BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phạm Thị Bảo Quyên
TỐC ĐỘ ĐỌC CỦA HỌC SINH LỚP MỘT
VÀ CHUẨN CỦA CHƯƠNG TRÌNH
TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục học (Tiểu học)
Mã số: 60 14 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Hoàng Thị Tuyết
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được
xuất phát từ yêu cầu trong công việc để hình thành hướng nghiên cứu.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng, được thu thập trong quá trình nghiên cứu và không
trùng lặp với các đề tài khác.
Người viết
Phạm Thị Bảo Quyên
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Hoàng Thị Tuyết
– Giảng viên Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh. Em xin gửi lòng biết ơn sâu sắc tới Cô vì những hướng
dẫn và nhận xét quý báu của Cô trong suốt quá trình em làm luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô trong Khoa đã cho nhiều ý
kiến đóng góp quý báu để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em cũng xin cảm ơn các Thầy Cô, Cán bộ thuộc phòng Sau Đại học,
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng cảm ơn đến những người thân, bạn bè và
đặc biệt là Ban Giám hiệu các trường tiểu học đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho
quá trình khảo sát của đề tài được thuận lợi, thành công.
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .............................................................. 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 3
3.2. Khách thể nghiên cứu ..................................................................... 3
4. Giả thuyết nghiên cứu ................................................................................... 3
5. Ý nghĩa nghiên cứu ........................................................................................ 3
6. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 4
7. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN ........................... 8
1.1. Cơ sở lí luận .............................................................................................. 8
1.1.1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt và những hàm ẩn cho quá trình
dạy đọc lưu loát cho học sinh ......................................................... 8
1.1.1.1.Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt ..................................... ..8
1.1.1.2.Những hàm ẩn cho quá trình dạy đọc lưu loát cho học
sinh .............................................................................................. 10
1.1.2. Đặc điểm của trọng âm tiếng Việt và những hàm ẩn cho quá
trình dạy đọc lưu loát cho học sinh .............................................. 11
1.1.2.1.Đặc điểm của trọng âm ................................................... 11
1.1.2.2.Những hàm ẩn cho quá trình dạy đọc lưu loát cho học
sinh .............................................................................................. 12
1.1.3. Đọc lưu loát .................................................................................. 13
1.1.3.1.Đọc lưu loát là gì? ........................................................... 13
1.1.3.2.Các thành tố của đọc lưu loát ......................................... 14
1.1.3.3.Mối quan hệ giữa các thành tố trong đọc lưu loát với kĩ
năng đọc lưu loát ......................................................................... 16
1.1.3.4.Các mức độ của đọc lưu loát .......................................... 18
1.1.3.5.Mối quan hệ giữa đọc lưu loát và đọc hiểu .................... 20
1.1.4. Đọc lưu loát trong đọc thành tiếng và đọc thầm ........................... 21
1.1.4.1.Đọc thành tiếng ............................................................... 21
1.1.4.2.Đọc thầm ......................................................................... 21
1.1.4.3.Tiến trình phát triển từ đọc thành tiếng đến đọc thầm ... 24
1.1.4.4.Đọc thành tiếng và đọc thầm trong quá trình phát triển
khả năng đọc lưu loát của học sinh ............................................. 24
1.1.5. Đánh giá đọc lưu loát trong đọc thành tiếng ................................. 25
1.1.6. Từ nhận biết và vốn từ nhận biết .................................................. 27
1.1.7. Tiếng rỗng và tính vô nghĩa của tiếng rỗng .................................. 29
1.1.8. Tốc độ đọc .................................................................................... 30
1.1.7.1.Tốc độ đọc là gì? ............................................................. 30
1.1.7.2.Việc đo lường tốc độ đọc ................................................ 30
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 36
1.2.1. Quan niệm về dạy đọc lưu loát ở Việt Nam so với quốc tế .......... 36
1.2.2. Chuẩn kiến thức kĩ năng của lớp Một về kĩ năng đọc trong môn
Tiếng Việt theo chuẩn quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo ...... 38
1.2.3. Mức độ cần đạt trong kĩ năng đọc của học sinh lớp một trên thế
giới. .............................................................................................. 40
1.2.4. Một số nghiên cứu về tốc độ đọc của học sinh lớp một ở Việt
Nam .............................................................................................. 43
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 44
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................... 46
2.1. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 46
2.1.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu ..................................... 46
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu thí điểm ................................................ 46
2.1.3. Phương pháp điều tra, khảo sát ..................................................... 46
2.1.4. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia ............................................. 46
2.1.5. Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh ................................... 47
2.2. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................. 47
2.3. Giới hạn nghiên cứu ................................................................................ 47
2.4. Mẫu nghiên cứu ....................................................................................... 48
2.4.1. Phương pháp chọn mẫu ................................................................ 48
2.4.2. Tiêu chí chọn mẫu ........................................................................ 48
2.4.3. Cỡ mẫu ......................................................................................... 48
2.5. Mục đích khảo sát ................................................................................... 49
2.6. Công cụ khảo sát ..................................................................................... 49
2.6.1. Căn cứ xây dựng công cụ khảo sát ............................................... 49
2.6.2. Mô tả công cụ khảo sát ................................................................. 50
2.6.3. Xác định độ tin cậy của công cụ khảo sát ..................................... 52
2.7. Tiến trình khảo sát .................................................................................. 53
2.7.1. Đo tốc độ đọc từ nhận biết và tiếng rỗng (Bảng 1, bảng 2) ......... 54
2.7.2. Đo tốc độ đọc đoạn văn ( Bảng 3 ) .......................................... 5555
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 56
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................... 57
3.1. Về tốc độ đọc trung bình ......................................................................... 57
3.1.1. Đọc bảng từ nhận biết .................................................................. 59
3.1.2. Đọc bảng tiếng rỗng ..................................................................... 60
3.1.3. Đọc đoạn văn ............................................................................... 61
3.2. Về tốc độ đọc thực tế của học sinh so với chuẩn đọc của chương trình
Tiếng Việt ở Tiểu học .............................................................................. 65
3.3. Về tình trạng mắc lỗi trong đọc trôi chảy ............................................... 67
3.4. Về kĩ năng đọc hiểu ................................................................................. 69
3.5. Một vài bàn luận ..................................................................................... 71
3.6. Một số đề xuất ......................................................................................... 74
3.6.1. Đề xuất cho việc dạy đọc lưu loát ................................................ 74
3.6.2. Đề xuất cho việc dạy đọc hiểu ...................................................... 75
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 78
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................... 79
1. Kết luận ....................................................................................................... 79
2. Kiến nghị ..................................................................................................... 79
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 86
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Phụ lục 3
Phụ lục 4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thang đo độ lưu loát của NAEP ................................................. 19
Bảng 1.2. Bảng tổng hợp tốc độ đọc trong đọc thầm .................................. 22
Bảng 1.3. Bảng tổng hợp các công cụ và cách đánh giá đọc lưu loát trong
đọc thành tiếng ............................................................................ 25
Bảng 1.4. Bảng tổng hợp các khái niệm cơ bản liên quan đến dạy đọc lưu
loát ở Việt Nam và quốc tế ......................................................... 36
Bảng 1.5. Bảng mức độ cần đạt của học sinh lớp Một trong kĩ năng đọc .. 38
Bảng 1.6. Bảng tốc độ đọc thành tiếng tối thiểu do Reading A-Z đề xuất . 40
Bảng 1.7. Bảng tốc độ đọc tối thiểu do Good, Simmons và Kame’enui,
(2001); Hasbrouck và Tindal, (1992) và School Board of
Alachua County, (1997) đề xuất ................................................. 41
Bảng 1.8. Bảng đề xuất một số chuẩn tốc độ đọc thông cho học sinh tiểu
học (dẫn theo Reading A-Z) ....................................................... 42
Bảng 1.9. Bảng tốc độ đọc trung bình của học sinh lớp một ở Thành phố
Hồ Chí Minh ............................................................................... 44
Bảng 2.1. Kết quả tốc độ đọc trung bình của học sinh và tỉ lệ của hai lần
khảo sát ....................................................................................... 52
Bảng 3.1. Mối liên hệ giữa tốc độ đọc với hai yêu cầu nằm trong yếu tố
diễn cảm ...................................................................................... 63
Bảng 3.2. Bảng thống kê các lỗi khi đọc của học sinh .............................. 68
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Sơ đồ cấu trúc hai bậc của âm tiết tiếng Việt ................................ 9
Hình 3.1. Kết quả tốc độ đọc trung bình của học sinh lớp 1 ..................... 57
Hình 3.2. Kết quả đo tốc độ đọc của học sinh lớp một ở các kĩ năng đọc từ
nhận biết, đọc tiếng rỗng và đọc đoạn văn ................................. 58
Hình 3.3. Kết quả đo tốc độ đọc từ nhận biết của học sinh lớp Một ......... 59
Hình 3.4. Kết quả đo tốc độ đọc tiếng rỗng của học sinh lớp 1 ................. 60
Hình 3.5. Kết quả đo tốc độ đọc đoạn văn của học sinh lớp 1 ................... 61
Hình 3.6. Tình trạng ngắt nghỉ hơi khi đọc đoạn văn của học sinh ............ 62
Hình 3.7. Tốc độ đọc thực tế của học sinh so với chuẩn đọc của chương
trình Tiếng Việt ở Tiểu học ........................................................ 65
Hình 3.8. Tốc độ đọc trung bình theo quận, huyện ở thành phố Hồ Chí
Minh ............................................................................................ 66
Hình 3.9. Tốc độ đọc trung bình của học sinh ở thành phố Hồ Chí Minh so
với tỉnh Đồng Nai ....................................................................... 67
Hình 3.10. Kết quả trả lời câu hỏi của học sinh ......................................... 70
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đọc là một kĩ năng quan trọng đối với con người. Bởi lẽ, không biết đọc,
con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho
họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn diện. Như vậy, dạy đọc có
một ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình thành
năng lực đọc cho học sinh, bao gồm bốn kĩ năng hay bốn yêu cầu về chất
lượng đọc như sau: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức
(thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và
đọc diễn cảm. Ở mỗi một giai đoạn nhất định, yêu cầu đặt ra đối với học sinh
là khác nhau, nhưng có thể thấy đọc đúng và đọc nhanh là hai yêu cầu cơ bản
nhất mà học sinh cần đạt được ở giai đoạn đầu của học đọc. Do đó, Chuẩn
kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt lớp Một, quy định học sinh giai đoạn cuối
lớp Một cần đạt được tốc độ đọc thông (đọc trơn) là 30 tiếng/ phút [1], [2],
[4], [12].
Trên thực tế, theo khảo sát trong Luận án Tiến sĩ của Bùi Thế Hợp
(2012), tốc độ đọc trung bình của nhóm học sinh lớp Một phát triển bình
thường là 32,5 tiếng/phút. Trong thống kê trên đối tượng học sinh lớp Một ở
TPHCM vào thời điểm tuần thứ 5, 6 của học kì I (năm học 2012 – 2013) của
Nguyễn Thị Ly Kha và Phạm Hải Lê (2013), tốc độ đọc trung bình của các
em học sinh phát triển bình thường đạt được là 36,67 tiếng/phút. Điều này cho
thấy có nhiều học sinh đọc vượt xa tốc độ đọc quy định là 30 tiếng/phút [9],
[10].
Thêm vào đó, tác giả Lê Phương Nga đã có nhận định rằng tốc độ chấp
nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói [11,
tr. 21, 22]. Nhận định này phần nào đã cho thấy sự mâu thuẫn đối với Chuẩn
2
đã quy định. Bởi lẽ, với tốc độ 30 tiếng/phút thì học sinh không thể đạt được
sự lưu loát trong khi đọc cũng như không thể đạt được tốc độ lời nói.
Mặt khác, theo Taylor và Landerl(1) thì tốc độ đọc trung bình trên phút
của trẻ 7 tuổi (tương ứng với giai đoạn cuối lớp Một ở Việt Nam) là 50-100
từ/phút. Hoặc theo Rasinsky (2013) tốc độ đọc trung bình của học sinh lớp
Một ở Mĩ, đã được xác định là 50-60 từ/phút. Từ các con số vừa nêu, có thể
thấy có một sự khác biệt giữa tốc độ đọc chuẩn của học sinh lớp Một ở Việt
Nam với học sinh lớp Một ở một số nước trên thế giới. Bên cạnh đó, theo
thống kê của Good, Simmons và Kame’enui (2001); Hasbrouk và Tindal
(1992); School of Alachua County (1997), tiêu chí đánh giá mức độ lưu loát
theo cấp lớp được quy chuẩn là 40 – 60 từ/phút (dẫn theo [20, tr. 702 – 714].
Đây được xem là hướng dẫn chung để xác định mục tiêu chung trong việc rèn
đọc thành tiếng ở học sinh. Đồng thời các con số trên cũng lộ ra sự bất hợp lý
nào đó trong tốc độ 30 tiếng/phút dành cho học sinh cuối lớp Một đã được
quy định trong chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt lớp Một [4], [5] [20],
[25].
Bên cạnh đó, kinh nghiệm giảng dạy ở lớp Một cho tôi thấy việc rèn kĩ
năng đọc lưu loát cho trẻ có vị trí đặc biệt quan trọng. Để đánh giá khả năng
đọc lưu loát của học sinh, giáo viên phải căn cứ vào chuẩn tốc độ được quy
định của Bộ là 30 tiếng/phút. Tuy nhiên, trên thực tế, những học sinh đạt tốc
độ đọc chuẩn này vẫn thể hiện đọc ngắc ngứ, ê a, chưa thực sự trôi chảy. Do
đó, không thể đánh giá rằng học sinh có tốc độ đọc ở mức này đã đạt được
yêu cầu về đọc thông. Điều này càng khẳng định rằng có sự không hợp lý về
1 Theo http://en.wikipedia.org/wiki/Reading_%28process%29
mặt khoa học trong tốc độ đọc do Bộ quy chuẩn. Vì nếu chấp nhận ở tốc độ
3
đọc 30 tiếng/phút là mức cần đạt thì học sinh lớp Một khó có thể bước sang
giai đoạn đọc lưu loát để hướng đến đọc hiểu ở giai đoạn lớp Hai.
Những điều trên làm nảy sinh câu hỏi: “Phải chăng có sự bất hợp lý về
mặt khoa học trong Chuẩn tốc độ đọc của học sinh lớp Một ?”. Vì vậy, tôi
quyết định chọn đề tài “ Tốc độ đọc của học sinh lớp Một và Chuẩn của
chương trình Tiếng Việt Tiểu học” để làm sáng tỏ câu hỏi trên.
2. Mục đích nghiên cứu
Khảo sát tốc độ đọc thực tế của học sinh lớp Một so với Chuẩn đọc
thông của chương trình môn Tiếng Việt lớp Một.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tốc độ đọc của học sinh lớp Một.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là quá trình dạy học môn Tiếng Việt ở
Tiểu học.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Nếu tiến hành khảo sát tốc độ đọc của học sinh lớp một trên diện rộng sẽ
thấy được điểm chưa hợp lý trong Chuẩn tốc độ đọc thông và các yêu cầu
trong kĩ năng đọc thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Ý nghĩa nghiên cứu
Ngoài báo cáo khoa học về tốc độ đọc của học sinh lớp Một so với chuẩn
đọc thông của chương trình Tiếng Việt Tiểu học, kết quả nghiên cứu sẽ góp
phần:
4
- Phân tích tính bất hợp lý về mặt khoa học trong quy định về Chuẩn
đọc thông ở lớp Một trong chương trình môn Tiếng Việt ở lớp một.
- Thông qua đề tài, giáo viên có thể thấy được tầm quan trọng của yếu
tố “tốc độ đọc”, từ đó có những thái độ và biện pháp tích cực trong việc nâng
cao tốc độ đọc cho học sinh lớp Một, góp phần đáp ứng được nhu cầu hội
nhập quốc tế của giáo dục Việt Nam mà cụ thể là đáp ứng được yêu cầu của
chương trình đánh giá quốc tế (PISA) về các kĩ năng đọc, toán và khoa học
của OECD tổ chức.
Ngoài ra, đề tài có thể đóng góp thêm một căn cứ cho việc xác lập tốc độ
đọc thích hợp hơn cho học sinh.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Kiến nghị và phần Phụ lục, luận
văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu
7. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề đọc lưu loát hiện nay đang được sự quan tâm nghiên cứu của các
nhà ngôn ngữ học. Bởi lẽ đây là một kĩ năng quan trọng, được xem là tiền đề
cho việc đọc hiểu cũng như là một trong những thành tố cấu thành năng lực
đọc. Nói đến đọc lưu loát, các chuyên gia, nhà giáo dục như Lê Phương Nga
(2001), Hudson, Lane và Pullen (2005), Gagen (2007), Penner – Wilger
(2008), Rasinski (2004) và Hoàng Thị Tuyết (2013) đã nêu rõ quan niệm, ba
yếu tố của đọc lưu loát, vai trò cũng như mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố
trong đọc lưu loát và mối quan hệ giữa đọc lưu loát với đọc hiểu. Bên cạnh
5
đó, Hudson, Pullen, Lane và Torgesen (2009) đã nêu lên cách tiếp cận đa
phương diện về bản chất phức tạp của đọc lưu loát. Theo đó, tác giả đã có
những phân tích khác về các yếu tố của giải mã lưu loát, đọc lưu loát, đọc
hiểu và mối tương quan giữa đọc lưu loát với các yếu tố tạo nên năng lực đọc.
Chính bởi sự đa dạng trong cách tiếp cận vấn đề đọc lưu loát đã giúp người
đọc có cái nhìn đa chiều, tạo điều kiện thuận lợi hơn khi lựa chọn phương
pháp dạy học theo cách tiếp cận đa phương diện [11], [14], [15], [18], [20],
[21], [23], [24].
Bàn về vấn đề đánh giá độ lưu loát của học sinh, các nhà nghiên cứu
nhận định rằng đọc lưu loát là thành tố quyết định trong việc dạy đọc, do đó,
việc đánh giá kĩ năng đọc lưu loát của học sinh là việc làm cần được khuyến
khích một cách rộng rãi, thường xuyên trên lớp. Các ý kiến này đã được sự
đồng thuận trong giới nghiên cứu ngôn ngữ học như Hasbrouck (2006),
Penner – Wilger (2008), Rasinski (2009) và các tổ chức như The National
Rading Panel, The National Research Council, Room To Read Việt Nam…
Ngoài ra, về cách thức đánh giá kĩ năng đọc lưu loát, các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ nói trên cũng có những ý kiến tương tự nhau rằng để có một tiêu
chuẩn đo có giá trị, cần thiết phải bao trùm cả ba thành tố kĩ năng là độ chính
xác trong giải mã, tốc độ nhận diện từ và diễn cảm trong việc đọc thành tiếng
[6], [21], [22], [23].
Để đo lường kết quả nói chung của học sinh về các kĩ năng cơ bản cũng
như kiến thức bài học, Deno (1985) đã nghiên cứu và cho ra đời hệ thống đo
lường các kĩ năng đọc, kĩ năng viết và kĩ năng chính tả là Curriculum-based
measurement hay CBM. Đây cũng là cách tiếp cận để đo lường sự tiến bộ của
học sinh trong lĩnh vực giáo dục đặc biệt. Hệ thống này tập trung trên ba lĩnh
6
vực của “language arts”2 và mở rộng sang lĩnh vực toán học. Clarke (2009)
trên cơ sở phân tích và mô tả cách thức hoạt động của hệ thống đánh giá
CBM nhận định rằng kết quả của gần 30 năm thử nghiệm đã chứng minh
CBM mang đến những chỉ báo có giá trị và đáng tin cậy về sự tiến bộ của học
sinh ở các kĩ năng cơ bản, đặc biệt trong đọc, toán, viết, và có ảnh hưởng tích
cực đến thành tích học tập của học sinh. Hệ thống này đã được đánh giá là (a)
dễ xây dựng, (b) ngắn gọn trong khâu áp dụng và tính điểm, (c) có tính
chuyên môn phù hợp (đáng tin cậy và phong phú với nhiều căn cứ có giá trị
cho việc xác định phương pháp giảng dạy), và (d) cung cấp nhiều hình thức
đánh giá sự tiến bộ của học sinh theo thời gian [46], [47].
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những nghiên cứu trên hệ thống CBM,
năm 2004, Rasinski đã phác thảo bộ công cụ đánh giá kĩ năng đọc thông và
tiến hành so sánh với với mức chuẩn được quy định theo cấp lớp. Tương tự,
N. Mather và Sam Goldstein (2001) và Jan Hasbrouck (2006) cũng đã xây
dựng một quy trình để đo lường và đánh giá mức độ trôi chảy trong kĩ năng
đọc của học sinh. Nhìn chung, hai quy trình của hai tác giả đều có điểm tương
đồng với cách đánh giá của CBM và Rasinski là đánh giá dựa trên tốc độ đọc
– số từ đọc đúng trên phút của học sinh. Thêm vào đó, việc dùng hệ thống từ
rỗng, câu và đoạn văn trong việc dạy đọc lưu loát cũng đang được các nhà
giáo dục, các tổ chức như Room To Read (2013) nghiên cứu và áp dụng.
