VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LAM THỊ DUNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC
TỘI GIẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LAM THỊ DUNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC
TỘI GIẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm
bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI ........................................... 5
1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người ......................................................................................... 5
1.2. Nội dung thực hành quyền công tố đối với các tội giết người ............ 8
1.3. Phân biệt thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội giết người ................. 19
1.4. Các yếu tố tác động chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người ....................................................................................... 20
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH TẠI QUẢNG NINH ...................................................... 24
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành
quyền công tố đối với các tội giết người ................................................... 24
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố đối với các tội giết người tại
tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................ 31
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI
GIẾT NGƯỜI ................................................................................................ 58
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người ....................................................................................... 58
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố về
các tội giết người ....................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
ĐTV : Điều tra viên
KSV : Kiểm sát viên
THQCT: Thực hành quyền công tố
KSĐT : Kiểm sát điều tra
QCT: Quyền công tố
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử các
tội giết người cho thấy rằng, các cơ quan tiến hành tố tụng đã xử lí kịp thời,
nghiêm minh, nhiều bị cáo đã bị xử phạt với khung hình phạt cao nhất là tử
hình, thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật, góp phần giữ vững ổn
định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn
còn những vụ án về các tội giết người bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử oan
sai, phải đình chỉ điều tra do không phạm tội hoặc tòa án tuyên không phạm
tội. Còn có sự nhầm lẫn giữa tội giết người với tội giết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh, đe dọa giết người hoặc với một số tội phạm khác có hậu quả chết người
như tội vô ý làm chết người, tội cố ý gây thương tích, tội xâm phạm tính
mạng người khác trong khi thi hành công vụ; thậm chí còn có sự nhầm lẫn cả
với tội gây rối trật tự công cộng gây hậu quả chết người… Việc điều tra thu
thập tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, không đảm bảo tính khách quan, hợp
pháp, thậm chí vi phạm nghiêm trọng các qui định của Bộ luật Tố tụng hình
sự dẫn đến hậu quả là nhiều vụ án không đảm bảo căn cứ để truy tố hoặc bị
cấp phúc thẩm cải sửa, hủy án để điều tra lại… làm ảnh hưởng đến việc xử lí
tội phạm và người phạm tội.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, ngành Kiểm sát nói chung và Viện
Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh nói riêng đã có nhiều cố gắng thực hiện
tốt chức năng nhiệm vụ được giao và đã đạt được những kết quả quan trọng,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, tài sản của công dân.
Tuy nhiên, với yêu cầu của cải cách tư pháp, công tác thực hành quyền
công tố đối với các tội giết người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh của Viện kiểm
sát nhân dân vẫn còn bộc lộ một số hạn chế; một số vụ án phải trả lại hồ sơ để
1
điều tra bổ sung hoặc điều tra lại giữa các cơ quan tiến hành tố tụng vì thiếu
chứng cứ hoặc còn có đồng phạm khác; một số Kiểm sát viên còn lúng túng
trong thao tác nghiệp vụ, yêu cầu điều tra chưa sát thực, không bám sát tiến
độ điều tra, trình độ đánh giá chứng cứ còn hạn chế và thiếu toàn diện, khách
quan, nên đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng đến
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu
là do nhận thức về công tác THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp; Về vị trí,
vai trò của VKSND trong hoạt động kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ
thẩm chưa toàn diện; Một số Kiểm sát viên được phân công thực hiện nhiệm
vụ còn biểu hiện sự chủ quan, thiếu thận trọng trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ
án, không cập nhật kịp thời các qui định của pháp luật hoặc thiếu kiên quyết
trong quan hệ với Cơ quan điều tra, Tòa án… Trong tiến trình cải cách tư
pháp hiện nay, trước đòi hỏi của công dân, tổ chức và xã hội đối với các cơ
quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người; đồng thời phải là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và
vi phạm, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của ngành kiểm sát nói
chung, của VKSND tỉnh Quảng Ninh nói riêng, nhất là hoạt động THQCT đối
với các tội giết người.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Thực hành
quyền công tố đối với các tội giết người từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh" để
nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về THQCT đối với các tội
giết người của VKSND như: "Giáo trình lý luận chung về nhà nước và
pháp luật" của Trường Đại học Luật Hà Nội ; "Những vấn đề lý luận về
quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm
2
1945 đến năm 1999" của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; "Giáo trình kỹ
năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự" của Học viện Tư pháp; "Những giải pháp nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp" của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; "Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu
trong công tác kiểm sát hình sự" của Ngô Văn Dọn; "Sổ tay kiểm sát viên
hình sự" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; "Tranh luận tại phiên tòa sơ
thẩm" của Dương Thanh Biểu; "Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp" của Lê Hữu Thể; "Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra án hình sự về trật tự xã hội" của Trần Mai Lâm ;
"Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án giết người" của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ngoài ra, còn có các công trình khoa học liên quan đến hoạt động
KSĐT, kiểm sát xét xử án hình sự về trật tự xã hội đề cập đến những khía
cạnh khác nhau của vấn đề THQCT có nhiều giá trị tham khảo. Song chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về mặt lý luận và
thực tiễn về hoạt động THQCT đối với các tội giết người của VKSND tỉnh
Quảng Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích, làm rõ hoạt động THQCT đối với các tội giết
người của VKSND; phân tích đánh giá thực trạng, xây dựng các quan điểm và
đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo thực hành quyền công tố đối với các tội
giết người của VKSND tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ lý luận về THQCT đối với các tội giết người của
VKSND. Trong đó làm rõ khái niệm, đối tượng, phạm vi cũng như phân tích
3
đặc điểm, vai trò, nội dung THQCT đối với các tội giết người của VKSND
tỉnh Quảng Ninh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động THQCT đối với các tội giết
người của VKSND tỉnh Quảng Ninh và rút ra các nguyên nhân khách quan,
chủ quan của những sai lầm thiếu sót còn để xảy ra.
- Luận văn xây dựng các yếu tố tác động, các yêu cầu và giải pháp cụ
thể có tính khả thi nhằm đảm bảo THQCT đối với các tội giết người của
VKSND tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về THQCT đối với các tội giết
người của VKSND tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa vào cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan
điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam nói chung và tổ
chức hoạt động của VKS trên lĩnh vực hình sự nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể và
đặc thù của khoa học luật hình sự bao gồm: Phân tích, tổng hợp, so sánh và
thống kê.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu THQCT về các tội giết người nói chung và thực tiễn tại
tỉnh Quảng Ninh nói riêng có thể vận dụng trong thực tiễn công tác (cho các
Điều tra viên, Kiểm sát viên) để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của
hoạt động này. Ngoài ra còn hoàn thiện các văn bản pháp luật, quy chế nghiệp
vụ có liên quan đến áp dụng pháp luật trong hoạt động
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương.
4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
ĐỐI VỚI CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI
1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người
1.1.1 Khái niệm thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì
“Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”
[35, tr.8].
Tuy nhiên thực tế hoạt động THQCT của VKS không chỉ là từ giai
đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mà còn phải từ
khi tiếp nhận người ra tự thú, bắt quả tang người phạm tội…Điều này phù hợp
với Điều 159 BLTTHS 2015: VKS THQCT từ khi cơ quan có thẩm quyền
giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Qua phân tích trên cũng như nghiên cứu các quan điểm của pháp luật
hiện hành, có thể đưa ra khái nhiệm THQCT như sau: THQCT là hoạt động
của VKS trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi cơ quan có thẩm quyền điều tra giải
quyết nguồn tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự.
Từ trước đến nay, con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối
tượng hàng đầu được luật hình sự nói riêng cũng như pháp luật nói chung của
Nhà nước ta bảo vệ. Tính mạng của con người là giá trị cao nhất; con người
có quyền được sống, được tôn trọng và bảo vệ. Hiến pháp Việt Nam quy định
5
mọi người có quyền sống, tính mạng của con người được pháp luật bảo hộ,
không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật ( Điều 19 Hiến pháp 2013).
Các tội giết người theo Bộ luật hình sự năm 2015 quy định gồm các tội:
Tội giết người (Điều 123); Tội giết con mới đẻ (Điều 124); Tội giết người
trong trạng thái tinh thần kích động mạnh (Điều 125); Tội giết người do vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội (Điều 126). Các tội phạm giết người xâm phạm trực tiếp đến
quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng. Hành vi khách quan
được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại về tính mạng. Hậu quả của hành vi các tội giết người là
gây ra cái chết, nếu hành vi tước đoạt tính mạng của người khác thực hiện
nhưng vì nguyên nhân khách quan khác nhau mà hậu quả chết người không
xảy ra thì hành vi đó là giết người chưa đạt. Những người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do pháp luật quy định thực hiện, tuy nhiên có
loại tội chủ thể đặc biệt như trong tội giết người do vượt quá mức cần thiết
khi bắt giữ người phạm tội (Điều 126) thì phải là người đang thi hành công
vụ. Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián
tiếp, với động cơ và mục đích khác nhau nhưng không phải là dấu hiệu bắt
buộc của các loại tội phạm này.
Qua đó, có thể hiểu các tội phạm về giết người là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội do người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi theo quy định thực
hiện cố ý xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của người
khác được Hiến pháp và pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận, bảo vệ.
Như vậy, “THQCT đối với các tội giết người là chức năng của VKS
được bắt đầu từ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm cho đến khi bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, mà khi thực hiện chức năng đó,
VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, nhằm buộc tội
6
người xâm phạm tính mạng con người mà pháp luật hình sự quy định là một
trong các tội giết người”.
1.1.2. Đối tượng thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
Đối tượng THQCT nói chung là tội phạm và người phạm tội. Trách
nhiệm chứng minh trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự các loại tội
phạm nói những người tiến hành tố tụng. Những vấn đề cần phải chứng
minhtrong vụ án hình sự như: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực
hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực
trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về
nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan
đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt (Điều 85 BLTTHS năm 2015).
Qua đó hiểu rằng đối tượng THQCT đối với các tội giết người là yếu
tố mà THQCT tác động tới nhằm thực hiện mục đích truy cứu TNHS đối với
những người có hành vi xâm hại tính mạng con người nhằm tước đoạt mạng
sống của người khác.
1.1.3. Phạm vi thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
Phạm vi THQCT vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm
cho rằng THQCT bắt đầu từ khi có quyết định định khởi tố vụ án đến khi
người phạm tội chấp hành xong bản án; lại có quan điểm cho rằng THQCT
bắt đầu từ khi có quyết định truy tố và kết thúc tại phiên tòa sơ thẩm. Các
quan điểm trên có quan điểm hiểu phạm vi THQCT quá rộng hoặc ngược lại
phạm vi THQCT quá hẹp.
Theo nguyên tắc chung thì khi có các loại tội phạm về giết người xảy
ra và các cơ quan chức năng tiếp nhận nguồn tin về tội phạm thì xuất hiện
7
quyền công tố. Một số hoạt động như phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh
bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, phê chuẩn quyết định gia hạn tạm
giữ hoặc hủy bỏ quyết định tạm giữ, hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án,
yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố vụ án…là hoạt động THQCT của VKS thực
hiện trước khi khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, thời điểm bắt đầu của hoạt
động THQCT xuất hiện từ trước khi khởi tố vụ án hình sự rồi đến giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và án có hiệu lực pháp luật. Mặc dù vậy có
những trường hợp THQCT không kéo dài đến giai đoạn xét xử, bởi có những
trường hợp vụ án đang giải quyết theo trình tự tố giác, tin báo về tội phạm
hoặc đang điều tra nhưng xác định được có một trong những căn cứ không
khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 157 BLTTHS năm 2015 hoặc căn cứ
đình chỉ vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 230 BLHS năm 2015… dẫn
đến kết thúc THQCT ở giai đoạn tố tụng sớm hơn.
Trên cơ sở đó, thấy rằng phạm vi THQCT đối với các tội giết người là
các nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng trong việc giải quyết nguồn tin về các tội
giết người, khởi tố vụ án về các tội giết người và điều tra, truy tố, xét xử vụ án
về các tội giết người.
1.2. Nội dung thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
1.2.1 Chủ thể thực hành quyền công tố về các tội giết người
THQCT đối với các tội giết người ở Việt Nam chỉ do VKS tiến hành,
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác không có nhiệm vụ chức
năng này.
Căn cứ các hành vi quy định ở các tội giết người mà VKS nhân dân
cấp tỉnh hoặc VKS nhân dân cấp huyện tiến hành THQCT giải quyết.
1.2.2. Nội dung thực hành quyền công tố về các tội giết người
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với các tội giết người: Theo quy định của
BLTTHS năm 2003 và Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-
8
BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Bộ công an, Bộ Quốc phong,
Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, VKSND Tối cao thì
chỉ quy định chung về chức năng của VKS trong giai đoạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mà chưa quy định rõ quyền hạn của
VKS cũng như cơ chế pháp lý để đảm bảo cho VKS thực hiện tốt quyền hạn đó.
Đến Điều 12 Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014, BLTTHS năm
2015 và Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-
VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ công an, Bộ Quốc phong, Bộ Tài chính,
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, VKSND Tối cao đã có nhiều sửa đổi
quan trọng và phù hợp với nhau, ghi nhận hoạt động THQCT trong giai đoạn
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, cụ thể như sau:
- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác: Theo quy định VKS chỉ phê
chuẩn việc giữ, bắt người bị giữ trong trong trường hợp khẩn cấp khi có một
trong các căn cứ cho rằng một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm được
quy định tại Điều 14 BLHS 2015; khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi
xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện
tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; khi thấy có dấu
vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm.
Nếu VKS thấy không đủ một trong các căn cứ thì không phê chuẩn việc bắt
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đồng thời phải bảo đảm người bị bắt
được trả tự do ngay.
- Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp
luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố: Theo quy định tại Điều 117 BLTTHS năm 2015,
VKS xét thấy quyết định tạm giữ không có căn cứ pháp lý hoặc trái pháp luật
hình sự, VKS có quyền hủy bỏ quyết định tạm giữ và quyết định trả tự do
9
ngay cho người bị tạm giữ. Đây là quyền năng quan trọng của VKS nhằm bảo
vệ quyền công dân, quyền con người theo Hiến pháp năm 2013.
Theo Điều 159 BLTTHS năm 2015 thì trong giai đoạn THQCT giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố còn có một số quyền
hạn như: Đối với những tố giác, tin báo về tội phạm liên quan đến những tội
phạm giết người thực hiện nhiều lần, nhiều đối tượng, chứng cứ chưa rõ ràng,
thủ đoạn phạm tội tinh vi thì VKS phải chủ động đề ra yêu cầu kiểm tra, xác
minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết thực hiện; Hủy bỏ quyết
định tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
trong trường hợp không có căn cứ; Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu nhưng
không khắc phục. Thực hiện tốt chức năng THQCT trong giai đoạn tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống
làm oan người vô tội.
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
- Ra quyết định khởi tố vụ án hình sự: Theo quy định tại khoản 1 Điều
14 Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014 và tại Điều 153 BLTTHS năm
2015, VKS có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong những
trường hợp: Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra; Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố; Viện kiểm sát trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo
yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.
- Thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự: Điều 156
BLTTHS năm 2015 quy định: Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố
không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác chưa
được khởi tố thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố
10
vụ án hình sự. Đây là một trong những quyền năng thuộc phạm vi quyền công tố
của VKS, nhằm bảo đảm cho việc khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và phù hợp
với các tình tiết tài liệu chứng cứ khác thu thập được một cách khách quan.
- Hủy quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố vụ án hình sự:
Điểm b, c khoản 1 Điều 161 BLTTHS năm 2015 quy định VKS có
quyền hủy quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định vụ
án hình sự trong trường hợp các quyết định đó không có căn cứ và trái pháp
luật hình sự. Đây là hoạt động pháp lý thuộc chức năng THQCT của VKS
nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
- Khởi tố bị can là hành vi pháp lý của cơ quan có thẩm quyền xác
định một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội và cần phải tiến hành
điều tra theo quy định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người đó. Theo quy định tại khoản 3 Điều 179 BLTTHS năm 2015 và Quy
chế tạm thời THQCT và KSĐT thì trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày
nhận được quyết định khởi tố bị can, bổ sung quyết định khởi tố bị can nếu
thấy có căn cứ và hợp pháp thì VKS ra quyết định phê chuẩn các quyết định
đó; nếu mà thấy các căn cứ để xác định bị can phạm tội chưa đầy đủ, chưa rõ
thì VKS yêu ca àu cơ quan đã khởi tố bổ sung tài liệu chứng cứ làm rõ căn cứ
khởi tố.
Cũng theo quy định tại khoản 4 Điều 179 BLTTHS năm 2015 thì trong
quá trình điều tra nếu thấy ngoài bị can đã bị khởi tố còn có người khác đã
thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố thì VKS ra văn bản
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can đối với người đó.
Nếu VKS đã có yêu cầu mà cơ quan có thẩm quyền không khởi tố bị can thì
VKS sẽ trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can.
- Đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra;
trực tiếp tiến hành điều tra khi cần thiết: Khoản 6 Điều 165 BLTTHS năm
11
2015 quy định VKS có quyền hạn đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến
hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội.
Việc đưa ra yêu cầu điều tra được thực hiện trong suốt quá trình điều
tra. Hình thức đề ra yêu cầu điều tra của VKS có thể bằng lời nói trực tiếp
hoặc bằng văn bản.
Bên cạnh việc đề ra yêu cầu điều tra, khi cần thiết VKS có thể tiến
hành một số hoạt động điều tra có thể trong giai đoạn điều tra hoặc trong giai
đoạn truy tố, theo quy định tại các Điều 183, 186, 188, 189 của BLTTHS năm
2015 như: Hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai của bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm
chứng; tiến hành đối chất, nhận dạng để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
- Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn:
Các biện pháp ngăn chặn gồm có: giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo
đảm, tạm hoãn xuất cảnh quy định tại các Điều 113, 118, 119, 121, 122, 123
và 124 của BLTTHS năm 2015. Trong đó các biện pháp ngăn chặn gia hạn
tạm giữ, tạm giam, bắt tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm của Cơ quan
điều tra cùng cấp phải có sự phê chuẩn của VKS. Các biện pháp ngăn chặn là
những biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, việc áp dụng một
trong các biện pháp đó phải xem xét toàn diện về nhân thân, tính chất, mức
độ, hậu quả của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác có liên quan.
