ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------
NGUYỄN ĐÌNH NGHĨA
HUYỀN QUANG TÔN GIẢ
TỪ CUỘC ĐỜI VÀO TÁC PHẨM
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội – 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------
NGUYỄN ĐÌNH NGHĨA
HUYỀN QUANG TÔN GIẢ
TỪ CUỘC ĐỜI VÀO TÁC PHẨM Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn
Hà Nội – 2009
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài Là một hiện tƣợng tƣ tƣởng, văn hoá, văn học đặc biệt của thời đại nhà Trần, Huyền Quang đã đi vào sử sách từ rất sớm. Đã có không ít công trình
nghiên cứu về ông trên nhiều bình diện: tƣ tƣởng triết học, văn hoá dân gian, văn học…
Tuy nhiên cho tới nay, chƣa có một công trình nào nghiên cứu về Huyền
Quang một cách toàn diện, nhất quán. Xuất phát từ thực tế đó, ở luận văn này, chúng tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu tiểu sử và hành trạng của Huyền Quang qua các nguồn thƣ tịch cổ, đặt trong sự vận động tƣ tƣởng văn hoá, văn học thời
Trần để dựng lên bức tranh khái quát, tƣơng đối khách quan về nhân cách lịch sử đặc biệt này, từ đó tiến hành tìm hiểu, phân tích các trƣớc tác của ông hiện còn
đƣợc lƣu lại đến nay, cũng nhƣ tìm hiểu, phân tích về ông ở góc độ là một nhân
vật trong văn học. Lựa chọn và triển khai đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn
tìm hiểu liệu có mối liên hệ xác thực, lôgíc nào đối với Huyền Quang - từ một nhân cách lịch sử vào trong tác phẩm (trong sáng tác của ông, và trong các sáng
tác về ông với tƣ cách là một nhân vật văn học) hay không?
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là nghiên cứu Huyền Quang ở
cấp độ khái quát, nhất quán trên ba phƣơng diện: Huyền Quang - nhân vật lịch
sử; Huyền Quang - một thi nhân; Huyền Quang - nhân vật văn học. Từ ba phƣơng diện nghiên cứu về Huyền Quang, chúng tôi cũng tiến hành tìm hiểu, cắt
nghĩa và lý giải quá Trình Huyền Quang từ một nhân cách lịch sử đã đi vào trong
tác phẩm nhƣ thế nào. Liệu nhân vật hiện thực ở ngoài đời khi đƣợc phản ánh vào trong tác phẩm có mối liên hệ lôgíc nội tại hay mâu thuẫn nào không. Căn
cứ vào kết quả nghiên cứu về Huyền Quang ở ba phƣơng diện trên để đƣa ra
nhận định tổng quát, nhất quán về hiện tƣợng tƣ tƣởng, văn hóa văn học độc đáo
này.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Các thƣ tịch cổ ghi chép về tiểu sử và hành trạng của Huyền Quang có
thể kể đến nhƣ Tam tổ thực lục, Tam tổ hành trạng, Thánh đăng ngữ lục…
1
Trƣớc tác của ông cũng đƣợc đƣa vào các bộ sƣu tập: Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Kiến văn tiểu lục, Hoàng Việt thi tuyển…gần đây, các trƣớc tác còn lại
của ông đã đƣợc sƣu tập lại trong công trình nghiên cứu Thơ văn Lý - Trần của
nhóm tác giả thuộc Viện Văn học. Số lƣợng các công trình nghiên cứu về
Huyền Quang không phải là nhỏ. Theo thống kê một cách tƣơng đối của PGS.
TS Nguyễn Hữu Sơn, từ đầu những năm 1970 cho tới nay, có hơn 70 đơn vị thƣ mục tƣ liệu liên quan đến cuộc đời, hành trạng, sự nghiệp, văn tài… của vị tổ
thứ ba Thiền phái Trúc Lâm này. Những ngƣời nghiên cứu về Huyền Quang nhiều nhất có thể kể đến nhƣ Thích Thanh Từ, Thích Phƣớc Sơn, Thích Phƣớc
An, Nguyễn Lang, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Trần Quốc Vƣợng, Hoàng
Xuân Hãn, Lê Mạnh Thát, Trần Thị Băng Thanh, Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Kim Sơn… Phần lớn những đánh giá nghiên cứu này về Huyền Quang chỉ dừng lại ở mức độ của các bài viết. Gần đây
mới xuất bản cuốn Huyền Quang- cuộc đời, thơ và đạo do Giáo sƣ Trần Thị Băng Thanh chủ biên. Tuy nhiên, công trình này cũng mới chỉ là sự tập hợp các
bài viết về Huyền Quang theo từng phạm vi chủ đề, chứ chƣa phải là một công
trình nghiên cứu toàn diện, nhất quán về ông. Các tác giả nhƣ Nguyễn Phạm
Hùng, Nguyễn Hùng Hậu có nhắc tới Huyền Quang nhƣng cũng chỉ đề cập gián tiếp khi nhắc đến văn học giai đoạn Lý - Trần.
Các tác giả nhƣ Nguyễn Lang, Nguyễn Duy Hinh và những ngƣời trong
giới xuất gia nhƣ Hoà thƣợng Thích Thanh Từ, Thƣợng toạ Thích Quảng Liên,
nhóm tác giả ở Việt Triết học, Việt Phật giáo cũng nghiên cứu về Huyền Quang
với tƣ cách là đệ tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Cuốn Lược khảo tư tưởng
Thiền phái Trúc Lâm của tác giả Nguyễn Hùng Hậu, Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của tác giả Trƣơng Văn Chung, Triết học Phật
giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh lại quan tâm tới Huyền Quang ở khía cạnh
tƣ tƣởng triết học của ông và của Thiền phái Trúc Lâm.
Gần đây nhất là hội thảo về “Bảo tồn và phát huy di sản đệ tam Tổ Thiền
phái Trúc Lâm Huyền Quang và lễ hội Côn Sơn” tại Côn Sơn vào ngày 15 tháng
2 năm 2009 với các bài tham luận của các nhà nghiên cứu Văn - Sử - Triết, các
nhà văn, các nhà báo, các Hoà Thƣợng. Những bài tham luận này tập trung đánh
giá về phƣơng diện tiểu sử hành trạng, trƣớc tác của Huyền Quang, vai trò và
đóng góp của Huyền Quang đối với Thiền phái Trúc Lâm, câu chuyện giữa ông
với nàng Điểm Bích, các di sản văn hoá gắn với đệ tam Tổ này.
2
Nhƣ vậy có thể thấy, Huyền Quang đã đƣợc nghiên cứu ở rất nhiều phƣơng diện, cấp độ khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu Huyền Quang ở phƣơng
diện từ nhân cách lịch sử đã đƣợc phản ánh nhƣ thế nào vào trong tác phẩm vẫn
còn là một hƣớng nghiên cứu mở, hứa hẹn nhiều điều hấp dẫn và thú vị.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu ở đây là Huyền Quang - một hiện tƣợng tƣ tƣởng văn hoá văn học đặc biệt của thời Trần. Chúng tôi sẽ khảo sát hiện tƣợng Huyền
Quang mà cụ thể là quá trình từ một nhân vật lịch sử đã đƣợc chuyển hóa và phản ánh nhƣ thế nào vào trong tác phẩm văn học. Trong phạm vi của luận văn
này, ngƣời viết thông qua các thƣ tịch cổ, tìm hiểu tiểu sử hành trạng của Huyền
Quang, từ đó khái quát lên hình ảnh về ông, trên cơ sở con ngƣời lịch sử, chúng tôi đi sâu vào việc phân tích thơ văn của Huyền Quang, cũng nhƣ tìm hiểu hình ảnh của ông ở góc độ một nhân vật văn học. Nghiên cứu về Huyền Quang trên
cơ tƣ liệu ghi chép về ông có nhiều điểm còn chƣa đƣợc thống nhất, hơn nữa các trƣớc tác còn lại của ông cho đến nay cũng không còn nhiều. Vì vậy, chúng tôi
một mặt dựa vào các nguồn thƣ tịch cổ ghi chép về tiểu sử hành trạng và các
trƣớc tác của ông, đồng thời cũng dựa trên sự vận động tƣ tƣởng văn hoá và văn
học thời Trần với mong muốn đƣa ra những kiến giải tƣơng đối khách quan, thống nhất về hiện tuợng đặc biệt này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp khảo sát văn bản
- Phƣơng pháp thống kê - phân loại
- Phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, - Phƣơng pháp loại hình học, phƣơng pháp nghiên cứu văn bản liên
ngành.
6. Cấu trúc luận văn: Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung luận văn gồm có 3
chƣơng:
+ Chƣơng 1: Tiều sử và hành trạng Huyền Quang qua các nguồn thƣ
tịch cổ
+ Chƣơng 2: Nhà thơ Lý Đạo Tái và Tôn giả Huyền Quang
+ Chƣơng 3: Huyền Quang tôn giả - nhân vật văn học và những kết tinh
3
huyền thoại, giai thoại.
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
TIỂU SỬ VÀ HÀNH TRẠNG HUYỀN QUANG QUA CÁC
NGUỒN THƢ TỊCH CỔ
Là một hiện tƣợng tƣ tƣởng văn hóa, văn học đặc biệt ở giai đoạn Lý -
Trần nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung, Huyền Quang tôn giả đã đi vào sử
sách từ rất sớm. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về ông ở các góc độ khác
nhau: lịch sử tƣ tƣởng, văn hóa dân gian, văn học… Hầu hết các công trình
nghiên cứu đều đánh giá cao Huyền Quang ở nhiều phƣơng diện: một nhà tƣ
tƣởng lớn, một thiền gia – thi nhân, một nhân vật văn học độc đáo.
Trong chƣơng đầu của luận văn, chúng tôi muốn dựng lên một bức chân
phác họa, khái quát về vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm dựa trên các ngồn
thƣ tịch cổ, đồng thời cũng đặt đối tƣợng nghiên cứu trong sự vận động tƣ tƣởng
văn hóa, văn học của thời đại, để có đƣợc một cái nhìn tổng quát, khách quan.
Qua các nguồn thƣ tịch cổ, chúng tôi nỗ lực dựng lại hình ảnh Huyền Quang ở
bốn phƣơng diện theo tiến trình tiểu sử hành trạng của ông, đó là : Hình ảnh một
vị trí thức nho sĩ; Hình ảnh một nhà Phật học lỗi lạc – đệ tam Tổ của Thiền phái
Trúc Lâm; Hình ảnh một vị ẩn sĩ vả hình ảnh một thi nhân. Chúng tôi hi vọng
thông qua việc dựng lên bức chân dung phác họa về Huyền Quang qua các
nguồn thƣ tịch cổ, có thể phẩn nào cung cấp cho độc giả một cái nhìn toàn diện,
khách quan và thống nhất về hiện tƣợng tƣ tƣởng, văn hóa, văn học đặc biệt này.
Tuy nhiên nhƣ đã đề cập ở phần đầu luận văn, hiện các nguồn thƣ tịch cổ
ghi chép về tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của Huyền Quang còn có nhiều điểm
chƣa thống nhất. Vì vậy, trƣớc khi đi vào việc dựng lại hình ảnh khái quát của
Huyền Quang qua các nguồn thƣ tịch cổ, chúng tôi tập trung làm việc làm rõ
những vấn phức tạp trong việc nghiên cứu tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của
ông.
1.1. Vấn đề tiểu sử và trước tác của Huyền Quang
1.1.1. Vấn đề tiểu sử Huyền Quang
Đƣợc nhìn nhận ở tƣ cách vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, một đơn
4
vị tác gia văn học, một danh nhân văn hóa - lịch sử, tên tuổi, tiểu sử hành trạng
và trƣớc tác của Lý Đạo Tái - Huyền Quang tôn giả đã đƣợc lƣu lại từ rất sớm
qua nhiều nguồn thƣ tịch khác nhau. Những thƣ tịch cổ ghi chép về tiểu sử hành
trạng và trƣớc tác của Huyền Quang có thể kể đến nhƣ:
1. Tam tổ thực lục - Khuyết danh
2. Tam tổ hành trạng - Khuyết danh
3. Thiền tông bản hạnh - Khuyết danh
4. Việt Nam cao tăng lục - Khuyết danh
5. Thánh đăng ngữ lục - Khuyết danh
6. Đinh kế lịch triều đăng khoa lục - Khuyết danh
7. Lịch triều hiến chương loại chí - Phan Huy Chú
8. Kiến văn tiểu lục - Lê Quý Đôn
9. Hoàng Việt thi tuyển - Bùi Huy Bích
10. Toàn Việt thi lục - Lê Quý Đôn
11. Trích diễm thi tập - Hoàng Đức Lƣơng
12. Việt âm thi tập - Phan Phu Tiên
13. Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh - Ngô Thì Nhậm
14. Tân đính Lĩnh Nam trích quái - Vũ Quỳnh
15. Vũ trung tuỳ bút - Phạm Đình Hổ
16. Sơn cư tạp thuật - Đan Sơn
Từ kết quả liệt kê nhƣ trên, có thể thấy các nguồn thƣ tịch cổ ghi chép về
tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của Huyền Quang không phải là ít . Tuy nhiên,
những ghi chép về tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của ông trong các nguồn thƣ
tịch cổ còn có nhiều điểm chƣa đƣợc thống nhất. Điều này đã gây không ít khó
khăn cho các nhà nghiên cứu trong việc tìm hiểu, đƣa ra những nhận xét, đánh
giá mang tính khách quan, nhất quán về hiện tƣợng tƣ tƣởng văn hóa, văn học
đặc biệt này.
Trong các nguồn thƣ tịch cổ mà chúng tôi đã liệt kê ở trên, thƣ tịch ghi
chép về Huyền Quang đƣợc xem là chính thống và đầy đủ hơn cả là bản Tổ gia
thực lục trong Tam tổ thực lục. Tổ gia thực lục nói riêng và Tam tổ thực lục nói
chung đều không có tên tác giả và ngƣời hiệu khảo. Theo lời dẫn in ở cuối bản
Tam tổ thực lục thì “Quyển Tổ gia thực lục này, vào khoảng niên hiệu Tuyên
5
Đức (1426 - 1435) đời nhà Minh, Thƣợng thƣ Hoàng Phúc thấy đƣợc, liền mang
về nhà Minh (…). Đến khoảng năm Gia Tĩnh (1522 - 1558) nhà Minh, Tô Xuyên
Hầu đi sứ sang nhà Minh, tới 19 năm sƣ giả mới trở về. Cháu bốn đời của Hoàng
Phúc là Hoàng Thừa Tổ, làm quan chuyển vận (…) đã gửi cho Tô Xuyên Hầu
đem về (…). Trình Tuyền Hầu (Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm) nhân đến
chúc mừng đoàn sứ giả về nƣớc, bèn nhận sách đem về. Sau đó Trình Tuyền Hầu
có làm văn chú thích sách này”. [56, tr. 90]
Nhƣ vậy, Tổ gia thực lục sau khi đƣợc tìm thấy đã đƣợc ghép với hai phần
trƣớc chép về Điều Ngự Giác Hoàng – Trúc Lâm đệ nhất Tổ và Pháp Loa – đệ
nhị Tổ (khoảng thế kỷ thứ XIV) để thành ra sách Tam Tổ thực lục và đƣợc lƣu
hành vào khoảng giữa thế kỷ XVI. Theo Tổ gia thực lục trong Tam tổ thực lục
thì Huyền Quang sinh năm Giáp dần (1254): “Tổ ở phía Đông Nam chùa Ngọc
Hoàng, tại Lang Am, làng Vạn Tải, hạ lƣu sông Bắc Giang (khoảng năm Hồng
Đức (1470 - 1497) đổi thành huyện Gia Định, xã Vạn Tƣ (nay thuộc xã Thái
Bảo, huyện Gia Lƣơng, tỉnh Bắc Ninh); tổ tiên chín đời của Tổ là Lý Ôn Hoà
làm quan Hành khiển dƣới triều vua Lý Thần Tông (1128 - 1138). Ôn Hoà sinh
Lƣơng, Lƣơng sinh Nhƣợng, Nhƣợng sinh Minh Doãn, Minh Doãn sinh Khâm,
Khâm sinh Quang Dụ (làm quan chuyển vận đời Trần), Quang Dụ sinh 4 ngƣời
con trai: ngƣời trƣởng tên là Tráng, ngƣời kế tên Tƣớng, ngƣời thứ ba tên Thành
và ngƣời út tên Tuệ Tổ. Tuệ Tổ là Tổ phụ của Tổ sƣ. Lúc còn làm học trò, nhân
Chiêm Thành sang cƣớp phá, ông đánh giặc có công, nhƣng không ra làm quan,
chỉ vui thú điền viên, ƣu du qua ngày tháng, lại thích xem sách hay và chuyện lạ.
Mẹ Tổ là Lê Thị, vốn là ngƣời đàn bà hiền đức, chiều chuộng chồng con, kính
thờ cha mẹ chồng” [56, tr. 77-78].
Theo Tổ gia thực lục thì Huyền Quang xuất thân từ một gia đình thi thƣ, có
khiếu văn chƣơng từ nhỏ. Năm 20 tuổi, ông đỗ thi Hƣơng, năm 21 tuổi ông thi
tiếp khoa thi Hội và đỗ Trạng nguyên. Sau khi thi đỗ, ông đƣợc bổ làm việc trong
viện Hàn lâm, phụng mệnh tiếp sứ giả phƣơng Bắc. Năm 1305, nhân đi theo vua
Anh Tông (1293 - 1314) đến chùa Vĩnh Nghiêm, thấy quốc sƣ Pháp Loa (1284 -
1330) đang hành đạo, lòng sinh ngƣỡng mộ, nhớ lại duyên xƣa, ông bùi ngùi cảm
thán rằng: “Làm quan lên Bồng Đảo, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là
Tiên, cảnh giới Tây phƣơng là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu,
6
mây trắng ngày hạ, há nên lƣu luyến mãi” [56, tr. 80]. Nhân đó ông dâng biểu xin
từ chức để xuất gia học đạo tu hành. Cũng theo Tổ gia thực lục thì ông thọ giáo
với Thiền sƣ Pháp Loa và đƣợc pháp hiệu là Huyền Quang. Sau đó Huyền Quang
phụng mệnh đệ nhất tổ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đến trụ trì ở chùa
Vân Yên (đến đời Hồng Đức (1470 - 1497) đổi tên thành chùa Hoa Yên) núi Yên
Tử. Với học vấn sâu rộng lại tinh thông Phật pháp, Tăng, Ni theo học ông đông
đến hàng nghìn ngƣời. Điều Ngự còn sai ông biên soạn Chư phẩm kinh, Công văn
tập và các sách khác…Ông đƣợc Điều Ngự hết sức yêu quý và đánh giá rất cao về
trình độ học vấn. Sau khi Điều Ngự mất, ông đã phò tá Pháp Loa hơn hai mƣơi
năm (1309 – 1330) và đóng góp không nhỏ cho sự hƣng thịnh của Thiền phái Trúc
Lâm. Năm 1330, Pháp Loa mất, ông nối tiếp làm vị Tổ thứ ba của dòng Thiền
Trúc Lâm. Về cuối đời, Huyền Quang cƣ trú ở núi Thanh Mai sáu năm, rồi về trụ
trì ở Côn Sơn. Ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334), Huyền Quang viên
tịch tại chùa Côn Sơn, thọ 80 tuổi. Đến ngày 24, tin tức mới về tới làng Vạn Tải,
nên dân làng lấy ngày này làm ngày giỗ của ông.
Mặc dù Tổ gia thực lục trong Tam tổ thực lục đƣợc xem là nguồn thƣ tịch
ghi chép tƣơng đối đầy đủ và chính thống hơn cả về tiểu sử và hành trạng của
Huyền Quang (Các nguồn thƣ tịch ghi chép về Huyền Quang vể sau cũng thƣờng
dựa vào bản Tổ gia thực lục này), nhƣng tính xác thực nó cũng chỉ dừng lại ở đôi ba
điểm mốc quan trọng trong tiểu sử hành trạng của Huyền Quang, bên cạnh những
sự kiện khác còn gây nhiều tranh cãi và nghi hoặc. Qua Tổ gia thực lục, chúng ta
cũng mới chỉ xác định đƣợc quê quán, gia thế, năm sinh năm mất của Huyền
Quang. Ông đƣợc sinh ra trong một gia đình có truyền thống thi thƣ, từng kinh qua
cửa Khổng sân Trình, nhƣng sau đó ông xuất gia. Với học thuật uyên thâm, ông trở
thành vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm và có những đóng góp rất quan trọng
cho sự hƣng thịnh của Thiền phái này.
Tổ gia thực lục nói riêng và Tam tổ thực lục nói chung, trong quá trình ghi
chép tiểu sử, với mục đích đề cao tài năng và phẩm hạnh của của các vị Tổ, đã
thần thánh hóa họ bằng vô số những yếu tố kỳ ảo. Điều này đã “vi phạm”, mục
đích biên soạn “thực lục” - ghi chép đúng sự thực. Các vị Tổ Trúc Lâm, đặc biệt
là Tam Tổ Huyền Quang đã đƣợc thần thánh hóa bằng những yếu tố kỳ ảo,
những vầng hào quang huyền diệu xung quanh tiểu sử hành trạng một cách đậm
7
đặc. Chính vì vậy mà Tổ gia thực lục nói riêng và Tam tổ thực lục nói chung đã
chứa đựng những yếu tố vƣợt khỏi chức năng tôn giáo, ghi chép tiểu sử các vị
thiền sƣ, tạo mầm mống cho việc hình thành những văn bản mang đậm chất văn
học đích thực về sau. Các tác giả trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa
đầu thế kỷ XVIII do Đinh Gia Khánh chủ biên đã có nhận xét rất đúng: So với
Thiền uyển tập anh, thì Tam tổ thực lục ít có giá trị sử học hơn. Điều này cũng
đƣợc tác giả Việt Nam Phật giáo sử luận - Nguyễn Lang khẳng định, đặc biệt là
với bản Tổ gia thực lục. Theo Nguyễn Lang thì: Tổ gia thực lục có ghi nhiều chi
tiết về những sự kiện liên hệ tới Huyền Quang, ví dụ nhƣ tên họ của tổ tiên ông
từ đời Lý Thần Tông, khiến ta có thể tin rằng sách đã viết trên những căn cứ xác
thực. Tuy nhiên vì tác giả dựa trên những điều thuật lại mà không căn cứ vào thƣ
tịch có trƣớc, cho nên sách cũng có một số chi tiết không phù hợp với sự thật. So
với hai phần trƣớc trong sách Tam tổ thực lục, giá trị lịch sử của phần này hẳn là
kém hơn một bực.
Nhƣ Nguyễn Lang nhận xét, ở bản Tổ gia thực lục, bên cạnh những điểm
tƣơng đối xác thực về tiểu sử hành trạng của Huyền Quang còn có không ít
những điểm còn gây nhiều tranh cãi, ghi ngờ hoặc nhầm lẫn nhƣ: Huyền Quang
“dâng biểu đến ba lần xin từ chức để xuất gia học đạo tu hành. Thuở ấy vua đang
tôn sùng Phật giáo, nên ngƣời chấp nhận. Khi đƣợc phép vua, Tổ liền thọ giáo
với Thiền sƣ Pháp Loa, đƣợc pháp hiệu là Huyền Quang” [Tam tổ, tr.80]. Thực
ra thì sau khi xuất gia, Huyền Quang thọ giáo với Bão Phác, là đệ tử của Bảo
Phác ở chùa Vũ Ninh, điều này đã đƣợc ghi rất rõ trong bản tiểu sử của Pháp Loa
ở Tam tổ thực lục. Việc ông đỗ khoa thi Hƣơng năm 20 tuổi và thủ khoa kì thi
Hội năm sau đó rồi đƣợc bổ vào chức quan Hàn lâm… cũng rất khó xác định.
Hơn thế nữa, bủa vây xung quanh tiểu sử hành trạng của ông là hàng loạt những
truyền thuyết, huyền thoại và giai thoại nhƣ các chi tiết: mẹ ông đến núi Chu Sơn
hái thuốc, gặp lúc trời hè nắng gắt, ngồi nghỉ dƣới bóng chùa Ma Cô tiên, mơ
thấy một con khỉ lớn, đầu đội mũ triều thiên, mình mặc áo hoàng bào, ôm mặt
trời hồng ném vào lòng, bà giật mình tỉnh giấc, thấy lòng rung động và có thai…
khi ông sinh ra có tia sáng mờ ảo, mùi hƣơng thơm phức… rồi đến câu chuyện
hƣ hƣ thực thực giữa ông và nàng Bích, chi tiết ông dùng pháp thuật để giải toả
mối nghi oan và chứng tỏ cho đạo hạnh của mình… tất cả những yếu tố kỳ ảo
8
này đã hoàn toàn vƣợt khỏi phạm vi sử liệu và chức năng của một văn bản tôn
giáo, đồng thời đem đến cho Tổ gia thực lục những yếu tố, dấu ấn văn học khá
đậm nét.
Việc tiểu sử hành trạng của Huyền Quang đƣợc bao phủ bởi những truyền
thuyết, huyền thoại và giai thoại một cách đậm đặc nhƣ vậy đã làm cho tính xác
thực của những tƣ liệu ghi chép về ông có không ít điều cần phải bàn xét. Đối
chiếu các thƣ tịch chép về Huyền Quang, chúng ta thấy một số điểm không đồng
nhất nhƣ:
Về tên gọi, theo Tam tổ thực lục (Thế kỷ XIV) tên ông là Lý Tải Đạo; theo
Tân đính Lĩnh Nam chích quái (Vũ Quỳnh -1505), tên ông là Lý Kiên Cƣơng; theo
Toàn Việt thi lục (Lê Quý Đôn - 1786), tên ông lại là Trần Đạo Tái…
Theo Tam tổ thực lục, năm 20 tuổi ông đỗ khoa thi Hƣơng, năm 21 tuổi
tham gia kì thi Hội và đỗ Trạng nguyên, sau khi đậu, ông đƣợc bổ vào chức quan
Hàn lâm, phụng mệnh tiếp sứ giả phƣơng Bắc, làm quan đến năm 51 tuổi mới
xuất gia. Theo sách Đỉnh kế lịch triều đăng khoa lục, sau khi thi đỗ, ông đƣợc cử
làm quan ở Viện Nội hàn, nhƣng không lâu thì xin từ chức và đi tu. Theo sách
Tam tổ hành trạng, ông có thi đỗ Trạng nguyên, song không chịu làm quan mà
xin vua Trần cho xuất gia vào núi tu hành. Theo Hoàng Việt thi văn tuyển của
Bùi Huy Bích thì ông họ Trần, 9 tuổi đã biết làm văn thơ, 19 tuổi vào chùa tu
hành, đƣợc Trần Anh Tông đặt hiệu là vị tổ Trúc Lâm thứ ba… Theo “Huyền
Quang hành” trong Yên Tử sơn tự tăng (Sƣ chùa núi Yên Tử) của Đan Sơn thì
“Huyền Quang là ngƣời Vạn Tải, huyện Gia Định. Năm Anh Tông thứ năm
(1297), ông thi Hƣơng đỗ Giải nguyên; năm thứ sáu (1298) thi Hội đỗ Tiến sĩ,
Trạng nguyên cập đệ” [80, tr. 185]. Và cũng theo tác giả Đan Sơn thì “Xét quốc
sử và Đăng khoa lục thì không có kỳ thi Hội nào vào năm Anh Tông thứ sáu.
Câu chuyện do thế tục truyền tụng so với những điều ghi chép ở đây là hoàn toàn
khác nhau” [80, tr. 186].
Việc Huyền Quang - Lý Đạo Tái có đỗ Trạng hay không và nếu đỗ thì là
vào năm nào? Hiện vẫn chƣa có tài liệu nào ghi chép đƣợc rõ ràng. Theo
PGS.TS Trần Thị Băng Thanh, căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư thì “hai năm
Quý Dậu, Giáp Tuất (1273/1274), không có thi Hƣơng, thi Hội. Mãi đến năm Ất
Hợi (1275) triều đình mới mở khoa thi tuyển ngƣời, lấy đỗ Trạng nguyên Đào
9
Tiêu, Thám hoa Lang Quách Nhẫn và 27 Thái học sinh. Nhƣ vậy nếu Huyền
Quang đi thi thì tên ông chỉ có thể nằm trong danh sách 27 Thái học sinh đó chứ
không đỗ Trạng” [80, tr. 39]. Cũng theo bà Băng Thanh thì nếu Lý Đạo Tái sau
khi thi đỗ, đƣợc bổ sung vào chức quan Hàn lâm, phụng mệnh tiếp sứ giả
phƣơng Bắc thì sao lại không có tên ông? Trong khi thời kỳ này cuộc đấu tranh
ngoại giao giữa ta và nhà Nguyên rất gay gắt, làm nảy sinh mảng văn xuôi dƣới
dạng thƣ từ biểu tấu rất giàu chất nghị luận, Các bậc cầm bút có công nhƣ Đinh
Củng Viên… đều đƣợc ghi trong sử sách? Có thể các nhà chép sử đã bỏ sót tên
Huyền Quang nhƣng cũng có thể “Huyền Quang không phải là một nhân vật nổi
tiếng trong quan trƣờng đƣơng thời. Ông không đỗ cao khoa, cũng không mặn
mà với đƣờng khoa hoạn. Ông đã là một bậc “đại ẩn” ngay từ khi giữ công việc
từ hàn” [80, tr. 39].
Các nguồn thƣ tịch cổ ghi chép về Huyền Quang nhìn chung khá vắn tắt,
bên cạnh đấy lại còn có không ít những điểm mờ khó xác định. Hơn thế nữa, tiểu
sử hành trạng của Huyền Quang lại hầu nhƣ không đƣợc chép trong chính sử. Cả
Đại Việt sử ký toàn thư và Lịch triều hiến chương loại chí đều không chép gì về
Huyền Quang.
Với đặc điểm “văn - sử - triết bất phân” trong văn học trung đại phƣơng
Đông nói chung và văn học trung đại Việt Nam nói riêng, hiện tƣợng một nhân
vật lịch sử nhƣ Huyền Quang với tiểu sử hành trạng có nhiều điểm chƣa thật rõ
ràng qua các nguồn thƣ tịch không phải là một trƣờng hợp ngoại lệ cá biệt. Ngay
đến Lão Tử, một nhà tƣ tƣởng lớn của Trung Quốc sống ở thời nhà Chu, cho đến
nay, việc xác định ông sinh năm nào, mất ở đâu, thọ bao nhiêu tuổi vẫn chỉ là
ƣớc lệ... Ở Việt Nam, thiền sƣ Vạn Hạnh - ngƣời có công rất lớn trong việc kiến
tạo nên vƣơng triều nhà Lý, ngƣời ta mới chỉ xác định đƣợc năm ông mất (1018)
mà chƣa rõ ông sinh là năm nào. Hay nhƣ Chu Văn An, ngƣời đƣợc coi là bậc
“đại nho quán thế” trong lịch sử nƣớc ta, sau khi mất, ông đƣợc rƣớc vào thờ ở
Văn Miếu, cũng chỉ mới xác định đƣợc năm mất (1370) mà chƣa rõ năm sinh
(Có tƣ liệu cho rằng ông sin năm 1292?)… Đây là một nét khá đặc thù trong văn
hóa văn học phƣơng Đông Trung đại do tình trạng lƣu trữ, bảo quản yếu kém về
tƣ liệu, việc giữ gìn văn hiến văn hóa chƣa đƣợc đặt ra một cách nghiêm mật.
10
Hiện tƣợng Huyền Quang cũng không nằm ngoài tình trạng trên.
Vấn đề tiểu sử hành trạng Huyền Quang đƣợc Huyền thoại hóa, giai thoại
hóa cũng không nằm ngoài quy luật phổ biến đối với các nhân vật nổi tiếng xƣa
nay ở cả Đông lẫn Tây. Tuy vậy, Huyền Quang là một trong số rất ít những tên
tuổi mà tiểu sử và hành trạng lại đƣợc huyền thoại hóa và đặc biệt đƣợc giai
thoại hóa ở mức cực cao và đậm đặc đến nhƣ vậy. Điều này càng có ý nghĩa lớn
khi đặt Huyền Quang trong bối cảnh của sự chuyển giao tƣ tƣởng, văn hóa, văn
học Trung đại ở thế kỷ XIV - XV. Rõ ràng đến thời đại Huyền Quang, trong văn
học đã ẩn chứa một sự vận động nào đó trong tâm lý sáng tạo và thƣởng thức.
Những thƣ tịch ghi chép về Huyền Quang không còn chỉ dừng lại ở những văn
bản mang chức năng tôn giáo, ghi chép tiểu sử các vị thiền sƣ, mà nó đã thể hiện
nhiều hơn ở những yếu tố văn học, tiến gần hơn tới một văn bản mang chức năng
văn học, hƣớng tới đáp ứng những yều cầu của sự sáng tạo, tiếp nhận và thƣởng
thức văn học. Chính vị vậy, qua các nguồn thƣ tịch cổ, Huyền Quang không chỉ
đơn thuần là nhân vật lịch sử, ở một phƣơng diện nhất định nào đấy ông còn là
hình ảnh của một nhân vật văn học thực thụ. Chính sự giao thoa giữa nhân vật
lịch sử và nhân vật văn học đã tạo nên những “bất khả giải” đối với các nhà
nghiên cứu trên đƣờng hƣớng kiếm tìm và khẳng định những yếu tố xác thực, tin
cậy về Huyền Quang ở phƣơng diện con ngƣời lịch sử.
Ở Việt Nam từ thế kỷ thứ XIV – XV (thế kỷ của sự vận động và chuyển
giao những yếu tố đặc trƣng của dòng văn học Phật giáo sang dòng văn học Nho
giáo) đã xuất hiện nhiều thể loại văn học với nhiều phƣơng thức phản ánh khác
với thời kỳ trƣớc đó. Nhân vật trung tâm mà văn học phản ánh không còn đơn
thuần là những nhà sƣ nữa mà là cả quý tộc - võ tƣớng và đặc biệt là hình ảnh
ngƣời trí thức nho sĩ – nhân vật đang tiến dần trên tiến trình trở thành nhân vật
trung tâm, độc tôn của văn học trung đại. Sự vận động và giao thoa trong các
nhân cách trí thức trên tiến trình hƣớng tới một nhân cách trí thức đơn trị đã đƣa
đến những phƣơng thức phản ánh mới so với giai đoạn trƣớc. Những hình thức
ghi chép, phản ánh của văn học Phật giáo không còn phù hợp và dần bị phân
hóa, thay thế bằng những hình thức ghi chép và phản ánh mang nhiều đặc trƣng
của một dòng văn học mới – dòng văn học Nho giáo với sự vận hành theo những
yêu cầu tất yếu của thời đại lịch sử. Bên cạnh những thể loại và phƣơng thức
11
phản ảnh mới, các phƣơng thức phản ảnh truyền thống cũ đã bị thu hẹp và tản
mát dần ra vùng biên trong quá trình độc tôn của văn chƣơng Nho giáo. Là một
nhân cách văn hóa đa trị, một trí thức vừa tinh thông Nho học vừa uyên thâm về
Phật học, nhân vật lịch sử - nhân vật văn học Huyền Quang đã đƣợc ghi chép,
phản ánh theo cả phƣơng thức của dòng văn học Phật giáo và phƣơng thức của
dòng văn học Nho giáo, lại ở thời điểm giao thoa giữa hai dòng văn học này,
trong sự vận động từ dòng văn học Phật giáo sang dòng văn học Nho giáo.
Những cách ghi chép và phản ánh mang đặc trƣng riêng của hai dòng văn học
này đã dẫn đến những chi tiết và sự kiện không khớp nhau trong tiểu sử hành
trạng của Huyền Quang ở các nguồn thƣ tịch cổ và gây “nhiễu” cho các nhà khoa
học trong quá trình nghiên cứu về tiểu sử hành trạng của ông.
1.1.2. Vấn đề trước tác của Huyền Quang
Theo các nguồn thƣ tịch cổ, trƣớc tác của Huyền Quang gồm có: Chư
phẩm kinh, Công văn tập, Thích khoa giáo, Ngọc tiên tập, Vịnh Vân Yên tự phú...
Trong đó, các tác phẩm nhƣ Chư phẩm khinh, Công văn tập, Thích khoa giáo
đều đã thất lạc. Hiện trƣớc tác của Huyền Quang chỉ còn hơn 20 bài thơ chữ Hán
trong tập Ngọc tiên và bài phú Nôm Vịnh Vân Yên tự phú. Các tác phẩm này
cũng không còn văn bản gốc và chủ yếu đƣợc ghi chép lại trong các nguồn thƣ
tịch cổ nhƣ Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển... Tất cả
những tác phẩm của Huyền Quang còn lại cho đến nay đều đƣợc tập hợp trong
bộ sách Thơ văn Lý - Trần và công trình Huyền Quang - cuộc đời, thơ và đạo do
Trần Thị Băng Thanh chủ biên. Trƣớc tác của Huyền Quang còn lại đến nay là
không nhiều. Và theo nhƣ sự tập hợp trong bộ sách Thơ văn Lý – Trần thì các bài
thơ đều có rất nhiều dị bản (dù mỗi dị bản chỉ khác nhau một đôi chữ), thêm vào
đó lại có nhiều điều chƣa rõ ràng và đang còn gây nhiều tranh cãi nhƣ trƣờng
hợp về bản quyền của bài Xuân nhật tức sự… Bài thơ Xuân nhật tức sự đã đƣợc
Lê Mạnh Thát trong bài Về tác giả bài thơ “Xuân nhật tức sự” đăng trên Tạp chí
Văn học (số 1 - 1984) xác định là của thiền sƣ Ảo Đƣờng Trung Nhân (? - 1203).
Theo Lê Mạnh Thát thì ông đã tìm thấy bài thơ này trong một số sách chép về
Thiền sƣ Trung Hoa đời Tống. Với bài thơ trên, hiện tại có hai thái cực: Một số
nhà nghiên cứu về Huyền Quang, trong đó có Lê Mạnh Thát cho rằng nên trả lại
bài thơ cho tác giả của nó; một số nhà nghiên cứu khác trong đó có Thích Thanh
12
Từ, Thích Phƣớc An, Trần Thị Băng Thanh… lại cho rằng: mặc dù đã tìm thấy
xuất xứ xƣa nhất của bài thơ trong thơ Thiền đời Tống, nhƣng khi đối chiếu văn
bản vẫn có một số chữ sai dị so với bài thơ gốc. Do đó cũng có thể nêu thêm một
giả thuyết là biết đâu Huyền Quang chẳng đã mƣợn bài thơ gốc của Ảo Đƣờng
Trung Nhân rồi chỉnh lý lại chút ít để biểu đạt cảm hứng Thiền thâm thuý của
mình? Nhƣ vậy thì bài thơ vẫn phản ánh một phần tâm tƣ của ông.
