Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan - Việt Nam 1979 - 1991
lượt xem 39
download
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan - Việt Nam 1979 - 1991 bao gồm những nội dung khái quát quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1967 – 1979; vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1979 – 1986 và 1986 - 1991.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan - Việt Nam 1979 - 1991
- THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________________ ĐINH ĐỨC DUY VẤN ĐỀ CAMPUCHIA TRONG QUAN HỆ THÁI LAN VIỆT NAM 1979-1991 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ PHỤNG HOÀNG Thành Phố Hồ Chí Minh - 2009
- LỜI CAM ĐOAN Tác giả luận văn xin cam đoan với Hội đồng khoa học cùng đọc giả, đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các chứng cứ và số liệu làm cơ sở được trình bày trong luận văn là do chính bản thân sưu tầm, sắp xếp, đánh giá mang tính trung thực và chưa được công bố đầy đủ như thế trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác. Các nội dung trích dẫn trong luận văn đều có nguồn gốc cụ thể, mang tính khoa học. Các tài liệu tham khảo để hoàn thành luận văn đều được vinh diện trong công trình này. Với danh dự của người nghiên cứu, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước sự cam đoan của mình. Tác giả luận văn ĐINH ĐỨC DUY
- LỜI CẢM ƠN Để có thể hoàn thành được luận văn với đề tài Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan - Việt Nam (1979 – 1991), tôi chân thành cám ơn TS. Lê Phụng Hoàng đã trực tiếp hướng dẫn nhiệt tình để tôi hoàn thành luận văn này. Cám ơn PGS. TS Ngô Minh Oanh và các giảng viên đã truyền thụ kiến thức và có những gợi ý quý báu cho tôi trong cả quá trình học tập. Cám ơn sự giúp đỡ nhiệt thành của Thượng tá Nguyễn Đình Khán, cám ơn đơn vị công tác Trường THPT Bình Phú và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN : Hiệp hội các nước Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations) CGDK : Chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ. (Coalition Government of Democratic Kampuchea). IMC : Cuộc gặp gỡ không chính thức về Campuchia. (Informal Meeting on Cambodia) JIM : Cuộc gặp gỡ không chính thức ở Jakarta. (Jakarta Informal Meeting) PICC : Hội nghị quốc tế Paris giải quyết vấn đề Campuchia. (Paris International Conference on Cambodia). SNC : Hội đồng dân tộc tối cao Campuchia. (Supereme National Council) UNHCR: Cao ủy Liên Hợp Quốc về vấn đề người tị nạn. (United Nations High Commissioner for Refugees).
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là nước láng giềng của Thái Lan, hai nước cùng nằm trong khu vực Đông Nam Á thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đều chịu ảnh hưởng lớn của Phật giáo đồng thời có một nền văn minh nông nghiệp lâu đời và rất phong phú. Lịch sử của mối quan hệ lâu đời giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam đã chứng kiến rất nhiều giai đoạn thăng trầm, phức tạp và chịu sự chi phối của nhiều nhân tố. Hai nước đã từng xảy ra xung đột với nhau, vào thế kỉ XVIII Thái Lan từng đem quân xâm lược Việt Nam và thất bại dưới tay Nguyễn Huệ. Trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, do tranh giành phạm vi ảnh hưởng trong khu vực, cụ thể là ở Cao Miên và Ai Lao dẫn đến mối quan hệ hai nước nhiều lúc trở nên rất căng thẳng và thậm chí nhiều lần xung đột với nhau. Lịch sử đã minh chứng, trong mối quan hệ giữa Thái Lan – Việt Nam có nhiều vấn đề mâu thuẫn và sự hiểu lầm gây ảnh hưởng xấu không chỉ đến quan hệ giữa hai nước mà còn ảnh hưởng đến cả khu vực. Trong những năm 60 và 70 của thế kỉ XX, Thái Lan trở thành đồng minh thân cận của Mĩ trong cuộc chiến tại Việt Nam, không chỉ cho Mĩ xây dựng các căn cứ quân sự trên lãnh thổ mình, Thái Lan còn trực tiếp đưa quân sang tham chiến ở Việt Nam. Giai đoạn 1979 - 1991 mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trở nên rất căng thẳng xung quanh vấn đề Campuchia. Chính vấn đề này dẫn đến những mâu thuan, hiểu lầm, ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ hai nước, tác động không tốt đến sự phát triển của hai nước nói riêng cũng như sự ổn định và phát triển của cả khu vực Đông Nam Á nói chung. Lịch sử luôn tôn trọng hiện thực khách quan, tuy không phải hiện thực khách quan nào cũng phải nói, nhưng khi đã nói cần phải nói đúng hiện thực khách quan. Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu quá khứ để hiểu thực tại và có cái nhìn viễn minh cho tương lai. Do vậy, chúng tôi cố gắng tái hiện lại lịch sử sao cho tiệm cận với hiện thực khách quan để công trình nghiên cứu có giá trị cho thực tiễn. Hiện nay, hai nước Thái Lan và Việt Nam là thành viên của tổ chức ASEAN cùng nhau hợp tác để thúc đẩy đất nước phát triển, xây dựng một Đông Nam Á hòa