BLTTHS năm 2015 cũng quy định rõ những trường hợp không áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giam mà chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn khác là đối với
bị can là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già
yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng; trừ các trường
hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; tiếp tục phạm tội; có hành vi
mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu
12
sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài
sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại,
người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này hoặc bị
can về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không
tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Thay thế, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn:
Theo Điều 125 BLTTHS quy định trong quá trình điều tra, nếu thấy bị
can có căn cứ để thay thế biện pháp tạm giam như bị can có nơi cư trú rõ
ràng, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội ăn năn hối cải, nhân thân chưa
có tiền án, tiền sự, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi không nghiêm
trọng thì cơ quan điều tra có công văn đề nghị thay thế biện pháp ngăn chặn
để VKS ra quyết định thay thế hoặc VKS trực tiếp ra quyết định thay thế biện
pháp ngăn chặn đối với bị can sang áp dụng các biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh
hoặc đặt tiền để bảo đảm và chuyển cho cơ quan điều tra thi hành. Còn đối
với các biện pháp ngăn chặn khác, VKS chỉ ra quyết định thay thế khi đã có
yêu cầu nhưng cơ quan điều tra không thực hiện. Khi thấy không cần thiết
hoặc khi vụ án đình chỉ điều tra thì VKS yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết
định hủy bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Còn đối
với những biện pháp ngăn chặn do VKS áp dụng hoặc phê chuẩn thì việc hủy
bỏ phải do VKS quyết định.
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
Sau khi việc điều tra kết thúc, Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra
đề nghị truy tố và chuyển hồ sơ đến VKS thì giai đoạn truy tố được bắt đầu và
VKS kết thúc giai đoạn này bằng một trong các quyết định được quy định tại
khoản 1 Điều 240 BLTTHS năm 2015, cụ thể: Truy tố bị can ra trước Tòa án;
Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
13
Hoạt động THQCT trong giai đoạn truy tố của VKS theo Điều 236
BLTTHS năm 2015 quy định gồm: Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị
can; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án
trong trường hợp cần thiết; Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra
(như: Hỏi cung bị can, lấy lời khai của những người tham gia tố tung, đối
chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra…) nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu,
chứng cứ để quyết định việc truy tố mà xét thấy không cần thiết phải trả hồ sơ
cho Cơ quan điều tra; Quyết định khởi tố, quyết định thay đổi, quyết định bổ
sung quyết định khởi tố vụ án, bị can trong trường hợp phát hiện còn có hành
vi phạm tội, người phạm tội khác trong vụ án chưa được khởi tố, điều tra;
Quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để yêu cầu điều tra bổ sung; Quyết
định tách, nhập vụ án; chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng thủ
tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; Quyết định gia hạn,
không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế…
Trong đó, quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung để nhằm bảo đảm việc
giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đúng quy định pháp luật. Việc ra
quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung phải đảm bảo căn cứ quy định tại Điều
245 BLTTHS năm 2015 và Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKNDTC-
TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Tối cao,
Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối
hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng về trả hồ sơ điều tra bổ sung. VKS chỉ
trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung trong một số các trường hợp
theo luật định.
VKS có quyền ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can khi có một
trong các căn cứ quy định tại Điều 248 BLTTHS năm 2015: Không có sự việc
phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy
14
hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Người mà thực hiện
hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ có hiệu lực
pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được
đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp
cần tái thẩm đối với người khác; Tội phạm thuộc trường hợp khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố;
Người thực hiện hành vi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự.
Quan trọng nhất trong giai đoạn truy tố là Quyết định truy tố bị can ra
trước Tòa án để xét xử về hành vi phạm tội. Quyết định truy tố của VKS được
thể hiện bằng bản cáo trạng hoặc bằng quyết định truy tố (trong trường hợp
vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn). Bản cáo trạng là cơ sở pháp lý để
Tòa án xét xử, là căn cứ để giới hạn xét xử của Tòa án, bị cáo hoặc người đại
diện cho bị cáo thực hiện quyền bào chữa và Kiểm sát viên thực hiện quyền
buộc tội tại phiên tòa.
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
- Rút quyết định truy tố: Theo Luật quy định trước khi mở phiên tòa,
nếu xét thấy có căn cứ rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố thì Kiểm
sát viên được phân công THQCT và kiểm sát xét xử vụ án phải báo cáo đề
xuất Lãnh đạo Viện xem xét và quyết định. Việc rút quyết định truy tố phải
bằng văn bản và có nêu rõ lý do. Trong trường hợp rút toàn bộ quyết định truy
tố thì đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.
Trong quá trình xét xử, sau quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nếu có căn
cứ rõ ràng để rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về
một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng
hơn trong cùng điều luật làm thay đổi quyết định truy tố hoặc đường lối xử lý
đã được lãnh đạo Viện kiểm sát cho ý kiến thì Kiểm sát viên quyết định và
phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Điều này được quy định rõ tại
Điều 319 BLTTHS năm 2015 và ở khoản 2 Điều 21 Quy chế Công tác thực
15
hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết
định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao).
- Công bố Cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn Theo
Điều 306 BLTTHS năm 2015 thì trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên
công bố bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn và quyết
định khác về việc buộc tội đối với bị cáo, bổ sung làm rõ thêm nội dung bản
cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn. Ý kiến bổ sung không
được làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
- Tham gia xét hỏi tại phiên tòa: Khi thực hành quyền công tố, kiểm
sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát viên bắt buộc phải tham gia xét hỏi. Trước
khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải chuẩn bị đề cương xét hỏi, dự kiến
các vấn đề cần làm sáng tỏ, những vấn đề mà người bào chữa quan tâm, dự
kiến các tình huống khác có thể phát sinh tại phiên tòa để tham gia xét hỏi
nhằm xác định sự thật của vụ án và các tình tiết khác có liên quan đến việc
định tội và đề nghị mức hình phạt. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên theo dõi, ghi
chép đầy đủ nội dung xét hỏi của Hội đồng xét xử, người bào chữa, những
người tham gia tố tụng khác và ý kiến trả lời của người được xét hỏi, chủ
động tham gia xét hỏi theo sự điều hành của chủ tọa phiên tòa để xác định sự
thật khách quan của vụ án, làm sáng tỏ hành vi phạm tội, tội danh, vai trò, vị
trí của từng bị cáo, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng... Khi xét hỏi Kiểm
sát viên phải đặt câu hỏi hết sức rõ ràng, rành mạch và dễ hiểu; tránh trường
hợp giải thích, kết luận luôn vấn đề đang làm rõ.
- Trình bày luận tội tại phiên tòa:
Điều 321 BLTTHS năm 2015 quy định: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên
phải ghi chép đầy đủ việc kiểm tra những chứng cứ, tài liệu, đồ vật tại phiên
tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại, đương sự và những người tham gia tố tụng khác để hoàn
16
chỉnh dự thảo bản luận tội. Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình
bày bản luận tội và kết luận vụ án theo hướng sau: đề nghị kết tội bị cáo theo
toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ
tục rút gọn; kết luận về khoản khác nhẹ hơn hoặc nặng hơn với khoản mà
Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật; kết luận về một tội danh
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố nếu có căn cứ
và các nội dung khác. Luận tội của Kiểm sát viên chỉ căn cứ vào những chứng
cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa.
- Tranh luận tại phiên tòa:
Tranh luận của KSV đối với bị cáo, người bào chữa, những người
tham gia tố tụng khác được quy định cụ thể tại Điều 322 BLTTHS năm 2015.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải ghi chép đầy đủ ý kiến của những người
tham gia tố tụng để chuẩn bị tranh luận. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật và lập luận để đối đáp đến cùng đối với từng ý kiến của bị cáo,
người bào chữa, người tham gia tố tụng khác. Nếu vụ án có nhiều người bào
chữa cho bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác có cùng ý kiến về
một nội dung thì Kiểm sát viên tổng hợp lại để đối đáp chung cho các ý kiến
đó. Trường hợp chủ tọa phiên tòa đề nghị Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến
có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác chưa được tranh luận thì Kiểm sát viên thực hiện theo đề nghị của chủ
tọa phiên tòa, nếu đã tranh luận một phần thì Kiểm sát viên tranh luận bổ sung
cho đầy đủ, không lặp lại những nội dung đã tranh luận trước. Trường hợp
cần xem xét thêm chứng cứ, Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc xét hỏi
thì sau khi xét hỏi xong Kiểm sát viên phải tiếp tục tranh luận. Khi tranh luận,
Kiểm sát viên luôn bình tĩnh, khách quan và tôn trọng ý kiến của những người
tham gia tố tụng, ghi nhận ý kiến đúng đắn và bác bỏ những ý kiến, đề nghị
không có căn cứ pháp luật.
17
- Kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tòa án:
Kháng nghị phúc thẩm hình sự được quy định tại Điều 336 BLTTHS
cũng như tại Điều 18 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 với nội dung: VKS
cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật khi có một trong những căn cứ sau
đây: Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm không đầy đủ dẫn đến đánh
giá không đúng tính chất của vụ án; Kết luận, quyết định trong bản án, quyết
định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; Có sai
lầm trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự và
các văn bản pháp luật khác; Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng
luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
1.2.3. Vai trò của thực hành quyền công tố đối với các tội giết người
THQCT nói chung và đối với các tội giết người nói riêng trong tố tụng
hình sự của VKS là chức năng cơ bản của ngành, bao gồm rất nhiều hoạt
động pháp lý khác nhau, để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội. Thực hiện tốt hoạt động THQCT trong thực tiễn sẽ góp phần
làm sáng tỏ, bản chất, nội dung vụ án, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
THQCT của VKS đối với các vụ án giết người còn có vai trò quan
trọng là hướng các chủ thể của các quan hệ pháp luật thực hiện những hành
vi phù hợp với các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng, đầy đủ chức trách
của mình được giao khi tiến hành tố tụng; ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi
phạm mới trong quá trình điều tra các vụ án hình sự của những người tiến
hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.
Ngoài ra còn có vai trò nổi bật nữa là thông qua công tác THQCT này
VKS có những biện pháp, cách thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, không
những đối với các đối tượng vi phạm, tội phạm mà còn có tác động rộng lớn
18
trong xã hội; đề xuất các giải pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật nói chung
và trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
1.3. Phân biệt thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội giết người
Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức VKSND năm
2014 đều quy định rất rõ: VKSND có hai chức năng đó là THQCT và kiểm
sát hoạt động tư pháp. Qua đó thấy rằng THQCT và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong quá trình giải quyết đối với các tội giết người là hai chức năng độc
lập của VKS. Chúng có sự khác nhau nhất định từ giai đoạn giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 159 và Điều 160
BLTTHS năm 2015); giai đoạn khởi tố (Điều 161 BLTTHS năm 2015); giai
đoạn điều tra vụ án hình sự (Điều 165, 166 BLTTHS năm 2015); giai đoạn
truy tố (Điều 236, 237 BLTTHS năm 2015) và giai đoạn xét xử (Điều 266,
267 BLTTHS năm 2015). Nhưng tựu chung lại có thể thấy hai chức năng
THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các tội giết người có điểm
khác nhau cơ bản như sau:
Về mục đích: của THQCT là bảo đảm mọi hành vi phạm tội và người
phạm tội thực hiện hành vi giết người đều phải được phát hiện, xử lý kịp thời.
Còn mục đích của của kiểm sát hoạt động tư pháp là kịp thời phát hiện mọi vi
phạm pháp luật trong quá trình giải quyết các tội giết người, có biện pháp xử
lý kịp thời, nghiêm minh.
Về nội dung: THQCT đối với các tội giết người gồm các hoạt động
phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng của các cơ quan
có thẩm quyền trong tố tụng hình sự; Yêu cầu hoặc trực tiếp tiến hành một số
hoạt động tố tụng; Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án. Trong khi đó, hoạt động kiểm sát
tư pháp lại là yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm loại trừ hành vi vi phạm
pháp luật.
19
Tuy THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp là hai chức năng riêng biệt
của VKS nhưng chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ, qua lại và hỗ trợ cho
nhau. Nhìn dưới góc độ chung nhất thì THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp
đều có chung mục đích bao quát đó là nhằm đảm bảo cho hành vi phạm vào
các tội giết người được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
được đúng người đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội cũng như không
làm oan người vô tội.
Trong thực tiễn, hoạt động THQCT dựa trên kết quả hoạt động của
kiểm sát hoạt động tư pháp, điều đó có nghĩa là quá trình kiểm tra tính có căn
cứ và hợp pháp trong các tình tiết của vụ án để từ đó thực hiện các quyền
năng thuộc phạm vi quyền công tố và ngược lại.
1.4. Các yếu tố tác động chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người
1.4.1. Quy định của pháp luật
Những quy định của hệ thống pháp luật hình sự - tố tụng hình sự của
nước ta đến nay phải nói là hoàn thiện hơn các hệ thống pháp luật dân sự, tố
tụng hành chính…Quy định của pháp luật về hoạt động THQCT đối với các
tội giết người đã có và càng ngày càng được hoàn thiện, chặt chẽ hơn tạo điều
kiện thuận lợi cho những nhà làm luật áp dụng được chính xác, khách quan.
Tuy nhiên cũng không có nghĩa là việc thực thi pháp luật luôn được tốt mà nó
còn phụ thuộc và nhiều yếu tố khác như: hướng dẫn áp dụng pháp luật thiếu
thống nhất, chưa kịp thời, nhận thức áp dụng pháp luật của những người thi
hành pháp luật đối với các tội giết người có những quan điểm khác nhau; ảnh
hưởng của tập tục của địa phương, của vùng miền; sự tác động của gia đình bị
can, người thân của gia đình người tiến hành tố tụng, rồi mặt trái của kinh tế
thị trường …đây là những yếu tố tác động không nhỏ đến kết quả của hoạt
động THQCT đối với các tội giết người.
20
1.4.2. Tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng và năng lực của
người tiến hành tố tụng
Tổ chức của các cơ quan tiến hành tố tụng và năng lực của người tiến
hành tố tụng là những yếu tố tác động trực tiếp nhất đến chất lượng thực hđối
với các vụ án hình sự nói chung và về các tội giết người nói riêng. Khi tổ
chức này được quan tâm, bố trí một cách hợp lý thì chất lượng công tác
THQCT đối với các vụ án về các tội giết người sẽ đạt hiệu quả cao, hạn chế
đến mức thấp nhất vấn đề oan sai hay bỏ lọt tội phạm xảy ra. Ngược lại, khi tổ
chức bộ máy này mà không hợp lý sẽ dẫn đến hiệu quả chất lượng thấp, chưa
kể đến sẽ phát sinh nhiều hậu quả khó lường. Hiện nay, công tác tổ chức bộ
máy để thực hiện nhiệm vụ của CQĐT và VKS còn nhiều bất cập, nhận thức
và năng lực của một bộ phận Điều tra viên, Kiểm sát viên thực thi nhiệm vụ
còn thấp, năng lực công tác chưa cao mà thực tiễn tỉnh Quảng Ninh lại là một
trong những địa phương có lượng án hình sự lớn trong nước (đứng thứ 6 trên
toàn quốc), tuy nhiên, số lượng Điều tra viên luôn trong tình trạng thiếu, dẫn
đến việc một Điều tra viên được phân công làm quá nhiều vụ án sẽ khó có thể
đảm bảo chất lượng điều tra từng vụ án được thận trọng, chính xác và đầy đủ.
1.4.3. Tình hình, đặc điểm của mỗi một địa phương cụ thể.
Việc nâng cao chất lượng công tác THQCT đối với các tội giết người
thì trước hết phải đáp ứng được đòi hỏi của yêu cầu đấu tranh phòng, chống
tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Trong điều kiện tình hình nêu trên, để
góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm VKSND tỉnh
Quảng Ninh phải này càng nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền
công tố, với phương châm không để xảy ra oan, sai hay bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội.
1.4.4. Sự phối hợp của các cơ quan có thẩm quyền
Mối quan hệ phối hợp các đơn vị VKS giữa cấp tỉnh và cấp huyện, giữa
VKS với các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan không chỉ là yêu cầu để nâng
21
cao chất lượng THQCT đối với các tội giết người, mà đã được coi là nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân. Ngoài ra, VKS
Quảng Ninh khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của
pháp luật sẽ không đạt hiệu quả cao nếu không có sự phối kết hợp với các cơ
quan tư pháp khác, đặc biệt là CQĐT, Tòa án, bên cạnh đó còn có các ban
ngành khác của tỉnh, huyện để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Vì vậy, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa ngành kiểm sát với các cơ
quan bảo vệ pháp luật trong hoạt động đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp
luật và tội phạm là yêu cầu khách quan, bảo đảm nâng cao chất lượng áp dụng
pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của VKSND.
1.4.5. Nhận thức của nhân dân về trách nhiệm đấu tranh phòng,
chống tội phạm
Muốn đạt hiệu quả thì nhận thức của nhân dân về thực thi trách nhiệm
của một công dân trước nhà nước và pháp luật là rất quan trọng Một khi công
dân làm tốt những điều này, tỷ lệ tội phạm nói chung và tội phạm trong lĩnh
vực xâm phạm tính mạng nói riêng sẽ giảm thiểu một cách đáng kể, từ đó góp
phần nâng cao chất lượng công tác THQCT đối với các vụ án về các tội giết
người qua đó cũng giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, tài sản... của mọi người dân.
22
Tiểu kết chương 1
Thông qua nghiên cứu cũng như phân tích khái niệm THQCT nói
chung và THQCT đối với các tội giết người nói riêng, luận văn đã đưa ra
được khái niệm THQCT đối với các tội giết người, cụ thể: THQCT đối với
các tội giết người là chức năng của VKS được bắt đầu từ việc giải quyết
nguồn tin về tội phạm cho đến khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật, mà khi thực hiện chức năng đó, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ,
quyền hạn do pháp luật quy định, nhằm buộc tọi người xâm phạm tính mạng
con người mà pháp luật hình sự quy định là một trong các tội giết người.
Qua đó còn phân tích đối tượng, phạm vi, nội dung, vai trò của THQCT
đối với các tội giết người để làm cơ sở nghiên cứu thực trạng THQCT đối với
các tội giết người này từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
Trong chương này, tác giả còn phân biệt hai chức năng là THQCT với
kiểm sát hoạt động tư pháp trong xử lý về các tội giết người, qua đó làm rõ
được mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này để vận dụng đạt hiệu
quả trong thực tiễn.
