ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG

ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ

CHUYỆN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ : 5.04.33

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn :

Giáo sư Lê Trí Viễn

Người thực hiện:

Nguyễn Công Danh

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 12-1997

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG

ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ

CHUYỀN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ : 5.04.33

LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn:

Giáo sư Lê Trí Viễn

Người thực hiện:

Nguyễn Công Danh

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 12-1997

MỤC LỤC

2TMỤC LỤC 2T ............................................................................................................................ 1

2TLỜI CẢM ƠN2T ....................................................................................................................... 2

2TMỞ ĐẦU2T .............................................................................................................................. 3

2T1. Lý do chọn đề tài:2T .......................................................................................................... 3

2T2. Phạm vi nghiên cứu:2T ..................................................................................................... 3

2T3. Lịch sử vấn đề:2T .............................................................................................................. 4

2T4. Nhiệm vụ nghiên cứu:2T ................................................................................................... 7

2T5. Phương pháp nghiên cứu:2T .............................................................................................. 8

2T6. Bố cục của luận án:2T ....................................................................................................... 8

2TCHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THỜI ĐẠI, CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG LIÊN QUAN ĐẾN CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ2T ................................................................................................................. 9

2T1.1 Thời Hồ Xuân Hương và số phận người phụ nữ:2T .......................................................... 9

2T1.2 Hồ Xuân Hương - một nữ thi sĩ "độc đáo vô song" một nhà thơ của phụ nữ:2T .............. 10

2T1.3 Thơ nôm truyền tụng và tập thơ "Lưu hương ký", những thi phẩm lưu truyền và tâm huyết của Hồ Xuân Hương:2T ............................................................................................. 13

2T1.3.1 Thơ nôm truyền tụng:2T ......................................................................................... 13

2T1.3.2 Tập thơ "Lưu hương ký":2T .................................................................................... 14

2TCHƯƠNG 2: CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG TRÊN BÌNH DIỆN TỰ NHIÊN2T ....... 17

2TCHƯƠNG 3: CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG TRÊN BÌNH DIỆN XÃ HỘI2T ............ 27

2TKẾT LUẬN2T ........................................................................................................................ 46

2TTÀI LIỆU THAM KHẢO2T ................................................................................................... 48

1

LỜI CẢM ƠN

Luận án này được hoàn thành với sự giúp đỡ của quý thày giáo, cô giáo và bạn bè đồng

nghiệp, đặc biệt là với sự hướng dẫn rất tận tình của Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Lê Trí

Viễn.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Văn học là nhân học. Con người vừa là đối tượng vừa là mục đích của văn học.

Nghiên cứu cái nhìn của của một. nhà thơ thông qua tác phẩm của họ bao giờ cũng là

vấn đề hết. sức được quan tâm và mang tính thời sự trong lý luận phê bình văn học. Bởi vì

thái độ đối với con người nói chung đặc biệt đối với người phụ nữ nói riêng luôn có thể là

thước đo giá trị đích thực của một tác phẩm văn học, của một tác giả. Hồ Xuân Hương và thơ

của nữ thi sĩ là một hiện tượng văn học dặc biệt đã được các nhà nghiên cứu đánh giá khác

nhau thậm chí trái ngược nhau.

Tìm hiểu, nghiên cứu cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ của một nhả

thơ nữ viết về phụ nữ trong tình hình phê bình nghiên cứu có những ý kiến trái ngược nhau

như thế quả là việc làm lý thú, hữu ích để góp phần trả lại giá trị cho thơ Hồ Xuân Hương và

vị trí của nữ sĩ trong văn đàn dân tộc như Thôn Văn đã khẳng định trong bài tựa "Thơ Hồ

Xuân Hương " do Hội Liên hiệp Phụ nữ và Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản năm 1982: "Bởi

những gì Hồ Xuân Hương để lại hiện đang và mãi mãi sẽ là những vì sao mới lạ lấp lánh đầy

sức hấp dẫn giữa bầu trời văn học của đất nước chúng ta" Điều lý thú rất có ý nghĩa nữa là

bài viết. sẽ góp thêm tiếng nói trân trọng yêu mến nhà thơ nữ nổi tiếng của dân tộc và khẳng

định, phát huy vai trò vị trí của người phụ nữ trong sự nghiệp vì tiến bộ, bình đẳng và phát

triển của phong trào phụ nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước .

2. Phạm vi nghiên cứu:

Như chúng tôi đã trình bày ở trên, bài viết này chỉ nhằm góp thêm tiếng nói trân trọng

Hồ Xuân Hương và thơ của nữ sĩ, chứ không đi vào nghiên cứu các vấn đề khác về thơ Hồ

Xuân Hương. Đó là cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ. Bởi, về quan

điểm.thái độ của Hồ Xuân nương đối với phụ nữ đã có nhiều ý kiến nhận định trái ngược

nhau nên cần tiếp tục suy nghĩ Công việc ấy quả là không mấy dễ dàng vì về nội dung đã có ý

kiến ngược nhau mà ngay danh mục thơ. văn bản thơ cũng còn là một vấn đề tồn nghi. Do

hiện tượng dân gian hóa thơ Hồ Xuân Hương và Xuân Hương hoá thơ của kẻ nào dó nên có

không ít bải thơ người này cho là của Hồ Xuân Hương, người kia cho là không phải. Đã có

công trình nghiên cứu về phân loai. xác định những loại thơ nào đích thực là của Hồ Xuân

Hương, những bài nào không, nhưng vẫn còn nhiều bàn cãi . Chúng tôi chọn cách làm là sử

dụng những bài thơ trước nay vẫn được coi là thơ nôm truyện tụng của Hồ Xuân Hươg được

in trong các cuốn:"Thơ Hồ Xuân Hương" của Giáo sư Nguyễn Lộc (Nhà xuất bản Văn học.

1982), "Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương" của nhóm biên tập do Giáo sư Lê Trí Viễn chủ biên

3

(Nhà xuất bản Nghĩa Bình và sở Giáo dục Nghĩa Bình xuất bản, 1987) và "Hồ Xuân Hương,

thơ và đời" do Lữ Huy Nguyên chịu trách nhiệm xuất bản (Nhà xuất bản Văn học, 1996). Dĩ

nhiên chúng tôi cũng chỉ sử dụng những bài thật sự liên quan đến vấn đề mà chúng tôi đang

nghiên cứu . Đồng thời chúng tôi cũng sử dụng một số bài thơ chữ nôm và chữ Hán trong

"Lưu hương ký" do Tốn Phong Thị đề lựa tháng 2 năm Giáp Tuất (tháng 3 năm 1814) để

nhìn nhận được đầy đủ hơn. Bởi nhiều cứ liệu lịch sử có được hiện nay đã khổng định " Lưu

hương ký" là của Hồ Xuân Hương .

3. Lịch sử vấn đề:

Trong hàng trăm bài viết về cuộc đời và thơ Hồ Xuân Hương, đã có nhiều bài tuy chưa

thành một chuyên đề riêng nhưng ở chỗ này chỗ khác đã đề cập về quan điểm thái độ của Hồ

Xuân Hương đối với người phụ nữ .

Đọc các bài viết ấy, chúng tôi thấy nổi lên hai loai ý kiến . Loai ỷ kiến thứ nhất là đánh

giá quan điểm thái độ của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ theo quan điểm phân tâm

học của Phrớt. Nguyễn Văn Hanh viết : "Dục tình ngày càng tăng, càng nén lại càng bồng

(1)

bột. Ngày qua tháng qua, sức dè nén dồn ép tình dục càng tăng. Vì sự cần kia càng khẩn cấp.

P1T.

Kết quả: Hồ Xuân Hương “khủng hoảng tình dục"1TP0F

Theo ông Nguyễn Văn Hanh, ở Hồ Xuân Hương và thơ của bà, dục tình chỉ phối tất cả

: tư tưởng và thơ. Ông cho rằng :"Phrớt thấy sự bất mãn về tình dục lâu ngày sẽ kết cấu ra

bệnh để thay cho sự vui thích không liễu kết. Xuân Hương không bao giờ thỏa thích dục

vọng, nàng bị dồn ép luôn luôn. Nàng bị bệnh thần kinh. Dục tình chiếm cả đầu óc, ám ảnh

(1)

1F

P1T. Cùng với cách nhìn

khao khát, sự bất mãn, dục tình được biến chuyển qua mỹ thuật thơ."1TP

nàng. Nó nhuộm thắm các tư tưởng của nàng. Bao nhiêu thơ của Xuân Hương đều biểu lộ sự

nhận ấy, Trương Tửu cũng đã vận dụng thô bạo phân tâm học để đánh giá Hồ Xuân

Hương:"Thỉên tài ấy (Hồ Xuân Hương) phát hiện ra ở ba đặt tính : Trữ tình, trào phúng, huê

nguyệt. Thơ Hồ Xuân Hương trữ tình đến ai hoài, trào phúng đến chua cay, huê nguyệt đến

dâm đãng (dâm đãng hiểu theo nghĩa khoa học chứ không theo nghĩa luân lý). Trong ba tính

(1)

ấy, cái dâm là căn bản não trạng Xuân Hương. Hai tính kia cũng nẩy nở dưới ánh sáng của

P1T.Ngay cả ông Văn Tân đã có những nhận xét rất mới mẻ về cuộc đời và thi

cái dâm ấy" 1TP2F

phẩm của nữ sĩ lại vẫn có những hạn chế đáng tiếc. Ông đã phân tích ảnh hưởng của những

câu đố "đố tục giảng thanh" vào thơ Hồ Xuân Hương. Đúng là có sự ảnh hưởng đó. Nhưng (1) Nguyễn ăn Hanh - "Hồ Xuân Hương, tác phẩm, thân thế và văn tài". Nhà in Aspar, Sài Gòn, 1937. Dân ở cuốn "Bình luận Văn học", Nhà xuất bản Tổng hợp - Khánh Hòa, 1992, trang 38 (1) Trương Tửu - Văn nghệ bình dãn Việt nam Văn hóa mới xuất bản, 1951 ở Liên khu IV. Dẫn ở cuốn Thơ Hồ Xuân Hương. Trường Đại Học Sư Phạm TP.HỒ Chí Minh ấn hành, năm 1989, trang 3.

4

ông lại cho rằng" Cái dâm và cái tục ở nông dân trong rất nhiều trường hợp chỉ là những chất

liệu dùng để cười giải trí hoặc để nhạo báng bọn phong kiến", còn"ở Hồ Xuân Hương, dâm

và tục đã đi vào ý thức tư tưởng và đã biên thành một phương tiện nghệ thuật mầu nhiệm, vì

ở Xuân Hương dâm và tục gặp một khu đất màu mỡ thuận tiện cho sự phát triển. Sự khủng

hoang tình dục luôn luôn sôi sục và trầm trọng ở con người rất mực đa tình là Xuân Hương.

Dâm và tục đã ăn sâu vào ý thức, tư tưởng của Xuân Hương, chi phôi hầu hết thi phẩm của

Xuân Hương, giúp cho Xuân Hương viết nên những vần kiệt tác, độc đáo, làm cho Xuân

Hương nhìn ra đời thấy cái gì cũng là dâm và tục, gặp bài cứ cái gì cũng có thể gán cho

(2)

những ý dâm và tục" 1TP3F

Viết như thế, ông Văn Tân cũng đã rơi vào cách đánh giá Hồ Xuân Hương dưới ảnh

hưởng của phân tâm học Phrớt. Chúng tôi thấy cần phải nhìn nhận lại khi đánh giá Hồ Xuân

Hương nhìn nhận cho đúng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Chúng Lôi đồng ý với ý

kiến của ông Nguyễn Văn Trung cho rằng : "Không thể dùng phân tâm học của Phrớt dể tìm

(3)

hiểu thơ được gán cho Hồ Xuân Hương vì đó là ngộ nhận mà các nhà phê bình đã mắc

P1T. Vì cũng theo ông Nguyễn Văn Trung : "Trong trường hợp thơ tục được gán cho Hồ

phải"1TP4F

Xuân Hương, quả thật ý thơ, bày tỏ một bất mãn vì dục tính không được thực hiện do số phận

(1)

P1T. "Ấn ức" mà ông Trung nói ở đây là

làm lẽ, góa bụa, do hoàn cảnh tập quán xã hội ngăn chặn, cấm đoán ... Nhưng sự bất mãn đó

không liên quan gì đến hiện tượng ẩn ức của Phrớ"1TP5F

cách bộc lộ vô ý thức của ước muốn bị kiềm chế, bị ngăn chặn. Chúng đã biết phân tâm học

của Phrớt là khoa học của cái vô thức tâm thần. Phrớt không cho rằng ý thức là cái cấu thành

bản chất của tâm thần mà cho rằng vô thức là cái bản chất của tâm thần quyết định cuộc sống

tâm thần, chi phối họat động của con người ở cái vô thức chứa đựng những ham muốn ,

những đòi hỏi , những nhu cầu của con người. Trong những nhu cầu này, Phrớt coi libido

(tức là bản năng tình dục) là nhu cầu quyết định nhất. Đó là những quan điểm sai lầm của

Phrớt. Nhận thức luận Mác xít đã khẳng định vai trò quyết định của tư duy , của lý trí , của ý

thức trong sáng tạo nghệ thuật cũng như trong đời sống tinh thần nói chung chúng ta cũng đã

biết tình dục là một bản năng của lòai người nhưng tình yêu của con người là một thứ tình

cảm mang tính xã hội , mang tính văn hóa hình thành trên những tình cảm nghĩa vụ . đạo đức

đẹp đẽ mà chỉ riêng con người mới có . Cho nên theo chúng tôi, chúng ta phải tránh việc vận

dụng thiên lệch phân tâm học của Phrớt để nghiên cứu , đánh giá Hồ Xuân Hương và người

phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương.

(2) Văn Tân - "Hồ Xuân Hương với các' giới phụ nữ, văn học và giáo dục"- Nhà xuất bản Sông Lô, Hà Nội, 1955, trang 27. (3) Nguyễn Văn Trung :"Lược khảo văn học III, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn 1968. trang 173. (1) Nguyễn Văn Trung :"Lược khảo văn học III, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn 1968, trang 173.

5

Loại ý kiến thứ hai là ý kiến của các nhà nghiên cứu đã sử dụng phương pháp so sánh

lịch sử để phân tích , đánh giá quan điểm của Hồ Xuân Hương về phụ nữ. Các bài viết theo

loạ ý kiến này ở những mức độ khác nhau đều đã khẳng định cái nhìn theo phương pháp ấy là

đúng đắn.

Hoa Bằng trong bài viết của mình , đã phân tích tư tưởng chống phong kiến, chống nam

(1)

quyền, chống những thành kiến khinh nữ của xã hội đương thời để tôn xứng Hồ Xuân Hương

P1T Nhà thơ Xuân Diệu từ sự cảm nhận thơ Hồ Xuân Hương với lòng

là "Nhà thơ cách mạng". 1TP6F

(2)

(3)

yêu mến và trân trọng nhà thơ nữ độc đáo của dân tộc. đã đề cao Xuân Hương là mội người

P1T, là một "thiên tài kỳ nữ"1TP8F

P1T .Cũng cần phải nói như

phụ nữ "không đàn bà và rất đàn bà"1TP7F

Đặng Thanh Lê là Xuân Diệu trong bài viết nói trên của mình đã có chỗ đề cao quá đáng

tiếng nói bản năng nhục cảm trong thơ Hồ Xuân Hương khi ông có sức vẽ ra trước mắt mọi

(4)

(4)

người cái hình ảnh "Bô cu lởm ngổm bò trên bụng" mà Xuân Diệu cho là "kỳ lạ" là "tuyệt

P1T là "vô hạn sâu sắc"1TP10F

P1T . Nhìn nhận khách quan, ông Trần Thanh Mai đã chia thơ Hồ

diệu"1TP9F

Xuân Hương ra làm ba loai : "Một loại gồm những bài có tính tư tưởng cao và có phương

pháp nghệ thuật thanh nhã, một loại gồm những bài có yếu tố tục , những yếu tố đó nhằm

mục đích yêu cầu tiến bộ đả kích một tầng lớp nào, một thói hư tật xấu nào, hoặc nói lên mội

(5)

P1T . Ông cho rằng trên mức độ này hay mức độ khác, nhân

ý chí vươn lên của con người và loạii thứ ba gồm những bài có tính khiêu gợi không lành

(5)

mạnh , những bài có yếu tố dâm"1TP11F

P1T, nhưng theo ông "nó là một hiện tượng

tố tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương là có thật"1TP12F

xã hội , không phải là một. biểu hiện bệnh thái". Như vậy, ông Trần Thanh Mai đã không né

tránh những hạn chế của thơ Hồ Xuân Hương nhưng không rơi vào phân tâm học. Giáo sư

Nguyễn Lộc đã có nhận xét rất thú vị : "Hồ Xuân Hương là một người đầu tiên đưa vào văn

học giai đoan này" cô gái bình dân lừ cốt cách cho đến hình hài "thân em vừa trắng lại vừa

tròn. Bảy nổi, ba chìm với nước non". Những cô gái ấy , đối với họ cái quí nhất là sự hồn

nhiên là sống thỏai mái , không bị ràng buộc câu thúc bởi bất cứ một thế lực nào" Hồ Xuân

Hương đề cao những người phụ nữ ấy. Đó là nhân vật trung tâm , có mặt hay dấu mặt trong

hầu hết các bài thơ của bà và nhà thơ nhìn đời cũng chính bằng đôi mắt của những người phụ

(1) Hoa bằng :"Hồ Xuân Hương nhà thơ cách mạng". Nhà xuất bản Bốn Phương Sài gòn. 1951. (2) (3) Xuân Diệu "Hô Xuân Hương - bà chúa thơ nôm" . Nhà xuất bản phổ Thông, 196. Dân ở cuốt cuốn các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Nhà xuất bản văn học 1987, trang 352 vả 373. (4) Đặng Thanh Lê "Góp thêm một tiếng, nói trong việc đánh giá thơ Hồ Xuân Hương", Tạp chí Ngliiên Cứu Văn Học số 3 - l963. (5) Trần Thanh Mai "Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương" trong cuốn luận văn học" Nhà xuất bản Tổng hợp Khánh Hòa. 1942 trang 41,42.

6

(1)

P1T . Ý kiến của giáo sư

nữ ấy, nên bao giờ bà cũng tinh tường , sắc sảo và nghịch ngợm" 1TP13F

Nguyễn Lộc gợi cho chúng tôi suy nghĩ là phải nghiên cứu cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối

với người phụ nữ bằng cái nhìn của người phụ nữ bình dân chứ không phải bằng cái nhìn của

những đấng tu mi nam tử phong kiến. Giáo sư Lê Trí Viễn đã có các luận giải sâu sắc. Theo

giáo sư , đó là thái độ trân trọng trí tuệ, tài năng, đạo đức, cả cái đẹp thể hình của chị em.

Giáo sư khẳng định : "Từ sự sống gốc nguồn ấy , Hồ Xuân Hương tiến lên đứng về phía phụ

nữ mà làm trạng sư cho lịch sử. Vui đi tất cả giáo điều phong kiến và nho giáo về người phụ

nữ. Phải nhận thức lại, phải trả lại cho phụ nữ chân giá trị của họ về mọi mặt. Không có cái gì

là nam tôn , nữ ti cả. Hất đi cái thứ bất công xã hội ấy, trở lại với cái bình đẳng trong sự

(2)

sống"1TP14F

Nhìn nhận đánh giá về quan điểm thái độ của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ

như Hoa Bằng , Xuân Diệu , Văn Tân, Trần Thanh Mai ... nhất là như giáo sư Nguyễn Lộc và

giáo sư Lê Trí Viễn là hướng rất đúng cần được tiếp tục nghiên cứu để góp phần trả lại cho

phụ nữ chân giá trị của họ về mọi mặt như giáo sư Lê Trí Viễn đã khuyến nghị. Nghiên cứu

Hồ Xuân Hương và thi phẩm của nữ sĩ nói chung và nghiên cứu cái nhìn của Hồ Xuân

Hương đối với người phụ nữ nói riêng vẫn đang là vấn đề hấp dẫn những ai yêu mến nhà thơ

nữ tài năng độc đáo của dân tộc.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Thực tiễn nghiên cứu về Hồ Xuân Hương cho chúng ta thấy rằng trong các công trình

nghiên cứu cùa mình. các nhà nghiên cứu đều đã coi Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ ,

tiếng nói trong thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói của người phụ nữ . Tuy thế, vẫn có những lời

đánh giá khác nhau , thậm chí trái ngược nhau. Do vậy, nhiệm vụ của luận án này phải lý giải

được lại sao Hồ Xuân Hương bênh vực ca ngợi bảo vệ phụ nữ và thái độ đó bắt nguồn từ đâu

? Hồ Xuân Hương đã tiếp thu những gì ở quan niệm âm dương của Dịch học, ở văn nghệ dân

gian, ở tín ngưỡng phồn thực, ở lễ thức văn hóa phồn thực của lễ hội dân gian, ở tư tưởng của

thời đại được thể hiện trong văn học đương thời và ở sự phê phán tư tưởng phong kiến Nho

giáo như thế nào khi nhìn nhận người phụ nữ trên cả hai bình diện tự nhiên và xã hội ?