Khảo lại vấn đề bản quyền trong văn học Trung đại Việt Nam, chúng ta
thấy không chỉ có vấn đề bản quyền đối với bài Xuân nhật tức sự đƣợc ghi trong
tập Ngọc tiên của Huyền Quang, mà còn có khá nhiều bài thơ khác từng tồn tại
về vấn đề bản quyền. Bài Nam quốc sơn hà trƣớc đây vẫn đƣợc xem là của Lý
Thƣờng Kiệt, nhƣng theo Bùi Duy Tân trong cuốn Theo dòng khảo luận văn học
trung đại thì: “Thực sự Lý Thƣờng Kiệt có thể là ngƣời sử dụng một cách sáng
tạo bài thơ đã lƣu truyền từ lâu, để cổ vũ tinh thần chiến đấu của binh sĩ, chứ
chắc chắn không phải là tác giả của bài thơ” [72, tr. 154]. Hay bài Ngư nhàn
từng đƣợc gắn với tác giả là Thiền sư Dương Không Lộ (thực ra bài thơ này là
của Hàn Ô - một nhà thơ Trung Quốc). Trong cuốn Theo dòng khảo luận văn
học trung đại, PGS. Bùi Duy Tân đã so sánh bài thơ Ngư nhàn của Dƣơng
Không Lộ với bài thơ Tuý trước trong Toàn Đường thi của Hàn Ô. Và cũng theo
Bùi Duy Tân thì bài Ngư nhàn nên trả lại cho Hàn Ô, với tên đích thực của bài
thơ là Tuý trước. Bên cạnh những tranh luận về bản quyền của bài Xuân nhật tức
sự, cũng có không ít những bàn cãi về bài Vịnh Vân Yên tự phú. Một số nhà
nghiên cứu cho rằng ngôn ngữ văn học trong bài phú Nôm Vịnh Vân Yên tự khó
có thể xuất hiện ở đời Trần, tuy nhiên theo nhƣ một số ý kiến khác thì ở đời
Trần, chữ Nôm và các tác phẩm thơ Nôm thời Trần đã đạt đến một trình độ nhất
định, đủ sức để biểu đạt những phong phú của đời sống thời bấy giờ. Điều đó có
thể chứng minh qua các tác phẩm Nôm nổi tiếng nhƣ Cư trần lạc đạo phú và
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông (1258 – 1380); Giáo tử
phú của Mạc Đĩnh Chi (1284-1361)… hơn nữa hiện nay vẫn chƣa có bằng chứng
xác thực nào chứng minh đƣợc Huyền Quang không phải là tác giả của bài phú
này. Theo PGS.TS Nguyễn Duy Hinh đã dẫn trong cuốn Triết học Phật giáo Việt
Nam thì “bài Vịnh Hoa Yên tự theo Hoàng Xuân Hãn. Tên chùa Hoa Yên đƣợc
13
đặt ra dƣới thời Hồng Đức nhà Lê, vốn là Vân Yên Tự. Đầu đề này chứng tỏ văn
bản đã đƣợc biên tập lại vào thời nhà Lê, chứ không hoàn toàn nguyên tác”. [41,
tr. 510].
Việc nhầm lẫn tác giả bản quyền trong văn học Trung đại phƣơng Đông
nói chung và văn học Việt Nam nói riêng không phải là chuyện hiếm, khi vấn đề
sở hữu văn bản, bảo lƣu văn bản văn hóa văn hiến ở giai đoạn này chƣa đƣợc ý
thức và thực hiện một cách nghiêm ngặt, chặt chẽ. Điều này đã dẫn đến tình
trạng thất lạc văn bản gốc cũng nhƣ tình trạng dị bản tƣơng đối phổ biến. Với
thực trạng nhƣ vậy, việc một tác giả trung đại, nhất là tác giả thuộc giai đoạn Lý
- Trần có đôi chỗ còn tồn tại vấn đề về văn bản gốc và bản quyền nhƣ Huyền
Quang cũng là điều dễ hiểu.
Trƣớc vấn đề tiểu sử hành trạng và trƣớc tác của Huyền Quang nhƣ đã
trình bầy ở trên, để tránh đi vào bế tắc, không triệt để, chúng tôi một mặt tiến
hành khảo sát toàn bộ những tác phẩm của ông đƣợc ghi trong bộ sách Thơ văn
Lý - Trần và công trình Huyền Quang- cuộc đời thơ, và đạo do Trần Thị Băng
Thanh chủ biên, mặc khác cũng tiến hành khảo sát các tác phẩm thời Lý - Trần
với mục đích đặt các trƣớc tác của Huyền Quang trong sự vận động của văn học
giai đoạn này nhằm cắt nghĩa và đánh giá một cách khách quan những giá trị đặc
trƣng trong các sáng tác của ông. Bên cạnh đó, căn cứ vào các nguồn thƣ tịch ghi
chép về Huyền Quang, chúng tôi cũng cố gắng phác hoạ hình ảnh khái quát về
ông, đồng thời cũng dựa vào bối cảnh vận động chuyển giao của các hệ tƣ tƣởng
thời đại để lý giải và soi sáng hiện tƣợng tƣ tƣởng, văn hóa, văn học đặc biệt này.
1.2. Lý Đạo Tái - Huyền Quang tôn giả qua các nguồn thư tịch cổ
1.2.1.Huyền Quang - Lý Đạo Tái – một trí thức nho sĩ
Nếu nhƣ ở thời nhà Lý, thời đại mà Phật giáo đƣợc đặt lên vị trí quốc giáo
với những trí thức chủ yếu của thời đại là các nhà sƣ, thì đến giai đoạn đầu thời
nhà Trần, với sự vận động mạnh mẽ của các hệ tƣ tƣởng, đặt biệt là hệ tƣ tƣởng
Nho giáo, xã hội Đại Việt đã chứng kiến sự lớn mạnh không ngừng của các tầng
lớp, trí thức khác nhƣ nho sĩ và quý tộc. Với những đặc thù của giai đoạn đầu
thời đại nhà Trần, đã diễn ra sự đồng tồn tại của nhiều lực lƣợng, nhiều loại nhân
cách trí thức với nhiều ý thức hệ khác nhau. Trong đó, lực lƣợng nho sĩ với
những ƣu thế vƣợt trội so với các lực lƣợng khác trong việc quản lý và điều hành
14
đất nƣớc đã có cơ hội thuận lợi để phát triển cả về số lƣợng và chất lƣợng, vị trí
của họ trong triều đình, và xã hội ngày càng đƣợc củng cố và trở nên quan trọng
hơn.
Đến đầu thời nhà Trần chế độ khoa cử đã đƣợc mở rộng. Nhà Trần đã tiếp
nối công việc xây dựng chế độ khoa cử còn đang ở dạng sơ khai của nhà Lý và
dần từng bƣớc đƣa nó vào quy củ. Mặc dù chế độ khoa cử ở thời Trần vẫn chƣa
phát triển tới mức độ trở thành một hệ thống quy củ, chặt chẽ nhƣng nó đã đóng
góp rất lớn vào việc thúc đẩy sự phát triển của Nho giáo cũng nhƣ lực lƣợng nho
sĩ ở Việt Nam. Việc phổ biến cách thức chọn ngƣời tài cho nhà nƣớc thông qua
con đƣờng thi của Nho giáo đƣơng nhiên dẫn đến việc gia tăng ảnh hƣởng của
nó trong xã hội. Khoa cử vốn là một hệ thống phƣơng thức lựa chọn ngƣời tài
giúp việc cho quốc gia đã khá hoàn chỉnh ở Trung Quốc. Ở nƣớc ta, ngay sau
thời kỳ độc lập, với yêu cầu cần những nhân tài cho sự phát triển của đất nƣớc đã
tiếp nhận và sử dụng chế độ khoa cử này. Tuy nhiên các khoa thi cho đến cuối
thời Trần vẫn chƣa đƣợc tổ chức đều đặn, định kỳ nhƣ một phƣơng thức chủ yếu
để lựa chọn ngƣời tài giúp việc cho quốc gia, mà vẫn chỉ mang tính tuỳ hứng ở
mọi phƣơng diện: mục đích, cách thức, nội dung, thời gian…
Sự phát triển của các trƣờng học kể cả nhà nƣớc và tƣ nhân, cùng với số
lƣợng các kỳ thi ngày càng tăng đã tạo điều kiện thuận lợi cho tầng lớp nho sĩ
không ngừng lớn mạnh về số lƣợng và chất lƣợng, ngày càng có cơ hội thuận lợi
đề khẳng định những ƣ thế vƣợt trội của mình. Đến thời vua Trần Anh Tông, nho
sĩ đã đƣợc đứng trong hàng phẩm cao cấp của triều đình, giữ những chức vụ
quan trọng, trở thành cận thần đƣợc vua tin dùng. Đến thời vua Trần Minh Tông
thì nho sĩ đã thực sự đủ trƣởng thành để khẳng định tên tuổi của mình với sự
xuất nhiện của hàng loạt các danh nho. Đội ngũ nho sĩ trong triều đã khá hùng
hậu: “Bấy giờ quan ở trong triều nhƣ bọn Trần Thì Kiến, Đoàn Nhữ Hài, Đỗ
Thiên Hứa, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Dũ, Phạm Mại, Phạm Ngộ, Nguyễn Trung
Ngạn, Lê Quát, Phạm Sƣ Mạnh (…), Trƣơng Hán Siêu, Lê Cự Nhân, nối nhau
làm quan, nhân tài đầy rẫy” [55 tr. 125]. Nếu nhƣ vào đầu thời Trần, vai trò của
nho sĩ vẫn chỉ dừng lại ở vị trí những kẻ giúp việc cho tầng lớp quý tộc trong
triều thì từ giữa giai đoạn nhà Trần trở về sau, đặc biệt là từ thời vua Trần Anh
Tông trở đi, thân phận nho sĩ đã dần dần đƣợc đổi khác. Họ ngày càng đƣợc vua
15
tin dùng và giao những trọng trách lớn hơn trong chốn triều đình.
Lý Đạo Tái sinh ra và lớn lên trong không khí của thời kỳ Thịnh Trần,
thời đại của hào khí Đông A và cũng là thời đại của không khí phóng khoáng,
khoan hoà của giai đoạn “tam giáo tịnh hành”. Ở giai đoạn này, Nho giáo cũng
đã phát triển đến những mức độ nhất định để có thể sản sinh ra những đại diện
ƣu tú của mình. Có thể kể tên một loạt các danh Nho thời kỳ này nhƣ Trần Thì
Kiến, Trƣơng Hán Siêu, Nguyễn Thế Trƣờng, Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài…
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ mà các hệ tƣ tƣởng đang có sự vận động
chuẩn bị cho những bƣớc chuyển giao mạnh mẽ với xu hƣớng từ Phật giáo sang
Nho giáo, Lý Đạo Tái với những yếu tố khách quan, cùng tƣ chất thiên bẩm đã
xuất thân nhập thế theo phong cách nhà nho. Theo Tam tổ thực lục thì Lý Đạo
Tái xuất thân từ một gia đình dòng dõi thi thƣ. Vị tổ thứ bảy là Lý Ôn Hoà từng
làm chức Hành khiển dƣới triều vua Lý Thần Tông; ông nội làm Chuyển vận sứ
đời Trần; cha từng tòng quân đánh giặc có công nhƣng không ra làm quan mà trở
về quê vui thú điền viên. Quê hƣơng Lý Đạo Tái cũng từng là một trung tâm văn
hóa lớn nhất của cả nƣớc. Nhắc đến xứ Kinh Bắc cũng là nhắc đến một vùng đất
“địa linh nhân kiệt”, là cái nôi của những nho sĩ tài năng, là vùng quê của “một
giỏ sinh đồ, một bồ ông cống, một đống trạng nguyên, một thuyền bảng nhãn”.
Và vùng đất này cũng chính là quê hƣơng của Lê Văn Thịnh “trạng nguyên khai
quốc của thời Đại Việt” (1075). Không chỉ đƣợc sinh ra ở vùng quê có nền văn
hóa văn hiến lâu đời, ngay từ nhỏ, Lý Đạo Tái đã sớm bộ lộ khuynh hƣớng và tƣ
chất của một vị nho sĩ đầy tài năng. Sách Tam tổ thực lục ghi: “Khi Tổ sinh ra, là
một đứa bé trai cứng cáp. Đến tuổi đồng ấu, thể mạo Tổ dị thƣờng, có chí của
bậc trác việt vĩ nhân, cha mẹ đều yêu thƣơng, dạy cho học nghề” [56, tr. 23].
Còn về tên gọi Đạo Tái, theo cách giải thích của dân gian thì “Tổ nghe một hiểu
mƣời, có tài nhƣ Nhan Hồi Á Thánh, nên đƣợc gọi là Tải Đạo”. Tân đính Lĩnh
Nam chích quái cũng ghi “khi em lớn, dáng mạo rất lạ. Em có chí lớn, cha mẹ
rất yêu quý và xa gần đồn đại. Bởi tài năng đó, nên em mới đƣợc đổi tên là Đạo
Tải” [65, tr. ]. Theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn thì “ông lên 9 tuổi đã biết
làm thơ, học tập chuyên về cử nghiệp”. [ 22, tr. 393].
Theo Tam Tổ thực lục: “Năm 20 tuổi, Tổ dự khoa thi Hƣơng và đỗ đạt. Vì
triều đình chọn ngƣời đều dùng những bậc đại khoa, nên Tổ phải đợi đến khoa thi
16
lớn gọi là thị Hội năm sau. Kết quả Tổ đậu đƣợc thủ khoa” [91, tr. 23]. Tân đính
Lĩnh Nam chích quái thì ghi sự kiện Đạo Tái đỗ Trạng một cách cụ thể hơn: “Năm
hai mƣơi tuổi, Đạo Tải đi thi Hƣơng đỗ giải Nguyên, năm sau đó thi khoa đại tỷ
(tức thi Hội) đỗ đầu, đó là năm Đinh Dậu, niên hiệu Hƣng Long thứ năm, đời Trần
Anh Tông” [65, tr. 238]. Việc Huyền Quang có đỗ Trạng hay không chƣa có sách
sử nào minh chứng đƣợc xác thực. Nhƣng trong nhãn quan của dân gian ông là
một vị học rộng tài cao, và đỗ đạt từ rất sớm - một vị quan Trạng. Bằng chứng là
trong dân gian vẫn còn lƣu truyền lại câu ca cảm thán về tình cảnh éo le của ông:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn nhân duyên
Theo truyền thuyết dân gian thì Lý Đạo Tái có đỗ Trạng nguyên, từng đi
sứ Trung Quốc, đồng thời đỗ Trạng nguyên ở cả hai nƣớc Việt Nam và Trung
Quốc. Hiện ở Chùa Tổ vẫn ghi bốn chữ lớn sơn son thiếp vàng: “Lƣỡng quốc
trạng nguyên” (Trạng nguyên hai nƣớc).
Không chỉ là vị quan Trạng trong “ký ức của dân gian”, mà ngay trong
mắt các trí thức sĩ phu Nho học hậu thế, Lý Đạo Tái cũng đƣợc nhìn nhận, đánh
giá trƣớc hết ở tƣ cách một nho sĩ hay chữ và đỗ đạt cao. Rõ ràng từ thời Huyền
Quang trở đi, hình ảnh nhân vật trí thức đƣợc đề cao trong xã hội không còn là
những nhà sƣ nữa. Hình ảnh những nho sĩ với sự nghiệp học hành thi cử và đỗ
đạt cao (Trạng nguyên) đã trở thành hình ảnh trung tâm của thời đại, và cũng là
hình ảnh tƣợng trƣng cho tầng lớp trí thức cao nhất của thời đại. Cũng rất có thể
việc đỗ Trạng của Lý Đạo Tái (điểm gây ra tranh cãi, nghi hoặc cho giới nghiên
cứu khoa học) lại chỉ là cách gọi “tôn lên” của dân gian và trí thức Nho sĩ đối với
những nhân vật lớn từng kinh qua của Khổng sân Trình nhƣ trƣờng hợp gọi
Phùng Khắc Khoan là Trạng Bùng (trong khi ông này chỉ đỗ thứ hai Hoàng
giáp).
Các thƣ tịch cổ chép về việc Huyền Quang đỗ Trạng có thể kể đến nhƣ:
Tam tổ thực lục; Đinh kế lịch triều đăng khoa lục; Tam tổ hành trạng… và hiện
văn bia ở đền Trạng nguyên thuộc thôn Phúc Lộc, Vạn Tƣ, Gia Bình (Thái Bảo,
Bắc Ninh) do ông Nguyễn Phẩm Phó bảng soạn, dựng năm Tự Đức 18 (1865)
còn ghi “Năm ông đỗ Trạng mới 21 tuổi”.
Nếu theo đúng nhƣ Tổ gia thực lục ghi chép thì Lý Đạo Tái là một trí thức
17
nho sĩ có trình độ văn hóa, vị trí và uy tín rất cao. Tổ gia thực lục cho biết, sau
khi ông thi đỗ “đƣợc bổ vào chức quan Hàn lâm, Tổ phụng mệnh tiếp sứ giả
phƣơng Bắc, văn thƣ qua lại, trích dẫn kinh nghĩa, ứng đối lƣu loát. Văn chƣơng
ngôn ngữ hơn cả Trung Quốc và các nƣớc lân bang” [56, tr. 80]. Theo Đỉnh kế
lịch triều đăng khoa lục thì sau khi thi đỗ, Lý Đạo Tái đƣợc cử làm quan ở Viện
nội hàn. Còn văn bia ở đền Trạng nguyên (Bắc Ninh) lại ghi sau khi ông đỗ
Trạng, có “nhận chức Thị Nội văn hàn, từng đi sứ sang Trung Quốc”. Bức Đại tự
ở Chùa Tổ cũng xác nhận ông có đi sứ Trung Quốc, đồng thời còn đỗ Trạng
nguyên của cả hai nƣớc.
Qua các nguồn thƣ tịch và trong nhãn quan của dân gian, Lý Đạo Tái -
Huyền Quang không chỉ là một vị quan Trạng - nấc thang cao nhất về sự đỗ đạt
của trí thức nho sĩ trong con đƣờng khoa cử, mà ở ông còn có những dấu ấn đậm
nét của lối hành xử theo kiểu nhà nho. Tam tổ thực lục có ghi lại: “Buổi chiều,
Sƣ trở về Tăng phòng Thiền định, bỗng thấy một đôi chim khách trắng từ đâu
bay đến, đậu trên cây trƣớc sân, vừa lƣợn qua lƣợn lại vừa kêu, dƣờng nhƣ có
điềm vui. Sƣ liền ngâm một bài Tây giang nguyệt:
“Chim thước muốn báo điềm chi,
Bay đến kêu vang đầu ngõ?
Con hiếu ngày xưa có Tăng Sâm
Loài chim ba chân mi trội nhất”
Và nói riêng với học trò: “ (…). Cha mẹ, ông bà là Phật, ân nặng nhớ mãi
trong lòng”. Sƣ liền sắm sửa hành trang, dâng biểu xin phép về làng thăm viếng”
[56, tr. 82]. Có thể thấy ở đây, bên cạnh tấm lòng từ bi của đạo Phật, còn có cả
tấm lòng hiếu thảo theo đạo lý của Nho gia. Khi nghe Thị Bích giải bầy hoàn
cảnh éo le của mình và mong đƣợc giúp đỡ, Huyền Quang “ngẫm nghĩ hồi lâu
rồi nói: “Ngày xƣa, Hán Văn Đế cảm thƣơng lời tâu của nàng Đề Oanh mà bỏ
nhục hình. Đƣờng Thái Tông trông bản đồ Minh đƣờng mà dẹp cấm đài. Hai vua
ấy đều theo đức hiếu sinh của thƣợng đế nên con cháu hƣởng lộc lâu dài đến ba,
bốn trăm năm. Không có ân đức mà đƣợc nhƣ thế sao? Ta phải vì ngƣơi mà về
triều tâu rõ việc ấy, ngõ hầu quảng bá đức hiếu sinh của Hoàng đế mà cũng là
phƣơng tiện cứu khổ tốt đẹp vậy”. Ta cũng bắt gặp ở đây hình ảnh của một trung
thần hết lời ca tụng công đức “vua sáng tôi hiền”, bày tỏ chí hƣớng của kẻ sĩ “chí
18
quân trạch dân”
Nếu căn cứ vào một số nguồn thƣ tịch nhƣ Tam tổ thực lục, Tân đính Lĩnh
Nam chích quái… Huyền Quang hiện lên trƣớc hết ở hình ảnh của một trí thức
nho sĩ - một mẫu hình lý tƣởng của nhà nho hành đạo ở các giai đoạn sau: tƣ chất
bẩm sinh của kẻ sĩ, học hành thi cử, đỗ đạt làm quan. Việc Lý Đạo Tái - Huyền
Quang có đỗ Trạng và làm quan hay không, hiện vẫn chƣa có nguồn tƣ liệu nào
chứng minh đƣợc một cách xác thực. Nhƣng trong nhãn quan của dân gian và
giới trí thức nho sĩ, ông vẫn là một vị Trạng nguyên. Họ đã và vẫn dành cho ông
một cách nhìn, cách đánh giá mang tính chất ngƣỡng vọng, tôn vinh xứng tầm
với một tri thức lớn vào loại nhất nhì của thời đại lúc bấy giờ. Điều này không
khó lý giải bởi sau Huyền Quang không lâu, khi Nho giáo đã chiếm đƣợc địa vị
độc tôn trong xã hội, thì tầng lớp nho sĩ đã trở thành tầng lớp trí thức trung tâm
và mang tính độc tôn trong xã hội. Thƣớc đo đánh giá tài năng và địa vị của họ
không ngoài phạm vi học hành, thi cử đỗ đạt và làm quan. Chức vị Trạng nguyên
chính là nấc thang lớn nhất của một đời theo đòi cử nghiệp của ngƣời sĩ tử, đánh
dấu sự chuyển biến hết sự quan trọng trong cuộc đời họ.
Dù Lý Đạo Tái có đỗ Trạng và làm quan hay không thì một điều chắc chắn
là ông đã từng kinh qua của Khổng sân Trình. Hệ thống khoa cử ra đời nhằm mục
đích đào tạo những nhân tài cho việc trị quốc, nhƣng đồng thời cũng đào tạo nên
một đội ngũ tác giả thành thạo chữ nghĩa với vốn văn hóa là rất lớn. Có thể khẳng
định, trƣớc khi xuất gia trở thành đệ Tam tổ của Thiền phái Trúc Lâm, Lý Đạo Tái
là một nho sĩ có học thức uyên thâm, tinh thông Nho học. Văn chƣơng thi phú của
ông đã đạt đến đỉnh cao của văn chƣơng ở giai đoạn nhà Trần. Sau khi giao cho
Huyền Quang soạn Chư phẩm kinh và Công văn tập,… Trần Nhân Tông đã ngự
bút phê vào Thích khoa giáo: “Phàm những sách đã qua tay Huyền Quang biên
soạn, thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa…” [56, tr. 81]. Qua những thi
phẩm của Huyền Quang còn lại cho đến nay, chúng ta càng có cơ sở để khẳng
định ông đã đƣợc rèn luyện trong khoa cử của Nho giáo một cách nghiêm túc.
Mặc dù Nho giáo không chủ đích đào tạo nho sĩ trở thành nghệ sĩ, nhƣng nó đã
cung cấp cho họ những cơ hội và phƣơng tiện để đạt đƣợc điều đó. Về mặt lý
thuyết, mọi nhà nho đều có khả năng làm văn, viết thơ. Huyền Quang đã đem tất
cả những tinh tế của văn chƣơng Nho gia vào cửa chùa, tạo nên một sự giao thoa
19
độc đáo giữa Nho - Phật - Lão Trang trong các sáng tác của mình. Nhƣ nhận xét
của PGS.TS Nguyễn Kim Sơn: “con đƣờng của thơ ngôn chí đã mở. Ông đã dùng
phƣơng cách tƣ duy nghệ thuật của nhà Nho để thể hiện một thế giới tinh thần,
một thế giới thẩm mỹ đa dạng” [69, tr. 85].
Nhƣ vậy, qua các nguồn thƣ tịch cổ, Huyền Quang hiện lên trƣớc hết với
tƣ cách một trí thức nho sĩ. Tƣ tƣởng Nho giáo trong ông đã rất đậm. Ở ông nỗi
bật phong cách nhập thế của một nhà nho hành đạo: học hành, thi cử, đỗ đạt, làm
quan. Điều đó cũng có nghĩa ông đã mở đầu cho một loạt những hình ảnh về các
nhà nho hành đạo nở rộ ở các giai đoạn sau. Tuy nhiên, Huyền Quang và ngay cả
các nho sĩ ở giai đoạn cuối thời nhà Trần, vẫn chƣa đƣợc xem là tầng lớp nho sĩ
tiêu biểu cho những đặc tính của Nho gia. Nho giáo vẫn chƣa hội tụ đƣợc đầy đủ
những điều kiện để bƣớc lên địa vị độc tôn. Bên cạnh nó vẫn tồn tại những ảnh
hƣởng của tƣ tƣởng Phật giáo vào hào khí Đông A, lực lƣợng nho sĩ vẫn tồn tại
bên cạnh những lực lƣợng trí thức khác nhƣ thiền sƣ và quý tộc, hơn thế nữa
trong bối cảnh chung của nền văn hóa “tam giáo tịnh hành”, nho sĩ vẫn chịu
những ảnh hƣởng và chi phối của các luồng tƣ tƣởng và lực lƣợng xã hội khác
mà chƣa thực sự chịu sự ràng buộc và ƣớc thúc chặt chẽ của Nho giáo. Thời
điểm mà Lý Đạo Tái xuất gia đi tu vẫn là thời điểm cực thịnh của Phật giáo. Hơn
nữa đó lại là thời kỳ ra đời của Thiền phái Trúc Lâm - một dòng Thiền mang
đậm bản sắc dân tộc, mà vị Tổ sáng lập ra nó lại chính là một trong những vị vua
nổi tiếng nhất của nhà Trần - Trần Nhân Tông. Trong bối cảnh hỗn dung, giao
thoa giữa các luồng tƣ tƣởng và giữa các nhân cách trí thức, thì việc Huyền
Quang dù đã học hành, thậm chí có thể đỗ đạt làm quan lại xuất gia đi tu và trở
thành vị tổ thứ ba của một Thiền phái lớn - Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - cũng
là một hành động tự nhiên chứ không hẳn là sự mâu thuẫn trong tƣ tƣởng.
1.2.2. Huyền Quang tôn giả - nhà Phật học lỗi lạc - đệ tam Tổ của Thiền
phái Trúc Lâm
Tiếp nối sự hƣng thịnh của Phật giáo thời Lý, Phật giáo ở giai đoạn đầu
nhà Trần vẫn giữ vị trí chủ đạo. Các vị vua và hoàng tộc nhà Trần đều sùng bái
đạo Phật. Hơn thế nữa, nhiều vị vua nhà Trần cuối đời sau khi nhƣờng ngôi cho
thái tử còn xuất gia tu hành. Và chính những vị Phật tử này là những ngƣời có tri
thức sâu rộng về đạo Phật, thực sự là những nhà Phật học uyên thâm. Trong các
20
vị vua và quý tộc xuất gia tu hành ấy, đặc biệt xuất sắc phải kể đến Trần Nhân
Tông với vai trò là vị khai Tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Nhƣ vậy, Phật giáo từ
trong dân gian đến giai đoạn đầu thời đại nhà Trần, ở chốn triều đình đã trở
thành một thứ Phật giáo cao cấp, phát triển theo chiều hƣớng triết học.
Sau khi truyền lại ngôi cho Anh Tông, Trần Nhân Tông đã xuất gia tu
hành và sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm không chỉ với mục đích thống nhất
tôn giáo mà cao hơn là khát vọng thống nhất đất nƣớc. Mặc dù đến đời Lý, Phật
giáo đã phát triển đến độ cực thịnh, tuy nhiên nó vẫn chƣa có sự thống nhất,
chƣa có một tổ chức giáo hội chặt chẽ. Hơn nữa Phật giáo thời Lý cũng mới chỉ
bó hẹp trong phạm vi hàng ngũ quý tộc, tôn thất, chứ chƣa trở thành một tôn
giáo đại chúng. Thiền phái Trúc Lâm ra đời với mục đích phát huy vai trò chủ
đạo của tƣ tƣởng Phật giáo trong đời sống tinh thần, xã hội, đồng thời xây dựng
một tổ chức giáo hội chặt chẽ, thống nhất để trở thành trung tâm liên kết toàn xã
hội trên lĩnh vực tƣ tƣởng… đã khắc phục đƣợc những hạn chế của Phật giáo
thời Lý. Nói đến Thiền phái Trúc Lâm cũng nhƣ vai trò của nó trong thời đại
“Thịnh - Vãn Trần” không thể không kể đến ba vị sƣ tổ: Đệ nhất Tổ Điều Ngự
Giác Hoàng Trần Nhân Tông; Đệ nhị Tổ Pháp Loa và Đệ tam Tổ Huyền Quang
tôn giả.
Nếu nhƣ trƣớc khi xuất gia, tiểu sử hành trạng của Huyền Quang còn có
không ít điểm mờ chƣa xác thực, thì sau khi xuất gia, với pháp hiệu Huyền
Quang, ông đã trở nên nổi tiếng và hết sức quen thuộc trong lịch sử Phật giáo
cũng nhƣ trong lịch sử văn chƣơng. Đối chiếu, so sánh các thƣ tịch cổ ghi chép
về thời gian ông xuất gia, chúng tôi thấy có những điểm không đồng nhất nhƣ:
theo Tam tổ thực lục thì Huyền Quang xuất gia khi ông đã 51 tuổi (1305), Đinh
khế lịch triều đăng khoa lục thì cho biết sau khi thi đỗ, ông đƣợc cử làm quan ở
Viện Nội hàn, nhƣng sau đó không lâu thì xin từ chức và đi tu. Theo sách Tam
Tổ hành trạng, ông thi đỗ Trạng nguyên, song không chịu ra làm quan mà xin
vua Trần cho xuất gia vào núi tu hành. Theo Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy
Bích, thì ông vào núi tu hành năm 19 tuổi…
Dẫu các thƣ tịch ghi chép có khác nhau về thời gian Huyền Quang đi tu,
nhƣng cả dân gian và sử sách vẫn còn lƣu truyền lại việc ông đến với Phật giáo
nhƣ là một tiền duyên đã định trƣớc. Huyền Quang ứng sinh sau một loạt điềm
21
lành kỳ lạ gắn liền với nhà Phật: “Mẹ Tổ là Lê Thị một ngƣời đàn bà hiền đức
(…). Năm bà 30 tuổi mà chƣa có con nối dõi, nên thƣờng đến cầu nguyện chùa
Ngọc Hoàng (…). Một hôm, Lê Thị đến núi Chu Sơn hái thuốc, vừa tới chùa Ma
Cô Tiên thì gặp lúc trời hè nắng gắt, bà liền đến nghỉ dƣới bóng chùa (…). Chợp
mắt mơ màng, bà bỗng thấy một con khỉ lớn, mặc áo hoàng bào, ôm mặt trời
hồng ném vào lòng bà. Lê Thị kinh hãi thức giấc, thấy lòng rung động, trở về
thuật lại với một vị Tôn thúc. Vị này suy đoán: ném mặt trời hồng vào bụng là
điềm Lê Thị sẽ có thai. Năm sau thuộc năm Giáp Dần vào ngày đầu năm, Thầy
trụ trì chủa Ngọc Hoàng là thiền sƣ Tuệ Nghĩa (…) mơ thấy (…). Đức Phật chỉ
Tôn giả A nan bảo: “ngƣơi hãy tái sinh là pháp khí Đông độ, và phải nhớ lại
duyên xƣa”. Bỗng tiểu đồng từ ngoài vào gõ cửa, Tuệ Nghĩa chợt tỉnh (…). Năm
ấy Tổ sinh ra. Khi sinh có tia sáng mở ảo, mùi hƣơng thơm phức. Ngƣời ta gọi
đó là đứa hài đồng có mùi hƣơng thanh tịnh” [56, tr. 78]. Cũng theo các nguồn
thƣ tịch cổ, Huyền Quang sinh ra và lớn lên đã gặp những hoàn cảnh éo le, ông
không có đƣợc cái hạnh phúc của ngƣời bình thƣờng. Sách Tam tổ thực lục có
ghi chép về đƣờng tình duyên của ông nhƣ sau: “Lại nói về lúc thiếu thời của Tổ,
tuy cha mẹ có bàn đến việc hôn nhân, nhƣng chƣa quyết định cƣới, đến khi ấy
vua định gả cô Liễu (tức công chúa Liễu Nữ), cháu của An Sinh Vƣơng, Tổ từ
khƣớc không chấp thuận” [56, tr. 79-80]. Còn trong dân gian thì vẫn còn lƣu
truyền mẩu chuyện và câu ca cảm thán về hoản cành éo le của ông:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ trạng chín nghìn nhân duyên.
Theo truyền thuyết dân gian thì khi Huyền Quang còn là học trò ở làng,
do tƣớng mạo xấu xí, nhà nghèo khó, không có ai cứu giúp, không ai nhận là
ngƣời trong họ, nên phải bỏ làng đi du học nơi khác. Đến khi đậu Trạng nguyên,
ra làm quan, thì lại có nhiều ngƣời đến nhận là anh em, họ hàng,… nhiều ngƣời
còn hứa gả con gái cho ông. Tình duyên vốn đã trắc trở nhƣ vậy, nhƣng thời gian
hoạn lộ lúc làm quan cũng không làm ông đƣợc toại nguyện. Sách Tam tổ thực
lục ghi: “Lúc Tổ theo vua đến chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Phụng Nhã, thấy Quốc
sƣ Pháp Loa đang hành đạo, liền nhớ lại duyên xƣa, bùi ngùi than rằng: “Làm
quan lên Bồng đảo, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là Tiên, cảnh giới
Tây phƣơng là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu, mây trắng
22
ngày hạ, há nên lƣu luyến mãi”. Nhân đó, dâng biểu đến ba lần xin từ chức để
xuất gia học đạo tu hành” [56, tr. 80]. Trong Tân đính Lĩnh Nam chích quái cũng
chép rằng: “Đạo Tải sau khi gặp Pháp Loa, thƣờng tự nghĩ: “Ngƣời ta sinh ra ở
đời nhƣ đó hoa hồng, nhƣ đám tuyết trắng. Quan tuy cao, vị tất đã sƣớng, chi
bằng đi tu, may ra đắc đạo, có phải sƣớng hơn không? Chuyện giàu sang chẳng
qua nhƣ cành sƣơng thu lá vàng, hay cảnh mây trắng mùa hạ, có gì đáng tiếc?”.
Đạo Tái bèn dâng biểu từ quan, xin về đi tu” [65, tr. 238].
Sau khi xuất gia, với học vấn uyên bác, Huyền Quang đã đƣợc Điều
Ngự hết sức tin tƣởng. Điều Ngự từng sai ông làm Thị giả cho Pháp Loa, nhƣng
thực chất thì ông vẫn đƣợc Điều Ngự trực tiếp giao việc và nhiều lần “khai thị”.
Ông đã đƣợc theo hầu, vân du cùng Điều Ngự. Ông còn đƣợc sai giảng kinh ở
toà Trầm Hƣơng để truyền thụ lại cho đệ tử, đƣợc đặc giao soạn Chư phẩm kinh,
Công văn tập. Những sách ông biên soạn đều đƣợc Điều Ngự phê bút: “Các sách
giảng dạy kinh Phật từng qua tay Huyền Quang thì một chữ cũng không thể
thêm, một chữ cũng không thể bớt” [56, tr. 81]. Điều Ngự đã cho in những tác
phẩm ấy để truyền lại cho đời sau. Huyền Quang chỉ theo hầu Điều Ngự có ba
năm (1306-1308), nhƣng ông đã đƣợc Điều Ngự rất tín nhiệm về mặt học thuật.
Mặc dù có ý định chọn Pháp Loa làm ngƣời nối pháp, và đã nhiều lần sai Pháp
Loa giảng kinh thuyết pháp, nhƣng chƣa một lần Điều Ngự giao cho Pháp Loa
soạn sách giáo khoa hoặc chú giải một tác phẩm nào. Khi Pháp Loa có điều sở
đắc kiến giải đem trình, phải đến lần thứ năm Điều Ngự mới “ấn khả”. Khác với
Pháp Loa, Huyền Quang đến với Thiền môn sau khi đã kinh qua cửa Khổng sân
Trình, do vậy ông có những ƣu thế về học vấn và năng lực trƣớc tác là điều rất
rõ. Hơn thế nữa ông thực sự là một nhà Phật học uyên thâm, theo nhƣ cách đánh
giá của Thích Phƣớc An thì ông là “nhà Phật học lỗi lạc, có thể nói là lỗi lạc nhất
trong các học giả của núi Yên Tử thời bấy giờ”. Huyền Quang không tham dự,
chủ trì những hội giảng lớn quan trọng nhƣ Điều Ngự và Pháp Loa, nhƣng học
trò của ông cũng rất đông, có đến hàng nghìn ngƣời. Sau khi Điều Ngự mất,
Huyền Quang đã tiếp tục phò tá Pháp Loa. Cũng trong thời gian này ông trụ trì
ở chùa Vân Yên, Yên Tử, sau đó về chùa Thanh Mai rồi chùa Côn Sơn. Giai
đoạn ông phò tá Pháp Loa cũng là giai đoạn thể hiện rõ nhất vai trò quan trọng
của ông, và cũng là giai đoạn mà ông có những đóng góp lớn nhất cho thiền
23
phái. Thời Pháp Loa kế vị sƣ Tổ cũng là thời mà Thiền phái Trúc Lâm phát triển
đến giai đoạn cực thịnh. Trong suốt thời gian ấy, Huyền Quang là ngƣời trợ thủ
đắc lực với đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát triển để đạt đến đỉnh cực
thịnh của Thiền phái này: “Dƣới hai triều vua Nhân Tông và Anh Tông, thiền
phái Trúc Lâm đã tổ chức khắc in trọn bộ Kinh Đại tạng gồm trên 5000 quyển.
Các kinh sách riêng của Việt Nam (…) đều đƣợc chọn khắc in. Việc in sách giáo
khoa về kinh điển nhà Phật, việc chú thích chú giải kinh Phật cũng đƣợc làm đều
đặn (…). Việc làm chùa xây tháp, đúc tƣợng và số lƣợng tăng ni cũng đạt đến
con số kỷ lục. Tính đến năm 1329, trƣớc khi Pháp Loa mất một năm, bộ Đại
tạng gần 6000 quyển đã in xong; riêng Pháp Loa đã xây năm cây bảo tháp; hoàn
chỉnh hai cơ sở trung tâm của Thiền phái là Thiền viện Quỳnh Lâm và Báo Ân.
Ngoài ra ông cũng xây dựng trên 200 tăng đƣờng, đúc 1300 pho tƣợng Phật lớn
nhỏ bằng đồng (…). Vào thời điểm này số lƣợng tăng ni đã rất nhiều, tính đến
năm 1329 số tăng lữ dƣới quyền lãnh đạo của Pháp Loa đã lên đến 15000 ngƣời.
Ba trung tâm lớn của thiền phái, Yên Tử, Quỳnh Lâm, Báo Ân, không những là
nơi hoạt động tôn giáo mạnh mẽ mà còn là những “sơn môn” giàu bất động sản”
[80, tr. 34-35].