23
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
ĐỐI VỚI CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI QUẢNG NINH
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thực hành
quyền công tố đối với các tội giết người
2.1.1. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về các tội giết người:
Điều 159 BLTTHS năm 2015 thì khi THQCT trong giải quyết nguồn
tin về các tội giết người thì VKS cấp tỉnh hoặc cấp huyện khi thụ lý giải quyết
có nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau:
- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp khác
hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết nguồn tin về
tội phạm theo quy định của BLTTHS đối với các tội giết người.
- Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện.
- Quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự.
- Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
trong các trường hợp do Bộ luật này quy định.
- Hủy bỏ quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết
định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn
tin về tội phạm và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
24
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền
công tố theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm
oan người vô tội.
2.1.2. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án về các tội giết người
Khoản 1 Điều 161 BLTTHS năm 2015 quy định khi THQCT trong
việc khởi tố vụ án hình sự thì VKS có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự;
- Hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự không có
căn cứ và trái pháp luật;
- Trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
không có căn cứ thì Viện kiểm sát kháng nghị lên Tòa án trên một cấp;
- Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự trong các
trường hợp do BLTTHS quy định;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để thực hành quyền công tố
trong việc khởi tố vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS.
2.1.3. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
thì VKS có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; Yêu cầu cơ quan điều tra khởi
tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Việc khởi tố vụ án hình sự về các tội giết người là giai đoạn tiếp theo
của tố tụng hình sự, nhưng nó là bước công khai trước toàn xã hội về việc có
các loại tội phạm giết người xảy ra và bắt đầu triển khai các hoạt động thực
25
hành quyền công tố truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện
một trong các loại tội giết người đó. Chỉ khởi tố vụ án hình sự khi có một
trong sáu căn cứ quy định tại Điều 143 BLTTHS năm 2015. Cũng theo quy
định thì Quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu liên quan đến việc
khởi tố của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra phải được gửi tới VKS. Điều đó có nghĩa là xem xét việc
khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự là do VKS quyết định.
Khởi tố bị can: Là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chính thức
tuyên bố về mặt pháp lý về việc một người đã thực hiện hành vi phạm tội
đang bị khởi tố điều tra xử lý. Mặc dù pháp luật quy định việc khởi tố bị can
của Cơ quan điều tra nhưng về thực chất quyết định khởi tố bị can của Cơ
quan điều tra chỉ có hiệu lực khi có sự phê chuẩn của VKS cùng cấp. Việc
xem xét phê chuẩn là một thủ tục quan trọng để kiểm tra, xem xét quyết định
khởi tố của Cơ quan điều tra có căn cứ hay không, nếu có căn cứ thì VKS phê
chuẩn và ngược lại nếu không có căn cứ thì VKS sẽ yêu cầu Cơ quan điều tra
cung cấp bổ sung tài liệu chứng cứ để xem xét cho việc phê chuẩn, nếu sau
khi yêu cầu mà Cơ quan điều tra bổ sung thêm tài liệu nhưng xét thấy vẫn
chưa đủ căn cứ phê chuẩn khởi tố bị can thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết
định khởi tố bị can. Khi quyết định khởi tố bị can bị hủy bỏ thì mọi biện pháp
tố tụng áp dụng đối với bị can cũng phải được hủy bỏ.
Giai đoạn thực hành quyền công tố ở trong giai đoạn điều tra này là
nhằm chứng minh tội phạm và người phạm tội. VKS có trách nhiệm áp dụng
các biện pháp do BLTTHS quy định nhằm đảm bảo cho việc điều tra đầy đủ,
chính xác, thận trọng và khách quan không để lọt người, lọt tội hoặc làm oan
người vô tội.
Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra,
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi xét thấy cần thiết như hỏi
cung bị can, lấy lời khai của những người tham gia tố tụng khác, đối chất,
26
nhận dạng, thực nghiệm điều tra nhằm kiểm tra tính khách quan, chính xác
trong các tài liệu. Đề ra yêu cầu điều tra là quyền năng quan trọng và cơ bản
của Kiểm sát viên, đồng thời cũng là trách nhiệm của kiểm sát viên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự. Theo quy định tại Khoản 6 Điều 165 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra,
Kiểm sát viên có nhiệm vụ và quyền hạn “Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội”.Điều 26 của
Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,
điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày
29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định: "Trong
quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự, khi cần
làm rõ về tội phạm, người phạm tội và những vấn đề phải chứng minh trong
vụ án hoặc để hoàn thiện thủ tục tố tụng, Kiểm sát viên đề ra yêu cầu điều tra.
Yêu cầu điều tra có thể được thực hiện nhiều lần, bằng văn bản hoặc bằng lời
nói. Văn bản yêu cầu điều tra được đưa vào hồ sơ vụ án và lưu hồ sơ kiểm
sát”. Như vậy, đề ra yêu cầu điều tra là một trong những quyền năng thuộc
phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát
(không thuộc hoạt động kiểm sát điều tra quy định tại Điều 113 BLTTHS năm
2015). Trong quá trình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, việc
đề ra yêu cầu điều tra có thể được thực hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản.
Việc đề ra yêu cầu điều tra bằng lời nói được thực hiện trong quá trình trực
tiếp kiểm sát các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương sự, đối
chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, nhận biết giọng nói. Tuy nhiên, việc
thực hiện bằng văn bản là cơ bản và chủ yếu, nó thể hiện đầy đủ ý chí, quan
điểm của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án và được lưu trong hồ
sơ tố tụng. Một bản yêu cầu điều tra có chất lượng giúp ích rất nhiều cho Điều
27
tra viên trong việc thu thập, củng cố chứng cứ và hoàn thiện thủ tục tố tụng,
góp phần tích cực vào việc giải quyết vụ án.
Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên nếu phát
hiện Điều tra viên có hành vi điều tra đối với các vụ án về tội giết người
không khách quan, toàn diện; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội
phạm thì khởi tố về hình sự.
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, Cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất
cảnh trong quá trình điều tra đối với các tội giết người.
Quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan
điều tra; hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của của Cơ
quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
Quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
vụ án. Sau khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra vụ án về các tội giết người
và chuyển hồ sơ sang VKS để đề nghị truy tố thì VKS có trách nhiệm nghiên
cứu toàn bộ nội dung có trong hồ sơ để ra một trong các quyết định mà
BLTTHS năm 2015 quy định.
Như vậy, toàn bộ quá trình điều tra kể trên đối với các tội giết người
thì VKS là cơ quan tiến hành tố tụng có vai trò chủ đạo và quyết định.
2.1.4. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố về các tội giết người
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố đối với các tội giết
người nhiệm vụ, quyền hạn của VKS được thể hiện thông qua các quyết định
do VKS ban hành, cụ thể:
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Mục
đích của biện pháp này là nhằm phục vụ cho quá trình tố tụng tiếp theo, đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
28
Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung: khi nghiên cứu hồ sơ vụ án về
các tội giết người VKS thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ
án mà VKS không thể bổ sung được như chứng cứ trực tiếp, gián tiếp hoặc để
buộc tội, gỡ tội; cũng có thể phải trả hô sơ trong trường hợp vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng hoặc có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác
ngoài các tội về giết người đang khởi tố, hoặc thấy có đồng phạm khác chưa
được khởi tố để điều tra.
Quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với các tội giết người là quyết
định chấm dứt việc tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với từng bị can khi có
đủ các căn cứ do BLTTHS năm 2015 quy định.
Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án đối với các tội giết người là
quyết định việc tạm ngừng việc tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với từng
bị can khi có các căn cứ quy định tại BLTTHS năm 2015.
Quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản Cáo trạng. Bằng
bản cáo trạng VKS khẳng định mình có đủ căn cứ theo đúng pháp luật để xác
định những bị can mà mình truy tố đã có hành vi phạm vào các tội giết người
và VKS sẵn sàng bảo vệ quan điểm của mình khi vụ án được đưa ra xét xử.
Ngoài các quyết định thường gặp nói trên, trong giai đoạn truy tố đối
với các tội giết người còn quy định cho VKS được ban hành một số quyết
định như: Ra quyết định khởi tố bị can, VKS cấp trên hủy bỏ quyết định đình
chỉ điều ra của VKS cấp dưới và yêu cầu VKS cấp dưới ra quyết định truy tố;
VKS ra quyết định chuyển vụ án cho cấp có thẩm quyền để truy tố.
2.1.5. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử về các tội giết người
Xét xử vụ án đối với các tội giết người là giai đoạn điều tra công khai,
trực diện, có sự tham gia của nhiều cơ quan tiến hành tố tụng và nhiều người
tiến hành tố tụng. Đây là giai đoạn chuyển hóa toàn bộ chứng cứ được thu
29
thập được trong quá trình điều tra, kết hợp với thẩm vấn và tranh luận trực
tiếp tại phiên tòa, nhằm mục đích chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Khoản 1 Điều 266 BLTTHS năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
gồm có: Công bố cáo trạng, công bố quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn,
quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa; Xét hỏi, xem xét
vật chứng, xem xét tại chỗ; Luận tội, tranh luận, rút một phần hoặc toàn bộ
quyết định truy tố; kết luận về tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; phát biểu quan
điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; Kháng nghị bản
án, quyết định của Tòa án trong trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người
phạm tội; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này.
Khoản 2 Điều 266 BLTTHS năm 2015 quy định: Khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền
hạn: Trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị; Bổ sung chứng cứ
mới; Bổ sung, thay đổi kháng nghị; rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị;
Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ; Phát biểu quan điểm của Viện
kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa, phiên họp; Tranh luận với bị
cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa; Thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn khác khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm theo quy định của Bộ luật.
Như vậy theo quy định của pháp luật, nhiệm vụ quyền hạn của VKS
khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử rất phong phú và phức
tạp. Kết quả của hoạt động này có ý nghĩa với Tòa án trong việc ra một bản án
chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
30
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố đối với các tội giết người tại
tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Tổng quan kết quả giải quyết nguồn tin, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử các vụ án về các tội giết người tại tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là một tỉnh trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh
tế trọng điểm phía Bắc đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch lớn
của Việt Nam với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long đã hai lần được
UNESCO công nhận về giá trị thẩm mĩ và địa chất, địa mạo. Quảng Ninh
nằm ở địa đầu phía Đông Bắc Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 153 km về phía
Đông Bắc. Phía Đông Bắc của tỉnh giáp với Trung Quốc, phía Nam giáp vịnh
Bắc Bộ, phía Tây Nam giáp tỉnh Hải Dương và thành phố Hải Phòng, đồng
thời phía Tây Bắc giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và Hải Dương. Tỉnh
Quảng Ninh hiện có 04 thành phố, 02 thị xã và 08 huyện. Với sự thông
thương đa dạng phong phú như vậy đã tạo đà cho sự phát triển đi lên về kinh
tế - xã hội trên địa bàn tỉnh; nhưng bên cạnh đó tình hình vi phạm, tội phạm
trên địa bàn cũng có chiều hướng diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm về
ma túy, về xâm phạm tính mạng sức khỏe … vẫn có chiều hướng phức tạp,
xảy ra một số vụ án liên quan đến các tội giết người gây hoang mang, lo sợ và
phẫn nộ trong quần chúng nhân dân.
Các cơ quan chức năng của tỉnh đặc biệt là các cơ quan tư pháp gồm
Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đã có nhiều cố gắng để ngăn chặn, giảm thiểu
tình trạng vi phạm tội phạm liên quan đến các tội giết người xảy ra. Ba ngành
Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đã phối hợp có hiệu quả trong công tác đấu
tranh với các loại tội phạm hình sự nói chung và đối với các loại tội giết
người nói riêng, góp phần quan trọng tạo môi trường lành mạnh, ổn định cho
phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh.
Trong 5 năm qua (từ năm 2014-2018) tình hình các vụ án về các tội
giết người của tỉnh Quảng Ninh được thống kê như sau:
31
Cơ quan điều tra khởi tố đối với các tội giết người là 133 vụ/169 bị can
trong đó Tội giết người (Điều 93 BLHS năm 1999 và Điều 123 BLHS năm
2015) là 126 vụ/158 bị can (cụ thể: năm 2014 là 31 vụ/49 bị can, năm 2015 là
28 vụ/32 bị can, năm 2016 là 28 vụ/33 bị can, năm 2017 là 20 vụ/20 bị can,
năm 2018 là 19 vụ/24 bị can); Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (Điều 95 BLHS năm 1999 và Điều 125 BLHS năm 2015) là 04
vụ/04 bị can; Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều
96 BLHS năm 1999 và Điều 126 BLHS năm 2015) là 03 vụ/ 07 bị can; Tội
giết con mới đẻ và Tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người
phạm tội: không xảy ra vụ việc nào.
Kết quả giải quyết: Truy tố 91 vụ/128 bị can (trong đó Tội giết người
85 vụ/117 bị can; Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
04 vụ/04 bị can; Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 02
vụ/ 07 bị can); Đình chỉ 07 vụ/04 bị can; Tạm đình chỉ 12 vụ/08 bị can (Xem
bảng 2.1 – phần Danh mục các bảng biểu).
Qua nghiên cứu hồ sơ các vụ án về các tội giết người xảy ra trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh thấy rằng các loại tội phạm này mặc dù có chiều hướng
giảm, nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội vẫn ngày càng cao. Tội
phạm chủ yếu xuất phát từ những mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn làm ăn băng ổ
nhóm hoặc do sử dụng các chất kích thích như bia, rượu, ma túy… Đối tượng
thực hiện hành vi phạm tội đa dạng, ở nhiều độ tuổi khác nhau từ chưa thành
niên đến người già, một số thì có nhân thân lai lịch xấu nhiều tiền án, tiền sự;
nhiều vụ do người bị mắc bệnh tâm thần thực hiện. Phạm vi xảy ra tội phạm
rộng, từ thành thị đến nông thôn. Tội phạm sử dụng những công cụ phương tiện
để thực hiện hành vi phạm tội rất nguy hiểm như súng, dao, kiếm…
Trong rất nhiều năm, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp của ngành kiểm sát Quảng Ninh được đẩy mạnh và đạt
được nhiều thành tích được Nhà nước và Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ghi
32
nhận, điển hình là năm 2015, ngành Kiểm sát Quảng Ninh được phong tặng
danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới, hàng năm đơn vị đều
được công nhận là tập thể lao động xuất sắc trong toàn ngành và được tặng
nhiều bằng khen của Chính phủ, VKSND Tối cao... Đạt được thành tích đó là
sự phấn đấu nỗ lực không ngừng nghỉ của tập thể lãnh đạo cũng như của các
cán bộ, Kiểm sát viên hai cấp của ngành Kiểm sát Quảng Ninh. Trong đó
không thể không kể đến kết quả giải quyết đối với công tác THQCT về các tội
giết người xảy ra trên địa bàn tỉnh của Viện kiểm sát hai cấp. Kiểm sát Quảng
Ninh luôn căn cứ vào các Chỉ thị, Nghị quyết của Quốc hội, của Bộ chính trị,
đặc biệt là Nghị quyết số 48, 49 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp để vận dụng vào thực tiễn công tác của tỉnh nhà. Tập trung nâng cao
chất lượng hoạt động của VKS theo chức năng quy định, nhất là ngày
06/12/2013 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành Chỉ thị số
06/CT-VKSTC về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với điều tra”, qua đó cho thấy rằng trách nhiệm công tố của ngành
kiểm sát hết sức quan trọng. Theo hàng năm, kiểm sát Quảng Ninh đều xây
dựng chương trình công tác kiểm sát cho các khâu công tác nhưng trong khâu
kiểm sát động điều tra án hình sự luôn đề cao tăng cường gắn công tố với điều
tra và đưa ra nhiều giải pháp chủ đề công tác năm để thực hiện. Cụ thể các
loại tội phạm nói chung và các loại tội về giết người nói riêng đều được phát
hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội, góp phần hiệu quả vào công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm. Để đạt được kết quả đó, phải kể đến đội ngũ cán bộ Kiểm sát viên về
năng lực công tác ngày càng được chú trọng và nâng lên rõ rệt, với phương
pháp bố trí sử dụng cán bộ hợp lý, đúng sở trường trong các khâu công tác nói
chung và khâu kiểm sát thực hành quyền công tố đối với các vụ án về các tội
giết người nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta vẫn phải nhìn nhận
đánh giá một cách thẳng thắn về việc có làm thì phải có sai như có một số vụ
33
án về các tội giết người ở Quảng Ninh còn để xảy ra việc khởi tố sai tội danh,
còn có đồng phạm nhưng chưa được khởi tố, trả hồ sơ điều tra bổ sung vì
thiếu chứng cứ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, án bị hủy để điều tra lại…
Còn để xảy ra tồn tại thiếu sót đó cũng phải kể đến nguyên nhân từ chất lượng
thực hành quyền công tố của VKS đôi lúc có phần còn hạn chế nên cần tìm
giải pháp khắc phục trong thời gian tiếp theo.
2.2.2. Kết quả thực hành quyền công tố đối với các tội giết người tại
tỉnh Quảng Ninh
2.2.2.1. Trong việc giải quyết nguồn tin về các tội giết người
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định VKS thực
hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm thể hiện
ở việc phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng liên quan đến việc
hạn chế các quyền cơ bản của công dân như bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng
khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết nguồn tin
về tội phạm đối với các tội giết người.
Mỗi KSV khi được phân công nghiên cứu giải quyết nguồn tin về tội
phạm đều phải hết sức thận trọng, khách quan trong việc đề xuất áp dụng các
biện pháp ngăn chặn liên quan đến quyền con người, quyền công dân được
pháp luật quy định chặt chẽ. Theo thống kê thì từ năm 2014 đến năm 2018 có
115 trường hợp bị bắt, tạm giữ về hình sự đối với các hành vi của các tội giết
người; các trường hợp bắt người đều đảm bảo, đúng quy định nên trong 5
năm VKS hai cấp không có trường hợp nào không phê chuẩn lệnh bắt, gia hạn
tạm giữ của cơ quan điều tra.
Qua đó thấy rằng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm đối
với các tội giết người thì đa số các trường hợp phê chuẩn đều có căn cứ đúng
quy định pháp luật, đồng thời phát hiện kịp thời các trường hợp tạm giữ
không có căn cứ, trái pháp luật, góp phần giảm thiểu oan sai và chống bỏ lọt
34
tội phạm trong tố tụng hình sự, bảo vệ quyền con người, quyền công dân được
Hiến pháp quy định.
