốt ở đơn vị, doanh
nghiệp... ngày càng tăng dần. Tập trung vào nhóm những đối tượng có quyền hạn,
trách nhiệm quản lý tiền bạc, tài sản của Nhà nước.Trình độ mọi mặt của đối tượng
phạm tội ngày càng cao hơn.Họ có hiểu biết sâu sắc về chính sách pháp luật, về quản
lý kinh tế, thông thạo nghiệp vụ kinh tế- tài chính.
+ Xu hướng có sự câu kết chặt chẽ giữa các đối tượng phạm tội tham ô, cũng
như lợi dụng quan hệ với những người có chức, có quyền trong bộ máy Nhà nước,
tổ chức Đảng, Đoàn thể quần chúng lợi dụng các cơ quan đoàn thể các tổ chức
chính trị xã hội để núp bóng... để che chắn hành vi phạm tội là phổ biến.
- Về phương thức, thủ đoạn hoạt động:
55
Phương thức, thủ đoạn hoạt động của loại tội phạm này trong thời gian tới rất
đa dạng, phức tạp. Để nâng cao hiệu quả đấu tranh đối với tội phạm tham ô tài sản
đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, toàn diện, có hệ thống về phương thức, thủ
đoạn hoạt động của chúng chủ yếu là:
+ Lợi dụng sơ hở trong quản lý kinh tế, quản lý cán bộ, lợi dụng chức trách,
nhiệm vụ được giao để thực hiện hành vi phạm tội.
+ Sử dụng những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ quản lý kinh tế- tài chính,
khoa học, kỹ thuật, ngoại ngữ vào quá trình thực hiện tội phạm. Bằng nhiều thủ đoạn
như: Lập chứng từ khống, chứng từ giả, sửa chữa chứng từ, hợp pháp hoá chứng từ, sổ
sách kế toán để rút tiền. Lợi dụng các hoạt động thông thường như: Tiền thưởng, quà
biếu trong các dịp lễ, tết.... Lợi dụng các hình thức tiền đóng góp cổ phần vào các công
ty, doanh nghiệp; trả nợ hoặc vay nợ để ngụy trang che giấu hành vi phạm tội.
+ Dùng các thủ đoạn gian dối như lợi dụng chức trách, nhiệm vụ được giao,
lợi dụng danh nghĩa của các cơ quan tổ chức thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
+ Đặt ra các khoản thu- chi trái quy định.
+ Lợi dụng những sơ hở thiếu sót trong chính sách quản lý kinh tế, những yếu
kém về năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý tài sản của Nhà nước, của tập
thể để thực hiện tội phạm.
+ Câu kết, lôi kéo, mua chuộc cán bộ, nhân viên trong các cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp định ra những chủ trương, chính
sách có lợi cho việc chiếm đoạt tài sản.
+ Câu kết với những đối tượng hình sự khác nhằm đe doạ, khống chế, chống
trả các lực lượng kiểm tra, thanh tra, cơ quan bảo vệ pháp luật và quần chúng nhân
dân nhằm mục đích che giấu tội phạm.
3.1.2. Những khó khăn có thể nảy sinh trong công tác hỏi cung bị can trong
vụ án tham ô tài sản.
Từ những phân tích, dự báo đã nêu, trong những năm tới công tác đấu tranh
chống tội phạm tham ô tài sản nói chung và công tác hỏi cung bị can trong vụ án
tham ô tài sản nói riêng sẽ có nhiều khó khăn, gay go quyết liệt, thể hiện trên những
vấn đề cơ bản sau đây:
56
- Tình trạng bao che lẫn nhau trong các cơ quan đơn vị doanh nghiệp có xu
hướng trầm trọng thêm. Đối với những người có trách nhiệm khi biết những sai
phạm của cấp dưới không kiên quyết đưa ra ánh sáng pháp luật do sợ bị mất uy tín,
mất thành tích mà nặng về xử lý nội bộ. Đối với nhân viên do sợ bị trù dập ảnh
hưởng đến công việc, đời sống nên cũng không dám đấu tranh, không dám tố cáo
sai phạm của cấp trên. Tình trạng các đối tượng tham ô tài sản cấu kết với nhau tạo
thành một thế lực ngầm trong cơ quan, đơn vị doanh nghiệp.Họ dùng sức mạnh của
đồng tiền, của quà cáp biếu xén, lợi dụng mọi mối quan hệ để che giấu những sai
phạm.Vì thế việc phát hiện tội phạm tham ô rất khó khăn.
- Đối tượng phạm tội tham ô là người có chức vụ quyền hạn.Nhiều người
thuộc diện quản lý của cấp ủy địa phương, có người thuộc diện quản lý của Trung
ương.để tiến hành đấu tranh với những đối tượng này đòi hỏi phải thông qua các thủ
tục khác về tổ chức Đảng, về chính quyền... Công tác đấu tranh xử lý đòi hỏi phải
tuân thủ những nguyên tắc rất chặt chẽ, bảo đảm phục vụ các yêu cầu chính trị
nghiệp vụ, pháp luật.
- Những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường tiếp tục ảnh hưởng đến
mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội. Cùng với sự phát triển chung của đất nước,
nhiều nhu cầu về vật chất, tinh thần của người dân cũng được nâng lên. Tuy nhiên
bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những khó khăn.Bọn tội phạm sẽ triệt để lợi dụng mâu
thuẫn này để dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo cán bộ bảo vệ pháp luật.
- Trong nền kinh tế thị trường, sự vận động và phát triển diễn ra rất nhanh
chóng. Trong khi đó trình độ về mặt quản lý kinh tế, quản lý xã hội của chúng ta
còn lạc hậu, yếu kém. Vì vậy trên phương diện quản lý vĩ mô chưa đủ sức theo kịp
với trình độ chung dẫn đến tình trạng ban hành nhiều văn bản, quy định lỗi thời,
chồng chéo, kém hiệu quả. Đây là khâu yếu mà bọn tội phạm luôn triệt để lợi dụng
để hoạt động phạm tội.
- Chúng ta đang tiến hành cải cách tư pháp. Những bất hợp lý trong hoạt động
tư pháp cũng là một trong những khó khăn đối với công tác đấu tranh chống tội
phạm tham ô. Sự phối kết hợp giữa các ngành Công an- Kiểm sát- Toà án trở thành
57
một quy định không thể thiếu trong quá trình đấu tranh chống tội phạm tham ô tài
sản.
- Trong quá trình điều tra các vụ án tham ô tài sản, cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát thường phải giải quyết các vấn đề giám định và hướng xử lý đối với những
người có chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật. Đây là những vấn đề phức tạp, tốn
kém thời gian. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào quy định về thời
gian giám định cũng như thời gian cấp ủy Đảng trả lời các cơ quan tiến hành tố tụng
(trong những trường hợp phải xin ý kiến cấp ủy Đảng trực tiếp quản lý những người
có chức vụ, quyền hạn phải xử lý hình sự).
- Đối với các ngành, các đơn vị, địa phương chủ yếu còn nặng về thu vén lợi
ích kinh tế mà chưa thấy hết thực trạng tình hình tội phạm tham nhũng nói chung,
tham ô nói riêng cũng như hậu quả nghiêm trọng của tội phạm này. Tình trạng lãng
phí của còn xảy ra khá phổ biến. Do đó chưa có quyết tâm cao trong phối hợp với
cơ quan chức năng đấu tranh chống tội phạm.
