BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________
CAO THỊ LAN
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI HÀN QUỐC
QUA CÁI NHÌN CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
TP. Hồ Chí Minh tháng 11/2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
_______________________ CAO THỊ LAN
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI HÀN QUỐC
QUA CÁI NHÌN CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài
Mã số : 66 22 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TP. Hồ Chí Minh tháng 11/2012
PGS. TS. PHAN THU HIỀN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Và kết quả
trong luận văn này chưa từng được công bố ở các công trình khác.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 11 năm 2012
Người viết luận văn
Cao Thị Lan
Lớp văn học nước ngoài Khóa 21
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài nỗ lực của bản thân, người viết còn nhận
được sự động viên giúp đỡ của rất nhiều người.
Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phan Thu Hiền-
Trưởng bộ môn Hàn Quốc học, trường Đại Học KHXH& NV TP. Hồ Chí Minh. Cô
đã tận tình giúp đỡ người viết giải quyết các vấn đề vạch ra trong đề tài, cũng như
tận tình hướng dẫn người viết trong suốt quá trình làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn,
phòng SĐH Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho người viết hoàn
thành luận văn này.
Xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, khích lệ người viết trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2012
Người viết
---1---
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2 1. Lí do chọn đề tài- mục đích nghiên cứu .............................................................. 2 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 14 4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 14 5. Đóng góp của luận văn ........................................................................................ 15 6. Bố cục của luận văn ............................................................................................. 15 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC KOREA VÀ KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI KOREA ....................... 17 1.1. Khái quát về người phụ nữ trong văn học truyền thống Korea .................. 17 1.1.1. Phụ nữ với văn học ...................................................................................... 17 1.1.2. Phụ nữ trong văn học ................................................................................... 23 1.2. Khái quát về văn học hiện đại Korea ............................................................. 30 1.2.1. Bối cảnh của văn học hiện đại Korea .......................................................... 30 1.2.2. Một số đặc điểm văn học hiện đại Korea .................................................... 35 1.2.3. Khái quát về người phụ nữ trong văn học hiện đại Korea ........................... 44
CHƯƠNG 2 : HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ QUA SỰ THỂ HIỆN CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI HÀN QUỐC ..................................................................... 55 2.1. Người phụ nữ trong cuộc sống gia đình ......................................................... 55 2.2. Người phụ nữ trong quan hệ với xã hội ......................................................... 71 2.3. Sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong hình tượng người phụ nữ ........ 80 CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI HÀN QUỐC ...................................................... 89 3.1. Nhân vật và hệ thống nhân vật ....................................................................... 89 3.1.1. Xây dựng nhân vật ....................................................................................... 89 3.1.2. Tổ chức hệ thống nhân vật ......................................................................... 102 3.2. Không- thời gian nghệ thuật ......................................................................... 110 3.2.1. Không gian nghệ thuật ............................................................................... 110 3.2.2. Thời gian nghệ thuật .................................................................................. 120 3.3. Kết cấu tự sự ................................................................................................... 125 3.3.1. Trình tự kể chuyện ..................................................................................... 125 3.3.2. Nhịp độ kể chuyện ..................................................................................... 129 3.3.3. Phương thức tự sự ...................................................................................... 135 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 155
---2---
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài- mục đích nghiên cứu
Việt Nam vốn đã mở cửa giao lưu kinh tế, văn hóa với một số nước trên thế
giới từ khá sớm, nhưng đến năm 1992 Việt Nam mới chính thức đặt quan hệ ngoại
giao với Hàn Quốc. Hai nước Việt- Hàn từ khi giao lưu đã có những bước tiến đáng
kể về mặt kinh tế, xã hội, giáo dục... nhưng vấn đề giao lưu văn học lại chưa theo
kịp tốc độ so với các lĩnh vực khác. Vấn đề dịch thuật các tác phẩm Hàn sang tiếng
Việt còn quá ít ỏi kéo theo những công trình nghiên cứu vẫn còn hạn chế. Vì vậy,
việc nghiên cứu văn học Hàn Quốc tại Việt Nam cần được quan tâm nhiều hơn nữa.
Những năm gần đây, số lượng các nhà văn nữ trên văn đàn văn học Hàn tăng
lên đáng kể, không chỉ về số lượng mà còn cả chất lượng. Họ cũng như những nhà
văn nam giới khác khai thác nhiều vấn đề vô cùng đa dạng trong hiện thực cuộc
sống. Có khác chăng chỉ là vì thuộc phái nữ nên trang văn của họ đậm chất nữ tính:
tinh tế, sâu sắc và đầy niềm trắc ẩn. Đặc biệt là, các nhà văn nam tuy viết về người
phụ nữ với nỗi niềm cảm thông sâu sắc nhưng dưới con mắt của các nhà văn nữ thì
hình ảnh các nhân vật nữ vẫn chứa những nét độc đáo riêng, những nét cá tính
riêng. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề phụ nữ qua cái nhìn của các nhà văn nữ là một đề
tài hấp dẫn, cần được quan tâm đích đáng.
Qua đề tài này, chúng tôi mong muốn mở rộng con đường giao lưu văn hóa
giữa hai nước Việt- Hàn, giúp bạn đọc Việt Nam hiểu hơn về con người cũng như
văn hóa xứ Hàn. Đây cũng chính là cơ hội để chúng tôi được tiếp xúc với một nền
văn học còn khá xa lạ nhưng chứa đầy sức hấp dẫn.
2. Lịch sử vấn đề
Ở Việt Nam
Trong phạm vi tư liệu mà chúng tôi bao quát được, tình hình giới thiệu và
nghiên cứu văn học Hàn ở Việt Nam còn quá khiêm tốn, chủ yếu là các bài giới
thiệu sơ lược xuất hiện trên một số tạp chí và một số bài viết được in trong giáo
trình được giảng dạy ở các trường đại học.
---3---
Năm 1997, Nguyễn Long Châu viết cuốn Nhập môn văn học Hàn Quốc [7]
Đây là cuốn sách đầu tiên viết về văn học Hàn dưới quan điểm của các giáo trình
văn học sử Hàn Quốc tại Hàn Quốc. Sách ngoài phần phụ lục, tóm tắt và trích dịch
các tác phẩm văn học thơ ca và văn xuôi, gồm 2 phần: Văn học cổ điển và văn học
hiện đại. Trong phần văn học hiện đại, tác giả đã điểm qua các thời kì với một số
tên tuổi tiêu biểu như Lee Kwang- soo, Kim Yoo- jeung, Park Chong- hwa… Tuy
nhiên, cuốn sách này chỉ giới thiệu cho người đọc một cái nhìn sơ khảo, bước đầu
về nền văn học Hàn Quốc. Trong tương lai, chúng ta cần những cuốn sách chuyên
sâu về nội dung hơn nữa.
Năm 1997, lần đầu tiên nhà văn Oh Jung- hee ra mắt bạn đọc Việt Nam với
tập truyện ngắn Ván bài lúc hoàng hôn. Võ Thị Xuân Hà trong lời tựa với nhan đề
“Sự cô đơn tạo nên thiên hà”[24] đã bước đầu giới thiệu với bạn đọc về tác giả Oh
Jung- hee cũng như những truyện ngắn trong tập truyện của bà. Bài viết chú trọng
vào phương diện nội dung trong các truyện ngắn như bi kịch gia đình với những nếp
nhà không có trẻ con trong Sông lửa, hay cuộc sống xã hội thời kì sau chiến tranh
với những tệ nạn, những thói hư tật xấu xuất hiện cùng với công cuộc mưu sinh
trong Xóm người Hoa… Lời mở đầu của Võ Thị Xuân Hà mặc dù chưa thật sâu sắc,
chưa thật đầy đủ, còn rất nhiều khía cạnh chưa được đề cập đến. Tuy nhiên, nó như
chiếc chìa khóa để bạn đọc đến với những trang viết đầy trắc ẩn của Oh Jung- hee
đối với những nhân vật của mình. Từ đó có thể hiểu và cảm thông hơn về những số
phận, những mảnh đời còn nhiều bất hạnh trong tác phẩm.
Năm 2009, trong bài viết “Không gian và thời gian trong một tập truyện ngắn
Hàn Quốc”[49], Đỗ Thanh Thảo Miên và Đỗ Tiến Thắng đã nêu bật lên hình tượng
không gian và thời gian mà Oh Jung- hee đã sử dụng trong Ván bài lúc hoàng hôn
là không gian khác lạ, tạo nên một lực hấp dẫn riêng. Tác giả bài viết nhận định
“Phải chăng tác giả muốn hướng người đọc tới sự lóe sáng của đất nước và con
người Hàn Quốc vào kỉ nguyên mới sau khi bước ra từ cuộc chiến tranh đau
thương?” Tuy nhiên do giới hạn về đề tài nên tác giả đã không đề cập đến vấn đề
người phụ nữ được xem là một vấn đề quan trọng trong sáng tác của Oh Jung- hee
---4---
“Những truyện ngắn cho thấy tận mắt những áp bức hay nỗi khủng hoảng không
nhìn thấy được mà những người phụ nữ phải chịu đựng.”[26,151]
Trên đây là một số bài viết nghiên cứu về văn học hiện đại Hàn Quốc. Tuy
nhiên chưa có những công trình mang tính chuyên sâu, khảo sát những vấn đề về
thể loại, về đặc trưng, thi pháp của các thời kỳ văn học. Có chăng chỉ là những bài
viết xuất hiện trong các hội thảo hay trên các trang tạp chí đề cập đến một vài khía
cạnh nhỏ lẻ của một số tác phẩm.
Với những tác phẩm văn xuôi đương đại Hàn Quốc mới được dịch ở Việt Nam
gần đây như Hãy chăm sóc mẹ, Người ăn chay… thì việc nghiên cứu sâu lại càng
khó khăn hơn nữa. Chúng tôi chỉ thu thập được những dòng cảm nhận ngắn ngủi
trên các trang báo điện tử hay lời tựa của nhà xuất bản như một lời giới thiệu.
Năm 2011, khi tác phẩm Hãy chăm sóc mẹ lần đầu xuất hiện tại Việt Nam,
trên các trang xã hội đã xuất hiện rất nhiều những lời bình luận, chia sẻ. Trang
baomoi.com đăng bài viết với tựa đề “Hãy chăm sóc mẹ- một câu chuyện thấm thía
đến nặng lòng.”[110] Bài viết giới thiệu sơ lược về tác giả Shin Kyung- sook từ khi
còn là một cô gái 16 tuổi bước chân lên Seoul lập nghiệp. Sau những dòng miêu tả
ngắn ngủi về tác giả là phần tóm tắt tác phẩm cùng những dòng cảm nhận sâu sắc
và nhoè nước mắt “Hãy chăm sóc mẹ- cuốn tiểu thuyết là lời nhắn nhủ đến những
đứa con thơ đang vô tình hay lầm đường lạc lối. Bởi chỉ có mẹ, có gia đình là chỗ
dựa yên bình nhất…” Tuy chỉ là những dòng cảm nhận ngắn ngủi nhưng bài viết
đã nêu bật lên được giá trị của tác phẩm “Nao lòng, thấm thía... cuốn tiểu thuyết
khiến bất cứ ai cũng phải rơi nước mắt trên suốt một cuộc hành trình đi tìm mẹ”.
Cũng trong năm này, tác phẩm Người ăn chay của nhà văn Han Kang được
giới thiệu đến bạn đọc Việt Nam. Trong bài viết “Người ăn chay- vẻ đẹp của tự
do”[106], Nguyễn Thị Ngọc Khánh đã sơ lược về nội dung tác phẩm và đưa ra kết
luận về nỗi ám ảnh dai dẳng về khát khao tự do - cuộc đấu tranh để giải quyết mâu
thuẫn giữa cá nhân trong mối tương quan với gia đình và cộng đồng của nhân vật
Yeong-hye.
---5---
Sau một thời gian không lâu, trong bài viết “Hai tác phẩm, một lát cắt về
người phụ nữ”[108], Hoài Nam đã đưa ra một số luận điểm mới mẻ trong cách nhìn
về hai tác phẩm Hãy chăm sóc mẹ và Người ăn chay. Từ việc giới thiệu nội dung tới
việc khái quát lại vấn đề về người phụ nữ trong xã hội hiện nay, tác giả bài viết đã
tìm thấy một khía cạnh mới về người phụ nữ, đó là họ cần thoát ra khỏi mẫu hình lý
tưởng của phụ nữ truyền thống. Theo ông, tác phẩm “Là cái nhìn về vấn đề người
phụ nữ trong xã hội của họ đã vượt qua công thức và những sự đơn giản hóa thông
thường. Con người nói chung, phức tạp hơn một sự tổng hòa của các mối quan hệ
xã hội, trong tính hiện thực của nó.”
Năm 2011, trên cuốn tạp chí List books from Korea đăng một bài viết có tựa
đề “Korean novels take influence in young Vietnamese lives”[109] của Nguyễn
Thành Nam. Trong bài viết này, có một đoạn ngắn giới thiệu về nhà văn Han Kang
với liên truyện Người ăn chay. Theo tác giả, liên truyện này đã khai thác những
cung bậc trong cảm xúc con người. Cuốn sách đã đáp ứng được nhu cầu của độc
giả, những người đang tìm kiếm một sự đột phá trong tác phẩm và những nét khác
lạ trong nhân vật. Tác phẩm ra đời như một luồng gió mới giúp độc giả thoát khỏi
sự nhàm chán với những tác phẩm văn chương truyền thống.
Những bài viết và những nhận định trên đây phần lớn đều xoay quanh những
vấn đề liên quan đến nội dung tác phẩm, chưa có bài viết nào đề cập tới phương
diện nghệ thuật- vốn là một khía cạnh rất đáng chú ý trong các tác phẩm văn xuôi
hiện đại Hàn Quốc.
Ở Hàn Quốc
Hwang Chi-woo, chủ tịch đoàn đại biểu Hàn Quốc trong lời phát biểu tại Hội
chợ sách Frankfurt đã nói “Hàn Quốc là một quốc gia vô danh ở châu Âu. Văn hóa
Hàn Quốc bị che lấp bởi những “cái bóng” lớn là Nhật Bản và Trung Quốc”.
Dường như văn học Hàn Quốc chưa có một Haruki Murakami như Nhật Bản
cũng chưa có một G. Marquez như Columbia. Nhưng từ khi tác phẩm Please look
after mom của nhà văn Shin Kyung- sook được nhà xuất bản danh tiếng bậc nhất tại
New York - Alfred A. Knopf - ấn hành vào đầu tháng 4 thì sự quan tâm của những
---6---
độc giả yêu văn chương của các quốc gia trên thế giới đến văn học Hàn Quốc đã
tăng lên đáng kể.
Nhà văn Shin Kyung-sook không phải là một tên tuổi xa lạ của đất nước Hàn
Quốc xinh đẹp. Trong cuốn Twentieth-century Korean literature của Lee Nam-hoo
(2005), Shin được giới thiệu như một hiện tượng nổi bật trong văn học Hàn thế kỷ
XX với khả năng quan sát tinh tế và một giọng văn đầy cá tính. Theo tác giả “câu
văn của bà là những cung bậc cảm xúc có độ căng và rất nhạy cảm với niềm mong
mỏi nói lên những điều không thể thốt thành lời, hay tiến tới những điều không thể
tiến tới.”[26,194]
Với tiểu thuyết Hãy chăm sóc mẹ, Shin Kyung- sook đã tạo ra “hội chứng mẹ”
trong làng văn Hàn Quốc - một trào lưu đua nhau viết về mẹ nhằm thu hút sự chú ý
của độc giả, ăn theo hiệu ứng của Please look after mom. Oh Sun Joo, đại diện của
Imprima đánh giá sự thành công và sức hấp dẫn không biên giới của cuốn sách
chính là thông điệp về tình mẹ con được Shin miêu tả độc đáo dưới góc nhìn văn
hóa truyền thống Hàn Quốc.
Năm 2011, Park Sung- chang trong bài nghiên cứu “Korean writing takes on
the modern world”[113] đã nhắc đến cuốn tiểu thuyết Please look after mom của
Shin Kyung-sook đang là hiện tượng được độc giả toàn cầu quan tâm. Park Sung-
chang viết: “Trong bối cảnh này, Please look after mom của Shin Kyung-sook nêu
bật hình tượng người mẹ, như chạm được vào mối đồng cảm chung. Với thời gian,
văn chương Hàn Quốc tin chắc sẽ làm được một chuyến phiêu lưu vào những sáng
tạo mới”.
Trên thi đàn văn học Hàn, cái tên Oh Jung- hee cũng không còn xa lạ gì với
độc giả và các nhà phê bình. Năm 2009, trên tạp chí JoongAng Ilbo, trong phần
Korean literature, nữ nhà văn đã vinh dự được giới thiệu qua bài viết “Trapped in
tranquil domesticity”, bài viết ngoài phần giới thiệu sơ lược về những thành công đã
đạt được trong quá trình sáng tác của Oh, về những truyện ngắn đã đưa tên tuổi của
bà đến với công chúng, còn nhận xét rất khách quan phong cách sáng tác của bà.
---7---
Về phương diện nội dung, theo bài viết, “một motif quan trọng trong các
truyện ngắn của bà là những cảm xúc cá nhân bị ức chế. Không thể đạt được sự hài
hòa với các nhân vật khác, các nhân vật trong câu chuyện của Oh cô đơn và tự hận
thù thông qua các hành vi phá hoại hướng vào bản thân và những người khác.”
Giữa những năm 70, tác giả chuyển nội dung tới “sự nhàm chán của cuộc sống
hàng ngày trong vòng vây an toàn nhưng ngột ngạt của gia đình và hôn nhân”.
Mảng đề tài này dường như đã đem lại thành công vượt trội cho nữ nhà văn.
Đặc biệt, cũng trong phần này, Bruce Fulton với bài viết “ A literary talent
born at a young age”[98] không chỉ đưa ra những lời nhận xét tinh tế về mảng nội
dung mà còn có những phát hiện mới mẻ về nghệ thuật trong sáng tác của Oh Jung-
hee. Không chỉ dành cho nhà văn những lời ngợi khen khi so sánh bà với Joyce
Carol Oates của Mỹ, Alice Munro của Canada và Virginia Woolf của Anh mà tác
giả còn tập trung làm nổi bật những vấn đề liên quan đến nội dung và nghệ thuật
trong truyện ngắn của bà.
Về mặt nội dung, cũng như bài viết trước đã đề cập, những tác phẩm của Oh
thâm nhập vào bề mặt của cuộc sống với vẻ ngoài chán ngắt, tẻ nhạt. Từ đó, độc giả
sẽ chứng kiến cuộc sống gia đình như một cơn ác mộng được khắc họa bằng những
vụ ly dị, điên loạn, bị bỏ rơi và cái chết. Bóng tối luôn là nền cho những câu chuyện
này.
Về nghệ thuật, theo tác giả bài viết “về mặt kĩ thuật, Oh có sự thông thạo về
ngôn ngữ. Một đặc điểm ấn tượng cho việc diễn đạt từ ngữ của bà là những từ vựng
được dùng luôn luôn có chủ ý và có tính gợi nhớ”. Ngoài ra, những hồi tưởng, kĩ
thuật dòng ý thức và độc thoại nội tâm tạo ra sự đặc sắc, tinh tế trong cách kể
chuyện của Oh.
Năm 2011, Hur Yoonjin viết bài “Modern Korean fiction by women, 1990-
2010”[105] Trong bài viết này, tác giả nhấn mạnh đến sự thành công vượt bậc của
các nhà văn nữ. Nếu như trước đây, chữ Hangeul bị xem thường và được cho là
ngôn ngữ gắn với tầng lớp nữ giới thì ngày nay, chữ Hangeul được công nhận là
chữ viết chính thức của Hàn Quốc và phụ nữ- giờ đây đã trở thành bậc thầy trong
---8---
việc sử dụng lớp ngôn ngữ này. Theo tác giả đánh giá, “thập kỉ 90 có thể coi là thập
kỷ của các nhà văn nữ” với sự xuất hiện của rất nhiều các nhà văn nữ tài năng.
Người đầu tiên được giới thiệu là Ch’oe Yun, cô thành công với các tác phẩm
như There, A Petal Silently Falls, The Gray snowman… Tác giả bài viết ngoài việc
giới thiệu những mảng đề tài thường xuất hiện trong các tác phẩm của nhà văn, còn
bàn về một số thành công của các tác phẩm với phương diện nghệ thuật. Và nghệ
thuật nổi trội của Ch’oe Yun chính là việc sử dụng ngôn ngữ đẹp và trau chuốt.
Cùng thời với Ch’oe Yun, tác giả còn nêu ra vô số những nữ nhà văn khác như Shin
Kyung-sook, Gong Sun-ok, Jo Kyung-ran, và Ha Sung-ran…
Bắt đầu từ năm 2000, xuất hiện nhiều nữ nhà văn trẻ đã tạo ra nhiều mẫu hình
đa dạng của người phụ nữ. Cheon Woon- young với Needle (2000), Kang Young-
sook với Rina (2006), Han Kang với The vegetarian (2007), Apple Kim với The
Boy Who Laid Down on the Gallery Floor (2009), Kim Mi- wol với The Eighth
Room (2009)… Sự xuất hiện rầm rộ và đa dạng về đề tài đã giúp các nữ nhà văn gặt
hái được rất nhiều thành công không chỉ trong nước mà đã lan sang các nước khác.
Ngoài các công trình nghiên cứu về văn học hiện đại trên đây, chúng tôi cũng
xin điểm qua về hai cuốn giáo trình của người Hàn viết và đã được dịch ra tiếng
Việt. Đây là hai tài liệu chính yếu dùng cho việc giảng dạy và học tập về văn học
hiện đại Hàn Quốc tại Việt Nam.
Trong cuốn Tìm hiểu văn học Hàn Quốc thế kỉ XX [26] ngoài việc cung cấp
cho người đọc một cái nhìn đa diện bối cảnh xã hội từ những năm 1900 đến năm
2000, tác giả còn đưa ra các tác phẩm và tác giả tiêu biểu của thời kì đó. Trong giới
hạn của luận văn, chúng tôi đã tham khảo một số vấn đề trong hai thời kì cuối của
văn học hiện đại Hàn Quốc, từ năm 1970-1990 (Văn học trong xã hội công nghiệp);
từ năm 1990- 2000 (Văn học trong xã hội tiêu dùng đại chúng).
Cũng trong cuốn sách này, tác giả đã giới thiệu đến bạn đọc một vấn đề liên
quan đến các tác giả nữ với tiêu đề “Tiếng nói của các tác giả nữ”. Trong gần mười
trang giấy, tác giả đã chú ý nhấn mạnh những luận điểm sau “Thập kỉ 1970-1980 là
thời kì xuất hiện các tác giả nữ từ nhiều tầng lớp và hoạt động sáng tác của họ diễn
---9---
ra sôi nổi trên văn đàn.”[26,142] Ba nữ nhà văn được giới thiệu ở đây cũng chính là
ba ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Hàn những năm 70-80 của thế kỉ XX là Park
Kyeong- ri, Park Wan- seo và Oh Jung- hee. Với những đề tài và phong cách viết
khác nhau, mỗi nhà văn đều thể hiện được cá tính của riêng mình.
Theo tác giả, đề tài mà Park Kyeong- ri đặc biệt quan tâm đó là tiểu thuyết về
lịch sử gia đình với trọng tâm là nữ giới. Giọng văn mạnh mẽ cùng với tiếng nói
phê phán, đấu tranh với những mâu thuẫn xã hội của Park đã làm hài lòng độc giả
và tiểu thuyết đầu tiên đưa tên tuổi của bà đến với công chúng là tiểu thuyết Đất.
Tác giả ngoài việc giới thiệu sơ bộ đến nội dung tác phẩm còn đưa ra những lời
nhận xét khách quan đến giá trị của tác phẩm “Đất có thể coi là một kiệt tác, đã liên
kết đất với hình ảnh của thần thổ địa và nhấn mạnh tinh thần giải hận tương
sinh.”[26,145]
Nhà văn nữ thứ hai được giới thiệu đó là Park Wan- seo. Trong phần giới
thiệu này, tác giả bài viết đã đưa ra một loạt các tác phẩm làm nên tên tuổi của nữ
nhà văn như Cây trụi lá, Chiếc cọc của mẹ, Những đứa con địa đàng… Điều mà tác
giả ghi nhận về nhà văn này là trong mỗi thời kì, nhà văn lại xuất sắc với những
mảng đề tài khác nhau. Mỗi đề tài đều có thế mạnh riêng và nhà văn đã khẳng định
được chỗ đứng trong lòng công chúng.
Với Oh Jung-hee, dường như tác giả bài viết đã dành rất nhiều ưu ái khi không
chỉ giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu của bà như Chim, Khu vườn niên thiếu,
Chức nữ… mà đồng thời còn nêu bật những giá trị nghệ thuật được nhà văn sử dụng
trong tác phẩm. Đó là những câu văn đầy ấn tượng, đó là miêu tả dòng chảy nội tâm
sâu sắc, đó là kết cấu câu chuyện chặt chẽ…
Cuốn giáo trình thứ hai được dịch ở Việt Nam vào năm 2010 là cuốn Những
bài giảng văn học Hàn Quốc [10] Đây là một công trình rất đồ sộ tập hợp những bài
giảng của các chuyên gia hàng đầu ở Hàn Quốc về văn học Hàn. Cuốn sách sẽ đưa
độc giả tới một cái nhìn khái quát về nền văn học Hàn, bắt đầu từ văn học dân gian
đến văn học hiện đại.
---10---
Trong phần văn xuôi cận đại, Cho Nam-hyon đã giới thiệu một cách khái quát
tình hình sáng tác tiểu thuyết thập niên 20, 30 và sau giải phóng. Ứng với mỗi thời
kì, Cho Nam-hyon đều đưa ra những tác giả và những tác phẩm tiêu biểu. Ngoài ra,
sau mỗi thời kì ông đều tập hợp lại những đặc trưng mà các nhà văn khai thác;
những ưu- nhược điểm còn thiếu sót của các nhà văn. Có thể nói, qua phần nghiên
cứu này, Cho đã làm sáng tỏ được những vấn đề căn bản của tiểu thuyết hiện đại từ
thập niên 20 đến những năm sau giải phóng. Hạn chế lớn nhất của bài nghiên cứu
chính là Cho chưa tập trung vào sáng tác của các nhà văn nữ xuất hiện trong giai
đoạn này. Bởi chỉ có hai nhà văn nữ duy nhất được giới thiệu là Bak Hwa- seong và
Choe Myeong- hui, theo Cho, đây là hai tác giả nổi trội nhất của thập niên 30. Các
sáng tác của những cây viết nữ này “đã làm mờ nhạt quan niệm trong quá khứ về
nữ giới bằng ngữ điệu và sự nhận thức hiện thực mang tính nam tính.”[10,611]
Các nước khác
Chưa tạo ra được sự thành công vang dội như Shin Kyung-sook, nhưng Han
Kang cũng đã vượt ra khỏi biên giới xứ Hàn để tới được với độc giả phương Tây.
Với việc mô tả điều kiện sống của phụ nữ trẻ ở Hàn Quốc ngày nay, chủ yếu là sự
thay đổi vai trò của người phụ nữ trong thế kỷ XX, nhà văn đã vinh dự được đứng
vào một trong tám nhà văn của Hàn Quốc được miêu tả trong cuốn Koreanische
Erzählungen của Bräsel Sylvia xuất bản tại Đức (2005).
Tiếp sau đó, năm 2011, trên trang List magazine, Kim Mi- hyun đăng bài viết
với tựa đề “His-story, Her-story, Our-story”[107] Trong khuôn khổ một bài báo,
Kim Mi- hyun tập trung vào làm sáng tỏ bước ngoặt của dòng văn học nữ lưu ở Hàn
những năm 80 của thế kỉ XX. Một số nhà văn được giới thiệu có Oh Jung- hee với
Evening Games, Gong Ji- young với Go Alone Like a Musso’s Horn, Jo Kyung-ran
với Time for Baking Bread, Han Kang với Mongolian Spot.
Với Mongolian Spot (Vết chàm Mongolian) của Han Kang, theo quan niệm
của người viết, nam tính thường được đánh đồng với nền văn minh và tiến bộ, trong
khi nữ tính lại gắn với thiên nhiên và đời sống nguyên thủy. Từ quan điểm này, tác
giả cho rằng tác phẩm của Han Kang như “tập trung vào bản chất động vật của nền
---11---
văn minh hiện đại, phá hủy nhân loại nguyên sinh và đặc tính thực vật của nữ tính
từ góc độ con người rộng hơn so với các cuộc xung đột giữa nam và nữ.” Ở khía
cạnh này, tác giả bài viết đã thấy được thông điệp mà nhà văn truyền tải, đó là vấn
đề nữ quyền. Và người phụ nữ không thích nghi, không hòa nhập được với cuộc
sống hiện đại, với xã hội văn minh sẽ tự tìm cho mình một lối thoát.
Với truyện ngắn Ván bài lúc hoàng hôn của Oh Jung- hee, vấn đề mà tác giả
bài báo quan tâm không chỉ là việc nhà văn tập trung miêu tả về nội dung tác phẩm,
đó là “một cuộc “chiến tranh” nao lạnh, yên tĩnh được cải trang bằng một trò chơi
của một người cha già yếu, bệnh tật và một người con gái đang có khuynh hướng
giống như bố của cô ấy”, mà quan trọng hơn cả, là những vấn đề về sự “phá vỡ hình
ảnh phục tùng của phụ nữ truyền thống” trong hình ảnh cô gái. Sau những ván bài
giết thời gian với cha là “ván bài buổi tối” của cô với một người đàn ông vô danh.
Hành động ấy như một sự nổi loạn chống lại chế độ phụ hệ đang thống lĩnh trong
văn hóa Hàn.
Bài viết tuy chưa đề cập đến phương diện nghệ thuật trong tác phẩm của các
tác giả nữ nhưng đã có những phát hiện mới mẻ, đáng thuyết phục ở phương diện
nội dung.
Shin Kyung- sook với tiểu thuyết Hãy chăm sóc mẹ nhận được sự đánh giá cao
của độc giả và các nhà phê bình không chỉ Hàn Quốc mà là khắp nơi trên thế giới.
Barbara J. Zitwer- một học giả Mĩ đã có những nhận xét tinh tế về cuốn tiểu thuyết
Hãy chăm sóc mẹ của Shin. Đó là một cuốn sách mang tính toàn cầu và bí mật của
người mẹ trong tác phẩm cũng chính là bí mật của mọi người mẹ trên thế giới. Tất
cả những ai đọc cuốn sách này đều không khỏi nghĩ về mẹ mình, về mẹ của những
người bạn mình, về những đứa con gái và các mối quan hệ gia đình. Tác giả là
người Hàn Quốc, cuốn sách đậm chất Hàn Quốc nhưng nhân vật, suy nghĩ và ý
tưởng trình bày trong tác phẩm lại mang tính toàn cầu.
Lee Young- joon, giám đốc Viện Nghiên cứu Hàn Quốc tại Đại học Harvard
có một khám phá khác. Theo ông, lối viết của Shin Kyung- sook rất đặc trưng cho
văn chương Hàn Quốc, đó là những câu chuyện giàu tình cảm và khắc họa nhân vật
---12---
rất sắc nét, để lại một ấn tượng tốt trong lòng bạn đọc không chỉ ở Hàn Quốc mà là
khắp nơi trên thế giới.
Tác phẩm Hãy chăm sóc mẹ của Shin Kyung- sook trở thành một đề tài nóng,
thu hút sự quan tâm của mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp.
Một bài viết ngắn đăng trên trang New York Time với tựa đề “A Mother’s
Devotion, a Family’s Tearful Regrets”[103] của Janet Maslin đã đem đến một cái
nhìn sơ lược câu chuyện về một người mẹ đi lạc ở ga tàu điện ngầm đông đúc. Bài
viết ngoài việc xoay quanh những kí ức đau lòng về người mẹ của người thân; về sự
hối hận muộn màng của người con gái, người con trai và người chồng, bài viết còn
đưa ra những luận điểm mới rất đáng được quan tâm.
Thứ nhất, tác giả cho rằng người mẹ không phải chỉ là một phụ nữ chỉ biết
phục tùng, mẹ đã không hoàn toàn chịu đựng trong im lặng như bao phụ nữ khác.
Khi người chồng không cho con gái đi học, bà ném cái bàn ra ngoài sân, giật hết đồ
đạc khỏi giá treo đồ và bán chiếc nhẫn- kỉ vật duy nhất của mình cho con đi học.
Ngoài ra, vì thương các con, mẹ đã dám đuổi người đàn bà mà chồng mình đưa về
nhà, và khi hai người tới nơi khác trong làng sinh sống, bà tới tận nơi để phá đồ đạc
cho đến khi họ phải rời khỏi làng. Đó là những nét rất mới trong tính cách của phụ
nữ Hàn- vốn chỉ quen âm thầm chịu đựng.
Thứ hai, tác phẩm của Shin có thể trở nên phổ biến ở Hàn Quốc là vì nó đề
cập đến hiện tượng dịch chuyển từ nông thôn ra thành thị đang tăng rất cao ở nơi
đây. Theo tác giả bài viết, họ đã sai lầm khi từ bỏ sự bình yên, thanh thản của cuộc
sống làng quê đến với cuộc sống hối hả, bận rộn nơi phố thị. Như Shin đã chỉ ra,
những ngày lễ tết vốn là một dịp để các thành viên trong gia đình có thể xích lại gần
nhau thì được thay thế bằng các chuyến du lịch nước ngoài. Bởi vậy, thành công
của cuốn sách này ngoài thông điệp về tình yêu thương là sự cảnh báo về một hiện
tượng đang gây lo ngại ở Hàn.
Năm 2011, Yoo Hui- sok viết một bài luận với tựa đề “In search of the truth
about mother in this age through review of “Please look after mom.”[115] Bài luận
gồm năm phần xoay quanh chủ đề về người mẹ trong tác phẩm Hãy chăm sóc mẹ
---13---
của Shin Kyung- sook. Phần mở đầu ngoài việc giới thiệu về nữ nhà văn cũng như
các tác phẩm của bà được xuất hiện từ những năm 90 của thế kỉ XX là nhận định
của Jeong Hyo-gu “các mối quan hệ gia đình được mô tả trong câu chuyện của Shin
rất truyền thống, điển hình Hàn Quốc và tiền hiện đại”. Những phần sau của bài
viết được trình bày rất sắc sảo và có những nhận định xác đáng về tác phẩm của
Shin. Phần thứ nhất tập trung vào lời phê bình của các học giả như Kang Yu- jeong,
Jo Yeong- il, Goh Bong- jun… đối với tác phẩm. Theo những ý kiến này, tác phẩm
của Shin tập trung vào hình ảnh người mẹ như một biểu tượng của sự ấm áp và
khao khát, song hình ảnh này không tồn tại trong xã hội thực, nó chỉ mang tính biểu
tượng. Ở những phần sau, tác giả bài viết đã bám sát vào những đặc sắc của tác
phẩm cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Với nội dung, tác phẩm miêu tả về
người mẹ là một điển hình của những người phụ nữ sống trong hệ thống gia đình
gia trưởng. Tác phẩm nói về đức hi sinh âm thầm, cao đẹp của người mẹ nhưng
tuyệt nhiên không phải tiểu thuyết mô phạm, không rao giảng về lòng hiếu thảo,
mặc dù lòng hiếu thảo đang là một vấn đề đáng lên án trong xã hội hiện đại. Tác
phẩm chỉ nhắn nhủ mọi người hãy suy nghĩ về mẹ, mẹ không phải sinh ra đã là mẹ,
cũng phải trải qua một quá trình lâu dài mới trở thành mẹ. Về nghệ thuật, tác giả bài
viết tập trung vào khả năng kể chuyện tài tình của Shin, người mẹ không xuất hiện
ở hiện tại, tất cả hình ảnh mẹ đều được tái hiện qua kí ức của chồng, của con, của
những người thân xung quanh cô ấy.
Năm 2011, Nhà xuất bản Knopf tổ chức cuộc thi viết cảm nhận về tác phẩm
Hãy chăm sóc mẹ. Cuộc thi này đã thu hút đông đảo giới trẻ tham gia. Những bài
xuất sắc được in trong cuốn Please look after mom essay contest- Collection of
selected essays [96] Những bài viết chủ yếu nhấn mạnh tới mối quan hệ giữa những
người thân trong gia đình ngày càng lãnh đạm và xa lạ, đặc biệt là người mẹ với
những người con nhưng nhờ sự ảnh hưởng của tác phẩm mà họ đã thức tỉnh và kịp
nhận ra “hãy yêu thương chừng nào còn có thể yêu thương”.
Văn học Hàn Quốc vẫn còn là một câu hỏi lớn không chỉ đối với Việt Nam mà
với tất cả các nước trên thế giới. Những vấn đề nghiên cứu vẫn còn bỏ ngỏ chờ đợi
---14---
những nhà phê bình đóng góp để bạn đọc có thể hiểu về một đất nước còn chứa
đựng nhiều bí ẩn về văn học này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Văn học Hàn Quốc mà đặc biệt là mảng văn học hiện đại vẫn là một vùng đất
màu mỡ mà chưa được chú ý và khai thác đích đáng. Trong đề tài nghiên cứu này,
chúng tôi xin đi sâu vào hai vấn đề. Thứ nhất là hình tượng người phụ nữ được tái
hiện trong văn chương như thế nào. Thứ hai là thông qua việc tìm hiểu người phụ
nữ thấy được những điểm mới qua cái nhìn của các nhà văn nữ so với các nhà văn
nam giới. Từ đó thấy được những đóng góp đáng kể của những cây bút nữ cho thi
đàn văn chương.
Phạm vi nghiên cứu
Do việc dịch thuật các tác phẩm văn học đương đại Hàn Quốc ra tiếng Việt
còn hạn chế nên chúng tôi chỉ chọn nghiên cứu ba tác phẩm: Tập truyện ngắn Ván
bài lúc hoàng hôn (Evening games) của Oh Jung- hee, Hãy chăm sóc mẹ (Please
look after mom) của Shin Kyung- Sook và Người ăn chay (The Vegatarians) của
Han Kang. Đây là ba tác phẩm ít nhiều đã tạo được ấn tượng tốt trong lòng độc giả
trong thời gian qua và đặc biệt hình tượng người phụ nữ thể hiện trong các tác phẩm
này tương đối đậm nét, được giới phê bình đánh giá cao.
Bên cạnh đó chúng tôi cũng so sánh, đối chiếu với các tác phẩm viết về người
phụ nữ từ cổ điển đến hiện đại trong văn học Hàn Quốc và những tác phẩm về
người phụ nữ trong văn chương phương Đông.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử- xã hội: Được dùng để làm rõ sự tác động của hoàn cảnh
lịch sử, xã hội đến đời sống văn học. Cần phải đặt tác phẩm trong bối cảnh xuất
hiện của nó để thấy được các tác giả đã phản ánh hiện thực như thế nào, họ đã đóng
góp thêm được gì so với thời kì trước và những hạn chế của thời đại mà các tác giả
không thể vượt qua.
---15---
Phương pháp so sánh: Một hiện tượng văn học không tồn tại một cách biệt lập
mà luôn cần được đặt trong quan hệ đối sánh. Muốn tìm hiểu nó, không thể phân
tích một cách biệt lập mà phải tìm hiểu các mối quan hệ đa dạng và đa chiều của nó.
Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu một hiện tượng văn học với
các hiện tượng cùng loại, để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa nhà
văn này và nhà văn khác.
Hướng tiếp cận thi pháp học: Tìm hiểu hình tượng người phụ nữ trong văn học
hiện đại Hàn Quốc thông qua nhân vật, không- thời gian, kết cấu tự sự.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau:
Cung cấp cho người đọc một cái nhìn khái quát nhất về văn học hiện đại Hàn
Quốc, giúp cho bạn đọc tiếp cận một nền văn học còn nhiều mới lạ ở Việt Nam.
Phác họa chân dung về hình tượng người phụ nữ với những nét đẹp truyền
thống và hiện đại- những khát khao tự do thoát khỏi mối ràng buộc trong quan hệ
gia đình và xã hội, những khát khao hạnh phúc trong xã hội với những biến chuyển.
Luận văn hy vọng cung cấp cái nhìn đa diện về người phụ nữ trong xã hội Hàn
Quốc hiện nay.
Ngoài ra, luận văn cũng sẽ làm sáng tỏ những điểm độc đáo về bút pháp mà
các nhà văn đã sử dụng.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Khái quát về người phụ nữ trong văn học Korea và khái quát về
văn học hiện đại Korea.
Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày khái quát về người phụ nữ trong văn
học Korea từ truyền thống đến hiện đại với hai khía cạnh: phụ nữ với văn học và
phụ nữ trong văn học. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khái quát về văn học hiện đại
Korea để từ đó, thấy được sự ảnh hưởng của thời đại đến với người phụ nữ.
Chương 2: Hình tượng người phụ nữ qua sự thể hiện của văn học hiện đại Hàn
Quốc.
---16---
Trong chương này, chúng tôi sẽ nghiên cứu các vấn đề liên quan đến phương
diện nội dung trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ. Những vấn đề chúng
tôi khảo sát bao gồm: mối quan hệ gia đình, mối quan hệ xã hội của người phụ nữ,
sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong hình tượng người phụ nữ. Từ đó có thể
làm nổi bật lên hình tượng người phụ nữ ở những khía cạnh, những hoàn cảnh khác
nhau.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện
đại Hàn Quốc
Trong chương này, chúng tôi sẽ nghiên cứu các vấn đề liên quan đến phương
diện nghệ thuật trong việc xây dựng hình tượng người phụ nữ. Có thể thấy, các nhà
văn đã sử dụng một số phương diện nghệ thuật trong tác phẩm để khắc họa tính
cách và số phận nhân vật như việc xây dựng nhân vật và hệ thống nhân vật, xây
dựng không- thời gian nghệ thuật, xây dựng kết cấu tự sự. Qua đó, thấy được tài
năng và sự sáng tạo của các nhà văn nữ.
---17---
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN
HỌC KOREA VÀ KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI KOREA
1.1. Khái quát về người phụ nữ trong văn học truyền thống Korea
1.1.1. Phụ nữ với văn học
Người phụ nữ Hàn Quốc luôn giữ vai trò quan trọng trong một ngôi nhà hạnh
phúc. Trong gia đình, họ làm tất cả những công việc của người nội trợ, chăm sóc
chồng con và nuôi dạy con cái. Gánh nặng gia đình đã chiếm hết thời gian của
người phụ nữ. Do đó, họ không có cơ hội để thể hiện vai trò xã hội của mình. Đó
cũng là lý do vì sao trong văn học Hàn Quốc, đội ngũ nhà văn nữ có sự hạn chế về
số lượng. Ngoài ra, việc viết văn đối với người phụ nữ ở một đất nước chịu ảnh
hưởng rất lớn của tư tưởng Nho giáo như Hàn Quốc là một điều khó thực hiện.
Thế nhưng điều đó đã dần dần được thay đổi trong những năm gần đây. Nữ
nhà văn nổi tiếng của xứ Hàn Oh Jung- hee cho biết: “Trước đây, nam giới mang
nặng đầu óc phong kiến. Có thể nói họ không muốn và không chấp nhận tài năng
của người phụ nữ. Nhưng thật kì lạ vì những năm gần đây, phụ nữ bắt đầu nghiệp sáng tác tăng lên đáng kể, có thể cho rằng văn học Hàn đang dần dần nữ hóa.”1
Tác giả nữ xuất hiện rất nhiều và những sáng tác của họ không hạn chế trong
một lĩnh vực nào mà vô cùng đa dạng. Một số nhà văn nữ đã để lại dấu ấn sâu đậm
trong lòng độc giả vì mỗi cây bút đều tạo được cá tính của riêng mình.
Ở bộ phận văn học dân gian, văn học dân gian Hàn Quốc cũng giống như văn
học Việt Nam ở tính truyền miệng và thường khuyết danh, do đó thật khó để xác
định ai là tác giả của những bài ca còn truyền lại cho đến ngày nay.
Trong những bài Vu ca Shaman giáo, hầu hết đều sưu tập từ những chiếu đồng
khi các bà đồng tiến hành những nghi lễ của vu tục. Theo các nhà phê bình “phần
lớn Vu ca được lưu truyền thông qua con đường tạo lập quan hệ giữa mẹ nuôi và
con gái nuôi, được gọi là mẹ thần và con gái thần…”[10,118] Vậy là, trong những
1http://www.tienphong.vn/van-nghe/103506/Van-xu-Han-nguoi-xu-Han.html
màn nghi lễ, người phụ nữ có một vị trí vô cùng quan trọng. Họ không chỉ sáng tác
---18---
mà còn lưu truyền những bài Vu ca cho thế hệ sau. Một số Vu ca Shaman giáo được
lưu truyền có nội dung tương đối phong phú như Cầu nguyện thổ công, Cầu nguyện
cho người đã mất…
Tiếng nói của người phụ nữ trong phải chỉ xuất hiện trong các nghi lễ Shaman
giáo, trong những bài dân ca trữ tình Arirang, tiếng nói ấy lại một lần nữa ngân lên
qua các bài ca diễn tả các cung bậc của tình yêu. Từ sự cô đơn, nhớ nhung mỏi mòn
trông ngóng người yêu trong Jeongseon Arirang đến cả sự hận thù khi người yêu
bội tín với những lời nguyền rất hài hước của cô gái trong Bonjo Arirang…
Trong quá trình lao động, những bài dân ca có nội dung phong phú và lời ca
mượt mà đằm thắm được cất lên ấy là tiếng hát của những người phụ nữ trong khi
dệt vải. Trong những bài dân ca lao động dệt vải ấy, xuất hiện cả những bài ca dao
than thân của người phụ nữ về niềm vui, nỗi buồn trong kiếp làm vợ, kiếp làm dâu
của họ.
Vậy là, trong văn học dân gian, những nỗi niềm riêng trong cuộc sống như
tình yêu, hôn nhân được người phụ nữ bộc lộ qua những lời ca, tiếng hát ngọt ngào.
Và trong Vu ca Shaman giáo, người phụ nữ có một chức năng quan trọng, họ vừa
sáng tác vừa điều khiển nghi lễ bằng những lời ca của mình. Bên cạnh đó, theo tín
ngưỡng Shaman giáo, người phụ nữ là người trực tiếp giao tiếp với thần linh nên họ
không chỉ có vị trí nhất định trong xã hội mà đôi khi còn ảnh hưởng tới cả tầng lớp
thống trị.
Đến thời Shila thống nhất, Phật giáo phát triển thịnh vượng và trở thành tôn
giáo thống lĩnh. Trong giai đoạn này, xuất hiện rất nhiều tăng lữ một lòng hướng về
Phật pháp và đặc biệt rất am tường thơ ca. Thể thơ được yêu chuộng nhất và trở
thành thể thơ đặc sắc nhất của Shila là Hyang-ca. Trong bối cảnh này, các nhà sư nữ
cũng không là ngoại lệ khi để lại cho đời những bài Hyang-ca đậm chất trữ tình. Có
thể kể đến là nhà sư Wol Myeong Sa (thời vua Gyeong-deok) với các bài thơ Tán
hoa ca, Tế vong muội ca… Nội dung của các bài Hyang-ca này luôn gắn một thông
điệp: nơi trở về của con người chính là cõi Phật, muốn khắc phục nỗi buồn, con
người phải dựa vào sức mạnh của tôn giáo.
---19---
Trong triều đại Shila, phụ nữ rất được coi trọng, bởi đã có đến ba nữ vương
xuất chúng được tôn kính trong thời kì này. Thế nên, dễ dàng nhận thấy vị thế của
người phụ nữ thời Shila, họ được tôn trọng, được tự do cất lên tiếng hát, lời ca biểu
hiện nỗi lòng sâu kín của mình.
Tuy nhiên, điều đó đã không còn xuất hiện trong thời Koryeo, khi mà Phật
giáo suy yếu, Nho giáo dần thay thế và có vai trò chủ đạo. Nho giáo lên ngôi đồng
nghĩa với việc người phụ nữ ít có ảnh hưởng trong xã hội, tiếng nói của họ không
còn sức nặng. Ở thời kì này, Hyang-ca cũng dần suy thoái và thay vào đó là các bài
ca dao dân ca Koryeo. Nội dung của những lời ca này phản ánh ước mơ và cuộc
sống vui buồn của nông dân, ngoài ra còn có các bài ca thể hiện tình yêu nam nữ
“chuyện trai gái vui thú với nhau”, và khi ấy, tiếng nói của người phụ nữ thật bạo
dạn thể hiện tình cảm không chút e dè, những bài ca ấy là Ka-si-ri, Tây kinh biệt
khúc, Mãn điện xuân biệt từ…
Đến triều đại Choseon, mặc dù Nho giáo vẫn là tôn giáo chính thống và người
phụ nữ vẫn chưa được coi trọng nhưng qua thời gian, các tác giả nữ dần dần có
được chỗ đứng nhất định khi thể hiện được bản lĩnh của mình trong lĩnh vực thơ ca
và tiểu thuyết.
Nhắc đến thơ ca thời kì này không thể không nhắc đến sijo- thể thơ được xem
như “Quốc phong” của nền thơ ca Hàn Quốc. Hình thức thơ sijo có lẽ đã được
manh nha từ trước thời Koryeo và phát triển cho đến tận ngày nay với tầng lớp sáng tác chính là Yang Ban.2 Tuy nhiên, đến thế kỉ XVI những kisaeng (kỹ nữ) đã tham
gia sáng tác sijo, đem đến cho thơ ca giai đoạn này sự mềm mại, duyên dáng thoát
khỏi những vấn đề đạo đức, luân lý Nho gia mà các Yang Ban đã đề cập đến.
Một kisaeng vô cùng nổi tiếng sống vào thế kỉ XVI là Hwang Chin- i (1522-
1565). Sự am hiểu về thơ ca, thư pháp, hội họa… của nàng đã làm say lòng bao văn
2Yang-ban (Lưỡng ban): gồm có quý tộc, quan lại và sĩ đại phu.
nhân, học giả. Nàng để lại rất nhiều bài thơ bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ, trong
---20---
đó có “Nước suối biếc trong núi xanh”, “Việc em làm”, “Đêm giữa đông”, “Núi
xanh như lòng em”, “Em có bao giờ không chung thủy”, “Vẫn là núi cũ”… Với sắc
đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” và tài năng thi ca xuất chúng mà cuộc đời của
nàng đã trở thành huyền thoại và người đời gọi nàng thơ ấy là “Tiên nữ”. Nàng đã
sống trong lòng công chúng hơn năm thế kỉ qua như một minh chứng sâu sắc rằng
giai nhân không phải cái bóng đứng đằng sau quân tử, họ vẫn có thể sáng tác và lưu
dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả đương thời và mãi mãi.
Ngoài Hwang Chin-i, giai đoạn này còn xuất hiện một số kĩ nữ nổi tiếng về
sijo như Myeong Ok với bài thơ “Người gặp trong mộng”, Yi Gye-lang với bài thơ
“Mưa hoa lê”… Những kisaeng tham gia sáng tác sijo đã cho thấy một diện mạo
mới khác xa với tư tưởng trung quân, ái quốc hay những luân lý Nho giáo đương
thời của các bậc chính nhân quân tử.
Trong dân gian, với những người nông dân tầng lớp dưới, trong giai đoạn hậu
kì Choseon đã xuất hiện saseol sijo- thể thơ miêu tả trực tiếp về tình yêu nam nữ,
hay những khó khăn vất vả của người dân… với sự tham gia của đông đảo tầng lớp,
trong đó chắc chắn không thể thiếu người phụ nữ. Những đề tài mà người phụ nữ
thể hiện trong saseol sijo là những nhân vật dung tục và đời thường ở xã hội đương
thời như người phụ nữ bán tóc mua quà cho người chồng bị ốm, người thiếu phụ
vào ruộng nhân sâm làm tình với người đàn ông khác, bà lão vượt qua núi cao hiểm
trở để nhuộm tóc đen mê hoặc chàng trai trẻ… Lúc này tiếng nói của người phụ nữ
hài hước, vui nhộn có khi pha trộn một chút châm biếm, mỉa mai. Với đề tài hấp
dẫn và sự thể hiện phong phú mà saseol sijo được yêu chuộng nhất vào cuối thời
Choseon.
Xuất hiện song song với thể thơ sijo là kasa, do tầng lớp phụ nữ Yang- Ban
sáng tác để chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống. Một thi nhân tiêu
biểu cho những vần thơ này là Ho Nansorhon (1563-1589), bà được biết đến là một
trong những nhà thơ quan trọng nhất của văn học thời Choseon. Lĩnh vực nổi bật
của bà không chỉ là những bài thơ kyubang kasa (ca từ khuê phòng) mà còn có
---21---
những vần thơ về Đạo. Ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ nhưng những vần thơ mà bà để
lại vẫn xao xuyến tâm hồn mỗi người yêu thơ.
Một điều hết sức đặc biệt là ở mỗi thể thơ, tầng lớp phụ nữ tham gia sáng tác
đều khác nhau. Nếu như sijo hầu như do kisaeng sáng tác, saseol sijo do tầng lớp
nông dân sáng tác thì thể thơ kasa, đặc biệt là kyubang kasa do phụ nữ Yang- Ban
sáng tác. Và ở mỗi thể loại, người phụ nữ đều để lại cho đời một vài áng thơ đáng
nhớ. Như đã biết, dưới triều đại Choseon, phụ nữ không những bị loại hẳn ra ngoài
về mặt xã hội mà cả về mặt văn hóa, vậy mà, với sự tham gia của đông đảo các tầng
lớp phụ nữ sáng tác văn chương như thế đã “cho thấy bắt đầu có sự xuất hiện nét
khác biệt về giới tính của văn hóa thời trung đại.”[39,276]
Không chỉ xâm nhập vào lĩnh vực thơ ca mà trong những áng tuyệt tác văn
chương còn để lại đã xuất hiện hai nữ tác giả, họ được biết đến qua hai thiên tiểu
thuyết nổi tiếng không chỉ về dung lượng mà còn về nội dung được truyền tải trong
đó.
Phải kể đến là tác giả của Ngoạn nguyệt hội minh yến- Yi phu nhân (1694-
1743), mẹ của An Gyeom-je, một vị quan lớn trong triều đình vào nửa đầu thế kỉ
XVIII. Ngoạn nguyệt hội minh yến có thể được xem là một trong những tác phẩm
đồ sộ nhất của tiểu thuyết gia tộc. Trong giai đoạn này độc giả chủ yếu của tiểu
thuyết là phụ nữ sỹ đại phu hay những phụ nữ trong cung, họ dư giả về vật chất và
có cuộc sống nhàn rỗi nên rất cần một thứ gì đó để đọc hay đúng hơn là để giết thời
gian. Có lẽ vì thế mà những tác phẩm này có một đặc điểm chung là cốt truyện liên
quan đến gia tộc, đề cập đến sự kết duyên giữa nam nữ trong gia tộc, sau đó là
những âm mưu, những thù hận và cuối cùng là giải quyết tất cả mâu thuẫn và gia
tộc lại có một cuộc sống tốt đẹp. Điều đó tuy là trái ngược với thực tế nhưng lại phù
hợp với tầng lớp độc giả- những người phụ nữ với bản tính dịu dàng và trái tim
nhân hậu.
Thêm vào đó, tác giả của Ngoạn nguyệt hội minh yến là phụ nữ nên họ nhìn
nhận vấn đề nhẹ nhàng hơn, họ muốn những cái kết có hậu hơn là những tranh
giành và những kết cục đẫm máu. Tác phẩm cũng là minh chứng cho việc phụ nữ
---22---
không hề thua kém nam giới, họ không chỉ biết đọc, biết thưởng thức mà họ còn có
thể trở thành tác giả, sáng tác những tác phẩm phù hợp với thị hiếu của chính mình.
Ngoài ra, việc một người phụ nữ đã sáng tác một tác phẩm đồ sộ như Ngoạn nguyệt
hội minh yến được cho rằng “là việc được đặc biệt chú ý trên quan điểm của văn
học phụ nữ với tư cách là việc chưa từng có tiền lệ trong lịch sử văn học thế giới
thế kỉ XVIII.” [10,439]
Cùng thời với Yi phu nhân còn có Lady Hyegyong (1735-1815), tác giả của
Hàn trung lục- một loại hồi cảo lục mang tính tự truyện kể về sự kiện xảy ra năm
1762. Vì những mâu thuẫn mà người cha Yeong-jo đã giam con trai mình là Sa-do
thế tử (chồng của tác giả) vào trong thùng chứa lương thực và bỏ đói đến chết. Tác
giả viết tác phẩm này như một sự hồi tưởng khủng khiếp về quá khứ mất chồng thật
thống thiết, với những lời mở đầu như một sự oán trách khôn nguôi “ khi viết bài
này thì lòng sửng sốt buồn đau không sao diễn tả nổi đến mức đều chảy nước mắt
khi viết từng chữ từng chữ một.”[10,441] Có lẽ vì vậy mà người đời sau đều gọi tác
phẩm của bà là Khấp huyết lục (bài viết được viết ra cùng máu và nước mắt).