Sau khi Pháp Loa mất (1330), ông nối tiếp ngọn đèn Tổ, phụng mênh tới
trụ trì tại chùa Vân Yên ở núi Yên Tử. Sau về núi Thanh Mai tu luyện, rồi về trụ
trì tại chùa Tƣ Phúc ở Côn Sơn và mất ở đây năm 1334, thọ 80 tuổi. Các sách về
Phật học mà Huyền Quang biên soạn có thể kể đến nhƣ Chư phẩm kinh, Công
văn tập, Thích khoa giáo, tiếc rằng cho đến nay, các sách ấy đều đã thất lạc nên
chúng ta không có điều kiện để nghiên cứu và hiều đƣợc một cách đầy đủ về tƣ
tƣởng Thiền học của Huyền Quang. Tuy nhiên, qua những trƣớc trƣớc tác của
ông còn lại đến nay, đặc biệt là bài Diên Hựu tự (Chùa Diên Hựu) và bài Kệ
bằng chữ Nôm ở cuối bài Vịnh Vân Yên Tự phú, chúng ta cũng hình dung đƣợc
phần nào về sự liễu ngộ tƣ tƣởng Thiền học của vị tổ thứ ba này:
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhã phóng khoan.
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.
(Muôn và nhân duyên không vƣơng vấn là bức thành che niềm tục,
24
Không lo lắng gì nên tầm mắt mở rộng.
Hiểu rõ phải và trái đều nhƣ nhau,
Thì xem cung ma có khác gì nƣớc Phật!).
Qua bốn câu thơ trên, Huyền Quang đã diễn đạt rất rõ tƣ tƣởng Bất nhị
của Phật giáo. Tuy rằng tƣ tƣởng Bất Nhị đã đƣợc hể hiện trong tƣ tƣởng của các
vị tiền bối nhƣ Tuệ Trung Thƣợng Sĩ khi viết Phàm Thánh Bất dị:
“Phật dữ chúng sinh đồ nhất diện,
Thực thị phàm hề thục thị thánh.”
(Xuất phát từ Phật và chúng sinh đều là một không phân biệt, Đó là quan
điểm Không, thừa nhận ai ai cũng có Phật tính).
Còn với Trần Nhân Tông thì:
Thế số nhất tức mặc,
Thời tình lưỡng hải ngân.
Ma cung hỗn quản thậm,
Phật quốc bất thắng xuân.
(Coi đời ngắn ngủi nhƣ một hơi thở, Tình đời hai biển bac, Cung ma rất
hỗn độn, Nƣớc Phật xuân nào hơn)
Ở đây, chúng ta thấy Trần Nhân Tông nhận thức xã hội con ngƣời phức
tạp rối ren. Ông phân biệt và đối lập Ma cung với Phật quốc, hai khái niệm
“cung ma”, “Phật quốc” đƣợc đề cập nhƣ hai thái cực đối lập.
Chỉ Huyền Quang mới táo bạo phá chấp về sự đối lập cung ma với Phật
quốc. Dù rằng xét về tƣ tƣởng thì không có gì mới nhƣng diễn đạt nhƣ vậy là
triệt để nhất. Tƣ tƣởng Bất nhị của Huyền Quang, theo đánh giá của Nguyễn
Duy Hinh thì có phần triệt để hơn sƣ phụ. Ông đã diễn đạt bản thể Không một
cách triết học hơn là tôn giáo học. Còn với Pháp Loa - vị đệ nhị sƣ tổ thì chính
Huyền Quang đã thực sự giúp cho ông ta đạt đến sự giải thoát. Theo Nguyễn
Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì dƣờng nhƣ cho đến những ngày cuối
cùng đạo nghiệp của Pháp Loa còn “chƣa thật sự chín muồi” và ông “chƣa thực
sẵn sàng để đón nhận giờ phút quan trọng” - cái chết.
Song những câu hỏi gợi ý của Huyền Quang “Thức và ngủ đã là một
chƣa?”, “Bệnh với không bệnh đã là một chƣa?” và lời thăm dò cuối cùng: “Các
bậc đại ngộ xƣa nay, khi giờ phút đến, muốn ở lại thì ở, muốn đi thì đi” đã thực
25
sự giúp Pháp Loa đạt đến sự giải thoát. Mặc dù sau khi kế vị Pháp Loa trở thành
vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, Huyền Quang đã không làm đƣợc gì nhiều
để cứu vãn sự đi xuống của Phật giáo. Các nhà nghiên cứu cũng đã đƣa ra nhiều
nguyên nhân khác nhau, đặt ra nhiều câu hỏi về năng lực tổ chức, và trách nhiệm
của vị tổ thứ ba này... Tuy nhiên, không ai phủ nhận đƣợc công lao của ông với
Thiền phái. Các nguồn thƣ tịch cổ, và cả dân gian đều đánh giá cao sự uyên thâm
về Phật học của ông. Ông thật sự là một nhà Phật học lỗi lạc lớn nhất của thời
đại. Chính vì thế, ông đã đƣợc vua Trần Minh Tông đặc phong lên hàng Tôn giả
(từ dùng chỉ bậc tu hành đã đạt quả vị giải thoát A la hán, bậc Đại sƣ, bậc có đức
hạnh và trí tuệ, đấng bề trên).
1.2.3. Huyền Quang tôn giả - hình ảnh một ẩn sĩ
Mặc dù là một nhà Phật học lỗi lạc, có nhiều đóng góp cho sự phát triển
của Thiền phái Trúc Lâm, nhƣng những hoạt động tôn giáo của Huyền Quang
đƣợc ghi chép trong các nguồn thƣ tịch cổ là không nhiều. Qua các nguồn thƣ
tịch cổ, chúng ta có thể điểm lại những mốc thời gian và những hoạt động quan
trọng trong hành trình tu tập của vị Tổ thứ ba này. Năm 1305, ông xuất gia, là
học trò của Bão Phác, một ngƣời rất giỏi Kinh sách. Năm 1306, ông gặp Điều
Ngự, và trở thành đệ tử tin cậy của ngƣời, đồng thời cũng đƣợc giao những việc
hệ trọng: trụ trì ở chùa Vân Yên, núi Yên Tử; phụ tá Đệ nhị Tổ Pháp Loa; biên
soạn kinh sách và giảng dạy. Từ 1309, thực hiện lời dặn của Điều Ngự, Huyền
Quang luôn có mặt ở bên cạnh Pháp Loa để thực hiện nhiệm vụ trợ thủ. Nhƣng
đến năm 1313 ông lại trở về trụ trì chùa Vân Yên ở núi Yên Tử một thời gian.
Những năm cuối đời, ông về trụ trì ở chùa Thanh Mai trong sáu năm. Năm 1330,
khi Pháp Loa qua đời, ông nối tiếp làm vị Tổ thứ ba của Thiền phái, lúc này ông
đã 77 tuổi. Mặc dù là Tổ thứ ba của một Thiền phái nổi tiếng, nhƣng hầu nhƣ
ông đều giao mọi việc cho đệ tử của ông là Quốc sƣ An Tâm, và trở về Côn Sơn
chuyên chú tụng đọc kinh điển. Năm 1334, ông mất ở Côn Sơn, thọ 80 tuổi.
Khác với những hoạt động nhập thế tích cực nhƣ các vị tổ lớp trƣớc,
những hoạt động của Huyền Quang ở giai đoạn cuối đời lại cho thấy ông gần
hơn với hình ảnh của một ẩn sĩ. Mặc dù đã xuất gia tu hành, thậm chí ngày cả
khi ở vị trí đệ tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm, ông vẫn không phải là một nhân
cách thiền sƣ thuần thành với tƣ tƣởng của Phật giáo. Buổi đầu xuất gia tu hành,
26
dƣờng nhƣ ông vẫn chƣa thực chuyên tâm phụng sự cho đạo Phật, đến nổi sƣ
phụ Pháp Loa phải nhắc nhở. Sách Tam tổ thực lục có ghi: “Ngày 14 tháng 7
năm Kỷ Dậu, niên hiệu Hƣng Long thứ 17 (1309) nhân ngày cúng chay cho
Nhân Tông (Điều Ngự) trong dịp đại lễ Vu Lan, Sƣ (Pháp Loa) phụng sắc chỉ
đến dự, và lên toà thuyết pháp. Cùng tháng ấy, Sƣ tiếp Huyền Quang và bảo:
“Ngƣời quên những lời di chúc của Điều Ngự rồi sao?”. Từ ấy, Huyền Quang
theo sƣ tham học, không rời nửa bƣớc” [56, tr. 42]. Nhƣng sau một thời gian
theo phò tá Pháp Loa, năm 1313 ông lại trở về Yên Tử. “Tháng 2 năm Đinh Tỵ,
niên hiệu Đại Khánh thứ tƣ (1317), Sƣ (Pháp Loa) bệnh nặng, bèn đem y bát và
tâm kệ do Điều Ngự truyền lại trao cho Huyền Quang (…). Khi sƣ lành bệnh,
Huyền Quang khƣớc từ việc phú chúc ấy” [56, tr. 46]. Ngay cả sau khi đƣợc
Pháp Loa truyền y bát trở thành Tổ thứ ba của Thiền phái, ông vẫn bộc bạch tâm
sự của một ẩn sĩ:
Đức bạc thường tàm kế tổ đăng,
Không giao Hàn Thập khởi oan tăng.
Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.
(Nhân sự đề Cứu Lan tự)
(Thƣờng thẹn mình đức mỏng mà đƣợc nối ngọn đèn tổ,
Luống để cho Hàn Sơn, Thập Đắc sinh niềm oán giận.
Chi bằng theo bạn về rừng núi,
Giữa muôn vạn tầng núi non trùng điệp.)
(Nhân có việc đề ở chùa Cứu Lan)
[80, tr. 93].
Trên cƣơng vị là một Tổ thứ ba của một Thiền phái nổi tiếng, nhƣng hầu
nhƣ ông lại giao toàn bộ mọi việc lại cho đệ tử An Tâm để trở về Côn Sơn sống
nhƣ một ẩn sĩ. Và cũng chính trong thời gian này, con ngƣời thi sĩ trong ông nở
rộ hơn bao giờ hết. Tâm hồn thi ca và tâm hồn thiền hoà lẫn vào nhau, sự hoà
trộn tƣ tƣởng Nho - Phật - Đạo đƣợc thể hiện qua các sáng tác của ông đã đạt tới
mức độ cao nhất, khó có thể phân biệt. Hình tƣợng ngƣời ẩn sĩ cũng đã đƣợc thể
hiện rất rõ nét qua các trƣớc tác của Huyền Quang còn lại đến nay, đặc biệt là ở
chùm thơ sáu bài hoa cúc của ông. Các trƣớc tác của Huyền Quang đã không ít
27
lần nói đến cái “nhàn”, cái “ẩn”, cái” quên”. Tuy nhiên , theo nhƣ nhận xét của
Nguyễn Kim Sơn: “trong cái nhàn,cái ẩn, cái quên của Huyền Quang, chúng ta
“vẫn cảm nhận thấy một thế giới tinh thần thực tại, hiện hữu, trần thế, nó hƣớng
vào thể hiện một thế giới nội tại nhiều tâm sự và thoáng chút buồn bã cô đơn.
Ông nói tới việc quên mình, quên đời điều đó chứng tỏ ông có nhiều cái cần
quên. Ông quên mình, quên đời, nhƣng tâm chƣa lạnh giá, tức cái ẩn theo lối của
Đạo gia chƣa hết mực. Ở đó có cái thanh lặng của cõi Thiền, nhƣng lại khác cái
vui của cõi lạc đạo. Tinh thần của một nhà Nho ẩn dật đã rất nổi bật trong thơ
ông.” [69, tr. 85].
Nhƣ vậy, thông qua những hoạt động ở giai đoạn cuối đời của Huyền
Quang, đặc biệt là căn cứ vào những trƣớc tác của ông còn lại đến nay, chúng ta
có thể thấy sự ảnh hƣởng và chi phối của Phật giáo đến vị tổ này đã không còn
đƣợc sâu đậm nhƣ đối với những vị thiền sƣ trƣớc. Ở Huyền Quang bên cạnh tƣ
tƣởng Phật giáo đã có sự ảnh hƣởng ngày càng đậm nét của tƣ tƣởng Nho giáo
vào tƣ tƣởng Lão - Trang. Ba luồng tƣ tƣởng này cùng tồn tại, giao hoà trong
nhau và dƣờng nhƣ không diễn ra sự nổi trội thật sự của một luồng tƣ tƣởng nào.
Sang đến giai đoạn đầu nhà Trần, trƣớc sự xuất hiện của các thế lực quý tộc – võ
tƣớng và sự mạnh lên không ngừng của Nho giáo, Phật giáo đã không còn giữ
đƣợc vị thế chủ đạo của mình trong xã hội nữa. Giai đoạn này đã có sự phân chia
vị trí và phạm vi ảnh hƣởng khá rõ ràng giữa Nho và Phật. Nhƣ vua Trần Thái
Tông đã nói: “Trẫm thầm nhủ: Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm;
tính ngƣời có trí ngu, cùng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phƣơng tiện dẫn
dụ đám ngƣời mê muội, con đƣờng tắt sáng tỏ lẽ sinh tử, ấy là đạo giáo của đức
Phật. Đặt mực thƣớc cho hậu thế, làm khuôn mẫu cho tƣơng lai, ấy là trách
nhiệm của tiên thánh” [55, tr. 27 - 28]. Với sự phân chia tƣơng đối rõ ràng nhƣ
vậy, ở thời nhà Trần gần nhƣ không còn hiện tƣợng giới tăng sƣ tham gia vào
công việc chính trị của triều đình nhƣ những giai đoạn trƣớc nữa, mặc dù họ vẫn
đƣợc kính trọng, tôn sùng. Ngay cả các vị vua, quý tộc triều Trần cũng chỉ đến
với Phật giáo trong tƣ cách Phật tử, hoặc là thí chủ, đàn việt thiền gia và cao hơn
nữa là cƣ sĩ, một số ít xuất gia bán thế. Bóng áo cà sa cũng chỉ xuất hiện trong
nội cung, ở những buổi lễ cầu cúng, giảng kinh thuyết pháp, viếng thăm… Tuy
nhiên, cũng ở giai đoạn đầu nhà Trần, các vị vua và quý tộc xuất gia tu hành đã
28
có công không nhỏ trong việc tiếp tục đƣa Phật giáo từ một tôn giáo chủ trƣơng
xuất thế thành một tôn giáo với tinh thần nhập thế tích cực. Đó là Tuệ Trung
Thƣợng sĩ với tƣ tƣởng hoà quang đồng trần, tuỳ tục; Trần Thái Tông với
phƣơng châm mà quốc sƣ Phù Vân khuyên: “Dĩ thiên hạ chi dục vi dục, dĩ thiên
hạ chi tâm vi tâm”. Còn Trần Nhân Tông - vị sƣ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm dù
say sƣa với Thiền học, thâm đắc đến độ hiểu đƣợc cốt tuỷ của Thiền, nhƣng cái
Tâm giác ngộ vẫn là phụng sự quốc gia, dân tộc: “Ngựa pha sƣơng tuyết quay
đầu lại, Mắt ngắm giang sơn ngẩng mặt trông”. Sau khi trở thành vị sƣ tổ của
Thiền phái Trúc Lâm, với tinh thần nhập thế tích cực, Điều Ngự đã đi đến khắp
các vùng thôn quê, khuyên nhân dân phá bỏ các dâm từ và truyền giảng thập
thiện cho chúng sinh, lập chùa, cất tinh xá để tiếp độ chúng tăng, tín đồ phát triển
chƣa tửng thấy. Nối tiếp tinh thần nhập thế ấy, đệ nhị sƣ Tổ Pháp Loa cũng đã
tích cực dựng chùa, xây tháp, đúc tƣợng, mở rộng thêm quy mô các trung tâm
Phật giáo. Phải nói rằng thời Pháp Loa là thời kỳ phát triển nhất của Thiền phái
Trúc Lâm: Phật giáo đã bắt đầu có tổ chức, tăng sƣ trong cả nƣớc có số sách theo
dõi, kinh kệ của nhà Phật bắt đầu đƣợc in ấn với số lƣợng lớn, số lƣợng tăng ni
Phật tử theo học đông vô kể…
Nếu nhƣ tử thời vua Trần Nhân Tông trở về trƣớc, các vị vua thƣờng có
xu hƣớng theo Phật giáo từ rất sớm, thì từ thời Trần Anh Tông, Trần Minh
Tông… các vị vua đã chịu ảnh hƣởng của Nho giáo hơn là ảnh hƣởng của Phật
giáo. Vua Anh Tông đã là mẫu hình của một vị hoàng đế theo những tiêu chí của
Nho gia. Phật giáo cũng không còn đƣợc các vị vua sùng kính và đối đãi nhƣ
trƣớc nữa. Khi Anh Tông lâm bệnh sắp qua đời, sƣ Phổ Tuệ xin vào để nói
chuyện sống chết, ông không cho vào và sai trả lời: “Nhà sƣ hãy ở đấy, khi ta
chết rồi, quan gia có sai làm thế nào thì nhà sƣ tự làm, còn những việc sau thì
nhà sƣ cũng chƣa chết, biết đâu mà đem việc chết bày tỏ với ta!” [55, tr. 123].
Trần Anh Tông cũng là vị vua đầu tiên dùng nho sĩ vào chức Hành khiển - một
chức quan đầu triều. Đến thời vua Trần Minh Tông thì Nho giáo đã phát triển rất
mạnh, Phật giáo đã mất hẳn ảnh hƣởng đối với tầng lớp trí thức bên trên cũng
nhƣ đối với triều đình, giới tăng sƣ cũng không còn tham gia công việc triều
chính nhƣ trƣớc nữa. Ngay cả Pháp Loa và Huyền Quang - những vị thiền sƣ có
tiếng nhất thời này cũng không đƣợc trọng dụng và giao phó trọng trách gì trong
29
đời sống chính trị. Tuy nhiên với hàng loạt các hoạt động Phật giáo mang tinh
thần nhập thế tích cực của Nhân Tông và Pháp Loa, Phật giáo đã chuyển hóa vào
trong dân gian trƣớc khi nó chấm dứt hẳn vai trò ảnh hƣởng tƣ tƣởng ở thƣợng
tầng kiến trúc, trong đời sống chính trị. Đến Huyền Quang thì cơ hồ nhƣ công
việc phổ cập Phật giáo vào trong quần chúng nhân dân đã hoàn tất. Đồng thời
ảnh hƣởng của nó đến tầng lớp trên cũng không còn nữa. Trƣớc bối cảnh ấy,
cũng là dễ hiểu khi Huyền Quang dù ở cƣơng vị sƣ tổ nhƣng lại ít quan tâm đến
sự phát triển của giáo hội. Ông không chủ trƣơng phát triển rộng rãi Phật giáo
cũng bởi những công việc đó đã đƣợc hai vị sƣ tổ trƣớc hoàn thành về cơ bản.
Huyền Quang và cả Pháp Loa (ở những giai đoạn cuối đời) đều chủ trƣơng ở ẩn
“Quên mình, quên hết cuộc tang thƣơng… Muôn duyên chẳng vƣớng xa trần
tục”, hay “Buông niềm trần tục náu tới Vân Yên”. Cả Pháp Loa và Huyền Quang
đều ít quan tâm đến những vấn đề học thuật trừu tƣợng của Thiền học mà chủ
yếu chỉ nêu lên những vấn đề thiết thực của việc thực hành tu đạo. Việc lựa chọn
con đƣờng ẩn tu của Huyền Quang ở những giai đoạn cuối đời thể hiện một tƣ
tƣởng minh triết, hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế của Phật giáo lúc bấy
giờ. Có thể nói rằng nếu căn cứ vào những ghi chép ở các nguồn thƣ tịch cổ,
Huyền Quang là ngƣời mở đầu cho nhình ảnh ngƣời ẩn sĩ mà chúng ta không ít
lần còn gặp lại trong cách hành xử cũng nhƣ trong các sáng tác của một số nhà
Nho ở các giai đoạn sau này nhƣ Chu Văn An, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm… Tuy nhiên cách thức hành xử ẩn dật của Huyền Quang là
rất khác so với cách thức hành xử ẩn dật của nhà Nho gai đoạn sau này, đặc biệt
là khi Nho giáo đã chiếm đƣợc địa vị độc tôn và ràng buộc nho sĩ vào những
giáo điều chặt chẽ của nó.
Với Huyền Quang, xu hƣớng ẩn sĩ là một lựa chọn minh triết phù hợp với
tình hình của Phật giáo lúc bấy giờ. Nó không hề có sự mâu thuẫn, hay nghịch
chiều với xu hƣớng nhập thế tích cực của Thiền phái Trúc Lâm. Đến Huyền
Quang, Thiền phái Trúc Lâm đã đạt đến sự nhập thế triệt để nhất của nó.
1.2.4. Lý Đạo Tái - Huyền Quang tôn giả - một thi nhân
Huyền Quang không chỉ là một vị nho sĩ tinh thông Nho học, một nhà
Phật học lỗi lạc - vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, một ẩn sĩ, mà ông còn
là một thi nhân có tiếng ở giai đoạn văn học thời nhà Trần. Trƣớc tác của Huyền
30
Quang vừa góp phần tạo nên nét đặc trƣng riêng của nền văn học thời kỳ này,
đồng thời cũng thể hiện sâu sắc sự chuyển giao mạnh mẽ giữa nền văn học Phật
giao sang nền văn học Nho giáo. Ông cũng trở thành một điển hình cho sự giao
thoa giữa loại hình tác giả nhà nho và loại hình tác giả Thiền sƣ.
Mặc dù các sáng tác của Huyền Quang còn lƣu lại đến nay chỉ còn 23 bài
thơ trong tập Ngọc tiên và bài phú Nôm Vịnh Vân Yên tự phú, nhƣng so với số
lƣợng một vài bài của hầu hết các tác giả thời kỳ này, thì dung lƣợng sáng tác
này không hề nhỏ. Văn bản gốc các sáng tác của Huyền Quang đều đã bị thất
lạc. Các bài thơ của ông còn lại cho đến nay đều đƣợc tập hợp từ các thƣ tịch cổ
nhƣ Việt âm thi tập (1459) do Phan Phu Tiên và Chu Xa biên soạn vào đầu thời
Lê sơ và Trích diễm thi tập (1497) do Hoàng Đức Lƣơng biên soạn vào cuối đời
Lê Thánh Tông, trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn và Hoàng Việt thi tuyển
của Bùi Huy Bích. Các thƣ tịch ghi chép lại các sáng tác của Huyền Quang đều
đánh giá ông hay chữ và là thi sĩ có tiếng của đời Trần. Trong sách Kiến văn tiểu
lục, học giả Lê Quý Đôn (1726 – 1784) có nhận xét về thơ ông nhƣ sau: “Sƣ
Huyền Quang, ngƣời thời nhà Trần, học rộng, thơ hay, trong Việt âm thi tập có
chép một bài thất ngôn tuyệt cú của Thiền sƣ, thì tựa hồ không phải khẩu khí
kiểu nhà chùa, còn bài ngũ ngôn và thất ngôn thì lời thơ cũng bằng phẳng. Trong
Trích diễm thi tập có chép một bài ngũ ngôn tuyệt cú và 21 bài thất ngôn tuyệt
cú, thì thơ văn tinh tế, rất có khi tƣợng cao siêu” [22, tr. 393]. Còn nhà sử học
Phan Huy Chú (1782 -1840) trong tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí cũng
nhận xét tác phẩm Ngọc tiên tập của Huyền Quang là “Văn thơ bay bƣớm phóng
khoáng” [13, tr. 73]
Ở thời Trần, thể phú Nôm còn lại đến nay là không nhiều, loại trừ một số
bài còn chƣa rõ nguồn gốc và tác giả ra, chỉ còn lại bốn bài đã xác định đƣợc tác
giả: Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân
Tông; Vịnh Vân Yên Tự phú của Huyền Quang; Giáo tử phú của Mạc Đĩnh
Chi… Bốn bài phú này đều mang nội dung Phật giáo. Điều đó cũng thể hiện tinh
thần nhập thế rất tích cực của Phật giáo thời kỳ này, nó đã chuyển hóa và phổ
cập mạnh mẽ trong quảng đại quần chúng, thay cho những triết lý cao siêu, bí
hiểm nhƣng những giai đoạn trƣớc. Các bài phú Nôm ở thời Trần đã đạt đến một
trình độ nhất định, đánh dấu một giai đoạn đã bắt đầu có sự trƣởng thành trong
31
việc sáng tạo văn học bằng thứ ngôn ngữ của dân tộc.
Nếu Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của đệ nhất
tổ Điều Ngự là một bản tuyên ngôn của con đƣờng sống đạo, mà Phật giáo Việt
Nam đã đề ra và đã chi phối cuộc sống của hàng triệu triệu ngƣời Phật tử Việt
Nam thời vua Trần Nhân Tông và những thế kỷ sau, thì bài Vịnh Vân Yên tự phú
của Huyền Quang lại không tập trung vào thiền lý, mà chủ yếu tập trung vào
thiền thú, thiền cảnh. Nổi bật ở bài phú này là tinh thần tiêu dao thoát tục, chất
Phật và chất Đạo hoà vào nhau. Tƣ tƣởng mà tác giả thể hiện ở bài phú này là tƣ
tƣởng thuận theo quy luật tự nhiên đƣợc diễn đạt bằng cảnh tự nhiên sông núi,
hoa lá chim muông thanh bình. Tác giả cũng đề cập đến những chủ đề, biểu
tƣợng của Phật giáo nhƣ Bụt, Phật quả, Hƣ vô, Thiền, Bát nhã nhƣng lại diễn
giải nó thông qua thiền cảnh chứ không thông qua thiền lý. Ở đây, thiền lý thâm
nhập nhuần nhuyễn trong thiền cảnh.
Trong thơ ông, nhiều khi con ngƣời thi sĩ và con ngƣời thiền gia đã hoà
làm một, hình ảnh ngƣời ẩn dật mang tinh thần tiêu dao của Lão - Trang cũng
hoà quyện, giao thoa với tinh thần một ẩn sĩ Nho giáo. Theo Nguyễn Kim Sơn
thì: “Các sáng tác thơ của Huyền Quang phản ánh rất rõ hiện trạng của đời sống
tinh thần tầng lớp trí thức, của các quan niệm thẩm mỹ, các thể tài văn học, giai
đoạn giữa và cuối Trần. Nó đánh dấu sự bắt đầu quá trình chuyển giao giữa hai
thời đại Phật giáo sang thời đại Nho giáo, giữa văn chƣơng Phật giáo và văn
chƣơng Nho giáo thế tục” [69, tr. 87].
1.3. Hành trạng Huyền Quang nhìn từ lát cắt hệ tư tưởng – một nhân
cách văn hóa đa trị của thời đại nhà Trần
Mỗi hiện tƣợng tƣ tƣởng, văn hóa, văn học ra đời đều là sự tổng hợp, tích
hợp của nhiều yếu tố lịch sử - xã hội, tƣ tƣởng – văn hóa, văn học. Hiện tƣợng
Huyền Quang cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đã có “một sự chuyển giao
thực sự giữa Nho giáo và Phật giáo” (chữ dùng của Trần Đình Hƣợu) ở giai đoạn
nhà Trần. Hiện tƣợng Huyền Quang chính là kết quả điển hình của sự chuyển
giao ấy
Ở đầu thời đại nhà Trần, sự dung hợp Phật - Nho - Lão đã đựoc thể hiện
khá rõ ở Trần Thái Tông. Trong bài Phổ khuyến phát Bồ đề tâm, khi bàn về tầm
quan trọng của “đạo”, ông viết: “Cái quý nhất ở đời là vàng ngọc. Nhƣng xét cho
32
kĩ thì cái đáng trọng, đáng tiếc không gì bằng thân mệnh con ngƣời (…). Tuy
nhiên, nói thân mệnh là đáng trọng nhƣng cũng còn chƣa trọng bằng cái Đạo tối
cao. Cho nên Khổng Tử nói: “Sớm nghe Đạo, chiều chết đƣợc rồi”, Lão Tử nói:
“Ta sở dĩ có điều lo lớn là vì ta có cái thân”. Đức Thế Tôn cầu Đạo, quên mình
cứu khổ. Há chẳng phải ba bậc thánh nhân khinh thân mà trọng Đạo đó sao?”
[10, tr.63]
Rõ ràng trong thời đại cùng tồn tại sự chi phối của nhiều hệ tƣ tƣởng thì
một nhân cách trí thức lớn khó có thể thuần thành hay chịu sự chi phối và lệ
thuộc nhất định vào một hệ tƣ tƣởng nào. Huyền Quang cũng không nằm ngoài
quy luật ấy. Ở ông có sự hội tụ phức tạp của ba luồng tƣ tƣởng Nho - Phật -
Đạo. Là vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, ông đã thực hiện dƣờng nhƣ triệt
để nhất tinh thần nhập thế tích cực của Thiền phái Trúc Lâm. Đến giai đoạn lãnh
đạo của vị Tổ thứ ba - Huyền Quang tôn giả, thì sự chuyển hóa của Thiền phái
Trúc Lâm từ thƣợng tầng văn hóa cung đình - văn hóa của những trí thức cao cấp
xuống hạ tầng của tƣ duy dân gian, môi trƣờng văn hóa dân gian, thì dƣờng nhƣ
đã đƣợc hoàn thành về cơ bản. Kết quả đó có đƣợc từ những hoạt động nhập thế
tích cực của đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông, và đặc biệt là những hoạt động rất thiết
thực của đệ nhị Tổ Pháp Loa. Huyền Quang chỉ đứng ở vị trí lãnh đạo Thiền phái
trong vòng ba năm - một thời gian không phải là nhiều. Với đặc tính “đổ khẩu vô
ngôn”, “dĩ tâm truyền tâm”, với các luận thuyết siêu lí tính, siêu tƣ duy, vƣợt
khỏi những nhận thức, lí luận thông thƣờng, các dòng Thiền chỉ có thể tồn tại và
phát triển ở môi trƣờng văn hóa cao cấp, với những trí thức cao cấp. Nên khi
Phật giáo chuyển hóa vào trong dân gian thì các dòng thiền cơ hồ đã mất đi mạch
sống của mình. Môi trƣờng văn hóa dân gian dễ tiếp nhận thứ Phật giáo mang
màu sắc Mật tông, Tịnh độ tông hơn là các dòng Thiền… Đến Huyền Quang, tƣ
tƣởng nhập thế tích cực, dĩ Nho nhập Thích đƣợc khởi xƣớng từ đệ nhất Tổ Trần
Nhân Tông đã đƣợc thực hiện một cách rốt ráo. Phật giáo về cơ bản đã đƣợc phổ
cập rộng rãi trong dân gian, bắt đầu một quá trình ăn sâu vào tâm thức dân gian.
Đây cũng là một trong những căn cứ quan trọng để cắt nghĩa tại sao sau Huyền
Quang, Thiền phái Trúc Lâm không còn tiếp tục phát triển nữa.
Trong tƣ tƣởng của Huyền Quang hẳn là có những nét khác so với hai vị
sƣ Tổ của mình. Nhân Tông và Pháp Loa đều có khuynh hƣớng đến với Phật
33
giáo từ rất sớm. Tƣ tƣởng của Trần Nhân Tông cũng là tƣ tƣởng tam giáo, trong
tƣ tƣởng của ông, mặc dù chất Đạo giáo và chất Nho giáo đã rất đậm, nhƣng vẫn
nghiêng về Phật giáo. Còn Pháp Loa thì dƣờng nhƣ là thuần thành hơn cả với tƣ
tƣởng Phật giáo. Tƣ tƣởng của ông cũng không có gì đặc sắc, hơn thầy – Trúc
Lâm đệ nhất Tổ mà cũng không có gì hơn trò - Huyền Quang tôn giả đệ tam Tổ.
Huyền Quang lại là ngƣời tinh thông Nho học, ông đã đem tinh thần Nho gia vào
trong cửa chùa. Qua tiểu sử hành trạng Huyền Quang, chúng ta có thể thấy ở ông
cả hai hình ảnh của nhà Nho chính thống. Trƣớc khi xuất gia, ông mang hình ảnh
của nhà Nho hành đạo: học hành, thi cử, đỗ đạt, làm quan. Sau khi xuất gia, về
cuối đời, những hoạt động cũng nhƣ những sáng tác của ông ở giai đoạn này lại
mang bóng dáng, tinh thần của một nhà Nho ẩn dật. Có thể nói Huyền Quang
chính là điển hình cho sự giao thoa giữa nhân cách trí thức nho sĩ và trí thức
thiền sƣ. Ông cũng chính là ngƣời thực hiện tƣ tƣởng dĩ Nho nhập Thích của
Thiền phái Trúc Lâm một cách triệt để nhất. Sau Huyền Quang, cùng với sự vận
động, phân hóa, ảnh hƣởng ngày càng quyết liệt của Nho giáo tới mọi mặt của
đời sống xã hội, cũng nhƣ sự sa sút không thể cứu vãn của Phật giáo, không còn
xuất hiện những đỉnh cao của nhân cách trí thức thiền sƣ của dòng văn hóa Phật
giáo nhƣ trƣớc nữa, điều đó cũng đồng nghĩa với việc không ai đủ tài năng và
đức độ để nối tiếp ngọn đèn tổ. Huyền Quang cũng chính là đỉnh cao cuối cùng
của nhân cách trí thức thiền sƣ trong dòng văn hóa Phật giáo - vị tổ cuối cùng
của Thiền phái Trúc Lâm.
Tiểu kết
Ở chƣơng 1, chúng tôi thông qua việc khảo sát các nguồn thƣ tịch cổ đã
dựng lại bức chân dung khái quát về Huyền Quang tôn giả ở các phƣơng diện:
một trí thức nho sĩ, một nhà Phật học lỗi lạc - đệ tam tổ của Thiền phái Trúc
Lâm, một ẩn sĩ và một thi nhân. Đồng thời với việc dựng lại bức chân dung khái
quát về Huyền Quang, chúng tôi cũng đặt nhân vật lịch sử này trong sự vận động
của tƣ tƣởng văn hóa, văn học của thời đại nhà Trần nhằm đƣa ra những nhận
định khách quan, nhất quán về ông. Qua việc dựng lại tiểu sử hành trạng của
Huyền Quang, chúng tôi đi đến kết luận: Huyền Quang là điển hình cao nhất cho
sự giao thoa của nhân cách nho sĩ và nhân cách thiền sƣ. Ông cũng chính là
34
ngƣời thực hiện quá trình dĩ Nho nhập Thích của Thiền phái Trúc Lâm một cách
triệt để nhất . Điều đó cũng cho thấy, Nho giáo đã có sự thâm nhập, phân hóa và
ảnh hƣởng quyết liệt đến những tầng lớp trí thức bên trên của xã hội, trong đó có
cả trí thức Phật giáo. Huyền Quang cũng chính là đỉnh cao cuối cùng cùa nhân
cách tri thức văn hóa Phật - một nhân cách đa trị - một hiện tƣợng tƣ tƣởng văn
35
hóa, văn học đặc biệt của thời đại nhà Trần.
Chƣơng 2
NHÀ THƠ LÝ ĐẠO TÁI VÀ TÔN GIẢ HUYỀN QUANG
Từ một hiện tƣợng điển hình cho sự giao thoa giữa nhân cách trí thức nho
sĩ và thiền sƣ, Huyền quang bƣớc vào thế giới văn học và cũng trở thành hiện
tƣợng điển hình cho sự giao thoa giữa loại hình tác giả nhà nho và loại hình tác
giả thiền sƣ. Là một thiền sƣ - hơn thế nữa lại là vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc
Lâm, nhƣng những sáng tác của ông lại không hoàn toàn mang những đặc trƣng
thuần nhất của dòng văn học Phật giáo trƣớc đó. Nó đã dần mờ nhạt đi rất nhiều
những đặc điểm dị biệt của thơ Thiền bên cạnh sự đậm dần lên của những yếu tố
đặc trƣng của văn chƣơng nhà Nho. Rất khó có thể xếp ông vào một loại hình tác
giả cụ thể nào. Ông không chỉ là một nhà thơ có tiếng của thời Trần mà đã thực
sự trở thành một hiện tƣợng thơ độc đáo của giai đoạn này.
Mặc dù các trƣớc tác của Huyền Quang còn lại đến này không nhiều,
nhƣng theo nhƣ đánh giá của Nguyễn Kim Sơn thì: “Sự nghiệp văn học của
Huyền Quang có vai trò nhƣ một dấu chuyển quan trọng giữa hai thời đại văn
học” [69, tr. 89]. Chính vì vậy, chúng tôi chủ trƣơng đặt các trƣớc tác của Huyền
Quang trong sự vận động từ nền văn học Phật giáo sang nền văn học Nho giáo
giai đoạn đƣơng thời. Từ định hƣớng ấy, chúng tôi tiến hành phân tích các tác
phẩm của ông trên bình diện những tiêu chí đặc trƣng của hai nền văn học này
nhƣ quan niệm văn học; cảm hứng chủ đạo; hình tƣợng trung tâm; ngôn ngữ, thể
loại. Với mong muống lý giải và cắt nghĩa nguồn mạnh của hiện tƣợng thơ độc
đáo này
2.1. Vài nét về đặc điểm các loại hình tác giả và nền văn học giai đoạn
nhà Trần
Cùng với sự vận động từ Phật giáo sang Nho giáo, trong văn học thời nhà
Trần cũng đã diễn ra sự chuyển giao giữa các loại hình tác giả theo xu hƣớng nhà
Nho dần trở thành bộ phận tác giả chủ yếu thay thế cho thiền sƣ và quý tộc – võ
tƣớng. Đây cũng chính là hiện tƣợng nổi bật của văn học Việt Nam ỏ thời kỳ
này.
Theo thống kê của Th.S Đỗ Thu Hiền: “Từ thời Lý đến thời Trần là giai
36
đoạn loại hình tác giả nhà sƣ biến đổi theo chiều hƣớng từ chiếm đa số (65%)
đến chỉ còn là bộ phận rất nhỏ (6%, 4%). Trong khi “Loại hình tác giả nhà nho
lại phát triển theo chiều hƣớng hoàn toàn ngƣợc lại, từ chỗ chỉ là những các nhân
riêng lẽ (11,7%) đến khi chiếm số lƣợng lớn (14%) và trở thành áp đảo (74%)
vào thế kỷ thứ XIV.” [97, tr. 384]. Nhƣ vậy, những thay đổi, giao thoa về loại
hình tác giả đã diễn ra khá mạnh mẽ ở giai đoạn nhà Trần. Khi loại hình tác giả đã
thay đổi về cơ bản thì diện mạo văn học hiển nhiên cũng thay đổi theo. Đã có một
sự vận động chuyển giao giữa nền văn học Phật giáo sang nền văn học Nho giáo
trong giai đoạn đầy biến động này.
Theo Trần Ngọc Vƣơng, “trạng thái cổ điển của mỗi giai đoạn văn học
phải đƣợc xem nhƣ là phức hệ của một tập hợp các yếu tố đặc định, dị biệt cho
số phận của các khám phá nghệ thuật khác nhau; 1- Quan niệm văn học và lí
tƣởng thẩm mĩ; 2 - Hệ thống chủ đề, đề tài trung tâm; 3 - Hệ thống hình tƣợng
nhân vật trung tâm; 4 - Hệ thống thể loại; 5 - Ngôn ngữ văn học” [97, tr. 406].