- Các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội chưa thể hiện thực sự vai trò
tham gia tích cực trong công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham
nhũng.
- Sự phối kết hợp trao đổi thông tin giữa cơ quan điều tra với các đơn vị trinh
sát, nhất là Cảnh sát kinh tế trong quá trình điều tra còn lỏng lẻo. Đội ngũ cán bộ
chiến sĩ còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhà nước còn xem nhẹ, chỉ coi trọng
số lượng chua coi trọng chất lượng lên chua tìm được lỗi vi phạm của cơ quan nhà
nước các tổ chúc chính trị xã hội.
- Việcthu hồi lại tài sản bị tham nhũng là hết sức khó khăn tỷ lệ thu hồi lại tài
sảnkhoảng 20% so với tài sản bị thất thoát.
3.2 Một số kiến nghị
Hoàn thiện pháp luật là đường lối chiếc lược lâu dài về đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung và cũng có thể là sách lược đấu tranh chống tội phạm
trong giai đoạn nhất định, đối với một loại tội phạm nhất định. Được thể hiện ở
nhiều loại văn bản khác nhau tập trung nhất, rõ nhất và cũng cụ thể nhất trong các
58
văn bản và trong các bộ luật hiện hành. Tất cả các điều luật đều thể hiện ở các cấp
độ khác nhau chính sách của Nhà nước Việt Nam về đấu tranh phòng tội phạm về
tham nhũng. Đồng thời, các bộ luật cũng là cơ sở pháp lí để giải thích, tuyên truyền
và thực hiện chính sách phát luật trong thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về
tham nhũng. Đổi mới nhận thức về chính sách pháp luật mà trọng tâm là đổi mới
quan niệm về tội phạm và hình phạt, về cơ sở của trách nhiệm hình sự, đảm bảo các
quy định của pháp luật không chỉ là công cụ pháp lý để các cơ quan chức năng đấu
tranh, trấn áp tội phạm mà còn là cơ sở pháp lý để bảo vệ sự phát triển lành mạnh
các quan hệ kinh tế xã hội; bảo vệ quyền con người, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
của xã hội; khuyến khích mọi người dân chủ động tích cực tham gia đấu tranh
phòng, chống tội phạm về tham nhũng.
-Định kỳ thanh tra kiểm tra công tác Đảng và các mặt công tác khác của đội
ngũ Đảng viên, cán bộ công chức, viên chức.
- Thường xuyên quán triệt các nghị quyết của Đảng về công tác phòng chống
tham nhũng và xử lý nghiêm người đứng đầu( không có vùng cấm) nếu để xảy ra
tham nhũng.
- Ban hành thông tư hướng dẫn công tác giám định tài sản phải có thời gian trả lời
cụ thể tránh như tình trang hiện nay kết quả giám định không có thời gian không có căn
cứ xử lý, kinh phí trả giám định quá lớn, nên chua đáp ứng được yêu cầu điều tra.
- Làm tốt công tác kê khai tài sản phải có xác minh giải trình về nguồn gốc tài
sản cụ thể, hạn chế giao dịch sử dụng tiền mặt.
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm những vị trí lãnh đạo có dư luận tham nhũng, phải có
kết quả xác minh về tiền, tài sản và tiền gửi của các hệ thống ngân hàng. (Kể cả Vợ,
chồng, anh,em, người thân trong gia đình).
- Không bổ nhiệm người thân trong gia đình của thủ trưởng đơn vị vào những
vị trí quan trọng trong cùng một cơ quan, xí nghiệp……
- Làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhà nước tránh tình trạng qua
loa chiếu lệ như hiện nay. Hầu hết các vụ án tham ô tài sản bị phát hiện đề do các
nguồn khác từ nguồn công tác kiểm toán nhà nước là chưa có.
59
- Vai trò tham mưu, chỉ đạo của Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng Trung
ương chưa đạt hiệu quả như mong muốn, chưa thật sự tập trung chỉ đạo công tác
phát hiện điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng tại địa phương.
- Có chính sách thích đáng cho cán bộ tố cáo, tố giác những hành vi tham ô tài sản.
- Vận động các Đảng viên các già làng, trưởng bản, các cơ quan ban ngành các
tổ chức chính trị xã hội, báo chí, đài phát thanh truyền hình tích cực tham gia công
tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
3.3. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can
trong vụ án tham ô tài sản
3.3.1. Cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện lý luận chiến thuật
hỏi cung bị can trong các vụ án tham ô tài sản:
Mặc dù lý luận về hỏi cung bị can đã có những bước phát triển khá mạnh, tuy
nhiên việc nghiên cứu để cụ thể hoá và áp dụng sâu sắc đối với từng loại đối tượng
là nhiệm vụ còn hết sức nặng nề. Từ kết quả nghiên cứu lý luận cũng như khảo sát
thực tiễn chúng tôi thấy rằng cần phải bổ sung một số vấn đề mới nảy sinh đối với
hoạt động hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản. Có thể nói trong
quá trình điều tra các vụ án tham ô tài sản, ĐTV gặp rất nhiều khó khăn, trở
ngại.Thường xuyên phải chịu một áp lực rất lớn về tâm lý.Xuất phát từ tính chất của
vụ án, đặc điểm của bị can mà ĐTV phải tự xây dựng cho mình những kế hoạch
riêng.Bên cạnh đó ĐTV còn phải dự liệu các tình huống có thể xảy ra, cả về thuận
lợi cũng như không thuận lợi.
Đến nay các giáo trình giảng dạy về khoa học điều tra hình sự và phương pháp
điều tra các vụ án cụ thể mới chỉ đề cập đến các tình huống một cách chung nhất.
Cần có những chuyên đề chuyên sâu để chỉ ra được những đặc trưng cơ bản của
hoạt động hỏi cung tội phạm tham ô cần tập trung vào vấn đề mấu chốt nào?khó
khăn nhất ở đâu? Cách giải quyết, tháo gỡ của ĐTV phải làm gì?
Để giải quyết những vấn đề trên, cần có những đề tài độc lập dành riêng
nghiên cứu làm rõ những tình huống đó.
Trên phương diện thực tiễn điều tra cho thấy để làm rõ được sự thật của vụ án
tham ô tài sản, đòi hỏi công tác hỏi cung bị can phải được tiến hành một cách rất
60
khẩn trương, giải quyết triệt để các yêu cầu điều tra. Tính đa dạng, sự phức tạp của
công tác này đòi hỏi ĐTV phải có sự ứng xử rất nhạy bén, linh hoạt mới có thể
giành thắng lợi. Hỏi cung bị can phạm tội tham ô là một hoạt động rất phức tạp, bao
gồm nhiều tình tiết tác động qua lại giữa ĐTV với bị can. Các tình huống xảy ra
trong quá trình hỏi cung ngày càng trở nên mới mẻ so với những vấn đề đã được
đúc kết. Vì thế việc bổ sung, hoàn thiện về mặt lý luận của công tác hỏi cung bị can
phạm tội tham ô tài sản là rất cần thiết.