Không chỉ có giá trị về văn học, tác phẩm còn cung cấp cho người đọc một cái
nhìn đa diện về cuộc sống của những con người trong cung cấm, về những sự thật
tàn khốc mà lịch sử vì những lí do chính trị đã không dám bộc lộ rõ bằng một văn
phong lưu loát điển nhã, đại diện lý tưởng cho văn học cung đình. Và điều thành
công nhất mà Lady Hyegyong mang đến cho độc giả “là giá trị độc đáo với tư cách
là văn học nữ giới ở điểm nó nội diện hoá tình cảm của “cái hận” thông qua sự thể
nghiệm đầy bi cực của tác giả.”[10,449]
Từ khảo sát trên đây, chúng tôi mạn phép đưa ra một lời nhận xét về nền văn
học nữ lưu thời kì từ dân gian cho đến những năm cuối của thế kỉ XVIII. Đó là các
tác giả nữ xuất hiện còn rất khiêm tốn, rải rác, lúc đậm lúc nhạt và tạo nên một dòng
chảy văn chương mỏng manh, sơ sài, đứt đoạn mà theo đánh giá của chúng tôi thì
đấy chưa thể coi là một dòng văn học chính thống dành cho nữ lưu được.
---23---
1.1.2. Phụ nữ trong văn học
Như trên đã trình bày, các nhà văn nữ có nhiều ưu thế trong sáng tác văn học.
Và đồng thời, phụ nữ cũng là một đối tượng mà văn học thường xuyên hướng đến.
Trong những tác phẩm văn học từ Tây sang Đông, từ cổ điển đến hiện đại,
hình ảnh người phụ nữ xuất hiện trong đời sống văn chương vô cùng phong phú. Từ
các thi sĩ hàng đầu của Đường thi như Lý Bạch, Đỗ Phủ đến các thi nhân bậc nhất
của Việt Nam như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi… đều có các sáng tác liên quan đến đề
tài người phụ nữ, lấy câu chuyện của người phụ nữ làm trung tâm với mục đích
miêu tả cuộc đời, số phận và đời sống nội tâm của người phụ nữ.
Đến với văn học Hàn, từ xa xưa phụ nữ đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác
của bao văn nhân, thi sĩ. Trong văn học dân gian, hình ảnh người phụ nữ hiện lên
qua những lời ca tiếng hát mà họ ngân lên trong quá trình lao động, trong vui chơi
sinh hoạt hằng ngày. Ở những bài dân ca trữ tình Arirang chứa đựng đầy đủ những
cảm xúc hỉ, nộ, ái, ố trong cuộc sống như nỗi nhớ người yêu, nỗi buồn trong cuộc
đời làm dâu, nỗi vất vả, cực nhọc trong cuộc sống làng quê…và từ đây, số phận của
người phụ nữ phần nào được hé mở.
Họ có thể là một cô gái bị người tình bỏ rơi, nhưng trong lòng luôn hướng về
người mình yêu, vẫn mong một ngày kia chàng sẽ trở lại trong bài ca Ly biệt
…
Đã yêu nhau rồi có ai muốn xa nhau.
Thời gian cứ đi, cả người yêu em cũng đi
Trăm năm trên thế gian này, em còn biết tin ai để sống? [93,61]
Họ có thể là một người phụ nữ cất lên tiếng hát thể hiện sự oán hận và cam
chịu trong cuộc đời làm dâu của mình trong Bài ca làm dâu
Em ơi, em ơi, xin đừng hỏi chị điều này. Kiếp làm dâu khác chi kiếp chó.
…
Gương mặt chị xưa kia như hoa lê trắng muốt, giờ đã là hoa bí còn đâu.
Mái tóc dài mượt mà duyên dáng nay khác gì là một bụi cây. [93,44]
---24---
Từ những bài dân ca này, đã phần nào phản ánh đúng nỗi bất hạnh mà phụ nữ
phải chịu đựng trong xã hội đương thời. Nhưng họ chỉ có thể hát lên cho thỏa nỗi
lòng, số phận của họ đã an bài, không thể đổi khác trong một xã hội mà phụ nữ
không có quyền quyết định tương lai, tất cả phụ thuộc vào sự may rủi.
Ở Việt Nam, xã hội phong kiến phụ quyền cũng tồn tại hàng nghìn năm với
những quan niệm bất công, khe khắt với người phụ nữ. Với quan niệm “Tại gia tòng
phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, hay “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”
mà xã hội dành mọi ưu ái cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống địa vị thấp
kém nhất trong gia đình cũng như xã hội. Cả đời họ chỉ biết lầm lũi, cam chịu trong
sự đau khổ, nhọc nhằn. Và tâm sự ấy đã được người phụ nữ gửi gắm vào những câu
ca dao than thân, trách phận thấm thía đến nao lòng
“Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người hàng xóm có chân thì chùi”
Từ đó, có thể thấy, người phụ nữ Việt và Hàn đều là những người có số phận
tủi nhục, bất hạnh, đắng cay và điều đó dường như đã trở thành một hằng số chung
đối với bất kì một người phụ nữ nào phải sống dưới xã hội phụ quyền.
Đến thời Koryeo, số phận của người phụ nữ vẫn chưa được cải thiện, thậm chí
có phần bất hạnh hơn thời kì trước. Lí do là vào thời điểm này, Nho giáo chiếm vai
trò chủ đạo trong xã hội. Đọc các bài ca dao dân ca Koryeo, độc giả không khỏi xúc
động với hình ảnh người phụ nữ cô đơn, mòn mỏi đợi chồng, đợi người yêu qua
những vần thơ lúc xao xuyến, lúc oán than, hờn giận.
Trong Ka-si-ri, cô gái không ngần ngại bày tỏ cảm xúc đau buồn khi phải xa
cách người yêu. Có lúc là nỗi nhớ nhung da diết, có lúc chợt sợ hãi nếu một mai
người không quay trở lại… những xúc cảm mâu thuẫn giữa chữ “tình” và chữ “hận”
cứ giằng xé tâm can, nhưng vượt qua tất cả những xúc cảm ấy là lời thề giữ mãi
lòng chung thủy đợi người yêu trở về. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của người phụ
---25---
nữ, dù cho cuộc đời còn lắm khổ đau, bất hạnh nhưng trái tim đôn hậu, cao thượng,
vị tha vẫn tỏa sáng lấp lánh, ấm áp tình đời, tình người.
Bài Tỉnh ấp từ miêu tả một người chồng đi bán rong đến đêm vẫn chưa về.
Người vợ làm bài thơ cầu mong chồng mình được trở về bình an vô sự.
Trăng trên cao chiếu sáng.
Xin chiếu sáng xa xa.
…
Chàng bán rong ở chợ.
Sợ dẫm bẫy thú hoang. [93,135]
Người vợ lo lắng chồng mình sẽ gặp hiểm nguy trên đường đi về đã bày tỏ
mong muốn ánh trăng hãy chiếu xa xa, chiếu sáng mọi nẻo đường để chồng mình
được an toàn trở về nhà. Bài ca thể hiện một tình yêu ấm áp, nồng nàn của người
phụ nữ dành cho chồng.
Đến thời kì Choseon, ca dao dân ca không còn được thịnh hành mà thay vào
đó là thể thơ sijo và kasa đóng vai trò chủ đạo. Trong những vần thơ ấy, không thể
thiếu vắng được hình ảnh người phụ nữ.
Kyubang kasa là một thể thơ do phụ nữ viết để chia sẻ những niềm vui và nỗi
buồn trong cuộc sống của phụ nữ chốn khuê phòng. Một loạt những tác phẩm thể
hiện một cách tự do tình cảm của người phụ nữ bị áp bức trong chế độ phong kiến
như Đoạn trường từ, Tương tư biệt khúc, Khuê oán ca…
Trong đó nổi bật lên có Khuê oán ca được phỏng đoán là do Hứa Lan Tuyết
Hiên sáng tác. Tình yêu của người phụ nữ xuất hiện trong tác phẩm không phải là
một tình yêu lý tưởng. Người đàn ông mà cô gái ấy tôn thờ chỉ là một người thích
trêu hoa ghẹo bướm. Yêu đó rồi chia tay đó không một lần quay lại, chỉ có người
phụ nữ là nhớ thương, mòn mỏi trong đợi chờ. Một người đàn ông như vậy đáng lẽ
không được người phụ nữ giữ trọn lời thề thuỷ chung. Tuy nhiên, đã là phụ nữ sống
trong xã hội Hàn Quốc, một xã hội mà Nho giáo được coi là một tư tưởng chính
thống thì người phụ nữ không có một đặc quyền nào cả, họ bị phụ thuộc rất nhiều
---26---
vào người đàn ông của mình, họ không có quyền lựa chọn, họ chỉ có quyền chờ đợi
kể cả khi người đàn ông của mình ra đi với một người đàn bà khác.
Không bi ai như Khuê oán ca nhưng Tương tư biệt khúc cũng là một khúc ca
buồn khi miêu tả chân thật về nỗi cô đơn của người phụ nữ trong căn phòng trống
trải. Những câu nói trong bài ca như “hình ảnh của chàng hiển hiện trước mắt, tiếng
nói của chàng văng vẳng bên tai”, “lúc ngủ cũng như lúc thức đều mong
chờ”[39,277] được lặp đi lặp lại một cách thường xuyên biểu lộ tình cảm chân thật
của cô gái đối với người trong mộng của mình. Cô gái không hổ thẹn được nói thật
lòng mình, được bày tỏ nguyện vọng của mình. Đó thực sự là một điều hiếm thấy
song ở một khía cạnh nào đó, những ca từ này phản ánh đúng ước muốn, nguyện
vọng của tầng lớp dân nghèo muốn thoát ra khỏi những quy tắc nghiêm ngặt của
Nho giáo. Quy tắc ấy đã làm bao đôi lứa phải xa nhau, bao tình yêu mới chớm nở
đã bị dập tắt phũ phàng.
Tình yêu nam nữ một lần nữa lại được tái hiện trong những vần saseol sijo với
hình ảnh cô gái vượt qua đèo cao hiểm trở không ngưng nghỉ để đến với người
mình yêu. Điều đó như một sự thách thức đối với quy luật nghiệt ngã trong thời
phong kiến là phụ nữ không được quyền chủ động trong tình yêu. Gió, mây, chim
khi vượt đèo cao đều phải ngưng nghỉ. Nhưng em- một người con gái bé nhỏ, yếu ớt
song lại vô cùng mạnh mẽ để khẳng định tình yêu của mình.
Gió cũng phải ngừng, mây cũng phải nghỉ,
khi vượt đèo cao.
Chim ưng trong nhà, chim ưng trên núi,
chim lớn chim bé, chim nào cũng nghỉ,
khi vượt đèo cao.
Còn em,
nghe tin chàng đến,
bên kia đèo
một mạch không nghỉ,
vượt đèo sang.[39,254]
---27---
Trong thơ ca, hình ảnh người phụ nữ hiện lên thật sinh động, phản ánh đúng
số phận của phụ nữ trong cuộc sống đời thường, những ước muốn, nguyện vọng
thầm kín không biết thổ lộ cùng ai.
Đến với mảng văn xuôi, mà tiêu biểu là thể loại văn học cung đình, hình ảnh
người phụ nữ được miêu tả là những chính cung hoàng hậu, những phi tần mĩ nữ
hay những nàng hầu trong những cung điện xa hoa. Qua những tác phẩm này, độc
giả sẽ hiểu hơn về cuộc sống tưởng như hạnh phúc, nhưng thực sự lại vô vàn đắng
cay của người phụ nữ trong cung cấm. Quý sửu nhật kí là một tác phẩm như thế, nó
được “người trong cung ghi chép qua loa” ghi lại sự kiện hoàng hậu Nhân Mục bị
giam giữ trong cung vì đã sinh con trai.
Số phận éo le với một hoàng hậu bắt đầu từ sự kiện: trong cuộc chiến với Nhật
Bản, người con của một phi tần đã có công lớn trong cuộc chiến nên được sắc
phong làm thái tử. Điều đó cũng có nghĩa là thái tử sẽ được nối ngôi vua. Việc
hoàng hậu sinh con trai như một sự đe doạ lớn đối với tương lai của Quang He-gun-
vị thái tử ấy. Vì vậy Quang He-gun đã nhẫn tâm giam giữ hoàng hậu trong cung và
giết chết con trai của bà, đây thực sự là một bi kịch sau cánh cửa hậu cung.
Câu chuyện sau đây đề cập đến một khía cạnh khác trong cung đình, đó là
hình ảnh hoàng hậu Nhân Hiển Vương bị vua đuổi ra khỏi cung vì vua say đắm phi
tần họ Chang, muốn phong cho phi tần ấy làm hoàng hậu. Nhưng nhờ có sự can
thiệp của dân chúng, hoàng hậu mới trở về với ngôi vị của mình.
Những câu chuyện trên đây có lẽ chưa đủ để nói hết được những uất ức,
những tủi hổ của phụ nữ chốn cung đình. Khi còn là phi tần chưa được sủng ái, họ
có thể được gặp vua một năm một lần đã là vinh hạnh, có khi được tuyển vào cung
cả đời mà chẳng được gặp vua để cuộc đời tàn lụi sau cánh cửa hậu cung. Nhưng
khi được sủng ái hay được vinh hạnh là một chính cung hoàng hậu thì số phận của
họ chẳng những không được thanh thản hơn mà những toan tính, những đe doạ từ
rất nhiều thế lực rình rập đã cướp đi sự bình yên của họ.
Trong cung đình có những tác phẩm tái hiện sinh động cuộc sống của những
phi tần mĩ nữ thì trong dân gian, cụ thể là qua loại hình nghệ thuật Pansori, tuy chỉ
---28---
còn sót lại một vài tác phẩm nhưng hình ảnh người phụ nữ lại rất điển hình, đặc biệt
là nàng Xuân Hương trong Xuân Hương truyện, nàng Thẩm Thanh trong Thẩm
Thanh truyện… Những tác phẩm ấy chứa đựng một sức sống lâu bền, trường tồn
mãi với thời gian bởi đã đạt được nguồn cảm mến dạt dào vô tận với một sức hút
lay động lòng người.
Trong số những Pansori được lưu truyền cho đến ngày nay có Xuân Hương
truyện là được phổ biến rộng rãi và được bạn đọc trong nước lẫn nước ngoài ái mộ.
Chuyện tình yêu của Xuân Hương và Lý Mộng Long mặc dù trải qua nhiều trắc trở
nhưng cuối cũng vẫn là một kết thúc có hậu bởi họ luôn hướng về nhau với một sự
thuỷ chung son sắt. Xuân Hương được quan huyện để ý và muốn lấy làm thiếp
nhưng sẵn sàng cự tuyệt để thủ tiết với Lý Mộng Long. Ngược lại, Lý Mộng Long
được phong chức tước, có một vị thế lớn trong triều đình nhưng không vì thế mà
quên được người con gái năm xưa, vẫn trở về đi tìm cho dù nàng chỉ là con gái của
một kĩ nữ.
Thông điệp về tình yêu đã giúp tác phẩm có một chỗ đứng nhất định trong
lòng công chúng “tình yêu chân thành của đôi nam nữ vượt lên trên giai cấp mà
Xuân Hương truyện khắc hoạ có đủ sức làm cảm động không chỉ với độc giả thế kỷ
XVIII, XIX mà còn với cả độc giả của xã hội thị dân ngày nay”[10,423]
Một Pansori nữa cũng rất được ái mộ là Thẩm Thanh truyện, không khai thác
về đề tài tình yêu nhưng sự hiếu thảo của tấm lòng một người con đã lấy đi bao giọt
nước mắt của người đọc. Câu chuyện kể về một bé Thẩm Thanh mồ côi mẹ từ bé,
người cha mù loà của cô đã phải đi xin sữa khắp nơi để nuôi cô khôn lớn. Đáp lại
tình yêu thương của cha, cô đã làm lụng rất vất vả để nuôi cha, có đồ ăn ngon cũng
nhường hết cho cha, kể cả phải đổi cả tính mạng lấy 300 thạch gạo để mắt cha có
thể sáng lại cô cũng không từ. Có thể nói, chữ Hiếu mà tác giả dân gian xây dựng
cho Thẩm Thanh đã giúp tác phẩm này còn được lưu truyền mãi theo thời gian. Sự
hi sinh của nàng không chỉ làm cha của mình sáng mắt mà kể cả những người mù
trong xã hội đều được sáng mắt. Đó là một sự đền đáp chính đáng cho sự hi sinh
cao cả của người con gái tên Thẩm Thanh.
---29---
Những người phụ nữ trong giai đoạn này cho dù thân phận giàu hay nghèo thì
đều được miêu tả như những mĩ nhân, có một sắc đẹp tuyệt trần và thường có trái
tim yêu thương hết mực. Nàng Thẩm Thanh được miêu tả trong câu chuyện mặc dù
mồ côi mẹ từ nhỏ không ai chăm sóc nhưng sắc đẹp của nàng có thể ví như chim sa
cá lặn “dáng điệu của nàng như những thiếu nữ tắm bên dòng suối trong, gương
mặt khả ái của nàng được ánh trăng chiếu sáng, ánh mắt của nàng như ánh sao mai
trên bầu trời trong trẻo ban mai, hai gò má xinh xắn như đoá hoa phù dung mới nở
trên sườn đồi cuối mùa xuân, đôi lông mày như mặt trăng đầu tháng, mái tóc bồng
bềnh như nhành hoa lan non, tóc mai như đôi cánh ve sầu, nụ cười của nàng như
đoá hoa mẫu đơn vừa nở sau một ngày đêm trời mưa để lộ hàm răng trắng muốt,
giọng nói như chim sơn ca.”[10,366-367] Sắc đẹp của nàng khiến cho người đối
diện không thể không đem lòng yêu mến. Nhưng không vì thế mà nàng sinh kiêu
căng, hợm hĩnh. Nàng không quản ngại khó khăn để chăm sóc cho người cha mù
loà của mình, và người con hiếu thảo ấy ngày đêm phụng dưỡng cha không một lời
oán than.
Hay như sắc đẹp của nàng Xuân Hương dưới con mắt của công tử họ Lý vô
cùng kiều diễm “Mặt nàng mang màu trắng của con hạc giữa dòng sông xanh được
ánh trăng phản chiếu trên nền tuyết trắng. Môi nàng đỏ hồng, khi hé miệng cười để
lộ ra hàm răng trắng muốt như ngọc, như sao. Nhìn lướt qua thấy nàng là vầng sắc
màu lấp loá như mặt trời rọi trong sương mù. Chiếc váy màu xanh như làn sóng của Ngân Hà”3. Sắc đẹp của nàng đã làm cho chàng công tử nhà giàu khi vừa gặp
mặt lập tức đem lòng yêu say đắm. Sắc đẹp nghiêng nước đổ thành của nàng vang
xa đến độ tên quan huyện họ Biền sau khi được phong chức đã muốn có được nàng
Xuân Hương hầu hạ ngay lập tức.
Vậy là sắc đẹp của những người con gái sống trong xã hội bấy giờ có khi là
đem lại cho họ tình yêu, sự quý mến nhưng cũng chính nó đã làm cho người phụ nữ
3http://4phuong.net/ebook/12886052/truyen-xuan-huong.html
nhiều phen bất hạnh, lao đao. Tuy nhiên, những tác phẩm này đa phần còn chịu ảnh
---30---
hưởng của văn học dân gian, kết thúc đều có hậu nên những người con gái đẹp ấy
trải qua bao nhiêu khổ nạn cuối cùng cũng được đoàn tụ bên cạnh những người mà
họ yêu thương.
Văn học thời trung đại là vậy, xã hội còn nhiều lề lối, nhiều tập tục khắc
nghiệt đối với người phụ nữ. Họ không có quyền lựa chọn cuộc sống, lựa chọn
tương lai của chính mình. Tất cả đều phụ thuộc vào sự may rủi, vào người mà họ đã
trao thân gửi phận. Tuy nhiên, hình ảnh người phụ nữ trong thế giới văn học đó như
một viên ngọc sáng lấp lánh, dù số phận của họ có đau khổ, cay đắng nhưng vẫn
luôn giữ được phẩm hạnh đẹp đẽ và cao quý. Có thể nói, văn học giai đoạn này đã
làm tròn sứ mệnh của nó trong việc lưu giữ những hình ảnh của người phụ nữ trong
xã hội xưa và mang đến cho ta cái nhìn toàn diện về họ, mặc dù cuộc đời còn lắm
nhọc nhằn, cơ cực và tủi nhục nhưng không làm mất đi được vẻ đẹp tâm hồn ngời
sáng của người phụ nữ.
1.2. Khái quát về văn học hiện đại Korea
1.2.1. Bối cảnh của văn học hiện đại Korea
Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống nên đặc điểm của nền văn học nào
cũng chủ yếu phản ánh bối cảnh tình hình xã hội thời kì đó. Văn học Hàn Quốc
cũng vậy, dựa vào bối cảnh chính trị, xã hội có thể chia văn học hiện đại Hàn Quốc
ra làm bốn thời kì khác nhau: văn học cận đại (1900-1945), văn học thời hậu chiến
và chia cắt đất nước (1945-1970), văn học trong xã hội công nghiệp (1970-1990),
văn học trong xã hội tiêu dùng đại chúng (1990 đến nay).
Từ năm 1900 đến năm 1945, dân tộc Korea sống trong thời đại mất nước và
nỗi đau dưới ách thống trị của thực dân. Trong giai đoạn trước, vào thế kỷ XIX,
Korea được xem như một “quốc gia ẩn dật”, kiên quyết phản đối những đòi hỏi của
phương Tây về quan hệ ngoại giao và thương mại. Nhưng khoảng thời gian đó
không kéo dài được bao lâu khi một số quốc gia châu Á và châu Âu với tham vọng
đế quốc đã đua tranh để giành ảnh hưởng đối với bán đảo Korea. Nhật Bản, sau khi
thắng Trung Quốc và Nga trong chiến tranh, đã thôn tính Korea và thiết lập sự cai
trị thực dân tại đây từ năm 1910. Với khẩu hiệu Naeseon ilche (Nhật Bản và Korea
---31---
là một), Nhật Bản đã tỏ rõ âm mưu của mình là tiêu diệt bản sắc dân tộc Korea
thông qua việc xoá bỏ nền văn hoá truyền thống của Korea và biến người dân Korea
thành những thần dân của đế quốc Nhật Bản.
Đứng trước những nguy cơ đó, Korea vừa phải đấu tranh với thế lực ngoại
xâm vừa phải ra sức giữ gìn, bảo vệ những bản sắc văn hóa của dân tộc.
Chính trong bối cảnh này, những nhà trí thức đã tiếp thu những tinh hoa của
các dân tộc khác qua con đường du nhập và qua các trí thức trẻ học tập ở nước
ngoài kết hợp với bản sắc riêng của nền văn hóa truyền thống Korea, kết quả là đã
hình thành một nền văn học đa văn hóa nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Điều
đáng chú ý là từ những ảnh hưởng của văn hóa, đặc biệt là phương Tây mà tư tưởng
của người dân Korea đã có phần cải biến. Nếu như trước đây, phụ nữ không được
xem trọng trong lĩnh vực văn hóa thì giờ đây, phụ nữ được tạo nhiều điều kiện để
tham gia sáng tác văn học và đương nhiên, số lượng các nhà văn tham gia sáng tác
tăng lên đáng kể. Những tác phẩm văn học được các nhà văn nữ sáng tác trong thập
niên 30 không chỉ nâng lên về số lượng mà còn về chất lượng.
Sau hơn 30 năm thống trị và đô hộ, ngày 15.8.1945 thực dân Nhật chính thức
rút lui khỏi Korea, trả lại sự tự do cho đất nước Korea.
Nhưng niềm vui ấy không kéo dài được bao lâu bởi chính nội bộ Korea lại xảy
ra tranh chấp và dẫn đến cuộc chiến tranh đẫm máu giữa những đồng bào ruột thịt.
Giai đoạn này được tính từ năm 1945 đến năm 1970 khi vĩ tuyến 38 trở thành
đường chia cắt bán đảo Korea thành khu vực phía Nam và phía Bắc. Ở khu vực phía
Nam, Syngman Rhee được bầu làm tổng thống đầu tiên của nền Cộng hoà, khai
sinh ra nước Cộng hoà Hàn Quốc (15.8.1948). Ở phía Bắc, dưới sự lãnh đạo của
Kim Nhật Thành, nước CHDCND Triều Tiên cũng chính thức được thành lập vào
ngày 9.9.1948.
Từ đây, đất nước bị phân ly không chỉ về mặt chính trị, quân sự mà còn về cả
tư tưởng, văn hóa. Khuynh hướng nghệ thuật của mỗi nước vì thế cũng phát triển
theo xu hướng hoàn toàn khác nhau.
---32---
Trong giai đoạn này, đáng chú ý nhất là dòng văn học hậu chiến, đề cập đến
những vấn đề sinh tồn trong thời đại suy tàn. Những tác phẩm giai đoạn này đã tái
hiện phần nào cuộc sống đảo lộn sau chiến tranh, những phong tục tập quán, những
luân lý xã hội đã không còn nguyên giá trị và những thiệt hại không chỉ về vật chất
mà cả tinh thần do chiến tranh để lại. Thời kì này, tiếng nói của các tác giả nữ hầu
như không được đề cập đến.
Sau sự sụp đổ của tổng thống Syngman Rhee, nước cộng hòa thứ hai được
thành lập tại Chang Myon do Đảng dân chủ lập nên vào tháng 8 năm 1960. Tuy
nhiên, chính phủ này không tồn tại được bao lâu do cuộc đảo chính của Đại tướng
Park Jung-hee cầm đầu. Park trở thành Tổng thống trong cuộc bầu cử vào năm
1963. Có thể nói, xã hội Hàn Quốc thập kỷ 70 dưới sự lãnh đạo của tổng thống Park
Jung- hee vô cùng ngột ngạt và hỗn loạn. Sự kiểm soát độc tài của chính quyền
quân sự tạo ra một khoảng cách lớn giữa nhà lãnh đạo và dân chúng. Nhân dân
không có một tiếng nói dân chủ nào mà tất cả đều nằm dưới sự lãnh đạo của tổng
thống Park.
Tuy không được lòng công chúng nhưng khả năng lãnh đạo tài tình của ông
thì không thể phủ nhận. Chính ông đã đưa nền kinh tế Hàn Quốc phát triển đi lên
với tốc độ chóng mặt khi theo đuổi một nền công nghiệp hóa nhanh chóng và cải
thiện sự tăng trưởng kinh tế trong những thập niên 60 và 70 của thế kỉ XX. Riêng về
kim ngạch xuất khẩu tăng từ một tỉ đô la lên đến mười tỷ đô la chỉ trong sáu năm đã
là một kì tích quá lớn để có thể xứng đáng với cái tên “kì tích bên sông Hàn” mà
nhiều người ca ngợi.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp hoá đã kéo theo những mặt trái
trong xã hội Hàn Quốc yên bình. Ô nhiễm môi trường được cho là kẻ thù lớn nhất
nảy sinh trong quá trình công nghiệp hoá. Tiếp sau đó là sự thu hẹp dần của xã hội
nông thôn và sự tăng trưởng nhanh mạnh của những khu đô thị. Đại diện cho xã hội
mới này là những ngôi nhà cao tầng cùng những con người thượng lưu với tư tưởng
phân biệt giàu nghèo ở mức báo động.
---33---
Trong hoàn cảnh xã hội như thế, các văn nhân, thi sĩ đã cất lên những tiếng
chuông cảnh báo về sự thay đổi nhanh chóng của xã hội, về những hệ lụy của một
nền công nghiệp tăng trưởng quá mau lẹ. Và tất nhiên, không thể thiếu tiếng nói của
các tác giả nữ. Cũng cần nói thêm rằng, trong giai đoạn hậu chiến và thời kì chia cắt
đất nước, các tác giả nữ hầu như vắng bóng trên văn đàn nhưng đến giai đoạn này,
họ xuất hiện rầm rộ, đông đảo. Đề tài cũng đã mở rộng hơn so với trước đây, nếu
như trước đây chỉ tập trung vào đề tài người phụ nữ thì ngày nay, đã mở rộng đề tài
sang các lĩnh vực như văn hóa, chính trị, xã hội…
Hơn nữa, sự quay trở lại của các tác giả nữ đã góp thêm tiếng nói phong phú
cho nền văn học vì rằng, trong hơn 30 năm chiến tranh, độc giả đã quá quen với các
tác phẩm về bom đạn chiến tranh, về nỗi đau mất mát. Tác phẩm của các tác giả nữ
với văn phong nhẹ nhàng, thẫm đẫm tính nhi nữ sẽ phù hợp hơn với thị hiếu của các
độc giả trong thời đại công nghiệp, đang cần một làn gió nhẹ để xoa dịu bớt cái
nắng chói chang.
Sau 18 năm thống trị, chính quyền độc tài của Park Jung- hee chính thức kết
thúc sau vụ ám sát tổng thống vào cuối năm 1979.
Đất nước chưa thể bước vào ổn định sau nhiều biến cố lớn như vậy, vẫn còn
nổ ra các phong trào đấu tranh lẻ tẻ của sinh viên, người lao động, trí thức… Đến
năm 1987, khi cuộc bầu cử tổng thống và sửa đổi Hiến pháp diễn ra, quyết định dân
chủ hoá trên phương diện chính trị thì các phong trào đấu tranh mới chính thức
chấm dứt. Nền dân chủ mới này đã làm bùng lên sự tự do về văn hoá, về tư tưởng.
Các nhà văn giờ đây không chịu bất kì một trở ngại nào, họ có thể tự do viết ra
những trăn trở, những suy tư của mình về thời cuộc, về lối sống của con người trong
thời đại mới…
Bước sang thập niên 90, trong cuộc bầu cử Tổng thống vào năm 1997, lãnh tụ
Kim Dae-jung của Đảng đối lập, đã đắc cử. Chính quyền của ông với tên gọi
“Chính quyền của nhân dân” đã được thành lập thông qua sự chuyển giao quyền lực
lớn chưa từng có từ Đảng cầm quyền sang Đảng đối lập trong lịch sử Hàn Quốc.
---34---
Trong thời gian này, đáng lưu ý nhất là đời sống sinh hoạt của người dân. Sau
sự kiện Olympic Seoul năm 1988, xã hội Hàn Quốc có sự bùng nổ cao độ. Không
chỉ bó hẹp ở một bán đảo mà giờ đây, dân chúng được giao lưu văn hoá với rất
nhiều quốc gia, đặc biệt là phương Tây. Từ đó cũng giúp cho dân tộc Hàn tiếp thu
được những nền văn minh mới lạ. Thêm vào đó, cuối thập niên 90, Internet xâm
nhập mạnh mẽ, Hàn Quốc trở thành quốc gia có tỉ lệ dân số sử dụng Internet cao
nhất thế giới. Internet xâm nhập vào tất cả mọi nơi từ gia đình, trường học cho đến
những nơi làm việc, đâu đâu người ta cũng phổ cập Internet. Hệ quả tất yếu của việc
làm này là con người trở thành đối tượng tích cực của Internet và văn hoá đại
chúng. Ở đó, con người nhận được nhiều mối quan hệ mới, ở đó họ cũng học được
những văn hoá của những dân tộc khác, tiếp thu được nhiều tinh hoa của các dân
tộc trên mọi miền thế giới.
Sự biến đổi nhanh chóng của xã hội tiêu dùng đại chúng đã kéo theo ý thức và
quan niệm về cuộc sống của người dân nơi đây cũng thay đổi theo.
Nếu như trước đây trong tâm trí của người Hàn là hướng tới tự do và dân chủ
thì ngày nay nhu cầu cá nhân, thoả mãn cái tôi cá nhân đang là một nhu cầu bức
thiết. Những con người đại diện cho cuộc sống mới hôm nay đã thoát ra khỏi vỏ bọc
là xã hội với những luân lý, những phong tục tập quán, những lề lối mà thay vào đó
là khát vọng được sống và mưu cầu những hạnh phúc riêng trong xã hội với nền văn
hoá đại chúng hào nhoáng và đời sống sinh hoạt phong phú.
Nền văn học phản ánh hiện thực cuộc sống và dĩ nhiên, những vấn đề này
được tái hiện rất sinh động trong văn học. Với tư tưởng dân chủ, bình đẳng nên giai
đoạn này, thi đàn văn học đón chào rất nhiều các tác giả nữ. Họ không chỉ nổi tiếng
trong nước mà nhờ Internet, nhờ vấn đề dịch thuật khá phát triển nên tác phẩm của
họ đã được “lấn sân” sang các nước khác, và đương nhiên, một số nhà văn tài năng
đã đoạt được rất nhiều giải thưởng như Shin Kyung- sook, Cho’oe Yun, Jo Kyung-
ran, Jung Ji-huyn…
---35---
Trên đây là những nét sơ lược về bối cảnh của văn học hiện đại Hàn Quốc từ
những năm đầu của thế kỉ XX đến nay. Văn học của nữ lưu đã được hình thành và
phát triển trong bối cảnh này.
1.2.2. Một số đặc điểm văn học hiện đại Korea
Tìm hiểu đặc điểm văn học không thể không nhắc đến luận điểm sau: Văn học
là tấm gương phản chiếu trung thành cuộc sống, là sản phẩm văn hoá tinh thần của
thời đại. Văn học hiện đại Hàn Quốc cũng vậy, không ngoài quy luật trên.
Trong lời tựa cuốn sách Văn học Hàn Quốc thế kỷ XX, các tác giả nhấn mạnh
văn học giai đoạn này đã “cho thấy một cách sinh động nhất cuộc sống của người
Hàn Quốc trong thế kỷ XX, và chúng cũng thể hiện rất phong phú những tâm tư,
tình cảm của người Hàn Quốc cũng như những giá trị và cái đẹp mà họ khát khao
vươn tới.”[26,6]
Thế kỷ XX đi qua với biết bao thăng trầm và biến đổi. Những thập niên đầu
của thế kỷ là nỗi đau mất nước, là nỗi nhục dưới ách thống trị của đế quốc Nhật, 36
năm mất mát và đau thương đi qua, chưa kịp mừng vui thì đất nước lại chịu sự chia
cắt hai miền Nam- Bắc… và biết bao những thiệt hại không sao kể hết được do
chiến tranh để lại. Nhưng không chịu đầu hàng, Hàn Quốc dưới sự lãnh đạo của
Park Jung- hee đã đưa đất nước vững bước đi lên với nền kinh tế phát triển đáng
kinh ngạc. Đến nay, dù trải qua bao biến cố nhưng người Hàn Quốc với bản tính
cần cù, thông minh, sáng tạo đã có những bước tiến vượt bậc để trở thành một trong
những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất trong khu vực. Như trên đã nhận xét,
đặc điểm văn học giai đoạn này sẽ phản ánh rõ nét những đặc trưng cơ bản của thời
đại.
Thứ nhất, nền văn học mang tính cách mạng, gắn bó sâu sắc với vận mệnh
chung của dân tộc.
Sau thất bại của phong trào Man-se, các nhà thơ cất lên những khúc hát bi ai
về hoàn cảnh mất nước, về hiện thực dân tộc bằng những giọng điệu, ngôn từ khác
nhau. Những nhà thơ tiêu biểu trong giai đoạn này có Han Yong- un, Kim So- wol,
Kim Tong- hwan,Yi Shang- hwa…
---36---
Các nhà văn cũng biểu đạt sự căm phẫn và những cảm xúc cá nhân của mình
nhưng theo một cách riêng. Đó là dùng giọng văn châm biếm sâu cay hay sự cảm
thương chân thành những số phận của con người. Có thể kể đến một số nhà văn như
Park Tae- won, Yoo Jin- o, Chae Man- sik… đã rất thành công trong việc miêu tả
về cuộc sống đô thị, về những xu hướng chạy theo đồng tiền của những kẻ ham mê
vật chất. Một số nhà văn lại thành công với mảng đề tài về nông thôn, về những
người nông dân thuần tuý chất phác nhưng trong thời thế loạn lạc đã trở nên khốn
cùng và tội nghiệp. Nhà văn Kim Yu- yeong là một điển hình, ông rất có tài trong
việc miêu tả về vẻ đẹp trữ tình hoang sơ của tự nhiên một cách hài hước qua các tác
phẩm như Xuân, xuân, Hoa hải đường… Cũng có một số nhà văn thành công với
các tiểu thuyết gia đình, miêu tả rất tinh tế số phận của những con người trong gia
đình trong biến cố thời đại như Yeom Sang seop với tiểu thuyết Ba thế hệ, dựa vào
mâu thuẫn giữa ba thế hệ trong một gia đình đã phần nào nói lên thực trạng xã hội
Korea thời thực dân những năm 1920 sau khi phong trào Man-se kết thúc…
Vào những thập niên đầu của thế kỉ XX, dưới sự đàn áp dã man của phát xít
Nhật, nhiều chiến sĩ- nhà văn đã bị bắt giữ hoặc hi sinh, đội ngũ sáng tác của các
nhà văn nam giới theo đó cũng giảm đi đáng kể. Lúc này, với ảnh hưởng tư tưởng
từ văn hóa phương Tây nên các nhà văn nữ đã được công nhận, thêm vào đó, các
điều kiện xã hội dành cho phụ nữ cũng được cải thiện, bởi vậy không ngạc nhiên
khi lực lượng nhà văn nữ giai đoạn này tăng lên đáng kể.
Hòa vào tình hình chung của dân tộc, các nhà văn nữ như Park Hwa-song,
Kang Kyong-ae đã mô tả thực tại cuộc sống khốn cùng của người dân Hàn Quốc
Hungry Ghosts dưới sự cai trị của Nhật Bản qua các tác phẩm như Eve of Ch’usok,
The underground Village… Một số nhà văn khác như Kim Mal-bong không chỉ mô , tả cuộc sống khốn cùng mà còn chỉ đích danh thế lực nào đã đẩy dân chúng vào tình
trạng đó. Với một niềm tin vững chắc, cô đã mạnh mẽ lên tiếng phản đối sự cai trị
của quân đội Nhật, đồng thời, dùng văn chương như một vũ khí để chống lại ảnh
hưởng của văn hóa Nhật Bản tại Korea. Ngoài những nhà văn kể trên, giai đoạn này
---37---
có rất nhiều cây bút đáng điểm mặt như Paek Sin-ae, Yi Son-hi, Ch’oe Chong-hi, về
thơ ca có những tác giả như Chang Chong-sim, Chu Su-won, Mo Yun-suk…
Sau khi đế quốc Nhật rút khỏi bán đảo Korea, kết thúc 36 năm thống trị, dân
tộc Korea bước vào một giai đoạn mới, tưởng rằng đất nước đã hòa bình, thống nhất
nhưng rồi bị lôi kéo vào cuộc diễn tập chính trị của các cường quốc thế giới, sự
phân chia Nam- Bắc là không thể tránh khỏi. Sự phân chia trong chính trị cộng với
những vết thương và sự hỗn loạn do chiến tranh để lại đã tác động đáng kể đến thế
giới văn học.
Nếu như các tác phẩm từ những năm đầu đến những năm 30, 40 của thế kỉ XX
hầu hết đều chứa đựng trong đó sự mất mát, đau thương về nỗi đau mất nước nỗi
nhục dưới chế độ thực dân thì đến thời kì sau, từ năm 1945 trở đi, sự chia cắt hai
miền Nam Bắc là chủ đề mà các văn nhân thi sĩ tập trung thể hiện.
Một số nhà văn tiêu biểu gồm có Kim Dong- ri với những tác phẩm lấy bối
cảnh là cuộc chiến. Tuy không trực tiếp phê phán chiến tranh với những vết thương
không hàn gắn được nhưng qua đó độc giả vẫn cảm nhận được chiến tranh như một
tai ương mà ý chí hay sức mạnh của con người không thể can thiệp được vào như
Tiếng chim Kachi, Quân sỹ trở về… Bên cạnh đó còn có những cây bút với giọng
văn trữ tình và giản dị đã khắc họa vẻ đẹp tinh khiết, cao quý của con người đối lập
với thế giới đầy hiểm ác, lọc lừa. Thế giới bên ngoài với nhiều cám dỗ rất cần đến
tình thương để cảm hoá, để hoà giải và hơn hết là để điều trị các vết thương khó
lành trong cuộc sống. Tác phẩm của Hwang Sun- won tuy có bi kịch nhưng lại ấm
áp tình người cũng là vì thế. Tác phẩm Hạc của ông đã cho độc giả thấy một sự thật
là dù chiến tranh có khốc liệt, có sức tàn phá dữ dội thế nào thì cũng không thể
cướp đi lòng nhân ái vốn có trong bản tính con người.
Bên cạnh các tác phẩm văn xuôi tiêu biểu kể trên là sự góp mặt của các nhà
thơ ưu tú. Seo Jeong- ju, được xem là nhà thơ tiên phong đưa thơ ca trữ tình Hàn
Quốc lên một tầm cao mới trên phương diện mĩ học. Thời kì đầu, thơ của ông đầy
nhiệt huyết, bản năng nhưng hỗn loạn. Đến thời kì sau, thơ ông phẳng lặng, trầm
ngâm ôn hoà hơn với những bài thơ như Ngắm núi vô song, Trời đông…Trải qua
---38---
tuổi thơ lang thang, lạc lõng trong thời đại thực dân và cuộc nội chiến tàn khốc, đẫm
máu, hơn ai hết, ông hiểu được nỗi đau, sự tuyệt vọng trong cuộc đấu tranh sinh tồn
nhưng không vì thế mà thơ ông hàm chứa bi kịch. Ngược lại, thơ của ông hàm chứa
sự hoà bình thống nhất của dân tộc, tinh thần lạc quan trước cuộc sống vĩnh hằng.
Đó chính là sự khác biệt để có thể đánh giá “ông là nhà thơ có khả năng xuất chúng
nhất.”[26,75]
Ở thời kì này, một đóng góp hết sức quan trọng của các thi sĩ là trào lưu sáng
tác thơ trữ tình truyền thống của họ đã tạo nên một “thời hoàng kim của thơ trữ tình
Hàn Quốc” và nó được coi là một nỗ lực khôi phục lại tiếng mẹ đẻ của các văn nhân
trong giai đoạn đất nước giành lại quyền tự chủ của mình. Giai đoạn này thực sự đã
qui tụ rất nhiều những thi nhân như Yu Chi- hwan với tập thơ Đảo Ul- leung, Nhật
kí Cheongryeong, Chôn vùi bài ca cháy bỏng… Park Mog- wol với tập thơ Hươu
xanh, Hoa đào trên núi… Những nhà thơ ấy đã góp những tiếng nói của mình để
phản ánh hoàn cảnh đất nước, con người trong thời kì loạn lạc.
Ở sáng tác của các tác giả, hai chủ đề lớn được tập trung thể hiện, đó là nỗi
đau thương, mất mát trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, đó là ý chí đấu tranh kiên
cường để dành được độc lập tự do. Các nhà văn, nhà thơ trong hoàn cảnh này đã
dùng ngòi bút của mình để động viên, khích lệ ý chí chiến đấu của quân sĩ, của dân
chúng. Văn học trở thành một thứ vũ khí sắc bén có thể đánh động đến những góc
khuất sâu thẳm trong trái tim mỗi người.
Thứ hai, nền văn học được hiện đại hóa, những giá trị truyền thống kết hợp hài
hòa với các yếu tố hiện đại.
Nền văn học của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trong quá trình phát triển đều
không thể tránh khỏi sự giao lưu và ảnh hưởng của văn học các dân tộc khác. Văn
học Korea cũng vậy, các học giả đã xác định được rằng, văn học hiện đại của Korea
chịu ảnh hưởng rất lớn từ văn học phương Tây, văn học Nhật Bản và những nền văn
học khác ở châu Á. Bên cạnh đó, nó cũng kế thừa, phát triển những mầm mống
“hiện đại” của văn học truyền thống Korea. Chính đặc điểm này đã tạo ra một nền
văn học Korea đa bản sắc văn hóa nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
---39---
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển
mình của văn chương Korea. Từ ảnh hưởng của văn học phương Tây, rất nhiều
những đề tài mới lạ, những thủ pháp nghệ thuật được các văn nhân thi sĩ Korea khai
thác và truyền đạt.
Về thơ ca, có thể kể đến bài thơ Từ biển đến chú bé của Choe Nam-son, theo
các nhà nghiên cứu, bài thơ này ảnh hưởng rõ nét từ bài thơ Đại dương của Bairon.
Với sự thay đổi táo bạo từ nội dung đến hình thức của thơ ca truyền thống “sử dụng
những dấu câu, khổ thơ với những dòng dài ngắn khác nhau, lối vắt dòng khiến khổ
thơ chứ không phải dòng thơ trở thành đơn vị mang nghĩa trọn vẹn, sự phá vỡ vần
luật truyền thống tìm kiếm những nhịp điệu năng động hơn […] những hình tượng
mới vốn không hề quen thuộc trong văn học cổ điển Trung Hoa cũng như Korea
(“biển” và “trẻ thơ”)…”[31] đã khiến cho bài thơ được vinh dự được xem là bài
“Thơ mới” đầu tiên của Hàn Quốc. Tiếp sau bài thơ này là một loạt các bài thơ của
Kim Ok, Jeong Ji-yong viết về những rung động riêng tư, tự do, phóng khoáng khác
xa với các bài thơ nặng về giáo huấn, chính trị đương thời, mà sự ảnh hưởng ấy bắt
nguồn từ chủ nghĩa tượng trưng Pháp như Beaudelaire, Verlaine. Một số nhà thơ
khác như Yi Sang lại chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa Đa đa, làm những bài thơ thị
giác (thay đổi cỡ chữ, chừa khoảng trống, cho ngoặc đơn, dùng các số Ảrập…)
Về văn xuôi, đã xuất hiện nhiều nhà văn Korea chịu ảnh hưởng từ đề tài đến
thi pháp của các tác gia lớn của văn học phương Tây. Có thể kể đến là dấu ấn của
Đỏ và đen (Stendhal), Bà Bovary (Flaubert) trong đề tài về tình yêu tự do, khát khao
tình dục của tác phẩm Vô tình, Đất đai (Yi Kwang-su), Bakjeonghwa (Yi Hae-jo)…
Bên cạnh đó, Con ếch xanh nơi phòng thí nghiệm (Yeom Sang-seop) cũng ảnh
hưởng rất nhiều từ các nhà chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự nhiên Pháp như
Maupassant, Zola ở khía cạnh khai thác về đề tài cuộc sống thường nhật, phân tích
tính cách và số phận cá nhân trong bối cảnh lịch sử- xã hội.
Đến những năm 20 của thế kỉ XX, những tiểu thuyết gia hàng đầu của Anh-
Mĩ như James Joyce, Lawrence, O.Henry, J.London, Poe… được dịch và giới thiệu
ở Korea. Ảnh hưởng từ văn học Anh- Mĩ đã góp phần vun xới cho nền văn học hiện
---40---
đại ở Korea, đặc biệt qua Ulysses của James Joyce mà thủ pháp dòng ý thức in dấu
ấn vào nhiều tiểu thuyết của Yi Sang và Một ngày trong đời nhà văn Kubo của Pak
Tae-won. Một số tiểu thuyết trữ tình ra đời với triết lý phản kháng đô thị, quay trở
về thiên nhiên, đắm say ái dục của Yi Hyo-seok cũng chịu ảnh hưởng từ Lawrence,
Singe…
Ngoài ra, Korea bị Nhật cai trị gần nửa thế kỉ, các tri thức trẻ Korea cũng đi du
học ở Nhật với số lượng không nhỏ. Điều đó đã tạo ra một sự giao lưu, ảnh hưởng
văn hóa Nhật Bản khá lớn ở Korea, một phần nào đó được thể hiện rất chân thật
trong văn chương, khi mà các nhà phê bình đã tìm thấy những điểm tương đồng về
đề tài, tính cách nhân vật, hệ tư tưởng, lối trần thuật trong một số tác phẩm của hai
nền văn học. Chẳng hạn như Hoa mận nở trên tuyết của Ku Yon-hak mô phỏng tác
phẩm cùng tên của Seuhiro Tettcho, Chiaksan (Núi chim trĩ) của Yi In-jik và
Hototogisu (Chim cu cu) của Tokutomi Roka, Hyeol-ui nu (Những giọt lệ máu) của
Yi In-jik với Chi no namida (Những giọt lệ máu)…
Bên cạnh đó, văn học hiện đại Korea cũng ảnh hưởng từ một số nhà văn lớn
của Châu Á như R.Tagore, Lương Khải Siêu, Hồ Thích.
Trên đây là ảnh hưởng từ những yếu tố ngoại lai tới văn học hiện đại Korea,
nhưng như đã nói trên đây, văn học hiện đại Korea cũng kế thừa, tiếp nối những
thành tựu của nền văn học truyền thống.
Về thơ văn xuôi của Chu Yo-han, theo một số học giả thì đây chính là giọng
thơ mang phong cách nhà thơ Mĩ Whitman nhưng một số khác lại cho rằng, trong
văn học dân tộc đã có xu hướng chuyển những bài thơ và những bài ca vào hình
thức văn xuôi từ các triều vua Yeongjo và Jeongjo. Vấn đề ý thức về cái tôi cá nhân,
sự thể hiện khát khao nhân bản trong tình yêu tự do, đam mê ái dục, theo các học
giả, cũng đã hình thành từ văn học thời Choseon. Có thể minh họa bằng một số bài
thơ của các kĩ nữ (Kisaeng) lên tiếng đòi quyền được yêu, được hạnh phúc của
người phụ nữ; hoặc một số bài Saseol sijo ra đời cuối thời Choseon đã tập trung vào
cuộc sống thường nhật của giới bình dân, tôn vinh quyền tự do được bộc lộ tình
yêu; Pansori nổi tiếng mọi thời đại Xuân Hương truyện đã ca ngợi sự đức hạnh và
---41---
kiên cường của cô gái dám đấu tranh cho quyền tự do làm người, tự do ái dục…
Một số tiểu thuyết Korea hiện đại về đề tài “du hành thực thể” và “du hành tinh
thần” trong các tác phẩm của Yi Kwang-su, Yom Sang-seop, Park Tae-won được
xem là ảnh hưởng từ tiểu thuyết phiêu lưu phương Tây nhưng kì thực những đề tài
này đã xuất hiện từ rất sớm trong tiểu thuyết cổ điển Cửu vân mộng của Kim Vạn
Trọng.
Từ một số dẫn chứng đã nêu trên đây, có thể thấy văn học hiện đại Korea có
“sự tiếp nối, phát huy những thành tựu của tiểu thuyết truyền thống cả trên phương
diện nội dung (quan tâm sâu sắc đến hiện thực xã hội và hiện thực tâm hồn thông
qua những vấn đề về gia đình, tình yêu đôi lứa, sự giải phóng con người…), lẫn
phương diện hình thức (các kiểu truyện “phiêu lưu thực thể”, “phiêu lưu tinh
thần”, tự sự tâm lý, kết cấu mở…)”[56] Tuy nhiên, các mầm mống “hiện đại” trong
văn học Korea thực sự phát huy được thế mạnh khi có sự kết hợp nhuần nhuyễn với
các giá trị mới của văn học phương Tây.
Vậy là, từ sự kế thừa, phát triển nền văn học truyền thống kết hợp với giá trị
của các nền văn học trên thế giới đã tạo ra một nền văn học vừa truyền thống vừa
hiện đại ở Korea.
Thứ ba, nền văn học mang tính đại chúng, gắn với sự phát triển của công
nghiệp hóa.
Đến thời kì sau, từ sau chế độ độc tài của Park Jung- hee, xã hội Hàn đã có
những bước tiến vượt bậc. Đặc biệt, thời kì này dân chủ hoá trên phương diện chính
trị cũng phần nào được xác lập tạo ra sự tự do sáng tạo về mặt văn hoá.
Trọng tâm của văn học những năm 70 là những vấn đề phát sinh trong quá
trình công nghiệp hoá. Rất nhiều những nhà văn đã đưa ra các vấn đề nóng của xã
hội bấy giờ như tiền bạc vật chất dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo, phong tục tập
quán cùng xã hội nông thôn truyền thống bị thu hẹp và được thay thế dần bởi cuộc
sống đô thị hối hả tấp nập…
Nhà văn Hwang Seok- yeong với tác phẩm Đất khách đã tái hiện một cách xúc
động cuộc sống của người lao động. Khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp
---42---
hoá, xã hội nông thôn thu hẹp dần nhường chỗ cho các đô thị, nông dân phải bước
ra khỏi làng quê của mình để kiếm sống ở các thành phố lớn. Bao nhiêu đắng cay,
tủi nhục mà họ phải gánh chịu, kể cả những thủ đoạn, những lọc lừa khiến cho Lee
Dong-hyeok phải một mình ôm thuốc nổ đứng trên núi không người đồng cảm. Nói
chung, tác phẩm đã gói trọn được đầy đủ những mâu thuẫn, đối lập giữa hai giai
cấp, sự độc ác, gian giảo của thế lực nắm quyền và khát vọng đấu tranh để sinh tồn
của tầng lớp lao động.
Bên cạnh Hwang Seok- yeong, thời kì này còn xuất hiện một số nhà văn như
Yoon Heung- kil thành công với các tác phẩm về dân nghèo đô thị và những vấn đề
về chia cắt đất nước; Lee Mun- gu, được người đọc ái mộ qua những trang viết về
không gian nông thôn- xưa là nền tảng của sinh hoạt truyền thống, nay đã bị biến
chất như thế nào sau quá trình công nghiệp hoá…
Cũng nhờ sự tự do về văn hoá mà những năm tháng này rất nhiều nhà văn nữ
trước đây vẫn đứng bên lề của nền văn học thì nay đã hoạt động mạnh mẽ trên con
đường sáng tác như Oh Jung-hee, Kim Chae-won, Kim Hyang-suk… Họ xuất hiện
với nhiều dáng vẻ, nhiều giọng điệu, nắm bắt nhịp phát triển mới mẻ, sôi nổi và tràn
đầy sức sống của thời đại. Bên cạnh các nhà văn kể trên còn có một số nữ thi sĩ rất
được yêu mến trong giai đoạn này như Hur Su-gyeong, Na Hui-deok- những thi sĩ
thiên về mẫu tính, dùng những vần thơ để che chở cho những mất mát trong cuộc
sống bằng tấm lòng bao dung cao cả của bản năng làm mẹ qua các bài thơ như Tình
yêu hư không, Gửi rễ cây… Từ những đóng góp cho nền văn học, độc giả đã không
thể phủ định được, người phụ nữ biết chữ và người phụ nữ viết văn, điều lạ lẫm
trong thời kỳ trung đại, đã trở nên quen thuộc và để lại dấu ấn trong đời sống văn
học hiện đại.
Sau khi nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh chóng, dân chúng phải đối mặt
với những biến đổi lớn trong xã hội. Có thể nói cả đất nước đang đối mặt với một
thế giới mới mà ở đó con người trở thành đối tượng tiêu dùng tích cực của Internet
và văn hoá đại chúng.
---43---
Không gian của cuộc sống đời thường thay đổi, thị hiếu về sinh hoạt tiêu dùng
cũng khác đi, những cuộc giao lưu với các dân tộc khác đã tăng lên đáng kể. Chính
những nhân tố đó đã thúc đẩy nền công nghiệp văn hoá đại chúng và công nghiệp
giải trí phát triển với tốc độ chóng mặt. Trong hoàn cảnh đó, con người với khát
vọng mang tính cộng đồng được thay thế bằng những khát vọng cá nhân, những
mưu cầu hạnh phúc cá nhân bộc lộ mạnh mẽ trên mọi phương diện.
Dưới cái nhìn của những nghệ sĩ, xã hội tiêu dùng đại chúng vừa là đối tượng
phê phán vừa là một thế giới đầy quyến rũ đối với con người. Các nhà thơ như Yoo
ha, Lee Mun- jea…lang thang trong xã hội này như những đứa trẻ mồ côi lạc bầy
trong thế giới hào nhoáng, xa hoa, không phải là sự mất mát, đau thương trong hoàn
cảnh mất nước mà là sự cô đơn trong chính ngôi nhà “dân tộc” của mình. Jang
Jeong- il thì khác, ông dùng lối viết nhẹ nhàng, lôi cuốn nhưng lại vô cùng cay
đắng, xót xa khi cuộc sống đã bị vật chất hoá, tiền tài, danh vọng có thể thống trị
con người trong xã hội tiêu dùng. Qua đó nhà thơ cũng gửi gắm tới độc giả về sức
quyến rũ của thiên đường vật chất này là giả tạo.