Mặc dù hoạt động THQCT trong giai đoạn này tuy đã đạt nhiều kết
quả tích cực nhưng vẫn còn hạn chế nhất định: Chỉ tiêu hàng năm của ngành
kiểm sát đặt ra chung cho việc kiểm sát giải quyết bắt sau chuyển xử lý hình
sự phải đạt từ 98% trở lên. Nhưng dù vậy, số lượng các trường hợp bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, gia hạn tạm giữ sau đó phải trả tự
do do chưa đủ căn cứ để khởi tố xử lý hình sự về các tội giết người vẫn còn
xảy ra. Theo thống kê 5 năm (năm 2014 đến năm 2018) có 01 trường hợp tạm
giữ sau trả tự do liên quan đến các tội giết người.
Còn để xảy ra tình trạng bắt, giữ sau phải trả tự do vì không đủ căn cứ
khởi tố hình sự về các tội giết người nói riêng không chỉ ảnh hưởng đến
quyền cơ bản của công dân mà còn ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan tiến
hành tố tụng, trong đó cũng phải nói đến một phần trách nhiệm trong việc
THQCT của VKS về việc đánh giá chứng cứ, xem xét các căn cứ bắt giữ chưa
được chính xác nên đòi hỏi cần phải được chấn chỉnh và khắc phục.
2.2.2.2. Trong việc khởi tố vụ án, điều tra vụ án về các tội giết người
- THQCT đối với quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố
vụ án hình sự về các tội giết người
Khi xác định có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm quyền ra quyết
định khởi tố vụ án. Nếu xác định không có dấu hiệu tội phạm thì ra quyết định
không khởi tố vụ án. Trong trường hợp đặc biệt, khi xác định "những hành vi
tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không
đáng kể…" thì không khởi tố vụ án hình sự mà có thể xử lý bằng các biện
pháp khác. Chính vì thế, khởi tố vụ án hình sự nói chung và khởi tố vụ án về
các tội giết người nói riêng bảo đảm cho việc phát hiện nhanh chóng mọi
hành vi phạm tội. Bởi vì, chỉ có thông qua những hoạt động kiểm tra, xác
35
minh kịp thời các nguồn tin về tội phạm, mới có điều kiện làm rõ một sự việc
xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không.
Chưa khởi tố vụ án thì không được tiến hành các hoạt động điều tra, trừ
một số trường hợp đặc biệt nên khởi tố vụ án mới có căn cứ pháp lý tiến hành
các hoạt động điều tra. Sau khi đã khởi tố vụ án, hoạt động điều tra không còn
phải kiểm tra, xác minh để xác định dấu hiệu tội phạm nữa mà chỉ tập trung
vào điều tra làm rõ các hành vi phạm tội và người thực hiện các tội phạm giết
người. Để bảo đảm THQCT đối với quyết định khởi tố hoặc không khởi tố về
các tội giết người được chính xác, VKS đã phối hợp THQCT và kiểm sát chặt
hoạt động điều tra ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, với quá
trình kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Với tính chất quan trọng của hoạt động khám nghiệm hiện
trường nên pháp luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể về trình tự, thủ tục
khám nghiệm trong đó có quy định sự bắt buộc tham gia của Kiểm sát viên
VKS đối với hoạt động khám nghiệm hiện trường. Trong những năm qua
VKSND tỉnh Quảng Ninh đã THQCT đối với hoạt động khám nghiệm hiện
trường và cho thấy hoạt động khám nghiệm được tiến hành khách quan, toàn
diện và đúng pháp luật, mà còn có thể nắm được rõ các tình tiết liên quan đến
vụ án ngay từ ban đầu khi tội phạm xảy ra để làm cơ sở cho hoạt động kiểm
sát tiếp theo như kiểm sát khởi tố vụ án, kiểm sát khởi tố bị can... Đồng thời
song song với khám nghiệm hiện trường đối với các vụ án giết người thì VKS
còn THQCT và kiểm sát việc khám nghiệm tử thi trong các vụ án giết người
(nếu có hậu quả chết người xảy ra) từ đó xác định rõ nguyên nhân chết của nạn
nhân là bình thường hay không bình thường; tác nhân nào dẫn đến cái chết cho
nạn nhân (Súng đạn, thuốc độc, dao, gậy, chết ngạt hay chết do bệnh lý...). Từ đó
trả lời câu hỏi có hay không có tội phạm xảy ra; công cụ, đối tượng sử dụng
phương tiện nào để gây án; đặc điểm gây án của đối tượng... giúp cơ quan điều
tra xây dựng được giả thuyết điều tra và sàng lọc được diện đối tượng nghi vấn.
Kết quả THQCT trong khám nghiệm tử thi cũng đã góp phần đem lại nhiều ý
36
kiến có giá trị phục vụ cho công tác điều tra. Tương tự như công tác kiểm sát
khám nghiệm hiện trường, trong công tác kiểm sát khám nghiệm tử thi, KSV đã
chủ động phối hợp với điều tra viên và các thành viên trong đoàn khám nghiệm;
bám sát và chủ động tham gia các bước khám nghiệm; đề ra các yêu cầu khi thấy
cần thiết. Kết quả khám nghiệm tử thi đã làm rõ được thời gian chết của nạn
nhân; nạn nhân chết có sự tác động ngoại lực từ bên ngoài hay không, tính chất
các thương tích, vật gây nên các thương tích và thời gian gây ra; nguyên nhân
dẫn tới nạn nhân chết; nhóm máu của nạn nhân; trước khi chết nạn nhân đã ăn
uống gì; nếu là phụ nữ thì ở bộ phận sinh dục của nạn nhân có tinh trùng không,
nạn nhân có thai không; nếu nạn nhân chết do ngạt thở thì có phải chết do tác
động bên ngoài tới đường hô hấp hay không; các dấu vết ở cổ (nếu có) xuất hiện
lúc nạn nhân còn sống hay sau khi đã chết...
Trong 5 năm qua (2014-2018), VKSND tỉnh Quảng Ninh đã kiểm sát đối
với 133 quyết định khởi tố vụ án có tính căn cứ và 14 quyết định không khởi tố
vụ án hình sự đối với các tội giết người. Qua nghiên cứu các quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra nêu trên đều thấy có căn
cứ, đúng quy định pháp luật, không có trường hợp nào phải hủy quyết định khởi
tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Qua công tác THQCT, VKS còn yêu cầu
thay đổi quyết định khởi tố vụ án từ tội danh khác sang tội danh về các tội giết
người ( 15 trường hợp).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được như phân tích ở phần trên, hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án giết người của VKSND tỉnh
Quảng Ninh thời gian qua còn bộc lộ một số những tồn tại, thiếu sót, vướng
mắc như sau:
Thứ nhất, tồn tại, thiếu sót trong việc tiếp nhận và kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố về các tội phạm giết người
vẫn còn hạn chế, còn thụ động trong việc nắm và xử lý thông tin hoặc ỷ lại
vào cơ quan Công an.
37
Thứ hai, còn thiếu sót trong kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, khám và thu giữ, bảo quản dấu vết. Một số trường hợp,
khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường đối với các
vụ án giết người, KSV không phát hiện CQĐT bỏ sót những tình tiết liên
quan đến vụ án như thu thập dấu vết, xác định chiều hướng, kích thước, dấu
vết, cơ chế hình thành dấu vết… Vẫn còn xuất hiện tình trạng khám nghiệm
hiện trường sơ sài nên không thu thập được chứng cứ quan trọng của vụ án
như công cụ, phương tiện phạm tội, không thu thập được dấu vân tay, mẫu
máu, cơ chế hình thành dấu vết do vật gì tác động nên. Biên bản thu giữ, niêm
phong tài sản, vật chứng lập rất sơ sài, không đúng quy định của BLTTHS…
gây ảnh hưởng đến giá trị chứng minh tội phạm trong vụ án, dẫn đến việc giải
quyết vụ án kéo dài hoặc bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Có lúc có nơi KSV
khi tham gia khám nghiệm còn thụ động, chỉ chứng kiến hoạt động của ĐTV
và kỹ thuật viên mà không tham gia ý kiến trong hoạt động khám nghiệm.
Một số vụ án KSV do không nắm chắc tình hình ban đầu, diễn biến của vụ
việc nên khi làm nhiệm vụ kiểm sát tại hiện trường rất lúng túng, bị động.
Thứ ba, hoạt động THQCT của KSV đối với việc lập hồ sơ, thu thập
chứng cứ trong một số vụ án liên quan đến các tội giết người thiếu chặt
chẽ, vẫn còn để xảy ra sai sót.
Đối với một số vụ án, do VKSND chưa thực hiện tốt hoạt động
THQCT không chủ động bám sát án, nắm vững tiến độ điều tra vụ án nên
chưa thực hiện tốt công tác giám sát hoạt động điều tra, chỉ đạo điều tra, định
hướng điều tra. Khi thực hiện chức năng THQCT , KSV còn thụ động, khi
CQĐT đề nghị phê chuẩn tạm giữ, tạm giam, gia hạn điều tra, thậm chí đến
khi vụ án kết thúc điều tra thì KSV mới tiếp cận hồ sơ vụ án. Do đó, đã không
phát hiện được những vi phạm, thiếu sót và tồn tại của CQĐT trong việc tuân
thủ BLTTHS, dẫn đến tình trạng phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, làm ảnh
hưởng đến chất lượng, tiến độ giải quyết án.
38
Khi THQCT một số vụ án liên quan đến các tội giết người ở giai đoạn
điều tra, vẫn còn tình trạng KSV nghiên cứu hồ sơ vụ án sơ sài, không bám
sát yêu cầu CQĐT làm rõ hành vi phạm tội của bị can, những tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ và các tình tiết khác trong vụ án, một số trường hợp khi
nghiên cứu kết luận giám định thấy mâu thuẫn với kết quả điều tra vụ án, nội
dung biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai người làm chứng, người
bị hại còn sơ sài, chỉ chú ý đến lời nhận tội của bị can, chưa chú ý đến các
chứng cứ gỡ tội của bị can; không chú ý yêu cầu CQĐT làm rõ mục đích,
động cơ phạm tội; tài liệu chứng cứ trong hồ sơ còn rất nhiều mâu thuẫn, chưa
phản ánh được toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội của bị can và sự việc liên
quan đến vụ án, nhưng KSV không phát hiện kịp thời để yêu cầu CQĐT đấu
tranh với người làm chứng, người bị hại, bị can nhằm làm rõ mâu thuẫn trong
các lời khai đó.
Trong quá trình THQCT đối với các tội giết người, VKS vẫn chưa kịp
thời phát hiện thiếu sót của CQĐT trong việc tuân thủ các quy định của
BLTTHS hoặc khi phát hiện vi phạm, thiếu sót thì những kiến nghị, kháng
nghị, yêu cầu của VKS đối với CQĐT về việc khắc phục những thiếu sót, vi
phạm pháp luật trong quá trình điều tra còn nể nang. Còn thiếu chủ động, nể
nang, chưa kiên quyết, dẫn đến hoạt động thu thập chứng cứ, sử dụng, đánh
giá chứng cứ để chứng minh tội phạm của CQĐT chưa đầy đủ và chặt chẽ, có
những vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục tố tụng, gây khó khăn cho
công tác giải quyết án. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến các
trường hợp điều tra lại, điều tra bổ sung, đình chỉ điều tra đối với các vụ án
giết người trong thời gian qua.
Đối với một số vụ án liên quan đến các tội giết người việc xác định
thương tích trên cơ thể nạn nhân có ý nghĩa rất quan trọng để quy kết hành vi
đó có phải là tội phạm giết người hay không. Nhưng trong một số vụ án, VKS
không chú ý đến nội dung thủ tục trưng cầu giám định của CQĐT. Do đó, đến
39
khi kết thúc điều tra mới phát hiện nên phải trả hồ sơ để tiến hành trưng cầu
giám định lại hoặc giám định bổ sung, dẫn đến tình trạng kéo dài thời gian
giải quyết vụ án.
Thứ tư, việc thu thập lấy mẫu để giám định khả năng nhận thức của các
đối tượng thực hiện hành vi phạm tội dẫn đến hậu quả chết người cũng có ý
nghĩa hết sức quan trọng, bởi nó xác định đúng tội danh cần xử lý. Có vụ án
đối tượng sử dụng ma túy đá, gây ảo giác nên thực hiện hành vi giết bố, mẹ,
sau đó bị bắt giữ, KSV đã không kịp thời trao đổi, yêu cầu ĐTV lấy mẫu
nước tiểu để tiến hành thử chất ma túy và tiến hành xác minh khả năng nhận
thức của bị can. Kết thúc giai đoạn điều tra bị can phản cung khai báo không
sử dụng ma túy. Vì vậy để xác định sự thật khách quan đối với vụ án thì VKS
đã nhận định một người hoàn toàn tỉnh táo thì không có thể thực hiện hành vi
trên. Do đó trong thời điểm thống kê từ năm 2014 đến năm 2018, VKS trả hồ
sơ để CQĐT tiến hành xác minh và trưng cầu giám định tâm thần 02 vụ/02 bị
can, dẫn đến việc vụ án phải kéo dài thời gian giải quyết.
* THQCT đối với hoạt động khởi tố bị can đối với các tội giết người
Bên cạnh việc khởi tố vụ án thì VKSND tỉnh Quảng Ninh đã phải kiểm
sát chặt chẽ các quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra để nhằm hạn
chế những vi phạm pháp luật của cơ quan điều tra trong việc khởi tố bị can về
các tội giết người; bảo đảm việc khởi tố có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật bởi quyết định khởi tố bị can trực tiếp hạn chế một số quyền và lợi
ích hợp pháp thuộc về nhân thân người bị khởi tố.
Nội dung mà VKS tiến hành THQCT và kiểm sát khởi tố bị can đối với
các tội giết người ở tỉnh Quảng Ninh cho thấy đã có căn cứ và hợp pháp quyết
định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều điều tra. Để hoạt động THQCT và kiểm sát
được chặt chẽ đúng với yêu cầu của pháp luật, trước hết VKS phải xác định
được hành vi của bị can thông qua việc nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong
40
hồ sơ rồi đối chiếu với quy định của BLHS để xem xét một cách khách quan
toàn diện vụ án giết người.
Khởi tố bị can về các tội giết người cũng như khởi tố bị can về một tội
phạm được qui định trong BLHS đều phải đảm bảo đầy đủ các yếu tố cơ bản
về cấu thành tội phạm như trên. Tuy nhiên, khởi tố bị can về các tội giết
người còn phải dựa trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; kết quả
công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi nạn nhân; các lời khai
nhân chứng, người biết việc; các dấu vết, vật chứng thu giữ được; kết quả xác
định nguyên nhân chết của nạn nhân và các tài liệu khác về đối tượng thực
hiện hành vi giết người. Cơ quan điều tra xác định đủ căn cứ khởi tố đối
tượng đó về một trong các tội giết người và áp dụng các biện pháp tư pháp để
tiến hành điều tra về hành vi giết người. Trong thời gian qua các KSV của
VKSND tỉnh Quảng Ninh đã khẩn trương nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, căn cứ
khởi tố bị can để tham mưu cho lãnh đạo Viện quyết định phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn các lệnh, quyết định theo đề nghị của Cơ quan điều tra.
VKSND tỉnh Quảng Ninh chỉ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can về các tội
giết người của Cơ quan điều tra khi xác định có đủ các yếu tố cấu thành của
các tội giết người được qui định tại các điều từ Điều 123-126 của BLHS năm
2015 dựa trên các dấu vết vật chứng thu được tại hiện trường và kết quả truy
nguyên các dấu vết vật chứng đó; thông tin về vụ án, lời khai của nạn nhân
(trong trường hợp còn sống); lời khai các nhân chứng về đặc điểm nhận dạng
thủ phạm, về thời gian thủ phạm có mặt ở hiện trường, các thông tin liên quan
đến mâu thuẫn giữa thủ phạm và nạn nhân, sự chuẩn bị công cụ và phương
tiện phạm tội, các tài sản, vật chứng bị thủ phạm chiếm đoạt, cất giấu, tiêu thụ
và kết quả xác minh các thông tin này; Động cơ của vụ án (như giết người để
cướp tài sản, giết người do thù tức, giết người do đánh ghen, hiếp dâm...); Để
xác định thủ phạm thông qua các biện pháp giám định, nhận dạng (đồ vật ảnh,
hung khí), khám xét bí mật, tra cứu tàng thư căn cước, sàng lọc đối
41
tượng...Trong THQCT VKSND tỉnh Quảng Ninh đã nhanh chóng xác định
tính chất đặc trưng của vụ án: Gây án bằng vũ khí nóng, vật liệu nổ; giết
người mà trước đó có hiếp dâm hoặc giết người để cướp tài sản; giết xong đưa
xác nạn nhân đi nơi khác…
Theo kết quả thống kê từ năm 2014-2018 VKS đã THQCT và kiểm sát
đối với 169 quyết định khởi tố bị can về các tội giết người do Cơ quan điều tra
các cấp khởi tố, trong đó VKS phê chuẩn 167 trường hợp và ra quyết định hủy
bỏ quyết định khởi tố bị can 02 trường hợp. Ngoài ra, VKS yêu cầu khởi tố bị
can 17 trường hợp có liên quan trong các vụ án về các tội giết người như các
hành vi che dấu tội phạm, không tố giác tội phạm, gây rối trật tự công cộng.
Theo khoản 3 Điều 179 BLTTHS năm 2015 thì trong thời hạn 03 ngày
VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố
bị can đối với các tội giết người. Trong khi đó, để xác định hành vi của một
đối tượng đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm về các tội giết người hay chưa
trong giai đoạn này không hề đơn giản. Vì ngay từ ban đầu các tài liệu chứng
cứ chứng minh hành vi phạm tội đối với các bị can chưa được thể hiện một
cách toàn diện, khách quan, việc đánh giá chứng cứ của một số vụ việc rất
phức tạp, khó khăn. Mặc dù tính chất khó khăn như vậy nhưng trong những
năm qua VKSND tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện tốt việc THQCT và kiểm sát
đối với việc khởi tố bị can liên quan về các tội giết người. Cơ bản tất cả các
trường hợp VKS ra quyết định phê chuẩn khởi tố bị can đều có căn cứ và
đúng quy định của pháp luật, không có trường hợp nào phê chuẩn sau đó đình
chỉ điều tra vì không phạm tội hoặc Tòa án tuyên vô tội.