Qua nghiên cứu, tổng kết thực tiễn hỏi cung bị can phạm tội tham ô, chúng tôi
thấy rằng khi xây dựng lý luận về hỏi cung bị can phạm tội tham ô tài sản cần chú ý
tới những vấn đề sau đây:
- Yếu tố đồng phạm trong các vụ án tham ô tài sản:
Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm tham ô tài sản trong những năm gần đây
cho thấy hầu hết các vụ án tham ô đều có yếu tố đồng phạm (chiếm trên 90% các vụ
án đã khởi tố điều tra). Điều đó đặt ra một vấn đề "xây dựng chiến thuật hỏi cung bị
can trong các vụ án tham ô tài sản có đồng phạm". Để giải quyết vấn đề này cần rút
ra những vấn đề cơ bản của việc hỏi cung bị can các vụ án có đồng phạm tham ô tài
sản như sau:
- Xây dựng phương pháp hỏi cung bị can trong các vụ án tham ô có
đồng phạm.
- Chiến thuật sử dụng chứng cứ, tài liệu trong các vụ án tham ô có
đồng phạm.
- Chiến thuật khai thác mâu thuẫn trong hỏi cung bị can đối với vụ án tham ô
có đồng phạm.
- Kết hợp hỏi cung bị can phạm tội tham ô tài sản có liên hệ với những tội
danh khác trong vụ án tham ô tài sản có đồng phạm.
Trong vụ án tham ô tài sản có đồng phạm, khi xây dựng phương pháp hỏi
cung bị can có những điểm cần chú ý:
+ Hỏi cung bị can trong vụ án được tiến hành từ việc xác định mối quan hệ với
việc hỏi cung những bị can khác. Vì vậy, việc xác định trình tự các buổi hỏi cung
61
cũng như lựa chọn bị can để tiến hành hỏi cung cần được tính toán một cách chu
đáo, hợp lý nhằm tìm ra được "mắt xích" đột phá trong toàn bộ nhóm tội phạm.
+ Quá trình hỏi cung bị can phải làm rõ "bức tranh" của toàn bộ cơ cấu tổ
chức, đường dây hoạt động phạm tội, vai trò của từng bị can.
+ Đặc biệt coi trọng các biện pháp ngăn chặn trong quá trình tiến hành điều tra
vụ án như: bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm không cho các đối tượng có điều kiện trao
đổi thông tin, thoả thuận lời khai gây khó khăn cho việc hỏi cung bị can cũng như
toàn bộ hoạt động điều tra.
+ Bảo đảm yếu tố khẩn trương, nhanh chóng trong quá trình hỏi cung bị can
đối với các vụ án có đồng phạm tham ô tài sản.
+ Triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa lời khai của các bị can trong vụ án có đồng
phạm tham ô. Mâu thuẫn giữa bị can này với bị can khác nhằm kích thích bị can
khai báo sự thật.
Nội dung của chiến thuật hỏi cung bị can phạm tội tham ô tài sản, ngoài những
vấn đề đã được đúc kết thành lý luận hiện có, theo kết quả nghiên cứu cần tập trung
vào những điểm cơ bản như:
Thứ nhất: Những đặc điểm có liên quan đến chiến thuật hỏi cung bị can trong
các vụ án có đồng phạm. Chú ý đặc điểm về thủ đoạn hoạt động phạm tội và che
giấu tội phạm. Liên hệ đối với từng loại tội phạm, trong từng lĩnh vực khác nhau
như: xây dựng cơ bản, tài chính - ngân hàng, thương mại - dịch vụ, các công trình -
dự án.v.v...
Thứ hai: Cần bổ sung về mặt lý luận những nhiệm vụ cụ thể trong quá trình
hỏi cung bị can phạm tội tham ô tài sản. Trong đó đặc biệt chú ý làm rõ:
- Những đối tượng chưa bị phát hiện.
- Những tài liệu, chứng cứ bị che giấu.
- Những nguyên nhân, điều kiện phạm tội.
- Những vấn đề phục vụ cho công tác khai thác mở rộng vụ án.
Thứ ba: Những vấn đề lý luận của các giai đoạn hỏi cung bị can phạm tội
tham ô tài sản.
Trong vấn đề này cần bổ sung thêm về:
62
+ Những yêu cầu chuẩn bị tâm lý đối với ĐTV được phân công hỏi cung bị
can trong vụ án tham ô tài sản. Đặc biệt chú ý đối với những vụ án phức tạp nghiêm
trọng có liên quan đến nhiều đối tượng, có quan hệ đến những cán bộ trong bộ máy
Nhà nước, các tổ chức khác.
+ Những điều chỉ dẫn về công tác tìm hiểu, nghiên cứu hồ sơ, trình tự sắp xếp
hồ sơ vụ án đảm bảo khoa học, hiệu quả phục vụ công tác hỏi cung bị can.
+ Những điều chỉ dẫn chiến thuật trong quá trình tiến hành hỏi cung bị can.
Chú ý đến khả năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ cho quá trình tiến hành
hỏi cung bị can.
+ Những điều chỉ dẫn chiến thuật về nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá và sử
dụng kết quả hỏi cung bị can trong các vụ án có đồng phạm phạm tội tham ô tài sản.
Bao trùm toàn bộ những nội dung trên là việc nghiên cứu, bổ sung về phương
thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm tham ô trong những năm tới và những
phương pháp mới để đấu tranh đối với loại tội phạm này.
3.3.2. Nâng cao trình độ nhận thức cho ĐTV về chiến thuật hỏi cung bị can
trong các vụ án tham ô tài sản:
Lý luận về nhận thức đã chỉ rõ vai trò của nhận thức đối với hoạt động của con
người. Trong bất kỳ hoạt động nào nhận thức luôn trở thành yếu tố quyết định chất
lượng hành động. Nhận thức đúng, đầy đủ sẽ làm cho con người hành động đúng và
đạt hiệu quả cao, ngược lại nhận thức không đầy đủ, lệch lạc sẽ dẫn tới hành động
không phù hợp, thậm chí thất bại.
Trong hoạt động điều tra tội phạm, yêu cầu nhận thức đối với ĐTV tạo nên cơ
sở cho việc lựa chọn đúng các phương pháp, chiến thuật thủ thuật nhằm đạt hiệu
quả cao, nhanh chóng làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Thực tiễn hoạt động hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản
thời gian qua cũng cho thấy ý nghĩa quan trọng về mặt nhận thức của ĐTV về
những khó khăn phức tạp của hoạt động này từ đó có nhận thức đúng đắn khi thực
hiện nhiệm vụ được giao.
Nhận thức của ĐTV về hỏi cung bị can trong điều tra vụ án tham ô tài sản thể
hiện trên các phương diện:
63
- Đánh giá đúng về sự cần thiết của hỏi cung bị can trong điều tra vụ án tham ô
tài sản.
- Đánh giá đầy đủ về những thuận lợi, khó khăn khi tiến hành hỏi cung bị can.
- Xác định đúng đắn các yêu cầu chính trị, nghiệp vụ, pháp luật trong quá trình
tiến hành hỏi cung bị can đối với từng vụ án tham ô tài sản cụ thể.
- Ý thức được trách nhiệm của bản thân khi được giao nhiệm vụ hỏi cung bị
can trong điều tra vụ án tham ô tài sản.