Giải đáp những câu hỏi trên, chúng tôi chỉ có một ước muốn nhỏ là góp phần làm cho

mọi người tránh được cách nhìn sai lệch mà cảm nhận đúng cho lòng nhà thơ.

(1) Nguyễn Lộc "Thơ Hồ Xuân Hương" Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội Xuất bản. 1986. trang 50-51. (2) Lê Trí Viễn "Thơ Hô Xuân Hương" "Trường Đại Học sư Phạm TP. Hồ Chí Minh ấn hành 1989, trang 23.

7

5. Phương pháp nghiên cứu:

Đề tài dặt ra yêu cầu phải góp phần nhìn nhận quan điểm của Hồ Xuân Hương đối với

phụ nữ qua thơ của nữ sĩ. Do vậy, trong quá trình nghiên cứu đề tài , chúng tôi chủ yếu sử

đụng phương pháp lịch sử , sau dó tiến hành phân tích tổng hợp đưa ra những nhận định ,

đánh giá. Theo phương pháp này, chúng tôi xem xét mối liên hệ tương đồng và dị biệt giữa

các yếu tố tác động đến quan điểm tư tưởng của Hồ Xuân Hương trong đó có tư tưởng tiến bộ

của nhân dân về người phụ nữ trong văn nghệ dân gian, trong lễ hội dân gian , trong thơ văn

các tác giả cùng thời. Chúng lôi đặt Hồ Xuân Hương vào hoàn cảnh xã hội cụ thể của giai

đoan lịch sử từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX để xem xét, đó là một giai

đoạn lịch sử đầy biến động trong đó khởi nghĩa nông dân thành phong trào rộng lớn, mãnh

liệt ; quật đổ hai tập đoàn thống trị phong kiến Đàng Ngoài - Đàng Trong, dấy lên một trào

lưu nhân đạo chủ nghĩa cao quý , chống lại bao nhiêu giáo điều phong kiến và Nho giáo .

Trào lưu tư tưởng tiến bộ ấy của thời đại đã ảnh hưởng đến văn học. Chúng tôi cũng kế thừa

những ý kiến hay trong các công trình nghiên cứu của những người đi trước , những bậc thầy

của chúng tôi trước khỉ đưa ra những ý kiến khiêm tốn của mình.

6. Bố cục của luận án:

Xác định lý do chọn đề tài, phạm vi nghiên cứu. lịch sử vấn đề nhiệm vụ và phương

pháp nghiên cứu như trên, bài viết của chúng tôi được trình bày theo trình tự dưới dây :

- Phần mở đầu .

- Chương I : Nêu lên những vấn đề về thời đại . cuộc đời và tác phẩm của Hồ Xuân

Hương liên quan đến cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ.

- Chương II : Cái nhìn của Hồ Xuân Hương trên bình diện tự nhiên.

- Chương III : Cái nhìn của Hồ Xuân Hương trên bình diện xã hội.

- Phần kết luận : Những ý kiến khẳng định vấn đề và ý nghĩa , tác dụng của việc nghiên

cứu đề tài đối với cuộc sống hiện nay. Vấn đề vừa mang tính thời đại, vừa mang tính hiện đại.

8

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ THỜI ĐẠI, CUỘC ĐỜI VÀ TÁC PHẨM CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG LIÊN QUAN ĐẾN CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ

1.1 Thời Hồ Xuân Hương và số phận người phụ nữ:

Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn xếp Hồ Xuân Hương vào giai đoạn lịch sử từ

nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, giai đoạn lịch sử Lẽ mạt-Nguyễn sơ , một

giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam.

Chế độ phong kiến Việt Nam không còn hưng thịnh một thời như ở thế kỷ XV nữa mà

nó dã bước vào thời kỳ khủng hỏang trầm trọng. Giai cấp thống trị phong kiến bộc lộ bản

chất xấu xa , đồi bại và phản động của chúng. Sự tranh giành quyền lực , ngai vàng trong nội

bộ giai cấp phong kiến thống trị trở nên gay gắt . Đã có cung vua lại còn phủ chúa. Đã có vua

Lê lại còn chúa Trịnh. Chúa Trịnh cát cứ Đàng Ngoài , Chúa Nguyễn cát cứ Đàng Trong. Vì

quyền lợi ích kỷ của tập đoàn , của dòng họ, các thế lực phong kiến thống trị đã đẩy đất nước

vào cảnh chiến tranh liên miên "nồi da nấu thịt, cốt nhục tương tàn". Người dân lao dộng vốn

đã bị bóc lột , ức hiếp , khốn khổ lại càng khốn khổ , điêu đứng. Trong khi nhân dân sống đau

khổ , bọn vua chúa phong kiến ăn chơi phóng đãng. Theo "Hoàng Lê Nhất Thống Chí", tiểu

thuyết lịch sử của Ngô Gia Văn phái, Lê Hiển Tông - là một ông vua bù nhìn , suốt ngày chỉ

bày trò mua vui với đám cung nữ. Có kẻ đến tâu vua về tình cảnh nhà vua bị nhà chúa chèn

ép quá đáng, Lê Hiển Tông chỉ đáp : "Trời sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo ta hưởng cái

vui. Mất chúa cái lo về ta, ta còn vui gì ? ". Chúa Trịnh Sâm là một người "kiêu căng , xa xỉ ".

Khi mê Đặng Thị Huệ thì ăn chơi dâm đãng. Không chỉ Trịnh Sâm mà các chúa Trịnh đều

tuyển vào cung hàng trăm cung nữ và giam hãm họ trong tù ngục vàng son để phục vụ cuộc

sống dâm loạn của chúng, còn ông vua bán nước Lê Chiêu Thống thì người đương thời đã nói

"Nước Nam ta từ khi có đế vương đến nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn củi, đê hèn

đến như thế"

Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến thời Lê mạt - Nguyễn sơ đã làm cho ý thức hệ

phong kiến mà cốt lõi là thuyết "Tam cương , ngũ thường" của Nho giáo cũng nút rạn, đổ bể.

Hoàng Lê Nhất Thống Chí có thuật lại câu chuyện Lý Trần Quán , một viên quan lớn là thầy

học của Nguyễn Trang tiến cử Nguyễn Trang hộ vệ cho Đoan Nam Vương (Chúa Trịnh

Tông) trốn đi thì sau khi nhận lời Trang lại đi báo tin cho quân Tây Sơn. Quán hỏi Trang :"

Chúa là chúa chung của thiên hạ., ta lại là thầy của anh. Vua tôi là nghĩa lớn. Sao anh nỡ làm

như thế?" Trang đáp :"Quan lớn không bảo tôi trước, khiến tôi trót lầm đến gặp chúa. Nếu

chúa trốn thoát ở tay tôi , rồi nữa quân Nam đến Hỏi tội tôi , liệu quan lớn có thể biện bạch

hộ được không ? Sợ thầy chưa bằng sợ giặc , yêu chúa chưa bằng yêu thân mình. Tôi không

9

để quan lớn làm cho lầm lỡ đâu". Sách đã dẫn còn thuật lại" chuyện Nguyễn Cảnh Thước lột

áo bào của vua như sau : "Vũ Văn Nhậm ra Bắc năm 1789, Lê Chiêu Thống bỏ chạy qua

sông Như Nguyệt , vua phải nhờ viên Trấn thủ Nguyễn cảnh Thước cho đò chở qua và phải

để cho Thước mở hòm lấy 40 lạng vàng còn lại của vua. Vừa qua khỏi bến, Thước lại cho

người đuổi theo "lột chiếc áo ngự bào vua đang mặc, vua ứa nước mắt cởi chiếc áo ngự bào

trao cho chúng ..." Lý tưởng tôn quân là nguyên tắc hàng đầu của đạo đức giáo lý phong kiến

Nho giáo còn bị đổ vở như thế, còn nói gì đến "chính danh" "lễ", "nghĩa" . Đúng như Phạm

(1)

Đình Hổ đã nói : Đời suy thói tệ" "thế đạo ngày một sút kém", "danh phận lung tung", không

P1TBây giờ, nạn mua quan bán tước diễn ra

ai còn biết đâu mà phân biệt thuận với nghịch nữa"1TP15F

(2)

công nhiên. Người thường dù "bất tài, dốt nát nếu có đủ 2000 quan thì được bổ làm tri phủ ,

P1T.Chế độ phong kiến vạn ác, suy đồi ấy đã đẩy bao

nộp đủ 1000 quan được bổ làm tri huyện"1TP16F

người dân vô tội vào cuộc sống khốn cùng. Những cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp bùng

nổ mà đỉnh cao là phong trào Tây Sơn thể hiện thái độ phẫn nộ cùng cực đối với hiện thực

đen tối của chế độ phong kiến , và đòi quyền sống tự do hạnh phúc cho quần chúng nhân dân.

Tiếng nói chung ấy của thời đại đồng thời là tiếng nói chung trong văn học giai đoạn này, là

(3)

tiếng nói của nữ sĩ Hồ Xuân Hương . Vậy "Hồ Xuân Hương , người đó là ai"1TP17F

1.2 Hồ Xuân Hương - một nữ thi sĩ "độc đáo vô song"18F

(4) một nhà thơ của phụ nữ:

Không phải ngẫu nhiên mà Hoàng Trung Thông viết :

"Hồ Xuân Hương người đó là ai

Người ta nói nhiều về

Hồ Xuân Hương Nhưng người đó là ai ?

Thật mỉa mai Không ai biết rõ

Như có như không, như không như có

Nàng ở làng Quỳnh

Nàng lại ở phường Khán Xuân Mờ mờ tỏ tỏ

Khi thì nói là con Hồ Phi Diễn

Khi thì lại bảo có em là Hồ Sĩ Đống"

(1) Phạm Đình Hổ :"Vũ trung lũy bút" Nhà xuất bản Hà Nội, 1960. (2) "Hoàng Lê Nhất Thống Chi"' tập I Lời giới thiệu của lần xuất bản thử 3. trang 5. (3) Hoàng Trung Thông - thay lời tựa cuốn "Hồ Xuân Hương, từ cội nguồn vào thế tục" của Đào Thái Tôn - Nhà xuất bản Giáo dục 1995 , trang 8. (4) Nguyễn Lộc - Sách đà dẫn , trang 48.

10

Thật thế, tiểu sử cuộc đời Hồ Xuân Hương cho đến nay vẫn còn là một đề tài rất khó

khiến các nhà nghiên cứu, e phải "mòn lưng gảy bút" (chữ Phó Giáo sư Mai Quốc Liên) , bài

viết của chúng tôi không đi vào đề tài ấy mà chỉ nêu một số vấn đề xét ra có ảnh hưởng đến

tư tưởng Hồ Xuân Hương .

Thực ra, trước năm 1940, đã có nhiều người viết về tiểu sử và cuộc đời của Hồ Xuân

Hương nhưng cũng chỉ là vài nét chưa đầy đủ . Đến năm 1940, với "Việt vãn giáo khoa thư"

của Dương Quảng Hàm, chúng ta mới có một tiểu sử Hồ Xuân Hương với mấy nét cụ thể ,

ông viết : "Bà là con gái ông Hồ Phi Diễn người làng Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu , xứ

Nghệ An. Nhân ông Diễn ra dạy học ở Hải Dương lấy người thiếp ở đây sinh ra bà. Thân thế

của bả không có sách nào chép rõ. Nay ta chỉ xét thơ văn của bà mới biết được đại khái. Bà ở

về đời Lê mạt - Nguyễn sơ, cha mất sớm, mẹ cho đi học . Học giỏi thường hay lấy thơ văn

thử tài các văn nhân nho sĩ lúc bấy giờ. Có lẽ , cũng vì sự thử thách , kén chọn ấy cho nên

duyên phận long đong. Sau bà lấy lẽ một ông thủ khoa làm đến tri phủ Vĩnh Tường (nay

thuộc tỉnh Vĩnh Phú) nhưng được ít lâu sau vì gia cảnh lại phải lấy người cai tổng tục đanh là

Cóc. Không bao lâu ông Tổng Cóc cũng chết. Từ bấy giờ hình như bà chán nổi số phận hẩm

hiu nên thường đi chơi các nơi thắng cảnh và ngâm vịnh thơ ca để khuây khỏa nỗi buồn. Một

lần hình như bà cũng muốn đi tu, nhưng một người tài tình như bà không thể giam mình

trong chốn am thanh cảnh vắng nên bà lại thôi". Từ đó người ta chỉ lắp lại chữ không có ý

kiến nào khác. Mãi đến sau 1954, từ Văn Tân, Trần Thanh Mại đến Hồ Tuấn Niêm mới có

những phát hiện mới. Duy có một lời khẳng định của Lê Dư là người chồng của Xuân Hương

là tham hiệp An Quảng chưa ai để ý. Gần đây, sau Hoàng Xuân Hãn, cuốn "Thơ Hồ Xuân

Hương. Từ cội nguồn vào thế tục" của Đào Thái Tôn (Nhà xuất bản giáo dục 1995) đã nói rõ

thêm về tiểu sử Hồ Xuân Hương như sau : "Hồ Xuân Hương là con Hồ Sĩ Danh (1706-1783)

em cùng cha với Hồ Sĩ Đống (1738-1786) nguyên quán làng Quỳnh Đôi. huyện Quỳnh Lưu

tỉnh Nghệ An, Hồ Sĩ Danh đậu Hương Cống (cử nhân) năm 1732. Tuy không ra làm quan

nhưng vì có con làm quan to nên ông đã được phong tặng chức Hàn lâm thừa chỉ và hàm

Thái bảo. Kết hợp nguồn giai thoại và thư tịch, chúng ta có thể ứơc đoán mà không sợ lầm

lẫn rằng : bà mẹ sinh ra Hồ Xuân Hương người họ Hà vốn là một cô gái xứ Bắc chỉ làm hầu

thiếp của Hồ Sĩ Danh. Khi ông này mất, Hồ Xuân Hương còn quá nhỏ. Hai năm sau, Hồ Sĩ

Đống cũng mất, không còn nơi nương tựa, Hồ Xuân Hương được mẹ đưa ra đất Thăng Long.

Từ đấy hai mẹ con Cư ngụ2 tại phường Khán Xuân,huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội

bây giờ. Tại đây Hồ Xuân Hương được mẹ cho học hành, sau đó lại dời nhà về thôn Tiên Thị,

tổng Tiên Túc, Huyện Thọ xương, nay là phố Lý Quốc Sư-Hà Nội, Hồ Xuân Hương có một

11

ngôi nhà riêng bên Hồ Tây dặt tên là cổ Nguyệt đường (chữ cổ ghép với chữ Nguyệt thành

chữ Hồ)

Cổ Nguyệt đường có lẽ là phòng văn hay nơi ngồi dạy học của bà. Song chắc chắn đó

là nơi đã diễn ra các cuộc bình thơ thù tiếp bạn bè .

"Lưu hương ký", một tập thơ gan ruột của Hồ Xuân Hương, sẽ cho ta biết lại cổ

Nguyệt đường- ngoài khách văn chương là ông cần Chánh học sĩ Nguyễn hầu tức nhà thơ

Nguyễn Du nổi tiếng, tác giả Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương còn thù tiếp nhiều bạn văn nhân

khác nữa. Đó là Mai Sơn phủ, Tốn Phong Thị, Thạch Đình, Cư Đình, Chi Hiên, Thanh Liên,

ông Hiệp Trấn Sơn, Nam thượng Trần Ngọc Quán, Hiệp Trấn Sơn Nam hạ Trần Quang

Tỉnh...

Hầu hết những người này đều để lại dấu vết trong các bài thơ xướng họa của Hồ Xuân

Hương trong "Lưu hương ký"

Theo chúng tôi, lý giải để xác định Hồ Xuân Hương là con của Hồ Sĩ Danh là đáng tin

cậy hơn. Trước Đào Thái Tôn, ông Văn Tân và ông Trần Thanh Mại trong các bài viết của

mình cũng đã xác định Hồ Xuân Hương là con của ông Hồ Sĩ Danh. Còn ông Dương Quảng

Hàm cho Hồ Xuân Hương là con của ông Hồ Phỉ Diễn thì chúng tôi thấy còn đáng nghi vì chỉ

trông vào trí nhớ của người ở nơi thôn dã chứ không dựa vào tư liệu nào.

Ngay năm sinh, ngày mất của Hồ Xuân Hương cho đến bấy giờ cũng chưa được xác

định. Ông Trần Thanh Mại trong bài " Trở lại vấn dề Hồ Xuân Hương" ( Tạp chí Văn học,

tháng 17/06/1964) đã dựa vào năm sinh, năm mất của Hồ Sĩ Danh (1906-1983) để đoan năm

sinh của Hồ Xuân Hương là vào khoảng 1755-1760 '. Ngày mất của Hồ Xuân Hương cũng

chỉ biết chắc là trước năm 1842 còn cụ thể năm nào thì không rõ. Vì cũng năm 1842, Tùng

Thiện vưởng Miên Thẩm (em trai của vua Thiệu Trị ) hộ giá Thiệu Trị ra Bắc, khỉ đi qua mộ

Hồ Xuân Hương, có làm bài thơ "Long Biên trúc chi tự", trong đó có hai câu :

Mạc hướng Xuân Hương phần thượng quá

Tuyền đài do hận thác khiên ti

Nghĩa là: Chớ dẫm lên mộ Xuân Hương, dưới suối vàng nàng còn ôm hận rút nhầm tơ (

duyên)

Ở tác phẩm "Xuân đường đàm thoại" viết năm 1869 có chép lại một câu chuyện trong

đó có nói tới một người tên là Xuân Hương làm nghề kỹ nữ vừa mới chết để lại xúc cảm khác

nhau cho người đời. Chưa có cơ sở nào để nói rằng Xuân Hương này với Hồ Xuân Hương là

một .

12

Chính vì những chi tiết nói trên mà chúng ta thấy ở cuộc đời Hồ Xuân Hương có cái gì

đó mang tính huyền thoại : " mờ mờ tỏ tỏ, như có như không, như không như có". Tuy vậy,

đến nay, dựa vào các tư liệu mà chúng ta có được, chúng ta thấy có một Hồ Xuân Hương

thật, một phụ nữ xuất thân trong gia đình phong kiến có học, hay thơ, tài hoa, không thuận

buồm xuôi gió trong tình duyên, long đong trong đường đời với thân phận phụ nữ " bảy nổi

ba chìm", "hẩm hiu", nhưng không cam chịu,không an phận. Hồ Xuân Hương luôn muốn hất

tung một cái gì đó đang đè nặng, trói buộc quyền sống tự do,quyền được hưởng hạnh phúc

của phụ nữ . Hồ Xuân Hương làm thơ chữ nôm và chữ Hán để "tự tình", để bênh vực người

phụ nữ. Hồ Xuân Hương là nhà thơ của phụ nữ .