Bên cạnh những thuận lợi, THQCT đối với hoạt động này còn có
những khó khăn nhất định như:
BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn cho VKS xét phê chuẩn trong thời
hạn 03 ngày nên nhiều trường hợp không đủ thời gian để VKS nghiên cứu xét
phê chuẩn hoặc không phê chuẩn bị can đối với các tội giết người ví dụ như
42
những chứng cứ trực tiếp có ý nghĩa quan trọng chứng minh người thực hiện
hành vi phạm các tội giết người như: kết quả giám định dấu vết sinh học...
Theo BLTTHS năm 2015 quy định trong quyết định khởi tố bị can phải
ghi rõ khởi tố theo khoản nào của Điều luật khởi tố mà quá trình điều tra ban
đầu thời gian dành cho thu thập những tài liệu chứng minh tình tiết định
khung tăng nặng như tính chất côn đồ, tái phạm nguy hiểm…của cơ quan điều
tra là chưa có, nên việc quy định như vậy trên thực tiễn đã gây khó khăn cho
việc áp dụng. Tại tỉnh Quảng Ninh có một số vụ án quyết định khởi tố vụ án,
bị can cũng đã vi phạm vào khoản 2 Điều 126 BLTTHS như nêu ở trên,
nhưng VKS cũng không phải vì thế mà không xét phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can được.
Khi áp dụng khởi tố bị can đối với người bị mắc bệnh tâm thần phạm
vào các tội giết người hiện nay còn có nhiều cách hiểu khác nhau từ quy định
của pháp luật. Về lý luận quy định: Chỉ khởi tố bị can đối với một người thực
hiện hành vi đủ yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS. Trong
khi khoản 1 Điều 126 BLTTHS năm 2015 lại quy định: Khi đủ căn cứ để xác
định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết
định khởi tố bị can. Trên cơ sở đó có hai quan điểm khác nhau khi xử lý đối
với người đang điều trị ngoại trú về bệnh tâm thần mà thực hiện hành vi giết
người. Thực tiễn Quảng Ninh cho thấy có trường hợp thực hiện hành vi phạm
các tội giết người mắc bệnh tâm thần và các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện vẫn ra quyết định khởi tố bị can về các tội giết người, sau đó trưng cầu
giám định pháp y tâm thần nếu kết quả kết luận người đó không có năng lực
chịu trách nhiệm hình sự thì ra quyết định đình chỉ bị can và áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh. Tuy nhiên, lại dẫn đến trường hợp phải đình chỉ
điều tra do hành vi không cấu thành tội phạm, cũng phần nào ảnh hưởng đến
bộ chỉ tiêu công tác kế hoạch hàng năm của ngành Kiểm sát Quảng Ninh đã
đặt ra.
43
* Hoạt động phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh tạm giam, bắt tạm giam;
yêu cầu bắt tạm giam đối với các tội giết người
Biện pháp ngăn chặn tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn
nghiêm khắc nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cơ bản của công dân. Chính
vì vậy VKS luôn thận trọng khi quyết định áp dụng biện pháp này hay không.
Các loại tội giết người xảy ra thì trong đó có tội giết người (Điều 123 BLHS
năm 2015) là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phat cao nhất
là tử hình, nên do tính chất như vậy và yêu cầu điều tra là cần giản thiểu thấp
nhất trường hợp bỏ trốn hoặc tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, gây khó
khăn cho việc điều tra, thu thập chứng cứ nên biện pháp tạm giam hoặc bắt bị
can tạm giam là những biện pháp được áp dụng phổ biến nhất so với các biện
pháp ngăn ngặn khác. Trong 5 năm (2014-2018), trong tổng số khởi tố về các
tội giết người thì có 158 bị can áp dụng biện pháp tạm giam được VKS phê
chuẩn, còn 11 bị can được áp dụng biện pháp khác do đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi, là người già yếu…VKS đề nghị Cơ quan điều tra bắt tạm giam bị
can 05 trường hợp.
Quá trình thực hành quyền công tố đối với hoạt động này thấy có một
số điểm bất cập như:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 119 BLTTHS năm 2015 thì đối với
người già yếu mà có nơi cư trú rõ ràng thì không áp dụng biện pháp tạm giam
mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp bị can bỏ trốn và
bắt theo quyết định truy nã hoặc tiếp tục phạm tội… Hiện nay thực tế có
nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm người già yếu để áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giam đối với họ khi phạm các tội giết người. Luật cao tuổi thì
quy định người cao tuổi là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên; trong khi
BLHS xác định người già là người từ đủ 70 tuổi trở lên. Vì vậy, khái niệm về
người già yếu quy định tại khoản 4, Điều 119 BLTTHS năm 2015 để xem xét
có tạm giam hay không thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên gây khó
44
khăn trong quá trình áp dụng.
Tiếp đến theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 119 và khoản 2, 3 Điều
419 BLTTHS năm 2015 thì người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi nếu phạm tội kể
cả trường hợp phạm vào tội đặc biệt nghiêm trọng (tội giết người) thì phải áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác trước, nếu bị can vi phạm thì mới áp dụng
biện pháp tạm giam để điều tra. Quy định này trên thực tế thấy rằng chưa phù
hợp, bởi có trường hợp người chưa thành niên phạm vào tội đặc biệt nghiêm
trọng trong nhóm tội giết người nhưng ban đầu chỉ áp dụng biện pháp ngăn
chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú thì rất nguy hiểm đồng thời tạo phản ứng từ dư
luận quần chúng nhân dân và gia đình người bị hại; nhất là tình hình tội phạm
ngày nay càng trẻ hóa về độ tuổi phạm tội.
* VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp
để kiểm tra, bổ sung tài liệu chứng cứ khi xét phê chuẩn các quyết định tố
tụng nhằm đảm bảo việc buộc tội đối với người có hành vi phạm vào các tội
giết người
Khoản 7 Điều 165 BLTTHS năm 2015 thì VKS trực tiếp tiến hành một
số hoạt động điều tra như: Hỏi cung bị can, lấy lời khai của những người tham
gia tố tụng khác, đối chất, thực nghiệm điều tra… Đây là một hoạt động có ý
nghĩa hết sức quan trọng để đảm bảo cho việc buộc tội được chính xác, khách
quan, toàn diện. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-
VKSTC-BCA-BQP ngày 19/10//2018 của VKSND Tối cao, Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng quy định về quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và VKS
thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 cũng như Quy chế tạm
thời công tác THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, truy tố ban hành kèm
theo Quyết định số 03 ngày 29/12/2017 của VKSND Tối cao thì quy định:
Kiểm sát viên có thể phối hợp với Điều tra viên thụ lý vụ án để lấy lời khai
người bị khởi tố, người làm chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị
can trước khi báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết
45
định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Đối với những trường
hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi tố lúc nhận tội, lúc không
nhận tội, tài liệu, chứng cứ có mâu thuẫn hoặc chưa rõ, thì trước khi báo cáo,
đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc
hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, Kiểm sát viên phải trực tiếp lấy lời khai
người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi tố. Biên bản ghi lời khai những
người này được chuyển cho cơ quan đã ra quyết định khởi tố để đưa vào hồ
sơ vụ án. Quy định như vậy càng đảm bảo chặt chẽ cho các quyết định mà
VKS phê chuẩn.
Bên cạnh các hoạt động THQCT nêu trên, trong giai đoạn điều tra VKS
tỉnh Quảng Ninh còn thực hiện nhiều hoạt động khác thuộc phạm vi chức
năng THQCT đối với các tội giết người như: Đề ra yêu cầu điều tra, yêu cầu
Cơ quan điều tra truy nã bị can… Những hoạt động này góp phần đảm bảo
cho việc điều tra vụ án được tiến hành khách quan, đúng pháp luật.
Hoạt động đề ra yêu cầu điều tra trong các vụ án về các tội giết người
của VKS là một hoạt động bắt buộc phải có. Trước yêu cầu về cải cách tư
pháp và cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Đảng và
Nhà nước ta tiếp tục khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân tiếp tục thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt
động điều tra…”. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Hiến pháp năm 2013,
Luật tổ chức VKSND năm 2014 yêu cầu VKSND phải có trách nhiệm bảo vệ
quyền con người, quyền công dân và bảo đảm các hoạt động điều tra, kiểm sát
điều tra phải đổi mới mạnh mẽ, hiệu quả, chính xác và đúng quy định của
pháp luật. Các Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 và Nghị quyết
63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 của Quốc hội yêu cầu: “Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chỉ đạo các Viện kiểm sát áp dụng đồng bộ các giải pháp, bảo
đảm thực hành quyền công tố,… kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều tra, kịp
46
thời đề ra yêu cầu điều tra để chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội…; chủ động, tích cực đề ra yêu cầu điều tra…”.
Trong Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng VKSND
tối cao cũng nêu rõ: “Viện kiểm sát các cấp chủ động, tích cực đề ra yêu cầu
điều tra bảo đảm có căn cứ, sát với nội dung vụ án…”. Nhận thức đúng đối
với hoạt động này, VKSND tỉnh Quảng Ninh tập trung lãnh đạo chỉ đạo sao
cho ngày càng nâng cao chất lượng các bản yêu cầu điều tra đối với các tội
nói chung và đối với các tội giết người nói riêng. Qua thực tiễn về việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn đề ra YCĐTcủa VKSND Quảng Ninh về các tội
giết người cho thấy nội dung, hình thức, chất lượng bản yêu cầu điều tra được
nâng lên; góp phần tích cực giúp cho các hoạt động điều tra, thu thập tài liệu,
chứng cứ đầy đủ, toàn diện, đúng hướng, đúng quy định của pháp luật. Qua 5
năm (2014-2018) VKS Quảng Ninh đã ban hành 142 bản yêu cầu điều tra đối
với các tội giết người, có những vụ án KSV sau khi nghiên cứu còn ban hành
tiếp yêu cầu điều tra lần thứ 2, lần thứ 3 để làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án.
Qua THQCT đối với các quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra vụ
án hoặc bị can đối với các tội giết người của Cơ quan điều tra ở tỉnh Quảng
Ninh, VKS thấy đều đáp ứng đủ các căn cứ theo quy định của pháp luật dẫn
đến không có trường hợp nào VKS phải hủy các quyết định nêu trên. Điển
hình cho hoạt động này phải kể đến vụ án Vũ Văn Tê bị khởi tố điều tra về tội
Giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS năm 1999, cụ thể: Ngày
28/8/2016, tại gia đình ở tổ 4, khu 5, phường Hà Lầm, thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh, Vũ Văn Tê có hành vi dùng 01 chiếc rìu bằng sắt chém
ngang cổ vợ là chị Nguyễn Thị Quý làm chị Quý bị chết ngay tại chỗ. Vụ án
được khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với Tê. Trong quá
trình điều tra, ĐTV và KSV khi THQCT hỏi cung bị can Tê thấy Tê có biểu
hiện khai nhận về hành vi phạm tội không bình thường, qua nhiều lần tiếp xúc
47
hỏi cung, ĐTV cùng KSV đã báo cáo lãnh đạo hai ngành để thống nhất cần
thiết phải giám định về năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với Tê để xử lý
vụ án cho khách quan, thận trọng. Không ngoài dự đoán của các cơ quan tiến
hành tố tụng, kết luận giám định pháp y tâm thần của Viện pháp y tâm thần
Trung ương đối với Tê xác định: Vũ Văn Tê trước và trong khi thực hiện
hành vi giết vợ là chị Quý thì Tê có biểu hiện rối loạn loạn thần cấp, Tê bị
mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Chính vì vậy, căn cứ vào
khoản 1 Điều 13 BLHS năm 1999 thì Tê không phải chị trách nhiệm hình sự
về hành vi giết vợ là chị Quý. Nên ngày 23/6/2017, Cơ quan điều tra Công an
tỉnh Quảng Ninh đã ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, bị can đối với Vũ
Văn Tê và ra quyết định bắt buộc chữa bệnh. Đây là một trong những vụ án
điển hình của ngành kiểm sát Quảng Ninh trong quá trình THQCT vì nó đã
đảm bảo cho việc công lý và tình người được thực thi. (Nguồn Hồ sơ KSĐT -
VKSND tỉnh Quảng Ninh).
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình THQCT trong các hoạt
động nêu trên còn có những hạn chế nhất định như:
Đối với bản yêu cầu điều tra của VKS: Mặc dù nhận thức được tầm
quan trọng của nó đối với hoạt động điều tra vụ án nhưng có một số vụ án về
các tội giét người KSV chưa dành nhiều thời gian để tập trung nghiên cứu kỹ
hồ sơ vụ án ban đầu dẫn đến khi ban hành bản yêu cầu điều tra gửi cơ quan
điều tra còn sơ sài và mang tính hình thức cho đủ, chưa đi sâu vào việc yêu
cầu những nội dung cần điều tra làm rõ để chứng minh hành vi phạm tội của
bị can.
Thời hạn điều tra đối với các tội giết người dài, riêng đối với tội giết
người (Điều 123 BLHS năm 2015) thì có tổng thời hạn điều tra (tính cả
những lần gia hạn thời hạn điều tra) lên tới 12 tháng; trong khi căn cứ tạm
đình chỉ điều tra vụ án, bị can lại có căn cứ khi hết thời hạn điều tra mà chưa
xác định được bị can hoặc không biết bị can đang ở đâu (trong trường hợp có
48
bị can nhưng bị can bỏ trốn bị truy nã). Vậy phải tính hết thời hạn điều tra để
ra quyết định tạm đình chỉ điều tra từ lúc nào, từ lúc hết thời hạn điều tra ban
đầu hay hết thời hạn khi tính tổng thời hạn đã gia hạn thời hạn điều tra…
2.2.2.3. Trong giai đoạn truy tố về các tội giết người
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố VKS thực hiện
nhiều hoạt động cũng tương tự như trong giai đoạn điều tra như trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu chứng cứ để
quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy
không cần phải trả hồ sơ cho CQĐT; Quyết định khởi tố, thay dổi, bổ sung
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong trường hợp phát hiện vụ án còn
có hành vi phạm tội người phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra; Quyết
định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền… Ngoài
ra, VKS thực hiện một số hoạt động THQCT mang tính đặc thù trong giai
đoạn này như:
* Hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai của bị hại, người làm chứng,
thực hiện biện pháp đối chất, thực nghiệm điều tra.. trong giai đoạn truy tố:
Kể từ khi có Chỉ thị số 06/CT-VKSTC về “Tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra” của VKSND Tối
cao, VKSND tỉnh Quảng Ninh đã yêu cầu tiến hành phúc cung 100% đối với
các bị can trước khi truy tố ra Tòa án để xét cử. Nội dung yêu cầu này được
xuyên suốt trong các Kế hoạch công tác hàng năm của ngành Kiểm sát Quảng
Ninh. Việc phúc cung bị can đối với các tội giết người xét thấy càng cần thiết
hơn nữa, vì qua đó nhằm thẩm tra đánh giá lại một lần nữa chứng cứ đảm bảo
tính khách quan, chính xác của kết quả điều tra trong giai đoạn điều tra.
Thông qua hoạt động phúc cung này, VKS hai cấp khi tiến hành giải quyết
các vụ án về các tội giết người phát hiện được nhiều thiếu sót trong quá trình
điều tra, khắc phục kịp thời, đảm bảo việc truy tố hoặc ban hành các quyết
định khác.
49
* Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội giết người:
Thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014-2018, VKSND tỉnh đã trả
08 vụ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung về các tội giết người, chiếm tỷ
lệ 0,06 % trên tổng số các vụ án giết người khởi tố điều tra. Mặc dù việc trả
hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung có một phần ảnh hưởng đến
chất lượng giải quyết công việc của ngành kiểm sát Quảng Ninh đặt ra, nhưng
để giải quyết vụ án, khách quan, toàn diện, đúng pháp luật thì việc trả hồ sơ
điều tra bổ sung là biện pháp tố tụng cần thiết, VKS Quảng Ninh không phải
vì chỉ tiêu, chạy theo thành tích mà không thực hiện đúng chức năng THQCT
trong việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, để tránh trường hợp oan sai, lọt người,
lọt tội xảy ra. Trong quá trình THQCT các tội giết người, lý do trả hồ sơ
điều tra bổ sung chủ yếu là bổ sung tình tiết và một số lý do mang tích chất
khách quan, không có trường hợp nào vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
hay thiếu chứng cứ nghiêm trọng.
* Ban hành cáo trạng truy tố bị can về các tội giết người
Từ năm 2014-2018 VKS hai cấp của tỉnh Quảng Ninh đã ban hành 91
bản cáo trạng truy tố 128 bị can ra trước Tòa án để xét xử về các tội giết
người. Qua xem xét các bản cáo trạng cơ bản đều đảm bảo cả về mặt nội
dung và hình thức, truy tố đúng người, đúng tội, đúng điểm khoản, điều luật
áp dụng truy tố đối với bị can. Tuy nhiên vẫn còn có một số bản cáo trạng
truy tố điểm khoản về các tội giết người nhưng khi xét xử Tòa án không áp
dụng, như VKS truy tố bị can phạm tội có tính chất côn đồ nhưng Tòa án
không chấp nhận.
* Ra quyết định đình chỉ vụ án, bị can giai đoạn truy tố về các tội giết người
Trong giai đoạn truy tố về các tội giết người nếu xét thấy có căn cứ để
đình chỉ điều tra vụ án, bị can thì VKS ra quyết định đình chỉ đối với vụ án,
bị can đó. Việc ra quyết định này phải được VKS hai cấp ở Quảng Ninh xem
xét kỹ, đầy đủ, toàn diện các căn cứ pháp luật để phải kịp thời ra quyết định
50
thể hiện tính nghiêm minh đồng thời thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của
pháp luật. Từ năm 2014 -2018, VKSND hai cấp ra quyết định đình chỉ điều
tra vụ án, bị can đối với 05 vụ/05 bị can về các tội giết người.