- Có lòng yêu ngành, yêu nghề điều tra tội phạm, từ đó luôn hứng thú tìm tòi
những phương pháp mới, sáng tạo trong công việc. Có tinh thần kiên quyết tấn công
tội phạm, có bản lĩnh vững vàng, không bị mua chuộc và không sợ bị đe dọa.Thắng
lợi không chủ quan, coi thường đối tượng và ngược lại khi gặp trở ngại không
hoang mang, chùn bước chấp nhận thất bại.
Tuy nhiên trong quá trình điều tra các vụ án tham ô tài sản nói chung, hoạt động
hỏi cung bị can nói riêng vẫn còn tồn tại những nhược điểm cơ bản về mặt nhận thức của
ĐTV. Vì vậy để nâng cao chất lượng hoạt động hỏi cung bị can trong điều tra vụ án tham
ô tài sản trước hết cần phải nâng cao nhận thức cuả ĐTV. Để đạt hiệu quả trong việc
nâng cao nhận thức của ĐTV theo chúng tôi cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
- Về trách nhiệm:
+ Trước hết thuộc về thủ trưởng các đơn vị Cảnh sát điều tra trong quá trình
quản lý giáo dục cán bộ. Đó còn thuộc về các tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng
nơi ĐTV công tác.
+ Đối với bản thân ĐTV phải không ngừng phấn đấu, học tập và rèn luyện.Thường
xuyên tự mình ra sức tìm tòi, nghiên cứu nâng cao trình độ về mọi mặt.
- Về phương pháp nâng cao nhận thức cho ĐTV.
Trong những năm vừa qua, những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường
đã ảnh hưởng đến mọi tầng lớp, mọi người trong xã hội ta, trong đó có cả lực lượng
CSĐT. Có lúc, có nơi sức mạnh của đồng tiền tấn công quyết liệt cả vào đội ngũ
cán bộ, chiến sĩ Công an. Hơn nữa cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ Công an cũng còn
nhiều khó khăn vất vả, trong khi đó nhờ làm ăn bất chính, nhiều người giàu lên
nhanh chóng, có cuộc sống sung túc. Tất cả những vấn đề đó đang hàng ngày, hàng
64
giờ tác động đến tâm tư, nguyện vọng, tinh thần thái độ làm việc của ĐTV. Để giúp
cho cán bộ, chiến sĩ vững vàng trong mọi tình huống, có nhận thức đúng đắn về
nhiệm vụ được giao cần phải:
+ Coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng ĐTV. Đi đôi với thường
xuyên nâng cao nhận thức về chính trị, pháp luật, nghiệp vụ là việc quan tâm chăm
lo đời sống về mọi mặt cho cán bộ, chiến sĩ. Đảm bảo cho cuộc sống ổn định có thể
dồn toàn tâm, toàn ý vào công việc.
+ Thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm điều tra các vụ án tham ô tài sản.
Tổ chức thành những chuyên đề riêng trong đó có hoạt động hỏi cung bị can. Làm
cho ĐTV thấy được vai trò, ý nghĩa, tác dụng của việc hỏi cung bị can. Trong đó
đặc biệt chú ý đánh giá tính chất phức tạp, quyết liệt của hoạt động hỏi cung bị can.
Chỉ ra được những ưu điểm, nhược điểm của hoạt động này. Từ đó có phương
hướng rút kinh nghiệm cho việc điều tra các vụ án tiếp theo.
3.3.3. Cần phải tiếp tục nghiên cứu cải thiện cơ chế tổ chức hoạt động của
cơ quan điều tra và công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐTV:
Như đã được mô tả, phân tích ở các phần trên hoạt động điều tra các vụ án
tham ô tài sản diễn ra ngày càng phức tạp hơn. Nhiều vụ án phải điều tra trong một
thời gian dài, thậm chí dẫn đến cầu dầm bế tắc. Trong nhiều nguyên nhân của
những yếu kém này có sự góp phần của hoạt động hỏi cung bị can. Hiệu quả, chất
lượng của hoạt động điều tra vụ án tham ô tài sản phụ thuộc rất nhiều vào kết quả
hỏi cung bị can.
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về cải cách hoạt
động tư pháp, về tổ chức cơ quan điều tra cũng như nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ ĐTV. Nhà nước ta cũng giành riêng một chương trình nghiên
cứu về cải cách tư pháp và hoạt động tư pháp. Điều đó nói lên tầm quan trọng và
cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện về mặt tổ chức cơ quan ĐTV cũng như
xây dựng đội ngũ cán bộ ĐTV.
Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm trong những năm qua cũng chứng minh
rằng cần thiết phải có những cách thức tổ chức mới cho cơ quan điều tra nhằm đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của cuộc đấu tranh. Đối với ĐTV, do những thông tin ban
65
đầu về vụ án tham ô tài sản thường rất nghèo nàn, tản mạn, thiếu chính xác; lượng
thông tin ít cho nên trong quá trình điều tra phải vận dụng mọi tài trí mới có thể làm
rõ được hành vi phạm tội. Đối tượng phạm tội lại rất khôn khéo trong việc che giấu
tội phạm. Bởi vậy hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản thường rất
căng thẳng. Thực tế đó đòi hỏi ĐTV phải có trình độ về nghiệp vụ và pháp luật, có
sự hiểu biết nhất định về những lĩnh vực có liên quan đến đối tượng đấu tranh. Tuy
nhiên tình trạng chất lượng điều tra nói chung, hỏi cung bị can nói riêng trong thời
gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Để nâng cao chất lượng hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản
cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu để giảm tải lao động của ĐTV, đồng thời tăng
cường nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ ĐTV. Cụ thể là:
- Về vấn đề giảm tải lao động của ĐTV:
Trên thực tế, lực lượng trực tiếp tham gia công tác điều tra các vụ án tham ô
tài sản nói chung, trong đó có việc hỏi cung bị can phải kể đến 2 lực lượng đó là:
Lực lượng Cảnh sát điều tra và lực lượng Cảnh sát kinh tế.
Thực tế cho thấy trong những năm qua do có những bất hợp lý trong mô hình
tổ chức cơ quan điều tra (điều này được phản ánh trong nhiều báo cáo, nhiều cuộc
họp bàn về tổ chức cơ quan điều tra của lực lượng CSĐT, CSKT, của Tổng cục
CSND), đã dẫn đến tình trạng "quá tải" ở tất cả cơ quan CSĐT các cấp. Tình trạng
điều tra bị "cắt khúc" gây nhiều khó khăn cho các hoạt động nghiệp vụ tiếp theo.