Những nhà văn trong giai đoạn này cũng đóng góp đáng kể cho sự phát triển
của nền văn học. Những tác phẩm của họ phản ánh những đổi thay trong đời sống
của xã hội tiêu dùng. Họ đã thoát ra được lối thuật truyện, sự mô phỏng hiện thực
xã hội của các nhà văn giai đoạn trước mà khám phá thế giới bằng trí tưởng tưởng
bay bổng của mình. Yoon Dea- nyeong phá bỏ hoàn toàn những thủ pháp thuật
truyện truyền thống để khám phá những mảng tư duy mới. Các nhân vật của ông
thường tuyệt vọng trong hiện thực xã hội và có mơ ước được quay trở lại với sự tồn
tại khởi thuỷ. Một số tác phẩm chính của ông nói về vấn đề này như Thông tấn xã
hội câu cá hồi, Đi xem phim cổ…
Tóm lại, văn học hiện đại Hàn Quốc chính là sản phẩm tinh thần của thời đại.
Nó không chỉ phản ánh đúng thực trạng của xã hội đương thời mà qua văn chương,
bạn đọc có thể trải nghiệm những sự kiện trong quá khứ, những mất mát, những đau
thương trong thời kì đất nước mới bị chia cắt; những tủi nhục, cơ cực trong hơn 36
năm dưới sự thống trị của thực dân…
---44---
1.2.3. Khái quát về người phụ nữ trong văn học hiện đại Korea
Cuối thế kỉ XIX, triều đại Choseon đã không thể đứng vững được do sự xa hoa
vô độ của các vua chúa, do sự mục nát từ trong triều đình. Lúc này làn gió mới từ
phương Tây đã tới, xua tan đi những đám mây mù ảm đạm mà tư tưởng Nho giáo
đã lưu dấu ấn sâu đậm. Thời đại này được gọi là thời đại mới, khi mà con người bắt
đầu suy nghĩ lại về chế độ phụ hệ khắc nghiệt đã khiến người phụ nữ phải chịu bao
bất công, đau khổ. Người ta bắt đầu thay đổi những hệ tư tưởng đã ăn sâu bén rễ
bấy lâu nay về thời cuộc, về sự bất công với nữ giới. Người ta đề cao vị thế của
người phụ nữ lên một tầm cao mới “Phụ nữ biết vâng lời và chịu phục tùng ngày
xưa được thay thế bằng những phụ nữ được giáo dục tốt hơn để có thể phục vụ đất
nước của mình như một người mẹ khôn ngoan và người vợ hiền.”[104]
Thời đại này cũng xuất hiện tiểu thuyết mới, tiểu thuyết hiện đại, thơ hiện
đại… những lĩnh vực ấy đã mở ra cơ hội để các nhà văn thử tài và chinh phục độc
giả, các nhà văn nữ cũng không là ngoại lệ.
Ba nữ nhà văn tiên phong cùng sinh vào năm 1896, đó là Kim Myong-sun
(1896-1951), Na Hye-sok(1896-1948) và Kim Won-ju (1896-1971). Với cái nhìn
sắc bén về cuộc sống, về số phận của biết bao phụ nữ sống dưới xã hội phong kiến
mà các nhà văn đã cho ra đời những tác phẩm lên tiếng phê phán chế độ và bảo vệ
những người phụ nữ. Và chính từ đây, chủ nghĩa nữ quyền của Hàn Quốc được phôi
thai và phát triển.
Kim Myongsun- người phụ nữ đầu tiên của Hàn Quốc học về tranh sơn dầu
phương Tây ở trường Cao đẳng nghệ thuật nữ Tokyo vào năm 1918 và sau đó ở
Paris đã cho ra đời truyện ngắn với tựa đề Cô gái đáng ngờ. Truyện ngắn này đã
giành giải nhì trong một cuộc thi được tài trợ bởi Tạp chí Thanh niên- một trong
những tạp chí văn học đầu tiên và có ảnh hưởng lớn nhất được thành lập tại Hàn
Quốc vào năm 1910.
Kim Wonju- được xem là một trong những nhà phê bình nữ quyền gây tranh
cãi nhất với nhiều bài tiểu luận về giáo dục, cải cách hệ thống gia đình, giới tính,
bình đẳng đối với phụ nữ. Kim sáng lập tờ báo Phụ nữ mới (Sinyoja, tháng 3.1920),
---45---
tờ báo đầu tiên do một người nữ Hàn Quốc lập ra cho phụ nữ.
Thời gian này ở Việt Nam cũng bắt đầu xuất hiện ý thức đấu tranh cho nữ
quyền. Một số tờ báo ra đời như Nữ giới chung (chủ bút Sương Nguyệt Anh) với
những bài báo của Phan Khôi, Nguyễn Thị Kiêm, nhóm Nữ lưu thư quán của Phan
Thị Bạch Vân và Phụ nữ tân văn… Tuy nhiên, về tính hiện đại, thì truyện ngắn Cô
gái đáng ngờ của Kim Myong-sun viết năm 1917 đã đi khá xa so với những truyện
ngắn trên tạp chí Nam Phong của Việt Nam lúc bấy giờ.
Ba nhà văn nữ tiên phong của Hàn chỉ là những người đánh tiếng trống mở
đầu cho một tư tưởng, một quan niệm mới. Họ đã không theo đuổi được đến tận
cùng cái lý tưởng về tình yêu tự do và sự bình đẳng nam nữ bởi sự chỉ trích và tố
cáo của công chúng cũng như những người đỡ đầu của họ, bởi lí do họ đã vô luân
và mù quáng khi chạy theo các chuẩn mực đạo đức và các giá trị tư sản phương
Tây.
Sau một thời gian không lâu, khi ba nhà văn tiên phong đánh hồi chuông báo
hiệu một nền văn học mới, trên thi đàn văn học bắt đầu xuất hiện rất nhiều cây viết
nữ, đến nỗi giai đoạn văn học này được xem như một giai đoạn trăm hoa đua nở của
văn học nữ lưu. Trong thời kì này, với những cây bút chắc tay và đầy nhiệt huyết đã
khắc họa hết sức chân thật nỗi khổ đau và những số phận tủi nhục của bao phụ nữ
trong hiện thực thời kì thực dân khốn khổ.
Những cây bút đáng điểm mặt trong thời kì này có Kang Gyeong- ae, Park
Sin- ae, Kim Mal- bong, Park Hwa- seong, Choi Jeong- hui, Lim ok- in, Ji Ha-
ryeon…Trong đó, Kang Gyeong- ae được xem là nhà văn nữ nổi bật khi bà khắc
hoạ rất sinh động cuộc sống đầy áp bức, đầy bất công đổ xuống đôi vai gầy của
người phụ nữ, không chỉ thông cảm mà là sự đồng cảm sâu sắc với thân phận những
người phụ nữ.
Thời báo Hàn Quốc (Korea Times) với bài viết “10 người phụ nữ có ảnh
hưởng lớn đến văn hoá Hàn Quốc” đã giới thiệu đến công chúng một nhà văn có
tầm ảnh hưởng lớn đối với nền văn học hiện đại Hàn Quốc, đó là Park Kyeong-ri.
Bà sinh năm 1926, quê ở Tongyeong, tỉnh Gyeongsan. Trong số rất nhiều thành tựu
---46---
đạt được, bà Park được biết đến nhiều nhất với tiểu thuyết Đất dài 21 tập. Tiểu
thuyết này được đánh giá rất cao và đã ba lần được chuyển thể thành phim truyền
hình. Tiểu thuyết được viết từ năm 1969 đến năm 1994 mới hoàn thành. Để hoàn
thành kiệt tác này của mình, Park Kyeong-ri đã có sự tập trung cao độ cho công
việc trong suốt khoảng thời gian dài 25 năm, thậm chí cả khi căn bệnh ung thư hành
hạ thân xác thì cây bút vẫn không rời khỏi tay của bà. Tác phẩm được ca tụng là
thành tựu lớn nhất của văn học Hàn Quốc và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như
tiếng Anh, Nhật, Pháp...
Với những thành công trên con đường sáng tác văn chương của mình, bà thật
không hổ thẹn với những mĩ từ mà độc giả và những nhà phê bình đã vinh danh cho
bà- bà là một trong những vì sao sáng nhất trên bầu trời văn học Hàn Quốc.
Cũng trong giai đoạn này, nữ văn sĩ Park Wan- seo đã để lại nhiều ấn tượng
độc đáo với những đề tài gắn với cuộc sống thường ngày. Có thể là những bất hạnh,
những mất mát của một gia đình do cuộc chiến tranh gây nên như Cây trụi lá, Chiếc
cọc của mẹ, Năm mùa đông ấm áp…Có thể là ngầm tố cáo những ảo tưởng, những
nhận thức hời hợt về chủ nghĩa vật chất của tầng lớp thượng lưu như Tiếng khóc
của giun, Ngôi nhà bong bóng, Những đứa con địa đàng… Đặc biệt với giọng kể tài
tình, nhà văn đã truyền đạt những điều tưởng như to tát, đạo đức tới độc giả thật nhẹ
nhàng và thú vị. Đề tài được bà đặc biệt quan tâm là cuộc sống của những phụ nữ
tầng lớp trung lưu trong các gia đình bình thường. Nhà văn châm biếm bản tính
hợm hĩnh, ích kỉ và xu hướng khoe mẽ của những phụ nữ trung lưu xảy ra trong quá
trình cận đại hoá sau những năm 1970.
Không khai thác về những đề tài giống như Park Wan- seo mà chủ yếu khai
thác về hình ảnh những người phụ nữ bị xã hội phân biệt đối xử đã nổi loạn để quay
trở về cuộc sống đời thường, về tình mẫu tử không trọn vẹn, về xã hội Hàn trước
thềm đổi mới… đó chính là Oh Jung- hee. Bà sinh năm 1947 và đến nay hơn ba
thập kỉ trôi qua với 40 truyện ngắn và tiểu thuyết được phát hành, một con số không
nhiều nhưng cũng đủ để soi chiếu tài năng cũng như sự nhiệt huyết với nghề của
một nữ nhà văn. Và may mắn đã đến với bà khi hai giải thưởng uy tín nhất của Hàn
---47---
dành cho truyện ngắn được trao cho bà, giải thưởng Yi Sang và Dong In. Những
truyện ngắn của Oh đã được dịch ra tiếng Việt có Xóm người Hoa, Dòng sông lửa,
Ván bài lúc hoàng hôn, Chiếc gương đồng…
Cùng với sự thành công của các tác giả nữ kể trên là sự góp mặt của nữ văn sĩ
Choi Myoeng- hee. Thật đáng tiếc vì độc giả Việt Nam chưa có được may mắn đọc
những tác phẩm của bà. Những tác phẩm như Jeongok, Collapsing light Afternoon,
Woman in neighborhood… hi vọng sẽ được dịch ra tiếng Việt để độc Evening bell ,
giả Việt Nam có thể chiêm ngưỡng một tài năng đã chói sáng trên thi đàn văn học ,
Hàn những năm cuối của thế kỉ XX.
Hầu hết các tác giả nữ thời kì này đều có những tiếng nói riêng thuyết phục
được tầng lớp độc giả khó tính không phải đọc truyện để giết thời gian. Khẩu vị của
họ giờ đây đã thay đổi, họ đòi hỏi những tác phẩm có chiều sâu, có ý nghĩa mà vẫn
phản ánh cuộc sống chân thật chứ không phải một tác phẩm trống rỗng, không
mang lại phong vị, dư âm nào.
Tiếp nối sự thành công của các thế hệ đi trước, đến thời kì văn học trong xã
hội tiêu dùng đại chúng, các nhà văn nữ đã thể hiện bản lĩnh nghệ sĩ với khả năng
cảm thụ tinh tế của mình. Họ không chỉ thành công trong giới hạn nhỏ bé của đất
nước mà đã đem sự thành công ấy vượt ra biên giới xứ Hàn để đến với công chúng
thế giới. Có thể kể đến những nữ nhà văn trẻ như Shin Kyung- sook, Han Kang, Jo
Kyung-ran, Gong Sun-Ok, Ch’oe Yun, Ha Sung-ran…
Shin Kyung- sook sinh năm 1963 trong một gia đình nông dân nghèo sống tại
một ngôi làng nhỏ ở miền Nam Hàn Quốc. Không có điều kiện vào trường trung
học, 16 tuổi Shin lên Seoul lao động kiếm sống, làm việc trong một nhà máy điện tử
và theo học ban đêm. Sau khi tốt nghiệp Viện Nghệ thuật Seoul, bà tung ra tiểu
thuyết đầu tay Winter’s Fable vào năm 1985 và đoạt giải thưởng danh giá Munye
Joongang dành cho tác giả trẻ. Shin nổi lên thành một tiếng nói mới của thế hệ mình
khi xuất bản tuyển tập thứ 2 - Where the Harmonium Once Stood – vào năm 1993.
Các tác phẩm của bà luôn có lượng độc giả lớn và nhận được nhiều giải thưởng văn
học trong nước và khu vực như giải Văn chương Hankook Ilbo; giải Văn chương
---48---
Hyundae; giải Văn chương Manhae; giải Văn chương Dong-in; giải Văn chương Yi
Sang; giải Văn chương Oh Yeong su... Không chỉ nổi tiếng trong nước mà sau khi
tác phẩm được dịch ở nước ngoài bà còn vinh hạnh được giải Prix de l'Inaperçu -
giải thưởng do giới phê bình và các nhà báo chuyên về văn học của Pháp bình chọn
cho tác phẩm Căn phòng biệt lập viết năm 1995.
Tuy nhiên, điểm mốc đánh giá Shin là một hiện tượng của văn học xứ Hàn là
khi tiểu thuyết Hãy chăm sóc mẹ được phát hành. Gần hai triệu bản đã được bán tại
quê hương tác giả. Sau đó cơn sốt lan sang các nước trong khu vực và các nước
phương Tây, có hơn 30 nước đã dịch cuốn sách sang ngôn ngữ của mình. Điều gì đã
làm nên thành công chói lọi trong sự nghiệp viết văn của một người phụ nữ như
vậy? Chính là bởi bà đã sáng tác nên một tác phẩm vô cùng ý nghĩa trong xã hội
vốn đang chạy theo đồng tiền mà quên đi những giá trị đích thực của cuộc sống gia
đình. Hãy chăm sóc mẹ đã đưa Shin trở thành một ngôi sao văn học, thậm chí còn
phát sinh “hội chứng Shin Kyung- sook”, sáng tác những tác phẩm ăn theo Hãy
chăm sóc mẹ. Và giải thưởng Man Asian, giải văn học hàng đầu châu Á được trao
cho Shin vào ngày 15.3.2012 đã khẳng định lại một lần nữa tài năng cũng như vị thế
vững chắc của bà trên con đường sáng tác. Có thể nói, với Hãy chăm sóc mẹ, Shin
Kyung- sook trở thành nhà văn nổi bật nhất châu Á hiện nay.
Cùng sinh năm 1963 và có hoàn cảnh cuộc sống cũng khó khăn như nữ nhà
văn Shin Kyung- sook mới giới thiệu trên đây là nữ nhà văn Gong Sun-ok. Bà sinh
ra trong một gia đình nghèo khó và lớn lên trong khu ổ chuột của các thành phố
Gwangju, Seoul, Yeosu... Tuy vậy, cuộc sống thiếu thốn ấy không đánh gục được ý
chí của một con người nghị lực, dám phấn đấu và vượt qua mọi thử thách như Gong
Sun-ok. Bắt đầu sự nghiệp học tập từ năm 1983 với nơi dừng chân đầu tiên là Đại
học quốc gia Chonnam nhưng sự nghiệp học hành dang dở và đến gần 10 năm sau
đó bà mới chính thức được độc giả công nhận qua các tiểu thuyết: Ojiri-e Dugo on
Seoreunsal (1993), Susubat-euro Oseyo (2001), Bulgeun Podaegi (2003)… Và một
số truyện ngắn như Pieora, Suseonhwa (1994), Nae Saeng-ui Alibi (1998), Meotjin
Hansesang (2002)…
---49---
Giống như các nhân vật trong tiểu thuyết của mình, Gong đã trải qua một cuộc
sống đặc biệt khó khăn liên quan đến ly dị, bệnh tật và nghèo đói. Nhưng đó không
phải là điều mà Gong muốn truyền tải trong tác phẩm, cái thông điệp mà Gong
muốn nói ấy là sức mạnh, là tinh thần độc lập, là quyết tâm của người phụ nữ vượt
qua cuộc sống khắc nghiệt, nhiều bất công và ngang trái này. Những đóng góp của
Gong thật xứng đáng để nhận giải thưởng văn học của Phụ nữ năm 1992 và quỹ Shin Dong- yeop4 dành cho nhà văn vào năm 1995.
Là thế hệ đàn em của Shin nhưng nhà văn trẻ Han Kang cũng đã có những
đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà. Han Kang sinh năm 1970 tại
GwangJu, tốt nghiệp khoa Văn Trường Đại học Yeonseo. Cô bắt đầu hoạt động văn
học từ năm 1993 với một truyện ngắn được giải trên báo Văn nghệ tân xuân. Tiếp
sau đó là biết bao nỗ lực để không bị lu mờ giữa một thế hệ nhà văn gạo cội. Những
giải thưởng đã chứng minh cho một tài năng trẻ như cô: giải thưởng Nghệ thuật trẻ
hôm nay, giải thưởng Tiểu thuyết Hàn Quốc, giải thưởng Văn học Lee Sang... Một
số tác phẩm tiêu biểu của cô gồm có: Tình yêu người nữ tù nhân, Hoa trái của em,
Hươu đen, Bàn tay lạnh của anh, Bài hát lặng lẽ ngân… Tuy nhiên, độc giả Việt
Nam biết đến cái tên Han Kang qua liên truyện Người ăn chay. Liên truyện Người
ăn chay chứa đầy những điều kì bí của nhà văn Han Kang đã nhận được sự phản hồi
rất tốt của độc giả và giới phê bình với giải thưởng Lee Sang Changbi Publishers và
sau khi được chuyển thể thành phim đã thu được những thành công vang dội.
Tùy từng thời kì mà vai trò của người phụ nữ với văn học lại khác nhau. Có
những lúc, phụ nữ tưởng như bị vùi sâu trong tăm tối, không tri thức, không học
vấn. Nhưng đến nay, phụ nữ đã bước ra khỏi đống bùn lầy và bước vào thế giới văn
4 Quỹ này được thành lập vào năm 1982 bởi gia đình của Shin Dong- yeop và Nxb Changbi. Mục
đích chính là để hỗ trợ các nhà văn tài năng tập trung vào việc tạo ra các tác phẩm xuất sắc cho văn
học Hàn Quốc. Cho đến nay, 20 nhà văn đã nhận được quỹ này thông qua 17 buổi lễ trao giải.
học một cách đường hoàng và đĩnh đạc. Họ đóng góp những trang viết sâu sắc và
---50---
lôi cuốn người đọc, hi vọng trong tương lai, các nhà văn nữ sẽ làm được nhiều điều
kì diệu hơn nữa.
Bên cạnh những tiến bộ vượt trội của các nhà văn nữ đối với thi đàn văn
chương thì hình ảnh người phụ nữ xuất hiện trong văn học hiện đại cũng đã có
những sự thay đổi đáng kể.
Như đã trình bày ở trên, hình ảnh những phụ nữ xuất hiện trong văn học dân
gian, văn học trung đại thường là những người phụ nữ đẹp, dịu dàng, kiêu sa.
Nhưng đến với các tác phẩm văn học hiện đại, hình ảnh người phụ nữ đa dạng hơn,
có những phụ nữ đẹp và không ít những phụ nữ mắc nhiều khiếm khuyết về ngoại
hình. Có những phụ nữ tiết hạnh, chung thuỷ và cũng không ít những phụ nữ bị
những cám dỗ của vật chất làm thay lòng đổi dạ. Nói chung, phụ nữ trong văn học
ngày nay đa diện hơn, có lẽ vì thế mà người ta nghĩ về văn học gần gũi với cuộc
sống thường nhật nhiều hơn chứ không phải những gì gắn với lý tưởng, với ảo
tưởng.
Trong tác phẩm đầu tay Needle (Cây kim) của nữ nhà văn Cheon Woon-
young, nhân vật nữ được miêu tả là một người kém nhan sắc. Cô gái ấy không gây
được thiện cảm với người đối diện bởi gò má nhô ra trên một khuôn mặt không mấy
xinh đẹp, đã thế cái lưng của cô lại bị gù. Tuy vậy, những vết xăm độc đáo trên cơ
thể cô đã giúp cô lấy được tự tin trong cuộc sống. Một số nhà văn khác khi miêu tả
về người phụ nữ cũng không ưu ái cho họ một sắc đẹp mà thường thường bậc chung
như người phụ nữ trong Người ăn chay của Han Kang, người phụ nữ trong các tác
phẩm Ván bài lúc hoàng hôn, Dòng sông lửa của Oh Jung-hee, người phụ nữ trong
tác phẩm Mong-sil của Kwon Jeong-saeng…
Trong số những nhà văn nam giới viết về đề tài người phụ nữ, có tác phẩm
Mong sil của nhà văn Kwon Jeong-saeng đã được giới thiệu ở Việt Nam vào năm
2007. Đây là một câu chuyện vô cùng chân thực về số phận cơ cực của con người
sống dưới sự đô hộ của Nhật, những năm tháng chia cắt hai miền và sau khi chiến
tranh qua đi, để lại muôn vàn đau thương cho những con người bé nhỏ trên bán đảo
Hàn xinh đẹp.
---51---
Nhân vật chính của câu chuyện- Mong sil là một em bé mới chín mười tuổi
đầu đã mất cả bố lẫn mẹ, trên vai còn ba đứa em Mong Sil phải cưu mang. Tuổi thơ
của em đã hoàn toàn bị đánh cắp, bị vùi dập phũ phàng trong cơn bão lửa chiến
tranh. Cho dù vậy, nhưng Mong Sil đã không đầu hàng nghịch cảnh, em đã vượt
qua được chặng đường gian truân thời thơ ấu và tìm được một bến đỗ bình yên
trong cuộc đời: một mái nhà đơn sơ bên cạnh chồng con, một công việc bình thường
như những người lao động bình dân khác.
Có thể nói, dưới ngòi bút của một nhà văn nam giới, hình ảnh người phụ nữ
hiện lên với sức sống mãnh liệt, với ý chí vươn lên làm chủ vận mệnh của mình. Dù
cho cuộc sống còn lắm chông gai với đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh nhưng không
làm mất đi những phẩm chất tốt đẹp vốn có trong con người của họ.
Cùng viết về người phụ nữ sống trong bom đạn chiến tranh, nhưng Oh Jung-
hee lại khai thác một khía cạnh khác trong việc lựa chọn cuộc sống của người phụ
nữ. Đó là cô gái Meki và những cô gái khác với cái tên “Me Tây” trong Xóm người
Hoa. Các cô gái không nghề nghiệp, bám víu vào những tên lính Mĩ để sống “họ
mở toang cánh cửa hướng ra đường, ngang nhiên ôm vai bá cổ lính Mĩ…”[24,90]
Vì lẽ đó mà họ không có được sự tôn trọng của những người xung quanh, để đến
khi gặp nạn, họ không nhận được sự xót thương, chia sẻ nào từ đồng loại.
Từ hai hình ảnh đối lập nhau về người phụ nữ, một bên là biết vượt qua số
phận để vươn lên dù cuộc sống lắm nhọc nhằn, vất vả, một bên là buông xuôi cho
số phận, không lao động, sống dựa dẫm vào đàn ông. Có thể thấy được dưới con
mắt của nam giới, những người phụ nữ chịu thương, chịu khó, biết nhẫn nhịn chịu
đựng vẫn là hình mẫu lý tưởng. Dưới con mắt của các nữ nhà văn, người phụ nữ có
thể chọn nhiều cách sống riêng, mặc cho dư luận có dè bỉu thì đó vẫn là lựa chọn
của họ. Tuy vậy, qua việc xây dựng nhân vật Meki, chúng tôi nhận thấy Oh Jung-
hee xót thương cho nhân vật nhiều hơn là oán trách. Đó chính là sự vị tha, thấu hiểu
và hơn hết là sự đồng cảm của những người cùng giới chăng?
Viết về người phụ nữ, các nhà văn không theo đuổi những đề tài đã cũ mà
luôn luôn có sự thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Nhiều đề tài về
---52---
người phụ nữ đã được các nữ nhà văn khai thác triệt để. Không chỉ viết về hình ảnh
phụ nữ truyền thống: đằm thắm, dịu dàng, nhẫn nhịn, chịu đựng, uỷ mị, không dám
đấu tranh cho cuộc sống, buông xuôi cho số phận… các nhà văn nữ còn tập trung
nhiều vào hình ảnh những phụ nữ vừa đảm đang, tháo vát việc nhà, vừa giỏi giang,
linh hoạt công việc xã hội. Sự kết hợp hài hòa đó tạo ra nét khác biệt giữa phụ nữ
Hàn với phụ nữ các nước trong khu vực.
Người phụ nữ trong tác phẩm Căn phòng trống vắng của Shin Kyung- sook là
một người như thế. Tôi- nhân vật chính trong tác phẩm mới mười sáu tuổi đã rời
quê hương lên Seoul lập nghiệp. Cô vừa học vừa làm thêm cho một công ty điện tử,
cho dù công việc khó khăn nhưng không dập tắt được mộng viết văn luôn trỗi dậy
trong cô “Khát khao trở thành nhà văn giống như giấc mơ của loài chim diệc bạch
muốn vươn mình thật cao, thật đẹp hướng tới các vì sao.”[26,195] Hình ảnh người
phụ nữ ấy thật mạnh mẽ. Một mình sống giữa xã hội không phải là quê hương,
không có sự bình yên, chỉ có sự xô bồ, náo nhiệt và không biết bao nhiêu cạm bẫy
đang chờ đợi cô. Nhưng đây chính là hình ảnh của người phụ nữ trẻ hiện nay, dám
sống với chính ước mơ của mình, dám đấu tranh cho mục đích của mình. Tác phẩm
này của nhà văn mang tính tự truyện, phản ánh quá trình khởi nghiệp khó khăn của
chính tác giả, như người ta thường nói “Một cuộc đời mà cuộc sống trở thành văn
học, văn học trở thành cuộc sống” cũng như sự nghiệp của Shin Kyung- sook, văn
học nảy nở trên tinh hoa của những nỗi đau thương.
Cần phải nói thêm rằng, hình ảnh người phụ nữ mạnh mẽ, bản lĩnh không phải
đến thời Shin Kyung- sook mới đề cập đến. Sự mạnh mẽ ấy ít nhiều đã thể hiện rất
rõ trong văn học từ dân gian đến hiện đại. Đã có rất nhiều những phụ nữ lên tiếng
bảo vệ tình yêu, bảo vệ hạnh phúc cá nhân; nhất là trong thời đại phong kiến khi mà
tư tưởng Nho giáo phát triển mạnh mẽ.
Hình ảnh những nhân vật nữ như thế trong văn học những năm 70, 80 của thế
kỉ XX cũng được đề cập khá sôi nổi. Tác phẩm Hồn siêu của văn sĩ Choi Myoeng-
hee là một điển hình. Câu chuyện về ba thế hệ phụ nữ của dòng họ Lee ở Me-an, về
mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong một gia đình nhiều thế hệ. Thế nhưng câu
---53---
chuyện không chỉ nhằm nhấn mạnh đến những việc sinh đẻ, kết hôn hay những
quan hệ loạn luân ở các dòng họ lớn. Điểm đặc biệt ở đây là việc những phụ nữ
trong gia đình không phải chỉ biết phục tùng và thụ động, họ dám đứng lên đấu
tranh mạnh mẽ để bảo vệ và giữ gìn gia phong. Trong một khía cạnh nào đó, những
người phụ nữ ấy đã thoát ra được cái bóng của người đàn ông, họ đã biết chủ động
bảo vệ chính mình và hơn hết là bảo vệ hạnh phúc và sự phát triển lâu dài của dòng
tộc.
Một đề tài cũng rất được giới nhà văn quan tâm là vấn đề hôn nhân của người
phụ nữ trong xã hội tiêu dùng đại chúng. Trước đây, họ không có quyền lựa chọn,
quyền quyết định hạnh phúc cá nhân, nhưng giờ đây, phụ nữ có thể tìm hiểu nhiều
người đàn ông và chọn cho mình người bạn đời thích hợp. Tiểu thuyết Seoul ngọt
ngào của nữ nhà văn Jung Yi- hyun mới được dịch ở Việt Nam vào tháng 4. 2012
đặt ra một vấn đề tương tự như thế. Đó là niềm trăn trở của một cô gái tuổi ngoài 30
trước ngưỡng cửa hôn nhân: đi theo tiếng gọi con tim với một chàng trai trẻ có vẻ
ngoài hấp dẫn, nồng nhiệt nhưng sự nghiệp không ổn định hay chấp nhận một người
đàn ông lớn tuổi, thành đạt nhưng tính tình cứng nhắc, không sôi nổi, trẻ trung?
Nhân vật nữ chính có quá nhiều lựa chọn để rồi cuối cùng trăn trở và không tìm
được một nửa thích hợp của mình. Đó là vấn đề khá nan giải của những cô gái sống
trong xã hội hiện đại. Vậy nên, qua tác phẩm, các nhà văn nữ muốn gửi gắm một
thông điệp: Đời sống hôn nhân có khi không ngọt ngào, hoàn hảo như mong muốn,
nhưng điều quan trọng là biết chấp nhận, dung hòa để cho mình cơ hội tạo dựng
hạnh phúc.
Nói chung, các nhà văn nữ khi viết về người phụ nữ đã biết khai thác những
đề tài phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của bạn đọc. Không chỉ làm mới mình bằng
nhiều nội dung đa dạng mà các tác giả nữ còn sử dụng những bút pháp nghệ thuật
tinh tế để giọng văn thêm sức thuyết phục. Có thể kể đến nữ nhà văn Ch’oe Yun,
một nhà văn được biết đến qua ngôn ngữ đẹp và trau chuốt trong tiểu thuyết There,
a Petal Silently Falls được in lần đầu tiên trên tạp chí Literature and Society; hay
như nữ nhà văn Jung Yi- hyun thành công với tiểu thuyết My sweet Seoul nhờ giọng
---54---
văn hài hước, nhẹ nhàng mà sâu lắng kết hợp hài hòa với những đoạn độc thoại nội
tâm và miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc… Ngày nay, nhờ việc mở rộng giao lưu, học
hỏi các nước phương Tây và các nước trong khu vực mà những thủ pháp nghệ thuật
đã được các nhà văn vận dụng rất linh hoạt, nhờ đó chất lượng của các tác phẩm
cũng được nâng lên một tầm cao mới, hình ảnh những người phụ nữ xuất hiện trong
tác phẩm vì thế cũng được diễn tả qua những cung bậc cảm xúc khác nhau, những
diễn biến tâm lý phức tạp chứ không chỉ là những nhân vật chức năng như trong văn
học dân gian.
---55---
CHƯƠNG 2 : HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ QUA SỰ THỂ
HIỆN CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI HÀN QUỐC
2.1. Người phụ nữ trong cuộc sống gia đình
Để tạo dựng được một mái ấm gia đình, người phụ nữ phải là người trực tiếp
chèo chiếc thuyền gia đình ấy tới những bến bờ hạnh phúc. Tuỳ từng thời đại mà
người phụ nữ có những ứng xử riêng đối với mối quan hệ thân thuộc trong đại gia
đình sao cho phù hợp.
Các nhà văn nữ với ưu thế giới tính của mình đã xây dựng những đề tài gia
đình mà ở đó nhân vật nữ hiện lên với những niềm vui và nỗi buồn; hạnh phúc và
bất hạnh; ngọt bùi và đắng cay…Với trải nghiệm của bản thân mà các nhà văn nữ
có thể nhạy cảm hơn với những bất hạnh của người phụ nữ. Họ không chỉ quan sát
và miêu tả như các nhà văn nam giới mà có khả năng kì diệu phân tích nhạy bén
cuộc sống qua thế giới tâm hồn với những con người mà họ tiếp xúc.
Nhà văn Ludmila Ulitskaya (Nga) phát biểu trong một cuộc phỏng vấn, rằng:
“Thế giới đàn ông và thế giới phụ nữ là những thế giới khác nhau. Chúng có thể
giao thoa với nhau ở một số chỗ, nhưng không hoàn toàn trùng nhau. Trong thế
giới phụ nữ, có ý nghĩa quan trọng hơn là những vấn đề gắn với tình yêu, gia đình, con cái”5
Khảo sát những tác phẩm của một trong những nhà văn nữ nổi tiếng bậc nhất
xứ Hàn trong những năm 70, 80 của thế kỉ XX- Oh Jung- hee độc giả sẽ thấy được
điều đó. Trong các tác phẩm của bà, ta bắt gặp những người phụ nữ với những số
phận, những mảnh đời hoàn toàn khác nhau. Và nguyên nhân của những bi kịch mà
người phụ nữ phải chịu đựng ấy không đâu khác chính là xuất phát từ gia đình. Có
thể đó là một người đàn bà có chồng nhưng không có con vì thế cuộc sống vô cùng
5 Xem trong bài viết “Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Nga hiện đại”
nhàm chán và vô vọng trong Dòng sông lửa. Có thể là một phụ nữ trải qua tám lần
---56---
vượt cạn đầy nguy nan, thậm chí cận kề cái chết để tạo ra sự sống mới trong Xóm
người Hoa… Hoà mình vào những câu chuyện ấy, độc giả như đang thấy hình bóng
của mình phản chiếu nơi nhân vật, thấy những mảnh đời cũng gần gũi với những
mảnh đời mà mình bắt gặp hằng ngày, những sự việc ở xung quanh nơi mà mình
đang sống.
Trong mối quan hệ với gia đình, có hai mối quan hệ chính yếu liên quan đến
người phụ nữ. Đó là mối quan hệ vợ- chồng và mối quan hệ mẹ- con.
Trước hết là mối quan hệ vợ- chồng, phải nói rằng trong các sáng tác của các
tác giả nữ, các nhân vật nữ thường không có hạnh phúc trong cuộc sống vợ chồng.
Có lẽ nào giới cầm bút đã quá nhạy cảm với nỗi đau của người phụ nữ, hay bởi
những hạnh phúc ngọt ngào thì khó diễn đạt thành lời? Cho dù thế nào đi nữa thì
dưới cái nhìn của các nhà văn nữ, người phụ nữ thường không được hưởng hạnh
phúc trọn vẹn, họ hoặc là đủ đầy về vật chất nhưng cuộc sống tinh thần lại quá
mong manh; hoặc là thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần, có thể là tỏ ra hạnh phúc
trước mọi người nhưng khi đối diện với thực tại thì lại đau đớn ê chề…
Nhà văn Oh Jung-hee với cảm nhận sâu sắc tâm lý người phụ nữ đã miêu tả rất
thành công hình ảnh của họ trong cuộc sống gia đình vô cùng tẻ nhạt và buồn chán.
Nhân vật “tôi” trong Dòng sông lửa là một ví dụ điển hình. Mỗi ngày người chồng
tới xưởng may đồ, cô vợ một mình ở nhà thường giết thời gian bằng cách thêu đồ và
tìm quên trong khói thuốc lá. “Tôi” và chồng tuy sống chung một căn nhà nhưng
không hiểu gì về nhau, mỗi buổi tối anh đều có những lí do khác nhau để không ngủ
ở nhà “anh đi đâu, với ai, vì việc gì”, cô ấy không thể nào biết được. Có phải anh ấy
ngoại tình? Hay thực sự anh thức trắng đêm vì quá ham mê công việc mà “mờ sáng
hôm sau trở về nhà với bộ mặt già nua rũ rượi”[24,19] Nhưng có thể không phải
như vậy. Vào những đêm trăng sáng, nhân vật “tôi” thức dậy và bắt gặp anh đang
ngồi thu mình bên cửa sổ và huýt sáo.
Có lẽ nỗi buồn vì giấc mộng của anh bất thành, hằng ngày anh phải làm công
đoạn tẻ nhạt của may vá, cộng thêm kí ức đau lòng về đứa con đã mất nên anh
không thể hòa nhập cuộc sống. Cho dù vậy thì người thiệt thòi nhất vẫn là cô gái ấy.
---57---
Cuộc sống vật chất đã không lấy gì làm dư giả: sống trên một căn phòng nhỏ của
toà chung cư sáu tầng đã cũ kĩ bên cạnh một dòng sông, của cải chắc cũng không có
gì nên anh chồng vẫn bảo “mà trộm nó có vào thì chắc nhà mình cũng chẳng có gì
cho nó lấy.”[24,28] Vậy mà cuộc sống vợ chồng còn khủng khiếp hơn. Cô ấy có
chồng mà khác gì người goá bụa. Vào những đêm trăng một mình lang thang qua
những ngõ tối, hi vọng khi về sẽ thấy mảnh giấy cất sau cánh cửa của cô đã bị
người chồng lấy đi nhưng chuyện đó không xảy ra. Cho dù cô có đi đến khuya hơn
nữa và thậm chí không ngủ ở nhà chắc chồng của cô cũng không biết được. Anh
còn có những bí mật mà cô không thể biết. Cuộc sống buồn tẻ và vô nghĩa này còn
tiếp diễn đến bao giờ?
Không đến nỗi cô đơn không người chia sẻ như cô gái trẻ trong Dòng sông lửa
nhưng trong Chiếc gương đồng, người phụ nữ có lẽ còn đau đớn hơn khi đứa con
trai duy nhất mất đi bỏ lại hai vợ chồng già lay lắt bên nhau. Hai vợ chồng tuy sống
với nhau đã gần 50 năm nhưng giờ đây có khác chi hai người xa lạ. Chồng ở trong
phòng giết thời gian bằng việc “giũ gầu trên đầu, cắt móng tay, rồi ngồi trước cái
bàn chơi trò kéo ra kéo vào ngăn kéo như cậu học trò bị bắt ép ngồi vào bàn học.”
[24,135] Vợ thì ngồi ngoài hiên nhà nặn những con thú với hình thù kì lạ. Bà nói
rằng những con thú đó sẽ ăn những cơn ác mộng. Chắc hẳn từ khi đứa con trai hai
mười tuổi đột ngột ra đi bà đã không thể có được một giấc ngủ ngon nào “mất đi
đứa con trai đang tuổi lớn, đau đớn đến bạc trắng cả đầu.”[24,129]
Hai vợ chồng sống với nhau như một thói quen mà bao nhiêu năm qua họ vẫn
sống “giờ sống bên cạnh một bà vợ già như sắp trở thành ma xó thì dù có ngồi một
góc cũng có thể nghe, nhìn thấy tất cả mọi việc xảy ra trong nhà”[24, 134] Bà đã
già rồi và hẳn những đôi vợ chồng già không thể có những khát khao yêu đương
như những đôi vợ chồng trẻ, ông bà sống với nhau giờ đây là cái nghĩa nhưng sao
vẫn thấy họ xa lạ với nhau quá, xa lạ cả ở trong bữa ăn, giấc ngủ. Bà thì cặm cụi ăn
cho xong bữa cơm, ông thì bực bội vì món mì không gia vị. Hai vợ chồng như hai
hòn đảo biệt lập bởi hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời họ giờ đã quá xa xôi. Họ
không có một nguồn an ủi, động viên nào bên cạnh, họ cũng không thể dựa dẫm vào
---58---
ai. Thế nên, hình ảnh người chồng “ông thấy mình cần phải nói gì đó để an ủi, xoa
dịu bớt nỗi đau của người vợ giờ đã không còn kim nén nổi khóc nức nở.”[24, 153]
như một hành động duy nhất cứu vớt người phụ nữ khỏi niềm thương nhớ về đứa
con trai đã mất. Những giọt nước mắt của bà không phải do đứa bé tinh nghịch nhà
bên mà khóc vì nỗi đau mất đi đứa con duy nhất trong cuộc đời qua giọng kể đứt
quãng của bà với người chồng “tuổi hai mươi thật đẹp và đáng tự hào; nó lúc nào
cũng kêu ngứa chân; lần ấy nó làm mất cái khăn quàng của tôi…”[24,149] những
kí ức về người quá cố như một dòng sông chảy mãi không ngừng, nó sẽ đè nặng lên
trái tim của những người ở lại, tạo một vết thương lòng quá lớn. Nhất là đối với
những người thân trong gia đình, thậm chí đến khi nhắm mắt, họ vẫn còn xót xa cho
cái cảnh “kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh”. Chung qui lại, những gia đình quá ít
người chung sống đã là cô đơn và buồn tẻ. Vậy mà lại chỉ có những cặp vợ chồng
ngày ngày thui thủi bên nhau không con không cháu thì còn trống vắng, cô đơn đến
mức nào?
Trên đây đề cập đến những gia đình thiếu vắng tiếng nói cười của con trẻ dẫn
tới nỗi buồn, sự xa cách của những người là cha, là mẹ chúng. Nhưng cũng có
những trường hợp mà người phụ nữ lại phải sinh nở quá nhiều như người mẹ trong
Xóm người hoa. Không một lần miêu tả về mối quan hệ giữa hai vợ chồng, chỉ một
lần duy nhất nhắc tới nhân vật này khi ông đón gia đình của mình chuyển từ miền
quê lên thành phố sinh sống. Không biết người bố ấy nghĩ gì về hoàn cảnh của vợ
mình, ông ấy có được chứng kiến cảnh vợ mình đau đớn khi chuyển dạ để sinh ra
một đứa con không? Ông ấy có nghe thấy tiếng gào thét “thà giết tôi đi còn hơn”
của người vợ đáng thương của mình không mà lại để vợ mình phải sinh đến tám
người con trong khi cuộc sống vật chất không dư giả là mấy.
Vậy là, có những người phụ nữ đáng thương khi không hoàn thành thiên chức
của một người phụ nữ nhưng cũng có những người phụ nữ còn đáng thương hơn khi
phải sinh nở quá nhiều để không thể chăm lo cho những đứa trẻ mà mình đã sinh ra.
Trong những trường hợp ấy, liệu người phụ nữ nào là hạnh phúc hơn, người mẹ
nhiều con và người mẹ không con? Câu trả lời có lẽ không dễ dàng?
---59---
Cùng đề cập đến những gia đình thiếu vắng tiếng cười của con trẻ nhưng trong
sáng tác của Han Kang, mối quan hệ vợ chồng không hạnh phúc còn bởi nhiều lí do
khác nữa. Đó là cặp vợ chồng mới lấy nhau được khoảng 5 năm nhưng không phải
kết quả của một cuộc tình ngọt ngào mà vì anh chồng thấy được ở người phụ nữ này
sự cam chịu và nhún nhường. Anh ta nhận thấy vợ mình là một người bình thường,
không có nhiều điểm hấp dẫn nhưng cũng không có nhiều khuyết điểm. Cô ấy cũng
là một người ít nói nên sẽ không giống những bà vợ khác cứ chu kì lại càm ràm để
gây lộn với chồng hay những bà vợ chỉ suốt ngày buôn điện thoại với bạn bè cùng
đồng nghiệp.
Xuất phát điểm không phải từ một tình yêu cháy bỏng nhưng họ vẫn tìm thấy
hạnh phúc nếu như họ thực sự sống có trách nhiệm với đối phương và quyết tâm
xây đắp hạnh phúc vì gia đình bé nhỏ mà họ đã cố công dựng xây. Tuy vậy, họ hoàn
toàn không ý thức được điều đó. Độc giả chắc hẳn rất ngạc nhiên khi thấy cặp vợ
chồng ấy sống chung trong một căn nhà nhưng chồng thì ôm ti vi nằm lăn lóc cả
buổi chiều, vợ nhốt mình trong phòng riêng đọc sách hoặc làm gì đó mà anh chồng
không thể biết được. Không như những cặp vợ chồng trẻ líu ríu với nhau những khi
không đi làm, họ thậm chí không nhìn mặt hay trò chuyện cùng nhau “chỉ đến bữa
thì cô ấy mới mở cửa lặng lẽ ra nấu cơm mà chả nói với tôi lời nào”[22,9]; hoặc khi
“cô ấy đang say mê với phim truyền hình buổi đêm, nghe thấy tiếng tôi về nhưng
cũng mặc kệ”[22,12]
Nếu như không có những biến cố xảy ra từ những giấc mơ của người vợ thì
cuộc sống vẫn lặng lẽ trôi qua như thế. Cho đến một ngày, đúng hơn là vào tầm bốn
giờ sáng … người chồng phát hiện vợ mình đứng nhìn chăm chăm vào cái tủ lạnh
trong không gian lạnh lẽo của nhà bếp với “ánh mắt long lên sắc lạnh”[22,12] Và
câu trả lời của vợ như vọng về từ một thế giới nào đó xa xăm “em đã mơ”. Giấc mơ
về máu, về người chết đã cướp đi những nụ cười của người đàn bà vốn ít nói, ít
cười. Cũng từ đây, cô vứt hết thịt trong nhà, thậm chí cả những đồ dùng liên quan
đến da, và chuyển sang ăn chay.
---60---
Là một người chồng, anh ta phải có trách nhiệm hỏi han và đưa vợ đi điều trị.
Nhưng không, thậm chí anh ta không muốn nghe những gì vợ nói “tôi không hỏi
giấc mơ đó thế nào, vì không muốn nghe những chuyện đại loại như ngôi nhà
hoang trong rừng tối, hay khuôn mặt lấp loé trên cục huyết.”[22,22] Chuyện điều trị
cho vợ cũng là một chuyện quá ư xa vời “Thế cho nên, dù tôi nghi ngờ về tình trạng
của cô ấy, nhưng không hề tính chuyện đi điều trị hay đi tư vấn gì đó như người ta
thường nói. Thật sự, tôi hoàn toàn không để tâm tới những chuyện vớ vẩn
đó.”[22,22] Tình trạng của Yeong-hye ngày một tệ hơn và chuyện ái ân của hai vợ
chồng cũng chấm dứt (chỉ duy nhất một lần anh chồng mượn hơi rượu để chiếm
đoạt nhưng kết quả là sự chống cự quyết liệt và đôi mắt vô cảm của người vợ),
nhưng với bản tính lạnh lùng, vô cảm, người chồng ấy đã suy nghĩ rằng “hãy coi cô
ấy như một người lạ, mà không, như một người chị nấu cơm, dọn nhà cho mình, hay
chí ít cũng như người giúp việc.”[22,35]
Có phải đây chính là những cuộc hôn nhân trong xã hội hiện đại? Quan hệ vợ
chồng chỉ như những bản hợp đồng mà hai bên đều cảm thấy có lợi khi sinh sống
cùng nhau. Và họ không thể hiểu được đối phương đang nghĩ gì? Đang muốn gì?
Đơn giản vì điều đó không thuộc lĩnh vực kiểm soát của họ. Như người chị gái In-
hye đã nhận xét về sự lạnh lùng, vô cảm của chồng Yeong- hye trước nỗi đau của
một người được gọi là vợ ấy “Thế mới thấy, cái gọi là vợ chồng thật vô
nghĩa.”[22,71]
Lời nói ấy dành cho cuộc hôn nhân ngắn ngủi của em gái cô hay cũng chính là
một lời tự bạch cho cuộc hôn nhân còn nhàm chán hơn giữa cô và người chồng của
mình. Gia đình của cô có đầy đủ những tiêu chuẩn để xây dựng một gia đình hạnh
phúc. Cô vợ là chủ của một cửa hàng mĩ phẩm có thu nhập cao. Anh chồng là một
nghệ sĩ và không bao giờ to tiếng với vợ. Sợi dây nối kết yêu thương là một bé trai
kháu khỉnh, dễ thương. Hơn thế nữa, vợ anh lại là một người chu đáo, tận tuỵ, sống
có trách nhiệm và đặc biệt thương chồng thương con hết mực.
Vậy mà thực tế trong suy nghĩ của họ là gì? Tám năm trời chung sống với
nhau nhưng có cảm giác họ đang cần tìm một nơi nương tựa. Cô thì ổn định về kinh
---61---
tế nhưng “cô cần một điểm tựa hay một cái gì đó để có thể kéo bản thân cô lên.[…]
Cô không chắc mình có thật sự yêu anh không, nhưng vẫn lấy anh”[22,176] còn
anh, không phải lo gì về mặt kinh tế, để có thể chuyên tâm cho công việc đòi hỏi
nay đây mai đó nhưng không kiếm được nhiều tiền của anh và hơn thế nữa, anh đã
tâm sự “vẻ hiền thục, dịu dàng, an định của em, một thái độ vô cùng tự nhiên với
cuộc sống…tất cả những điều đó làm anh cảm động.”[22,146] Những lời nói ấy của
anh chồng hẳn nhiên thừa nhận, anh không đắm chìm trong tình yêu với cô mà anh
cảm động trước tính cách của cô. Động cơ của hai người khi đến với nhau đều
không xuất phát từ tình yêu. Họ đến với nhau đơn giản vì tìm thấy lợi từ phía đối
diện, nó tuy không giống cuộc hôn nhân của người em nhưng đã phần nào thấy
được kết thúc tất yếu của một mối quan hệ như vậy?
Cuộc hôn nhân kéo dài một phần do người vợ đã cố gắng cam chịu. Tính cách
cam chịu ấy hình thành từ khi cô còn nhỏ, để tránh những trận đòn khắc nghiệt của
bố. Và theo thời gian cô đã sử dụng sự cam chịu ấy để gây dựng sự nghiệp từ hai
bàn tay trắng. Nhưng với cuộc hôn nhân của mình thì hai tiếng cam chịu ấy liệu có
làm cho nửa kia của mình vui lòng? Anh chồng đã có lúc phải thốt lên “thà rằng vợ
anh cũng như các bà vợ khác, giận dữ quát tháo, cằn nhằn hay sa sả những câu
không ra gì thì có khi anh lại cảm thấy thoải mái hơn là cam chịu một cách quá dễ
dàng như thế. Cái tính cách cam chịu đến mức như chuyển thành trầm cảm đó của
vợ làm anh thấy nghẹt thở.”[22,107-108] hay cũng có lúc anh nghĩ “ từ đầu cho đến
bây giờ vợ anh lúc nào cũng là người phụ nữ tốt. Cô là người chỉ có điểm tốt, tốt
đến mức phát ngán.”[22,71]
Quan hệ của cô với chồng vốn dĩ đã là gượng ép thì dù có níu kéo đến mấy,
giữa họ cũng có một bức tường ngăn cách không thể nào phá nổi. Cuộc tình tay ba
mà một số người nghĩ rằng đó là nguyên nhân của cuộc hôn nhân này tan vỡ là
không hề có. Cho dù người đó không phải là Yeong- hye (em gái cô) thì sẽ là một
người con gái khác kéo anh ra khỏi cuộc đời của cô. Sự chia ly tất yếu sẽ xảy ra
giữa cặp vợ chồng này. Thiết nghĩ, sự đầy đủ về vật chất không thể níu kéo được
một gia đình đã đứng ở bên bờ vực thẳm. Nhưng ta cũng khâm phục cô- một con
---62---
người vô cùng mạnh mẽ. Cô đã đủ dũng khí để nhìn hai người thân yêu nhất của
mình, một người là em gái, một người là chồng ngủ bên nhau cho tới khi họ tỉnh
dậy, kiên nhẫn đợi xe cấp cứu tới đưa hai người tới bệnh viện. Vậy nên, cô cũng đã
mạnh mẽ bước qua cuộc sống với những tin đồn dai dẳng, rẻ tiền của những người
xung quanh về chuyện của chồng cô và em vợ, cố gắng điều hành cửa hàng- nơi cô
có thể tạm quên đi nỗi đau đang vò xé tâm can để có thể đẩy cuộc sống tẻ nhạt của
cô trôi đi. Không cần người chồng- người trụ cột về kinh tế, không cần người bố
cho con trai của mình, cô tự tin mình có thể nuôi con trưởng thành bởi cô biết
“không cần tha thứ và thậm chí cả được tha thứ. Vì tôi không quen anh.”[22,178]
Cô thật sự đã có một chọn lựa sáng suốt bởi nếu tiếp tục cuộc hôn nhân này thì cả
anh và cô đều mệt mỏi “trong tám năm cùng chung sống, phải chăng cô cũng làm
anh mệt mỏi như anh đã làm với cô.”[22,177] Thế nên, cô chọn giải pháp chia tay
để mỗi người có cơ hội tìm cho mình một nửa thích hợp, một người có thể hiểu tâm
hồn nhạy cảm của anh, hiểu về niềm đam mê nghệ thuật đang cháy trong tim anh
mỗi giờ, mỗi phút.
Không có cơ hội yêu đương rồi mới tiến tới hôn nhân như các cặp vợ chồng
trẻ hiện nay, cuộc hôn nhân của hai vợ chồng bà Park trong Hãy chăm sóc mẹ của
Shin do cha mẹ sắp đặt nhưng họ vẫn sống cùng nhau cho đến phút cuối đời. Hai vợ
chồng bà chưa một lần gặp mặt, người chồng ngay từ đầu đã không chấp nhận cuộc
hôn nhân mà chú rể chưa biết mặt cô dâu nhưng khi chứng kiến cảnh vợ chưa cưới
ngồi khóc giữa ruộng bông và câu chuyện về những tên lính đêm đêm vào làng bắt
cóc những cô gái trẻ thì ông cảm thấy mình không thể bỏ mặc người con gái ấy và
tới một thành phố khác gây dựng sự nghiệp như đã dự định được. Có lẽ chính vì cái
duyên cái nợ ấy mà suốt cuộc đời này ông luôn gắn bó bên người vợ đảm đang, tháo
vát, kể cả khi vui với những thú vui bên ngoài thì hình ảnh của vợ và những đứa con
sẽ luôn hiện hữu trong tâm trí ông. Người vợ trong câu chuyện là một người phụ nữ
đích thực với tên gọi của nó. Bà sở hữu một tính cách chăm chỉ, cần cù của một cô
gái sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Bà luôn tay luôn chân làm lụng công việc
---63---
ngoài vườn, ngoài ruộng, trên nương đến nỗi bà không có thời gian để giặt chiếc
khăn đã khắm khú bà luôn đeo trên đầu.
Người chồng, ngược lại, là một người ham vui, ông luôn say mê tiếng trống cổ
truyền và có thể bỏ vợ ở nhà chăm sóc lũ con, hay thậm chí là khi vợ đã mang bầu
sắp sinh nở thì ông vẫn không dừng được các cuộc vui đang chờ đợi ở thế giới bên
ngoài. Cũng có lúc ông dắt về nhà một người phụ nữ có nước da trắng và có mùi
thơm chứ không có mùi của chiếc khăn bà đội trên đầu. Lúc ấy bà đã đi ra khỏi nhà
để người đàn bà đó có thể sống chung với người chồng của mình. Văn hoá Hàn là
vậy, trong gia đình người chồng là người có tiếng nói nhất, người vợ chỉ có thể
phục tùng bởi “người phụ nữ phải ghép vào khuôn phép, biết tự kiềm chế, chịu
thuần dưỡng để nghe lời, nhường nhịn, chịu đựng hi sinh”[72] theo quan niệm tứ
đức “công, dung, ngôn, hạnh” mà Nho giáo qui định.
Nhưng ông chồng đã không thể bỏ vợ và ở mãi bên cạnh người phụ nữ có
nước da trắng hồng và có mùi thơm quyến rũ ấy được. Đơn giản vì khi nhớ đến
“những thứ vợ ông không tiếc công nuôi trồng và chăm sóc lại lởn vởn trước mắt
ông. Lũ chó con, đàn gà, những củ khoai tây đào mãi không hết”[57,164] ông lại
nhớ đến người vợ đã đầu ấp tay gối, chăm lo cho từng giấc ngủ của mình. Ông đã
quay về và có lẽ linh cảm của một người phụ nữ đã báo cho bà biết điều đó, thế nên,
vào các buổi tối bà đều không đóng cổng và mỗi khi lấy cơm sáng bà lại xúc một ít
vào chiếc bát của ông rồi ủ dưới chăn đặt ở chỗ ấm áp nhất trong phòng. Cách ứng
xử của bà thật khéo léo, có lẽ ít có người vợ nào lại có được sự khéo léo đó khi biết
chồng mình mới đi cùng người đàn bà khác “mẹ thì để bát cơm vẫn ủ ở chỗ ấm nhất
trong gian phòng lên mâm và lấy một ít rong biển nướng với dầu tía tô đặt bên cạnh
bát cơm, rồi lại đặt thêm vào mâm một bát nước cơm mà trước sau chẳng nói câu
nào, cứ như bố ra đi vào buổi sáng hôm đó và trở về vào buổi tối chứ không phải ra
đi vào mùa hạ và trở về vào mùa đông.”[57,119] Chính thái độ đó của bà cộng với
tình yêu của người cha đối với một lũ con đang tuổi lớn cần được chăm sóc và nâng
niu mà ông “quyết định phải quên đi thế giới bên ngoài, ông không thể rời ngôi nhà
này lần nữa.”[57,171] cuộc hôn nhân này dù cho không bắt đầu bằng một tình yêu
---64---
thì sau này giữa họ cũng phải nảy sinh một chữ nghĩa. Chữ này được ràng buộc bởi
những đứa con và một người vợ đảm đang, tháo vát, luôn chu tất việc lớn, việc nhỏ
cho dù không có chồng kề bên.