Ngoài ra, tác giả White (1995) trong một nghiên cứu của NCES (National
Center for Education Statistics) cũng đề xuất đến việc sử dụng các đoạn văn
thuộc thể loại văn kể chuyện trong đánh giá kĩ năng đọc lưu loát. Cũng trong
2 “Language Arts” là một thuật ngữ được hiểu trên 3 lĩnh vực: (1) các kỹ năng ngôn ngữ; (2) một môn học trong chương trình (liên quan đến các kỹ năng diễn đạt ý tưởng theo hình thức ngôn ngữ nói hoặc viết cũng như các kỹ năng hiểu ý tưởng của người nói hay người viết); các lĩnh vực của chương trình giáo dục ngôn ngữ của nhà trường.
bài viết này, tác giả cũng đã đề cập đến thang đo bốn mức độ của sự lưu loát
7
trong đọc thành tiếng của NAEP3. Như vậy, từ các nghiên cứu trên, đề tài có
thêm những căn cứ có giá trị để thiết kế công cụ đo lường và đánh giá tốc độ
đọc cũng như độ lưu loát khi đọc của học sinh [6], [17, tr.219-232], [22], [23],
[24], [30].
Ngoài ra, ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu về chứng khó đọc
của học sinh lớp Một cũng đã đề cập đến một thành tố quan trọng của đọc lưu
loát, đó là tốc độ đọc. Các nghiên cứu của Bùi Thế Hợp (2012), Nguyễn Thị
Ly Kha và Phạm Hải Lê (2013) đã tiến hành khảo sát đo tốc độ đọc của học
sinh lớp Một trên diện rộng và nhận thấy rằng tốc độ của các em vượt khá xa
so với tốc độ đọc tối thiểu được Bộ Giáo dục và Đào tạo quy chuẩn. Tuy
nhiên, kết quả khảo sát này được sử dụng chính trong việc chẩn đoán và trị
liệu học sinh mắc chứng khó đọc chứ không nhằm xem xét tính hợp lý của tốc
độ đọc tối thiểu cùng các yêu cầu trong kĩ năng đọc thông được quy định
trong Chương trình Tiếng Việt Tiểu học [9], [10].
Tóm lại, mặc dù các tài liệu trên đã bao quát được một cách toàn diện
các mặt của đọc lưu loát mà cụ thể nhất là yếu tố tốc độ đọc nhưng lại chưa đề
cập trực tiếp đến tốc độ đọc thực tế ở học sinh lớp Một trong sự so sánh với
Chuẩn quy định của Bộ Giáo dục - Đào tạo về kĩ năng đọc thông. Tuy nhiên,
các tài liệu đã tạo nên nguồn tham khảo có giá trị và hữu ích cho việc xem xét
3 NAEP là tến viết tắt của tổ chức The National Assessment of Educational Progress,.
tính hợp lí về mặt khoa học trong tốc độ đọc của học sinh lớp Một.
8
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt và những hàm ẩn cho quá trình
dạy đọc lưu loát cho học sinh
1.1.1.1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt
Âm tiết là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất của lời nói. Trong tiếng
Việt, việc nghiên cứu âm vị được bắt đầu từ âm tiết. Âm tiết tiếng Việt có
những điểm đáng chú ý dưới đây.
a. Tính đơn lập của âm tiết tiếng Việt
Âm tiết tiếng Việt có vai trò quan trọng vì ranh giới âm tiết trùng với
ranh giới hình vị (đơn vị nhỏ nhất có nghĩa) trong khi ở ngôn ngữ Ấn Âu thì
hai ranh giới này thường không trùng nhau. Trong tiếng Việt, đơn vị có nghĩa
nhỏ nhất là một âm tiết. Trong ngôn ngữ Ấn Âu, có trường hợp hình vị trùng
với âm tiết nhưng đó không phải là hình thức điển hình. Ngược lại, tiếng Việt
cũng có một số hình vị gồm nhiều âm tiết nhưng đây là hiện tượng lẻ tẻ.
Về cơ bản một âm tiết tiếng Việt đồng thời cũng là đơn vị nhỏ nhất có
nghĩa và là đơn vị cơ bản để cấu tạo từ tiếng Việt. Hơn thế nữa, trong tiếng
Việt còn có sự trùng hợp một cách phổ biến 3 đơn vị: âm tiết – hình vị – từ.
Đây là cơ chế đơn tiết và là đặc điểm cơ bản để tiếng Việt được xếp vào loại
hình ngôn ngữ đơn lập.
Mỗi âm tiết tạo thành một khối thống nhất khiến cho ranh giới giữa
chúng được xác định rất rạch ròi. Các âm tiết được đọc tách bạch, không có
hiện tượng đọc nối âm như các ngôn ngữ châu Âu. Tức là trong chuỗi lời nói,
9
âm tiết tiếng Việt không hề bị biến dạng, hay tiếng Việt là ngôn ngữ không
biến hình.
Ngoài ra, độ dài của các âm tiết tiếng Việt đều bằng nhau, tức các âm tiết
có thời gian phát âm như nhau cho dù mỗi yếu tố trong nội bộ của chúng có
âm khác nhau về độ dài hoặc về lượng thành phần.
b. Âm tiết tiếng Việt có cấu trúc hai bậc
Trên bình diện âm vị học, dựa vào khả năng phân tách các thành tố của
âm tiết theo ranh giới ngữ âm học, có thể phân cấu tạo âm tiết tiếng Việt
thành hai bậc:
- Bậc thứ nhất gồm có thanh điệu (một yếu tố siêu đoạn tính, gắn liền
với âm tiết, không thể phân đoạn trên trục tuyến tính), âm đầu và vần (yếu tố
âm đoạn tính, tức là đơn vị ngữ âm có thể phân đoạn trong chuỗi lời nói). Đây
là những thành tố trực tiếp của tiếng.
- Bậc thứ hai gồm có các thành tố cấu tạo nên phần vần là âm đệm, âm
chính và âm cuối.
Cấu trúc hai bậc đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ tổng quát sau:
ÂM TIẾT
THANH ĐIỆU
VẦN
ÂM ĐẦU
ÂM ĐOẠN SIÊU ÂM ĐOẠN
Âm chính
Âm cuối
Âm đệm
4 Dẫn theo [1]
Hình 1.1. Sơ đồ cấu trúc hai bậc của âm tiết tiếng Việt4
10
1.1.1.2. Những hàm ẩn cho quá trình dạy đọc lưu loát cho học
sinh
Do những đặc điểm trên, tiếng Việt có những điểm khác nhau cơ bản về
với ngôn ngữ Châu Âu – ngôn ngữ đa tiết tính. Nếu như tiếng Việt, ngôn ngữ
đơn tiết tính, ranh giới của tiếng và âm tiết thường trùng nhau. Gần như hầu
hết các âm tiết đều hoạt động như một từ. Trong khi ở ngôn ngữ đa tiết tính,
đa số các từ đều gồm từ hai âm tiết trở lên. Ví dụ như từ “cha” bao gồm một
âm tiết; trong khi đó, cũng cùng nghĩa nêu trên thì “father” của tiếng Anh
hoặc Mỹ lại chứa tới hai âm tiết. Do đó, dễ nhận thấy rằng, với cùng một số
lượng từ đọc/phút (words per minute), số lượng âm tiết phát ra của ngôn ngữ
Châu Âu sẽ nhiều hơn hẳn so với số lượng âm tiết phát ra của tiếng Việt.
Chính điều này cũng ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ đọc của học sinh các nước
này.
Thêm vào đó, theo các tài liệu về tốc độ đọc (reading speed) thì tốc độ
đọc chính là số từ đọc đúng trong một phút (words per minute), do đó bài viết
sử dụng thuật ngữ “từ/phút” đối với các kết quả nghiên cứu về ngôn ngữ đa
tiết tính. Riêng các kết quả nghiên cứu về tiếng Việt, với đặc trưng là ranh
giới giữa âm tiết và hình vị thường trùng nhau [1, tr. 16, 17], bài viết sử dụng
thuật ngữ “tiếng/phút”.
Như vậy, việc xác lập tốc độ đọc (số tiếng đọc đúng / phút) – một thành
tố của đọc lưu loát trong ngôn ngữ phân tiết tính và ngôn ngữ đa tiết tính phải
khác nhau. Cụ thể, khi đọc văn bản có cùng số lượng từ trong một phút thì số
lượng âm tiết phát ra của ngôn ngữ đa tiết tính chắc chắn sẽ nhiều hơn ngôn
ngữ đơn tiết tính. Do đó, cho phép ta suy luận rằng tốc độ đọc tối thiểu (trong
đọc thành tiếng) đối với tiếng Việt cần phải cao hơn tốc độ đọc tối thiểu được
đề xuất đối với ngôn ngữ đa tiết tính.
11
1.1.2. Đặc điểm của trọng âm tiếng Việt và những hàm ẩn cho quá
trình dạy đọc lưu loát cho học sinh
1.1.2.1. Đặc điểm của trọng âm
Trọng âm là một biện pháp âm thanh làm nổi bật một đơn vị ngôn từ lớn
hơn âm tố (như âm tiết, từ, ngữ đoạn hoặc câu) để phân biệt với những đơn vị
ngôn ngữ học khác ở cùng cấp độ. Trọng âm có thể được thể hiện bằng sức
mạnh của luồng hơi thở, hoặc bằng trường độ, hoặc bằng cao độ, tức là tăng
cường hoặc thoái giảm tần số dao động của dây thanh.
Theo Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến (2007),
trọng âm là sự nêu bật một trong những âm tiết của từ bằng những phương
tiện ngữ điệu nhất định. Trong tiếng Việt, trọng âm được nêu bật chủ yếu
bằng cách tăng trường độ của nguyên âm. Nói cách khác, trọng âm tiếng Việt
chủ yếu là trọng âm lượng. Tức là sự nêu bật một âm tiết bằng cách kéo dài
thời gian phát âm [7, tr. 106 – 109].
Nếu trong các ngôn ngữ Âu châu như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp,
trọng âm có vai trò đáng kể thì trong tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ có
thanh điệu khác, vai trò của trọng âm có phần bị mờ nhạt đi. Tuy nhiên,
không thể nói tiếng Việt không có trọng âm. Trọng âm tiếng Việt có chức
năng khu biệt âm tiết, khu biệt từ, chức năng phân giới, tạo đỉnh… Mỗi trọng
âm đánh dấu một ngữ đoạn: nó được đặt vào tiếng (âm tiết) cuối cùng hay duy
nhất trong ngữ đoạn. Như vậy trọng âm có chức năng phân giới giữa ngữ
đoạn này với ngữ đoạn kế theo sau trong câu. Do chức năng phân đoạn này
của trọng âm tiếng Việt, người bản ngữ nghe như thể có một chỗ ngắt giữa
câu (ngắn hơn chỗ ngắt cuối câu) khá rõ. Trọng âm cũng giúp phân biệt nghĩa
của các từ láy tính từ [1].
12
1.1.2.2. Những hàm ẩn cho quá trình dạy đọc lưu loát cho học
sinh
NAEP cho rằng đọc lưu loát tức là đọc một cách nhẹ nhàng, tự nhiên thể
hiện qua ba thành tố chủ chốt: (a) việc gộp các từ thành nhóm lớn có nghĩa
phù hợp dựa trên việc thể hiện qua ngữ điệu, trọng âm và ngắt nghỉ hơi của
người đọc; (b) tôn trọng tuyệt đối ngữ pháp của tác giả và (c) tính diễn cảm
trong đọc thành tiếng [30].
Việc đọc đúng trọng âm góp phần xác định ý nghĩa ngữ pháp trong câu,
giúp người nghe hiểu được chính xác nội dung văn bản người đọc muốn
truyền tải. Đọc đúng trọng âm thể hiện qua việc ngắt nghỉ hơi phù hợp (tuy
thời gian nghỉ ngắn hơn việc nghỉ ở cuối câu nhưng người nghe vẫn có thể
nhận thấy được). Việc ngắt nghỉ hơi đúng chỗ là một trong những kĩ năng
quan trọng. Yêu cầu này nằm trong các yêu cầu của kĩ năng đọc đúng, một kĩ
năng cơ bản đầu tiên của đọc thành tiếng.
Trong việc ngắt nghỉ khi đọc, cần phân biệt ngắt giọng logic và ngắt
giọng biểu cảm. Ngắt giọng logic là chỗ dừng để tách các nhóm từ trong câu.
Việc ngắt giọng logic hoàn toàn phụ thuộc vào ý nghĩa và quan hệ giữa các
từ.
Như vậy, để luyện đọc nhanh, cũng như tăng tốc độ đọc cho học sinh,
cần chú trọng việc rèn cho các em đọc đúng trọng âm, tức là rèn cho học sinh
cách ngắt nghỉ phù hợp giữa các ngữ đoạn trong câu. Việc đọc đúng trọng âm,
đúng ngữ đoạn sẽ giúp các em đọc một cách nhanh chóng, mượt mà. Từ đó,
học sinh có thể gia tăng tốc độ đọc một cách đáng kể.
13
1.1.3. Đọc lưu loát
1.1.3.1. Đọc lưu loát là gì?
Trên thế giới có các quan niệm về đọc lưu loát như sau:
Theo quan niệm của Gagen (2007), đọc lưu loát tức là đọc nhanh và đọc
một cách tự động. Một người được xem là đọc lưu loát khi có khả năng đọc
một cách nhanh chóng và chính xác mà không cần có sự nỗ lực nào cả. Hình
thức biểu hiện của đọc lưu loát ở chỗ học sinh có thể nhận diện tiếng, từ gần
như tức thì và đọc nhanh mà không cần đánh vần [18].
Theo Samuel định nghĩa, đọc lưu loát là khả năng giải mã và hiểu văn
bản cùng một lúc [dẫn theo 23].
Theo quan niệm của Hudson, Pullen, Lane, Torgesen (2009), đọc lưu
loát thường được định nghĩa như việc đọc chính xác văn bản với tốc độ lời
nói và diễn cảm thích hợp và thường được đo lường bằng cách kết hợp tốc độ
với sự chính xác – số từ đọc đúng trong một phút [21].
Rasinski (2013) lại quan niệm rằng lưu loát là khả năng đọc một cách
chính xác, nhanh, diễn cảm với việc ngắt nghỉ hơi phù hợp và hiểu được văn
bản [25].
Reading A-Z lại cho rằng đọc lưu loát đề cập đến tốc độ, sự mượt mà và
thoải mái của học sinh khi đọc thành tiếng. Người đọc được xem là trôi chảy,
lưu loát khi có thể giải mã nhanh, thậm chí lướt qua phần giải mã nhưng vẫn
đạt tới mức hiểu văn bản. Thêm vào đó, người đọc lưu loát thường yêu thích
việc đọc hơn những người đọc kém lưu loát [34].
Ở Việt Nam, thuật ngữ đọc lưu loát chưa được đề cập một cách thường
xuyên trong giáo dục. Chương trình Tiếng Việt Tiểu học lớp Một thường
được sử dụng thuật ngữ đọc thông khi đề cập đến các mức độ cần đạt trong kĩ
14
năng đọc của học sinh. Khi xem xét các yêu cầu về mức độ cần đạt trong kĩ
năng đọc thông(), chúng tôi nhận thấy đọc lưu loát và đọc thông có sự tương
đồng về bản chất. Do vậy, để đảm bảo tính thống nhất, người viết sẽ sử dụng
thuật ngữ đọc lưu loát thay cho thuật ngữ đọc thông trong suốt đề tài. Theo
đó, dựa vào đặc điểm chương trình Tiếng Việt và cách đánh giá chất lượng
đọc được quy định trong chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình Tiếng Việt
cấp Tiểu học, đề tài sử dụng quan niệm : Đọc lưu loát hay còn gọi đọc thông
là đọc một cách chính xác, nhanh, diễn cảm với việc ngắt nghỉ hơi phù hợp và
hiểu tốt nội dung văn bản.
1.1.3.2. Các thành tố của đọc lưu loát
Lưu loát trong đọc được xem là kết quả người học nhất thiết phải đạt
được của quá trình học đọc ở giai đoạn học vần, nghĩa là giai đoạn tập trung
phát triển khả năng giải mã, nhận diện từ ngữ. Lưu loát trong đọc chỉ khả
năng đọc các cụm từ và câu một cách nhanh chóng và mượt mà trong lúc hiểu
chúng như những ý trọn vẹn.
Đọc lưu loát được tạo nên bởi ba thành tố chủ chốt: đọc chính xác văn
bản liên tục (accurate reading of connected/continuous text) ở một tốc độ hội
thoại (at a conversational rate) với sự thể hiện diễn cảm thích hợp (with
appropriate prosody - expression) [21].
Cụ thể đọc lưu loát bao gồm:
- Chính xác (đọc đúng) là sự thể hiện chính xác về mặt âm vị học các
từ bằng cách sử dụng vốn từ nhận biết hoặc sử dụng các biện pháp giải mã
phù hợp như đánh vần các từ. Chính xác trong khi đọc là tiền đề cho thành tố
() Nội dung này sẽ được trình bày ở mục 1.2.2
tiếp theo của đọc lưu loát là kĩ năng nhận diện từ một cách nhanh, tự động.
15
- Nhanh chỉ khả năng nhận diện từ một cách nhanh đến mức tự động.
Sự tự động trong nhận diện từ có được thông qua sự cố gắng luyện tập ở các
kĩ năng trước đó, như vậy, khi giải mã từ nhanh và dễ dàng sẽ là nguồn hỗ trợ
cho các kĩ năng tiếp theo sau. Mức độ tự động này đòi hỏi có sự nhanh và
chính xác trong việc nhận diện mỗi từ cũng như tốc độ trôi chảy trong đọc
văn bản. Khả năng nhận diện từ tự động là yêu cầu cần thiết cho sự hình
thành của thành tố diễn cảm trong đọc lưu loát.
- Diễn cảm trong đọc thành tiếng chỉ sự tự nhiên khi đọc, hoặc khả
năng gộp từ thành các nhóm hợp lý và sự trình bày văn bản với mức âm
lượng khi đọc, ngắt nghỉ, cao độ, ngữ điệu thích hợp. Diễn cảm là chỉ báo
chứng tỏ người đọc đang tái hiện nội dung văn bản một cách chủ động, tích
cực. Theo đó, cũng có thể thấy được người học đã hiểu những gì đọc được.
Do vậy, diễn cảm còn được xem là phương tiện hỗ trợ cho việc đọc hiểu.
Hudson, Lane và Pullen (2005, tr. 707) đã đưa ra các tiêu chí cụ thể để
đánh giá sự trôi chảy, lưu loát của học sinh như sau:
- Học sinh nhấn giọng ở các từ phù hợp.
- Học sinh biết lên giọng và xuống giọng phù hợp.
- Sự lên xuống giọng của học sinh phản ánh được chức năng ngữ pháp
của câu (ví dụ: lên giọng ở cuối câu hỏi)
- Trong mẫu hội thoại, học sinh thay đổi giọng đọc phù hợp với diễn
biến tâm lý của nhân vật như hào hứng, buồn bã, hoảng sợ hoặc tự tin…
- Học sinh biết dựa vào dấu câu để ngắt nghỉ phù hợp ở các ngữ đoạn
- Học sinh biết dựa vào các mệnh đề quan hệ để ngắt nghỉ phù hợp ở
các ngữ đoạn.
Mặc dù hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng diễn cảm có vai trò
quan trọng nhưng từ thực tế đánh giá khả năng thể hiện diễn cảm cho thấy
16
đây là thành tố khó thực hiện nhất trong số ba thành tố nêu trên. Nhiều nhà
nghiên cứu chỉ tập trung vào hai thành tố có thể định lượng được một cách dễ
dàng của đọc lưu loát là tốc độ đọc và độ chính xác khi đọc. Do tính khó định
lượng của thành tố diễn cảm mà sự thể hiện diễn cảm của học sinh khi đọc
được xem là một kĩ năng ở cấp cao hơn và có ảnh hưởng đến việc xác định
mục tiêu dạy học. Khi tốc độ và độ chính xác của các em đạt được mức độ
phù hợp thì mới đặt ra mục tiêu là đọc đúng ngữ đoạn, diễn đạt đúng ý nghĩa
và đọc đúng ngữ điệu ([20], [23], [35]).
1.1.3.3. Mối quan hệ giữa các thành tố trong đọc lưu loát với kĩ
năng đọc lưu loát
a. Mối quan hệ giữa sự chính xác khi đọc (đọc đúng) và kĩ năng đọc lưu
loát
Đọc đúng là khả năng nhận diện và giải mã từ một cách chính xác. Việc
hiểu thấu đáo các nguyên tắc ngữ âm học, khả năng kết hợp của các âm và
vốn từ thường sử dụng lớn là những yếu tố cần cho việc đọc đúng. Sự nghèo
nàn vốn từ có ảnh hưởng tiêu cực đến đọc hiểu và đọc lưu loát. Người đọc
nếu mắc nhiều lỗi sai sẽ khó có thể hiểu được thông điệp của tác giả và dẫn
đến hiểu sai hoặc giải thích sai văn bản.