Tình trạng chồng chéo trong hoạt động điều tra giữa cơ quan CSĐT và cơ quan
trinh sát đã làm cho công việc ùn tắc ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng điều tra vụ
án nói chung, trong đó có hỏi cung bị can. Theo quy định của pháp luật tố tụng và
các quy định khác của Bộ Công an, từ yêu cầu thực tiễn của hoạt động điều tra, cơ
quan CSĐT không chỉ thuần tuý tiến hành các biện pháp điều tra theo thủ tục tố
tụng mà còn phải tiến hành các biện pháp điều tra khác. Bên cạnh đó lực lượng trinh
sát cũng được trao quyền thực hiện một số nhiệm vụ điều tra công khai như bắt,
khám xét, lấy lời khai người làm chứng, thu giữ tang, vật chứng,... khởi tố vụ án, khởi
tố bị can. Do đó trong quá trình điều tra vụ án tham ô không phải mọi tình tiết đều được
phản ánh một cách tỉ mỉ, chính xác trong hồ sơ. Hơn nữa hoạt động điều tra nói chung,
hỏi cung bị can nói riêng còn phụ thuộc vào một yếu tố đặc biệt quan trọng - đó là
những kinh nghiệm của ĐTV. Vì thề, nếu hoạt động điều tra được một cơ quan, một
66
hay nhiều nhóm ĐTV tiến hành thống nhất từ đầu đến cuối sẽ khắc phục được tình
trạng sai sót trong hồ sơ, hoặc mất nhiều thời gian kiểm tra lại các chi tiết.
Do tình trạng "quá tải" ở tất cả các cấp nên cơ quan điều tra còn gặp nhiều khó
khăn trong tổ chức lực lượng. Xuất phát từ thực tiễn đòi hỏi có một số tội phạm
thuộc nhóm tội phạm kinh tế đã trở thành vấn đề trọng điểm tội phạm kinh tế đã trở
thành vấn đề trọng điểm cần đặc biệt quan tâm trong phòng ngừa và đấu tranh,
trong đó có nhóm các tội phạm "tham nhũng".Điều đó cần thiết phải có lực lượng
chuyên sâu về từng lực lượng. Tuy nhiên hiện nay lực lượng CSĐT trong cả nước
cũng chưa có lực lượng chuyên trách đấu tranh điều tra án tham nhũng. Để nâng cao
hiệu quả, chất lượng công tác hỏi cung bị can trong điều tra vụ án tham ô tài sản đã
đến lúc lực lượng CSĐT cần thiết thành lập bộ phận chuyên trách thống nhất từ Trung
ương đến địa phương.
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ ĐTV.
Đây là vấn đề có tính quyết định nhất đến chất lượng hỏi cung bị can trong
điều tra các vụ án tham ô tài sản. Cho đến nay, mặc dù lực lượng CSĐT đã được
củng cố và phát triển mạnh mẽ, song nhìn chung chất lượng đội ngũ ĐTV còn nhiều
hạn chế. Để hoàn thành nhiệm vụ điều tra các vụ điều tra các vụ án tham nhũng,
trong đó có tham ô tài sản đòi hỏi ĐTV phải đáp ứng được những yêu cầu rất đặc
thù của loại tội phạm này. Đặc biệt, trong hỏi cung bị can các vụ án phạm tội tham ô
không phải ĐTV nào cũng thành công. Có những vụ án phải luân chuyển ĐTV
nhiều lần gây nên sự lãng phí về thời gian, công sức, làm cho đối tượng có điều kiện
tìm thủ đoạn đối phó. Vì thế đối với ĐTV được phân công hỏi cung bị can trong
điều tra vụ án tham ô tài sản phải có những tiêu chuẩn cụ thể, đó là:
+ Có năng lực nghiệp vụ chuyên sâu về điều tra tội phạm.
+ Có kiến thức về nghiệp vụ quản lý kinh tế, tài chính.
+ Có kiến thức rộng về các ngành khoa học khác như tâm lý học, xã hội học,
ngoại ngữ, tin học...
+ Có kinh nghiệm trong công tác.
+ Có năng khiếu giao tiếp và hỏi cung bị can.
+ Có độ tuổi nhất định và trình độ tương đương hoặc hơn so với bị can cần
hỏi cung.
67
Nhìn vào lực lượng ĐTV hiện nay có thể thấy đều đã được đào tạo trong các
trường nghiệp vụ của ngành. Nhiều ĐTV có bề dày công tác, có kinh nghiệm trong
hỏi cung bị can. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng không ít ĐTV còn yếu về năng lực trình
độ về mọi mặt rất hạn chế. Trong khi đó tội phạm kinh tế nói chung, tội phạm tham ô
nói riêng có trình độ chuyên môn cao như thạc sỹ, tiến sỹ, Giáo sư, Phó Giáo sư vì thế
hoạt động ngày càng tinh vi hơn. Xét về mặt so sánh lực lượng, có lúc, có nơi, trong
từng vụ cụ thể, ĐTV còn có nhiều mặt thua kém đối tượng đấu tranh.
Do đó để nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động hỏi cung bị can trong
điều tra các vụ án tham ô tài sản cần phải nhanh chóng có biện pháp nâng cao trình
độ về mọi mặt cho ĐTV theo những hướng cơ bản sau đây:
- Trong các nhà trường đào tạo có chuyên ngành CSĐT cần bổ xung những
kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ quản lý kinh tế tài chính. Hiện nay các nhà
trường chỉ mới đưa các phần này trong các môn liên ngành có tính chất giới thiệu.
- Đối với các đơn vị đang trực tiếp chiến đấu cần phải dành quĩ thời gian nhất
định để tổ chức cho điều tra theo học các lớp nghiệp vụ quản lý kinh tế- tài chính.
Trong đó đặc biệt chú ý đến một số lĩnh vực nghiệp vụ chuyên ngành như: Nghiệp
vụ kế toán; Nghiệp vụ ngân hàng, tín dụng; Nghiệp vụ giao dịch thương mại, đầu
tư phát triển, Tin học và ngoại ngữ.
- Đối với bản thân ĐTV phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ. Việc
học tập có thể qua các trường lớp hoặc có thể học tập thông qua thực tiễn công tác,
học tập qua đồng nghiệp...
- ĐTV nhất thiết phải qua các lớp tập huấn chuyên môn... Theo chúng tôi nên
định kỳ tổ chức 2 năm hoặc 3 năm 1 lần.thời gian học tập ít nhất từ 3 tháng đến 6
tháng nhằm cập nhật những kiến thức mới phục vụ cho công tác hỏi cung bị can.
Thời gian này là phù hợp với sự vận động, phát triển về mọi mặt kinh tế- xã hội.
3.3.4. Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu hồ sơ vụ án; nâng cao tính
kế hoạch hoá trong hoạt động hỏi cung:
Trên phương diện lý luận đã xác định: Nghiên cứu hồ sơ vụ án là công tác đầu
tiên mà các ĐTV cần phải tiến hành trước khi tiến hành hỏi cung bị can trong điều
tra vụ án. Những tài liệu có liên quan đến hành vi phạm tội của bị can những điểm
then chốt cần được đột phá được thể hiện trong hồ sơ vụ án giúp cho điều tra hình
dung ra tính chất, mức độ, phạm vi cũng như diễn biến của vụ án. Đây là một hoạt
68
động thuộc phạm trù nhận thức. Từ việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, ĐTV đánh giá
được vị trí, vai trò tổng quát của vụ án điểm mấu chốt của vụ án và tâm lý yếu của
từng bị can, mức độ khó khăn, phức tạp cũng như xác định những vấn đề cần làm rõ
khi tiến hành hỏi cung bị can.