Không chỉ là một người biết chu toàn việc nhà mà bà còn dành cho ông những
tình cảm vô cùng sâu nặng. Ông là người khi khoẻ mạnh thì chỉ biết đến các cuộc
vui bên ngoài, chỉ về nhà khi xương cốt đã rệu rã. Lúc này vợ chính là người phải
chăm sóc cho ông trong khi bà cũng đang gặp phải những căn bệnh có thể cướp đi
sinh mạng bất cứ khi nào. Bà là người luôn luôn ở bên cạnh ông những khi ông cần
mà không một lời than vãn “Nhưng cho dù ông có nói gì đi nữa, chỉ cần nghe ông
hỏi, “bao giờ bà về?” là vợ ông trở về nhà ngay, bất kể lí do nào đã đưa bà ấy lên
Seoul.”[57,169] Một bà già với đầy những bệnh tật trong người không biết có thể
sống đến được bao nhiêu ngày nhưng vẫn nhẹ nhàng nói với chồng mình “Ông nên
đi trước tôi… Sống đến ngần này tuổi rồi mà ông có biết làm gì đâu cơ chứ. Có
người đã phục dịch ông cả cuộc đời rồi.”[57,182] Trong khi đó người chồng chỉ
biết nhận lấy tình yêu thương của vợ mà không một lần đền đáp “Ông lúc nào cũng
đóng vai người đau ốm, còn vợ ông là người chăm sóc. Nếu vợ ông có kêu đau
bụng, thì ông sẽ nói mình cũng đang đau thắt lưng. Mỗi khi ông đau ốm, vợ ông
thường bóp trán, xoa bụng cho ông, rồi ra hiệu mua thuốc và nấu cháo đậu xanh
cho ông. Vậy mà khi bà ốm, ông chỉ nói, “bà uống thuốc đi.”[57,192] Vậy nên khi
vợ đi lạc ông mới thấy mình đã đối xử tệ bạc với người vợ ấy biết bao nhiêu. Mình
đã vô tâm trước nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần của vợ biết bao nhiêu? Nhưng nỗi
ân hận ấy giờ đã quá muộn màng khi người vợ của ông giờ đây đang bơ vơ nơi
hang cùng ngõ hẻm của Seoul bởi không thể tìm được ngôi nhà nào của những đứa
con.
Trên đây là những khảo sát của chúng tôi về mối quan hệ vợ chồng của những
người phụ nữ. Mỗi người họ đều có một hoàn cảnh riêng nên ứng xử, hành động
của họ hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên, tuỳ từng trường hợp mà người phụ nữ biết
hài lòng với cuộc sống gia đình, biết cam chịu hoặc chấm dứt bằng những cuộc li
hôn. Dù gì đi nữa, phần thiệt thòi chung qui lại vẫn thuộc về người phụ nữ.
---65---
Bên cạnh mối quan hệ vợ chồng thì mối quan hệ mẹ- con cũng là mối quan hệ
chính yếu, qua mối quan hệ này, có thể khắc họa rõ nét tâm hồn của người phụ nữ,
có thể cảm nhận được tình thương vô bờ bến của những người mẹ dành cho con.
Với chế độ Nho giáo nghiêm ngặt như Hàn Quốc, mục đích của hôn nhân
không phải vấn đề ái tình mà chính là việc thờ cúng và duy trì hậu duệ cho dòng
tộc. Chính vì lẽ đó mà rất nhiều phụ nữ đã phải đau khổ vì không thực hiện được
thiên chức của một người mẹ là sinh những người con, nhất là con trai. Vậy nên,
trong sáng tác của Oh Jung- hee, khi tác giả nhấn mạnh đến những gia đình không
có con trẻ cũng đồng nghĩa với việc những nếp nhà ấy không có tiếng cười, không
có hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Như trong Chiếc gương đồng, vì một lí do nào đó
mà người mẹ đã mất con khi tuổi đã ngũ tuần, đau khổ vì sự ra đi đột ngột của con
đã làm cho mái tóc của bà bạc trắng. Bà luôn tưởng tượng nếu bây giờ con bà còn
sống, nó đã lớn thế nào? Nhìn chằm chằm vào người thanh niên sửa ống nước và
nhờ vả anh ta treo lại cái dây phơi cũng là một cách bà níu kéo lại tiếng nói của
người thanh niên có lẽ trạc tuổi con bà trong một gian nhà chỉ còn lùi lũi hai ông bà
già đã gần đất xa trời.
Hay như nhân vật “tôi” trong Dòng sông lửa, từ khi con chết chồng không còn
ngủ ở nhà vào ban đêm nữa, anh cũng thoái thác việc ăn cơm tối ở nhà với lí do bận
việc. Cô vợ cũng chỉ còn thú vui duy nhất là hút những điếu thuốc trong khi chồng
không có ở nhà, lang thang một mình trong đêm tối, thêu mãi một con hạc không
xong vì cứ thêu rồi lại tháo ra như một định lý: trái đất thì cứ quay và dòng đời
buồn tủi thì vẫn cứ trôi qua lặng lẽ. Đứa con- sợi dây kết nối tình cảm giữa hai vợ
chồng đã đứt thì việc họ chung sống với nhau cũng chỉ như hai cái bóng, dật dờ
sống cho qua ngày.
Đau khổ hơn nữa là tình mẹ con trong Ván bài lúc hoàng hôn, không thể giữ
được đứa con mà mình đã sinh ra, bà trở thành một người ngây dại. Khi nhân vật tôi
hỏi đứa em “có cái đầu to, phù lên như túi nước” ấy đâu, mẹ đưa bàn tay lạnh ngắt
như cột đá bấu vào gáy nói: “để mẹ mua búp bê cho”. Hình ảnh người mẹ thật đáng
thương khi vừa đau đớn với nỗi đau mất con vừa đau đớn vì người nhà nhẫn tâm
---66---
đưa bà vào viện tâm thần “khi xe cứu thương từ bệnh viện đến, mẹ đang bò dưới
bàn ăn. “Con ơi, không đi đâu, sợ lắm, đừng để bọn chúng đưa mẹ đi”[24,61]
Vậy là, những người mẹ sinh ra những đứa con không chỉ là hoàn thành thiên
chức của người phụ nữ, nó còn là nhân tố quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh
phúc gia đình.
Với những phụ nữ may mắn sinh được những người con hiếu hạnh, ngoan
hiền, thì tình cảm mà họ dành cho con cũng có phần khác biệt. Vì rằng, trước khi
trở thành một người mẹ, người phụ nữ ấy cũng là một người con, cũng được nâng
niu, chăm sóc bởi một người mẹ. Vậy nên, mối quan hệ của những người mẹ với
những đứa con gái luôn nhẹ nhàng và tình cảm. Ngược lại, sống trong xã hội khi mà
khái niệm gia đình bình đẳng là cái gì đó xa lạ, gia đình theo chế độ gia trưởng vẫn
còn đang chiếm ưu thế, thì những người mẹ khi đối xử với những người con trai,
nhất là đối với những người con trưởng vẫn có phần nể sợ, chiều chuộng hơn những
đứa con khác trong gia đình.
Trong Hãy chăm sóc mẹ của Shin Kyung- sook, nhà văn xây dựng hình ảnh
người mẹ Park So- nyo cần cù, chịu thương chịu khó, khéo léo xây dựng một tổ ấm
gia đình hạnh phúc. Mặc dù không được học hành, phải chịu cảnh mù chữ như bao
cô gái khác của miền sơn cước nhưng bù lại, bà được sống hạnh phúc trong tình yêu
thương dạt dào của mẹ. Đến khi lập gia đình và may mắn sinh ra những đứa con
ngoan hiền, khỏe mạnh, bà đã quyết tâm nuôi nấng chúng thành đạt. Trong cách
ứng xử của bà với các con, thấy nổi bật lên là thái độ yêu thương, sự quan tâm đặc
biệt của bà với người anh cả- Hyong-chol. Người anh cả không chỉ là niềm hạnh
phúc lớn lao khi lần đầu tiên bà được làm mẹ mà còn bởi người con ấy chính là đứa
con nối dõi tông đường, là trụ cột vững chắc cho gia đình. Theo Nho giáo, người
phụ nữ phải “đeo đẳng cái đạo tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử): ở nhà theo cha, qua nhà người theo chồng, chồng chết theo con, người
đàn bà suốt đời phụ thuộc vào người đàn ông, dù đó là cha, là chồng, hay con trai
của mình.”[72] với những khắt khe trong quan niệm như vậy, việc mẹ đối xử thiên
vị với anh trai không ai có thể bắt lỗi. Nhất là khi người chồng bỏ lại các con đi với
---67---
người phụ nữ khác, thái độ của mẹ với người con trai thật khác biệt “Mẹ đã rất
chiều chuộng anh trong thời gian bố anh không có nhà. Mẹ cho anh đi chiếc xe đạp
của bố. Mẹ đưa cho anh cái chiếu bố anh nằm ngủ, đắp cho anh cái chăn bố anh đã
đắp. Mẹ còn xới cơm cho anh vào cái bát to mà xưa nay chỉ có bố dùng…”[57,116-
117] Những hành động thiên vị của mẹ dành cho anh trai ấy, chính là đưa anh tới
một trách nhiệm lớn lao: anh sẽ phải thay cha quán xuyến công việc gia đình. Và
đúng là như vậy, chính anh trai đã chăm sóc và dạy dỗ cho những đứa em khi chúng
lần đầu bước chân lên thành phố Seoul học hành và làm việc. Lúc này, trách nhiệm
thực sự đã đặt lên vai anh “Mẹ luôn dặn dò anh với vẻ mặt u buồn, hoặc đôi khi là
cương nghị. “Ở trên này, con là bố của các em đấy, mà cũng là mẹ nữa.”[57,144]
Mẹ cũng khéo léo dạy dỗ anh trở thành một người đàn ông chững chạc, bản lĩnh vì
rằng “Người anh cả phải sống cho có phẩm cách. Người anh cả phải làm gương
cho em. Nếu anh cả đi sai đường, thì những đứa em cũng sẽ đi theo con đường
đó.”[57,144] Cũng chính vì mẹ cứ đưa các em lên nhờ anh giúp đỡ trong khi anh đã
có thể dành dụm được tiền để thực hiện giấc mộng trở thành công tố viên, nên suốt
cả cuộc đời mẹ luôn tin chính mẹ là người đã làm vướng bận khiến anh không đạt
được ước mơ đó. Câu nói “xin lỗi con, Hyong- chol” có lẽ là câu nói anh được nghe
nhiều nhất từ mẹ của mình.
Đối với người con trai trưởng Hyong-chol, mẹ luôn yêu thương và tự hào,
nhưng lại mang cảm giác tội lỗi vì đã giao phó một đàn em cho anh chăm sóc.
Nhưng đối với những người con gái, mẹ lại nâng niu, chiều chuộng theo những
cách riêng của mẹ.
Với con gái lớn Chi-hon, mẹ đã luôn bên cạnh động viên, tiếp sức để cô đến
với con đường tri thức “Con phải chịu khó học hành mới có thể bước vào một thế
giới tốt hơn được.”[57,26] Vì mẹ đã không được học hành, cả cuộc đời chìm trong
tăm tối nên mẹ mong sao con gái của mẹ sẽ không đi theo con đường mà mẹ đã đi
“Em là con gái nên nó phải được học hành nhiều hơn nữa. Dù gì thì con cũng phải
tạo điều kiện cho em gái con được học hành ở thành phố. Mẹ không thể để nó sống
cuộc đời như mẹ.” [57,120] Mẹ đã nói với anh cả Hyong-chol như vậy khi dắt tay
---68---
đứa con gái mười lăm tuổi lên thành phố đặt vào tay người anh cả hai mươi tư tuổi
vừa mới vào đời lập thân, lập nghiệp. Mẹ tưởng chừng chỉ biết đến công việc ngoài
đồng và bếp núc lại có thể hào phóng mua sách cho cô bởi biết rằng con gái mẹ rất
thích đọc sách, có thể lặng lẽ trốn trong gian nhà kho đọc sách để không ai phát hiện
ra với “Con lợn ủn ỉn liên hồi bên cạnh, đàn gà cục tác không ngừng phía trên, đủ
thứ nông cụ như cuốc xẻng bừa cào và cả rơm rạ bao bọc xung quanh.”[57,285] Để
bây giờ, khi cô đã trở thành một nhà văn có danh tiếng trong xã hội thì người mẹ,
vẫn như thế, âm thầm dõi theo bước chân con đi, những cuốn sách cô xuất bản mặc
dù mẹ không đọc được vẫn nâng niu, giữ gìn và trân trọng.
Với người con gái út thì khác, cô chính là người đã giải thoát cho mẹ khỏi cái
cảm giác tội lỗi mà mẹ đã có với những đứa con của mình. Cô học giỏi, thông minh
nhưng sau khi lấy chồng, bận rộn với công việc nội trợ mà cô không thể chăm sóc
bản thân, những lúc thế này, mẹ đã xót xa biết chừng nào “Mẹ đã rất buồn bực khi
thấy con lúc nào cũng bận ngập đầu với việc trông nom lũ trẻ, tóc luôn hất ngược
ra sau cho khỏi vướng vào mặt, thường xuyên mặc quần áo cũ, và thậm chí không
hề nghĩ tới việc đi làm lại.” [57,242] Mẹ sợ rằng tương lai của cô cũng như mẹ, lại
ngập đầu vào những công việc không tên, rồi tương lai lại quẩn quanh bên gian bếp
như mẹ. Tình yêu của mẹ dành cho cô thật cảm động, dù mẹ có giận hờn thế nào
nhưng trong thâm tâm, mẹ vẫn dành một tình yêu thương đặc biệt cho người con gái
út. Trước khi giã biệt cuộc đời, mẹ không quên đến thăm người con yêu quí của mẹ.
Những dòng tâm sự của mẹ đã làm độc giả nhòe nước mắt “Giờ thì, con gái. Nâng
đầu con lên một chút. Mẹ muốn ôm con thật chặt. Mẹ phải đi đây. Hãy gối đầu lên
lòng mẹ và nằm một lát nhé con. Hãy nghỉ đi một chút. Đừng buồn cho mẹ. Cuộc
đời mẹ đã có bao nhiêu ngày vui vì có con ở bên.”[57,253]
Không chỉ dành tình yêu thương vô bờ bến đối với những đứa con mà mình đã
sinh ra, với những người con dâu, con rể, mẹ cũng yêu thương hết lòng. Trong một
công trình nghiên cứu của Trần Mạnh Cát, có thể thấy được vị thế của những người
con dâu mới về nhà chồng “Theo tập tục Nho giáo, người vợ, sau khi về nhà chồng,
giữ vị trí thấp nhất trong gia đình, luôn bị mẹ chồng và anh chị em chồng đối xử thô
---69---
bạo.” [6] bà Park trong tác phẩm này thì khác, mặc dù bị chị chồng đối xử không
mấy tốt đẹp, thậm chí như một bà mẹ chồng khó tính nhưng khi bà có con dâu, bà
không hề ghét bỏ hoặc đối xử khắc nghiệt với con dâu như bà đã từng chịu đựng
trong những năm tháng làm dâu trong căn nhà này, chỉ qua một vài chi tiết trong kí
ức của người mẹ nhưng ta thấy, mẹ vẫn khen ngợi con dâu thứ, tỏ thái độ yêu quí và
nhẹ nhàng với cô, điều mà rất hiếm thấy trong những gia đình truyền thống “Nó
luôn thu dọn nhà cửa rất cẩn thận cho dù ngôi nhà đó không phải của mình. Nó có
khiếu trong mấy việc này lắm, lại chu đáo và chân thành.”[57,287] Hay như trong
kí ức của Hyong- chol, lần đầu tiên hai vợ chồng mua được nhà ở thành phố, con
dâu đã háo hức giới thiệu cho mẹ chồng căn phòng dành riêng cho mẹ “Mẹ à, đây là
phòng của mẹ, khi nào mẹ lên Seoul, mẹ có thể nghỉ ngơi thoải mái trong căn phòng
này.”[57,141] Nếu bà Park là một bà mẹ chồng khó tính, hay xét nét con dâu thì
chắc chắn cô con dâu ấy không có được thái độ vui vẻ và nhiệt tình với mẹ như vậy.
Là một người mẹ thuần phác nông dân, bà không được học hành, cả cuộc đời
bà gắn với ruộng lúa, nương dâu nhưng tình cảm chân thành, nồng ấm của bà dành
cho các con đã làm lay động biết bao con tim “Thông điệp về tình mẹ con được
miêu tả độc đáo dưới góc nhìn văn hóa truyền thống Hàn Quốc là nguyên nhân chính tạo nên sức hấp dẫn không biên giới cho cuốn sách.”6
Tình mẫu tử được tái hiện qua văn học thật đẹp và cảm động. Tuy mỗi câu
chuyện là một mảnh đời khác nhau, một số phận khác nhau nhưng tựu chung lại là
tình yêu thương vô bờ bến- tài sản quý giá nhất của mẹ dành cho con. Điều đó cho
thấy ở bất cứ nơi đâu con người cũng tôn thờ tình mẫu tử- đó là một tình cảm thiêng
liêng mà người ta không thể đổi được bằng tiền.
Bên cạnh hai mối quan hệ chính yếu của người phụ nữ trong gia đình thì mối
quan hệ chị em cũng là đề tài được các nhà văn nữ chú ý khai thác. Qua mối quan
6 http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/cuon-sach-ve-me-gay-xuc-dong-tai-han-quoc- 2137356.html
hệ này, hình ảnh người phụ nữ hiện lên đầy đủ và hoàn thiện hơn.
---70---
Người ăn chay của Han Kang kể về một người chị đầy trách nhiệm và tình yêu
thương. Ngay từ khi còn nhỏ, chị đã phải để ý bao bọc đứa em gái của mình. Lớn
lên cũng vậy, khi Yeong- hye mơ những giấc mơ quái đản và quyết định ăn chay, từ
đó cũng bắt đầu một chuỗi bi kịch giáng xuống đầu người phụ nữ bé nhỏ: Cô đã tự
cầm dao cứa vào tay để phản đối việc cha bắt ép ăn thịt- mất việc làm- chồng đòi ly
dị vì rằng “Ra viện, điều đó có nghĩ là tôi phải sống một mình với người đàn bà
quái đản, đáng sợ này. Tôi khó có thể chấp nhận được điều đó.”[22,49]
Những lúc khó khăn như thế người chị đã chăm sóc, lo lắng cho em không
một lời than vãn. Đến cả chuyện chính mắt chị chứng kiến cảnh chồng mình ngủ
với em gái thì chị vẫn không thể bỏ mặc đứa em của mình. Nó đang mắc bệnh và
phải được điều trị “Vì phải có ai đó trả tiền viện phí, có ai đó phải làm người nhà
của Yeong- hye.”[22,154] Những suy nghĩ ấy đã giúp chị vượt qua được nỗi ám ảnh
chuyện chồng ngoại tình với em gái của mình. Nhưng cô là người chứ không phải
gỗ đá, đã có lúc trong thâm tâm cô chán ghét người em tâm thần để đẩy cuộc sống
của mình vào vòng bế tắc, luẩn quẩn này. Nhưng chị em chứ không phải người
dưng nước lã. Dẫu có giận, có hờn, có oán hận thì không bỏ mặc được. Và người
chị lúc này lại nhận thấy những lỗi lầm ấy chính mình cũng có một phần trách
nhiệm. Sai lầm bắt đầu từ đâu nhỉ? Có phải từ khi Yeong- hye rủ cô bỏ nhà đi vì
không thể tiếp tục chịu đựng những trận đòn của bố nữa? Hay việc Yeong- hye đưa
bạn trai về ra mắt mặc dầu không thích nhưng cô không cấm cản? Hay việc cô kết
hôn cùng người chồng mà cô không thực sự biết là có yêu hay không?... bao nhiêu
những sai lầm đã nối tiếp để giờ đây cuộc sống của cô và em gái chẳng khác nào địa
ngục. Kết thúc tác phẩm mặc dù tác giả không nói ra nhưng người đọc có thể hiểu
được giấc mơ mà người chị đề cập ấy, nó như một cơn ác mộng thôi. Rồi tình yêu
thương của chị sẽ cứu được người em thoát khỏi những giấc mơ ám ảnh ấy và cuộc
sống bình thường sẽ trở lại.
Không cùng sinh ra từ một người mẹ, không được nuôi dạy trong cùng một
gia đình nhưng tình yêu thương mà Park So- nyo (chị dâu) và chú Kyun (em chồng)
dành cho nhau trong thời đại ngày nay không phải là dễ kiếm. Mặc dù chỉ là chị dâu
---71---
nhưng khi chú Kyun muốn được đi học bà đã không ngần ngại khuyên nhủ chồng
mình tạo mọi điều kiện cho chú được học, kể cả việc cãi lại người chị dâu. Chú
Kyun cũng vậy, tuy không được đến trường nhưng không hề trách cứ, vẫn coi bà
như một người ruột thịt, phụ giúp công việc đồng áng và quan tâm tới những
chuyện tưởng chừng như rất nhỏ mà chồng bà không để ý tới như việc mua cho bà
một cây đòn đập lúa, một chiếc chậu nhôm hay việc chặt cây mận trước nhà để bà
được sưởi ấm khi vừa sinh nở xong. Những hành động ấy đã khiến cho tình cảm
của họ gắn bó hơn. Vì thế mà khi Kyun chết không rõ nguyên nhân, bà đã suy sụp
rất nhiều, Kyun như một người bạn, một chỗ dựa tinh thần rất lớn trong chuỗi ngày
làm dâu buồn tẻ của bà.
Quan hệ gia đình đã được soi rọi đủ mọi khía cạnh dưới ngòi bút tinh tế của
các nữ nhà văn. Dẫu thân phận phụ nữ còn lắm thăng trầm và đau khổ nhưng ở một
khía cạnh nào đó, họ đã tìm thấy niềm vui, niềm an ủi bên cạnh những người ruột
thịt của mình.
2.2. Người phụ nữ trong quan hệ với xã hội
“Bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”(Karl Marx và Engels).
Đúng vậy, con người sinh ra là đã gắn với một môi trường sống, một không gian
sinh hoạt nhất định. Không ai có thể sống mà tách khỏi môi trường xã hội được.
Trước kia, với quan điểm “nữ nội, nam ngoại” đã tạo cho người phụ nữ một sự
thiệt thòi rất lớn. Những công việc của họ là ngoài ruộng, ngoài vườn và trong bếp.
Thế giới thu hẹp lại với đám nồi niêu, rổ rá, vại dưa, chum gạo. Họ không có cơ hội
tiếp xúc với môi trường xã hội mà chỉ quanh quẩn với chồng con, anh em và những
người hàng xóm. Yi- ik- một học giả được trọng vọng của thế kỉ XVIII đã viết rằng
“học vấn là chuyện của đàn ông. Đàn bà chỉ cần học thuộc câu tiết hạnh, nếu bất
tuân, chắc chắn làm ô danh gia đình mà thôi.”[51,113]
Tuy nhiên, xã hội ngày nay đã bớt khắt khe hơn trong việc đối xử với những
người phụ nữ, có lẽ bởi họ hiểu rằng, người phụ nữ chính là mẹ của những mầm
non tương lai của đất nước. Người mẹ sẽ là người ảnh hưởng đến sự phát triển tính
cách của con cái nhiều nhất. Người phụ nữ cần được đi học, cần được đi làm để có
---72---
những mối quan hệ mới và cần nhất là họ trao đổi với nhau được những kinh
nghiệm trong cuộc sống.
Phụ nữ của ngày hôm nay năng động, giỏi giang vì tiếp xúc nhiều với những
mối quan hệ xã hội và vì thế mà đời sống tâm hồn cũng phong phú hơn. Cuộc sống
của thế kỉ mới này đòi hỏi một người phụ nữ không chỉ là “vợ hiền, dâu thảo” mà
còn là một người ứng xử khéo léo trong công việc, trong quan hệ với đồng nghiệp
và hơn hết là với tất cả những người mà họ tiếp xúc ở ngoài xã hội.
Bằng những trải nghiệm, chiêm nghiệm của cá nhân về đời sống thực tế, các
nhà văn nữ đã cho người đọc thấu hiểu hơn về những trăn trở, những tình huống
phức tạp mà người phụ nữ phải ứng xử sao cho phù hợp với những mối quan hệ
ngoài gia đình của mình.
Ở mảng đề tài này chúng tôi tập trung khảo sát về người phụ nữ trong hai tác
phẩm là Người ăn chay của Han Kang và Hãy chăm sóc mẹ của Shin Kyung- sook.
Tập truyện ngắn Ván bài lúc hoàng hôn của Oh Jung- hee phần nhiều đề cập đến
mối quan hệ gia đình, những mối quan hệ xã hội chồng chéo, phức tạp không mấy
khi xuất hiện trong các sáng tác của bà.
Liên truyện Người ăn chay của Han Kang đã xây dựng rất thành công nhân vật
In-hye với cá tính mạnh mẽ đã có thể sống tự lập giữa thủ đô Seoul hoa lệ nhưng
không thiếu những cám dỗ, những lọc lừa với một cô gái thuộc vào loại xinh đẹp
như vậy. Với khuôn mặt thon dài, đôi mắt dịu dàng và hơn hết với phong thái xởi
lởi, tính cách chu đáo với tất cả mọi người mà cô có thể “rời nhà đi từ năm 19 tuổi,
một thân một mình không nhờ vả bất kì ai để bươn trải với cuộc sống ở
Seoul”[22,146] Để trở thành chủ của một cửa hàng mĩ phẩm như ngày hôm nay có
lẽ cô đã phải cố gắng rất nhiều, nhiều hơn bất kì một cô gái nào khác, bởi cô xuất
thân không phải ở nơi đây mà là một tỉnh xa xôi. Những đồng tiền mà cô kiếm được
để gây dựng sự nghiệp không nói thì mọi người cũng biết, đó hẳn phải được dựa
vào sự nhẫn nhịn, chịu đựng và sự chăm chỉ, cần mẫn của cô. Mối quan hệ với xã
hội của cô chủ này chính là những khách hàng. Và phải nói rằng cô là một người
bán hàng đầy kinh nghiệm. Cô không qua trường lớp nhưng qua trường đời cô đã
---73---
trưởng thành và làm hài lòng tất cả khách hàng bằng sự chu đáo và dịu dàng của cô
“Vẫn như bất cứ lúc nào, cô mỉm cười với khách, vui vẻ tư vấn sản phẩm cho họ,
giảm giá cho họ một chút rồi tặng thêm kha khá những sản phẩm khuyến mãi. Tâm
ảnh quảng cáo sản phẩm mới dán ở chỗ dễ nhìn nhất, những địa chỉ chăm sóc da
nào bị khách hàng phàn nàn cô sẽ thay ngay…”[22,181]
Trong thời đại trước, những phụ nữ biết tự lập bằng chính năng lực của mình ở
Hàn Quốc không nhiều, họ sống chủ yếu dựa vào chồng và sau này là những người
con trai nên họ không có tiếng nói trong gia đình. Vậy mà giờ đây, một mình In-hye
quản lý cửa hàng mĩ phẩm và mua được một căn hộ của một khu chung cư đã có thể
coi là một phụ nữ thành đạt trong xã hội. Công việc quản lý một cửa hàng mĩ phẩm
lớn như vậy đòi hỏi cô luôn đi sớm về khuya, nên cô không hiểu được công việc mà
chồng cô đang làm, những day dứt, những trăn trở của một người nghệ sĩ trên con
đường đi tìm cái đẹp. Hình ảnh của cô như một bài viết đã đề cập đến “là hình ảnh
quen thuộc của người phụ nữ - hay nói rộng hơn, chính xác hơn là con người chúng
ta trong xã hội hiện đại, sống theo những suy nghĩ được lập trình, những thói quen
có sẵn, hạn chế phản kháng, đấu tranh, mù mờ đi giữa cơm áo gạo tiền rồi tiến đến
cái đích già nua, cô đơn, buồn chán trong vòng đời không thể khác”[108].
Không như người chị của mình, cô em gái Yeong- hye lại vô cùng tự nhiên
khi thể hiện bản thân mà không sợ bất kì một tiếng nói dư luận nào. Cô là một
người phụ nữ bình thường nhất trên thế gian này. Cô không coi bề ngoài làm trọng,
hằng ngày cô đều đặn đi làm những công việc cũng bình thường như đánh máy lời
thoại vào truyện tranh cho một nhà xuất bản, làm thêm cho một cửa hàng nhỏ, giảng
viên phụ ở một trung tâm dạy máy tính, đồ hoạ … Có lẽ cuộc sống lặng lẽ, âm thầm
bên người chồng vô tâm, vô trách nhiệm ấy sẽ kéo dài đến khi cô lìa bỏ thế gian nếu
như không có những giấc mơ khủng khiếp đến với cô. Những giấc mơ về máu, về
những khuôn mặt đẫm máu đã làm cơ thể cô suy kiệt. Nó cũng làm đảo lộn toàn bộ
cuộc sống của cô. Cô sống như một cái bóng, hằng ngày đi làm và ăn những món ăn
không có thịt, vì cô nghĩ thịt chính là nguyên nhân của những giấc mơ quái gở kia.
Cô cũng hầu như không ngủ vì cứ nhắm mắt là cô lại mơ. Và nếu tác giả chỉ miêu tả
---74---
như thế thì cũng không có gì lạ trong tính cách của cô gái này, mà điều đặc biệt
chính là cô không hề sống giả tạo để che mắt thiên hạ. Cô ăn chay vì cô muốn như
thế và không ai trong gia đình có thể ngăn cản cô được. Cô cũng không mảy may
quan tâm đến dư luận khi mặc nhiên cởi áo phơi nắng ngay trong khuôn viên của
bệnh viện, nơi tập trung rất đông người “ nóng quá, chỉ tại nóng quá thì cởi thôi,
…làm thế không được à?”[22,58] Những chuyện thuộc về qui tắc, lề lối trong cuộc
sống không bó buộc được Yeong- hye “Tựa như việc không bao giờ mặc áo ngực
và có lúc đã cởi phăng chiếc áo đang mặc ra vì... nóng quá, tự do của Yeong-hye
cần gần như là tự do tối thiểu của một con người, tự do với chính bản thân
mình”[106] cô ấy ao ước cuộc sống tự do thậm chí nghĩ rằng mình có thể biến thành
một cái cây, chỉ cần có ánh nắng và tưới nước chứ không cần ăn uống, không cần
trò chuyện.
Cô cũng không giấu giếm chuyện ăn chay của mình mà thẳng thắn thừa nhận,
thậm chí nói cả nguyên nhân vì sao mình ăn chay “Tôi đã mơ”. Sống trong thời đại
này, mối quan hệ xã hội là vô cùng quan trọng, họ cần mối quan hệ để tiến thân, họ
cần mối quan hệ để có chỗ đứng trong xã hội. Thế nhưng Yeong-hye thì khác, trong
buổi tiệc của những gia đình quan chức, cô không nói một lời xu nịnh nào với ai
cũng không cố gắng làm thân với người nào. Thậm chí, cô còn dám nhìn thẳng vào
khuôn mặt xinh đẹp của bà vợ tổng giám đốc khi bà này hỏi cô với tư cách là chủ
nhà “Vợ tôi không cười, mặt cũng không đỏ, không ừ không hử, mắt nhìn thẳng vào
khuôn mặt xinh đẹp của bà ta. Cách ứng xử đó dường như làm cho mọi người khiếp
hãi”[22,29] Yeong-hye thậm chí cũng không có lấy một người bạn để tâm sự, sẻ
chia trong hoàn cảnh khó khăn. Lúc cô gặp nạn, vẫn chỉ là những người đó- một
ông chồng vô tâm, một người chị gái sống vì hai chữ đạo đức và những người trong
gia đình cô, tuyệt nhiên không có một người bạn nào bên cạnh. Các mối quan hệ xã
hội không cần thiết hay chính bởi cô không thể hoà nhập được vào cuộc sống xô bồ,
hối hả với những bon chen, kèn cựa hiện nay?
Nói về những người phụ nữ sống trong xã hội hiện đại nhưng khó hoà nhập
được với cộng đồng, ở Việt Nam, nhà văn Bích Ngân đã đề cập đến trong Hồ đêm
---75---
thăm thẳm. Nhân vật Thư trong tác phẩm trong một lần gặp gỡ bạn bè cũ đã không
khỏi thất vọng khi câu chuyện với những kí ức lãng mạn của một thời nghèo khó
nhưng quấn quýt bên nhau, đã đổi bằng những thông tin về đất đai, tiền bạc “Nhưng
đất đai, nhà cửa, những cơ hội làm ăn lại có sức hút như đôi chân điệu nghệ của Maradona trên sân cỏ ngày nào.”7. Thư bị xem là lạc loài, là đơn độc giữa dòng
người hối hả ngược xuôi để kiếm tiền tài, kiếm danh vọng... Hình ảnh của Thư phần
nào cũng giao thoa với nhân vật Yeong- hye ở khía cạnh: không thích ứng được với
lối sống gấp gáp của xã hội hiện đại, một xã hội đầy đủ về vật chất nhưng nhạt nhoà
tình người.
Hai chị em gái trong tác phẩm cho ta cái nhìn mới về người phụ nữ. Cùng là
hai chị em lớn lên trong một gia đình, có cùng một sự giáo dục như nhau nhưng tính
cách của mỗi người thì thật khác biệt. Nếu như người chị có thể thích nghi được với
cuộc sống hối hả, gấp gáp trong thời đại công nghiệp bằng sự khéo léo và nhanh
nhẹn của mình thì người em hoàn toàn ngược lại, cô ấy sống lạ lẫm với cuộc sống
này bởi cuộc sống này luôn đòi hỏi những trách nhiệm, những nghĩa vụ mà bất kì
một người phụ nữ nào cũng phải tuân theo. Yeong- hye không như vậy, cô ấy cần tự
do, cần một cuộc đời thanh thản, lâu dài bằng chính niềm tin của mình. Yeong-hye
sống với lựa chọn ấy một cách mãnh liệt bất chấp những điều tiếng của dư luận, kể
cả việc người ta gọi cô là bệnh nhân tâm thần. Có thể đó chính là lý do cô giữ mãi
được tâm hồn trẻ thơ và vết chàm Mongolia vốn sẽ mất đi khi người ta lớn lên?
Liên truyện Người ăn chay dẫn người đọc tới những ước mơ sâu kín của người
phụ nữ qua những giấc mơ kì bí và không kém phần rùng rợn thì tiểu thuyết Hãy
chăm sóc mẹ của Shin Kyung- sook lại khắc hoạ hình ảnh của người phụ nữ rất bình
dị trong cuộc sống đời thường.
Cô con gái lớn trong gia đình được miêu tả là một người rất nhạy cảm nhưng
cô đã tự lập được ở một thành phố xa lạ, đã vượt qua làng quê yêu dấu của cô để trở
7 http://newvietart.com/index3.463.html
thành một nhà văn có tiếng ở Seoul. Hình ảnh này như một tấm gương phản chiếu
---76---
bóng dáng của nhà văn. Nhân vật Chi-hon cũng như Shin khởi nghiệp khi còn là
một cô bé nông thôn bước chân ra thành thị và cuối cùng đã trở thành một nhà văn
nổi tiếng. Là một nhà văn đồng nghĩa với việc cô sẽ phải chịu sự quan tâm đặc biệt
của công chúng. Họ có thể cùng là nhà văn như cô, có thể là một người hâm mộ
những sáng tác của cô hay thậm chí là người không chuộng những trang văn của cô.
Đối với họ, cô cần ứng xử khéo léo bởi người ta vốn dĩ đã quan niệm “văn là
người”, nếu nhà văn không thực sự có đạo đức nghề nghiệp thì những đứa con tinh
thần mà họ tạo ra có khác gì đâu một món đồ bỏ đi?
Nhưng việc cô rời nhà đi từ khi 16 tuổi ấy đã làm mối quan hệ của cô và mẹ
không được thân thiết. Có những lúc cô đã to tiếng với mẹ, cũng có những lúc mẹ
cô ngắt điện thoại trong giận dữ nhưng vì công việc bề bộn nên cô không nhớ gọi
lại cho mẹ. Tuy vậy mẹ thì vẫn là người thân thiết nhất trong cuộc đời của ta, làm
sao có thể quên đi người mẹ hiền đã chăm bẵm cho ta khôn lớn, nuôi ta trưởng
thành. Người mẹ chính là người cô nhớ đến khi những cảm xúc căng thẳng, nặng nề
của cô không thể nguôi ngoai sau khi ra khỏi thư viện chữ nổi. Thư viện này đã mời
cô tới nói chuyện về cuốn sách mà cô mới phát hành cho những độc giả yêu mến tác
phẩm của cô. Tuy vậy, những độc giả ấy lại không có đôi mắt sáng của những
người bình thường. Họ bị khiếm thị và không thể đọc tác phẩm của cô được, họ chỉ
nghe người khác đọc lại thôi mà sự say mê của họ khiến mọi nhà văn phải hứng
khởi và có nhiều động lực để thôi thúc họ sáng tạo. Một trong những chi tiết mà
người đàn ông nọ chia sẻ là “mặc dù khiếm thị nhưng sở thích của ông là đi du
lịch”[57,43] Du lịch bằng cách nào? Đó chính là du lịch qua những trang viết của
cô. Ông ước muốn mình có thể tới tận Machu Picchu để ngồi trên những chuyến tàu
hoả giật lùi. Đó sẽ là một trải nghiệm thú vị cho những con người không thấy được
ánh sáng. Những trang viết của cô phần nào giúp những con người thiếu may mắn
ấy tìm thấy một niềm vui, một ý nghĩa trong cuộc sống buồn tẻ và cô đơn của họ.
Hay việc họ muốn cô “cho phép” được xuất bản cuốn sách mới của cô bằng chữ
nổi, để họ có thể tự mình thưởng thức những tác phẩm của cô bằng ngôn ngữ của
chính họ. Bằng những tình cảm trong sáng như thế, những con người khiếm thị nơi
---77---
đây đã khiến cho cô cảm thấy nhẹ nhõm hơn, cô như “cảm nhận được tình bằng
hữu từ những đôi mắt chưa bao giờ nhìn thấy đó, những đôi mắt trông như có thể
hiểu và thông cảm được với mọi thiếu sót của cô…”[57, 44].
Cũng với tiểu thuyết Hãy chăm sóc mẹ, Shin đã xây dựng thành công hình ảnh
người mẹ- người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội Hàn. Không gian nông thôn với
những con người thuần phác, thân thiện và đặc biệt người phụ nữ tên Park So- nyo
lại là một người có trái tim nhân hậu chắc hẳn sẽ không gặp những mối quan hệ xã
hội phức tạp trong không gian đô thị như những nhân vật mà phía trên chúng tôi đã
khảo sát. Bà sinh ra và lớn lên trong sự đùm bọc và thương yêu của người mẹ
nhưng sau khi chiến tranh, đất nước loạn lạc với những tàn quân cứ đêm đêm lại rời
chỗ ẩn náu trên núi tràn xuống cướp bóc làng mạc, bắt cóc các cô gái trẻ, trong hoàn
cảnh đó bà đã phải lấy chồng khi mới mười bảy tuổi, cái tuổi mà bà có thể ngồi bệt
xuống cánh đồng bông, xoã chân ra và oà khóc nức nở. Có lẽ đó là lần cuối cùng bà
được khóc mà có người an ủi, vỗ về bởi sau này bận bịu với công việc nuôi dạy con
cái, chăm sóc cho cuộc sống gia đình mà nhiều khi bà phải nuốt nước mắt vào
trong, không thể oà khóc thành lời. Nhưng cho dù cuộc sống gia đình không hạnh
phúc (chồng lấy vợ bé, chị chồng không hài lòng…) thì bà vẫn giữ vững một niềm
tin vào cuộc sống “sao con có thể sống nổi mà không tin con người chứ? Trên thế
gian này chắc chắn người tốt nhiều hơn kẻ xấu rất nhiều. Đó là đạo lý”[57,99].
Bởi vậy mà bà sẵn sàng đi theo người thanh niên không quen biết để đi tìm
chỗ ở của con trai giữa đêm hôm giá lạnh. Và bà cũng không hề sợ hãi khi nghe mọi
người nói rằng người đàn ông đã cùng bà nhổ cỏ trên cánh đồng suốt một ngày dài
thực ra là một người đã chết, bởi bà nghĩ rằng có thêm người nhổ cùng cỏ sẽ mau
hết hơn. Một con người luôn tin vào cuộc sống, lạc quan trước cuộc đời đầy sóng
gió phong ba ấy cuối cùng lại rời bỏ thế gian này trong sự cô đơn không có người
thân bên cạnh, trong cái lạnh căm căm của những cơn gió, những bông tuyết rơi đầu
đông, bỏ lại sau lưng sự ân hận muộn màng của người chồng và những đứa con.
Trong chuỗi ngày mưu sinh nuôi lớn các con, mẹ đã gặp được một người đàn
ông hiền lành và chất phác. Kỉ niệm gặp gỡ đầu tiên giữa hai người thật khó quên,
---78---
vì muốn cứu đói người mẹ mù lòa, đứa con thơ dại và cả người vợ đang trở dạ
không có gì để ăn mà ông đã đánh lừa và lấy đi thau bột của mẹ. Nghĩ đến chậu bột
là thức ăn mười ngày của các con mẹ đã cuống cuồng chạy đi tìm người đàn ông ấy
khắp nơi. Nhưng ngay khi thấy vợ ông đang trong tình trạng sinh nở khó khăn, bà
đã quên tất cả, có lẽ vì bà cũng là một người mẹ, có lẽ vì sự cảm thông bởi có lúc bà
cũng sinh con trong hoàn cảnh khó khăn mà bà đã cố gắng hết mình để cô ấy có thể
cho ra đời một đứa bé. Chính tình yêu thương của những bà mẹ trên thế gian này
mà những hận thù, những mâu thuẫn hoàn toàn được hoá giải. Hơn thế nữa Park So-
nyo là một người nhân hậu, bà không thể không ám ảnh với một gia đình nghèo khó
đến nỗi người vợ mới sinh cũng không có đến một bát canh rong biển để ăn, để rồi
phải từ giã cõi đời khi vừa hạ sinh một đứa bé. Với tình yêu thương vô bờ bến của
người mẹ, bà đã cưu mang, chăm sóc cho đứa trẻ bất hạnh ấy, ngày nào bà cũng đến
cho đứa bé bú bằng dòng sữa ngọt của mình, mặc dù công việc của bà bận rộn biết
bao nhiêu với những đứa con chưa đủ trưởng thành, vậy nên có lúc bà đến vào buổi
sáng sớm, có lúc bà đến lúc nửa đêm. Cũng chính lúc này bà nhận ra “cuộc sống đôi
khi thật mong manh, nhưng có những cuộc đời bền bỉ đến đáng sợ.”[57,262] Có
phải vì nhận thấy một đứa bé mặc dù mất mẹ ngay khi vừa chào đời nhưng bản
năng con người với khát khao được sống của đứa bé thật mãnh liệt. Thế cho nên bà
đã vượt qua hết những tháng ngày mà bệnh tật hành hạ, những cơn đau đầu kéo đến
tưởng như không thể chịu đựng ấy với một sự bền bỉ, nhẫn nại khó thấy ở những
người phụ nữ khác?
Và từ đây, hai con người có hoàn cảnh khác nhau nhưng tâm hồn đồng điệu ấy
đã trở thành tri âm tri kỉ, ông Lee Eun- gyu đã là một người bạn tinh thần theo suốt
quãng đời còn lại của bà. Chính vì tấm chân tình của bà dành cho gia đình ông, vì
sự cưu mang không cần đền đáp mà người đàn ông ấy đã giúp đỡ bà vượt qua mọi
khó khăn khi người chồng không ở bên cạnh. Bởi vậy mà người ta vẫn hay nói mỗi
hành động của con người đều gieo gì gặt nấy “Như cái hạt đã gieo sẽ lớn lên thành
cây, ra trái, hạt độc cho trái đắng, hạt lành cho trái ngọt, con người ta khi gieo
hành động, dù thiện hay ác, không một hành động nào mất đi không tăm tích trong
---79---
dòng thời gian, mỗi hành động tạo kết quả tương ứng và không ai khác ngoài người gây tạo hành động phải nhận chịu kết quả hành động của chính mình”8
Cái tâm lương thiện của bà còn được thể hiện qua hành động đối với những
đứa trẻ nhà bên. Mặc dù có đầy đủ cha mẹ nhưng chúng lớn lên có khác nào những
đứa trẻ mồ côi, mẹ thì theo một gã bếp trưởng, cha thì bỏ con cho bà nội lưu lạc ở
phương trời nào và không bao giờ thấy đến hỏi thăm. Bà nội của chúng thì tuổi cao,
sức yếu đến chăm sóc bản thân còn khó nói chi đến chuyện chăm sóc hai đứa trẻ.
Chính bà Park đã đưa chúng về nhà, cho chúng ăn với một tình thương vô bờ bến.
Có lẽ thế mà ngôi nhà ấy đã trở thành điểm dừng chân của lũ trẻ. Chúng tới đó để
được ăn, được chăm sóc, được lo lắng vỗ về, điều mà chúng- những đứa trẻ thiếu
tình yêu thương của cha mẹ, khao khát. Bà bây giờ không phải là người dưng nước
lã nữa mà thực sự trở thành người ruột thịt duy nhất trên đời lo lắng cho miếng cơm
manh áo của hai đứa trẻ không khác gì trẻ mồ côi ấy.
Cảm động nhất có lẽ là sự đóng góp của mẹ cho ngôi nhà Hi Vọng- ngôi nhà
của những đứa trẻ thực sự không còn cha mẹ trên đời “Cô Park đã tự nguyện gánh
vác mọi việc khó khăn ở Ngôi nhà Hy vọng. Cô đặc biệt thích tắm gội cho bọn trẻ.
Cô ấy chịu khó lắm, cứ lần nào cô ấy tới thăm là cả trại mồ côi sáng sủa hẳn
lên.”[57,161] Đã hơn mười năm mà tháng nào cũng vậy bà đều đặn quyên góp số
tiền 45.000 won mà các con gửi về phụng dưỡng cha mẹ. Khi còn khó khăn bà phải
chắt chiu từng đồng để nuôi con cái trưởng thành nhưng khi dư giả cuộc sống thì bà
lại nghĩ tới những đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa, bà không chăm chút bản
thân hay tiêu phí xa hoa. Tình cảm ấm áp của bà dành cho lũ trẻ thật đáng quý. Thật
khó để kiếm được một con người trong xã hội hiện đại ngày nay yêu thương, đùm
bọc những người xa lạ mà không tính toán chi li như vậy. Trái tim nhân hậu cộng
với tình yêu thương ấm áp của bà đã sưởi ấm bao nhiêu con tim lạnh giá, làm ấm
lòng biết bao nhiêu đứa trẻ không nơi nương tựa, những con người bơ vơ, lạc lõng
trong xã hội kim tiền hôm nay. 8 Xem trong bài viết “Cảm quan Phật giáo trong thế giới nghệ thuật của Cánh đồng bất tận” của PGS.TS Phan Thu Hiền.
---80---
Những khảo sát trên đây giúp người viết khẳng định rằng: dưới ngòi bút tinh
tế và sắc sảo của mình, các nhà văn nữ đã bộc lộ rõ tầm nhìn sâu sắc về những số
phận, những mảnh đời với nỗi đau nhân tình thê thái của người phụ nữ. Là người
cùng giới nên họ có sự sẻ chia, đồng cảm với những thân phận, những kiếp người
sống quanh mình chứ không phải là cái nhìn ghẻ lạnh, khinh miệt của người đời.
Sống trong xã hội hiện đại với những mối quan hệ phức tạp, hơn ai hết những người
phụ nữ ấy cần lắm một chỗ dựa tinh thần dẫu là nhỏ bé.
2.3. Sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong hình tượng người phụ nữ
Thành công lớn nhất của các cây bút nữ Hàn Quốc khi miêu tả về hình ảnh
người phụ nữ là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Hình ảnh người phụ nữ
trong xã hội Hàn xưa bị bó buộc bởi lễ giáo phong kiến hà khắc. Số phận của họ
không phải do họ quyết định mà phải phụ thuộc nhiều vào sự may rủi. Nếu may
mắn thì người phụ nữ lấy được người chồng biết thương yêu, chăm lo cho gia đình,
nếu bất hạnh mà gặp phải người chồng vũ phu lấy việc hành hạ phụ nữ làm vui thì
người phụ nữ cũng chỉ biết cam chịu bởi “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử”.
Những nỗi bất hạnh không sao kể xiết đó phần nào đã được minh chứng qua
khảo sát ở chương một, không ít những phụ nữ đã phải vùi dập tuổi thanh xuân cho
những người đàn ông “năm thê bảy thiếp” được tái hiện qua những tác phẩm văn
học đương thời. Thế nhưng, với bản tính nhu mì, hiền hậu, thuỷ chung họ sẵn sàng
hiến dâng cả quãng đời đẹp nhất để chờ đợi người đàn ông, không một lời than vãn,
không một lời trách móc.
Trong văn học trung đại, nàng Xuân Hương trong Xuân Hương truyện đã để
lại một ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc bởi vẻ đẹp và tính cách đặc trưng của
một người phụ nữ mẫu mực xứ Hàn, xứng đáng được mọi người tôn thờ và ước
vọng. “Trung thần không thờ hai vua, liệt nữ không lấy hai chồng”, câu nói ấy của
nàng cũng chính là qui luật khắt khe trong xã hội cũ, dù có chuyện gì xảy ra đi nữa
thì người con gái phải thủ tiết với người mình đã ước hẹn. Xuân Hương vì lời ước
hẹn với công tử họ Lý mà từ chối yêu cầu sống chung của quan huyện họ Biện đã
---81---
phải chịu cảnh tra tấn dã man. Dù nàng có chịu cảnh đòn roi hay ngục tối vẫn một
mực thuỷ chung, một lòng một dạ hướng về chàng Lý. Người con gái ấy chính là
một mẫu hình lý tưởng mà xã hội tôn thờ. Nàng là biểu tượng của sự thuỷ chung
son sắt. Có lẽ chính vì điều ấy mà trải qua bao nhiêu hoạn nạn, biệt ly cuối cùng
nàng đã có được hạnh phúc với một “trạng nguyên” lịch lãm, đào hoa và yêu
thương nàng hết mực.
Nhưng đó là xã hội phong kiến, xã hội Hàn ngày nay đã có một cái nhìn công
bằng hơn về người phụ nữ, dẫu rằng tư tưởng Nho giáo vẫn lẩn khuất trong một số
ít phần tử của xã hội và những qui luật khắt khe từ hệ luỵ của tư tưởng phong kiến
“trọng nam khinh nữ” đương thời vẫn làm cho bao nhiêu người phụ nữ phải lao đao
trong vòng xoáy của dòng đời. Người phụ nữ trong xã hội ngày nay không phải chỉ
cần “công, dung, ngôn, hạnh”, không phải chỉ biết sống và hi sinh cho người khác
mà đã biết trân trọng, yêu quý bản thân mình hơn và đặc biệt biết đấu tranh để giữ
gìn hạnh phúc của mình. Qua cái nhìn của các nhà văn nữ, các nhân vật nữ hiện lên
với đầy đủ những phẩm hạnh của người phụ nữ truyền thống kết hợp với những nét
hiện đại để làm nên một hình ảnh người phụ nữ trọn vẹn. Những nhà văn nữ như
Han Kang, Shin Kyung- sook do tuổi đời còn trẻ, đã bắt kịp những nét độc đáo
trong tâm hồn người phụ nữ. Họ không chỉ năng động, giỏi giang để không bị xã
hội hiện đại xem thường mà còn rất truyền thống với bản tính cam chịu, siêng năng
và sống có trách nhiệm với chồng, với con, với gia đình.
Liên truyện Người ăn chay của Han Kang đã cho người đọc thấy rất rõ bản
lĩnh của In- hye khi dám xa gia đình khi mới 19 tuổi, hai bàn tay trắng bươn trải
giữa thủ đô Seoul hoa lệ và trở thành chủ một cửa hàng mĩ phẩm. Có thể nói, nhân
vật này thật tiêu biểu cho một phụ nữ bản lĩnh- “dám đấu tranh với số phận để vượt
lên số phận”. Nhưng không chỉ là một phụ nữ với đầy đủ những bản lĩnh của một
phụ nữ thành đạt, cô còn là một người vợ hiền và đảm đang, một mình cô lo lắng tới
công việc nội trợ, chăm sóc đứa con trai 5 tuổi trong khi người chồng lang thang
khắp hang cùng ngõ hẻm với máy quay và sự đam mê nghệ thuật. Nhưng cô không
than thở lời nào, cũng “không giận dữ quát tháo cằn nhằn hay sa sả những câu
---82---
không ra gì” [22,107], cô âm thầm chịu đựng làm một người phụ nữ đúng như xã
hội yêu cầu: đảm đang, nhẫn nhịn, cam chịu, sống hết lòng vì hạnh phúc của chồng
con. Nhưng điều đó có lẽ đã không thích hợp với những người đàn ông. Nhiều khi
người chồng muốn người vợ sống thật với những cảm xúc của mình hơn là lấy vỏ
bọc che đi những điều phiền muộn. Anh chồng nhiều khi đã phải thốt lên “cô là
người chỉ có điểm tốt, tốt đến mức phát ngán” và cũng có một lúc nào đó cô nghĩ
đến điều ấy “cái sự chăm chỉ, cần mẫn của cô hồi đó không phải là một sự chững
chạc sớm mà chỉ là sự hèn nhát, chỉ là một phương thức để tồn tại.”[22,175] Nhân
vật này cũng như bao nhiêu người phụ nữ khác sống trong xã hội hiện đại luôn
muốn đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu: người của công việc, người của gia đình. Mấy ai
có thể dung hoà được để có một sự nghiệp vững vàng mà vẫn đảm bảo cuộc sống
gia đình hạnh phúc? Đó là điều ai cũng mong muốn nhưng không dễ dàng thực
hiện.
Vậy nên, quyết định sống một mình nuôi con của cô có lẽ là một quyết định
đúng đắn. Cô cần có thời gian để thử một lần được sống là chính mình, không phải
chạy theo hai tiếng đạo đức như xã hội yêu cầu. Trong khoảng thời gian sau khi
hạnh phúc gia đình tan vỡ cô cũng đã có một số thay đổi trong suy nghĩ. Cô thử vào
phòng của người chồng, bắt chước những hành động mà anh đã làm như mở một
bản nhạc, tay chống lên hông đi đi lại lại trong phòng, thậm chí cô còn để nguyên
quần áo, nằm co quắp trong bồn tắm và thật ngạc nhiên vì “lần đầu tiên mình hiểu
được anh.”[22,150] Sống trong xã hội công nghiệp như thế này, con người ta chỉ
hối hả với công việc, tìm kiếm tiền tài và danh vọng, sự gắn kết trong gia đình mấy
khi trọn vẹn, nhưng đôi khi nếu có một khoảng lặng để họ nhìn nhận vấn đề thì họ
sẽ nhận thấy sai lầm của mình. Hi vọng trong tương lai, những người phụ nữ mạnh
mẽ ấy có thể dung hòa giữa công việc xã hội và gia đình để trở thành một người phụ
nữ hoàn hảo.