Khi không thể đọc một cách tự động bằng vốn từ nhận biết, học sinh
phải phân tích từ. Do đó, việc dạy các chiến lược nhận diện từ rất quan trọng
như kĩ năng giải mã, sử dụng sự tương đồng về âm – vần để giải mã các từ
chưa biết. Giải mã là một quá trình được thực hiện một cách liên tục khi
người đọc kết hợp các âm để tạo thành từ/tiếng. Để có thể giải mã chính xác,
người đọc cần chính xác trong (a) nhận diện các âm được thể hiện qua các
chữ cái, (b) kết hợp các âm vị, (c) đọc phiên âm (đây là một kĩ năng cấp cao
của giải mã), và (d) sử dụng cả chữ viết – âm thanh và ý nghĩa của các kí hiệu
17
để xác định chính xác cách phát âm và nghĩa của từ trong ngữ cảnh. Vì vậy,
việc dạy các quá trình con này là cần thiết cho bước đầu tiên của đọc lưu loát
đó là nhận diện từ chính xác [20].
b. Mối quan hệ giữa tốc độ đọc và kĩ năng đọc lưu loát
Tốc độ đọc bao gồm sự nhanh tự động trong đọc từ và tốc độ trôi chảy
trong đọc toàn bộ văn bản. Hầu hết các nhà giáo dục định lượng mức độ trong
tốc độ đọc bằng số từ đọc đúng trong một phút hoặc bằng khoảng thời gian
đọc hết đoạn văn. Những người đọc yếu thường có biểu hiện chậm, khó khăn
trong đọc một văn bản liên tục. Rất nhiều nghiên cứu về đọc lưu loát tập trung
vào tăng tốc độ đọc vì những học sinh đọc chậm thường dẫn đến sự yếu kém
trong đọc hiểu, mất hứng thú trong học tập và đọc sách. Các nhà nghiên cứu
đã nhận định rằng có mối tương quan rõ rệt giữa việc gia tăng tốc độ đọc với
việc nâng cao kĩ năng đọc hiểu của những học sinh trung bình hoặc yếu trong
kĩ năng đọc.
Tốc độ đọc thành tiếng có quan hệ với cách đánh giá của giáo viên về
mức độ trôi chảy khi đọc của học sinh, đồng thời nó cũng có mối tương quan
với tiêu chí bài kiểm tra mẫu trong chương trình giảng dạy cơ bản và cơ sở để
phân biệt các mức độ của học sinh. Vì vậy, tốc độ đọc thành tiếng được xem
là thước đo quan trọng trong việc đo lường kĩ năng đọc lưu loát [20].
c. Mối quan hệ giữa diễn cảm khi đọc và kĩ năng đọc lưu loát
Diễn cảm là một phạm trù thuộc về ngôn ngữ học dùng để mô tả về lĩnh
vực âm thanh, nhịp điệu trong ngôn ngữ nói. Đặc trưng về diễn cảm là sự thể
hiện văn bản đọc thông qua sự biến đổi về cao độ của giọng, trọng âm và thời
gian đọc. Theo Schreiber (dẫn theo [20]), người đọc được xem là lưu loát khi
có khả năng cấu trúc lại bài đọc theo từng cụm từ có nghĩa và đọc với diễn
cảm thích hợp. Những học sinh gặp khó khăn trong đọc thường thể hiện việc
18
đọc với giọng đều đều, không có sự diễn cảm hoặc không ngắt nghỉ phù hợp.
Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ nhận thấy rằng những người đọc diễn cảm tốt
thường đạt mức độ cao trong thang đo mức độ trong đọc lưu loát của NAEP.
Vì diễn cảm với đọc hiểu có mối liên hệ qua lại nên yếu tố diễn cảm được
xem như là một lĩnh vực quan trọng cần được chú ý trong dạy đọc thành tiếng
[20].
1.1.3.4. Các mức độ của đọc lưu loát
Khi đánh giá về mức độ lưu loát khi đọc của học sinh, kĩ năng diễn đạt
và ngắt nghỉ phù hợp được xem là quan trọng để xác định rằng trẻ đã trở
thành người đọc độc lập được hay chưa. Để đo lường chất lượng đọc thành
tiếng, các nhà giáo dục sử dụng bốn mức độ của National Assessment of
Educational Progress Fluency về đánh giá kĩ năng đọc lưu loát (1992) [30].
Thang đo này chú trọng đến mức độ đạt được của học sinh trong việc nhóm,
gộp từ ngữ và diễn đạt một văn bản dưới hình thức đọc thành tiếng.
Các mức độ của đọc lưu loát được đánh giá qua Thang đo độ lưu loát của
NAEP (tạm dịch từ “National Assessment of Educational Progress Fluency
Scale”) như sau:
19
Bảng 1.1. Thang đo độ lưu loát của NAEP
Đánh Mức độ Mô tả giá
Đọc các nhóm từ lớn. Mặc dù học sinh có thể còn thể
hiện một số ngập ngừng, lặp lại, lệch hướng khỏi văn
bản, nhưng những hạn chế này không làm xa rời khỏi Lưu cấu trúc chung của văn bản. Việc duy trì thể hiện cấu 4 loát trúc nghĩa của văn bản nhất quán. Phần lớn văn bản
được đọc với kiểu diễn giải một cách diễn cảm. Đọc
với một tốc độ thích hợp.
Đọc các nhóm gồm ba - bốn âm tiết. Có thể thể hiện
một số nhóm từ nhỏ hơn. Tuy nhiên, phần lớn việc
ngắt nghỉ, gộp nhóm các từ ngữ trong lúc đọc là thích
hợp, duy trì được cấu trúc nghĩa của văn bản. Ít hoặc Lưu 3 không thể hiện kiểu đọc diễn giải một cách diễn cảm. loát
Người đọc cố gắng đọc một cách diễn cảm và một
phần văn bản đã được đọc với sự diễn cảm. Nói
chung, đọc văn bản với tốc độ thích hợp.
Đọc các nhóm từ gồm hai âm tiết, cùng với những
nhóm gồm ba - bốn âm tiết. Một số chỗ còn đọc từng
từ một. Việc ngắt nghỉ, gộp nhóm các từ ngữ trong
lúc đọc có vẻ còn vụng về, không liên kết được với Chưa 2 ngữ cảnh rộng lớn hơn của câu và đoạn. Một phần lưu loát
nhỏ của văn bản được đọc với kiểu diễn giải diễn
cảm. Đọc những phần quan trọng của văn bản hoặc
quá chậm hoặc quá nhanh.
20
Đọc từng từ một. Thỉnh thoảng các nhóm gồm hai
hoặc ba âm tiết xuất hiện, nhưng điều này không Chưa thường xảy ra và/hoặc học sinh không duy trì được 1 lưu loát cấu trúc nghĩa của văn bản. Thiếu việc đọc diễn giải
diễn cảm. Đọc văn bản quá chậm.
Điểm 1 cũng có thể được dùng cho học sinh đọc quá nhanh, bỏ qua việc
ngắt nghỉ theo dấu câu và ranh giới giữa các cụm từ, và đọc ít hoặc không
diễn cảm.
Như vậy, khi đặt bốn mức độ trên trong sự so sánh với các yêu cầu về kĩ
năng đọc thông của học sinh lớp Một giai đoạn cuối học kì II, chúng tôi nhận
thấy những yêu cầu này ứng với mức độ 3 trong thang đo NAEP.
1.1.3.5. Mối quan hệ giữa đọc lưu loát và đọc hiểu
Đọc hiểu và đọc lưu loát là cặp kĩ năng được đặt song hành với nhau
trong cùng phạm trù cơ chế đọc và các yếu tố/kĩ năng cơ bản của đọc.
Đặc biệt, đọc lưu loát, trong vài thập niên vừa qua đã được giới nghiên
cứu giáo dục tiếng mẹ đẻ đặc biệt quan tâm tìm hiểu và lí giải khi nó được
đánh giá là cầu nối giữa nhận diện mặt chữ, đọc chữ với đọc hiểu, một điều
kiện cần và đủ cho đọc hiểu văn bản. Các em cũng có thể giải mã mượt mà
trong lúc đọc và điều này cho phép các em nắm được nghĩa của câu. Nhờ vậy,
các em nhớ nghĩa của các đoạn, và rồi có thể nắm vững được nghĩa của các
chương cũng như của sách.
Do đó, có thể nói đọc lưu loát đóng vai trò là tiền đề, là cơ sở cho đọc
hiểu.
21
1.1.4. Đọc lưu loát trong đọc thành tiếng và đọc thầm
1.1.4.1. Đọc thành tiếng
Đọc thành tiếng giống như hoạt động lời nói, nó có ích cho việc nắm
vững các mã/kí hiệu ngôn ngữ. Điều này cho phép các em có thể xác định
rằng mình nhận diện và hiểu các từ đúng. Cũng vậy, đọc thành tiếng giúp trẻ
hình dung ra những từ mà chúng không biết thông qua các dấu hiệu ngữ cảnh.
Xét về hiệu quả, đọc thành tiếng không tốt bằng đọc thầm. Chức năng và lợi
ích rõ nhất của đọc thành tiếng là chia sẻ điều được đọc với người khác (dẫn
theo [15]).
Chất lượng của đọc thành tiếng được đo bằng hai phẩm chất: đọc đúng
và đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy). Việc chuyển dạng thức chữ viết của từ
thành âm thanh là quá trình nắm và thể hiện kĩ thuật đọc. Đọc đúng và đọc
nhanh được xem là hai kĩ năng đầu tiên của đọc [11]. Đọc nhanh còn được gọi
là đọc lưu loát, trôi chảy. Đọc nhanh là một phẩm chất của đọc về mặt tốc độ.
Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (nhiệm vụ này phần dạy đọc của
phân môn Học Vần phải đảm nhiệm), đọc không ê a, ngắc ngứ, không vừa
đọc vừa đánh vần.
1.1.4.2. Đọc thầm
Đọc thầm là giai đoạn cuối cùng trong tiến trình chuyển hóa từ đọc lớn
sang đọc thầm. So sánh với đọc lớn, có thể thấy rõ ràng là đọc thầm là
phương cách đọc hữu hiệu hơn, mang lại lợi ích hơn cho việc tìm hiểu hoặc
lấy thông tin trong lúc đọc. Thực nghiệm đã cho thấy khi đọc thầm, HS có thể
đọc nhanh hơn. Đơn giản vì các em không phải lo lắng về phát âm đúng các
từ. Lúc này, các em chỉ cần quan tâm đến việc hiểu nội dung các âm thanh- từ
ngữ trong văn bản đọc. Dẫn theo Hoàng Thị Tuyết (2013), sau khi đọc thầm,
học sinh hăng hái tham gia và tích cực phản hồi hơn. Khi đọc thầm, học sinh
22
bắt đầu “nội tại hóa” việc đọc. Kiểu đọc này ở mức độ nhận thức cao hơn đọc
thành tiếng. Đặc biệt, trong tiến trình nhận thức như thế, đọc thầm vẫn xảy ra
hành động phát âm các từ, nhưng là những phát âm thuộc về mặt tinh thần
(mentally pronouncing) bởi vì trong lúc đọc nhanh, học sinh sẽ không thể
hiểu được nếu không gắn những giá trị âm vần với các biểu tượng chữ viết
trên trang giấy.
Xét về tốc độ đọc trong đọc thầm, dễ dàng thấy rằng việc đo lường tốc
độ đọc tiếng đơn giản hơn đo tốc độ đọc thầm, do vậy xác định sự lưu loát
trong đọc thầm càng phức tạp hơn. Trên thực tế, tiêu chí và chỉ báo đánh giá
sự trôi chảy trong đọc thành tiếng khác biệt với trong đọc thầm.
Để xác định tốc độ đọc trong đọc thầm, các nhà nghiên cứu cũng sử
dụng thuật ngữ “số từ đọc đúng/phút”. Về cách thức đo lường sự lưu loát
trong đọc thầm, các cuộc khảo sát thường bao gồm một vài hoặc tất cả các
yếu tố sau: đếm từ, số lượng các từ rời, số lượng các từ ít xuất hiện hoặc xuất
hiện nhiều, độ dài và tính phức tạp của câu văn, độ dài văn bản, các ví dụ
minh hoạ và chủ đề quen thuộc.
Dưới đây là bảng tổng hợp tốc độ đọc trong đọc thầm, được tổng hợp từ
các nguồn sau : Carver (1990), Mather và Goldstein (2001), và Rasinski (báo
cáo trên trang web ReadingA-Z.com)
Bảng 1.2. Bảng tổng hợp tốc độ đọc trong đọc thầm
Tốc độ đọc tối đa Tốc độ đọc trung bình LỚP (từ/phút – WPM) (từ/phút – WPM)
95 143 1
105 158 2
23
120 180 3
145 218 4
160 240 5
180 270 6
191 287 7
205 308 8
219 329 9
233 350 10
247 371 11
261 392 12
Người
200-250 400-750 trưởng
thành
Để giúp học sinh gia tăng tốc độ đọc thầm, giáo viên cũng cần có những
phương pháp tích cực khi giảng dạy cũng như cần phong phú trong khâu tổ
chức các hình thức học thầm. Một số hình thức đọc thầm đã được tìm thấy và
tổng kết từ nhiều chương trình dạy đọc được thực hiện trong nhiều năm qua.
- Đọc thầm không gián đoạn (uninterrupted silent sustained reading -
USSR)
- Đọc thầm bền vững (Silent sustained reading -SSR)
- Đọc tình nguyện tự do (Free Volunteer Reading- FVR)
24
- Cung cấp các cơ hội đọc mỗi ngày (Provides Opportunity With Every
Reading – POWER) [14], [15].
1.1.4.3. Tiến trình phát triển từ đọc thành tiếng đến đọc thầm
Dạy học sinh nhận diện từ và đọc trơn là nhiệm vụ cơ bản của dạy đọc ở
lớp Một. Đánh vần và đọc đúng, đọc to, rõ là một trong những phương thức
giúp học sinh mới học đọc nhận diện được mặt chữ viết của hệ thống âm
thanh tiếng Việt mà các em đã biết trước đây. Do vậy, trong tiến trình phát
triển năng lực đọc cho học sinh tiểu học, chúng ta thấy có bước chuyển tiếp từ
đọc thành tiếng sang đọc thầm ở học sinh đầu cấp tiểu học. Có 5 giai đoạn
khác nhau trong quá trình chuyển hóa từ đọc lớn sang đọc thầm:
(1) Đọc lớn với mình hoặc với một khán giả;
(2) Thì thầm - nghe các từ mình đọc nhưng không phát chúng lớn lên
(3) Rì rầm (mumble), HS phát ra những âm thanh, trong lúc cố gắng đọc
thầm, các em phát ra âm thanh để làm rõ nghĩa nội dung đang đọc;
(4) Chuyển động/mấp máy môi (lip movement) môi mấp máy, cử động
nhưng âm thanh không phát ra;
(5) Im lặng hoàn toàn, không cần nghe các từ đang đọc.
Quá trình chuyển biến từ đọc lớn sang đọc thầm này tương ứng với quá
trình phát triển từ giai đoạn ngôn ngữ tương tác với xã hội (social speech) đến
giai đoạn ngôn ngữ bên trong của cá nhân (inner speech) [15].
25
1.1.4.4. Đọc thành tiếng và đọc thầm trong quá trình phát triển
khả năng đọc lưu loát của học sinh
Xét về mặt lý thuyết, tốc độ đọc bao hàm cả trong đọc thành tiếng và đọc
thầm. Tuy nhiên thực tế giáo dục ở Việt Nam, có xu hướng còn chú trọng đến
tốc độ đọc trong đọc thành tiếng, ít chú ý đến tốc độ đọc trong đọc thầm.
Đọc thành tiếng và đọc thầm đều có vai trò nhất định của chúng trong
việc rèn và phát triển tốc độ đọc, nghĩa là khả năng đọc nhanh lưu loát. Chúng
có những mục đích khác nhau. Mục đích chính của đọc thành tiếng là nâng
cao khả năng nhận diện từ của người học. Trong khi đó, mục đích chính của
đọc thầm là làm cho người học có thể đọc vừa nhanh vừa hiểu được văn bản.
Vì vậy, có thể nói đọc thành tiếng và đọc thầm đều cần phải được nhấn mạnh
khi rèn luyện cho học sinh cách đọc để đạt được tốc độ lưu loát thích hợp.
1.1.5. Đánh giá đọc lưu loát trong đọc thành tiếng
Đề cập đến việc đánh giá đọc lưu loát trong đọc thành tiếng, các công
trình nghiên cứu trên thế giới đã có những công cụ cũng như cách thức đánh
giá như sau:
Bảng 1.3. Bảng tổng hợp các công cụ và cách đánh giá đọc lưu loát trong đọc thành tiếng5
Tổ chức
Công cụ đánh giá Mô tả
nghiên cứu
AIMSweb AIMSweb RAPs cung cấp cho giáo
Edformation Standard Reading viên hệ thống các bài văn để đánh
5 Dẫn theo [20]
Assessment giá một cách nhanh nhưng chính xác
26
Passages (RAPs) kĩ năng đọc lưu loát trong đọc thành
tiếng của học sinh. Các công cụ đánh
giá này thuộc hệ thống của
Curriculum Based Measurement
(CBM) và được sử dụng để giúp
giáo viên lựa chọn các phương pháp
dạy học và đánh giá sự tiến bộ của
học sinh. RAPs đã thử nghiệm và
công nhận giá trị của các công cụ
này.
DIBELS cung cấp các bài kiểm tra
kĩ năng đọc thành tiếng và trả lời câu Dynamic University of hỏi cho học sinh từ lớp một đến lớp Indicators of Basic Oregon and ba. Kiểm tra sự lưu loát trong đọc Early Literacy Sopris West thành tiếng được thực hiện trên cá Skills (DIBELS)
nhân học sinh.
GORT-4 là mẫu tham khảo để đo
lường chất lượng đọc thành tiếng.
Các kĩ năng được đánh giá bao gồm Gray Oral Reading tốc độ đọc, độ chính xác, độ lưu loát Test, Fourth PRO-ED (kết hợp hai yếu tố tốc độ và độ Edition (GORT-4) chính xác), đọc hiểu và toàn thể khả
năng đọc (kết hợp tốc độ, độ chính
xác và đọc hiểu).
National National Center Thang đo độ lưu loát của NAEP
27
Assessment of for Education cung cấp hướng dẫn để xác định chất
Educational Statistics lượng đọc thành tiếng dựa trên cơ sở
Progress (NAEP) (NCES) là sự tự nhiên khi đọc của học sinh.
Fluency Scale Chất lượng đọc của học sinh được
sắp xếp theo 4 mức độ và nhấn mạnh
vào việc ngắt nghỉ hơi phù hợp, sự
bám sát cấu trúc ngữ pháp và sức
diễn cảm khi đọc. Độ chính xác và
tốc độ được đo lường và tính toán
bằng cách tính số từ đọc đúng trong
một phút.
Reading Fluency Monitor là công cụ
đánh giá cho phép giáo viên giám sát
được sự tiến bộ của học sinh. Việc
thực hiện này được tiến hành qua ba
giai đoạn trong một năm học là đầu Reading Fluency năm, cuối học kì 1 và cuối năm. Bộ Monitor by Read Read Naturally công cụ này còn cung cấp hệ thống Naturally các bài văn theo cấp lớp từ 1 đến 8
và các phần mềm để bảo quản, báo
cáo và xử lý số liệu thu thập được
qua các bài đánh giá ở từng giai
đoạn cụ thể.
Trên cơ sở các cách thức đánh giá trên, chúng tôi sẽ tiến hành xây dựng
công cụ đánh giá tốc độ đọc cũng như lựa chọn tiến trình đánh giá phù hợp
nhất cho thực tiễn học đọc hiện nay.
28
1.1.6. Từ nhận biết và vốn từ nhận biết
Từ nhận biết (sight words) là những từ thường được sử dụng và khuyến
khích học sinh ghi nhớ để các em có thể nhận diện chúng một cách tự động
trong văn bản in mà không cần phải giải mã.
Một số lượng lớn các từ nhận biết được sử dụng trong các ngữ liệu cho
học sinh giai đoạn đầu. Thuận lợi mà trẻ có được khi có thể nhận diện từ một
cách nhanh, tự động là có thể nhận biết một khối lượng lớn các từ trong văn
bản trước khi có sự nỗ lực đọc chúng. Do đó, học sinh có thể tập trung vào
việc đọc hiểu vì các em không cần dừng lại để giải mã từng từ riêng lẻ. Các
nhà ngôn ngữ học tin rằng, việc có thể nhận diện được một số lượng lớn các
từ nhận biết mang đến cho trẻ sự khởi đầu tốt hơn cho việc học đọc.
Phạm trù “từ nhận biết” thường bị nhầm lẫn với việc nhận diện từ ngay
lập tức. Đôi khi “từ nhận biết” còn được gọi với tên gọi là “vốn từ nhận biết”,
tức vốn từ của riêng mỗi cá nhân, có thể được nhận biết ngay lập tức mà
không cần giải mã.
Vốn từ nhận biết chỉ những từ ngữ mà học sinh có thể nhận ra ngay để
đọc mà không cần thời gian để ngừng và suy nghĩ. Vốn từ nhận biết là những
từ được truy xuất nhanh dựa vào các mô hình chữ viết được lưu trữ trong trí
nhớ hơn là việc giải mã những mô hình âm thanh riêng lẻ thể hiện bằng các
con chữ. Vốn từ này được hình thành thông qua những lần đọc lặp lại một từ
nào đó một cách chính xác. Việc giải mã trôi chảy phụ thuộc vào việc vốn từ
nhận biết được phát triển tốt. Vì vậy, vốn từ nhận biết có vai trò quan trọng
đối với quá trình phát triển năng lực đọc của học sinh, giúp các em có thể
nhận ra, hiểu và đọc lớn được các từ ngữ ấy ngay lập tức trong văn bản. Khả
năng này được gọi là khả năng nhận diện từ.