1.3 Thơ nôm truyền tụng và tập thơ "Lưu hương ký", những thi phẩm lưu truyền và tâm huyết của Hồ Xuân Hương:

1.3.1 Thơ nôm truyền tụng:

Lần đầu tiên, thơ Hồ Xuân Hương được sưu tập, xuất bản bằng chữ quốc ngữ là tập

"Hồ Xuân Hương thi tập" (Nhà xuất bản Xuân Lan, Hà Nội, 1913). Phải sưu tập thơ nôm

truyền tụng vì như Đào Thái Tôn, người có công nghiên cứu văn bản thơ Hồ Xuân Hương dã

nêu ý kiến : "Trong một thời gian rất dài, thơ Hồ Xuân Hương chỉ tồn tại trong ký ức của mọi

người và lưu hành bằng con đường truyền miệng giống như phương thức lưu hành của văn

(1)

P1T. Gần dây nhất, Nhà xuất bản Văn học xuất

học dân gian. Cho nên không nghi ngờ gì cả, thơ Hồ Xuân Hương hoặc nhiều hoặc ít đã bị

"nhuận sắc" thêm bớt, mô phỏng, bắt chước..."1TP19F

bản tập - "Thơ Hồ Xuân Hương" -do Giáo sư Nguyễn Lộc viết lời giới thiệu vào năm 1982 và

tập "Hồ Xuân Hương- thơ và đời" do Lữ Huy Nguyên viết lời giới thiệu 1996 .

Ở hai tập sách này, số bài thơ nôm được tuyển chọn và giới thiệu của Nhà xuất bản Văn

học và của cả hai tác giả đều được coi là của Hồ Xuân Hương, kể cả số bài thơ nôm mà ở

cuốn "Thơ Hồ Xuân Hương" do giáo sư Nguyễn Lộc đưa vào phần phụ lục. Chỉ khác một

cho là bài " Qua sông phụ sóng" không thấy đưa vào trong lần xuất bản năm 1996 ở cuốn

"Hồ Xuân Hương-thơ và đời". Chưa rõ nguyên nhân. Phải chăng bài thơ này có một số từ tục,

thô lỗ, nghỉ không phải của Hồ Xuân Hương vì Hồ Xuân Hương không dùng từ " tục" đến

như thế trong thơ. Chúng tôi nghỉ có lẽ bài này không phải của Hồ Xuân Hương. Vì khi sử

dụng yếu tố tục để chế giễu, đả kích một đối tượng nào đó, Hồ Xuân Hương Sử dụng thủ

pháp dùng từ nói lái hoặc dùng "nghĩa ngầm" chứ không đùng từ thô tục, trần trụi như trong

bài "Qua sông phụ sóng". Như chúng tôi đã xác định, ở bài viết này chúng tôi không bàn về

văn bản thơ mà chỉ sử dụng những bài thơ mà Nhà xuất bản Văn học xác nhận là của Hồ

(1) Đào Thái Tôn - Thơ Hồ Xuân Hương - Từ cội nguồn vào thế tục", Nhà xuất bản Giáo dục . 1995, trang 31.

13

Xuân Hương để nghiên cứu vấn đề mà bài viết đặt ra. Chúng tôi thiển nghĩ Nhà xuất bản Văn

học đã có cần nhắc với chức năng của mình trong việc xác đinh và tuyến thơ của Hồ Xuân

Hương .

1.3.2 Tập thơ "Lưu hương ký":

(1)

Tập thơ "Lưu hương ký" của Hồ Xuân Hương do Nham Giác Phu Tốn Phong Thị viết

P1T .Cụ

lời tựa năm 1814, từng được ông Trần Thanh Mại giới thiệu trên mặt báo năm 19641TP20F

Nguyễn Văn Tú, cử nhân Hán học, người xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường tỉnh Nam

Định đã cung cấp cho ông Trân Thanh Mại. Ở tờ đầu có đề rõ : "Lưu hương ký,Hoan Trung,

cổ Nguyệt đường Xuân Hương nữ sĩ tập". Sau khi "Lưu hương ký" được phát hiện,giữa thơ

nôm truyền tụng được coi là của Hồ Xuân Hương và " Lưu hương ký là của Hồ Xuân Hương

có những ý tranh luận. Hai phần thơ này có cùng là một tác gia là Hồ Xuân Hương ? Vì nếu

dựa vào phong cách nhà thơ để phân loại thì quả thật có sự khác nhau. Do vậy, chưa biết lấy

phần thơ nào làm "hệ quy chiếu" cho phần thơ nào. Vấn đề này là một đề tài lý thú mà Giáo

sư Nguyễn Lộc và nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn đã nêu lên. ở đây, chúng tôi coi "Lưu

hương ký" là của Hồ Xuân Hương để sử dụng vì rõ ràng "Lưu hương ký" đã được nhiều tư

liệu khẳng dinh. Hầu hết các bài thơ trong tập thơ này là thơ xướng họa. thù tạc, phần lớn Hồ

Xuân Hương làm để tặng bạn thơ của mình như : Tốn Phong Thị, Mai Sơn Phủ, Hiệp trấn

Sơn Nam thượng- họ Trần, đặc biệt là cần chánh học sĩ Nguyễn hầu ở Tiên Điền (tức nhà thơ

Nguyễn Du tác giả Truyện Kiều). Đây là phần thơ trữ tình biểu hiện những tình cảm đẹp của

Hồ Xuân Hương trong tình bạn tình yêu, vẻ dẹp mà nữ sĩ trân trọng, ngợi ca. Nghiên cứu

phần thơ này, nói như Đào Thái Tôn là "cho ta hình dung rõ nét hơn về phẩm cách cuộc đời

nữ sĩ" .

Con người ấy quả có một cuộc đời nhiều nét ngoài bình thường. Khi nói đến thời dại có

kết lại là tiếng nói vang lên suốt mấy mươi năm oanh liệt và đau thương là tiếng phẫn nộ và

đấu tranh của quần chúng bé nhỏ đã đứng lên khẳng định vai trò của mình trước lịch sử.

Đứng lên bằng gươm dáo là để đòi lấy cơm áo và công lý, tự do. Đói khổ và ràng buộc là

không sao chịu nổi. Phải đòi lấy quyền được sống cả vật chất lẫn linh thần. Đi đầu trong đấu

tranh với bè lũ thống trị thối nát của Lê Trịnh ở Đàng Ngoai và chúa Nguyễn ở Đàng Trong

trước hết là những anh hùng áo vải từ Nguyễn Hữu cầu đến Nguyễn Huệ. Nhưng bên cạnh,

lịch sử còn ghi không ít lên tuổi phụ nữ tiếng tâm lừng lẫy. Trên chiến trường là những Bùi

Thị Xuân , vợ ba Cai Vàng , nữ tướng người dân tộc chỉ huy đoàn voi chiến Tây Sơn. Trên

văn đàn là những Đoàn Thị Điểm , Ngọc Hân , Hồ Xuân Hương, trước dó là Phạm Lam Anh

(1) Trần Thanh Mai - "Bản Lưu hương ký và lai lịch phát hiện nó". Tạp chí Văn học, số 11.1964

14

, về sau là Nguyễn Thị Hinh (xưa nay quen gọi là Bà Huyện Thanh Quan) ... ở lĩnh vực tiết

liệt là Phan Thị Thuấn, Trương Quỳnh Như ... chắc không phải ngẫu nhiên mà nhiều phụ nữ

anh hùng và tài danh. nghĩa khí như thế lại có mặt vào những thập kỷ này'. Không có lẽ nào

khác ngoài tình trạng họ là tầng lớp bị áp bức nặng nề nhất, lâu đời nhất , cả bị bóc lột từ lao

động đến thể xác một cách thê thảm , tàn ác nhất , bị trói buộc bới đủ thứ xiềng xích của lễ

giáo. Và đến thời này, sự tình đã tới cùng cực và bùng nổ.

Hồ Xuân Hương coi như là một hiện tượng khá tiêu biểu cho sự bùng nổ ấy. Trong xã

hội khi thực trạng đời sống bị hãm vào mâu thuần gay gắt không cách gì điều hòa được giữa

tầng lớp thống trị với quần chúng nhân dân thì từ trong quần chúng ấy sẽ có người nhạy cảm

nhất hành động chống lại. xã hội sẽ cho họ là con người "nổi loạn" , và nếu kẻ ấy là nhà văn

thì lịch sử vãn học cũng gọi họ là một tâm hồn "nổi loạn". Hiểu như vậy. nữ" sĩ họ Hồ e cũng

là mội trái tim đồng điệu.

Cuộc dời còn nhiều sương mù bao phủ như của nữ sĩ đang còn thiếu cân bằng lắm chỗ.

Tiếng là con danh giá khoa hoạn nhưng là phận con bậc thiếp , hầu, khi cảnh gia đình sa sút

ắt mẹ con phải bồng bế nhau ra đi sống cuộc đời lỡ nọ, lỡ kia, hụt hẩng, khó bình thường.

Trong lời tựa của mình , Tốn Phong khi nhắc đến điểm tung tích Xuân Hương nghe có giọng

vừa kính nể vừa e ngại, bới cớ khi nhắc tới không ích gì mà có thể gợi lên những điều không

vui. Hại thay, Xuân Hương lại thông minh , sắc sảo hơn người, có tài lớn. Đặc biệt có bản

lĩnh vượt xa bạn khăn yếm. Truyền là Xuân Hương được học ít vì mẹ nghèo, nhưng sức uyên

thâm chữ Hán thì riêng một vài điển tích trong Liêu Trai Xuân Hương dùng rất đắt trong thơ

chữ Hán đủ làm bằng chứng. Sống một mình với mẹ già, chưa chồng con gì mà nhà đón đến

hàng loạt bạn thơ, bạn tình mà toan là trí thức bậc cao và quan lo cả, đã là lạ. Lại coi mình

ngang hàng với họ , ngang vai chữ nghĩa, thơ phú, có khi còn sắc sảo hơn họ, nhưng trong

chiều sâu và là thực tế đau xót của nữ nhi thì dù sao cũng không trốn dược phận gái và chưa

chổng của mình. nên vẫn có gì đó mất cân bằng trong tư cách, trong tâm hồn khiến vui cười

bên ngoài mà buồn bên trong. Nếu kể đến chuyện duyên nợ chồng con, tin một điều chắc

chắn nhất là Xuân Hương lấy lẽ Trần Phúc Hiển tham hiệp An Quảng, sống hạnh phúc với

nhau được vài năm thì chồng bị tử hình vì một tội chẳng sạch sẽ gì , thực tế đó quá ư phủ

phàng, khiến tâm hồn Xuân Hương không đến điên loạn là may, còn hụt hẩng , chới với rồi

lập lại được thăng bằng để sống được thật không dễ gì.

Phận số như vậy nhà thơ làm sao không thương mình và nhìn quanh chị em , làm sao

không thương cho tất cả. Làm thơ cho mình và làm thơ cho chị em rất ân tình là rõ. 40 bài

"thơ Hồ Xuân Hương" của giáo sư Nguyễn Lộc (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1987) có đến

15

22 bài thơ nói về phụ nữ. Còn "Lưu hương ký" thì toàn bộ là một tập thơ tình yêu. là mọi

nỗi lòng của tác giả trong trường tình. Như vậy nữ sĩ là nhà thơ của phụ nữ là thực tế. Hai

mươi hai bài ấy chưa bao trùm mọi tình cảm chị em từng gặp phải trong đời nhưng cũng

không ít những cảnh ngộ đáng thương. Có điểm vui và tinh nghịch bởi người thợ vẽ vô tình,

có điệu dở dang nên hóa dũng cảm thách thức , có nỗi đau mất mát, có lời khuyên vợ chồng

đứt gãy, có nhìn đá thành người có cô đơn khuya khoắt trốnq canh dờn, có lời than số phận

bập bềnh, có nỗi trống vắng sau cuộc vui xuân ... Đâu đâu cũng tấm lòng chia sẽ , đằm thám ,

nhân hậu. Mội đằng thương thì lại một đằng ghét. Ghét bọn giả đạo đức dù là quân tử. sư hay

quan.

Đó là lời nói về phụ nữ. Còn 18 bài thơ kia là những gì ? toàn là cảnh thiên nhiên, vật

thiên nhiên , vật dùng trong nhà. Nhưng sao lại ghép vào đấy một hình ảnh ngầm rất kỳ lạ,

khiến người đọc liên tưởng lôi thôi đến này nọ. Lại dùng một ngôn ngữ còn kỳ lạ hơn. Tất cả

điều như bất bình thường các nhà nghiên cứu trái ý nhau là chỗ này, đồng thanh ca tụng tài

nghệ dùng tiếng việt cũng ở đây. Có kẻ muốn thấy một cái gì quá mức thì lại lạc đường. Phải

chăng ở đây còn có một sự mất cân bằng ở một dạng khác ? Và đó là một trạng thái "bệnh

hậu" sau "trận đau" thập tử nhất sinh cho đời mình. trận đau không bao giờ lành được.

Có phải mấy điều trên đây rút ra từ thời đại , từ cuộc đời. từ thơ của Xuân Hương là

"phẩm cách cuộc đời" nữ sĩ, cuộc đời một nhà thơ phụ nữ "độc đáo vô song" ?.

16

CHƯƠNG 2: CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG TRÊN BÌNH DIỆN TỰ NHIÊN

Đối với phụ nữ, Hồ Xuân Hương có một cái nhìn riêng, không giống ai. Cái nhìn ấy bắt

nguồn từ thời đại nhà thơ sống và từ cuộc đời mình, như trên kia đã nói qua. Về tính chất, đó

là cái nhìn nhân đạo chủ nghĩa.

Chủ nghĩa Mác Lênin coi con người "không chỉ là một sinh thế tự nhiên mà còn là một

sinh thể tự nhiên có tính người, tức là tồn lại cho chính nó". Do dó, con người "phải biểu lộ

và khẳng định như là một sinh thể đặc chủng trong tồn tại của nó và trong tri thức của nó"

Trường Chinh cũng viết. : "Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chủ nghĩa phấn đấu vì tự do, hạnh

phúc của con người, tin ở phẩm chất và lý trí của con người, tạo mọi điều kiện cho con người

(1)

phát triển tự do và tòan diện . làm cho con người thực sự làm chủ vận mệnh của mình và làm

P1T. Cũng nói theo sách ấy và hiểu một cách dơn giản thì "trong từng hình thái

chủ tự nhiên" 1TP21F

(2)

P1T. Hiểu như vậy thì con người vừa

xã hội, bất kỳ cái gì tôn trọng, tin tưởng, ca ngợi, đề cao , bảo vệ, phát huy, phát triển con

người , cái đó là nhân đạo , còn ngược lại là vô nhân đạo 1TP22F

là sinh thể tự nhiên đồng thời là một sinh thể xã hội. cho nên , có thể xem xét cái nhìn nhân

đạo chủ nghĩa ở hai bình diện tự nhiên và bình diện xã hội .

Cái nhìn trên bình diện tự nhiên đối với phụ nữ sẽ được xem xét trong mối quan hệ âm

dương , trong tín ngưỡng phồn thực và trong sự sống nói chung.

Kinh Dịch xây dựng trên quan niệm âm dương. Quan niệm âm dương của người Trung

Hoa làm cơ sở cho triết học cổ Trung Hoa, có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống dân tộc Trung

Hoa hàng mấy nghìn năm nay. Trong sự giao lưu văn hóa, do hoàn cảnh địa lý lịch sử, quan

niệm âm dương của Dịch học cũng đã ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của nước ta.

Theo Nguyễn Hiến Lê trong cuốn "Kinh Dịch đạo của người quân tử" (Nhà xuất bản

Văn học, 1994) thì các nhà nguyên ngữ học Trung Hoa đã cho biết chữ Dương và chữ. Âm có

hình thức và nghĩa mới đầu như sau :

Chữ Dương ban đầu :

Chữ Dương bây giờ :

Bên trái là sườn núi, bên phải là mặt trời lên khỏi chân trời dưới là những tia nắng.

Chữ Dương chỉ ánh nắng, chỉ phía sáng.

Chữ Âm ban đầu :

(1) Mác Anghcn, trích lác phẩm thời kỳ đầu trang 550 -598. Dẫn theo cuốn Đặc điểm có tính qui luật của lịch sử văn học Việt Nam - Lê Trí viên Đại Học sư Phạm Xuất bản 1984. trang 185. (2) Dẫn theo sách Đặc điểm có tính qui luật ... trang 185.

17

Chữ Âm bây giờ :

Bên trái là sưởi núi, bên phải phía trên là nóc nhà phía dưới là đám mây

Chữ Âm chỉ phía mặt trời bị che khuất không có ánh sáng, chỉ phía tối.

Phía có ánh sáng thì ấm áp, cây cối tươi tốt. phía không có ánh nắng thì lạnh lẽo, cây

cối không phát triển, do đó âm dương từ cái nghĩa tối sáng chuyển qua nghĩa lạnh nóng, đêm

ngày, mùa đông mùa hè, mặt trăng mặt trời, chết sống, yến mạnh. mềm cứng, giống cái giống

đực ...

Theo quan niệm trong kinh Dịch, nguồn gốc của vũ trụ là Thái cực. Thái cực có nghĩa

là lớn hơn hết, cao hơn hết, trước hơn hết. Nó là cái khí Liên nhiên, một thứ linh căn bất sinh

bất diệt, huyền diệu, trong đó tiềm phục hai nguyên tố ngược nhau về tính chất : Âm và

Dương. Đây là quan niệm tiến bộ so với quan niệm cho rằng Thượng Đế sinh ra và làm chủ

vũ trụ. Như vậy Âm Dương được thống nhất mới thành vũ trụ. Đó cũng là nhất nguyên luận

trong quan niệm về vũ trụ của Dịch. Âm Dương tuy tương phản nhưng cũng tương ứng,

tương cầu. tương giao. có tương giao mới có tương thôi. tương ma, Lương thế để tương thành

: có cái này thì mới có cái kia, có cái này thì cái kia mới làm tròn nhiệm vụ của nó trong vũ

trụ, trong đó sự tương giao là quan trọng nhất : giống đực giống cái cả trời đất nữa (vì trời đất

cũng là âm dương) có giao cảm với nhau rồi mới có vạn vật, vạn vật mới sinh nở biến hóa

được . Cho nên không thể có dương mà không có âm, không thể có sống mà không có chết,

có giống đực mà không có giống cái . Phải có đủ cả hai thì mới thành một hiện tượng được,

mới thành vũ trụ được.

Một trong những vấn đề mà Dịch quan tâm tới nhất. là vấn đề nam nữ, vợ chồng. Vì nó

là "thíên địa chi đại nghĩa " có âm dương, nam nữ, mới có vợ chồng, gia đình và xã hội. Tìm

hiểu thơ Hồ Xuân Hương, chúng ta thấy nữ sĩ có tiếp nhận quan niệm âm dương, nhìn nhận

phụ nữ trong quan niệm âm dương của Dịch học.

Chúng ta có thể cảm nhận một điều là nữ sĩ thường nói về người phụ nữ trong quan hệ

với người đàn ông ở các bình diện khác nhau. Trước hết là thơ nữ sĩ nói về chuyện giao phối

giữa nam giới với phụ nữ . Nói trực tiếp là nói "Năm thì mười họa hay chăng chớ. Một tháng

đôi lần có cũng không" nói gián tiếp là nói bằng các "nghĩa ngầm" qua các bài thơ nói về sự

việc : Đánh đu, Dệt cửu, Trống thưng, Đá ông Chồng bà Chồng ... Chính ở điểm này mà

có một số người cho rằng Hồ Xuân Hương "khủng hoang tình dục". Họ cho rằng Hồ Xuân

Hương trẻ đẹp. đầy sức sống nhưng tình duyên trác trở, thèm khát nhục dục, mà viết nên

những bài thơ dâm ấy, kỳ thực không phải như thế. Không có sự tương giao giữa âm và

dương.

18

không có sự phối hợp giữa giống cái và giống đực, thì sự sống không sinh sôi nảy nở

được. Bởi sự sống bắt đầu từ sự phối hợp giữa âm và dương, giữa người phụ nữ với người

đàn ông.