Kết thúc tác phẩm với hình ảnh “Những hàng cây bên đường vụt qua vun vút
như vô vàn những con thú đang chuyển mình, bắn ra những vệt pháo hoa xanh rung
rinh.”[22,203] tác giả muốn truyền tải một thông điệp rằng những biến cố khủng
---83---
khiếp mới xảy ra với nhân vật giống như những vệt pháo hoa bắn lên bầu trời, đã
bắn lên rồi thì không quay trở lại được. Mọi chuyện giờ đã qua, nó cũng như những
giấc mơ, mà giấc mơ thì đâu có thực “có khi chỉ là mơ thôi… trong mơ, cứ tưởng
như đó là tất cả sự thật. Nhưng khi tỉnh dậy sẽ biết là không phải…”[22,202-203]
Không như người chị đáng thương của mình, chỉ biết chịu đựng những gông
cùm đạo đức tròng vào cổ, nhân vật Yeong- hye như một biểu tượng của sự phản
kháng lại xã hội công nghiệp tiêu dùng. Cô đấu tranh đến cùng nguyện vọng của
bản thân. Mới đầu chỉ là ăn chay để xua đi những cơn ác mộng về máu và chết
chóc, sau này là ước muốn trở thành một cái cây không cần ăn uống, chỉ cần có
nắng và được tưới nước là có thể sống được. Cô gái ấy có một tuổi thơ bất hạnh do
những trận đòn ác liệt của người cha, cô thậm chí đã có lúc rủ chị gái của mình trốn
ra khỏi nhà vì có lẽ trái tim non nớt, ngây thơ của cô đã chịu quá nhiều tổn thương.
Đến khi lập gia đình với một người chồng không biết tình nghĩa vợ chồng, không
quan tâm, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn của vợ “Giữa người chồng này và
người vợ này, đơn giản, đó là cuộc đối thoại giữa một người điếc và một người
câm.”[108] thì người vợ hoàn toàn không còn nơi nào nương tựa. Tại sao cô lại có
những giấc mơ khủng khiếp ấy, đơn giản đó là bởi những ức chế mà cô phải chịu
đựng trong cuộc sống. Những điều đáng sợ ấy cô không thể chia sẻ cùng ai “không
ai hiểu em cả… cả bác sĩ, y tá, giống nhau tất thảy… không ai chịu tìm hiểu… chỉ
bắt uống thuốc, tiêm…”[22,74] Đúng là như thế, chưa ai trong gia đình cô tìm hiểu
vì sao Yeong- hye sợ thịt đến như vậy, tất cả đều nghĩ rằng cô đang mắc bệnh, chỉ
cần điều trị là cô có thể trở lại với cuộc sống.
Cũng là một phụ nữ biết sống tự lập, tuy rằng cô không được thành đạt như
người chị gái của mình nhưng có lẽ cô không phải là một người phụ nữ cầu toàn, cô
là một người giản dị với mái tóc cắt ngắn, nước da đôi chỗ bị khô, đôi giày cũng
đơn giản như chính con người cô. Có lẽ vậy mà người chồng cô chọn cũng không
lấy gì hoàn mĩ cho lắm, cô không đòi hỏi chồng phải quan tâm, chăm sóc cho cô,
mỗi ngày bận rộn với những công việc nhưng cô vẫn lau dọn nhà cửa sạch sẽ, nấu
cơm nước phục vụ cho chồng mặc cho người chồng nằm lăn lóc xem tivi. Mỗi buổi
---84---
sáng thức dậy, anh ta không chỉ được phục vụ một bữa ăn tươm tất mà còn được
chuẩn bị từ chiếc áo cho đến đôi giày. Trong xã hội còn coi trọng lễ giáo ấy, chữ
“công, dung, ngôn, hạnh” đã bó buộc người phụ nữ biết nhường nào. Nhưng
Yeong- hye vẫn âm thầm chịu đựng đến khi những giấc mơ xuất hiện, những giấc
mơ ấy mặc dầu không được tác giả nêu rõ nguyên nhân nhưng độc giả cũng phần
nào hiểu được. Giấc mơ thực ra được xây dựng dựa trên cơ sở hiện thực. Khi hiện
thực không như mong muốn, giấc mơ sẽ giúp con người thoả mãn, đó cũng là
phương thuốc tinh thần hữu hiệu. Giấc mơ soi thấu nỗi lòng con người và trong một
chừng mực nào đó giấc mơ thể hiện thế giới nội tâm của nhân vật. Những giấc mơ
ấy giải thoát những ám ảnh, những dục vọng, những ẩn ức không được thoả mãn
trong đời sống. Đôi khi những giấc mơ không hoàn toàn là sự tươi đẹp mà còn là sự
sợ hãi và khiếp đảm với hiện thực đời sống. Những giấc mơ gây cảm giác hoang
mang, lo lắng, khiếp đảm cho con người, nó mang một dự cảm chẳng lành. Những
giấc mơ kia như muốn kéo Yeong-hye ra khỏi cuộc sống với bộn bề lo toan hằng
ngày, với danh phận người vợ nhưng chẳng khác nào một nô lệ. Mặc dù không nói
ra nhưng ai cũng biết, việc ăn chay của cô sẽ giúp cô có thể sống một cuộc sống
thảnh thơi và được là chính mình, bởi cô dám đấu tranh cho hạnh phúc riêng của
mình, dám chống lại lề lối của xã hội hiện đại không một chút xao lòng, có những
lúc cô như đang chìm trong một thế giới khác- nơi mà con người có thể tự do làm
những điều họ muốn.
Cô cũng dám quay về với ước mơ thưở bé của mình: được làm một cái cây.
Cô không ăn uống, không nói năng, không hoạt động, hi vọng nội tạng thoái hoá hết
để mình có thể trở thành một cái cây. Đến lúc nghĩ rằng mình sẽ như một cái cây
ấy, khuôn mặt cô ngây thơ hệt như khoảnh khắc thời thơ ấu. Ước mơ ấy đồng nghĩa
với cái chết nhưng một lần thôi cô được sống có giá trị, được sống với chính mình
“cái đón đợi cô ở phía trước là cái chết, nhưng Yeong-hye lại là hiện thân của sự
sống - biểu tượng của khát khao và đấu tranh cho tự do tuyệt đối.”[106] “Thời gian
không dừng lại” được lặp lại không biết bao nhiêu lần trong câu chuyện. Chúng ta
hẳn cũng đã biết điều này nhưng ai sẽ can đảm sống một cuộc đời thật sự của mình?
---85---
Với lợi thế về dung lượng, tiểu thuyết có thể kể cho độc giả nghe về cả cuộc
đời của nhân vật. Nhờ thế, độc giả hiểu rõ về nhân vật hơn, thấy được họ phải
đương đầu với bao biến cố ngoài xã hội, ứng xử sao cho khéo léo với những mối
quan hệ phức tạp trong dòng tộc và trong gia đình bé nhỏ của họ. Trong tác phẩm
Hãy chăm sóc mẹ, mặc dù cũng trải qua nhiều sóng gió nhưng người phụ nữ tên
Park So- nyo vẫn giữ được hạnh phúc gia đình bằng sự thương yêu, tận tuỵ của một
người vợ, một người mẹ. Đọc xong tác phẩm không ai là không rơi nước mắt cho bi
kịch của bà. Nhưng dẫu vậy, bà đã sống hết mình cho những người mà bà thương
yêu để rồi khi bà đột ngột mất tích ở ga tàu điện ngầm thì những người trong gia
đình bà mới biết bà quan trọng đến nhường nào, mới biết họ đã vô tâm thế nào
trước những nỗi đau mà bà đã âm thầm chịu đựng.
Trong ba tác phẩm mà chúng tôi khảo sát với rất nhiều những nhân vật nữ thì
nhân vật nữ Park So- nyo trong Hãy chăm sóc mẹ là một người phụ nữ hoàn thiện
với đầy đủ những phẩm chất mà xã hội yêu cầu. “Đó là một người vợ, một người mẹ
nông dân Hàn Quốc, người không khỏi khiến chúng ta, những bạn đọc Việt Nam,
phải liên tưởng tới mẫu hình lý tưởng về người phụ nữ nông dân Việt Nam đã mặc
định từ bao đời nay: sống cả đời chỉ vì chồng vì con; làm việc không ngơi nghỉ từ
sáng sớm đến tối mịt, hết trên ruộng lại đến ngoài vườn, trong bếp; thế giới thu hẹp
lại với đám nồi niêu, rổ rá, vại dưa, chum gạo; cho đi tất cả, không nhận gì về
mình, có chăng là lấy sự no đủ an nhàn của chồng và sự phương trưởng của đám
con cái làm nguồn vui.”[108] Nhận định của Hoài Nam đã cho chúng ta một cái
nhìn cơ bản về người mẹ. Người mẹ không có thời gian rảnh rỗi, luôn có những
công việc đòi hỏi bà phải luôn tay luôn chân, nuôi bốn đứa con mà hầu như không
được sự giúp đỡ nào từ người chồng, bà nhiều khi đã phải lo lắng không biết lấy
đâu ra thức ăn cho những đứa con đang tuổi lớn, nhất là những khi phải vét những
hạt gạo cuối cùng để nấu cơm cho các con, bà đau đớn đến nghẹn ngào. Bởi vậy để
có thể kiếm ra tiền nuôi lớn các con, mẹ không nề hà một công việc nào “nghĩ cách
kiếm thêm tiền ngoài làm ruộng, mẹ mang chiếc khuôn làm mạch nha bằng gỗ vào
để trong kho. Mẹ lấy toàn bộ số lúa mì thu hoạch được từ ngoài đồng ra say
---86---
nhuyễn, hoà với nước rồi đổ vào khuôn làm mạch nha.”[57,54-55] Nhưng đâu phải
mẹ chỉ bận rộn với bấy nhiêu công việc, mẹ còn đảm nhận công việc nội trợ cho
một đại gia đình. Trong mắt của người con gái lớn, mẹ luôn gắn với hình ảnh gian
bếp, với công việc nội trợ. Vậy nên đã có lúc mẹ cảm thấy cuộc sống tẻ nhạt và vô
vị khi không thấy điểm kết thúc trong công việc “ta ăn sáng rồi ăn trưa rồi ăn tối
rồi khi trời sáng thì lại ăn sáng”[57,79], khi nào cảm thấy gian bếp tù túng như nhà
tù, mẹ sẵn sàng “nhặt cái nắp chum nào sứt sẹo nhất lên rồi dùng hết sức ném bộp
vào tường.”[57,79] Rồi sau đó “Khi đi mua nắp mới mẹ thấy thật phí phạm tiếc đứt
ruột, nhưng mẹ chẳng thể nào ngừng lại được. Tiếng vỡ của cái nắp chum đã trở
thành liều thuốc cho mẹ. Mẹ cảm thấy như được tự do.” [57,79-80] Tuy vậy, sự
phản ứng hiếm hoi ấy cũng chỉ diễn ra trong một thời khắc nào đó, quãng thời gian
còn lại, mẹ vẫn thầm lặng hi sinh tuổi thanh xuân để nuôi lớn các con trưởng thành,
bởi chỉ cần nhìn thấy các con ăn uống ngon lành bên mâm cơm thì bao nhiêu những
muộn phiền, lo âu, tức giận đã chợt tan biến như những đám mây và người mẹ
“không cần bất cứ thứ gì trên thế gian này nữa”[57,80] việc thích gian bếp hay
không không phụ thuộc vào mẹ, mẹ chỉ nghĩ rằng “được nấu một nồi cơm to và một
nồi canh nhỏ thì mẹ chẳng quản mệt nhọc vì mẹ thấy vững tâm khi nghĩ đây là thức
ăn nuôi lớn các con”[57,81] Và không ai biết được rằng, quãng thời gian khốn khó
ấy là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mẹ “Mẹ mỉm cười nói với cô rằng đó
là những ngày tháng hạnh phúc nhất trong cuộc đời mẹ.”[57,81]
Trong hình ảnh của người mẹ, đặc biệt người đọc thấy rất nhiều những lần mẹ
đấu tranh để giành lấy hạnh phúc, ít ra là cho những đứa con thân yêu của mình.
Trong hai lần rời khỏi nhà, bà đều quay lại vì rằng mình còn bên cạnh những đứa
con phải nuôi nấng, tại sao lại vô trách nhiệm với những đứa con mà mình đứt ruột
đẻ ra. Khi người chồng đưa người đàn bà khác về nhà bà lặng lẽ rời khỏi nhà nhưng
vì tình mẫu tử sâu nặng cộng với sự mạnh mẽ trong bản lĩnh của một người phụ nữ,
bà đã dám đuổi người phụ nữ kia ra khỏi nhà để mình có thể tự tay chăm sóc cho
những đứa con mà mình sinh ra. Đây thực sự là phá cách trong tính cách của người
phụ nữ Hàn. Họ thường lo sợ và nhún nhường trước người chồng của mình thì ở
---87---
đây người phụ nữ “để có thể quay về nhà và giữ lời hứa với anh, mẹ gần như đã trở
thành người tranh đấu.”[57,116] hay “khi bố anh cùng cô ta chuyển tới một ngôi
nhà thuê trong làng để tiếp tục chung sống, mẹ xắn ống tay áo lên, lao đến ngôi nhà
đó, mẹ chộp lấy nồi cơm trên bếp lò vứt xuống mương”[57,116] và sự quyết liệt đó
của mẹ đã đem lại kết quả “bố cùng người phụ nữ kia rời hẳn khỏi làng vì không thể
chịu đựng được sự lăng mạ của mẹ”[57,116]
Và trong góc khuất trái tim mẹ, có một người đàn ông khác. Sự gặp gỡ tình cờ
như một duyên phận đã đẩy hai con người đơn độc ấy lại gần nhau. Để những khi
khó khăn không nơi nương tựa, mẹ lại tìm đến người ấy. Ấy là lúc đứa con thứ tư
chưa kịp chào đời đã chết, chính ông ấy là người đã đào cái hố trong lớp đất cứng
như băng để chôn đứa trẻ xấu số. Ấy là lúc bế tắc, đau đớn khi Kyun đột ngột qua
đời- đứa em duy nhất trong gia đình nhà chồng yêu thương bà, đồng hành cùng bà
trên những cánh đồng vào vụ mùa, trên những nương rẫy khi bắp trổ bông, ra hạt
trong khi người chồng đang mải mê với những cuộc vui bên ngoài. Chính những khi
khó khăn như thế người ấy đã an ủi mẹ rằng “Thời gian trôi đi thì vết thương nào
cũng lành cả. Đừng suy nghĩ gì mà hãy bình tĩnh thực hiện những việc phải làm”
[57,264] Để đến lúc phải nói lời giã biệt cuộc đời, mẹ vẫn không quên cảm ơn
người ấy “Cám ơn vì ông đã luôn ở nguyên một chỗ.Có lẽ tôi sống tiếp được là nhờ
điều đó đấy. Tôi xin lỗi vì hết lần này tới lần khác cứ hễ thấy bất an là lại tới tìm
ông, thế mà thậm chí tôi chẳng cho ông nắm tay mình. Mặc dù vẫn tìm ông nhưng
chỉ cần thấy ông có ý tới tìm tôi là tôi lại cư xử thật tàn nhẫn” [57, 265-266] Ông là
bí mật cuộc đời mẹ, là người đã kề bên chia sẻ cùng mẹ những khi mẹ khó khăn chứ
không phải khi mẹ hạnh phúc “Mặc dù không ai biết ông đã tồn tại trong cuộc đời
tôi nhưng chính ông là người mang bè đến mọi con nước lớn để giúp tôi vượt qua
thác lũ an toàn. Tôi đã rất vui vì có ông. Tôi đến để nói với ông rằng tôi đi qua
được cuộc đời mình là bởi tôi có thể tìm đến với ông những lúc lo âu chứ không
phải những khi hạnh phúc.” [57,268-269] Một mối quan hệ đơn thuần là tinh thần
của người mẹ đã chôn chặt trong tim bao nhiêu năm qua.
---88---
Trong khi tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi có tìm hiểu thêm về văn hóa Nhật và
thấy rằng, trong xã hội Nhật, tư tưởng Nho giáo không có ảnh hưởng mạnh trong
tập tục xã hội như ở Hàn Quốc, tuy vậy, người phụ nữ Nhật Bản lại hội tụ đầy đủ
“công, dung, ngôn, hạnh” hơn ai hết. Xã hội vốn trọng luân thường đạo lý, người
phụ nữ quen lấy sự nhường nhịn nam giới là vẻ đẹp nữ tính. Trong bối cảnh như
thế, khó mà tìm thấy những tác giả Nhật Bản có tiếng nói mạnh bạo đòi quyền lợi
cho người phụ nữ. Yoshimoto Banana là một nữ nhà văn như thế. Trong tác phẩm
Kitchen, bà đưa ra hình ảnh một cô bé mồ côi cả cha lẫn mẹ, đến khi lớn hơn một
chút, người bà cũng ra đi bỏ cô bơ vơ giữa cuộc đời. Với hoàn cảnh không nơi
nương tựa, không họ hàng thân thích, nhân vật chính chỉ còn biết trốn vào nhà bếp,
và từ đây, cô thấy thân thuộc với gian bếp này, yêu quý nó như một người bạn thân
thiết. Tác phẩm cho thấy nhân vật phản kháng còn yếu ớt và tiêu cực. Có lẽ nhà văn
nhận thức được rằng, “bức tường phong kiến” ấy còn quá kiên cố, một nhà văn còn
non trẻ như cô chưa thể dùng nghệ thuật để phá bỏ được. Chung qui lại, vấn đề đấu
tranh cho quyền lợi và hạnh phúc của người phụ nữ ở Hàn và Nhật vẫn chưa đạt đến
ngưỡng, cho dù có chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo hay không đi nữa thì sự
ràng buộc của những tập tục cũ vẫn trói buộc người phụ nữ, các nhà văn Nhật và
Hàn vẫn chưa có tiếng nói thuyết phục để giải phóng phụ nữ triệt để.
Trong khi miêu tả về người phụ nữ, các nhà văn như hoá thân vào nhân vật,
nói hộ nhân vật những niềm đau, nỗi bất hạnh mà họ phải chịu. Không phê bình,
không phán xét, họ mặc nhiên để cho nhân vật của mình được phơi bày hết thảy. Họ
hoặc đã dám đấu tranh cho hạnh phúc, hoặc câm lặng để cho dòng đời cuốn trôi
tương lai và hạnh phúc. Cho dù vậy, tiếng nói nhân văn của các tác giả đã tác động
không nhỏ đến tư tưởng của độc giả, nó như một lời nhắn nhủ rằng nhân loại hãy
mở rộng con đường giải phóng cho người phụ nữ, tạo cơ hội cho họ tạo lập hạnh
phúc viên mãn trong cuộc đời.
---89---
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HÌNH TƯỢNG NGƯỜI
PHỤ NỮ TRONG VĂN HỌC HIỆN ĐẠI HÀN QUỐC
3.1. Nhân vật và hệ thống nhân vật
Tìm hiểu về nhân vật và hệ thống nhân vật là con đường đi vào khám phá thế
giới nghệ thuật của tác phẩm, đây là cách tiếp cận trực tiếp và quan trọng để giải mã
tư tưởng, thông điệp của nhà văn. Vì nhân vật văn học là “con người cụ thể được
miêu tả trong tác phẩm văn học” và “thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng
thẩm mĩ của nhà văn về con người”[23,242]
Từ những chức năng quan trọng như thế mà “văn học không thể thiếu nhân
vật, bởi vì đó là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình
tượng. Bản chất văn học là một quan hệ đối với đời sống, nó chỉ tái hiện được đời
sống qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò như những tấm gương của cuộc đời
[…] Nội dung khái quát của nhân vật không chỉ là các tính cách xã hội lịch sử và
mảng đời sống gắn liền với nó mà còn là quan niệm về tính cách và các tư tưởng
mà tác giả muốn thể hiện.”[63,277]
Nghiên cứu về nghệ thuật thể hiện hình tượng người phụ nữ, không thể không
lưu ý đến nhân vật và hệ thống nhân vật mà các nhà văn nữ đã kì công xây dựng để
thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng của mình về con người cũng như tình
cảm thái độ đối với hiện thực xã hội.
3.1.1. Xây dựng nhân vật
Một trong những thủ pháp nghệ thuật mà các nhà văn nữ sử dụng để xây dựng
nhân vật chính là miêu tả ngoại hình, hành động và ngôn ngữ nhân vật.
Thứ nhất là các tác giả sử dụng phương pháp miêu tả ngoại hình để xây dựng
nhân vật. Với diện mạo, cử chỉ, sắc phục, điệu đi tướng đứng người đọc dễ dàng
nhận biết được phần nào về tính cách, thành phần xuất thân và số phận của nhân
vật. Chỉ vài ba nét miêu tả đơn sơ các tác giả đã có thể phác họa nên một chân dung
thích hợp cho mỗi nhân vật.
Ở trong tác phẩm của Oh Jung- hee, chúng tôi nhận thấy miêu tả về ngoại hình
đã trở thành một điểm nhấn giúp nhà văn truyền tải được thông điệp của mình.
---90---
Nhân vật trong sáng tác của bà đã thoát khỏi kiểu miêu tả truyền thống của văn
chương cổ điển, các nhân vật nữ thì phải có sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”,
làn da phải trắng, nét môi phải hồng, hàm răng phải đều đặn, cử chỉ phải dịu dàng,
trang nhã… Trong sáng tác của Oh, các nhân vật nữ có thể thiếu hụt về nhan sắc
như người đàn bà quá lữa lỡ thì xưng “tôi” trong Ván bài lúc hoàng hôn “mỗi lần
đứng trước gương lại khổ sở vì những nếp nhăn và vảy nấm cứ sùi lên trên làn da
vốn đã khô trông càng bẩn thỉu. Những vết này độc còn hơn cả sắt gỉ, nó sẽ thành
sẹo lâu lắm đây”[24,44] Một người phụ nữ không may mắn vì ông trời ban cho một
sắc đẹp để có thể làm xiêu lòng những người đàn ông mà cô từng gặp, một cô gái
kém duyên và sống cùng với một ông bố khó tính nên chẳng ngạc nhiên khi đã bước
qua tuổi thiếu nữ nhưng cô vẫn chưa tìm thấy một bến đỗ bình yên của cuộc đời.
Cũng đôi khi, ngoại hình của nhân vật được miêu tả qua cái nhìn của các nhân
vật khác, như thế sẽ tạo ra sự khách quan hơn trong việc miêu tả nhân vật. Trong tác
phẩm Xóm người Hoa, Oh cũng miêu tả về những cô gái làm cái nghề bán sắc đẹp
chứ không bán sức lao động, sống dựa dẫm vào những tên lính Mĩ trong cuộc chiến
tranh. Không miêu tả cầu kì, nhà văn chớp lấy những nét rất riêng từ người đàn bà
này qua cái nhìn của một cô bé mới chín tuổi “một giọng nói the thé, cộc lốc của
một người đàn bà trẻ…cô ta mặc một cái áo quân phục dài trùm đến đùi để lộ cái
chân trần trắng bốp, mái tóc dài lượn sóng xoã sau vai” [24,84] Là phụ nữ nhưng
giọng nói không nhẹ nhàng mà the thé, không lễ phép mà cộc cằn, đến trang phục
cũng phải có gì đó khác những phụ nữ đoan chính. Những người phụ nữ này không
có nghề nghiệp, không có tương lai, đến một mối quan hệ thân tình cũng không có,
họ sống như những kí sinh bên những tên lính Mĩ thô lỗ, độc ác, coi rẻ tính mạng
của người phụ nữ. Nên không ngạc nhiên, khi cô ngỡ rằng mình đã nắm giữ được
hạnh phúc thì lại là lúc cô mất đi tất cả, kể cả mạng sống của mình.
Bên cạnh đó, các chi tiết bình thường nhỏ nhặt làm nên hình hài và tính cách
nhân vật cũng được nhà văn chú trọng. Nhân vật Yeong-hye trong Người ăn chay
được miêu tả từ nhiều yếu tố như: mái tóc, nước da, đôi mắt, tướng đi, quần áo...
dưới cái nhìn của người chồng “Chiều cao vừa phải, đầu cắt vuông không ngắn
---91---
cũng không dài, nước da vàng nhợt đôi chỗ bị khô, gò má hơi nhô ra trên đôi mắt
một mí, kiểu ăn mặc không chút màu mè như thể sợ bị coi là người có cá tính. Đi
đôi giày đen với thiết kế đơn giản nhất, cô tiến gần đến bàn tôi ngồi đợi với nhịp
bước không nhanh không chậm, không mạnh mẽ quá mà cũng không nhẹ nhàng
quá.”[22,7] Theo cách miêu tả này, người đọc phần nào nhận thấy anh chồng không
mấy mặn mà với chân dung của người vợ. Bên cạnh những nét không ưa thích của
vẻ bề ngoài như mái tóc, nước da, đôi mắt, gò má… anh chồng cũng không thích
đến cả kiểu giày mà cô vợ đi, đến cách ăn mặc quá đơn giản của cô ấy. Ngay từ cái
nhìn đầu tiên, tình yêu đã không thể chớm nở với người đàn ông quá coi trọng bề
ngoài như thế.
Vậy là, qua việc miêu tả ngoại hình, độc giả không chỉ thấy tính cách nhân vật
mà còn thấy được tính cách của những người xung quanh nhân vật đó nữa.
Đối với những phụ nữ đã bước vào tuổi già, Han Kang và Shin đều không
miêu tả nhân vật với chân dung tỉ mỉ mà thường phác họa thoáng qua, tô đậm một
nét nào đó ở bề ngoài nhân vật. Đây là gương mặt của một người mẹ đã ngoài 60
trong Người ăn chay dưới cái nhìn của con rể “Một gương mặt nhiều nếp nhăn […]
đến nỗi không thể tin trước đây bà đã từng là một cô gái trẻ.”[22,41] Thông qua
ngoại hình có thể đoán biết được cuộc sống gia đình của người phụ nữ, vậy thì, với
gương mặt khắc khổ, cam chịu của người mẹ mới miêu tả trên đây, không cần tìm
hiểu cũng biết được cuộc sống bi kịch như thế nào. Chắc hẳn việc làm vợ một người
đàn ông vũ phu, gia trưởng đã trở thành một gánh nặng khó có thể chịu đựng được
cho người mẹ tội nghiệp ấy, đến nỗi nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm nhưng
chưa từng nở một nụ cười nào.
Cũng nói về những người phụ nữ đã trải qua nhiều đau khổ nhưng Shin tập
trung vào hình ảnh đôi mắt- được mọi người quan niệm là cửa sổ của tâm hồn.
Người đàn bà đã trải qua biết bao nỗi đau: nỗi đau mất cha mẹ, nỗi đau mất chồng
và nỗi đau mất những người anh em thì “đôi mắt vốn đầy vẻ dữ tợn và khắc
nghiệt”[57,199] Qua việc miêu tả đôi mắt ấy, độc giả liên tưởng tới một người phụ
nữ có phần dữ dằn, gai góc với mọi người. Nhưng không phải bà lúc nào cũng khó
---92---
tính, hay bắt nạt em chồng mà có những lúc, qua đôi mắt, độc giả đã hiểu được tình
cảm sâu sắc của bà dành cho cô em dâu khi cô ấy đi lạc không tìm được đường về
nhà “ngước lên nhìn bầu trời xám xịt, đôi mắt bác đã ngấn lệ. Giờ trông bác thế
này mới thấy đôi mắt của bác không đáng sợ chút nào.”[57,282] Những lúc một
mình thế này mới là lúc nhân vật thể hiện rõ tính cách của mình, không giả tạo,
không che đậy. Bà bác cũng vậy, đã đến lúc bà thấy hối hận với những việc mình
làm, những giọt nước mắt hối hận cũng đã tuôn rơi.
Cũng có khi, nhà văn lại miêu tả những người phụ nữ cũng trải qua bao sóng
gió cuộc đời nhưng lại hiện lên với những hình ảnh thật hiền, thật dịu dàng với
truyền thống Á đông. Đó là vài dòng hồi tưởng của các con khi nhớ về người mẹ
kính yêu của mình “bàn tay mẹ thô kệch do lao động vất vả”[57,57] hình ảnh đôi
mắt mẹ “đôi mắt trông rất thật thà, giống như đôi mắt của con bê”[57,86] đôi mắt
thật buồn vì trải qua nhiều đau đớn nhưng chỉ cần biết rằng con trai mình vừa được
một trăm điểm trong bài kiểm tra thì “đôi mắt u sầu của mẹ lại sáng lên ngọn
lửa”[57,116] Hình ảnh của mẹ cũng là hình ảnh của bao phụ nữ nông thôn chân lấm
tay bùn, suốt cả cuộc đời hi sinh thầm lặng cho chồng, cho con.
Cách xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình của nhân vật không
phải là mới. Thủ pháp này đã khá phổ biến từ văn học cổ điển với các Pansori như
Xuân Hương truyện, Thẩm Thanh truyện…. Nhưng đến với các tác phẩm của các
nhà văn nữ hôm nay, thủ pháp này đã có nhiều cách tân đáng kể. Nếu như trong văn
học cổ việc miêu tả nhân vật thông qua ngoại hình với những chi tiết có tính ước lệ,
sắc đẹp của nhân vật được lặp đi lặp lại theo một khuôn mẫu nhất định thì trong giai
đoạn này các nhân vật nữ đa dạng hơn, họ thậm chí không đẹp song những ước mơ,
khát khao về tình yêu và hạnh phúc đều đẹp, đều bình dị như tất cả mọi phụ nữ trên
khắp thế gian.
Thứ hai là việc sử dụng phương pháp miêu tả hành động để xây dựng nhân vật
trong sáng tác của các nhà văn nữ. Hành động nhân vật “là sự thể hiện các xúc cảm,
ý nghĩa, ý định của con người vào các hành động, vận động, các lời nói được phát
ra vào cử chỉ, nét mặt.”[43,233] Ðây là phương diện đặc biệt quan trọng để thể hiện
---93---
tính cách nhân vật vì hành động của mỗi người là căn cứ quan trọng có ý nghĩa
quyết định nói lên tư cách, lí tưởng, phẩm chất cũng như những đặc điểm thuộc về
thế giới tinh thần của người đó. Thông qua việc miêu tả ngoại hình, nhà văn chưa
khắc họa rõ tính cách nhân vật được đầy đủ, trọn vẹn nhưng đặt nhân vật trong cuộc
sống phức tạp với các mối quan hệ sẽ thấy được khả năng “đối nhân xử thế” của
nhân vật trong những tình huống khác nhau, thấy được những trăn trở, suy tư trong
góc khuất tâm hồn họ. Từ đó, người đọc có thể xác định được những đặc điểm, bản
chất của nhân vật.
Trong một tác phẩm văn học, người ta chia ra những kiểu hành động khác
nhau. Theo K.S. Stanixlapxki, có thể sử dụng hai thuật ngữ “hành động bên trong”
và “hành động bên ngoài” đối với các nhân vật. Hành động bên ngoài là “các hành
động dứt khoát của nhân vật, trên các thời điểm “nút”, bước ngoặt trong cuộc đời
nhân vật.”[…] xảy ra sự thay đổi các quan hệ qua lại giữa các nhân vật, thay đổi số
phận riêng tư hay địa vị xã hội của chúng.”[43,233] Theo đó, các hành động bên
trong có thể được hiểu là “Các nhân vật ở đây thể hiện tư tưởng, tình cảm của
chúng trong các hành vi (như lời nói, cử chỉ, nét mặt), nhưng không hề làm gì để
mang lại các thay đổi bên ngoài đáng kể trong cuộc sống nhân vật.”[43,233]
Từ những cách hiểu trên về hành động nhân vật, chúng tôi đi vào nghiên cứu
tác phẩm và nhận thấy, các tác giả nữ sử dụng “hành động bên trong” và “hành
động bên ngoài” như một phương tiện để xây dựng đời sống tâm lí phức tạp của các
nhân vật.
Với những “hành động bên ngoài”, xuất hiện ở các nhân vật như Yeong-hye,
In-hye trong Người ăn chay, Park So-nyo trong Hãy chăm sóc mẹ… Nhân vật
Yeong-hye hiện lên là một người phụ nữ ít nói, nhút nhát. Từ tuổi ấu thơ đến khi lập
gia đình, cô sống lặng lẽ, âm thầm với những công việc thường ngày. Chỉ đến khi
có những giấc mơ, độc giả thấy cô như trở thành một con người khác. Ngoại trừ đặc
điểm ít nói vốn có, cô đều thay đổi mọi hành động của mình. Cô thản nhiên vứt hết
thịt trong nhà đi, chuyển sang ăn chay mặc dù chồng cô, chị gái cô, cha mẹ cô đều
phản đối điều đó. Một con người tưởng như chỉ biết phục tùng như Yeong- hye đã
---94---
có lúc phản kháng để sống cuộc sống của chính mình. Tác giả miêu tả rất nhiều về
những hành động dứt khoát của cô gái khi thực hiện quyết tâm của mình. Hành
động rạch tay ở nhà chị gái để phản đối cha bắt ăn thịt “Sau khi nhổ miếng thịt ra,
giữ chặt con dao gọt hoa quả, cô phóng mắt nhìn tất cả mọi người trong gia đình.
Như một con thú bị dồn đến đường cùng, cặp mắt cô đảo điên sợ hãi.” [22,73] Hành
động chống đối của Yeong- hye khi bị y tá ép ăn uống được nhà văn miêu tả
“Yeong- hye vùng vẫy tay chân bị trói, như đang muốn thoát ra khỏi sự cưỡng bức
[…] Lần đầu tiên Yeong- hye hét lên tiếng có âm sắc rõ như thế. Giống như tiếng
gào thét của một con thú.”[22,193] Ngoài ra, tác giả còn sử dụng những động từ
mạnh như vùng vẫy, quẫy đạp, giẫy giụa... để diễn tả hành động chống trả quyết liệt
của một cô gái bé nhỏ trọng lượng chưa đầy 30kg này.
Những hành động mặc dù không phù hợp với tính cách vốn trầm tĩnh, ít nói,
nhút nhát nơi Yeong- hye nhưng xét ở một khía cạnh khác, đây là một hành động
tích cực. Những hành động ấy đã cho thấy bản lĩnh, quyết tâm của một cô gái bé
nhỏ muốn thực hiện ước mơ biến thành cái cây để thoát khỏi xã hội với những ràng
buộc về đạo lý, một xã hội chạy theo đồng tiền mà đánh mất đi tình yêu thương vốn
có giữa con người với nhau.
Chị gái của Yeong- hye thì không như vậy, từ đầu đến cuối, cô đều tỏ ra là
một người phụ nữ có khả năng tự lập, bản lĩnh, tự tin. Có những sự việc nằm ngoài
khả năng tưởng tượng như việc cô chứng kiến cảnh chồng mình đang ngoại tình với
em gái nhưng cô vẫn rất bình tĩnh, tự chủ. Cô không ngần ngại gọi điện cho xe cấp
cứu tới và đưa họ vào bệnh viện mặc dù trong lòng cô trái tim đang tan vỡ. Từ đây,
đối diện với việc hạnh phúc gia đình đổ vỡ nhưng cô không chấp nhận tha thứ và bỏ
qua cho chồng như nhiều phụ nữ khác. Hành động rút dây cắm điện thoại để từ chối
cuộc gọi của chồng là sự khẳng định bản lĩnh thêm lần nữa. Cô không cần dựa dẫm
vào ai, cô có thể làm việc và nuôi con trai mình khôn lớn. Những hành động của In-
hye luôn luôn nhất quán với tính cách của cô. Nhưng nhiều khi, chính hành động
cứng nhắc, luôn theo qui tắc nhất định đã làm cho cuộc sống của cô không được
hạnh phúc. Để có được hạnh phúc, cô phải tìm cách thay đổi chính mình.
---95---
Bên cạnh việc sử dụng “hành động bên ngoài” để khắc họa tính cách nhân vật
thì “hành động bên trong” cũng được các nhà văn đặc biệt quan tâm. Trong sáng tác
của Oh Jung- hee, các nhân vật không bộc lộ những “hành động bên ngoài” mà
thường thì những cơn sóng dữ dội ấy chỉ trào dâng trong lòng nhân vật. Các nhân
vật của bà thoạt nhìn có vẻ yếu đuối, cam chịu bởi không có lấy một hành động
phản kháng nào đối với cuộc sống bế tắc, mòn mỏi nơi xó bếp, góc nhà. Nhưng nếu
quan sát kĩ những tư tưởng, tình cảm phản chiếu qua nét mặt, cử chỉ, lời nói của các
nhân vật sẽ thấy nhân vật đã quá mệt mỏi, chán chường với kiếp “sống thừa”, “sống
mòn” trong cõi nhân gian, đã có những nhân vật khao khát được thay đổi số phận,
thay đổi cuộc đời. Có thể thấy nữ nhà văn đã dụng công sắp đặt những “hành động
bên trong” cho các nhân vật như bà mẹ mất con trong Chiếc gương đồng, nhân vật
“tôi” trong Ván bài lúc hoàng hôn, nhân vật “tôi” trong Dòng sông lửa, …
Trong Chiếc gương đồng, bà mẹ với nỗi bất hạnh vì mất đứa con mà ngày này
qua tháng nọ rầu rĩ nơi góc sân hồi tưởng lại quãng thời gian hạnh phúc và yên bình
bên người con trai duy nhất. Cái chết đột ngột của người con đã để lại một vết
thương lòng quá lớn cho người mẹ, để giờ đây, chỉ cần chứng kiến cái chết của một
người chưa quen biết, trái tim bị thương tổn, mất mát ấy tưởng như đã ngủ yên lại
trỗi dậy một niềm đau “Vợ ông đang ngồi bấu cả hai tay vào khay bột mì trắng tinh,
khuôn mặt biến sắc, thất thần như người mất hồn, báo cho ông biết khi ông vừa đi
dạo về.”[24,122] Bà không chỉ xót xa cho một sinh linh nữa phải rời xa trần thế mà
hơn hết chính là xót thương cho đứa con phải chết ở cái tuổi hai mươi tràn trề nhựa
sống. Từ khi con chết, những cử chỉ, lời nói của bà đều hướng tới hình bóng của
con như một quán tính, một thói quen không kiểm soát được. Đầu tiên là những lời
nói đầy âu yếm của bà dành cho người thợ sửa ống nước có lẽ cũng trạc tuổi con bà
hồi đó rồi những câu chuyện đứt quãng về người con trai bé bỏng mà bà kể cho
chồng nghe sau bữa ăn trưa. Cuối cùng, không thể kiểm soát được cảm xúc trào
dâng, về nỗi đau thương mất mát quá lớn mà bà cất tiếng khóc nức nở, nghẹn ngào,
những tiếng khóc ấy đâu phải đơn giản chỉ vì trò đùa của đứa bé nhà bên mà nó là
sự đau đớn đến tột cùng của bà mẹ già về đứa con xấu số.
---96---
Nhân vật ‘tôi” trong Ván bài lúc hoàng hôn cũng là một nhân vật chịu nhiều
mất mát, tổn thương trong quá khứ. Đến khi lớn lên, những kí ức nhập nhòa về
người mẹ đáng thương, về người đàn ông đã đi qua cuộc đời cô cứ ám ảnh, day dứt
khôn nguôi. Để rồi trong thực tại, cô vẫn vô thức làm theo những thói quen trong
quá khứ “Tôi lại theo thói quen xếp lên chiếc bàn ăn đặt trong góc tường bếp ba bộ
thìa đũa, rồi tôi giật mình nhớ ra, cất đi một bộ.”[24,47] Những dòng hồi tưởng về
mẹ như những cơn thác lũ cứ ồ ạt đổ về giữa ván bài thầm lặng và nhàm chán của
hai cha con. Câu van xin thiết tha, da diết của mẹ đã ám ảnh cô cả cuộc đời “Con ơi,
đưa mẹ đi đi. Ở đây sợ lắm, buồn lắm.”[24,71] Không để cuộc đời mình “chết dần”
trong cô đơn như người mẹ, cô âm thầm, lặng lẽ chuẩn bị một cuộc “vượt thoát” ra
khỏi qui phạm, mong tìm thấy tình yêu và lẽ sống trong cuộc đời. Tuy nhiên, mối
quan hệ “tạm thời” với một kẻ không nghề nghiệp ổn định, vô gia cư ấy không thể
kéo cô ra khỏi đống bùn lầy quá khứ. Cái khoảnh khắc bứt phá của cô chung qui lại
không bằng thời gian ông bố kết thúc một ván bài, để rồi lập tức sau đó cô lại phải
trở về đối diện với căn nhà nhỏ của mình, đối diện với nỗi đau về mẹ, về những vết
thương đã gặm nhấm trái tim cô bấy lâu nay.
Bên cạnh đó, các tác giả cũng sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện để khắc
họa tính cách nhân vật. Khái niệm ngôn ngữ nhân vật không chỉ là những lời giao
tiếp, đối thoại mà còn là những đoạn độc thoại nội tâm trong tác phẩm. Ngôn ngữ
không chỉ phản ánh từ kinh nghiệm sống của cá nhân đến trình độ văn hóa, tư
tưởng, tâm lí của nhân vật mà còn phản ánh được những điều sâu kín trong góc
khuất nội tâm nhân vật.
Trong trào lưu văn học hiện thực của Việt Nam những năm 30-45, việc miêu
tả nhân vật qua ngôn ngữ nhân vật được nhà văn đặc biệt quan tâm. Chẳng hạn, nhà
văn Vũ Trọng Phụng có thể để cho nhân vật lặp đi lặp lại nhiều lần một số từ hoặc
một số câu mà nhân vật thích như “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” của cụ cố Hồng
trong tiểu thuyết Số đỏ. Tuỳ từng trường hợp mà nhà văn dụng công xây dựng
những ngôn ngữ sao cho phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của nhân vật.
---97---
Trong sáng tác của các nhà văn nữ Hàn Quốc, việc xây dựng ngôn ngữ cho
nhân vật rất được quan tâm. Thông qua ngoại hình nhân vật, độc giả có thể biết
được vài nét về hoàn cảnh xuất thân của nhân vật, nhưng thông qua lời thoại của
nhân vật, độc giả biết nhiều hơn về tính cách, về số phận của nhân vật.
Đoạn đối thoại sau đây nằm trong truyện ngắn Ván bài lúc hoàng hôn của Oh
Jung- hee, một cuộc trò chuyện giữa cô gái và người tình “hờ” của cô
- Mai có đến không?
Ra đến giữa bãi cát và bức tường xi- măng, gã dừng lại hỏi.
- Có tiền không, đưa đây một ít đi
Tôi nói luôn làm gã sững người lại.
- Người thấy không được khoẻ, phải mua thuốc uống. Cũng không bảo đưa
nhiều đâu.
Gã lại nhổ toẹt bãi nước bọt, mồm lầm bầm.
- Lúc đầu tưởng hiền lành lắm, đi buôn không nộp thuế thế này, lấy rẻ thôi
chứ? [24,70]
Đọc đoạn đối thoại này không ai là không đau đớn cho số phận của một cô gái
đã quá lứa lỡ thì, đêm này qua đêm nọ tự hủy hoại đời mình cho một tên thợ xây thô
lỗ và bẩn thỉu. Không có sự tôn trọng, không có tình thương, chỉ có sự trao đổi thể
xác giữa hai con người này. Đoạn trích này cũng cho thấy tính cách của hai nhân
vật. Cách nói chuyện của gã đàn ông đủ thấy gã cộc cằn và ngang ngược đến mức
nào, chỉ muốn “ăn bánh” mà lại không muốn trả tiền. Cách cô gái đòi tiền khi xong
chuyện cũng làm đau đớn người đọc, cố gắng thật tự nhiên nhưng rồi bẽ bàng, tủi
hổ khi hắn buông những lời khinh bỉ. Cô gái bước đi mà như trốn chạy “tôi rảo
bước thật nhanh, có lúc còn va vào một toán công nhân say rượu”[24,71].
Quả đúng là qua ngôn ngữ đối thoại, độc giả hiểu hơn rất nhiều về tính cách
của nhân vật. Sau đây là đoạn đối thoại của một bà mẹ già và người con gái trong
Người ăn chay của Han Kang.
Mẹ vợ một tay cầm chiếc cốc giấy bốc hơi, một tay nắm lấy tay con gái.
- Con à…
---98---
Mắt bà đã ngân ngấn nước.
- Uống thử cái này đi. Mặt mũi teo tóp thế kia kìa.
…
- Uống đi con. Mẹ xin con đấy. Đến mong muốn của bà già sắp chết mà mày
cũng không nghe cho à. [22,51-52]
Đoạn trích trên cho thấy thái độ mềm mỏng, nhẹ nhàng của người mẹ với đứa
con đang phải nằm trên giường bệnh. Tình mẫu tử thật sâu nặng, sự chăm sóc thật
dịu dàng nhưng nếu như không được đón nhận, nó sẽ là sự giận dữ, thất vọng, từ
yêu thương chuyển thành thù hận
- Mày, mày có biết cái này bao nhiêu tiền không hả? Mà sao dám bỏ đi? Đồng
tiền mồ hôi nước mắt của bố mẹ mày đấy. Mày thế mà cũng là con gái tao được ư?
[…]
- Mày xem cái bộ dạng của mày đi con. Mày không ăn thịt thì người đời bắt
tội mày đấy. Soi gương thử đi, xem cái mặt mày có còn là mặt nữa không.[22,53]
Cô con gái từ khi ám ảnh với những giấc mơ đã chuyển sang ăn chay. Nhưng
từ đó cũng bắt đầu những bi kịch ráng xuống đầu người phụ nữ vốn ít nói ít cười
này. Không một ai trong gia đình điều tra nguyên nhân tại sao cô muốn ăn chay, ai
cũng khuyên nhủ, thậm chí chửi mắng và dùng quyền là cha là mẹ bắt ép cô ăn thịt
trở lại. Không ai trong gia đình quan tâm tới những ước mơ, những nguyện vọng
nhỏ bé của cô. Những câu nói của mẹ mặc dù xuất phát từ tình yêu thương nhưng
thực chất cũng không hiểu gì về con gái mình. Có lẽ ở với người đàn ông gia trưởng
gần như suốt cả cuộc đời, bà không còn hiểu được nỗi đau của ai nữa, đơn giản vì
nghĩ rằng cuộc đời mình đã quá đau khổ.
Trong đoạn trích, mặc cho mẹ nói những lời yêu thương hay hờn giận thì cô
gái không một lần lên tiếng. Sự ít nói đã trở thành tính cách đặc trưng của cô gái.
Đoạn văn sau đây cũng nói lên điều đó
- … Nước sôi.
---99---
Giọng em vợ nhẹ như lông tơ. Không u sầu, cũng không đờ đẫn như người
bệnh. Nói thế cũng không có nghĩa là nó tươi tắn, sảng khoái. Giọng nói mang vẻ
lầm lỳ và thờ ơ rất lạ.
- Em phải đi tắt bếp. [22,77]
Nghe anh rể gọi điện, cô em không trả lời câu nào cả, kể cả việc anh nói anh
sẽ đến nhà, cô cũng không một lời mời hay từ chối, không có biểu hiện một chút
cảm xúc nhỏ nhoi nào từ cô. Sự ít nói ít cười ấy thực sự rất thích hợp với tính cách
của một con người như cô. Và việc hai con người ít nói như anh rể và cô em vợ đến
với nhau cũng là một điều dễ hiểu, bởi họ không nhất thiết phải nói nhưng vẫn có
thể hiểu nhau ở tấm lòng.
Các tác giả nữ đã biết khai thác tối đa những lời đối thoại của nhân vật. Những
lời thoại xuất phát từ chính những suy nghĩ, từ diễn biến tâm lý, tính cách bên trong
của nhân vật, vì vậy đã hạn chế được tình trạng nhân vật là cái loa phát ngôn của tác
giả.
Bên cạnh những lời đối thoại của các nhân vật, nhà văn còn dụng công sắp đặt
những đoạn độc thoại nội tâm để các nhân vật được bộc lộ hết những tình cảm sâu
kín. Qua độc thoại nội tâm, nhân vật có dịp bộc lộ những góc khuất thầm kín của
đời sống tâm hồn. Những suy nghĩ này không phải bao giờ cũng có điều kiện để bộc
bạch, tỏ bày. Chỉ khi nhân vật tự đối diện với bản thân mình thì mới có cơ hội để
thổ lộ. Từ những suy nghĩ của nhân vật về bản thân, về các mối quan hệ với những
nhân vật khác, về những sự việc của quá khứ, hiện tại và tương lai, sẽ giúp người
đọc hiểu hơn về nhân vật.
Đoạn độc thoại nội tâm sau đây của người chị chồng khi suy nghĩ về cô em
dâu đã cho độc giả hiểu hơn về nhân vật này, cứ ngỡ bà là một người chị chồng khó
tính, chỉ biết bắt nạt người em chồng, đâu ngờ…
“Trời lạnh thế này mà đi lang thang ở đâu không biết”
…
“Mùa hạ đi qua, mùa thu đi qua, mùa đông đã đến… tôi không ngờ cô là
người vô tình đến vậy đấy? Cái nhà này sẽ thành cái gì nếu không có cô đây? Chỉ
---100---
là một cái xác không hồn. Khi ra đi cô còn mặc áo mùa hè, thế mà đông sang rồi cô
cũng chẳng về. Liệu có phải cô đã là người của thế giới khác rồi không?”[57,281-
282]
Lời tâm sự nhoè nước mắt của bà bác cho thấy bà là một người sống rất tình
cảm. Mặc dù bà đã có những hành động khó chịu với em chồng nhưng chung qui
lại, với những người gặp phải những mất mát quá to lớn trong cuộc đời như bà liệu
có ai lại không đau đớn. “Ngày xưa, chị gái ông đã mất hai người anh cùng một lúc,
rồi mất cả bố lẫn mẹ chỉ trong hai ngày.” Nỗi đau mất người thân ấy một lần nữa
tái diễn khi chồng của bà chết trong một vụ cháy nhà “Nỗi đau mất chồng đã đâm
rễ sâu trong lòng chị gái ông và trở thành một cây đại thụ. Một cây đại thụ không
tài nào đốn được”[57,199] Nếu bất kì ai rơi vào hoàn cảnh bi kịch như bà liệu có
thể luôn nở nụ cười trên môi. Việc bà khó chịu với em dâu vì thế cũng là một điều
dễ hiểu.
Độc thoại nội tâm trở thành một thế mạnh rất lớn, đem lại thành công ngoài
sức tưởng tượng cho nhà văn Shin Kyung- sook. Không chỉ là những đoạn độc thoại
nội tâm của những nhân vật trong gia đình từ khi mẹ lạc ở ga tàu điện ngầm, tác giả
còn dành trọn một chương để người mẹ được là nhân vật chính, xưng “tôi” kể lại
những câu chuyện của chính mình và đối thoại một chiều với những thành viên
trong gia đình bằng một “giọng “ma” (ghost voice)” [88]
Lời đối thoại một chiều của mẹ với cô gái út
“ Con gái ơi, mẹ đây. Con có nghe thấy tiếng gọi của mẹ trong sự náo động
ầm ĩ này không? Mẹ đến để nói lời xin lỗi với con đây.”[57,240]
Con gái à.
Hãy nhớ con luôn là nguồn vui của mẹ, con nhé…[57,243]
Không ưu ái dành trọn một chương để cô út nhớ về mẹ, nhưng cô út mới là
người đem lại niềm vui cho mẹ nhiều nhất. Mẹ đã lo lắng như thế nào vì đứa con bé
bỏng ngày xưa giờ đã trở thành mẹ của ba đứa trẻ. Con gái mẹ học hành giỏi giang
nhưng rốt cuộc, mẹ nhìn thấy cô phải bận rộn thế nào để nuôi ba đứa trẻ đến nỗi
không còn thời gian để săn sóc bản thân, mẹ sợ rằng cô út cũng như mẹ, cả đời đầu
---101---
tắt mặt tối quanh xó bếp xó nhà, rồi tương lai không đi về đâu “Cuối cùng mẹ thôi
không đến nhà con nữa. Mẹ không muốn thấy con sống như thế trong khi con được
học hành tử tế…”[57,242] Nhưng câu nói yêu thương của mẹ dành cho con gái xúc
động đến nhường nào và cũng mở ra cho người đọc một góc khuất trong trái tim
mẹ: Mẹ có thể ra đi thanh thản vì đối với các con, mẹ đã chăm lo hết lòng.
Trong dòng độc thoại nội tâm của mẹ còn có lời đối thoại một chiều với người
đàn ông khác. Đó chính là người đàn ông đã an ủi, sẻ chia với mẹ biết bao gian khó,
vất vả trong cuộc sống. Có lẽ mẹ vượt qua được mọi trở ngại trong cuộc sống một
phần là nhờ có ông.
A, ông đây rồi
…
Ông là bí mật của cuộc đời tôi. Ông đã tồn tại trong cuộc đời tôi, một sự hiện
diện mà bất kì ai quen biết tôi cũng chẳng tài nào đoán ra. Mặc dù không ai biết
ông đã tồn tại trong cuộc đời tôi, nhưng ông chính là người mang bè đến mọi con
nước lớn để giúp tôi vượt qua thác lũ an toàn. Tôi đã rất vui vì có ông.[57,268-269]
Trong dòng độc thoại của mẹ, độc giả cũng biết rằng người vợ ấy đã yêu
chồng biết bao nhiêu. Mặc dù tình cảm không mặn mà khi hai người sống với nhau,
nhưng đã có với nhau năm đứa con thì không thể là không có cái nghĩa. Tình nghĩa
vợ chồng là một vấn đề quan trọng mà mỗi người cần phải giữ gìn, nhất là đối với
một dân tộc trọng người phụ nữ “công, dung, ngôn, hạnh” như Hàn Quốc.
Sao ông lại cửa đóng then cài thế này?
Ông đi Seoul rồi à? Ông đang tìm tôi trên đó hay sao?...
Tôi vẫn còn nhớ ngôi nhà chúng ta từng sống trước khi xây lại. Tôi thực sự rất
yêu ngôi nhà đó…tôi nhớ tất cả mọi thứ. Tất cả những chuyện đã xảy ra trong ngôi
nhà đó. Những việc xảy ra vào những năm bọn trẻ ra đời, tôi đã chờ mong ông,
quên ông, ghét bỏ ông rồi lại chờ đợi ông trở về.[57,270]
Cũng trong dòng hồi tưởng đó, xuất hiện bóng dáng người chị chồng
Có ai đó đang mở cửa. A, bà bác!
…
---102---
Nếu những việc khó khăn xảy ra mà tôi không biết phải giải quyết thế nào, tôi
lại nghĩ, bác ấy sẽ xử lý thế nào nhỉ? Rồi lựa chọn làm theo cách tôi nghĩ bác sẽ
làm. Thế nên bác cũng chính là hình mẫu của tôi đấy. [57,282-283]
Nếu nghĩ rằng mẹ luôn ghét bỏ và không hoà hợp với người chị chồng là hoàn
toàn sai lầm. Mặc dù có những lúc không hài lòng về cách xử sự của chị nhưng tận
trong sâu thẳm trái tim, chị chồng chính là hình mẫu lý tưởng của mẹ.
Và cuối cùng là đoạn đối thoại một chiều của mẹ với người đã sinh thành ra
mình.
Kia rồi.
Mẹ đang ngồi trên thềm ngôi nhà tối tăm nơi tôi sinh ra.
…
Mẹ có biết không? Con cũng luôn cần mẹ trong suốt cuộc đời mình. [57,290]
Câu nói ấy như một lời nhắn nhủ: Dù con đã lớn, đã là bà của không dưới năm đứa
cháu nhưng con vẫn cần lắm một chỗ dựa tinh thần những lúc khó khăn, hoạn nạn
bởi “con dù lớn vẫn là con của mẹ...”.
Tóm lại, việc xây dựng nhân vật trong sáng tác của các nhà văn nữ đã có sự
vận động, đổi mới. Nhân vật được soi chiếu từ nhiều khía cạnh như ngoại hình,
hành động cho đến ngôn ngữ để biểu thị những góc khuất tâm hồn ẩn sâu bên trong
nhân vật. Nhân vật vì thế mà trở nên thật hơn, gần gũi với đời thường hơn.
3.1.2. Tổ chức hệ thống nhân vật
Ngoài việc nhận diện tính cách nhân vật qua ngoại hình, hành động, ngôn ngữ
nhân vật, chúng tôi cũng đưa các nhân vật vào hệ thống để từ đó có thể so sánh, đối
chiếu các nhân vật trong tác phẩm bởi “hệ thống nhân vật là sự tổ hợp nhân vật làm
sao cho chúng phản ánh nhau, tác động nhau, soi sáng nhau, để cùng phản ánh đời
sống.”[47,301] Với những nhân vật nữ trong các tác phẩm này, chúng tôi đưa vào
thành các cấp độ, bao gồm: quan hệ chính diện- phản diện, quan hệ giới và quan hệ
lứa tuổi.