29
Để hình thành khả năng nhận diện từ, cần có bốn điều kiện sau: (1) Trẻ
nhận ra sự tồn tại của từ ngữ trong bản chữ viết và trong chuỗi lời nói, hiểu
rằng biểu tượng chữ viết được mã hoá thành lời nói; (2) Trẻ được nghe đọc và
quan sát người khác đọc; (3) Trẻ có ý thức ngữ âm. Có ý thức ngữ âm tức là
trẻ biết các từ ngữ được tạo nên bởi các âm, các âm hợp thành các từ ngữ,
cùng một âm có thể tìm thấy trong nhiều chữ/từ khác nhau hoặc một từ/tiếng
có thể được thể hiện bằng những âm khác nhau; (4) Trẻ có hiểu biết về chữ
cái, tức là có khả năng nhận ra rằng các từ ngữ được kết hợp bằng những chữ
cái và biết vận dụng mối liên hệ ngữ âm và chữ để đọc các từ ngữ. Sự hiểu
biết này liên quan đến việc hình dung chữ viết thành lời nói và thiết lập mối
liên kết giữa âm và chữ một cách tường minh [14, tr.90, 91].
Do đó, giai đoạn học vần và học đọc ở lớp Một có vai trò quan trọng
việc cung cấp điều kiện cho cấp lớp này đạt được khả năng nhận diện từ, tạo
điều kiện tiền đề cho học sinh hình thành năng lực đọc.
1.1.7. Tiếng rỗng và tính vô nghĩa của tiếng rỗng
Theo từ điển Oxford, tiếng rỗng là một nhóm các chữ có cách viết và
phát âm tương tự như một từ nhưng không được người bản ngữ chấp nhận
[44]. Có thể hiểu, tiếng rỗng là một đơn vị lời nói hoặc văn bản có sự thể hiện
bên ngoài như một từ thật sự nhưng nó lại không có nghĩa. Đó là một dạng từ
vô nghĩa.
Đề tài sử dụng khái niệm về tiếng rỗng như sau: Tiếng rỗng được cấu tạo
từ các âm, vần mà khi kết hợp với nhau tạo thành những tiếng có thể phát âm
được nhưng không mang nghĩa.
Ravthon có nhận định rằng tiếng rỗng thường được sử dụng với mục
đích đánh giá khả năng đọc của học sinh. Đo lường sự lưu loát của học sinh
trong đọc tiếng rỗng là đo lường khả năng giải mã âm vị và kết hợp các âm
30
thanh tạo thành tiếng. Khả năng giải mã tiếng rỗng là một trong những dấu
hiệu quan trọng trong việc nhận diện khuyết tật về đọc.
Trong ngôn ngữ học, tiếng rỗng được xem là một dạng đặc biệt của ngôn
ngữ. Vì được tạo bởi các chuỗi âm, vần được sử dụng trong ngôn ngữ của
người bản ngữ nên người đọc/nói hoàn toàn có thể phát âm chúng một cách
dễ dàng.
Tuy nhiên, đối với học sinh, đặc biệt là học sinh tiểu học, tính vô nghĩa
cũng như việc ít được sử dụng của tiếng rỗng thường gây khó khăn cho trẻ
trong việc nhận biết nhanh, tự động. Vì để có thể nhận diện các tiếng rỗng,
học sinh buộc phải sử dụng các biện pháp giải mã đã được học. Điều này có
thể sẽ khiến cho độ lưu loát, ít nhất là thành tố tốc độ đọc, bị ảnh hưởng một
cách tiêu cực [40], [41].
1.1.8. Tốc độ đọc
1.1.7.1. Tốc độ đọc là gì?
Trong vật lý học, tốc độ là độ nhanh chậm của chuyển động, là độ lớn vô
hướng của vận tốc. Trong cuộc sống, tốc độ cũng dùng để chỉ mức độ nhanh
chậm của một hoạt động (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).
Theo từ điển Hoàng Phê, tốc độ là độ nhanh, nhịp độ của quá trình vận
động, phát triển.
Theo định nghĩa trong từ điển Collins English Dictionary, “reading
speed” (tốc độ đọc) là tốc độ đọc một văn bản, thường được biểu thị qua đơn
vị đo là số từ/phút. Tốc độ đọc thường được xác định bởi mục đích của việc
đọc (đọc để hiểu, đọc để học hay đọc để ghi nhớ…) [31], [33].
31
Từ đó, đề tài sử dụng quan niệm : Tốc độ đọc (đọc thành tiếng) tức là
nhịp độ đọc nhanh hay chậm của học sinh trên một văn bản trong một khoảng
thời gian nhất định.
1.1.7.2. Việc đo lường tốc độ đọc
Việc xác định tốc độ đọc của học sinh có vai trò quan trọng vì nó giúp
giáo viên theo dõi và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh. Có nhiều quan điểm
về cách thức đo lường tốc độ đọc của học sinh. Nhưng hầu hết, các nhà
nghiên cứu đều tính số từ đọc đúng trong một phút để xác định tốc độ đọc của
người đọc. Điển hình như sau:
Khi đề cập đến công cụ đo lường tốc độ đọc, Hudson, Lane và Pullen
(2005) cho rằng đọc văn bản và đọc thành tiếng là hai công cụ tốt nhất. Việc
đo tốc độ đọc có thể bao gồm cả việc đo khả năng nhận diện từ một cách tự
động và tốc độ đọc văn bản. Trong đó, để đo khả năng nhận diện một cách tự
động có thể sử dụng các bài kiểm tra vốn từ nhận biết và các bài kiểm tra tốc
độ giải mã. Ngoài ra, tác giả Hoàng Thị Tuyết cũng đã nêu nhóm kĩ năng giải
mã, kĩ năng đọc hiểu và vốn từ nhận biết là những cơ sở phát triển năng lực
đọc [14, tr. 90 – 101], [20].
Thêm vào đó, để đo lường tốc độ đọc (reading rate), các nhà ngôn ngữ
sử dụng các dạng bài kiểm tra6 về:
- Từ nhận biết (sight word): học sinh đọc các từ với độ khó tăng dần.
Độ khó này được tăng lên khi sử dụng các từ có âm, vần khó hoặc các từ ít
được sử dụng và mối quan hệ về âm thanh và chữ viết phức tạp.
- Tiếng rỗng (pseudoword / nonsense word): hoc sinh đọc một dãy các
tiếng có thể phát âm được nhưng vô nghĩa. Độ khó được tăng lên khi sử dụng
6 Dẫn theo [32]
các từ dài hơn và phát âm phức tạp hơn.
32
- Đọc hiểu (reading comprehension): học sinh được đọc đoạn văn hoặc
bằng cách đọc thầm hoặc bằng cách đọc thành tiếng, sau đó, người đọc được
hỏi một số câu hỏi để kiểm tra mức độ hiểu đoạn văn của họ.
Trong các dạng trên, chú trọng kiểm tra khả năng đọc nhanh, đọc lưu
loát (tốc độ đọc từ) và khả năng đọc đúng (khả năng đọc chính xác từ).
Về thời gian tiến hành đo lường tốc độ đọc, phương pháp đánh giá phổ
biến nhất được sử dụng là tính số lượng từ đọc đúng trong một phút. Đây là
một phương pháp đo lường được đánh giá là có giá trị và đáng tin cậy. Sở dĩ
chọn mức một phút làm thời gian tiêu chuẩn để đánh giá tốc độ đọc vì để đảm
bảo học sinh, đặc biệt học sinh tiểu học có thể duy trì được tốc độ một cách
ổn định nhất. Khi sử dụng các bài văn dài hơn, đòi hỏi học sinh phải đọc trong
một khoảng thời gian lâu hơn, điều này có thể ảnh hưởng đến sự chính xác
trong việc đọc của học sinh.
Bàn đến việc tính tốc độ đọc thường được sử dụng trong các nghiên cứu
về tốc độ đọc của học sinh, đặc biệt trong đọc văn bản, trang myspeed.com
cho rằng việc đo lường tốc độ đọc trong một phút (words per minute) thường
được tính bằng công thức đơn giản như sau: WPM = (số trang đọc được x số
từ trung bình mỗi trang) : tổng số phút đọc. Cũng xin nhấn mạnh là việc đọc
nhanh sẽ không có giá trị nếu người đọc không thể hiểu được những thông tin
vừa đọc. Đó là lý do mà hầu hết các bài kiểm tra tốc độ đọc thường kèm theo
những câu hỏi nhỏ để kiểm tra mức độ hiểu của người đọc [42].
Bên cạnh đó, LINCS (literacy information and communication system)
và trang http://www.sfsu.edu cũng thống nhất cách đo lường tốc độ đọc theo
các bước sau:
- Tính thời gian đọc theo giây.
33
- Chia tổng số giây đọc bài cho tổng số chữ đọc đúng. Số liệu này gọi là
số chữ đọc đúng trên giây (WPS).
- Nhân WPS với 60. Đây chính là tốc độ đọc (WPM hay số từ đọc đúng
trên phút).
Về quy trình tiến hành một bài đánh giá tốc độ đọc (bao gồm cả sự chính
xác khi đọc), Reading A-Z đã xây dựng tiến trình thực hiện như sau:
Về dụng cụ cần có:
- 2 bộ công cụ đo – một cho khảo sát viên và một cho học sinh
- Đồng hồ đếm giờ
- Bút chì
- Bảng che (nếu cần, với mục đích là không để học sinh thấy được
những gì khảo sát viên viết)
Về cách tiến hành
Tiến hành đọc bài đọc trong một phút, khảo sát viên bấm đồng hồ khi
học sinh bắt đầu đọc từ đầu tiên của đoạn văn (học sinh không cần đọc tựa
bài). Nói với học sinh rằng khảo sát viên sẽ đọc giúp học sinh những chữ mà
các em gặp khó khăn (ngập ngừng từ 3 giây trở lên) và các em sẽ tiếp tục đọc.
Hết một phút, khảo sát viên nói “Dừng lại”, bấm dừng đồng hồ và đánh dấu
vào chữ cuối cùng mà các em đọc.
Suốt quá trình đọc, cố gắng khuyến khích các em sửa lỗi sai một cách
nhanh chóng, không làm mất thời gian đọc bài. Khi học sinh mắc lỗi và tự sửa
sai vẫn được tính điểm. Nếu học sinh thực sự gặp khó khăn (không đọc được
bất kì chữ nào) thì phải dừng bài khảo sát. Cam đoan với các em rằng sẽ cho
các em đọc lại bài khi các em đã được luyện đọc thật tốt.
Khi học sinh đọc, khảo sát viên dò theo từng chữ các em đọc. Gạch xiên
( / ) đè lên các chữ mà các em đọc sai. Các lỗi sai bao gồm:
34
- Bỏ sót chữ
- Phát âm sai
- Thay chữ trong bài bằng một chữ khác
- Đọc sai trật tự các chữ, tất cả chữ đọc không đúng trật tự đều tính là
lỗi sai.
- Ngập ngừng ở một chữ nào đó từ 3 – 5 giây trở lên.
Ngoài ra, những điều học sinh mắc phải như sau không tính là lỗi của
các em:
- Thêm chữ
- Cách phát âm không đúng chính âm do ảnh hưởng giọng nói, tiếng địa
phương hoặc tật nói lắp.
- Đọc lặp lại
- Học sinh tự sửa sai các lỗi khi đọc.
Về cách tính điểm:
Dựa theo tổng số chữ theo hàng được liệt kê ở lề của bài đọc để tính tổng
số chữ học sinh đọc được. Sau đó, đếm số lỗi sai mà các em mắc phải. Trừ
tổng số chữ học sinh đọc trong một phút cho tổng số lỗi sai để có được tổng
số chữ đọc đúng. Đây chính là tốc độ đọc đúng trong một phút của học sinh.
Giáo viên có thể ghi lại các con số này vào biểu đồ để theo dõi sự tiến bộ của
học sinh trong kĩ năng đọc lưu loát. Lưu ý rằng, giáo viên nên có một kí hiệu
nhất định để biết rõ tốc độ đọc đó là ở lần đọc thứ mấy của học sinh. Ví dụ :
671(12/3/2014) : có nghĩa là lần đọc đầu tiên của học sinh vào ngày 12/3/2014.
Chia tổng số chữ đọc đúng cho tổng số chữ đọc được rồi nhân 100 nếu
muốn tính độ chính xác khi đọc của học sinh. Sau khoảng 6 lần đọc, học sinh
sẽ đạt được độ chính xác từ 90 – 95%. Đây là phương pháp đọc lặp lại, được
xem là một trong những phương pháp luyện đọc lưu loát có hiệu quả nhất.
35
Tiến trình trên có nhiều điểm tương đồng với các nghiên cứu về tốc độ
đọc ở một số nước trên thế giới. Ngoài ra, theo đánh giá của chúng tôi, tiến
trình này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn nước ta và có thể tiến hành một
cách dễ dàng, thuận lợi.
Ngoài các nghiên cứu trên diện rộng như trên, việc đánh giá kĩ năng đọc
lưu loát được khuyến khích thực hiện một cách thường xuyên trong phạm vi
lớp học. Để đo tốc độ và sự chính xác khi đọc thành tiếng của học sinh, các
nhà nghiên cứu đã phát triển một cách thức vô cùng đơn giản để có thể sử
dụng thường xuyên trên lớp. Để xác định số từ học sinh có thể đọc đúng trong
một phút (WCPM), cá nhân học sinh được đánh giá thông qua việc đọc thành
tiếng trong một phút đoạn văn chưa được đọc trước đó. Cách tính điểm
WCPM (words-correct-per-minute), khảo sát viên sẽ trừ số lỗi sai từ tổng số
chữ đọc được trong một phút với các lưu ý sau:
- Mỗi từ bị bỏ sót, phát âm sai, thay thế từ trong văn bản bằng từ khác
được tính là một lỗi.
- Đọc đảo vị trí của hai từ trong một cụm từ được tính là hai lỗi sai. (Ví
dụ: từ “vui chơi” đọc thành “chơi vui”)
- Đọc lặp lại từ, đọc sai nhưng tự sửa lại ngay, thêm từ vào văn bản, các
từ phát âm không chính xác do ảnh hưởng phương ngữ (ví dụ: âm đầu tr đọc
thành ch, âm cuối n đọc thành ng…) hoặc do sự suy yếu của bộ máy phát âm
sẽ không bị tính như một lỗi sai.
Như vậy, dù mục đích đo tốc độ là để nghiên cứu, xác định tốc độ đọc
trung bình mà học sinh cần đạt hay chỉ xuất phát từ mong muốn nâng cao chất
lượng các hoạt động giảng dạy trên lớp học thì nhìn chung, các cách thức và
quy trình tiến hành cũng tương tự nhau. Điều này khẳng định những công cụ,
bài kiểm tra, cách thức, quy trình… nêu trên mang tính khoa học, phù hợp với
36
đa dạng thành phần học sinh. Từ những nghiên cứu trên, đề tài có thêm căn cứ
để xây dựng hệ thống các công cụ nghiên cứu cũng như xây dựng một tiến
trình nghiên cứu cụ thể cho đề tài.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Quan niệm về dạy đọc lưu loát ở Việt Nam so với quốc tế
Xem xét cách quan niệm về các khái niệm cốt lõi liên quan đến dạy đọc
lưu loát có thể thấy tồn tại những điểm khác nhau về cơ bản giữa các nhà
ngôn ngữ trên thế giới và các nhà ngôn ngữ ở Việt Nam [15].
Bảng 1.4. Bảng tổng hợp các khái niệm cơ bản liên quan đến dạy đọc lưu
loát ở Việt Nam và quốc tế
Những khái niệm cơ bản liên quan đến dạy học đọc
Trong nguồn tư liệu Việt Nam Trong nguồn tư liệu quốc tế
Năng lực đọc được tạo nên từ Năng lực đọc được tạo nên từ 6
bốn kĩ năng cũng là 4 yêu cầu về chất yếu tố/kĩ năng nền tảng: (1) Ý thức
lượng đọc: đọc đúng, đọc nhanh (đọc văn bản in, (2) Ý thức âm vị, (3) Khả
lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức và năng nhận diện từ - giải mã kí tự; (4)
đọc diễn cảm. Vốn từ; (5) Trôi chảy, lưu loát; và (6)
Hiểu.
Đọc lưu loát (đọc nhanh) là một Đọc lưu loát là một trong 6 kĩ
trong ba yêu cầu của đọc thành tiếng. năng nền tảng tạo nên năng lực đọc.
Đọc lưu loát được tạo nên bởi ba
yếu tố: phát âm chính xác, tốc độ đọc
và diễn cảm.
37
Đọc lưu loát là quá trình phức
hợp và đa diện, là kết quả của nhiều
tiến trình, kĩ năng, kiến thức khác
nhau.
Diễn cảm là một yêu cầu của Diễn cảm là một trong ba yêu
đọc thành tiếng và chỉ áp dụng đối cầu của yếu tố lưu loát trong đọc.
với đọc văn bản văn chương.
Đọc thành tiếng (luyện đọc - đọc Đọc lưu loát được đặt song hành
đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm) được với đọc hiểu. Đọc lưu loát là cầu nối
đặt song hành với đọc hiểu (đọc ý cho đọc hiểu.
thức/ tìm hiểu bài).
Đọc thành tiếng được đặt song
hành với đọc thầm. Đọc thành tiếng
quan trọng trong giai đoạn đầu của
học đọc, trong lúc đọc thầm có ích
cho cả đời: học tập và cuộc sống.
Có một quá trình chuyển biến tự
nhiên từ đọc lớn sang đọc thầm tương
ứng với quá trình phát triển từ giai
đoạn ngôn ngữ tương tác xã hội đến
giao đoạn ngôn ngữ cá nhân bên
trong. Vì vậy, dạy đọc là quá trình tạo
cơ hội cho HS chuyển từ việc nắm
vững đọc lớn (oral reading) đến việc
38
nắm vững việc đọc thầm chín chắn và
hiệu quả hơn, cùng với việc giúp HS
nắm vững những chiến lược theo dõi
việc hiểu văn bản của mình khi đọc.
Tốc độ đọc được xác định trong Tốc độ đọc được xác định trong
đọc thành tiếng. đọc thành tiếng và đọc thầm Mức
độ lưu loát được xác định trong đọc
thành tiếng và đọc thầm.
Đọc thành tiếng/ đọc lặp lại Cùng với đọc lớn lặp lại, đọc
(repeated reading) là phương pháp thầm không gián đoán, đọc độc lập
giúp gia tăng tốc độ đọc. cũng là phương pháp giúp HS gia
tăng tốc độ đọc.
Có thể nói, cách quan niệm khác nhau về các khái niệm cơ bản trong dạy
đọc, mà cụ thể là đọc lưu loát, ít nhiều đã ảnh hưởng đến việc xây dựng các
yêu cầu cần đạt về kĩ năng đọc đối với học sinh Tiểu học (được nêu trong
Chuẩn kiến thức kĩ năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
1.2.2. Chuẩn kiến thức kĩ năng của lớp Một về kĩ năng đọc trong
môn Tiếng Việt theo chuẩn quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Chương trình Giáo dục Phổ thông cấp Tiểu học có nêu mức độ học sinh
cần đạt đối với kĩ năng đọc thông như sau:
Bảng 1.5. Bảng mức độ cần đạt của học sinh lớp Một trong kĩ năng đọc
Kĩ năng đọc Mức độ cần đạt Ghi chú
Các thao tác thực hiện Có tư thế đọc đúng. - Ngồi (hoặc đứng)
việc đọc thẳng lưng; sách, vở mở
39
rộng trên mặt bàn (hoặc
trên hai tay).
- Giữ khoảng cách giữa
mắt với sách, vở khoảng
25 cm.
Đọc thông - Đọc trơn, đọc rõ tiếng, - Đọc liền mạch, không
từ, câu. rời rạc những từ có
nhiều tiếng (ví dụ: học
tập, kênh rạch, vô tuyến
truyền hình,…)
- Có thể chưa đọc thật
đúng tất cả các tiếng có
vần khó, ít dùng (ví dụ:
uyu, oam, oăp, uyp,…)
- Đọc đúng đoạn hoặc bài
văn xuôi, văn vần có độ
dài khoảng 80 – 100 chữ,
tốc độ đọc tối thiểu 30
chữ/phút. Biết ngắt nghỉ
hơi ở chỗ có dấu câu.
Đọc hiểu - Hiểu nghĩa của từ ngữ - Biết giải nghĩa các từ
trong bài học. ngữ bằng lời mô tả hoặc
bằng vật thật, tranh ảnh.
- Hiểu nội dung thông báo - Trả lời đúng câu hỏi về
của câu, đoạn, bài. nội dung thông báo của
câu, đoạn, bài.
Ứng dụng kĩ năng đọc Thuộc khoảng 4 đoạn thơ
40
(bài thờ) đã học có độ dài
khoảng 30 đến 40 chữ.
1.2.3. Mức độ cần đạt trong kĩ năng đọc của học sinh lớp một trên
thế giới.
Đề cập đến vấn đề tốc độ đọc, hay số từ đọc đúng trên phút, đối với học
sinh Tiểu học, Reading A-Z đã có ba cuộc khảo sát riêng biệt về tốc độ đọc
của các em. Thông qua các cuộc khảo sát này, họ đề xuất các mức độ trung
bình về tốc độ đọc theo cấp lớp. Trên cơ sở này, giáo viên có thể so sánh tốc
độ đọc của học sinh để xác định sự phát triển năng lực nhận diện từ một cách
tự động của các em. So sánh này còn được sử dụng để xác định được tốc độ
đọc của các em có nằm trong chuẩn quy định của từng cấp lớp cụ thể hay
không. Từ đó, giáo viên có những điều chỉnh phù hợp về phương pháp hoặc
có những biện pháp hỗ trợ thêm để tăng tốc độ đọc của các em.