Mặc dù ở đầu thời Trần, số lƣợng tác giả thiền sƣ đã giảm đi đáng kể so với thời
Lý, nhƣng số lƣợng tác phẩm của dòng văn học Phật giáo lại có sự tăng lên một
cách đột biến. Cảm hứng Thiền vẫn là cảm hứng chủ đạo chi phối sáng tác của
các tác giả lớn nhƣ Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thƣợng sĩ, Trần Nhân Tông …
Tuy nhiên đến các thiền gia thời Trần, cảm hứng Thiền đã mang tinh thần nhập
thế tích cực hơn rất nhiều so với thời Lý. Đã có sự thay đổi đáng kể trong thể
loại văn học Phật giáo. Các bài kệ chữ Hán chủ yếu làm bằng thơ ngũ ngôn ở
thời Lý đã dần đƣợc thay bằng những thể loại có dung lƣợng và phạm vi phản
ánh dài hơi hơn nhƣ Khóa hư lục của Trần Thái Tông, Thượng sĩ ngữ lục của
Tuệ Trung Thƣợng sĩ, Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca
của Trần Nhân Tông, Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền Quang. Cùng với những
thay đổi về thể loại, ngôn ngữ trong các tác phẩm thuộc dòng văn học Phật giáo
đời Trần cũng không còn thiên về triết lý, siêu hình, bí hiểm nhƣ ở thời kỳ trƣớc,
mà đã gần hơn với ngôn ngữ của quảng đại quần chúng, đặc biệt là có những tác
phẩm còn đƣợc sáng tác bằng thứ ngôn ngữ dân tộc nhƣ Cư trần lạc đạo phú và
Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông, Vịnh Vân Yên tự phú của
Huyền Quang…
Đến giai đoạn Vãn Trần thì hầu nhƣ không còn thấy xuất hiện những tác
37
giả, tác phẩm lớn của dòng văn học Phật giáo nhƣ trƣớc nữa. Trong khi đó, dòng
văn học Nho giáo đã dần chiếm đƣợc vị trí độc tôn và bắt đầu sự chi phối của nó
tới tất cả các hoạt động sáng tác . Trong sáng tác của các danh Nho thời kỳ này
nhƣ Sử Hi Nhan, Chu Văn An, Nguyễn Pháp, Đặng Dung, Nguyễn Phi
Khanh,… đã hƣớng tới quan niệm về một cái đẹp tƣợng trƣng ẩn chứa những nội
dung đạo lý, những nguyên tắc hành xử thuộc khuôn khổ mĩ cảm Nho gia, hình
tƣợng trung tâm trong các sáng tác đã là hình tƣợng của kẻ sĩ với khát vọng “trí
quân trạch dân”, ca tụng công đức của “vua sáng tôi hiền”… Sự phát triển của
dòng văn học Nho giáo cũng đã tạo cho sự ra đời của hàng loạt các thể loại sáng
tác mới lớn hơn rất nhiều so với số lƣợng thể loại dƣờng nhƣ là quá ít ỏi của
dòng văn học Phật giáo. Đặc biệt ở thời kỳ này, trƣớc nhu cầu ngày càng lớn
trong việc bộc lộ, ca ngợi khí tiết thanh cao cũng nhƣ khát vọng thực thi những
giáo lý của Nho giáo của tầng lớp nho sĩ, đã tạo điều kiện đáng kể cho sự phát
triển của các thể loại thơ “ngôn chí”, “thuật hoài”, “vịnh sử”, “vịnh vật”, cũng
nhƣ các thể loại xƣớng hoạ, thù tạc… Có thể nói đến giai đoạn Vãn Trần, nền
văn học Nho giáo gần nhƣ đã xây dựng và bộc lộ đầy đủ những đặc trƣng của
nó.
Nhƣ vậy, ở giai đoạn nhà Trần, đã có sự chuyển giao về cơ bản từ nền văn
học Phật giáo sang nền văn học Nho giáo. Tuy nhiên, trong không khí khoan
hoà, hỗn dung của thời kỳ “tam giáo tịnh hành”, trong xu thế đồng hành và đấu
tranh tranh lẫn nhau giữa các xu thế tƣ tƣởng, các lực lƣợng trí thức, các loại
hình tác giả, đã không cho phép tồn tại một loại hình tác giả cũng nhƣ một nền
văn học thuần nhất. Chúng ta có thể thấy trong sáng tác của các thiền sƣ thời đầu
nhà Trần những yếu tố của văn học nhà Nho. Ngƣợc lại có không ít sáng tác của
các nhà Nho giai đoạn Vãn Trần nếu đặt trong các sáng tác của dòng văn học
Phật giáo trƣớc đó lại cũng khó có thể phân biệt đƣợc. Nền văn học Nho giáo
thời kỳ này cũng chƣa phải là nền văn học Nho giáo đạt đến sự mẫu mực, chính
thống. Loại hình tác giả nhà Nho ở thời kỳ này và những sáng tác của họ cũng
rất khác so với loại hình tác giả nhà Nho và văn chƣơng Nho giáo từ thời Lê
Thánh Tông trở về sau.
Sự vận động từ nền văn học Phật giáo sang nền văn học Nho giáo ở giai
đoạn nhà Trần đã tạo nên hiện tƣợng giao thoa độc đáo giữa hai dòng văn học
38
này. Huyền Quang chính là một hiện tƣợng thơ điển hình, tiêu biểu nhất cho sự
giao thoa giữa hai dòng văn học đó. Từ những lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành
tìm hiểu các trƣớc tác còn lại của Huyền Quang trên các phƣơng diện: Quan
niệm sáng tác; Cảm hứng thẩm mỹ; Hình tƣợng trung tâm; ngôn ngữ, thể loại
2.2. Nhà thơ Lý Đạo Tái - một hiện tượng thơ độc đáo
2.2.1. Quan niệm sáng tác.
Với chủ trƣơng vô ngôn, đạt đạo bằng con đƣờng đốn ngộ của Thiền tông,
các thiền sƣ cũng không thật sự coi trọng việc sáng tác. Và nếu có sáng tác thì họ
cũng coi văn chƣơng nhƣ một công cụ để truyền đạo, phản ánh các triết lý và
quan niệm Thiền, các bài học Thiền, các trạng thái tinh thần Thiền khi giác ngộ,
khi chứng nhập chân lí với mục đích thể hiện sự ngộ đạo, và truyền đạo. Đặc
trƣng cơ bản của văn học Thiền gia chính là tƣ duy nghệ thuật mang tính trực
cảm tâm linh, phi lý tính, siêu việt. Chính vì quan niệm nhƣ vậy về sáng tác, ở
thời Lý mặc dù số lƣợng tác giả là thiền sƣ rất lớn, nhƣng số lƣợng tác phẩm văn
học Phật giáo lại không nhiều. Số lƣợng sáng tác của mỗi thiền sƣ cũng thƣờng
chỉ dừng lại ở đôi ba, ngƣời nhiều nhất cũng chỉ sáng tác có bốn bài. Hơn thế
nữa, các sáng tác của ông hầu nhƣ cũng đã không còn nặng về chức năng tôn
giáo và mục đích truyền đạt giáo lý nhà Phật. Nhƣ vậy, quan niệm sáng tác của
văn học Phật giáo đến Huyền Quang hẳn đã chứa đựng một sự biến đổi đặc biệt
nào đó ?
Phần lớn các thiền sƣ có khối lƣợng sáng tác lớn ở giai đoạn đầu nhà Trần
thƣờng có nguồn gốc xuất thân từ nho sĩ, một số từng là vua chúa, quý tộc, quan
lại. Nhìn chung họ đều chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng của Nho giáo đang lên mạnh lúc
bấy giờ với những mức độ đậm nhạt rất khác nhau. Hơn nữa sự ra đời của Thiền
phái Trúc Lâm - một dòng thiền mang đậm bản sắc dân tộc với tinh thần nhập
thế tích cực đã dẫn đến những biến đổi khá cơ bản trong thơ Thiền ở thời Trần so
với thời Lý. Nếu thơ Thiền thời Lý thiên về triết lý, siêu việt, bí hiểm, thuần
thành với giáo lý nhà Phật, thì thơ Thiền đời Trần lại đa dạng và phức tạp hơn
nhiều. Nó không chỉ chuyên chú tập trung vào giáo lý của Thiền tông mà đã
chứa đựng những nội dung của cuộc sống hiện thực, phản ánh nhiều mặt hơn đời
sống tinh thần con ngƣời. Các tác giả thơ Thiền thời này cũng có đời sống đa dạng
và phong phú hơn. Thậm chí lại có những thiền sƣ vừa làm thơ Thiền lại vừa làm
39
thơ thế tục.
Tuy nhiên, các tác giả là thiền sƣ lớn thời kì này nhƣ Trần Thái Tông, Tuệ
Trung Thƣợng sĩ, Trần Nhân Tông… sáng tác của họ phần lớn vẫn nghiêng về
chức năng của Phật giáo. Khóa hư lục của Trần Thái Tông là một tập bài giảng
về đạo không, là những bàn luận và truyền đạt những kinh nghiệm tu tập tâm
linh có tính cách tôn giáo. Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo
ca của đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông cũng đều là những tác phẩm lớn, chuyển tải
những vấn đề về đạo Phật. Những bài viết của nhị Tổ Pháp Loa đƣợc tập hợp
trong Thiền đạo yếu học cũng chủ yếu là các bài nói về cách tu hành, chọn bạn,
chọn thầy, giảng giải về Phật Pháp Tăng, Giới, Định, Tuệ…
Huyền Quang cũng có biên soạn các sách Phật giáo nhƣ Chư phẩm kinh,
Công văn tập, Thích khoa giáo... Tuy nhiên, hiện nay những sách đó đã thất lạc
khiến chúng ta không thể khảo cứu đƣợc. Tuy nhiên qua những sáng tác của ông
còn lại đến nay, chúng ta đều dễ nhận thấy những sáng tác ấy đã không còn nặng
về chức năng chuyên chở, truyền đạt những giáo lí của nhà Phật nữa.
Ngay cả tƣ tƣởng và giáo lý Thiền tông cũng chỉ đƣợc Huyền Quang nhắc
đến trực tiếp qua đôi câu thơ trong bài Diên Hựu tự (Chùa Diên Hựu), và trong
bài kệ bằng chữ Nôm ở cuối bài Vịnh Vân Yên tự phú (Vịnh chùa Vân Yên).
Khác với Nhân Tông, Pháp Loa và các vị thiền sƣ đời trƣớc, Huyền Quang
không có bài kệ khi thị tịch - một thể loại đặc thù của văn bản chức năng tôn
giáo. Kệ thƣờng đƣợc dùng để tụng ca, khẳng định giáo lý nhà Phật. Các bậc
thầy thƣờng dùng thể loại kệ để diễn tả những cảm giác chứng ngộ cũng nhƣ
những kinh nghiệm tu tập của mình cho đệ tử. Nó là một trong những thể loại
đặc trƣng, tƣơng đối phổ biến biến trong dòng văn học Phật giáo thời Lý và ở
giai đoạn đầu thời Trần. Tuy nhiên đến thời Pháp Loa và Huyền Quang, những
thể loại sáng tác truyền đạt những giáo lý cao siêu, bí hiểm nhƣ kệ không còn
phù hợp nữa. Theo Tam tổ thực lục có ghi lại sự việc trƣớc khi Pháp Loa sắp mất
nhƣ sau: “Các môn đồ vào thƣa: “Ngƣời xƣa khi lâm chung đều có kệ dạy, vì sao
Thầy không có?”. Sƣ quở trách họ; giây lát lâu bèn ngồi dậy, bảo đem bút đến,
viết lớn bài kệ” [56, tr. 56-57]. Đến Huyền Quang thì thể loại kệ thị tịch dƣờng
nhƣ đã không còn xuất hiện nữa. Nhƣ vậy, sự chi phối trong quan niệm sáng tác
40
của văn học Phật giáo đến Huyền Quang đã rất mờ nhạt.
Trong sáng tác của Huyền Quang, có không ít những những vần thơ thể
hiện những tâm sự vi tế, chuyển tải, bộc lộ cái chí của một nhà Nho ở những
mức độ khác nhau, thậm chí có lúc là rất tiêu biểu. Mục đích việc sáng tác với
nhà nho không khác gì ngoài việc thể hiện cái chí của mình, dĩ nhiên là theo
khuynh hƣớng đạo đức, thẩm mĩ Nho gia. Các sáng tác của Huyền Quang, đặc
biệt là chùm thơ sáu bài vịnh về hoa cúc đã thể hiện sự chi phối khá đậm nét của
quan niệm “thi dĩ ngôn chí” này. Theo Nguyễn Kim Sơn thì bài Cúc hoa - kỳ
nhất của Huyền Quang đã có: “dáng dấp kiểu loại thơ ngôn chí thể hiện cái đẹp
kiểu thi ca nhà Nho, mặc dù chƣa thật sự tiêu biểu”, còn ở bài Cúc hoa - kỳ ngũ
thì “Chỉ một câu thơ cuối cùng thôi, cũng đủ đƣa bài thơ trở lại thế giớ của thơ
ngôn chí. Lời đề thực và luận là của ông tu sĩ thiền viện và đạo quán nhƣng câu
cuối cùng lại là của một ông nhà Nho chỉ về phía bản thân mình mà nói lời kết
bao trùm” [69, tr. 84].
Trƣớc Huyền Quang, thể loại thơ ngôn chí đã thấp thoáng đâu đó trong
sáng tác của các tác giả thiền sƣ. Tuy nhiên, đến sáng tác của Huyền Quang thì
nó đã đậm lên rất nhiều. Trƣớc sự tăng dần ảnh hƣởng của quan niệm văn
chƣơng của nhà Nho, quan niệm sáng tác văn học Phật giáo không còn giữa
đƣợc vai trò chi phối chủ đạo nhƣ trƣớc nữa. Sự tồn tại hai quan niệm văn của
các học thuyết khác nhau không hề gây ra mâu thẫn trong các sáng tác của
Huyền Quang. Đến Huyền Quang, đã có sự giao thoa giữa quan niệm văn
chƣơng Phật giáo và quan niệm văn chƣơng Nho giáo. Sự giao thoa đó trƣớc hết
bắt nguồn từ nhân cách đa trị Huyền Quang. Trƣớc khi trở thành một trí thức
Phật học lỗi lạc, ông đã là một trí thức nho sĩ, tinh thông Nho học. Hơn nữa văn
chƣơng nhà Nho giai đoạn này đã bắt đầu phát triển, đồng thời cũng gây ảnh
hƣởng và chi phối đến những dòng văn học khác cùng thời. Từ sự giao thoa
trong quan niệm sáng đã dẫn đến sự giao thoa trên một loạt các phƣơng diện
khác trong sáng tác của ông nhƣ cảm hứng chủ đạo; hình tƣợng trung tâm; thể
loại, ngôn ngữ…
2.2.2. Cảm hứng chủ đạo
Đối với các tác thiền sƣ trong dòng văn học đời Lý và giai đoạn đầu thời
Trần, cảm hứng chủ đạo chi phối các sáng tác của họ thƣờng là cảm hứng Phật
41
giáo, mà nổi bật là cảm hứng Thiền nhập thế tích cực. Tuy nhiên, đến Huyền
Quang, cảm hứng Phật giáo, đặc biệt là cảm hứng Thiền không còn giữ vai trò
chủ đạo trong các sáng tác của ông nữa mà nó đã bị đan xen, giao thoa với nhiều
cảm hứng thẩm mĩ của các học thuyết khác. Đặc biệt trong sáng tác của Huyền
Quang đã thể hiện rất đậm nét cảm hứng của một nhà nho ẩn dật. Sự đan xen,
giao thoa giữa các cảm hứng thẩm mĩ trong thơ Huyền Quang diễn ra ở mức độc
cực cao, rất khó có thể chỉ ra đâu là cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác của
ông.
Các tác phẩm của Huyền Quang đều đƣợc sáng tác vào khoảng thời gian
sau khi ông xuất gia tu hành, đặc biệt là ở giai đoạn cuối đời. Chính vì vậy, nói
đến cảm hứng sáng tác trong thơ Huyền Quang, trƣớc hết phải nói đến mạch tiếp
nối cảm hứng Thiền nhập thế tích cực của Thiền phái Trúc Lâm.
Cảm hứng Thiền nhập thế tích cực ở thời Trần so với thời Lý đã có sự
phát triển và mở rộng các đề tài, chủ đề hƣớng tới nhiều hơn những nội dung của
cuộc sống trần thế. Chính điều đó đã làm cho văn học Phật giáo thời kỳ này
không còn tách bạch với đời sống hiện thực nhƣ trƣớc nữa. Văn học Phật giáo
nói chung và thơ Thiền nói riêng không chỉ còn là bộ phận văn học của tầng lớp
quý tộc, tăng lữ bên trên, mà đã trở thành một phần của đời sống tinh thần, đời
sống nghệ thuật của đông đảo công chúng.
Cảm hứng nhập thế đã rất đậm nét trong các sáng tác của các thiền sƣ đầu
thời Trần nhƣ Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thƣợng sĩ, Trần Nhân Tông… Cảm
hứng Thiền trong các sáng tác của Tuệ Trung Thƣợng sĩ tràn đầy khoáng đạt, rất
đậm chất Lão - Trang. Với chủ trƣơng phá chấp, diệt mọi thành kiến, loại bỏ triệt
để cái nhìn nhị nguyên, cảm hứng trong thơ Tuệ Trung Thƣợng sĩ chứa đầy Phật
lý và cũng chứa đầy thế tục, thậm chí là “tuỳ tục” đến mức “phóng cuồng”. Với
đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông, cảm hứng thiền nhập thế tích cực đƣợc biểu hiện rất
độc đáo, rất nổi bật và cũng rất tiêu biểu ở cảm hứng “Cư trần lạc đạo”.
Các tác phẩm văn học thiền ở giai đoạn đầu nhà Trần luôn tràn ngập một
tinh thần hƣớng nội vào bản thân để truy cầu sự giải thoát. Không cầu mong,
trông đợi vào một thế lực nào khác ở bên ngoài, các thiền sƣ đi tìm khả năng
thành Phật và Phật trong chính bản thân, chính cái tâm của mình. Với Tuệ Trug
42
Thƣợng sĩ đó là:
Dục cầu Tâm.
Hư ngoại mịnh;
Bản thể như như tự không tịch.
(Muốn tìm tâm,
Đừng tìm ở bên ngoài;
Bản thể của nó nhƣ thế và không tịch)
Còn ở Trần Nhân Tông thì nó đƣợc diễn đạt qua tƣ tƣởng:
Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc san hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo, hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm, mạc vấn Thiền.
(Ở trần vui đạo, mặc theo duyên,
Đói thì ăn chừ, mệt thì ngủ liền.
Trong nhà có của quý, cần gì phải tìm kiếm bên ngoài,
Đối cảnh vô tâm thì cần gì phải hỏi tới Thiền)
Đến Huyền Quang, tinh thần ấy đã đƣợc thực thi một cách uyển chuyển
hơn:
Biết được tính ta nên Bụt thực,
Ngại chi non nước cảnh đường xa.
“tính ta” mà Huyền Quang nó ở đây hẳn là Phật tính – một vấn đề hạt
nhân của Phật giáo. Với Huyền Quang, việc hƣớng vào tự tính giác ngộ sẵn có
của mỗi ngƣời, hƣớng vào bên trong để biết đƣợc “tính” của mình thì đó mới
chính là con đƣờng tu hành tới Phật quả chân thực nhất. Và khi đã ý thức đƣợc
tính giác ngộ sẵn có nơi mình, biết đƣợc tính của mình, thì không còn những
quản ngại trên con đƣờng tu hành trƣớc mắt nữa.
Với tinh thần nhập thế tích cực, các thiền sƣ thời Lý - Trần, đặc biệt là các
thiền sƣ ở giai đoạn đầu thời Trần, đều chủ chƣơng tinh thần phá chấp triệt để.
Các thiền sƣ kịch liệt đả kích vào cái nhìn nhị nguyên mang tính phân biệt tốt -
xấu, phàm - thánh, mê - ngộ… Theo các thiền sƣ, cái nhìn nhị nguyên đầy phân
biệt chính là vòng dây mà con ngƣời tự trói buộc mình vào để mãi mãi phải day
dứt, đau khổ vì không bao giờ thoả mãn đƣợc lòng ham muốn. Vì vậy, họ đều
43
chủ trƣơng xóa bỏ cái nhìn nhị kiến để đạt đến sự giải thoát. Đến Thiền phái
Trúc Lâm, tƣ tƣởng giải thoát đó đã đƣợc thể hiện khá sâu sắc ở tinh thần lạc
đạo, nhậm vận tuỳ duyên…
Cảm hứng Thiền trong các sáng tác của Huyền Quang cũng chính là sự
tiếp nối tinh thần lạc đạo, nhậm vận tuỳ duyên đƣợc xây dựng trên cơ sở nhận
thức luận của Thiền Trúc Lâm. Dựa trên nhận thức luận về “tâm vô”, “tâm
không”, ông tiếp tục con đƣờng tu tập vô tâm hóa , xóa bỏ biện biệt, “vong nhị
kiến” bằng phƣơng pháp thiền định và khằng định đó là con đƣờng giải phóng
con ngƣời khỏi những hệ luỵ của trần tục.
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoang.
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.
(Muôn vạn nhân duyên không vƣơng vấn là bức thành che niềm tục,
Không lo lắng gì nên tầm mắt mở rộng.
Hiểu rõ phải trái đều nhƣ nhau,
Thì xem cung ma có khác gì nƣớc Phật)
[80, tr. 123]
Khi phá bỏ đƣợc cái nhìn Nhị kiến, cũng là lúc con ngƣời đƣợc giải thoát,
tự do, tự tại không còn phụ thuộc, cố chấp vào những cái hƣ huyễn nữa. Đó là
cái tâm không vọng động, không bám chấp, cái tâm vô phân biệt, tĩnh lặng trƣớc
mọi biến đổi sóng gió của cuộc đời. Nếu nhƣ không vƣơng vấn vạn duyên, tƣờng
chùa ngăn cách cõi tục. Không còn một chút ƣu phiền thì mới có thể phóng tầm
mắt nhìn ra xa. Khi đã hiểu đƣợc thị phi (phải trái) đều nhƣ nhau thì cung ma hay
nƣớc Phật cũng tốt nhƣ nhau cả. Huyền Quang đã thể hiện một quan điểm nhất
quán tƣ tƣởng Bất nhị.
Trong sáng tác của Huyền Qang, không ít lần chúng ta bắt gặp cảm hứng
thiền mang tinh thần siêu soát:
Vũ quá kê sơn tịch,
Phong lâm nhất mộng lương.
Phản quan trần thế giới,
Khai nhãn tuý mang mang.
44
(Ngọ thụy)
(Sau mƣa khe và núi đều sạch làu,
Một giấc mộng mát mẻ trong rừng phong.
Ngoảnh nhìn lại cõi đời bụi bặm,
Mở mắt mà dƣờng nhƣ say miên man)
(Ngủ trưa)
[80, tr. 81].
Bài thơ thể hiện một vẻ đẹp thanh tĩnh của thiên nhiên, vừa chuyển tải một
tinh thần thiền siêu thoát. Cõi đời hiện thực trần thế, trong con mắt ngƣời đắc
đạo lại trở nên rất mờ ảo xa xăm, ranh giới giữa thức và tỉnh, giữa thực và mộng
là rất mong manh, mơ hồ, chúng đã chuyển hóa vào nhau, trở thành một nhất thể
không phân biệt. Tinh thần thanh thoát, tiêu dao ấy cũng đƣợc thể hiện khá rõ nét
qua các bài Chu trung, Phiếm chu…
Nhất diệp biển chu hồ hải khác,
Xanh xuất vi hàng phong thích thích.
Vi mang tứ cố vãn triều sinh,
Giang thuỷ liên thiên nhất âu bạch.
(Chu trung)
(Một là thuyền con, một khách hải hồ,
Chèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc.
Bốn bề mịt mù, con nƣớc buổi chiều đƣơng lên,
Một chim âu trắng giữa khoảng nƣớc trời liền nhau)
(Trong thuyền)
[80, tr. 85].
Bài thơ là cả một cảm hứng Thiền mênh mang trƣớc thế giới trời mây,
sông nƣớc bao la, khoáng đạt. Trong cái không gian mở ra nhƣ vô cùng vô tận ấy
là sự hiện hữu bé nhỏ của “một lá thuyền con, một khách hải hồ”, “một chim âu
trắng”. Ở đây có sự đối lập giữa cái động và cái tĩnh, giữa cái vô hạn và cái hữu
hạn. Nhƣng sự đối lập ấy không phải là cố định, bất biến. Cái nhỏ bé, hữu hạn đã
dần dần hoà vào cái lớn lao, trở thành cái vô hạn, vĩnh hằng. Không gian gian
bao la vô cùng vô tận luôn là hình ảnh gợi cảm mạnh mẽ và tâm đắc đối với các
thiền sƣ. Nó là biểu tƣợng của cái đại ngã tuyệt đối vô biên mà các thiền sƣ luôn
45
hƣớng đến để hội nhập vào đó:
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
(Phiếm chu)
(Chiếc thuyền con lƣớt gió lên đênh trên dòng sông bát ngát,
Non xanh, nƣớc biếc lại thêm ánh sáng mùa thu.
Vài tiếng sáo làng chài ngoài khóm hoa lau,
Trăng rơi trên lòng sóng, mặt sông đầy sƣơng)
(Đi thuyền)
[80, tr. 103]
Khác với không gian trời mây sông nƣớc bao la, vô tận ở hai bài thơ trên,
không gian ở bài Tảo thu chỉ là một khoảng không quanh nơi ở của nhà thơ, một
mảnh sân trƣớc nhà… tuy nhiên nó vẫn gợi lên một cảm giác mênh mông vô
hạn, một chiều sâu thăm thẳm trong từ cái khí lạnh của đêm thu đang từ từ thấm
vào cảnh vật:
Dạ khí vân lương nhập hoạ bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đường vong thích hương sơ tận,
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.
(Tảo thu)
(Khí đêm chia hơi mát vào đến bức rèm vẽ,
Cây trƣớc sân xào xạc báo tiếng thu.
Dƣới mái nhà tre quên bẵng hƣơng vừa tắt,
Mấy khóm cây cành giăng bủa vầng trăng sáng)
(Thu sớm)
Ở bài thơ này, sự trong trẻo, lặng lẽ và mát lạnh của đêm thu càng làm
tăng cảm giác về cái hƣ không - tiêu biểu cho đặc trƣng cái “không” của thiền.
Tâm thiền của nhà thơ ở đây là cái trống không, bình đạm, không mùi vị. Con
ngƣời và cảnh vật nhƣ hoà nhập vào nhau ở một thể thống nhất không phân biệt.
46
- Cảm hứng nhậm vận tuỳ duyên
Khi đã phá bỏ đƣợc cái nhìn Nhị kiến, phân biệt, các thiền sƣ hoàn toàn
đƣợc tự do tự tại, họ không còn bị ràng buộc níu kẻo níu kéo bởi bất kỳ điều gì,
họ hoàn toàn buông bỏ với một thái độ nhâm vận tuỳ duyên. Với Trần Nhân
Tông, “nhậm vận tuỳ duyên” giúp con ngƣời tìm thấy lạc thú trong mọi hoàn
cảnh. Dù ăn cao lƣơng mĩ vị hay rau cỏ đạm bạc, dù mặc áo hoàng bào hay
khoác ảo vải thô, dù ở chốn cung điện nguy nga hay ở một căn lều đơn sơ, đều
không thể ngăn đƣợc niềm vui của con ngƣời đạt đạo:
Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thuở đắng cay;
Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc.
Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quý nửa thiên cung;
Dầu hay mến thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác.
Chuyện đói no, ấm lạnh cũng không phiền được đến ta;
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc chằm hoặc xể;
Cơm cúng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa.
(Cƣ trần lạc đạo phú)
[10, tr. 497]
Cảm hứng nhậm vận tuỳ duyên cũng đƣợc thể hiện khá rõ nết ở bài Cúc
hoa - kỳ nhất và Cúc hoa - kỳ tứ trong chùm thơ sáu bài về hoa cúc của Huyền
Quang:
Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính,
Mái cảnh Tây Hồ xử sĩ gia.
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp,
Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng hoa.
(Cúc hoa - kỳ nhất)
(Tiếng thông reo ngõ nhà tiên sinh Tƣởng Hủ,
Cảnh hoa mai ở nhà xử sĩ Tây Hồ.
Nghĩa khí khác nhau, khó có thể hoà hợp bừa bãi,
Vƣờn cũ hoa cúc đã tuỳ chỗ thích hợp của nó mà nở vàng khắp nơi)
[80, tr. 115]
Ở bài thơ này, theo Nguyễn Kim Sơn: “Bông cúc của Huyền Quang nở
không cốt khoe đức thi tài mà trong vƣờn xƣa, tuỳ nơi thích hợp của nó mà khoe
47
sắc. Hai chữ tuỳ xứ hƣớng ngƣời ta cảm nhận về một bông cúc tuỳ duyên, chỗ
nào gặp duyên thì mọc hữ duyên thì nở, vậy thôi. Sự khác biệt với cây tùng cây
mai của hai nhà thơ ở chỗ không mục đích định sẵn, không chủ ý để tƣợng trƣng.
Nghĩa khí khác nhau không thể hoà hợp cẩu thả đƣợc, vừa thể hiện Thiền ý về
một bông cúc tuỳ duyên, không lệ thuộc vào một tinh thần nào, một mong muốn
hay ký ngụ nào…” [69, tr. 80].
Bông cúc ở bài Cúc hoa - kỳ tứ cũng là một bông cúc nhậm vận tuỳ duyên
nhƣ vậy:
Niên niên hoà lộ hướng thu khai,
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài.
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai.
(Hàng năm, hoa cúc nở cùng sƣơng thu,
Trăng thanh gió mát thoả mãn tấc lòng.
Cƣời thay cho kẻ không hiểu lẽ vi diệu của hoa,
Ngắt hoa dắt đầy đầu đi về nhà)
Bông cúc nở trong tiết thu ở bài thơ này, theo Nguyễn Kim Sơn: “giống
nhƣ muôn loài hoa nở trong tiết xuân vì thấy xuân ấm áp sung sƣớng. Bông cúc
nở trong thu cũng nở vì nó thấy thoả mãn và chỉ thoả mãn trong tiết thu (…)
cũng giống nhƣ muôn loài trong tiết xuân mà thôi. Cái “diệu” (vi diệu) của hoa
chính là ở chỗ không khác gì đó (…) cƣời thay cho kẻ nào không hiểu đƣợc lẽ tự
nhiên của nó, ngắt lấy những bông hoa dắt đầy đầu trở về để đổi lấy nụ cƣời cho
giai nhân. Điều đó cũng có nghĩa là cƣời thay cho những kẻ không hiều lẽ tuỳ
duyên tùy tục, lấy cái tiêu chuẩn công lợi của thế tục để ứng dụng đối đãi với hoa
kia. Bông cúc thực sự là bông cúc nhậm vận tuỳ duyên, bông cúc nhiệm tự
nhiên, bất nhị bất đãi, (…) Bài này nổi bật cảm hứng và thẩm mỹ của Thiền”
[69, tr. 81].
Mặc dù trong các sáng tác của Huyền Quang vẫn có sự tiếp nối của mạnh
cảm hứng thiền, nhƣng nó đã không còn là cảm hứng chủ đạo nổi bật, nhƣ trong
sáng tác của các thiền sƣ trƣớc đây nữa. Đến Huyền Quang, cảm hứng Thiền
nhiều khi đã ẩn rất sâu, rất tinh vi vào cảm hứng thế tục, nó đan xen, giao thoa
với cảm hứng thẩm mỹ của Đạo gia và của cả Nho gia ở mức độ cực cao, rất khó
48
có thể phân biệt.
- Cảm hứng thế tục
Trong sáng tác của Huyền Quang có những bài dƣờng nhƣ không bàn
luận, phản ánh điều gì liên quan gì đến phạm vi của Nho - Phật - Đạo, mà đơn
thuần chỉ là những xúc cảm rất đời thƣờng trƣớc hiện thực của đời sống.
Đạm Thuỷ đình biên dã thảo đa,
Không sơn vũ tễ tịch dương tà.
Nhân qua liễu lộ đầu thiền thất,
Ủng phạn xao chung giản lạc hoa.
(Đề Đạm Thuỷ tự)
(Bên ngôi nhà nhỏ Đạm Thuỷ nhiều cỏ hoang,
Núi quang, mƣa tạnh, bóng chiều chênh chếch.
Nhân qua con đƣờng vua đi mà vào thăm am thiền,
Giúp nhà chùa thỉnh chuông và nhặt hoa rơi)
(Đề chùa Đạm Thuỷ)
[80, tr. 111]
Không còn những hình ảnh tƣợng trƣng ƣớc lệ của mỹ học Thiền gia,
cũng không nổi bật một thiền ý nào, bài thơ này đã vẽ lên một bức tranh đơn sơ
nhƣng rất chân thực và sinh động. Đến Huyền Quang, tinh thần “đối cảnh vô
tâm” dƣờng nhƣ đã bị phá vỡ. Trƣớc cảnh tên giặc bị bắt, tấm lòng ông đã có
những rung động, những cảm thông, chia sẻ:
Khoá huyết thư thành dục lý âm,
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.
(Ai phù lỗ)
(Chính máu viết thƣ muốn gửi tin tức,
Cánh nhạn lạnh lùng bay lẻ loi ngoài quan ải đầy mây.
Bao nhiêu nhà buồn ngắm bóng trăng đêm nay,
Đôi nơi xa cách nhƣng cùng một lòng thƣơng nhớ)
(Thương tên giặc bị bắt)
[80, tr. 101]
49
- Cảm hứng ẩn dật.
Giai đoạn đầu nhà Trần, Phật giáo vẫn đang ở thời kỳ rất thịnh hành. Tuy
nhiên từ thời Trần Anh Tông và Trần Minh Tông trở đi, các vị vua nhà Trần
cũng không còn sùng kính Phật giáo và trọng dụng các tăng sƣ nhƣ trƣớc nữa.
Hơn thế nữa, việc phổ cập Phật giáo vào trong dân gian đã đƣợc đệ nhất tổ Trần
Nhân Tông và đệ nhị Tổ Pháp Loa hoàn thành về cơ bản. Đến giai đoạn Huyền
Quang, các hoạt động Phật giáo cũng không còn mang ý nghĩa quan trọng. Trong
tình cảnh ấy, vị sƣ Tổ thứ ba hẳn đã chủ trƣơng lui về làm ngƣời ẩn dật, coi đó
nhƣ là một sự lựa chọn minh triết nhất.
Các sáng tác của Huyền Quang đã thể hiện một xu hƣớng ở ẩn thoát li trần
tục, xa rời trần tục rất khác với tƣ tƣởng sống “hoà quang đồng trần”, “tuỳ tục”,
“phóng cuồng” của Tuệ Trung Thƣợng sĩ. Nó cũng không giống với tƣ tƣởng
“Cư trần lạc đạo” của đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông.
Với tƣ tƣởng “Cư trần lạc đạo”, Nhân Tông vẫn có thể sống ở giữa thành
thị, nhƣng tâm vẫn ở núi rừng, nghĩa là ở chốn lao xao mà tâm vẫn an định:
Mình ngồi thành thị,
Nết dụng sơn lâm.
Miễn giữ đƣợc lòng mình sáng suốt yên tĩnh, không ham của cải, không
ham mê thanh sắc thì ở đâu cũng vậy, giữa chốn ồn ào náo nhiệt cũng có thể đắc
đạo, chứ không phải lên tận am chùa Yên Tử mới có thể tu hành:
Áng tư tài, tính sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Từ;
Rần thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am Sạn non Đông.
Và ở chốn trần tục mà đắc đƣợc đạo thì cái phúc đó mới vô cùng đáng
quý, chứ ẩn giữa núi rừng mà không giác ngộ thì cũng là cái hoạ làm uổng phí
mọi công phu:
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tất,
Sơn lâm chẳng cốc, hoạ kia thực cả đồ công
Nhƣng tới Huyền Quang thì tinh thần ấy đã có sự thay đổi rõ nét. Xu
hƣớng ẩn dật của ông đã đƣợc thể hiện rất rõ. Trƣớc những cám dỗ của công
danh phú quý mà các sĩ tử đang phải vất vả theo đuổi, ông đƣa ra lời khuyên hết
sức chân thành:
Phú quý phù vân trì vị đáo,
50
Quan âm lưu thuỷ cấp tương thôi.
Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ.
Nhất tháp tùng phong trà nhất bôi.
(Tặng sĩ đồ tử đệ)
(Giàu sang nhƣ mây nổi chậm chạp chƣa đến,
Tháng ngày nhƣ nƣớc chảy hối hả giục nhau qua.
Sao bằng về sống ẩn dật nơi rừng suối,
Một giƣờng gió thông, một chén trà)
(Tặng con em trên đường sĩ hoạn)
[80, tr. 109]
Ông chủ chƣơng “Buông niềm trần tục náu tới Vân Yên”, từ bỏ mọi ham
lợi công danh vật chất để sống một cuộc sống tiêu dao thoát tục, tự do tự tại:
“Bầu đủng đỉnh giang hoà thế giới, Hài thong dong dạo khắp sơn xuyên”, “Mặc
cà sa nằm trƣớng giấy, màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rƣơng; Quên ngọc thực
bỏ hƣơng giao cắp nạnh cà một vò, tƣơng một hũ”. Ông đã đạt đến chân lý “tâm
không”: “Bao nhiêu phong nguyệt về cõi vô tâm; Chơi dấu nƣớc non dƣỡng
đƣờng thánh thọ”. Trên cơ sở nhận thức luận Thiền học và quan niệm nhân sinh
Phật giáo, Huyền Quang đã lựa chọn con đƣờng ẩn dật, lánh đời theo tƣ tƣởng
giải thoát:
Đua khoái lạc chân bước lăm chăm;
Nhuốm phồn hoa đầu đà bạc tỉ.
Chẳng những vượn hạc thốt thề;
Lại phải cỏ hoa cười thỉ.
Khi giác ngộ chân lý nhà Phật, rời bỏ chốn phồn hoa về với thiên nhiên, tƣ
tƣởng giải thoát của ông dƣới ánh sáng Bát Nhã thật thảnh thơi, phóng khoáng,
nhẹ nhàng:
“Rũ không thay thảy ánh phồn hoa,
Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà.
Khuya sớm sáng trong đèn Bát nhã,
Hôm mai rữa sạch nước ma ha.
Lòng thiền vằng vặc trăng soi giại,
Thế sự hiu hiu gió thổi qua.
51
Cốc được tính ta nên Bụt thực,
Ngại chi non nước cảnh đường xa”
Bài kệ đã thể hiện rõ con đƣờng ẩn tu theo lối thoát ly cuộc sống: rũ bỏ
không luyến tiếc những cám dỗ của cuộc đời, rời bỏ thế sự. Ngay cả khi trở
thành vị Tổ thứ ba, ông vẫn thổ lộ ƣớc muốn của một ngƣời ẩn sĩ:
Đức bạc thường tàm kế tổ đăng,
Không giao Hàn Thập khởi oan tăng.
Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.