Bài "Đánh đu" trước đã có trong Hồng Đức quốc âm thi tập, nhưng bài đó khác hẳn ,

nó có tính chất nghỉ lễ, còn ở Xuân Hương đó là một bức tranh chơi xuân , trong đó đánh đu

là một sinh hoạt vừa có ý nghĩa thể thao vừa có ý nghĩa thẩm mĩ, vui và đẹp. Các câu 3,4,5,6

đều miêu tả cảnh cặp trai gái đang nhún nhảy bay bổng trên không nhịp nhàng, từ da thịt , tư

thế của "hai hàng chân ngọc duỗi song song" đến màu sắc tung bay của "bốn mảnh quần

hồng" điểm thêm một cách vừa hiện thực vừa tượng trưng các nét mỹ thuật của "trai du gối

hạc khom khom cật" và "gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng" thành một hoạt cảnh trẻ trung ,

vui tươi , khỏe mạnh, tràn đầy sức xuân , tràn đầy sức sống. Tác giả bất ngờ gởi vào đó một

chút gợi ý cho ta liên tưởng đến động tác tính giao (có khỉ đây chỉ là sự gán ghép của độc giả

phàm tục chứ người làm thơ, thêu dệt một bức gấm như vậy liệu có ý gì quanh co ?) nhưng

khách quan chữ nghĩa cứ như thôi miên, không liên tưởng vậy thì không được.

"Dệt cửi" thì hơi lõa lồ, thô tục vì hình tượng hơi trơ trụi : "hai chân đạp xuống, một

suối đâm ngang" nghe gần sự thật quá. "Trống thủng" cũng vậy, khó lòng mà thanh tao

được.

"Đá ông chồng bà chồng" đã hay lại quí. Đá thành người và người đang yêu nhau ở

đỉnh điểm. Mà lại là ông và bà, những người già. Tưởng tượng của thi nhân thật đẹp và bao

dung biết bao ! Bên trên là "đầu bạc" nhưng bên dưới vẫn "má hồng" , vẫn trẻ trung. Cho nên

"Gan nghĩa giải ra" và "Khối tình co mãi" vẫn là chuyện đá vàng muôn thuở không kể tuổi

tác vì tình yêu không có tuổi. Và câu kết là một lời tuyên bố cho muôn thế hệ tuổi trẻ : cứ yêu

nhau đi, ai nở trách. Lời thơ thanh tao, trong suốt chỉ trừ vài chữ "dưới và "trên".

Cái nhìn đối với phụ nữ trong mối quan hệ âm dương ấy đưa ta đến gần với tín ngưỡng

phồn thực là một tính ngưỡng thời nguyên thủy xa xưa.

Thời nguyên thủy, khỉ con người định cư bước vào giai đoan trồng trọt, chăn nuôi, nhu

cầu luôn cấp bách của cộng đồng là kết quả của trồng trọt và chăn nuôi ấy . lương thực phẩm

trông vào đó. Lần hồi kinh nghiệm tích lũy được cho thấy cây hoặc con gì , muốn được nhân

lên dể có số nhiều thì không ngoài sự phối hợp cái với đực. trống với mái. Bắt đầu từ con

người cũng vậy . Tín ngưỡng thần linh nâng việc phối hợp đực cái , trống mái ấy thành tín

ngưỡng thiêng liêng, sự thờ cúng sinh thực khí ra dời. Hơn thế , tín ngưỡng ấy còn được thực

hành trong lễ hội vừa vui chơi vừa có tính cách nghi lễ. Các cặp trai gái giao hợp nhau trên

nắp thạp Đào Thịnh ngày nay còn giữ được là vết tích hùng hồn về nghi lễ thời cộng đồng xa

19

xưa ở nước ta. Ý nghĩa của nó chẳng qua là cầu chúc, khấn vái thần linh sao cho trong trồng

trọt, chăn nuôi luôn có sự phối hợp hai giống ấy để cho con và cây được sinh sôi nảy nở ngày

càng nhiều và chẳng bao giờ ngừng.

Kỳ thực tín ngưỡng này không riêng gì ở nước ta mà có mặt khắp thế giới.

Ở Hy Lạp cổ đại có tục rước sinh thực khí trong lễ thờ cúng thần Dyonisos là vị thần

rượu nho rất dũng mãnh, người làm cho đất đai màu mỡ, đem lại cho con người niềm vui

sống và sự yêu đời. Đây là một lễ rước rất long trọng ở thành Aten. Sinh thực khí được quan

niệm là nguồn gốc sự sống, của sự sinh thành và phát triển.

Trong tư duy chất phác của người Trung Quốc xưa chữ "tổ" trong tổ tiên của Hán tự là

vẽ hình dương vật:

Sau này người ta mới thêm vào bộ thị : với ý nghĩainh thiên để thành chữ "tổ"

(1)

ngày nay1TP23F

Theo tư duy đó, dương vật là nơi xuất phát và duy trì sự sống. Nó xuất hiện ở khắp nơi,

tạo ra thứ tín ngưỡng thờ dương vật. Ở Ấn Độ (linga là hiện thân của thần Civa) và đạo thờ

Civa được phổ biến ở các nước Mỉanma, Thái Lan. Malaysia, Indonesia, Cambuchia Và

người Chăm nước ta. Từ lâu, nước ta đã có các hình thức tổ chức các lễ hội dân gian. Đặc

biệt, về sự phối hợp giữa hai giống đực cái, trống mái để cầu chúc cho sự sản xuất được sinh

sôi tăng trưởng nhanh chóng, lễ hội dân gian nước ta vẫn bảo tồn và truyền lại cổ tục mang

tính phồn thực. Ngày lễ, sự phối hợp ấy được tượng trưng bằng sự giao hòa nam nữ. Có khi

chỉ thể hiện một cách nhẹ nhàng bằng đôi con giống ấp nhau nhưng cũng có khi chọn một đôi

trai gái thanh tân cho giao hợp tượng trưng. Từ đó có trò bắt chạch trong chum. Trò ấy được

tổ chức vào ngày 6 tháng Giêng hàng năm ở làng Văn Trung (Vĩnh Tường - Vĩnh Yên).

Trong khi thi, một đôi trai gái ôm nhau. Con gái ôm lưng con trai bằng tay phải, bắt chạch

bằng tay trái nắm lấy nhũ hoa của người con gái. trong lúc bắt chạch, họ không được buông

nhau, nếu buông nhau thì thua cuộc. Tục "tắt đèn" cũng vậy.

Tục này được tổ chức rất nhiều nơi như ở lễ hội Chùa Hương, ở làng La Khê Nam

(Hoai Đức - Hà Tây), làng Ngô Xá (Võ Giàng - Bắc Ninh), xã Đông Yên (Bắc Ninh) ... Lễ

hội tiến hành thì đến một lúc nào đó đèn đột nhiên tắt hết để cho trai gái sờ sọang, đùa

nghịch với nhau, muốn làm gì thì làm. "Tục lệ này cho phép con người trở lại với tính tự

nhiên trong một thời gian ngắn dựa trên một thần tích kỳ quặc. Riêng ở xã Đan Nhiễm (Bắc

Ninh) cũng có tục "Tắt đèn" nhưng trong lúc đèn tắt trai giả làm cọp để ôm các cô gái và cắn

(1) Đinh Gia Khánh Văn hóa dân gian .Việt Nam trong bối cảnh Văn hóa Đông Nam Á. Nhà xuất bản khoa học xã hội - Hà Nội trang 172..

20

"Họ ôm nhau rất lâu đến 5-10 phút", rồi đèn lại được thắp sáng lên. Trai gái trở lại cùng nhau

nghiêm chỉnh ngồi nghe hát.

Ngoài ra, còn các cổ tục khác như rước sinh thực khí ở làng Đông Kỵ (Từ Sơn - Bắc

Ninh). Người ta rước từ đình về miếu hay từ miếu về đình hai lễ vật bằng gỗ tượng trưng cho

sinh thực khí âm - dương.

Người dẫn đầu hát :

Cái sự làm sao cái sự làm vẩy

Cái sự thế này cái sự làm sao.

Đồng thời làm những động tác đưa hai sinh thực khí vào nhau như hoạt động giao hợp

gọi là vũ điệu âm - dương.

Đặc biệt hơn cả là lễ hội múa mo ở xã Đông Sơn (Hà Tây) vào ngày 6 tháng 2 âm lịch

hàng năm. Sau khi cúng thần bằng bánh dầy, bánh cuốn xong. các chàng trai cô gái chưa có

gia đình tập trung tại đình để nghe một ca nhi một tay cầm mo cau, một tay cầm khúc tre

(tượng trưng cho sinh thực khí âm và sinh thực khí dương) vừa múa vừa hát. Hát xong, ca nhi

tung khúc tre lên. Cô gái nào cướp được khúc tre ấy thì sẽ gặp may mắn trong tình duyên và

sẽ được các thần linh che chở. Vì vậy, nếu chàng trai nào yêu thương và ái ân với cô gái đến

mang thai thì được làng thưởng tiền. Trong thời gian ba tháng, trai gái trong làng được tự do

luyến ái. Cô nào có thai được thưởng ba quan tiền. Các chàng trai cưới vợ không phải nộp

tiền cheo. Nhưng sau ba tháng, mọi tự do luyến ái phải chấm dứt, nếu cô nào có thai sau dó

phải chịu hình phạt của luật lệ.

Từ các hình thức lễ hội trên chúng ta có thể thấy rằng : trong thời gian lễ hội, một "cuộc

sống thứ hai" đã được thiết lập, trong đó cho phép có những cuộc "ngẫu hợp kỳ lạ" mà sau

dó, những đứa trẻ sinh ra được thừa nhận hợp pháp, cha mẹ những đứa trẻ này không bị "gọi

tóc bôi vôi" mà còn được thưởng tiền. ở nước ta, lễ thức: phồn thực ấy đã có cách đây 3.000

năm. Trên nắp thạp đồng Đào Thịnh, các nghệ nhân đã đúc hình bốn cặp nam nữ đang giao

cấu.

Đáng chú ý là chuyện ông Đùng bà Đà trong công đồng người Mường và người Việt. Ở

Hòa Bình hiện nay vần còn thờ sinh thực khí ông Dùng với một loạt truyện ông Đùng ngăn

sông chống hạn, săn bắn thú dữ, diệt chim ác ... ; ở xã Lạng Sơn huyện Kim Bôi, Hòa Bình

người ta thờ hòn đá rất to gọi là hòn d ... ông Đùng trong cái hang gọi là hang Đùng ... , người

ta kể rằng xưa kia ông Đùng từ trên trời rơi xuống, gặp bà Đà và hai người đưa nhau vào

hang dộng giao hợp với nhau , cuộc giao hoan làm rung chuyển trời đất sinh ra mưa to gió

21

lớn , nước từ hang đùng chảy ra tưới cho cánh đồng Mường Vang , Mường vó (Sách đã dẫn

trang 175) .

Ở nước ta không có hội cải trang như ở các nước phương Tây nhưng các làng lại tổ

chức lễ hội để vui chơi . ở đó, theo nhà nghiên cứu suất sắc nổi tiếng Bakhtin, người ta sắp

đặt "một cuộc sống trần tục, đôi khi phàm tục" , "một cuộc sống thứ hai", một cuộc sống

không có giai cấp, không có sự cấm đoan , đạo đức in tiếng , lễ giáo bịt mắt, bịt tai và con

người "sống theo qui luật của hội hè"của "tự do", vui mừng trước sự giải phóng nhất thời

khởi cái lẽ phải thống ngự của chế độ hiện hữu" để sống hết mình cho "cuộc sống thứ hai"

vừa được thiết lập. Đặc biệt, về sự luyến ái giữa nam và nữ, lễ hội dân gian vẫn còn giữ gìn

và truyền lại không ít cổ tục mang tính phồn thực, thể hiện cái quan niện của tổ tiên trong

việc nhân giống và bảo tồn theo tự nhiên, (các tục lệ này khác nhau theo từng địa phương và

xuất hiện trong các kỳ hội hè , đình đám của mùa xuân hoặc mùa thu ở mỗi xã" (sách đã dẫn,

trang 247). Có tục nhắc đến một. cách nhẹ nhàng về sự yêu đương nam nữ với những giọng

hát câu hò tỏ tình , trao duyên nhưng cũng có tục lệ táo bạo . sổ sàng, thậm chí tục tằn,

thường là do sự chắp thêm về sau với lý do không trong sáng .

Các sinh họat văn hóa phồn thực này đã để lại dấu ấn trong đời sống văn hóa của người

Việt Nam chúng ta cho tới trước Cách mạng tháng Tám. Trải qua 30 năm chiến tranh giải

phòng, các tục lệ xưa hẳn đã bớt nhiều. Còn sót lại chăng là những gì lịch sự, ý nghĩa đáng

lưu giữ.

Thời Xuân Hương, cách đây vài trăm năm, chắc các lễ nghi mang tính phồn thực hãy

còn sống trong môi trường văn hóa ấy, con người thông minh tuyệt vời ấy với trí tuệ sắc sảo

của mình, đã không bỏ qua mà tìm trong đó một khía cạnh phục vụ cho ý đồ sáng tác của

mình. Mội mặt là nhằm làm nổi lên ý nghĩa cơ bản sâu xa của việc cầu chúc có tính ma thuật

để cho sản xuất được bội thu là trở về với một quan niệm đã thành tín ngưỡng đơn giản : cái

gốc của sự sinh sôi nảy nở , cái gốc của sự sống là ở sự giao hòa của hai vật khác giống. Kinh

Dịch của Nho gia sẽ chi biết thêm hai vật khác giống ấy được qui vào hai khí âm dương. Từ

dó nhưng lễ nghi phồn thực chẳng còn có gì là tục tằn, càng chẳng có gì là dâm là tục. Ngược

lại, nó lại có gì thiêng liêng , cao quí vì nó cần cho con người có được đời sống dồi dào hơn .

tốt đẹp hơn.

Với nhận thức như thế, nhà thơ viết câu kết ở bài "Đánh đu" một cách thỏai mái:

"Chơi xuân có biết xuân chăng tá, Cọc nhổ đi rồi lổ bỏ không" ;. Có đủ "cọc" và "lổ" , tha hồ

cho người đọc liên tưởng, còn nhà thơ trước hết chỉ gợi lên nổi trống không buồn rừỉ rựi sau

khi cuộc vui đã hết, mọi người tìm vui đã đi xa, bỏ lại hiện trường trơ trội. Mà cuộc vui thì có

22

biết bao nhiêu cuộc vui và bao nhiêu thú vui, đâu chỉ có một loại vui giao hoan trai gái. Hơn

nữa, như bên trên đã nói khi sinh thực khí nam và nữ được quan niệm là vật linh, linga và

yôni, được thờ cúng với ý nghĩa đó là nhìn hình tượng thần hóa tượng trưng cho sự sinh sôi

của sự sống thì nó là mênh mông vô hạn, vô thủy vô chung. Cho nên mới cái cột to lớn như

cột đá của ông Đùng, cái lỗ thênh thang của hang Thánh Hóa. Ở kích thước ấy, nó trở thành

tầm cở tạo hóa, tầm cở vũ trụ. Tất cả mọi biểu hiện của sự sống, mọi sinh thể trong trời đất

đều từ đó mà ra cả. To như cột đá, rộng như hang Thánh Hóa cũng chưa phải đã to lớn. Còn

như cái cọc đóng vào quả mít cho mau chín, cái giếng có con cá mẹ của lũ ròng ròng, cái quạt

vua chúa "yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày" với "da còn thiếu" và "thịt vẫn thừa" ... thì nó vẫn

là hình ảnh của cái gốc của sự sống, nó vừa mở to ra vô tận cũng đúng mà rút lại nhỏ tí tẹo

cũng được. giãn ra thì vạn vật vũ trụ mà thu lại thì hạt cải, con vi trùng cũng là nó.

Tiến lên thêm một bước thì đến thái độ của Xuân Hương đối với sự sống. Đó là một

thái độ qúy trọng, yêu chuộng sự sống sâu xa, mãnh liệt, sự sống đang ở dạng tự nhiên chứ

chưa phải đã lên đến dạng tình cảm có trí tuệ làm cốt rồi. Điều này, các nhà nghiên cứu thơ

của Hồ Xuân Hương đã nói nhiều. Xuân Diệu viết :" Xuân Hương một cái gì như thui, như

đánh, "lắt lẻo cành thông cơn gió thốc" chứng không phải gió thổi ; còn sương thì Xuân

Hương muốn cho nó "đầm đìa lá liễu giọt sương gieo" tràn đầy ra chứ không phải chỉ đượm

mà thôi. cái chân của Xuân Hương cũng muốn làm cho rách thêm cái động Hương Tích,

"người quen cõi Phật chen chân xọc" ; cái tay của Xuân Hương không đụng vào cảnh vật một

cách nông cạn, mà "lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp, lách khe nước rỉ mó lam nham" ; đối với tai

Xuân Hương , các tiếng động chẳng lướt qua , mà nó sống lên có khối trong không khí , "Gió

đập cành thông khua lắc cắc, Sóng dồn mặt nước vỗ lonq bong" ; "luồng gió thông reo vỗ

(1)

phập phàm Xuân Hương nhìn sắc màu thì sắc đó kêu lên, phải xé ra, phải cao độ, phải là "cửa

P1T Cuốn nghĩ về thơ Hồ Xuân

son đỏ loét tùm bum nóc. Hòn đá xanh rì lún phún rêu .."1TP24F

Hương, Sở giáo dục Nghĩa Bình xuất bản 1987 cũng nối tiếp: "sự sống là vận động, biểu hiện

ra bên ngoai là ánh sáng, màu sắc, âm thanh, năng lượng, nhịp điệu . nói như ngày xưa là khí

tức năng lượng ở bên trong, hiện ra bên ngòai là tượng, là thần ... cho nên Xuân Hương

không chấp nhận cái ỉm lìm, cái tĩnh tại, cái bẹp dí, cái thiếu máu, cái xương xẩu cứng khô.

Xuân Hương ưa chuộng, Xuân Hương chỉ muốn thấy, chỉ muốn chấp nhận cái đầy ắp bên

trong khi tràn trào ra bên ngoài thì mãnh liệt, lực lưỡng."

Chính từ sự sống đủ cặp âm dương với nhau như một qui luật bất di dịch của trời đất

mà Xuân Hương tiếc cho các cô phụ nữ xinh đẹp là vậy, nào "như in tờ giấy trắng", nào

"nghìn năm còn mãi cái xuân xanh", "chị cũng xinh mà em cũng xinh", thế mà thiếu hẳn "cái (1) Thơ Hồ Xuân Hương Giáo trình sau đại học - Đại học sư phạm TPHCM Xuất bản , trang 97.

23

vui kia". Cái vui được có thêm cái dương để trở thành một. đôi âm dương để sinh ra sự sống.

Bởi không sinh ra được sự sống, người phụ nữ dù có đẹp có xinh đến đâu cũng uổng phí mà

thôi. Ấy là chưa nói tới sự phối hợp âm dương rồi kết hợp thành tình yêu mà chỉ nói tới sự

thiếu vắng cái dương để cái âm là các cô tố nữ trở nên những sinh thể đủ khả năng sinh ra sự

sống cho đất trời được hài hòa, không gãy lệch mất một bên, có âm mà không có dương. Lời

thơ ở hai câu kết nhẹ nhàng có pha chút hóm hỉnh "Còn thú vui kia sao chẳng vẻ, Trách

người thợ vẻ khéo vô tình" tưởng như một mĩm cười thóang qua nhưng lại vô cùng sâu sắc.

Người làm thơ tỏ ra yêu quí sự sống đã dành mà còn làm một tuyên ngôn triết lý về cái đẹp:

kiểng đẹp là phải ra hoa, cây đẹp thì phải ra trái, phụ nữ đẹp thì phải có con hay trước đó là

phải có lứa đôi không có thì như vũ trụ nghiêng đổ. Một quan niệm như vậy quả nhiên là một

tư tưởng lớn. Và tấm lòng con người nói lên điều đó có thể coi là tấm lòng tạo hóa.