Thực tiễn điều tra các vụ án tham ô tài sản cho thấy hồ sơ vụ án tham ô tài sản
hình thành theo các nguồn: Từ cơ quan trinh sát (Cảnh sát kinh tế); Từ cơ quan điều
tra. Đối với nhiều vụ án phức tạp gồm nhiều bị can, phạm nhiều tội danh khác nhau,
có liên quan đến nhiều cơ quan, đơn vị, lĩnh vực, ngành, địa phương thì việc nghiên
cứu hồ sơ vụ án đòi hỏi phải có sự đầu tư công sức rất lớn của ĐTV. Vì vậy chất
lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác hỏi
cung bị can.
Để nâng cao chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án tham ô phục vụ hỏi cung bị
can cần phải thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau đây.
- Nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ thu thập được từ các biện pháp điều tra
đã thực hiện phản ánh về hành vi phạm tội của bị can. các tài liệu trinh sát phản ánh
sự nghi vấn bị can thực hiện hành vi phạm tội. Xác định ổ nhóm, tổ chức tội phạm,
các dấu vết, phương tiện có liên quan đến tội phạm.
- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến hoạt động phạm tội và các hình sự
khác của bị can như trích lục tiền án, tiền sự, hồ sơ các vụ án trước đây về vụ án
phạm tội do bị can gây ra. Việc nghiên cứu những tài liệu này nhằm đánh giá tính
chất, mức độ ngoan cố của bị can, kinh nghiệm đối phó khi bị hỏi cung.
- Nghiên cứu những tài liệu phản ánh về quan hệ xã hội, nghề nghiệp, trình độ,
chức vụ, nghiên cứu, khả năng chuyên môn, lề lối làm việc quan hệ gia đình, quan
hệ xã hội, thói quen thói hư tật sấu. Đặc biệt chú ý đến điểm mạnh của bị can thể
hiện thông qua thành tích công tác, cống hiến cũng như những sai phạm kỷ luật đã
có của bị can.
Bằng việc tiến hành nghiên cứu hồ sơ bị can mà ĐTV xác định được những
vấn đề cần phải làm rõ trong quá trình hỏi cung về hành vi phạm tội của bị can và
đồng bọn đâu là điểm yếu điểm mở đầu của các bị can để điều tra viên tiến hành hỏi
cung hoặc soáy vào điểm yếu lấy chứng cứ làm rõ từng tội danh của bị can trong vụ
án. và xác định những tài liệu nào còn thiếu cần phải tiếp tục thu thập, bổ xung vào
69
hồ sơ để sử dụng trong quá trình hỏi cung; Đánh giá những tài liệu, chứng cứ nào
được lựa chọn phục vụ cho hỏi cung bị can.
Đây là những cơ sở quan trọng giúp ĐTV tiến hành lập kế hoạch hỏi cung bị
can. Đặc biệt đối với những vụ án tham ô tài sản phức tạp, điều tra trong một thời
gian dài. Nâng cao tính kế hoạch hoá trong hoạt động hỏi cung cũng có nghĩa là
tăng cường công tác lập và thực hiện, tuân thủ các bước cơ bản kế hoặc đề ra trong
quá trình hỏi cung. Kế hoạch hỏi cung bị can phải được xây dựng rất tỉ mỉ đối với
toàn bộ vụ án cũng như có kế hoạch riêng cho từng bị can. Kế hoạch hỏi cung bị
can phải được xây dựng mềm dẻo, linh hoạt, bảo đảm không thiếu nội dung cơ bản
nhưng lại có thể thường xuyên bổ xung thay đổi những tình tiết trên cơ sở các tình
huống cụ thể hình thành trong quá trình hỏi cung.
Kế hoạch hỏi cung bị can giúp cho ĐTV chủ động trong quá trình hỏi cung.
Đó còn là sự thể hiện phong cách làm việc khoa học. Vấn đề quan trọng nhất trong
kế hoạch hỏi cung bị can là phải xác định chính xác những vấn đề cần làm rõ, trình
tự tiến hành, những chứng cứ có thể và cần thiết phải sử dụng để đấu tranh, những
phương tiện, lực lượng được huy động hỗ trợ để nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi
cung. đặc biệt chú ý khi lập kế hoạch hỏi cung cần tính toán đến thời gian, địa điểm
tiến hành hỏi cung từng bị can một cách hợp lý trong mối quan hệ đối với các bị can
của những vụ án tham ô tài sản có nhiều bị can. Tuy nhiên cần phải thấy rằng kế
hoạch hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô không máy móc, cứng nhắc.
Trong quá trình hỏi cung bị can do chuyển biến của tình hình hoặc nảy sinh các tình
huống mới thì ĐTV phải phát huy tính chủ động sáng tạo, linh hoạt trong việc xác
định các phương án thực hiện hỏi cung. Chính vì vậy, sau khi bản kế hoạch hỏi
cung đã được duyệt ĐTV có thể chủ động lập cho riêng từng buổi hỏi cụ thể một kế
hoạch cụ thể không cần có sự phê duyệt của thủ trường cơ quan điều tra.
Cùng với việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tiến hành lập kế hoạch hỏi cung bị
can, yếu tố mang tính quyết định đến kết quả đấu tranh đối với bị can trong các vụ
án tham ô được tập trung vào việc ĐTV lựa chọn thủ thuật sử dụng chứng cứ trong
quá trình hỏi cung bị can. Qua nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, chúng tôi
thấy rằng: Có hai thủ thuật sử dụng chứng cứ cơ bản được áp dụng trong hỏi cung
bị can đạt hiệu quả tốt, đó là sử dụng chứng cứ theo một trình tự nhất định và sử
dụng bất ngờ một chứng cứ có giá trị chứng minh cao nhất.
70
Để có thể áp dụng thủ thuật sử dụng chứng cứ, ĐTV cần phải tiến hành nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ trên cả hai phương diện buộc tội và gỡ tội tăng nặng hay
giảm nhẹ.
Khi đánh giá chứng cứ, ĐTV phải bảo đảm có trách nhiệm cao, khách quan,
không định kiến, đánh giá bằng nhận thức cảm tính chủ quan.Phải xem xét một cách
toàn diện, biện chứng cả về hình thức và nội dung có phân tích, đối chiếu, so
sánh.Thực ra đây là một việc làm rất khó khăn. Bởi vì tình trạng có chứng cứ được
ĐTV này đánh giá là có giá trị thấp, nhưng ĐTV khác lại cho là có giá trị cao, hoặc
có chứng cứ được đánh giá là có giá trị cao nhưng thực ra nó lại có giá trị thấp và
ngược lại... Do đó ĐTV cần phải lựa chọn chứng cứ trên cơ sở mục đích, yêu cầu của
buổi hỏi cung đã được xác định để xác định mức độ cần thiết có cần sử dụng hay
không? Những chứng cứ được lựa chọn phải xác định rõ các nội dung cơ bản là:
- Chứng cứ đó là loại nào?
- Phạm vi, mức độ chứng minh của chứng cứ về những tình tiết có liên quan
đến vụ án?
- Mức độ liên quan giữa chứng cứ với tình tiết đang cần điều tra thông qua hỏi
cung bị can.
- Khả năng tác động của từng chứng cứ hay một số chứng cứ đối với bị can.