(Nhân sự đề Cứu Lan tự)
(Thƣờng thẹn mình đức mỏng mà đƣợc nối ngọ đèn tổ,
Luống để cho Hàn Sơn, Thập Đắc sinh niềm oán giận.
Chi bằng theo bạn về rừng núi,
Giữa muôn vạn tầng núi non trùng điệp)
(Nhân có việc đề ở chùa Cứu Lan).
Khi đã chủ trƣơng ở ẩn, lòng ông không còn vƣớng bận lợi danh, vƣơng
vấn tục luỵ nữa. Ông an nhiên tự tại, ngủ nhà trƣớc gió trong:
Hoa mộc di xuyên chủng tác sơn,
Lung yêu trạo nguyệt, lạc hoa hàn.
Lòng tư niệm lực đô vô tục,
Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an.
(Đề Động Hiên đàn việt giả sơn)
(Trồng hoa và cây quấn quít làm thành núi non bộ,
Khói toả, trăng lồng, hoa rơi lạnh lẽo.
Từ nay mọi niềm suy nghĩ không còn vƣơng tục luỵ,
Giành đƣợc giấc ngủ êm trong gió mát)
(Đề núi non bộ của vị đàn việt ở Động Hiên)
Trong thơ Huyền Quang, chúng ta cũng bắt gặp những giấc ngủ trƣa,
những giấc mộng của một con ngƣời thanh thản, vô ƣu: “Vũ quá khê sơn tịch,
Phong lâm nhất mộng lƣơng”. Đó là “mộng mát mẻ trong rừng phong” (Ngọ
thuỵ) , một “giấc mộng ban ngày còn vấn vƣơng” (Trú miên). Và ngay cả khi
52
thức, vị thiền sƣ này cũng đã đạt đến trạng thái “quên”, quên hết mọi cảnh vật
xung quanh, quên ta - ngƣời (ngã - vật), chỉ khi thấy hoa cúc nở mới mới biết
rằng tiết Trùng dƣơng (mùa thu) đã đến.
Nhƣ vậy, đến Huyền Quang, cảm hứng thiền nhập thế từng là cảm hứng
chủ đạo, chi phối sáng tác của các vị thiền sƣ trƣớc đây (cũng là cảm hứng chính
của dòng văn học Phật), đã bị đan xen với cảm hứng của nhiều hệ tƣ tƣởng khác.
Mặc dù các tác phẩm của Huyền Quang vẫn thể hiện những tƣ tƣởng cốt lõi của
dòng Phật giáo nói chung và Thiền Trúc Lâm nói riêng, nhƣ tƣ tƣởng Bất Nhị,
Tâm Không… Tuy nhiên tƣ tƣởng ấy không còn đƣợc thể hiện một cách tập
trung, và ít nhiều nó cũng không còn giữ đƣợc những đặc tính dị biệt nhƣ trƣớc
nữa. Cảm hứng ẩn dật trong sáng tác của Huyền Quang đã rất nổi bật - một cảm
hứng dƣờng nhƣ là xa lạ với thơ Thiền trƣớc đây. Đây cũng chính là điểm khác
biệt trong cảm hứng sáng tác của ông so với Tuệ Trung Thƣợng sĩ, Trần Thái
Tông và đệ nhất Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông. Đến Huyền Quang cảm hứng
Thiền nhập thế đã có sự pha trộn một cách có ý thức cực cao với những cảm
hứng nổi bật của thời đại này, mà đặc biệt là cảm hứng thẩm mỹ của Nho gia.
Cảm hứng trong sáng tác của ông không còn mang tính tập trung nhƣ sáng tác
của các thiền sƣ đời trƣớc, mà nó bị tản mát vào các chủ đề nhƣ Phật tính, phá bỏ
cái nhìn nhị kiến, nhậm vận, tuỳ duyên, thoát tục, ẩn dật.
Điều đặc biệt là trong ông đã xuất hiện sự giao thoa giữa cảm hứng thiền
với cảm hứng thẩm mỹ của Đạo gia và Nho gia. Sự giao thoa ấy thể hiện rất đậm
nét ở chùm thơ 6 bài về hoa cúc của ông, đặc biệt là ở bài Cúc hoa - kỳ tứ. Ở bài
thơ này theo Nguyễn Kim Sơn thì “Một hình tƣợng bôn cúc mang cái đẹp của sự
thanh thoát, nhậm vận của tinh thần chủ thể mang đậm chất thiền và cũng đồng
thời là cái đẹp tự nhiên nhi nhiên theo tinh thần của Đạo gia. Bài này nổi bật cảm
hứng và thẩm mỹ của Thiền, nhƣng cũng có dấu ấn của Đạo gia xét về tinh thần
tuỳ tục tuỳ thời, nhiệm tự nhiên, vô biệt, còn cách thể hiện, cách tìm công cụ để
“ngoại hóa” cho một tâm lin tự lạc thì lại là cách của Nho gia” [69, tr. 81].
Đến Huyền Quang thì cảm hứng thiền đã dƣờng nhƣ bị hoà vào cảm hứng
lớn khác của thời đại. Nó không còn giữ vị trí chi phối sáng tác của dòng văn học
Phật giáo nữa. Trong văn học nhà Nho đang lên với ảnh hƣởng ngày càn mạnh
mẽ, toàn diện trên văn đàn, thì cảm hứng thẩm mỹ Nho gia cũng dần dần trở
53
thành cảm hứng chủ đạo chi phối các sáng tác văn học thời kỳ này.
2.2.3. Hình tượng trung tâm.
Sự vận động từ nền văn học Phật giáo sang nền văn học Nho giáo ở thời
Trần đã dẫn đến sự chuyển giao trên một loạt các hệ thống đặc trƣng của hai nền
văn học này nhƣ quan điểm văn học; cảm hứng thẩm mĩ; hình tƣợng trung tâm;
thể loại, ngôn ngữ… mà đặc biệt là hình tƣợng trung tâm. Khi một nền văn học
có sự vận động biến đổi, thì các phƣơng thức phản ánh và đối tƣợng phản ánh
của nó cũng có sự vận động và biến đổi theo. Trong văn học, con ngƣời vừa là
chủ thể sáng tạo, vừa là đối tƣợng nhận thức, phản ánh thông qua hình tƣợng
nhân vật. Chính vì vậy, sự vận động và biến đổi của hình tƣợng nhân vật trung
tâm luôn là một trong những dấu hiệu đặc biệt quan trong để nhận diện sự vận
động và biến đổi của một tiến trình văn học sử. Sự vận động từ nền văn học Phật
giáo sang nền văn học Nho giáo hiển nhiên cũng dấn đến sự vận động và biến
đổi từ hình tƣợng nhân vật trung tâm của văn học Phật giáo đến hình tƣợng nhân
vật trung tâm của văn chƣơng Nho giáo. Tuy nhiên không phải ngay lập tức hình
tƣợng nhân vật trung tâm của nền văn học củ bị thay thế bởi hình tƣợng trung
tâm của nền văn học mới. Trong sự chuyển giao giữa hai nền văn học luôn tạo ra
sự biến đổi, phát sinh, gioa thao và phủ định lẫn nhau giữa các loại hình tƣợng
nhân vật trung tâm. Văn học ở khoảng gian đoạn giữa thời đại nhà Trần, đã từng
tồn tại một đặc trƣng nhƣ vậy, mà thể hiện tập trung, tiêu biểu nhất là trong các
sáng tác của Huyền Quang.
- Sự tiếp nối hình tượng trung tâm trong văn học Phật giáo
Trƣớc Huyền Quang, hình tƣợng nhân vật trung tâm trong dòng văn học
Phật giáo thƣờng là hình tƣợng ngƣời trí thức thiền sƣ, đƣợc phản ánh ở khá
nhiều phƣơng diện. Hình tƣợng nhân vật trung tâm trong văn học Phật giáo thời
Lý thƣờng là những con ngƣời mang trí tuệ siêu việt, thể hiện sức mạnh chinh
phục vũ trụ:
Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.
(Ngôn hoài - Dƣơng Không Lộ)
(Có lúc chèo lên đỉnh núi
54
Một tiếng kêu vang làm lạnh cả bầu trời)
Hay đó là con ngƣời với cái “chí xung thiên” tràn đầy niềm tin vào khả
năng mỗi ngƣời đều có thể tự mình trở thành Phật:
Nam nhi tự hữu xung thiên chí,
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.
(Hưu hướng Như Lai - Quảng Nghiêm)
(Nam nhi tự có chí xung thiên,
Đừng theo bƣớc Nhƣ Lai đã bƣớc)
Đó còn là con ngƣời mang sức sức mạnh tâm linh bình thản, an nhiên tự
tại và chủ động trƣớc mọi biến đổi, thịnh suy:
Nhậm vận thịch suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Thị đệ tử - Vạn Hạnh)
(Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sƣơng đông).
Đến thời Trần, với tinh thần nhập thế tích cực hơn của Thiền tông, hình
tƣợng nhân vật trung tâm trong văn học Phật giáo thời kỳ này thƣờng là những
con ngƣời phá chấp triệt để, tự do tự tại, và đã gần hơn với cuộc sống thế tục …
Ở các sáng tác của Tuệ Trung Thƣợng sĩ hình ảnh con ngƣời ung dung bƣớc ra
ngoài những níu kéo, ràng buộc của mọi giáo lý, giới luật, một con ngƣời buông
bỏ, tuỳ tục, nhậm vận tuỳ duyên có lúc nhƣ phóng cuồng:
Khỏa quốc hân nhiên tiện thoát y,
Lễ phi vô dã, tục tuỳ nghi.
(Vật bất năng dung )
(Đến xứ cởi trần cứ vui vẻ mà bỏ áo,
Không phải quên lễ, chỉ tuỳ theo thói tục mà thôi)
Ở thơ Trần Thái Tông cũng thƣờng thể hiện hình ảnh con ngƣời với tinh
thần phá chấp triệt để, thoát khỏi sự trói buộc của giáo lý kinh điển nhà Phật,
Phật Tổ. Con ngƣời ở đây không chấp vào “sắc tƣớng”, chẳng bị mắc vào cái
“có” mà cũng chẳng bị níu kéo bởi cái “không”: Niệm tụng kệ đã chỉ rõ:
- Nhược vị tâm không lai ứng cử,
Bất tao tiêu thát dã tao quyền”
55
(Niệm tụng kệ)
(Nếu bảo tâm không vào ứng thí,
Không ăn roi quất cũng ăn thoi.)
- Mạc vị vô tâm vân thị đạo,
Vô tâm do cách nhất trùng quan.
(Ngữ lục vấn đáp môn hạ)
(Đừng bảo răng đạo ấy là vô tâm,
Vô tâm còn cách đạo một trùng cửa.)
(Ngữ lục hỏi đáp với học trò)
Trong thơ Trần Nhân Tông cũng thƣờng biểu hiện tập trung ở nhiều
phƣơng diện của con ngƣời không còn bị ràng buộc bởi quan niệm hữu vô, con
ngƣời sống giữa cõi trần mà vẫn vui với đạo.
Đến Huyền Quang, chúng ta cũng bắt gặp trong sáng tác của ông con
ngƣời phá chấp, tự do, tự tại. Đó là cong ngƣời đã đạt đến “vong nhị kiến”, đạt
tới trí huệ đích thực:
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.
(Diên Hựu tự).
(Hiểu rõ phải và trái đều nhƣ nhau,
Thì xem cung ma có khác gì nƣớc Phật)
(Chùa Diên Hựu)
Đó còn là con ngƣời trí huệ, thấu suốt Phật tính tại tâm, tin tƣởng ai cũng
có tính Phật nên không còn quản ngại khó khăn trên con đƣờng giải thoát.
Cốc được tính ta nên Bụt thực,
Ngại chi non nước cảnh đường xa.
(Vịnh Vân Yên tự phú)
Khi đã giác ngộ rồi, con ngƣời không còn bị vƣớng chấp vào bất cứ cái gì,
tự do tự tại “Vạn duyên bất nhiễu thành già tục”. Con ngƣời giải thoát ở đây đã
“buông niềm trần tục”, không còn lo nghĩ với nhãn quan đƣợc mở rộng: “Bán
điểm vô ƣu nhãn phóng khoan”, từ đó giữ thói vụng về không mƣu trƣớc gì “Bão
56
chuyết vô dƣ sách”. Cái mà ngƣời đời không hiểu thì ngƣời đắc đạo đã hiểu ra.
Ngay cái huyền diệu của hoa, họ cũng thấy nực cƣời vì ngƣời đời không hiểu
“Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ”.
Phá chấp, lìa bỏ định kiến phân biệt, con ngƣời sẽ vƣợt qua đƣợc cái bản
ngã của mình. Vƣợt tớí sự vô ngã mới là sự xóa bỏ nhị kiến triệt để nhất, ở mức
cao nhất và khi đó con ngƣời mới thật sự đạt tới sự giải thoát hoàn toàn. Họ
không còn mang những niềm suy tƣ vƣơng vấn tục luỵ nữa, mà an nhàn trong
giấc ngủ êm đềm trong gió mát, “Tòng tƣ niệm lực đô vô tục, Doanh đắc thanh
phhong nhất chẩm an”, hay an nhiên trong một giấc ngủ ngày “Nhất chẩm thanh
phong trú mộng dƣ”. Khi không còn sự phân biệt gianh giới, con ngƣời đã đạt
đến cái nhìn nhất thể giữa mình và ngƣời, giữa mình và vật. Thực và mộng đã
chuyển hóa vào nhau, trở thành cái “một” không còn ranh giới phân biệt rạch ròi
nữa: “Phản quan trần thế giới, Khai nhã tuý mang mang”. Cái tôi tiểu ngã đã hoà
vào cái đại ngã mênh mông của vũ trụ, vƣợt mọi giới hạn:
Nhất diệp biển chu hồ hải khác,
Xanh xuất vi hành phong thích thích.
Vi mang tứ cố vãn triều sinh,
Giang thuỷ liên thiên nhất âu bạch.
(Chu Trung)
Ý thức đƣợc thời gian hiện thực của trần thế là vô cùng ngắn ngủi và
chóng vánh “Bách tuế quang âm nhiễm chỉ trung” (Trăm năm bóng quang âm
chỉ trong một cái búng tay) nên cũng không còn quyến luyến đến cảnh công
danh, phú quý ở đời nữa. Thơ ông thƣờng nói đến nhiều cái quên mà trƣớc hết là
quên bản thân mình “Vƣơng thân vƣơng thế dĩ đô vƣơng” quên ngày tháng vì ở
trong núi không có lịch, chỉ nhìn thiên nhiên biến đổi mà biết thời tiết. Trong
gian nhà đá ở lẫn cùng mây, nhà thơ sống tự tại quên thời khắc, không bận tâm
đến “lò tàn, củi lụi, mặt trời lên ba con sào”. Trong đêm thu sớm nhà thơ hoà
nhập tâm hồn mình vào tiếng xào xạc của cây trƣớc sân trong gió thu, vào hơi
đêm trong mát… đến quên bẵng thực tại: nén hƣơng vừa tắt. Giây phút ấy con
ngƣời không còn là mình, không còn nhớ sự tồn tại sắc thân của cái tôi mà nhƣ
đã hoà tan vào cả không gian trăng sáng, ngƣời vật… tất cả đã hoà vào nhau
thành một nhất thể, một cái “một” của vũ trụ “Nhất nhất tùng chi võng nguyệt
57
minh”.
Mặc dù trong thơ Huyền Quang vẫn thấp thoáng có bóng dáng của con
ngƣời vô ngã, vô ngôn nhƣng nó không còn là nhân vật trung tâm nhƣ trong sáng
tác của các thiền gia trƣớc nữa. Bên cạnh con ngƣời vô ngã, vô ngôn trong thơ
ông đã xuất hiện hình ảnh một con ngƣời bình dị trƣớc cuộc đời hiện thực. Đó
hình ảnh một ông già bình dị cởi mở, làm những công việc rất của cuộc sống
thƣờng nhật nhƣ trong các bài Địa lô tức sự (Trƣớc bếp lò tức cảnh), Đề Đạm
Thuỷ tự (Đề chùa Đạm Thuỷ )… Trong thơ Huyền Quang cũng không còn thuần
thành một con ngƣời an nhiên tự tại trƣớc tác động của cuộc sống nữa, hình ảnh
con ngƣời “đối cảnh vô tâm” đã bị phá vỡ. Ở bài Sơn vũ (Nhà trong núi), bên
cạnh tâm trạng “hoàn toàn yên tĩnh” trƣớc cảnh vật đêm thu, đã xuất hiện nổi
niềm băn khoăn tâm sự của tác giải “Tiếng dế vì ai vẫn kêu rỉ rả mãi”. Trƣớc
cảnh tên giặc bị bắt, ông cũng không còn giữ đƣợc cái tâm thanh tĩnh tuyệt đối,
đứng ngoài sinh diệt đau khổ, đứng ngoài vòng sinh tử nhƣ các thiền sƣ lớp
trƣớc nữa. Ở bài thơ Ai phù lỗ (Thƣơng tên giặc bị bắt) đã có một con ngƣời rất
khác hiện hữu bên cạnh con ngƣời của văn học thiền gia. Cái tâm của tác giả ở
bài này theo Nguyễn Kim Sơn: “nếu cho là tâm Bồ tát từ bi bao dung cũng đúng,
nhƣng trƣớc hết đó vẫn là tấm lòng rễ rung động, dễ cảm thông, cảm thời, cảm
ngƣời, đồng điệu cùng ngƣời. Đây là con ngƣời nhạy cảm, dễ buồn vui, tâm này
là tâm động buồn vui với những nỗi đời trần thế. Nó theo dòng mạch của Thi
Thánh Đỗ Phủ chứ không phải theo lối của Vƣơng Duy. Thế nhƣng chúng lại
cùng tồn tại, cùng biểu thị bởi một con ngƣời” [69, tr. 87].
Có thể nói đến sáng tác của Huyền Quang, con ngƣời hiện thực, con ngƣời
mang tâm tính Nho gia đã dần đậm nét bên cạnh con ngƣời Phật giáo đã không
còn thuần thành nhƣ trƣớc nữa.
- Hình tượng người ẩn dật
Có thể nói trong thơ Huyền Quang đã xuất hiện dƣờng nhƣ là đã rất tập
trung hình ảnh của ngƣời ẩn sĩ. Trong thơ ông có không ít bài nói đến từ “ẩn”, từ
“nhàn”. Trƣớc con đƣờng công danh phú quý mà các sĩ tử đang theo đuổi, ông
đƣa ra lời khuyên rất chân thành “Hà nhƣ tiểu ẩn lâm tuyền hạ, Nhất tháp tùng
phong trà nhất bôi” (Tặng sĩ đồ tử đệ), ngay cả khi đƣợc trao y bát giữ trọng
trách vị tổ thứ ba của thiền phái, ông vẫn chƣa nguôi tâm sự ẩn dật “Tranh nhƣ
58
trục bạn quy sơn khƣ, Điệp chƣớng trùng san vạn vạn tằng” (Nhân sự đề Cứu
Lan tự). Hình tƣợng thƣờng xuyên xuất hiện hơn cả trong thơ Huyền Quang là
hình ảnh một ẩn tăng. Có đến 8/20 bài trong Ngọc tiên tập, Huyền Quang trực
tiếp nói phần đời và những công việc của một lão tăng, đó là các bài: Yên Tử sơn
am cư, Ngọ thuỵ, Thạch thất, Trú miên, Đề Đam Thuỷ tự, Địa lô tức sự, Nhân sự
đề Cứu Lan tự, Sơn vũ. Hình ảnh vị ẩn tăng này khác với hình ảnh các thiền sƣ
trong sáng tác của thơ thiền trƣớc đó, không một lời bàn về giáo lý, triết học Phật
giáo mà chỉ bày tỏ, hé lộ những tâm sự trong nhiều cảnh huống khác nhau trƣớc
những hiện thực xung quanh mình.
Hình tƣợng ngƣời ẩn sĩ đã thực sự nổi bật ở cả ba bài thơ: Cúc hoa - kỳ
nhị, Cúc hoa - kỳ tam và Cúc hoa - kỳ ngũ trong chùm thơ 6 bài hoa cúc của
Huyền Quang. Theo Nguyễn Kim Sơn: “Trong thơ thiền không có hình tƣợng
ngƣời ẩn sĩ tiêu biểu, thực thụ. Xuất gia tu thiền trong thực tế đã vƣợt ra ngoài cả
hai phạm trù xuất và xử. Thiền sƣ nằm ngoài cả chuyện ẩn và hiện, hành và tàng.
Ẩn sĩ cơ bản thuộc phạm trù của Nho gia và Đạo gia. Thực tế thì khi nhà Nho ẩn
dật họ cũng tìm tới phƣơng cách ứng xử của Đạo gia. Nói tới chữ ẩn, Đạo gia
vẫn là nét văn hóa, nét thẩm mỹ tiêu biểu nhất (…) ( ba bài bài thơ này) diễn tả
một tâm lý của ngƣời ẩn dật không trông ngóng, không chờ đợi, tiễn đƣa. Nó là
nhịp thời gian tự nhiên. Thời gian không bị co vào hay giãn ra bởi một trạng thái
tinh thần nào. Không có dấu ấn tâm lý vì đã quên cả rồi, quên thân mình quên
đời rồi. Con ngƣời đạt tới toạ vong tức đã đồng nhất với đại tự nhiên, cùng một
nhịp với tự nhiên. Vì vậy không cần lịch nữa, hoa cúc nở thì dƣờng nhƣ mùa thu
đã tới, đã là tiết trùng dƣơng. Trạng thái thời gian tự nhiên nhƣ vậy phản ánh tâm
cảnh của ngƣời ẩn sĩ thanh thản vô ƣu” [69, tr. 83 - 84].
Rõ ràng đến sáng tác của Huyền Quang, hình tƣợng nhân vật trung tâm
trong văn học Phật giáo không còn chiếm vị trí chủ đạo nữa, đã có sự dung hoà,
giao thoa với hình tƣợng nhân vật trung tâm của các dòng văn học thuộc những
học thuyết khác, mà đặc biệt là hình tƣợng nhân vật trung tâm của văn học Nho
gia.
Không phải đến các sáng tác của Huyền Quang mới xuất hiện hình ảnh
con ngƣời “viên dung tam giáo”. Trƣớc Huyền Quang, trong sáng tác của Tuệ
Trung Thƣợng sĩ đã có hình tƣợng nhân vật mang tƣ tƣởng siêu thoát nửa Phật
59
nửa Lão Trang, lại pha chút ngang tàng ngông nghênh của nhà Nho. Ở một số
tác phẩm của Trần Nhân Tông cũng đã có một tinh thần “viên dung” rộng lớn
nhƣ vậy. Ông đã vƣợt qua những giới hạn phân biệt của Nho, Đạo, Thiền. Với
ông chúng không có biên giới. Chỉ cần tích nhân nghĩa, cầm giới hạnh cũng có
thể trở thành Thích Ca:
Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca;
Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc.
Nhân nghĩa là một phạm trù rất quen thuộc trong Nho giáo đã đƣợc Trần
Nhân Tông vận dụng độc đáo trong trƣờng hợp này.
Theo Nguyễn Mạnh Hùng: “Ngƣời ta có thể đi tìm một con ngƣời Phật
giáo trong thơ Thiền, Đó là con ngƣời vô ngôn, vô ngã , vô ý, con ngƣời vũ trụ..
Con ngƣời nhƣ một sự minh hoạ của Thiền lý trong các sáng tác của Thái Tông,
Trần Tung, Pháp Loa… Nhƣng đối với thơ Thiền Huyền Quang, điều đó thật là
khó và không nên làm” [43, tr. 112].
Rõ ràng là chỉ đến những sáng tác của Huyền Quang mới có sự hội tụ,
giao thoa ở mức cao nhất các hình tƣợng nhân vật trung tâm của các dòng văn
học trong thời kỳ “tam giáo đồng nguyên này”. Nhƣ Nguyễn Kim Sơn đã chỉ ra
ở bài Cúc hoa - kỳ 5 “Tác giả nói tới tƣ tƣởng bất tranh, bất nhị: “Chủ nhân dữ
vật hồn vô cạnh” (Ngƣời và vật hồn nhiên không tranh cạnh), trở thành nhất thể
không phân biệt. Đó cũng là cảnh giới chủ thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ
hợp làm một, nội ngoại, chủ thể khác thể đều tiêu vong. Đây là một trạng thái
tinh thần “vật ngã lƣỡng vong” (ngƣời và vật đều bị lãng quên) phổ biến trong cả
Thiền và Đạo. Những cái lƣỡng vong và tự nhiên hồn thành đó lại không triệt để
bởi nó đột nhiên, đột xuất “lồi” ra một bông hoa vƣợt trội xuất quần ở câu thơ
cuối cùng: “Hoa hƣớng quần phƣơng xuất nhất đầu”. Chỉ một câu thơ cuối cùng
thôi, cũng đủ đƣa bài thơ trở lại thế giới của thơ ngôn chí. Lời đề, thực và luận là
của ông tu sĩ thiền viện và đạo quán nhƣng câu cuối cùng lại là của một ông nhà
Nho chỉ về phía bản thân mình mà nói lời kết bao trùm” [69, tr. 84].
Thơ Huyền Quang vẫn tiếp nối hình tƣợng nhân vật trung tâm của văn học
Phật giáo trƣớc đó, nhƣng nó cũng không còn là hình tƣợng chủ đạo, điển hình
cho một dòng văn học Phật giáo nhƣ trƣớc nữa. Thơ ông cũng đã rất đậm hình
ảnh của ngƣời ẩn sĩ theo lối của Đạo gia, nhƣng theo nhƣ Kim Sơn thì đó là “cái
60
ẩn theo lối Đạo gia chƣa hết mực” [69, tr. 85]. Trong thơ Huyền Quang, theo
Nguyễn Kim Sơn: “tinh thần của một nhà Nho ẩn dật đã rất nổi bật”, nhƣng nó
cũng rất khác với nổi niềm day dứt của nhà Nho phải lựa con đƣờng ở ần ở giai
đoạn Vãn Trần, nhƣ Chu Văn An với “Thốn tâm thù vị nhƣ hôi thổ, Văn thuyết
tiên hoàng lệ ám huy” (Tấc lòng chƣa hẳn đã lạnh nhƣ cho đất, Nghe nói tiên
hoàng luống thầm gạt lệ), hay Nguyễn Phi Khanh với một nỗi buồn thấm thía,
sâu sắc chƣa buông dứt đƣợc nổi niềm vƣơng vấn bụi trần: “Đạo tuyết đăng
hƣơng thôn những thục, Trần ai ta bạn ngã cô tung” (Nếp trắng, chanh thơm,
rƣợu quê vừa chín, Than cho tôi dấu chân cô đơn còn vƣớng bụi trần). Hơn nữa,
hình tƣợng nhân vật nhà Nho ẩn dật trong thơ Huyền Quang cũng chƣa hội tụ đủ
những gam màu cần thiết để tạo nên màu sắc đặc trƣng cho hình tƣợng ngƣời ẩn
sĩ trong văn chƣơng nhà Nho nhƣ hình tƣợng nhân vật ngƣời ẩn sĩ trong sáng tác
của Nguyễn Trãi , Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này. Sau trƣớc tác của Huyền
Quang, trong văn học đã dần xuất hiện nhiều hơn những hình tƣợng nhà Nho ẩn
dật, tuy nhiên thời kỳ này và cả một giai đoạn dài về sau nữa, hình tƣợng nhà
Nho hành đạo mới là hình tƣợng nhân vật trung tâm chiếm ƣu thế trên văn đàn.
- Hình tượng thiên nhiên
Từ những biến dịch trong hình tƣợng nhân vật trung tâm, hình tƣợng thiên
nhiên trong văn học Phật giáo, đến Huyền Quang cũng đã có những đan xen,
dung hợp, giao thoa với hình tƣợng thiên nhiên trong sáng tác của văn chƣơng
Nho gia. Trong thơ Huyền Quang, chúng ta vẫn gặp lại những hình ảnh thiên
nhiên thƣờng xuất hiện trong thơ thiền thời trƣớc. Ở bài “Chu trung” (Trong
thuyền), hình ảnh thiên nhiên là một không gian bao la phóng khoáng, mênh
mang trời mây sông nƣớc. Tuy nhiên cái rộng lớn đến vô hạn của vũ trụ không
hề mang tính đối lập phân biệt với cái bé nhỏ của con ngƣời, cái đại ngã vũ trụ
và cái tiểu ngã cá nhân đã cùng hoà vào làm một trong tinh thần không phân biệt,
không tranh cạnh của Thiền tông.
Thiên nhiên trong thơ Thiền thƣờng mang một vẻ đẹp trong trẻo, mát mẻ,
lặng lẽ và thƣờng rất tĩnh lặng. Ở thơ Trần Nhân Tông đó là cảnh: “Thuỵ khởi
châm thanh vô mịch xứ, Mộc tê hoa thƣợng nguyệt lai sơ” (Nguyệt) (Tỉnh giấc
tiếng chày đập vải không còn nghe thấy, Trên đầu hoa mộc tê, ánh trăng đang bắt
đầu đến). Hình ản thiên nhiên trong bài thơ này vừa mang ý nghĩa hiện thực và
61
thể hiện một ý vị thiền, cái tĩnh lặng tuyệt đối mà nhà thơ phát hiện ra khi chợt
tỉnh giấc lúc nửa đêm (không còn nghe thấy tiếng chày đập vải nữa) đã phản ánh
những gì là rất thực của đời sống, trong không gian tĩnh mịch vô biên ấy, ánh
trăng nhẹ rơi trên đầu hoa mộc tê đã làm bừng lên ánh sáng của chân nhƣ trong
con mắt thiền hƣ không và thanh lặng.
Trong thơ Huyền Quang, đó là một cảnh đẹp thanh tĩnh tuyệt đối của đêm
thu với ánh trăng sáng lung linh hoà vào mọi vật “Trúc đƣờng vong thích hƣơng
sơ tận, Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh” (Tảo thu), (Nơi nhà tranh quên bẵn
hƣơng vừa tắt, Mấy khóm cây cành giăng lƣới vầng trăng sáng). Một bức tranh
với cái thực cái hƣ đối xứng qua một mặt phẳng mang đầy tính triết lý Thiền.
Dạ khí phân lương nhập hoạ bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Sự trong trẻo, lặng lẽ và hơi mát lạnh của ban đêm càng làm tăng cảm
giác bao la vô hạn của không gian, đặc biệt là cảm giác về sự trống không, cái hƣ
không. Đây là không gian đƣợc lọc qua con mắt thiền, là ngoại cảnh mà cũng là
tâm cảnh.
Bên cạnh những hình ảnh thiên nhiên mang âm hƣởng thiền, trong thơ
Huyền Quang đã xuất hiện những hình ảnh thiên nhiên mang mầu sắc và các giá
trị thẩm mĩ của của những dòng văn học khác. Đặc biệt trong thơ ông có không ít
hình ảnh thiên nhiên đã đƣợc nhìn nhận và miêu tả theo cách của nhà Nho. Khác
với các thiền gia trƣớc đó, Huyền Quang tìm đến với thiên nhiên, miêu tả thiên
nhiên không chỉ dừng lại ở việc diễn tả thiền lý. Thiên nhiên trong thơ ông vẫn
có hƣơng vị thiền nhƣng đó là cái thiền thú và thiền cảnh “Vịnh Vân Yên tự
phú”. Nó không còn là hình ảnh tƣợng trƣng, ƣớc lệ nhằm minh hoạ chuyển tải
tƣ tƣởng thiền gia. Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang đã gần hơn với cảnh thực
ngoài đời, gần hơn với cách miêu tả chân thực của cuộc sống: Trong các bài thơ
nhƣ Thạch thất (Nhà đá), Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề (Nghỉ lại ở chùa Bảo
Khánh đề thơ lên vách), Địa lô tức sự (Trƣớc bếp lò tức cảnh), Sơn vũ (Nhà
trong núi), Đề Đạm Thuỷ tự (Đề chùa Đạm Thuỷ), hình ảnh thiên nhiên đã rất
chân thật, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của một lão tăng.
Đến Huyền Quang, đã có một sự biến dịch trong hình tƣợng thiên nhiên
trong văn học Phật giáo. Không còn tập trung vào những hình ảnh Thiên nhiên
62
nhuốm màu siêu thoát, tĩnh lặng, an hoà nhƣ trong thơ thiền trƣớc đây, hình ảnh
thiên nhiên trong các sáng tác của Huyền Quang đã mang những màu sắc tƣơi
sáng, sống động hơn rất nhiều:
Cỏ chiều gió lướt, dượm vui vui,
No tạnh, mưa dầm, màu thúc thúc.
Ngàn cây phơi cánh phượng, vườn thượng uyển đóa tốt rờn rờn;
Hang nước tưới hàm rồng, nhỏ ly châu hạt săn mục mục.
Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông;
Da điểm đồi mồi, gióng hà vườn trúc.
Gác vẽ tiếng bồ lao thốc, gió vật đoành đành;
Đền ngọc phiến bối rợp che, mưa tuôn túc túc…
(Vịnh Vân Yên tự phú)
Theo Nguyễn Hữu Sơn: “Điều cần chú ý ở đây là các động tính từ chỉ sắc
thái hoạt động của thiên nhiên sống động lại biểu cảm một điều gì đó tiếp nối
mênh mang, dằng dặc đến muôn thuở. Cùng với việc cảm nhận một thế giới sống
động, tƣơi tắn và lƣu chuyển đến mênh mang vô tận, Huyền Quang tiếp tục
mƣờng tƣợng và diễn tả sự sống con ngƣời đang giao hoà tự nhiên, sống cùng tự
nhiên; hay đúng hơn là cảnh vật đang quấn quít với con ngƣời, thiên nhiên tìm
về hội họp bên con ngƣời” [80, tr. 68]
Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng;
Vượn bồng con kề cửa nghe kinh.
………………………………
Nương am vắng bụt hiện từ bi,
Gió hiu hiu, mây nhè nhẹ;
Kề song thưa thầy ngồi thiền định,
Trăng vằng vặc núi xanh xanh…
(Vịnh Vân Yên tự phú)
Không còn ngƣời - vật lƣỡng vong, không còn cảnh ngƣời cùng hoà vào
một nhất thể tự nhiên, thiên nhiên và con ngƣời đã có sự tác động qua lại, trƣớc
cảnh “Hoang thảo tàn yêu dã tứ đa, Nam lâu bắc quán tịch dƣơng tà” (Thứ bảo
tự bích gian đề), (Cỏ hoang khói nhạt tứ thơ chan chứa, Lầu Nam, quan Bắc
dƣới bóng chiều tà), tác giả không còn giữ đƣợc cái tâm thanh lặng nữa, mà bộc
63
bạch một nỗi niềm “Xuân vô chủ tích thi vô liệu” (Tiếc thay cảnh xuân không có
chủ, thơ không có thi liệu), và cảnh vật cũng đã nhuốm màu tâm trạng của thi
nhân “Sầu tuyệt đông phong kỷ thụ hoa” (Mấy cánh hoa buồn bã trƣớc gió
xuân).
Trong thơ Huyền Quang đã xuất hiện những hình tƣợng thiên nhiên mang
tính biểu trƣng cho chí hƣớng, tinh thần của một nhà Nho ẩn dật. Trong thơ
Huyền Quang cũng xuất hiện hình ảnh hoa mai, nhƣng nó không phải là nhành
mai thể hiện sự giác ngộ về chân lý bất sinh, bất diệt của nhà Phật nhƣ Mãn
Giác, bông hoa mai trong thơ Huyền Quang đã mang những đặc tính tự nhiên
của nó (có màu trắng tinh khiết, thƣờng nở trong tuyết lạnh…):
Dục hướng thương thương vấn sở tòng,
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.
(Mai hoa)
(Muốn ngẩng nhìn trời xanh hỏi hoa mai từ đâu tới,
Lẫm liệt đứng sừng sững một mình trong núi tuyết)
(Hoa mai)
Bài này đã thể hiện phần nào quan niệm về cái đẹp nhân vi rèn luyện ƣớc
chế của Nho gia. Một trong những đặc trƣng thẩm mĩ quan trọng của hình tƣợng
thiên nhiên trong thơ nho gia là thiên nhiên mang vẻ đẹp của sự “tôi luyện”, của
sự vƣợt lên và vẻ đẹp mang tính công dụng.
Trong thơ Huyền Quang, hình ảnh thiên nhiên không còn tập trung mang
chức năng biểu thị cho quy luật thƣờng hằng của tự nhiên theo cách nhìn của
thiền gia nữa. Thiên nhiên trong thơ Huyền Quang đã đƣợc nhìn dƣới còn mắt
của nhà Nho ẩn dật, mà cụ thể đƣợc biểu hiện rất rõ ở chùm thơ 6 bài về hoa cúc
của ông. Trong sáng tác của nhà nho, cúc tƣợng trƣng cho vẻ đẹp tinh thần của
những nhà nho ẩn dật. Và không phải ngẫu nhiên mà trong một lƣợng sáng tác
không quá lớn của mình, Huyền Quang lại ƣu ái dành cho hoa cúc đến sáu bài.
Trƣớc khi đến với Thiền gia, ông đã là một ngƣời tinh thông Nho học, hẳn là
tinh thần của Nho gia đã ảnh hƣớng rất đậm đến các sáng tác của ông, ngay cả
khi ông ở cƣơng vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm.
Ở bài Cúc hoa - kỳ nhị, bông cúc đã thực sự làm cho nhà thơ phải bận rộn
“Thi biều thực vị cúc hoa mang” (Bầu thơ thực vì bông cúc mà trở nên bận rộn).
64
Theo Nguyễn Kim Sơn: “Bài này nếu để lẫn vào thơ của các nhà Nho có ý
hƣớng ẩn dật thời sau cũng khó tìm ra sự khác biệt. Hình tƣợng cúc trong bài khá
giống cách nói của các nhà Nho khi muốn khoe rằng “việc đời ông đã điếc hai
tai”…” [69, tr. 83 - 84]. Nhiều khi hình ảnh thiên nhiên trong thơ ông diễn ra sự
gioa thoa ở mức độ cực cao các phƣơng diện thẩm mỹ của thơ Nho gia, thơ
Thiền gia và thơ Đạo gia. Cái đẹp của bông cúc ở bài Cúc hoa - kỳ lục, theo
Nguyễn Kim Sơn là “cái đẹp của bông cúc vƣợt trội với năng lƣợng sống hơn
hẳn mọi loài. Nó đƣợc nhìn giống nhƣ nhà Nho nhìn cây tùng: Tuế hàn nhiên
hậu tri tùng bách nhi hậu điêu (Sau năm rét mới hay tùng bách tàn úa sau cùng)
(…). Một bài thơ nổi ở nơi tầng trực diện cái đẹp của thơ vịnh cúc kiểu nhà Nho,
quán xuyến bởi triết lý Thiền và ẩn tàng cái đẹp tự nhiên thiên thành của Lão -
Trang” [69, tr. 82].