- bình, ổn định và thịnh vượng. Nghiên cứu mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam xung quanh vấn đề Campuchia sẽ giúp chúng ta rút ra được nhiều bài học bổ ích, tránh những yeu tố tiêu cực và sai lầm. Phát huy hơn nữa những yếu tố tích cực nhằm thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước trong xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới. Vì lợi ích của hai dân tộc, vì ổn định và phát triển trong khu vực. Đặc biệt, trong hoàn cảnh thế giới và khu vực đang có xu thế hội nhập ngày càng diễn ra mạnh mẽ, trong đó khối ASEAN đang có những bước tiến nhằm tiến tới hội nhập sâu rộng hơn. Riêng bản thân tôi nhận thấy, đây là một nội dung thú vị mà tôi rất quan tâm. Để có một đất nước Campuchia hòa bình, ổn định và phát triển như ngày nay có sự đóng góp không ít xương máu của người thân tôi nói riêng và các chiến sĩ Việt Nam nói chung. Qua nghiên cứu đề tài này, giúp tôi hiểu biết thêm về vấn đề Campuchia, về đất nước, văn hoá, con người và lịch sử của Thái Lan và mối quan hệ đầy thăng trầm của Việt Nam với người láng giềng Thái Lan. Đặc biệt giúp tôi hiểu biết thêm những vấn đề phức tạp trong các mối quan hệ quốc tế. Qua đó giúp cho quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy của tôi đạt kết quả tốt hơn. 2. Lịch sử vấn đề Luận văn cao học Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1979 – 1991 được nghiên cứu và viết dựa trên cơ sở chính là các tài liệu gốc của cả hai phía Thái Lan và Việt Nam. Các tài liệu gốc phía Việt Nam phản ánh đầy đủ quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Campuchia cũng như đối với Thái Lan được thể hiện qua các thông cáo chung của Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước Việt Nam, Lào và Campuchia họp luân phiên hàng năm bắt đầu từ tháng 1/1980 – 8/1986 được đăng tải đầy đủ trên Báo Nhân dân. Các thông cáo chung đã thể hiện khá rõ lập trường của Việt Nam về vấn đề Campuchia liên quan đến quan hệ Việt Nam và Thái Lan như vấn đề người tị nạn, đòi Thái Lan chấm dứt hợp tác với Trung Quốc trong việc
- tiếp tay cho Khmer đỏ, xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan, kêu gọi Thái Lan chấm dứt hành động dung túng cho thế lực Khmer đỏ và việc tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia. Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam cũng được đề cập một phần trong các công trình nghiên cứu của một số tác giả khi nghiên cứu các công trình khoa học nhưng có ít nhiều liên quan đến vấn đề này. Có thể kể đến, Nguyễn Tương Lai (2001) với Quan hệ Việt Nam – Thái Lan trong những năm 90, NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội, tác giả đứng trên lập trường của Việt Nam có đề cập đến vấn đề Campuchia gây tác động không tốt đến quan hệ Việt Nam – Thái Lan nhưng để hiểu sự tác động do những yếu tố cụ thể nào cần phải nghiên cứu thêm để làm rõ; Trịnh Diêu Thìn – Thanyathit Sripana (2006) với Việt kiều Thái Lan trong mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam NXB Khoa học Xã hội – Hà Nội cũng có đề cập đến vấn đề Campuchia gây ảnh hưởng không tốt đến chính sách của chính phủ Thái Lan đối với Việt kiều tại Thái Lan, tuy nhiên đây chỉ là một trong những nhân tố ảnh hưởng xấu đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam, còn rất nhiều nhân tố khác liên quan cần phải nghiên cứu. Trong luận văn thạc sĩ đề tài Quan hệ Campuchia – Việt Nam từ 1985 đến 2006 của Nguyễn Quang Thuần (2007) đứng trên lập trường của Việt Nam tác giả có đề cập đến vấn đề Campuchia với lập luận không có vấn đề Campuchia nên chưa thấy được bản chất phức tạp của vấn đề này. Luận án tiến sĩ Quan hệ Việt Nam – Thái Lan (1976 - 2004) của tác giả người Thái Lan Thananan Boonwana, đứng trên lập trường của Thái Lan, tác giả có dành một phần nội dung nói đến vấn đề này. Trong đó tác giả xem việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia là vấn đề chính ảnh hưởng đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam. Thực tế cần phải nghiên cứu trên nhiều mặt có cái nhìn đa diện mới hiểu hết tính chất phức tạp của vấn đề Campuchia cũng như sự tác động cụ thể đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam. TS. Lê Phụng Hoàng với Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh, tác giả dành trọn chương X để nói về vấn đề Campuchia trong đó có đề cập đến lập trường, quan điểm của Thái Lan và Việt Nam xung quanh vấn đề này. Tuy nhiên để làm rõ tác động của vấn đề Campuchia
- đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam cần phải nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ thêm nhiều vấn đề liên quan đến mối quan hệ hai nước. Bên cạnh đó còn có một số công trình khác có đề cập một phần đến vấn đề này như Clack D. Neher and Politic in Southeast Asia, Rochester; Frederic A Moritz and The refugee people of VietNam, Chiritian Science Monitor… Ngoài ra các thông tin về vấn đề Campuchia trong đó thỉnh thoảng có đề cập đến tác động của vấn đề này trong quan hệ Thái Lan - Việt Nam có thể tìm thấy qua báo chí và các phương tiện thông tin như: Bưu điện Bangkok (Bangkok Post), Đài BBC, The Times, Reuter, Le Matin, Le Figaro, Christian Science Monitor, NewsYork Times, Newsweek, USIS, Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Báo Nhân dân và các bản dịch của TTXVN trong các tập tài liệu Tham khảo Đặc biệt. Phần tài liệu gốc phía Thái Lan có thể kể đến Association of Southeast, Joint Press Release of The first Asean, Ministerial