2.2.2.4. Trong giai đoạn xét xử về các tội giết người
Trong giai đoạn xét xử vụ án về các tội giết người, VKS THQCT chủ
yếu thông qua các hoạt động công bố cáo trạng buộc tội các bị cáo tại phiên
tòa, xét hỏi, luận tội, tranh luận. Ngoài ra còn có thể rút quyết định truy tố nếu
xét thấy việc truy tố bị can là không có căn cứ. Hoạt động này trong thời gian
qua cơ bản là đảm bảo, KSV tham gia xét hỏi đối trong các vụ án xét xở về
các tội giết người ngày càng mang tính chủ động, tích cực. KSV hỏi để làm tõ
những tình tiết, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đảm bảo tính hợp pháp về
mặt nội dung cũng như mặt hình thức để bảo vệ quan điểm đã truy tố nêu
trong bản cáo trạng, đồng hỏi về những tình tiết khác liên quan đến vụ án để
KSV có cơ sở bổ sung, đề xuất trong phần luận tội. Ngành kiểm sát Quảng
Ninh chú trọng hoạt động xét hỏi của KSV tại phiên tòa, cùng như phần tranh
luận, xét hỏi cùng là một hoạt động THQCT nâng cao vai trò của VKS tại
phiên tòa. Các KSV hai cấp của Quảng Ninh khi tham gia xét hỏi đối với các
vụ án về các tội giết người đều bình tĩnh, không căng thẳng khi xét hỏi, không
hoàn toàn phụ thuộc vào đề cương xét hỏi đã chuẩn bị từ trước, nhanh nhạy
đưa ra các câu hỏi phù hợp với tình hình thực tiễn tại phiên tòa.
Ngoài ra một trong những hoạt động THQCT trong giai đoạn xét xử
các tội giết người đó là thực hiện việc luận tội đối với bị cáo. Thông qua luận
tội tại phiên tòa, KSV chứng minh tội phạm cũng như tuyên truyền, giáo dục
pháp luật góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật. Luận
tội trong các vụ án về các tội giết người tại tỉnh Quảng Ninh cơ bản đảm bảo
tính nghiêm minh, đúng pháp luật đề xuất mức hình phạt cũng như các phần
khác cần xử lý đối với vụ án đều được Hội đồng xét xử chấp thuận.
51
Nhận thức của KSV hai cấp VKS Quảng Ninh đối với việc tranh tụng,
đối đáp ngày càng được nâng lên. Bình tĩnh, linh hoạt, ngôn ngữ khi sử dụng
đối đáp dễ hiểu chính xác, đi thẳng vào trọng tâm cần đối đáp, những căn cứ
đưa ra có tính thuyết phục cao để chứng minh việc luận tội của VKS là đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật và mang tính nhân văn. Đặc biệt trong những
phiên tòa xét xử những vụ án giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng hay giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi
trái pháp luật của nạn nhân gây ra, KSV đã tập trung tranh luận trọng tâm
trọng điểm vào những yếu tố cấu thành tội phạm để bảo vệ quan điểm truy tố
của VKS.
Hoạt động xem xét kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục
phúc thẩm được tăng cường và chú trọng. Trong các năm từ 2014-2018, VKS có
06 kháng nghị đối với các vụ án về các tội giết người. Điển hình là vụ án:
Khoảng 11 giờ ngày 07/11/2016, tại khu Mai Hòa, phường Đông Mai,
thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, các ông Phạm Thái Hưng cảnh sát khu
vực cùng các ông Nguyễn Hữu Hồng - Trưởng khu, Dương Văn Long - Tổ
trưởng tổ bảo vệ dân phố đến nhà Vũ Quốc Đạt để giải quyết việc mâu thuẫn
xô sát của vợ chồng Đạt thì Đạt có hành vi chống đối, không chấp hành và
Đạt đã dùng 01 chiếc rìu sắt chém nhiều nhát vào đầu, cổ của các ông Hưng,
Long, Hồng làm ông Hưng bị tổn hại 72%, ông Hồng tổn hại 17% và ông
Long tổn hại 18% sức khỏe. VKS tỉnh Quảng Ninh truy tố Đạt về tội giết
người theo quy định tại điểm a,d,n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999. Tòa án
cấp sơ thẩm lại áp dụng khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999 xử phạt Đạt 13
năm tù về tội Cố ý gây thương tích. VKS tỉnh Quảng Ninh đã kháng nghị bản
án sơ thẩm. Ngày 23/01/2018, Tòa án cấp phúc thẩm xử chấp nhận kháng
nghị của VKS Quảng Ninh xử phạt Đạt 15 năm tù về tội Giết người theo quy
định tại các điểm a,d,n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999. (Nguồn Hồ sơ
KSĐT - VKSND tỉnh Quảng Ninh).
52
2.3.3. Những vi phạm, sai lầm trong thực hành quyền công tố đối với
các tội giết người tại tỉnh Quảng Ninh và nguyên nhân
2.3.3.1. Những vi phạm, sai lầm
Hoạt động THQCT trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và xem xét phê chuẩn các lệnh, quyết định còn xảy ra trường hợp bắt,
tạm giữ nhưng chưa có căn cứ để xử lý hình sự dẫn đến phải trả tự do, cụ thể là
trường hợp Nguyễn Văn Khánh bị bắt khẩn cấp sau đó bị tạm giữ về hành vi
cùng đồng phạm giết người. Nhưng trong thời gian tạm giữ 09 ngày, Cơ quan
điều tra và VKS chưa làm rõ được Khánh có đồng phạm về hành vi giết người
nên chưa đủ căn cứ khởi tố bị can để điều tra, nên phải trả tự do cho Khánh.
Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố một số vụ án chưa nâng cao trách
nhiệm chưa gắn công tố với điều tra nên còn để xảy ra việc trả hồ sơ điều tra
bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Điển hình là vụ án Lê Văn Dũng
bị khởi tố về tội Giết người và Cướp tài sản theo quy định tại Điều 93, 133
BLHS năm 1999. Theo hồ sơ thì ngày 25/9/2014, Dũng có hành vi dùng dao
đe dọa chị Phạm Thị Hiền để lấy tài sản, khi bị chị Hiền chống cự thì Dũng
dùng dao đâm chị Hiền làm chị Hiền bị chết tại chỗ. Quá trình điều tra, do
Điều tra viên và Kiểm sát viên quá trình khám nghiệm tử thi đối với chị Hiền
chưa kỹ về dấu vết của vết thương có phải do con dao của Dũng đâm hay
không nên khi kết thúc điều tra để truy tố thì VKS phải trả lại hồ sơ cho Cơ
quan điều tra để điều tra bổ sung về khai quật tử thi để điều tra làm rõ xử lý.
(Nguồn Hồ sơ KSĐT - VKSND tỉnh Quảng Ninh).
Quyết định truy tố bằng bản cáo trạng vẫn có vụ mặc dù tội danh truy
tố đối với bị can là đảm bảo nhưng điểm khoản để áp dụng khi truy tố đối với
bị can chưa chính xác dẫn đến Tòa án tuyên án áp dụng điểm khác trong cùng
một điều luật truy tố.
Hoạt động kháng nghị được quan tâm nhưng vẫn còn có vụ án VKS
cùng cấp không phát hiện để kháng nghị về các tội giết người bị cấp phúc
53
thẩm hủy, sửa để điều tra xét xử lại, cụ thể: Ngày 13/9/2018, Dương Văn
Soạn có hành vi lấy 01 quả mìn châm cháy rồi ném vào phía trước tàu, trong
khi Soạn biết rõ trên tàu có 03 người, làm khi mìn nổ thì tàu bị chìm ngay, 03
người trên tàu lấy được phao bơi được vào bờ. Trong quá trình xét xử sơ thẩm
các cơ quan tiến hành tố tụng xác định sai tội danh xét xử sơ thẩm về tội Cố ý
làm hư hỏng tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 178 BLHS năm 2015.
Qua nghiên cứu VKS cấp tỉnh đã kháng nghị theo hướng hủy án sơ thẩm để
điều tra lại đối với Soạn về tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS
năm 2015. (Nguồn Hồ sơ KSĐT - VKSND tỉnh Quảng Ninh).
2.3.3.2. Những nguyên nhân của vi phạm, sai lầm
* Về nguyên nhân khách quan
Nhận thức và áp dụng các quy định về pháp luật hiện hành của những
người tiến hành tố tụng vẫn chưa được đồng bộ nhất là trong việc định tội
danh đối với các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe như: hành vi giết
người, cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, giết người do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnhlàm ảnh hưởng nhiều đến việc phê chuẩn các quyết định tố tụng cũng
như xác định điểm khoản điều luật để điều tra, truy tố bị can và quyết định
hình phạt trong quá trình xét xử.
* Về nguyên nhân chủ quan
- Các vụ án về các tội giết người đa số đều là hành vi phạm tội giết
người nên thẩm quyền giải quyết thuộc về cấp tỉnh. Nên trước hết xem xét về
lực lựơng cán bộ để thực hiện giải quyết các vụ án giết người nói riêng này
còn chưa nhiều. Thực tế Phòng 2 - VKSND tỉnh Quảng Ninh khối lượng công
việc nhiều (tổng số án thụ lý KSĐT trung bình là trên 60 vụ/ năm) nhưng chỉ
có 3 KSV trung cấp và 2 KSV sơ cấp và 1 chuyên viên, trong đó có 3 lãnh
đạo, tình trạng KSV kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ ngoài ra còn thực hiện công
tác theo dõi án cấp huyện, dẫn đến chất lượng công việc chưa cao. Mặt khác,
54
còn xảy ra trường hợp lãnh đạo VKS nghe báo cáo án không kỹ, không sâu,
không tỷ mỉ, thiếu thận trọng trong việc xem xét các chứng cứ buộc tội, gỡ
tội, có tâm lý thỏa mãn với CQĐT và báo cáo của KSV dẫn đến thiếu sót.
- Công tác chủ động phối hợp giữa CQĐT và VKS trong hoạt động
THQCT có những thời điểm, ở một số đơn vị hiệu quả chưa cao, làm giảm
hiệu lực hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Một số VKSND cấp
huyện thiếu chủ động trong việc chủ trì phối hợp giữa các cơ quan tiến hành
tố tụng, còn cứng nhắc, máy móc trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ,
vẫn còn tồn tại tình trạng "quyền anh, quyền tôi" nên trong xử lý vụ án thiếu
linh hoạt, làm chậm tiến độ điều tra, gây khó khăn cho hoạt động điều tra
cũng như công tố. Ngược lại, một số đơn vị lại thiên về phối hợp mà thiếu
kiên quyết trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp
luật hoặc nể nang, né tránh ngại va chạm, VKS phát hiện vi phạm, thiếu sót
của CQĐT nhưng không kiên quyết sử dụng quyền công tố của mình để hủy
bỏ các quyết định chưa đủ căn cứ, trái pháp luật của CQĐT, không ban hành
kiến nghị, yêu cầu CQĐT chấm dứt vi phạm, dẫn đến việc xử lý vụ án thiếu
khách quan, không đầy đủ, vi phạm pháp luật. Đây là một trong những
nguyên nhân làm hạn chế chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra đối với
các vụ án giết người ở tỉnh Nam Định.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp. Việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, KSV còn nặng nề về lý luận, chưa chú ý rèn luyện kỹ năng
THQCT và Kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án hình sự nói chung,
các vụ án về tội giết người nói riêng, thiếu kiến thức chuyên ngành khác nhất
là các tri thức điều tra tội phạm.
- Năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số KSV vẫn còn
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa nắm vững các quy định pháp luật
55
hình sự và tố tụng hình sự, còn lúng túng trong thao tác nghiệp vụ. Nhiều
trường hợp không xác định đúng đặc trưng của tội phạm, các yếu tố cấu thành
tội phạm để đánh giá hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng vi phạm có đủ
yếu tố cấu thành tội phạm hay không. Việc đánh giá chứng cứ còn phiến diện,
chỉ quan tâm điều tra các chứng cứ buộc tội, không xem xét đánh giá toàn
diện, đầy đủ các tình tiết vụ án. Do đó không đánh giá đúng bản chất của vụ
việc, không phát hiện được những mâu thuẫn giữa các chứng cứ đã thu thập
để có biện pháp khắc phục. Nhiều KSV chưa tự học hỏi, nghiên cứu đầy đủ,
thấu đáo các quy định của pháp luật cũng như quy chế nghiệp vụ ngành, nhiều
việc còn làm theo thói quen hoặc học theo kinh nghiệm của những người
trước đó mà không cập nhập các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn mới
để kịp thời thực hiện.
- Một số KSV được phân công THQCT đối với các vụ án về các tội
giết người, quá trình thực hiện nhiệm vụ có biểu hiện làm cho qua, có khi chỉ
tiến hành xong các thủ tục ban đầu như phê chuẩn khởi tố bị can, phê chuẩn
lệnh tạm giam...sau đó gần như mặc cho điều tra viên tiến hành điều tra, mọi
diễn biến liên quan đến việc giải quyết vụ án của điều tra viên hoặc cơ quan
điều tra gần như không quan tâm, buông lỏng, không nắm chắc quá trình, tiến
độ điều tra; hoặc chưa có sự chủ động để vạch ra hướng điều tra, yêu cầu Cơ
quan điều tra thực hiện với mục tiêu điều tra vụ án một cách nhanh chóng, kịp
thời, đúng pháp luật; còn thụ động chờ án. Khi vụ án được cơ quan điều tra
kết thúc điều tra, chuyển đến VKS đề nghị truy tố thì KSV mới nghiên cứu hồ
sơ. Do đó, chất lượng THQCT các vụ án hình sự nói chung, đối với các vụ án
về các tội giết người nói riêng còn chưa cao, dẫn đến vẫn còn có vụ án bị Tòa
án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
56
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 của luận văn này tác giả sử dụng phương pháp tổng
hợp, phân tích thống kê, so sánh làm rõ thực trạng THQCT đối với các tội giết
người của VKSND tỉnh Quảng Ninh trong 5 năm (từ năm 2014 - 2018), qua
đó thấy rõ kết quả đạt được trong hoạt động này với nhiều chuyển biến tích
cực, góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích
hợp pháp khác của các tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp của nhà nước ta đặt ra thì
hoạt động THQCT đối với các tội giết người trong những năm qua còn có
một số những tồn tại, hạn chế yếu kém nhất định, chưa đáp ứng được công
cuộc cải cách tư pháp như mong muốn. Những thiếu sót hạn chế đó xuất phát
từ nguyên nhân chủ quan có và nguyên nhân khách quan cũng có. Thông qua
những thiếu sót, tồn tại này chúng ta thấy cần phải có những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả cho công tác THQCT đối với các tội giết người
của VKSND tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tiếp theo.
57
Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI
3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối
với các tội giết người
3.1.1. Yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
được quy định tại Điều 7 BLTTHS năm 2015 thể hiện định hướng tổ chức,
hoạt động tố tụng đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nguyên tắc này
đòi hỏi phải thực hiện các bảo đảm để tăng cường pháp chế khi tiến hành các
hoạt động tố tụng hướng tới mục đích xác định sự thật khách quan vụ án; tôn
trọng, bảo vệ quyền con người; bảo vệ trật tự pháp luật; bảo vệ quyền lợi ích
của thể nhân, pháp nhân, nhà nước và xã hội.
3.1.2. Yêu cầu của cải cách tư pháp
Pháp luật hình sự của nước ta hiện nay về cơ bản đã thể chế hóa chủ
trương cải cách tư pháp của Đảng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật
về tố tụng hình sự, về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong
đó có VKSND chưa thể hiện đầy đủ chủ trương của Đảng về cải cách tư
pháp, đã gây không ít khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan tố tụng trong
hoạt động áp dụng pháp luật. Do đó, hoạt động THQCT đối với các vụ án
về các tội giết người của VKSND tỉnh Quảng Ninh phải quán triệt sâu sắc
chính sách hình sự và chủ trương cải cách tư pháp của Đảng: Đối với các
quy định của pháp luật hiện hành đã cơ bản phù hợp với chủ trương cải
cách tư pháp, các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng có trách
nhiệm tuân thủ chặt chẽ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật có hiệu lực trên
thực tế và phát huy vai trò trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung và các tội giết người nói riêng; đối với các quy định chưa phù hợp
hoặc chưa thể chế hóa đầy đủ các yêu cầu cải cách tư pháp của Đảng thì
58
trách nhiệm của VKSND tỉnh Quảng Ninh và trực tiếp là các KSV phải vận
dụng một cách linh hoạt, kiên quyết loại bỏ tư duy cứng nhắc trong
THQCT làm ảnh hưởng xấu tới quyền và lợi ích hợp pháp của bị can cũng
như người tham gia tố tụng khác. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp như
giảm thiểu oan, sai và tránh bỏ loạt tội phạm, hoạt động công tố trước hết phải
quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về “tăng cường trách nhiệm công tố
phải triển khai thực hiện nghiêm túc Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức
VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015, trong đó, chú trọng thực hiện có
hiệu quả một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp là nâng
cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa.
3.1.3. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội, xác định sự thật
khách quan của vụ án
Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định trong Hiến pháp năm 2013:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”. Đó chính là nội dung đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng:
Nguyên tắc suy đoán vô tội. Để thi hành Hiến pháp, bảo đảm sự phù hợp của
pháp luật tố tụng hình sự với Hiến pháp, Điều 13 BLTTHS năm 2015 đã quy
định một nguyên tắc hoàn toàn mới của tố tụng hình sự Việt Nam, đó là
“nguyên tắc suy đoán vô tội” với nội dung: “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…”
Vì vậy, khi tiến hành THQCT đối với vụ án về các tội giết người thì
VKSND hai cấp của tỉnh Quảng Ninh phải luôn luôn đảm bảo nguyên tắc này
xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án.
3.1.4. Yêu cầu bảo hộ tính mạng và các quyền khác của công dân
Mục tiêu quan trọng của Hiến pháp 2013 là tiếp tục phát huy dân chủ,
bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Quyền con
59
người trong tố tụng hình sự rất dễ bị xâm phạm, bị tổn thương và hậu quả để
lại vô cùng nghiệm trọng vì nó tác động trực tiếp đến quyền tự to và sinh
mệnh chính trị của một cá nhân, đặc biệt là đối với người bị buộc tội giết
người với mức hình phạt cao nhất tử hình, nó ảnh hưởng đến quyền được
sống của họ. Vì vậy, hoạt động THQCT đối với tội giết người, ngoài nội dung
buộc tội, cũng phải hướng tới việc phát hiện và ngăn chặn hành vi xâm phạm
quyền con người. Trong quá trình thực hiện chức năng THQCT đối với tội
giết người, nếu thấy quyết định khởi tố, quyết định áp dụng biện pháp ngăn
chặn của CQĐT không có căn cứ hoặt trái pháp luật, VKS có quyền không
phê chuẩn hoặc hủy bỏ, nếu xác định hoạt động xét xử hoặc ban hành bản án,
quyết định trái pháp luật, xâm phạm đến quyền cơ bản của bị can, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác, VKS có quyền kiến nghị, kháng nghị
theo thẩm quyền.