Về tốc độ đọc phù hợp với từng cấp lớp, Reading A-Z sử dụng hai mức
độ là giai đoạn đầu và giai đoạn cuối lớp một như sau:
Bảng 1.6. Bảng tốc độ đọc thành tiếng tối thiểu do Reading A-Z đề xuất
GIAI ĐOẠN ĐẦU GIAI ĐOẠN CUỐI
LỚP
LỚP MỘT7 LỚP MỘT
1 50 70
7 Xin giải thích thêm, sở dĩ ngay từ giai đoạn đầu ở lớp một mà các em đã được đánh giá tốc độ đọc lưu loát vì ở Mỹ, trước khi vào lớp một, học sinh đã được học lớp Reception (từ 4 – 5 tuổi). Ở lớp này, học sinh đã được học bảng chữ cái, cách ráp vần (tương ứng với phân môn Học vần ở nước ta). Do đó, vào giai đoạn đầu ở lớp một, các em đã đọc thông và viết được một số câu đơn giản (mức độ này ứng với giai đoạn đầu học kì II – khoảng tuần 25, 26 của năm học ở nước ta).
2 70 100
41
100 3 130
130 4 140
140 5 160
160 6 170
Thêm vào đó, dẫn theo Hudson, Roxanne F.; Lane, Holly B.; Pullen,
Paige C. (2005), tốc độ đọc trong đọc đoạn văn của học sinh ứng với mỗi cấp
lớp được các nhà nghiên cứu đề xuất nhằm đánh giá mức độ đạt được của học
sinh. Trong đề xuất này, các nhà nghiên cứu sử dụng ba mốc thời gian là Học
kì mùa thu (Fall Semester), Học kì mùa đông (Winter Semester) và Học kì
mùa xuân (Spring Semester). Ba giai đoạn này lần lượt ứng với giai đoạn đầu
học kì I (khoảng tháng 9), cuối học kì I (khoảng tháng 12) và đầu học kì II
(vào khoảng tháng 1 năm tiếp theo) ở Việt Nam. (Good, Simmons và
Kame’enui, 2001; Hasbrouk và Tindal, 1992; School Board of Alachua
County, 1997)
Bảng 1.7. Bảng tốc độ đọc tối thiểu do Good, Simmons và Kame’enui, (2001);
Hasbrouck và Tindal, (1992) và School Board of Alachua County, (1997) đề xuất8
LỚP HỌC KÌ SỐ TỪ ĐỌC ĐÚNG TRÊN
PHÚT
8 Dẫn nguồn từ [20]
39 Mùa đông 1
42
Mùa xuân 40 – 60
Mùa thu 53 2
Mùa đông 72 – 78
Mùa xuân 82 – 94
Mùa thu 79 3
Mùa đông 84 – 93
Mùa xuân 100 – 114
Mùa thu 90 – 99 4
Mùa đông 98 – 112
Mùa xuân 105 – 118
Mùa thu 105 5
Mùa đông 110 – 118
Mùa xuân 118 – 128
Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất mức độ cần
đạt về mặt tốc độ đọc thông đối với học sinh tiểu học như sau:
Bảng 1.8. Bảng đề xuất một số chuẩn tốc độ đọc thông cho học sinh tiểu học
(dẫn theo Reading A-Z)
LỚP RASINSKI MANZO HARRIS và SIPAY
1 80 30 – 54 60 – 90
2 90 66 – 104 85 – 120
43
110 86 – 124 115 – 140 3
140 95 – 130 140 – 170 4
150 108 – 140 170 – 195 5
180 112 – 145 195 – 220 6
Xét đến tính đa tiết của ngôn ngữ Châu Âu, ta có thể thấy được tốc độ
đọc được quy định ở nước ta và tốc độ đọc được đề xuất ở trên có sự chênh
lệch khá cao. Trong tiếng Việt, ranh giới giữa âm tiết và hình vị thường trùng
nhau. Gần như toàn bộ âm tiết đều hoạt động như từ với mối quan hệ giữa âm
và nghĩa chặt chẽ. Trong khi đó, đa số các từ trong ngôn ngữ châu Âu đều bao
gồm từ hai âm tiết trở lên. Do đó, nếu căn cứ vào đặc điểm này, có thể thấy
mức độ cần đạt của học sinh trong kĩ năng đọc thông ở các nghiên cứu nói
trên cao hơn hẳn so với chuẩn tốc độ đọc thông mà chương trình Tiếng Việt
Tiểu học đã quy định (30 tiếng/phút).
1.2.4. Một số nghiên cứu về tốc độ đọc của học sinh lớp một ở Việt
Nam
Bên cạnh các nghiên cứu trực tiếp về tốc độ đọc thông ở nước ngoài, tại
Việt Nam cũng có một số cuộc khảo sát trên diện rộng để đo tốc độ đọc trong
đọc thành tiếng của học sinh. Tuy các cuộc khảo sát này nhằm mục đích
nghiên cứu về chứng khó đọc ở học sinh tiểu học nhưng những số liệu thu
thập được cũng là một cơ sở thực tiễn có giá trị, mang tính thuyết phục cao
đối với đề tài.
Nguyễn Thị Ly Kha và Phạm Hải Lê (2013) trong nghiên cứu về “Bài
tập hỗ trợ học sinh lớp 1 bị chứng khó đọc tri nhận không gian” đã đưa ra
44
những số liệu rất có giá trị về tốc độ thực tế của học sinh lớp một. Theo thống
kê trong bài báo, hơn 90% học sinh lớp một ở thành phố Hồ Chí Minh thuộc
bảng chữ cái trước khi vào lớp một và tốc độ đọc thành tiếng của các em ở
tuần thứ 5, 6 của học kì I như sau:
Bảng 1.9. Bảng tốc độ đọc trung bình của học sinh lớp một ở Thành phố Hồ
Chí Minh
Số chữ cái/phút Số từ rỗng/phút Số từ đơn/phút
40.25 10.67 36.67
Cũng liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu về chứng khó đọc, ở chương 2
trong luận án Tiến sĩ Giáo dục học của Bùi Thế Hợp “Dạy học cho trẻ khó
khăn về đọc dựa trên vật liệu lời nói của trẻ” (2012), tác giả đã xây dựng bộ
công cụ khảo sát nhằm nhận diện trẻ mắc chứng khó đọc từ lớp 1 đến lớp 5 và
phân tích kết quả khảo sát để nhận diện trẻ mắc chứng khó đọc dựa trên tiêu
chí đọc trơn tiếng, từ rời và tiêu chí tốc độ đọc văn bản. Kết quả khảo sát học
sinh không có khó khăn về đọc ở hai tiêu chí là tốc độ đọc văn bản và khả
năng đọc từ rời trong khảo sát là 32.5 tiếng/phút. Mức trung bình này được
xem là vượt chuẩn của Bộ (30 tiếng/phút) và cách biệt khá xa với kết quả của
các em gặp khó khăn về đọc. Qua đây, cũng có thể nói tốc độ đọc không chỉ
là một tiêu chí để đánh giá độ lưu loát trong đọc thông mà còn là một chỉ báo
quan trọng để nhận diện trẻ mắc chứng khó đọc.
Tiểu kết chương 1
Thông qua nghiên cứu về tốc độ đọc thông của học sinh trên thực tế ở
Việt Nam và thế giới, chúng tôi nhận thấy, dường như có một vài điểm chưa
thực sự phù hợp trong quy định về mức độ cần đạt của kĩ năng đọc của
chương trình Tiếng Việt Tiểu học. Kết hợp việc nghiên cứu cơ sở lý luận về
45
các vấn đề như đặc điểm của âm tiết và trọng âm tiếng Việt, đọc lưu loát (đọc
thông) và các thành tố của nó, tốc độ đọc và cách xác định tốc độ đọc trong
đọc thành tiếng… cùng một số khái niệm có liên quan khác, đề tài đã xác định
được những căn cứ để tiến hành khảo sát và phân tích tốc độ đọc thực tế của
học sinh lớp một trong sự so sánh với chuẩn quy định của chương trình Tiếng
Việt Tiểu học.
46
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu
Đề tài sử dụng phương pháp này để nghiên cứu lịch sử vấn đề và phát
hiện, rút ra những kết luận cần thiết về cơ sở lí luận thông qua việc tìm hiểu
các tài liệu, tạp chí giáo trình, các bài nghiên cứu thuộc các lĩnh vực Giáo dục
học, Ngôn ngữ học, Lí luận và phương pháp giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học,
các tài liệu nước ngoài … có liên quan trực tiếp đến phạm vi nghiên cứu của
đề tài.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu thí điểm
Tiến hành thử nghiệm đo tốc độ đọc trên một nhóm nhỏ học sinh để xác
định tính tin cậy của bộ công cụ và đồng thời rút ra một số ưu, nhược điểm
của công cụ để có thể khắc phục kịp thời trước khi tiến hành khảo sát trên
diện rộng.
2.1.3. Phương pháp điều tra, khảo sát
Phương pháp này được sử dụng để thu thập những số liệu thực tế về khả
năng đọc trôi chảy cũng như đo tốc độ đọc của học sinh lớp Một ở các trường
thuộc TPHCM, Bình Phước, Long An, Đồng Nai.
Công cụ: Dùng phiếu khảo sát để đo tốc độ đọc của học sinh
2.1.4. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia
Tiến hành phỏng vấn các chuyên gia tâm lý, giáo dục tiểu học, giáo dục
ngôn ngữ cho học sinh tiểu học để tìm hiểu thêm về những yếu tố cần quan
tâm khi đo lường tốc độ đọc trên đối tượng là học sinh lớp một, những yếu tố
ảnh hướng tích cực hoặc tiêu cực đến tốc độ đọc của học sinh và cách thức
47
xây dựng bộ công cụ cũng như cách thức tiến hành khảo sát phù hợp với thực
tiễn dạy – học đọc ở Việt Nam…
2.1.5. Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh
Được sử dụng để thống kê, xử lí số liệu thu thập được trong quá trình
khảo sát, bổ trợ cho các phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm đạt tới những
kết luận chính xác, khách quan.
2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề cần nghiên cứu, đề tài tập trung tìm lời giải cho câu
hỏi sau:
- Khả năng đọc lưu loát của học sinh như thế nào?
- Xây dựng những tiêu chí nào để đo lường khả năng đọc lưu loát của
học sinh một cách chính xác nhất ?
- Trong các mẫu nghiên cứu, có bao nhiêu em đọc vượt chuẩn và vượt
bao nhiêu phần trăm so với chuẩn? Tại sao có hiện tượng này?
- Nếu đọc đúng chuẩn thì độ lưu loát thể hiện như thế nào?
- Có nên đề xuất chuẩn tốc độ đọc mới cho phù hợp hơn?
2.3. Giới hạn nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tốc độ đọc của học sinh lớp Một.
Xét về mặt lý thuyết, tốc độ đọc bao hàm cả trong đọc thành tiếng và đọc
thầm. Tuy nhiên thực tế giáo dục ở Việt Nam, có xu hướng còn chú trọng đến
tốc độ đọc trong đọc thành tiếng, ít chú ý đến tốc độ đọc trong đọc thầm. Cụ
thể là Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định chuẩn tốc độ đọc thông (tức đọc
thành tiếng) cho học sinh cấp tiểu học mà không có chuẩn về tốc độ đọc thầm.
Do đó, đề tài giới hạn trong việc khảo sát tốc độ đọc trong đọc thành tiếng của
48
học sinh lớp Một giai đoạn cuối Học kì II để phân tích tính hợp lý về mặt
khoa học trong chuẩn đọc thành tiếng của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2.4. Mẫu nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp chọn mẫu
Từ khách thể nghiên cứu là học sinh lớp một giai đoạn cuối học kì II
năm học 2013 – 2014 ở Tp.HCM, Đồng Nai nêu trên, đề tài chọn mẫu nghiên
cứu bằng cách ngẫu nhiên thuận tiện.
Chúng tôi chọn mẫu ngẫu nhiên là để phản ánh đúng nhất khả năng đọc
lưu loát thể hiện ở tốc độ đọc của các em. Từ đó, đề tài có tính đại diện cao và
đáng tin cậy hơn vì các đối tượng được chọn ngẫu nhiên thuận tiện từ thành
phố lớn đến các tỉnh nhỏ hơn.
2.4.2. Tiêu chí chọn mẫu
Tiêu chí chọn mẫu của đề tài như sau:
- Các trường được chọn đều chấp thuận và tạo điều kiện cho chúng tôi
thực hiện khảo sát.
- Các trường được chọn trong mỗi khu vực rải rác đều khắp các quận
nội thành và các quận, huyện ngoại thành.
- Các học sinh được chọn để khảo sát là các em có sự phát triển bình
thường về thể chất lẫn trí tuệ.
2.4.3. Cỡ mẫu
Mẫu nghiên cứu gồm khoảng hơn 800 học sinh thuộc các trường trong địa
bàn TPHCM và tỉnh Đồng Nai. Các em là học sinh lớp Một của các trường
trong năm học 2013 – 2014. Trong đó người viết tiến hành khảo sát ở các
trường sau :
49
TPHCM :
- Trường TH. NSH (Quận 3)
- Trường TH. ĐVN (Quận Phú Nhuận)
- Trường TH. PCT (Quận Tân Phú)
- Trường TH. TĐ (Quận Bình Thạnh)
- Trường TH. ĐTH (Quận 9)
- Trường TH. BHH1( Quận Bình Tân)
- Trường TH. DCK (Quận12)
Đồng Nai :
- Trường TH. CBQ.
2.5. Mục đích khảo sát
Tìm hiểu về tốc độ đọc thực tế của học sinh lớp một ở các kĩ năng đọc từ
nhận biết, tiếng rỗng, đọc hiểu. Từ đó hiểu thêm về một trong sáu thành tố
quan trọng tạo nên năng lực đọc là đọc trôi chảy, lưu loát.
2.6. Công cụ khảo sát
2.6.1. Căn cứ xây dựng công cụ khảo sát
Roxanne F. Hudson, Holly B. Lane, Paige C. Pullen (2005) cho rằng đọc
văn bản và đọc thành tiếng là hai công cụ đo tốc độ đọc tốt nhất. Việc đo tốc
độ đọc có thể bao gồm cả việc đo khả năng nhận diện từ một cách tự động và
tốc độ đọc văn bản. Trong đó, để đo khả năng nhận diện một cách tự động có
thể sử dụng các bài kiểm tra vốn từ nhận biết và các bài kiểm tra tốc độ giải
mã [6]. Ngoài ra, tác giả Hoàng Thị Tuyết cũng đã nêu nhóm kĩ năng giải mã,
kĩ năng đọc hiểu và vốn từ nhận biết là những cơ sở phát triển năng lực đọc
[3, tr. 90 – 101]. Từ đó, chúng tôi tiến hành xây dựng công cụ nghiên cứu bao
gồm:
50
- Phiếu 1 : Bảng đọc từ nhận biết (Phụ lục 1)
- Phiếu 2 : Bảng đọc tiếng rỗng (Phụ lục 2)
- Phiếu 3 : Đoạn văn và câu hỏi đọc hiểu (Phụ lục 3)
- Phiếu 4 : Bảng tổng hợp kết quả khảo sát (Phụ lục 4)
2.6.2. Mô tả công cụ khảo sát
Khi tiến hành tìm hiểu thực trạng đọc của học sinh lớp Một, chúng tôi sử
dụng các công cụ sau:
Bảng từ nhận biết (sight – word) : Bao gồm các từ đơn, từ phức với
độ khó tăng dần. Độ khó được tạo ra bằng cách sử dụng các từ với các âm,
vần khó hơn, những từ ít xuất hiện hoặc có mối quan hệ giữa chữ viết – âm
thanh phức tạp hơn. Số lượng chữ trong bảng là 100 chữ (70 từ). Mục đích sử
dụng bảng là kiểm tra khả năng nhận diện từ, tức khả năng truy xuất nhanh, tự
động các từ quen thuộc của học sinh.
Bảng tiếng rỗng (pseudoword / nonsense word) : Bao gồm một dãy
các tiếng có thể phát âm được nhưng vô nghĩa (nonsense). Độ khó tăng dần
bằng cách sử dụng các tiếng dài hơn hoặc có thể sử dụng các tiếng với cách
phát âm phức tạp hơn. Bảng gồm 100 chữ (100 từ rỗng) có chứa các vần đã
học trong chương trình. Mục đích của bảng tiếng rỗng là kiểm tra khả năng giải
mã một cách tự động của học sinh.
Văn bản/ đoạn văn (connected text) : Bao gồm một đoạn văn/bài văn
trong một phút và trả lời hệ thống các câu hỏi để kiểm tra khả năng lĩnh hội
văn.
Bài văn được sử dụng thuộc thể loại truyện ngụ ngôn, phù hợp với học
sinh tiểu học. Dựa theo mức độ cần đạt của của học sinh lớp một trong
Chương trình giáo dục Phổ thông – Cấp Tiểu học chúng tôi sử dụng đoạn văn
có độ dài 100 chữ. Sau khi đọc bài, học sinh sẽ được hỏi từ 1 – 3 câu hỏi có
51
nội dung liên quan đến bài học. Việc đưa các câu hỏi vào phần khảo sát
không nhằm kiểm tra tốc độ đọc của học sinh mà chỉ hướng đến việc tìm hiểu
khả năng nắm bắt được nội dung bài học của học sinh. Đối với lớp Một, thông
thường các em chỉ cần đạt được hai mức đầu tiên trong thang Bloom. Do đó,
khi xây dựng câu hỏi, chúng tôi dựa vào các yêu cầu về kĩ năng đọc hiểu là:
- Hiểu nội dung thông báo của câu, đoạn, bài.
- Hiểu nghĩa của từ ngữ trong bài đọc.
Các câu hỏi như sau:
Kĩ năng được đánh
Câu trả lời mong đợi Câu hỏi giá qua câu hỏi
Hiểu nội dung thông Cánh đồng tổ chức 1. Cánh đồng tổ chức
báo của đoạn văn – cuộc thi nhảy cao vào cuộc thi nhảy cao vào
Cấp độ: Biết mùa xuân. mùa nào?
Vì ăn mừng thắng Hiểu nội dung thông 2. Vì sao ếch không cuộc quá nhiều nên báo của đoạn văn – còn nhảy cao được thân hình ếch trở nên Cấp độ : Hiểu nữa? nặng nề.
3. Theo em, “phút huy
hoàng” ý nói đến lúc
nào? Hiểu nghĩa của từ ngữ Câu a : Lúc ếch chiến a. Lúc ếch chiến trong bài học – Cấp thắng thắng độ: Hiểu
b. Lúc ếch thua
cuộc
52
2.6.3. Xác định độ tin cậy của công cụ khảo sát
Độ tin cậy là mức độ chính xác hoặc độ chính xác trong các phép đo
được thực hiện bởi một công cụ nghiên cứu. Một công cụ nghiên cứu được
xem là đáng tin khi nó ổn định, phù hợp với đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp kiểm tra / kiểm tra lại là một phương pháp được sử dụng
phổ biến để tạo nên sự tin cậy của một công cụ nghiên cứu. Trong phương
pháp này, một công cụ được thử nghiệm một lần và sau đó, kiểm tra lại trong
các điều kiện tương tự nhau. Tỉ lệ giữa phương pháp kiểm tra và kiểm tra lại
(khi không có bất kì sự tác động nào khác) là một minh chứng cho tính tin cậy
của công cụ đó. Giá trị của tỉ lệ càng lớn, độ tin cậy càng cao.
Theo đó, trước khi tiến hành khảo sát trên diện rộng, chúng tôi tiến hành
thử nghiệm đối với 10 em học sinh lớp một tại một trường trong danh sách
được nêu ở trên, với thời gian giữa hai bài kiểm tra đánh giá là 3 tuần:
- Lần 1(01/4/2014)
- Lần 2 (22/4/2014)
Kết quả thu được về tốc độ đọc trung bình như sau:
Bảng 2.1. Kết quả tốc độ đọc trung bình của học sinh và tỉ lệ của hai lần
khảo sát
Tốc độ đọc trung bình
(tiếng/phút) Học sinh Tỉ lệ
Lần 1 Lần 2
44.33 45.01 1.02 BHH1-1.6-01
29.33 28 0.95 BHH1-1.6-02
53
43 44.53 1.04 BHH1-1.6-03
38 39.1 1.03 BHH1-1.6-04
28 30 1.07 BHH1-1.6-05
37 35.86 0.97 BHH1-1.6-06
47 51.01 1.09 BHH1-1.6-07
70.33 70 1 BHH1-1.6-08
46 45 0.98 BHH1-1.6-09
72.88 74.21 1.02 BHH1-1.6-10
Trung bình 45.58 46.27 1.01
Các học sinh trên đã được mã hoá để đảm bảo tính riêng tư của các cá
nhân tham gia khảo sát. Việc đánh số thứ tự đảm bảo không nhầm lẫn khi tiến
hành thử nghiệm nhằm xác định độ tin cậy của công cụ.
Kết quả thử nghiệm trên cho thấy tính ổn định trong kết quả khảo sát.
Điểm số ghi nhận được qua hai lần kiểm tra có sự tương đồng khá cao. Từ đó,
có thể cho rằng công cụ khảo sát được xây dựng mang tính tin cậy, có thể
được sử dụng khi tiến hành khảo sát trên diện rộng.