Meeting, Bangkok, 8 August 1967; Joint Communique of The Second Asean, Ministerial Meeting Jakarta, 6 – 7 August 1968; Joint Communique of The Third Asean, Ministerial Meeting Cameron Highlands, 16 – 17 December 1969; Joint Communique of The Fourth Asean, Ministerial Meeting Manila, 12 – 13 March 1971; Joint Communique of The Fifth Asean, Ministerial Meeting Singapore, 13 – 14 March 1972; Joint Communique of The Sixth Asean, Ministerial Meeting Pattaya, 16 – 18 April 1973; Joint Communique of The Seventh Asean, Ministerial Meeting Jakarta, 7 – 9 May 1974; Joint Communique of The Eighth Asean, Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 13 – 15 March 1975; Joint Communique of The Ninth Asean, Ministerial Meeting Manila, 24 – 26 June 1976; Joint Communique of The Tenth Asean, Ministerial Meeting Singapore, 5 – 8 July 1977; Joint Press Release of The Eleventh Asean, Ministerial Meeting Pattaya, 14 – 16 June 1978; Joint Communique of The Twelfth Asean, Ministerial Meeting Bali, 28 – 30 June 1979; Joint Communique of The Thirteenth Asean, Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 25 – 26 June 1980; Joint Communique of The Fourteenth Asean, Ministerial Meeting Manila, 17 – 18 June 1981; Joint Communique of The Fifteenrth Asean, Ministerial Meeting Singapore,
- 14 – 16 June 1982; Joint Communique of The Sixteeth Asean, Ministerial Meeting Bangkok, 24 – 25 June 1983; Joint Communique of The Seventeenrth Asean, Ministerial Meeting Jakarta, 9 – 10 July 1984; Joint Communique of The Eiteenrth Asean, Ministerial Meeting Kuala Lumpur, 9 July 1985; Joint Communique of The Ninteenrth Asean, Ministerial Meeting Manila, 23 –28 June 1986; Joint Communique of The Twentienth Asean, Ministerial Meeting Singapore, 15 – 16 June 1987; Joint Communique of The 21st Asean, Ministerial Meeting Bangkok, 4 – 5 July 1988; Joint Communique of The 22nd Asean, Ministerial Meeting Bandar Seri Begawan, 3 – 4 July 1989; Joint Communique of The 23rd Asean, Ministerial Meeting Jakarta, 24 – 25 July 1990; Joint Communique of The twenty-fourth Asean, Ministerial Meeting kuala Lumpur, 19 – 20 July 1991: http://www.aseansec.org. Đây là các thông cáo chung của Hội nghị cấp Bộ trưởng các nước ASEAN họp luân phiên diễn ra hàng năm từ 1967 đến 1991 và được xem là loại tài liệu gốc bằng tiếng Anh hết sức quý giá cho quá trình nghiên cứu. Trong đó có những thông cáo chung từ năm 1979 – 1991 thể hiện rõ quan điểm, lập trường của Thái Lan nói riêng, các nước ASEAN nói chung về vấn đề Campuchia cũng như đối với Việt Nam xung quanh vấn đề này. Các thông cáo cũng đề cập đến những nội dung cụ thể xung quanh vấn đề Campuchia có tác động đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam như: Vấn đề người tị nạn, xung đột tại biên giới Campuchia – Thái Lan, Thái Lan lên án Việt Nam xâm phạm lãnh thổ Thái Lan, đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia. Do đó việc tập hợp, đánh giá để hiểu vấn đề là nhiệm vụ cần thiết của người nghiên cứu. Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả cố gắng sưu tầm tất cả những tài liệu liên quan trong phạm vi có thể rồi sắp xếp, nghiên cứu nhằm làm rõ hơn vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1979 – 1991 đồng thời cũng mong có thể rút ra được những giá trị khoa học phục vụ cho thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm kiểm chứng khả năng học tập và nghiên cưu của chính tác giả, đây cũng là bài thu hoạch bổ ích kết thúc chương trình đào
- tạo sau đại học. Thông qua đây, bản thân tác giả muốn phát huy khả năng nghiên cứu, tìm tòi và sáng tạo trong nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của mình, thể hiện việc học và hành gắn liền với nhau. Qua đó giúp tác giả biết thêm được nhiều kiếm thức bổ ích cho bản thân để phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy của mình. Đề tài cũng góp phần tìm hiểu và làm sáng tỏ thêm những nội dung liên quan đến vấn đề Campuchia ảnh hưởng đến mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn 1979 – 1991 để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm giúp mối quan hệ Thái Lan và Việt Nam ngày càng phát triển. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính là tác động của vấn đề Campuchia đến mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1979 – 1991. Trong đó luận văn cố gắng làm rõ được những vấn đề mấu chốt để làm nổi bật bản chất của những vấn đề cần nghiên cứu. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở lấy những tài liệu gốc làm cơ sở chính để nghiên cứu và tham khảo một số công trình khác của các nhà nghiên cứu có liên quan cũng như phỏng vấn một số nhân chứng từng sống và chiến đấu tại Campuchia. Tác giả muốn nghiên cứu một cách đa chiều, cố gắng đi sâu vào tìm hiểu bản chất của vấn đề Campuchia và những tác động đến mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam từ 1979 - 1991. 6. Giới hạn đề tài Để người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về quan hệ Thái Lan – Việt Nam, tác giả dành Chương 1 để giới thiệu về quan hệ Thái Lan – Việt Nam từ 1967 – 1979 trong đó có giới thiệu khái quát về quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong lịch sử và mối quan hệ Thái Lan –Việt Nam kể từ khi Thái Lan là thành viên của tổ chức ASEAN (1967) cho đến khi diễn ra vấn đề Campuchia (1979). Chương 2: Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1979 – 1986 và Chương 3: Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1986 – 1991. Sở dĩ tác giả chọn mốc 1986 để kết thúc Chương 2 và mở