3.1.5. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
Trong những năm qua, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh diễn biến hết sức phức tạp, đặc biệt là các tội phạm liên quan đến giết
người với tính chất, mức độ, thủ đoạn và cách thức nguy hiểm làm ảnh
hưởng đến trật tự xã hội tại địa phương. Với điều kiện tình hình nêu trên, để
góp phần hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm, VKS phải không ngừng
nâng cao chất lượng hoạt động THQCT, với tinh thần không để xảy ra oan,
sai nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Ngoài ra, thông qua
hoạt động THQCT, VKS có trách nhiệm làm rõ nguyên nhân và điều kiện
phạm tội để kiến nghị áp dụng các biện pháp phòng ngừa qua từng vụ án, đây
cũng là một trong những nhiệm vụ VKS trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố về
các tội giết người
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện và hướng dẫn thi hành pháp luật
Qua hơn bốn mươi năm đổi mới, xây dựng đất nước; công tác xây dựng
60
và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có nhiều tiến bộ rõ rệt; góp phần tích cực
vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân; góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm.Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu đòi hỏi của thực tế, tình hình vi phạm và
tội phạm đang diễn ra hết sức phức tạp, công tác hoàn thiện pháp luật cần phải
được nâng lên ngang tầm.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THQCT các vụ án về các tội
giết người thì việc áp dụng pháp luật, tuân thủ các qui định của BLTTHS và
BLHS hiện hành có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Qua hoạt động áp dụng pháp
luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và hoạt động THQCT các vụ
án về các tội giết người của VKSND tỉnh Quảng Ninh nói riêng đã thấy rõ
nhiều điểm bất cập của BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các qui
định cho phù hợp, nhằm bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả bộ luật này
trên thực tế, cụ thể là:
* Đối với BLHS năm 2015:
Qua nghiên cứu các vụ án về các tội giết người trong thời gian qua
nhận thấy các cơ quan tiến hành tố tụng thường nhầm lẫn việc định tội danh
giữa các tội giết người với nhau hoặc tội giết người với tội cố ý gây thương
tích (Điều 134 BLHS), cùng một hành vi, tính chất, hậu quả tương tự nhau, có
nơi định tội giết người, có nơi định tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả
chết người; ngoài ra trong quá trình áp dụng trong vụ án cụ thể chưa có sự
thống nhất trong nhận định bị can, bị cáo phạm tội tình tiết “phạm tội có tính
chất côn đồ” hay không. Hiện đã có nhiều văn bản của ngành Tòa án, VKS
hướng dẫn, nhưng còn chưa xác định các đặc trưng cơ bản để phân biệt ranh
giới giữa tội giết người với tội cố ý gây thương tích và các tội phạm khác có
dấu hiệu tương tự. Từ thực tiễn công tác, theo tác giả luận văn khi nghiên cứu
hướng dẫn xử lý đối với tội phạm giết người cần định hướng như sau:
61
- Hướng dẫn định tội danh giết người theo hướng kết hợp đánh giá
giữa ý thức chủ quan, hành vi khách quan và hậu quả pháp lý, cụ thể:
+ Hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác bằng bất kỳ hình
thức nào nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm Điều 123 BLHS dù hậu quả chết
người có xảy ra hay không đều định tội danh giết người.
+ Hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu
trên cơ thể (đầu, cổ, ngực, bụng) dẫn đến hậu quả chết người thì mọi trường
hợp phải định tội danh giết người (không cần xác định ý thức người phạm tội
có mục đích giết người không, bởi lẽ người phạm tội phải nhận thức việc này
sẽ dẫn đến hậu quả chết người nhưng vẫn thực hiện). Trường hợp này xảy ra
nhiều trong thực tế. Ví dụ: Một người sử dụng dao đâm chỉ 01 nhát vào vùng
ngực làm nạn nhân tử vong.
Quá trình điều tra, bị can khai không có ý thức giết chết nạn nhân,
nhưng vẫn phải định tội danh giết người. Chỉ định tội danh Cố ý gây thương
tích (dẫn đến chết người) khi tấn công vào các vùng không trọng yếu (tay,
chân) dẫn đến hậu quả chết người do mất máu cấp, không cấp cứu kịp thời...
+ Hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm, ,tấn công vào các các vùng
trọng yếu trên cơ thể con người với cường độ không mạnh (như đâm, chém
chỉ 01 cái) với lỗi cố ý gián tiếp (không nhằm mục đích tước bỏ tính mạng
người khác - bỏ mặc hậu quả xảy ra), thì hậu quả đến đâu xử lý đến đó. Nếu
hậu quả chết người xảy ra thì định tội Giết người, nếu hậu quả chết người
không xảy ra (chỉ gây thương tích) thì xử lý về tội cố ý gây thương tích.
+ Hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm, tấn công vào các vùng trọng
yếu trên cơ thể con người với cường độ mạnh (như đâm, chém nhiều cái) nếu
nạn nhân không chết thì cũng phải xử lý tội giết người.
- Hướng dẫn áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất côn đồ”
Theo tinh thần hướng dẫn tại Công văn số 38/NCPL ngày 6/01/1976
và tại Hội nghị tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1995, TAND Tối cao đã
62
giải thích về tình tiết “có tính chất côn đồ” như sau: Khái niệm côn đồ được
hiểu là hành động của những tên coi thường pháp luật, luôn luôn phá rối trật
tự trị an, sẵn sàng dùng vũ lực và thích (hay) dùng vũ lực để uy hiếp người
khác phải khuất phục mình, vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm
chém, thậm chí giết người. Hành động của chúng thường là xâm phạm sức
khỏe, tính mạng, danh dự người khác, gây gổ hành hung người khác một cách
vô cớ hoặc một vì một duyên cớ nhỏ nhặt...
Đánh giá thế nào là “duyên cớ nhỏ nhặt” trong vụ việc cụ thể để xem
xét hành vi của người phạm tội có tính chất côn đồ hay không thì chưa có
cách hiểu thống nhất, đặc biệt là trong trường hợp người bị hại có lỗi là
nguyên nhân dẫn đến bị can thực hiện việc phạm tội. Từ thực tiễn áp dụng
pháp luật, đề nghị nghiên cứu hướng dẫn tình tiết phạm tội “có tính chất côn
đồ” trong trường hợp này, ngoài việc đánh giá đặc điểm nhân thân người
phạm tội, cũng cần căn cứ vào hành vi khách quan và lỗi của người bị hại để
đánh giá cho chính xác, theo hướng sau:
+ Nếu người bị hại không có hành vi đánh bị can trước, chỉ có lời nói
cự cãi, dẫn đến mâu thuẫn nhưng bị can đâm, đánh chết người bị hại, thì đây
là phạm tội có tính chất côn đồ.
+ Trường hợp người bị hại tấn công người có hành vi giết người trước:
Thì cần xác định tính chất mức độ của sự tấn công, tỷ lệ thương tật gây ra
(nếu có), để làm căn cứ xác định hành vi người phạm tội trong trường hợp
này có tính chất côn đồ không. Nếu người bị hại tấn công có cường độ tương
đối lớn, gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe người phạm tội, hoặc mặc dù
không gây tổn thương nhưng là nguyên nhân dẫn đến việc bị can bị ức chế
tâm lý, phản kháng giết chết nạn nhân, thì trường hợp này không phạm tội có
tính chất côn đồ.
+ Đối với những vụ việc mâu thuẫn xảy ra trước đó như cãi vã, đánh
nhau nhưng đã chấm dứt (Về không gian và thời gian) hoặc đã được giải
63
quyết xong nhưng sau đó người phạm tội tiếp tục lấy hung khí tìm để đánh,
đâm chết người thì phải xác định hành vi phạm tội có tính chất côn đồ.
+ Tất cả các trường hợp có sự chuẩn bị hung khi đánh, đâm chém nhau
dẫn đến hậu quả chết người đều phải được định tội danh là phạm tội có tính
chất côn đồ, kể cả trường hợp người phạm tội cũng bị nạn nhân đâm, chém lại
bị thướng. Thực tế này xảy ra các băng nhóm thanh toán nhau.
* Đối với BLTTHS năm 2015:
- Trong việc giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố:
Hoạt động tiếp nhận, quản lý, xử lý các tố giác, tin báo tội phạm và
kiến nghị khởi tố có vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Đây là các đầu mối, căn cứ đầu tiên để cơ quan điều tra tiến hành
thẩm tra, xác minh, từ đó xác định có hay không ban hành quyết định khởi tố
vụ án hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm có lúc chưa được quan tâm đúng mức, nhiều tin báo
không được tiếp nhận kịp thời, ảnh hưởng đến công tác phòng, chống tội
phạm trên địa bàn. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng kiểm sát
việc tiếp nhận, quản lý, xử lý các tin báo, tố giác tội phạm. Viện KSND tỉnh
cũng thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề nâng cao nghiệp vụ
cho đội ngũ KSV làm nhiệm vụ; chỉ đạo các phòng nghiệp vụ Viện KSND
tỉnh và Viện KSND các huyện, thành phố xây dựng kế hoạch, thực hiện tốt
các biện pháp trong xử lý tin báo, tố giác tội phạm như mở sổ theo dõi, cập
nhật kết quả xử lý tin báo của cơ quan điều tra. Viện kiểm sát 2 cấp còn đẩy
mạnh việc phối hợp với cơ quan điều tra cùng cấp kiểm sát việc tiếp nhận và
phân loại tố giác, tin báo định kỳ hằng ngày đối với cấp huyện và hằng tuần
đối với cấp tỉnh. Trong quá trình thực hiện, Viện KSND 2 cấp đã tiến hành
nắm tình hình tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố thông qua việc
đối chiếu, rà soát những số liệu do CQĐT thụ lý; qua đó yêu cầu CQĐT tiến
64
hành xác minh tin báo, tố giác tội phạm nhằm bảo đảm đúng thời hạn giải
quyết theo quy định. Với nhiều biện pháp tích cực đồng bộ, chất lượng kiểm
sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố đã đi vào nền
nếp, góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, khắc
phục việc bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, nêu cao vai trò của
Viện KSND trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo công
bằng xã hội.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTHS quy định về
các hoạt động xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố:
“Khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan
có thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động:
a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin;
b) Khám nghiệm hiện trường;
c) Khám nghiệm tử thi;
d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản.”
Mà theo nguyên tắc bảo đảm pháp chế, quy định tại Điều 7 BLTTHS:
Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật
này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. Như
vậy, hì khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền chỉ
được quyền tiến hành 5 hoạt động cụ thể quy định từ điểm a đến điểm d
khoản 3 Điều 147 BLTTHS như nêu ở trên.
Tuy nhiên, để giải quyết nếu chỉ áp dụng các biện pháp xác minh quy
định tại khoản 3 Điều 147 BLTTHS, thì trong một số trường hợp cụ thể sẽ
không xác định được vụ việc có dấu hiệu tội phạm hay không để ban hành
65
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án. Ngoài ra, quy định tại Điều 147
BLTTHS cũng mâu thuẫn với các điều luật khác, cụ thể:
+ Tại điểm b khoản 1 Điều 110 BLTTHS quy định căn cứ bắt người
trong trường hợp khẩn cấp: “Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc
người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là
người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó
trốn;”
Để có chứng cứ xác định người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra
tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội
phạm thì phải cho bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm nhận dạng
người bị nghi thực hiện tội phạm. Nhưng đối chiếu với quy định tại Điều 147
BLTTHS thì không có biện pháp nhận dạng.
+ Điều 83 BLTTHS quy định về quyền của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố như sau:
“3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố có quyền:
…d) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố
giác, người bị kiến nghị khởi tố;”
Điều 191 BLTTHS quy định về biện pháp nhận biết giọng nói
“1. Khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng
hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói.”
Căn cứ vào Điều 83 và 191 BLTTHS nêu trên thì có thể hiểu cơ quan
có thẩm quyền có thể tiến hành hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết
giọng nói trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nhưng điều
này lại mâu thuẫn với quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTHS.
Để thống nhất nhận thức khi áp dụng pháp luật, nên cần phải có văn
bản hướng dẫn về các biện pháp xác minh được áp dụng trong giai đoạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm nêu trên.
66
- Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 119 và khoản 2, khoản 3 Điều
419 BLTTHS năm 2015 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu phạm tội
kể cả trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng (giết người), thì phải áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác trước (điểm a khoản 2 Điều 119) nếu vi phạm
thì mới áp dụng biện pháp tạm giam, điều này hoàn toàn không phù hợp thực
tế. Bởi lẽ, có nhiều trường hợp người chưa thành niên phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng (giết người hoặc giết nhiều người) nhưng ban đầu phải áp dụng
biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, cho gia đình bảo lĩnh (không tạm giam) thì
rất nguy hiểm, tạo sự phản ứng dư luận và gia đình người bị hại; nhất là trong
điều kiện tình hình tội phạm ngày càng trẻ hóa.
- Hướng dẫn điểm a khoản 3 Điều 153 BLTTHS năm 2015 (VKS khởi tố
vụ án hình sự) theo hướng: Trong trường hợp VKS phát hiện quyết định không
khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan có thẩm quyền điều tra không có căn cứ, thì
VKS chỉ cần hủy bỏ quyết định nêu trên, khi nào có căn cứ khởi tố vụ án hình sự
thì mới ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Để tháo gỡ khó khăn vướng mắc thực
tế: có trường hợp mặc dù VKS phát hiện quyết định không khởi tố vụ án không có
căn cứ, nhưng cũng chưa đủ căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
- Theo khoản 3 Điều 298 BLTTHS năm 2015: Trường hợp xét xử bị
cáo về tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện
kiểm tra truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của
bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì
Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó. Việc Tòa án có quyền
xứt xử bị cáo có tội danh nặng hơn tội danh VKS truy tố là chưa phù hợp với
lý luận về chức năng tố tụng. Trong trường hợp VKS cấp huyện truy tố bị can
phạm tội Cố ý gây thương tích (dẫn đến chết người) và giữ nguyên quyết định
truy tố, nhưng Tòa án huyện cho rằng bị cáo phạm tội giết người thì giải
quyết thế nào, có ra quyết định chuyển vụ án hình sự về tỉnh xét xử hay
không, trong trường hợp này VKS cấp nào THQCT, việc xét xử bị cáo ở tội
67
danh nặng hơn nhưng quá trình điều tra, truy tố không có người bào chữa đảm
bảo quyền bào chữa bị can, bị cáo không? Đây là những nội dung cần hướng
đẫn kịp thời khi tổ chức thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
3.2.2. Tiếp tục cải cách về tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng
Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ của
Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư
pháp, tăng cường cán bộ có năng lực cho các đơn vị có vai trò và ý nghĩa quan
trọng. Việc cách cách và đổi mới công tác tổ chức cán bộ là một trong những
biện pháp đặc biệt quan trọng để Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thực hiện tốt
chức năng của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT, VKSND tỉnh
Quảng Ninh đó cần thực hiện:
Kiện toàn tổ chức và bộ máy làm việc của VKS hai cấp tỉnh và huyện
theo quy định tại BLTTHS để đảm bảo đủ về số lượng và đáp ứng yêu cầu về
chất lượng theo chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Phải bố trí KSV đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ trực tiếp làm
công tác THQCT và kiểm sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự, đặc biệt về
các tội phạm liên quan đến giết người.
- VKSND tỉnh Quảng Ninh cần rà soát xác định rõ nhu cầu về biên chế
và cơ cấu Kiểm sát viên của từng VKS cấp huyện, từng phòng nghiệp vụ cấp
tỉnh. Nhu cầu biên chế phải được xây dựng trên cơ sở khối lượng công việc (số
lượng án thụ lý và giải quyết hàng năm) và các điều kiện về tự nhiên, kinh tế,
chính trị, xã hội của từng đơn vị, đặc biệt ưu tiên các phòng nghiệp vụ trực tiếp
làm công tác THQCT và KSĐT án hình sự, các đơn vị cấp huyện nhiều án.
3.2.3. Nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng, cụ thể là Kiểm
sát viên
Năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức và kinh nghiệm của KSV có
nghĩa quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công việc bất cứ lĩnh vực
công tác nào. Vì thế cần phải:
68
Một là, Thực hiện tốt công tác bổ nhiệm, bố trí và sử dụng KSV
THQCT đối với tội giết người phù hợp, vì trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự về các tội giết người thường phải tiếp xúc với công tác khám nghiệm
tử thi, môi trường độc hại. Chính vì vậy, trong quá trình phân công nhiệm vụ
THQCT đối với các tội giết người, ngoài tuyển chọn những KSV có trình độ,
hiểu biết sâu về kiến thức pháp luật và kiến thức xã hội, có phẩm chất đạo đức
và bản lĩnh chính trị.
Hai là, Phát động và thực hiện có hiệu quả phong trào tự học, tự
nghiên cứu, tự rèn luyện của đội ngũ KSV, gắn với cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo đúng tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4, gắn với cuộc vận động xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm
sát viên đảm bảo đáp ứng yêu cầu về xây dựng đội ngũ KSV “vững về chính
trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương
và trách nhiệm”.
Ba là, thực hiện tốt công tác rèn luyện, phẩm chất đạo đức, lối sống,
trình độ, năng lực đội ngũ KSV.
Đội ngũ cán bộ, KSV là lực lượng nòng cốt của Ngành kiểm sát trong
quá trình thực hiện chức năng, nhiệm của Ngành, có vai trò quan trọng trong
công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong điều kiện tác động mạnh
mẽ của nền kinh tế thị trường, trước sự cám dỗ của đồng tiền và những lợi ích
vật chất, đã có một số cán bộ, KSV yếu kém về bản lĩnh chính trị và bản lĩnh
nghề nghiệp, dao động trước thử thách. Chính vì vậy, rèn luyện phẩm chất
đạo đức, lối sống là đòi hỏi có tính thường xuyên, liên tục đối với người cán
bộ Kiểm sát.
Bốn là, Tăng cường công tác tập huấn cho đội ngũ KSV THQCT đối
với các tội giết người.
BLTTHS có những quy định về trình tự tố tụng đối với vụ án hình sự.