Ở đây ĐTV cần chú ý dự đoán các khả năng có thể xảy ra về động cơ, mục
đích, thái độ khai báo của bị can để quyết định chiến thuật sử dụng loại chứng cứ
nào, giá trị thấp hay cao, dùng tuần tự hay đột phá. Đây là một vấn đề rất lớn, vừa
mang tính nghiệp vụ, vừa mang tính nghệ thuật hỏi cung bị can trong điều tra vụ án
tham ô tài sản cần được nghiên cứu sâu hơn ở các công trình khoa học khác.
3.3.5. Tăng cường và quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp giữa ĐTV với
các lực lượng nghiệp vụ khác trong hoạt động hỏi cung:
Quan hệ phối hợp giữa các lực lượng nghiệp vụ trong điều tra vụ án hình sự
nói chung là một trong những phương pháp quan trọng nhằm mục đích phát huy
hiệu quả của các biện pháp nghiệp vụ. Xuất phát từ đặc điểm của các vụ án tham ô
tài sản, đặc điểm về đối tượng phạm tội, về âm mưu, phương thức và thủ đoạn phạm
tội tham ô tài sản nên cần thiết phải tăng cường sự phối hợp giữa ĐTV với các lực
lượng nghiệp vụ khác tạo nên sức mạnh tổng hợp hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình
điều tra vụ án.
71
Trong hỏi cung bị can với các vụ án tham ô tài sản, quan hệ phối hợp giữa
ĐTV với các lực lượng nghiệp vụ khác luôn phát huy hiệu quả rất cao.
Trên cơ sở Bộ luật tố tụng hình sự, Chỉ thị số 11/CT-BNV của Bộ Công an,
Chỉ thị số 26/CT-BNV ban hành ngày 22/12/1993, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình
sự năm 2005, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự 2015. trên cơ sở yêu cầu, nội
dung công tác hỏi cung đặt ra, ĐTV chủ động trao đổi thông tin với các lực lượng
nghiệp vụ có liên quan để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra. Những lực lượng nghiệp
vụ cần phối hợp với lực lượng Cảnh sát kinh tế bao gồm:
- Lực lượng Cảnh sát trại giam.
- Lực lượng Quản lý hồ sơ.
- Lực lượng trinh sát kỹ thuật
- Lực lượng giámđịnh viên tư pháp.
Nội dung chủ yếu là sự phối hợp là:
- Phối hợp với lực lượng Cảnh sát trại giam trong việc phân loại, giam giữ các
bị can không để chúng thông cung. Tiến hành xây dựng đặc tình và cơ sở bí mật
trong trại tạm giam để phục vụ các yêu cầu hỏi cung bị can.
- Phối hợp với lực lượng Quản lý hồ sơ để tiến hành tra cứu tàng thư, so sánh
các thông tin thu thập được về nhân thân bị can.
- Phối hợp với lực lượng trinh sát kỹ thuật tiến hành các biện pháp sử dụng kỹ
thuật nghiệp vụ phục vụ công tác hỏi cung bị can.
- Phối hợp với lực lượng giámđịnh viên tư pháp để trao đổi kết quả giámđịnh
những tài liệu vật chứng, chứng cứthu thập được làm căn cứ xử lý theo pháp luật.
Để phát huy hiệu quả phối hợp lực lượng phục vụ công tác hỏi cung bị can cần
xác định.
- ĐTV: là chủ thể chính của hoạt động phối hợp.
- Các lực lượng khác (Quản lý hồ sơ, trinh sát kỹ thuật, giám định viên tư
pháp) là các bên tham gia phối hợp với ĐTV.
- Ngoài ra phối hợp với Viện kiểm sát, tòa án trong truy tố, xét xử vụ án tham
ô tài sản, để tổng kết án sau khi kết thúc xét xử.
Mặc dù đã có nhiều kết quả tốt do hoạt động phối hợp lực lượng đem lại phục
vụ công tác hỏi cung bị can, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn hạn chế. Do đó, để khắc
phục những hạn chế khi thực hiện quan hệ phối hợp giữa các lực lượng cần thiết
72
phải xây dựng và ban hành các văn bản pháp qui về hoạt động này. Bên cạnh đó
phải thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm giữa các lực lượng phối hợp.
3.3.6. Tăng cường công tác chỉ huy, chỉ đạo hỏi cung bị can trong vụ án
tham ô tài sản:
Khoa học lãnh đạo chỉ huy ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo tính hiệu quả của các cơ quan, tổ chức.Điều đó càng cần thiết trong quá trình tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ của lực lượng vũ trang như Quân đội, Công an.
Đối với công tác hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án thông tin, công tác
lãnh đạo, chỉ huy tạo điều kiện phát huy hiệu quả của công tác này. Nếu công tác
chỉ đạo kịp thời, đúng đắn sẽ giúp cho ĐTV tiến hành tổ chức và thực hiện việc hỏi
cung bị can diễn ra đúng hướng, khắc phục được những sai lầm, vi phạm. Ngược lại
nếu không coi trọng công tác này, sự quan tâm không đúng mức sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến kết quả công tác hỏi cung.
Vì vậy, tăng cường công tác chỉ đạo trong hỏi cung bị can các vụ án tham ô rất
cần thiết, thể hiện:
- Công tác chỉ đạo phải được tiến hành chặt chẽ ngay từ khi khởi tố bị can, áp
dụng các biện pháp ngăn chặn.
- Chỉ đạo, lựa chọn, phân công những ĐTV có thẩm chất chính trị, đạo đức,
tác phong tốt, có trình độ năng lực và kinh nghiệm tham gia hỏi cung đối với từng
vụ án, từng đối tượng phù hợp.
- Đôn đốc, giám sát, kiểm tra thường xuyên mọi hoạt động hỏi cung bị can.
Kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót để khắc phục, giúp ĐTV tháo gỡ khó khăn
trong quá trình hỏi cung bị can.
- Chỉ đạo các hoạt động phối hợp giữa các lực lượng nghiệp vụ, xây dựng và
sử dụng đặc tình, cơ sở bí mật trong trại tạm giam, sử dụng các biện pháp kỹ thuật
phục vụ hỏi cung bị can đảm bảo đồng bộ, đúng pháp luật.
Trong những trường hợp cụ thể, đối với những vụ án phức tạp, bị can ngoan
cố không chịu khai báo, có thể Thủ trưởng, phó Thủ trưởng cơ quan điều tra vừa
trực tiếp chỉ đạo, vừa có thể trực tiếp tiến hành hỏi cung cùng với ĐTV được phân
công điều tra vụ án tham ô tài sản.
Tuy nhiên, công tác chỉ huy, chỉ đạo trong hoạt động hỏi cung cũng cần được
tính toán kỹ sao cho không làm triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của ĐTV. Đặc biệt
cần đề phòng những ảnh hưởng, những tác động từ phía lãnh đạo, chỉ huy của cơ
73
quan quản lý đối với ĐTV trong quá trình hỏi cung có thể làm giảm tính khách quan
của hoạt động điều tra. Vì thế, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra phải
quyết đoán, đồng thời phải có bản lĩnh để ngăn chặn những ảnh hưởng đó tác động
trực tiếp đến tâm lý của ĐTV trực tiếp hỏi cung bị can.