- đầu cho Chương 3 bởi chính lúc này thái độ của Thái Lan đối với Việt Nam bắt đầu thay đổi. Ngược lại, Việt Nam cũng bắt đầu thay đổi thái độ của mình đó là chấp nhận một giải pháp chính trị cho việc giải quyết toàn diện cuộc xung đột tại Campuchia. Mốc 1991 là lúc vấn đề Campuchia được giải quyết bằng biện pháp chính trị với vai trò của Liên Hợp Quốc. 7. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở tài liệu gốc cùng các loại tài liệu liên quan và các chứng cứ khoa học để tiếp cận đối tượng với mục đích tiệm cận với hiện thực. Áp dụng phương pháp logic, phương pháp sử học so sánh, phương pháp định lượng, phương pháp liên ngành, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế…Với các kĩ thuật cơ bản như tìm, đọc, phân loại, nghiên cứu, đánh giá, phân tích và tổng hợp để từ đó rút ra những luận cứ khoa học có giá trị cho thực tiễn và giáo dục. Việc nghiên cứu chắc hẳn không tránh khỏi thiếu sót, mong quý thầy cô và các đọc giả đóng góp ý kiến để việc nghiên cứu các đề tài lần sau đạt kết quả tốt hơn. 8. Bố cục của luận văn Chương 1 : Khái quát quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1967 – 1979. Chương 2 : Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1979 – 1986. Chương 3 : Vấn đề Campuchia trong quan hệ Thái Lan – Việt Nam giai đoạn 1986 – 1991. Chương 1 KHÁI QUÁT QUAN HỆ THÁI LAN – VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1967 – 1979 1.1. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong lịch sử cho đến năm 1967 Để hiểu mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam được sâu sắc hơn chúng tôi xin điểm qua một vài nét về mối quan hệ hai nước trong lịch sử để thấy được sự thăng
- trầm và phức tạp trong quan hệ của hai nước láng giềng này. Thái Lan và Việt Nam xét về yếu tố địa lý là rất gần gũi nhau, cả hai nước đều có những nét ảnh hưởng chung của thời tiết, khí hậu và cũng chính từ đó tạo nên những yếu tố văn hoá rất tương đồng. Hơn nữa xét về nguồn gốc, cư dân hai nước có mối quan hệ rất gần gũi (nguồn gốc Mônggôlôít Phương Nam) trên lãnh thổ Việt Nam cũng có người Thái sinh sống và ngược lại. Nói đến quan hệ Thái Lan – Việt Nam là nói đến một khoảng thời gian dài với biet bao sự kiện, biến cố thăng trầm trong mối quan hệ này. Quan hệ giữa hai nước Thái Lan (lúc đó gọi là Xiêm) – Việt Nam đã có từ rất lâu đời, theo sách Đại Việt sử kí toàn thư, ở thế kỉ XI dưới thời nhà Lý đã có các thuyền buôn người Thái đến Vân Đồn dâng phẩm vật để được buôn bán. Trãi qua nhiều thế kỷ, lịch sử đã chứng kiến mối quan hệ hai nước xảy không ít biến cố. Trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, quan hệ giữa Thái Lan với các chúa Nguyễn ở Đàng trong không ít lần xảy ra xung đột và đụng độ với nhau. Sau khi nền thống trị của chúa Nguyễn bị phong trào Tây Sơn lật đổ, nhân cơ hội đó Thái Lan đem quân sang xâm lược Việt Nam nhưng đã bị Nguyễn Huệ đánh bại trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút (1785). Sau khi Nguyễn Anh đánh bại phong trào Tây Sơn và lập nên triều Nguyễn (1802) mối quan hệ hai nước Thái – Việt nhìn chung là hòa hiếu nhưng đến cuối thời Minh Mạng và Thiệt Trị hai nước Thái – Việt thường hay xảy ra xung đột với nhau. Trong những nguyên nhân dẫn đến xung đột, rất nhiều lần xuất phát từ việc hai bên tranh giành ảnh hưởng với nhau ở Cao Miên (Campuchia). Nửa cuối thế kỷ XIX khi Việt Nam bị Pháp xâm lược và áp đặt ách đô hộ thì mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam về mặt nhà nước xem như tạm thời gián đoạn, nhưng mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam vẫn diễn ra với nhiều hình thức khác nhau. Trong khi Thái Lan ra sức học hỏi phương Tây để canh tân đất nước và thực hiện chính sách ngoại giao rất khôn khéo là lấy nước lớn kiềm chế nước lớn, ngả theo chiều gió giúp Thái Lan trở thành nước duy nhất ở Đông Nam Á cơ bản vẫn
- giữ vững được nền độc lập của mình. Ngược lại, Việt Nam phải ra sức chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Năm 1910 Trại Cày ở Thái Lan chính thức đón nhận hơn 50 thanh niên Việt Nam du học trong phong trào Đông du bị Nhật trục xuất trở về, ngoài ra còn tiếp nhận thêm một số thanh niên là dân lao động từ Thượng Hải theo Phan Bội Châu vào để gây dựng cơ sở. Hoạt động của Phan Bội Châu tại Thái Lan đã được Bộ trưởng Quốc phòng Komphagia của Thái Lan giúp đỡ khi ông sống ở bản Đông Phichit trong thung lũng Chaophonaya ở phía bắc Bangkok. Tuy nhiên, năm 1915 Thái Lan kí với Pháp bản cam kết trao trả cho Pháp một số chiến sĩ Việt Nam hoạt động trong phong trào vận động yêu nước của Việt kiều tại Thái Lan trong đó có Trần Hữu Lục, Hoàng Trọng Mậu mà sau đó đã bị Pháp giết hại. Phong trào hoạt động yêu nước