Khuyên các bạn gái rủi ro mất chồng, Xuân Hương có ba bài. Bài nào nghe cũng cảm

động. Nhưng mỗi bài mỗi khác. Giọng điệu khác "Dỗ chị chàng khóc chồng" . cái tên nghe

đã lạ. Dường như có ý chê trách. Cô này "Xấu máu" nên ham hố cái gì đó, chắc là cái "đỉnh

chung", "Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung", chứ chọn kẻ vừa tầm với mình thì không đốn

nỗi. Cho nên bảo cô ấy : "Nín đi kẻo thẹn với non sông" chứ không phải thẹn với hàng xóm

láng giềng . cái thẹn như vậy là rất nặng "Bỡn bà lang khóc chồng" đúng là đùa nhưng

thường . rất nhân hậu. Đến "Khóc ông phủ Vĩnh Tường" thì đúng là than cho sự đứt gãy,

sự mất cân bằng trong cặp âm dương, vợ chồng, nên trời đất đều như nghiêng đổ theo. Thời

gian "ba sinh" đã đi mất. "Văn chương đã chôn chặt" dưới đất sân. Cái chí "hồ chữ' đã tung

bay theo gió "bốn phương" . "Tạo hóa" đã bất công, "Càn khôn" cũng từ chối đuổi xua. Lời lẽ

như vậy chẳng phải giành cho một sự mất mát bình thường mà là một sự mất mát quá lớn,

trời mất ,đất mất chứ không chỉ người mất. Đúng là một cái chết làm lệch mất cái hài hòa

giữa đất trời, cái hài hòa âm dương. Nỗi đau của người còn hóa ra là một nỗi đau bao la,

không thời hạn chứ đâu chỉ là cái tình chồng vợ trăm năm và thời gian để tan chị hai bảy

tháng. Thật là một lời than hiếm có.

Cũng ở mức độ tự nhiên, cái nhìn với phụ nữ trong mối quan hệ âm dương sẽ đưa tới

một quan niệm bình đẳng giữa nam giới và nữ giới. Nếu âm dương phối hợp thì sinh ra sự

sống, nghĩa là làm nên sự sống ắt phải có âm thì có dương , có dương thì có âm, hai bên phối

ngẫu với nhau trên bình diện ngang nhau thì mới có sự sống. do đó, âm dương hoàn toàn bình

đẳng. Tư đó chuyển lên mức độ xã hội nhất định cũng phải thế. Chỉ từ khi xã hội loài người

biến đổi từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ rồi các xã hội có giai cấp về sau mới đẻ ra bất

bình đẳng giữa nam nữ. Đặc biệt đến chế độ phong kiến , dù là phương Tây hay phương

Đông, vai trò người phụ nữ mới trở thành phụ thuộc và với Nho giáo như xã hội Việt nam

24

quan niệm tôn ti cùng bao nhiêu lễ nghĩa khác ngày càng hạ thấp vai trò của người phụ nữ.

Đến chương III chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trên bình diện xã hội.

Xuân Hương không những quí trọng thương yêu sự sống mà nhân đó còn đề cao vai trò

to lớn và không thể thiếu được của phụ nữ trong chức năng thiêng liêng là sinh ra sự sống.

Sinh ra con người là phải có đàn bà , đâu chỉ có đàn ông. Tiểu thuyết lớn Tây du ký có một

nước chỉ có phụ nữ. Chả biết nước ấy sẽ nối dõi nhau như thế nào. Nhưng chắc chắn là tác

giả đã cho thầy trò Huyền Trang tới đó để anh chàng Trư Bát Giới phình bụng như có bầu .

và vị nữ chúa ở dó mê tít vị thầy tu. nhất định tìm cách quyến rủ ngài ở lại làm chồng mình.

Thiếu một bên không tồn tại được là vậy.

Vai trò phụ nữ trong sự sinh ra sự sống còn một điều cực kỳ quan trọng nữa là phụ nữ

được tạo hóa giao cho chức năng sinh con. Người mang thai, sinh con, cây nhận phấn giống

đực , muông thú nhận tinh giống trống rồi tượng ra phôi , ra trái, ra con... trời đất đều giao

cho giống cái, nhưng tại sao lại giao cho giống cái ? Một sự thật khó chói cãi là làm nhiệm vụ

sinh nở ở phụ nữ là một việc không những nặng nề mà còn nguy hiểm. Chẳng người mẹ nào

tự kể cho con, cho chồng chuyện mong nặng đẻ đau. Dân gian thường truyền nhau bao nhiêu

lời ca, tục ngữ về điều đó. Những ông chồng thương vợ đều hiểu rõ nông nổi ấy của vợ mà

yêu thương vợ nhiều hơn. Dạy chữ hiếu cho con cũng bắt đầu bằng ơn mẹ mang nặng đẻ đau

, ấp iu bú mớn. Đó là đền bù và cũng là phần tưởng lệ. Người làm mẹ nghe được cũng mát

dạ. Nhưng đó đã là việc khác rồi.

Hãy tạm dừng lại ở mức độ tự nhiên. Việc phụ nữ mang thai và sinh đẻ không chỉ là

mang nặng đẻ đau , cũng không chỉ có nguy hiểm chết người khỉ đẻ ngược khi băng huyết mà

có khi còn là một tai họa. Đó là lúc dư luận và hành động của xã hội bất nhân giáng vào thân

phận người phụ nữ và đứa con đang ở trong bụng mẹ. Đó là trường hợp những người con gái

bị xã hội ném cho cái danh "không chồng mà chửa" với không thiếu thứ đối xử độc ác nào.

Chính ở trường hợp này Xuân Hương đã đứng ở phía tạo hóa mà cúi mình xuống số phận rủi

ro ấy lên tiếng bảo vệ bằng một lời chân thực mà can đảm vô song ở miệng cô gái : "Khối

tình một mảnh thiếp xin mang" . Người con gái "xin mang" lấy cái thai và gánh chịu tất cả

những hậu quả thảm hại mà xã hội xưa đội lên đầu mình, lên đời mình, là vì lẽ gì ?. Chắc

chắn là vì cái chức năng sinh đẻ' , sinh ra sự sống mà tạo hóa đã giao cho người phụ nữ. Bởi

thường tình, lâm vào cảnh dỡ dang như vậy, người khác tìm cách hủy cái thai đi hoặc tránh đi

chỗ khác. Đây là nói rõ, nói to, công khai : Xin mang . Mang thai và mang tất cả mọi tai họa,

chứ- không sợ mà còn ra vẻ thách thức trong cam chịu. Hai câu kết của bài thơ là lời phụ họa

thêm của tác giả sau khi đã làm đủ vai trò trạng sư cho cô gái. Tất nhiên, cam chịu mà gan dạ

25

như thế thì cũng chả cần cái thằng con trai nó chia sẻ làm gì, chỉ nhắn một câu rất phải chăng

cho nó nhớ cái nghĩa ở đời là gì, thế thôi.

Trở lên là nói vai trò phụ nữ xét trong quan hệ âm dương.

Đặt trong tín ngưỡng phồn thực vai trò phụ nữ sẽ như thế nào?

Ở đây không hẹn mà có một sự tiếp giáp thú vị. Nói âm dương là nói chuyện sinh ra sự

sống. Quan niệm trong hành động phồn thực là cầu cho sự sống được nhân lên gấp bội, được

sinh sôi không cùng. Cái sau tiếp nối cái trước và phát triển lên.

Vì vai trò của phụ nữ là sự củng cố, phát triển . nâng cao vai trò đã có đến độ thiêng liêng, cụ thể, cả nghệ thuật, Ở quan hệ âm dương, nó là quan niệm triết học, dạng trừu tượng, có trình độ học vấn cao mới nhận thức được. Dù nó có được khắc vào cái miếng gỗ vẽ hình âm dương bát quái treo trên đòn dông mỗi nhà hoặc bôi bác ở tờ sớ tờ tấu gì của thầy phù thủy dịp cúng sao hay trừ tà thầy vẽ trên vải treo trước hương án cũng chẳng ai hiểu gì. Nó vẫn trừu tượng. Còn trong thờ phụng những vật thiêng đã thành thần như linga, yoni của người Chăm nước ta khi những hình tượng ấy đã trở nên những công trình điêu khắc có chất nghệ thuật cao và trưng bày ở cổ viện Chăm ở Đà Nang thì sự thờ phụng đã cụ thể. Cũng như hình tượng nam nữ giao phối hoặc thật sự hay tượng trưng thì ở tháp Đào Thịnh hay ở các lề hội địa phương . quan niệm cầu cho sinh sản được dồi dào đã hiện thành vật thể , cái gậy, cái mo, hình nhân nam nữ hoặc trai gái đích thực đứng vào chỗ trang trọng , nghiêm trang , cụ thể và thiêng liêng. Vai trò phụ nữ trong cầu cúng sự sinh sôi là một vai trò được nâng lên thành thiêng liêng. Đi vào việc lễ nghi ấy chẳng ai còn dám nghĩ tới chuyện gì khác. ở chỗ nào đó thơ Xuân Hương khiến người đọc liên hệ nọ kia một cách trần tục thì ở đó nhà thơ trước hết nhằm đặt vị trí người phụ nữ vào chỗ thiêng liêng. Còn lấy con mắt người đời nay mà nhìn hành vi cầu cúng thời cổ đại, đó là việc riêng của người đọc, không mấy nghiêm chỉnh

26

CHƯƠNG 3: CÁI NHÌN CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG TRÊN BÌNH DIỆN XÃ HỘI

Đối với phụ nữ, cái nhìn nhân đạo chủ nghĩa của Hồ Xuân Hương trên bình diện xã hội

có thể nhận diện được ở mấy hướng sau đây :

- Hướng con người cá nhân,

- Hướng ca ngợi,

- Hướng bảo vệ.

Đến giai đoạn lịch sử này, trong văn học đã có bóng dáng con người cá nhân. Thực ra

nó đã xuất hiện từ Hương miệt hành, rõ hơn, từ Truyền kỳ mạn lục.Nhưng đến đây nó đã cởi

bỏ được phần lớn cái lớp sương hoang đường bao phủ xung quanh cho đỡ chói mắt tầng lớp

tầng lớp thống trị quyền uy vừa phong kiến vừa Nho giáo. Trong chừng mực nhất đinh, nó đã

bước ra sân khấu văn học và có lúc rước vào thân mọi búa rìu lên án, kết tội. Nhưng nhìn

chung, nó vẫn còn dè dặt và đây đó vẫn còn che chắn mình bằng nhiều thứ ngẫu nhiên và quy

phạm. Đó là một mặt. Mặt khác, nó đã bắt. đầu có một tư thế nghĩ suy, cảm nhận, hành động

không giống như con người cộng đồng, con người công dân. Nó bị phản đôi từ phía này

nhưng được tán dương ở phía khác. Phong kiến Nho giáo chống, nhưng quần chúng nhân dân

rùng rùng đứng lên đòi quyền sống thì lại hồ hỡi đón nhận vào hàng ngũ của họ như đại biểu

tinh thần. Nó hóa thân vào hai nhân vật chính trong Truyện Kiều, cô tiểu thư họ vương, vị

anh hùng họ Từ chẳng hạn.

Nó có một số nét nổi trội hầu thành đặc điểm : ở nam cũng như ở nữ, có khi ở nữ càng

rõ hơn. Trước tiên là sự tự ý thức mình là mình, một con người cá nhân chứ không phải ý

thức về mình là con người của một cộng đồng và ý thức ấy là ý thức thông qua cộng đồng, ý

thức của cộng đồng chứ không phải là ý thức về con người đích thân là mình. Người phụ nữ

trong thơ Xuân Hương là con người tự ý thức được mình.

Thơ Xuân Hương ít có nhân vật phụ nữ ngoài gia. Dù sự tự ý thức ở những nhân vật

như bà lang. cô gái khóc chồng còn khá mong manh cũng có thể từ lời khuyên, câu bởn của

thi sĩ cũng ghi được vài nét. Tác giả bởn bà lang vì bà lang đã khóc tì ti "Thương chồng nên

nỗi khóc tì ti". Khóc tì ti thì không biết khóc nhỏ hay khóc ít. hay cả hai. dù sao cũng là khóc-

. Có thương mới khóc Đến ''Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo, Cay đắng chàng ơi vị quế chi"

thì rõ chồng chết đã lo xong rồi. nay bình tĩnh mới nhớ lại mọi nỗi niềm vợ chồng ăn ở với

nhau : lúc ngọt bùi, lúc cay đắng, tất cả đều chung nếm trải, đó là chuyện của trái tim. Còn

như "Thạch nhũ trần bì sao để lại, Quy thân liên nhục tầm nang đi" là bà lang nói cái gì? và

Xuân Hương nói dùm là nói cái gì cho bà đây? Toàn các vị thuốc cả. Vậy chỉ có thể là của

27

cải. người chồng qua đời sao lại để lại cái này cái kia thì chắc là cái không tốt, nợ nần, con

cái thơ dại. nhà dột cột xiêu chẳng hạn, để lại là cho bà lang gánh lấy. Còn mang đi thì phải là

cái gì quý giá. cái của cải ngụ nơi cái tài bắt mạch hốt thuốc, hoặc tiền nong. Vàng bạc gì mà

chẳng cho vợ biết ... Tất cả đều là sự đoán mò. Còn thực chất đó là cái gì để lại, cái gì mang

đi thì chẳng biết. Nhưng rõ mồn một, không chối cãi : đó là những món thuốc mà cái tên lại

gợi nên cái nghĩa ngầm nói ra chẳng lịch sự gì. nhưng nghe mà ngẫm nghĩ thì đó là cái

chuyện thân mật riêng tư giữa vợ chồng, chỉ biết với nhau trong buồng kín. Cái mang đi ấy

mới tai hại cho cái để lại. "Sao,tẫm" là những cách chế thuốc bắc. Xuân Hương đã đánh tráo

thành sao có nghĩa nghi vấn, còn "tẫm" thành "tẫm" là giấu diếm kỹ không cho ai biết. Để lại

và mang đi đều là cái da thịt. cái ăn nằm chung của vợ chồng, nam nữ Mất chồng là mất đi

cái chia sẽ ngọt bùi. đắng cay đều quý. nhưng mất cái chỉ hai người biết với nhau, cái cố kết

với nhau bền chặt, thấm thía ân tình nhất, cái trống không để lại chỗ nằm (Người thương đâu

vắng chỗ nằm còn đây - Ca dao) đã là xót xa rồi, đây là cái gãy đứt, nghiêng đổ. mất đi một

bên, một nửa, mà nào dám nói với ai ngoài đêm khuya thanh vắng ôm gối buồng không mà

trằn trọc mội mình ! Nỗi đau mất chồng ấy mới Thấm sâu, nặng nề. Cái tự ý thức về mình đặt

vào chỗ đó mới sâu xa. càng sâu xa thì càng không tiết lộ được. Nỗi đau da thịt ấy đến giai

đoạn văn học này mới có Xuân Hương nói dùm. Xa xa mới có tiếng nói của dân gian.

Xuân Hương cũng "ý thức dùm" cho chị chàng khóc chồng bằng một lời dỗ nói toạc ra

cái điều không đẹp đẽ gì cho phụ nữ bằng câu kết của bốn câu : "Xấu máu thì khem miếnq

đỉnh chung". Với cô này thì chẳng phải là nỗi đau như bà lang mà là điều xấu hổ cho đám đàn

bà con gái. "Xấu máu" mà quơ quào liều cho có tấm chồng thì một lẽ,đằng này cô lại để hút

vào cái "đỉnh chung". Các em bé gái ơi ! chớ đi theo vết ấy. xấu hổ cả "non sông". Bởi không

thể nào đem đổi tấm thân con gái dù cho nó "xấu máu" đi nữa để lấy cái giàu sang thì cũng là

làm xấu đi cái "xấu máu". Còn cách tự trọng nào cao hơn? Xuân Hương ý thức dùm cho cô

gái vậy.

Như thế là Xuân Hương đã bước sang cái thế chủ động trong tự ý thức. Không phải cô

gái vừa nói tự cố ý thức mà Xuân Hương chê trách cô không biết. chủ động tự mình lựa chọn

cho mình. mà chỉ đi theo khuôn khổ có sẵn. Thân gái như hạt mưa rơi. như tấm lụa đào,

chẳng' chủ động được, nên gặp đài các, gặp khách mua sang trọng thì để mình ngã vảo dó.

Quy phạm xã hội là vậy. Chùi theo vẫn dễ. Muốn chủ động khó hơn và có thể có nguy cơ.

Nhưng đã tự ý t.hức được con người mình, mình tự lo cho hạnh phúc đời mình thì phải tự

mình quyết định. Gương cô Kiều to tày tiếp. chủ động đi tới theo chủ động của trái tim quả là

bắt được một mối tình không sao đẹp hơn, nhưng xã hội xấu xa, dộc ác nào có tha cho.

28

Bản thân Xuân Hương, con người tự ý thức về mình sâu sắc khó bì, nhưng trong

chuyện tình duyên, bao lần thất bại có lúc phải tự mình chủ động đến với người ta mà như

giẫm lên gai. Đọc bài "Mời trầu" thì thấy :

Quả cao nho nhỏ, miếng trầu hôi.

Này của Xuân Hương mới quệt rồi.

Có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi.

Đây là lời của Xuân Hương. Nhưng đây lại xem luôn Xuân Hương như một phụ nữ

được Xuân Hương để cập.

Tự đọc tên mình ra, xưng với người bằng tên mình chứ không bằng một đại từ nào

khác. Có biết bao thắm thiết, trân trọng, nghiêm trang trong cử chỉ đó. Đến thời tiểu thuyết

Tự Lực văn đòan, nam nữ mới tự gọi bằng Lên hai chữ rồi tên một chữ, nghĩa là đến đó con

người cá nhân trong xã hội đã ra đời đẩy đủ, tự ý thức về mình trọn vẹn với cái "tôi". Thời

Xuân Hương, nào ai làm như Xuân Hương. UĐó là một bước trước thời đaiU. Quan trọng là bên

trong lời thơ với tiếng xưng hô mở đầu ấy. Nói và nhấn mạnh "Này của Xuân Hương" tức là

của bàn tay Xuân Hương, cánh tay Xuân Hương, cái khéo của Xuân Hương, cái tình của

Xuân Hương, trái tim của Xuân Hương, cả con người Xuân Hương đây. Miếng trầu mới quệt

mà là tất cả con người Xuân Hương, quá khứ, hiện tại và tương lai. Qua khứ đã chịu rẻ rúng

đau thương, hiện tại Xuân Hương đặt một niềm mong ước, vừa đặt mà vừa rụt rè, e ngại, còn

tương lai nào biết được lá cứ xanh. vôi cứ bạc hay trộn nhau mà thắm đỏ ân tình ? Kết quả ra

sao chưa bàn, nhưng sức chủ động ở con người cá nhân thật đáng quý bao nhiêu !

Trọng người, trọng mình cũng là ý thức có giá trị nhân đạo. Trọng mình thì "Mời

trầu” mà xưng tên mình ra đã là một trường hợp hiếm có thời đó. Chính với ý thức ấy nên

nhà thơ cũng đã tỏ ra rất trọng chị em. Tranh "Tố nữ" thì biết người trong tranh xứng bậc

nào so với mình ? Xuân Hương coi ngay họ như trang lứa với mình và gọi họ trân trọng, thân

mật, có chút đùa :

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình ?

Chị nào cũng xinh mà em cũng xinh.

Rồi thì khen. Nào là trắng như tờ giấy trắng, mà cũng in trên tờ giấy bạch thật, nào là "

nghìn năm còn mãi cái xuân xanh". rồi thương cho đức hạnh nghiêm chỉnh, buồn cho "phận

mỏmg manh", nghĩa là coi họ như người thật, như chị em giữa đời thật, thân phận chẳng ra

29

gì, duyên tình chẳng tới, mà họ lại đẹp, lại trẻ mãi mãi không già. Nói với tranh mà như nói

với người. Giọng ân tình thắm thiết, thông cảm rất sâu. Từ chuyện người trong tranh mà ra

người ngoài đời, chị em chung quanh mình. Trọng con người đến thế cao quý biết bao !

Sâu xa nhất và nỗi trội nhất ở tự ý thức mình của con người cá nhân là ý thức về nội

tâm của mình.