Đầu tiên, chúng tôi xem xét hai tuyến chính diện- phản diện xuất hiện trong
các tác phẩm. Trong văn học dân gian của Hàn Quốc, các nhân vật thường được xây
---103---
dựng thành hai tuyến rõ rệt có tính chất đối kháng quyết liệt. Ở đó, hễ là nhân vật
chính diện thì tập trung những đức tính tốt đẹp còn nhân vật phản diện hoàn toàn
ngược lại. Trong văn học cận đại, với những tác phẩm viết vào những thập niên đầu
của thế kỉ XX, sự phân chia nhân vật phản diện, chính diện vẫn còn rõ rệt. Tuy
nhiên, đến văn học hiện đại, sự phân chia hai tuyến nhân vật đó chỉ mang tính chất
tương đối. Việc miêu tả này phù hợp với quan niệm cho rằng hiện thực nói chung
và con người nói riêng không phải chỉ mang một phẩm chất thẩm mĩ mà bao hàm
nhiều phẩm chất thẩm mĩ khác nhau, cái nhìn của chủ thể đối với sự vật nhiều
chiều, phức hợp chứ không đơn điệu.
Những nhân vật trong các tác phẩm của các nhà văn nữ là những nhân vật tuy
có bản chất tốt nhưng đó không phải là phẩm chất duy nhất của nhân vật. Bakhtin
cho rằng “cần phải thống nhất trong bản thân mình vừa các đặc điểm chính diện
lẫn phản diện, vừa cái tầm thường lẫn cái cao cả, vừa cái buồn cười lẫn cái nghiêm túc.”9 Chính vì vậy, ở đây, sự phân biệt chính diện, phản diện chỉ có ý nghĩa tương
đối. Các nhân vật không nghiêng hẳn về một phương diện thiện- ác nào. Có những
nhân vật thoạt nhìn có thể nói là phản diện nhưng thực chất vẫn rất đáng thương.
Bởi vậy, trong bản chất nhân vật, ranh giới giữa thiện- ác thật mong manh, nhiều
khi không xác định được.
Nhân vật Meki trong Xóm người Hoa là một me Tây, cô sống chung với lính
Mỹ để có cuộc sống dư giả mà không cần lao động vất vả như bao phụ nữ khác.
Nhìn từ khía cạnh này, cô là một người đáng lên án vì sống dựa dẫm vào đàn ông,
hơn thế nữa, chúng lại là những tên lính da đen đang đi xâm lược đất nước mình.
Không chỉ có vậy, Meki luôn phải hứng chịu những lời dè bỉu, khinh miệt từ người
bà của nhân vật “tôi”. Người bà là một đại diện của phụ nữ truyền thống: siêng
năng, chăm chỉ, và phải phụ thuộc kinh tế nên bà hầu như không có tiếng nói quyết
định trong gia đình, bà ở với người con không phải do mình sinh ra. Sự đức hạnh,
9 Bakhtin, trích trong cuốn Lí luận văn học, Phương Lựu chủ biên, Nxb Giáo dục
trinh trắng của người phụ nữ chịu ảnh hưởng từ lễ giáo như bà không thể chấp nhận
---104---
một người như Meki. Đặt hai nhân vật này cạnh nhau, đã tôn lên sự mâu thuẫn,
khác biệt giữa hai nhân vật và đương nhiên, Meki là một nhân vật đáng hổ thẹn.
Nhưng nếu nhìn lại, cô không phải loại phụ nữ chỉ thích chơi bời để mặc cho tuổi
xuân qua đi. Cô cũng khát khao một cuộc sống gia đình êm ấm. Khi được “chồng
hờ” hứa sẽ đưa về Mĩ cô đã vui vẻ biết bao nhiêu, đã hi vọng biết bao nhiêu. Cô gái
ấy cũng là phụ nữ, họ cần lắm một mái ấm gia đình bé nhỏ để có thể vun trồng cho
hạnh phúc nảy nở.
Cũng là một cô gái trẻ, nhưng nhân vật “tôi” trong Ván bài lúc hoàng hôn lại
là một cô gái vừa đáng thương vừa đáng trách. Mất mẹ từ khi còn bé, lớn lên dưới
sự chăm sóc của người cha gia trưởng, cô hầu như không biết đến tuổi thơ tươi đẹp
và tuổi xuân mơ mộng với tình yêu lãng mạn. Nhất là từ khi người con trai mà cô
thương yêu đã bỏ cô ra đi, cô tự hủy hoại tương lai của mình vào những cuộc chơi
bời không lành mạnh với một gã đàn ông không danh phận. Nhưng không thể nói
cô là một “chị góa thèm hơi giai” như người tình hờ của cô đã nói, bởi dù rằng cô
đã phạm một tội rất nặng nếu bị xã hội phát hiện nhưng nhờ có nó, cô tìm thấy một
chút niềm vui dẫu là bé nhỏ. Ở đó, cô cũng thoát ra khỏi cuộc sống tù túng, chật hẹp
dưới một mái nhà với những con người cô đơn. Ít ra, cô đã dám đấu tranh để đi tìm
hạnh phúc của mình. Dẫu là hạnh phúc ấy không trọn vẹn.
Trong Hãy chăm sóc mẹ, ấn tượng của người đọc ban đầu là hai hình ảnh đối
lập: người chị chồng và người em dâu. Nếu như người em dâu cam chịu cuộc sống
cơ cực khi về nhà chồng, làm lụng vất vả để nuôi một đại gia đình thì chị chồng là
một người phụ nữ lắm điều, khó chịu, hay bắt nạt em dâu. Hình ảnh này đã xuất
hiện trong các tác phẩm văn học cận đại, gia đình nhà chồng thường là những nhân
vật phản diện, luôn uy hiếp, làm khó thậm chí tìm cách hãm hại người con dâu mới
về nhà chồng. Chị chồng của Park So- nyo cũng vậy, bà là một người đàn bà khắc
nghiệt, có thể nói bà ấy chính là mẹ chồng chứ không phải chị chồng nữa. Khi bà
Park tìm cách cho đứa em của chồng đi học, chống đối lại ý kiến của chồng, người
chị chồng không đắn đo suy nghĩ đã đuổi người em dâu ra khỏi nhà. Hay như lần
hiểu lầm em dâu chặt cây để sưởi ấm sau khi sinh nở, chị chồng cũng không thông
---105---
cảm khi em mới sinh xong, đã chửi bới, quát tháo ầm ĩ… Những hành động đó của
bà vô hình chung đã khiến bà trở thành một nhân vật ác, phản diện trong tác phẩm,
như một kẻ thù địch với nhân vật chính Park So-nyo. Nhưng đến cuối tác phẩm,
thấy được những giọt nước mắt của bà, những lời độc thoại nội tâm của bà về người
em dâu mất tích mới thấy bà không ác như đã bộc lộ ra bên ngoài. Thực sự bà cũng
là người đàn bà đáng thương, chưa biết đến hạnh phúc lứa đôi thì chồng mất trong
khi chưa có đứa con nào, thế nên cả cuộc đời bà chìm vào nỗi cô đơn tuyệt vọng.
Việc bà khắc nghiệt với mọi người chung qui lại là để tìm cách thoát ra nỗi cô đơn
đang bủa vậy đó thôi. Ở nhân vật này, ranh giới giữa thiện và ác thật quá mong
manh.
Khi đặt các cặp nhân vật vào một hệ thống, thấy được sự phản ánh, tác động
lẫn nhau giữa các nhân vật, từ đó dễ dàng nhận diện tính cách nhân vật. Qua việc
khảo sát này, chúng tôi nhận thấy các nhân vật nữ đều có số phận đáng thương.
Không thể suy xét một chiều rằng nhân vật này thiện, nhân vật kia ác. Bởi khi đặt
nhân vật trong những hoàn cảnh khác nhau, nhân vật mới bộc lộ hết những tâm tư,
tình cảm vốn đã chôn kín trong lòng.
Thứ đến, chúng tôi cũng chú ý tới quan hệ giới thể hiện trong tác phẩm, để từ
đó thấy được đối tượng trung tâm mà các nhà văn nữ đặc biệt quan tâm. Để làm rõ
vấn đề này, chúng tôi tiến hành lập bảng khảo sát những tác phẩm của ba nhà văn
nữ. Trình tự tác phẩm bắt đầu bằng các truyện ngắn của Oh Jung- hee, đến liên
truyện của Han Kang và tiểu thuyết của Shin Kyung- sook. Tên các nhân vật được
liệt kê theo thứ tự từ quan trọng đến thứ yếu. Tên các nhân vật chính, chúng tôi in
đậm, tên các nhân vật trung tâm có vai trò quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tác
phẩm được chúng tôi in nghiêng. Chúng tôi không khảo sát những nhân vật không
được miêu tả kĩ lưỡng hay những nhân vật không tham gia thể hiện chủ đề tác
phẩm.
Thứ tự Tác phẩm Nhân vật nữ Nhân vật nam
1 Dòng sông lửa Tôi (1) Người chồng (1)
2 Ván bài lúc Tôi, người phụ nữ Ông bố, người
---106---
hoàng hôn ru con (2) thợ xây (2)
Người bố, tên Tôi, Bà, Mẹ của lính Mĩ, anh trai nhân Xóm người nhân vật “tôi”, chị 3 vật “tôi”, anh thanh Hoa Meki, Chiok, Jeni (6) niên người Hoa (4)
Bà già, đứa trẻ Ông già, thợ sửa Chiếc gương hàng xóm, mẹ đứa trẻ 4 ống nước (2) đồng hàng xóm (3)
Chồng Yeong- Yeong- hee, chị hee, Anh rể Yeong- 5 Người ăn chay gái Yeong- hee, Mẹ hee, nhân vật J, Bố Yeong- hee, Hui- ju (4) Yeong- hee, Ji- hoo (5)
Park So- nyo,
Chi- hon, con gái út, Chồng Park So- chị chồng Park So Hãy chăm sóc nyo, Hyong- chol, chú 6 Nyo,vợ Hyong- chol, mẹ Kym, Lee Eun- gyu (4) Hong Tae- hee, mẹ
Park So- nyo(7)
Theo bảng khảo sát, có thể kết luận rằng, sáng tác của các nhà văn nữ có thiên
hướng khuynh nữ. Tổng số lượng nhân vật nữ trong các tác phẩm chiếm tới 56%
với 23 nhân vật, trong đó nam chỉ chiếm 44% với 18 nhân vật. Mặc dù mức độ
chênh lệch không cao nhưng nhìn vào số lượng các nhân vật chính và nhân vật giữ
vai trò thể hiện tư tưởng của tác phẩm thì nữ vẫn chiếm số đông. Đặc biệt, ở tác
phẩm của Han Kang và Shin, hai nhân vật nữ Park So- nyo và Yeong- hye là hai
nhân vật trung tâm, thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Điều này sẽ rất hiếm xảy
ra trong các tác phẩm của Yasunari kawabata- một tác gia lớn của văn học Nhật, bởi
dù nhân vật nữ có chiếm số đông đi chăng nữa, nhân vật nam vẫn là nhân vật chính,
---107---
nhân vật trung tâm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm, nhất là chủ đề về những
người lữ khách cô đơn trên con đường đi tìm cái đẹp.
Qua đó, có thể nói, dưới ngòi bút của các nữ nhà văn, đề tài trăn trở nhất, suy
tư nhất đều dành cho những người phụ nữ. Nhà văn Oh phát biểu trong một bài
phỏng vấn rằng “khám phá bản chất của người phụ nữ là đề tài chủ đạo mà tôi sẽ còn tiếp tục theo đuổi.”10 Không chỉ khai thác đề tài về phụ nữ, không chỉ đi sâu
vào khám phá những nỗi niềm sâu kín, những tính cách phức tạp, đa dạng của
người phụ nữ mà qua tác phẩm, các nhà văn còn đóng góp đáng kể vào công cuộc
giải phóng phụ nữ. Ở đâu đó một vài tác phẩm, các nhà văn đã để cho nhân vật
mình tạo những bước đột phá, những cuộc vượt thoát khỏi số phận éo le của người
phụ nữ. Ở một số tác phẩm khác, nhà văn lại tạo ra nhân vật với sự kết hợp hài hòa
giữa vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống và người phụ nữ hiện đại… Những nhân
vật nhiều khi không phải nguyên mẫu từ đời thường nhưng qua đó, nhà văn đã gửi
gắm được ý đồ nghệ thuật của mình.
Ngoài ra, chúng tôi cũng đặt quan hệ lứa tuổi của nhân vật vào một hệ thống
và nhận thấy trong quá trình xây dựng hệ thống nhân vật, các nhà văn đã chú ý đến
việc xây dựng nhân vật ở nhiều độ tuổi khác nhau. Điều đó không chỉ tạo ra sự đa
dạng trong thế giới nhân vật mà còn tạo ra nhiều điểm nhìn thú vị cho tác phẩm.
Bảng khảo sát dưới đây thống kê lại quan hệ lứa tuổi được thể hiện trong tác phẩm.
Thứ Tác phẩm Già Trung niên Trẻ thơ tự
Dòng sông lửa 1 2
2 Ván bài lúc hoàng hôn 1 3
Xóm người Hoa 3 1 5 4
4 Chiếc gương đồng 2 2 1
10 http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/www.tienphong.vn/Van-xu-Han-nguoi-xu- Han/1201922.epi
5 Người ăn chay 2 6 1
---108---
Hãy chăm sóc mẹ 5 6 6
Tổng cộng 11/41 (27%) 24/41 (58%) 6/41(15%) 7
Theo bảng khảo sát, nhân vật trung niên được các tác giả đặc biệt ưu ái khi
xây dựng đến 24 nhân vật (chiếm 58%), theo thứ tự là người già với 11 nhân vật
(chiếm 27%), cuối cùng là trẻ thơ với 6 nhân vật (chiếm 15%). Việc các nhà văn nữ
tập trung vào các nhân vật trung niên là vì các nhân vật này đang ở giai đoạn giao
thời giữa truyền thống và hiện đại. Họ là đại diện cho người phụ nữ bị ràng buộc
bởi những lễ giáo khắt khe và giờ đây, khi xã hội phát triển, những quan niệm cũ đã
dần dần xóa bỏ. Tuy vậy, một số nhân vật nữ chưa thể thoát ra khỏi mẫu hình của
phụ nữ truyền thống để hòa nhập vào thế giới của tự do, của bình đẳng. Đứng trước
ranh giới đó, họ như không thể hòa nhập được với cộng đồng, và khi những cuộc
hôn nhân không trọn vẹn, họ thực sự rơi vào bế tắc. Việc các nhà văn đồng cảm và
chia sẻ với họ cũng là chuyện thường tình. Dưới cái nhìn của họ về cuộc đời, về số
phận phụ nữ mà xã hội này có thể hiểu và cảm thông cho họ, đừng vì những định
kiến mà đẩy cuộc sống của họ vào vòng luẩn quẩn, bi kịch hơn nữa.
Với cô gái xưng “tôi” trong Dòng sông lửa thì thời gian hiện thực như đã
ngừng trôi từ khi đứa con đột ngột qua đời. Đối với cô, cuộc sống hiện tại không
khác gì địa ngục, hằng ngày cô sinh hoạt trong một mái nhà thiếu vắng tiếng cười
của con trẻ, thiếu vắng tiếng cười của những người làng xóm, cả những câu nói bình
thường nhất với chồng cũng khó mở lời, nơi ấy chỉ tồn tại hai con người như hai
chiếc bóng ngày qua ngày lặng lẽ bên nhau. Mặc dù đứa con đã chết nhưng cô vẫn
có thể cải thiện cuộc sống nhàm chán giữa hai vợ chồng, tuy vậy, nhu cầu thay đổi
cuộc sống của nhân vật không lớn, nhân vật tự thú nhận “Nhưng dù sao tôi cũng
không giống như chú cá vàng trong bình thấy sắp lìa đời, đến giây phút cuối cùng
vẫn cố ngoi lên mặt nước ngoác miệng ra đớp thêm chút oxy để kéo dài sự sống, tôi
không có tham vọng muốn thay đổi cấp thiết nhịp sống của mình.”[24,30] Sự chịu
đựng của nhân vật đồng nghĩa với việc nhân vật tự thỏa hiệp với cuộc sống nhàm
chán của mình. Điều đó cũng lí giải vì sao trong cuộc đời của nhân vật chỉ có
---109---
khoảng lặng mà chưa có sự đột phá. Bên cạnh nhân vật này, các nhân vật trung niên
trong các tác phẩm khác của Oh cũng nhìn cuộc đời qua cái nhìn chủ quan như thế.
Họ chịu nhiều mất mát trong quá khứ, họ là người không có được cuộc sống bình
thường như những phụ nữ khác nên việc họ có cái nhìn bi quan với thực tại cũng là
điều dễ hiểu. Tuy vậy, nếu có quyết tâm thay đổi số phận thì các nhân vật ấy vẫn có
thể nắm giữ được hạnh phúc.
Đặt các nhân vật trung niên trong tập truyện ngắn của Oh đối sánh với các
nhân vật trung niên trong Hãy chăm sóc mẹ, Người ăn chay sẽ thấy được sự khác
biệt. Mặc cho những định kiến xã hội đeo đẳng trên lưng, mặc cho cái tôi đạo đức
quẩn quanh bên cạnh, các nhân vật nữ này vẫn bản lĩnh đứng lên đấu tranh làm chủ
vận mệnh của mình. Nhân vật In-hye tự mình kinh doanh và thành công với cửa
hàng bán mĩ phẩm, nhân vật Chi-hon từ một cô bé thuần phác nông thôn trở thành
nhà văn có tiếng tăm trong làng văn Seoul, nhân vật Yeong-hye dám phản kháng lại
gia đình, xã hội để được trở về với cái bản nguyên, rời xa cuộc sống náo nhiệt, xô
bồ với những toan tính của thời đại công nghiệp. Những nhân vật này mặc dù chưa
thể thoát khỏi lề lối của những quan niệm truyền thống nhưng một phần nào đó đã
giúp họ thấy được ý nghĩa trong cuộc đời qua sự nỗ lực, chủ động của bản thân. Ít
ra, họ hơn hẳn những nhân vật nữ trong sáng tác của Oh Jung-hee ở khía cạnh dám
đấu tranh để dành lấy hạnh phúc. Nguyên nhân chính của sự khác biệt ấy có thể lí
giải rằng, Oh Jung-hee viết những tác phẩm này vào những năm 70, 80 của thế kỉ
XX, ảnh hưởng của thời đại đã không cho phép Oh để nhân vật mình dám công khai
phá vỡ lề lối, quan niệm cũ, họ chỉ có thể thụ động, chấp nhận cuộc sống như bao
phụ nữ khác trong thời đại ấy, họ chưa dám đấu tranh cho hạnh phúc của mình như
những nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà văn trẻ ở thế kỉ XXI.
Từ việc đưa các nhân vật vào cùng một hệ thống, chúng tôi nhận thấy các nhà
văn nữ đã trăn trở như thế nào về việc xây dựng nhân vật, bởi các nhân vật nữ trong
sáng tác của họ không phải chỉ duy nhất một tính cách, một đặc điểm, họ có cá tính
nổi bật, phức tạp, có đời sống nội tâm phong phú, họ không đơn thuần là nhân vật
chức năng, nhân vật loại hình mà họ là nhân vật tính cách “có những mâu thuẫn nội
---110---
tại, những nghịch lí, những chuyển hóa […] có một quá trình tự phát triển, và nhân
vật không giản đơn vào chính nó.”[47,288-289]
3.2. Không- thời gian nghệ thuật
Trong triết học, không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, của
thế giới. Mọi sự vật đều tồn tại trong không gian ba chiều, chiều cao- chiều rộng-
chiều sâu và thời gian quá khứ- hiện tại- tương lai. Không có gì tồn tại bên ngoài
không gian và thời gian.
Trong nghệ thuật, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật được sáng tạo
nên từ ý thức chủ quan của người nghệ sĩ. Vì thế, không gian có thể là không gian
cao hoặc thấp, rộng hoặc hẹp; thậm chí không gian ảo như thiên đường, địa ngục;
hay không gian tâm tưởng- không gian của cảm xúc, của hồi tưởng, của ước
vọng…Và thời gian, có thể kéo dài hay chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc, có thể
đảo ngược từ hiện tại về quá khứ hay từ hiện tại tới tương lai… Vì những lẽ đó,
Trần Đình Sử cho rằng, cùng với thời gian, “không gian là sản phẩm sáng tạo của
người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện quan niệm nhất định về cuộc
sống.”[63,116]
Và tất nhiên, không gian và thời gian luôn gắn bó chặt chẽ với nhau “Khi nhà
văn dừng lại khắc họa không gian thì thời gian bị hãm chậm hay triệt tiêu. Người ta
có thể không gian hóa thời gian bằng cách miêu tả các sự kiện, biến đổi theo trật tự
liên tưởng, cái này bên cạnh cái kia.”[63,120] Vì vậy, khi bàn đến vấn đề không
gian trong tác phẩm văn học, bao giờ ta cũng phải gắn nó trong mối quan hệ với
thời gian, có như thế mới tạo được bức tranh hoàn chỉnh của thế giới nghệ thuật.
3.2.1. Không gian nghệ thuật
Các nhà văn nữ đã đặt nhân vật trong những không gian khác nhau để nổi bật
lên được cuộc đời và số phận nhân vật. Có thể kể đến là không gian ngôi nhà và
những không gian xã hội, không gian nông thôn và không gian đô thị, không gian
thiên nhiên.
Không gian sinh hoạt của người phụ nữ Hàn truyền thống bị bó hẹp trong một
phạm vi nhất định. Câu nói “nữ nội nam ngoại” xuất phát từ hành ảnh người phụ nữ
---111---
luôn luôn gắn bó với không gian chật hẹp của ngôi nhà, còn người đàn ông thì được
tự do với những không gian xã hội bên ngoài. Trong phần thơ ca mà chúng tôi khảo
sát ở chương một, ngay từ xa xưa, người phụ nữ đã chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của
cuộc sống gắn với chốn khuê phòng qua các bài thơ Kyubang kasa (ca từ khuê
phòng) thấm đẫm tình yêu và nước mắt. Đến với sáng tác của các nhà văn nữ hôm
nay, không gian sinh hoạt của người nữ đã có phần đa dạng hơn. Không chỉ bó hẹp
trong ngôi nhà mà đã mở rộng sang các không gian xã hội khác.
Với các truyện ngắn trong sáng tác của Oh Jung- hee, không gian nhân vật
xuất hiện chủ yếu vẫn diễn ra xung quanh ngôi nhà của họ. Ở truyện ngắn Ván bài
lúc hoàng hôn không gian gói gọn ở một căn nhà nhỏ hai tầng cũ kĩ và buồn tẻ.
Tầng dưới là nơi sinh hoạt của hai người: một người đàn ông goá vợ và một đứa
con gái chưa chồng. Ngôi nhà với hai con người đơn độc ấy đã là cô đơn lại thêm
người thuê trọ trên gác hai cũng chỉ có người mẹ và đứa con nhỏ, không hề thấy
bóng dáng người cha của đứa bé. Nhất là khi hoàng hôn buông xuống, từng ấy con
người lại lặng lẽ, âm thầm với những thói quen hằng ngày của họ. Và đương nhiên,
mọi sinh hoạt đều bó hẹp trong căn nhà nhỏ. Hai cha con ở tầng dưới sau khi ăn
xong bữa tối dài lê thê không một tiếng cười là ván bài Hoa thu để kết thúc một
ngày cũng như bao ngày khác. Trong không khí buồn thương não nề ấy là tiếng hát
đều đều của người phụ nữ ru con càng tăng thêm cảm giác cô quạnh, lạnh vắng
trong những đêm đông. Nhân vật này xuất hiện như để gợi nhớ lại tiếng ru năm nào
của người mẹ nhưng hình như cũng không phải như vậy, vì trong thâm tâm của hai
bố con đang “giả bộ” chơi bài ấy là một sự giằng xé dữ dội, là sự ân hận dâng trào
khi những kí ức đau thương về người quá cố cứ liên tiếp ùa về. Cuộc sống của họ
cứ trôi qua như thế, từng ngày, từng tháng, từng năm; cô gái hằng ngày làm công
việc nội trợ, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc một ông bố già yếu, thú vui duy nhất là
những ván bài trong đêm khuya lạnh. Thế nên đừng trách cô gái hư hỏng đã làm
những chuyện trái với đạo lý, cô chỉ muốn thoát khỏi căn nhà đó, không gian đó để
tìm một cái gì gọi là hạnh phúc trong cái vòng quay cuộc đời nhàm chán ấy thôi.
---112---
Với Dòng sông lửa, không gian mà nhân vật xuất hiện ấy là một căn phòng 37m2, có một cái cửa sổ sắt như cái chuồng chim. Căn phòng ấy lại nằm trên tầng
thượng của toà nhà chung cư sáu tầng xập xệ, cũ kĩ. Ngôi nhà chung cư tối đen,
không một chút ánh sáng ấy là nơi cư ngụ của hai mảnh đời đã chịu nhiều cay đắng
trong quá khứ. Để rồi đến hiện tại, họ vẫn sống như những cái bóng lặng lẽ trong
căn nhà. Không ngạc nhiên khi truyện ngắn chỉ vỏn vẹn 26 trang giấy mà nhà văn
nhắc đến cái cửa sổ đến 20 lần, nó như một sự ngăn trở, một khoảng cách vô hình
mà nhân vật không thể thoát ra khỏi không gian căn nhà chật hẹp ấy được, và hơn
thế nữa, thoát ra khỏi chính mình. Vậy nên, việc nhà văn xây dựng không gian ngôi
nhà tối đen nơi hai vợ chồng sinh sống với nhà máy phát điện sáng trưng bên kia
sông như là một khát vọng đổi thay trong con người. Ai cũng phải có ước mơ, ai
cũng phải có hoài bão, nếu như không có, họ chỉ là một cái bóng trong xã hội, ngày
qua ngày bế tắc, và kết quả là không tìm thấy lối thoát trong cuộc đời. Đặt không
gian bóng tối đối lập với không gian sáng ngời của nhà máy, nhất là khi nhà máy bị
cháy “tàn lửa toả ra như pháo hoa, toàn bộ con sông rực ánh lửa đỏ”; ngọn lửa
không lụi đi mà ngày càng cháy sáng [24,41-42] cũng là lúc họ phải vượt lên số
phận, chiến thắng bản thân.
Không gian mà xóm người Hoa sinh sống dưới con mắt của một cô bé mới
chín tuổi không “lung linh như những bong bóng xà phòng ngũ sắc hay lộng lẫy
như cây thông trong ngày lễ Giáng sinh”[24,82] mà “Con đường bẩn thỉu, cũ nát
nối với ngôi nhà gỗ hai tầng trông như một cái ban công bé con đặt giữa con đường
chật chội, trong bầu không khí ồn ã, huyên náo như một trại gà đang cùng vươn vai
vỗ cánh phành phạch đón bình minh.[24,82] Nơi đây có riêng một mảnh đất dành
cho người Hoa sinh sống, không hoà nhập với cộng đồng mà nằm lặng lẽ trên một
quả đồi riêng biệt. Mảnh đất của những con người tha phương nơi đất khách, mảnh
đất dành cho những kẻ không có lấy một nơi gọi là quê hương “Trên đồi là những
ngôi nhà hai tầng rất to, tường sơn màu ghi hoặc màu mực phai, nằm đối diện nhau
giữa một con đường”[24,83] Những ngôi nhà rất lớn so với mặt bằng khu dân cư
nơi đây nhưng sao cứ thấy trống vắng và trơ trọi “Dù ngay bên kia đồi là bến cảng
---113---
tấp nập song trông ngọn đồi vẫn trơ trọi như một hòn đảo ngoài khơi xa. Trên đấy
những ngôi nhà câm lặng như loại động vật giáp xác mang dáng vẻ cũ kí, cổ xưa
nhưng chắc sẽ chẳng được sử sách nào ghi danh, đứng nép mình hướng về đại
dương bao la.”[24,84]
Hoà nhập vào không gian lặng lẽ và đơn độc ấy là không gian sinh hoạt của
gia đình nhân vật “tôi”. Xuất thân từ một gia đình nghèo khó, nay có công việc và
một căn nhà nhỏ, bố như muốn bù đắp lại quãng thời gian túng thiếu bằng việc sửa
sang lại căn nhà, thế nên, căn nhà dưới con mắt của một cô bé thật kì lạ “Trong nhà
như một cái tổ tò vò rối rắm, phức tạp, đang chỗ hẹp thắt lại bỗng xuất hiện một
khoảng trống dài và nhất định phải có một chỗ nào đấy mà nếu nấp vào thì không
ai có thể phát hiện ra được.”[24,96] Chính trong không gian bé nhỏ, tối tăm này,
người mẹ của cô đã hạ sinh những đứa con bé bỏng trong cơn đau tê tái “thà giết tôi
đi còn hơn”. Một người phụ nữ phải sinh quá nhiều con để rồi không còn thời gian
để nuôi dạy chúng, một người phụ nữ từ đầu đến cuối tác phẩm chỉ được miêu tả
qua những lần thai nghén và sinh nở, độc giả ngỡ ngàng trước suy nghĩ trẻ thơ
nhưng gợi cho người lớn phải suy ngẫm của nhân vật “tôi”: “đây là lần đầu tiên tôi
thấy thấm thía cuộc đời cực khổ không hơn gì động vật của thân phận đàn
bà.”[24,105]
Người phụ nữ trong sáng tác của Oh sinh hoạt trong một phạm vi rất hẹp, họ
không có nhiều mối quan hệ, họ chủ yếu gắn bó với ngôi nhà cùng gian bếp, từ
ngày nay qua tháng nọ chăm sóc người thân, trông coi nhà cửa, họ không có nghề
nghiệp, không có bạn bè, đến một cái tên để xưng danh cũng không hề có, nhân vật
ấy đơn thuần là mẹ, là bà, là tôi… hiếm hoi lắm mới xuất hiện một cái tên như
Meki, Chiok… Các nhân vật này chắc hẳn đã nhìn thấy được tương lai mờ mịt của
mình, họ đã muốn thay đổi nhưng chưa đấu tranh triệt để. Đặt nhân vật trong không
gian ngôi nhà nhỏ hẹp, cũng là một cách để nhà văn khắc họa tính cách e dè, sợ sệt,
không dám đấu tranh đến tận cùng để nắm giữ hạnh phúc của các nhân vật này.
Với người mẹ trong Hãy chăm sóc mẹ, không gian ngôi nhà dường như đã gắn
bó với mẹ gần trọn cuộc đời. Trừ những ngày lên Seoul thăm các con hay những
---114---
ngày mùa phải ra đồng cầy cấy, thu hoạch, quãng thời gian còn lại của mẹ luôn gắn
với ngôi nhà và gian bếp, đến nỗi Chi- hon luôn nghĩ rằng “Cô chưa bao giờ nghĩ
đến hình ảnh mẹ không gắn liền với gian bếp. Mẹ là bếp và bếp cũng chính là
mẹ.”[57,72] Kể cả khi ngôi nhà gắn bó với mẹ hơn 40 năm bị phá bỏ và thay vào đó
là một ngôi nhà hiện đại với gian bếp đầy đủ tiện nghi thì gian nhà kho vẫn “là nơi
mẹ làm những công việc bếp núc mà mẹ thấy khó làm trong gian bếp hiện đại ở nhà
trên.”[57,29] Bởi căn nhà cũ với gian nhà kho đã gắn bó với mẹ bao nhiêu kỉ niệm.
Những công việc mà mẹ đã làm hồi đó, đến giờ khi các con đã khôn lớn, mỗi tháng
đã gửi một số tiền không nhỏ về phụng dưỡng cha mẹ thì mẹ vẫn luôn tay luôn chân
làm việc “Mẹ giã ớt đỏ thật nhuyễn trong cối để đem muối kim chi, tách quả đậu lấy
hạt rồi xát vỏ hạt, làm tương ớt, muối kim chi cải bắp, hoặc sấy khô bánh đậu
nành.”[57,29] Nơi đây là nơi mẹ cảm thấy gắn bó nhất vì khi các con mẹ chưa thoát
ly, chúng đã khôn lớn, đã trưởng thành ở nơi này. Vậy mà giờ này các con đều đã đi
xa, chỉ còn lại người mẹ vẫn tất bật với công việc hằng ngày, thiếu vắng những đứa
con, thiếu vắng cả người chồng say mê tiếng hát cổ truyền, say mê những “bóng
hồng” với mùi nước hoa ngào ngạt. Nơi đây chôn dấu biết bao kỉ niệm ngọt ngào về
những tháng ngày đói khổ nhưng mẹ con có nhau. Thế nên, không ngạc nhiên mỗi
khi cơn đau kéo đến, người mẹ lại tìm đến tấm phản và nằm lịm trên đó, kể cả ban
đêm khi tiết trời trở lạnh “Mẹ cau mày nhăn nhó y như chiều hôm qua, ngủ lịm đi,
một tay đặt lên trán. Mẹ để chân trần. Mười ngón chân đang co quắp lại vì
lạnh.”[57,54]
Những năm tháng đó, chưa một ai trong gia đình băn khoăn về sự vất vả trong
gian bếp của mẹ. Ai cũng nghĩ rằng đó là một lẽ đương nhiên. Người mẹ cũng vậy
“Mẹ không nghĩ tới chuyện thích hay không thích ở dưới bếp. Mẹ nấu nướng vì đó
là việc mẹ phải làm. Mẹ phải ở dưới bếp nấu cơm cho các con ăn rồi còn đi học.
Làm sao mà ta có thể chỉ làm những việc mình thích được chứ?” [57,80] Không
gian gian bếp như trói chặt người phụ nữ, buộc họ phải thực hiện thiên chức của
người mẹ là chăm lo cho gia đình.
---115---
Tuy nhiên, trong một số tác phẩm, không gian nhà bếp lại là liều thuốc an thần
cho những kẻ cô đơn. Đó là tác phẩm Kitchen (Bếp) của nữ nhà văn trẻ Banana.
Ngay từ tựa đề của một tác phẩm đưa tên tuổi Banana lan toả khắp nơi trên thế giới
đã mở ra một không gian rất đời thường, không gian mang thiên tính nữ- Bếp. Đấy
là một không gian mà văn chương khi chạm vào mục đích để làm nổi bật vai trò
người phụ nữ trong gia đình. Với Banana thì khác, cô xây dựng gian bếp để nhân
vật Mikage có một nơi nương tựa, che chắn, ấp ủ cho đời sống của mình sau những
tổn thương, những mất mát tinh thần trong quá khứ “Tôi nghĩ rằng nơi tôi yêu thích
nhất trên thế gian này là bếp”[…] “Chỉ cần nó là bếp, chỉ cần nó là nơi nấu ăn, thì dù ở nơi đâu, như thế nào, tôi cũng cảm thấy không còn buồn bã”.11 Không gian
bếp là hiện hữu cho sự an ủi, che chở những tổn thương tinh thần của Mikage, đồng
thời, chính không gian ấy cũng soi rọi mọi ngóc ngách trong tâm hồn nhân vật.
Không chỉ để nhân vật bó hẹp trong những ngôi nhà bé nhỏ, chật chội với
những công việc nội trợ nhàm chán, các nhà văn nữ đã để cho nhân vật của mình
mở rộng phạm vi sinh hoạt. Trong Người ăn chay, Han Kang đã để cho nhân vật
của mình di chuyển qua nhiều vùng không gian khác nhau. Chị gái của Yeong- hye
là một nhân vật như thế. Nhà văn đặt cô vào hai vùng không gian, vừa là không gian
ngôi nhà với mẫu hình lý tưởng của phụ nữ truyền thống: cần cù, chăm chỉ, chịu
thương chịu khó, hết lòng chăm sóc cho chồng, cho con trong tổ ấm của gia đình;
vừa đặt cô trong môi trường không gian xã hội khi cô là chủ của một cửa hàng mĩ
phẩm lớn. Ở trong môi trường này, cô phải sử dụng sự khéo léo, khôn ngoan của
mình để điều hành một cửa hàng. Đặt nhân vật trong những không gian như thế này,
tác giả đã khẳng định về sự nhạy bén, thông minh, sắc sảo của phụ nữ hiện đại. Tuy
nhiên, việc nhà văn đưa nhân vật của mình di chuyển trong nhiều vùng không gian
như vậy cũng là một cách để xác minh về bản lĩnh của phụ nữ hiện đại. Không phải
cứ giỏi giang, tháo vát việc xã hội thì gia đình cũng ấm êm, hạnh phúc, nhiều khi,
11 http://alobooks.vn/forum/3338/kitchen-full-banana-yoshimoto.aspx
chính vì đặt quá nhiều thời gian vào công việc mà phụ nữ đã không chăm sóc được
---116---
chu đáo cuộc sống gia đình, không chia sẻ những khát khao, mong mỏi của người
bạn đời, điều đó vô tình đã dẫn đến sự chia ly tất yếu giữa những cặp vợ chồng này.
Nhân vật Chi-hon trong Hãy chăm sóc mẹ là một nhân vật được đặt vào rất
nhiều vùng không gian khác nhau, để từ đó, soi chiếu tính cách, tâm hồn của nhân
vật. Từ một cô bé mười lăm tuổi lớn lên ở một miền quê nghèo khó chỉ biết đến
những ruộng lúa nương dâu của mẹ, gần gũi với bầy chó mèo, gà, vịt của mẹ.
Nhưng nay, cô đã trở thành một nhà văn nổi tiếng với các tác phẩm được xuất bản
không chỉ trong nước mà cả nước ngoài. Đặt nhân vật trong không gian Seoul náo
nhiệt với nếp sống gấp gáp, mau lẹ của thời đại công nghiệp sẽ giúp nhân vật trưởng
thành hơn trong trường đời. Nhân vật có nhiều cơ hội để kiếm tìm cho mình hạnh
phúc, một bờ vai sẻ chia lúc buồn vui. Tuy nhiên, nhân vật cũng từ đó mất đi vẻ hồn
nhiên, ngây thơ thưở bé, cô bận bịu với công việc đến quên cả người mẹ đáng
thương ngày đêm mòn mỏi chờ đợi tin tức của con nơi quê xa, những cuộc gặp gỡ
theo đó cũng thưa thớt dần, tình cảm mẹ con xa cách, mờ nhạt. Đến tận khi người
mẹ đi lạc, đứa con gái nhỏ này mới suy nghĩ về những tháng ngày xưa, về thái độ
lạnh nhạt của cô với mẹ, mới thấy hối hận thì đã là quá muộn. Ở phần cuối tác
phẩm, nhà văn để cho cô thực hiện một chuyến hành hương về xứ sở Italia xa xôi,
nơi có Thánh đường St. Peter rợp ánh hào quang và bức tượng Đức Mẹ Sầu Bi của
Michelangielo ôm thi thể của người con đã chết. Lúc này, cô gái như bừng tỉnh để
gửi một thông điệp nhẹ nhàng nhưng thấm thía tới tất cả những người con “Hãy
chăm sóc mẹ”.
Ngoài ra, nhà văn cũng để nhân vật được sống trong những vùng không gian
đối lập, đó là không gian làng quê và đô thị.
Trong Hãy chăm sóc mẹ, không gian được dịch chuyển từ nông thôn ra thành
thị và theo bước chân của nhân vật chính, không gian rộng mở từ ruộng lúa, nương
dâu đến Seoul tráng lệ, sầm uất của những ngôi nhà cao tầng, những khu vui chơi
giải trí đông đúc và ga tàu điện ngầm- nơi mẹ mất tích không tìm thấy. Ga tàu điện
ngầm Seoul là địa danh được nhắc tới nhiều nhất trong tác phẩm. Đó là nơi giao
thoa giữa nông thôn và thành thị, là địa điểm đầu tiên khi người ta bước chân lên
---117---
thành phố lập nghiệp bỏ lại những con đường làng với mái ấm gia đình. Ga tàu điện
ngầm Seoul được miêu tả “Trong nhà ga người đông như nêm, họ chen lấn va quyệt
vào cô khi cô tìm đường đi tới chỗ mẹ bị lạc. Chắc mẹ cô cũng bị lạc trong tình
trạng hỗn loạn như thế này.”[57,14] Hình ảnh ga tàu điện ngầm Seoul là hình ảnh
trung thực nhất phản ánh thế giới ồn ào, náo nhiệt của những thành phố lớn, nhất là
thủ đô Seoul. Mẹ đi lạc trong ga tàu đó bởi một phần mẹ bị bệnh, tâm trí không
được minh mẫn. Có những khi mẹ không biết nhà mình ở đâu, không biết mình là
ai. Đã không dưới hai lần mẹ được người ta đưa về nhà. Nhưng đó là ở nông thôn,
con người gắn bó chan hoà với nhau, người ta có nhiều thời gian để quan tâm, chăm
sóc cho nhau hơn là những con người thành thị- những con người của thời đại công
nghiệp, những con người của đồng tiền. Họ kiếm tiền và sử dụng như một công cụ
để cuộc sống thêm phần xa hoa và phong lưu, mỗi năm đã có rất nhiều người ra
nước ngoài nghỉ tết thay vì về quê xum họp gia đình.
Không gian làng quê nơi mẹ sinh ra và lớn lên có những cánh đồng bông trắng
xóa, có mối quan hệ xóm giềng thân tình gắn bó bên nhau. Nhưng giờ đây, ngôi
làng với hơn năm mươi mái nhà ấy đã không còn dấu hiệu của sự sống, mọi người
đều đã xa rời làng quê để tìm cho mình những cơ hội mới ở các thành phố lớn lung
linh, hoa lệ với ước mơ thay đổi số phận, thay đổi cuộc đời. Mỗi khi người mẹ
muốn về thăm lại ngôi nhà ngày xưa, thăm lại nơi chôn rau cắt rốn của mình đều
phải đi qua một con đường heo hút “con đường quá tối tăm hẻo lánh cho bất kì ai đi
một mình. Một số chỗ tre pheo ken dày đến mức bầu trời như thể biến mất
tiêu.”[57,61]
Câu chuyện trong tác phẩm cũng phản ánh chính thực trạng của xã hội Hàn
ngày nay, những thôn làng hẻo lánh với những mái nhà, với tình làng nghĩa xóm
được thay thế bằng những toà nhà cao chọc trời, những con người ngày đêm hối hả
với những công việc, quên đi mái ấm gia đình đã che chở cho mình suốt thời niên
thiếu. Hình tượng người mẹ trong tác phẩm như một đại diện của truyền thống, của
thôn quê đã dần dần bị thu hẹp, bị nhạt nhòa so với những thú vui của cuộc sống
hiện đại. Những nét truyền thống với không gian sinh hoạt làng quê nay cũng từ từ
---118---
phai nhạt trong tâm trí những người con của thế hệ mới, thay vào đó là cuộc sống
hối hả, nhộn nhịp chốn thị thành. Những đứa con mất mẹ cũng đồng nghĩa họ đã
mất đi một không gian yên ả, thanh bình của nông thôn mà phải đối diện với không
gian tấp nập, ồn ào, náo nhiệt nơi phố thị. “Hành trình tìm kiếm người mẹ trong
cuốn sách của tôi là hành trình để giành lại những gì mà chúng ta đã mất trong quá
trình hiện đại hóa. Và đó là chủ đề tôi muốn khảo sát. Tôi cho rằng, nghĩ về mẹ tức là ta nghĩ về chính bản thân, là một sự phản ánh bản thân.”12
Cuối cùng là sự xuất hiện của không gian thiên nhiên ở một số tác phẩm.
Thiên nhiên là toàn bộ những khung cảnh, cảnh vật tồn tại xung quanh nhân vật,
gắn bó chặt chẽ với nhân vật. Ở Hàn Quốc, núi chiếm tới hai phần ba diện tích,
bởi vậy mà trong các yếu tố thiên nhiên xuất hiện trong thơ ca cổ điển thì núi xuất
hiện thường xuyên nhất, cùng với cây thông, núi là nơi gởi gắm ước vọng sống
hiên ngang bất khuất của người quân tử. Đến với sáng tác của các nhà văn nữ,
nhắc đến không gian thiên nhiên không còn thấy những ngọn núi với địa hình
nhấp nhô của những mỏm, những vực, những vách đá dựng đứng như trong thơ ca
cổ điển mà thay vào đó là không gian của những rừng cây đang ”oằn mình” chống
chọi với những cơn mưa xối xả, đó là không gian của bóng tối bủa vây số phận,
cuộc đời nhân vật. Lúc này, thiên nhiên không đơn thuần là những khung cảnh
xuất hiện gắn bó bên cạnh nhân vật mà trở thành một phương tiện quan trọng để
nhà văn nắm bắt và phân tích đời sống tâm lý của nhân vật.
Không gian trong tập truyện ngắn của Oh Jung- hee là không gian của bóng
tối, nó như một tấm voan lớn che phủ mọi cảnh vật, mọi hoạt động sinh hoạt của
con người. Trong những truyện ngắn ấy, bóng tối như một biểu tượng của sự cô
đơn, sự nhàm chán vây quanh lấy cuộc sống buồn tẻ, vô vị của những sinh linh bé
nhỏ. Với Ván bài lúc hoàng hôn, để tăng cái cảm giác cô quạnh, lạnh vắng trong
12http://vn.news.yahoo.com/kyung-sook-shin-%C4%91o%E1%BA%A1t-gi%E1%BA%A3i- v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-ch%C3%A2u-040400625.html
một không gian yên tĩnh, bao trùm bởi bóng tối ấy là tiếng chim ác là- loài chim
---119---
luôn báo hiệu cho sự bất an, chẳng lành đang “ngồi chồm hỗm trên ngọn dương kêu
dóng dả.”[24,49] Những sự vật xung quanh cô gái luôn gắn liền với bóng tối.
Nhưng khi tác giả miêu tả về không gian hò hẹn của cô gái thì tấm voan che phủ
bầu trời đó như được hé mở. Trên bầu trời xuất hiện “những ngôi sao lớn, sáng
quắc sà xuống trước mặt tôi”[24,69] Hòa lẫn với những vì sao ấy là mùi hương hoa
cỏ khô lan tỏa cả một không gian bao la đem đến sự trải nghiệm mới mẻ của cô về
tình yêu, về cuộc sống. Nhưng khi kết thúc cuộc hẹn, trở về trong căn phòng vắng,
đối diện với chính mình, với nỗi cô đơn bấy lâu thì “căn phòng trùng xuống, bước
vào bóng tối tĩnh lặng.”[24,72]
Trong Người ăn chay, không gian thiên nhiên được nhà văn miêu tả gắn với
đời sống nhân vật. Yeong- hye từ bé đã mơ được biến thành một cái cây, mọc lá từ
hai tay, mọc hoa giữa hai chân, khi lớn lên không thể hòa nhập được với cuộc sống
gấp gáp, toan tính của thời đại công nghiệp, ước mơ tưởng như không thể thực hiện
ấy lại được Yeong- hye theo đuổi đến cùng, kể cả việc mất đi mạng sống của mình.
Sống trong bệnh viện tâm thần giữa một khu rừng tràn ngập cây cối, đó như một
sức mạnh vô hình tiếp bước cho giấc mơ của Yeong- hye. Vào những ngày mưa gió
“ở một chỗ trơ trọi trên sườn núi, Yeong- hye đứng bất động hệt như một cái cây
đang đẫm mình trong mưa.”[22,139], giải thích cho hành động đó, Yeong- hye nói
rằng “em chỉ đi khi nghe thấy tiếng gọi thôi… khi không thấy tiếng nữa… em đứng
ở đó đợi.[…] Đợi cho tan vào mưa… tan hết ra… thấm sâu vào đất. Nếu muốn mọc
ngược lại thì chỉ có cách đó thôi.”[22,179] Muốn thực hiện ước mơ đó, cô phải từ
bỏ cuộc sống, đối diện với cái chết, nhưng chính cô gái ấy lại là hiện thân của sự
sống- biểu tượng của khát khao và đấu tranh cho tự do tuyệt đối. Khu rừng trở thành
một “đồng minh” gắn bó mật thiết với Yeong- hye. Khi người chị mới đến “cánh
rừng cuối tháng sáu trải ra bên đường, chìm trong mưa lớn hệt như con thú khổng
lồ đang phải nén tiếng gầm thét”[22,138] Thế nhưng, khi In- hye quyết định đưa em
gái ra khỏi viện tâm thần, chấp nhận tình trạng thực tại của em, chấp nhận mơ ước
tưởng chừng “điên rồ” của em thì dường như khu rừng đang được hồi sinh, cây cối
chuyển màu áo mới “Buổi chiều, dưới ánh nắng rực rỡ, tất cả các lá cây ướt đẫm
---120---
trong mưa giờ bừng lên lấp lánh như được hồi sinh.”[22,198] Giải thích cho khát
khao, ước vọng của nhân vật Yeong- hye, một nhà phê bình nói rằng “Nhân vật
Yeong hye, với những sang chấn tinh thần của cô - có người đã đọc thấy ở đây biểu
tượng của niềm khát khao được trở lại với cái bản nguyên, trở lại với căn rễ hồn
nhiên của con người ở thời hiện đại - đơn giản là đã bị gia đình bỏ rơi, bị cuộc
sống gấp gáp của một xã hội công nghiệp gạt sang một bên, nhân danh niềm trắc
ẩn.”[108]
Vậy nên, thiên nhiên là một phương tiện nghệ thuật hữu hiệu, một thấu kính
đặc biệt để khám phá thế giới bên trong của nhân vật. Thiên nhiên không chỉ biểu
thị vẻ đẹp muôn màu của cuộc sống, nó còn là nơi nương tựa, nguồn an ủi, vỗ về
cho con người trước những mất mát về tinh thần. Đến với thiên nhiên là để nhận
thấy sự thanh thản, thánh thiện của tâm hồn.
3.2.2. Thời gian nghệ thuật
Trong việc xây dựng thời gian, các nhà văn nữ cũng khéo léo sử dụng các kiểu
thời gian phù hợp nhằm làm nổi bật lên tính cách nhân vật, truyền tải những thông
điệp của nhà văn về cuộc sống, bao gồm thời gian vũ trụ và thời gian đời người,
thời gian sự kiện và thời gian tâm lí.
Thời gian vũ trụ: Là khoảng thời gian vận hành của vũ trụ, từ sự vận hành đó
con người quy định ra ngày giờ năm tháng, mục đích là để quy ước với nhau, liên
hệ với nhau trong cuộc sống. Con người không thể tách khỏi môi trường xã hội, lại
càng không thể tách khỏi thời gian vật lí với qui luật tuần hoàn vốn có.
Trong bảng khảo sát dưới đây, chúng tôi muốn làm rõ vấn đề thời gian được
sử dụng trong tác phẩm.
Tỉ lệ (tổng Độ dài Số Tên truyện số là 6 tác thời gian lượng phẩm)
Dưới Dòng sông lửa,Ván bài lúc 3 50% một ngày hoàng hôn, Chiếc gương đồng
Vài Hãy chăm sóc mẹ 1 17%
---121---
tháng
Xóm người Hoa, Người ăn Vài năm 2 33% chay
Nhìn vào bảng thống kê nói trên, có thể thấy khuynh hướng diễn ra trong tác
phẩm của các nhà văn nữ: khuynh hướng thu hẹp thời gian cốt truyện tái hiện trong
các truyện ngắn (Dòng sông lửa, Ván bài lúc hoàng hôn, Chiếc gương đồng) với
khoảng vài tiếng đồng hồ cho một câu chuyện, các tác phẩm còn lại, tác giả sử dụng
quãng thời gian chín tháng, hai năm, năm năm để diễn tả các sự kiện diễn ra trong
cuộc đời nhân vật. Ở trong các tác phẩm này, thời gian quá khứ và hiện tại được các
nhà văn đặc biệt quan tâm, không một lần nào thời gian tương lai được đề cập đến.
Trong những truyện ngắn của Oh, thời gian thực tại được diễn tả qua vài sự
kiện ít ỏi, chủ yếu nhân vật sống về quá khứ, về những kí ức xa xăm. Vậy nên,
khoảng thời gian ngắn ngủi trong thực tại cứ có cảm giác dài vô tận, các nhân vật cứ
sống với kí ức như thế từ ngày nọ qua ngày kia, họ hầu như không chú ý đến thực
tại, đến vòng quay của kim đồng hồ. Thời gian đã trôi đi là không trở lại, vậy mà
xem cách họ sống, họ sinh hoạt hằng ngày như thể thời gian đã ngừng trôi từ khi
những biến cố lớn lao xảy ra trong đời họ. Để rồi, họ lãng phí cả tuổi thanh xuân,
tuổi đẹp nhất của cuộc đời cho những hành động vô ích, thay vì cố quên đi quá khứ
để đón nhận những điều tươi đẹp mà cuộc đời mang lại. Cái khoảnh khắc ngắn ngủi
vài tiếng đồng hồ đó mặc dù ít ỏi, đối lập với độ dài dằng dặc của một kiếp người
nhưng nếu họ cứ lãng phí hoài, thời gian cũng không thể ngừng trôi để chờ đợi họ.
Trong liên truyện Người ăn chay, thời gian cũng lặng lẽ trôi đi với những biến
cố xảy ra trong cuộc đời của nhân vật Yeong- hye (ăn chay- thành bệnh nhân tâm
thần- li dị- thành kẻ thứ ba phá vỡ hạnh phúc gia đình chị gái), nhưng đến cuối tác
phẩm, thời gian như một cuộc rượt đuổi số phận của con người, những câu nói như
“thời gian trôi qua”, “thời gian vẫn trôi”, “thời gian không dừng lại” được lặp lại
không dưới 6 lần chỉ trong một ngày (cái ngày In- hye tới thăm em gái và quyết
định đưa em ra khỏi bệnh viện). Thời gian luôn xoay vòng theo qui luật tuần hoàn,
---122---
nó không chờ đợi một ai cả “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua, xuân còn
non nghĩa là xuân sẽ già, và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất” Câu thơ của Xuân Diệu
như một lời giục giã rằng con người hãy nhanh lên, nhanh nữa lên để nắm giữ
những điều tươi đẹp trong cuộc sống thực tại, đừng để nó qua rồi mới hối tiếc thì đã
muộn. Thời gian như một thế lực vô hình, nó dường như tác động rất lớn đến các
nhân vật trong tác phẩm, Yeong- hye phải nằm một chỗ trong bệnh viện nhưng khát
khao biến thành cái cây dường như không dứt mà càng lúc càng mãnh liệt, những
hành động chống đối y tá đưa thức ăn vào cơ thể là minh chứng cho điều đó. In- hye
cũng vậy, nhờ thời gian mà cô đã hàn gắn được trái tim tan vỡ của mình, để giờ đây,
cô đã thấy cuộc sống có ý nghĩa bên cạnh đứa con trai bé bỏng và đứa em gái đáng
thương. Thời gian không dừng lại, thời gian vẫn trôi chảy theo nhịp tuần hoàn, con
người phải nắm được qui luật đó để sau này không cảm thấy uổng phí quãng thời
gian đã qua “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận
vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí…” (Thép đã tôi thế đấy- Nikolai
A.Ostrovsky)
Bên cạnh đó, các nhà văn cũng sử dụng kiểu thời gian sự kiện và thời gian tâm
lý để khắc họa tâm trạng, diễn biến tâm lí của các nhân vật nữ. Trong sáng tác của
các nhà văn nữ, nhịp thời gian tuần hoàn với các sự kiện khách quan bên ngoài
không được chú ý bằng khoảng thời gian tâm lí trong bản thân mỗi nhân vật.
Trong tiểu thuyết Hãy chăm sóc mẹ, tác giả xây dựng nhân vật Chi-hon là một
cô bé thuần phác nông thôn nhưng sau rời xa làng quê, rời xa người mẹ lên lập
nghiệp ở Seoul thì cô gái ấy không còn là cô bé ngây thơ, chỉ biết trốn trong gian
nhà kho đọc sách như ngày xưa nữa. Sống trong xã hội công nghiệp với bao mối
quan hệ phức tạp, cô phải tận dụng mọi khoảng thời gian để tạo dựng các mối quan
hệ, tạo dựng sự nghiệp. Bởi vậy mà thời gian đối với nhân vật này trôi qua thật
nhanh chóng. Có những lúc cả một tháng trời mẹ cô không được nghe thấy giọng
nói của cô bởi cô phải tập trung viết bản thảo, cũng có khi những cuộc nói chuyện
ngắn ngủi qua điện thoại bị ngưng giữa chừng bởi cô còn vô số công việc phải làm,
thậm chí có những khi đã hai năm trời mà cô không sắp xếp được thời gian về nhà
---123---
thăm mẹ “vừa đi cô vừa nghĩ đã gần hai mùa rồi cô chưa nhìn thấy gương mặt
mẹ.”[57,51]
Thế nhưng, từ sau khi mẹ đi lạc, cảm thức về thời gian của nhân vật này
dường như thay đổi. Chi- hon lúc này thấy thời gian sao cứ dài đằng đẵng, hằng
ngày đi phát tờ rơi, ngang dọc qua các con phố, con hẻm của thị thành để tìm mẹ,
mong sao được khoác lên thân hình tiều tụy, đáng thương của mẹ chiếc áo lông
chồn bởi khi mẹ đi lạc trên người chỉ mặc một chiếc áo mỏng mà nay mùa đông
lạnh lẽo đã sang. Chín tháng trôi qua là chín tháng cô sống trong dằn vặt và lo âu.