Trong sáng tác của Huyền Quang, đã có sự giao thoa giữa hình ảnh
thiên nhiên trong dòng thơ Thiền với hình ảnh thiên nhiên trong thơ của Đạo gia
và Nho gia. Nổi bật trong thơ ông là hình ảnh thiên nhiên mang đầy vẻ đẹp tinh
thần của ngƣời ẩn sĩ… Hình tƣợng thiên nhiên mang những đặc trƣng của dòng
văn học Phật giáo đến sáng tác của Huyền Quang đã không còn là hình tƣợng
trung tâm nữa. Sau các sáng tác của Huyền Quang, hình tƣợng thiên nhiên mang
màu sắc Phật giáo vẫn còn xuất hiện trong thơ của các thiền sƣ và cả các nhà
Nho, tuy nhiên nó cũng đã giảm đi rất nhiều đặc trƣng của mình bên cạnh vị trí
trung tâm, chủ đạo của hình tƣợng thiên nhiên mang những đặc trƣng của văn
học Nho giáo.
2.2.4. Thể loại, ngôn ngữ
2.2.4.1. Thể loại
Trong số tác phẩm của Huyền Quang còn lại đến nay, thể loại chính là thơ
chữ Hán với 23 bài trong Ngọc tiên tập và một bài phú Nôm Vịnh Vân Yên tự
phú. Thể loại sáng tác của Huyền Quang nhƣ vậy là không nhiều so với tình hình
thể loại sáng tác đã rất phong phú ở thời kỳ này. Tuy nhiên, nếu đối chiếu các thể
loại sáng tác của Huyền Quang với những thể loại truyền thống của văn học Phật
giáo thì chúng ta nhận thấy, ông không còn sử dụng những thể loại đặc thù gắn
với những chức năng tôn giáo nhất định nhƣ các vị thiền sƣ trƣớc đây nữa. Ông
không sử dụng thể loại lục (những lời thoại ngắn gọn, súc tích mang tính hình
65
tƣợng cao giữa thiền sƣ và đệ tử, chứa đựng giáo lý Phật hoặc phƣơng cách giúp
thiền sinh đạt ngộ) nhƣ Trần Thái Tông với Khóa hư lục, Ngữ lục vấn đáp môn
hạ… hay Tuệ Trung Thƣợng sĩ với Tuệ Trung Thượng sĩ Ngữ lục… Ông cũng
không sử dụng thể loại tụng (một hình thức trình bày giáo lý dƣới dạng thơ, dạng
chỉnh cú…) nhƣ “Niệm tụng kệ” của Trần Thái Tông… Đặc biệt hơn nữa là ông
không có thể loại kệ thị tịch (một thể loại đặc thù của văn học Phật giáo với chức
năng tụng ca, chuyển tải giáo lý nhà Phật, diễn đạt những kinh nghiệm tu tập,
cảm giác chứng ngộ, nhiều lúc nó còn là một công án Thiền…) nhƣ đệ nhất Tổ
Trần Nhân Tông, đệ nhị Tổ Pháp Loa và các vị thiền sƣ lớp trƣớc. Ông cũng có
làm một bài kệ nhƣng là bài kệ bằng chữ Nôm ở cuối bài Vịnh Vân Yên tự phú,
với lời lẽ hết sức bình dị, gần gũi với nhận thức của quần chúng. Việc một vị Tổ
nhƣ Huyền Quang không còn dùng những thể loại đặc trƣng của văn học Phật
giáo để sáng tác cho thấy Phật giáo đến Huyền Quang đã mất dần ảnh hƣởng trên
cả lĩnh vực chính trị lẫn lĩnh vực sáng tác văn học. Thể loại sáng tác của Huyền
Quang nằm trong thể loại sáng tác của Nho gia, mà chủ yếu là thể loại thơ
Đƣờng luật.
Thể thơ Đƣờng luật đã xuất hiện khá phổ biến trong văn học thời Lý. Ở
thời Lý, khi mà lực lƣợng tác giả chủ yếu là thiền sƣ, thì thể loại ngũ ngôn tứ
tuyệt thƣờng đƣợc sử dụng hơn cả, bởi nó ngắn gọn, rất phù hợp với việc diễn tả
giây phút bừng ngộ, hay khơi gợi trực giác nơi đối tƣợng. Sang thời Trần với
nhu cầu mở rộng dung lƣợng phản ánh của tác phẩm, những thể ngắn nhƣ ngũ
ngôn tứ tuyệt đã dần nhƣờng chỗ cho những thể loại có dung lƣợng lớn hơn là
bát cú, thất ngôn. Trong 23 bài thơ của Huyền Quang thì có duy nhất một bài
ngũ ngôn tứ tuyệt (Ngọ thuỵ), một bài ngũ ngôn bát cú (Yên Tử sơn am cư); 21
bài thất ngôn tứ tuyệt và một bài thất ngôn bát cú.
Cũng bắt đầu ở thời Trần, bộ phận tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm
bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, số lƣợng các tác phẩm văn học Nôm trong thời kỳ
này còn lại không nhiều. Sang đến thời Lê, văn học Nôm mới có những bƣớc
phát triển đáng kể với những tác giả lớn nhƣ Nguyễn Trãi (Quốc âm thi tập)…
Điều đặc biệt là các tác phẩm phú Nôm thời kỳ Trần còn lại đến nay đều mang
nội dung Phật giáo. Cùng với Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành
đạo ca của Trần Nhân Tông, Giáo tử phú của Mạc Đĩnh Chi,… Vịnh Vân Yên tự
66
phú của Huyền Quang cũng đã góp phần khẳng định sự trƣởng thành nhất định
của ngôn ngữ dân tộc ở giai đoạn này. Nếu nhƣ hai tác phẩm Cư trần lạc đạo
phú và Đắc thu lâm tuyền thành đạo ca của Trần Nhân Tông là những tác phẩm
lớn và rất dài hơi với mục đích chuyển tải những vấn đề thuộc về tôn giáo, thì
bài phú Nôm của Huyền Quang với dung lƣợng nhất định, không chuyên về
thiền lý, mà chỉ trọng tâm về thiền thú và thiền cảnh.
2.2.4.2. Ngôn ngữ
Về mặt ngôn ngữ văn học, ngoài bài phú Vịnh Vân Yên tự phú làm bằng
chữ Nôm, các sáng tác của Huyền Quang đều đƣợc làm bằng chữ Hán. Ngôn
ngữ trong thơ Huyền Quang không còn mang nặng thứ ngôn ngữ ngụ ý, ẩn
ngôn,… của dòng văn học Thiền. Ngôn ngữ trong thơ Huyền Quang cũng đã
giảm đi đáng kể tính triết lý siêu việt, bí hiểm… mà gần hơn với ngôn ngữ của thơ
thế tục. Trong thơ ông đã có sự tăng lên đáng kể hàm lƣợng ngôn ngữ mang màu
sắc Nho giáo và cách diễn đạt theo kiểu của nhà Nho.
Trƣớc Huyền Quang, trong thơ Thiền dƣờng nhƣ chƣa có sự tôn vinh Phật
cũng nhƣ Tổ, cũng không có sự đề cao giáo lý, kinh điển. Các thiền gia thời Lý -
Trần thậm chí còn bác bỏ cả Phật và Tổ ngay trong đầu óc sùng tín, cố chấp của
nhiều ngƣời “Phật và Tổ cuối cùng đều chẳng cần lễ”… Duy chỉ có Huyền
Quang gọi và tôn xƣng Đệ nhất Tổ là vua Bụt. (nêu gƣơng sáng của vua theo
cách của nhà Nho). Trƣớc Huyền Quang, Trần Nhân Tông cũng từng ca ngợi
Tuệ Trung Thƣợng sĩ. Đến Huyền Quang, sự ngợi ca ấy đã gần hơn với lối ca
tụng “vua sáng tôi hiền” theo kiểu nhà Nho.
Ngôn ngữ Phật giáo, các điển tích điển cố Phật giáo đã vắng bóng dần
trong thơ Huyền Quang, bên cạnh đấy là hàm lƣợng ngôn ngữ và điển tích, điển
cố của Nho giáo lại có sự tăng dần lên. Từng đƣợc đào tạo qua con đƣờng cử
nghiệp của Nho giáo, Huyền Quang đã sử dụng nhiều hơn những điển cố của văn
chƣơng Nho giáo cũng nhƣ cách hình dung, cách nói về cuộc đời và thiên nhiên
theo kiểu Nho gia:
- Mây năm thức che phủ đền Nghiêu;
Núi nghìn tầng quanh co đường Thục…
- Ngự sử mai hai hàng chầu rập;
Trượng phu tùng mấy chạnh phò quanh.
67
Phỉ thuý sắp hai hàng loan phượng;
Tử vi bầy liệt vị công khanh…
(Vịnh Vân Yên tự phú)
Khác với ngôn ngữ ở Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành
đạo ca của Trần Nhân Tông với mật độ các thuật ngữ điển cố Phật giáo dày đặc,
Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền Quang lại thiên về ngôn ngữ tả cảnh với rất
nhiều lớp từ ngữ cổ đƣợc sử dụng nhƣ la đá, gióng hoà, mẽ khéo, ngậm ngụt,
chác tất bóng, hoa cƣời thỉ…
Trong các sáng tác của Huyền Quang, nhiều khi ngôn ngữ Thiền hoà lẫn
với ngôn ngữ Nho cùng pha trộn với ngôn ngữ thế tục ở mức độ cực cao, khó có
thể phân biệt. Chính vì vậy, thơ ông đọc thoáng qua có vẻ bình dị, nhàn tản. Tuy
nhiên càng đi sâu vào các sáng tác của Huyền Quang, chúng ta càng thấy nhiều
lớp tầng ý tứ sâu xa, tinh tế bên trong lớp vỏ ngôn ngữ tƣởng nhƣ bình dị ấy.
2.3. Huyền Quang tôn giả - đỉnh cao cuối cùng của dòng văn học Phật
giáo thời Lý - Trần
Qua quá trình tìm hiểu, phân tích các sáng tác của Huyền Quang trên các
phƣơng diện: quan niệm văn học, cảm hứng thẩm mĩ, hình tƣợng trung tâm, thể
loại ngôn ngữ… Chúng ta nhận thấy các sáng tác của ông có một sự giao thoa ở
mức độ cực cao những đặc trƣng của văn học Phật giáo và văn học Nho giáo. Ở
một thời đại văn học tồn tại nhiều loại hình tác giả, nhiều dòng văn học thuộc
các học thuyết khác nhau thì khó có thể tồn tại một loại hình tác giả thuần nhất
cũng nhƣ một dòng văn học thuần nhất. Việc tác giả thuộc dòng văn học này
nhƣng vẫn chịu ảnh hƣởng sáng tác của dòng văn học khác không phải là trƣờng
hợp cá biệt, ngoại lệ, thậm chí sự giao thoa giữa các loại hình tác giả và các dòng
văn học lại còn là hiện tƣợng tƣơng đối phổ biến ở giai đoạn nhà Trần. Tinh thần
“viên dung tam giáo” đã làm nên nét đặc sắc về loại hình tác giả cũng nhƣ sáng
tác văn học ở thời kỳ này. Có thể kể một loạt các hiện tƣợng điển hình nhƣ Trần
Thái Tông, Tuệ Trung Thƣợng sĩ, Trần Nhân Tông, Huyền Quang… Tuy nhiên
chỉ đến sáng tác của Huyền Quang mới có sự hội tụ ở mức cao nhất “tinh thần
viên dung tam giáo”, theo nhƣ Nguyễn Kim Sơn: “Ba cảnh giới tinh thần của
Thiền, Lão – Trang và Nho gia cùng tồn tại ở một chừng mực không mâu thuẫn,
không bị phá vỡ bởi sự nổi trội thật sự của một cực nào” [69, tr. 85]. Sáng tác
68
của Huyền Quang không còn giữ đƣợc những đặc trƣng của nền văn học Phật
giáo, cũng theo Nguyễn Kim Sơn: “Cái gọi là khẩu khí nhà chùa thể hiện ở
Thiền ngữ và Thiền lý thể trực diện và đậm đặc trong thi ca nhƣ thơ các thiền sƣ
đời Lý thì quả là không thể tìm thấy trong thơ Huyền Quang. Tuy nhiên, chất
Thiền lại đằm sâu hơn trong tinh thần. Nó hoà vào những cách cảm, cách nghĩ về
cuộc đời, về thiên nhiên, con ngƣời” [69, tr. 85]. Là một trí thức Nho học, nhƣng
đồng thời cũng là một trí thức Phật học, lại sống vào giữa giai đoạn vận động từ
tƣ tƣởng Phật giáo sang tƣ tƣởng Nho giáo, Huyền Quang đã hội tụ trong mình
những tinh tuý của cả hai luồng tƣ tƣởng lớn, trở thành nhân cách đa trị - nhân
cách văn hoá lớn của thời đại nhà Trần. Ở ông có sự giao thoa giữa nhân các trí
thức nho sĩ và nhân cách trí thức Phật giáo, giữa loại hình tác thiền sƣ và tác giả
nhà Nho. Sáng tác của ông cũng là sự giao thoa giữa văn học Phật giáo và văn
học Nho giáo, theo nhƣ Nguyễn Kim Sơn: “Sự nghiệp văn học của Huyền
Quang có vai trò nhƣ một dấu chuyển quan trọng giữa hai thời đại văn học” [69,
tr. 89].
Khác với đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông và đệ nhị Tổ Pháp Loa, Huyền
Quang trƣớc khi đến với Phật giáo đã tinh thông Nho học và thậm chí đã từng
làm quan. Ông đã mang tất cả những tinh tuý của văn chƣơng nhà Nho vào cửa
chùa. Trong thơ ông hàm lƣợng “không” giảm đi, hàm lƣợng “sắc” tăng lên, chất
hàm phong tục luỵ vẫn còn phảng phất. Hơn nữa ông lại kết hợp đƣợc cả với tƣ
tƣởng Lão - Trang để tạo ra một sự pha trộn có ý thức cực kỳ cao, cao nhất của
thời đại. Trƣớc không có ai giống ông và sau cũng không có ai bằng đƣợc ông.
Sau Huyền Quang, dòng thiền Trúc Lâm cơ hồ đã chấm dứt lặng lẽ,
không còn những trí thức thiền sƣ với đủ tài, đủ đức nhƣ trƣớc nữa. Cũng không
còn những tác giả và sáng tác đạt đến đỉn cao của văn học Phật giáo nói chung
và thơ Thiền nói riêng nhƣ thời kỳ trƣớc nữa. Huyền Quang tôn giả cũng chính
là đỉnh cao cuối cùng của dòng thơ Thiền thời Lý – Trần.
Tiểu kết
Các sáng tác của Huyền Quang đã có sự giao thoa ở mức độ cực cao giữa
những đặc trƣng của văn học Phật giáo và những đặc trƣng của văn học Nho
giáo. Sự giao đến mức khó phân biệt ấy trong các sáng tác của Huyền Quang,
69
ngoài kết quả vận động từ nền văn học Phật giáo sang nền văn học Nho giáo ở
giai đoạn đƣơng thời, còn là một quá trình nhập thế tích cực của Thiền phái Trúc
Lâm đã đƣợc bắt đầu khởi xƣớng từ đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông. Sự giao thoa
ấy đã thể hiện khác rõ nét trên một loạt các tiêu chí nhƣ quan niệm sáng tác, cảm
hứng chủ đạo, hình tƣợng trung tâm, thể loại, ngôn ngữ…Tinh thần nhập thế tích
cực trong sáng tác của Huyền Quang cũng cho thấy văn học Thiền đến các sáng
tác của ông đã không còn mang đậm những đặc trƣng của nó nữa. Mạch thơ
Thiền đến Huyền Quang đã chấm dứt thời kỳ đỉnh cao của nó. Đặc biệt trong thơ
Huyền Quang, đã thể hiện những quan niệm thẩm mĩ của Nho giáo. Đó là quan
niệm làm thơ để nói chí, để bày tỏ tình cảm – tình cảm ẩn dật mang đậm sắc thái
của nhà Nho. Cảm hứng trong thơ ông không chỉ còn cảm hứng Thiền mà còn
mang cả cảm hứng của văn chƣơng Nho giáo. Các sáng tác của ông cũng đã
hƣớng gần hơn tới những vấn đề của cuộc sống hiện thực… những cảm hứng
này đã cho thấy nhiều mặt trong con ngƣời Huyền Quang, tƣ tƣởng Nho - Phật -
Đạo trong ông dung hoà ở mức độ cực cao đến khó phân biệt.
Trong một số hình tƣợng trung tâm của thơ Huyền Quang nổi bật là hình
tƣợng ngƣời thiền sƣ cầu thoát trong văn học Thiền bên cạnh hình tƣợng nhà nho
ẩn dật của văn chƣơng nhà Nho. Điều đó chứng tỏ con ngƣời nhà nho, tƣ tƣởng
Nho gia trong ông so với các vị thiền sƣ trƣớc đã đậm hơn rất nhiều. Hơn nữa
ngôn ngữ, thể loại sáng tác của Huyền Quang cũng không còn sử dụng nhiều
những điển cố, điển tích Phật giáo mà đã sử dụng nhiều hơn những thể loại, ngôn
ngữ, và đặc biệt là cách thức diễn đạt theo kiểu nhà Nho. Huyền Quang là một
hiện tƣợng thơ độc đáo, một điển hình về sự giao thoa giữa hai dòng văn học
Phật giáo và Nho giáo. Sáng tác của Huyền Quang là đỉnh cao cuối cùng của
dòng thơ Thiền Phật giáo thời Lý - Trần, đồng thời cũng báo hiệu bƣớc chuyển
70
của nền văn học Phật giáo sang nền văn học Nho giáo.
Chƣơng 3
HUYỀN QUANG TÔN GIẢ - NHÂN VẬT VĂN HỌC
VÀ NHỮNG KẾT TINH HUYỀN THOẠI, GIAI THOẠI
Ở giai đoạn nhà Trần, sự vận động từ tƣ tƣởng Phật giáo sang tƣ tƣởng
Nho giáo đã dẫn đến một loạt sự vận động chuyển giao trên các phƣơng diện
khác, trong đó có sự vận động, chuyển giao từ nền văn học Phật giáo sang nền
văn học Nho giáo. Nếu nhƣ ở thời Lý nền văn học Phật giáo giữ vai trò chủ đạo
với thể loại chính của nó là thơ thiền, thì sang đến đầu thời Trần, nền văn Phật
giáo tiếp tục vận động trong những điều kiện mới. Bên cạnh thơ thiền là sự nở rộ
của các thể loại khác nhƣ luận thuyết tôn giáo, văn ngữ lục…Tuy nhiên, từ giữa
giai đoạn nhà Trần trở đi, Phật giáo ngày càng giảm dần ảnh hƣởng của mình tới
triều đình và các tầng lớp trên trong xã hội. Đội ngũ trí thức thiền sƣ dần bị thu
hẹp, giao thoa và phân hóa vào đội ngũ trí thức nho sĩ đang trên đà phát triển rất
mạnh. Sự giảm dần về đội ngũ trí thức Phật giáo cũng dẫn đến sự giảm dần về
đội ngũ tác giải và các thể loại sáng tác của văn học Phật giáo. Trong khi đó độ
ngũ tác giả nhà Nho đã trở thành lực lƣợng sáng tác chủ đạo. Văn học Nho giáo
với các thể loại và các phƣơng thức phản ảnh của nó dần trở nên phổ biến, đồng
thời nó cũng ảnh hƣởng, chi phối đến hầu hết sáng tác thuộc các dòng văn học
khác cùng thời. Là một vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - hơn nữa
lại là một hiện tƣợng tƣ tƣởng văn hóa văn học đặc biệt ở thời Trần, Huyền
Quang đã đi vào trong dân gian và sử sách từ rất sớm. Tuy nhiên, nhƣ chúng tôi
đã nhắc tới ở trên, bối cảnh văn học giai đoạn Huyền Quang trở đi đã có nhiều
biến động so với trƣớc. Vì thế những thƣ tịch ghi chép về thiền sƣ Huyền Quang
hẳn đã mang những đặc trƣng rất riêng so với những thƣ tịch ghi chép về các vị
thiền sƣ khác trƣớc đó.
Trong chƣơng 3 của luận văn, chúng tôi tập trung đi sâu vào việc nghiên
cứu Huyền Quang ở góc độ là một nhân vật trong tác phẩm văn học. Trƣớc hết
chúng tôi tiến hành tìm hiểu nhân vật Huyền Quang ở bản Tổ gia thực lục trong
Tam tổ thực lục với mong muốn chỉ ra những đặc điểm riêng về truyện thiền sƣ
Huyền Quang ở văn bản này so với truyện viết về đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông và
71
đệ nhị Tổ Pháp Loa, đồng thời cũng có so sánh với truyện về các thiền sƣ khác
trong Thiền uyển tập anh. Chúng cũng tôi tiến hành phân tích quá trình diễn hóa
của nhân vật thiền sƣ Huyền Quang từ Tổ gia thực lục đến thƣ tịch cổ và truyện
cổ tích. Trên cơ sở đó, chúng tôi lí giải và cắt nghĩa Huyền Quang - một hiện
tƣợng tƣ tƣởng, văn hóa, văn học đặc biệt đã hội tụ những điều kiện gì để từ một
nhân vật lịch đƣợc hƣ cấu, huyền thoại hóa, giai thoại hóa trở thành một nhân vật
văn học hết sức độc đáo.
3.1. Đặc điểm truyện thiền sư Huyền Quang
Về thời điểm ra đời của bản Tổ gia thực lục, quá trình bị thất lạc, sau đƣợc
tìm thấy và nhập vào với hai phần viết về các vị Tổ trƣớc để thành ra bản Tam tổ
thực lục nhƣ thế nào, đã đƣợc chúng tôi nói đến ở Chƣơng 1 của luận văn. Ở
chƣơng 3 này, chúng tôi không nhắc lại nữa, mà chỉ tập trung tìm hiểu phân tích
về đặc điểm cấu trúc thể loại và phƣơng thức phản ánh của nó so với truyện viết
về các vị thiền sƣ trƣớc đó có những đặc điểm gì tƣơng đồng và biến dịch. Tam
tổ thực lục và tác phẩm ra đời trƣớc nó là Thiền uyển tập anh nhìn chung đều
thuộc thể loại văn học chức năng tôn giáo. Nhìn chung truyện về các thiền sƣ
thƣờng có phần ngữ lục Thiền tông với cấu trúc gồm hai phần chính: phần ghi
chép tiểu sử hành trạng của các vị thiền sƣ và phần ghi chép những lời nói,
những vấn đáp, đối thoại của họ về những quan điểm, giáo lý nhà Phật… Chúng
ta có thể thấy rất rõ cấu trúc này trong bản ghi chép về đệ nhất Tổ Trần Nhân
Tông và đệ nhị Tổ Pháp Loa trong bản Tam tổ thực lục cũng nhƣ các văn bản ghi
chép về các vị thiền sƣ khác trong tác phẩm Thiền uyển tập anh. Tuy nhiên dung
lƣợng ghi chép về các vị thiền sƣ trong Tam tổ thực lục, đặc biệt là phần ghi
chép về hai vị tổ Nhân Tông và Pháp Loa lớn hơn rất nhiều so với dung lƣợng
ghi chép về các vị thiền sƣ trong Thiền uyển tập anh. Điều này cũng xuất phát từ
thực tế, ở giai đoạn Trần Nhân Tông và Pháp Loa có nhiều hơn về những hoạt
động tôn giáo so với giai đoạn trƣớc đó. Nhƣng ở bản Tổ gia thực lục, phần ghi
chép về những hoạt động tôn giáo của Huyền Quang rất sơ lƣợc so với phần ghi
chép về các hoạt động mang tính chất tôn giáo của hai vị Tổ trƣớc. Văn bản này
cũng không ghi lại những lời thoại, vấn đáp hoặc những bài thuyết giảng giáo lý
nhà Phật của Huyền Quang nhƣ Nhân Tông và Pháp Loa ở hai phần trƣớc trong
Tam tổ thực lục. Hơn nữa, trong bản Tổ gia thực lục lại xuất hiện câu chuyện
72
thực hƣ giữa Huyền Quang và Điểm Bích với một dung lƣợng rất lớn trong tác
phẩm. Đây là một điểm đặc biệt, chƣa hề có trong truyện về các vị thiền sƣ trƣớc
đây.
Nếu xét theo tiêu chí mà PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn đã đƣa ra trong Loại
hình tác phẩm Thiền uyền tập anh về khái niệm và cấu trúc tiểu truyện thiền sƣ,
thì cấu trúc truyện thiền sƣ Huyền Quang tron bản Tổ gia thực lục đã có những
điểm rất khác so với cấu trúc tiểu truyện thiền sƣ trong tác phẩm Thiền uyển tập
anh. Truyện thiền sƣ Huyền Quang trong Tổ gia thực lục đã mang một cấu trúc
riêng rất đặc trƣng, chƣa từng có ở các truyện thiền sƣ trƣớc đây và cũng không
thấy lặp lại ở giai đoạn sau này.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn thì “khái niệm “tiểu truyện thiền sƣ” là sự
chuẩn hóa hơn nữa cách gọi “truyện thiền sƣ” nhằm để chỉ loại truyện thiền sƣ
đƣợc viết theo nguyên tắc tiểu sử. Ở đây, bản thân chữ “tiểu truyện” không nhằm
vào sự liên hệ, so sánh mức độ với các chữ “đại”, “đoản thiên”, “trƣờng thiên
tiểu thuyết” chẳng hạn, mà chủ yếu bao hàm ý nghĩa là tiếu sử, truyện tiểu sử
thiền sƣ, Phật tích… Thuật ngữ này tƣơng hợp với các chữ trong tiếng Nga với
nghĩa xác định chỉ về các Thánh tích, truyện tiểu sử các vị thành, Phật tích hay là
các truyện theo lối ghi chép tiểu sử nói chung” [66, tr. 32]. Về phƣơng diện này,
Tam tổ thực lục đã có những nội dung vƣợt ra ngoài truyện tiểu sử, mà biểu hiện
rõ nét nhất chính là ở phần ghi chép về câu truyện thực hƣ giữa Huyền Quang và
Điểm Bích - một đoạn ghi chép đã mang đậm tính chất hƣ cấu và chứa đựng
những yếu tố của văn học nghệ thuật đích thực.
So với cấu trúc tiểu truyện thiền sƣ trong Thiền uyển tập anh và hai truyện
về Nhân Tông và Pháp Loa trong Tam tổ thực lục, cấu trúc truyện thiền sƣ
Huyền Quang trong Tổ ra thực lục cũng có nhiều biến đổi. Ở Thiền uyển tập
anh, cấu trúc các tiểu truyện thiền sƣ theo khảo sát của Nguyễn Hữu Sơn thì “cốt
truyện tiểu sử và cấu trúc các tiểu truyện thiền sƣ theo ba giai đoạn của cuộc đời:
Khi sinh, quá trình hành đạo và sự trở về cõi Phật” [66, tr. 40]. Truyện về các vị
thiền sƣ thƣờng gắn với chức năng tôn giáo, ngợi ca, thần thánh hóa các vị thiền
sƣ bằng những chi tiết lạ hóa mang mầu sắc tôn giáo gắn với sự ra đời, hành đạo
và viên tịch của các vị thiền sƣ.
Theo khảo sát của Nguyễn Hữu Sơn trong Loại hình tác phẩm Thiền uyển
73
tập anh thì “ Trong cách thức miêu tả, các tiểu truyện có kể lại sự ra đời của các
thiền sƣ thì bao giờ cũng gắn với các hiện tƣợng lạ, những điềm lạ, giấc mơ lạ
(…). Hơn nữa bản thân con ngƣời các thiền sƣ ngay từ nhỏ đã bộc lộ những dấu
hiệu thiên bẩm khác thƣờng cả về tƣ chất, tƣớng mạo, tài năng, sở thích, tiếng
cƣời, giọng nói…” [66, tr. 40]. Nhìn chung các thiền sƣ khi sinh đều gắn với
không khí Phật giáo và có khuynh hƣớng Phật giáo từ rất sớm. Ngay trong Tam
tổ thực lục cũng vậy. Sự ra đời của Trần Nhân Tông đƣợc miêu tả nhƣ một nhân
duyên với Phật giáo: “Trƣớc đó, Nguyên Thánh Hoàng Thái hậu nằm mộng thấy
Thần nhân đƣa cho hai lƣỡi kiếm, bào: “Có lệnh của Thƣợng đế, cho phép ngƣơi
đƣợc chọn lấy”. Vì ngẫu nhiên đƣợc cây kiếm ngắn, Thái hậu bất giác mất vui,
do đó có thai. Những tháng dƣỡng thai, chẳng cần kiêng cữ, nhà bếp dâng gì
Thái hậu cứ dùng nhƣ thƣờng mà thai cũng chẳng sao, nên Thái hậu biết có nơi
che chở. Đến khi vua sinh ra, màu da nhƣ vàng ròng, Thánh Tông đặt tên là Kim
Phật. Vai phải của vua có nốt ruồi đen nhƣ hạt đậu lớn, ngƣời biết xem tƣớng
nói: “(Đứa bé này) ngày sau có thể gánh vác việc lớn” [56, tr. 18].
Với thiền sƣ Pháp Loa cũng có một sự linh ứng khi sinh nhƣ vậy: “mẹ Sƣ
là Vũ Thị đêm nằm mộng thấy dị nhân trao cho kiếm thần, bà vui mừng ôm vào
lòng, đến khi thức giấc, bà biết có thai. Khi Sƣ ra đời có mùi hƣơng là bay khắp
nhà, hồi lâu mới hết (…). Lúc còn bé Sƣ đã có thiên tƣ đĩnh ngộ, không nói lời
ác, không ăn chất cay nồng và thịt cá. Trƣớc đó, mẹ Sƣ đã sinh liên tiếp tám
ngƣời con gái; vì sinh quá nhiều con gái, bà đâm ra chán ngán, nên khi có thai Sƣ,
bà âm thầm tìm thuốc công hiệu uống để phá thai, nhƣng uống đến bốn lần mà thai
vẫn còn nguyên. Do đó, khi sinh ra Sƣ, bà vô cùng mừng rỡ, bèn đặt tên là Kiên
Cƣơng …” [56, tr. 38].
Đến thiền sƣ Huyền Quang trong Tổ gia thực lục thì có khác. Sự ra đời
của ông đƣợc gắn với hàng loạt các môtíp lạ hóa, đặc biệt bên cạnh các môtíp
mang màu sắc Phật giáo nhƣ ở các tiểu truyện thiền sƣ trƣớc đây, đã xuất hiện
môtip mang màu sắc tƣ duy của Nho giáo - môtíp dƣờng nhƣ chƣa từng xuất
hiện trong các tiểu truyện thiền sƣ trƣớc đó: “Đến tuổi đồng ấu, thể mạo Tổ dị
thƣờng, có trí của bậc trác việt vĩ nhân, cha mẹ đều yêu thƣơng, dạy cho học
nghề. Tổ nghe một hiểu mƣời, có tài nhƣ Nhan Hồi Á Thánh, nên đƣợc gọi là tải
đạo” [56, tr. 79]. Nhƣ vậy ngay từ khi sinh ra ông đã thể hiện những tố chất và
74
khuynh hƣớng của một nho sĩ: “Năm hai mƣơi tuổi, Tổ dự khoa thi hƣơng và đỗ
đạt. Vì (triều đình) chọn ngƣời đều dùng những bậc đại khoa, nên Tổ phải đợi
đến khoa thi lớn năm sau, kết qủa Tổ đậu đƣợc thủ khoa (…). Đƣợc bổ vào chức
quan Hàn lâm, Tổ phụng mệnh tiếp sứ giả phƣơng Bắc, văn thƣ qua lại, trích dẫn
kinh nghĩa, ứng đối lƣu loát. Văn chƣơng ngôn ngữ hơn cả Trung Quốc và các
nƣớc lân bang” [56, tr. 79 - 80]. Nhƣ vậy, trƣớc khi xuất gia, Huyền Quang đƣợc
miêu tả là một trí thức nho sĩ, mang hình ảnh của nhà Nho hành đạo – một trong
những hình tƣợng trung tâm trong các sáng tác của nhà Nho. Nhƣng ngay cả khi
xuất gia, những suy nghĩ và hành động của Huyền Quang trong Tổ gia thực lục,
đặc biệt là những suy nghĩ và hành động của ông trong câu chuyện thực hƣ với
nàng Điểm Bích lại cho thấy ở ông hình ảnh của một nhà Nho rất đậm nét: Đó là
con ngƣời hiếu thảo theo tiêu chí đạo đức Nho gia, hình ảnh một bề tôi hết mực
trung thành, phụng sự đạo lý, ca tụng công đức “vua sáng tôi hiền”. Trƣớc
Huyền Quang cũng có không ít thiền sƣ trƣớc khi xuất gia từng theo Nho học,
nhƣng chƣa ai đƣợc miêu tả một cách tập trung ở hình ảnh một ngƣời trí thức
nho sĩ nhƣ Huyền Quang. Việc miêu tả cụ thể hình ảnh một vị trí thức nho sĩ
trong thể loại của văn học Phật giáo hẳn là điều rất hiếm, dƣờng nhƣ chỉ xuất
hiện ở bản Tổ gia thực lục. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Tổ gia thực lục
không còn mang chức năng tôn giáo đơn thuần của Phật giáo nữa, mà đã có sự
chứa đựng, phản ánh những khía cạnh của văn học Nho giáo, mang chức năng
của văn chƣớng Nho giáo. Nhƣ vậy, Tổ gia thực lực có sự giao thao giữa tác
phẩm mang chức năng Phật giáo và Nho giáo.
Nếu hai phần ghi chép về Nhân Tông và Pháp Loa trong Tam tổ thực lục
mang đậm tính chất ngữ lục (ghi lại các lời thoại, bài giảng đạo lý Phật giáo của
các vị thiền sƣ) và mang tính chép sử rất rõ nét (thể hiện ở việc ghi chép cụ thể
ngày tháng diễn ra các hoạt động của các thiền sƣ), thì những ghi chép về hành
trạng của Huyền Quang ở Tổ gia thực lục lại rất sơ lƣợc. Hơn nữa ngôn ngữ ở
bản Tổ gia thực lục đã vƣợt khỏi phạm vi ngôn ngữ của thể loại ngữ lục Thiền
tông và lối chép sử, mà mang đậm những đặc trƣng của ngôn ngữ văn học.
Không những thế hành trạng của vị Tổ thứ ba này đã không còn thuần thành màu
sắc Phật giáo nhƣ ở hành trạng của các vị thiền sƣ trƣớc, mà đã đậm dần lên ở
những nét đặc trƣng của một nhà Nho hành đạo. Nhân vật Huyền Quang trong
75
Tổ gia thực lục cũng không còn mang nặng chức năng ngợi ca, thần thánh hóa,
linh thiêng hóa của Phật giáo, mà đã đƣợc miêu tả rất gần với hình ảnh của con
ngƣời thế tục. Câu chuyện hƣ hƣ thực thực giữa ông với nàng Điểm Bích, mặc
dù đƣợc kết thúc theo xu hƣớng ngợi ca cho phẩm hạnh, đạo đức của nhà sƣ,
nhƣng nó cũng phản ánh thực tế là đến giai đoạn Huyền Quang, Phật giáo không
còn đƣợc các vị vua nhà Trần hết lòng sùng kính nhƣ trƣớc nữa. Hẳn giai đoạn
này, đã có cái nhìn một hệ quy chiếu mới bên cạnh sự thần thánh hóa các vị thiền
sƣ nhƣ trƣớc đây.
Về mô típ quy tịch, với Thiền uyển tập anh, Nguyễn Hữu Sơn nhận xét:
“Nếu những đặc điểm khi sinh của các thiền sƣ đƣợc chú ý diễn giải thì hiện
tƣợng khi chết (qua đời, hóa, qui hóa, tịch, thị tịch, viên tịch, qui tịch… lại càng
trở thành một chuẩn mực qui phạm, một lời kết hầu nhƣ không thể thiếu đƣợc.
Xem xét trong tổng số 68 tiểu truyện thiền sƣ trong Thiền uyển tập anh thì có tới
64 lời kết nhắc tới CÁI CHẾT (…). Ƣu thế số lƣợng nói trên gần đạt tới con số
tuyệt đối trong khi tỉ lệ đặc trƣng “lạ hóa” về sự ra đời của các thiền sƣ chiếm
khoàng 1/3. Tƣơng quan so sánh nói trên cho thấy vai trò mô típ “quy tịch” vừa
là một kiểu quan niệm tƣ duy, vừa là một hình thức nghệ thuật nằm trong qui
trình không thể thiếu đƣợc của việc xây dựng các tiểu truyện thiền sƣ trong
Thiền uyển tập anh” [66, tr. 88 - 89].
Và cũng theo Nguyễn Hữu Sơn: “Nói chung, cái chết ở đây đƣợc khắc
hoạ nhƣ một sự quy hóa thuận lẽ tự nhiên, phù hợp với quan niệm triết học Phật
giáo “sinh ký tử quy” về bản thể tồn tại, Sinh - Diệt, Hữu - Vô… đã trở thành ấn
tƣợng phổ quát và chi phối sâu đậm cách bày tỏ thái độ kiểu này. Nhƣ thế, “cái
nhìn Phật giáo đã chi phối chặt chẽ cách kết thúc các ghi chép tiểu truyện thiền
sƣ, coi cái chết nhƣ một sự trở về, cái chết – tái sinh và chuyển sang một trạng
thái “vị lai” khác” [66, tr. 105].
Ở hai phẩn ghi chép về Trần Nhân Tông và Pháp Loa trong Tam tổ thực
lục, mô típ quy tịch mang cảm quan và mầu sắc triết học Phật giáo vẫn rất rõ nét.
Về diễn biến quy tịch của Điều Ngự đƣợc ghi lại rất chi tiết: “Ngày mồng một
tháng 11, lục nửa đêm, sao trời tỏ rạng. Điều Ngự hỏi: “Bây giờ là giờ gì?”. Bảo Sát
đáp: “Giờ Tý”. Điều Ngự đƣa tay mở cửa sổ ngắm trời nói: “Đây là lúc ta đi”. Bảo
76
Sát hỏi: “Tôn đức đi đâu?”. Điều Ngự đáp:
“Tất cả pháp không sinh,
Tất cả pháp không diệt.
Nếu hiểu được như vậy,
Chư phật thường hiện tiền.
Có chi là đi lại”.
Bảo Sát hỏi: “Nếu nhƣ không sanh không diệt thì sao?”. Điều Ngự đƣa tay
bụm miệng Bảo Sát, nói : “Chớ nói mê”. Nói xong, liền nằm theo thế sƣ tử, an
nhiên viên tịch. Đến đêm thứ hai, Bảo Sát phụng di chúc hoả thiêu Điều Ngự
ngay nơi am ấy. Khi thiêu, hƣơng lạ bay xa, nhạc trời vang hƣ không, mây năm
sắc phủ trên giàn hoả. Bốn hôm sau, Tôn giả Phổ Tuệ từ Yên Tử vội vã trở về,
dùng nƣớc thơm rƣới lên hoả đàn. Khi làm lễ xong, Phổ Tuệ thu ngọc cốt, lƣợm
đƣợc Xá lợi năm màu, cỡ lớn hơn 500 viên, cỡ nhỏ nhƣ hạt lúa, hạt cải, không kể
đến”. [56, tr. 31- 32- 33].
Phần miêu tả Pháp Loa khi thị tịch cũng khá chi tiết nhƣng tính chất hƣ ảo
nhƣ những tiểu truyện thiền sƣ trƣớc đây đã không còn nữa, mà mang đậm tính
chép sử hơn: “Ngày 19, vào lúc ban đêm, bệnh trở nặng. Sƣ đem cà sa và tâm kệ
của Điều Ngự truyền lại cho Huyền Quang, bảo phải gìn giữ. Lại viết kệ giao
cho Cảnh Ngung, Cảnh Huy, Vô Tế…, các đệ tử lớn. Môn đồ, kẻ trƣớc ngƣời
sau, ngày ngày vào xin kệ, Sƣ đều viết giao cho tất cả, lại trả lời những câu hỏi
của họ không biết mỏi mệt (…). Đến giờ Hợi trong đêm, bệnh nguy kịch, Huyền
Quang vào thăm hỏi : “Xƣa nay những ngƣời sắp lâm chung thì buông đi tốt hay
giữ lại tốt?”.
Sƣ đáp : “Đi hay ở đều chẳng liên can gì cả”.
Huyền Quang hỏi: “Chẳng liên can gì cả là thế nào?”.
Sƣ đáp : “Tuỳ xứ tát – bà – ha”.
Các môn đồ vào thƣa: “Ngƣời xƣa khi lâm chung đều có kệ dạy, vì sao
Thầy không có?”
Sƣ quở trách họ; giây lát lâu bèn ngồi dậy, bảo đem bút đến, viết lớn bài kệ:
“Muôn duyên cắt đứt, tấm thân nhàn,
Hơn bốn mươi năm cõi mộng tàn.
Giã biệt ! Xin đừng theo hỏi nữa,
77
Bên kia trăng gió mặc thênh thang”.
rồi quăng bút, an nhiên viên tịch, đúng vào giờ Tý, thọ 47 tuổi” [56, tr. 56
- 57].
Nhƣ vậy đến Pháp Loa, quan niệm sinh diệt của Phật giáo không còn ảnh
hƣởng đậm nét và chi phối các vị thiền sƣ nữa. Ngay cả việc viết kệ thị tịch cũng
không đƣợc sƣ coi trọng, khi các đệ tử hỏi thì cũng bị quở mắng. Tuy nhiên sự
viên tịch này vẫn nằm trong môtíp quy tịch của cấu trúc tiểu truyện thiền sƣ, mặc
dù đã đậm hơn ở tính ghi chép sử.
Đến Huyền Quang thì môtíp an tịch của tiểu truyện thiền sƣ đã không còn.
Những nghi thức của Phật giáo cũng không còn ảnh hƣởng đến vị sƣ Tổ này.
Không còn những hoạt động mang tính nghi thức trang trọng của Phật giáo khi
thị tịch nhƣ việc truyền tâm ấn và viết lời kệ. Sự viên tịch của Huyền Quang chỉ
đƣợc ghi chép lại một cách hết sức đơn giản theo lối chép sử thông thƣờng:
“Ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334), Sƣ viên tịch tại chùa Côn Sơn.
Đến ngày 24, tin tức mới về tới làng Vạn Tải, nên dân làng lấy ngày này làm
ngày giỗ Tổ. Vua Minh Tông cúng mƣời lƣợng vàng, bảo Tăng, Ni, môn đồ xây
tháp ở bên trái phía sau chùa; và cấp 150 mẫu ruộng gồm nhiều nơi để lo việc kỵ
giỗ. Đồng thời ban tên thuỵ là : Trúc Lâm Thiền Sƣ đệ tam đại, đặc phong tự
pháp Huyền Quang tông giả. (Thiền sƣ đời thứ ba phái Trúc Lâm đƣợc đặc
phong để nối dòng pháp là Tôn giả Huyền Quang)” [56, tr. 89].
Nhƣ vậy, cấu trúc truyện thiền sƣ Huyền Quang trong Tổ gia thực lục
không hoàn toàn đi theo cấu trúc của các tiểu truyện thiền sƣ trong các văn bản
trƣớc đó. Truyện thiền sƣ Huyền Quang hoàn toàn mang những đặc điểm riêng
và ở phƣơng diện nào đấy đã vƣợt ra ngoài phạm vi của văn học chức năng tôn
giáo với nhiều yếu tố hƣ cấu mang đậm tính chất của văn học đích thực. Sau Tổ
gia thực lục, truyện ghi chép về các thiền sƣ đã không còn phổ biến và mang các
giá trị nhƣ trƣớc nữa. Truyện thiền sƣ Huyền Quang đã vƣợt ra ngoài phạm vi
chính thống của truyện về các vị thiền sƣ để trở thành một kiểu truyện riêng biệt
chƣa từng có ở giai đoạn trƣớc và cũng không thấy lặp lại ở giai đoạn sau này.
Nó vừa chứng tỏ sự độc đáo của mình nhƣng đồng thời cũng dự báo một xu
78
hƣớng phát triển mới thể loại văn học này ở những giai đoạn tiếp theo.
3.2. Thiền sư Huyền Quang từ Tam tổ thực lục đến thư tịch cổ, truyện
cổ tích
Từ những đặc trƣng của truyện thiền sƣ Huyền Quang trong bản Tổ gia
thực lục nhƣ chúng tôi đã trình bày ở trên, nhân vật thiền sƣ Huyền Quang tiếp
tục đi vào sáng tác văn học theo những hƣớng sáng tác khác nhau với những
hình ảnh khác nhau, thậm chí có lúc đối lập nhau.
Trên cơ sở truyện thiền sƣ Huyền Quang đƣợc ghi chép trong bản Tam tổ
thực lục, chúng tôi tiến hành tìm hiểu nhân vật này đã đƣợc diễn hóa nhƣ thế nào
qua các nguồn thƣ tịch cổ nhƣ Tân đính Lĩnh Nam trích quái của Vũ Quỳnh (ở
hồi thứ 25 với tựa đề “Đạo sĩ họ Lý thành thực nên đƣợc phúc. Tiểu thƣ họ
Trƣơng xảo trá hóa mang hiềm”); Sư chùa Yên Tử trong tác phẩm Sơn cư tạp
thuật của Đan Sơn; Huyền Quang trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của
Nguyễn Đổng Chi.
Truyện về Huyền Quang ở Tân đính Lĩnh Nam chích quái so với nguyên
truyện trong Tam tổ thực lục, đã có sự ra tăng tình tiết cốt truyện và hƣ cấu về
các nhân vật nhƣ miêu tả Pháp Loa là vị cao tăng đã chín mƣơi tuổi mà khí lực
vẫn rất sung mãn… Đặc biệt ở văn bản này là sự tô đâm và nhấn mạnh ở các lời
thoại thoại nhằm tạo tính kịch và sự hấp dẫn. Chẳng hạn mô tả dung mạo sƣ
“lƣng hạc, mắt rồng”; dẫn bài từ theo điệu Tây giang nguyệt có số câu dài gấp
đôi (8 câu); nêu rõ vua Anh Tông cùng danh sĩ Tả Hàn và Trạng nguyên Ngự sử
đại phu Mạc Đĩnh Chi bàn nhau thử tình Huyền Quang; tên cung nữ Điểm Bích
đổi thành Vân Bích; ngƣời đi theo không phải cô gái mà là “cùng với một bà già
theo hƣớng Yên Tử mà tới”, khi nghe chuyện, “vua rất giận Huyền Quang”; khi
đến hội lễ, Huyền Quang “liền nghĩ đến kiếp trƣớc của mình rồi ngẩng đầu lên
trời mà than”; đoạn kết nối thêm chuyện con cháu Hoàng Phúc nhà Minh cũng
phải tôn thờ Huyền Quang… Truyện không có lời bình của tác giả. Riêng sự
kiện Huyền Quang - Điểm (Vân Bích) đƣợc xác định theo hƣớng đây là nỗi oan
và khẳng định sƣ có nhiều công tích, đƣợc ngƣời đời coi trọng và trở nên linh
thiêng vƣợt cả cõi nƣớc Nam, nhà Nho Vũ Quỳnh viết truyện vẫn thiên về minh
oan, khẳng định đức hạnh Huyền Quang, dung hoà, trân trọng và đề cao đạo
79
Phật.
Từ kết cấu truyện thiền sƣ Huyền Quang trong Tổ gia thực lục đến kết cấu
truyện thiền sƣ Huyền Quang trong Sư chùa núi Yên Tử đã có những biến đổi trái
chiều. Nhà Nho tác gia truyện ký Đan Sơn (chƣa rõ họ tên thật, sinh vào khoảng
1737 - ?) đã trực diện bày tỏ chính kiến về sự kiện Huyền Quang - Điểm Bích
qua bài Yên Tử sơn tự tăng (Sƣ chùa núi Yên Tử), trong tập Sơn cư tạp thuật.
Đan Sơn dẫn lại truyện theo sách Lục truyền kỳ, trong đó diễn giải, miêu tả,
phóng tác, hƣ cấu câu chuyện một cách diễm tình, trần tục, cận cảnh, cụ thể hơn:
“Vào lúc nhá nhem tối, Thị Bích tới buồng của nhà sƣ xin ngủ. Nhà sƣ không
biết đó là cung nữ, nghiêm nghị từ chối. Nàng cố lựa lời nài nỉ mãi. Sƣ ông đừng
chẳng đƣợc, đành nhận lời cho nàng ngủ ở mé ngoài buồng. Đêm vào khoảng
canh ba, trăng sáng vằng vặc. Gió thông sịnh động bức rèm. Nhà sƣ nằm trằn
trọc chƣa ngủ đƣợc, liền đi dạo ra ngoài thềm. Chợt thấy Thị Bích tụt trễ quần
lụa, để hở làn da trắng nhƣ tuyết. Nhà sƣ chẳng nỡ nhìn, phải quay đi. Thế rồi
trăng khuya xuống thấp dần, bóng trúc che ngang cửa. Lúc nhà sƣ trở lại buồng
ngủ thì mảnh quần hồng của nàng con gái đã tụt hết cả rồi. Thế là lòng thiền xao
động, không làm sao ngăn giữ đƣợc. Nhà sƣ liền ứng khẩu một bài tuyệt cú bằng
chữ Nôm, trong đó có câu ý nói đến Phật Thích Ca còn chƣa dứt tình đƣợc nữa
là! Rồi nhà sƣ trêu ghẹo, nàng cung nữ kiên quyết chống lại không nghe. Lửa
dục bốc cháy ngùn ngụt, nhà sƣ bèn đem hết số vàng vua ban ra cho Thị Bích mà
ngủ với nàng”... Ở đoạn tiếp theo, Đan Sơn kể rằng khi nhà vua sai mở hội đàn
tràng và đƣa bài thơ Nôm Vằng vặc giăng mai ánh nƣớc… của nhà sƣ để làm
bằng chứng thì sƣ liền ứng khẩu đọc một bài tứ tuyệt chữ Hán:
Tam lục thập kinh vô thác ngữ,
Thử tình kham tiếu diệc kham bi.
Thế gian tam sự nan trừ liễu,
Hảo từu, phì dương nộn nữ nhi.
(Làu thông ba sáu quyển kinh,
Cười ra nước mắt chuyện tình hôm xưa.
Thế gian ba sự khó chừa,
Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ)
80
(La Sơn dịch)
Rất khó tin bài thơ trên là của Huyền Quang, bởi đây là tiếng nói giả
giọng tự thú, thậm chí thấy rõ giọng điệu bỡn cợt, bất chấp giới luật của tục
nhân, kẻ phá giới và tâm thế vụ lợi, đề cao sự thoả mãn lợi ích vật chất, sắc dục
tầm thƣờng, trái với bản chất tƣ tƣởng Phật giáo. Không thể có một Huyền
Quang nào lại nghênh ngang, tự phụ, bất cập và thách thức dƣ luận đến nhƣ thế.
Đồng thời Đan Sơn còn chép thêm hai bài thơ tƣơng truyền của “ngƣời
đời sau”:
Giảng đường chung tĩnh dạ thiền thiều,
Thuỳ liệu nga mi bán tịch liêu.
Sắc dục bất tri hà xứ hoả?
Thiền lâm giác đắc nhất thời thiêu.
(Giảng đƣờng chuông lặng tít mù khơi,
Nào thấy ai kia mắt vẫn cƣời.
Dục sắc biết đâu bùng lửa phát,
Vƣờn thiền bỗng chốc cháy nghiêng trời)
(La Sơn dịch)
Đa đa trần lự ái đào thiền,
Độc tú sơn phòng kỷ hứa niên.
Nhất tự tố tăng kinh nhiễm sắc,
Tào Khê vô thuỷ tẩy hoàng nguyên.
(Ngồn ngang niềm tục náu non thiền,
Theo chốn đƣờng mây biết mấy niên.
Lụa trắng tăng kinh đà nhuốm sắc,
Tào Khê đâu nƣớc tẩy cơ thiền)
Cả hai bài thơ khuyết danh này đều thuộc lối thơ đề vịnh, vừa thừa nhận
câu chuyện Huyền Quang - Điểm Bích vừa có chủ ý chê bai đạo hạnh sƣ thầy.
Đến đoạn cuối Đan Sơn mới tóm tắt, thuật lại tiểu sừ Huyền Quang và câu
chuyện Huyền Quang - Điểm Bích theo sát nguyên truyện trong Tam tổ thực lục
và đi đến kết luận: “nay xét quốc sử và sách Đăng khoa lục thì năm Anh Tông
thứ 6 (1298) không có thi Hội. Tục truyền với những điều ghi chép ở đây không
giống nhau. Ý hẳn đó là do đám sƣ sãi bịa đặt ra nhƣ thế để che đậy nỗi xấu hổ
81
của giới mình. Thật không đáng tin chút nào!”.
Nhìn toàn cảnh có thể thấy thiên truyện ký này có hai đặc điểm đáng lƣu
ý. Thứ nhất, tác giả chú ý viết lại và lý giải vấn đề theo ý kiến chủ quan của
mình, dựa theo sách Lục truyền kỳ và thu nạp cả nguồn tƣ liệu dân gian, lời
tƣơng truyền, thơ của “ngƣời đời sau”, từ đó so sánh, đối sánh với chính sử và
nguyên truyện. Thứ hai, cốt truyện cơ bản đƣợc giữ nguyên nhƣng có sự thay đổi
quan trọng về nội dung và hình thức thề hiện. Các chi tiết, tình tiết, yếu tố đã
đƣợc gia tăng và theo đó nghệ thuật miêu tả cũng trở nên sinh động, sát sóng, cụ
thể, giàu màu sắc tâm lý và hiện thực, nƣơng theo quy luật của sáng tạo, hƣ cấu,
tƣởng tƣợng nhiều hơn. Điều này thể hiện rõ sự chi phối của quan điểm Nho
giáo, xu thế Nho hóa và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật của Đan Sơn trong việc
viết lại, đánh giá, lý giải cuộc đời Huyền Quang và sự kiện Huyền Quang - Điểm
Bích với ý nghĩa là nhân vật văn học.
Trong phần tiếp theo chúng tôi sẽ khảo sát truyện thiền sƣ Huyền Quang
trong Tam tổ thực lục đã đƣợc Giáo sƣ Nguyễn Đổng Chi chính thức xếp trong
bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, truyện số 147. Ở mục chú thích của truyện
ông đã nêu rõ truyện Huyền Quang đƣợc biên soạn từ nguồn tài liệu chính là
Tam tổ thực lục và lời kể của ngƣời Hải Dƣơng, Bắc Ninh. Còn phần Khảo dị
đƣợc biên soạn theo lời kể của ngƣời Diềm xá Bắc Ninh.
Truyện Huyền Quang trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam mặc dù vẫn
theo sát cốt truyện Huyền Quang - Điểm Bích trong Tam tổ thực lục và Tân đính
Lĩnh Nam chích quái, song đã loại bỏ đến tối đa phong cách chép sử, chối bỏ tất
cả các con số, sự kiện liên quan đến ngày tháng, niên hiệu… hàm chứa yếu tố
xác thực, chính xác hóa. Ngƣợc lại, phong cách kể chuyện dân gian đƣợc gia
tăng bởi tính chất phiếm chỉ của địa danh, thời gian xảy ra sự kiện, đặc biệt danh
xƣng ngôi vị các nhân vật cũng trở nên ít xác thực và phiếm chỉ hơn, các đại từ
chỉ nhân vật không nhằm xác nhận “con ngƣời này”, “nhân vật này” nữa mà đã
chuyển hóa theo phƣơng thức bày tỏ thái độ “ở hiền gặp lành”, “thiện thắng ác”;
Huyền Quang đƣợc gọi bằng cái tên chân trọng là “chàng” : “Vào thời nhà Trần
có một ngƣời học trò trẻ tuổi ở xứ Bắc tên là Huyền Quang. Nhà chàng không
đất cắm dùi…”; “Trải mấy năm trời, chàng đã từng sêu tết và đi làm rể bên nhà
vợ”; “Năm hai mƣơi tuổi chàng thi đậu ở trƣờng thi quê nhà”… Chung quy, cách
82
chuyển hóa danh xƣng đã là tín hiệu cho thấy một phần không khí, sắc thái biểu
cảm dân chủ hóa của tƣ duy dân gian và thể hiện hết sức rõ nét qua truyện Huyền
Quang trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi.
Ở truyện cổ tích Huyền Quang, ngoài việc loại trừ các chi tiết “hiện thực
lịch sử” không phù hợp, tác giả dân gian đồng thời cũng lƣợc bỏ toàn bộ những
huyền thoại vây quanh nhân vật này lúc sinh ra. Từ hình ảnh một vị tổ thứ ba của
Thiền phái Trúc Lâm trong Tổ gia thực lục, Huyền Quang trong truyện cổ tích
đã trở thành một hình ảnh rất gần gũi với dân gian, phản ánh tƣ duy, tình cảm
cũng nhƣ thân phận éo le của tầng lớp nông dân nghèo khó trong xã hội. Ở
truyện cổ tích, Huyền Quang là một chàng học trò nghèo, sớm gặp trắc trở trong
tình duyên, và cũng sớm cảm nhận ra sự trớ trêu của nhân tình thế thái:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ trạng tám nghìn nhân duyên.
Tình duyên đã vậy, con đƣờng công danh sự nghiệp cũng không làm cho
Huyền Quang vui lòng. Theo truyện cổ tích thì Huyền Quang đi tu từ rất sớm:
“Còn ít tuổi nhƣ chàng đƣợc trở thành một bậc giáo chủ, ngƣời đời bấy giờ coi là
việc hiếm có” [9, tr. 1103]. Chính vị vậy, vua Anh Tông mới lên ngai vàng đã
sinh lòng nghi ngờ. Cốt truyện Huyền Quang - Điểm Bích so với Tổ gia thực lục
và Tân đính Lĩnh Nam chích quái vẫn không thay đổi nhiều ngoại trừ những tình
tiết khác biệt nhỏ nhƣ việc Điểm Bích lại bịa ra câu chuyện bị cƣớp đuổi, và
cách dụ dỗ của nàng cũng đƣợc miêu tả khá cụ thể và lộ liễu: “Huyền Quang bất
đắc dĩ cho ngƣời đàn bà vào ở chỗ tiếp khách, còn mình thì lui vào trai phòng
khóa cửa lại. Nhƣng vừa chợp đi đƣợc một lúc, lại nghe tiếng rên rỉ ở phía ngoài.
Chàng lại ngồi dậy cầm lấy chàng hạt và quyển kinh. Nhƣng khi bƣớc ra khỏi
trai phòng, qua ánh đèn dầu le lói, chàng đã thấy ngƣời đàn bà nằm loã lồ trên bộ
ván. Chàng bƣớc vội trở vào và quyết định ngồi trên giƣờng tụng niệm cho tới
sáng để tránh sự cám dỗ. Không ngờ giữa lúc những tiếng tụng niệm vang lên,
thì Điểm Bích từ phòng ngoài đã chạy vào, sán lại ngồi bên cạnh chàng, nói
những câu cảm ơn nhƣng lại xen vào nhiều lời khêu gợi” [9, tr. 1104]. Ở đây,
các nhân vật khác tham gia câu chuyện nhƣ ở Tổ gia thực lục đã bị lƣợc bỏ gần
hết, Truyện tập trung xoay quanh hai nhân vật chính là Huyền Quang và Điểm
Bích. Kết thúc truyện Nhà sƣ đã đƣợc minh oan nhƣ phần kết thúc trong Tổ gia
83
thực lục và Tân đính Lĩnh Nam chích quái. Tuy nhiên có một chi tiết khác mang
đầy tính nhân đạo theo cách kết thúc có hậu của tƣ duy dân gian: “Vua truyền bắt
Điểm Bích bỏ ngục để trờ ngày phán sử, rồi xa giá tới gặp Huyền Quang tạ lỗi.
Câu nói đầu tiên của Huyền Quang là xin vua tha tội cho Điểm Bích”.
Ở chuyện Khảo dị thì câu chuyện Huyền Quang - Điểm Bích là diễn ra
theo một cấu trúc khác: “Hồi ấy vua ngự giá chơi chùa có tặng Huyền Quang hai
mƣơi lạng vàng. Việc nhận vàng làm cho nhà vua nghi ngờ tấm lòng cao thƣợng
của Huyền Quang” [9, tr. 1107]. Và lần này ngƣời đƣợc cử đi thử thách Huyền
Quang không phải là ngƣời cung phi mà là “công chúa thứ ba - một cô gái học
giỏi nhận lời” Công chúa cũng tìm đến chùa và bịa ra câu truyện bị cƣớp và xin
ở trọ: “Sự khiêu khích lần đầu của công chúa không có hiệu quà. Trong chùa,
Huyền Quang tụng hết quyển kinh này đến quyển kinh khác.
Ngoài này, công chúa dùng giấy bút ghi chép tất cả. Sáng hôm sau, Huyền
Quang lục thúng khảo của công chúa thấy những bản ghi chép không sót câu
nào, thì ngạc nhiên tƣởng là tiên, bèn xiêu lòng…” [9, tr. 1107].
Và kết quả là vua có đủ chứng cớ cho đòi Huyền Quang về bắt làm tờ tự
thú. Có câu:
Tụng ba mươi sáu quyển kinh,
Bụi trần chưa sạch, tơ tình còn vương.
Nay nhờ ơn lệnh quân vương,
Rộng dung ân xá đội ơn nghìn trùng.
Các quan đều quỳ lạy tha cho Huyền Quang. Sau đó vua đã thử ông một
lần nữa nhƣng do phép của sƣ còn thiêng nên cỗ mặn đều hóa thành chay cả.
Vua tha cho nhƣng Huyền Quang cũng không đƣợc thành Phật. Có câu ngạn
ngữ: “Từ Thức tu không thành tiên, Huyền Quang tu không thành Phật”. Trong
sách Huyền Quang hành cũng có nội dung tƣơng tự nhƣ lời kể trên, Huyền
Quang đã phạm giới cùng Thị Bích. Và khi lên đàn thuyết pháp thỉ than :
“Hoàng quyến nhuốm sắc, tức là ta đó” . Đoạn sau, không có chuyện cổ mặn hóa
thành chay”. Còn có câu ca truyền lại:
Dù mà tát cạn Bình than,
Rửa làm sao sạch tiếng oan cho thầy.
Ở đây rõ ràng rằng dân gian đã tƣởng tƣợng, hƣ cấu, dung nạp thêm các
84
chi tiết, bồi đắp nên cốt truyện và gán ghép vào nhân vật Huyền Quang. Mà có lẽ
nhƣ thế mới chính là cái lý của truyện dân gian, “cổ tích”. Cố gắng truy tìm “cái
lý” xa xôi ấy, chúng tôi nhận thấy rằng chính ở nguồn gốc truyện Huyền Quang
trong Tam tổ thực lục lại chứa đựng những khả năng, mầm mống, đóng vai trò
tiền đề cho phép dung nạp (hay là mở ra) một truyện cổ tích đƣợc phát sinh, lồng
ghép vào đó. Xét về mặt tƣ duy thì nhân vật Huyền Quang trong Tổ gia thực lục
đã rất gần với hình ảnh con ngƣời trần tục, và việc nó chuyển hóa thành nhân vật
của dân gian dƣờng nhƣ không phải là một khoảng cách lớn nữa.
Qua các nguồn tƣ liệu thu thập đƣợc, sự tách bạch một chân dung thiền sƣ
Huyền Qaung từ Tổ gia thực lục đến các thƣ tịch cổ và truyện cổ tích ngày càng
trở nên rõ ràng hơn. Đồng thời, từ điểm nhìn của văn hóa dân gian, hiện tƣợng
giao thoa hình tƣợng Huyền Quang - hình ảnh một vị Tổ và một con ngƣời phàm
tục đã rất gần gũi với tƣ duy theo cái lý riêng của dân gian.
Có một điểm đặc biệt là từ Tam tổ thực lục đến thƣ tịch cổ và truyện cổ
tích, diễn ra một quá trình lƣợc bỏ dần các yếu tố hƣ ảo, kỳ lạ khi sinh, cũng nhƣ
những phần mang tính ghi chép sử. Duy chỉ có nội dung mang nhiều tính chất hƣ
cấu và đƣợc kể lại với mục đích đề cao đức hạnh, phẩm chất của Huyền Quang
là câu chuyện Huyền Quang - Điểm Bích lại luôn trở thành nội dung chính trong
sự diễn hóa từ truyện thiền sƣ Huyền Quang ở Tổ gia thực lục đến thƣ tịch cổ và
truyện cổ tích. Và một điều đặc biệt là câu chuyện mang nhiều tính chất hƣ cấu,
thực thực hƣ hƣ này lại chính nguồn tái tạo và sáng tạo nên những hình ảnh mới
thậm chí là trái chiều nhƣng hết sức thú vị về vị thiền sƣ này.
Cũng từ sau “nhân vật” Huyền Quang trong Tam tổ thực lục trở đi, trong
văn học đã xuất hiện xu hƣớng trần tục hóa thần Phật, tiêu biểu nhƣ các truyện
Hai Phật cãi nhau, Ngọc nữ về tay chân chủ của Lê Thánh Tông, hay Cuộc đối
tụng ở Long cung, Cái chùa hoang ở Đông Trào của Nguyễn Dữ… Từ Tổ gia
thực lục trở đi, trong văn học rõ ràng đã xuất hiện một hệ quy chiếu mới ngƣợc
hẳn lại với hệ quy chiếu trƣớc đây là thần thánh hóa con ngƣời, nhƣ đối với các
vị thiền sƣ nhƣ trong các truyện Việt điện u linh tập, Thiền uyển tập anh ngữ
lục… Việc xuất hiện một hệ quy chiếu mới trong văn học đã thể hiện một sự vận
động về sáng tạo, tái tạo, thƣởng thức tiếp nhận nghệ thuật của đông đảo công
chúng. Một sự vận động về tinh thần của đời sống con ngƣời. Sự vận động ấy đã
85
giải thoát con ngƣời khỏi những ràng buộc của những yếu tố thần linh, tìm lại
những giá trị nhân bản nhân văn của con ngƣời, khẳng định sức mạnh và năng
lực của con ngƣời trƣớc thế giới tự nhiên và thánh thần. Từ đây, con ngƣời hiện
thực ngoài đời (chứ không phải thánh thần) mới là đối tƣợng, trung tâm phản
ánh, tái tạo và sáng tạo của văn học. Huyền Quang là một hiện tƣợng tiêu biểu
cho sự vận động này. Cho đến nay hiện tƣợng Huyền Quang vẫn không ngừng
đƣợc khai thác, đƣợc hƣ cấu, đƣợc huyền thoại hóa, giai thoại hóa…
3.3. Huyền Quang tôn giả - từ nhân cách văn hóa đa trị trong lịch sử
đến nhân vật trong văn học với những kết tinh huyền thoại, giai thoại
Câu truyện hƣ hƣ thực thực giữa Huyền Quang và Điểm Bích không chỉ là
ngồn tái tạo, sáng tạo văn học, mà thực sự đã trở thành một vấn đề văn học gây
nên những cuộc tranh luận sôi nổi trên văn đàn cũng nhƣ trong tâm lý tiếp nhận
của dân gian bao đời nay. Nghi án này văn học này từ khi nó ra đời cho đến nay
vẫn chƣa có lời giải thỏa đáng thuyết phục. Các nhà nho, văn nhân, dân gian và
cả các nhà nghiên cứu về Huyền Quang trƣớc đây đều tìm cách giải mã nghi án
văn học này theo xu hƣớng chứng minh có hay không câu chuyện thực hƣ giữa
Huyền Quang và Điểm Bích, hoặc chỉ quan tâm đến khía cạnh mĩ cảm của câu
chuyện mà không để ý đến sự thực hƣ của nó.
Ở đây, để giải mã giai thoại đặc biệt hấp dẫn này, chúng tôi không đi theo
hƣớng chứng minh việc có hay không câu chuyện tình giữa Huyền Quang và
Điểm Bích nhƣ các xu hƣớng trƣớc đây, mà tập trung vào việc phân tích cấu trúc
của giai thoại Huyền Quang - Điểm Bích cũng nhƣ tìm hiểu những điều kiện,
yếu tố nào dẫn đến sự xuất hiện của giai thoại đặc biệt này - giai thoại cặp đôi
(nội dung chính của giai thoại này là chỉ nói về chuyện tính giao giữa nam nhân
– thƣờng là vật lịch sử có tiếng và ngƣời đẹp). Để cắt nghĩa giai thoại Huyền
Quang - Điểm Bích theo hƣớng này, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát các kiểu
giai thoại để chứng minh những nhân cách nào thì kết tinh kiểu giai thoại cặp
đôi. Giai thoại Huyền Quang - Điểm Bích hẳn đã chứa đựng một quy luật nào đó
về sáng tạo, tái tạo, thƣởng thức tiếp nhận nghệ thuật của công chúng đông đảo,
một quy luật tinh thần của đời sống con ngƣời: quy luật về sự giải toả tâm lý bị
86
ức chế.
3.3.1. Cấu trúc giai thoại Huyền Quang - Điểm Bích
Nguồn gốc dẫn đến việc xảy ra câu chuyện Huyền Quang - Điểm Bích bắt
đầu xuất phát từ mối nghi ngờ của vua Anh Tông (hoặc Minh Tông) đối với
Huyền Quang. Vấn đề trƣớc hết là chúng tôi muốn giải thích tại sao vua nhà
Trần lại nảy sinh ý nghi ngờ này. Xét bối cảnh chính trị xã hội thời Trần, nhƣ
chúng tôi đã trình bày ở chƣơng 1 của luận văn. Từ thời Trần Anh Tông trở đi,
Nho giáo đã rất đƣợc trọng dụng. Phật giáo đã không còn đƣợc các vị vua nhà
Trần dành một lòng tôn kính, phụng sự nhƣ trƣớc nữa. Khi Anh Tông lâm bệnh
nặng sắp qua đời, sƣ Phổ Tuệ xin vào để nói chuyện sống chết, ông không cho
vào, sai trả lời: “Nhà sƣ hãy ở đấy, khi ta chết rồi, quan gia có sai làm thế nào thì
nhà sƣ tự làm, còn nhƣ việc sau thì nhà sƣ cũng chữa chết, biết đâu mà đem việc
chết bày tỏ với ta” [55,tr 123].
Vua Minh Tông trƣớc khi mất cũng đã từ chối việc lập đàn chay và lễ cầu
đảo của nhà sƣ, ông còn dặn Hiếu Từ Thái Hậu đừng vào núi đi tu.
Trên tinh thần chung ấy, rõ ràng hình ảnh các vị sƣ tăng từ giai đoạn giữa
thời Trần, đặc biệt là giai đoạn Vãn Trần trở đi đã không còn giữ đƣợc sự kính
trọng, đƣợc thần thánh hóa nhƣ trƣớc nữa. Hơn nữa trƣớc những tệ nạn ngày
càng nhiều của nhà chùa đã không khỏi gây nên sự nghi nghờ ở tầng lớp trên, và
ngay cả trong dân gian đối với Phật giáo. Hơn nữa, về Huyền Quang nhƣ chúng
tôi đã phân tích ở Chƣơng 1 và Chƣơng 2 cảu luận văn, Huyền Quang là một
nhân cách đa trị, là vị sƣ Tổ thứ ba của Trúc Lâm nhƣng ở Huyền Quang lại có
những biểu hiện rất rõ nét của khuynh hƣớng đi ra ngoài chính thống, ngoài sự
thuần thành của Phật giáo. Điều đó không chỉ thể hiện trong hành trạng, mà đặc
biệt còn thể hiện rất rõ trong các sáng tác của Huyền Quang. Nhƣ vậy, đến
Huyền Quang và chỉ đến Huyền Quang mới có sự nảy sinh nghi ngờ nhƣ vậy.
Theo nhƣ vua Anh Tông từng nói: “Ngƣời ta sinh ra trong khoảng trời đất,
“cõng âm và ôm dƣơng”, thích ăn ngon, ƣa mặc đẹp, lòng ham muốn ấy bọn
chúng ta đều có. Còn nhƣ gác bỏ một bên lòng ham muốn, dốc lòng phụng sự
đạo, là để lo một mặt mà thôi. Vì sao chỉ mỗi mình thầy Huyền Quang từ khi
sinh đến giờ vẫn sắc sắc không không, nhƣ nƣớc không sóng, nhƣ gƣơng không
87
bụi, phải chăng Sƣ đè nén lòng dục, hay là không có lòng dục?”
Phật giáo có nhiều trƣờng phái, nhƣng nhìn chung đều hƣớng tới việc giải
thoát con ngƣời khỏi mọi khổ đau bằng con đƣờng cấm dục, diệt dục đặc biệt là
“sắc dục”, “thực dục”. Đây là yếu tố phản tiến hóa, phản nhân văn của Phật giáo.
Cuối thế kỷ XIV đã diễn ra một cuộc tấn công quyết liệt của các nhà Nho vào
Phật giáo. Họ không chỉ tấn công vào những tệ nạn, những yếu tố tha hóa của
nhà chùa mà còn này sinh mối nghi ngờ và phản ứng trƣớc triết lý cấm dục, diệt
dù mang tính chất phi nhân bản, phi nhân văn của Phật giáo. Đến Huyền Quang
hẳn đã có một cái nhìn mới một hệ quy chiếu mới khác với cái nhìn sùng kính,
thần thánh hóa trƣớc đây đối với Phật giáo.
Và hẳn là không phải ngẫu nhiên khi nghi ngờ đó lại có chủ ý gán cho vị
Tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm. Rõ ràng là chỉ đến Huyền Quang và chỉ ở
Huyền Quang mới có đầy đủ những yếu tố để tạo nên một câu truyện đặc biệt
hấp dẫn từ sự nghi ngờ này. Trong thời kỳ “tam giáo tịnh hành” không ai lại
không chịu sự tác độ của tƣ tƣởng tam giáo, nhất là các chí thức lớn của thời đại.
Tuy nhiên tài năng của học cũng thể hiện rất rõ trong sự tiếp nhận và vận động
trong tƣ tƣởng tam giáo đó. Huyền Quang là một trí thức - một nhân cách văn
hóa lớn thể hiện đa trị của mình ở sự chủ động một cách cao nhất, tinh tế nhất ở
phƣơng thức tiếp thụ, xuất nhập trong ba luồng tƣ tƣởng lớn của thời đại. Ở
Huyền Quang hội tự đủ những yếu tố của một nhân cách đa trị với khuynh
hƣớng vƣợt thoát ra khỏi sự thuần thành của tƣ tƣởng chính thống. Và sự xuất
hiện của Điểm Bích - một giai nhân tuyệt sắc – một mối hiểm họa theo nhƣ triết
thuyết của cả ba hệ tƣ tƣởng lớn Nho - Phật - Đạo (Đặc biệt là với Phật giáo, bời
vì chủ trƣơng của nó là diệt dục, cấm dục để hƣớng con ngƣời đến sự giải thoát),
với nhiệm vụ vua giao “hãy đến thử thầy ấy” đã hoàn tất việc tạo nên cấu trúc
giai thoai cặp đôi bất khả giải này: Một nhân cách đa trị (nhƣng lại là nhà sƣ) với
ngƣời đẹp - một giai nhân tuyệt sắc và câu chuyện chính xoay quanh họ là câu
chuyện về “tính giao”.
Trong không khí vẫn còn ảnh hƣởng nhất định của Phật giáo, cuối cùng
sự nghi ngờ ấy trên văn bản chính thống vẫn đƣợc giải quyết theo chiều hƣớng
khẳng định đạo hạnh cho vị Tổ thứ ba. Nhƣng chính việc “gỡ bí” cho nhà sƣ
bằng một chi tiết “lạ” mang tính chất bùa chú của Mật giáo đã làm cho câu
88
chuyện Huyền Quang – Điểm Bích không thể kết thúc trọn vẹn. Khi các vị thiền
sƣ không còn đƣợc nhìn trong con mắt thần thành hóa nhƣ trƣớc nữa thì việc
xuất hiện môt môtíp lạ hóa “dùng sức mạnh của thần linh” để giải quyết bế tắc
cho một câu chuyện chứa đựng nhiều yếu tố hiện thực về nhân sinh của cong
ngƣời đã tỏ ra khá chông chênh và thiếu sức thuyết phục. Chính vì thế, khi câu
chuyện Huyền Quang – Điểm Bích đƣợc diễn hóa theo xu hƣớng hiện thực, vƣợt
ra ngoài sự ràng buộc, ngợi ca, thần thánh của môi trƣờng Phật giáo, thì hiển
nhiên là nó đi theo những lôgíc rất khác nhau. Câu chuyện Huyền Quang - Điểm
Bích đã tự mang trong lòng nó những vấn đề nhân bản, nhân văn về con ngƣời.
Cũng chính vì vậy, nó đã trở thành một vấn đề tranh luận, bàn cãi không có hồi
kết trên văn đàn cũng nhƣ trong tâm thức dân gian bao đời nay.
Một trong những nguyên nhân khó có thể đƣa ra lời giải cuối cùng cho
giai thoại Huyền Huyền Quang - Điểm Bích là ở chỗ đây là một giai thoại chứa
đựng những yếu tố của hƣ cấu thẩm mĩ độc đáo. Ở đây có sự đan xen, kết nối
giữa cái lý thông thƣờng và cái lý bất bình thƣờng. Trong lý lẽ thông thƣờng
nhất và theo giáo lý nhà Phật, nhà sƣ đức hạnh đạo cao nhƣ Huyền Quang tuyệt
nhiên không thể nảy sinh nhục dục và hành động nhƣ cách mà Đan Sơn miêu tả
trong truyện Sƣ chùa Yên Tử. Nhƣng cũng trong lý lẽ thông thƣờng nhất của bản
năng con ngƣời nhƣ vua Trần nói thì điều đấy lại cũng rất có thể xảy ra. Chuyện
ấy có thể không xảy ra với Huyền Quang thật ngoài đời, nhƣng nó rất có thể và
và đã từng xảy ra với các vị thiền sƣ khác. Cũng rất có thể câu chuyện Huyền
Quang - Điểm Bích trong tác phẩm văn học chỉ là sự minh hoạ cao độ cho một
câu chuyện thật nhƣ vậy đã xảy ra ở ngoài đời thực đối với một vị thiền sƣ nào
đó. Cái hấp dẫn ở đây là Huyền Quang từ một nhân vật lịch sử đƣợc hƣ cấu trở
thành nhân vật văn học với những chiều hƣớng diễn tiến chịu sự chi phối và quy
luật sáng tạo của văn học.