Trên kia mới gợi một chú về nội tâm của bà lang mất chồng và mội lời khuyên đàn em

bé rắp ranh lấy chồng. Từ đây quay trở về bản thân nữ sĩ. Ở công trình nhỏ này không dám sử

đụng nhiều thơ "Lưu hương ký". Chứ giá như đi vào đấy thì chả cần phải tìm tòi phân tích

gì, động đâu cũng gặp trên mặt giấy đủ cung bậc của thế giới xúc cảm và nghĩ suy riêng cho

bản thân mình. Mới gặp mà đã lo " Trước trăm năm hẳn nợ chi không ?" hoặc "Chén tình dầu

nhẫn lâu mà nhạt, Giải ước nguyền âu thắm chẳng phai". Âu lo như thế mà vẫn "Được lứa tài

tình cho xứng đáng, Nghìn non muôn nước cũng tìm theo". Con người khao khát một mối

tình thắm thiết và bền chặt đến thế ! Xa nhau xui nhớ " Mùi hương trong nệm cả đêm thâu".

Kể hết khúc nôi trong ruột.: "Từ lúc buồn chia biệt. Ai người ấm nửa chăn" ? Thề bồi thì

"Mái mây cắt nửa nguyền phu phát, Giọt máu đầy hai chén tử sinh". Nghe như tình thời Thơ

mới. Còn tự thân thì luôn chẳng thiếu lời "Mội đời riêng mấy kiếp chua cay" và "Tri âm đắp

nửa chăn còn ngắn, Bức vách nghe xa tiếng đã thừa" hay "Nghĩ lại luống đau cho phận bạc,

Nói ra thêm nhẹ với thân bèo" ... tất cả những cảnh ngộ đã trải qua đều vì ao ước một mối

tình cho trái tim đang cháy bỏng.

Riêng ba bãi Tự tình lẫn trong số thơ nôm lưu truyền xưa nay cũng để bày ra thế giới

nội tâm của thi nhân mình tự họa về mình.

"Tự Tình I" có thể được viết vào lúc tuổi đã xế. nhà thơ đã trải qua nhiều xót xa, bẽ

bàng :

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

Oán hận trông ra khắp mọi chòm

Mỏ thảm không khua mà cũng cốc,

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ

Sau giận vì duyên để mõm mòm

Tài tử văn nhân ai đó tá?

Thân nàyđâu đã chịu già tom

30

(Tự Tĩnh I)

Đêm thanh vắng đang đi qua. Tiếng gà khuya "văng vẳng" làm đêm thanh vắng hơn.

Nhà thơ giật mình , bao nỗi chua xót óan hận trong quãng đời bất hạnh về tình cái của mình

hiện lên :

Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom

Oan hận trông va khắp mọi chòm.

Mõ mình không bảo khua, chuông mình không bảo đánh . Vậy mà nó cứ "cốc", nó cứ

"om" . Nó như lôi nỗi lòng mình mà dấy lên thành tiếng khô khan, cộc lốc , à uôm , tiếng mà

không ra tiếng như nghẹn, như tắc. Khốn khổ cho tấm lòng mình.

Mõ thảm không khua mà cũng cốc.

Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.

Một tâm hồn thiết tha mãnh liệt với hạnh phúc tình yêu như nữ sĩ Xuân Hương không

thể đưa nhà thơ đến chỗ từ chối khát vọng yêu đương , mong ước, đòi hỏi một cuộc sống lứa

đôi , bình thường như mọi người.

Tài tử văn nhân ai đó tá ?

Thân này đâu đã chịu già tom.

Cũng như bài "Tự Tình I", bài "Tự Tình II" tỏ bày nỗi lòng của Hỗ Xuân Hương ,

của một phụ nữ có cuộc sống mà tất cả đều nửa vời , đứt đoạn, dang dở , thiếu thốn, bất mãn :

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !

Xiên ngang mặt đất rêu tùng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tinh san sẻ tí con con !

(Tự tình II)

31

Mở đầu bài thơ chúng ta nghe tiếng "trống canh dồn" trong đêm khuya khoắt nhưng

không giống tiếng "trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt" trong Chinh phụ ngâm báo

hiệu cho một "cơn gió bụi" kinh thiên động địa của chiến tranh mà là tiếng đổ hồi liên liếp

nhau từ xa lại nhỏ dần gợi tả nỗi buồn cô quạnh của nhà thơ :

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn.

Tiếng trống động làm nổi lên cái tĩnh trơ trọi bất động của con người, đêm khuya buồn

mà nhà thơ vần như vô cảm, trơ ra :

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Cái xuân xanh thì đã qua nhưng cái xuân tình thì vẫn còn đó. Buồn, nữ sĩ độc ẩm :

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !

Thông cảm với nỗi buồn của Xuân Hương chúng ta chạnh nhớ nàng Kiều lúc cùng cảnh

ngộ :

Khỉ tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình, mình lại thương mình xót xa

(Truyện Kiều)

Nhìn vầng trăng "khuyết" nữ sĩ càng buồn, càng chua chát vì nhìn lại cuộc đời mình

nhất là cuộc đời ái ân không có gì như ý, không có gì trọn vẹn. Nó đã "xế" , đã "khuyết" lại

"chưa tròn" như vầng trăng vậy. Cho nên ngán ngẫm cho mình :

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẽ tí con con !

Đúng như nhận xét của Trương Văn Quang : "khép lại lời thơ trữ tình là nỗi niềm giờ

đã được gọi tên. Không phải là nỗi niềm bị ruồng rẫy "Năm canh vắng lần nương vách quế"

của nàng cung nữ, không là nỗi cô đơn, thấm thía của người chinh phụ "Biếng cầm kim,

biếng đưa thoi" cũng không phải là nỗi truân chuyên đọa dày buộc Kiều "Chút lòng trinh

bạch từ nay xin chừa". Đó là nỗi đau ngán ngẫm về cảnh lẽ mọn :

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mãnh tình san sẻ tí con con !

32

(1)

Đó là nỗi đau ngán ngẫm của một người bị lâm vào thế phải chia sẻ cái không- thể-

P1T.

chia- sẻ được. Anghen có lý : Bản chất của tình yêu là không bao giờ chia sẻ"1TP25F

Nổi buồn khổ ngao ngán ấy cho thân phận mình đến "Tự Tình III", càng não nuột :

Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,

Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.

Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng,

Nửa mạn phonq ba luống bập bềnh.

Cầm lái mặc ai lãm đỗ bến,

Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.

Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,

Ngán nỗi ôm đàn những lấp tênh.

(Tự Tình III)

Hình ảnh "Chiếc bách" trong câu ca dao xưa :

Lênh đênh chiếc bách giữa dòng

Thương thân thiếu phụ phòng không lỡ thì.

Là hình ảnh đầy chua xót của người thiếu phụ bị lâm vào cảnh tình duyên trắc trở, bất

hạnh, lỡ thì. Tâm trạng của Xuân Hương cũng không khác. "Chiếc bách" là một chiếc thuyền

nhỏ làm bằng gỗ bách rất nhẹ. Nó gợi cho chúng ta tâm trạng của người gái góa trẻ trong bài

thơ Bách chu ở Kinh Thi. "Chiếc bách" lại ở "giữa dòng" lại là sự trôi nổi vô định. Ta như

nghe đâu đây sự bế tắc của cuộc đời nhà thơ lãng mạn trước 1945 :

Củi một cành khô lạc mấy dòng

(Huy Cận Tràng giang)

Sáng tạo thêm của Hồ Xuân Hương là ở các vần ênh trong "nổi nênh', "lênh đênh",

"bập bềnh". Nó cho chúng ta cái cảm giác bấp bênh, chới với, nồi chìm của thân phận nhà thơ

trước sóng gió cuộc đời. Chua xót và ngao ngán đến nỗi "thây kẻ" cho ai "cầm lái" đưa

thuyền vào bến, cho ai "dong lèo" để thuyền trôi xuôi.

Cầm lái mặc ai lăm. đổ bến.

(1) Trương Văn Quang - Tiếng nói tri âm. Dẫn ở cuốn "Tủ sách văn học trong nhà trường". Phẩn Hồ Xuân Hương. Nhà xuất bản văn nghệ TPHCM. 1996. trang 165.

33

Dong lều thây kẻ ráp xuôi ghềnh.

Cũng nỗi buồn ngao ngán ấy, nếu có ai tìm đến "thăm ván", tìm đến mình cũng đành

"cam lòng" vậy.

Tục ngữ có câu : "Thăm ván bán thuyền", Ở đây chỉ dùng vế "thăm ván" tức chỉ dùng

theo nghĩa "người mới", không dùng theo nghĩa "có mới nới cũ", Hồ Xuân Hương là người

vẫn muốn trọn tình vẹn nghĩa nhưng nghĩ thân phận mình không khỏi rơi vào cảnh "bả tỳ bà

quá biệt thuyền" nên nữ sĩ lại càng ngán ngẫm :

Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.

Cổ thỉ có câu : "Khẳng bả tỳ bà quá biệt thuyền" nghĩa là đành chịu ôm đàn tỳ bà sang

thuyền người khác tức đành lấy chồng khác.

Ca ngợi con người là mội ý thức nhân đạo quan trọng.

Tạo hóa phú cho phụ nữ sắc đẹp để người đời ca ngợi. xưa nay đều vậy. Quan niệm về

cái đẹp mỗi thời mỗi khác nên sự ngợi khen cũng nằm vào điểm này điểm nọ chẳng giống

nhau. Không riêng gì văn học viết mà văn học dân gian cũng giành nhiều lời đẹp cho nhan

sắc phụ nữ. Ca dao. tục ngữ có khi thẩm mỹ lại rộng hơn văn thơ bác học. Bác học chú trọng

ở cái đẹp có khi đến thân hình, dáng điệu.

Nói về gương mặt, ngôn ngữ dân gian có : con mắt lá răm, con mắt sắc như dao cau,

gương mặt trái xoan, mặt sáng như gương, chân mày lá liễu, má lúm đồng tiền. miệng tươi

như hoa nở, miệng cười như hoa, má phấn môi son, môi cắn chỉ, mắt bồ câu... Nói rộng ra

thân hình thì : thướt tha như liễu. thắt đáy lưng ong, cổ cao ba ngấn, ngón tay búp măng, cổ

tay em vừa trắng lại vừa tròn, Mó vào mát lạnh như hòn tuyết đông ...

Cái đẹp của các cô gái vùng quê từ xưa đã được các nghệ nhân cố định lại thành những

bức tranh tố nữ.

Tố nữ có nhiều loại tranh. Quen thuộc hơn cả là các tố nữ gợi lại dáng các cô gái vùng

quê quan họ Bắc Ninh vào hội xuân. Các cô được điển hình theo hình chữ nhật đứng, duyên

dáng với phục trang áo dài năm thân, váy lĩnh đen, tóc rẽ ngôi, giữa vấn lên bỏ đuôi gà sang

một bên, chân đi dép cong. Trong thế chung của đường trục thẳng hòa nhịp với mảng vải đen

và áo dài trắng nhiều nét chảy xuôi vừa hiện thực vừa nghệ thuật được làm phong phú khối

cánh lay tròn do các đường cong của tay áo gợi ra và xiên chếch của nhạc cụ. Bốn bức bố cục

giống nhau mà không đơn điệu, nhìn không chán mắt, càng ngắm càng đồng cảm với nghệ

nhân như ở bài thơ đề vịnh :

34

Xuống cỏi trần gian mấy tố nga

Chiều thanh vẻ lịch dễ đôi ba ...

Xanh xanh còn mãi nghìn năm nữa

(1)

Cốt cách như in hình nết hoa1TP26F

Trên kia đã hai lần bàn tới tranh tố nữ. mỗi lần mỗi khác, nhưng đều là đẹp ở tranh,

những con người trên mặt giấy. Chỉ có những bức điêu khắc dân gian ở các đình, đến các địa

phương miền Bắc mới có những hình tượng các cô gái đẹp dáng hình, những con người

xương thịt. Trong đó nhiều bức trình bày các cô trần truồng hoặc đang tắm ao sen thân hình

tròn lẳn nhấp nhô trên mặt nước, hoặc mấy cô đang tắm phô bày da thịt mơn mởn, căng tròn

thì mấy cậu thanh niên kéo nhau đến trêu ghẹo một cách thô bạo ... Dựng lên những bức

tranh chạm như thế nơi đình miếu linh thiêng, các nghệ nhân đã vượt qua mọi ngăn cấm ngặt

nghèo của lễ giáo xã hội đòi hỏi cho con người được sống thoải mái trong quan niệm tự nhiên

với cái đẹp tuổi đang xuân đáng được phô bày cho con mắt được thưởng thức, chiêm ngưỡng.

Bắt nguồn từ trào lưu nhân đạo chủ nghĩa mà các công trình kia của nghệ sĩ dân gian là

những biểu hiện tiên phong đắt. giá, Hồ Xuân Hương cũng đã ghi vào thơ mình thành một

bức tranh, một bức tượng tuyệt vời về thân hình một cô gái tơ : Bài thơ "Thiếu nữ ngủ ngày

":

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,

Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng

Lược trúc lỏng cài trên mái lóc

Yếm đào trễ xuống dưới nương long

Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm

Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.

Quân tử dùng dằng đi chẳng đứt.

Đì thì cũng dở, ở không xong.

(Thiếu nữ ngủ ngày)

Một trưa hè, gió nồm "hây hẩy" mát quá , dễ chịu quá. Đi làm đồng về, sau khi cơm

nước xong, trong khung cảnh mát mẽ dễ chịu ấy, cô gái ngã lưng xuống chỏng tre nằm chơi

một chút. Gió cứ hây hẩy , cứ mơn man làm cô gái ngủ quên "quá giấc Hồng". (1) Nguyên Bá Vân - Sách dã dẫn trang 109

35

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông

Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.

Có bản đặt tựa đề bài thơ này là "Ngủ quên" cũng có ý hay của nó. Vì ngủ quên nên để

"lược trúc lỏng cài" bày ra một mái tóc dài mượt , buông loa, cởi mở và để "yếm đào trễ

xuống" bày ra cái nướng long với da thịt trắng trong phơn phớt sắc hồng của yếm :

Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,

Yếm đào trễ xuống dưới nương long.

Nương long chỉ ngực phụ nữ. Tục ngữ có câu : "Nương long mỗi ngày mỗi cao. Má đào

mỗi ngày mỗi đỏ", nói sự phát triển của sự dậy thì. Bức tranh hiện ra một cách trẻ trung, mơn

mởn , đầy sức sống. Theo quan điểm thẩm mĩ phong kiến, vẻ dẹp của người phụ nữ chỉ được

thể hiện ở áo quần, khuôn mặt, không bao giờ được thể hiện ở vóc dáng , da thịt vì theo quan

điểm cổ hũ ấy để bày ra da thịt là tục là dơ . là điều phải cấm kỵ. Nho giáo cũng cho đó là tội

lỗi. Đối với Xuân Hương, vẻ đẹp chỉ riêng các cô gái mới có rất đáng quí , đáng trân trọng và

đáng ngợi ca. Danh họa Goya đã nói đúng : "Thân thể trần truồng của đàn bà là kiệt tác của

(1)

thiên nhiên, còn ý nghĩ về sự dâm tục là sản phẩm của bản chất gian manh"1TP27F

Mà thật, cơ thể của phụ nữ đẹp thật sự chứ không phải Hồ Xuân Hương nói đẹp để

chống lại phong kiến cổ hủ :

Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm

Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.

"Đôi gò" tròn căng trên "nương long" ấy là "đôi gò Bồng Đảo", cái lạch bên dưới là

"mội lạch Đào Nguyên" Cả hai đểu là cảnh tiên. Gò Bồng Đảo là núi trên Đảo Bồng Lai, nơi

tiên ở, ý nói cảnh đẹp, cảnh tiên. Thành ngữ có câu: "Đẹp như tiên Non Bồng". Lạch Đào

Nguyên là núi Hoa Đào có người đi men theo núi này tới được một nơi có cảnh vui tươi , êm

ấm, về sau được hiểu rộng ra nơi đó là cảnh tiên. Hồ Xuân Hương đã dùng hai hình ảnh "Gò

Bồng Đảo" "Lạch Đào Nguyên" để nâng cái đẹp lên mức thần liên. Nhưng Gò Bồng Đảo ấy

lại "sương còn ngậm" và Lạch Đào Nguyên ấy, suối cũng chửa thông" nghĩa là đang còn e ấp,

giữ gìn nên lại càng cao quí. Có thể nói "Thiếu nữ ngủ ngày" là một bức tranh đầy sức gợi

cảm. Đường nét sinh động, tươi trẻ, trinh nguyên, tràn đầy sức sống. Trước bức tranh ấy , có

một chàng quân tử "dùng dằng đi chẳng đứt" . Chính cái "dùng dằng" của "chàng quân tử"

càng làm cho vẻ đẹp người thiếu nữ thêm ý nghĩa nhân văn và nói như Trương Xuân Tiến :

(1) Danh ngôn phái đẹp - Nhà xuất bản Đồng Nai, 1997.

36

"Đó là giá trị vẻ đẹp có khả năng thu hút. tình cảm thẩm mỹ rất mãnh liệt" vì "sự sống động

và sức cuốn hút ở vẻ đẹp cô "thiếu nữ ngủ ngày" chỉ được bộc lộ trong tâm hồn chàng "quân

P1T. Chúng ta cần hiểu cái rung động mãnh liệt ở

tử" và chính những rung động mãnh liệt trong tâm hồn chàng quân tử đã đẩy giá trị vẻ đẹp (1) đạt tới đỉnh cao của sự hoàn thiện, hòan mỹ" 1TP28F

chàng quân tử là cái rung động của một con người cụ thể bình thường như bao người bình

thường khác để thấy ý nghĩa nhân văn của bức tranh, nhà Việt Nam học Xô viết Nỉ-cu-lin,

(2)

khi bàn về thơ Hồ Xuân Hương, đã cho rằng : "cơ thể con người trở thành nhân vật trong thơ

P1T. Đó là ý kiến hay vì Ni-co-lin đã nói lên được cái nhìn nhân đạo của Hồ Xuân

của nữ sĩ" 1TP29F

Hương. Lấy cơ thể làm đối tượng miêu tả không nhằm mục đích khiêu gợi điều gì xấu xa mà

chỉ để biểu hiện thái độ đối với nhân vật như lời nói cảm động của Mác "Cái gì thuộc về con

người, đối với tôi, đều không xa lạ". Quả thật nói như Xuân Diệu bức tranh có "sự giải y , có

(1)

sự cởi áo" nhưng sự cởi y sự cởi áo này, đặt vào trong thời đại Hồ Xuân Hương , lại có ý

P1Tvà "ta không nên quá ngây thơ mà một mực cứ nghĩ rằng

(1)

nghĩa của một sự đòi giải phóng"1TP30F

P. Chúng

thể hiện con người trần trụi không mặc áo quần thì nhất định là dâm, là khiêu dâm" P

ta biết pho tượng nổi tiếng "Về muýt ở Mỉ-lô" hiện đang đặt ở bảo tàng Lu-vơ-rơ (Pari), pho

tượng gần như khỏa thân bằng cẩm thạch tạc hình nữ thần "Tình yêu và sắc đẹp" A-phĩ-rô-

đít. Đó là một bức tượng tuyệt đẹp về cơ thể người phụ nữ. Đó là cái đẹp của nghệ thuật , của

cuộc sống "Mùa xuân năm 1948, trước lúc qua đời, nhà thơ Mai - nơ nước Đức đã gượng đi

dạo một lần trên đường phố Parỉ ông đã đứng hồi lâu trước tượng thần Vê-núyt trong bảo

tàng Lu-vơ-rơ , như đã đối thoại với người đẹp , với cái đẹp trước khi vĩnh biệt cuộc sống,

(2)

P1T. Từ sự lý giải trên, chúng ta thấy việc Hồ Xuân Hương khắc họa với thái độ trân trọng

nhà thơ đã đến với bảo tàng nghệ thuật. Đối với ông từ biệt cuộc sống có nghĩa là từ biệt cái

đẹp"1TP31F

, ngợi ca vẻ đẹp của thân hình người phụ nữ có ý nghĩa nhân văn và nhân đạo sâu sắc và táo

bạo đến mức nào ở thời đại của mình. Với tư tưởng này, có thể coi Hồ Xuân Hương là nhà

văn Phục hưng của văn học Việt Nam thời trung đại.

Không chỉ có cái đẹp thân hình của người phụ nữ mới đáng ca ngợi. Đáng quý không

kém là tài và đức.