Quy chế tạm thời về THQCT, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử vụ án hình sự
69
cũng xác định quy trình THQCT đối với vụ án hình sự nói chung. Tuy nhiên
đối với từng loại tội phạm có những đặc điểm riêng, vì vậy công tác tập huấn
và rút kinh nghiệm quá trình THQCT đối với từng tội danh là nhu cầu cần
thiết, trong đó có tội phạm giết người. Để thực hiện được mục tiêu này thì
ngoài việc tập huấn cho đội ngủ KSV giữ nhiệm vụ THQCT các kỹ năng
chung và cơ bản như: kiểm sát khám nghiệm hiện trường, tử thi, kiểm sát giải
quyết tin báo, tố giác tội phạm, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, tổng hợp chứng cứ,
kỹ năng viết và trình bày luận tội, thực hiện tranh tụng tại phiên tòa... thì hằng
năm, cần có chương trình tập huấn chuyên sâu về kỹ năng THQCT đối với
từng loại tội phạm.
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
Mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đều có quyền năng pháp lý được quy
định trong pháp luật tố tụng hiện hành. Qua thực tế do nhiều lý do khách quan
khác nhau vẫn còn có trường hợp nhận thức, đánh giá về vụ án chưa được
thống nhất, còn diễn ra tình trạng "Quyền anh, quyền tôi" trong quá trình giải
quyết các vụ án giết người. Do vậy, việc tăng cường mối quan hệ phối hợp
giữa Cơ quan điều tra, VKS và Tòa án trong hoạt động điều tra, xét xử các vụ
án về các tội giết người là cần thiết để cho công tác phối hợp đạt kết quả tốt
góp phần có hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, nhất
là các tội phạm giết người nói riêng.
Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra phải nhận thức và thực hiện nghiêm
túc các qui định trong BLTTHS và Thông tư 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-
BQP ngày 19/10/2018 về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS
trong việc thực hiện một số qui định của BLTTHS năm 2015 cũng như Qui
chế phối hợp trong công tác giữa ba ngành Công an-VKS-Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh trong đấu tranh phòng chống tội phạm và trong điều tra, truy
tố và xét xử các vụ án hình sự.
Tăng cường mối quan hệ trên nguyên tắc phối hợp và chế ước từ cơ sở
70
tôn trọng chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành theo qui định của pháp luật.
Trong quan hệ này cần chú ý khắc phục hai thái cực, hoặc là quá nhấn mạnh
quan hệ phối hợp mà hạn chế tính chế ước, độc lập trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mỗi ngành hoặc không chú trọng quan hệ phối hợp, nhấn
mạnh quyền năng pháp lý của mỗi ngành.
Lãnh đạo hai ngành (VKS và Công an), cần có sự trao đổi, quan tâm cử
những Điều tra viên, KSV có năng lực, có kinh nghiệm và có trách nhiệm cao
để tiến hành tố tụng. Lãnh đạo VKS và lãnh đạo cơ quan điều tra cần tham gia
chỉ đạo trực tiếp các hoạt động điều tra. Việc chỉ đọc hồ sơ hoặc nghe báo cáo
sẽ rất khó khăn cho việc ra các quyết định, chỉ đạo điều tra. Lãnh đạo VKS
phải chỉ đạo trực tiếp mới có đủ niềm tin khi đánh giá chứng cứ, khi nhận
định đối tượng gây án.
Trong nhiều vụ án liên quan đến hành vi giết người, trong những thời
điểm khó khăn, khi lãnh đạo cơ quan điều tra còn đắn đo, do dự trong việc áp
dụng biện pháp điều tra, biện pháp ngăn chặn thì việc phối hợp của lãnh đạo
VKS là rất cần thiết. Với năng lực phân tích, đánh giá chứng cứ, bản lĩnh
nghề nghiệp, niềm tin nội tâm, lãnh đạo VKS cần quyết định để cho cơ quan
điều tra thực hiện một số biện pháp nghiệp vụ cần thiết để hoạt động điều tra
có hiệu quả. Từ đó uy tín VKS được nâng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho mối
quan hệ trong việc giải quyết các vụ án khác.
3.2.5. Tăng cường sự nhận thức của cán bộ chính quyền và nhân dân
Tăng cường sự nhận thức của cán bộ chính quyền địa phương từ đó
nâng cao sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự giám sát của Hội đồng nhân dân
địa phương và mối quan hệ giữa các cơ quan có liên quan.
Trước hết, cần nhận thức rõ về nội dung phương thức lãnh đạo, ý nghĩa
của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với ngành VKSND tại
địa phương và VKSND tỉnh Quảng Ninh.
71
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
cho người dân sinh sống trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Tiếp tục tham mưu
cho cấp ủy, chính quyền và phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quần chúng
triển khai các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật để mọi người dân
biết và nắm được những quy định pháp luật.
3.2.6. Đầu tư phương tiện, kỹ thuật cho công tác điều tra, truy tố, xét xử
Thực hiện chủ trương "Nhà nước đảm bảo điều kiện vật chất cho hoạt
động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của
đất nước", trong những năm gần đây, VKSND tỉnh Quảng Ninh đã được
VKSND Tối cao quan tâm tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và
phương tiện làm việc theo hướng khang trang hơn, hiện đại hơn. Tuy nhiên,
nhìn chung vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ theo quy định của Hiến
pháp và BLTTHS. Đơn cử, theo quy định của BLTTHS cũng như theo yêu
cầu của VKSND tối cao thì VKS tỉnh trong THQCT ở giai đoạn điều tra các
vụ án liên quan đến hành vi giết người phải tham gia đầy đủ các cuộc khám
nghiệm hiện trường, tử thi; tăng cường hoạt động kiểm sát trực tiếp tại các nơi
tạm giữ, tạm giam v.v.. dẫn đến nhu cầu sử dụng phương tiện đi lại cũng như
kinh phí phục vụ đi lại sẽ tăng lên; hoặc chế độ báo cáo ngày càng đặt ra khẩn
cấp hơn, nhiều hơn... trong khi cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và phương
tiện liên quan còn hạn chế thì chắc chắn khó đáp ứng được như yêu cầu. Thực
tế, trụ sở làm việc có đơn vị còn có số phòng làm việc và phòng nghiệp vụ
không đủ, không đáp ứng yêu cầu; số ô tô phục vụ công vụ còn hạn chế, tập
trung phục vụ chủ yếu cho các hoạt động nghiệp vụ của VKS tỉnh; nhiều
trang thiết bị khác như bàn ghế làm việc, máy vi tính, máy photo đều đã được
trang bị từ lâu, chất lượng dần đi xuống.. Trong khi đó, thực hiện chiến lược
cải cách tư pháp và việc tăng thẩm quyền cho VKSND cấp tỉnh đòi hỏi phải
có sự đầu tư mạnh hơn nữa về cơ sở vật chất, trang bị làm việc cho VKSND
tỉnh Quảng Ninh.
72
Vì vậy, trong thời gian đến, đề nghị Nhà nước cần quan tâm đầu tư cơ
sở vật chất, dụng cụ hỗ trợ, trang thiết bị làm việc cho ngành Kiểm sát tỉnh
Nam Định. Đồng thời, toàn ngành phải quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ
thị số 21-CT/TW ngày 21/12/2012 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; bảo đảm việc quản lý, sử dụng tài sản hiệu
quả, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, tiêu cực. Ở góc độ địa phương,
VKSND tỉnh cũng cần có sự vận dụng linh hoạt các khoản tài chính của
ngành và sự quan tâm hỗ trợ của chính quyền địa phương để tăng cường đầu
tư cơ sở vật chất, trang thiết bị và phương tiện làm việc phục vụ công tác
nghiệp vụ nhiều hơn nữa, có như vậy mới đảm bảo cho hoạt động THQCT
của VKSND tỉnh Quảng Ninh đạt chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Tiểu kết chương 3
Từ những phân tích thực trạng hoạt động THQCT các vụ án về các tội
giết người của VKSND tỉnh Quảng Ninh, đánh giá về nguyên nhân những hạn
chế, yếu kém trong lĩnh vực hoạt động này, luận văn đưa ra các yêu cầu và
giải pháp bảo đảm hoạt động THQCT đối với các tội giết người đáp ứng yêu
cầu công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Các nhóm giải pháp mà
tác giả đưa ra là: Nhóm giải pháp về tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng
BLHS về các tội giết người và BLTTHS năm 2015 có liên quan đến THQCT,
theo đó tác giả đề xuất một số nội dung hướng dẫn trong định tội danh giết
người và cũng như thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự thời gian tới. Giải pháp
tiếp theo là tiếp tục cải cách về tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng cũng
như nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng. Cuối cùng là nhóm giải
pháp đầu tư, phương tiện và trang bị cơ sở vật chất phục vụ THQCT đạt hiệu
quả hơn.
73
KẾT LUẬN
Thực hành quyền công tố của VKSND đối với tội phạm nói chung và các
tội giết người nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Chính vì vậy, các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của
Nhà nước ta đã khẳng định: VKSND thực hiện hai chức năng cơ bản là
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, không chỉ vậy còn yêu cầu phải
“tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra”. Đây là một trong những căn cứ để luận văn nghiên cứu
những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản nhất về THQCT đối với các vụ án về
các tội giết người của VKSND tỉnh Quảng Ninh. Nghiên cứu vấn đề này tác giả
tập trung vào những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận chung về quyền công tố, THQCT của
VKSND là cơ sở, nền tảng để tác giả phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm,
vai trò, nội dung và các yếu tố bảo đảm THQCT của các vụ án về các tội giết
người của VKSND là cơ sở, nền tảng để phân tích thực trạng và đưa giải pháp
cơ bản đảm bảo việc THQCT đối với các tội giết người.
Thứ hai, luận văn đã phân tích đánh giá kết quả thực tiễn THQCT trong
giải quyết các tội giết người của VKSND tỉnh Quảng Ninh, thông qua việc
nghiên cứu các báo cáo thống kê trong thời gian từ năm 2014 đến năm
2018. Trước khi đi vào kết quả thực tiễn, luận văn đã khái quát đặc điểm
tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ninh ảnh hưởng đến công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung và công tác THQCT đối với các tội
giết người nói riêng. Tóm tắt những kết quả THQCT về các tội giết người
mà VKSND tỉnh Quảng Ninh đã đạt được và những hạn chế tồn tại cần
khắc phục để THQCT được hoàn thiện hơn.
Thứ ba, từ những vấn đề thực trạng, luận văn đã đưa ra những giải pháp
nhằm bảo đảm THQCT đối với các tội giết người. Nếu các giải pháp được
74
quan tâm chỉ đạo và tiến hành đồng thời thì chắc chắn công tác THQCT của
ngành kiểm sát nói chung và của VKSND tỉnh Quảng Ninh nói riêng sẽ đạt
hiệu quả tốt hơn, xứng đáng với vai trò, trọng trách của một cơ quan công tố,
bảo vệ pháp luật, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện
nay ở Việt Nam.
Mặc dù luận văn chưa phải là đầy đủ và sâu sắc về lý luận, nhưng luận
văn cũng đã nghiên cứu, phân tích, đưa ra các yêu cầu giải pháp nhằm nân
cao hiệu quả của hoạt động THQCT đối với các tội giết người. Về mặt thực
tiễn, những nội dung nghiên cứu có trong đề tài này cũng có thể làm tài liệu
tham khảo cho hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo Kiểm sát viên, phục
vụ cho công tác nghiên cứu hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự;
góp phần nâng cao hiệu quả, vai trò của VKSND trong hoạt động THQCT các
vụ án hình sự nói chung và các tội giết người nói riêng, nhằm đảm bảo phát
huy hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và trong tiến
trình cải cách tư pháp của đất nước ta.
Những nội dung được nghiên cứu trong luận văn này là kết quả nỗ lực,
cố gắng của bản thân tôi; sự hướng dẫn nghiêm túc và tận tình của người
hướng dẫn khoa học cũng như sự giúp đỡ đầy tinh thần trách nhiệm của bạn
bè, đồng nghiệp. Tuy nhiên, với khả năng và thời gian hạn hẹp, luận văn sẽ
không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, quý thầy cô và đồng nghiệp để bản
thân tôi có thể vận dụng tốt đề tài này vào trong thực tiễn công tác.
75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Thanh Biểu (2008), Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngay 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị "về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Hà Nội.
5. Bộ Công an (2005), Từ điển bách khoa Công an nhân dân, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
6. Lê Cảm (2001), Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố, Báo cáo
Hội nghị khoa học, thành phố Hồ Chí Minh.
7. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Nghị định
của chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của qui chế tạm giữ, tạm giam
ban hành kèm theo Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 của
Chính phủ, Hà Nội.
8. Cô-dư-bra N.I. Đi-u-ri-a-ghin I. Is-Man-sep GV (1986), Những vấn đề cơ
bản về nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
9. Cục Thống kê tỉnh Nam Định (2015), Niên giám thống kê năm 2015, Nxb
Thống kê, Nam Định.
10. Ngô Văn Dọn (Chủ biên) (2004), Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động
tư pháp và thực hành quyền công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu
trong công tác kiểm sát hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb sự thật, Hà Nội.
76
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb sự thật, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành Trung ương khóa VIII, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban
chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Điệp (1996), Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Việt Nam - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận án tiến sĩ Luật
học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội.
19. Đỗ Văn Đương (2004), "Những biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003", Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, (7), tr.31-
36.
20. Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật
học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
21. Học viện Tư pháp (2014), Giáo trình kỹ năng thực hiện quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.
22. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (2003), Nghị quyết số
02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 Hướng dẫn áp dụng một số qui định
của Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.
23. Trần Mai Lâm (2013), Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra án hình sự về trật tự xã hội của Viện Kiểm sát
77
nhân dân tối cao, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
24. Ngô Quang Liễn (2004), "Vấn đề tăng thẩm quyền cho cơ quan tư pháp
cấp huyện trong Bộ luật Tố tụng hình sự", Tạp chí Thông tin khoa học
pháp lý, (9), tr.25-30.
25. C.Mác (1978), Những cuộc tranh luận về luật cấm trộm củi rừng, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
26. Nguyễn Đức Mai (1999), Một số ý kiến về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài
khoa học cấp Bộ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
27. Khuất Văn Nga (2004), "Những tư tưởng mới của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003", Tạp chí Thông tin khoa học pháp lý, (14), tr.39-42.
28. Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp Việt
Nam (1956, 1959, 1980, 1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Hình
sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Hình
sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật Tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
Việt Nam 2013, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
35. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Tổ chức
Viện Kiểm sát nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
36. Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2008), Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
37. Hà Mạnh Trí (2003), "Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm đấu tranh có
78
hiệu quả với tội phạm. Bảo vệ tốt hơn quyền tự do dân chủ của công dân",
Tạp chí Kiểm sát, (25), tr.27-29.
38. Trường Đại học kiểm sát Hà Nội (2017), Giáo trình đào tạo nghiệp vụ
kiểm sát, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
39. Trường Đại học Cảnh sát (1999), Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận Nhà nước và
pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
42. Lê Minh Tuấn (2004), "Những điểm mới về thẩm quyền và thủ tục tố tụng
của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự", Tạp chí Thông tin
khoa học pháp lý, (30), tr.31-36.
43. Đào Trí Úc (2003), "Cải cách tư pháp - ý nghĩa, mục đích và trọng tâm",
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (16), tr.7-9.
44. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự,
Hà Nội.
45. Viện Khoa học Pháp lý (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
Khoa, Hà Nội.
46. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Những vấn đề lý luận về quyền
công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945
đến năm 1999, Hà Nội.
47. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Những giải pháp nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Hà Nội.
48. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (2018),
Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018
về quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc
thực hiện một số qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội.
49. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay kiểm sát viên hình sự, Tập
79
I, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
50. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Qui chế thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Hà Nội.
51. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Một số kinh nghiệm trong công
tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án giết
người, Hà Nội.
52. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Qui chế tạm thời công tác kiểm sát
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố,
Hà Nội.
53. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2017), Qui chế tạm thời công tác kiểm
sát việc khám nghiệm hiện trường khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều
tra việc tiến hành giám định năm 2017, Hà Nội.
54. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2014), Báo cáo tổng kết công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thấm án
hình sự về trật tự xã hội năm 2014, Quảng Ninh.
55. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2015), Báo cáo tổng kết công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thấm án
hình sự về trật tự xã hội năm 2015, Quảng Ninh.
56. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2016), Báo cáo tổng kết công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thấm án
hình sự về trật tự xã hội năm 2016, Quảng Ninh.
57. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2017), Báo cáo tổng kết công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thấm án
hình sự về trật tự xã hội năm 2017, Quảng Ninh.
58. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2018), Báo cáo tổng kết công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thấm án
hình sự về trật tự xã hội năm 2018, Quảng Ninh.
80
59. Viện Nghiên cứu pháp lý, Bộ Tư pháp (2001), Bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (1994), Tội phạm học, luật hình
sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
62. Võ Hồng Phương (2017), Thực hành quyền công tố đối với tội giết người
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang,
Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
81
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH TÌNH HÌNH VKS PHÊ CHUẨN QUYẾT ĐỊNH TỐ TỤNG VỀ CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI (Bảng số 2.2)
Tạm giữ hình sự không xử lý hình sự
Số trường hợp VKS phê bắt khẩn cấp/Số đề nghị Số trường hợp VKS phê chuẩn gia hạn giữ/Số đề nghị Số trường hợp VKS phê chuẩn khởi tố bị can/Số đề nghị Năm
(1) 18/18 15/15 13/13 8/8 9/9 53/53 (2) 22/22 21/21 18/18 12/12 14/14 87/87 (4) 51/51 34/34 35/35 23/23 26/26 169/169 (5) 0 0 0 01 0 01 Số trường hợp VKS phê chuẩn tạm giam, bắt tạm giam/Số đề nghị (3) 48/48 32/32 31/31 22/22 25/25 158/158 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng
(Nguồn: Theo số liệu báo cáo, thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018)
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH TÌNH HÌNH VIỆN KIỂM SÁT YÊU CẦU CƠ QUAN ĐIỀU TRA KHỞI TỐ VỀ CÁC TỘI GIẾT NGƯỜI, TỪ NĂM 2014 ĐẾN NĂM 2018 (Bảng số 2.3)
VKS yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố vụ án 02 vụ 01 vụ 02 vụ 01 vụ 01 vụ 07 vụ VKS yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố bị can 03 02 07 bị can 03 bị can 02 bị can 17 bị can Năm 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng số
(Nguồn theo số liệu báo cáo, thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh của các năm 2014, 2015, 2016, 2017 và 2018)