Câu chuyện Huyền Quang- Điểm Bích cố thể là câu chuyện không có thật
với Huyền Quang – nhân vật lịch sử, nhƣng nó lại rất có thể là thật ở một hiện
tƣợng khác ngoài đời. Nó không phản ánh một sự thật trần trụi là câu chuyện
đƣợc miêu tả thật nhƣ vốn có, nhƣng nó đƣợc miêu tả nhƣ cái có thể có trong
cuộc sống, cái vốn có và từng diễn ra trong cuốc sống. Bí quyết sự hấp dẫn của
giai thoại nằm ở chỗ không thể cắt nghĩa đƣợc nó một cách rốt ráo. Nếu cắt
89
nghĩa đƣợc giai thoại thì không còn giai thoại. Giai thoại là một hƣ cấu thẩm mĩ,
nó diễn tả hiện thực, cắt nghĩa hiện thực bằng siêu lôgíc, thể hiện lý lẽ siêu lôgíc,
không thể dùng lôgíc thông thƣờng để cắt nghĩa và giải mã giai thoại đƣợc.
Câu chuyện Huyền Quang – Điểm Bích đặt trong văn bản Tam tổ thực
lục, bên cạnh lối ghi chép lịch sử còn mang đậm tính chất hƣ cấu. Thời gian xảy
ra truyện không đƣợc xác định cụ thể, các tình tiết truyện cũng không gắn với
các mốc lịch sử cụ thể. Cốt truyện đã cho thấy nó đƣợc trình bày theo cách diễn
giải mang tính chủ quan của tác giả chứ không chịu sự quy định khách quan của
lịch sử. Đặc biệt đoạn Điểm Bích nói dối “bịa chuyện” với sƣ thầy và sau đó
“lừa” cả nhà vua là đoạn mang đậm chất hƣ cấu. Ở đây mặc dù mang tội “lừa” cả
sƣ Tổ và vua, nhƣng nhân vật này cũng lại không bị miêu tả tả một cách xấu xa,
ác ý. Kết cục, Điểm Bích cũng không bị trừng trị đích đáng, mà chỉ phải chịu án
phạt là quét chùa Cảnh Linh. Rõ ràng đến Huyền Quang, ngƣời ta đã bắt đầu có
sự nghi ngờ về những thiền sƣ đƣợc thần thánh hóa trƣớc đây. Ở một hệ quy
chiếu mới, họ nhận ra ở những con ngƣời ấy vẫn mang những mầu mống những
bản năng gốc của con ngƣời trần tục. Từ Huyển Quang trở về sau, con ngƣời đã
đƣợc nhìn nhận một cách chân thật hơn và theo xu hƣớng thế tục hóa. Nhân vật
phản ánh trong văn học không còn chỉ là thần linh nữa mà đã là con ngƣời đời
thƣờng, và con ngƣời đời thƣờng đã trở thành trung tâm phản ánh của văn học,
chứ không phải con ngƣời đƣợc tôn hóa nhƣ trƣớc đây. Văn học đã quay trở lại
phản ánh hiện thực với mức độ hƣ cấu cực đậm nét.
Chính tích chất hƣ cấu của câu chuyện Huyền Quang - Điểm Bích đã làm
cho câu chuyện có thể là bịa nhƣng mang yếu tố nhƣ là một câu chuyện thật. Tạo
nên sự hƣ hƣ thực thực trở thành một nghi án bất khả giải cho giới văn học bao
đời nay.
Nhƣng tại sao đến Huyền Quang ngƣời ta mới nghi ngờ và tại sao ông lại
là nhân vật lịch sử - vị thiền sƣ đầu tiên mắc án oan trong văn học nhƣ vậy?
Không những thế câu chuyện của ông với nàng Bích đã trở thành giai thoại hấp
dẫn bao đời nay? Và liệu giai thoại Huyền Quang – Điểm Bích có ẩn chứa quy
luật vận động gì trong sự phản ánh nhận thức của dân gian, cũng nhƣ giới trí
thức?
Theo khảo sát của chúng tôi thì không phải nhân vật nào cũng có giai
90
thoại, không phải trí thức nào cũng có giai thoại. Vậy thì loại nhân vật nào thì có
giai thoại? Vấn đề cực kỳ lý thú. Có thể dẫn ra một số nhân vật có giai thoại cặp
đôi nhƣ Nguyễn Trãi với Thị Lộ, Nguyễn Công Trứ với ả đào (đặc biệt ở nhân
vật này là rất nhiều giai thoại, đẫm giai thoại). Nguyễn Tuân, Tản Đà đều có giai
thoại…
3.3.2. Nhân cách văn hóa đa trị và sự ra đời của kiểu giai thoại cặp đôi
- Định nghĩa về giai thoại cặp đôi
Trƣớc hết, từ góc độ văn tự học “giai” theo gốc nghĩa Hán là “tốt đẹp”
(Từ điển bộ mới, tr. 320). “Thoại” là lời nói. “Giai thoại” là “Việc hay ngƣời ta
thƣờng nói đến” (33, tr. 321).
Từ góc độ lý luận văn học, “giai thoại” đƣợc hiểu là “Một thể loại chuyện
truyền bằng miệng, lƣu hành chủ yếu trong giới nhà văn và lớp công chúng ƣa
thích thơ văn, nhất là những ngƣời có hiểu biết Hán học và văn chƣơng chữ
Hán… Một giai thoại là một chuyện kể ngắn gọn, lý thú, xoay quanh những nhân
vật có thực, thƣờng là những danh nhân. Giai thoại văn học là những giai thoại
nói riêng về các nhà văn, nhà thơ, nhà khoa bảng, về những ngƣời sáng tác thơ
văn và thƣởng thức thơ văn… các giai thoại sớm nhất này còn biết đến là giai
thoại về các danh nhân thời Lý, tức là chúng đƣợc sáng tác muộn hơn một chút,
nhƣ là một tiểu dẫn độc đáo về xuất xứ một số sáng tác và hoạt động văn học của
các nhân vật ấy. Giai thoại văn học phát triển mạnh mẽ ở giữa thế kỷ XV (thời
vua Lê Thánh Tông) đến nữa thế kỷ XIX, gắn với các giai đoạn thịnh vƣợng của
văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.
Các giai thoại ở giới văn nhân Nho sĩ Việt Nam - giống nhƣ ở Trung Hoa
- phần lớn thƣờng nhằm đề cao tài năng của các danh nhân theo những chuẩn
mực của Nho học (thông tỏ và tài giỏi vận dụng chữ nghĩa thánh hiền, tài đối đáp
bằng thơ, phú, tài chơi chữ, dùng chữ,…), ngoài ra cũng chú ý phác hoạ cốt cách
tài tử, đa tình của họ. Những giai thoại xuất hiện ở thời kỳ cuối chú ý nhiều hơn
đến bản lĩnh, tính cách của danh nhân, đến quan hệ của danh nhân với giai nhân
(tài tử - giai nhân)… Nó (giai thoại) thuộc về văn chƣơng bác học, gắn với sinh
hoạt văn học thành văn, nhƣng lại tồn tại dƣới dạng truyền miệng, tức là dạng
thức của các chuyện kể dân gian” (33, tr. 519).
Mặc khác, giai thoại còn đƣợc hiểu nhƣ sau: “Một thể loại chuyện kể ngắn
91
gọn về một tình tiết có thực hoặc đƣợc thêu dệt của những nhân vật đƣợc nhiều
ngƣời biết đến (vd: giai thoại các nhà chính trị, các tƣớng, cá nhà văn, nhà khoa
học, các nhân vật có biệt tài nhƣ Mạc Đĩnh Chi, Trạng Quỳnh…). Dựa vào đặc
điểm nội dung và tính chất thẩm mĩ, ngƣời ta phân giai thoại thành nhiều loại
khác nhau (giai thoại văn học, giai thoại dạy học, giai thoại về thầy thuốc, giai
thoại hài hƣớc). Giai thoại thƣờng viết chuỗi xoay quanh những nhân vật nổi
tiếng. Trong văn học dân gian có nhiều chuỗi truyện cƣời mang tính chất giai
thoại hài hƣớc xoay quanh những nhân vật nổi tiếng đƣợc coi là có thực nhƣ:
Trạng Lợn, Trạng Quỳnh, Xiển Bột, Ba giai, Tú Xuất (33, tr. 112).
Căn cứ trên cách hiểu về giai thoại của các học giả trên, căn cứ vào gốc
chữ Hán, chúng tôi tiến hành khảo sát các kiểu giai thoại và nhân cách gắn với
giai thoại cặp đôi.
- Các kiểu giai thoại và kiểu nhân cách có giai thoại cặp đôi
Quan sát các nhân cách văn hóa trong phạm vi văn hóa trung đại nhƣ Chu
Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sƣ Mạnh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hƣơng,
Tản Đà… ta thấy các nhân cách này đều có ít hoặc nhiều giai thoại bủa vây xung
quanh. Thƣờng thì mỗi nhân cách gắn với một giai thoại nổi tiếng nhƣ Mạc Đĩnh
Chi là giai thoại về tài đối đáp chữ nghĩa khi đi sử Trung Quốc, Nguyễn Trãi nổi
tiếng với giai thoại Thị Lộ và rắn báo oán, Lê Quý Đôn là giai thoại về giỏi đối
đáp chữ nghĩa, mà tiêu biểu là giai thoại gắn với bài thơ Rắn đầu biếng
học…Nguyễn Bỉnh Khiêm với giai thoại về sấm vĩ, Nguyễn Công Trứ với rất
nhiều giai thoại, đặc biệt là giai thoại với cô đào giữa đồng “thuyền khuyên ứ hự
anh hùng nhớ chăng”…. Tuy nhiên qua khảo sát chúng ta thấy, mỗi nhân vật
khác nhau thƣờng gắn với những kiểu loại giai thoại khác nhau. Có những trí
thức, nhân cách văn hóa đơn thuần gắn với một kiểu giai thoại nhƣ giai thoại về
tài đối đáp chữ nghĩa gắn với Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý
Đôn,… nhóm nhân cách khác thì bủa vây xung quanh rất nhiều kiểu giai thoại,
và đặc biệt là giai thoại gắn với ngƣời đẹp nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ, Tản Đà... Khảo sát kỹ chúng ta thấy rằng những nhân cách
đơn trị, dù ở mức rất cao thì cũng không có giai thoại cặp đôi (tức là giai thoại
gắn với ngƣời đẹp). Ở học thƣờng chỉ kết tinh một kiểu giai thoại nhƣ giai thoại
92
về đối đáp, chữ nghĩa, thần đồng, sấm ký, khí tiết,…tất cả những tài năng, phẩm
chất của họ đƣợc phản ánh qua giai thoại thƣờng nằm trong giá trị chuẩn mực
định sẵn của Nho giáo chính thống, và rộng hơn là trong sự bao bọc cả các học
thuyết Nho – Phật – Đạo. Những nhân cách gắn với giai thoại cặp đôi (giai thoại
giữa ngƣời nổi tiếng với ngƣời đẹp, mà nội dung chính của giai thoại này là câu
chuyện “tính giao” giữa họ) thƣờng là những nhân cách văn hóa đa trị. Mà
những nhân cách này, theo khảo sát của chúng tôi lại thƣờng là những nhà nho
tài tử. Nhà nho tài tử dù vẫn nằm trong khuôn khổ của mẫu nhà nho chính thống,
nhƣng ở họ đã có những khuynh hƣớng đi ra ngoài, vƣợt ra ngoài khuông khổ
chính thống. Họ đề cao tài hơn đức, và cái tài của học thƣờng gắn với tình. Lý
tƣởng sống của học là phải thoả mãn tất cả những lạc thú ở trên đời, trong đó
quan trọng là đƣợc gắn kết với ngƣời đẹp. Chính vì vậy mà bủa vây xung quanh
họ không ít những giai thoại với ngƣời đẹp, giai thoại cặp đôi. Họ không còn chị
sự ràng buộc tuyệt đối của một hệ tƣ tƣởng nào. Họ có xu hƣớng và có nhiều lúc
đã thoát ra khỏi sự kìm kẹp của cả Nho - Phật – Lão Trang. Ở đây, chúng tôi chỉ
muốn đề cập tới sự kìm kẹp của ba học thuyết này ở phƣơng diện hạn chế sựu
phát triển của con ngƣời cá nhân, con ngƣời bản năng, mà chỉ đề cao phƣơng
diện con ngƣời xã hội, ƣớc thúc phải diệt dục, tiết dục, và đặc biệt cảnh giác với
ngƣời đẹp, coi ngƣời đẹp nhƣ là một mối hiểm họa thƣờng trực, bất trị.
Huyền Quang tôn giả - nhân cách văn hóa đa trị mở đầu cho sự ra đời
các giai thoại cặp đôi
Huyền Quang là một nhân cách đa trị. Ông tinh thông cả Nho - Phật –
Lão Trang nhƣng không thuần thành, không chịu sự chi phối của riêng một học
thuyết nào. Ông đã liễu ngộ cả Nho - Phật – Lão, tự do lựa chọn phƣơng thức
xuất nhập trong tƣ tƣởng tam giáo, vừa thể hiện một tầm cao trí tuệ, một bản lĩnh
nhân của nhân cách đa trị. Chỉ đến Huyền Quang, và nhân cách Huyền Quang
mới tạo nên mội giai thoại cặp đôi, mở đầu cho hàng loạt các giai đoạn cặp đôi
sau này. Theo sự khảo sát của chúng tôi, giai thoại cặp đôi nhƣ một phản ứng
chống lại sự kìm kẹp cử tƣ tƣởng Tam giáo ở phƣơng diện con ngƣời bản năng,
con ngƣời cá nhân. Trƣớc Huyền Quang, Phật giáo rất thịnh hành. trong khi
Nho giáo chƣa vẫn chƣa đạt đến địa vị độc tôn để áp đặt những thiết chết của nó.
Thời kỳ này chủ yếu vẫn là sự ƣớc thúc của giáo điều đạo Phật. Tuy nhiên ở giai
93
đoạn Huyền Quang Phật giáo đã phát triển qua giai đoạn đỉnh cao của nó và bắt
đầu bộc lộ những bất túc của nó. Và nhƣ một quy luật tiền định, học thuyết nào
không còn tỏ ra đắc dụng và hợp thời nữa thì tất sẽ nhận đƣợc những phản ứng
trái chiều. Giai thoại Huyền Quang – Điểm Bích nhƣ là một sự phản ứng lại với
sự kìm tỏa đã trở nên không còn đắc dụng của Phật giáo ở thời kỳ này. Tuy
nhiên sau thời kỳ thịnh đạt của Phật giáo là thời kỳ độc tôn của Nho giáo. Giai
đoạn sau Huyền Quang đến thế kỷ XVIII – XIX là sự ngự trị và ƣớc thúc của
Nho giáo. Tuy nhiên cũng nhƣ Phật giáo, khi Nho giáo đã qua giai đoạn đỉnh cao
của mình thì nó cũng bắt đầu bộc bộ những bất túc trong học thuyết của mình,
đƣơng nhiên nó cũng nhận đƣợc những phản ứng trái chiều. Cuối thế kỳ XVIII –
đầu thế kỳ XIX sự thiết chế kìm kẹp của Nho giáo đã tới mức khiến con ngƣời cá
nhân phải quẩy đạp bứt phá, mà thể hiện rõ nhất ở các nhà nho tài tử với sự nở rộ
của các giai thoại cặp đôi “tài tử giai nhân”.
Tuy nhiên giai thoại cặp đôi Huyền Quang - Điểm Bích có những yếu tố
khác xa các giai thoại cặp đôi về sau. Phật giáo với chủ chƣơng giải thoát con
ngƣời bằng con đƣờng cấm dục, diệt dục. Đây cũng chính là yếu tố phi nhân văn,
nhân bản của Phật giáo. Giai thoại Huyền Quang ra đời từ sự nghi ngờ của các
đấng bề trên. Ban đầu nó đƣợc giải quyết theo xu hƣớng minh oan, hóa giải để
chứng minh cho đạo hạnh nhà sƣ. Tuy nhiên về sau theo quan điểm nho gia và
xu hƣớng thế tục hóa thì nó lại đƣợc nhìn nhận ở nội dung mang vấn đề về nhân
bản của con ngƣời ở nhiều phƣơng diện, con ngƣời bản năng, số phận của ngƣời
phụ nữ tài sắc bị đem ra làm phép thử… đã trở thành nội dung tranh luận không
có hồi kết trên văn đàn. Trong khi đó, các nhà nho tài tử mặc dù chịu sự thúc ƣớc
của giáo lý Nho giáo, song học không bị cấm dục, diệt dục nhƣ chủ trƣơng của
đạo Phật. Nho giáo chỉ kiềm toả, khuyên con ngƣời nên tiết dục, quả dục, và đặc
biệt khuyến cáo họ nên cảnh giác với ngƣời đẹp. Các giai thoại cặp đôi sau này,
đặc biệt là các giai thoại cặp đôi tài tử giai nhân của nhà Nho tài tử thƣờng dễ
đƣợc chấp nhận, và cũng chỉ dừng lại ở mức độ thƣởng thức hơn việc trở thành
một vấn đề văn học với nhiều ý kiến tranh luận nhƣ giai thoại Huyền Quang -
94
Điểm Bích.
Tiểu kết
Ở Chƣơng 3, chúng tôi đã đi vào lý giải và cắt nghĩa quá trình Huyền
Quang tôn giả - từ nhân cánh đa trị trong lịch sử, đã đƣợc hƣ cấu để trở thành
nhân vật văn học với những kết tình huyền thoại, giai thoại. Từ nhân vật trong
tác phẩm mang nhiều yếu tố của văn học chức năng (Tam tổ thực lục, Tân đính
Lĩnh Nam chích quái) đến nhân vật trong tác phẩm văn học đích thực (Sư chùa
Yên Tử, truyện cổ tích Huyền Quang…)…Huyền Quang còn là nhân vật nhận
đƣợc nhiều sự chú ý, tranh luận, đánh giá của các văn nhân, và dân gian xung
quanh câu truyện thực hƣ giữa ông với nàng Điểm Bích. Từ một nhân cách đa trị
trong lịch sử, ông đã kết tinh ở giai thoại cặp đôi trong văn học, mở đầu cho một
loạt các giai thoại cặp đôi về sau. Tuy nhiên khác với các giai thoại cặp đôi về
sau thƣờng chỉ thiên về tích chất thƣởng thức, giai thoại Huyền Quang - Điểm
Bích còn chứa đựng nhiều nội dung về các vấn đề tôn giáo, xã hội, văn hoá và
đặc biệt là những vấn đề về chính con ngƣời…vì vậy nó mãi là vấn đề tranh luận
không có hồi kết trên văn đàn, và cũng chính vì không có lời giải mã cuối cùng
95
mà nó còn mãi tồn tại mãi hấp dẫn cùng với bạn đọc bao thế hệ.
KẾT LUẬN
Trong ba chƣơng của luận văn, chúng tôi đã tập trung giải quyết những
vẫn đề sau:
1. Từ tiểu sử và hành trạng của Huyền Quang qua các nguồn thƣ tịch cổ,
chúng tôi khái quát về hình ảnh của ông trên bốn phƣơng diện: một trí thức nho
sĩ; nhà Phật học lỗi lạc - đệ tam Tổ của Thiền phái Trúc Lâm; hình ảnh một ẩn
sĩ; một thi nhân. Đặt hiện Huyền Quang trong bối cảnh vận động tƣ tƣởng Phật
giáo sang Nho giáo thời Trần, chúng tôi nhận thấy ở ông có sự giao thoa giữa trí
thức nho sĩ và trí thức Phật giáo. Những mạch nguồn dẫn đến sự hội tụ phức tạp
những luồng tƣ tƣởng lớn của thời đại trong tƣ tƣởng Huyền Quang trƣớc hết
có nguồn gốc từ sự xuất thân của ông. Trƣớc khi xuất gia ông đã tinh thông về
Nho học. Nhƣng sau khi xuất gia đị tu, ông đã tiếp nối mạch nhập thế tích cực
của Thiền phái Trúc Lâm, cụ thể là tƣ tƣởng dĩ Nho nhập Thích đã đƣợc khởi
xƣớng từ đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông. Đến Huyền Quang thì tƣ tƣởng này đƣợc
thực hiện một cách triệt để. Huyền Quang là một nhân cách đa trị của thời nhà
Trần. Ông cũng chính là vị Tổ cuối cùng của dòng Thiền mang đậm bản sắc dân
tộc trƣớc khi nó chấm dứt mạch nguồn của mình trong sự vận động đi lên của
Nho giáo với tƣ cách là hệ tƣ tƣởng độc tôn.
2. Không chỉ là nhân cách đa trị với sự chủ động trong việc vận động
xuất nhập trong tƣ tƣởng tam giáo, ở phƣơng diện khác, ông còn là một thi
nhân – một hiện tƣợng thơ độc đáo. Các trƣớc tác của ông còn lại đến nay rất
điển hình cho sự giao thoa giữa dòng văn học Phật giáo và dòng văn học Nho
giáo. Từ một điển hình về sự giao thoa giữa trí thức Phật giáo và trí thức Nho
giáo, ông cũng trở thành điển hình của sự giao thoa giữa tác giả Phật giáo và tác
giả nhà Nho. Sự giao thoa đó thể hiện khá rõ nết trong các trƣớc tác của ông xét
trên các phƣơng diện: quan điểm sáng tác, cảm hứng chủ đạo, hình tƣợng trung
tâm, thể loại, ngôn ngữ…Ông chính là bƣớc chuyển giao giữa hai nền văn học
Phật giáo sang Nho giáo. Ông cũng là đỉnh cao cuối cùng của dòng thơ thiền
Phật giáo thời Lý - Trần.
3. Con ngƣời đa trị trong lịch sử của Huyền Quag không chỉ đƣợc
phản ánh khá nhất quán trong các sáng tác của ông, mà nhân cách đa trị đó cũng
96
đã đƣợc hƣ cấu trở thành nhân vật văn học với những kết tinh huyền thoại, giai
thoại. Đặc biệt ông là nhân cách đa trị mở đầu cho một loạt các giai thoại cặp đôi
về sau.
4. Sau quá trình thực hiện đề tài Huyền Quang tông giả từ cuộc đời vào
tác phẩm, chúng tôi rút ra kết luận: Huyền Quang là một hiện tƣợng tƣ tƣởng,
văn hóa văn học. Hiện tƣợng Huyền Quang là kết quả của sự chuyển giao lớn
giữa hai thời đại của dân tộc diễn ra ở giai đoạn nhà Trần: Sự chuyển giao từ thời
đại Phật giáo sang thời đại Nho giáo, từ thời đại đa trị “tam giá tịnh hành” sang
thời đại đơn trị “Nho giáo độc tôn”. Hiện tƣợng Huyền Quang là hiện tƣợng độc
đáo, không mang tính phổ biến và cũng không lặp lại. Ở những giai đoạn bản lề
của lịch sử dân tộc đều có hiện tƣợng điển hình riêng của nó. Hiện tƣợng Huyền
97
Quang cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. THÍCH PHƢỚC AN (1992), Huyền Quang và con đƣờng trầm lặng
mùa thu, Tạp chí văn học, (số 4), tr. 48-52
2. ĐÀO DUY ANH (1974), Chữ Nôm ở thời Lý-Trần, Tạp chí văn học,
(số 6), tr. 44-48
3. ĐÀO DUY ANH (1975), Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
4. ĐÀO DUY ANH (1998), Việt Nam văn hóa sử cương (Tái bản), Nxb
Đồng Tháp, Đồng Tháp
5. NGUYỄN HUYỀN ANH (1972), Việt Nam danh nhân từ điển, Nhà
sách Khai Trí xuất bản, Sài Gòn
6. LẠI NGUYÊN ÂN - BÙI VĂN TRỌNG CƢỜNG (1995), Từ điển văn
học Việt Nam, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội
7. BÙI HUY BÍCH (1957), Hoàng Việt thi văn tuyển, Nxb Văn hóa, Hà
Nội
8. PHONG CHÂU, NGUYỄN VĂN PHÚC (Giới thiệu, sƣu tầm, chú
thích), (2002), Phú Việt Nam cổ và kim (Tái bản), Nxb Văn hóa - thông tin, Hà
Nội
9. NGUYỄN ĐỔNG CHI (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Tập
IV, Viện Văn học xuất bản, Hà Nội
10. NGUYỄN HUỆ CHI (Chủ biên), (1988), Thơ văn Lý-Trần, Tập II -
Quyển thƣợng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
11. MINH CHI (1991), Thiền học đời Trần, Nxb Tôn giáo, Hà Nội
12. NGUYỄN PHƢƠNG CHI (1982), Huyền Quang - nhà sƣ thi sĩ, Tạp
chí văn học, (số 3), tr. 75-81
13. PHAN HUY CHÚ (2008) Lịch triều hiến chương loại chí (Tổ phiên
dịch Viện Sử học dịch và chú giải), (Tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục, Hà
Nội
14. TRƢƠNG VĂN CHUNG (1998), Tư tưởng triết học của Thiền phái
98
Trúc Lâm đời Trần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
15. DASIETZTEIARO SUZUKI (1989), Thiền luận - Quyển Thượng
(Trúc Thiên dịch), (Tái bản), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí
Minh
16. DASIETZTEIARO SUZUKI (1989), Thiền luận - Quyển Trung (Tuệ
Sỹ dịch), (Tái bản), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
17. DASIETZTEIARO SUZUKI (1989), Thiền luận - Quyển Hạ (Tuệ Sỹ
dịch), (Tái bản), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
18. PHAN ĐẠI DOÃN (Chủ biên), (1998), Một số vấn đề Nho giáo Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
19. LÊ HỒNG DƢƠNG (Chủ biên), (1982), Địa chí Hà Bắc, Nxb Văn
hóa thông tin - Thƣ viện tỉnh Hà Bắc, Hà Bắc
20. QUANG ĐẠM (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội
21. CAO HỮU ĐÍNH (1996), Văn học sử Phật giáo. Nxb Thuận Hóa,
Thuận Hóa
22. LÊ QUÝ ĐÔN (1977), Kiến văn tiểu lục (Phạm Trọng Điềm dịch),
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
23. NHIỀU TÁC GIẢ (1978), Văn học Việt Nam thế kỷ X - nửa đầu thế
kỷ XVIII, Tập I, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội
24. NHIỀU TÁC GIẢ (1978), Thơ văn Lý – Trần, tập III, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
25. NHIỀU TÁC GIẢ (1980), Lịch sử văn học Việt Nam, Tập I, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
26. NHIỀU TÁC GIẢ (1981), Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
27. NHIỀU TÁC GIẢ (1984), Một số vấn đề lý luận về lịch sử tư tưởng
Việt Nam, Viện Triết học - Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội
28. NHIỀU TÁC GIẢ (1989), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến giữa
thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội
29. NHIỀU TÁC GIẢ (1990), Almanach người mẹ và phái đẹp, Nxb Văn
99
hóa, Hà Nội
30. NHIỀU TÁC GIẢ (1991), Việt Nam - di tích và thắng cảnh, Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng
31. NHIỀU TÁC GIẢ (1992), Thiền học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật
học Việt Nam xuất bản, Hà Nội
32. NHIỀU TÁC GIẢ (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội
33. NHIỀU TÁC GIẢ (2004), Từ điển Văn học Bộ mới, Nxb Thế giới,
Hà Nội
34. TRẦN VĂN GIÁP (Chủ biên), (1971), Lược truyện các tác gia Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
35. DƢƠNG QUẢNG HÀM (2002), Việt Nam văn học sủ yếu (Tái bản),
Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội
36. LÊ BÁ HÁN (Chủ biên), (1999), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội
37. HOÀNG XUÂN HÃN (1978), Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần - Lê:
phái thiền Trúc Lâm - Yên Tử, Tập san Khoa học xã hội (Paris), (số 5), tr. 1-62
38. NGUYỄN HÙNG HẬU (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt
Nam, Tập I, Từ khởi nguyên đến hết thế kỷ XIV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
39. ĐỔ ĐỨC HIỂU (Chủ biên), (1983), Từ điển văn học, Tập I, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
40. NGUYỄN DUY HINH (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội
41. NGUYỄN DUY HINH (2007), Triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb
Văn hóa - thông tin, Hà Nội
42. PHẠM ĐÌNH HỔ (1989), Vũ trung tuỳ bút (Nguyễn Hữu Tiến dịch),
Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh
43. NGUYỄN PHẠM HÙNG (1998), Thơ Thiền Việt Nam - những vấn
đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
44. NGUYỄN PHẠM HÙNG (1996), Văn học Lý - Trần nhìn từ thể
loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội
45. TRẦN ĐÌNH HƢỢU (2001), Các bài giảng về tư tưởng phương
100
Đông, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
46. CAO XUÂN HUY (1995), Tư tưởng phương Đông - gợi những
điểm nhìn tham chiếu, Nxb Văn học, Hà Nội
47. ĐỖ VĂN HỶ (1975), Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ
thiền, Tạp chí văn học, (số 1), tr. 62-70
48. TRẦN TRỌNG KIM (2008), Nho giáo (Tái bản), Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội
49. TRẦN TRỌNG KIM (2003), Việt Nam sử lược (Tái bản), Nxb Đà
Nẵng, Đà Nẵng
50. HOÀNG CÔNG KHANH (1991), Bến nước Ngũ Bồ - Cung phi
Điểm Bích, Nxb Văn học, Hà Nội
51. VŨ NGỌC KHÁNH (Chủ biên), (1983), Từ điển văn hóa Việt Nam,
Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội
52. MINH KHÔNG (1966), Biện chứng giải thoát trong tƣ tƣởng của Huyền
Quang, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (số 1), tr. 39-42; (số 2), tr. 20-21.
53. NGUYỄN LANG (2008), Việt Nam phật giáo sử luận (Tái bản), Nxb
Văn học, Hà Nội.
54. NGÔ SĨ LIÊN (1972), Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
55. NGÔ SĨ LIÊN (1971) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
56. Tam tổ thực lục (Thích Phƣớc Sơn dịch và chú), (1995), Viện nghiên
cứu Phật học Việt Nam ấn hành, Thành phố Hồ Chí Minh
57. NGUYỄN CÔNG LÝ (2002), Văn học Phật giáo thời Lý - Trần:
diện mạo và đặc điểm, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
Phố Hồ Chí Minh
58. LÊ MINH (Chủ biên), (1995), Chân dung nữ nhà văn nghệ sĩ Việt
Nam, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội
59. NGUYỄN ĐĂNG NA (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung
đại, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội
60. NGUYỄN NHÃ (Biên soạn), (1973), Tìm hiểu các tác gia Hán-Nôm
101
Hải Hưng, Nxb Văn hóa Hải Hƣng, Hải Hƣng
61. Thơ văn Ngô Thì Nhậm (Cao Xuân Huy dịch), (1978), Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
62. THÍCH ĐỨC NGHIỆP (1995), Đạo Phật Việt Nam, Thành hội Phật
giáo Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, Thành phố Hồ Chí Minh
63. HOÀNG NGỌC PHÁCH - KIỀU THU HOẠCH (Tuyển chọn, giới
thiệu), (1988), Giai thoại văn học Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội
64. THÍCH THÔNG PHƢƠNG (2003), Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội
65. VŨ QUỲNH (1993), Tân đính Lĩnh Nam chích quái (Bùi Văn
Nguyên dịch, giới thiệu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
66. NGUYỄN HỮU SƠN (2002), Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập
anh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
67. NGUYỄN KIM SƠN (2002), Giải mã thơ Thiền từ góc độ tƣ duy
nghệ thuật, Kỷ yếu Hội thảo Khoa Văn học, Trƣờng Đại học KHXH&NV, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
68. NGUYỄN KIM SƠN (2002), Tư tưởng văn nghệ Đạo gia và ảnh
hưởng của nó tới lý luận phê bình văn học cổ trung đại (Đề tài nghiên cứu cấp
Trƣờng), Trƣờng Đại học KHXH&NV Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
69. NGUYỄN KIM SƠN (2009), Sự đan xen các khuynh hƣớng thẩm mĩ
trong thơ Huyền Quang ( nghiên cứu trƣờng hợp sáu bài thơ vịnh cúc), Nghiên
cứu văn học, (số 4), tr. 75-89
70. TRẦN ĐÌNH SỬ (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
71. BÙI DUY TÂN (1999), Giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X
đến giữa thế kỷ thứ XVIII, Đại học Huế, Huế
72. BÙI DUY TÂN (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
73. VĂN TÂN, NGUYỄN HỒNG PHONG (1963), Lịch sử văn học Việt
Nam sơ giản, Nxb Khoa học, Hà Nội
74. THÍCH THANH TỪ (1995), Thiền sư Việt Nam, Thành hội Phật giáo
102
Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, Thành phố Hồ Chí Minh
75. THÍCH MINH TUỆ (1993), Lược sử Phật giáo Việt Nam, Thành hội
Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, Thành phố Hồ Chí Minh
76. TRẦN THỊ BĂNG THANH (1973), Mấy nhà thơ phụ nữ thời đại Lý-
Trần, Tạp chí văn học, (số 2), tr. 9-16
77. TRẦN THỊ BĂNG THANH (1989), Vườn kỳ trong phủ Chúa, Nxb
Hà Nội, Hà Nội
78. TRẦN THỊ BĂNG THANH (1994), Huyền Quang và những trang đời
nhiều huyền thoại, những vần thơ nhiều hàm nghĩa, Tạp chí văn học, (số 3), tr.
26-29.
79. TRẦN THỊ BĂNG THANH (1999), Những suy nghĩ từ văn học
trung đại, Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội
80. TRẦN THỊ BĂNG THANH (2001), Huyền Quang - cuộc đời, thơ và
đạo, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành Phố Hồ Chí Minh
81. LÊ MẠNH THÁT (1984), Về tác giả bài thơ “Xuân nhật tức sự”, Tạp
chí văn học, (số 1), tr. 164-167.
82. MẬT THỂ (1944), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb Tân Việt, Hà
Nội
83. NGUYỄN Q. THẮNG - NGUYỄN BÁ THẾ (1991), Từ điển nhân
vật lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
84. TRẦN NHO THÌN (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc
nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội
85. KHỔNG ĐỨC THIÊM - NGUYỄN ĐÌNH BƢU (1994), Danh ngôn
xứ Bắc, Sở Văn hóa - thông tin và thể thao Hà Bắc xuất bản, Hà Bắc
86. NGÔ ĐỨC THỌ (Chủ biên), (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam:
1075-1919, Nxb Hà Nội, Hà Nội
87. NGÔ ĐỨC THỌ (Chủ biên), (1993), Từ điển di tích văn hóa Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
88. NGUYỄN ĐĂNG THỤC (1997), Thiền học Việt Nam, Nxb Thuận
Hóa, Huế
89. NGUYỄN TÀI THƢ (Chủ biên), (1988), Lịch sử Phật giáo Việt
103
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
90. NGUYỄN TÀI THƢ (Chủ biên), (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam,
Tập IV, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
91. Tam tổ hành trạng (1971), (Á Nam Trần Tuấn Khải dịch), Phủ Quốc
vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Sài Gòn
92. ĐOÀN THỊ THU VÂN (1994), Khảo sát một số đặc trưng nghệ
thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỷ XI - thế kỷ XIV, Luận án phó tiến sĩ Khoa
học Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ
Chí Minh
93. VŨ VĂN VINH (1999), Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Nho
giáo Việt Nam thời Trần, Luận án tiến sĩ triết học, Viện Triết học, Hà Nội
94. LÊ TRÍ VIỄN (2001), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
95. TRẦN NGỌC VƢƠNG ( 1995), Nhà nho tài tử và văn học Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
96. TRẦN NGỌC VƢƠNG (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa
nguồn chung, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
97. TRẦN NGỌC VƢƠNG (Chủ biên), (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ
X-XIX những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
98. TRẦN QUỐC VƢỢNG (1996), Xứ Bắc - Huyền Quang - thịnh vãn
104
Trần, Tạp chí Văn học, (số 8), tr. 23-36.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 1
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 1
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................. 3
6. Cấu trúc luận văn: ............................................................................................ 3
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 4
Chƣơng 1: TIỂU SỬ VÀ HÀNH TRẠNG HUYỀN QUANG QUA CÁC
NGUỒN THƢ TỊCH CỔ ..................................................................................... 4
1.1. Vấn đề tiểu sử và trước tác của Huyền Quang ............................................. 4
1.1.1. Vấn đề tiểu sử Huyền Quang ........................................................................ 4
1.1.2. Vấn đề trước tác của Huyền Quang ........................................................... 12
1.2. Lý Đạo Tái - Huyền Quang tôn giả qua các nguồn thư tịch cổ................. 14
1.2.1.Huyền Quang - Lý Đạo Tái – một trí thức nho sĩ ...................................... 14
1.2.2. Huyền Quang tôn giả - nhà Phật học lỗi lạc - đệ tam Tổ của Thiền phái
Trúc Lâm .............................................................................................................. 20
1.2.3. Huyền Quang tôn giả - hình ảnh một ẩn sĩ ................................................ 26
1.2.4. Lý Đạo Tái - Huyền Quang tôn giả - một thi nhân .................................... 30
1.3. Hành trạng Huyền Quang nhìn từ lát cắt hệ tư tưởng – một nhân cách
văn hóa đa trị của thời đại nhà Trần ................................................................. 32
Tiểu kết ................................................................................................................ 34
Chƣơng 2: NHÀ THƠ LÝ ĐẠO TÁI VÀ TÔN GIẢ HUYỀN QUANG ....... 36
2.1. Vài nét về đặc điểm các loại hình tác giả và nền văn học giai đoạn nhà
Trần ...................................................................................................................... 36
2.2. Nhà thơ Lý Đạo Tái - một hiện tượng thơ độc đáo ......................................... 39
2.2.1. Quan niệm sáng tác. ................................................................................... 39
105
2.2.2. Cảm hứng chủ đạo ..................................................................................... 41
2.2.3. Hình tượng trung tâm. ................................................................................ 54
2.2.4. Thể loại, ngôn ngữ...................................................................................... 65
2.2.4.1. Thể loại .................................................................................................... 65
2.2.4.2. Ngôn ngữ ................................................................................................. 67
2.3. Huyền Quang tôn giả - đỉnh cao cuối cùng của dòng văn học Phật giáo thời
Lý - Trần ............................................................................................................... 68
Tiểu kết ................................................................................................................ 69
Chƣơng 3: HUYỀN QUANG TÔN GIẢ - NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ
NHỮNG KẾT TINH HUYỀN THOẠI, GIAI THOẠI ................................... 71
3.1. Đặc điểm truyện thiền sư Huyền Quang ..................................................... 72
3.2. Thiền sư Huyền Quang từ Tam tổ thực lục đến thư tịch cổ, truyện cổ tích
.............................................................................................................................. 79
3.3. Huyền Quang tôn giả - từ nhân cách văn hóa đa trị trong lịch sử đến
nhân vật trong văn học với những kết tinh huyền thoại, giai thoại ................. 86
3.3.1. Cấu trúc giai thoại Huyền Quang - Điểm Bích.......................................... 87
3.3.2. Nhân cách văn hóa đa trị và sự ra đời của kiểu giai thoại cặp đôi ........... 91
Tiểu kết ................................................................................................................ 95
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 96
106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 98