Nói về cái tài của phụ nữ nước ta về đủ mặt thì không đợi thời này mới nổi lên đông

đúc những tài năng đủ mặt như trên đã dẫn ra. Lích sử dân tộc ta ngay từ thời Thánh Gióng

đã có cô gái Ba Vì cũng đánh giặc cứu thành Phong Châu của vua Hùng. Đời Trần không (1) Trương Xuân Tiến -"Cần trả lại đầu đề chính thức cho một bài thơ hay của Hồ Xuân Hương, Tạp chí văn nghệ Nghệ An, số 4/1994 (2) Ni-cu-lin Bàn về thơ Hồ Xuân Hương trong sách Những vấn đề lý luận văn học Phương Đông. Nhà xuất bản Khoa học - Mátscơva - 1969. (1) Xuân Diệu - Sách đã đẫn, trang 386. (2) (2) Lê Ngọc trà và Lâm Vinh - Đi tìm cái đẹp - Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1994

37

thiếu những gương mặt phụ nữ anh hùng, từ bà già đến thanh niên nữ giới. Chính vì vai trò

không sao phủ nhận được của phụ nữ mà luật lệ đời Hồng Đức đã có dành cho phụ nữ một

tinh thần tôn trọng xứng đáng, điều mà cùng thời đó không mấy nước có được.

Không lạ gì dưới ngòi bút Xuân Hương, phụ nữ được ngợi ca về tài năng. ở đây cũng

như bên trên, đành khách quan hóa nhà thơ.

Trước hết là một sự khẳng đinh chắc nịch. Có lúc bình tỉnh xếp mình ngang với các bậc

khoa họan bậc cao ở môi trường thơ phú. Có khi lại ngang nhiên thách thức với vẻ kẻ cả. Kể

ra đối với bọn đốt nát mà cũng học đòi thơ phú rồi cũng ra vẻ ta đây ghi ghi chép chép lên

vách đền chùa, Xuân Hương mắng thẳng vào mặt : cũng đích đáng :

Dắt díu nhau lên đến cửa chiền

Cũng đòi học nói nói không nên

Ai về nhắn gởi phường lòi tói

Muốn sống đem vôi quét trả đền

Nghề dốt hay nói chữ. Huống chỉ hồi bấy giờ, việc thi cử chỉ còn là chuyện mua bán

cũng như chuyện làm quan, nên học hành chẳng còn ra gì. Cho bên lũ dốt nát chẳng thiếu gì.

Bọn thầy khóa vẽ lê... bẩn lẽn tường đền kia chắc không lạ gì.

Có thể chúng còn làm điều tệ hơn. Chúng trêu ghẹo phụ nữ. Rủi sao chúng lại gặp tay

nhà thơ. Sờm sỡ như thế nào không rõ nhưng có thể là giả vờ ngâm nga gì đó ngụ ý trêu chọc

vô lễ, thi nhân mới đập vào mặt :

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

Lạy dãy cho chị dạy làm thơ

Đọc đến đó, dù đã mắng chúng nó lũ ngẩn ngơ. ngốc ngếch, ngu ngốc chẳng lo học

hành gì mà đi rông phất phơ, dù đã bịt miệng ngâm nga của chúng lại và ra lệnh đến gần để

dạy học lại bằng trắc, niêm luật trước đã. nhà thơ mới ném vào mặt một loạt những "ong non

ngứa nọc", những "dê cỏn buồn sừng" lôi đầu những thứ như bản chất hư dốt. mất dạy của

chúng ra dạy cho chúng một bài học nhớ đời. Thực ra thơ phú làm gì với hạng đáng gọi là trẻ

ranh ấy (lũ chúng mon men chọc gái ắt chúng không còn trẻ con nhưng chưa hẳn là người

trưởng thành) nhưng chính hạng choi choi ấy mới nghênh ngang, ngang tàng, bất chấp mọi sự

nên nhà thơ mới xách mé như giờ tay lên ngoắt chúng lại và xưng là chị, một lời xưng hết sức

đanh đá nhưng lại nghiêm nghị, đúng bậc bề trên.

38

Đó là tài văn chương. Bởi nói chơi chơi như vậy có mấy vần đọc ngay trên miệng, mà

chữ nghĩa, giọng điệu. hình tượng thơ như xéo nái và giẫm lên mặt mày đầu cổ bọn mít đặc

và thiếu giáo dục.

Cái tài của phụ nữ, theo Xuân Hương thì không dừng ở đó. Nếu điều kiện cho phép, xã

hội công nhận thì phụ nữ nhất định chẳng kém nam giới về nhiều mặt khác. bằng chứng là bài

Đề đền sầm Nghi Đống :

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,

Kìa đền thái thú đứng cheo leo.

Ví đây đổi phận làm trai được,

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

(Đề đền Sầm Nghi Đống)

Sầm Nghi Đống là một tên quan ở Quảng Tây.Từng đỗ tiến sĩ, làm đến tri phủ. Là

tướng dưới trướng Tôn Sĩ Nghị, y cùng bè lũ hùng hổ kén quân sang xâm lược nước ta.

Nhưng thất bại thảm hại. Y thắt cổ tự tử. Hòa Thân đứng ra dàn xếp để Càn Long phong

vương cho Quang Trung với diều kiện một số tướng tá của Nhà Thanh chết trận đều được lập

miếu thờ. Chính vì được lập đền thờ nên y được tôn lên làm thần. Chúng ta biết ở Việt Nam

chỉ thờ thần núi, thần sông... và thờ các vị anh hùng dân tộc.còn Sầm Nghỉ Đống là một tên

cướp nước, một tướng bại trận chết nhục nhã thì làm gì được thờ. Hồ Xuân Hương hạ bệ thần

tượng của y xuống :

Kìa đền thái thú đứng cheo leo,

Câu thơ đầy giọng khinh thị. Nói đền "đứng cheo leo" là rất siêu thực vì kỳ thực đền đặt

ở Hà Nội không có chỗ nào cheo leo cả. Nói "cheo leo" cũng như nói "trông ngang" là để

khỉnh bỉ, hạ bệ tên thần kia . Xuân Diệu đã viết : "Đây là bài thơ "trông ngang'.Trông lên thì

chiêm ngưỡng, trông xuống thì che chở. Trường hợp này chỉ đáng "trông ngang" bằng nửa

(1)

con mắt"1TP32F

Hơn nửa Xuân Hương còn coi thường cái gọi là "sự anh hùng" của hắn :

Vị đây dổi phận làm trai được,

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

(1) Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam - Nhà xuất bản văn học 1987

39

Người ta cứ ngỡ Xuân Hương đòi đổi mình thành “trai”. Không phải như thế. Nếu thế

thì không còn là Xuân Hương nữa. Đây là " đổi phận làm trai" chứ không phải "đổi làm trai".

Nghĩa là nếu xã hội công nhận thì người phụ nữ cũng làm được sự nghiệp anh hùng cao quý.

để tiếng thơm cho đời. Nếu xã hội công nhận cho phụ nữ được học, được họat động xã hội

như đàn ông thì họ chẳng thua kém gì đàn ông. Xuân Hương cho việc làm của Sầm Nhi Đống

không đáng được gọi là sự nghiệp anh hùng mà chỉ gọi là "sự anh hùng". Có thể thấy rõ ở

đây, Hồ Xuân Hương đã sổ loẹt tư tưởng "nam tôn nữ ti" của phong kiến và Nho giáo, tuyên

bố sự bình đẳng nam nữ. Kết hợp với sự bình đẳng ở âm dương như đã nói trên kia, đây là

một tư tưởng đi trước xa thời đại.

Chắc không phải tự dưng mà Xuân Hương lại đặt mình ngang và hơn cả nam giới và sự

nghiệp không phải là nói miệng một cách viển vông. Làm nên sự nghiệp anh hùng hiển hách,

ngay thời nhà thơ, nữ tướng họ Bùi chẳng phải đã lừng danh thao lược trong quân ngũ anh

hùng Nguyễn Huệ sao ? Rõ nhất là trong các vở tuồng. ngoài những nữ tướng như Trại Ba

đánh bại Địch Thanh. Liễu Nguyệt Tiên áp đảo cả quân tướng triều Tống, những bà Đổng

Mẫu, Địch mẫu lại chẳng là anh hùng sao? Còn như trong các chuyện thơ thời này thì chẳng

phải tình cờ mà truyện nào vai nữ cũng hơn hẳn các vai nam. Bên cạnh Kiều Liên mạnh dạn,

quyết đoán thì Tất Chánh chỉ là một anh hể vô tích sự chỉ biết được mỗi một việc là khóc.

Ngọc Hoa thì kiên trinh, quyết liệt kỳ cho tên vua dâm ô phải đền tội, còn Phạm Tải chỉ là

một kẻ "ăn theo".v.v... Truyện cười càng sắc nét hơn. Truyện vợ dạy chồng ngốc làm việc

này việc kia không phải chỉ có một.

Biểu hiện của tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, tư tưởng coi trọng, đề cao phụ nữ về mặt

tài năng đều phổ biến trong đời sống cũng như trong văn học, dân gian và bác học. Xuân

Hương đi ngang qua đền tên giặc họ sầm này mà có quan niệm như đã bộc lộ ở bài thơ chỉ là

một biểu hiện vừa nói.

Đi đôi với tài năng còn có trí tuệ.

Những giai thoại về tài nhanh trí trong đối đáp lúc bất thản hay ứng phó mẫn tiệp

thường nghe kể về nhà thơ không nhiều nhưng rất tiêu biểu. Không tin được những chuyện

ấy nhưng nó cũng dùng được để thêm một ví dụ minh họa, củng cố cho cái khác. Câu thơ

chữa thẹn khi trượt ngã lúc trời mưa là một bằng chứng của thông minh và nhanh trí. Lời phê

trên đơn hoặc của Nguyễn Thị Đào hay của vị lý trưởng xin mổ trâu nọ là những biểu hiện

nhỏ nhưng là dấu hiệu của tài năng không nhỏ. Những bài thơ đối đáp với Chiêu Hổ vừa là trí

tuệ vừa là uyên bác và đả kích sắc sảo. Không nghi ngờ gì đó là những lời văn chương vụn

báo hiệu và làm chứng cho nhà nghiên cứu đánh giá là những trò xiếc bằng chữ.

40

Vẫn coi trong thơ có một phụ nữ và lời thơ của Hồ Xuân Hương là lời nói về người phụ

nữ đó. Vậy cái nhìn của nhà thơ đối với người ấy là cái nhìn ca ngợi đức độ của người phụ nữ

như thế nào ?

Nếu nơi đây cũng coi trọng người, trọng mình cũng là đức độ thì trên kia đã nói rồi.

Tiếp theo có lẽ là nâng cái trọng mình ấy lên thành cái đức kiên trì phẩm giá của mình thì

điều ấy đáng được ca ngợi ở phụ nữ. Bánh trôi nước là một tiếng nói rất tiêu biểu :

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu bao kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Ở câu thơ đầu, với tử chỉ màu sắc : "trắng" và từ chỉ gợi hình khối "tròn", Hổ Xuân

Hương đã gợi lại trong thơ hình ảnh một nét. ở người con gái măng tơ :

"Thân em vừa trắng lại vừa tròn"

Nhưng thân ngọc ngà ấy lại phải chịu cảnh "bảy nổi ba chìm" phải bị "bao kẻ nặn". Lời

thơ ẩn chứa nỗi tiếc thương cho cái đẹp bị vùi dập , chê trách những kẻ đang tâm chà đạp cái

đẹp.

Câu thơ dầu, tả chiếc bánh trôi: xinh xẻo , trắng muốt , tròn lẳn. Nhưng khỉ đặt chữ

"thân em" vào trước thì câu thơ không còn là cái bánh trôi nước cụ thể mà nó đã được nhân

hóa thành thân phận của người con gái. "Bánh trôi" hay "lụa đào", "hạt mưa" đều chung số

phận biết sẽ vào đâu và vào đâu cũng không tránh được "nắn nát" "nổi chìm" do quyền lực

của kẻ khác.

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào giếng nước, hạt ra ngoài đồng

Câu thơ tả bánh trôi nhưng lại ngợi lên nỗi chua xót của chị em không làm chủ được

đời mình chỉ phụ thuộc vào bàn tay của kẻ khác

Ấy thế nhưng, bất chấp tất cả , dù cuộc đời có bị đày đọa phủ phàng đến đâu , đù phải

trải qua bao nỗi bất hạnh, vẫn giữ được phẩm chất cao quý của mình:

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

41

Trong xã hội rối ren đen bạc lừa đảo như xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến

nữa thế kỷ XIX , người phụ nữ giữ được tấm lòng son tấm lòng kiên trình thủy chung , giữ

được phẩm chất đẹp sáng trong của mình thật đáng tôn trọng biết bao.

Bài thơ ngắn có bốn câu mà như một tóm tắt cuộc đời của phụ nữ. Đầu đời trắng trong,

xinh đẹp, trắng tâm hồn, tròn hình đáng, da thịt, tuổi xuân phơi phới. Lớn lên, lấy 'chồng, xưa

là lấy luôn nhà chồng, họ chồng, mà có biết duyên nợ ra làm sao. Thường là lao đao lận đận,

có khi chồng chê chồng bỏ, hay không ở nỗi với mẹ chồng mụ o. Rồi có con thì khổ với

chồng với con, bảy nổi ba chim. Thế là quãng giữa cuộc đời là may nhờ rủi chịu. Nắn hay

nát, cuộc đời rách hay lành tùy ai đâu đâu, không phải ở mình. Nhưng rốt lại một đời chịu

đựng và chịu đựng, hy sinh và hy sinh, cố giữ chắc cho mình được mỗi một tấm lòng trong

sáng, thủy chung, luôn thắm như son đỏ. Cho đó là một bi kịch đời phụ nữ chắc không sai.

Một đức độ lớn hơn nhiều là nhiệm vụ sinh con làm mẹ. Bình thường thì chẳng thấy gì.

Mang nặng đẻ đau là có thật, nhưng thường quá nên chẳng được để ý mấy, thậm chí cũng

chẳng hay. Mang nặng đẻ đau nhưng xong lại mang nặng đẻ đau nữa, thành nhàm. Nhưng

xảy ra tai nạn gì trong sinh đẻ thì mới thành chuyện. Hoặc giả ở trường hợp thường gọi một

cách nặng nề không chồng mà chửa hay tệ hơn chửa hoang thì chưa nói đẻ, mang thai đã là

tai họa rồi. Hủy cái thai đi hay giữ lại ? Giữ lại thì nói sao với làng xóm ? Gia đình xua đuổi,

láng giềng nguyền rủa, chê trách. Làng bắt vạ gia đình như kiểu Thị Mầu. Xấu hổ trước mọi

người. Có tội với cha mẹ, ông bà đòng họ. Cái thằng tác giả cái thai, nó trốn biệt rồi. Còn nơi

nào để bấu víu? Chỉ còn hủy mình luôn : tự tử. Trước tình thế đó nhà thơ đã giúp người con

gái xấu phận một sức mạnh phi thường, sức mạnh của đức làm mẹ. Thế là cô gái ngẩng đầu

lên, dõng dạc tỏ bày tỉnh táo và kiên quyết : Thiếp xin mang. Cái đức ấy đáng ca ngợi biết

bao, lớn lao biết chừng nào. Trên kia đã nói đó là tiếng nói tạo hóa bởi đó là tiếng nói thiêng

liêng của người làm mẹ, làm một chức trách trời đất giao phó, chức trách sinh ra con người.

Như thế không chỉ là ca ngợi mà dề cao phụ nữ.

Còn như cái đức yêu thương bao giờ cũng tràn đầy ở tâm hồn phụ nữ, nỗi dan của

người mất chồng, chia sẽ nỗi khổ của người lấy lẽ, bênh vực cô gái dở dang, dặc biệt là yêu

sự sống với ý nghĩa đầy đủ, tôi đẹp của nó như bên trên dã phân lích, rồi chính vì (.hương mà

ghét những loai hiền nhãn quân tử giả đạo đức, những SƯ mô giả danh tu hành mà làm diều

xấu xa ... thì dó là những đức tính tốt đẹp dáng ca ngợi ở người phụ nữ.

Cuối cùng là hướng bảo vệ phụ nữ Bảo vệ phụ nữ là chống phong kiến Nho giáo, ở mặt

tiêu cực.

42

Ai cũng chẳng lạ gì quan niệm của phong kiến và Nho giáo về phụ nữ. Nó được quy

thành một chữ là lễ giáo. Lễ giáo xã hội phong kiến nước ta lúc chế độ phong kiến đi vào suy

thoái rồi trở thành phản động, lực cản đối với sự tiến bộ của lịch sử, là một hệ thống không

biết cơ man nào là trói buộc bằng đạo lý, lễ nghi, tập tục. thiết chế, luật lệ, khuôn phép. tất cả

đều ghép chặt con người nói chung rồi con người phụ nữ vào sự cúi đầu phục tùng hơn bất kỳ

thành phần nào trong xã hội. Rút lại là một hệ thống quan niệm từ Nho giáo mà ra, loai nam

tôn nữ ti, nhất nam viết hữu ....nam ngoại nữ nội, trai thì đọc sách ngâm thơ, gái thì giữ việc

trong nhà, trai thì tang bồng hồ thỉ, gái thì tứ đức tam lòng, hôn nhân cho con gái thì phụ mẫu

sở sinh sở định.... nữ nhân ngoại tộc, trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng.

Cái nhìn của Xuân Hương vẻ phụ nữ trong thế chống lại mọi thứ ràng buộc ấy là triệt

để. Đương nhiên không phải có thể bỏ qua tất cả nên có chỗ đành chấp nhận tuân theo khuôn

phép, nhưng nhìn chung tư tưởng chống đối là quyết liệt, thẳng thừng. Tuy nhiên, theo nếp tư

duy có giới hạn của Xuân Hương thì cái diện phản đối không rộng.

Nổi lên là tình cảnh làm lẽ.

Thông cảm với nỗi khổ của người làm lẽ, nhà thơ tố cáo quyết liệt chế độ đa thê. Nữ sĩ

căm ghét cái thói ích kỷ đến mức bỉ ổi của bọn đàn ông giàu sang. Họ lấy vợ lẽ chỉ để thỏa

mãn những ham muốn nhục dục và để sử dụng nhân công lao động không phải trả tiền. Ức

không chịu được,nhà thơ đã văng lời chửi, vạch trần cảnh bị đọa đày của người làm lẽ :

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng .

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung !

Năm thì mười họa hay chăng chớ,

Một tháng đôi lần có cũng không .

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,

Cầm bằng làm mướn, mướn không công .

Thân này ví biết dường này nhĩ,

Thà trước thôi đành ở vậy xong .

(Làm lẽ)

Mở đầu là sự bất công :

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng

43

"Kẻ lạnh lùng" ở đây là người phụ nữ làm lẽ phải chịu bao thiệt thòi về hạnh phác lứa

đôi. Cái "lạnh lùng" ở đây là cái "lạnh lùng" trong lòng người làm lẽ bị đọa đày trong chế độ

đa thê. Phẩn uất, nhà thơ lên tiếng chửi

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung !

Ê chề, chua xót biết bao khỉ hạnh phúc phải chịu may rủi : "năm tỉa mười họa" nhưng

cũng chỉ "hay chăng chờ", khi phải chịu ban phát : " một tháng... đôi lần ..." nhưng lại "có

cùng không":

Năm thì mười họa, hay chăng chớ,

Một tháng đôi lần, có cũng không...

Biết chưa thoát cảnh đau khổ ấy,người phụ nữ làm lẽ đành tủi phận cam chịu :

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,

Cầm bằng làm mướn không công.

Sự bất công ấy không chỉ ở quyền được hưởng hạnh phúc lứa đôi bị mất hết mà họ còn

phải bị hất vào phận tôi đòi, con ở : " làm mướn không công", khổ sở đủ điều.

Xã hội phong kiên đã tạo ra bất công và tội lỗi ấy cho nên phải lên án nó, phải tránh xa,

phải từ bỏ chế độ đa thê do nó tạo ra:

Thân này ví biết dường này nhỉ,

Thà trước thôi đành ở vậy xong

Thông cảm với nỗi đau khổ tủi nhục của con người làm lẽ , lên án chế độ đa thê, Hồ

Xuân Hương đã trân trọng để cao khát vọng được hạnh phúc lứa đôi.