Cô dằn vặt vì bao ngày qua đã thờ ơ, vô tâm với mẹ, cô lo âu bởi không biết bây giờ
mẹ đang ở đâu trong cái rét căm căm bởi những bông tuyết đầu mùa đã bắt đầu rớt
xuống. Lúc này, thời gian không đơn thuần trôi theo chiều kim đồng hồ, trôi theo
các sự kiện bên ngoài mà trôi qua với những xúc cảm, những suy tư trong nội tâm
của nhân vật.
Nhân vật In- hye trong Người ăn chay cũng vậy, cả quãng đời thanh xuân của
cô lo tạo lập sự nghiệp. Đến khi lập gia đình cô vừa duy trì việc điều hành cửa hàng
vừa chăm sóc chồng con, thời gian đối với cô trôi nhanh như “bóng câu qua cửa
sổ”. Vậy mà, từ khi gia đình tan vỡ, mỗi ngày đối diện với cái không gian rộng lớn
của căn nhà vốn là nơi sum họp, đoàn tụ của cả gia đình thì cô cảm thấy như hoàn
toàn xa lạ. Từ ngày người chồng ra đi, mỗi ngày trôi qua đều nặng nề và chậm chạp,
mặc cho mùa xuân đã qua và mùa hạ đã tới, những cô gái trẻ lại diện những bộ
trang phục sặc sỡ và trẻ trung còn In-hye thì khác, cô không thể hòa vào không khí
đổi thay của đất trời đó, cô lặng lẽ đi làm, lặng lẽ đón nhận không khí nhộn nhịp,
náo nức của những ngày hè bằng một tâm trạng bi quan và buồn bã. Trừ những khi
đi làm, thời gian ở trong căn nhà với cô thật khủng khiếp, chiếc kim đồng hồ như
đeo đá chẳng chịu chạy nhanh, những giấc ngủ cũng khó đến “Cơn buồn ngủ đã bay
đi, thay vào đó là cảm giác mệt mỏi rã rời đè nặng lên cổ cô. Cô cảm thấy tất cả độ
ẩm trong cơ thể mình đã khô kiệt lại. Cái cơ thể khô khốc đó dường như đã đuối
lắm rồi.”[22,183] Sự ngưng đọng của thời gian chịu tác động rất lớn từ tâm lí của
nhân vật. Sự chán chường, mệt mỏi đã kéo dài quá lâu và dường như In-hye không
---124---
thể chịu đựng thêm được nữa. Nhất là khi bóng tối buông xuống, tiếng cười của
những nếp nhà xung quanh đã lắng lại, tiếng thở đều đều trong giấc ngủ của con trai
đã cất lên, lúc này, cô như muốn được giải thoát khỏi kiếp sống buồn bã và vô nghĩa
để tìm đến cái chết trong khu rừng tối đen. Có thể nói, bóng tối là một tấm gương
để con người có thể tự do bộc lộ những điều thầm kín chôn chặt trong đáy lòng
nhưng đồng thời bóng tối lại là tác nhân gây ra sự trĩu nặng trong cảm xúc của nhân
vật.
Màn đêm đó cũng là nguyên nhân gây ra bao nỗi buồn, sự trăn trở cho kiếp
người trong các truyện ngắn của Oh Jung-hee. Có thể nói, các nhân vật nữ trong tác
phẩm của Oh không hề quan tâm đến thời gian sự kiện trôi chảy bên ngoài, đối với
họ, thời gian của những dòng chảy vô thức, của trạng thái tâm lí đã đè nặng lên tâm
hồn xơ cứng, chai sạn do chịu nhiều mất mát trong quá khứ. Chiếc kim đồng hồ cứ
nặng nề chuyển động từng nhịp một, thời gian chẳng chịu trôi nhanh. Đó là bởi
cuộc sống diễn ra quá lặng lẽ, con người không tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời, đó là
bởi những nỗi niềm riêng không biết tâm sự cùng ai. Nhất là những khi màn đêm
buông xuống, các nhân vật lại chìm vào tĩnh lặng, chìm vào cõi hư vô với những
nghĩ suy, trăn trở. Sự trôi chảy của thời gian vũ trụ và những biến cố bên ngoài cuộc
sống không có sức ảnh hưởng đối với các nhân vật này. Nhận thức sâu sắc về điều
đó, các nhà văn nữ đã lấy thời gian sự kiện khách quan bên ngoài làm nền cho
những dòng chảy tâm lí, các tác phẩm vì thế tăng sức gợi, sức thu hút mạnh mẽ nơi
độc giả.
Có thể thấy, không gian và thời gian nghệ thuật trong sáng tác của các nhà văn
nữ có một mối liên hệ “ngầm” với nhau. Ở những tác phẩm mà nhân vật hầu như
chỉ xuất hiện trong một không gian hẹp, không gian của sự bí bích, chật chội như
ngôi nhà, gian bếp thì khi ấy thời gian được miêu tả sẽ là dòng thời gian trôi chậm
chạp, buồn bã, lê thê, các nhân vật nữ vì thế cũng thụ động, không phản kháng,
không đấu tranh, họ mặc nhiên để cuộc đời trôi qua trong vô vọng. Với những tác
phẩm mà nhân vật được di chuyển qua nhiều vùng không gian khác nhau từ không
gian làng quê đến không gian thành thị, từ không gian ngôi nhà đến những không
---125---
gian xã hội thì thời gian trôi qua thật nhanh chóng theo qui luật tuần hoàn với xuân
qua, hạ tới, thu về, đông lại. Thời gian chảy trôi theo sự đấu tranh, nỗ lực của những
người phụ nữ, bởi vậy, dù cuộc sống gia đình chưa thật trọn vẹn, nhưng họ có thể
làm chủ vận mệnh, làm chủ tương lai, hoàn toàn không phải lệ thuộc vào người đàn
ông như người phụ nữ truyền thống.
3.3. Kết cấu tự sự
Kết cấu là phương tiện nghệ thuật để xây dựng hình tượng và khái quát tư
tưởng cảm xúc, là sự tổ chức không chỉ ở bề mặt mà còn bao hàm cả sự liên kết bên
trong sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự là một chỉnh thể nghệ thuật. Kết cấu là sự
sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật- tức là sự cấu tạo tác phẩm-
tùy theo nội dung và thể tài. Vậy kết cấu trước hết là hình thức, nhưng hình thức
mang tính nội dung, không bao giờ tách rời tư tưởng tác phẩm.
3.3.1. Trình tự kể chuyện
Có thể dễ dàng nhận thấy, có hai kiểu kể chuyện được các nhà văn đề cập đến,
đó là kể chuyện theo trình tự thời gian tuyến tính và kể chuyện đảo lộn trình tự thời
gian tuyến tính.
Kiểu kể chuyện theo trình tự thời gian tuyến tính là kiểu kể chuyện thường
thấy trong hầu hết các tác phẩm tự sự truyền thống. Trong những tác phẩm có kết
cấu theo trình tự thời gian tuyến tính, các sự kiện được sắp xếp theo trình tự thời
gian, đi từ những tình tiết đầu đến cuối của câu chuyện.
Cách kể chuyện này được Han Kang vận dụng linh hoạt trong Người ăn chay.
Tác phẩm gồm ba chương, chương một là quãng thời gian Yeong- hee lấy chồng,
sau đó ăn chay và những biến cố lớn xảy ra trong đời cô: chồng li dị, bản thân vào
điều trị trong bệnh viện tâm thần. Chương hai nói về hoàn cảnh một thân một mình
của Yeong- hye sau khi rời khỏi bệnh viện, ở chương này, tác giả sử dụng lối kể đầy
kịch tính, tạo những yếu tố bất ngờ, ngẫu nhiên. Yeong- hye được anh rể nhờ làm
diễn viên cho một cảnh quay đầy quái dị và ám ảnh, nhưng nhờ những bông hoa vẽ
kín người, Yeong-hye thoát khỏi những giấc mơ đã ám ảnh cô bấy lâu, độc giả như
thấy được lối thoát cho nhân vật, nhân vật sẽ trở lại cuộc sống với những công việc
---126---
thường ngày. Nhưng không, nhà văn đã tạo ra một hoạt cảnh đậm chất cinema khi
cho Yeong- hye làm tình với anh rể và đột nhiên, chị gái cô được chứng kiến toàn
bộ khi mở lại cuốn phim mà hai người đã quay đêm qua. Độc giả như ngạt thở khi
chứng kiến toàn bộ câu chuyện. Và, Yeong- hye trở thành “kẻ thứ ba” phá nát gia
đình của chị gái mình mặc dù cô không hề có tình cảm với người anh rể, cái cô
quan tâm ấy là những cánh hoa rực rỡ trên người anh ta. Chương ba là quãng thời
gian Yeong- hye điều trị ở bệnh viện tâm thần Chuk sung. Ở nơi đây cô đã hoà
mình vào thiên nhiên, ước mơ trở thành cái cây ngày bé của cô đã trỗi dậy. Đến
đây, độc giả lại một lần nữa nín thở chờ đợi kết cục gì sẽ xảy ra với cô gái. Nhưng
không, tác giả lại một lần nữa để độc giả phải suy ngẫm, phải tò mò qua lối kết thúc
mở, Yeong- hye cuối cùng có khỏi bệnh không? Cô ấy có sống được khi tiếp tục từ
chối không ăn uống để mong mình biến thành một cái cây không? Và nếu như cô
sống được và quay trở về cuộc sống hối hả thường ngày, va chạm với những mối
quan hệ phức tạp ngoài xã hội liệu Yeong- hye có thích nghi được?
Mặc dù ba chương với những câu chuyện khác nhau, chương đầu có thể xem
như câu chuyện về gia đình Yeong- hye, chương hai là câu chuyện về công việc
video art của người anh rể, chương ba nói về cuộc sống của người chị gái sau khi li
dị. Nhưng trong ba chương ấy luôn lồng hình ảnh của Yeong- hye ở đó, trở thành
một chủ đề xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Độc giả thấy được cuộc sống của cô cứ
lặng lẽ trôi đi, những biến cố không đáng có cứ liên tiếp đổ xuống đầu một cô gái
tội nghiệp. Thời gian tuyến tính là thời gian được sử dụng nhiều và quen thuộc
trong văn học từ trước đến nay. Tuy nhiên, Han Kang vẫn tạo ra được sức hấp dẫn
riêng, gây hiệu quả nghệ thuật cao bởi dùng thời gian tuyến tính, độ căng của sự
kiện ngày càng phát triển, độc giả phải theo dõi hồi hộp và chờ đợi cuối cùng kết
quả như thế nào? Nhờ dùng phương pháp này mà câu chuyện của Han Kang lên đến
đỉnh điểm và đi vào hồi kết một cách bất ngờ và ngoạn mục.
Một số nhà văn nữ khác không đi theo lối mòn của lối kể truyền thống tuân
theo trình tự thời gian tuyến tính mà đã sáng tạo ra lối kể chuyện hấp dẫn và thú vị
hơn nhờ vào việc đảo lộn trình tự thời gian tuyến tính. Nếu như trong kết cấu theo
---127---
trình tự thời gian tuyến tính, độc giả dễ dàng quan sát các sự kiện diễn ra từ đầu đến
cuối câu chuyện thì trong kết cấu đảo lộn trình tự thời gian tuyến tính, độc giả được
khơi gợi sự tò mò từ tác giả bởi câu chuyện luôn mở đầu bằng tình huống kết
truyện, sau đó mới là những sự kiện dẫn dắt độc giả trở về tình huống đầu tiên, cũng
là tình huống nguyên nhân của truyện.
Một kiểu kết cấu đảo lộn trật tự thời gian tuyến tính được Shin sử dụng thành
công trong tiểu thuyết Hãy chăm sóc mẹ là sử dụng kết cấu dòng ý thức. Nhà tâm lý
học người Mỹ William James trong cuốn The Principles of Psychology đưa ra khái
niệm dòng ý thức như sau : ý thức là một dòng chảy, một dòng sông mà ở đó những
tư tưởng, cảm xúc, liên tưởng bất chợt luôn lấn át nhau và đan bện một cách kỳ
quặc, “phi logic”. Ở một phương diện khác, có thể nói dòng ý thức là mức tới hạn,
là dạng cực đoan của độc thoại nội tâm. Trong câu chuyện về cuộc đời mẹ của Shin
Kyung- sook, tác giả dùng thời gian dòng ý thức làm phương tiện đưa độc giả
ngược xuôi về những miền kí ức xa xăm, về cuộc đời vất vả nhọc nhằn của mẹ, về
những hồi ức gắn bó với người thân, gia đình của mẹ. Câu chuyện bắt đầu bằng
dòng chữ “Mẹ đi lạc đã một tuần”. Vậy là ngay từ đầu, nhân vật chính đã biến mất.
Để rồi từ đây, dõi theo bước chân của các nhân vật trong tác phẩm, ta làm một cuộc
hành trình đi thám hiểm cuộc đời “một nắng hai sương”, tần tảo sớm hôm để nuôi
sống cả một đại gia đình của mẹ. Phải nói rằng, mẹ chưa một lần xuất hiện ở thì
hiện tại. Những kỉ niệm gắn bó với mẹ đều ở một khoảng thời gian nhất định ở quá
khứ như “Năm ngoài”, “Mùa thu năm ấy”, “vào dịp Tết Trung thu”, “Ba mươi năm
trước”… Những mốc thời gian ấy luôn gắn với hình ảnh mẹ luôn tay luôn chân làm
việc. Độc giả không khỏi xót xa với lời tâm sự của mẹ “Mẹ cứ nghĩ rằng thần chết
sẽ đến mang mẹ đi, nhưng bởi vì lần nào mẹ cũng bận vo gạo nấu cơm nên thần
chết đã bắt con chó thay thế ”[57,67] Cả cuộc đời mẹ là một chuỗi ngày dài lao
động, kiếm sống nuôi lớn các con trưởng thành. Dòng hồi ức là dòng của sự kiện
cũng là dòng chảy của nội tâm. Các nhân vật trong tác phẩm không ai là không day
dứt, hối hận vì những tháng ngày qua đã đối xử không tốt với mẹ. Hyong- chol
muốn xin lỗi mẹ vì đã không giữ lời hứa trở thành công tố viên. Con gái lớn Chi-
---128---
hon muốn xin lỗi mẹ vì những lời nói vô tình của mình đã làm tổn thương trái tim
mẹ. Và người bố hơn tất cả chỉ muốn nói với vợ ông rằng “ông đã yêu vợ biết bao
nhiêu”[57,223] Nhưng giờ đây những điều đó có lẽ đã quá muộn màng. Chương
bốn là lời nói của mẹ hay giọng nói vọng ra từ thế giới bên kia của mẹ về tiễn biệt
mọi người? Thời gian như quay ngược trở lại từ thời mẹ còn thơ ấu, mẹ là mẹ
nhưng cũng từng là một người con nên mẹ cũng cần được yêu thương che chở “Mẹ
có biết không? Con cũng luôn cần mẹ trong suốt cuộc đời mình” [57,190] Dõi theo
thời gian dòng ý thức, những sự kiện trong quá khứ cứ chất chồng, đan bện vào
nhau và nhiều khi đã mở ra những nút thắt giúp độc giả hiểu hơn về người mẹ, về
những nỗ lực, sự nhẫn nhịn, chịu đựng đáng khâm phục của mẹ. Đó là nhờ những
tháng ngày mẹ có một người đàn ông để bầu bạn, sẻ chia lúc khó khăn, hoạn nạn;
đó còn là nhờ cô con gái út mà mẹ không còn cảm giác thấy có lỗi như với những
người con khác của mẹ “Hãy nhớ con luôn là nguồn vui của mẹ, con nhé… Dù
chúng là con cái, nhưng sao mẹ chỉ luôn cảm thấy hối hận và có lỗi. Con là đứa con
đã giải thoát cho mẹ khỏi cảm giác đó.”[57,246]
Câu chuyện với lối kết thúc mở, không biết rồi mọi người có tìm thấy mẹ
không? Mẹ có còn sống trên thế gian này không? Câu hỏi như một lời cảnh tỉnh cho
những ai chưa thực sự quan tâm đến đấng sinh thành của mình.“Ôi yêu thương
chừng nào còn có thể yêu thương” của Franz Liszt được đưa vào thành lời đề từ
trong tác phẩm như một thông điệp nhẹ nhàng mà sâu sắc. Hãy quan tâm chăm sóc
mẹ khi mẹ còn ở bên cạnh ta, đừng để khi mẹ mất rồi mới xót xa, nuối tiếc thì đã
muộn.
Sau khi quan sát câu chuyện với hai trình tự kể chuyện trên đây, độc giả không
thể phán xét được câu chuyện nào thú vị, câu chuyện nào nhàm chán, bởi các nhà
văn đã biết sử dụng lối kể chuyện phù hợp với câu chuyện của mình. Với Người ăn
chay, mặc dù là lối kể truyền thống nhưng câu chuyện vì thế có thể làm tăng độ cao
trào cho những tình tiết, những biến cố xuất hiện trong cuộc đời nhân vật, từ đó,
thấy được cái đỉnh điểm của bế tắc, nhân vật chỉ còn một lối thoát duy nhất, đó là
thoát khỏi cuộc sống thực tại. Với Hãy chăm sóc mẹ, tác giả để nhân vật chính biến
---129---
mất từ trang sách đều tiên, từ đó mới làm bật lên sự ân hận, sự nuối tiếc muộn màng
của những người thân xung quanh nhân vật mất tích, những dòng chảy kí ức ùa về
như một lời cảnh tỉnh không chỉ cho các nhân vật trong tác phẩm mà cho toàn độc
giả. Vì thế, nhà văn chọn được cách kể chuyện phù hợp là một nhân tố quan trọng
quyết định sự thành công của các tác phẩm.
3.3.2. Nhịp độ kể chuyện
Nhịp độ kể chuyện được tác giả sử dụng thông qua hai loại kết cấu, thứ nhất là
kết cấu hành động và kết cấu tâm lý, thứ hai là kết cấu vòng tròn.
Đầu tiên là những đặc sắc nghệ thuật trong việc xây dựng kết cấu hành động
và kết cấu tâm lí. Kết cấu hành động trong tác phẩm văn học được hiểu là những
hành động, những sự kiện xảy ra trong tác phẩm. Thường thì trong tác phẩm văn
học, tác giả xây dựng những tình tiết sự kiện, hành động xoay quanh đời sống nhân
vật, có những tác phẩm có rất nhiều sự kiện kịch tính, đột ngột xảy ra tạo độ căng
cho câu chuyện; cũng có những tác phẩm chỉ có một vài sự kiện được dàn trải từ
đầu đến cuối truyện, không có cao trào, không có kết thúc. Đối với những tác phẩm
như thế, ấn tượng để lại trong lòng người đọc là tâm lý nhân vật, là cách xây dựng
kết cấu tâm lý sâu sắc của nhà văn. Có thể hiểu, kết cấu tâm lí là hình thức kết cấu
dựa theo qui luật phát triển tâm lý của các nhân vật trong tác phẩm, miêu tả những
diễn biến tinh vi, phức tạp của đời sống nội tâm con người. Trong những tác phẩm
này, chỉ có một vài sự kiện, còn lại là cảm giác, suy nghĩ của nhân vật với những
hồi ức, liên tưởng và độc thoại nội tâm. Nếu có sự kiện thì sự kiện chỉ đóng vai trò
khơi gợi cho dòng chảy tâm lí.
Ở truyện ngắn của Oh, các sự kiện diễn ra không nhiều, nhân vật chủ yếu sinh
hoạt trong không gian nhỏ bé của ngôi nhà, cuộc sống cứ bình lặng trôi qua trong
lặng lẽ với những hoạt động diễn ra đều đặn hằng ngày như người phụ nữ ru con
mỗi đêm, cô gái với ván bài tẻ nhạt mỗi ngày (Ván bài lúc hoàng hôn), cô gái ngồi
thêu hạc (Dòng sông lửa), bà mẹ ngồi nặn những con thú kì lạ (Chiếc gương đồng).
Có thể nói, diễn tiến từ đầu tới cuối truyện không hề có cao trào, kịch tính xảy ra,
tất cả cứ đều đều trôi qua cùng dòng thời gian lặng lẽ. Nhưng nếu quan sát từ góc
---130---
độ tâm lí nhân vật sẽ thấy một làn sóng tâm tư ùa về từ quá khứ xa xăm. Ở những
câu chuyện này, thời gian đã được rút ngắn lại tới mức tối đa, chỉ diễn ra từ chiều
đến đêm, từ sáng đến tối nhưng người đọc thì có cảm giác sự kiện đã diễn ra trong
rất nhiều ngày, bởi ở trong khoảng thời gian ấy, những kí ức từ quá khứ cứ lần lượt
ùa về, nhân vật đắm chìm trong dòng thời gian tưởng như dài vô tận nhưng kì thực,
nó chỉ diễn ra trong vài tiếng đồng hồ. Chủ yếu trong những kí ức ấy là những tổn
thương to lớn ảnh hưởng đến tâm lí nhân vật như hình ảnh mẹ bị đưa vào trại tâm
thần trong sự ghẻ lạnh, thờ ơ của gia đình, hình ảnh những đứa con chết trẻ để lại
một vết thương lòng quá lớn cho cha mẹ…Vậy nên, trong những truyện ngắn ấy,
độc giả chỉ nhìn thấy những mẩu chuyện vặt vãnh, những suy nghĩ quẩn quanh của
nhân vật trong sinh hoạt hằng ngày với tâm lí bi quan, chán nản, tự ti. Kiểu kết cấu
tâm lí đã góp phần thể hiện cuộc sống bế tắc, trái ngang của những bà mẹ mất đi
thiên chức của người phụ nữ, của những cô gái không tìm được hạnh phúc thực sự
trong tình yêu lứa đôi…
Trong Hãy chăm sóc mẹ, chỉ một sự kiện duy nhất được tác giả mở đầu trong
tác phẩm. Đó là sự kiện mẹ đi lạc. Từ một sự kiện duy nhất đó, tác giả đã triển khai
câu chuyện theo một kết cấu tâm lí phức tạp và lạ lẫm. Từ khi mẹ đi lạc, các thành
viên trong gia đình mới suy nghĩ, mới ân hận vì những hành động không phải với
mẹ trong quá khứ. Trong câu chuyện là vô số những mảnh ghép của những lời dằn
vặt, những giọt nước mắt ân hận muộn màng, những dòng miêu tả nội tâm đầy xúc
động của những người thân. Từ những kí ức xa xăm đó, độc giả đã ngược xuôi cùng
các nhân vật đi tìm hình bóng mẹ, tìm trong hiện thực, tìm trong quá khứ một người
mẹ hi sinh thầm lặng bên cạnh cuộc đời của chồng, của con. Câu chuyện là một
chuỗi những sự kiện nằm sâu trong kí ức được các nhân vật tìm lại qua dòng hồi
tưởng thẫm đẫm nước mắt.
Với Người ăn chay, thực sự Han Kang đã tạo ra một điểm nhấn trong câu
chuyện kể về cuộc đời của nhân vật Yeong-hye khi tác giả kết hợp nhuần nhuyễn
kết cấu hành động và kết cấu tâm lý trong tác phẩm. Ở chương một và hai, độc giả
như bị choáng ngợp bởi các tình tiết, các sự kiện xảy ra trong tác phẩm. Bắt đầu là
---131---
cảnh Yeong-hye đứng nhìn cái tủ lạnh với ánh mắt ghê rợn vào một buổi sáng mùa
đông lạnh lẽo, tiếp sau đó là hành động cho tất cả thịt, cá, trứng, sữa… trong tủ lạnh
vào bao rác. Giải thích cho những hành động kì quặc của Yeong-hye là một loạt các
giấc mơ về máu, về xác chết được tác giả dẫn ra. Không lâu sau khi cô ăn chay thì
những biến cố lớn lao thực sự đến với cô, từ hành động cưỡng ép ăn thịt của cha cô
tới vụ tự sát để phản kháng của Yeong-hye, từ vụ li dị với người chồng vô tâm, vô
trách nhiệm tới sự kiện cô làm người mẫu cho anh rể và có quan hệ bất chính với
anh dẫn tới hạnh phúc gia đình nhà chị gái đổ vỡ… Có thể nói, các sự kiện cứ
chồng chéo lên nhau, dàn trải ra trên mặt giấy. Nhịp độ kể chuyện tăng tiến, dồn
dập qua các sự kiện liên quan đến nhân vật. Nhưng đến chương ba, lắng đọng lại
trong lòng độc giả là những tâm sự, những dòng hồi tưởng của nhân vật In-hye về
quá khứ, về cuộc đời suốt từ thơ bé cho đến hiện tại. Chương ba miêu tả thời gian
rất ngắn ngủi, chỉ trong vòng không đầy hai mươi tư tiếng từ lúc In-hye đi thăm em
trong viện tâm thần đến khi quyết định đưa em ra khỏi nơi đáng sợ đó, mà dòng hồi
tưởng không ngừng nảy nở như chồi non mùa xuân, đưa In-hye tới những tháng
ngày chị em bên nhau, lo lắng, chăm sóc cho nhau, những sai lầm của em gái một
phần trách nhiệm là do cô, cô chỉ biết nghĩ cho bản thân, làm cách nào để có thể lấp
đầy cái tôi đạo đức mà xã hội yêu cầu và quên đi người em đáng thương ngay bên
cạnh…
Sự kết hợp khéo léo giữa kết cấu hành động và kết cấu tâm lý đã giúp nhà văn
truyền tải đi được thông điệp yêu thương tới mọi người. Trải qua bao sóng gió cuộc
đời nhưng tình nghĩa chị em, tình nghĩa gia đình mới là điều quan trọng nhất trong
một xã hội đang dần mất đi tính nhân văn.
Độc giả sau khi đọc xong những truyện như thế này khó mà kể lại được nội
dung truyện, nếu có thì chỉ tóm lại được ý chính trong vài ba câu ngắn ngủi. Tuy
thế, độc giả lại rất ấn tượng với những nỗi niềm, cảm xúc, tâm trạng của nhân vật
trong đó. Để thành công với kiểu kết cấu này, nhà văn phải có một cái nhìn tinh tế,
sự am hiểu, đồng cảm sẻ chia sâu sắc với nhân vật, nhà văn không phải là người
đứng bên ngoài để kể lại câu chuyện mà phải hóa thân vào các nhân vật của mình.
---132---
Bên cạnh đó, các tác giả nữ cũng sử dụng kết cấu vòng tròn trong việc xây
dựng nhịp độ kể chuyện. Đây là kiểu kết cấu khá thông dụng với câu chuyện được
kể theo trình tự hiện tại- quá khứ- hiện tại. Ở kết cấu vòng tròn này, bên cạnh các sự
kiện diễn ra trong hiện tại, luôn có các sự kiện gợi nhắc về quá khứ, về những cái
trước đó, cái đã qua.
Một điểm nhấn trong truyện ngắn của Oh Jung- hee là sự đan xen linh hoạt,
khéo léo giữa quá khứ và hiện tại. Với sự tự nhiên như vậy, tác giả đã chuyển cảnh
từ hiện tại sang quá khứ và từ quá khứ quay về với thực tại một cách nhẹ nhàng như
người ta chuyển cảnh trên sân khấu vậy. Trong truyện ngắn Ván bài lúc hoàng hôn,
những thời khắc của hiện tại được miêu tả chầm chậm với những nhịp câu chữ đều
đều, những hoạt động của con người lặng lẽ nên không ngạc nhiên khi câu chuyện
chỉ diễn ra trong khoảng thời gian vài tiếng đồng hồ từ khi bóng tối dần dần chế ngự
(5.30 chiều) đến khi màn đêm hoàn toàn thống lĩnh (sau 10 giờ đêm) mà người đọc
thì cứ có cảm giác dài vô tận. Khoảng thời gian được xác định bằng các cụm từ
“năm giờ rưỡi”, “sáu giờ đến nơi rồi”, “Mười phút sau”… Không chỉ là những thời
khắc cụ thể mà còn có hình ảnh của những giọt nắng chiều báo hiệu thời gian “nắng
dần tan, rồi chỉ còn vương lại một dải vàng nhạt trên bậu cửa, và cả cái dải mỏng
đó cũng tan biến ngay trong giây lát”, “trời mùa thu, mặt trời đi ngủ sớm, bóng tối
dần buông”, “ngoài sân đang nhá nhem dần vì hết ánh mặt trời”… Trong văn
chương, thời gian của ánh hoàng hôn là thời gian đoàn tụ: chim bay về tổ, người
cũng tìm về tổ ấm sau một ngày lao động vất vả. Nhưng đến với tác phẩm của Oh
Jung-hee, thời gian của ánh hoàng hôn chỉ đem lại cho con người ta một nỗi buồn,
nỗi cô đơn. Thời gian trôi qua lặng lẽ và chầm chậm ấy còn bởi những hoạt động
của con người. Bữa cơm chỉ có hai cha con nhưng kéo dài cho đến khi canh đã
nguội ngắt, rồi những câu chuyện, những pha trò thật nhạt nhẽo, nhàm chán giữa hai
bố con mà như cô gái nói “tôi và bố đang diễn lại vở kịch với kịch bản cũ
rích”.[24,59] Trong không gian mà bóng tối dần bao trùm đó, một lúc nào đó lại
hiện lên những kí ức, từng chút, từng chút một nhưng cũng đủ để làm người ở lại
phải đau đớn, xót xa.
---133---
Đó là kí ức về mẹ- một người mẹ đáng thương với cái chết oan uổng “cứu tôi
với, con ơi cứu mẹ”, “con ơi, không đi đâu, sợ lắm, đừng để bọn chúng đưa mẹ
đi.”[24,61] Một người mẹ đã chết vì cô đơn, vì sự ghẻ lạnh của gia đình. Một người
mẹ có tiếng hát ru ngọt ngào và tình yêu thương vô bờ bến nhưng vì sự vô tâm, sự
tàn nhẫn mà người chồng nỡ đẩy bà vào nhà thương điên không lời an ủi, sẻ chia.
Đâu đó còn là kí ức về anh- một khách trọ đến bất ngờ và đi cũng bất ngờ, để rồi
trong bữa ăn, cô lại xếp lên bàn ăn ba bộ thìa đũa như quán tính mặc dù nhà chỉ còn
có hai người. Nhưng anh là một người thích tự do và cảm giác căng thẳng đến cực
độ, có lẽ nào anh lại chịu được cảm giác tù tùng, tẻ nhạt, vô vị, cái cảm giác cô đơn
bao trùm lên từng đồ vật, lên không gian nơi họ sinh sống và ngay cả những con
người bơ vơ như những cái bóng bên cạnh anh. Anh đã đột ngột ra đi bỏ lại “tôi và
bố lảo đảo, loạng choạng vì đột nhiên mất thế cân bằng.”[24,64]
Sau những đoạn hồi tưởng về quá khứ, nhân vật lại đối diện với thực tại đau
buồn. Cuộc sống vẫn diễn tiến theo thời gian, nhân vật lại bị đẩy vào vòng xoáy vô
tận của thời gian, không có sự thay đổi nào rõ rệt. Cô gái chắc hẳn mỗi ngày vẫn
cùng cha chơi những ván bài khi hoàng hôn buông xuống, bà mẹ trên tầng hai cũng
vậy, lại lặng lẽ ru con bằng những câu hát trầm buồn…
Trong bốn truyện ngắn của Oh Jung- hee thì có đến ba truyện ngắn sử dụng
yếu tố này để làm nền cho tác phẩm. Khi muốn lí giải những nỗi đau mà những con
người trong thực tại đang phải gánh chịu thì chỉ cần truy nguyên về quá khứ độc giả
sẽ hiểu được nguyên nhân của những nỗi đau đó.
Trong Dòng sông lửa, quãng thời gian mà hai vợ chồng cùng ở chung trong
ngôi nhà ngắn ngủi biết chừng nào, chỉ độ một hai tiếng đồng hồ hoặc ít hơn nữa
nhưng cứ có cảm giác đã lâu lắm. Thời gian bắt đầu từ “ánh hoàng hôn đỏ rực
nhuốm màu sang những bông mây trắng nhỏ lơ lửng trên bầu trời, tấm lưới mắt cáo
chia hư không thành từng mảnh hình lục giác vuông vắn”[22,16] là lúc chồng ngồi
bên cửa sổ quan sát lũ kiến đang bò trên tường, vợ mải mê với khung thêu. Trong
khi thời gian cứ lặng lẽ trôi đi ấy là những kỉ niệm xa xưa cứ ồ ạt đổ về. Từ chuyện
hai vợ chồng mới cưới dắt díu nhau đến nơi này sinh sống, đến kí ức đau buồn về
---134---
đứa con mới một tuổi đã qua đời,… thời gian giữa hai vợ chồng cứ kéo ra dài vô
tận, đến nỗi cô vợ đã nghĩ rằng “tôi không biết làm cách nào để rút ngắn lại được
khoảng thời gian đặt ra giữa tôi và anh.”[22,20] Cuối cùng khoảng thời gian nặng
nề giữa hai vợ chồng cũng chấm dứt bằng việc anh chồng “có việc phải làm buổi
tối”, vợ cũng “chuẩn bị đi ra ngoài, khi “mặt trời đã lặn hẳn, nước sông lặng xuống
sậm màu hơn”[22,30] Hai vợ chồng lại quay về cuộc sống hiện tại nhàm chán như
ban đầu, lại trở về với công việc chỉ để giết thời gian như những ngày qua. Không
có những biến cố, những sự kiện diễn ra làm thay đổi cuộc đời họ, chỉ có thời gian
vẫn miệt mài trôi qua. Cuộc sống ấy đang từ từ gặm nhấm tuổi thanh xuân của họ,
để rồi họ cũng theo vết xe đổ của hai vợ chồng già trong Chiếc gương đồng mà thôi.
Cuộc sống của hai vợ chồng già ấy cũng đã từng hạnh phúc với đứa con trai, nhưng
cách đây hai mươi năm, đau buồn vì cái chết của con, hai vợ chồng sống lặng lẽ như
hai cái bóng, hằng ngày nhớ tiếc xót xa đứa con trai duy nhất qua những câu chuyện
ngắt quãng của hai vợ chồng. Tác phẩm tạo ra một sự cô đơn bao trùm lên từng
cảnh vật, từng con người, cái chết của người chồng ở cuối tác phẩm đã tạo cho bạn
đọc một băn khoăn: liệu người vợ ấy có tiếp tục sống được không khi người bạn đời
trăm năm của bà cũng chết? bỏ mặc bà lẻ loi, đơn độc trong ngôi nhà với những kỉ
niệm đau buồn ấy? Kết thúc tác phẩm, không hề có một lối thoát để nhân vật bước
ra, những thời khắc của quá khứ chỉ là kí ức, rồi đây, các nhân vật vẫn phải hướng
về thực tại để sống, nhưng có lẽ cuộc sống của họ khó thoát ra khỏi vòng bế tắc,
nhàm chán thường hằng.
Với kết cấu vòng tròn, tác giả đã dẫn dắt độc giả đi từ nỗi cô đơn đang bao
trùm lên những con người trong thực tại tới những kí ức đau buồn của quá khứ một
cách linh hoạt, tạo ra một thời khắc như hư như thực, vì thế, nó đã khắc sâu thêm
những ẩn ức, những bế tắc của nhân vật về quá khứ dai dẳng, ám ảnh. Câu chuyện
vì thế tăng sức gợi, sức liên tưởng mạnh mẽ nơi độc giả.
Tóm lại, với việc xây dựng nhịp độ kể chuyện qua hai loại kết cấu được các
nhà văn nữ sử dụng trên đây có thể thấy, khi câu chuyện tập trung vào miêu tả các
sự kiện mang tính chất động của tác phẩm như hành động, biến cố có khả năng làm
---135---
cho nhân vật biến đổi về suy nghĩ, cảm xúc thì khi đó, nhịp độ kể chuyện nhanh
chóng, gấp gáp. Ngược lại, khi các tác giả dừng lại ở những yếu tố mang tính chất
tĩnh tại như tái hiện tâm trạng, các đoạn đối thoại, độc thoại thì khi đó nhịp độ kể
chuyện chậm rãi, đều đều. Trong mỗi tác phẩm, yếu tố tĩnh và động ấy luôn có sự
luân phiên xen kẽ nhau tạo ra nhịp kể lúc dồn dập, tăng tiến, khi chậm chậm, đều
đều. Theo đó, nhịp độ kể chuyện cũng tương ứng với cảm giác của con người về
cuộc sống. Nếu nhịp độ kể chuyện đều đều, chậm rãi thì cảm giác của nhân vật với
cuộc sống là buồn bã, chán chường, mòn mỏi, chậm chạp, trì trệ, bế tắc. Nếu nhịp
điệu kể chuyện nhanh chóng, gấp gáp thì khi đó con người cũng đang phải chạy đua
với nhịp sống hối hả, nhộn nhịp, tấp nập của cuộc sống thường ngày.
3.3.3. Phương thức tự sự
Các nhà văn nữ cũng xây dựng phương thức tự sự thông qua người kể chuyện
(narrator) và điểm nhìn (point of view).
Mỗi văn bản tự sự đều có một người đóng vai người kể chuyện. Người kể
chuyện có vai trò rất lớn trong việc chi phối hành động, ngôn ngữ, tư duy của nhân
vật. Có thể nói, người kể chuyện “là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác
phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể
trong tác phẩm.”[23,221]
Từ cách hiểu trên về người kể chuyện, chúng tôi tiến hành lập bảng khảo sát
sau đây:
Tác phẩm Ngôi kể Người kể Thứ tự
Ngôi thứ nhất Dòng sông lửa 1 Tôi (số ít)
Ván bài lúc hoàng Ngôi thứ nhất 2 Tôi hôn (số ít)
Ngôi thứ nhất Xóm người Hoa 3 Tôi (số ít)
Chiếc gương đồng Ngôi thứ ba Không tên 4
Người ăn chay Ngôi thứ nhất Tôi 5
---136---
(số ít) Không tên
Ngôi thứ ba
Ngôi thứ ba Không tên
Ngôi thứ hai Tôi 6 Hãy chăm sóc mẹ Ngôi thứ nhất ( Park So- nyo)
Từ bảng khảo sát trên đây, chúng tôi nhận thấy, Oh Jung- hee thường sử dụng
người kể chuyện ở ngôi kể thứ nhất, trong bốn tác phẩm khảo sát thì chỉ có một tác
phẩm sử dụng ngôi thứ ba, còn lại đều sử dụng ngôi kể thứ nhất, với sự xuất hiện
của đại từ nhân xưng “tôi”. Điều đó cũng cho thấy rằng, Oh rất có duyên trong việc
xây dựng ngôi kể thứ nhất. Vì rằng, các nhân vật bước ra từ những trang sách của
Oh Jung- hee đã để lại những dấu ấn thật khó quên trong lòng độc giả. Những nhân
vật không tên, không nghề nghiệp, không nhan sắc sống trong xã hội với những
biến chuyển nghiệt ngã khi đất nước bước vào công cuộc hiện đại hoá và mới bước
ra từ chiến tranh “huynh đệ tương tàn” đau thương, khốc liệt.
Với tác phẩm Người ăn chay, mặc dù ba truyện ngắn trong tác phẩm có thể
được tách riêng như một chủ thể độc lập nhưng theo chúng tôi đây có thể được xem
là một tiểu thuyết trọn vẹn với ba chương. Điều đặc biệt là ba chương lại có sự thay
đổi ngôi kể. Nếu ở chương một, tác giả sử dụng ngôi kể thứ nhất với nhân vật xưng
“tôi” (người chồng) kể về cuộc hôn nhân không hạnh phúc với Yeong-hye, nhất là
từ sau khi cô mơ những giấc mơ quái đản và ăn chay. Thì đến chương hai và
chương ba, người kể chuyện lại rút về vị trí “người biết tuốt”- ngôi thứ ba kể về
công việc và những trăn trở của người anh rể trên con đường đi tìm cái đẹp, về
người chị gái sắc sảo, khéo léo trong các mối quan hệ… Sự kết hợp hài hòa giữa hai
ngôi kể ấy ít nhiều đã tạo ra một sự thú vị, với người kể chuyện là người chồng, anh
ta sẽ kể một cách chủ quan vì rằng nhân vật này không có tình cảm sâu nặng với vợ,
nhưng với người kể chuyện ngôi thứ ba, cách kể hẳn phải khách quan và không
---137---
“thiên vị” với ai, nhất là ở chương hai tác phẩm lại khai thác những khía cạnh khá
nhạy cảm.
Với Hãy chăm sóc mẹ, Shin kết hợp khá nhuần nhuyễn ba ngôi kể (ngôi thứ
nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba) trong 323 trang sách, với hình thức tự sự đa chủ
thể- một kiểu tự sự bao gồm nhiều người khác nhau cùng kể về một câu chuyện. Đó
là câu chuyện về cuộc đời đầy vất vả, nhọc nhằn, hy sinh của mẹ dành cho chồng
con, cho tất cả những người thân xung quanh mẹ. Bà Razia Iqbal, Chủ tịch Ban
giám khảo giải Văn học châu Á cho biết, tiểu thuyết của Shin được trao giải thưởng
bởi đây là một “câu chuyện đầy kinh ngạc”, viết rất hay và sâu sắc, cấu trúc hấp dẫn với nhiều giọng tường thuật khác nhau.”13
Trước hết là người kể chuyện ở ngôi thứ ba xuất hiện trong các chương 1, 2, 3
và hầu như phần kết. Người kể chuyện ấy miêu tả một cách khách quan về những
tâm tư, tình cảm của các nhân vật trong hành trình đi tìm mẹ, về những ân hận, day
dứt cùng những yêu thương muộn màng của chồng và các con dành cho mẹ. Từ
những kí ức ấy, một loạt những sự kiện, những vấn đề liên quan đến cuộc đời dầm
mưa dãi nắng của mẹ được tái hiện. Ở chương 4, xuất hiện người kể chuyện ở ngôi
thứ nhất xưng “Tôi”, đặc biệt đây là nhân vật người mẹ đã biến mất ở đầu câu
chuyện, nay trở về như một ảo ảnh của thế giới xa xăm. Không ai nhìn thấy mẹ bởi
mẹ quay trở lại trong hình bóng một con chim nhưng mẹ lại thấy tất cả mọi người,
thấy sự vất vả của con gái út khi nuôi ba đứa con nhỏ, thấy người bạn tri âm tri kỉ
của mình đang nằm trên giường bệnh… Ở phần kết, bức thư của cô con gái út gửi
cho chị gái Chi-hon đã góp thêm một người kể chuyện ở ngôi thứ nhất. Với bức thư
nhòe nước mắt của con gái út về mẹ, nó như một sự bổ khuyết cho những lát cắt
chưa trọn vẹn về mẹ, về quãng đời chỉ biết hi sinh cho chồng, cho con của mẹ.
Chương 4 cũng là chương xuất hiện ngôi thứ hai khi mẹ đối thoại một chiều với con
gái, với chồng, với người đàn ông bí mật của mẹ và với người mẹ đã mất của mẹ.
Trong khi tác giả sử dụng ngôi kể này, độc giả không phải là người đứng ngoài 13 http://thethaovanhoa.vn/173N20120317041843655T133/kyung-sook-shin-doat-giai-van-hoc- chau-a-xin-hay-cham-soc-me.htm
---138---
quan sát nữa mà trở thành chủ thể của câu chuyện, họ phải suy nghĩ sâu xa về
những vấn đề mà tác giả truyền tải trong đó, vì họ chính là người “đồng sáng tạo”
với nhà văn. Sử dụng ngôi thứ hai trong chương bốn, nhà văn để cho nhân vật đối
thoại với con gái, với chồng,…nhưng thực ra là đang đối thoại với độc giả. Từ đó,
Shin bắt buộc người đọc phải đối thoại với chính bản thân mình, câu chuyện xảy ra
ở Hàn Quốc nhưng vấn đề này lại là vấn đề toàn cầu, ai cũng có mẹ nhưng có phải
ai cũng biết yêu thương, phụng dưỡng khi mẹ còn trên cõi đời không, hay là khi mẹ
mất đi rồi mới hối hận, tự trách mình đã thờ ơ với mẹ như các nhân vật trong tác
phẩm? Câu trả lời còn đó như một sự tự vấn lương tâm của những đứa con đang còn
mẹ và những đứa con đã mất mẹ.
Bên cạnh người kể chuyện với các ngôi kể, các tác giả nữ cũng xây dựng điểm
nhìn phù hợp để làm nổi bật lên tính cách nhân vật thông qua các nhân vật khác.
Điểm nhìn được dùng phổ biến trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống, có nghĩa là
điểm hay chỗ đứng để xem xét, bình giá một sự vật, một hiện tượng tự nhiên hay xã
hội. Trong văn chương, câu chuyện bao giờ cũng được kể từ một điểm nhìn nhất
định và bởi một người kể chuyện nào đó. Pospelov khẳng định vai trò quan trọng
của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan
trọng là tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay, nói cách khác,
điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả.”[43,289]
Trong số những nhà nghiên cứu về điểm nhìn thì quan điểm của Genette được
chú ý hơn cả. Theo ông, “điểm nhìn trần thuật” là thuật ngữ dùng để chỉ vị trí của
người trần thuật trong tương quan với nhân vật.
Từ cách hiểu đó, ông phân chia thành ba điểm nhìn
- Tiêu điểm Zero (focalisation zero): Đây là mô hình chủ yếu của tự sự
truyền thống. Người kể chuyện đóng vai trò “thượng đế”, đứng ngoài câu chuyện
nhưng lại biết tất cả.
- Tiêu điểm nội quan (focalisation interne): Đây là dạng trần thuật tiêu
điểm bên trong, tương đương với ngôi kể thứ nhất. Người kể chuyện là một nhân
---139---
vật trong tác phẩm, sự hiểu biết của họ giới hạn, chỉ kể những gì nằm trong tầm
hiểu biết của nhân vật. Có ba dạng tiêu cự bên trong
+ dạng cố định: chỉ một nhân vật kể chuyện
+ dạng bất định: nhiều nhân vật kể những câu chuyện khác nhau
+ dạng đa thức: nhiều nhân vật cùng kể một câu chuyện
-Tiêu điểm ngoại quan (focalisation externe): Người kể chỉ miêu tả lời
nói và hành động nhân vật một cách khách quan, không miêu tả nội tâm, không
phân tích tâm lý, không đánh giá chủ quan.
Thật ra, trong các tác phẩm văn học, chọn kiểu nhìn nào, xuất phát từ điểm
nhìn nào để người kể chuyện kể lại câu chuyện đều do cách tổ chức có dụng ý của
nhà văn. Dù xuất phát từ điểm nhìn nhân vật hay điểm nhìn của chính bản thân, mọi
cách nhìn, xuất phát từ mọi điểm nhìn đều thể hiện được (trực tiếp hay gián tiếp)
quan niệm, tư tưởng, thái độ của chủ thể sáng tạo. Trong nghệ thuật kể chuyện có
những tác phẩm chỉ có một kiểu điểm nhìn từ đầu đến cuối, có những tác phẩm phối
ghép nhiều kiểu điểm nhìn.
Quan sát tác phẩm của các nhà văn nữ, chúng tôi nhận thấy có những nhà văn
chỉ sử dụng một điểm nhìn trong tác phẩm (tiêu điểm zero hoặc tiêu điểm nội quan)
như nhà văn Oh, có những nhà văn phối hợp nhiều điểm nhìn trong tác phẩm (phối
hợp cả tiêu điểm nội quan và tiêu điểm zero) như trong sáng tác của Han Kang và
Shin.
Như đã nói trên, Oh Jung- hee là nhà văn chỉ sử dụng duy nhất một điểm nhìn
trong tác phẩm để quan sát và miêu tả, ba trong bốn tác phẩm sử dụng tiêu điểm nội
quan với dạng cố định (một nhân vật kể mọi việc), chỉ một tác phẩm sử dụng tiêu
điểm zero. Đối với những truyện ngắn sử dụng tiêu điểm nội quan, người kể chuyện
xưng “tôi” có vai trò to lớn trong việc quyết định cấu trúc tác phẩm cũng như toàn
quyền miêu tả những nhân vật khác từ điểm nhìn của bản thân. Người kể chuyện và
nhân vật là một, tôi tự kể chuyện của mình, kể những gì liên quan đến mình. Từ
điểm nhìn này, thế giới hiện thực cùng với đời sống nội tâm của nhân vật được khai
triển.
---140---
Câu chuyện của nhân vật “tôi” trong Dòng sông lửa là câu chuyện của một phụ
nữ trung niên đã có chồng nhưng cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Từ đây, độc
giả sẽ thắc mắc và tự hỏi: một cặp vợ chồng trẻ trung như vậy mà sao không có
những biểu hiện của sự ấm cúng, hạnh phúc như bao cặp vợ chồng khác? Những
đoạn đối thoại cũng rất hời hợt lãnh đạm dành cho nhau, đến cả những suy nghĩ
cũng không dám thổ lộ “Nghĩ bụng định bảo anh đóng cửa sổ nhưng rồi lại
thôi…”[24,17] Và từ những dòng hồi tưởng, suy tư của cô gái mở ra cho người đọc
những bí ẩn: bí ẩn về đứa con chết khi vừa tròn một tuổi, bí ẩn về sự ham thích
được nhìn lửa cháy trong con người của chồng, những sự kiện tưởng như không kết
nối gì với nhau ấy thực ra lại rất gắn liền với nhau, một chuỗi những bi kịch dồn
nén số phận cô gái vào một guồng quay mà dù muốn tháo gỡ cũng khó có thể tháo
gỡ được.
Nhân vật xưng “tôi” trong Ván bài lúc hoàng hôn cũng là một cô gái như thế.
Nhưng xem ra có thể số phận của cô còn ảm đạm và buồn chán hơn nữa. Những con
người xuất hiện dưới con mắt của cô đều cô đơn và chứa đựng nhiều tâm sự. Đó là
người bố quanh năm phải uống thuốc vì căn bệnh tiểu đường, ngày ngày đánh bài
giết thời gian; đó là bà mẹ sống trên tầng hai căn nhà, đêm đêm ru con với giọng hát
trầm buồn; còn có hình ảnh của một đám trại viên, chiều nào cũng xếp thành hàng
đi “như những bánh xe bò lờ đờ lăn” [24,45] sau khi kết thúc công việc lao dịch
hằng ngày… Còn cô, sau những ván bài của hai cha con là “ván bài” của cô với một
người đàn ông xa lạ. Độc giả không khỏi trách cứ tại sao cô gái có thể hành động
thiếu suy nghĩ như vậy?
Và đây là những tâm sự ẩn đằng sau những cuộc sống vô vị, nhàm chán, những
khát khao nhân bản trong góc khuất tâm hồn những cô gái đã qua cái thời xuân trẻ
mà chưa nắm bắt được tình yêu, hạnh phúc.
Lắp ghép những sự kiện xung quanh nhân vật “Tôi” trong Dòng sông lửa,
người đọc biết rằng cô là một người cô độc, muốn biến những giây phút buồn tẻ
trong cuộc đời ấy đi bằng những cách rất kì lạ: đó là hút thuốc lá hay đi dạo vào ban
đêm, cũng có thể ngồi thêu hạc suốt từ ngày này qua tháng nọ. Cô cũng có trăn trở
---141---
về cuộc sống buồn tẻ, chán chường này nhưng cô lại chưa đấu tranh để vượt qua nó,
cô âm thầm chịu đựng, chờ đợi một sự đổi thay, nhưng ai sẽ giúp cô thực hiện điều
đó? Chỉ có thể là tự cô phải đấu tranh, phải hành động để dành lại tình yêu, dành lại
những chuỗi ngày hạnh phúc đó mà thôi.
Với nhân vật xưng “tôi” trong Ván bài lúc hoàng hôn thì khác, thực ra cô là một
cô gái rất thơ ngây, tội nghiệp. Cô luôn khát khao một tình yêu lãng mạn “tôi
thường mơ được đi bộ trên con đường quanh cánh đồng nở đầy hoa cỏ dại với anh
[…] Tôi sẽ mặc đồ ngủ, đầu thắt ruy băng đỏ, gió thổi rì rào mang theo mùi hoa cỏ
thoang thoảng đâu đó.”[24,63] Thế nhưng, từ khi tình yêu đầu đời tan vỡ, cô đã
buông xuôi cho số phận, đánh đổi thân xác của mình cho một tên thợ xây vào những
đêm đông rét buốt để đổi lấy một nụ cười trong chuỗi ngày buồn tẻ và cô đơn của
cô. Cái cách mà cô đấu tranh cho số phận không phải là một cách tích cực, nó chỉ là
một cách trốn tránh thực tại, thế nên sau cuộc vui, cô lại phải chịu cảnh cô đơn,
buồn tủi với không gian “chìm dần vào vũng lầy bóng tối”[24,72] Bóng tối ấy cũng
giống như tương lai của cô: bế tắc và tuyệt vọng.
Với điểm nhìn từ bên trong, điểm nhìn của nhân vật “tôi” đã giúp cho câu
chuyện được kể tự nhiên hơn, như một lời bộc bạch tâm sự. Người đọc qua đó hiểu
tường tận đến chân tơ kẽ tóc nhân vật của mình bởi nhân vật đã bộc lộ trực tiếp cảm
xúc, suy nghĩ.
Bên cạnh những người kể chuyện xưng “tôi” trưởng thành và từng trải, cũng
xuất hiện người kể chuyện trẻ thơ xưng “tôi” trong Xóm người Hoa. Qua đôi mắt
của một cô bé tinh nghịch, năng động, cuộc sống của những con người trong xóm
người Hoa- tên xóm gợi lên sự cô đơn của những con người tha hương nơi đất
khách, sẽ được tái hiện ra sao?
Từ những dòng chữ đầu tiên, người đọc bắt gặp cuộc sống của những con người
khi mà đất nước vừa bước ra từ chiến tranh đau thương, thiếu thốn từ vật chất đến
tinh thần nhưng thừa về sự đói khổ, điêu linh. Đó là câu chuyện về người mẹ với
những chuyến hàng vất vả đi từ lúc tờ mờ sáng đến mấy ngày sau mới về với khuôn
mặt mệt nhoài, rũ rượi; về nỗi đau vượt cạn của mẹ để cho ra đời những sinh linh bé
---142---
nhỏ trong góc tối của căn nhà… Đó là câu chuyện về số phận của người bà mới kết
hôn vài tháng đã chứng kiến cảnh chồng mình và em gái tằng tịu với nhau, suốt cả
cuộc đời không một lần được thực hiện thiên chức của người phụ nữ để đến khi chết
thân hình vẫn đẹp như thiếu nữ. Đó là câu chuyện của một me Tây bị người tình
giết trong đêm khuya, bỏ lại đứa con mới sáu tuổi không nơi nương tựa…
Để cho một cô bé thơ ngây tái hiện lại hiện thực trần trụi đó, nhà văn như muốn
khắc họa cuộc sống khốn cùng ở một tầng sâu hơn, trẻ thơ luôn được chăm sóc, yêu
thương, vỗ về nhưng ở đây cô bé mới hơn mười tuổi đã phải tự chăm lo cho bản
thân, tự vượt qua thời khắc báo hiệu tuổi dậy thì của một thiếu nữ trong khi người
mẹ không biết đến vì đang trải qua một cuộc vượt cạn đau đớn.
Với việc sử dụng tiêu điểm nội quan trong các truyện ngắn, Oh đã tạo ra những
câu chuyện mà nhân vật có thể giãi bày những góc khuất trong tâm hồn. Tuy vậy,
tiêu điểm nội quan ít nhiều bị hạn chế bởi người kể chuyện kể những câu chuyện,
những tính cách, đặc điểm nhân vật qua chính nhãn quan của họ, như thế, câu
chuyện mang màu sắc chủ quan rất rõ, việc các nhà văn nữ khác như Shin Kyung-
sook, Han Kang phối hợp nhiều điểm nhìn (tiêu điểm nội quan kết hợp với tiêu
điểm zero) đã khắc phục được vấn đề đó. Qua nhiều điểm nhìn khác nhau, tất nhiên,
độc giả quan sát câu chuyện cũng biết khách quan và chi tiết hơn, thay vì chỉ qua
một người kể chuyện, một điểm nhìn.
Như đã đề cập trên đây Người ăn chay cần được xem xét như một tiểu thuyết
trọn vẹn với ba chương khác nhau. Chương đầu tiên tác giả sử dụng tiêu điểm nội
quan với nhân vật xưng “tôi”, chương hai và chương ba sử dụng tiêu điểm zero
(người kể chuyện đứng ngoài sự kiện được kể, nhưng lại biết nhiều hơn nhân vật vì
họ đứng trên một vị trí có “tầm nhìn của Thượng đế” (R. Barthes)- bao quát và toàn
năng.) Với việc kết hợp hai điểm nhìn trong tác phẩm, nhà văn đã khắc phục được
nhược điểm từ sự chủ quan của người kể chuyện với tiêu điểm nội quan và đem lại
sức thuyết phục từ một điểm nhìn có tính chất bao quát và toàn năng- điểm nhìn
zero cho độc giả.
---143---
Người kể chuyện trong chương đầu tiên là chồng của nhân vật chính Yeong-
hye. Từ điểm nhìn của nhân vật người chồng này - kẻ “thuộc típ người không thích
cái gì quá”, “làm ở một công ty nho nhỏ biết quý cái năng lực vừa phải” của anh
ta, “thỏa mãn với mức lương bình bình nhận đều đặn hàng tháng” [22,8] thì
Yeong-hye là một người vợ bình thường nhất trên đời với ngoại hình và tính cách
không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, từ sau khi cô bắt đầu vứt hết thịt trong nhà đi, ăn
chay, thì anh xem vợ như người quái đản, đáng sợ. Không đưa vợ đi điều trị, không
hỏi han, chăm sóc cho vợ, anh thẳng thắn thừa nhận “tôi hoàn toàn không để tâm tới
những chuyện vớ vẩn đó”[22,22] Qua đến chương hai, tiêu điểm nội quan với nhân
vật “tôi” (chồng Yeong-hye) được thay thế bằng tiêu điểm zero (điểm nhìn mà
người kể chuyện biết nhiều hơn nhân vật, điểm nhìn của Thượng đế)- với nhân vật
chính được kể là anh rể Yeong-hye. Dõi theo nhân vật chính này, độc giả thấy được
rõ hơn về nhân vật Yeong-hye. Anh rể Yeong- hye nhận thấy cô không “điên” như
anh chồng đã nói, anh rể thấy rằng cô “có một sức mạnh tựa như một loài cây
hoang dã không có cành”[22,70] với những tự nhiên bản năng trong người cô, với
sự trong trắng từ vết chàm Mongolia vốn mất đi khi người ta lớn lên, với việc chỉ ăn
rau củ không ăn thịt ấy, tất cả đều thích hợp với con người của cô, với tính cách tự
nhiên vốn có của cô. Từ những quan sát của người anh rể, Yeong- hye thật đáng yêu
nhưng cũng thật tội nghiệp, không có ai hiểu được cô muốn gì, người chồng vô tâm
của cô không hiểu đã đành, đến người chị gái đã sống và đùm bọc cô ngay từ thưở
bé ấy cũng không hiểu cô. Ước vọng được biến thành một cái cây được tự do với
thiên nhiên, nắng gió mây trời còn hơn việc biến mình thành tên nô lệ trong cuộc
sống bon chen với những thủ đoạn hoá ra đã được Yeong- hye ấp ủ từ nhỏ. Tới
chương ba, người kể chuyện “toàn tri” hướng câu chuyện về người chị gái của
Yeong-hye. Dõi theo câu chuyện về người chị tên In-hye này, ta biết nhiều hơn về
nhân vật Yeong-hye, về những nỗi đau mà cô phải chịu đựng trong những ngày
tháng tuổi thơ. Cha cô vốn là lính tham chiến ở Việt Nam nên cách dạy con của ông
luôn mạnh mẽ và có phần bạo lực. Từ còn bé, đã có lần Yeong- hye muốn bỏ nhà
đi, đến khi lớn lên cô càng ngày càng ít nói, có lẽ từ lúc này cô đã không thể thích
---144---
nghi với cuộc sống vốn nhiều cạm bẫy và mưu toan, cô không thể thích nghi được
với xã hội đầy đủ về vật chất nhưng thiếu thốn tình người ấy. Bởi vậy mà cô đã rất
cô đơn, cô đơn giữa dòng đời mà ai cũng phải bon chen xuôi ngược, ai cũng phải
gồng mình lên để tồn tại.
Từ sự phối hợp nhiều điểm nhìn như vậy, nhân vật Yeong-hye hoàn toàn được
“giải mã”, những khúc mắc, những ẩn ức của nhân vật ở thực tại đã được soi rọi về
quá khứ để tìm ra những căn nguyên khiến Yeong-hye rơi vào tình trạng sợ thịt và
ước ao được biến thành một cái cây như hiện nay. Tuy vậy, những ước mơ sâu kín
của nhân vật chưa một lần được hé mở từ chính cô, tất cả đều được thông qua “lăng
kính”, cái nhìn của các nhân vật khác. Điều đó đã tạo ra một lỗ hổng rất lớn về nhân
vật, phải chăng sự bí ẩn của nhân vật đã được nhà văn cố ý tạo ra cho cốt truyện
thêm kịch tính và gay cấn?
Với Hãy chăm sóc mẹ của Shin, sự phối hợp nhiều điểm nhìn trong tác phẩm
đã tạo ra một câu chuyện vô cùng hấp dẫn. Kết cấu tác phẩm được “thiết kế “với
một lời đề từ, bốn chương và phần kết. Ba chương sách đầu tiên được tái hiện qua
tiêu điểm zero với người kể chuyện “toàn tri”, đứng ngoài quan sát và kể lại sự ân
hận muộn màng của Chi-hon, Hyong-chol và người chồng của nhân vật bị mất tích-
Park So-nyo. Chương 4 được nhìn qua tiêu điểm nội quan với sự xuất hiện bất ngờ
của người kể chuyện xưng “tôi”, tự mình kể lại những bí mật được chôn kín trong
lòng người mẹ suốt bao năm qua. Móc nối, lắp ghép các điểm nhìn ấy với nhau,
người đọc sẽ biết được trọn vẹn số phận cũng như toàn bộ cuộc đời nhọc nhằn, cơ
cực của người phụ nữ sống trong xã hội mà nhiệm vụ chính là chăm sóc chồng con,
lấy sự thông minh, danh tiếng của con làm niềm tự hào để bước tiếp trong cuộc đời.
Chương sách đầu tiên mở ra một sự nặng nề bao trùm lấy những dòng chữ ngả
nghiêng “mẹ bị lạc đã một tuần”. Nhưng đứa con gái lớn của mẹ chỉ biết tin sau khi
mẹ lạc bốn ngày. Bốn ngày ấy chắc hẳn cô đã vui vẻ, hạnh phúc với chuyến du lịch
nước ngoài trong khi mẹ cô thì đang bơ vơ, sợ hãi giữa dòng người đông đúc trong
sân ga. Từ những dòng hồi ức day dứt khôn nguôi của Chi-hon về những tháng
ngày qua đã đối xử lạnh lùng, thờ ơ với mẹ mà độc giả bắt đầu đến với hình ảnh
---145---
một phụ nữ thôn quê chân lấm tay bùn quanh năm suốt tháng “bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời” để nuôi sống bốn đứa con đang tuổi ăn tuổi lớn. Hình ảnh chiếc khăn
mẹ đội trên đầu thấm đẫm những giọt mồ hôi của mẹ, nhưng cũng thẫm đẫm tình
yêu thương mẹ dành cho các con. Mẹ dành tình yêu ấy cho tất cả những ai ở xung
quanh mẹ, kể cả những sinh linh bé nhỏ cần chăm sóc, thương yêu như chú chó ghẻ
lở, đi lang thang khắp nơi. Mẹ với lòng vị tha vô bờ bến cả khi con gái với những lo
toan, bận rộn chốn thị thành đã không về thăm mẹ thường xuyên. Mẹ cả đời chỉ biết
lo lắng, quan tâm, yêu thương người khác trong khi bao nhiêu căn bệnh nguy hiểm
cũng đang rình rập xung quanh mẹ, cô con gái đã xót xa bao nhiêu khi mẹ một mình
nằm trên tấm phản “mạch đạp yếu ớt, hơi thở khó nhọc. Mẹ không còn gồng mình
cố chống chọi cơn đau nữa, chân tay xoãi ra, mềm nhũn bất động”[57,30-31]
Nhưng vì sợ các con lo lắng, lần nào mẹ cũng khẳng định rằng mẹ không sao cả.
Nghe những tâm sự từ đáy lòng của Chi- hon sau khi mẹ mất tích, cả sự hối tiếc, ân
hận của cô khi nhiều lần đối xử không phải với mẹ, không ai là không cầm được
nước mắt.
Những sự kiện, tình tiết đầu tiên về người mẹ đã được hé mở qua dấu chân của
người con gái trên hành trình đi tìm mẹ, đến chương hai, người kể chuyện di chuyển
điểm nhìn tới người con trai cả Hyong- chol. Từ điểm nhìn này, hiện lên người phụ
nữ thấm nhuần tư tưởng của Nho gia, nhưng trên hết, đó vẫn là một người mẹ sẵn
sàng hi sinh tất cả vì con, dám đấu tranh để dành hạnh phúc vì con. Người mẹ thuần
phát nông dân ấy đã đặt hết niềm tin và hi vọng Hyong-chol có thể trở thành công tố
viên. Có lẽ anh không biết rằng, hi vọng trở thành công tố viên của anh cũng là
niềm khát khao cháy bỏng của mẹ. Bởi vậy khi mẹ lần lượt đưa các em lên thành thị
để con trai cả chăm lo, mẹ không ngừng xin lỗi. Mẹ đã bao ngày vất vả, nhọc nhằn
nhưng vẫn thương con vì mình không thực hiện được giấc mơ. Đến khi Hyong-
chol mua được nhà ở Seoul, mẹ đã đến thăm anh từ rất sớm, tay xách theo một ấm
đun nước to chứa đầy cháo đậu đỏ theo phong tục truyền thống về nhà mới của
người Hàn Quốc. Mẹ đã hân hoan, vui sướng như thế nào khi con trai mình đã
thành đạt, nhưng bản thân mẹ lại luôn thấy có lỗi. Mẹ trao cho anh một phong bì
---146---
đựng ít tiền dành dụm để làm biển tên nhà trước cổng “Mẹ xoa xoa đôi bàn tay với
vẻ có lỗi “Mẹ xin lỗi vì con mua nhà mà mẹ chẳng giúp được gì.”[57, 142] Mẹ luôn
luôn là như vậy, suốt cuộc đời thấy có lỗi với mọi người, nhưng mẹ có biết không
“Mẹ ơi, con mới là người phải xin lỗi vì đã không giữ lời hứa.”[57,154] Lời xin lỗi
muộn màng này của Hyong-chol liệu mẹ có nghe thấy?
Qua câu chuyện của hai người con, độc giả cảm nhận được tình mẫu tử sâu
nặng, thiêng liêng và cảm động. Đến chương ba, người kể chuyện hướng câu
chuyện tới người chồng nhân vật Park So-nyo. Từ đó, độc giả lại hiểu thêm về vô
vàn đức hi sinh của mẹ. Không có tình yêu cháy bỏng mới dẫn đến hôn nhân, hai
người lấy nhau trong khi đất nước đang giặc giã liên miên. Vậy mà từ khi còn trẻ
đến lúc về già, có khi nào bà bỏ mặc không chăm lo cho ông “Mỗi khi ông nói
muốn ăn cái gì đó, thì cho dù đang giã hồ tiêu hay xếp lá vừng đi chăng nữa, vợ
ông đều dừng ngay lại không chút lưỡng lự…”[57,173] Quen được vợ phục vụ từ
miếng cơm manh áo, chỉ đến khi vợ đi lạc, ông mới thảng thốt nhận ra: “Tại sao lúc
đó ông không nhận ra rằng mình đang có một cuộc sống bình yên và may mắn?
Chưa bao giờ ông nấu cho vợ mình một bát canh rong biển, vậy mà tại sao ông lại
nhận tất cả những gì vợ làm cho một cách thản nhiên như thế?” [57,173] Và ông
cũng hối hận nhận ra “Ông bỏ nhà ra đi bất kỳ khi nào ông muốn và chỉ trở về nhà
lúc nào ông thích” [57,174] những khi về nhà đem theo bao nhiêu căn bệnh, lúc đó
vợ lại là người chăm sóc cho ông từng miếng cơm, viên thuốc. Đau lòng nhất là
chuyện ông đã đi quá nhanh và bỏ vợ lại đằng sau: “Ông có thể dừng lại đợi vợ
mình, nhưng ông chưa bao giờ sải bước đi bên cạnh trò chuyện với bà như bà
muốn, chưa bao giờ, dù chỉ một lần.”[57,188] Nếu như ông đợi vợ đi cùng, thì có lẽ
vợ ông đã không đi lạc? Điều đó như một nhát dao cứa vào trái tim đau đớn của ông
bởi nỗi ân hận nay đã muộn màng.
Điểm độc đáo nhất của tác phẩm này có lẽ nằm ở chương bốn, khi mà tiêu
điểm zero được di chuyển tới tiêu điểm nội quan, từ những góc nhìn bên ngoài nhân
vật dần chuyển vào góc nhìn từ bên trong với người kể chuyện xưng “tôi”, khám
phá những bí mật còn ẩn giấu, khám phá những tâm tư tình cảm của người mẹ suốt
---147---
cả cuộc đời. Tuy vậy, người kể chuyện xưng “tôi” này không thể xác định được, có
phải đây là sự trở về của người mẹ hay chỉ là linh hồn của mẹ đang bay về giã biệt
người thân? Sự mơ hồ, hư ảo của người kể ám ảnh độc giả khôn nguôi. Từ điểm
nhìn của nhân vật “kì bí” này, độc giả hiểu rõ hơn về mẹ, về những góc khuất trong
trái tim mẹ. Mẹ không phải sinh ra đã là mẹ, mẹ cũng từng có tuổi thơ, có thời thiếu
nữ, cũng nũng nịu khóc giữa ruộng bông khi bị ép gả lấy chồng. Nhưng điều đó
dường như dần phai dấu kể từ khi mẹ bắt đầu làm mẹ. Những đứa con cứ mặc nhiên
tự cho phép mình thờ ơ với những vất vả, nhọc nhằn, với tình thương và đức hy
sinh của mẹ. Các con nhớ rằng, mỗi khi mùa thu đến, mẹ lại dán lên cửa những
chiếc lá thích mỏng manh, cho căn phòng thêm ấm áp. Nhưng các con không nhận
ra, hành động ấy phản ánh những ước ao, những khát khao hạnh phúc của mẹ. Sau
biết bao những lo toan mệt nhọc của cuộc sống, khoảnh khắc mà mẹ dán những
chiếc lá lên ô cửa là khoảnh khắc thăng hoa, mẹ như quên đi mọi âu lo, muộn phiền.
Nhưng những phút giây ấy chỉ là khoảnh khắc, thời gian còn lại dài đằng đẵng vẫn
là thời gian mẹ lo lắng và hi sinh cho những đứa con. Bởi vậy mà đã có lúc mẹ chán
nản và cần một bờ vai để sẻ chia, và như thế quan hệ trên phương diện tinh thần của
mẹ với người đàn ông không phải là chồng không thể bị lên án. Bởi lẽ, mẹ đã quá
cô đơn trong dòng đời khi những đứa con lần lượt rời xa quê hương tới chốn phố thị
và vì mưu sinh, vì công danh sự nghiệp nhiều khi đã quên mất mình còn có một
người mẹ đang ở quê xa. Có thể nói, sức nặng của tác phẩm nằm trong chính
chương bốn này, nó vừa mở ra những bí mật trong cuộc đời dài đằng đẵng của một
người mẹ, vừa gián tiếp nhắn nhủ một thông điệp tới những người con “Xin hãy
đừng đối xử với mẹ như một ý niệm. Mẹ là một cuộc đời.”[114]
Sự phối hợp nhiều điểm nhìn của nhà văn tạo một sức cuốn hút kì lạ còn bởi,
qua điểm nhìn của các nhân vật, nhưng độc giả vẫn không sao biết được đoạn kết về
mẹ, điều đó chỉ có mẹ và người kể chuyện “toàn tri”mới biết. Người đọc vẫn thắc
mắc rằng người mẹ mất tích ấy còn sống hay đã chết, và nếu còn sống thì mẹ đang
ở đâu? Cuối cùng mẹ có sum họp được với gia đình và sống quãng đời còn lại bên
những người thân không? Tác phẩm với kết cấu mở tạo ra nhiều băn khoăn cho độc
---148---
giả nhưng lại vô cùng hấp dẫn. Có thể nói, trong cuốn tiểu thuyết này, Shin Kyung-
sook đã kết hợp một cách hoàn mỹ giữa kỹ xảo kể chuyện và những yếu tố tình
cảm, để tạo nên một tác phẩm có thể đánh động đến góc sâu thẳm nhất trong trái tim
mỗi người.
Tóm lại, ở mỗi tác phẩm, các nữ nhà văn đều sử dụng người kể chuyện với
ngôi kể và điểm nhìn phù hợp. Với ngôi kể thứ nhất và điểm nhìn nội quan, độc giả
có thể cảm nhận những nỗi niềm sâu kín bên trong nhân vật qua chính người kể
chuyện xưng “tôi”. Với sự kết hợp giữa nhiều ngôi kể và nhiều điểm nhìn (điểm
nhìn nội quan đan xen với điểm nhìn zero), độc giả vừa cảm nhận được cái tôi bên
trong nhân vật với những khát khao nhân bản vừa nhìn thấu thế giới nhân vật xung
quanh với điểm nhìn của “Thượng đế”, điều mà điểm nhìn nội quan và nhân vật
xưng ‘tôi” không nhìn thấy được.
---149---
KẾT LUẬN
Với đề tài “Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại Hàn Quốc qua cái
nhìn của các nhà văn nữ” chúng tôi rút ra một số kết luận sau đây:
1. Ở mỗi thời kì văn học, sự góp mặt của các nhà văn nữ đối với văn chương
có phần khác biệt, lúc thịnh lúc suy do ảnh hưởng tư tưởng của xã hội đương thời.
Trải qua hơn một ngàn năm, các nhà văn nữ ngày càng khẳng định được chỗ đứng
của mình trong lòng công chúng. Song song với vai trò sáng tác, người phụ nữ cũng
đồng thời là một nhân vật văn học, xuất hiện trong rất nhiều các tác phẩm từ cổ chí
kim. Hình ảnh người phụ nữ sống trong thế giới văn học mỗi giai đoạn lại khác biệt
tùy vào từng hoàn cảnh lịch sử, xã hội.
Có thể thấy, các tác giả nữ xuất hiện trong văn học từ dân gian cho đến những
năm cuối của thế kỉ XVIII còn rất khiêm tốn, rải rác, lúc đậm lúc nhạt và tạo nên
một dòng chảy văn chương mỏng manh, sơ sài, đứt đoạn. Nguyên nhân là vì giai
đoạn này đất nước chịu ảnh hưởng từ lễ giáo phong kiến, từ những tư tưởng khắt
khe của xã hội phụ quyền, nhà văn nữ tham gia vào lĩnh vực văn hóa, văn học còn
hạn chế. Hình ảnh người phụ nữ xuất hiện trong các tác phẩm giai đoạn này chịu
nhiều đắng cay, tủi nhục do ảnh hưởng của tư tưởng xã hội lúc bấy giờ. Họ không
có quyền lựa chọn cuộc sống, lựa chọn tương lai. Tuy nhiên, hình ảnh người phụ nữ
trong thế giới văn học đó như một viên ngọc sáng lấp lánh, dù số phận của họ có
đau khổ, cay đắng nhưng vẫn luôn giữ được phẩm hạnh đẹp đẽ và cao quý.
Đến xã hội hiện đại, các tác giả nữ đã có một bước tiến vượt bậc. Lúc này,
quan niệm về văn chương không còn nhiều khe khắt, giáo điều như trước, sân chơi
văn chương không phải chỉ dành cho nam giới mà phụ nữ đã có thể tham gia một
cách tự do và bình đẳng. Thêm vào đó, cơ chế xuất bản cũng thông thoáng và các
nhà văn nữ đã nắm vững tri thức để có thể thi thố tài năng. Chính những nhân tố đó
đã giúp đội ngũ các nhà văn nữ tăng lên đáng kể. Họ không chỉ hiểu biết rộng khi
giao lưu, tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà với trải nghiệm của bản thân đã tạo ra
những trang văn rất đời nhưng không kém phần nữ tính. Hình ảnh các nhân vật nữ
---150---
trong văn học hiện đại rất đa dạng. Có những phụ nữ tiết hạnh, chung thuỷ và cũng
không ít những phụ nữ bị những cám dỗ của vật chất làm thay lòng đổi dạ. Có
những phụ nữ chịu ảnh hưởng của truyền thống: sống nhẫn nhịn, chịu đựng, không
dám đấu tranh cho cuộc sống, buông xuôi cho số phận nhưng không ít những nhân
vật nữ đã biết hài hòa nét đẹp của phụ nữ truyền thống và sự mạnh mẽ, bản lĩnh của
phụ nữ hiện đại để có thể nắm bắt hạnh phúc trong cuộc đời.
2. Trong những tác phẩm văn học hiện đại mà chúng tôi khảo sát, đặc điểm
tính cách của các nhân vật nữ được xác lập thông qua mối quan hệ với gia đình, mối
quan hệ với xã hội và đặc biệt những nét truyền thống hài hòa với hiện đại trong
hình ảnh người phụ nữ đã tạo ra một nét mới lạ và độc đáo trong tính cách phụ nữ
xứ Hàn.
Trong mối quan hệ gia đình, mối quan hệ vợ- chồng, cha mẹ- con cái được
cho là quan trọng và chính yếu. Dưới ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng Nho giáo,
người phụ nữ không hề được coi trọng, có thể nói họ là người có địa vị thấp kém
nhất trong gia đình. Bởi thế, dưới cái nhìn của các nhà văn nữ, đời sống vợ chồng
của các nhân vật nữ thường không có hạnh phúc trọn vẹn. Trong một số tác phẩm,
nguyên nhân của những bi kịch ấy là do thái độ vô cảm, lạnh lùng, gia trưởng của
người đàn ông Hàn, một số tác phẩm khác lại cho rằng nguyên nhân khởi nguồn từ
những gia đình không có con nối dõi, người phụ nữ mất đi thiên chức làm mẹ. Mối
quan hệ mẹ- con cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo. Có thể thấy, trong
các tác phẩm, tình yêu thương thiết tha, dạt dào của mẹ với những đứa con trong gia
đình. Với con gái, mẹ thể hiện tình thương một cách nhẹ nhàng và tình cảm. Ngược
lại, sống trong xã hội khi mà chế độ gia trưởng vẫn còn đang chiếm ưu thế, thì
những người mẹ khi đối xử với những người con trai, nhất là đối với những người
con trưởng vẫn có phần nể sợ, chiều chuộng. Bên cạnh hai mối quan hệ chính yếu
của người phụ nữ trong gia đình thì mối quan hệ chị em cũng là đề tài được các nhà
văn nữ khai thác triệt để. Qua mối quan hệ này, hình ảnh người phụ nữ hiện lên đầy
đủ và hoàn thiện hơn.
---151---
Trong các tác phẩm văn học, hình tượng người phụ nữ còn được khắc họa rõ
nét hơn trong quan hệ với xã hội. Nếu như ở xã hội truyền thống ngày xưa, người
phụ nữ sinh hoạt chủ yếu trong gia đình, họ không có điều kiện để tiếp xúc với thế
giới bên ngoài thì đến thời đại này, mỗi ngày người phụ nữ phải tiếp xúc với đủ mọi
lớp người trong xã hội, tiếp xúc với cuộc sống hiện đại không ít những cạm bẫy và
toan tính. Bởi thế mà trong sáng tác của một số nhà văn nữ, người phụ nữ không
còn chịu kiếp sống nô lệ trong gia đình vì lệ thuộc kinh tế vào người đàn ông, họ có
thể tự lực xây dựng sự nghiệp, tương lai. Sống trong xã hội tiêu dùng đại chúng, có
không ít những phụ nữ thành đạt bởi thích nghi được với cuộc sống phức tạp hiện
nay nhưng cũng không ít phụ nữ không thích ứng được với lối sống gấp gáp của xã
hội hiện đại. Bên cạnh đó, cũng xuất hiện những phụ nữ biết dung hòa các mối quan
hệ và đối xử với mọi người bằng tất cả tình yêu thương vốn có của một trái tim phụ
nữ: vị tha, khoan dung và đầy niềm trắc ẩn.
Bên cạnh đó, các nhà văn nữ cũng xây dựng hình ảnh người phụ nữ biết kết
hợp những giá trị của truyền thống kết hợp hài hòa với những yếu tố hiện đại. Có
thể thấy ở một số tác phẩm người phụ nữ hiện lên với một nét đẹp truyền thống:
siêng năng, chăm chỉ, chịu thương chịu khó, sẵn sàng hi sinh cả cuộc đời cho
chồng, cho con. Những khi có biến cố trong gia đình, họ không âm thầm chịu đựng
mà đã vùng lên đấu tranh, ít ra là để dành lấy hạnh phúc cho bản thân, cho gia đình
của họ.
3. Nhờ biết tiếp thu những yếu tố nội sinh của văn học dân tộc và tiếp biến kĩ
thuật hiện đại của thế giới mà những yếu tố nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm của
các nhà văn nữ ngày càng đặc sắc.
Về nhân vật và hệ thống nhân vật, có thể thấy các nhà văn nữ đã xây dựng tính
cách nhân vật thông qua việc miêu tả ngoại hình, hành động và ngôn ngữ nhân vật.
Với nghệ thuật miêu tả ngoại hình, các tác giả đã thoát khỏi kiểu miêu tả có tính
ước lệ của văn học truyền thống, đưa nhân vật văn học đến gần với cuộc sống đời
thường. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng xây dựng tính cách nhân vật thông qua việc
miêu tả hành động. Việc các nhà văn sử dụng “hành động bên trong” và “hành động
---152---
bên ngoài” như một phương tiện để xây dựng đời sống tâm lí phức tạp của các nhân
vật. Không chỉ có vậy, ngôn ngữ cũng là một phương tiện để khắc họa tính cách,
những suy tư, tình cảm sâu kín của nhân vật. Có thể thấy, trong sáng tác của các nhà
văn nữ, ngôn ngữ được sử dụng gồm những đoạn đối thoại trực tiếp của nhân vật,
những lời độc thoại một chiều và cả những dòng độc thoại nội tâm. Ngoài ra, các
nhân vật trong sáng tác của các nhà văn nữ cũng được khắc họa rõ hơn thông qua
việc so sánh, đối chiếu các nhân vật trong nhiều tác phẩm. Điều đó được thể hiện
qua việc xây dựng hệ thống nhân vật với các cấp độ: quan hệ chính diện- phản diện,
quan hệ giới, quan hệ lứa tuổi.
Về không gian nghệ thuật, các nhà văn nữ đặt nhân vật trong nhiều vùng
không gian khác nhau. Nếu như không gian ngôi nhà làm nổi bật lên nét đẹp truyền
thống của các nhân vật nữ: cần cù, siêng năng, yêu chồng thương con hết mực thì
với không gian xã hội, các nhân vật nữ có điều kiện thuận lợi để giao lưu với thế
giới bên ngoài giúp họ năng động, giỏi giang và thành đạt trong xã hội hiện đại.
Các tác giả nữ cũng đặt nhân vật trong vùng không gian đô thị và nông thôn.
Ở nông thôn, các nhân vật nữ hòa mình trong khoảng trời rộng mở, trong những bãi
lúa nương dâu, những con đường thênh thang bóng mát và những mái nhà yên ả,
thanh bình. Đến với không gian đô thị, họ lại hòa nhập với nhịp sống gấp gáp mau
lẹ của thời đại, với những con đường bụi bặm và dòng xe cộ qua lại không ngớt.
Nhân vật nhiều khi đã đánh mất sự ngây thơ, trong trẻo thưở bé để thích nghi với
cuộc sống, có những phụ nữ, ngược lại, muốn tìm cách thoát khỏi cuộc sống nhộn
nhịp, ồn ào này để tìm về với cái bản nguyên… Các tác giả nữ, qua đó, muốn phản
ánh thực trạng của xã hội Hàn ngày nay, đó là sự dịch chuyển từ nông thôn ra thành
thị, hệ quả từ một nền công nghiệp hóa nhanh chóng.
Ngoài ra, không gian thiên nhiên cũng được các nhà văn nữ đặc biệt chú ý.
Không chỉ xây dựng không gian bóng tối như một biểu tượng của sự mất mát về
tinh thần của các nhân vật mà các tác giả còn xây dựng không gian khu rừng tràn
ngập cây cối và những trận mưa xối xả. Có thể thấy, thiên nhiên đã là một công cụ
---153---
soi thấu tâm can, cõi lòng nhân vật và là nơi nương tựa, nguồn an ủi, vỗ về cho con
người trước những mất mát về tinh thần.
Về thời gian nghệ thuật, trong sáng tác của các nhà văn nữ, một vấn đề dễ
dàng nhận thấy là tác giả đặt thời gian vĩnh hằng của vũ trụ bên cạnh thời gian hữu
hạn của đời người để từ đó, con người nhận thức được giá trị của thời gian và sử
dụng nó một cách hợp lí. Các nhân vật trong tác phẩm có người chưa nhận thức
được giá trị của thời gian, họ để mặc cho thời gian với tuổi xuân qua đi không hối
tiếc, có một số nhân vật khác đã nhận thấy dòng thời gian như một thế lực vô hình
rượt đuổi số phận để rồi lại nuối tiếc quãng thời gian đã qua. Song song với thời
gian vũ trụ và thời gian đời người, các nhà văn nữ cũng rất chú ý đến thời gian sự
kiện và thời gian tâm lí. Có thể nói, các nhà văn đã lấy nhịp thời gian tuần hoàn với
các sự kiện khách quan bên ngoài làm nền cho những dòng chảy tâm lí, để từ đó,
nổi bật lên tính cách của nhân vật và tác phẩm vì thế cũng tăng sức gợi, sức thu hút
mạnh mẽ nơi độc giả.
Kết cấu tác phẩm cũng được các nhà văn nữ khai thác triệt để thông qua việc
xây dựng trình tự kể chuyện, nhịp điệu kể chuyện và phương thức tự sự. Ở trình tự
kể chuyện, các tác giả nữ sử dụng kiểu kể chuyện truyền thống với kết cấu theo
trình tự thời gian tuyến tính. Các sự kiện và tình tiết trong truyện cứ nối nhau theo
trật tự trên trục ngang thời gian, có cao trào, có đỉnh điểm và có kết thúc. Với kiểu
kết cấu này, người đọc phải quan sát, chăm chú từ đầu tới cuối mới biết được kết
cục của tác phẩm. Bên cạnh đó, các nhà văn cũng sử dụng kết cấu đảo lộn trình tự
thời gian tuyến tính, theo đó, câu chuyện sẽ được mở đầu bằng tình huống kết
truyện, sau đó mới là những sự kiện dẫn dắt độc giả trở về tình huống đầu tiên, cũng
là tình huống nguyên nhân của truyện. Nhờ kết cấu này, các nhà văn nữ đã tạo ra sự
hấp dẫn bởi chiến thuật khơi gợi trí tò mò của độc giả, khi bắt gặp một sự kiện lạ
mở đầu câu chuyện, độc giả không thể không chăm chú quan sát các tình tiết để tìm
nguyên nhân, tìm ra câu trả lời.
Ngoài việc khéo léo sắp xếp các trình tự kể chuyện phù hợp cho mỗi câu
chuyện, các nhà văn đã dụng công xây dựng nhịp độ kể chuyện. Với kết cấu hành
---154---
động và kết cấu tâm lí, tác giả đưa người đọc phiêu lưu qua từng chặng đường với
nhịp độ kể chuyện khi tăng tiến, dồn dập (lúc miêu tả các sự kiện, các tình tiết) khi
chậm rãi (lúc miêu tả tâm lí nhân vật, những suy tư, lắng đọng của tâm hồn). Với
kết cấu vòng tròn (kiểu kết cấu với câu chuyện được kể theo trình tự hiện tại- quá
khứ- hiện tại), nhịp độ kể chuyện thường chầm chậm, không có biến cố, không có
sự thay đổi đột ngột nào. Ở những câu chuyện ấy, nhân vật sống trong thực tại
nhưng luôn mơ về quá khứ với những kỉ niệm xa xăm. Kết truyện ở những tác
phẩm này là nhân vật trở về cuộc sống thường nhật, với quãng thời gian nhịp nhàng
trôi qua, không có thay đổi rõ rệt nào về cuộc sống thực tại.
Với phương thức tự sự, các nhà văn nữ đã xây dựng người kể chuyện và điểm
nhìn phù hợp cho mỗi tác phẩm. Có thể nói, nhờ tiếp biến những kĩ thuật hiện đại
của phương Tây mà các nhà văn nữ đã tạo ra những cách kể chuyện vô cùng hấp
dẫn. Đó là sự kết hợp nhiều ngôi kể, nhiều điểm nhìn chỉ trong một tác phẩm, chính
nhờ kỹ xảo kể chuyện thú vị này phối hợp với những yếu tố tình cảm đã tạo nên
những tác phẩm văn chương có thể đánh động đến góc sâu thẳm nhất trong trái tim
mỗi người.
4. Đối với đề tài này, chúng tôi đề xuất một số hướng nghiên cứu cần thực
hiện tiếp như sau:
Thứ nhất, tác phẩm Hãy chăm sóc mẹ là một tác phẩm tích hợp rất nhiều yếu
tố hiện đại về thi pháp. Vì vậy, hướng nghiên cứu tiếp theo mà chúng tôi đề xuất đó
là nghiên cứu về biểu tượng nghệ thuật trong tác phẩm Hãy chăm sóc mẹ của Shin
Kyung-sook.
Thứ hai, có thể nghiên cứu so sánh các tác phẩm viết về người phụ nữ trong
văn học Hàn với các tác phẩm trong khu vực Nho giáo như Việt Nam, Trung Quốc,
Nhật Bản. Để từ đó, thấy được ảnh hưởng của tư tưởng này tới số phận và cuộc đời
người phụ nữ.
---155---
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Andrew C.Nahm (2005), Lịch sử và văn hóa bán đảo Triều Tiên, Nguyễn
Kim Dân dịch, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. A.Gheerbrant, Jean Chevalier (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
Phạm Vĩnh Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh, Nguyên Ngọc, Vũ
Đình Đình, Nguyễn Văn Vỹ (dịch), Nxb Đà Nẵng.
3. Trần Thị Lan Anh (2012), “Hiện thực nông thôn Triều Tiên và Việt Nam
những năm 1930 dưới ách thống trị của thực dân được phản ánh trong tác
phẩm văn học của Park Jeong Jun và Ngô Tất Tố”, Kỉ yếu hội thảo khoa học
quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
4. Phạm Văn Ánh (2012), “Thể loại từ ở Hàn Quốc trong sự so sánh với truyền
thống từ học Đông Á”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Quan hệ Việt Nam-
Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường ĐHKHXH&NV,
TP.HCM.
5. Trần Vĩnh Bảo (2007), Một vòng quanh các nước: Hàn Quốc, Nxb Văn hóa
thông tin, Việt Nam.
6. Trần Mạnh Cát (2005), “Hôn nhân và địa vị của người phụ nữ Hàn Quốc”,
Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 6, tr 27-34.
7. Nguyễn Long Châu (1997), Nhập môn văn học Hàn Quốc, Nxb Giáo dục,
TP.HCM.
8. Nguyễn Long Châu (2000), Tìm hiểu văn hoá Hàn Quốc, Nxb Giáo dục,
Tp.HCM.
9. Nhật Chiêu (2010), “Han Yong-un và Hàn Mặc Tử: Thơ ca của niềm im
lặng”, Kỉ yếu hội thảo quốc tế Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và
các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
---156---
10. Cho Dong Il, Seo Dae Seok, Lee Hai Soon, Kim Dae Haeng, Park Hee-
Byoung, Oh Sae Young, Cho Nam Hyon (2010), Những bài giảng văn học
Hàn Quốc, Trần Thị Bích Phượng dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Lý Xuân Chung (2007) “Tìm hiểu đôi nét về văn học chữ Hán Hàn Quốc”,
Tạp chí Hán Nôm, Số 6, tr 13-21.
12. Mai Ngọc Chừ (2010), “Một số đặc điểm tương đồng giữa thơ mới Hàn
Quốc và thơ mới Việt Nam”, Kỉ yếu hội thảo quốc tế Quá trình hiện đại hóa
văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
13. Hà Đan (2011), “Khuynh hướng lịch sử hóa huyền thoại trong huyền thoại
lập quốc của Việt Nam, Korea (Hàn Quốc) và Nhật Bản”, Kỉ yếu hội thảo
khoa học quốc tế Việt Nam và Korea trong phối cảnh Đông Á, Trường
ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
14. Jeon Hye Kyung (2004), Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kì Hàn
Quốc-Trung Quốc- Việt Nam, Lý Xuân Chung dịch, Nxb Đại học quốc gia,
Hà Nội.
15. Jeon Hye Kyung (2005), Nghiên cứu so sánh truyện cổ Hàn Quốc- Việt
Nam, Lý Xuân Chung dịch, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
16. Jeon Hye Kyung (2009), “Nghiên cứu so sánh truyện Kong Chuy Pat Chuy
của Hàn Quốc và truyện Tấm Cám của Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu văn
học, số 3.
17. Jung Yi-hyun (2012), Seoul ngọt ngào, Đinh Thị Kiều Oanh dịch, Nxb Hội
nhà văn.
18. La Mai Thi Gia (2010), “Những hạt ngọc thơ Hàn đầu thế kỉ XX”, Kỉ yếu
hội thảo quốc tế Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu
vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường
ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
19. La Mai Thi Gia (2012), “So sánh vị trí, chức năng của các motif chính
trong truyện cổ tích Nàng ốc sên của Hàn Quốc và Người lấy cóc của Việt
---157---
Nam”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ
quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
20. Lê Thị Thu Giang (2003) “Ý thức gia đình Nho giáo trong cách suy nghĩ
của người Hàn Quốc”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 6, tr 44- 48.
21. Đoàn Lê Giang, Kim Hye Soon (2012), “Chong Cheol- nhà thơ kasa kiệt
xuất của Hàn Quốc”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Quan hệ Việt Nam-
Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường ĐHKHXH&NV,
TP.HCM.
22. Han Kang (2010), Người ăn chay, Hoàng Hải Vân dịch, Nxb Trẻ, Tp.HCM.
23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2006), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Hee, Oh Jung (2005), Ván bài lúc hoàng hôn, Hoàng Hải Vân dịch, Nxb
Văn học, Tp.HCM.
25. Lê Đăng Hoan (2010), “Dịch tập thơ “sự im lặng của tình yêu” và một vài
cảm nhận về tình yêu nhân dân và yêu tổ quốc của Han Yong-un”, Kỉ yếu
hội thảo quốc tế Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu
vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường
ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
26. Hoo, Lee Nam (2009), Tìm hiểu văn học Hàn Quốc thế kỷ XX, Hoàng Hải
Vân dịch, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.
27. Hong, Ha Jae (2005), Tính hiện thực trong một số tác phẩm văn học của
Việt Nam và Hàn Quốc về chiến tranh Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường
ĐHKHXH& NV, Tp.HCM.
28. Nguyễn Thị Hiền (2010), “So sánh Gu-in-hoe (Cửu nhân hội) và Tự lực văn
đoàn”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và
các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
29. Nguyễn Thị Hiền (2011), “Không gian đô thị trong thơ Hàn Quốc và Việt
Nam những năm 30- 40”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam và
Korea trong phối cảnh Đông Á, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
---158---
30. Phan Thu Hiền (viết chung với Lê Chí Quế) (2004), “Huyền thoại lập quốc
Korea và Việt Nam”, Tạp chí Vietnam Studies, Seoul, Korea.
31. Phan Thu Hiền (2010), “Yếu tố nội sinh và ngoại sinh trong sự hình
thành, phát triển “Văn học mới” Korea từ những phối cảnh nghiên cứu”, Kỷ
yếu hội thảo quốc tế Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước
khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường
ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
32. Phan Thu Hiền (2011), “Sức hấp dẫn nữ tính của Hàn lưu (làn sóng văn hóa
Hàn Quốc) ở Đông Nam Á”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam và
Korea trong phối cảnh Đông Á, ĐH KHXH-NV, TP.HCM.
33. Phan Thu Hiền (2012), “Sự hình thành bản sắc Korea qua hương ca
(hyangga)”, Kỷ yếu hội thảo khoa học Hoàng thúc Lý Long Tường và mối
quan hệ hợp tác Việt Nam – Korea từ quá khứ đến hiện tại, Đại học Ngoại
ngữ- Tin học TP. HCM.
34. Phan Thu Hiền (2012), “Truyền thuyết Man nương của Việt Nam và vu ca
Tanggeum Aegi của Korea (nghiên cứu so sánh)”, Kỉ yếu hội thảo khoa học
quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
35. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
36. Nguyễn Việt Hùng (2011), “Kiểu truyện vọng phu ở châu Á và Việt Nam”,
Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam và Korea trong phối cảnh Đông
Á, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
37. Nguyễn Thị Dư Khánh (2006), Thi pháp hoc và vấn đề giảng dạy văn học
trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Trần Hữu Kham (2002), Truyện cổ Hàn Quốc, Nxb Trẻ, Việt Nam.
39. Komisook - Jungmin- Jung Byung Sul (2006), Văn học sử Hàn Quốc- Từ
cổ đại đến cuối thế kỉ XIX, Jeon Hye Kyung- Lý Xuân Chung dịch, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
40. Ki-baik Lee (2002), Korea xưa và nay, lịch sử Hàn Quốc tân biên, Lê Anh
Minh dịch, Nxb TP HCM.
---159---
41. Kwon Jeong Saeng (2007), Mong Sil, Ahn Kyong Hwan dịch, Nxb Trẻ,
Tp.HCM.
42. Gina L. Barnes, Huỳnh Văn Thanh dịch (2004) Trung Quốc, Triều Tiên và
Nhật Bản, đỉnh cao văn minh Đông Á, NXB Tổng Hợp T.P. Hồ Chí Minh.
43. G.N. Poxpelop chủ biên (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình
Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch, Nxb Giáo dục.
44. Nam Liên (1978) “Người phụ nữ trong sáng tác của một số nhà văn tiến bộ
Ấn Độ (nửa cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX)”, Văn học số 169, tr 114- 123.
45. Đặng Văn Lung (chủ biên) (2002), Tiếp cận văn hoá hàn Quốc, NXB Văn
hoá- Thông tin, Hà Nội.
46. Trần Thị Thu Lương, Nguyễn Thị Phương Mai, Lê Hiền Anh (2010),
Những đặc trưng văn hóa Hàn quốc từ truyền thống đến hiện đại, Nxb Tổng
hợp, TP. HCM.
47. Phương Lựu chủ biên (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Ngô Trà Mi (2012), “Ko Un và cuộc thiền hành trong thế giới thơ ca”, Kỉ
yếu hội thảo khoa học quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ,
hiện tại tới tương lai, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
49. Đỗ Thanh Thảo Miên & Đỗ Tiến Thắng (2009), “Thời gian và không gian
trong một tập truyện ngắn Hàn Quốc”, Giáo dục ngôn ngữ Việt- Hàn, số 6,
Hội ngôn ngữ học Việt Nam.
50. Kim Văn Ngọc (2004), Tìm hiểu văn hoá người Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Nxb Văn hoá thông tin, Việt Nam.
51. Nhiều tác giả (2002), Những vấn đề văn hoá, xã hội và ngôn ngữ Hàn
Quốc, Nxb Đại học quốc gia TP.HCM.
52. Nhiều tác giả (2011), Hội thảo quốc tế Dịch văn học và văn học dịch Hàn
Quốc ở châu Á, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
53. Nhiều tác giả (2012), Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế Tìm hiểu làn sóng
văn hóa Hàn Quốc ở Châu Á, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
54. Nguyễn Đình Phức (2011), “Quá trình tiếp nhận thuyết thần vận của Vương
Sĩ Trinh ở Việt Nam và Triều Tiên”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Việt
Nam và Korea trong phối cảnh Đông Á, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
---160---
55. Nguyễn Đình Phức (2012), “Tiếp nhận Tiễn Đăng Tân Thoại tại Hàn
Quốc”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ
quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
56. Trần Thị Phương Phương (2010), “Ảnh hưởng của phương Tây và truyền
thống dân tộc trong tiến trình hiện đại hóa dân tộc (Nghiên cứu so sánh một
số hiện tượng tiểu thuyết Việt Nam và Triều Tiên)”, Kỉ yếu hội thảo quốc tế
Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ
Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
57. Sook, Shin Kyung (2011) Hãy chăm sóc mẹ, Lê Hiệp Lâm và Lê Nguyên
Lê dịch, Nxb Hà Nội.
58. Soon, Kim Chung (2007) Kim chi và IT, Nghiêm Thị Bích Diệp và Vũ
Ngọc Anh dịch, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
59. Nguyễn Vĩnh Sơn (1997), Tìm hiểu Hàn Quốc, Viện nghiên cứu và phổ
biến tri thức bách khoa, Trung tâm quốc gia biên soạn từ điển bách khoa Việt
Nam Hà Nội.
60. Nguyễn Hữu Sơn (2012), “Tương đồng các tiểu thuyết thiền sư Hàn Quốc
và Việt Nam trước thế kỉ XIV”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Quan hệ
Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường
ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
61. Lưu Hồng Sơn dịch (2010),“Các khuynh hướng văn học ở Triều Tiên thời
Duy Tân”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản
và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
62. Lưu Hồng Sơn (2012), “Biểu tượng hoa cúc Đào Uyên Minh trong thơ ca
cổ điển Việt Nam và Hàn Quốc”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Quan hệ
Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường
ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
63. Trần Đình Sử chủ biên (2007), Giáo trình lí luận văn học, Nxb Đại học sư
phạm.
---161---
64. Trần Đình Sử (2008), Tự sự học- một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại
học sư phạm.
65. Trần Đình Sử (2011), Giáo trình thi pháp học, Nxb Đại học sư phạm.
66. Lê Thị Thanh Tâm (2010), “Kim So-wol (Kim Tố Nguyệt) và Nguyễn
Bính- nỗi buồn thương đồng điệu”, Kỉ yếu hội thảo quốc tế Quá trình hiện
đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
67. Vũ Thị Thanh Tâm (2010), “Những đóng góp của Yi Kwang Su cho văn
học Triều Tiên đầu thế kỷ XX”, Kỉ yếu hội thảo quốc tế Quá trình hiện đại
hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
68. Vũ Thị Thanh Tâm (2011), “Dấu ấn của quan niệm văn chương Trung Hoa
đến quan niệm văn chương Korea thời Choseon (1392-1910)”, Kỷ yếu hội
thảo khoa học quốc tế Việt Nam và Korea trong phối cảnh Đông Á, ĐH
KHXH-NV, TP.HCM.
69. Vũ Thị Thanh Tâm (2012), “Sijo Korea và Hát nói Việt Nam- từ điểm nhìn
so sánh”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ
quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
70. Vũ Thị Thanh Tâm (2012), Đặc điểm thơ sijo Korea, Luận văn thạc sĩ,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
71. Triệu Nhuận Tế (2010), “Các khuynh hướng văn học ở Triều Tiên thời duy
tân”, Kỉ yếu hội thảo quốc tế Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và
các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
72. Nguyễn Văn Tiệp (2012), “Gia đình Hàn, Việt- Những yếu tố tương đồng
và dị biệt”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc
từ quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
---162---
73. Lê Huy Tiêu (2000), “Vài nét về phong tục Hàn quốc”, Kỉ yếu hội thảo Văn
hóa truyền thống Việt Nam- Hàn Quốc trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tr 49-51.
74. Lê Huy Tiêu (2012), “Tiểu thuyết của Pak Chi Won (Phác Chí Nguyên)-
Một nhà văn của phái Thực học Triều Tiên”, Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc
tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường
ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
75. Lê Huy Tiêu (2012), “Nhâm Thìn Lục (Im Jin Nok)- tiểu thuyết quốc ngữ
Triều Tiên viết về cuộc chiến tranh Triều- Nhật”, Kỉ yếu hội thảo khoa học
quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
76. Chương Thâu (2005), “Vài nét tương đồng về lịch sử và văn hóa giữa Việt
Nam và Hàn Quốc thời cận đại”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 3,
tr 41- 43.
77. Trần Ngọc Thêm (2004), “Vai trò của tính cách dân tộc trong tiến trình phát
triển ở Hàn Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 6-2004.
78. Lê Quang Thiêm (1998) Văn hóa văn minh và yếu tố văn hóa truyền thống
Hàn, NXB Văn học, Hà Nội.
79. Lê Quang Thiêm (2000), “Văn hoá truyền thống trong Hàn Quốc hiện đại”
Kỷ yếu Hội thảo Văn hoá truyền thống Việt Nam Hàn Quốc trong sự nghiệp
công nghiệp hoá và hiện đại hoá, ĐH Dân lập Ngoại ngữ - Tin học Tp. Hồ
Chí Minh.
80. Nguyễn Ngọc Thơ (2011), “Quan niệm chữ hiếu trong văn hóa Việt Nam
và Hàn Quốc”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam và Korea trong
phối cảnh Đông Á, ĐH KHXH-NV, TP.HCM.
81. Nguyễn Thị Hồng Thu (2001), “Hình ảnh người phụ nữ Nhật Bản qua tục
ngữ”, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 5, tr 42- 46.
82. Trần Lê Hoa Tranh (2012), “Giới thiệu văn học di dân Hàn Quốc tại Hoa
Kì và Nora Okja Keller với tác phẩm Comfort Woman”, Kỉ yếu hội thảo khoa
---163---
học quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
83. Lương Nguyễn Thanh Trang (2010), “Bước đầu gặp gỡ giữa Huyn Jin
Keon và Nam Cao ở thể loại truyện ngắn”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Quá
trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán:
Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
84. Lương Nguyễn Thanh Trang(2010), Nhập môn văn học cận đại Hàn Quốc
(1910-1945), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường 2009- 2010, Trường
ĐH KHXH &NV, Tp.HCM.
85. Kiến Văn, Nguyễn Anh Dũng biên dịch (2010), Hàn Quốc, đất nước và con
người, Nxb Thời đại, Hà Nội.
86. Hoàng Hải Vân (2010), “Nghiên cứu so sánh về nữ tính trong truyện ngắn
Oh Jung Hee và Nguyễn Thị Thu Huệ”, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Quá trình
hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Việt
Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
87. Trần Thúc Việt (2006) Văn học Korea (Triều Tiên – Hàn Quốc), Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
88. Hoàng Thị Xuân Vinh (2012) Sự tiếp nhận tác giả Shin Kyung- sook (1963)
và tác phẩm “Hãy chăm sóc mẹ” ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc
tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai, Trường
ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
89. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2011), “Hiện đại hóa văn học đầu thế kỷ XX:
Nghiên cứu so sánh trường hợp Hàn Quốc và Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo
quốc tế Quá trình hiện đại hóa văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn
hóa chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trường ĐHKHXH&NV,
TP.HCM.
90. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2012), “Sám hối và hòa giải trong hai tiểu thuyết
Hàn Quốc viết về Việt Nam (đọc Cái bóng của vũ khí của Hwang Suk Young
và Thời gian ăn tôm hùm của Bang Hyun Suk)”, Kỉ yếu hội thảo khoa học
---164---
quốc tế Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ quá khứ, hiện tại tới tương lai,
Trường ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
91. Nguyễn Thị Hải Yến (2007), Văn hóa và du lịch Châu Á: Hàn Quốc- xứ sở
kim chi lãng mạn, Nxb Thế giới, Hà Nội.
92. Phạm Thu Yến (2011), “So sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa
truyền thuyết “An Dương Vương, Mị Châu Trọng Thủy” của Việt Nam và
truyền thuyết “Công chúa Nang Rang- Ho Đông” của Hàn Quốc”, Kỉ yếu hội
thảo khoa học quốc tế Việt Nam và Korea trong phối cảnh Đông Á, Trường
ĐHKHXH&NV, TP.HCM.
93. Woo Han Yong- Park In Gee- Chung Byung Heon- Choi ByeongWoo-
Yoon Bun Hee (2009), Văn học cổ điển Hàn Quốc, Đào Thị Mỹ Khanh dịch,
Nhà xuất bản Văn nghệ, Hà Nội.
Tiếng Anh
94. Kim Hunggyu (2007), Understanding Korean literature, Translated by
Robert J. Fouser, New studies in asian culture, England.
95. Kim, Yung Chung (1976), Women of Korea: A history from ancient times
to 1945, Ehwa Womans University Press, Korea.
96. Mythili G. Rao (2011), Please look after mom essay contest, Korean
Cultural Service New York, New York.
Tài liệu từ Internet
97. Alison Reeger Cook (2011),“Please Look After Mom is a moving reflection
on motherhood”,
http://www.gainesvilletimes.com/archives/50003/
98. Bruce Fulton (2009), A Literary Talent Born at a Young Age
http://www.scribd.com/doc/22096630/KOREA-2009-VOL-15-NO-11
99. Lý Xuân Chung (2008), Đôi nét về sự tương đồng văn hóa Việt Nam- Hàn
Quốc
http://tainguyenso.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/7712/1/HoithaoHanqu
oc_TB4_07.pdf
---165---
100. Lý Xuân Chung (2008), Tú Xương (Việt Nam) và Kim Sat Kat (Hàn
Quốc): sự gặp gỡ trong thi ca.
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1762&Catid=364
101. Lý Xuân Chung (2009), Thơ văn xướng họa của các tác gia - sứ giả Việt
Nam Hàn Quốc: Những thành tựu nghiên cứu về văn bản học,
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1890&Catid=364
102. Lý Xuân Chung (2012), Tiếp biến văn hóa ở Việt Nam và Hàn Quốc:
những điểm tương đồng.
http://cks.inas.gov.vn/index.php?newsid=234&news_page=1
103. Janet Maslin (2011), A mother’s devotion, a famaly’s tearful,
http://www.nytimes.com/2011/03/31/books/kyung-sook-shins-please-look-
after-mom-review.html?_r=0
104. Helen Koh (2007), “Women and Korean literature”,
http://www.koreasociety.org/download_document/352_women_and_korean_lit
erature_by_helen_koh.html
105. Hur Yoonjin (2011), “Love of the mising: Modern Korean fiction by
women, 1990-2010”,
http://www.list.or.kr/articles/article_view.htm?Div1=7&Idx=681
106. Nguyễn Thị Ngọc Khánh (2011), Người ăn chay- vẻ đẹp của tự do,
http://thethao.tuoitre.vn/Su-kien-binh-luan/432737/Nguoi-an-chay-ve-dep-
cua-tu-do.html
107. Kim Mi-hyun (2011), His-story, Her-story, Our-story
http://spe.list.or.kr/articles/article_view.htm?Div1=22&Idx=784
108. Hoài Nam (2011), “Hai tác phẩm- một lát cắt về người phụ nữ”,
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=80&NewsId=232676
109. Nguyen Thanh Nam (2011), “Korean Novels Take Influence in Young
Vietnamese Lives”,
http://www.list.or.kr/articles/article_view.htm?Div1=6&Idx=682
---166---
110. Mai Nguyên (2011), “ Hãy chăm sóc mẹ- một câu chuyện thấm thía đến
nặng lòng”,
http://www.baomoi.com/Home/SachBaoVanTho/afamily.vn/Hay-cham-soc-
me--mot-cau-chuyen-tham-thia-den-nang-long/6578654.epi
111. Mythili G. Rao (2009), “Lost in Transit – In Kyung- sook shin’novel,
family members suffer guilt and regret when their matriarch goes missing in
a Seoul subway station”,
http://chiyoungkim.com/press/pdfs/pleaselooknyt.pdf
112. Korean modern literature in translation (2011), “Shin kyoung sook”,
http://www.ktlit.com/authors/shin-kyoung-sook
113. Park sungchang (2011), “Korean writing takes on the modern world”,
http://www.list.or.kr/articles/article_view.htm?Div1=13&Idx=662
114. Phương Từ (2009), “Mẹ không phải là một ý niệm”, http://sgtt.vn/Van-
hoa/148772/Me-khong-phai-la-mot-y-niem.html
115. Yoo Hui- sok (2009), “In search of the truth about mother in this age
through review of “Please look after mom”,
http://www.koreafocus.or.kr/design2/essays/view.asp?volume_id=88&content_
id=102711&category=G