2.7. Tiến trình khảo sát
Chúng tôi tiến hành đo tốc độ đọc của học sinh qua ba bước sau:
Bước 1: Đọc bảng từ nhận biết
Bước 2: Đọc bảng tiếng rỗng
Bước 3: Đọc đoạn văn
54
Ở mỗi bước khảo sát cần tiến hành các bước nhỏ như sau:
2.7.1. Đo tốc độ đọc từ nhận biết và tiếng rỗng (Bảng 1, bảng
2)
α1: Giới thiệu với học sinh bảng từ/tiếng.
α2: Yêu cầu học sinh đọc to tất cả các từ/tiếng trong bảng (đọc trơn,
không đánh vần).
α3: Đọc mẫu 1 từ/tiếng và yêu cầu học sinh đọc thử 2 từ/tiếng mẫu còn
lại.
α4: Hướng dẫn học sinh đọc bảng từ/tiếng từ trái sang phải, từ trên
xuống dưới với tốc độ nhanh nhất có thể của các em.
α5: Tiến hành đo tốc độ đọc:
- Bắt đầu tính thời gian khi học sinh đọc từ đầu tiên.
- Đánh dấu / đè lên chữ học sinh đọc không đúng.
- Nếu học sinh tự sửa sai, khoanh tròn vào dấu gạch ngang như sau ,
và tính đó là một từ/tiếng học sinh đọc đúng.
- Nếu học sinh lưỡng lự quá 3 giây thì đánh dấu không đúng và yêu cầu
học sinh đọc từ /tiếng tiếp theo. Tránh trường hợp mất quá nhiều thời gian
cho một từ/tiếng.
- Đúng 60 giây thì ngừng lại. Đánh dấu ngoặc vuông ( ] ) vào ngay sau
chữ cuối cùng học sinh vừa đọc.
- Nếu học sinh hoàn thành bảng từ/tiếng trước 60 giây thì đánh dấu
chéo (X) vào ô vuông trong phần kết quả và ghi rõ thời gian học sinh hoàn
thành bảng từ/tiếng.
X Ví dụ: Học sinh hoàn thành trước 60 giây (58 giây)
- Nếu một học sinh không đọc được một từ/tiếng nào ở dòng đầu tiên
thì ngừng lại và chuyển sang bài khảo sát khác.
55
2.7.2. Đo tốc độ đọc đoạn văn ( Bảng 3 )
α1: Giới thiệu bài đọc với học sinh.
α2: Yêu cầu học sinh đọc to đoạn văn với tốc độ nhanh nhất.
α3: Tiến hành đo tốc độ đọc đoan văn:
- Bắt đầu tính thời gian khi học sinh đọc từ đầu tiên.
- Đánh dấu / đè lên chữ học sinh đọc không đúng.
- Nếu học sinh tự sửa sai, khoanh tròn vào dấu gạch ngang như sau ,
và tính đó là một từ học sinh đọc đúng.
- Nếu học sinh lưỡng lự quá 3 giây thì đánh dấu không đúng và yêu cầu
học sinh đọc từ tiếp theo. Tránh trường hợp mất quá nhiều thời gian cho một
từ.
- Nếu sau 60 giây mà học sinh vẫn chưa đọc xong bài thì đánh dấu
ngoặc vuông ( ] ) vào ngay sau chữ cuối cùng học sinh vừa đọc và cho các em
tiếp tục đọc hết đoạn văn.
- Nếu học sinh hoàn thành bài đọc trước 60 giây thì đánh dấu chéo ( X )
vào ô vuông trong phần kết quả và ghi rõ thời gian học sinh hoàn thành bài
đọc.
- Nếu một học sinh không đọc được một từ nào ở dòng đầu tiên thì
ngừng lại.
α4: Tiến hành hỏi học sinh các câu hỏi tìm hiểu bài.
- Cho HS 15 giây suy nghĩ trả lời câu hỏi, đánh dấu câu trả lời của HS
và chuyển sang câu hỏi thứ hai.
- Khi HS trả lời, đánh dấu câu trả lời nào đúng, câu trả lời nào sai hoặc
không có câu trả lời. Các câu trả lời của HS không nhất thiết cần chính xác
về từ trong bài, tuy nhiên cần phải biểu đạt được đúng ý.
Ví dụ:
56
Không trả Câu hỏi Câu trả lời Sai Đúng lời
Cánh đồng tổ chức 1. Cánh đồng tổ chức
cuộc thi nhảy cao vào X cuộc thi nhảy cao vào
mùa xuân mùa nào?
Vì ăn mừng thắng
cuộc từ ngày này qua 2. Vì sao ếch không
ngày khác nên thân X còn nhảy cao được
hình chúng ngày càng nữa?
nặng nề.
3. Theo em, “phút huy
hoàng” ý nói đến lúc
nào? Câu a : Lúc ếch chiến X c. Lúc ếch chiến thắng thắng
d. Lúc ếch thua
cuộc
Tiểu kết chương 2
Dựa vào những cơ sở lí luận có được ở chương 1, trong chương 2, đề tài
tiến hành xác định phương pháp nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, giới hạn
nghiên cứu, mẫu nghiên cứu cũng như mục đích, công cụ và tiến trình khảo
sát tốc độ đọc thực tế của học sinh lớp một giai đoạn cuối học kì I ở Thành
phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai. Đây sẽ là những căn cứ quan trọng để
quá trình khảo sát đảm bảo được mục đích nghiên cứu mà đề tài đã đề ra.
57
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thời gian tiến hành đo tốc độ đọc của chúng tôi kéo dài từ khoảng giữa
tháng 4/2014 đến giữa tháng 5/2014 và thu được 863 kết quả về tốc độ đọc
của học sinh lớp một. Kết quả như sau:
3.1. Về tốc độ đọc trung bình
học sinh
159
151
141
137
135
78
33
20
9
TỐC ĐỘ ĐỌC TRUNG BÌNH CỦA HỌC SINH LỚP 1
Đơn vị: học sinh
Hình 3.1. Kết quả tốc độ đọc trung bình của học sinh lớp 1
Để tính tốc độ đọc trung bình của học sinh, chúng tôi lấy trung bình cộng
của tốc độ đọc từ nhận biết, tốc độ đọc từ rỗng và tốc độ đọc đoạn văn. Từ kết
quả có được ở trên, dễ dàng thấy được có 82.5% số học sinh được khảo sát
đạt được chuẩn và vượt chuẩn (chuẩn tốc độ đọc thông được quy chuẩn là 30
tiếng/phút). Trong đó, so sánh kết quả ở các kĩ năng đọc từ nhận biết, kĩ năng
giải mã và kĩ năng đọc văn bản như sau:
58
TỐC ĐỘ ĐỌC CỦA HỌC SINH
h n i s c ọ h
TỐC ĐỘ ĐỌC TỪ
TỐC ĐỘ ĐỌC TỪ
TỐC ĐỘ ĐỌC TIẾNG RỖNG
TỐC ĐỘ ĐỌC TIẾNG RỖNG
TỐC ĐỘ ĐỌC ĐOẠN VĂN
TỐC ĐỘ ĐỌC ĐOẠN
450 400 350 300 250 200 150 100 50 0
Đơn vị: Học sinh
Hình 3.2. Kết quả đo tốc độ đọc của học sinh lớp một ở các kĩ năng
đọc từ nhận biết, đọc tiếng rỗng và đọc đoạn văn
Sự biểu hiện của đồ thị trên cho thấy biểu hiện của học sinh ở từng kĩ
năng riêng lẻ có sự khác nhau. Kết quả ở phần đánh giá tốc độ đọc đoạn văn
là tương đối cao và có sự dàn trải đồng đều về số lượng ở các mức độ. Trong
đó, số lượng học sinh đạt mức cao nhất trong thang đo tốc độ đọc là lớn nhất.
Ngược lại, kết quả có được trong phần đánh giá tốc độ đọc tiếng rỗng lại có
sự chênh lệch rất lớn giữa các mức độ, mà số lượng học sinh có tốc độ đọc
dưới 30 tiếng/phút là cao nhất. Kết quả cụ thể như sau:
59
3.1.1. Đọc bảng từ nhận biết
Kết quả đọc bảng từ nhận biết được thể hiện trong hình sau:
học sinh
182
169
135
119
109
85
41
13
10
TỐC ĐỘ ĐỌC TỪ NHẬN BIẾT
Đơn vị: Học sinh
Hình 3.3. Kết quả đo tốc độ đọc từ nhận biết của học sinh lớp Một
Ở bước khảo sát này, chúng tôi thu nhận kết quả về tốc độ đọc của các
em như sau: có 13.79% số học sinh có tốc độ đọc dưới 30 tiếng/phút (không
đạt chuẩn); số học sinh có tốc độ đọc từ 30 tiếng/phút trở lên (vượt chuẩn)
chiếm tỉ lệ 86.21%. Từ kết quả này có thể thấy được đa số học sinh đáp ứng
được chuẩn, trong đó số em vượt chuẩn từ 200% trở lên chiếm tỉ lệ gần 30%.
Qua đó, ta thấy được mức độ đáp ứng của trẻ đối với chuẩn quy định của
chương trình Tiếng Việt ở tiểu học là khá cao.
60
3.1.2. Đọc bảng tiếng rỗng
Kết quả đọc bảng tiếng rỗng thể hiện trong bảng sau:
học sinh
405
226
135
60
20
11
4
1
1
TỐC ĐỘ ĐỌC TIẾNG RỖNG
Đơn vị: Học sinh
Hình 3.4. Kết quả đo tốc độ đọc tiếng rỗng của học sinh lớp 1
Hình 3.4. cho thấy số học sinh có tốc độ đọc dưới chuẩn khá cao, chiếm
tỉ lệ xấp xỉ 47%. Bên cạnh đó, tỉ lệ học sinh có tốc độ đọc ở mức từ 30 – 39
tiếng/phút chiếm tỉ lệ cao nhất trong tổng số học sinh ở mức từ đạt chuẩn đến
vượt chuẩn là 26.19%.Trong khi đó, tỉ lệ học sinh đạt mức từ 40 tiếng/phút
trở lên là chỉ chiếm gần 27%, đây dường như là một tỉ lệ không cao bởi tiếng
Việt là ngôn ngữ đơn lập, phân tiết tính, quan hệ âm – chữ phần lớn theo kiểu
một đối một, phát âm đơn giản và hầu hết các tiếng đều mang nghĩa nhất
định. Tính chất vô nghĩa của tiếng rỗng có thể gây khó khăn cho trẻ trong tiếp
nhận, vì thế các em đọc chậm hơn so với đọc từ.
61
3.1.3. Đọc đoạn văn
học sinh
142
110
110
95
94
90
84
72
66
TỐC ĐỘ ĐỌC ĐOẠN VĂN
Đơn vị: Học sinh
Hình 3.5. Kết quả đo tốc độ đọc đoạn văn của học sinh lớp Một
Kĩ năng đọc đoạn văn là một kĩ năng quan trọng cần được khảo sát để để
kiểm tra độ lưu loát khi đọc của học sinh. Nhìn chung, hình 3.5. thể hiện rằng
tốc độ đọc của các em phân bố tương đối ổn định, đồng đều, giữa các mức độ
không có sự chênh lệch quá cao. Kết quả cho thấy số lượng học sinh có tốc độ
đọc từ 30 tiếng/phút trở lên chiếm tỉ lệ gần 90%. Trong đó, số học sinh có tốc
độ đọc từ gấp đôi chuẩn trở lên là 45.8% và riêng số học sinh đạt trên 100
tiếng/phút theo thống kê chiếm hơn 18%. Điều này cho thấy tốc độ đọc của
học sinh tại các trường được khảo sát có tốc độ vượt khá xa so với tốc độ tối
thiểu của chuẩn đọc thông mà Bộ Giáo dục đã quy định.
Trên thực tế, khi quy định về mức độ cần đạt trong đọc thông ở học sinh
giai đoạn cuối lớp một, Chuẩn kiến thức, kĩ năng đã đề cập tới yêu cầu rằng
học sinh cần đọc liền mạch, không rời rạc những từ có nhiều tiếng. Tuy nhiên,
62
qua khảo sát, không phải tất cả những em có tốc độ vượt chuẩn nêu trên đều
đáp ứng được tất cả các yêu cầu về các thành tố của đọc lưu loát, đặc biệt là
các yêu cầu trong thành tố diễn cảm. Theo thống kê nhanh dựa trên các tiêu
chí về sự thể hiện diễn cảm trong đọc lưu loát của các điều tra viên, có
khoảng 260/863 em còn ngắc ngứ, ê a, đọc không liền mạch, đọc từng tiếng
hoặc ngắt nghỉ hơi chưa phù hợp (bao gồm ngắt nghỉ hơi theo dấu câu và ngắt
nghỉ hơi theo ngữ đoạn thích hợp). Số liệu này được thể hiện qua hình 3.6 như
học sinh còn ngắc ngứ, ê a, đọc không liền mạch, đọc từng tiếng hoặc ngắt nghỉ hơi chưa phù hợp khi đọc
học sinh thể hiện lưu loát trong đọc
30%
70%
sau:
Hình 3.6. Tình trạng ngắt nghỉ hơi khi đọc đoạn văn của học sinh
63
Từ 30% số học sinh còn ngắc ngứ, ê a, đọc không liền mạch, đọc từng
tiếng hoặc ngắt nghỉ hơi chưa phù hợp thể hiện ở hình 3.6, chúng tôi tiến hành
tìm hiểu mối liên hệ giữa tốc độ đọc với hai yêu cầu nằm trong thành tố diễn
cảm – một trong ba thành tố của đọc thành tiếng – để phân tích chất lượng
đọc của học sinh.
Bảng 3.1. Mối liên hệ giữa tốc độ đọc với hai yêu cầu nằm trong yếu tố diễn cảm
Thể hiện diễn cảm
Gộp tiếng/từ Tốc độ đọc Mức lưu loát theo
thành nhóm Diễn cảm thang NAEP (tiếng/phút) hợp lí (X)
(X)
_ _ 1 Dưới 30
_ _ 1 30 – 39
_ _ 1 40 – 49
_ _ 1 50 – 59
X _ 2 60 – 69
X X 2 70 – 79
X X 3 80 – 89
X X 3 90 – 99
X X 4 Trên 100
64
Qua bảng 3.1., chúng tôi nhận xét rằng, hầu như toàn bộ những học sinh
chưa thể hiện diễn cảm trong khi đọc là những em có tốc độ đọc dưới 30
tiếng/phút. Thêm vào đó, số học sinh có tốc độ đọc trung bình từ 30
tiếng/phút trở lên vẫn ngắc ngứ, không trôi chảy khi đọc. Tương tự, đa số các
em đọc với tốc độ trên 40 tiếng/phút nhưng lại đọc hoàn toàn rời rạc các
tiếng, các từ nhiều tiếng, vừa đọc vừa đánh vần… Cá biệt có những trường
hợp các em đạt tốc độ từ 60 tiếng/phút (gấp đôi chuẩn) vẫn không thành công
trong việc gộp tiếng/từ thành nhóm thích hợp, và sự thể hiện lưu loát thậm chí
chỉ ở mức 1 theo thang NAEP. Tiếp đó, nhìn chung các em có tốc độ đọc đạt
từ mức 70 tiếng/phút trở lên thành công trong việc thể hiện diễn cảm khi đọc
và mức lưu loát theo thang NAEP đạt mức 2, 3. Và các em với tốc độ đọc trên
100 tiếng/phút, tuy vẫn còn mắc lỗi khi đọc nhưng theo đánh giá chung, mức
lưu loát của các em có thể nằm ở mức 4, mức cao nhất theo thang NAEP.
Nguyên nhân của tình trạng các em đọc nhanh nhưng còn đọc rời rạc,
thiếu tính liền mạch các từ nhiều tiếng là do các em chưa biết ngắt nghỉ hơi
phù hợp, đọc liến thoắng nhưng thiếu cẩn thận, đọc theo cảm tính dẫn đến vấp
váp và mắc nhiều lỗi (ví dụ: này nay; ếch chết; cánh đồng cành
đông; nhảy cao chạy cao; thân hình thần hình/thân mình; …).
Như vậy, có thể thấy rằng, tuy chưa biết nhóm gộp các tiếng thành các
cụm có nghĩa phù hợp, chưa đọc liền mạch các từ có nhiều tiếng nhưng tốc độ
của các em đạt được vẫn rất cao. Từ đó, dễ dàng thấy một bất cập rằng với tốc
độ là 30 tiếng/phút, liệu rằng các em có thể đạt được các yêu cầu về kĩ năng
đọc thông đã được quy định hay không? Hay nói theo cách khác, nếu học sinh
đạt được các yêu cầu về đọc thông, chắc chắn tốc độ đọc của các em sẽ cao
hơn hẳn so với mức độ tối thiểu 30 tiếng/phút.
65
3.2. Về tốc độ đọc thực tế của học sinh so với chuẩn đọc của chương
trình Tiếng Việt ở Tiểu học
học sinh
708
151
4
VƯỢT CHUẨN
ĐẠT CHUẨN
KHÔNG ĐẠT CHUẨN
HỌC SINH VƯỢT CHUẨN, ĐẠT CHUẨN, KHÔNG ĐẠT CHUẨN
Đơn vị: Học sinh
Hình 3.7. Tốc độ đọc thực tế của học sinh so với chuẩn đọc của
chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học
Ở hình 3.7., chúng tôi nhận thấy rằng hơn 82% số học sinh giai đoạn
cuối lớp một đều có tốc độ đọc trung bình vượt chuẩn tốc độ đọc thông được
quy định trong chương trình Tiếng Việt của lớp một. Mặc dù đối tượng được
khảo sát tập trung chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh, nhưng số học sinh này
được dàn trải khắp các quận từ nội thành đến ngoại thành. Đặc biệt có quận
Bình Tân, một quận ngoại thành với học sinh đa phần là dân nhập cư với các
điều kiện sống, sinh hoạt, điều kiện học tập, và năng lực bản thân khác nhau.
Do đó, đối tượng khảo sát tương đối đa dạng. Tuy nhiên, nếu được khảo sát
trên một diện rộng, ở nhiều tỉnh thành khác thì tính đại diện của đề tài sẽ cao
hơn, thuyết phục hơn.
66
Ngoài ra, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt về tốc độ đọc
trung bình của học sinh ở từng địa phương cụ thể như sau:
60
50
40
30
tiếng/phút
20
10
0
Quận 9 Quận 3 Quận
Tân Phú
Quận Bình Tân
Quận BÌnh Thạnh
Huyện Hóc Môn
Quận Phú Nhuận
TỐC ĐỘ ĐỌC TRUNG BÌNH THEO QUẬN, HUYỆN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Đơn vị: Tiếng/phút
Hình 3.8. Tốc độ đọc trung bình theo quận, huyện ở thành phố Hồ
Chí Minh
Số liệu ở hình 3.8. cho thấy các quận nội thành đạt được mức độ cao hơn
các quận huyện, ngoại thành. Và tốc độ đọc trung bình ở thành phố Hồ Chí
Minh tương đối cao hơn ở Đồng Nai :
67
52
51
50
49
48
tiếng/phút
47
TỐC ĐỘ ĐỌC TRUNG BÌNH CỦA HỌC SINH Ở TPHCM VÀ TỈNH ĐỒNG NAI
c ọ đ ộ đ c ố T
46
45
44
43
TPHCM
Tỉnh Đồng Nai
Đơn vị: Tiếng/phút
Hình 3.9. Tốc độ đọc trung bình của học sinh ở thành phố Hồ Chí
Minh so với tỉnh Đồng Nai
Nhưng nhìn chung, tốc độ đọc trung bình của học sinh ở từng quận,
huyện đều vượt chuẩn xấp xỉ 1.5 lần. Đây có thể xem như một chỉ báo rằng
chuẩn tốc độ đọc thông (30 tiếng/phút) là mức mà hầu như tất cả học sinh đều
có thể đạt được, kể cả các em có học lực yếu.
3.3. Về tình trạng mắc lỗi trong đọc trôi chảy
Qua thống kê, chúng tôi ghi nhận được những số liệu sau:
- Số học sinh không mắc bất kì lỗi nào khi đọc: 376/863 học sinh,
chiếm tỉ lệ 43.57%.
- Số học sinh mắc lỗi khi đọc: 487/863 học sinh, chiếm tỉ lệ 56.43%.
Trong đó bao gồm các lỗi sai sau:
68
Bảng 3.2. Bảng thống kê các lỗi khi đọc của học sinh
Số lượng Tỉ lệ Mô tả (trường Lỗi (%) hợp)
Học sinh đọc từ/tiếng trong văn bản
thành một từ/tiếng khác. Cụ thể như
thay âm đầu – giữ nguyên vần (ví dụ :
hình mình) hoặc ngược lại (ví dụ :
chiến ` chiết) để tạo thành từ/tiếng Sai âm, 349 71.66 mới có cách phát âm gần giống mới vần
từ/tiếng trong văn bản. Ngoài ra, có
một số trường hợp thay từ/tiếng trong
bài thành từ/tiếng hoàn toàn khác (ví
dụ : ếch chết).
Các em đọc các từ/tiếng trong bài
nhưng không bỏ dấu hoặc nhầm lẫn
Sai thanh giữa các dấu thanh (ví dụ : cánh đồng 208 42.71
điệu cành đông, này nay, kiên trì
kiên trí…)
Học sinh bỏ sót từ/tiếng trong văn
bản. Những học sinh mắc lỗi này
trong khi đọc thường rơi vào những 32 6.57 Bỏ từ
học sinh có tốc độ đọc nhanh, đọc
liến thoắng, gấp gáp.
69
Học sinh đọc sai vị trí các từ hoặc các
tiếng trong từ / cụm từ (ví dụ: tập 13 2.67 Đảo từ
luyện luyện tập).
Tình trạng mắc lỗi của học sinh chiếm tỉ lệ cao như trong các số liệu trên
có thể vì các nguyên nhân sau:
- Đây là bài đọc hoàn toàn mới, các em chưa từng được thực hành trước
đó nên dẫn đến việc vấp váp khi đọc.
- Học sinh chưa đạt được mức độ tự động trong nhận diện từ nên để đọc
nhanh, học sinh thường dùng kinh nghiệm, vốn từ có sẵn để đọc theo quán
tính những từ quen thuộc.
- Học sinh đọc nhanh nhưng gấp gáp, thiếu tính cẩn thận, đọc không tập
trung, đọc cho xong chứ không nhằm mục đích hiểu nội dung văn bản nên khi
mắc lỗi, các em không tự phát hiện và điều chỉnh kịp thời.
3.4. Về kĩ năng đọc hiểu
Khi khảo sát kĩ năng đọc hiểu trên 863 em học sinh lớp Một, chúng tôi
ghi nhận rằng chỉ có 108/863 học sinh, chiếm 12.5%, trả lời đúng được cả ba
câu hỏi, 267/863 học sinh, chiếm 30.9%, trả lời đúng được hai câu hỏi,
307/863 học sinh, chiếm 35.57%, các trường hợp còn lại là những em không
trả lời được cả ba câu hỏi.
70
Đối với từng câu hỏi, sự phân hoá của học sinh cũng khá rõ như sau:
KẾT QUẢ TRẢ LỜI CÂU HỎI
m ă r t n ầ h p ệ l ỉ
T
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
Không trả lời
Câu 1 16
Câu 2 160
Câu 3 493
Sai
205
341
206
Đúng
642
362
164
Đơn vị: Học sinh
Hình 3.10. Kết quả trả lời câu hỏi của học sinh
Kết quả khảo sát thể hiện ở câu hỏi số 1 (đòi hỏi học sinh tái hiện lại
điều đã đọc trong văn bản) số lượng học sinh trả lời đúng là cao nhất (khoảng
74.4%) và thấp nhất đối với câu hỏi số 3 (để trả lời câu hỏi này, học sinh cần
hiểu nghĩa từ ngữ dựa theo ngữ cảnh của bài), chỉ có 19% học sinh trả lời
đúng; bên cạnh đó, có chưa tới 50% học sinh trả lời được câu hỏi số 2 (câu
hỏi đòi hỏi mức hiểu nội dung thông báo của đoạn). Điều này cho thấy, đa số
các em còn gặp khó khăn trong việc trả lời các câu hỏi ở mức từ hiểu trở lên.
Ngoài ra, cách trả lời câu hỏi của các em bộc lộ những điểm sau:
- Học sinh có thói quen trả lời câu trả lời bằng cách đọc nguyên văn văn
bản, không có ý thức chọn lọc chi tiết tương ứng với yêu cầu câu hỏi.
71
- Học sinh thường trả lời tràn lan, trả lời theo kinh nghiệm chủ quan
hoặc sử dụng các câu “cụt” khi trả lời.
- Học sinh lúng túng khi các từ đã đọc không cùng tương ứng với các từ
trong câu hỏi.
- Học sinh thường trả lời các câu hỏi một cách gấp gáp, thiếu sự đầu tư
thời gian để suy nghĩ, lựa chọn chi tiết chính trong văn bản để trả lời cho câu
hỏi.
- Đa phần các em chưa biết cách hình dung ra nghĩa từ bằng cách dựa
vào ngữ cảnh.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trên là do:
- Đây là bài đọc có nội dung mới, các em vừa phải tiến hành song song
hai quá trình đó là đọc thông và đọc hiểu. Thêm vào đó, do chưa đạt đến mức
độ tự động trong nhận diện từ, một số em còn phải tiến hành đánh vần để giải
mã các từ trong bài. Điều này khiến học sinh gặp khó khăn trong việc ghi nhớ
nội dung đã đọc để có thể tự diễn đạt lại các chi tiết quan trọng. Từ đó dẫn
đến việc các em chưa trả lời câu hỏi một cách chính xác.
- Học sinh chưa biết sử dụng các chiến lược cơ bản cần có của người
đọc khi đọc một văn bản bất kì:
Nắm tổng quát nội dung bài đọc.
Phỏng đoán nội dung phần văn bản sắp đọc.
Hình dung nghĩa từ dựa vào ngữ cảnh.
Đọc lại và diễn đạt lại các chi tiết quan trọng.
3.5. Một vài bàn luận
Chương trình Phổ thông cấp Tiểu học có nêu mức độ học sinh cần đạt
đối với kĩ năng đọc thông như sau:
72
Ghi chú Mức độ cần đạt
- Đọc trơn, đọc rõ tiếng, từ, câu. - Đọc liền mạch, không rời rạc những
từ có nhiều tiếng (ví dụ: học tập, kênh
rạch, vô tuyến truyền hình,…)
- Có thể chưa đọc thật đúng tất cả các
tiếng có vần khó, ít dùng (ví dụ: uyu,
oam, oăp, uyp,…)
- Đọc đúng đoạn hoặc bài văn xuôi,
văn vần có độ dài khoảng 80 – 100
chữ, tốc độ đọc tối thiểu 30 chữ/phút.
Biết ngắt nghỉ hơi ở chỗ có dấu câu.
So sánh các yêu cầu trên với kết quả khảo sát đã trình bày ở trên, chúng
tôi nhận thấy một số điểm sau đây:
- Tốc độ đọc tối thiểu được quy chuẩn trong chương trình Tiếng Việt
lớp một là 30 tiếng/phút. Tốc độ đọc trung bình mà chúng tôi thu được qua
khảo sát là 67.54 tiếng/phút. Như vậy, sự chênh lệch giữa tốc độ đọc được
quy chuẩn và tốc độ đọc thực tế của học sinh là khá cao (gấp 2.25 lần). Số
liệu này cho phép ta suy luận rằng, việc chọn mức 30 tiếng/phút làm mức độ
cần đạt có vẻ như cần được xem xét lại cho phù hợp hơn.
- Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn, tức là đọc không ê a,
ngắc ngứ, không vừa đọc vừa đánh vần. Vấn đề đọc nhanh chỉ đặt ra sau khi
đã đọc đúng (đúng âm vị, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ). Đơn vị để đọc nhanh là
cụm từ, câu, đoạn, bài [1, tr. 168]. Có thể hiểu, nếu học sinh có thể gộp được
các từ, các cụm từ một cách hợp lí thì khi đó các em đã nắm được nghĩa của
73
các từ, các cụm từ. Đây chính là cơ sở để các em hiểu được nghĩa của câu,
đoạn, bài. Từ đó, tốc độ đọc sẽ được gia tăng một cách đáng kể.
Điều này bộc lộ rằng yêu cầu trong Chuẩn đọc thông của Chương trình
Tiếng Việt lớp Một chưa phù hợp với sự thể hiện qua tốc độ đọc của học sinh.
Bởi lẽ, nếu học sinh đạt được yêu cầu về đọc liền mạch, không rời rạc, biết
cách gộp các từ thành các cụm từ một các phù hợp thì tốc độ của các em chắc
chắn phải cao hơn rất nhiều so với quy định là 30 tiếng/phút. Ngược lại, nếu
chấp nhận tốc độ đọc 30 tiếng/phút là mức độ có thể chấp nhận được của học
sinh thì việc yêu cầu các em đọc liền mạch, không rời rạc những từ có nhiều
tiếng, biết ngắt nghỉ hơi phù hợp là điều khó thực hiện. Do đó, ở mức độ này,
các em khó có thể đạt được mức lưu loát để hướng đến đọc hiểu ở giai đoạn
sau. Đơn cử trong khảo sát, tất cả học sinh đạt tốc độ 30 tiếng/phút đều gặp
vấn đề về sự lưu loát. Cụ thể, các em đọc một cách ngắc ngứ, rời rạc từng
tiếng một, không có sự liền mạch cần thiết khi đọc một văn bản. Các em thậm
chí không thực hiện được yêu cầu tối thiểu là gộp hai tiếng của một từ thành
một ngữ đoạn thích hợp. Có thể nói, ngoài việc xem xét về các yêu cầu trong
chuẩn đọc thông đã được quy định, cần có những biện pháp cụ thể nhằm
hướng dẫn các em đạt được sự lưu loát trong khi đọc để từng bước hình thành
niềm đam mê đọc sách và hướng tới mức độ độc lập khi đọc.
Ngoài ra, chương trình Phổ thông cấp Tiểu học có nêu mức độ học sinh
cần đạt đối với kĩ năng đọc hiểu như sau:
Kĩ năng Mức độ cần đạt Ghí chú
Đọc hiểu - Hiểu nghĩa của từ ngữ - Biết giải nghĩa các từ
trong bài học. ngữ bằng lời mô tả hoặc
bằng vật thật, tranh ảnh.
- Hiểu nội dung thông - Trả lời đúng câu hỏi về
74
báo của câu, đoạn, bài. nội dung thông báo của
câu, đoạn, bài.
Kết quả khảo sát đã cho thấy đa số các em đạt được yêu cầu về việc hiểu
nội dung thông báo của câu, đoạn, bài (Cấp độ : Biết). Một số em đạt được
mức hiểu nghĩa từ thông qua ngữ cảnh và trả lời câu hỏi giải thích một hiện
tượng (Cấp độ : Hiểu). Tuy nhiên, con số này quả thực không cao. Điều này
cho phép suy luận rằng hoạt động dạy đọc hiểu trên lớp còn chưa thực sự hiệu
quả, cần có một số chiến lược giảng dạy, nhằm phát triển kĩ năng đọc hiểu
của học sinh.
3.6. Một số đề xuất
3.6.1. Đề xuất cho việc dạy đọc lưu loát
Phương pháp dạy đọc lưu loát bản thân nó không phải là một chương
trình dạy đọc nhưng nó là một phần quan trọng trong dạy đọc hiểu. Khi tích
hợp phương pháp dạy đọc lưu loát vào chương trình, giáo viên có thể sử dụng
các biện pháp hỗ trợ sau:
- Điều quan trọng nhất khi dạy đọc lưu loát là giúp trẻ ghi nhớ các từ
trên cơ sở đọc lặp lại một cách chính xác về mặt ngữ âm của cụ thể từng từ
một. Để nâng cao kĩ năng đọc lưu loát, trước hết, cần hướng dẫn các em đọc
đúng, chính xác về mặt ngữ âm của từ, mà trước hết là đánh vần chính xác.
- Đánh giá kĩ năng giải mã và nhận diện từ của học sinh một cách
thường xuyên để có biện pháp nâng cao tốc độ giải mã và nhận diện từ của
học sinh.
- Đọc thành tiếng mẫu : giáo viên đọc lớn như một giai đoạn trong đọc
lặp lại có sự can thiệp của giáo viên.
75
- Cung cấp các hướng dẫn và nhận xét một cách trực tiếp để dạy học
sinh giải mã các từ không quen thuộc, sự chính xác trong cách diễn đạt và
nhóm gộp các từ, cụm từ theo ngữ đoạn, cách lướt mắt khi đọc…
- Sử dụng các phương pháp hỗ trợ đọc thành tiếng như đọc có sự hướng
dẫn của giáo viên, đọc đồng thanh, đọc nhóm đôi, đọc có thu âm…
- Cung cấp cho học sinh nhiều ngữ liệu đọc phù hợp với cấp độ của học
sinh và khuyến khích các em đọc một cách độc lập, tự giác hoặc đọc lặp lại
nhiều lần. Có thể tạo cơ hội cho học sinh thực hành đọc lặp lại các ngữ liệu
với độ khó tăng dần. Ghi nhận thời gian và tính số từ đọc đúng trên phút một
cách thường xuyên. Có thể yêu cầu học sinh tự vẽ biểu đồ để thấy được sự
tiến bộ của mình, từ đó hình thành động lực học tập ngay từ bên trong của trẻ.
- Khuyến khích việc thể hiện diễn cảm dựa trên các ngữ đoạn. Chú
trọng việc hướng dẫn các em phân tích đoạn văn thành các ngữ đoạn thích
hợp (dựa theo các dấu hiệu trên văn bản như dấu câu) để tăng tốc độ đọc cũng
như hiểu được nội dung văn bản.
Như vậy, với sự giúp đỡ của cha mẹ và giáo viên, trẻ có thể học một số
chiến lược đọc lưu loát như sau:
- Theo dõi từ/cụm từ đang đọc bằng cách chỉ tay, lướt mắt một cách cẩn
thận theo các từ đang đọc nhằm hiểu rõ chúng.
- Nhờ phụ huynh hoặc giáo viên đọc lớn và ghi nhớ giọng đọc, cách
diễn đạt của họ. Dùng tay dò theo các từ mà giáo viên hoặc cha mẹ đang đọc
mẫu. Sau đó đọc lại chúng.
- Đọc nhiều lần quyển sách hoặc bài thơ yêu thích. Tăng dần mức độ
luyện tập với việc thể hiện diễn cảm thích hợp.
- Lắng nghe tích cực cách thể hiện giọng đọc, ngắt nghỉ hơi của giáo
viên hoặc phụ huynh và đọc lại ngay lập tức.
76
3.6.2. Đề xuất cho việc dạy đọc hiểu
Để nâng cao chất lượng đọc hiểu, cần chú ý một số điểm sau:
- Cung cấp cơ hội cho học sinh tiếp xúc với văn bản hoàn toàn mới (bài
đọc chưa đọc, câu hỏi chưa hỏi)
- Giảng dạy từ vựng hiệu quả hơn trong việc giúp học sinh phát triển
vốn từ để hiểu ngôn ngữ.
- Tăng cường thời gian luyện tập nhận diện từ để đọc lưu loát.
- Trong tiết Tập đọc, ngoài việc luyện đọc thành tiếng cần kết hợp với
việc đọc thầm để hỗ trợ cho quá trình tìm hiểu bài của các em. Các kĩ thuật
đọc thầm như đọc lướt, đọc quét… cũng nên được cung cấp cho học sinh để
giúp các em nâng cao kĩ năng hiểu văn bản đọc. Ngoài ra, giáo viên có thể
linh động giảm thời gian luyện đọc thành tiếng và dành nhiều thời gian hơn
cho đọc hiểu. Việc thay đổi thời lượng dành cho các hoạt động như trên ngoài
việc tuỳ thuộc vào trình độ cụ thể của từng lớp, giáo viên cũng cần được xem
xét cho phù hợp với nội dung của từng bài. Vì nếu như bài đọc có chứa nhiều
từ khó phát âm thì việc cắt giảm thời lượng luyện đọc là không thật sự cần
thiết.
- Thêm vào đó, đọc hiểu là một hoạt động cần có những chiến lược
giảng dạy cụ thể. Sau đây, chúng tôi xin đề xuất một vài chiến lược hỗ trợ cho
dạy đọc hiểu như sau:
Trước khi đọc
Trước khi đọc, giáo viên có thể:
- Tạo tâm thế học tập cho học sinh thông qua các hoạt động tăng sự
thích thú của các em (kể chuyện, đóng kịch hoặc trưng bày các bức tranh có
liên quan tới bài đọc).
77
- Khai thác kinh nghiệm sống của học sinh về nội dung của bài học
bằng các câu hỏi thảo luận giữa những điều các em sắp được đọc với những
điều các em đã biết về nội dung hoặc bố cục của bài đọc.
Học sinh, cùng với sự giúp đỡ của giáo viên, có thể:
- Nảy sinh mong muốn được đọc bài.
- Nhận diện và thảo luận về các từ khó, các vế câu phức tạp cũng như
các khái niệm trong bài đọc.
- Xem lại bài đọc (bằng cách xem xét thật kĩ tựa bài, tranh minh hoạ
hoặc các cấu trúc câu bất thường trong bài văn…) để dự đoán về nội dung của
bài.
- Suy nghĩ, bàn luận và viết chủ đề của văn bản.
Trong khi đọc
Trong khi đọc, giáo viên có thể:
- Nhắc nhở học sinh các chiến lược đọc hiểu như đọc và ghi nhớ những
điều mà chúng đã hiểu.
- Đặt ra các câu hỏi gợi mở nhằm hướng học sinh theo dõi và tập trung
vào các ý chính quan trọng trong văn bản.
- Tập trung chú ý vào các chi tiết đòi hỏi học sinh phải suy luận.
- Yêu cầu học sinh tóm tắt các đoạn hoặc các sự kiện chính.
- Khuyến khích học sinh đối chiếu điều các em vừa đọc với các tiên
đoán từ trước để xác định được tính đúng đắn trong những tiên đoán của
mình.
Học sinh với sự giúp đỡ của giáo viên, có thể:
- Xác định và tóm tắt các ý chính cũng như các chi tiết làm sáng rõ
nghĩa của các ý chính trên.
78
- Tạo nên mối liên hệ giữa các ý, các tình tiết, sự kiện trong bài đọc.
- Liên hệ thực tế bản thân với những điều đọc được.
- Tự đặt được câu hỏi liên quan đến nội dung bài đọc.
- Đưa ra những giải thích và hồi đáp về nội dung bài đọc.
- Tưởng tượng được các nhân vật, bối cảnh hoặc các sự kiện trong bài
đọc.
Sau khi đọc
Sau khi đọc, giáo viên có thể:
- Hướng dẫn thảo luận về bài đọc.
- Yêu cầu học sinh nhớ và kể lại những chi tiết mà các em đánh giá là
quan trọng trong bài.
- Tạo cho học sinh nhiều cơ hội để hồi đáp về bài đọc bằng nhiều hình
thức khác nhau như viết, sắm vai, kể chuyện, tranh luận hoặc thậm chí là diễn
kịch câm tuỳ theo nội dung, thể loại bài đọc.
Học sinh với sự giúp đỡ của giáo viên có thể:
- Đánh giá và thảo luận về nội dung bài đọc.
- Áp dụng vào thực tế cuộc sống những điều rút ra từ bài học.
- Tóm tắt những điều đã đọc bằng cách kể lại các ý chính.
- Thảo luận các chủ đề được mở rộng từ nội dung của bài đọc.
Các biện pháp giảng dạy đề xuất trên đây tạo điều kiện cho học sinh thực
hiện các chiến lược cần thiết nhằm hiểu được nội dung văn bản vừa đọc. Tuy
nhiên do dựa trên các thể loại văn bản thưởng gặp ở tiểu học là văn miêu ta và
kể chuyện nên tuỳ thực tế về nội dung, thể loại bài đọc mà giáo viên có thể
lựa chọn những biện pháp phù hợp hơn.
79
Tiểu kết chương 3
Qua cuộc khảo sát trên đối tượng là học sinh lớp Một ở một số trường
thuộc thành phố Hồ Chí Minh mà tỉnh Đồng Nai, chúng tôi nhận thấy một số
bất cập tồn tại trong chuẩn chương trình Tiếng Việt lớp Một. Thông qua đó,
đề tài đã đưa ra một số bàn luận và đề xuất một số cách thức nhằm nâng cao
chất lượng đọc của học sinh.
80
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ kết quả khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy rằng:
- Khả năng đọc lưu loát của học sinh vượt khá xa so với tốc độ đọc tối
thiểu mà Chuẩn kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt lớp một đề ra (gấp 2.25 lần).
- Số lượng học sinh có tốc độ đọc vượt chuẩn chiếm hơn 80%, tuy nhiên,
sự thể hiện lưu loát trong khi đọc của các em lại chưa thực sự thành công.
Trong số hơn 800 học sinh tham gia vào cuộc khảo sát này, có hơn 30% các
em không đạt được các yêu cầu trong kĩ năng đọc lưu loát (đọc thông) mặc dù
tốc độ đọc của các em khá cao (từ 40 tiếng/phút trở lên).
Như vậy, có thể nói, Chuẩn đọc thông mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
quy định tồn tại một số điểm chưa thực sự phù hợp với thực trạng đọc thành
tiếng của học sinh. Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng, cần xem xét đến việc đề
xuất một chuẩn tốc độ đọc mới cũng như xây dựng hệ thống các yêu cầu cần
đạt trong kĩ năng đọc một cách hợp lí hơn.
2. Kiến nghị
Do thời gian hạn hẹp nên đề tài có hạn chế là cỡ mẫu còn nhỏ, chỉ tập
trung chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai nên tính đại diện
của mẫu chưa thực sự cao. Thêm vào đó, Chuẩn kiến thức, kĩ năng do Bộ
Giáo dục và Đào tạo được áp dụng cho cả nước nên không thể dựa trên kết
quả có được qua khảo sát ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai để đưa
ra đề xuất về một chuẩn đọc khác. Vì vậy, chúng tôi thiết nghĩ, cần có một
cuộc khảo sát trên diện rộng để kiểm tra mức độ đáp ứng của học sinh đối với
chuẩn đọc lưu loát được quy định trong chuẩn của chương trình Tiếng Việt
Tiểu học. Từ đó, các nhà biên soạn chương trình Tiếng Việt Tiểu học có thể
81
xây dựng một chuẩn tốc độ đọc mới cũng với các yêu cầu trong kĩ năng đọc
thực sự phù hợp với thực tiễn. Đây cũng chính là hướng phát triển của đề tài.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Vũ Thị Ân và Nguyễn Thị Ly Kha (2009), Tiếng Việt giản yếu, tr. 7 –
45 (Chương Một: Ngữ âm Tiếng Việt), NXB Giáo dục Việt Nam.