Sự chống đối triệt để nhất có lẽ là trường hợp người con gái rơi vào cảnh dở dang :

chưa có chồng mà có thai. Thói tàn tệ vô nhân đạo của phong kiến và Nho giáo kết tội và

hành hạ người con gái xấu số ấy là cùng cực. Gọi tóc bôi vôi, dẫn đi bêu coi như không đáng

kể. Kìm kẹp tra tấn bắt cung khai người đàn ông nào là người sinh ra cái thai ấy mới đáng sợ.

Còn bao nhiêu lề thói dơ bẩn kể cả đua nhau ăn vạ nhà cô gái đến mức "làng bắt mất trâu"'

của gia đình ... khiến cô gái có khi không sống nổi phải đi tới quyết định khủng khiếp. Xuân

Hương, sau khi bênh vực cho cô gái, ném lên mặt cái xã hội tàn ác. không còn tính người ấy

một câu mỉa mai bỏ ghét : Không có chồng nhưng có con mới là ngoan. Đảo lộn lất cả. Vứt

tuốt tuột xuống hố bùn tất cả những lệ những luật của xã hội ấy...

Bảo vệ con người phụ nữ như thế mới gọi là bảo vệ. Nhân đạo một cách cao cả.

44

Một đối tượng chống đối để bảo vệ người phụ nữ. dù họ là bà vãi hay phụ nữ ngoài đời

bị sa vào tay sư hổ mang, ấy là vào tay các bậc vua chúa. hiền nhân quân tử.

Xuân Hương không bàn bạc gì đến giáo lý nhà Phật. Nhà thơ chỉ tóm lại thành một hiện

tượng mà một thi nhân cho là trái với tự nhiên : là diệt dục. Điều đó không liên quan tới phụ

nữ. Chỉ có liên quan là khi sư chẳng còn là kỉnh kệ mà là kẻ tìm tới phụ nữ để thỏa mãn nhục

dục. Vịnh sư hay là Sư bị ong châm chỉ là một đám lộn tùng phèo, nào mỏ nào chũm chọe,

nào hi nào ha. nào oản nào bà vãi. ông sư, rồi bà cốt nào mũ thâm, rồi ong châm ... kết lại là

một đống tội lỗi bởi sư mà chẳng chân tu. Chống đối thì đơn giản, nhưng tài thơ thì tuyệt

đích, ỡm ỡm ờ ờ, đặt chũm chọe bên giọng hi ha là cái gì vậy, nếu không là cái tiếng bậy bạ

xì ra bên cái chũm chọe ? Cũng như thế đốp vào lưng ông sư khi ởm ờ hỏi : Đi dâu ? đến nỗi

bị ong châm thì chỉ có đi gái thôi, thật là chết điếng mà nhẹ như bỡn, Chị em phụ nữ hãy coi

chừng !

Tóm lại, cái nhìn của Xuân Hương trên bình diện xã hội đối với phụ nữ qua ba hướng

khảo sát, hướng con người cá nhân, hướng ca ngợi, hướng bảo vệ đều là một cái nhìn nhân

đạo chủ nghĩa tốt dẹp tất cả đều nhằm mỗi mục tiêu là làm cho phụ nữ nhận thức được mình

đầy đủ, tin tưởng ở thế mạnh, tài sắc, đức độ của mình và vững tâm đấu tranh vượt qua dần

những rào cản bất công, phi nghĩa của xã hội.

45

KẾT LUẬN

1. Nghiên cứu cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ thực chất là tìm hiểu

quan điểm thái độ của nhà thơ đối với phụ nữ. Đây là vấn đề không mấy dễ dàng. Bởi vì về

vấn đề này đã có những ý kiến khác nhau thậm chí trái ngược nhau giữa các nhà nghiên cứu.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng Hồ Xuân Hương "khủng hoảng tình dục", "cuộc đời

của Hồ Xuân Hương là một trạng thái động tình không ngớt". Do dục tình bị dồn nén, không

thỏa mãn, luôn ám ảnh nên nhà thơ nhìn cái gì cũng thành "cái ấy", nhìn việc gì cũng thành

"việc ấy" làm cho thơ Hồ Xuân Hương "dâm" và "tục", "thi trung hữu qũy". Đó là những ý

kiến không đúng chịu ảnh hưởng một cách thô thiển của phân tâm học Phrớt. Đánh giá thái

độ của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ như thế là chưa thấy hết tính tư tưởng của thơ

Hồ Xuân Hương, là hạ thấp nữ sĩ nổi tiếng của văn học dân tộc.

2. Chúng ta sẽ không hiểu đúng thơ Hồ Xuân Hương và cái nhìn của nữ sĩ đối với phụ

nữ nếu không đặt thơ Hồ Xuân Hương vào thời đại Xuân Hương và hoàn cảnh của nữ sĩ khi

sáng tạo những bài thơ độc đáo ấy. Chế độ phong kiến Việt Nam thời Lê mạt - Nguyễn sơ

đang suy sụp. Kinh tế sút kém, chính trị rối ren, đạo đức đổ vỡ. Nhân dân khốn khổ không

chịu nỗi đã nổi lên đòi quyền được sống, được cơm áo, quyển được hạnh phúc. Một trào lưu

nhân đạo chủ nghĩa, tiếng nói vẻ vang của thời đại xuất hiện.

3. Dù có chỗ còn "mờ mờ tỏ tỏ, như có như không, như không như có" nhưng với

những tư liệu có được, chúng ta vẫn đã có một Hồ Xuân Hương - thi sĩ xuất thân trong một

gia đình phong kiến sa sút thông minh, có học. có tài văn chương cao vót nhưng đường tình

duyên thì nhiều nỗi đắng cay. Con người ấy đã để lại cho văn học dân tộc những bài thơ bất

hủ.

4. Cái nhìn của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ là cái nhìn nhân đạo sâu sắc. Cái

nhìn ấy có nguồn gốc phong phú. Đó là ở quan niệm âm dương, một quan niệm đã giúp nhà

thơ nhìn được quan hệ bình đẳng giữa phụ nữ với nam giới. Đó là ở tư tưởng tiến bộ của nhân

dân trong văn nghệ dân gian, ở tín ngưỡng phồn thực và ở lễ thức văn hóa phồn thực của lễ

hội dân gian. Đó là ở tư tưởng nhân đạo trong văn học đương thời. Đó là ở sự phản đối lễ

giáo, đạo đức phong kiến và Nho giáo. Khơi nguồn từ đó, với cái nhìn mới mẻ đối với người

phụ nữ trên cả hai bình diện tự nhiên và xã hội, Hồ Xuân Hương đã trân trọng ca ngợi vẻ đẹp

về thân xác, về trí tuệ, tài năng, về đạo đức và về hạnh phúc, tình yêu của phụ nữ ; khẳng

định vị trí xã hội của phụ nữ, đấu tranh cho quyền sống, quyền bình đẳng nam nữ, quyền

được hưởng hạnh phúc lứa đôi cả khát vọng bản năng chính đáng. Nhà thơ Pháp Lean Ristat

đã viết : "Người ta sẽ không thể không nhận thấy trong những bài thơ tập hợp ở đây, một thái

46

P1T.

độ táo bạo khiến ta ngưỡng mộ. Trong cuộc đấu tranh của phụ nữ suốt nhiều thế kỷ, sự (1) nghiệp của Hồ Xuân Hương là ngọn hải đăng"1TP33F

5. Cái nhìn nhân đạo chủ nghĩa của Hồ Xuân Hương đối với người phụ nữ mang tính

thời đại và tính hiện đại. Trong sự tỏa chiết của tập tục, lễ giáo, đạo đức phong kiến, Nho

giáo tàn nhẫn dối với phụ nữ, những bài thơ độc đáo của Hồ Xuân Hương không chỉ là một

"ngọn hải đăng" dưới chế độ phong kiến đen tối bấy giờ mà còn là "ngọn hải đăng" trong

cuộc đấu tranh vì vai trò, vị trí xã hội của phụ nữ thế giới nói chung và của phụ nữ nước ta

nói riêng thời nay.

Bởi lẽ, khi nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, trên hành tinh của chúng ta, ngay cả ở

các nước phát triển, chưa nói gì đến các nước đang phát triển và nhất là ở các nước chậm phát

triển, thói tệ "nam tôn nữ ti". "đàn bà là tội lỗi" ,mọi hành động bóc lột, chà đạp, rẻ rùng. xúc

phạm đến thân thể và nhân phẩm phụ nữ chưa phải đã được xóa bỏ. Biết. bao phụ nữ sẽ được

ấm lòng khi đọc thơ Hồ Xuân Hương, bởi trái tim Hồ Xuân Hương luôn nhạy cảm với tất cả

những gì hạ thấp người phụ nữ làm cho họ đau khổ và buồn phiền trong cuộc đời. Đấu tranh

cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, vì sự tiến bộ, bình đẳng và phát triển của phụ nữ đã, đang

và sẽ luôn luôn còn là vấn đề mang tính thời sự. Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, về sự nghiệp

thơ Hồ Xuân Hương. chúng ta thấm thía lời Bác Hồ kính yêu dành cho phụ nữ: "Nếu không

giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ

(1)

thì xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa."1TP34F

Hồ Xuân Hương mãi mãi là nhà thơ rất đáng tự hào, trân trọng, yêu mến trong trào lưu

nhân đạo chủ nghĩa của văn học chúng ta.

(1) Jean Ristat - Bài tựa Tuyển lập thơ Hồ Xuân Hương bằng tiếng Pháp. Pari, 1987. Dần ở cuốn Thơ Hồ Xuân Hương, Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, 1989 trang 85. (1) Hồ Chí Minh - Toàn tập - tập VIII. Nhà xuất bản sự thật Hà Nội 1985 trang 498.

47

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. SÁCH :

I. SÁCH CHUYÊN ĐỀ VỀ HỒ XUÂN HƯƠNG

1. Hoa Bằng - Hồ Xuân Hương, nhà thơ cách mạng - Nhà xuất bản Bốn Phương, Sài

Gòn. 1951.

2. Xuân Diệu - Hồ Xuân Hương, bà chúa thơ nôm - Nhà xuất bản Phổ Thông, 1961.

3. Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Viêt Nam - Nhà xuất bản Văn học, 1987.

4. Nguyễn Văn Hanh - Hồ Xuân Hương tác phẩm. thân thế và văn tài - Nhà sách Khai

Trí, Sài Gòn, in lần thứ III, 1970.

5. Hòang Xuân Hãn - Thiên tình sử Hồ Xuân Hương - Nhà xuất bản Văn học, 1995.

6. Hồ Sĩ Hiệp - Văn học trong nhà trường - Phần Hồ Xuân Hương - Nhà xuất bản Văn

nghệ TP.Hồ Chí Minh, 1996.

7. Nguyễn Lộc - Thơ Hồ Xuân Hương - Nhà xuất bản Văn học, 1982.

8. Nguyễn Lộc - Thơ Hồ Xuân Hương - Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội xuất bản

1986.

9. Đặng Đình Lưu - Nữ sĩ Tây Hồ - Tiểu thuyết - Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội

1995.

10. Lữ Huy Nguyên - Hồ Xuân Hương thơ và đời - Nhà xuất bản Văn học, 1996

11. Văn Tân - Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, văn học và giáo dục - Nhà xuất bản

Sông Lô, Hà Nội 1955.

12. Bùi Bội Tình - Tình sử Hồ Xuân Hương - Tiểu thuyết -Nhà xuất bản Phụ Nữ, 1996.

13. Trương Tửu - Văn nghệ bình dân Việt Nam - Văn hóa

mới xuất bản. 1951 ở Liên khu IV.

14. Đào Thái Tôn - Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục - Nhả xuất bản Giáo

dục, 1995.

15. Thôn Văn - Thơ Hồ Xuân Hương - Hội Liên hiệp Phụ nữ và Hội Văn nghệ Hà Nội

xuất bản 1982.

16. Lê Trí Viễn - Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương - Sở Giáo dục Nghĩa Bình xuất bản

1987.

48

17. Lê Trí Viễn - Thơ Hồ Xuân Hương - Trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh ấn

hành 1989.

18. Nhiều tác giả - Bình luận văn học, Phần Hồ Xuân Hương - Nhà xuất bản Tổng hợp

Khánh Hòa, 1992.

II. SÁCH KHÁC

19. Toan Ánh - Hội hè đình đám, Quyển thượng - Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh,

1992.

20. Toan Ánh - Hội hè đình đám, Quyển hạ - Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1992.

21. M.Ba Khtin - Lý luận và thỉ pháp tiểu thuyết - Trường Viết văn Nguyễn Du, xuất

bản 1992.

22. Lý Khắc Cung - Những mảnh đời tài hoa - Nhà xuất bản Thanh niên, 1997.

23. Nguyễn Du - Truyện Kiều - Nhà xuất bản ĐH & THCN, 1972.

24. Lê Bá Hán và ... - Từ điển thuật ngữ văn học - Nhà xuất bản Giáo dục, 1992.

25. Phạm Đình Hổ - Vũ Trung tùy bút - Nhà xuất bản Hà Nội, 1960.

26. Đỗ Đức Hiểu - Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa - Nhà xuất bản Văn học Hà

Nội, 1978.

27.Đỉnh Gia Khánh - Văn học dân gian Việt Nam. trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á

- Nhà xuất bản KHXH 1993.

28.Vũ Khiêu - Anh hùng và Nghệ sĩ - Nhà xuất bản Giải Phóng, 1975.

29.Nguyễn Hiến Lê - Kinh Dịch, đạo của người quân tử -Nhà xuất bản Văn học, 1994.

30.Đặng Thanh Lê - Truyện Kiều và thể loại truyện nôm - Nhà xuất bản KH-XH 1974.

31.Phùng Quý Nhâm - Thẩm định văn học - Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh,

1991.

32.Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập II - Sách ấn hành Sài

Gòn 1961. Tái bản : Nhà xuất bản Đồng Tháp. 1997.

33.Phạm Thiên Sơn - Bài giảng lịch sử Triết học - Trường Đại học Y khoa TP. Hồ Chí

Minh xuất bản 1997.

34.Phạm Côn Sơn - Phụ nữ trong đời sống xã hội - Nhà xuất bản Đồng Tháp, 1996.

49

35.Trần Đình sử và ... - Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam - Nhà xuất

bản Giáo dục, 1997.

36.Lê Ngọc Trà và Lâm Vinh - Đi tìm cái đẹp - Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1984.

37. Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh và Huynh Như Phương - Mỹ học đại cương - Nhà xuất bản

Văn hóa Thông tin, 1994.

38. Nguyễn Văn Trung - Lược thảo văn học III - Nam sơn xuất bản. Sài Gòn 1968.

39. Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc - Nhà xuất bản Văn học, 1986.

40. Nguyễn Bá Vân - Tranh dân gian Việt Nam - Nhà xuất bản Văn hóa, 1984.

41. Lê Trí Viễn - Đặc điểm có tính quy luật của lịch sử văn học Việt Nam - Trường Đại

học sư phạm TP. Hồ Chí Minh xuất bản, 1984.

42. Ngô Gia Văn Phái - Hoàng Lê Nhất Thống Chí - Nhà xuất bản Giáo dục, 1978.

43. Nhiều tác giả - Những ý kiến về văn học dân gian Việt Nam - Nhà xuất bản KH-XH

Hà Nội 1969.

44. Nhiều tác giả - Điển cố văn học - Nhà xuất bản KH-XH Hà Nội 1977.

45. Nhiều tác giả - Lịch sử văn học Việt Nam tập III -Nhà xuất bản Giáo dục, 1978.

46. Nhiều tác giả - Triết học tập I (dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không

chuyên ngành Triết học)- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1993.

47. Nhiều tác giả - Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (Thế kỷ VIII - Nửa dầu thế kỷ XIX)-

Nhà xuất bản Văn học, 1978.

48. Danh ngôn phái đẹp - Nhà xuất bản Đồng Nai, 1997.

B. BÁO & TẠP CHÍ

49. Trần Thanh Mại - Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương. Tạp

chí Nghiên cứu văn học, số 4, 1961.

50. Nguyễn Nghiệp và Trương Quang Kiến - Tìm hiểu ý thức tư tưởng chỉ đạo trong

thơ Hồ Xuân Hương. Tạp chí Văn học, số 9, 1961.

51.Chế Lan Viên - Một. bức thư . Tạp chí Văn nghệ số 6 1962.

52. Nguyễn Đức Bính - Người cổ Nguyệt, chuyện Xuân Hương. Tạp chí Văn nghệ, số

l0, 1982.

50

53. Đặng Thanh Lê - Góp thêm một tiếng nói trong việc đánh giá thơ Hồ Xuân Hương.

Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3, 1963.

54. Trần Thanh Mại - Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương, tạp chí Văn học, số l0, 1964.

55. Trần Thanh Mại - Lưu hương ký và lai lịch phát triển của nó. Tạp chí Vãn học, số

l1, 1964.

56. Đào Thái Tôn - Hồ Xuân Hương có quan hệ họ hàng gì với Nguyễn Huệ không.

Tạp chí Văn nghệ, số 4, 1971.

57. Lê Thước và Trương Chính - Thơ Hồ Xuân Hương gởi Nguyễn Du. Báo Văn nghệ,

số 428, ngày 24/12/1971.

58. Hồ Tuấn Niêm - Bàn lại một đôi điều về tiểu sử Hồ Xuân Hương. Tạp chí Văn học,

số 1, 1972.

59. Phương Trí - Tư liệu về Hồ Xuân Hương trên đất Nam Hà. Tạp chí Văn học, số 3,

1974.

60. Đào Thái Tôn - Xuân Đường đàm thoại trong tiến trình dân gian hóa thơ Hồ Xuân

Hương. Tạp chí Văn học, số 6, 1978.

61. Xuân Diệu - Tính tư tưởng trong ba bài thơ Hồ Xuân Hương. Tạp chí Văn học, số

3, 1980.

62. Đỗ Đức Hiểu - Thế giới thơ nôm Hồ Xuân Hương, tạp chí Văn học, số 5, 1980.

63. Mai Quốc Liên - Bàn lại chuyện Xuân Hương - Báo Văn nghệ Tết Giáp Tuất, số 5,6

- 1994.

64. Vương Trí Nhàn - Một ham muốn thật đẩy đà, thật trọn vẹn. Tạp chí Văn hóa - Thể

thao - Xuân Giáp Tuất, 1994.

65. Lê Xuân Sơn - Hai chàng theo đuổi Xuân Hương. Báo Tiền Phong, số 4, ngày

28/01/1996.

66. Phương Lựu - Tản mạn về văn nghệ với tính dục. Tạp chí Văn học, số 3, 1996.

67. Vũ Trí Tuyết - Nhà nghiên cứu văn học Ni-Cu-Lin với Truyện Kiều của Nguyễn

Du. Tạp chí Văn học, số 4. 1996.

68. Bùi Đăng Sinh - Hồ Xuân Hương và ông Phủ Vĩnh Tường. Báo Đại Đoan Kết, số

86, ngày 24/10/1996.

51

69. Mai Văn Hoan - Mới quyệt hay đã quyệt. Báo Giáo dục và Thời đại chủ nhật, số 16,

ngày 20/04/1997.

70. Nguyễn Quốc Thái - Chiêu Hổ là ai. Báo Giáo dục và Thời đại chủ nhật. số 24,

ngày 15/06/1997.

71. Trần Linh Lan - Oan cho Hồ Xuân Hương và bài thơ Khóc Tổng Cóc. Báo Giáo

dục và Thời đại, số 4, ngày 12/01/1996.

72. Ngọc Anh - Cái nhìn "tiện thể" của Hồ Xuân Hương. Báo Giáo dục và Thời đại. số

28, ngày 11/04/1997.

73. Hòang Thị Bích Ngọc - Tiếng nói của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Tác

phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam, số 3, 1997.

74. Phạm Duy Kha - "Đánh ghen", một kiệt tác của nghệ nhân dân gian. Tạp chí Thế

giới trong ta, số 47, 1997.

75. Trần Thái Bình - Nguyễn Du người tình của Hồ Xuân Hương ? Báo Đại Đoan Kết,

số chuyên đề cuối tháng 31-32, 1997.

52