của Việt kiều Thái Lan với chi hội Việt Nam Quang phục hội làm trung tâm rơi vào tình thế hết sức khó khăn tuy vẫn tồn tại nhưng tạm thời lắng xuống. Năm 1921 Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Phạm Hồng Thái cũng từ Thái Lan sang Trung Quốc cùng những người của phong trào Duy Tân ở đây thành lập tổ chức Tâm Tâm xã. Đến 1925 Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phái người về Thái Lan tổ chức hội Thân ái nhằm tập hợp kiều bào đoàn kết để giác ngộ cách mạng. Từ 1926 trở đi, hội Thân ái lần lượt được tổ chức ở Udon là trung tâm của cuộc vận động Việt Kiều ở Thái Lan, ngoài ra còn có Sakon, Nakhon Phanom. Mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam ở đầu thế kỉ XX còn được thể hiện thông qua những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ai Quốc ở Thái Lan được sự đồng tình ủng hộ của người Việt Nam ở Thái Lan và một bộ phận nhân dân Thái Lan. Thực tế trên đất Thái Lan những năm đầu của thế kỉ XX đã có nhiều người Việt là binh lính của Nguyễn Anh cư ngụ tiếp đó là đồng bào ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị... do không chịu hợp tác với chính quyền Pháp, một số lo ngại bị bắt sau các phong trào cách mạng yêu nước cũng vượt biên giới sang Lào rồi đến Thái Lan. Đồng bào Việt kiều ở Thái Lan lúc đó có khoảng 2 vạn người gồm người lương nhưng cũng có một số người theo đạo Kito, phần lớn họ có tinh thần yêu
- nước và ủng hộ các phong trào như Cần Vương, Duy Tân hoặc Đông Du. Sau khi các phong trào này thất bại, một số nhà hoạt động yêu nước đã tạm lánh sang Thái Lan như Ngô Quảng, Thần Sơn, Đặng Tử Kính, Phan Bội Châu mang tư tưởng trú ngụ ở Thái Lan để chiêu binh rồi về nước đánh Pháp nên chưa có các hoạt động tuyên truyền và tổ chức kiều bào quy mô như Nguyễn Ai Quốc sau này. Chỉ khi tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên do Nguyễn Ai Quốc thành lập (6/1925) mới có chủ trương tuyên truyền và tổ chức kiều bào để làm cơ sở nối liền phong trào cách mạng trong và ngoài nước. Khi còn hoạt động ở Trung Quốc, Nguyễn Ai Quốc đã sớm có kế hoạch sang Thái Lan hoạt động nên cử Hồ Tùng Mậu qua đó nắm tình hình để gây dựng cơ sở ở vùng Đông Bắc Thái Lan mà bản Mạy thuộc tỉnh Nakhon Phanom (cách Băng Cốc khoảng 600 km về phía Đông Bắc) là căn cứ tiêu biểu. Khoảng 1928 – 1929 ở Thái Lan, Nguyễn Ai Quốc có tên là Thầu Chín hoạt động bí mật, giữ kín tung tích đồng thời được bà con Việt Kiều, sư sãi và một bộ phận nhân dân Thái Lan đùm bọc. Tại Thái Lan, Nguyễn Ai Quốc cho xuất bản tờ báo Thân ái (trên cơ sở tiền thân là tờ báo Đồng thanh do Đặng Thúc Hứa sáng lập) nhằm thức tỉnh và kêu gọi tinh thần yêu nước của các kiều bào Việt Nam ở Thái Lan. Nguyễn Ai Quốc chủ trương mở rộng tổ chức, củng cố cơ sở cần thiết, tuyên truyền giáo dục kiều bào, tôn trọng phong tục tập quán và giữ luật pháp của người Thái, đồng thời làm cho quần chúng Thái Lan có cảm tình với cách mạng Việt Nam. Ông chủ trương xin chính phủ Thái Lan lập trường học cho con em Việt kiều, khuyến khích mọi người học tiếng Thái và chữ quốc ngữ. Nhà trường ở Uđon là trường đầu tiên do chính phủ Thái Lan cho phép xây dựng và sau đó các trường Việt kiều ở Sakon, Nakhon Phanom cũng lần lượt được xây dựng. Buổi sáng trẻ em Việt kiều học chữ Thái theo chương trình của của nhà nước Thái và buổi chiều học chữ quốc ngữ. Các trường học không chỉ thu hút con em người Việt học mà còn thu hút con em của người Thái vào học ngày càng đông, ông cũng kêu gọi những người trong cơ quan hợp tác cùng học chữ Thái. Nguyễn Ai Quốc cho rằng, Việt Nam là thuộc địa bị Pháp cai trị còn Thái Lan là nửa thuộc địa bị Pháp bắt kí nhiều điều ước
- bất bình đẳng. Với điều ước bất bình đẳng Lomiađovin mà Pháp bắt chính phủ Thái Lan kí trong đó có điều khoản quy định người và hàng hoá của Pháp được đưa vào khoảng 25 km trong đất Thái Lan một cách tự do mà không phải nộp thuế rồi từ đó họ đi sâu vào nội địa Thái Lan tự do đi lại và cư trú với tiền nộp mỗi năm chỉ có 4 bạt thuế thân. Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng khi mới thành lập (6/1925) đã xác định vai trò và vị trí quan trọng của Thái Lan và Việt kiều ở Thái Lan đối với cách mạng Việt Nam. Từ 1926 – 1929 các chi bộ của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên được tổ chức ở những nơi có Việt kiều tập trung tại các tỉnh Đông bắc Thái Lan với 5 chi bộ. Trong chiến tranh thế giới thứ II, tiếp tục đường lối ngoại giao ngả theo chiều gió, luôn thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo có lợi cho mình. Thái Lan trở thành đồng minh của phát xít Nhật, lãnh thổ Thái Lan trở thành căn cứ quân sự của Nhật nhằm tiếp tay cho mưu đồ bá chủ châu Á của Nhật. Để phục vụ cho mục đích chiến lược của mình, phát xít Nhật xây dựng con đường sắt nối Mianma với Thái Lan băng qua những vùng rưng núi hiểm trở. Ngày 16/9/1942 con đường được khởi công và hoàn thành ngày 17/10/1943 tại Konkuita (Kanchanbury – Thái Lan) với chiều rộng khoảng 1m và dài khoảng 415km. Để xây dựng con đường này, phát xít Nhật với sự ủng hộ của chính phủ Thái Lan đã “sử dụng các tù binh bắt được của phe Đồng Minh khoảng 68.000 người và khoảng 200.000 dân phu châu Á. Họ phải lao động vất vã với điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn, bị đối xử tàn bạo và thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt, nên khi xây dựng xong con đường có khoảng 16.000 tù binh bị chết và khoảng hơn 100.000 dân phu châu Á bỏ xác ở đây” [86, tr.12]. Đáng chú ý trong đó có rất nhiều người Việt bị bắt sang đây làm phu và không có ngày trở lại. Để tưởng nhớ những người đã ngã xuống khi xây dựng con đường này, hiện nay tại Kanchanabury có nhiều tên đường mang tên nước có người ngã xuống trong đó có tên VietNam Road. Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc tạo nên cục diện mới cho Thái Lan và Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời phải đương đầu với nhiều khó khăn để bao vệ thành quả cách mạng bởi sau đó thực dân Pháp trở lại xâm lược và
- nhân dân Việt Nam phải tiến hành cuộc kháng chiến trường kì (1946 - 1954). Trong khi đó vì là đồng minh của Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai, Thái Lan rất hoang mang khi nghe tin Nhật đầu hàng Đồng Minh. Điều làm Thái Lan lo lắng là phải rút khỏi cuộc chiến như thế nào để khỏi chịu sự trừng phạt của các nước Đồng Minh. Trước tình hình đó, chính phủ thân Nhật Phibun Xongkhram bị lật đổ (9/1945) và một chính phủ mới do Seni Pramot, người từ Mĩ trở về đứng đầu “Phong trào Thái tự do” thành lập. Đây là một chính phủ thân Mĩ nên lợi dụng cơ hội này Mĩ tiến hành gạt dần sự ảnh hưởng của Anh, Pháp để dần chi phối Thái Lan. Động thái tạo thiện chí đồng minh của Mĩ là công nhận Thái Lan không phải là nước đồng minh của phát xít mà là nước bị phát xít Nhật chiếm đóng và cần được giải phóng. Tháng 3/1946 phái dân chủ tiến bộ giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử ở Thái Lan và chính phủ Thủ tướng Priđi Phanomyong được thành lập. Chính phủ mới đã có những động thái tích cực trong mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam. Chính sách ngoại giao tích cực của chính phủ Thái Lan là ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á và đặc biệt có rất nhiều thiện cảm với cách mạng Việt Nam. Ngày 7/7/1946 quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng kí thư giới thiệu đại diện chính phủ Việt Nam tại Thái Lan sau đó Cơ quan đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã hoạt động tại Băng Cốc (từ tháng 8/1946 đến tháng 6/1951). Chính phủ Thái Lan đã cho Việt Nam đặt cơ quan đại diện tại Băng Cốc và được hưởng quy chế ngoại giao. Thái Lan còn cho Việt Nam được phép lập phòng thông tin tại Băng Cốc tạo cho Việt Nam có thêm một con đường liên hệ với thế giới điều đó có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tháng 1/1948 phái đoàn chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Ngọc Thạch dẫn đầu sang thăm Thái Lan nhằm thúc đẩy hơn nữa trong moi quan hệ hai nước. Tháng 2/1948 Việt Nam cử 10 cán bộ vượt Trường Sơn sang Băng Cốc để tăng cường cho cơ quan đại diện và tăng cường mối quan hệ với các đoàn thể quốc tế tại Thái Lan. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa hai nước Thái Lan – Việt Nam trở nên xấu đi khi Phibun Xongkhram lật đổ chính phủ của Thủ tướng Priđi Phanomyong. Chính phủ
- Phibun Xongkhram trở lại nắm quyền và công khai lập trường chống cộng sản, công nhận chính quyền Bảo Đại do Pháp lập nên và đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ Bảo Đại ở cấp Đại sứ. Nghiêm trọng hơn, Bộ nội vụ Thái Lan còn cử đại diện đến gặp đại diện của phụ trách cơ quan phái viên của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Thái Lan là ông Nguyễn Đức Quỳ để yêu cầu chấm dứt các hoạt động tuyên truyền chống Pháp trên lãnh thổ Thái Lan. Tháng 12/1951 cơ quan đại diện của Thông tấn xã Việt Nam ở Băng Cốc phải chấm dứt mọi hoạt động và phải chuyển sang Rangun (Mianma), sự kiện này nhắc nhở mọi người nhớ lại phong trào Đông Du khi trước ở Nhật, đây chính là âm mưu về ngoại giao của kẻ thù nhằm cô lập cách mạng Việt Nam. Chính phủ Thái Lan còn ban hành Luật chống cộng sản (9/1952) đồng thời tiến hành đàn áp các Việt kiều yêu nước, thu hẹp phạm vi cư trú của họ và dồn nhiều Việt kiều đến một số đồn điền ở Miền Nam Thái Lan. Trước tình hình đó, chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã ra kháng nghị lên án hành động khủng bố người Việt của chính phủ Thái Lan. 1954 Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ và rút quan khỏi Việt Nam, trong khi Thái Lan dần trở thành một đồng minh chiến lược rất thân cận với Mĩ ở Đông Nam Á. Suốt thời kì Việt Nam chống Mĩ, quan hệ Thái Lan và Việt Nam là quan hệ thù địch vì ngoài thể chế chinh trị và ý thức hệ khác nhau, Thái Lan còn là đồng minh thân thiết với kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Thái Lan rất tích cực giúp đỡ Mĩ, trở thành bàn đạp cho Mĩ trong cuộc chiến Việt Nam. Chính quyền Thái Lan trong khi không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng lại công nhận và hợp tác với chính phủ của Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng hoa của Ngô Đình Diệm. Trong những năm dài Mĩ tiến hành Chiến tranh lạnh với chính sách chống cộng sản trong khi Thái Lan là đồng minh thân cận của Mĩ nên chịu ảnh hưởng rất lớn. Giữa Thái Lan – Việt Nam nảy sinh những mâu thuẫn trên nhiều mặt như chính trị, ngoại giao và quân sự. Dưới tác động đó, chính phủ Thái Lan tiến hành nhiều chính sách thiếu thiện chí đối với Việt kiều. Ngày 4/6/1957 Thái Lan cử một phái đoàn đến Sài Gòn nhằm bàn kế hoạch đưa khoảng 40.000 người Việt ở Thái Lan về
- Miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, chính phủ Thái Lan còn trục xuất 43. 000 người Việt Nam đến vùng rừng sâu nước độc ở Kòrạt và việc làm này đồng nghĩa với việc dồn họ đến chổ chết. Trước thái độ đối xử phân biệt và đàn áp đối với người Việt của chính phủ Thái Lan, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phản đối mạnh mẽ đồng thời lên án chính sách khủng bố Việt kiều của chính phủ Thái Lan. Cộng đồng người Việt tại Thái Lan cũng đoàn kết đấu tranh chống lại âm mưu của chính phủ Thái Lan trong việc đưa Việt kiều về cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Sự phản đối và tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của bà con Việt kiều buộc chính phủ Thái Lan phải đồng ý để Hội Chữ thập đỏ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hội Chữ thập đỏ Thái Lan kí kết văn bản Hiệp định về vấn đề đưa Việt kiều ở Thái Lan hồi hương (14/8/1959). Sau gần 5 năm thực hiện hiệp định (1959 - 1964) đã có 75 chuyến tàu đưa khoảng 45.033 Việt kiều hồi hương đến cảng Hải Phòng nhưng đến 1965 thì bị tạm hoãn vì lý do máy bay Mĩ oanh tạc Miền Bắc. Sự ủng hộ của Chính phủ Thái Lan đối với Mĩ trong cuộc chiến tại Việt Nam thể hiện rất rõ bằng cách đưa quân lính Thái Lan sang chiến trường Miền Nam cùng với lính quân đội Sài Gòn chống lại cuộc chiến đấu thống nhất đất nước của Việt Nam. Tháng 5/1966 Thái Lan viện trợ cho chính quyền Sài Gòn 2 tàu chiến, 2 máy bay quân sự để tỏ thái độ thiện chí là đồng minh hết lòng ủng hộ Mĩ trong cuộc chiến ở Việt Nam. Trong suốt hai thập niên 50, 60 của thế kỉ XX chính phủ Thái Lan theo đuổi chính sách chống cộng sản làm cho mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam luôn có những mâu thuẫn và đối đầu với nhau. 1.2. Quan hệ Thái Lan – Việt Nam trong giai đoạn 1967 – 1976 Ngày 8/8/1967 Thái Lan cùng Indonexia, Malaixia, Singapo, Philippin thành lập tổ chức ASEAN (Association of Southeast Asian Nations) tại Băng Cốc với mục đích tăng cường liên kết nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa, tăng cường hợp tác giúp đỡ lẫn nhau nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định trong khu vực và hợp tác để tạo thêm sức mạnh nhằm tránh sự chi phối của các nước lớn. Quan hệ giữa các nước ASEAN hình thành các nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí và giữ gìn
- đoàn kết cũng như bản sắc chung của tổ chức. Tuy vậy, Thái Lan vẫn theo đuổi chính sách ủng hộ Mĩ trong cuộc chiến tại Việt Nam với nhiều mục đích trong đó có quyền lợi sát sườn là tranh thủ sự ủng hộ của Mĩ để xây dựng và phát triển đất nước. Thực tế, tiền viện trợ của Mĩ đổ vào Thái Lan tăng lên hàng năm đặc biệt là khi Mĩ càng dính sâu vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Cụ thể, “1950 – 1956 là 17.5 triệu đôla thì trong thời gian 1957 – 1965 là 36.75 triệu. Nhưng đáng chú ý là sau 1965, khi Thái Lan tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam con số này tăng rất nhanh: 1966 – 50 triệu đôla, 1967 – 77 triệu, 1968 – 100 triệu” [77, tr. 138]. Đến 1969 con số viện trợ đã lên tới 278 triệu đô la. Mặt khác, Thái Lan cũng muốn thông qua Mĩ để cản phá ý thức hệ cộng sản từ Việt Nam vì sợ đến một lúc nào đó sẽ lan sang nước mình. Trong chính sách đối nội, Thái Lan tiếp tục đàn áp các Việt kiều nghi ngờ có mối quan hệ mật thiết với cộng sản Việt Nam. Chính phủ Thái Lan tiếp tục sử dụng những chính sách cứng rắn đối với cộng đồng người Việt Nam tại Thái Lan vì cho rằng, một số Việt kiều theo cộng sản và liên kết với cộng sản Thái Lan để chống lại chính phủ Thái Lan nên họ kiểm soát rất gắt gao và các cuộc bắt bớ thường xảy ra khi có sự tình nghi. A. Sripan – một phóng viên của tờ Bưu điện Thái Lan (Bangkok post) đã từng phỏng vấn mẹ mình – bà Supap Spicer sinh tại Ubon, một nhân chứng từng sống và chứng kiến xã hội Thái Lan trong những năm chiến tranh xảy ra Việt Nam nói về cảm nghĩ thật của bà cũng như cảm nghĩ chung của người dân Thái Lan. Bà cho rằng, “đa số người dân trong khu vực bà sinh sống đều có cách nghĩ không thiện cảm với Việt cộng Việt Nam thông qua lời tuyên truyền của chính phủ. Các cuộc biểu tình của người Việt ở vùng Đông Bắc Thái Lan phản đối chính phủ Thái Lan tham chiến ở Việt Nam và sự hiện diện của quân đội Mĩ ở Thái Lan nhưng đã bị chính phủ Thái Lan dùng vòi rồng và các phương tiện trấn áp. Thái độ của người dân Thái Lan với người Việt ở Thái Lan cũng trở nên ngày càng xa lấn” [102, tr.1]. Sau khi chứng kiến cả một giai đoạn lịch sử bà Supap Spicer đi đến kết luận “đa số người dân đều bị chính phủ lừa dối về chiến tranh Việt Nam và Việt cộng cũng không bị cô lập, không đe doạ đến chủ quyền Thái Lan như bà và mọi người từng nghĩ trước đây” [102, tr.2].