3.3.7.Trang bị cơ sở vật chất, phương tiện ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi
cung bị can
Việc ghi âm, ghi hình có âm thanh trong phòng hỏi cung là một trong những
vấn đề được quan tâm nhiều nhất hiện nay bởi việc ghi âm ghi hình không đơn
thuần lưu lại dữ liệu mà từ đó sẽ giúp việc hỏi cung, lấy lời khai minh bạch rõ ràng
và có bằng chứng cụ thể tránh những sự việc tiêu cực như ép cung, thay đổi lời
khai.... xảy ra trong một số trường hợp hi hữu từng có trước đây.
Về vấn đề ghi âm ghi hình trong hỏi cung thì quá trình hỏi cung sẽ phải được
thực hiện công khai, thực hiện theo đúng quy định yêu cầu phòng hỏi 100% đều
phải trang thiết bị hệ thống nếu không sẽ không được thực hiện.
Kết quả của quá trình ghi âm ghi hình sẽ được sử dụng khi có yêu cầu của cơ quan
chức năng có thẩm quyền, các đơn vị quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu, từ đó tính toán đến
yêu cầu của kỹ thuật trong việc trang bị cơ sở vật chất cho việc ghi âm, ghi hình.
Hệ thống ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh cần đảm bảo hình ảnh trung thực, âm
thanh rõ nét; phải được vận hành dễ dàng và phù hợp với quy trình thực hiện công tác
hỏi cung; hệ thống tự động vận hành, các quá trình ghi âm, ghi hình, trích xuất dữ liệu
có mã hóa - vấn đề này là hết sức cần thiết để đảm bảo tính toàn vẹn và bảo mật; hệ
thống phải tận dụng được tối đa hạ tầng cơ sở hiện có của Bộ Công an…
74
KẾT LUẬN
Hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản là một hoạt động rất
phức tạp. Nhằm tìm hiểu rõ hơn về hoạt động này trên cả hai phương diện lý luận
và thực tiễn, đề tài "Hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản của lực
lượng CSĐT" đã đạt được những kết quả chủ yếu sau đây:
1. Tiến hành nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về tội phạm tham ô và chiến
thuật hỏi cung bị can trong quá trình điều tra vụ án tham ô tài sản.
Tham nhũng, tham ô tài sản đang trở thành một "quốc nạn", là một trong 4
nguy cơ đã được Đảng ta chỉ rõ cần phải đấu tranh kiên quyết đối với tệ nạn này. Bộ
luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 của nước ta đã giành riêng Điều 278 tại mục các
tội phạm về tham nhũng, Chương XXI quy định về tham ô tài sản. Chương XXIII các
tội phạm về chức vụ được quy định trong BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
Đấu tranh chống tội phạm tham ô tài sản ngày càng trở nên gay go quyết liệt
hơn. Xuất phát từ đặc điểm tội phạm, âm mưu phương thức hoạt động phạm tội mà
việc áp dụng các biện pháp điều tra làm rõ vụ án tham ô tài sản có đặc thù riêng.
Chính vì vậy đề tài tiến hành nghiên cứu những vấn đề lý luận của hỏi cung bị can
nhằm làm rõ về khái niệm, nhiệm vụ, nguyên tắc của hỏi cung bị can. Trình tự tiến
hành hỏi cung bị can.
2. Khảo sát tình hình tội phạm kinh tế nói chung, tội phạm tham ô tài sản giai
đoạn 2008 – 2018 nhằm đánh giá thực trạng tình hình của loại tội phạm này. Đánh
giá thực trạng hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản của lực lượng
CSĐT. Từ đó rút ra những tồn tại, thiếu sót của hoạt động này.
3. Trên cơ sở nghiên cứu ở các Chương I và II, đề tài đã đưa ra những nhận
định mang tính khái quát về xu hướng của tội phạm tham ô tài sản trong những năm
tới. Đặt vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh phát triển, hội nhập kinh tế của nước ta
với khu vực và thế giới. Từ đó dự báo những khó khăn sẽ xảy ra trong công tác hỏi
cung bị can vụ án tham ô tài sản. Nhất là những tác động tiêu cực của mặt trái nền
kinh tế thị trường, của lối sống thực dụng, động cơ muốn làm giàu nhanh chóng của
một bộ phận cán bộ thoái hoá biến chất trong các cơ quan Nhà nước.
75
Yêu cầu đấu tranh chống tội phạm tham ô tài sản đòi hỏi các lực lượng bảo vệ
pháp luật phải áp dụng nhiều biện pháp nhằm nhanh chóng làm rõ sự thật của vụ án.
Hỏi cung bị can trong điều tra các vụ án tham ô tài sản, vì thế cần thiết phải được
nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh. Đề
tài đã mạnh dạn đưa ra 7 giải pháp cơ bản, trong đó có những giải pháp bao quát
vấn đề lớn, phúc tạp chưa thể giải quyết trong phạm vi đề tài này mà đòi hỏi phải
tiếp thụ nghiên cứu làm rõ hơn.
Do đề tài đề cập đến một vấn đề rất phức tạp, những tài liệu phản ánh về chiến
thuật hỏi cung trong hồ sơ, biên bản hỏi cung rất hạn chế nên tác giả chủ yếu sử
dụng phương pháp chuyên gia, toạ đàm với các ĐTV. Rất mong được sự đóng góp,
bổ sung của các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn để đề tài có điều kiện phát
triển, nghiên cứu cao hơn.
76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005), “Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 02/1/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Hà Nội.
2. Bộ Công an (2004), “Chỉ thị số 13/2004/CT-BCA(V11) ngày 22/9/2004 của
Bộ trưởng Bộ Công an về việc tổ chức triển khai thực hiện Pháp lệnh tổ chức
điều tra hình sự năm 2004 trong Công an nhân dân”, Hà Nội.
3. Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015.
4. Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015.
5. Bộ Nội vụ (1989), Chỉ thị số 11/CT-BNV, ngày 22/12/1989
6. Bộ Nội vụ (1993), Chỉ thị số 26/CT-BNV, ngày 22/12/1993
7. Bộ Nội vụ (1994), Quyết định số 11/BNV, ngày 8/9/1994
8. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1946) Sắc lệnh số 223/SL,
ngày 17/11/1946 và sắc lệnh số 03/SL, ngày 25/03/1976 quy định về tội phạm
và hình phạt.
9. Chuyên đề vụ Tổng kết 10 năm Luật phòng chống tham nhũng. “Công tác
phát hiện, điều tra và thi hành án hình sự đối với tội pham tham nhũng giai
đoạn 2005-2015”.Của Cục cảnh sát kinh tế, Bộ Công an.
10. Công an tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo tổng kết 5 năm (2013-2018) các vụ án
tham ô tài sản
11. Nguyễn Thị Hoa (2010), “Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuẩn bị hỏi cung
bị can”, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội.
12. Học viên Cảnh sát nhân dân (2006), “Tâm lý hỏi cung bị can”, NXB Công an
nhân dân Hà Nội.
13. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (2000), “Giáo trình điều tra hình sự”,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
14. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX của Quốc hội, ngày 25/10/2013.
15. Tham luận “Công tác phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng” của
Cục cảnh sát kinh tế, Bộ Công an.
16. Nguyễn Huy Thuật (2010), “Chiến thuật điều tra hình sự” (Sách chuyên khảo
- Lưu hành nội bộ), NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
17. Từ điển Tiếng Việt