2. Trọng Bảo (2012), Tập truyện thiếu nhi Chiếc lá biết bay, NXB Dân
Trí.
3. Hoàng Hòa Bình và Nguyễn Minh Thuyết (2012), Phương pháp dạy
học Tiếng Việt: Nhìn từ tiểu học, NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến
thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học – Lớp 1, NXB Giáo dục.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục Phổ thông –
Cấp Tiểu học, NXB Giáo dục.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Dạy học cho học sinh lớp 1 có khó
khăn về đọc, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, NXB Đại học Sư
phạm TPHCM.
7. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến (2007), Cơ sở
ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Giáo dục, tr. 106 – 109.
8. Cao Xuân Hạo (2007), Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa, NXB Giáo dục.
9. Bùi Thế Hợp (2012), Dạy đọc cho trẻ khó khăn về đọc dựa trên vật
liệu lời nói của trẻ, Luận án Tiến sĩ Giáo dục học.
10. Nguyễn Thị Ly Kha và Phạm Hải Lê (2013), “Bài tập hỗ trợ học sinh
lớp 1 bị chứng khó đọc tri nhận không gian”, Tạp chí Ngôn ngữ, số
8/2013, tr16 – 31.
11. Lê Phương Nga (2001), Dạy Tập đọc ở tiểu học, NXB Giáo Dục
83
12. Lê Phương Nga và Đặng Kim Nga (2007), Phương pháp dạy học
Tiếng Việt ở tiểu học, Bộ Giáo Dục- Đào Tạo - Dự Án phát triển
giáo viên tiểu học, NXB Đại học Sư phạm và NXB Giáo dục.
13. Hoàng Thị Tuyết (2000), “Nên quan niệm về đọc và dạy đọc như thế
nào?”, Thông tin Khoa học Đại học Sư Phạm, số 24, 11/2000.
14. Hoàng Thị Tuyết (2012), Lí luận dạy học tiếng Việt ở Tiểu học, phần
II, NXB Thời Đại.
15. Hoàng Thị Tuyết (2013), “So sánh việc hiểu các khái niệm dạy đọc và
những hàm ẩn cho việc dạy đọc ở lớp đầu cấp Tiểu học”, Kỷ yếu
hội thảo khoa học quốc tế “Dạy đọc cho học sinh lớp 1 có khó khăn
về đọc”, Khoa Giáo dục Tiểu học, ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, 2013,
tr. 33 – 52.
Tiếng Anh
16. Carnine, D.W; Silbert, J. and Kameenui, E.J (1997), Direct instruction
reading (3rd ed), Prentice Hall, Inc.
17. Deno, S. L (1985), Curriculum – based measurement: The emerging
alternative, Exceptional Children, 52, 219-232.
18. Gagen, M. (2007), Reading Fluency Explained. What Fluent Reading
Is và How Reading Fluency is Developed. How to Help a Child or
Student Become a Fluent Reader, Article taken from
www.righttrackreading.com. © Gagen,2007 (11h30, 17/6/2013)
19. Harley, Adam (2008), Fast and silent reading, Article Source:
http://EzineArticles.com/1278094
20. Hudson, Roxanne F.; Lane, Holly B.; Pullen, Paige C. (2005),
Reading fluency assessment and instruction: What, why and how?,
tr. 702 – 714, International Reading Association.
84
21. Hudson, Roxanne F; Pullen, Paige c.; Lane Holly.B.; Torgesen,
Joseph K (2009), The Complex Nature of Reading Fluency: A
Multidimensional View. Reading và Writing Quarterly, 25: 4–32,
2009, Taylor và Francis Group, LLC- USA.
22. Jan Hasbrouck (2006), “Understanding and Assessing Fluency”,
Readingrockets.
23. Marcie, Wilger (2008), “Reading fluency: A bridge from decoding to
comprehension”, Autoskill International Inc, 2/2008.
24. Rasinski, T.V. (2004), Assessing reading fluency. Honolulu, HI:
Pacific Resources for Education and Learning
25. Rasinski, T.V. (2013), From Phonics to Fluency: Effective and
Engaging Instruction to Two Critical Areas of Reading Curriculum,
Teacher Created Materials Publishing.
26. Rasinski, T. và Padak, N. (2013), From phonics to fluency (3rd ed),
Newyork, NY Pearson.
27. Smith, F. (1971), Understanding reading, Newyork, Holt, Rinehart
and Winston.
28. Snow, C.E., Burns, M.S., và Griffin, P. (1998), Preventing reading
difficulties in young children, Washington, DC: National Academy
Press.
29. Vygotsky, L.S. (1978), Mind in society: The development of higher
psychological processes. Cambridge, MA: Harvard University
Press, Publised originally in Russia in 1930.
30. White, Sheida (1995), Listening to Children Read Aloud: Oral
Fluency, NAEPFacts, 8/1995.
85
Các trang web
31. http://www.collinsdictionary.com/dictionary/english/reading-speed
(Truy cập lúc 10h00’ ngày 08/8/2014)
32. http://en.wikipedia.org/wiki/Reading_%28process%29 (Truy cập lúc
14h20’ ngày 17/6/2013)
33. http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%91c_%C4%91%E1%BB%9
9 (Truy cập lúc 8h00 ngày 18/6/2013)
34. http://www.readinga-z.com/guided/fluency.html#Anchor-Reading-
33869 (Truy cập lúc 14g ngày 10/9/2014)
35. http://www.ldonline.org/article/27091/ (Truy cập lúc 23g50, ngày
10/9/2014)
36. http://www.readingrockets.org/helping/target/fluency (Truy cập lúc
5g51, ngày 17/9/2014)
37. http://www.readingrockets.org/article/comprehension-instruction-
what-works (Truy cập lúc 6g00, ngày 17/9/2014)
38. http://www.readingrockets.org/article/top-10-resources-
comprehension (Truy cập lúc 6g00, ngày 17/9/2014)
39. [http://www.readingrockets.org/article/strategies-promote-
comprehension (Truy cập lúc 6g00, ngày 17/9/2014)
40. http://blog.maketaketeach.com/whats-all-the-nonsense-about-
teaching-nonsense-words (Truy cập lúc 15h, ngày 18/8/2014)
41. http://www.readsters.com/wordpress/wp-
content/uploads/2010/12/ValueOfNonsenseWords.pdf (Truy cập
lúc 14g17, ngày 19/9/2014)
42. http://www.myreadspeed.com/articles/calculate/ (Truy cập lúc 14g30,
ngày 22/8/2014)
86
43. http://www.sfsu.edu/~testing/CalReadRate.htm (Truy cập lúc 14g30,
ngày 22/8/2014)
44. http://www.oxforddictionaries.com/definition/english/non-word (Truy
cập lúc 14g, 18/8/2014)
45. http://www.timrasinski.com/presentations/effective_teaching_of_readi
ng-from_phonics_to_fluency_2009.pdf (Truy cập lúc 12g33, ngày
25/9/2014)
46. http://www.naesp.org/resources/2/Principal/2009/J-F_p30.pdf (Truy
cập lúc 12g51, ngày 25/9/2014)
47. http://en.wikipedia.org/wiki/Curriculum-based_measurement (Truy
cập lúc 22g54, ngày 25/9/2014)
87
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
- Khảo sát viên đưa bảng này cho học sinh xem và giới thiệu như sau:
PHIẾU KHẢO SÁT TỐC ĐỘ ĐỌC TỪ NHẬN BIẾT
Bảng này gồm có nhiều từ. Thầy/cô muốn em đọc được tất cả các từ này nhé. (Em chỉ
đọc trơn, không đánh vần). Ví dụ, từ này em đọc là: “mẹ” (chỉ vào “meï”.)
Chúng ta hãy cùng đọc nhé: Hãy đọc từ này: (chỉ vào “sáng”.)
(Nếu HS trả lời đúng) Hãy nói: Tốt. Từ này đọc là “saùng”.) (Nếu HS trả lời sai) Hãy nói: Từ này đọc là “saùng”.)
Chúng ta hãy thử thêm một lần nữa nhé. Hãy đọc từ này: (chỉ vào “học
tập”.)
(Nếu HS trả lời đúng) Hãy nói: Tốt. Từ này đọc là “hoïc taäp”.
(Nếu HS trả lời sai) Hãy nói: Từ này đọc là “hoïc taäp”.
Khi thầy/ cô nói “bắt đầu”, em hãy chú ý đọc đúng và đọc nhanh những từ này. Em cần đọc các từ trong bảng, bắt đầu từ hàng đầu tiên và theo hướng này nhé. Thầy/ cô sẽ chú ý nghe em đọc, nếu em không đọc được từ nào thì thầy/ cô sẽ giúp em. Em biết mình sẽ làm gì chưa? Chuẩn bị nhé. Bắt đầu.
- Bắt đầu tính thời gian khi học sinh đọc từ đầu tiên.
- Đúng 60 giây thì ngừng lại. Đánh dấu ngoặc vuông ( ] ) vào ngay sau chữ
cuối cùng học sinh vừa đọc.
- Đánh dấu / đè lên chữ học sinh đọc không đúng. Nếu học sinh tự sửa sai,
khoanh tròn vào dấu gạch ngang như sau , và tính đó là một từ học sinh đọc
đúng. Nếu học sinh lưỡng lự quá 3 giây thì đánh dấu không đúng và yêu cầu học
sinh đọc từ tiếp theo. Tránh trường hợp mất quá nhiều thời gian cho một từ. Nếu
học sinh hoàn thành bảng từ trước 60 giây thì đánh dấu chéo (X) vào ô vuông trong
phần kết quả và ghi rõ thời gian học sinh hoàn thành bảng từ.
Ví dụ: Học sinh hoàn thành trước 60 giây X (58 giây)
- Nếu một học sinh không đọc được một từ nào ở dòng đầu tiên thì ngừng lại
và chuyển sang bài khảo sát khác.
X
88
Maãu: meï saùng hoïc taäp
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
(10)
aø
yù
uù
eï
ôï
mô
veø
bí
thö
cuû
(20)
sao
nuùi
tía
baïn
cuûa
neù
sôï
kho
da
gioù
(30)
phôû
nghó
loø
roå
quaø
saùch nguoäi naéng
khaùc
thích
(40)
maïnh
thöùc
vieát
khuya neâu ngoan
troàng ngoït
thöông
luoáng
(50)
daàu nhôùt
möôn möôùt
thænh thoaûng
quyeát taâm
cheânh cheách
(60)
ñieän thoaïi
cuoác xeûng
nhanh nhaûu chuyeân caàn
thoaên thoaét
(70)
toâm huøm
linh hoaït
keá hoaïch
aùo khoaùc
xuaát baûn
(80)
côn möa
ngoâi ñeàn
giaøn möôùp
vun vuùt
löu luyeán
(90)
khuyûu tay
ñôùp moài
uy nghi
huyùt coøi
loác xoaùy
(100)
hoäi hoïp
baâng khuaâng
ngaên naép
khuaáy nöôùc
troøn xoe
x
Kết quả: Tốc độ đọc: …………… (tiếng/phút)
Học sinh hoàn thành trước 60 giây (………..giây)
89
Phụ lục 2
- Khảo sát viên đưa bảng tiếng rỗng này cho học sinh xem và giới thiệu như sau:
PHIẾU KHẢO SÁT TỐC ĐỘ ĐỌC TIẾNG RỖNG
Đây là những tiếng không có nghĩa. Thầy/cô muốn em đọc được tất cả các tiếng này nhé
(Em chỉ đọc trơn, không đánh vần). Ví dụ, tiếng này em đọc là: “xeï” (chỉ vào “xeï”.)
Chúng ta hãy cùng đọc nhé: Hãy đọc tiếng này: (chỉ vào “döi”.)
(Nếu HS trả lời đúng) Hãy nói: Tốt. Tiếng rỗng này đọc là “döi”.
(Nếu HS trả lời sai) Hãy nói: Tiếng rỗng này đọc là “döi”.
Chúng ta hãy thử thêm một lần nữa nhé. Hãy đọc từ này: (chỉ vào “loaùc”)
(Nếu HS trả lời đúng) Hãy nói: Rất tốt. Tiếng rỗng này đọc là “loaùc”.
(Nếu HS trả lời sai) Hãy nói: Tiếng rỗng này đọc là “loaùc”.
Khi thầy/ cô nói “bắt đầu”, em hãy chú ý đọc đúng và đọc nhanh tên của những tiếng này.
Em cần đọc các tiếng trong bảng và bắt đầu từ hàng đầu tiên và theo hướng này nhé.
Thầy/ cô sẽ chú ý nghe em đọc, nếu em không đọc được tiếng nào thì thầy/cô sẽ giúp em. Em
biết mình sẽ làm gì chưa? Chuẩn bị nhé. Bắt đầu.
- Bắt đầu tính thời gian khi học sinh đọc từ đầu tiên.
- Đúng 60 giây thì ngừng lại. Đánh dấu ngoặc vuông ( ] ) vào ngay sau chữ
cuối cùng học sinh vừa đọc.
- Đánh dấu / đè lên chữ học sinh đọc không đúng. Nếu học sinh tự sửa sai,
khoanh tròn vào dấu gạch ngang như sau , và tính đó là một từ học sinh đọc
đúng. Nếu học sinh lưỡng lự quá 3 giây thì đánh dấu không đúng và yêu cầu học
sinh đọc từ tiếp theo. Tránh trường hợp mất quá nhiều thời gian cho một tiếng. Nếu
học sinh hoàn thành bảng trước 60 giây thì đánh dấu chéo (X) vào ô vuông trong
phần kết quả và ghi rõ thời gian học sinh hoàn thành bảng tiếng rỗng.
x
Ví dụ: Học sinh hoàn thành trước 60 giây X (58 giây)
- Nếu một học sinh không đọc được một từ nào ở dòng đầu tiên thì ngừng lại
và chuyển sang bài khảo sát khác.
xeï
döi
loaùc
Maãu:
90
1
2
3
4
5
seù
veã
heõ
kheï
caõ
(5)
ngheã
löù
læ
buõ
röõ
(10)
nhoaõ
phua
taúm
naãm
ghìa
(15)
nöûi
suùm
kæm
taõu
ngöôùn
(20)
döi
vem
röûu
chòm
seánh
(25)
ñìm
söôi
laäng
oam
huyùnh
(30)
khín
xaõn
ngheûm
xaïnh
cheänh
(35)
leàm
chom
haúm
nghím
ngoaïnh
(40)
nghòa
nhaïm
höôøn
chaúm
mim
(45)
sieång
phuyù
lueá
xaèm
nhoaùn
(50)
seàm
vuoäng
soõng
nieãm
doan
(55)
khæn
doaïnh
ghóm
pheành
loaëc
(60)
chuoäi
tuõng
mænh
toám
nòa
(65)
phon
meõo
böôi
ghin
ñöôõn
(70)
noõng
nghieäu
treng
seùo
döôi
(75)
ngheáp
thuy
noaét
hoai
ngaëng
(80)
töôïu
quaéng
muoät
queïn
nheán
(85)
phôm
khuyeàn
nhuya
xoeï
theân
(90)
baõn
giaùy
nieán
truûm
vuïi
(95)
chóu
tuoái
tröôïc
naëm
xoeùn
(100)
x
Kết quả: Tốc độ đọc: …………… (tiếng/phút)
Học sinh hoàn thành trước 60 giây (………..giây)
91
Phụ lục 3
- Khảo sát viên cho học sinh xem thẻ đoạn văn và giới thiệu như sau:
PHIẾU KHẢO SÁT TỐC ĐỘ ĐỌC ĐOẠN VĂN
Đây là một câu chuyện ngắn. Thầy/cô muốn em đọc to lên. Khi em đọc xong, thầy/ cô sẽ có một vài câu hỏi về nội dung câu chuyện. Thầy/cô sẽ nói bắt đầu và em cần phải đọc câu chuyện với tốc độ nhanh và đúng nhất mà em có thể. Thầy/cô sẽ chú ý nghe em đọc và sẽ giúp em nếu em cần trợ giúp. Em biết mình sẽ làm gì chưa? Chuẩn bị nhé. Bắt đầu.
- Đánh dấu / đè lên chữ học sinh đọc không đúng.
- Nếu học sinh tự sửa sai, khoanh tròn vào dấu gạch ngang như sau , và
tính đó là một từ học sinh đọc đúng.
- Nếu học sinh lưỡng lự quá 3 giây thì đánh dấu không đúng và yêu cầu học
sinh đọc từ tiếp theo. Tránh trường hợp mất quá nhiều thời gian cho một từ.
- Nếu sau 60 giây mà học sinh vẫn chưa đọc xong bài thì đánh dấu ngoặc
vuông ( ] ) vào ngay sau chữ cuối cùng học sinh vừa đọc và cho các em tiếp tục đọc
hết đoạn văn.
- Nếu học sinh hoàn thành bài đọc trước 60 giây thì đánh dấu chéo ( X ) vào ô
vuông trong phần kết quả và ghi rõ thời gian học sinh hoàn thành bài đọc.
- Nếu học sinh không đọc được một từ nào ở dòng đầu tiên thì ngừng lại.
92
PHẦN 1: ĐỌC THÀNH TIẾNG
Bài đọc
Số tiếng
Muøa xuaân, caùnh ñoàng toå chöùc cuoäc thi nhaûy cao. Maáy naêm
12
lieàn, eách ñeàu ñöùng nhaát. EÁch aên möøng chieán thaéng töø ngaøy
24
naøy qua ngaøy khaùc neân thaân hình chuùng ngaøy caøng naëng
35
neà. Theá laø laàn naøy chuùng khoâng nhaûy cao noåi! Chaãu chuoäc
47
vaø nhaùi beùn nhôø kieân trì taäp luyeän neân ñaõ thaéng cuoäc. EÁch
60
xaáu hoå quaù, troán bieät veà hang. Töø ñoù, moãi khi nhôù ñeán phuùt
74
huy hoaøng cuûa mình, chuùng thöôøng goïi nhau : “EÁch laø soá
85
moät… moät… moät…”. Laâu daàn, chuùng keâu cheäch thaønh “oäp…
95
oäp… oäp…” nhö ngaøy nay.
100
Kết quả:
Nếu HS hoàn thành bài đọc quá 60 giây:
Tổng số tiếng đọc đúng trong 60 giây: ……………….tiếng.
Nếu HS hoàn thành bài đọc dưới 60 giây:
Tổng thời gian đọc
………………giây
Số tiếng đọc/phút = (tổng số tiếng đọc
đúng trong đoạn văn : tổng thời gian đọc) x
……………tiếng / phút
60
93
PHẦN 2: ĐỌC HIỂU
- Khảo sát viên thu lại mẩu chuyện và nói:
Bây giờ, thầy/ cô sẽ có một số câu hỏi về câu chuyện mà em vừa đọc xong.
Em hãy nghe kĩ câu hỏi và trả lời theo cách em hiểu tốt nhất nhé.
- Mỗi câu hỏi, dành cho học sinh 15 giây để suy nghĩ và trả lời. Sau đó, khảo
sát viên đánh dấu vào ô Kết quả.
1. Cánh đồng tổ chức cuộc thi nhảy cao vào mùa nào?
Câu hỏi:
2. Vì sao ếch không còn nhảy cao được nữa?
3. Theo em, “phút huy hoàng” của ếch là khi nào?
a. Lúc ếch giành chiến thắng b. Lúc ếch thua cuộc
Không Không Câu hỏi Đúng đúng trả lời
1. Cánh đồng tổ chức cuộc thi nhảy cao vào
mùa nào?
2. Vì sao ếch không còn nhảy cao được nữa?
3. Theo em, “phút huy hoàng” của ếch là khi
nào?
a. Lúc ếch giành chiến thắng.
b. Lúc ếch thua cuộc.
94
Phụ lục 4
BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Kí hiệu học sinh
Ngày khảo sát
Khảo sát viên
BẢNG ĐIỂM
Bước ĐIỂM
Số lượng chữ đúng: …… / 100 chữ
1
Thời gian thực hiện: …… / 60 giây
Số lượng chữ đúng: …… / 100 chữ
2
Thời gian thực hiện: …… / 60 giây
Số lượng chữ đúng: …… / 100 chữ
3
Thời gian thực hiện: …… / 60 giây
95
Hướng dẫn
Các bài kiểm tra đánh giá cá nhân về đọc thành tiếng. Hãy điền vào
bảng thu thập này khi bạn đánh giá học sinh. Học sinh cần cảm thấy dễ
dàng và thoải mái khi được yêu cầu làm các bài tập này. Hãy bắt đầu trò
chuyện với học sinh bằng cách hỏi tên và 1-2 câu hỏi về trường lớp, gia
đình. Sau đó mới tiếp tục giới thiệu về bài kiểm tra:
Hôm nay, thầy/cô muốn em trả lời một số câu hỏi. Thầy/ cô mong em
hết sức cố gắng nhé. Nếu em muốn ngừng lại ở chỗ nào thì cho thầy/cô biết.
Em bắt đầu được chưa? (HS cần gật đầu hoặc trả lời “Dạ/ Vâng.”
Nếu HS nói “không” và không muốn tham gia thì người trắc nghiệm
cần đưa em này về lại lớp học và chọn em kế tiếp trong danh sách.