- Thực tế Mỹ đã viện trợ quân sự cho Thái Lan đồng thời xây dựng trên đất Thái Lan nhiều căn cứ quân sự để phục vụ cho cuộc chiến của mình ở Việt Nam, trong đó xây dựng 6 sân bay quân sự là Utapao, Tacli, Khorat, Ubon, Nakonphanom và Uđontali. Một phần các máy bay chiến lược và chiến thuật của Mĩ cất cánh ở đây sang bắn phá miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (1965 - 1968), lần thứ hai (1969 - 1972). Nghiêm trọng nhất là trong 12 ngày đêm cuối 1972 máy bay Mĩ đã gây biết bao đau thương và mất mát cho nhân dân Việt Nam. Quân Mỹ đóng ở Thái Lan lúc đong lên đến 58.000 người (1969) bao gồm 45.000 phi công và nhân viên phục vụ, 12.000 lính bộ binh và 1000 lính hải quân. Ngoài ra, Thái Lan còn trở thành trung tâm giải trí cho quân Mĩ đồn trú ở Việt Nam sau khi đánh trận xong. Để đáp ứng cho nhu cầu vui chơi của lính Mĩ và thu nguồn lợi từ dịch vụ này, các vùng xa xôi ở Miền Bắc Thái Lan, thuốc phiện đã được trồng để phục vụ cho nhu cầu cua lính Mĩ. Bên cạnh đó lĩnh vực “công nghiệp mại dâm” được chính phủ Thái Lan khai thác tối đa trong nhu cầu phục vụ cho lính Mĩ để thu lợi. Trong những năm 60 – 70 trung bình có khoảng 4,3 triệu người Thái Lan ở Băng Cốc và những nơi khác của Thái Lan phục vụ trong các trung tâm giải trí giành cho quân đội Mĩ. Ngành công nghiệp giải trí giúp cho bộ mặt một số vùng quê ở Thái Lan đặc biệt ở vùng Đông Bắc có sự chuyển mình rất mạnh mẽ trong việc đi lên theo hướng công nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề thuốc phiện và mại dâm cũng gây ra những hệ luỵ cho Thái Lan sau khi quân Mĩ rút khỏi Việt Nam. Nạn nghiện thuốc và đại dịch AIDS phát triển trong những năm 80 để lại hệ luỵ rất lớn cho chính sách thu lợi vội vàng và thiếu trách nhiệm xã hội của chính phủ Thái Lan. Từ năm 1966 đến 1972 Thái Lan đã đưa sang Miền Nam một sư đoàn và một trung đoàn với quân số gần 14.300 quân. Trong đó bao gồm, 12.000 lính thuộc quân đoàn Báo đen và 2.300 lính thuộc sư đoàn Rắn hổ mang sau đó tăng lên 5.000 quân (1968). Trong thời gian Thái Lan tham chiến tại Việt Nam, rất nhiều phong trào biểu tình của nhân dân phản đối chính phủ và đòi rút quân về nước. Đặc biệt, từ năm 1965 Mặt trận yêu nước Thái Lan xuất hiện với chủ trương đấu tranh vũ trang
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong nền nghệ thuật cổ Champa
97 p | 238 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt – Chăm trong lịch sử
130 p | 177 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình lịch sử của chữ quốc ngữ trong quan hệ văn hóa của vùng đất Nam kỳ với phương Tây đến đầu thế kỉ XX
167 p | 202 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1757 - 1867
216 p | 147 | 43
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử kênh đào Nam bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
69 p | 168 | 40
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam
125 p | 149 | 39
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Thực trạng đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa của cộng đồng người Chăm ở An Giang từ sau năm 1975 đến nay
101 p | 186 | 37
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển của thương cảng Hà Tiên (Thế kỷ XVII - XIX)
132 p | 152 | 36
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII - XIX
164 p | 154 | 35
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử hình thành và phát triển nghề truyền thống của người Khmer ở Tịnh Biên – An Giang
108 p | 198 | 30
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quan hệ đối ngoại của Nhật Bản từ năm 1868 đến năm 1912
144 p | 152 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Lịch sử đồn điền cao su ở miền Đông Nam bộ thời kỳ Pháp thuộc giai đoạn (1898 - 1939)
113 p | 175 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010 - Huỳnh Thị Thấm
141 p | 173 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Yếu tố Melayu trong văn hóa Chăm - Quá trình định hình và phát triển
118 p | 137 | 25
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Đức quốc xã trước chiến tranh thế giới thứ hai (1933 - 1939)
144 p | 137 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử học: Quá trình đô thị hóa ở thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) giai đoạn 1986-2010
126 p | 119 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế du lịch huyện Sóc Sơn, Hà Nội (1986-2016)
98 p | 66 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế - Xã hội Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn (1802-1885)
101 p | 18 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn